HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------------------------------------ NGUYỄN THỊ HẰNG BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG HIỆN NAY NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MƯỜNG TẠI HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------------------------------------ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG HIỆN NAY NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MƯỜNG TẠI HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HÒA BÌNH CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Mã số: 60 31 30
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS-TS VŨ HÀO QUANG
NGƯỜI THỰC HIỆN
: NGUYỄN THỊ HẰNG
HÀ NỘI - 2008
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Mô hình sản xuất kinh doanh ........................................................................ 55
Bảng 2: Việc sử dụng các công cụ sản xuất ............................................................... 58
Bảng 3: Tỷ lệ các loại nhà ở ....................................................................................... 60
Bảng 4: Tỷ lệ sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng ngày .......................................... 62
Bảng 5: Tỷ lệ người mặc trang phục truyền thống ở địa phương phân theo nhóm tuổi ... 65
Bảng 6: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống phân theo Vùng ......................................... 68
Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng các ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng ............................... 69
Bảng 8: Tỷ lệ gia đình tổ chức các ngày lễ/tết ................................................................. 73
Bảng 9: Các thủ tục cưới xin của người Mường .............................................................. 78
Bảng 10: Không gian kết hôn của người Mường ............................................................ 79
Bảng 11: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới ........................................ 80
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 1: Tỷ lệ sử dụng các loại nhà ở phân theo vùng .................................................... 61
Biểu 2: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống dân tộc ....................................................... 66
Biểu 3: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp ở thị trấn Vụ Bản ................................... 68
Biểu 4: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp ở vùng Mường Vang ............................. 69
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 4
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 4 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................. 6 2.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả người nước ngoài ..................... 6 2.2. Công trình nghiên cứu của các học giả người Việt Nam ............................... 7 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: .................................................................. 9 3.1. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................................... 9 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................................................... 9 4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiêm cứu: ............................................. 10 4.1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................... 10 4.2. Khách thể nghiên cứu: ................................................................................... 10 4.3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 10 5. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết ..................................................... 10 5.1. Giả thuyết nghiên cứu: ................................................................................... 10 5.2 Mô hình khung lý thuyết: ................................................................................ 12 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 12 6.1. Phương pháp luận: ......................................................................................... 12 6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: .................................................................. 13 6.2.1. Phương pháp định lượng ............................................................................ 13 6.2.2. Nhóm phương pháp định tính: .................................................................... 15
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 16
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................. 16
I. Một số lý thuyết và các khái niệm công cụ đƣợc vận dụng trong đề tài . 16 1. Một số khái niệm công cụ của đề tài ........................................................... 16 1.1. Khái niệm văn hóa .......................................................................................... 16 1.2. Khái niệm dân tộc ........................................................................................... 16 1.3. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa................................................................ 17 1.4. Bản sắc văn hóa: ............................................................................................. 18
2. Những quan điểm và lý thuyết xã hội học đƣợc vận dụng trong đề tài nghiên cứu ......................................................................................................... 19 2.1. Quan điểm của một số nhà xã hội học về giá trị : ......................................... 19 2.2. Quan điểm về biến đổi văn hóa ...................................................................... 21 2.3. Lý thuyết phát triển và biến đổi xã hội ........................................................... 22
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ...................................................................... 22 1. Bản sắc văn hóa Mường - sự hình thành và phát triển ................................... 22 2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ...................................................................................................... 24
1
CHƢƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƢỜNG ....................................... 30
I. Bản sắc văn hóa truyền thống ..................................................................... 30 1. Tập quán sản xuất .............................................................................................. 30 1.1. Nghề trồng lúa nước ....................................................................................... 30 1.2. Một số nghề phụ khác ..................................................................................... 31 1.2.1.Chăn nuôi ...................................................................................................... 32 1.2.2. Làm vườn ..................................................................................................... 32 1.2.3. Nghề thủ công gia đình ............................................................................... 33 1.2.4. Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên ............................................................. 33 2. Đặc điểm cư trú và nhà ở, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ...... 35 2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở: .............................................................................. 35 2.1.1. Đặc điểm cư trú: .......................................................................................... 35 2.1.2. Đặc điểm nhà ở: ........................................................................................... 35 2.2. Tập quán tiêu dùng ......................................................................................... 40 2.3.Tập quán ẩm thực ............................................................................................ 41 2.4. Trang phục ...................................................................................................... 42 2.4.1. Trang phục nam giới ................................................................................... 42 2.4.2. Trang phục phụ nữ ...................................................................................... 42 3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng ............................. 43 3.1.Quan hệ gia đình, dòng họ .............................................................................. 43 3.2 Tổ chức đời sống cộng đồng ............................................................................ 44 3.2.1. Tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường........................................ 44 3.2.2. Chế độ Lang Cun ......................................................................................... 45 3.2.3. Tục lệ nhà Lang: .......................................................................................... 46 4. Tín ngưỡng, lễ hội, hôn nhân và ma chay ........................................................ 47 4.1.Tập quán tín ngưỡng, lễ hội ............................................................................ 47 4.1.1.Tín ngưỡng .................................................................................................... 47 4.2. Tập quán hôn nhân của dân tộc Mường ....................................................... 53 4.3. Tập quán ma chay của người Mường ........................................................... 56 III. Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay ................. 60 1. Tập quán và công cụ sản xuất ........................................................................... 60 1.1. Tập quán sản xuất: ......................................................................................... 60 1.2. Công cụ sản xuất............................................................................................. 63 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ................................................. 64 2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở hiện nay ................................................................ 64 2.2. Tiện nghi và đồ dùng sinh hoạt hiện nay ...................................................... 67 2.4. Việc mặc trang phục truyền thống ................................................................. 71 2.5. Ngôn ngữ: ....................................................................................................... 73 3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng ................................ 76 3.1. Quan hệ gia đình, dòng họ hiện nay .............................................................. 76 3.2. Tổ chức đời sống cộng đồng ........................................................................... 77
2
4. Tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin .............................................................. 78 4.1.Tín ngưỡng, lễ hội............................................................................................ 78 4.1.1.Về tín ngưỡng ................................................................................................ 78 4.1.2. Về lễ hội hiện nay......................................................................................... 80 4.2. Ma chay ........................................................................................................... 82 4.3. Cưới xin ........................................................................................................... 83
III. Những nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mƣờng ............................................................................................................................ 87 IV. Xu hƣớng biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng .................... 90 1. Tập quán và công cụ sản xuất ........................................................................... 90 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ................................................. 91 3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng ............................. 92 4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin .............................................. 92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 93
1. Kết luận ............................................................................................................... 93 2. Kiến nghị ............................................................................................................ 95
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình lịch sử, không có nền văn hóa nào lại không tiếp thu, ảnh
hưởng và biến đổi do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Các
nền văn hóa của các dân tộc, trong khi tồn tại, tự thân nó đã chứa đựng và tiếp
nhận các yếu tố văn hóa mới như một quá trình tự nhiên, rồi khi có những tác động
mạnh của những điều kiện kinh tế - xã hội, các chính sách xã hội thì sự biến đổi
diễn ra càng rõ nét. Vì vậy, không quá ngạc nhiên khi trong thực tiễn, nền văn hóa
dân tộc này bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa dân tộc kia để thậm chí dẫn đến nhiều
nền văn hóa bị mai một, mất đi bản sắc riêng của mình.
Trong điều kiện ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và đô thị
hóa làm tăng cường giao lưu và hội nhập đưa đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đồng
thời, đây cũng là một thách thức lớn đối với nền văn hóa của các dân tộc, đặc biệt
là nền văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Đối với đất nước ta, khi cách mạng tháng Tám thành công (năm 1945) đã
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước dân chủ kiểu mới,
có sức mạnh to lớn làm thay đổi diện mạo nền văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Nó thay đổi trước tiên trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử :
Kế thừa và phát triển. Tính từ thời điểm này đến trước thời kỳ đổi mới (1986), trải
qua nhiều thập niên, văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và dân tộc
Mường nói riêng, về cơ bản, vẫn giữ được bản sắc truyền thống biểu hiện trên
nhiều lĩnh vực văn hóa.
Từ sau khi đất nước ta tiến hành đổi mới, bên cạnh các chính sách cải cách
về kinh tế thì các chính sách về văn hóa cũng đặc biệt được quan tâm theo quan
điểm bao trùm: bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Thời kỳ này, nền kinh tế nước
4
ta có những chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi hẳn về chất, đời sống của nhân dân nói
chung, đồng bào miền núi nói riêng từng bước đi vào ổn định. Trong bối cảnh biến
đổi mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, văn hóa cũng có những biến đổi sâu sắc trên
tất cả các mặt : văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội và ngôn
ngữ,…Sự biến đổi này thể hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, đã có những
biểu hiện rất rõ của chiều hướng mất dần truyền thống.
Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm. Vấn đề này được nhấn mạnh trong các Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX, thứ X và cụ thể hóa thành các chương
trình hành động trong thực tiễn.
Trong bối cảnh ấy, nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số trở thành một
trong những vấn đề trọng tâm của các ngành khoa học xã hội.
Dân tộc Mường là một trong những dân tộc thiểu số có tỷ lệ dân cư đông, bề
dày truyền thống văn hóa lâu đời và có nhiều nét tương đồng với dân tộc Kinh. Dân
tộc Mường chủ yếu tụ cư ở tỉnh Hòa Bình - vùng đất nổi tiếng với “Nền văn hóa
Hòa Bình”, là khởi thuỷ của nền văn minh lúa nước - nền văn minh sông Hồng
được ghi nhận trong diễn trình lịch sử dân tộc. Hòa Bình cũng là địa bàn tụ cư của
nhiều dân tộc như Kinh, Thái, Mông, Dao, Tày,…Mỗi dân tộc đều có đặc trưng
riêng về ngôn ngữ, chữ viết, trang phục, phong tục tập quán, lễ nghi, sinh hoạt và
cách tổ chức đời sống cộng đồng,… tạo nên vẻ đẹp đặc sắc trong bức tranh văn hóa
Hòa Bình.
Với đặc thù về mặt địa lý, văn hóa Mường thể hiện sự giao lưu mạnh mẽ với
các nền văn hóa của các dân tộc thiểu số. Đồng thời, văn hóa Mường có nhiều nét
tương đồng với dân tộc Kinh. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh, dân tộc Mường
và dân tộc Kinh có chung nguồn gốc. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã xác định
rằng, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa Mường chính là tìm về cội nguồn xa xưa của
5
chúng ta. Tuy nhiên, do không có chữ viết riêng, văn hóa Mường ngày càng bị mai
một trông thấy.
Mặt khác, dưới tác động của nền kinh tế thị trường và đô thị hóa, vấn đề bảo
tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa Mường trở thành một trong những thách
thức rất lớn. Văn hóa Mường có những nét đặc sắc nổi trội cần được quan tâm, duy
trì và phát triển.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài : “Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân
tộc Mường hiện nay” với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào xu hướng nghiên
cứu văn hóa dân tộc trong xã hội học cũng như các giải pháp hợp lý nhằm duy trì
và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Mường.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa dân tộc Mường nói riêng đã và đang
được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau.
2.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả người nước ngoài
Các nhà nghiên cứu người Pháp, đặc biệt là các nhà dân tộc học quan tâm
nghiên cứu văn hóa dân tộc Mường từ rất sớm - từ những năm 1940, khi Việt Nam
còn là thuộc địa của thực dân Pháp.
Công trình nghiên cứu về ngƣời Mƣờng của Jeanne Cuisinier: “Người
Mường, Địa lý nhân văn và Xã hội học (1946) - Viện Dân tộc học – Paris, có thể
xem là công trình Xã hội học đầu tiên nghiên cứu về người Mường nói chung và
văn hóa Mường nói riêng. Công trình này đã đề cập tới một số nét đặc trưng về
phong tục, tập quán và đặc điểm của người Mường.
6
Cuốn “Việc xây dựng nhà ở của người Mường” của Barker, Milton E. 1980.
đã giới thiệu về cách làm nhà sàn truyền thống của người Mường.
Các công trình nghiên cứu của Milton và Barker (người Pháp) những năm
1970 gồm “âm vị tiếng Mường” (1968), “Bài học tiếng Mường”, “Từ điển
Mường-Anh-Việt” hay công trình nghiên cứu “So sánh ngôn ngữ Mường với ngôn
ngữ Kh-mer” chỉ là những công trình nghiên cứu thuần tuý thuộc lĩnh vực ngôn
ngữ học.
Có thể nói, qua các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đã
cho thấy dân tộc Mường đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu dừng lại ở việc tìm hiểu
đặc trưng phong tục tập quán, tộc người. Chưa có công trình nào nghiên cứu về sự
biến đổi văn hóa của người Mường.
2.2. Công trình nghiên cứu của các học giả người Việt Nam
Cuốn Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình – NXB Văn hóa
dân tộc của PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Nga giới thiệu về văn hóa truyền thống
của người Mường, người Thái và người Mông ở Hòa Bình. Sự biến đổi và giao
lưu văn hóa giữa các tộc người Mường, Thái, Mông ở Hòa Bình.
Cuốn Người Mường ở Việt Nam – NXB Văn hóa Dân tộc, 1999 nêu những
nét chính về văn hóa vật chất và tinh thần của người Mường: đặc trưng về lối
sống, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, ẩm thực, kiến trúc.
Cuốn Người Mường ở Hòa Bình - Trần Từ - Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, 1996 nghiên cứu các vấn đề của người Mường như xã hội Mường cổ truyền,
đặc điểm của loại ruộng Lang, việc khai thác ruộng và phát canh thu tô.
Cuốn Dân tộc Mường – NXB Kim Đồng, 2005 nêu một số nét cơ bản về
nguồn gốc, cư trú, tổ chức, văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội, ... của dân tộc
Mường.
7
Cuốn Người Mường ở Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình của nhóm biên soạn Nguyễn
Thị Thanh Nga, Nguyễn Ngọc Thanh, NXB Văn hóa Thông tin, 2003 nêu những
đặc trưng cơ bản về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội của Mường Bi - một
trong bốn cái nôi của người Mường (Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng,
Mường Động).
Các công trình nghiên cứu của văn hóa học về dân tộc Mường như Cuốn:
1)Tiếp cận với văn hóa bản Mường – Nghiên cứu và tiểu luận, Vương Anh, Nhà
xuất bản Văn hóa Dân tộc, 2001; 2)Nghi lễ mo trong đời sống tinh thần của người
Mường ở Mường Bi – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 2004; 3) Dân tộc Mường,
Nguyễn Quang Lập, NXB Kim Đồng, 2005: Giới thiệu những đặc trưng cơ bản về
nguồn gốc, các đặc trưng kinh tế - văn hóa - xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng
của người Mường; 4)Người Mường ở Việt Nam, Vũ Đức Tân, NXB Văn hóa Dân
tộc, 1999; 5) Người Mường ở Hòa Bình, Trần Từ, Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, 1996. Cuốn sách nghiên cứu về các vấn đề của người Mường ở Hòa Bình
như: xã hội Mường cổ truyền, đặc điểm của loại ruộng Lang, việc khai thác riêng
và phát canh thu tô; 6) Cuốn Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Bùi
Chỉ - NXB Văn hóa dân tộc, 2001, nói về các món ăn dân gian đặc trưng của
người Mường, khác với các dân tộc khác; 7) Mo Mường: Mo Mường và nghi lễ
tang ma, Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi Văn Nợi; 8) Diễn xướng Mo - Trượng -
Mỡi, Bùi Thiện giới thiệu về những áng mo nổi tiếng của dân tộc Mường.
Tất cả những công trình nghiên cứu trên dường như chỉ dừng lại ở việc tìm
hiểu các đặc trưng về tộc người Mường cũng như phong tục tập quán dưới giác độ
thuần tuý về văn hóa học.
Có một số công trình xã hội học văn hóa nghiên cứu sâu sắc về người
Mường Thanh Sơn – Phú Thọ trong cuốn “Tổ chức xã hội cổ truyền và những
biến đổi của nó ở người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ” và cuốn “Người Mường ở
8
Thanh Sơn” đã phân tích các đặc trưng về tổ chức xã hội cổ truyền của người
Mường và những biến đổi của nó ở Thanh Sơn - Phú Thọ.
Đề tài cấp Bộ: "Bản sắc văn hóa Mường cổ truyền và xu hướng biến đổi
hiện nay - Qua khảo sát văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình" Mã số B06-27, do PGS,
TS Lương Quỳnh Khuê làm chủ nhiệm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền làm cơ
quan chủ trì 20/2/2008 có thể coi là công trình nguyên cứu đầu tiên về sự biến đổi
của văn hóa dân tộc Mường. Tác giả đã khảo sát và phân tích các kết quả nghiên
cứu về văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình, đồng thời trình chiếu những tấm ảnh do
tác giả chụp phản ánh văn hóa vật chất (ăn, mặc, ở, hoạt động sản xuất) và văn hóa
tinh thần, tâm linh của đồng bào Mường tỉnh Hòa Bình nói chung. Qua đó, tác giả
cũng dự báo xu hướng biến đổi của văn hóa Mường trước xu thế hội nhập và
những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát triển văn hóa Mường.
Đề tài nghiên cứu “Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường hiện
nay – Nghiên cứu trường hợp đồng bào Mường ở huyện Lạc Sơn, Hòa Bình”
mong muốn đóng góp thêm một phần nhỏ vào xu hướng nghiên cứu sự biến đổi
văn hóa Mường, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hiện nay về
văn hóa dân tộc Mường. Đồng thời tìm hiểu nguyên nhân và xu hướng biến đổi một
số giá trị văn hóa Mường. Từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách nhằm
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên
cứu về biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường hiện nay.
9
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa Mường hiện nay
- Phân tích và làm rõ các nhân tố tác động làm biến đổi văn hóa dân tộc
Mường.
- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Mường.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiêm cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Biến đổi một số giá trị văn hóa của dân tộc Mường hiện nay
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Cộng đồng dân tộc Mường ở Hòa Bình (nghiên cứu trường hợp tại vùng
Mường Vang và Thị trấn Vụ Bản của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự biến đổi một số giá trị văn hóa Mường.
Các giá trị văn hóa này là những thành tố chính giúp cấu thành bản sắc văn hóa dân
tộc Mường, gồm các thành tố như sau:
- Tập quán và công cụ sản xuất
- Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng
- Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng
- Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin
5. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết
5.1. Giả thuyết nghiên cứu:
10
- Sự biến đổi văn hóa Mường chịu tác động của hàng loạt các nguyên nhân,
trong đó yếu tố tác động mạnh nhất là chính sách phát triển kinh tế, xã hội cũng
như sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
- Sự biến đổi các giá trị văn hóa của dân tộc Mường được biểu hiện rất
phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu
cực, nhưng chủ yếu theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên đã có những biểu hiện rất
rõ của sự mất dần bản sắc văn hóa truyền thống.
- Phong tục tập quán sinh hoạt và tổ chức đời sống cộng đồng là hai yếu tố
chịu sự biến đổi nhiều nhất.
- Văn hóa Mường biến đổi theo chiều hướng tăng cường giao lưu giữa các
nền văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc Kinh, địa bàn nào giao lưu mạnh mẽ hơn
với dân tộc Kinh thì sẽ có sự biến đổi nhanh hơn.
11
5.2 Mô hình khung lý thuyết:
CÁC ĐẶC TRƢNG NHÂN KHẨU
CÁC YẾU TỐ CHỦ QUAN
- Tuổi, giới tính
- Bản thân nền văn hóa
- Trình độ học vấn
- Đặc trưng về ngôn ngữ
- Nghề nghiệp
CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN - Các chính sách phát triển KT-XH, nền KTTT - Sự tăng cường giao lưu hội nhập - Địa bàn cư trú
Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay: 1. Tập quán và công cụ sản xuất 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng 3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng 4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin,…
Hệ quả xã hội
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật biện chứng mọi sự vật và hiện tượng có
12
mối liên hệ mật thiết với nhau và chúng luôn vận động, biến đổi và phát triển. Đó
là quy luật tất yếu của các sự vật hiện tượng, sự vật, hiện tượng mới ra đời tiến bộ
hơn, chất lượng hơn thay thế cho sự vật hiện tượng cũ để có thể thích nghi với
hoàn cảnh mới. Tác giả vận dụng quan điểm này để nhằm khẳng định sự biến đổi
của các giá trị văn hóa như một quy luật xã hội tất yếu trước yêu cầu của sự phát
triển.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử với những phân tích quan trọng trong việc lấy
mâu thuẫn là nhân tố có sẵn trong chính mỗi phương thức sản xuất để giải thích
các quy luật vận động và biến đổi thông qua các hành động của con người kể cả
đối với sự xuất hiện của các xã hội và các nền văn hóa khác nhau. Những giá trị
văn hoá phản ánh cách thức tổ chức của đời sống cộng đồng xã hội. Thực tại xã
hội quyết định ý thức xã hội. Văn hoá phản ánh tồn tại xã hội, nên khi các điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì văn hóa tất yếu thay đổi. Đến lượt mình, văn hóa
có tác động ngược trở lại đối với cơ sở kinh tế. Hiểu được những điều này, tác giả
có cơ sở quan trọng để lý giải sự biến đổi các giá trị văn hóa.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Để tiếp cận nghiên cứu đạt kết quả đặt ra, luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu xã hội học để xem xét góc độ biến đổi về văn hóa dân tộc Mường.
Đồng thời kết hợp với tiếp cận nghiên cứu theo phương pháp dân tộc học và
phương pháp phân tích tài liệu nhằm kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây.
Cụ thể là các phương pháp nghiên cứu sau:
6.2.1. Phương pháp định lượng
Đề tài thu thập thông tin định lượng bằng bảng hỏi Ankét với 200 phiếu hỏi,
tiến hành ở vùng Mường Vang (141 phiếu) và Thị trấn Vụ Bản (59 phiếu) thuộc
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Người Mường có câu truyền miệng nổi tiếng:
“Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. Mường Vang được xem là một trong
bốn “Cái nôi của văn hóa Mường”, thể hiện những nét đặc sắc của văn hóa
13
Mường. Đây cũng là lý do tác giả chọn vùng Mường Vang làm địa bàn nghiên cứu.
Đồng thời địa bàn xóm Nghĩa thuộc thị trấn Vụ Bản cũng được chọn nghiên cứu
nhằm mục đích so sánh giữa các địa bàn nghiên cứu dưới tác động của điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau.
Luận văn áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích. Địa bàn nghiên cứu
gồm có hai vùng: Vùng Thị trấn (59 phiếu hỏi) và Vùng Mường Vang (141 phiếu
hỏi). Lý do chọn hai vùng này là vì vùng Mường Vang là một trong bốn cái nôi
sinh ra người Mường, thể hiện được những nét đặc trưng nhất của văn hóa Mường,
Mường Vang là địa bàn cách xa thị trấn; còn vùng thị trấn để đo mức độ tác động
của đô thị hóa tới sự biến đổi của văn hóa. Từ đó, ta thấy sự khác biệt về mức độ
biến đổi khác nhau như thế nào giữa hai vùng.
Bên cạnh việc áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích, Luận văn áp
dụng quy trình chọn mẫu ngẫu nhiên và chọn mẫu phân tầng.
Áp dụng công thức chọn mẫu ngẫu nhiên k = N/n, trong đó k là khoảng cách
giữa tổng thể và dung lượng mẫu cần chọn. Trên cơ sở danh sách nhân khẩu của
các xã, được đánh số ngẫu nhiên, trung bình cứ 8 hộ, ta chọn 1 hộ để nghiên cứu.
Đồng thời luận văn cũng áp dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng theo
giới tính và nhóm tuổi.
Cơ cấu mẫu như sau:
Tuổi
Nam
Nữ
Tổng số
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
18-30
35
32.7%
44.1%
76
38%
41
31-49
38
35.5%
36.6%
72
36%
34
Từ 50 trở lên
34
31.8%
19.4%
52
26%
18
107
100%
100%
200
100%
93
Tổng số
14
6.2.2. Nhóm phương pháp định tính:
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Luận văn dựa trên các tài liệu dân tộc học,
văn hóa học và các tài liệu có sẵn khác để tìm hiểu, phân tích bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc Mường.
- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở phương pháp phân tích tài liệu và kết quả
khảo sát, luận văn so sánh sự thay đổi của văn hóa dân tộc Mường hiện nay so với
bản sắc truyền thống.
15
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I. Một số lý thuyết và các khái niệm công cụ đƣợc vận dụng trong đề tài
1. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.1. Khái niệm văn hóa
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa. Dưới góc độ xã hội học, văn
hóa là sản phẩm của con người, là cách quan niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống.
Văn hóa là để đáp ứng những nhu cầu nhất định của con người, là “mức độ con
người hóa” chính bản thân mình và tự nhiên.
Theo cách định nghĩa này, văn hóa đặc trưng cho một số xã hội nhất định và
đem lại diện mạo, bản sắc riêng của nó. Văn hóa bao gồm tất cả mọi sản phẩm của
con người. Và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất
của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa,
quần áo, các phương tiện,…
Như vậy trong xã hội học, văn hóa có thể được xem xét như hệ thống các giá
trị, chân lý và các chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau
trong quá trình tương tác và trải qua thời gian.
Các nhóm, các cộng đồng xã hội, các dân tộc trong mỗi xã hội khác nhau đều
xây dựng các giá trị, các chân lý, các chuẩn mực đặc trưng cho mình và như vậy họ
đã có một nền văn hóa.
1.2. Khái niệm dân tộc
Khái niệm “dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể (Mường, Thái, Việt,
Hoa,...), đó thực ra là khái niệm “Tộc người”, là một hình thái đặc thù của một tập
đoàn người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên
16
và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự
giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng ngàn năm lịch sử, ứng với mỗi
chế độ kinh tế - xã hội gắn với các phương thức sản xuất, tộc người có một trình độ
phát triển, được gọi bằng các tên: bộ lạc, bộ tộc chiếm nô, bộ tộc phong kiến, dân
tộc tư bản chủ nghĩa, dân tộc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, thực chất của “Dân tộc
Mường, dân tộc Kinh” người ta quen gọi chỉ là “tộc người Mường”, “Tộc người
Kinh”.
1.3. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa
Giá trị là phạm trù cơ bản của triết học, giờ đây được sử dụng rộng rãi trong
đời sống hàng ngày cũng như trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Thông thường, khi nói đến giá trị là nói đến tính ích lợi, tính có ý nghĩa của các
đối tượng trong hiện thực khách quan đối với cuộc sống của cá nhân, của nhóm và
xã hội. Nhà xã hội học J. H. Fichter cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham
chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” [5; tr
173-174]. Như vậy, khái niệm giá trị cần được hiểu một cách tường minh bao gồm
cả kinh nghiệm, tri thức, vốn sống, kỹ thuật, kỹ năng và công cụ lao động. Giá trị
là cái dùng để chỉ các phẩm chất và đức tính cao quý của con người, là cái được đa
số người trong xã hội ao ước và cùng nhau chia sẻ. Giá trị gắn liền với cái hay, cái
đẹp, cái đúng, cái tốt, cái có khả năng thôi thúc con người nỗ lực hành động để
vươn tới lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Giáo sư Phạm Minh Hạc cho rằng, mục đích của hoạt động bao giờ cũng là
làm sao đạt tới cái mà mình cho là có giá trị đối với bản thân. Từ đó, có thể đi tới
định nghĩa giá trị là cái quy định mục đích của hoạt động
17
Theo ông, dưới góc độ của giá trị học, đời người là tổng các giá trị do người
đó tạo nên, tiếp thu, chấp nhận, lấy làm chuẩn mực bằng dòng hoạt động của bản
thân. Tổng các giá trị này là văn hóa của người đó.
Từ các quan điểm trên, có thể đi đến một cách hiểu chung về giá trị, đó là
cái quy định mục đích của hoạt động, cái định hướng cho hoạt động của chủ thể,
là cái mà chủ thể cần có để đạt được mục đích hoạt động của mình. Giá trị là sự
thể hiện mối quan hệ lợi ích, đánh giá của chủ thể với tồn tại xung quanh. Trong
giá trị bao giờ cũng hàm chứa những đặc tính ích lợi, có ý nghĩa tốt đẹp với chủ
thể.
Trong xã hội loài người, mỗi cộng đồng (nhóm xã hội hoặc giai tầng xã hội)
đều có một hệ thống giá trị đặc thù đóng vai trò là hạt nhân tạo nên tâm thức
chung của cộng đồng và định hướng cho các thành viên trong cộng đồng cùng
thống nhất hành động.
Từ quan niệm về giá trị ở trên, có thể dẫn dắt tới việc hiểu khái niệm giá trị
văn hóa như là tổng thể các quan niệm, thái độ, lối sống, phong tục,..., chúng định
hướng cho hoạt động của các cá nhân/cộng đồng. Các giá trị văn hóa này có thể
thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và các yếu tố chi phối
các giá trị đó.
Các giá trị văn hóa có thể kể đến như ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập
quán (sản xuất, tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ...), cách thức tổ chức đời sống cộng
đồng,...
1.4. Bản sắc văn hóa:
Bản sắc văn hóa dân tộc có thể hiểu là tổng thể các giá trị đặc trưng bản
chất của văn hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch
sử lâu dài của đất nước, các giá trị đặc trưng ấy ở “tầng nền” mang tính bền vững,
18
trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Do vậy, muốn nhận biết nó, phải thông qua vô
vàn các sắc thái văn hóa với tư cách là hiện diện của các sắc thái văn hóa ấy. Nếu
bản sắc văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững, thì các sắc thái biểu hiện của
nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn. Từ quan niệm chung như vậy,
chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng của
bản sắc văn hóa Việt Nam, như là chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, tinh thần
cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn hóa,...tính duy trình trong các cư
xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong các cư xử với tự nhiên,...
2. Những quan điểm và lý thuyết xã hội học đƣợc vận dụng trong đề tài nghiên cứu
2.1. Quan điểm của một số nhà xã hội học về giá trị :
Trên cơ sở quan điểm của nhà xã hội học người Mỹ J.H.Fichter như đã dẫn
dắt ở trên, rằng “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối
với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” [5; tr 173-174], tác giả đi đến sự lý
giải sự biến đổi giá trị từ thế hệ này qua thế hệ khác, dưới sự tác động của các
nhân tố chủ quan và khách quan như điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm cư trú,
các đặc trưng nhân khẩu, …
Tác giả cũng dựa trên quan điểm của R.Hartman để lý giải sự thay đổi giá
trị giữa các thế hệ và các địa bàn nghiên cứu khác nhau. R.Hartman ( 1910 - 1973)
đã đưa ra 3 chiều kích của giá trị để đi đến các thước đo giá trị.
a) Giá trị nội tại là giá trị cá thể hay giá trị tinh thần, được xác định qua vô
số các đặc điểm bằng vô số cách đo, được mô tả như là giá trị của bản thân sự vật
hay bản thân cá thể người. Thước đo giá trị ở đây là sự đồng cảm, lòng tự tin, xác
định giá trị của bản thân sự vật và của riêng cá thể người.
19
b) Giá trị ngoại tại là giá trị thực tiễn, gắn vào hoàn cảnh, được xác định qua
một số thuộc tính nhất định, được mô tả qua các quan điểm trừu tượng, giá trị so
sánh, nhóm lớp các sự vật họ hàng, cụ thể, giá trị tốt, tốt hơn, tốt nhất, các giá trị
vật chất, thực tiễn. Thước đo giá trị là một phán đoán thực tiễn hay ý thức về vai
trò. Xác định xem sự vật này có giống sự vật khác không, xếp vào lớp sự vật nào.
c) Giá trị hệ thống là quan điểm giá trị hay giá trị lý thuyết, được xác định
qua một số thuộc tính hữu hạn, được mô tả qua kiến tạo của tâm trí hay ý tưởng, giá
trị của sự hoàn thiện, vật trắng hay vật đen. tính phù hợp, thứ tự diễn dịch logic,
tính kiên định. uy quyền, vận dụng vào mọi vật là bộ phận của hệ thống, Thước đo
giá trị là hệ thống phán đoán và phương hướng của bản thân, xem sự vật này được
đo đạc có thích hợp không.
Nếu căn cứ vào vấn đề "con người đặt giá trị ở đâu?”, Spranger đưa ra mô
hình lý thuyết nổi tiếng thế giới về quan điểm giá trị. Spranger sử dụng phương
pháp thấu hiểu để khảo sát một số lĩnh vực trong cuộc sống xã hội của con người,
từ đó rút ra 6 mô hình phương hướng hay lĩnh vực liên quan đến giá trị như sau:
- Mô hình lý luận: trong đó quan điểm giá trị thống trị là nhận thức phổ biến
và chân lý thoả đáng đối với đối tượng, trọng tâm cuộc sống của những người
thuộc mô hình này có quan điểm giá trị được đặt vào việc truy tìm chân lý và nhận
thức phổ biến.
- Mô hình kinh tế: trong đó quan điểm giá trị thống soái là tính hiệu quả,
tính kinh tế như “được mất” đánh giá mọi sự vật trên quan điểm hiệu quả và kinh
tế, nhìn nhận thời gian và không gian, hành động của con người cũng từ góc độ
ấy.
20
- Mô hình thẩm mỹ: trong đó quan điểm giá trị về cái đẹp thống trị toàn bộ
cuộc sống của những người thuộc mô hình này, họ theo đuổi cái đẹp trên lập
trường tự do vượt lên mọi giới hạn của hiện thực.
- Mô hình xã hội: trong đó tình yêu con người thống trị toàn bộ cuộc sống
của những người thuộc mô hình xã hội, họ trải nghiệm qua sự thăng tiến của giá
trị với những hành vi xã hội quên mình vì người khác.
- Mô hình quyền lực: trong đó ý chí quyền lực chi phối tất cả, giá trị trung
tâm đặt vào việc làm thế nào để chi phối mọi sự vật và xã hội theo ý mình.
- Mô hình tôn giáo: trong đó toàn bộ cơ cấu tinh thần hướng vào việc liên tục
sản sinh ra những kinh nghiệm giá trị thoả mãn cao nhất và đáy đủ nhất.
Những mô hình phương hướng này nói một cách khác chính là thang giá trị
chi phối mọi hành vi, lối sống, ứng xử của cá nhân (ví dụ cá nhân theo mô hình
kinh tế thường lấy tiêu chuẩn "được mất" để đánh giá và quyết định hành vi và
phương tiện thực hiện hành vi...).
Vận dụng các quan điểm về giá trị trên để lý giải sự khác biệt văn hóa giữa
các thế hệ, các vùng cư trú và các thời điểm khác nhau. Mỗi thế hệ, mỗi thời điểm
và ở các vùng cư trú khác nhau có thể dẫn tới sự lựa chọn các mô hình khác nhau
dẫn tới sự khác biệt hay sự biến đổi về giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
2.2. Quan điểm về biến đổi văn hóa
Lý thuyết của Parson cho rằng các “giá trị cơ bản” một khi đã hình thành thì
khó thay đổi, bất chấp những rối loạn tâm lý xã hội và nếu có biến đổi thì cũng diễn
ra trong khoảng thời gian rất dài.
Phát triển luận điểm của Parson, R.Inglehart có những nghiên cứu thực
nghiệm khẳng định giá trị có thể biến đổi qua các thế hệ. Sự chuyển đổi của giá trị
21
về cơ bản vẫn xuất phát từ giả thiết cho rằng những giá trị một khi đã hình thành sẽ
ổn định cao độ suốt cuộc đời, vì vậy sự chuyển đổi giá trị trong lập luận của ông
thực ra là sự chuyển đổi lâu dài giữa các thế hệ mà chủ yếu là do lớp thanh niên
thực hiện.
Vận dụng quan điểm về giá trị của Parson và Inglehart để giải thích sự khác
biệt về giá trị giữa các thế hệ và các vùng được quy định bởi đặc thù kinh tế của
vùng đó.
2.3. Lý thuyết phát triển và biến đổi xã hội
Nguyên lý phát triển của xã hội học Mác xít chỉ ra rằng phát triển là quá
trình trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ, là hiện tượng diễn ra không
ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguyên lý này chỉ ra rằng, mọi sự vật, hiện
tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt
động của bản thân, chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi
xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự
phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
Văn hóa là một hình thái ý thức xã hội cũng không nằm ngoài quy luật chung
đó, chính vì thế sự phát triển và biến đổi văn hóa là một tất yếu. Tuy nhiên, mức độ
biến đổi như thế nào, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực nhiều khi còn phụ
thuộc vào điều kiện khách quan và các yếu tố tác động. Hiểu được những điều này
sẽ giúp cho việc xác định xu hướng biến đổi của nền văn hóa và có thể điều chỉnh
xu hướng đó thông qua các tác động của con người.
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
1. Bản sắc văn hóa Mường - sự hình thành và phát triển
Sự hình thành bản sắc văn hóa Mường gắn liền với nền văn hóa nổi tiếng thế
giới - “Văn hóa Hòa Bình”. Đó là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp sơ khai
22
cách đây hàng vạn năm, là khởi thuỷ của nền văn minh lúa nước - nền văn minh
sông Hồng, được ghi nhận trong diễn trình lịch sử dân tộc. Chính vì thế, văn hóa
Mường cũng được hình thành từ rất lâu đời trong lịch sử. Người Mường đã tạo cho
mình những qui ước mang tính cộng đồng rộng rãi. Và từ những qui ước ấy đã tạo
nên bản sắc, tạo nên giá trị văn hóa của dân tộc Mường. Qua nhiều giai đoạn lịch
sử, bản sắc ấy lại được làm giàu lên, phong phú thêm.
Là cư dân canh tác lúa nước từ lâu đời, người Mường có nhiều kinh nghiệm
làm thuỷ lợi nhỏ trong điều kiện miền núi, hình thành nên tập quán sản xuất của
đồng bào Mường như làm ruộng nương, làm máng dẫn nước từ sông suối vào
ruộng và trông các loại cây lương thực, hoa màu phù hợp với điều kiện tự nhiên
như lúa nương, ngô, khoai, sắn, trồng bông dệt vải.
Người Mường xưa vốn dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Thu nhặt khai thác
lâm - thổ sản từ rừng cũng là nguồn kinh tế phụ đáng kể. Các hoạt động kinh tế
của người Mường mang tính tự cấp tự túc nên người Mường biết làm các nghề
thủ công gia đình để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: rèn, đan lát,
đồ mộc, ép dầu thảo mộc. Đặc sắc nhất là nghề dệt thổ cẩm với kỹ thuật, mỹ
thuật trang trí hoa văn trên nền vải có nhiều màu sắc hài hòa cùng với các họa
tiết tinh vi, độc đáo và mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc.
Các thói quen sinh hoạt hàng ngày cũng hình thành từ tập quán sản xuất ấy.
Từ tập quán sống phụ thuộc vào thiên nhiên, người Mường tin vào sức
mạnh của thiên nhiên, vào thần thánh hình thành nên tập quán tín ngưỡng thờ
bái vật giáo và thờ thần thánh. Đồng thời, theo các nhà nghiên cứu lịch sử, dân
tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa học, người Mường và người Kinh (Việt) cùng
một nguồn gốc. Tộc Mường - Việt hình thành từ lâu trong lịch sử Việt Nam.
Hai dân tộc này chỉ tách rời nhau vào cuối thời Bắc thuộc, cuối thế kỷ VIII và
23
IX thuộc công nguyên. Nên tập quán tín ngưỡng của người Mường có nhiều nét
tương đồng với người Kinh, cũng thờ cúng tổ tiên và thần thánh. Thậm chí, các
lễ hội truyền thống của người Mường cũng mang đậm nét tín ngưỡng dân gian.
Cuộc sống khó khăn phải đối chọi với nhiều thế lực, cả thiên nhiên, cả con
người, cả thế giới thần linh, đã giúp người Mường gắn kết lại với nhau hình
thành nên tính cộng đồng sâu sắc, và quan hệ dòng họ bền vững ở người
Mường.
Bản sắc văn hóa Mường đã được hình thành như đã phân tích ở trên. Trải
qua thời gia, bản sắc ấy càng được vun đắp tạo nên sự đa dạng, phong phú của
văn hóa Mường. Đồng thời, trải qua quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với
các dân tộc khác, văn hóa Mường vừa thể hiện được những đặc trưng riêng vừa
thể hiện tính giao thoa sâu sắc mà chúng ta sẽ có dịp phân tích ở phần sau.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ trên
phương diện kinh tế mà ảnh hưởng đến từng lĩnh vực của đời sống xã hội, đến
từng tổ chức và con người, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Bất luận tham gia chủ
động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hóa thì văn
hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới.
Bên cạnh những mặt tích cực mà giao lưu hội nhập kinh tế mang lại, những thách
thức đối với giá trị văn hóa truyền thống cũng gia tăng.
Nhận thức rõ vấn đề đó, Nghị quyết 22NQ ngày 27/11/1989 đã thể hiện rõ
quan điểm của Đảng ta đối với văn hóa dân tộc là: “Tôn trọng và phát huy những
phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn
minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn
24
hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc khác và góp phần phát
triển văn hóa chung của các nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn
minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Đảng ta đã nhấn mạnh chiến
lược văn hóa tập trung vào hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, giữ gìn, kế thừa và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; thứ hai, phát huy văn hóa dân tộc, nguồn sức mạnh
nội sinh của đất nước trong quá trình hội nhập. Hai nội dung này có quan hệ biện
chứng chặt chẽ với nhau.
Đối với vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, Nghị Quyết Hội
nghị lần thứ 5 – BCH Trung ương Đảng khóa 8 nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản
vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao
gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo
lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.
Về việc bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tại
Hội nghị lần thứ 5 của Đảng (khóa VIII) đã nhấn mạnh: “Coi trọng bảo tồn, phát
huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn
hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ,
chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông,
khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và
sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ
chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn học nghệ thuật là
người dân tộc thiểu số, (...) Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ
biến các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số,...”.
Uỷ ban Dân tộc và Miền núi và Bộ Văn hóa Thông tin đã ban hành chương
trình phối hợp số 556/CTPH/BVHTT-UBDTMN, ngày 21/2/2000 về đẩy mạnh
25
cộng tác bảo tồn, phát triển văn hóa – thông tin ở miền núi và vùng các dân tộc
thiểu số năm 2000-2005, nội dung chương trình phối hợp gồm: 1)Bảo tồn và phát
huy những di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Những vấn đề cụ
thể như phong tục tập quán, cưới, tang, thờ cúng,... lễ hội văn hóa, văn nghệ dân
gian: chú ý bảo tồn, phát huy những lễ hội văn hóa mang tính cộng đồng, đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc; trang sắc phục các dân tộc thiểu số; tiếng nói và chữ viết
các dân tộc thiểu số trong hoạt động văn hóa thông tin. 2)Xây dựng đời sống văn
hóa ở miền núi và cùng dân tộc thiểu số: xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng
bản sắc văn hóa; xây dựng gia đình văn hóa, cơ quan văn hóa; xây dựng cơ sở vật
chất, tăng cường trang thiết bị hoạt động văn hóa thông tin vùng dân tộc thiểu số;
xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin, đặc biệt là cán
bộ người dân tộc thiểu số. 3) Bảo vệ, đầu tư, tôn tạo các di tích, danh lam thắng
cảnh.
Từ quan điểm trên cho thấy, Đảng và nhà nước ta rất coi trọng việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là nhiệm vụ không thể bỏ qua trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là một trong những điều kiện của phát triển bền
vững.
III. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Huyện Lạc Sơn là một huyện vùng núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình,
phía Bắc giáp huyện Kim Bôi và Kỳ Sơn, phía Nam giáp huyện Thạch Thành
(Thanh Hóa), phía đông giáp huyện Yên Thuỷ và phía Tây giáp huyện Tân Lạc. Diện tích trên 580km2, dân số trên 13 vạn người, gồm 2 dân tộc Mường và Kinh,
trong đó dân tộc Mường chiếm 90%. Lạc Sơn là trung tâm văn hóa cổ của tỉnh
Hòa Bình gồm có 1 thị trấn và 28 xã.
26
Về hoạt động kinh tế, nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Lạc Sơn giàu tiềm
năng về phát triển nông nghiệp, các vùng đồi núi trong huyện phù hợp để trồng
trọt, phát triển các loại cây hoa màu (như lúa, ngô, khoai, sắn,...), cây công nghiệp,
cây lấy gỗ và nhất là chăn nuôi đại gia súc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12%,
trong đó: Cơ cấu kinh tế Nông-Lâm nghiệp chiếm 60,2%; công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp chiếm 14,4%, thương nghiệp - dịch vụ 25,4%. Bình quân thu nhập
đầu người ước đạt 4,7 triệu đồng/người/năm.
Về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, Lạc Sơn đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng so với trước thời kỳ đổi mới. Tỷ lệ phổ cập giáo dục đạt 89%, tỷ lệ hộ
nghèo 31,17%/34,4% KH, đạt 90,6% KH năm, tỷ lệ hộ được dùng điện đạt 90%,
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giữ ở mức 0,95%/KH 1%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng ở mức 25%/KH 24%.
Hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cơ bản được chú trọng.
Công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thường xuyên
được quan tâm, trên địa bàn không xảy ra dịch bệnh. Trong 6 tháng đã tiến hành
khám bệnh cho 60.109 lượt người. Trong đó điều trị nội trú có 4.823 lượt người,
điều trị ngoại trú có 8.132 lượt người, công suất sử dụng giường bệnh tại bệnh
viện đa khoa là 100,5%. Đến nay toàn huyện có 38 Bác sỹ, bình quân 2,9 Bác sỹ/1
vạn dân, huyện đang đầu xây dựng 02 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được triển khai, tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên ở mức 0,97%, đạt kế hoạch đề ra; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng là 25%; tỷ lệ các cặp vợ, chồng sinh con thứ 3 trở lên 9%.
*) Đặc điểm địa bàn xã Tân Lập
Xã Tân Lập là một xã nằm ở phía Tây huyện Lạc Sơn, dân số khoảng 1300
người, trong đó dân tộc Mường chiếm tới 99%. Đây là vùng trung tâm của Mường
27
Vang (một trong bốn cái nôi sản sinh ra người Mường), vì vậy Tân Lập có một bề
dày văn hóa, là nơi lưu giữ những nét đặc trưng của văn hóa Mường.
Nông nghiệp là lĩnh vực kinh tế chủ đạo, gồm các hoạt động như trồng lúa
nước, trồng hoa màu, chăn nuôi đại gia súc,… Nông nghiệp chiếm tới 80% cơ cấu
thu nhập.
Tỷ lệ phổ cập giáo dục đạt 90% dân số.
*) Đặc điểm địa bàn xã Nhân Nghĩa
Nhân Nghĩa là một xã thuộc vùng Mường Vang, giáp xã Tân Lập. Dân số
khoảng 1000 người, dân tộc Mường chiếm khoảng 85%.
Xã Nhân Nghĩa nằm trên trục đường giao thông nối liền huyện Lạc Sơn với
huyện Kim Bôi (có điểm du lịch suối khoáng thu hút đông du khách) và tỉnh Hà
Tây (nay thuộc Hà Nội). Vì vậy, Nhân Nghĩa khá luận lợi cho việc giao lưu buôn
bán, trao đổi hàng hóa cũng như các lĩnh vực văn hóa xã hội với các huyện bạn và
tỉnh bạn.
Kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, thu nhập từ nông nghiệp chiếm
80% tổng cơ cấu thu nhập. Tỷ lệ dân số phổ cập đạt 90%.
*) Đặc điểm địa bàn xóm Nghĩa thuộc thị trấn Vụ Bản
Thị trấn Vụ Bản là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện Lạc Sơn.
Thị trấn Vụ Bản nằm trên trục đường 12A, con đường giao thông huyết mạch nối
liền với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, thuận lợi cho giao lưu thông thương giữa
miền núi và miền xuôi. Tổng số dân khoảng 1059 hộ với gần 5000 người, dân tộc
Mường chiếm khoảng 15% dân số, còn lại là dân tộc Kinh. Dân tộc Mường tập
trung chủ yếu trên địa bàn xóm Nghĩa, được coi là một bản của người Mường,
hình thành từ khá lâu đời.
28
Dân cư thị trấn Vụ Bản hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ,
nông nghiệp (trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi), trồng cây ăn quả và trồng rừng,…
trong đó thu nhập từ kinh doanh dịch vụ chiếm 50% tổng thu nhập. Bình quân thu
nhập năm 2007 khoảng 10 triệu đồng/người/năm.
Tỷ lệ dân số phổ cập tiểu học đạt 98%. Tỷ lệ người đi học chiếm 17%, tức
cứ 100 dân thì có 17 người được đi học.
29
CHƢƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƢỜNG
I. Bản sắc văn hóa truyền thống
1. Tập quán sản xuất
1.1. Nghề trồng lúa nước
Một trong những hoạt động kinh tế truyền thống của người Mường là nghề
nông trồng lúa nước. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương
thực chủ yếu.
Nghề nông trồng lúa nước được tiến hành ở những nơi có địa bàn bằng
phẳng gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng thung lũng hay những doi đất
nhỏ hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp. Người Mường rất coi trọng
cây lúa nếp. Trước đây, lúa nếp được trồng nhiều hơn lúa tẻ, vì trong cuộc sống,
bữa ăn truyền thống thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ đạo. Bên cạnh đó, đồng
bào còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ biến giống vì lúa này cho năng suất cao.
Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, đồng bào đa phần làm ruộng bậc
thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng
nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh các đồi gò. Do ruộng bậc thang
làm ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn nên người Mường biết đào mương
bắc máng, làm guồng xe nước lợi dụng dòng chảy của các con sông, suối, ngòi để
đưa nước lên cao, cung cấp cho những thửa ruộng dài ngoằn ngoèo. Ruộng bậc
thang chủ yếu chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác đồng bào
dùng để trồng ngô, khoai, rau… Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít
nước.
Bên cạnh những thửa ruộng nước, người Mường còn đốt nương làm rẫy với
hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc lỗ tra hạt. Đồng bào có kinh nghiệm quý
30
trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc
dày, trồng mùn màu mỡ hay những vạt đất đen ven đồi núi. Khi chọn đất, đồng
bào thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được
sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì,
nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là đất tốt. Chọn được
mảng rừng đồi ưng ý, người Mường tiến hành chặt khoanh vùng để phân giới
không cho người khác lấy mất. Đồng bào đốt mảng rừng này để lấy mùn và tiện
lợi cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng tiến hành vào khoảng tháng 3 -
tháng 4 khi bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu tiên. Người Mường xưa trồng
lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót
nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành
cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt lấp các hố lại. Việc gieo trồng lúa nương tương
đối đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều công sức, đặc biệt là làm cỏ cũng như trông
nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy, người Mường đặc biệt có
ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn lan. Điều này bắt nguồn từ quan niệm
truyền thống “vạn vật hữu linh”. Theo đồng bào, rừng núi, cây cối, dòng sông,
suối… cũng có linh hồn, do thần linh hoặc ma quỷ cai quản. Cho nên, họ tránh
làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ thụ coi là linh thiêng - nơi ngự trị của
thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở đó có màu mỡ tơi xốp đến đâu. Từ quan
niệm đó mà trong lao động sản xuất của người Mường nói chung, người Mường ở
Lạc Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu
mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng cửa rừng và mở cửa rừng,… kèm theo lệ
cấm kiêng kị mang tính chất siêu nhiên, linh thiêng.
1.2. Một số nghề phụ khác
Cùng với nghề nông trồng lúa (lúa nương và lúa nước) là chính, người
Mường còn tăng gia sản xuất với những hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn
31
nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát… đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc
dù những hoạt động này không phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo
cuộc sống của người Mường nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối
quan trọng trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.
1.2.1.Chăn nuôi
Những đàn gia súc, gia cầm thường được đồng bào nuôi thành bầy đàn thả
dông trong rừng. Người Mường nuôi gia súc chủ yếu là trâu, bò ngoài cung cấp
thực phẩm trong những ngày hội trọng đại còn dùng làm sức kéo trong lao động
sản xuất. Đối với đồng bào, trâu bò có vị trí đặc biệt trong đời sống thường ngày
vì đối với họ chúng là cả tài sản, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà
trong bản và bản này với bản khác. Bên cạnh đó, người Mường còn nuôi lợn, gà
để lấy thịt, trứng. Chúng cũng được đồng bào nuôi thả thành bầy.
Người Mường không có thói quen làm chuồng trại riêng cho gia súc, gia
cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa dưới gầm sàn và làm
chuồng trại cho gia cầm. Riêng đối với lợn, họ không mấy khi nhốt dưới sàn nhà
mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường còn biết tận dụng
ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy, do địa bàn cư trú bán trung du và miền
núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở xuất hiện ít. Họ chủ yếu dựa vào đánh bắt cá,
tôm tự nhiên ở sông, suối và các chi lưu của nó. Công cụ dùng để đánh bắt chủ
yếu là lưới, đó, đăng, chũm.
1.2.2. Làm vườn
Người Mường nói chung và người Mường ở Lạc Sơn nói riêng thường
không chú ý lắm đến hiệu quả kinh tế vườn đem lại. Vườn của người Mường
trồng đủ các loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế, chanh, trầu, tre, bương,
chuối… Có thể nói, ngoài các hình thức lao động kiếm sống phụ khác, mảnh vườn
32
trở nên gắn bó thân thiết với đồng bào như một phần của cuộc sống. Với người
Mường, hầu như nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ để trồng cây quanh nhà, mỗi
thứ một ít để phục vụ cho gia đình theo kiểu mùa nào thức ấy. Phụ nữ trong gia
đình rất chăm lo đến các loại cây trồng trong vườn. Đôi khi những người đàn ông
cũng rất thích thú với mảnh vườn quanh nhà của mình. Họ quyết định các giống
cây trồng và quan tâm đến chúng. Tuy vậy, vườn của người Mường chủ yếu vẫn là
loại vườn tạp.
1.2.3. Nghề thủ công gia đình
Nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát,
ươm tơ. Người Mường đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các vật dụng dùng
trong gia đình từ nguyên liệu là tre, nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi
rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp, giỏ…
Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo. Trong mỗi gia
đình Mường đều có các khung cửi dùng để dệt vải bông, vải lanh để phục vụ may
mặc cho các thành viên. Công việc trồng bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm
nhận. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở đồng bào chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ
chủ yếu sản xuất lúc nông nhàn mà chưa giành thời gian đáng kể cho nó. Nguyên
liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn nuôi tằm
tương đối phổ biến trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng tương đối
phát triển. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc riêng của
mình để phục vụ trong xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho lễ
tang… Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những sản phẩm
tương đối độc đáo như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng
khác phục vụ cho cuộc sống.
1.2.4. Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên
33
Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ
sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây,
song... Săn bắn và hái lượm là hoạt động kinh tế phụ gắn bó với cuộc sống thường
ngày của người Mường truyền thống.
Việc thu hái rau rừng thường được thực hiện cùng với các công việc khác
như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn… Họ tranh thủ làm việc này sau khi đã
hoàn tất các công việc khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn bắn
chim thú, bổ sung cho bữa ăn là công việc thường xuyên và là đặc quyền của
người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu cầu của việc bảo vệ
nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát các con vật nuôi.
Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho
riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng thể
hiện nam tính cũng như vai trò của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ
nhỏ đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên
rất thạo việc săn bắn. Đặc biệt, những sản phẩm người Mường thu từ rừng không
chỉ đủ dùng trong gia đình mà còn được dùng để trao đổi với các lái buôn từ miền
xuôi như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, các loại gỗ quý
như đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò… và các loại dược
liệu quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn… Người Mường đổi những sản phẩm
từ khai thác rừng để lấy những vật dụng dùng trong gia đình như muối, dầu thắp,
kim chỉ, kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương, lược. Bên cạnh đó, hàng
năm, đồng bào còn bán cho các lái thương một số lượng lớn trâu bò.
Hoạt động buôn bán ngày càng len lỏi vào tận các bản mường xa, từng bước
tạo nên mối quan hệ giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người
Kinh và các dân tộc khác, góp phần vào giao lưu văn hoá - kinh tế giữa các tộc
người gần gũi nhau.
34
2. Đặc điểm cư trú và nhà ở, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng
2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở:
2.1.1. Đặc điểm cư trú:
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa bàn cư trú
tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi,
dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp. Làng bản Mường sống tập trung
thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh
nhà. Họ quần cư thành từng bản. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30
nóc nhà, và nếu bản to thì có thể nhiều hơn nữa. Còn Mường là địa phận của một
vùng đất rộng bằng vài xã, vài huyện, thậm chí bằng một tỉnh. Bản làng thường
dựng nơi gần nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy
vậy, bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được
bao bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường
mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với người Mường, họ
không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ
đó mà muốn vào bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con
đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.
Bản Mường truyền thống không nằm trên các trục đường cái lớn mà nằm
nhấp nhô bên những sườn núi, những mỏm đồi, mỗi bản có địa vực cư trú, phạm
vi đất canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối riêng. Lối vào bản thường khúc
khuỷu, uốn lượn theo thế đất, thế rừng tự nhiên. Phía tây bản là khu nghĩa địa nằm
dưới những tán cây um tùm.
2.1.2. Đặc điểm nhà ở:
Nhà sàn là loại hình phổ biến của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á. Tại Việt
Nam, cư trú trên nhà sàn là truyền thống của nhiều dân tộc như Giarai, Êđê, Tày,
35
Thái, Mường. Đó là sự thích ứng tối đa với điều kiện sống. Người Mường cư trú
trên những ngôi nhà sàn không biết từ bao đời nay. Mặc dầu vậy, nhà sàn của
người Mường vẫn có nhiều điều đặc biệt khác với nhà sàn của các dân tộc khác.
Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến những sự
kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối
với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật
chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người Mường không coi trọng nhiều đến dựng nhà theo hướng nào mà chỉ
cốt thuận lợi cho đi lại cho lao động sản xuất. Từ dụng ý này mà làng bản của
người Mường đều giống nhau ở chỗ lộn xộn, chồng chéo, không có sự thống nhất
hay quy định chung về hướng nhà. Nhà dựng ở đồi gò thì lưng dựa vào đồi gò, cửa
hướng ra khoảng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông
thì mặt có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong... Tất cả những cái tưởng
chừng là “lộn xộn” đó lại tạo cho bản làng của người Mường cảm giác vừa vững
vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.
Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Nhà sàn được làm
theo truyền thuyết dân gian, gọi là nhà rùa: 4 mái, 3 tầng, mô phỏng theo quan
niệm dân gian ba tầng, bốn thế giới của người Mường. Việc dựng nhà sàn của
đồng bào là kết quả của một quá trình dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể
hiện ở bản mo nổi tiếng họ là “Te tấc te đác” (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ
sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người
Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải
đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun
Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin
Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở,
làm kho để lúa, để thịt:
36
Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui
Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo
Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần dọa làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn
lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết làm nhà để ở.
Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều sức lực
nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp
sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân làng, gia đình làm nhà phải
chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong
bản làng biết. Mỗi gia đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những
công việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan
gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kinh tế mà nhận sự giúp đỡ
khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại. Khi một người làm nhà
thì tuỳ vào khả năng mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo
nếp, hai chai rượu, một con gà… Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những quy định
khác nhau.
Nói chung, việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều
sức lực nên họ có tập quán giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp công, giúp
sức trong việc làm nhà của người Mường như đóng góp nguyên vật liệu, lương
thực, thực phẩm và ngày công đã thể hiện sự quan tâm chung của cả bản làng, tinh
thần “tương thân tương ái”, đoàn kết cộng đồng sâu sắc.
37
Trong quá trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò rất quan
trọng. Gia chủ nhờ thầy mo khấn cúng xin làm nhà mới và khấn vía lúa cầu cho
nhà no đủ.
Công việc làm nhà tiến hành trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái,
gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ
lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn. Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng
tổ tiên, thổ công, ma rừng, ma cây, ma bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia
đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ gia
đình may mắn.
Nhà của người Mường được chia thành nhiều gian, thường có từ ba đến
năm gian. Những gia đình đông con thì nhà có đến khoảng từ bảy đến mười hai
gian. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên trái để bắc cầu thang và máng
nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là “pen ngoài” (bên ngoài) hay
gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát
những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà. Đó là nơi tiếp khách và
cũng là nơi để bàn thờ tổ tiên. Gian tiếp theo gọi là “pen tlong”(bên trong) được
coi là một gian buồng, có hướng nhìn ra sân. Đây mới được xem là gian nhà
chính. Trong gian này có bếp và diễn ra mọi sinh hoạt trong đời sống hằng ngày
của gia đình người Mường.
Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc
(còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây cột gốc được đồng bào
trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà
chơi đều không được bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo
vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công
cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị
coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.
38
Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không được
ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì
chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi ăn uống.
Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa sổ
“voóng” linh thiêng, không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ
dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian
gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào
cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (đồng
bào gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu
cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm
linh, nói lên sự hỗn hợp, cân bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia
đình.
Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới ngủ
nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi
khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ
thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần bếp. Bếp của người Mường là rất công
phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh,
đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm
một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng
nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt gần
cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt bếp ở cửa sổ ít
được ưa chuộng hơn vì đồng bào quan niệm nếu đặt bếp gần cửa sổ thì hơi ẩm từ
bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên
dụng. Một bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi.
Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong gia đình ngồi sưởi vào
mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ
39
trong gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay
con gái út được yêu quý nhất.
Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ dùng
gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với các gian khác trong nhà
bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi
nhà, người Mường để một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ
dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc lớn như
đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một nhạc cụ sử dụng để gõ
những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm
vang, người Mường gọi là “đâm đuống” hay “châm đuống”. Dưới sàn nhà, người
Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong,
nia… Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song những ngôi nhà
dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thang ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu
thang như vậy khá hiếm vì người Mường quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị,
của nả sẽ không giữ được trong nhà “vào đầu này ra đầu kia”.
2.2. Tập quán tiêu dùng
Hoạt động lao động sản xuất truyền thống của người Mường mang nặng
tính tự cung, tự cấp.
Mặc dù trồng lúa nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng do diện tích trồng lúa
không phải là ưu thế, chỉ có những cánh đồng nhỏ, ruộng ở khe nên trồng lúa cũng
chỉ đủ để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Các sản phẩm đem ra chợ bán là gạo, lúa,
ngô, khoai, sắn, gà vịt, và một số sản vật lâm sản nhằm mua lại nhu yếu phẩm, vật
dụng cần thiết cho gia đình như dầu, muối, kim, chỉ, vải vóc,…
40
Các đồ dùng trong gia đình người Mường hết sức thô sơ, chủ yếu do người
chủ hay các thành viên trong gia đình tự làm. Hầu như không có tiện nghi như
giường, tủ, bàn, ghế và các tiện nghi hiện đại khác như ở vùng đồng bằng.
Có thể nói, trong tập quán tiêu dùng của người Mường truyền thống, hàng
công nghiệp là thứ rất hiếm hoi đối với đồng bào.
2.3.Tập quán ẩm thực
Trong ẩm thực, người Mường xưa thường ăn cơm đồ, uống rượu cần và
thường dùng cá đồ và lợn thui trong những ngày lễ. Tập quán này được đúc kết
qua câu thành ngữ: “cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui”.
Cơm nếp được sử dụng thường xuyên trong bữa ăn hằng ngày của người
Mường. Các giống lúa nếp của người Mường khá nổi tiếng như nếp quả Oàng, nếp
Khe, nếp Cú Pộôt, nếp Bản, nếp Ôi, nếp Boóng, nếp Trlông, nếp Diệu Hương.
Cơm nếp được đồ chín trong chiếc hông gỗ bắc trên nồi đáy bằng nhôm hoặc bằng
đồng.
Người Mường có tục uống rượu cần từ lâu đời. Cần làm bằng cây trúc hoặc
mảnh tre thông nòng (rỗng ống) tươi được hơ qua lửa rồi đem uốn tùy theo độ
cong lượn của vò rượu. Đặc biệt, dáng của những chiếc cần phụ thuộc vào tính
cách của người chủ, nên hiếm khi có hai bộ cần giống hệt nhau. Để có được vò
rượu cần ngon không chỉ phụ thuộc vào cách làm mà ngay cả cách uống cũng thật
công phu. Nếu có khách, chủ nhà trải chiếu vuông vắn giữa sàn rồi bưng vò rượu
đặt chính giữa chiếu, sau đó mời tất cả những người có mặt trong nhà ngồi vòng
quanh cùng chụm môi uống. Người Mường gọi đó là uống bước một (uống thông
cần). Tiếp theo là uống đôi (giữa chủ và khách), uống 4 người, uống 6 người và
nhiều người. Họ vừa uống vừa hát, hỏi thăm, hát mời, hát tiễn đưa, hát hẹn ước.
41
Trong đó hát đúm là điệu hát đặc trưng của người Mường, tương tự như hát đối
của người Kinh.
Vào dịp Tết cơm mới, người Mường làm các món đặc sản như đĩa quéch,
ngách lưỡi, ốc cá. Tất cả các món này đều phải đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên trước
khi ăn để bày tỏ lòng hiếu thảo và sự no đủ của con cháu.
2.4. Trang phục
2.4.1. Trang phục nam giới
Về trang phục của nam giới người Mường cũng gần giống với trang phục
truyền thống của người Kinh. Nam giới có hai loại áo: áo cánh và áo dài. Áo cánh
may xẻ ngực, cài khuy, hai vạt áo trước may hai chiếc túi khá to, trên ngực trái
may một túi nhỏ có gân chéo ở gần miệng túi và làm bằng vải màu trang trí, tay áo
dài buông tới mu bàn tay. Áo dài có hai loại, loại sang may bằng lụa hoặc đoạn
màu xanh, tím, vàng; loại thƣờng may bằng vải bong, màu đen sẫm. Áo dài đến
ngang đầu gối, cài khuy lệch về bên sườn phải, hai bên xẻ tà cao ngang hông. Cổ
áo đứng và cứng, thường được chú rể và hai phù rể mặc trong lễ cưới. Quần nam
có ống, đũng và cạp rộng, cắt kiểu chân què, khi mặc dùng sợi dây vải buộc chặt;
thường là màu trắng hoặc màu nâu.
2.4.2. Trang phục phụ nữ
Trang phục của phụ nữ Mường rất độc đáo và gợi cảm, gồm váy và áo. Áo
gồm có áo ngắn và áo dài, trong đó, áo ngắn dùng để mặc thường ngày. Loại áo
này ngắn và bó sát than, xẻ ngực, thường không có khuy hoặc có một chiếc khuy
bấm ở ngang ngực nên để lộ phần cạp váy trước ngực và chiếc yếm bó sát ngực.
Về cơ bản, chiếc yếm giống như phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn. Nẹp áo may to
khoảng 3-4 cm với màu sắc sặc sỡ, đường viền cổ áo, cổ tay có thêu và đính chỉ
màu. Áo dài thường mặc để tiếp khách, đi lễ hội, đám cưới, thường dài quá đầu
42
gối, phần nửa thân trên giống áo ngắn, phần nửa thân dưới từ eo xuống rộng dần,
áo xẻ ngực, không xẻ tà.
Nét đặc trưng nhất trên chiếc váy của phụ nữ Mường là cạp váy. Cạp váy
Mường có đường nét hoa văn rất tinh tế, mô phỏng nét hoa văn trên trống đồng
Đông Sơn. Điều này góp phần nói lên nguồn gốc chung của hai dân tộc Việt-
Mường, tức là lịch sử có sự tồn tại của thời kỳ tiền Việt - Mường.
Váy được thắt bằng dải thắt lưng làm bằng vải lụa, thường nhiều màu,
nhưng màu xanh hoa thiên lý (làm tôn vẻ đẹp hài hòa của chiếc váy) thường được
các thiếu nữ thích dùng hơn cả.
Cùng với váy, áo, phụ nữ Mường trang điểm bằng khăn đội đầu, vòng bạc,
chuỗi hạt cườm, bộ xà tích (riêng bộ xà tích làm bằng bạc, gồm nhiều sợi dây dài
ngắn có gắn đồng tiền, vuốt hổ được xâu thành chuỗi biểu hiện sự giàu sang của
người phụ nữ có địa vị trong xã hội.
3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng
3.1.Quan hệ gia đình, dòng họ
- Quan hệ gia đình:
Tương tự như người Kinh, gia đình truyền thống của người Mường là gia
đình phụ quyền. Người đàn ông làm chủ gia đình, người chồng, người cha có vai
trò quyết định, chi phối các quan hệ gia đình cũng như các hoạt động sản xuất, đối
nhân xử thế và đời sống tâm linh.
Tôn ti trật tự thứ bậc theo vai vế của người đàn ông trong gia đình và dòng
họ thể hiện khá rõ, tương tự như quan hệ dòng họ của người Kinh ở các làng nông
thôn của đồng bằng sông Hồng.
43
Hình thức gia đình mở rộng là phổ biến đối với các gia đình truyền thống
của người Mường. Các gia đình ở đây thường có từ ba đến bốn thế hệ, thậm chí có
nhiều gia đình nhỏ là anh em cùng chung sống hợp thành một đại gia đình.
- Quan hệ dòng họ:
Người Mường rất coi trọng quan hệ dòng họ, người Mường gọi dòng họ là
“ổ nhà”. Quan hệ dòng họ trở thành chất keo gắn kết mọi người. Mỗi khi có việc
hệ trọng, điều đó càng được thể hiện rất rõ. Mỗi thành viên trong dòng họ đều có
nghĩa vụ của đóng góp công, góp của theo quy định của dòng họ đó. Hoặc khi có
tranh chấp mâu thuẫn với dòng họ khác, thì tinh thần đoàn kết giữa các thành viên
trong họ lại thể hiện rõ ràng hơn lúc nào hết. Các thành viên trong họ thường
xuyên giúp đỡ lẫn nhau, ví dụ khi một người trong họ làm nhà, tuỳ theo khả năng
của từng thành viên trong họ có thể góp công, góp của mà không hề tính toán.
Người con trai trưởng trong họ thường có tiếng nói quyết định đối với các
việc đại sự như ma chay, cưới xin. Cha mẹ già thường sống với con trai trưởng.
3.2 Tổ chức đời sống cộng đồng
Trước kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang
đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng.
Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo
xóm, cai quản một xóm.
3.2.1. Tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường
Đặc điểm của xã hội cổ truyền của người Mường là sự phân hóa giai cấp khá
rõ nét biểu hiện qua chế độ lang đạo. Các dòng họ quý tộc như: Đinh, Quách,
Bạch, Hà v.v. .. chia nhau cai quản các vùng Mường và nắm trong tay quyền phân
phối ruộng đất. Đứng đầu mỗi mường, là một lang cun - vị chúa đất tối cao của
44
một vùng. Dưới lang cun, là lang xóm hoặc đạo xóm cai quản một xóm. Chế độ
lang, đã được cha truyền con nối. Nhà Lang thống trị dân Mường qua các Ậu.
Sơ đồ tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường trước năm 1954
NHÀ LANG
- Lang Cun - Lang Tạo (Chiềng)
ẬU
- Ậu cả - Ậu Nhì - Ậu Cai
DÂN LÀNG
3.2.2. Chế độ Lang Cun
Tổ chức xã hội truyền thống của người Mường theo kiểu hình chóp, như
một xã hội phong kiến thu nhỏ, mọi quyền hành thâu tóm vào Lang Cun. Lang
Cun như ông vua con, cha truyền con nối. Khi Lang chết, con trưởng thay thế, nếu
Lang không có con trai, có khi vợ Lang được nắm quyền điều hành, dâu dù giỏi
đến đâu cũng không thể trở thành nhà Lang.
Trong xã hội Mường truyền thống, những vùng đất Mường nằm dưới sự cai
quản của một dòng họ quý tộc được gọi là nhà Lang. Mỗi dòng họ nhà Lang tự
45
phân biệt với các dòng họ khác không chỉ bằng Mường họ chiếm lĩnh mà còn
bằng tên họ. Các họ Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà thuộc tầng lớp thống trị. Còn
tầng lớp bị trị thường có chung một tên họ gọi là Bùi. Đứng đầu một Mường
thường gọi là Lang Cun.
- Lang Cun: là con cả trong chi nhánh cả của dòng họ quý tộc nhà Lang cai
quản Mường. Trên thực tế, ông ta chỉ trực tiếp cai quản làng ở trung tâm mường
(gọi là chiềng)
- Tạo: Đại diện cho chi nhánh thứ cũng thuộc dòng họ quý tộc nhà Lang
quản lý làng. Mọi công việc quản lý trong làng, Tạo đều phải xin ý kiến của Lang
Cun. Hàng năm, Tạo phải có đóng góp lễ vật cho Lang Cun. Khi bố mẹ Lang Cun
chết, Tạo cũng phải chịu tang như bố mẹ mình.
- Ậu: Lo thu thóc, bắt phu phen, cúng bái, ma chay, đốc thúc dân làng làm
xâu, làm nõ.
3.2.3. Tục lệ nhà Lang:
- Tục nộp trâu, nộp vai, nộp đùi: Nếu người dân trong làng có việc phải mổ trâu, bò, lợn, đều phải biếu nhà Lang một vai. Săn được thú rừng đều phải đem biếu nhà Lang theo nghi thức: “vác tru, lu vai” (Trâu nộp vai, nai nộp đùi).
- Phục vụ nhà Lang: Hàng năm, nếu nhà Lang có đám cưới hay ma chay,
dân trong Mường đều phải đến giúp. Nếu nhà Lang xây nhà mới thì mỗi nhà trong
Mường tự giác mang tre, nứa, lá cọ đến nộp.
Khi nhà Lang đến dự đám cưới hoặc dự tổ chức mừng nhà mới của người
dân trong Mường, thì người dân phải biếu nhà Lang 2 kg thịt lợn hoặc 1 con gà, 1
trai rượu.
46
- Nhà Lang là người chiếm nhiều ruộng đất trong vùng(Trâu kéo đứt trạc
mới hết ruộng nhà Lang). Người dân trong Mường phải đến cày cấy, làm ruộng
cho nhà Lang và họ chỉ được trả công bằng một bữa ăn không đủ no.
- Dân không được phép lấy con gái nhà Lang. Ngược lại, Lang vẫn được
lấy con gái dân, nhưng chỉ được làm vợ lẽ dù cưới trước. Vợ cả thuộc dòng họ nhà
Lang. Dân phải đóng góp mọi thứ trong thời kỳ cưới xin của Lang.
4. Tín ngưỡng, lễ hội, hôn nhân và ma chay
4.1.Tập quán tín ngưỡng, lễ hội
4.1.1.Tín ngưỡng
Trong đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng Mường, những sinh hoạt tín
ngưỡng tâm linh vẫn còn rất phổ biến trong cộng đồng và vẫn giữ được nguyên
những nét hồn nhiên mộc mạc.
Tương tự như người Kinh, tục thờ cúng là tín ngưỡng điển hình của người
Mường. Các vị thần được tôn thờ là những hiện tượng tự nhiên như: mưa, gió,
nắng,…là những dòng suối, ngọn núi, hòn đá, cây rừng, là những con vật hay bất
kể cái gì có ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người Mường. Đây hoàn
toàn không phải là mê tín dị đoan mà ở một góc độ nào đó, nó thể hiện sự sống
hòa mình cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên. Họ coi mình là một bộ phận của
thiên nhiên chứ hoàn toàn không áp đặt, chinh phục, phá hoại thiên nhiên một
cách vô ý thức.
Điều đó cũng có ý nghĩa, hệ thống tín ngưỡng của các dân tộc ở Hòa Bình
rất phong phú, từ đó dẫn đến sự phong phú của các nghi lễ thờ phụng các tín
ngưỡng đó. Đó là những lễ cầu mùa, cầu mưa, lễ xên bản, xên mường, thờ đức
thánh tản, thờ ma núi, ma nước, thần lúa, thần cây,…Mỗi nghi lễ ấy lại kèm theo
những hình thức sinh hoạt văn hóa như đánh chiêng, cồng, mo, đánh chống, thổi
47
kèn, múa kiếm…Những hình thức nghệ thuật này từ chỗ để truyền đạt lên thần
linh niềm mơ ước, khát vọng, sự bất ổn của con người, đã trở thành những hoạt
động nghệ thuật để đáp ứng chính đời sống trần tục hàng ngày của người dân.
4.1.2. Lễ hội
- Đặc trưng về lễ hội của người Mường
Người Mường không có những lễ hội quy mô, đồ sộ với sự tham gia của
nhiều ngàn người cùng những trang phục, lễ vật đa tế khí, những quy định bài bản
như các lễ hội của người Kinh dưới xuôi; không có lễ hội tầm cỡ như lễ hội Katê
của người Chăm, Oóc Om Boóc của người Khơ Me (Nam Bộ). Họ cũng không có
cơ hội chơi núi mùa xuân hay chợ tình lãng mạn, tha thiết của người Mông. Tuy
vậy, lễ hội của người Mường cũng có đặc trưng riêng: Không lớn, không nổi tiếng
nhưng lại mang cái hồn của cộng đồng dân tộc sinh sống trên các thung lũng của
vùng núi Hòa Bình.
Lễ hội của cộng đồng dân tộc Mường mang đậm các tín ngưỡng dân gian và
là sự biểu hiện của sự giao lưu văn hóa. Hầu hết các lễ hội đều liên quan đến nông
nghiệp và thường diễn ra vào mùa xuân.
Hai dân tộc Kinh - Mường vốn có chung nguồn gốc nên sự giao lưu văn hóa
Kinh-Mường thể hiện rất rõ. Một vị thần rất nổi tiếng trong tín ngưỡng của người
Mường là đức Thánh Tản Ba Vì, được thờ hầu khắp các nơi trên đất Mường, đồng
thời cũng là một trong “tứ bất tử” đối với người Kinh. Vị thần núi Ba Vì là một vị
thần tối linh của cả người Mường và người Kinh ăn sâu vào tâm thức tín ngưỡng
của cả hai dân tộc này. Khi người Mường thờ tam vị Thánh Tản thì người Việt các
nơi ghi rõ Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh.
Tiếp đó phải kể đến tục thờ Thành hoàng làng của người Mường cũng
tương tự như thành hoàng làng của người Kinh cùng với ý nghĩa nhớ ơn những
48
người đã có công giúp ích cho sự bình yên của bản Mường. Những vị thần này
giống như người Việt, có thể là “nhân thần”, có thể là “nhiên thần”,…Có thể họ có
công với bản làng hay chết vào những thời khắc ảnh hưởng đến cuộc sống của dân
địa phương. Ví như trường hợp nàng Ả Đắng (thần đánh dơi) ở Hội đu tre (Mường
Tre, Văn Nghĩa, Lạc Sơn) – cô gái nhà Lang đi vào hang Đắng bắt dơi, chẳng may
bị kẹt trong hốc đá rồi chết. Dân Mường đồn rằng nàng rất thiêng nên lập miếu thờ
để cầu nàng phù hộ cho dân Mường.
- Một số lễ hội tiêu biểu của người Mường
1) Hội hát sắc bùa ở Mường Vang
Hát sắc bùa ngày xuân là một trong những hoạt động văn hóa tinh thần quan
trọng nhất của cộng đồng dân tộc Mường mỗi khi Tết đến - xuân về.
Hát sắc bùa được chia làm ba vòng: Vòng 1: Chủ trò có lời chúc mừng năm
mới đối với gia chủ bằng những lời hát cùng với bản nhạc cồng chiêng của cả
phường bùa (mỗi phường bùa có từ 8 đến 12 chiêng, cồng). Lời hát làm vui lòng
gia chủ, cả phường bùa được mời vào thăm nhà. Vòng 2: Điệu cồng, chiêng lại
vang lên cùng với những câu chuyện dẫn dắt của chủ trò về những việc vui, thành
đạt của gia chủ trong một năm qua.
Gia chủ lại vui vẻ mời cả phường bùa ăn, uống. Ăn uống no say xong,
“khoách rác” cùng phường bùa lại tấu lên những lời khen cơm ngon, rượu ngọt,
hát lời tạm biệt và hẹn gặp lại năm tới (vòng 3). Cứ như thế, cả phường bùa sẽ đi
hết từ nhà này đến nhà khác trong những ngày đầu năm mới, cầu chúc gia chủ an
khang, thịnh vượng.
2) M úa Pồn Poong
49
Ngoài hát sắc bùa, trong những ngày lễ hội mùa xuân, đồng bào dân tộc
Mường còn biểu diễn tiết mục múa pồn poong. “Múa pồn poong là nghi thức tín
ngưỡng cúng tổ tiên của đồng bào Mường”.
Hiện vật không thể thiếu trong điệu múa này đó là một cây hoa được lấy từ
cây bông trăng trên rừng, thể hiện sự thuần khiết. Trên thân cây là những bông
hoa được làm từ thân cây bông trăng và muôn loài muông thú. Trên đỉnh cây hoa
gắn một con chim chiền chiện biểu hiện sự tôn nghiêm.
Theo truyền thuyết của người Mường, chim chiền chiện là chúa tể của
muôn loài, ấp bọc 100 trứng nở ra muôn loài. Chủ lễ là ông Mo, bà Máy - là
những người cha tinh thần của đồng bào. Sau phần lễ ca ngợi sự che chở của thần
linh tối cao, cầu mong sự an lành và phát triển, mùa màng bội thu… đến phần hội
là xoay cây hoa và mọi người đều múa hát. Hiện nay, truyền thuyết này vẫn được
lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Vì vậy, người Mường mỗi khi đi rừng
gặp chim chiền chiện thì không bao giờ bắn".
3)Lễ Mụ Thố
Đây là một lễ nghi chỉ được tổ chức cho người già lúc ốm đau bệnh tật. Gia
đình sợ vía của người già đi xa mất, mọi người tổ chức làm vía cho người già để
cầu mong sức khoẻ.
Bao giờ cũng vậy, trước khi tổ chức lễ vía mụ Thố, mỗi một gia đình người
Mường thường nhờ ông Mo chọn ngày lành tháng tốt để làm vía. Ngày lành tháng
tốt đến người con dâu cả trong gia đình đội nón chống gậy cầm ớp khọ đi xin gạo,
xin vải của hàng xóm. Số gia đình người con dâu vào xin gạo tương ứng với thứ tự
ngày hôm đó. Nếu là ngày mùng 3 cô đi xin gạo vào 3 nhà, ngày mùng 5 sẽ vào 5
nhà. Lúc này, người con dâu không khác gì ăn xin, song dù ít nhiều không quan
50
trọng, điều quan trọng hơn cả là sự đùm bọc thương yêu nhau của xóm giềng đối
với người già.
Cùng lúc đó, người con trai trưởng trong gia đình là chồng cô đi vào rừng
tìm cây si mọc ở nơi cao ráo đem về. Trong nghi lễ này không thể thiếu cành si
bởi trong đời sống tâm linh của đồng bào Mường hình tượng cây si được tôn vinh
như một vị thần có sức sống kỳ diệu. Và theo quan niệm của đồng bào, cây si
truyền sức sống mạnh mẽ kỳ diệu cho những người cao tuổi để họ luôn có sức
khoẻ không gặp ốm đau bệnh tật sống lâu trăm tuổi.
Đối với người Mường, bữa ăn thường ngày rất đơn giản, đạm bạc, nhưng
bất kỳ ngày lễ, Tết hay nhà có công có việc, mâm cỗ được chuẩn bị khá tỉ mỉ. Khi
những tia nắng cuối ngày khuất dần sau núi cũng là lúc gia đình tổ chức lễ Mụ
Thố. Ngay trong lễ mụ Thố, điều nhận thấy đó là công việc bếp núc cỗ bàn hầu hết
do người đàn ông đảm nhận. Đây cũng là thói quen lâu đời của người Mường.
Còn người phụ nữ chỉ đảm nhận tiệc chay trong buổi lễ. Đồ xôi, gói bánh, từ hái
rau hay ở vóng trong phụ giúp.
Nhận được lời mời họ hàng thân thích, anh em hàng xóm mang theo một
gói cơm hoặc một bát gạo, một chai rượu đến với ý nghĩa để góp lễ mời vía người
ốm ăn gọi là làm “cấp”.
Cỗ cúng trong ngày lễ mụ Thố thường được sắp đặt 5 mâm. Trên các mâm
cúng đều có xôi, rượu, vải, tiền đặt lễ, đồ chay. Thế nhưng trong 5 mâm thờ đó,
mỗi mâm thời vị thần khác nhau. Mâm đầu tiên có một cái vai lợn đùi trước, một
lá thịt đầu thăm, đĩa muối và bát nước canh. Mâm này dâng lên tổ tiên ông mo.
Mâm thứ 2 thờ ông hộ gốc kéo si, bà hộ lộc kéo sang. Hai vị này ngự ở cửa liền
đến Nam Chu nơi đình chân vua Pán quán vua trời. Mâm thứ 3 thờ ông Kem cầm
sổ trạng, mâm thứ tư thờ vua Pua sang nàng mụ thêm già. Hai vị này ngự tại vòm
si hoa, cành si thơm, bờm si ngọt. Mâm thứ năm thờ hai Pua sang nàng mụ, vị này
51
cũng ngự tại vòm si hoa, cành si thơm, bờm si ngọt. Mâm cỗ đặt thứ tự từ ngoài
vào trong ở vị trí trang trọng nhất trên sàn. Bên cạnh các mâm cúng là 1 cái rá
đựng cành si và các vật dụng làm lễ khác như cuốc, nón, quần áo.
Trong đời sống tinh thần của đồng bào Mường, thầy Mo có vai trò hết sức
quan trọng. Ông là nhân vật có quyền năng thông quan với thế giới thần linh. Vì
thế một trong những người không thể thiếu trong lễ mụ Thố là ông Mo. Khi các
mâm cỗ đã sắp đặt đầy đủ, thay mặt cho gia đình, thầy mo khăn áo chỉnh tề thắp
hương rồi khấn. Phải năm trời không thuận, đất không lành, người già ốm lắm đau
nhiều, hôm nay họ hàng con cháu có lòng đức, lòng đạo, lòng thảo, lòng nhân,
soạn lên mâm vía lễ mụ thố, cầu mong giữ vía cho người già mạnh khoẻ trở lại,
sống xa già lâu cùng con cháu họ hàng”. Sau khi trình bày lý do xong, ông mo tiếp
tục khấn để mời mụ thố về. Dân gian tương truyền, nhà mụ trú ở gốc cây si trên
trời cao nên thầy mo phải lên trời đi tìm mụ về. Dâng đủ 10 “thông” cơm chay, 10
“thông” cơm rượu. Con cháu ngồi dưới vái lạy mời các thần và mụ thố. Sau đó,
thầy Mo gieo quẻ âm dương. Khi công việc thuận lợi, bà mụ xuống chứng giám,
ông Mo thay mặt bà mụ đội nón tay cầm mảnh vải viết lên sổ trạng xin được thêm
số, thêm phận cho người già đang đau ốm.
Viết sổ trạng xong, người nhà một sợi dây được buộc vào cành si để tiến
hành nghi lễ kéo si, đây là nghi lễ quan trọng nhất trong buổi lễ này. Trước khi
kéo, ông Mo tiếp tục khấn. Con cháu ở đâu hãy lại đây! Cầm dây kéo cây si dậy.
Cho hồn người mạnh mẽ trở lại, để người sống lâu nghìn năm trăm tuổi. Buổi nào
cây si đổ, người mới đổ. Chỗ nào cây si héo người mới héo. Con cháu hỡi, con
cháu hà, ta cùng kéo cây si dậy! Để cây si mãi chắc gốc bân cành. Để người sống
lâu ngàn năm. Để người sống lâu trăm tuổi. Dậy dậy si hỡi! Dậy dậy si hà. Lúc
này con cháu cùng xúm vào cùng kéo, mỗi nhịp kéo mọi người lại đồng thanh
“hò....hơ” cho đến khi cây si dựng vưng chắc mới thội.
52
Cây si được dựng lên vững chắc, ai nấy trong gia đình cảm thấy trong lòng
thư thái. Người già trong nhà thì cảm thấy yên lòng, yên dạ, tinh thần sảng khoái
như được tăng hêm sinh lực. Làm lễ xong ông Mo tuyên bố kéo si đã lành, xanh lá
gốc, lá ngọn con cháu hãy cùng mời ông bà uống rượu, ăn uống no say. Con cháu
bê mâm cơm vía đến cho người già ăn gọi là ăn lấy vía.
Trong không khí hân hoan của bà con và gia đình làm lễ, ông Mo cho phép
mọi người ăn cơm, uống rượu cần để hưởng phúc, hưởng lộc của thần linh.
Không ồn ào, náo nhiệt như những lễ hội khác, lễ vía mụ Thố gần gũi với đời sống
tâm linh của người Mường. Ngày nay, nghi lễ này vẫn được tổ chức ở khắp các
bản mường khi gia đình nào có người già yếu.
4.2. Tập quán hôn nhân của dân tộc Mường
Hôn nhân truyền thống của người Mường cũng tương tự như người Kinh là
theo chế độ một vợ một chồng, cũng gồm các bước chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và
đón dâu. Trong quá trình đính hôn, ăn hỏi, cưới gả theo phong tục người Mường,
ông mối có vai trò quan trọng, là sứ giả cuộc hôn nhân của đôi trai gái.
Không gian kết hôn của người Mường truyền thống thường giới hạn ở phạm
vi trong cùng một bản Mường hoặc một số bản láng giềng.
Tục cưới xin của người Mường gồm các bước:
a. Lễ ướm hỏi(kháo thiếng)
Lễ ướm hỏi (dạm ngõ) là thủ tục đầu tiên của một đám cưới người Mường.
Khi đôi trai gái đã tâm đầu ý hợp, nhà trai nhờ ông mối sang nhà gái xin ý kiến.
Lần này, ông mối đi tay không đến đặt vấn đề, nhà gái chưa trả lời ngay. Thời
gian ngắn sau, ông mối lại sang giục, nhà gái bằng lòng thì trả lời cho ông mối
biết để nhà trai chuẩn bị hôn lễ, ngay sau đó, ông mối lại đến, mang 02 chai rượu
và một đấu chè sang nhà gái làm tin. Ngay hôm đó, nhà gái tổ chức một cuộc vui
53
nhỏ, nhờ ông mối xem lịch thẻ tre (lịch Sao Đoi - loại lịch truyền thống của người
Mường) để chọn ngày giờ (giờ tốt) làm lễ bỏ trầu.
Người Mường chọn ngày cưới kiêng tháng 7, tháng 3 và những ngày cuối
tháng. Tháng 7 là tháng mưa ngâu, tháng 3 là tháng rắc hạt và những ngày cuối
tháng là ngày cùng tháng tận đều không tốt cho nghi lễ trọng đại nhất của đời
người.
b. Lễ bỏ trầu(Ti nòm bánh)
Đến ngày hẹn, ông mối dẫn đầu họ nhà trai (không có chú rể) đến nhà gái
mang theo cơi trầu ăn hỏi. Theo tục lệ Mường, nhà gái được quyền thách cưới. Lễ
vật gồm một con lợn nặng 20kg, 02 gánh gạo, 120 chiếc bánh chưng, 5 chai rượu,
1 buồng cau, 100 lá trầu. Sau lễ bỏ trầu, nhà trai chuẩn bị ngày cưới chính thức.
Tục thách cưới còn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng gia đình. Ngày trước,
bản Mường đã từng chứng kiến những yêu cầu rất lớn của nhà có con gái đẹp đối
với nhà trai và thách cưới thường là vòng bạc, trâu bò, ruộng nương, vải.
Nhà gái làm cỗ đón nhà trai, sau khi ăn uống xong, nhà trai đặt vấn đề cưới
xin, dự định thời gian cưới chính thức.
c. Lễ đón rể
Đến ngày cưới, đoàn nhà trai do ông mối dẫn đầu mang theo một tạ gạo, 02
con lợn, 10 lít rượu, 100 lá trầu, một buồng cau, vài cây mía. Chú rể gùi một gùi
xôi, trên đặt 02 con gà thiến luộc, 02 phù rể đi hai bên, mỗi người gùi một nồi xôi.
Sau khi ông mối trao lễ cho nhà gái và nhà gái nhận lễ, chú rể trình diện trước bàn
thờ và họ tộc. Đại diện nhà gái khấn rượu để cô dâu và chú rể và hai họ uống
chung vò rượu cần. Hết tuần rượu, nhà gái khấn thần rượu, thần đất rồi mọi người
ăn cơm. Ăn xong, khách khứa ra về còn chú rể ở lại nhà gái. Sáng hôm sau, chú rể
mới về nhà.
54
Hôn lễ truyền thống của người Mường quy định một vài năm sau mới được
đón dâu. Với mục đích cô dâu làm quen dần với công việc bên nhà chồng; mỗi khi
đến tết nhất, chàng rể phải đến lễ bố mẹ vợ. Do vậy, trước khi cưới, dâu và rể đi đi
về về cả hai nhà.
d. Lễ đón dâu
Nhà trai và nhà gái đều chuẩn bị rất chu đáo cho đám cưới. Người nào trong
bản cũng được mời, tùy vào mỗi gia đình mà quy mô đám cưới khác nhau, nhà
khá làm đám cưới to, nhà bình thường thì làm vừa phải. Trong đám cưới còn có
nhạc cụ, và bản thân những người chơi nhạc ngày hôm qua vẫn còn là nông dân và
hôm nay họ bỗng trở thành nghệ sỹ. Tiếng nhạc làm cho cả bản Mường mang
không khí lễ hội. Xôi nếp nương và thịt lợn là món không thể thiếu trong ngày
cưới. Công việc nặng nhọc này thường được người đàn ông đảm nhiệm. Khi cỗ
làm xong, các món ăn cùng với rượu đều được bày lên bàn thờ để cúng. Theo
phong tục của người Mường, phần cúng mường trời, mường bản, cúng tổ tiên rất
quan trọng. Chính vì vậy, nhà trai, nhà gái đều phải sắp thành hai lễ, một lễ cúng
ông bà tổ tiên, một lễ cúng mường trời. Lễ cúng ông bà tổ tiên được đặt lên bàn
thờ, lễ cúng mường trời được đặt cạnh cửa sổ. Thầy mo làm lễ khấn mường trời
trước, khấn ông bà tổ tiên sau. Ở lời khấn mường trời, thầy mo cầu cho mưa thuận
gió hòa, trời đất an lành, vạn vật sinh sôi để cho đôi nam nữ “sau này có cái ăn cái
mặc”, con cháu đầy đàn và cầu mường trời cho họ khỏi những tại họa. Ở lễ khấn
ông bà tổ tiên, ông thầy mo cầu cho sức khoẻ, tình yêu, tài lộc cho đôi nam nữ và
quan trọng nhất là cầu ông bà tổ tiên phù hộ cho sự thuận hòa của một gia đình
mới. Cầu cho người vợ giữ được nết na, cầu cho người chồng giữ được gia phong.
Mặc dù theo chế độ phụ hệ, nhưng cô dâu mới phải sắm sửa chăn gối cho
gia đình mới và để tặng cho bố mẹ, họ hàng nhà chồng. Chiếu trắng dùng cho đôi
vợ chồng trẻ, chiếu đỏ dùng để biếu bố mẹ chồng, ngoài ra, cô dâu còn biếu bố mẹ
55
chồng hai bộ chăn gối, hai gối tựa để khi bố mẹ già yếu thì tựa vào gối để nghỉ
ngơi. Vợ chồng mới chỉ được dùng chiếu trắng, một đôi chăn gối và chưa được
dùng đệm. Cùng với các quà tặng trên, cô dâu phải chuẩn bị nhiều chiếc gối để
tặng cho họ hàng nhà chồng. Những lễ vật này được bạn của cô dâu mang về nhà
chồng cùng với lúc đón dâu.
“Cô dâu Mường phải chuẩn bị nhiều quà tặng như vậy để bày tỏ sự hiếu thảo với bố mẹ chồng và sự thân tình, chu đáo với anh em, họ hàng nhà chồng”. (Nữ, 70 tuổi, xã Nhân Nghĩa )
Ông Bùi Văn Tâm (65 tuổi, xã Tân Lập) cho biết: “Cồng chiêng được dùng trong đám cưới là để động viên tinh thần cô dâu về nhà chồng, không những thế, nó còn là âm vang rộn rã cả bản, cả núi rừng như để chứng kiến ngày lễ trọng đại này của đôi trai gái”. (Nam, 65 tuổi, xã Tân Lập)
Đến ngày đã định, nhà trai đem tiền, vải sang nhà gái, nhà gái cử một đoàn vài chục người đi đưa dâu, cô dâu mặc váy, áo đẹp, đầu đội nón. Dẫn đầu đoàn đưa dâu là ông mối và 02 cô gái trẻ của nhà trai cử sang đón dâu cùng với dàn cồng chiêng.
Sau khi đón dâu xong, cô dâu trình diện trước bàn thờ nhà chồng. Nhà trai
tổ chức tiệc tùng và múa hát suốt đêm. Sau khi đón dâu xong, cô dâu về nhà bố
mẹ đẻ ở lại ba hôm sau, khi hết ba ngày, nhà trai mới sang đón. Đón dâu lúc này
phải đón vào lúc nhá nhem tối và phù dâu phải đi cùng, sau khi về nhà chồng, phù
dâu còn phải ở lại ba ngày ở nhà chồng cùng với cô dâu. Điều này được giải thích
là để động viên tinh thần cô dâu cho đỡ buồn và một ý nghĩa khác là để thử người
con trai xem có kiên trì nhẫn nại để chờ cô dâu không. Như vậy sau sáu ngày, kể
từ ngày cưới, chú rể và cô dâu mới được sống một cuộc sống vợ chồng.
4.3. Tập quán ma chay của người Mường
Thường kéo dài tới 12 ngày đêm.
56
- Giai đoạn 1: Khi có người sắp chết, người nhà gióng 3 hồi chiêng, mỗi hồi
3 tiếng (chơm chiêng) để báo cho họ hàng biết trước mà nhìn mặt người sắp qua
đời lần cuối cùng. Khi người đó chết hẳn thì chiêng trống gõ liên hồi. Người chết
được tắm rửa bằng nước lá bưởi và đặt nằm ở gian giữa, trên chiếu và 4 tấm vải
trắng. Người ta đắp cho người chết bằng một chiếc chăn bông và hàng chục chiếc
chăn đơn, trải hai tấm lụa tơ nằm ở hai bên. Một người cao tuổi trong họ cầm một
hòn than vạch lên sàn và đọc lời bàn giao số vải vóc và quần áo cho người chết
đem theo. Trong khi người nhà mắc màn ở xung quanh chỗ người chết nằm, thì bà
con họ hàng, làng xóm đến đầy nhà. Những người thân đều mặc quần áo tang
(màu trắng). Người con trai cả tới cửa sổ (cửa voóng - nơi thờ cúng tổ tiên, rút dao
chặt 3 nhát lên thành cửa như để nhắc rằng từ nay anh ta là người đảm nhiệm việc
thờ cúng tổ tiên.
Sau đó, chiêng trống nổi lên và thân nhân bắt đầu khóc. Người nhà mời thầy
mo đến chuẩn bị cho tối mo Tần tịch – tang lễ chính thức bắt đầu. Một thầy mo
chính và hai thầy mo phụ làm lễ khẳng định cái chết là một việc đã được số phận
sắp đặt, tránh cho người chết sự luyến tiếc băn khoăn khi phải từ bỏ thế giới người
sống.
Tiếp theo là làm lễ Tống trùng, thầy mo dùng pháp thuật xua đuổi những
ma xấu đang lẩn khuất bên người chết. Lễ nghi này không được đánh chiêng. Tiếp
theo là lễ Tấng dây: Cắt sợi dây vải nối chân người chết với một chiếc cọc cắm
giữa nhà (mang ý nghĩa cắt đứt sự dây dưa, truyền nhiễm bệnh tật sang con cháu).
Buổi chiều làm lễ nhập quan (Pao khăng) cho người chết.
Một con gà luộc được bày lên bàn thờ để người chết ăn. Quan tài được làm
bằng các loại cây gỗ tốt: Cây được chặt từ trong rừng, cắt dài khoảng 1.9m, xẻ làm
đôi, khoét rỗng ở giữa rồi mới đưa về nhà. Quan tài để dọc nhà, quần áo (phải là
số lẻ) bỏ vào đó để chôn theo người chết.
57
Lễ nhập quan bắt đầu vào buổi tối. Người ta mổ một con lợn nhỏ, luộc rồi
thái nhỏ, bày lên lá chuối để lên bàn thờ. Chiêng và trống đánh bài “túc nược” mời
người chết ăn.
Sau đó, thầy mo ca thiên trường ca “đẻ đất đẻ nước” (tẻ tất tẻ rác). Thông
qua trường ca, mọi người ôn lại cho người chết quá trình hình thành đất nước và
con người để thêm lòng tin vào sự trường tồn của đất nước, mà vượt qua tổn thất
lớn lao này.
Đêm thứ ba – mo nghìn họ. Tiếng trống dẫn linh hồn người chết ra nghĩa
địa, và thầy mo đưa người chết đi tìm họ hàng trong thế giới những người chết.
Ngày thứ tư – đưa người chết ra mộ địa. Đi đầu đám tang là dàn nhạc đánh
những bản nhạc chia tay với người chết. Buổi tối, thầy mo tiếp tục mo những bài
thay mặt người chết dặn dò và lìa bỏ cọn cháu.
- Giai đoạn 2:
Đêm đầu, thầy mo đưa người chết đi gặp Lang Cun Chạo Hẹ (viên quan lo
việc sổ sách để người chết lên trời đi kiện).
Đêm thứ hai, người chết tiếp tục đi đến nhà Thiêng Mư, mượn áo xem cách
dệt vải của người Mường và lên nhà ông nội Keo Heng mượn một số tiền để đi
tiếp.
Đêm thứ ba - mo đi kiện
Đêm thứ tư - mo lên trời bán bông lấy tiền trả nợ Keo Heng. Kiện xong. mo
xin được xóa tội và xin nhập vào sổ ma, xin cấp phương tiện để đi lại lên trời.
Đêm thứ năm, mo xuống sông Ty (con sông ngăn cách thế giới người sống -
người chết) sắm sửa đồ đạc.
Đêm thứ 6 - lễ tế nhà táng (cao 12 tầng) và nhà xe (cao 3 tầng) ở ngoài
đồng: những người tế xếp hàng theo thứ tự: trước tiên là mo, rồi đến ông bà ngoại,
3-4 người đàn bà, các cháu nội ngoại. Con trai đội mũ tloọc, chống gậy, con gái
đội mũ nón.
58
Dàn nhạc gồm chiêng trống đánh gióng ba, kèm những bản nhạc tang lễ -
tất cả đi quanh nhà xe 7 vòng.
Ngày thứ 7 (tảng sáng): Gọi hồn về, nỗi lưu luyến của người chết với vườn
tược, nhà cửa, đồng thời chọn đất cắm nhà cho ma. Buổi chiều làm lễ cúng cơm,
bữa cơm cuối cùng của người chết tại gia đình trước khi về mường của những
người đã chết.
Ba hôm sau, người ta còn làm lễ dẫn đường cho hồn về, chỉ cho hồn biết nơi
thờ cúng và biết lối về. Con cháu ra nghĩa địa xây mộ, chôn vò đựng rượu ở đầu
mộ. Đến đây tang lễ kết thúc.
Trong thời gian 100 ngày, thân nhân người chết không được tham dự các
cuộc vui chơi, nếu buộc phải có mặt thì luôn phải cúi nhìn xuống đất, không được
nhìn lên.
Trước kia, những gia đình nghèo khó chưa đủ để tiến hành ma chay hoặc
nhà giàu có muốn phô chương thế lực, thường làm “ma khô” bỏ người chết vào
quan tài và để ở một nơi thoáng gió trong nhà. Cho đến bao giờ, gia đình thấy có
thể tổ chức lễ tang được thì khi đó mới tiến hành nghi thức tang lễ và đem chôn.
Ma khô có thể vài tháng đến 1 năm.
Điểm đáng chú ý trong tục ma chay của người Mường là tục làm hòn mồ.
Đó là ranh giới phân biệt mường ma với mường người. Số lượng hòn mồ nhiều
hay ít thường phụ thuộc vào thân phận người quá cố: Lang Cun 9 hòn mồ, Lang
Tạo (Đạo) 7 hòn mồ còn người dân thường 5 hòn. Hòn mồ bên trái là số lẻ, bên
phải là số chẵn. Ngoài ra số lượng hòn mồ còn phụ thuộc vào đêm mo, mo càng
nhiều đêm, hòn mồ càng được cắm nhiều.
Sau khi chôn người chết, họ thường dâng cáng, thức ăn từ 6-9 tháng.
Có thể nói, đám tang của người Mường mang những ý nghĩa xã hội sâu sắc,
thể hiện sự gắn kết cộng đồng, gia đình, dòng họ cũng như thể hiện quan niệm tâm
linh về mối quan hệ giữa thế giới người sống với thế giới người chết.
59
III. Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay
1. Tập quán và công cụ sản xuất
1.1. Tập quán sản xuất:
Hiện nay, hình thức canh tác chủ đạo của đồng bào Mường ở Lạc Sơn là
nông nghiệp và nông lâm kết hợp, mà cụ thể là trồng lúa kết hợp với chăn nuôi,
trồng rừng.
Hoạt động kinh tế đã có nhiều biến chuyển. Tuy nhiên, nông nghiệp hiện
nay vẫn là ngành kinh tế giữ vai trò chủ đạo, chiếm tới 88% (trong đó số hộ thuần
nông là 64,5% và số hộ nông lâm kết hợp chiếm 23,5%. Hoạt động sản xuất kinh
doanh đã có hướng chuyển dịch theo hình thức buôn bán, dịch vụ nhưng vẫn chỉ
chiếm 7% số hộ. Xóm Nghĩa (thuộc vùng thị trấn - nhóm 1) và xã Nhân Nghĩa có
tỷ lệ hộ hoạt động buôn bán, dịch vụ cao hơn xã Tân Lập. Xóm Nghĩa 6.8% và xã
Nhân Nghĩa (7,1%). Điều này được giải thích bằng nguyên nhân xóm Nghĩa và
Xã Nhân Nghĩa nằm trên trục đường tỉnh lộ, thuận lợi cho các hoạt động thông
thương, giao lưu buôn bán hàng hóa.
Bảng 1: Mô hình sản xuất kinh doanh
Tên xã
Tổng số
Xóm Nghĩa
Tân Lập
Nhân Nghĩa
Lĩnh vực
Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ
%
%
%
%
Nông nghiệp
62,7
37
56.5
48
44
78.6
129
64.5
Nông - lâm kết hợp
22.0
13
30.6
26
8
14.3
47
23.5
Buôn bán, dịch vụ
6.8
4
2.4
2
4
7.1
10
5.0
Hình thức khác
8.5
5
10.6
9
0
0.0
14
7.0
Tổng cộng
59 100.0
85 100.0
56 100.0
200 100.0
Tuy vẫn còn đậm nét lối canh tác truyền thống, nhưng do tác động của
chính sách phát triển kinh tế, của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới, trong canh tác
sản xuất đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều loại giống mới, giống lai tạo được
60
đưa vào trồng trọt, chăn nuôi cho năng suất cao; các kỹ thuật canh tác và các công
cụ sản xuất hiện được phổ biến ngày càng rộng giúp làm tăng thời vụ, tăng năng
xuất cây trồng, vật nuôi.
Trồng lúa nước vẫn là hoạt động kinh tế chính của người Mường, chiếm
30% cơ cấu thu nhập. Lúa nếp ngày nay vẫn được trồng nhiều, nhưng phổ biến
hơn là các loại lúa lai giống mới cho năng suất cao như Q5, tạp giao, … Bên cạnh
trồng lúa, người Mường hiện nay trồng nhiều các loại cây hoa màu khác như ngô
lai, lạc, đỗ tương,…, trồng xen canh, chiếm 7,7% cơ cấu thu nhập. Trồng lúa
nương hiện nay không còn xuất hiện tại địa bàn nghiên cứu nữa, do hoạt động
kinh tế này mang lại năng suất rất thấp mà người ta có thể thay thế vào đó bằng
các hoạt động trồng trọt khác cho năng suất cao hơn, áp dụng các phương tiện kỹ
thuật tiên tiến.
Chăn nuôi cũng là một trong những hoạt động kinh tế chính. Chiếm 21% cơ
cấu thu nhập. Vật nuôi gồm các gia súc lớn như trâu, bò (chủ yếu nuôi để lấy sức
kéo), lợn, gà, ngan, vịt,…Hoạt động chăn nuôi có tính chất nhỏ lẻ, phân tán,
không có mô hình trang trại.
Tuy nhiên, hoạt động kinh tế chăn nuôi của đồng bào Mường ngày nay đã
chuyển dần từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Nhiều sản phẩm đã được
mang ra chợ bán hoặc tư thương đến tận nhà mua. Bên cạnh các loại giống cũ,
nhiều loại giống mới cho năng suất cao như bò lai, lợn lai, gà giống mới,...đã được
đưa vào chăn nuôi.
Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp chiếm khoảng 58,7% cơ cấu thu nhập
hiện nay của người Mường. Thu nhập từ buôn bán, dịch vụ cũng chỉ chiếm 7,7%
và từ lương chiếm khoảng 11%, còn lại là các thu nhập khác.
Một số nghề truyền thống như dệt vải, đan lát vẫn còn được duy trì (chủ yếu
ở xã Tân Lập), nhưng đã không phổ biến nữa, chỉ còn rất ít, chiếm 4% cơ cấu
ngành nghề. Điều này được giải thích bởi sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
61
Các mặt hàng như vải vóc rất phong phú, bền đẹp, giá cả phù hợp, tiện dụng và cả
các vật dụng trước kia làm bằng mây tre đan nay được thay thế bằng các sản phầm
bằng nhựa vừa rẻ, vừa bền mua ngoài thị trường.
Hoạt động săn bắt hái lượm hầu như rất hiếm hoi và khai thác các nguồn lợi
từ thiên nhiên cũng giảm dần, do nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm, đồng
thời sự tiến bộ về kỹ thuật sản xuất đã giúp giảm dần sự phụ thuộc vào thiên
nhiên.
Kinh tế vườn - rừng tiếp tục được duy trì. Song ngày nay, những cây trồng
trong vườn dần được đồng bào lưu ý đến giá trị kinh tế. Họ trồng các giống cây
cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt, nhãn, chuối
để bán ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường ngày càng chú ý cải tạo mảnh
vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường còn tận dụng cả những vạt
đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng các loại rau, củ, quả
như khoai, cà, bí, cải để cải thiện bữa cơm vốn đơn giản của mình. Nhưng có thể
nói, cũng giống như trước kia, người Mường vẫn chưa chú ý đến hoạt động kinh
tế do vườn mang lại. Vườn chủ yếu vẫn là vườn tạp, ít có giá trị kinh tế.
Do điều kiện thời tiết như cũ, về cơ bản lịch thời vụ không thay đổi nhiều
tuy có tác động khá tích cực của các công trình thuỷ lợi, tưới tiêu nhỏ. Hình thức
canh tác nương rẫy, trọc lỗ tra hạt - loại hình canh tác không đem lại năng suất cao
và tốn nhiều công sức đến nay hầu như không còn nữa. Thay thế một phần vào
diện tích canh tác này là việc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày, các loại
cây ăn quả được chú trọng phát triển, tuy hiệu quả còn thấp.
* Thay đổi về mức sống
Phần đa số người được hỏi nói rằng mức sống của họ có tăng lên nhiều so
với trước kia. Trong tổng số 200 người được hỏi, có 141 người (chiếm 70.5%) cho
rằng mức sống “tăng lên nhiều” so với trước năm 1995; 54 người (chiếm 27%)
nói rằng mức sống của họ chỉ “tăng ít”, chỉ có 2% trả lời mức sống vẫn “như cũ”.
62
Tổng thu nhập bình quân ước tính năm 2007 là 31.981.000 đồng, trong đó khoảng
trên 70% số hộ thu nhập từ 20 đến 30 triệu đồng. Như vậy, nhìn chung có thể
khẳng định rằng đời sống kinh tế của người dân đã có rất nhiều thay đổi so với
trước năm 1995.
1.2. Công cụ sản xuất
Hiện nay, hầu hết đồng bào Mường vẫn sử dụng các công cụ thô sơ trong
sản xuất nông nghiệp. Nhìn vào Bảng 2, ta thấy rằng tỷ lệ sử dụng các công cụ thô
sơ như cày, cuốc, xẻng, liềm, hái chiếm một tỷ lệ rất cao. Số hộ sử dụng cày
chiếm 79%, cuốc chiếm 95.5%, xẻng chiếm 98.5%, liềm/hái/dao chiếm 97%.
Đồng thời, đồng bào sử dụng nhiều máy móc hiện đại trong sản xuất nông
nghiệp. Tỷ lệ sử dụng các công cụ máy móc (chạy bằng động cơ) là khá cao, sử
dụng máy cày/bừa chiếm tới 83%, máy xay xát lúa gạo chiếm 99%, máy tuốt lúa
chiếm 99%. Không có sự khác biệt nhiều giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ sử
dụng các công cụ hiện đại trong sản xuất.
Bảng 2: Việc sử dụng các công cụ thô sơ
Dụng cụ thô sơ
Tỷ lệ %
Số hộ sử dụng
Tỷ lệ %
Số hộ sử dụng
Máy móc (Chạy bằng động cơ)
79.0
Máy cày/bừa
146
83.0
Cày
158
Cuốc
191
95.5
Máy gặt
7
4.0
Xẻng
197
98.5 Máy xay sát lúa
174
99.0
gạo
Liềm/hái/dao
194
97.0
Máy bơm nước
71
40.0
44
22.0
Máy tuốt lúa
174
99.0
Máy tuốt lúa (không chạy bằng động cơ)
12
6.0
Máy phát điện
14
8.0
Máy tẽ ngô không chạy bằng động cơ
17
8.5
Máy móc khác
5
2.8
Các công cụ thô sơ khác
63
Có thể nói, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và sử dụng các công cụ
máy móc trong lao động cũng như đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản
xuất đã góp phần tạo ra sự thay đổi nhất định trong tập quán và sử dụng công cụ
sản xuất của người Mường. Thay đổi này không những làm tăng năng suất, cải
thiện đáng kể thu nhập người dân mà còn góp phần nâng cao mức sống, giúp cho
việc giải phóng sức lao động thủ công ở miền núi sớm trở thành hiện thực.
2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng
2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở hiện nay
* Đặc điểm cư trú:
Người Mường ngày nay có xu hướng sống ở những vùng thấp hơn, gần
đường giao thông, thuận lợi cho việc đi lại. Họ không sống ở trên những triền đồi
gần con sông, khe suối như trước kia nữa. Họ cũng không còn tụ cư thành từng
bản mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và tự nhiên để làm nhà. Giữa các bản này
và bản khác, giữa thôn này và thôn khác không còn phân biệt rạch ròi như trước
kia.
* Đặc điểm nhà ở:
Những ngôi nhà sàn truyền thống hiện nay vẫn còn rất phổ biến đối với
đồng bào Mường, nhưng có sự khác biệt về tỷ lệ các loại nhà ở giữa các vùng
được nghiên cứu. Vùng thị trấn, tỷ lệ ở nhà xây (nhà kiên cố hóa) cao hơn.
Nhìn vào Bảng 3, ta thấy rõ ở Vùng Thị trấn, tỷ lệ ở nhà sàn gỗ chiếm 22%,
nhà cấp 4 chiếm 55.9%, trong khi đó ở Vùng Mường Vang, nhà sàn vẫn còn rất
phổ biến, số hộ ở nhà sàn gỗ là 70.9%, nhà sàn xây kết hợp gỗ là 5%. Sự khác biệt
này có thể được giải thích bằng nhiều nguyên nhân, nhưng tựu chung lại, có thể
được giải thích bằng nguyên nhân cơ bản sau:
64
Ở Vùng Thị trấn – trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện nên sự phát
triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ hơn. Đồng bào có điều kiện để so sánh ngôi nhà
của mình với các kiểu loại nhà khác và họ nhận thấy sự tiện dụng khi ở nhà xây so
với nhà sàn, cho nên đã lựa chọn kiểu nhà xây như là sự thích ứng tự nhiên.
Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế - xã hội tạo sự tăng cường giao lưu
về mọi mặt giữa các dân tộc đưa đến sự thay đổi về nhận thức dẫn tới sự lựa chọn
mô hình nhà ở phù hợp với điều kiện sống của đồng bào hơn và phù hợp với các
loại nguyên vật liệu có thể dựng nhà trọng điều kiện sống hiện nay của họ.
Ở mỗi điểm nghiên cứu, mức độ thay đổi mô hình nhà ở là không giống
nhau. Điều đó có thể cho ta nhận xét ban đầu, nơi nào không còn bóng dáng căn
nhà truyền thống nữa thì ở đó sự tác động của sự phát triển nền kinh tế - xã hội
diễn ra mạnh mẽ hơn.
Bảng 3 : Tỷ lệ các loại nhà ở tại Vùng Thị trấn và Vùng Mường Vang
Vùng Thị trấn
Vùng Mƣờng Vang
Tổng số
(Xóm Nghĩa)
Loại nhà
Số hộ
Tỷ lệ %
Số hộ
Tỷ lệ %
Số hộ
Tỷ lệ %
Nhà tạm
8
13.6
4.3
14
7.0
6
13
22.0
70.9
113
56.5
100
0
0.0
5.0
7
3.5
7
Nhà sàn gỗ Nhà sàn xây kết hợp gỗ Nhà cấp 4
33
55.9
9.9
47
23.5
14
4
6.8
7.1
14
7.0
10
1
1.7
2.8
5
2.5
4
Nhà mái bằng một tầng Nhà 2 tầng trở lên Tổng số
59
200
100.0
100.0
100.0
141
65
Những ngôi nhà càng làm về sau này càng có xu hướng cải tiến theo hướng
hiện đại và kiên cố hóa. Các cột nhà thay cột gỗ bằng cột bê tông, sàn nhà một số
gia đình cũng đổ bê tông.
Nếu như trước đây, chuồng trại chăn nuôi chủ yếu được bố trí dưới gầm nhà
sàn thì ngày ngay chuồng trại đã được đồng bào tách riêng, chỉ còn 4.5% số hộ
nuôi nhốt gia súc dưới gầm nhà sàn, 93% số hộ có chuồng nuôi nhốt gia súc riêng
nhưng ở gần nhà.
Tuy nhiên, về kiến trúc ngôi nhà, cơ bản vẫn không thay đổi. Những ý
nghĩa thiêng liêng về mặt tâm linh vẫn còn được duy trì. Ví dụ như “cửa voóng”
là loại cửa sổ mà đồng bào coi là rất linh thiêng, chỉ người già được ngồi ở gần đó,
còn trẻ em và phụ nữ không được phép ngồi.
Biều đồ 2: Tỷ lệ sử dụng các loại nhà ở phân theo Vùng(%)
60% số người được hỏi hiện đang ở nhà sàn. Có một điều thú vị là có tới
82.5% số người được hỏi thích làm nhà theo kiểu nhà sàn truyền thống và hiện
66
đại, trong đó 58% thích làm nhà sàn hiện đại. Và họ cho rằng ở nhà sàn thuận lợi
hơn nhà xây (70%).
“Nhà sàn mát mẻ hơn, cao ráo, sạch sẽ hơn, khi có khách thì rộng rãi
có thể ngủ chơi thoải mái mà không lo gì thiếu chỗ nằm”.
(Nam, 30 tuổi, xã Tân Lập)
Chỉ có 17.5% mong muốn làm nhà kiên cố. Đồng thời, không có sự khác
biệt về mong muốn làm nhà theo ý thích giữa người già, thanh niên và trung niên,
chứng tỏ thanh niên dân tộc Mường vẫn có xu hướng làm nhà theo truyền thống.
2.2. Tiện nghi và đồ dùng sinh hoạt hiện nay
Qua số liệu nghiên cứu cho thấy, tập quán sinh hoạt của đồng bào Mường
ngày nay đã thay đổi cơ bản về chất. Nếu như trước đổi mới, đồng bào vốn chỉ sử
dụng hàng thủ công là chính thì nay hàng hoá sản xuất công nghiệp đã tràn ngập
đến từng ngôi nhà. Cùng với việc sử dụng các tiện nghi sinh hoạt trước kia vẫn
dùng, việc sử dụng tiện nghi sinh hoạt mới hiện nay chiếm một tỷ lệ khá cao và
ngày càng tăng, cụ thể như quạt điện, ti vi màu, xe máy. Đặc biệt là các phương
tiện thông tin liên lạc (như điện thoại di động, điện thoại cố định), nếu như trước
đổi mới là rất hiếm hoi thì ngày nay đã khá thông dụng và có xu hướng gia tăng.
Số hộ sử dụng xe máy chiếm tới 80.5%, xe đạp 93%, quạt điện 94.5%, ti vi
màu 89%, đầu CD/DVD chiếm 51.5%, nồi cơm điện 70%. Tỷ lệ sử dụng điện
thoại cố định tới 63%, điện thoại di động 37%. Điều đó, chứng tỏ đời sống của
đồng bào Mường đã được cải thiện đáng kể và dẫn tới nhiều thay đổi trong việc sử
dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng này. Hầu hết các tiện nghi sinh hoạt đều được
67
mua từ chợ về chứ không phải tự làm. Bên cạnh các tiện nghi hiện đại, chiếc xe
đạp vẫn là phương tiện đi lại rất thông dụng đối với đồng bào bởi giá cả lợp lý và
sự tiện dụng của nó.
Giống như trước kia, người Mường cũng bán những vật phẩm mà mình sản
xuất được để mua những vật dụng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt. Nhưng hiện
nay, do việc vận dụng các kỹ thuật và giống mới làm tăng năng suất dẫn tới tăng
thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào, nên đồng bào có điều kiện để
sắm những tiện nghi cao cấp hơn, đắt tiền hơn như xe máy, ti vi, quạt điện, đài,
bàn ghế giường tủ, nồi cơm điện và nhiều các tiện nghi hiện đại khác.
Bảng 4: Tỷ lệ sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng ngày (tính theo %)
% Tổng
Loại tiện nghi SH
Vùng Thị trấn
% Tổng
Loại tiện nghi SH
Vùng Thị trấn
Vùng Mƣờng Vang
Vùng Mƣờng Vang
Xe đạp
88.1
95.0
93.0 Điện thoại
35.6
37.6
37.0
di động
Xe máy
81.4
80.1
80.5
1.7
7.8
6.0
Dàn âm thanh
Ô tô
1.7
2.8
2.5 Máy vi tính
3.4
2.8
3.0
Quạt điện
93.2
95.0
94.5 Máy giặt
1.7
1.4
1.5
1.7
1.4
1.5
Bếp ga
15.3
15.6
15.5
Máy điều hòa nhiệt độ
Tủ lạnh
15.3
18.4
17.5 Tủ/giá sách
25.4
24.8
25.0
Ti vi màu
100.0
84.4
89.0 Bình nóng
1.7
0.0
0.5
lạnh
0.0
12.8
9.0
Giường
84.7
39.0
52.5
Ti vi đen trắng
68
67.8
44.7
51.5
Bàn/ghế
76.3
37.6
49.0
Radio- casette/đầu CD
Dàn
18.6
9.9
12.5 Nồi cơm
84.7
63.8
70.0
điện
Karaoke
Điện thoại
72.9
58.9
63.0
Khác
5.1
7.8
7.0
Tuy nhiên, nhìn vào Bảng 3, có thể thấy rằng, tỷ lệ sử dụng các tiện nghi
sinh hoạt “cao cấp” vẫn còn rất thấp hoặc chưa từng sử dụng, chứng tỏ mức sống
của đồng bào vẫn còn ở mức trung bình. Tỷ lệ sử dụng bình nóng lạnh là 0.5%,
bếp ga 15.5%, máy giặt 1.5%, máy vi tính 3%, dàn âm thanh 6%.
Có sự khác biệt nhưng không quá lớn giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ
sử dụng các tiện nghi sinh hoạt, điều đó chứng tỏ không có sự khác biệt nhiều về
mức sống giữa hai vùng. Đồng bào Mường ở Vùng Thị trấn có tỷ lệ sử dụng ti vi,
đầu VCD, điện thoại cố định và giường cao hơn so với đồng bào ở Nhân Nghĩa. Ở
Vùng Thị trấn, 100% số hộ có ti vi màu, đầu VCD 67.8% , điện thoại cố định
72.9%, nồi cơm điện 84.7%. Trong khi đó Vùng Mường Vang, tỷ lệ sử dụng ti vi
là 84.4%, đầu VCD là 44.7%, điện thoại cố định 58.9%, nồi cơm điện 63.8%.
Điều này được giải thích bởi sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội làm thay đổi
thói quen tiêu dùng, sinh hoạt của đồng bào. Đồng thời, mức sống cao hơn là điều
kiện để đồng bào có thể mua sắm các vật dụng tiện ích hơn. Tỷ lệ sử dụng
“giường” của đồng bào Mường Vùng Thị trấn chiếm tới 84.7%, trong khi đó Vùng
Mường Vang chỉ chiếm 39%. Điều đó tỷ lệ thuận với việc lựa chọn mô hình nhà ở
kiên cố của đồng bào Vùng Thị trấn.
69
2.3. Ẩm thực
Ngày nay, ăn cơm nếp đồ vẫn là một nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của
người Mường, không thể thiếu trong các dịp lễ tết và được sử dụng thường xuyên
trong bữa ăn hàng ngày của người Mường.
Thói quen ăn cơm đồ, rau đồ và lợn thui, thịt gà nấu măng chua hạt dổi là
những đồ ăn thức uống không thể thiếu được trong những ngày lễ. Thậm chí,
những đồ ăn như cơm đồ, rau đồ và thịt gà nấu măng chua hạt dổi trở thành những
món ăn hàng ngày của đồng bào.
Người Mường có một thứ bánh gọi là Bánh Uôi - một loại bánh làm từ bột
gạo nếp, thường được làm trong các dịp lễ tết. Đồng bào Mường ở xã Tân Lập và
Nhân Nghĩa thường làm Bánh Uôi trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng 8 thành
công (19/8) và Ngày Quốc khánh 2/9. Trong dịp này, ở đây, thường có nhiều bạn
bè, anh em tụ tập ăn mừng ngày lễ lớn, Bánh Uôi trở thành món ăn không thể
thiếu trong bữa ăn và là một món quà quý mà gia chủ gửi về cho gia đình khách
trước khi chia tay buổi tiệc.
Rượu cần nói riêng, các loại rượu (rượu chuối, rượu gạo, rượu sắn,…) là
thứ đồ uống không thể thiếu trong bất kỳ dịp lễ tết nào từ xưa đến nay của người
Mường. Khi khách đến chơi nhà, anh em bạn bè thân hữu gặp mặt, người Mường
dùng chén rượu để chào nhau, hỏi thăm sức khỏe và gửi gắm những tình cảm thân
mật, thiết tha của mình. Và suốt trong bữa ăn rượu trở thành công cụ hữu ích cho
giao tiếp, giúp mọi người thân thiện, gần gũi nhau hơn. Uống cạn chén rượu là sự
Uống rượu và hát đúm (giống như hát đối của người Kinh), vừa hát vừa hỏi
thăm nhau là một nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Mường vẫn còn được duy trì.
thể hiện lòng thành với nhau, hết lòng với nhau – không say không về.
70
Đã từ lâu, các món ăn được xem là đặc sản thường làm trong dịp Tết cơm mới xưa của người Mường (đĩa quéch, ngách lưỡi, ốc cá) không còn nữa, không ai còn nhớ đến nữa. 100% số người được hỏi đều trả lời không biết món ăn này.
Ngày nay, người Mường có xu hướng đơn giản hóa những món ăn, tránh những món ăn chế biến cầu kỳ và các món ăn trong các dịp lễ tết cũng rất gần gũi, trở thành món ăn hàng ngày của đồng bào.
2.4. Việc mặc trang phục truyền thống
Đa số đồng bào Mường ngày nay vẫn còn mặc trang phục truyền thống,
nhưng chủ yếu vào các dịp lễ hội, ở Vùng Thị trấn chiếm 89.8%, ở Vùng Mường
Vang chiếm 70.2% . Tuy nhiên, việc mặc trang phục truyền thống “hàng ngày”
đã không còn phổ biến nữa, đặc biệt với nam giới. Đồng thời, trang phục của đồng
bào Mường ngày nay đã có sự cách tân, cải biến khác nhiều so với trước, ngay cả
về chất liệu vải. Nếu như trước kia, vải vóc được dệt thủ công thì ngày nay chủ
yếu là vải vóc công nghiệp, mua từ chợ về.
Bảng 5 cho thấy sự khác biệt theo nhóm tuổi về tỷ lệ mặc trang phục truyền
thống.
Bảng 5: Tỷ lệ người mặc trang phục truyền thống ở địa phương phân theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
Tổng số
18-30
31-49
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
số người
số người
50 trở lên số Tỷ lệ % người
Số người
46
23.0%
63
31.5%
43
21.5%
152
76.0%
Mặc trang phục truyền thống
Mặc hàng ngày
17
8.5%
22
11.0%
20
10.0%
59
29.5%
44
22.0%
63
31.5%
42
21.0%
149
74.5%
Mặc vào ngày tết/hội
42
21.0%
57
28.5%
41
20.5%
140
70.0%
Mặc vào ngày lễ (cưới xin,ma chay)
71
Giả thuyết về việc không có mối quan hệ giữa biến tuổi tác và việc mặc
trang phục truyền thống. Kiểm định Khi - Bình phương cho thấy mức ý nghĩa Sig
= 0,000 (<0,05), vì vậy có thể bác bỏ sự độc lập giữa hai biến này và khẳng định
có một mối quan hệ phụ thuộc giữa biến tuổi tác và việc mặc trang phục.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống dân tộc
“Thanh niên bây giờ không còn mặc trang phục dân tộc hàng ngày nữa đâu,
một phần vì bất tiện, một phần vì theo xu thế chung. Chỉ còn những người già trong
làng còn mặc thôi. Mặc trang phục của dân tộc Kinh cũng thuận tiện cho đi lại, lao
động hơn, đi xe cộ tiện hơn và cũng không đắt lắm cũng tiện mua sắm nữa” (Nữ, 60
76% số người được hỏi vẫn còn mặc trang phục truyền thống. Tuy nhiên, tỷ lệ mặc trang phục này hàng ngày không cao. Đối nhóm I (18-30) chỉ chiếm 8,5%; nhóm II (31-49) chỉ chiếm 11% và nhóm III (50 tuổi trở lên) chiếm một tỷ lệ tương tự là 10%. Họ chủ yếu mặc trong những ngày Tết, ngày lễ: Nhóm I chiếm 43%, Nhóm II chiếm 60% và Nhóm III chiếm 41.5%. Khi được hỏi lý do tại sao đồng bào ít mặc trang phục truyền thống hàng ngày, mà thay vào đó là trang phục của dân tộc Kinh, có nhiều ý kiến cho rằng mặc trang phục truyền thống hàng ngày tuy đẹp nhưng rất bất tiện trong lao động, đi lại, làm việc. Trang phục của người Kinh thuận tiện hơn và mua cũng rẻ hơn.
tuổi, xã Tân Lập)
72
Số người có học vấn từ cấp 3 trở lên chỉ chiếm 63%. Tuy nhiên, 78% trong
số đó vẫn còn mặc trang phục truyền thống.
Một câu hỏi được đặt ra là phải chăng người có trình độ học vấn cao hơn thì
ít mặc trang phục truyền thống hơn ? Liệu có một tương quan nào đó giữa tuổi tác
và trình độ học vấn. Mức ý nghĩa Sig của tương quan này bằng 0.000 (<0.05), chỉ
ra có mối tương quan giữa tuổi tác và việc mặc trang phục. Khi dùng hệ số tương quan Spearman = -0.49 ( (-0.49)2 = 0.24), hệ số này cho ta thấy trình độ học vấn
chỉ giải thích được 24% việc mặc trang phục truyền thống hay không còn mặc
trang phục truyền thống nữa của đồng bào.
Bảng 6 cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ mặc trang phục truyền thống giữa
các địa bàn được nghiên cứu.
Bảng 6: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống phân theo Vùng (tính theo tỷ lệ %)
Mặc hàng ngày
Mặc vào dịp tết/hội
Mặc vào ngày khác
Vùng Thị trấn
Còn mặc trang phục truyền thống 89.8 70.2
Mặc vào ngày lễ (ma chay, cƣới xin) 85.7 89.3
3.6 22.3
8.9 52.4
96.4 92.2
Vùng Mƣờng Vang Tổng
76.0
88.1
15.7
37.1
93.7
Mặc dù Vùng Thị trấn có tỷ lệ mặc trang phục truyền thống (89.8%) cao
hơn Vùng Mường Vang (70.2%), nhưng tỷ lệ mặc trang phục hàng ngày của đồng
bào Mường Vùng Thị trấn rất thấp(chỉ chiếm 8.9%), Vùng Mường Vang tỷ lệ mặc
trang phục truyền thống hàng ngày phổ biến hơn, chiếm 52.4%. Đa số đồng bào
mặc trang phục truyền thống vào dịp tết, hội.
2.5. Ngôn ngữ:
Từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, dưới sự tác động của nền kinh tế
thị trường và sự tăng cường giao lưu hội nhập, ngôn ngữ của đồng bào Mường đã
có nhiều biến đổi, theo hướng tăng cường sử dụng song ngữ.
73
Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng các ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng
Thƣờng sử dụng ngôn ngữ nào khi giao tiếp trong cộng đồng
Ngôn ngữ
Tổng số
Tiếng dân tộc
Tiếng Kinh
Cả hai tiếng
Số người
Số lượng
Số lượng
Số lượng
Vùng
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
39.0
6
10.0
23
50.8
59
100.0
30
Nhóm I
13.5
54
38.3
19
48.2
141
100.0
68
Nhóm II
21.0
60
30.0
42
49.0
200
100.0
98
Tổng số
100% số người được hỏi đều biết nói hai tiếng là tiếng dân tộc mình và
tiếng dân tộc Kinh. Tuy nhiên khi giao tiếp trong gia đình, người Mường chủ yếu
sử dụng tiếng dân tộc mình (89%). Nhưng trong cộng đồng, họ vừa sử dụng tiếng
Kinh, vừa sử dụng tiếng dân tộc để giao tiếp: 30% sử dụng tiếng dân tộc, 21% sử
dụng tiếng Kinh và 49% sử dụng cả hai ngôn ngữ để giao tiếp trong cộng đồng.
Có sự khác biệt giữa vùng thị trấn và vùng Mường Vang trong việc sử dụng
các ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng và gia đình. Kiểm định Khi-bình phương
cho thấy mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05), khẳng định có tương quan giữa việc sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp giữa các vùng được nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng
tiếng Kinh khi giao tiếp trong cộng đồng đối với đồng bào Mường vùng thị trấn
cao hơn vùng Mường Vang. Điều này được thể hiện rất rõ ở Bảng 7.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng ở vùng Thị trấn Vụ Bản
74
Biểu đồ 5: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng
ở vùng Mường Vang
Nhìn vào Biểu đồ 4 và 5 có thể thấy được sự khác biệt giữa các vùng khi sử
dụng ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng. Số người chỉ sử dụng tiếng Kinh khi
giao tiếp trong cộng đồng ở vùng Thị trấn chiếm tới 39%, trong đó Vùng Mường
Vang chỉ chiếm 13%; còn số người chỉ sử dụng tiếng dân tộc khi giao tiếp trong
cộng đồng ở vùng thị trấn chiếm 10% nhưng ở vùng Mường Vang chiếm tới 38%.
Và có một điều thú vị là chiếm khoảng 50% số người được hỏi đều sử dụng cả hai
ngôn ngữ (tiếng Mường và tiếng Kinh) khi giao tiếp trong cộng đồng.
“Là người Mường thì phải biết tiếng Mường chứ. Có một số thanh niên này nay không chịu nói tiếng Mường là coi thường chính dân tộc mình vậy.” (Nam, 35 tuổi, xóm Nghĩa, Thị trấn Vụ Bản)
Có tới 98.5% số người được hỏi đều cho rằng mọi người đều phải biết tiếng
dân tộc mình và không có sự khác biệt nào giữa các nhóm tuổi trong quan điểm
này. 18% cho rằng nên dạy tiếng dân tộc ở trường học, 16% cho rằng chỉ cần dạy
tiếng Kinh trong trường và có tới 89% cho rằng nên dạy cả hai thứ tiếng ở trong
trường học. điều này cho thấy tiếng dân tộc vẫn còn rất được coi trọng.
75
Việc vay mượn tiếng Việt trong giao tiếp đã trở thành phổ biến, nhất là
những thuật ngữ liên quan đến cơ chế xã hội mới, liên quan đến khoa học công
nghệ mới hoặc các sản phẩm mới do công nghệ sản xuất,…Điều này chứng tỏ sự
hội nhập các dân tộc đã và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng
3.1. Quan hệ gia đình, dòng họ hiện nay
Hình thức gia đình phụ quyền vẫn còn là đặc trưng trong quan hệ gia đình
của người Mường. Tuy nhiên, tính chất gia trưởng cũng đã bị lung lay. Người đàn
ông trong xã hội tiểu nông xưa có vị trí quan trọng, có tiếng nói quyết định trong
gia đình thì ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo hướng đa dạng
hóa, vị trí của người đàn ông trong gia đình cũng không còn tuyệt đối nữa.
Ở đây, tuy hoạt động sản xuất gia đình vẫn chủ yếu là nông nghiệp, nhưng
với sự hỗ trợ của các phương tiện sản xuất hiện đại, người đàn ông với tư cách là
chủ lực trong các công việc đồng áng thì nay nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Các công
việc được các thành viên chia sẻ theo khả năng của mình, tạo cơ hội cho phụ nữ
khẳng định vai trò bình đẳng với nam giới. Vì thế, ngày nay quan hệ gia đình có
xu hướng bình đẳng hơn so với trước kia, người phụ nữ ngày càng có tiếng nói
trong gia đình. Đối với một số hộ, không kể là chồng hay vợ, nam giới hay phụ
nữ, người nào giỏi giang làm kinh tế thì sẽ có vai trò điều hành gia đình.
Nếu như trước kia, hình thức gia đình mở rộng là phổ biến, thường từ ba
đến bốn thế hệ, thì ngày nay có xu hướng tăng dần mô hình gia đình hạt nhân,
gồm hai thế hệ, cha mẹ và con cái. Đồng thời, quy mô gia đình cũng nhỏ dần. Mỗi
gia đình thường gồm khoảng 4 đến 6 người (chiếm khoảng 66%), từ 1 đến 3 người
chiếm 21%, chỉ có 13% gia đình có từ 7 người trở lên. Số thế hệ cùng sống phổ
biến là gia đình hai thế hệ (50%), gia đình ba thế hệ vẫn còn 38.5%, gia đình bốn
thế hệ chỉ còn chiếm 5.5%.
76
Người đàn ông vẫn có tiếng nói quyết định trong gia đình, khi thừa kế, con
trai trưởng được hưởng nhiều hơn và con trai trưởng là người chịu trách nhiệm
phụng dưỡng cha mẹ khi về già và thờ cúng cha mẹ khi mất. Người già rất được
coi trọng và có tiếng nói quan trọng trong gia đình, dòng họ. Tính chất phụ quyền
còn thể hiện rất rõ như cha mẹ thường ở với con trai trưởng hoặc khi có việc quan
trọng thường nhờ cậy đằng nhà chồng nhiều hơn, chiếm tới 94,5%, nhờ cậy đằng
nhà vợ 80%. Đồng thời sự giúp đỡ lẫn nhau là thường xuyên trong cộng đồng,
hàng xóm (81%).
Mối quan hệ gia đình, dòng họ tuy đã có nhiều biến chuyển xong vẫn rất chặt chẽ. Các thành viên trong gia đình, dòng họ thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau. Phần lớn số người được hỏi đều trả lời khi có việc hệ trọng họ thường nhờ anh em, họ hàng, bạn bè giúp đỡ.
Có thể nói, gia đình của đồng bào Mường ở Lạc Sơn ngày nay đã có những
biến đổi rõ rệt cả về quy mô và hình thức. Cùng với sự phát triển mọi mặt của đời
sống, quy mô gia đình của đồng bào Mường cũng ngày càng nhỏ lại. Sự biến đổi
này có thể được giải thích bởi sự tác động của chính sách kế hoạch hóa gia đình.
Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sự độc lập về kinh tế của những
người con đã làm giảm dần sự phụ thuộc vào cha mẹ mình, cả về tinh thần lẫn vật
chất. Điều đó tạo ra xu hướng tách hộ, sống độc lập, tự chủ ngày càng tăng.
3.2. Tổ chức đời sống cộng đồng
Xã hội Mường ngày nay không còn chế độ Lang Cun như trước kia. Tổ chức xã hội Mường ngày nay thống nhất với tổ chức bộ máy hành chính của nhà nước, thống nhất quyền lực với nhà nước. Xã là cấp chính quyền cơ sở, dưới xã là các thôn, đứng đầu là các trưởng thôn, trưởng bản, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động kinh tế - văn hóa – xã hội của thôn đó bản đó. Tuy nhiên, già làng vẫn rất được coi trọng, có tiếng nói quan trọng quyết định nhiều việc lớn trong làng, trong họ.
77
Người Mường được giải phóng khỏi chế độ Lang Cun, họ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của mình, không còn bị bóc lột, đồng thời họ được nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất kinh doanh nên đời sống của người Mường ngày nay đã khá hơn rất nhiều so với trước kia.
4. Tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin
4.1.Tín ngưỡng, lễ hội
4.1.1.Về tín ngưỡng
Sự thay đổi tập quán sản xuất với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất làm người lao động ngày càng chủ động trong sản xuất, giảm dần sự phụ
thuộc vào thiên thiên. Vì vậy, quan niệm “vạn vật hữu linh”, sùng bái thiên nhiên
với nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp trong lao động sản xuất như rước vía lúa, lễ
cầu mùa, lễ mừng cơm mới, đến tục đóng cửa rừng, mở cửa rừng kèm theo lệ cấm
kiêng kị có tính chất siêu nhiên, linh thiêng cũng đã mất dần, cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Người Mường cũng có những ngày lễ tương tự như người Kinh. Đây chính
là nét tương đồng về văn hóa sâu sắc, thể hiện sự giao thoa và sự gắn bó sâu sắc
giữa hai dân tộc Kinh và Mường.
Tương tự như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng có từ rất lâu
đời của người Mường 97.5% số người được hỏi có thờ cúng tổ tiên, 1% theo đạo
Phật, chỉ 1.5% là không thờ cúng.
Bảng 8 chỉ ra tỷ lệ các gia đình tổ chức các ngày lễ của người Mường.
Trong đó, số hộ tổ chức các ngày lễ chiếm một tỷ lệ rất cao. Có tới 82% số người
được hỏi cúng giao thừa, 65.5% tổ chức lễ thanh minh và 64.5% tổ chức giỗ. Tết
78
cơm mới vốn là một trong những Tết truyền thống quan trọng của đồng bào
Mường, tuy nhiên đến nay đã không còn phổ biến nữa, chỉ có 46% số hộ gia đình
tổ chức Tết cơm mới, tập trung chủ yếu ở vùng Mường Vang (58.9%), còn ở vùng
trấn chỉ chiếm 15%.
Đồng bào Mường đặc biệt coi trọng ngày Tết độc lập 2/9, hầu hết các gia
đình đều tổ chức lễ nhân ngày này (95%), đồng bào Mường ở xã Nhân Nghĩa
thường tổ chức ăn Tết 19/8 để kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng 8 thành công.
Bảng 8: Tỷ lệ các gia đình tổ chức các ngày lễ
Số gia đình tổ chức
Số gia đình tổ chức
Các ngày Lễ
Các ngày Lễ
Số gia đình
Tỷ lệ
Số gia đình
Tỷ lệ
Ngày Giỗ
129
64.5%
Trung thu
119
59.5%
83
41.5%
Tết cơm mới
92
46%
Ngày rằm, mùng một
Rằm tháng giêng
56
28%
64
32%
Cúng Ông Công, ông Táo
164
82%
Lễ thanh minh
131
65.5% Cúng giao thừa
Tết đoan ngọ
56
28%
Tết 2/9
190
95%
Rằm tháng 7
64
32%
130
65%
Ngày kỷ niệm CMT8 (19/8)
Một câu hỏi được đặt ra là liệu việc tổ chức các ngày lễ giữa các vùng được
chọn nghiên cứu có khác nhau không hay có mối tương quan nào giữa việc tổ
chức các ngày lễ với 2 nhóm vùng (Vùng Thị trấn và Vùng Mường Vang) không ?
Kiểm định Khi-Bình phương với mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05) chỉ ra ý
nghĩa thống kê rằng có sự khác biệt nhưng không nhiều về việc tổ chức ngày rằm
tháng giêng giữa vùng Thị trấn và vùng Mường Vang. Tuy nhiên, hệ số tương
79
quan Pearson’s R cho thấy nó chỉ có thể giải thích được 12.5% sự khác biệt đó mà
thôi.
Tương tự, việc tổ chức lễ thanh minh là phổ biến ở vùng Thị trấn Vụ Bản,
có tới 95% số hộ được hỏi tổ chức lễ thanh minh, ở vùng Mường Vang chỉ chiếm
53.2%. Tỷ lệ hộ tổ chức lễ thanh minh khác nhau được giải thích bởi 16% là do sự
khác nhau giữa hai vùng cư trú.
Có thể nói chung rằng, tập quán tín ngưỡng của người Mường đã có những
biến chuyển rõ rệt và có sự khác nhau giữa hai vùng: Vùng Thị trấn và Vùng
Mường Vang. Vùng thị trấn biến đổi mạnh hơn theo hướng xích lại gần với tập
quán tín ngưỡng của người Kinh. Điều này được giải thích bởi đặc điểm cư trú,
vùng thị trấn có đông người Kinh sinh sống, hoạt động trao đổi buôn bán và giao
tiếp giữa người Mường và người Kinh phát triển rất mạnh, vì thế có sự giao lưu
ảnh hưởng mạnh mẽ về nhiều mặt trong đó có tập quán tín ngưỡng.
Bên cạnh sự mai một của một số ngày lễ vốn được coi là truyền thống văn
hóa như Tết cơm mới, người Mường lại bổ xung thêm những ngày lễ như Tết Độc
lập (2/9), Ngày CMT8 thành công (19/8). Người Mường tổ chức những ngày này
thể hiện lòng biết ơn các chiến sỹ, niềm vui, tự hào vì đất nước được độc lập. Đặc
biệt ngày 2/9 được xem là ngày lễ rất lớn chỉ sau ngày Tết nguyên đán và đồng
bào chuẩn bị long trọng không kém gì Tết nguyên đán.
4.1.2. Về lễ hội hiện nay
Các lễ hội truyền thống ở địa phương đã bị mai một đi nhiều. Ở Xóm Nghĩa
(Vụ Bản), lễ hội xuống đồng (còn gọi là Tết khai hạ) vẫn còn được duy trì, tổ chức
vào mồng 7 tháng giêng hàng năm. Lễ hội này đã thu hút đông đảo đồng bào
Mường tham gia. Có tới 53/59 (90%) số người trả lời tham gia và đóng góp đầy
đủ khi lễ hội được tổ chức, chỉ có 10% là thỉnh thoảng tham gia, không có trường
80
hợp nào chưa từng tham gia. Đồng bào thường góp tiền, góp gạo và công sức tham
gia tổ chức lễ hội.
Lễ hội xuống đồng nói riêng được sự hưởng ứng tích cực của đồng bào, họ
đều cho rằng lễ hội giúp gắn bó các thành viên trong cộng đồng (76.3%), giúp giữ
gìn truyền thống văn hóa (100%), là dịp để cầu tài cầu lộc (95%) và là dịp để vui
chơi gặp gỡ (81.3%).
Các hội làng được tổ chức nhưng không thường xuyên (2-3 năm một lần),
thường là hội cồng chiêng, đánh mảng, ném còn, hát đôi, hát đúm, và thường được
kết hợp với ngày hội đoàn kết văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, khi hỏi ở địa phương có
còn lễ hội, một tỷ lệ khá lớn đồng bào xã Nhân Nghĩa và Tân Lập cho rằng ở địa
phương không còn lễ hội nữa (32.5%). Điều đó chứng tỏ lễ hội đã chưa mang lại
ấn tượng sâu sắc, chưa thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Đối với những
người khẳng định ở địa phương còn lễ hội (67.5%) thì tỷ lệ tham dự lễ hội cũng
khá cao: 70% thường xuyên tham gia, 23% tham dự một số lễ hội và chỉ có 8% là
không tham gia.
Việc tổ chức lễ hội nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của đồng bào Mường.
Đa số đều cho rằng lễ hội giúp gắn bó các thành viên trong cộng đồng (72%) và
giúp giữ gìn truyền thống văn hóa (89%) và là dịp để vui chơi gặp gỡ giao lưu
(76.5%).
Ngày nay, các hội lớn như sắc bùa hầu như không còn nữa, chỉ có người
già còn biết đến hội này mà thôi.
Một câu hỏi được đặt ra có sự khác nhau về mức độ tham dự lễ hội theo
nhóm tuổi hay không ? Mức ý nghĩa Sig = 0.02 (<0.05) giúp khẳng định rằng có
sự tương quan giữa nhóm tuổi và mức độ tham dự lễ hội. Tuy nhiên, khi dựa vào
81
hệ số tương quan pearson (0.286), thì tuổi tác chỉ giải thích được 8.2% sự biến
thiên của mức độ tham dự lễ hội.
4.2. Ma chay
Lễ tang của người Mường ngày nay đã khác nhiều so với trước kia. Thời
gian rút ngắn và các thủ tục, trình tự tang lễ cũng đơn giản hơn rất nhiều. Một số
trình tự cơ bản vẫn được duy trì như trước kia, song nhiều thủ tục rườm rà đã bị
lược bỏ.
Lễ tang thường chỉ kéo dài trong 24 giờ. Khi người chết tắt thở, người nhà
đánh chiêng liên tục 3 hồi để báo cho anh em, họ hàng biết. Sau đó trưởng bản
cùng với những người có vai vế trong họ họp nhau lại, bàn cách thức tổ chức lễ
tang, phân công nhiệm vụ cho mọi người trong họ. Lúc này, toàn thể con cái tập
trung về xung quanh người chết, con đẻ tắm cho cha/mẹ mình (người chết) bằng lá
bưởi cho sạch sẽ, rồi căng màn, đắp chăn cho người chết. Nếu là đàn ông thì đặt ở
gian ngoài, đàn bà thì đặt ở gian trong. Sau khi tắm xong, chọn giờ để khâm liệm.
Người đứng đầu họ cùng với con sẽ cho người chết vào quan tài.
Khi liệm xong, quan tài được khênh lên đặt ở gian giữa trên chiếu và bốn
tấm vải trắng, Người ta đắp cho người chết một chiếc chăn bông và hàng chục
chiếc chăn đơn, trải hai tấm lụa tơ nằm ở hai bên. Một người cao tuổi trong họ
cầm một hòn than vạch lên sàn và đọc lời bàn giao số vải vóc và quần áo cho
người chết đem theo. Trong khi người nhà mắc màn ở xung quanh chỗ người chết
nằm, thì bà con họ hàng, làng xóm đến đầy nhà. Những người thân đều mặc quần
áo tang (màu trắng). Người con trai cả tới cửa sổ (cửa voóng - nơi thờ cúng tổ
tiên, rút dao chặt 3 nhát lên thành cửa như để nhắc rằng từ nay anh ta là người
đảm nhiệm việc thờ cúng tổ tiên.
82
Sau đó, chiêng trống nổi lên và thân nhân bắt đầu khóc. Người nhà mời thầy
mo đến chuẩn bị cho tối mo Tần tịch – tang lễ chính thức bắt đầu. Một thầy mo
chính và hai thầy mo phụ làm lễ khẳng định cái chết là một việc đã được số phận
sắp đặt, tránh cho người chết sự luyến tiếc băn khoăn khi phải từ bỏ thế giới người
sống.
Các lễ tiếp theo vẫn được duy trì giống trước kia, như Lễ tống trùng, lễ
Tấng dây, lễ nhập quan cho người chết. Sau đó làm lễ cúng cơm tương tự như
người Kinh.
Lễ nhập quan bắt đầu vào buổi tối. Người ta mổ một con lợn nhỏ, luộc rồi
thái nhỏ, bày lên lá chuối để lên bàn thờ. Chiêng và trống đánh bài “túc nược” mời
người chết ăn.
Sau đó, thầy mo chỉ mo một số đoạn ngắn có tính hình thức mà thôi.
Ba hôm sau, người ta còn làm lễ dẫn đường cho hồn về, chỉ cho hồn biết nơi
thờ cúng và biết lối về. Con cháu ra nghĩa địa xây mộ, chôn vò đựng rượu ở đầu
mộ. Đến đây tang lễ kết thúc.
Trong thời gian 100 ngày, thân nhân người chết không được tham dự các
cuộc vui chơi, nếu buộc phải có mặt thì luôn phải cúi nhìn xuống đất, không được
nhìn lên.
Tục làm “ma khô” đến ngày nay đã mất hẳn.
Tục làm hòn mồ ngày nay đã không còn nhiều nữa. Người Mường ( đặc biệt
đồng bào Mường ở Xóm Nghĩa ) đã xây mộ như người Kinh.
4.3. Cưới xin
Đám cưới của người Mường ngày nay cũng gần tương tự như người Kinh,
cũng vẫn gồm các bước chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu hay xem ngày giờ
83
tổ chức đám cưới. Trong quá trình đính hôn, ông mối vẫn cần thiết. Tuy nhiên,
việc mai mối cũng chỉ còn là hình thức mà thôi. Tục thách cưới ngày nay vẫn còn
rất phổ biến, nhưng dường như chỉ mang tính hình thức, tượng trưng, lễ vật thách
cưới không yêu cầu cao, không còn khắt khe như trước kia nữa.
Đã có một số ít các thanh niên tổ chức tuần trăng mật sau khi kết hôn ở
vùng thị trấn (6.2%) , chứng tỏ đã có sự thâm nhập của nền văn hóa mới.
Đồng thời, thời gian tổ chức lễ cưới cũng được rút ngắn, thường chỉ kéo dài
trong 2 ngày và các thủ tục được đơn giản hóa, chỉ còn các bước như chạm ngõ,
ăn hỏi, đón dâu.
Bảng 9: Các thủ tục cưới xin của người Mường
Nhóm tuổi
18-30 tuổi
31-49 tuổi
Các thủ tục cƣới xin
Từ 50 tuổi trở lên
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Đăng ký kết hôn
100%
98.6%
90.4%
Chạm ngõ
77.6%
84.3%
84.6%
tổ
96%
91.4%
90.4%
Xem ngày giờ chức đám cưới
Ăn hỏi
97.4%
97.1%
94.2%
Thách cưới
82.9%
51.4%
61.5%
Xin dâu/đón dâu
97.4%
97.1%
92.3%
Nghỉ tuần trăng mật
6.2%
3%
0%
Kết quả kiểm định giả thuyết về tính độc lập của các biến tuổi và các thủ tục cưới xin cho thấy mức ý nghĩa quan sát Sig = 0,000 nên ta an toàn bác bỏ giả
84
thuyết về tính độc lập đó và khẳng định có tương quan giữa tuổi tác, các thủ tục cưới xin (chạm ngõ, thách cưới, xin dâu, xem ngày giờ tổ chức cưới).
Giá trị -2LL = 14.555, không cao, như vậy nó thể hiện một độ khá tốt của
mô hình tổng thể. Có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi về tỷ lệ đăng ký kết hôn. Nhóm người trẻ tuổi hơn có tỷ lệ đăng ký kết hôn cao hơn. Tỷ lệ đăng ký kết hôn khi cưới ở nhóm tuổi từ 18-30 đạt 100%, nhóm tuổi từ 31-49 đạt 98.6% và nhóm tuổi từ 50 trở lên chỉ chiếm 90.4%. Điều này chứng tỏ một sự tiến bộ trong nhận thức về hôn nhân của đồng bào Mường, đó là hôn nhân hợp pháp là phải được pháp luật thừa nhận. Còn về các thủ tục cưới xin khác như chạm ngõ, chọn giờ để tổ chức lễ cưới, ăn hỏi, xin dâu/đón dâu, không có sự khác biệt nhiều giữa các nhóm tuổi, và về cơ bản, các thủ tục này vẫn được duy trì từ thế hệ này qua thế hệ khác. Có một điều đáng ngạc nhiên tục thách cưới không những không bị loại bỏ trong quá trình phát triển của xã hội mà còn có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ thách cưới ở nhóm tuổi từ 50 trở lên chỉ chiếm 61.5%, nhóm tuổi từ 31-49 chiếm 51.4% và nhóm tuổi 18- 30 chiếm tới 82.9%. Vật thách cưới cũng khác trước và giá trị kinh tế cũng cao hơn. Ngày nay, bên cạnh các lễ vật thách cưới truyền thống như gạo, lợn, trâu và một số lễ vật khác thì tiền mặt là đồ thách cưới chủ yếu. Đồng thời các loại quà mừng ngày cưới cũng có khác trước rất nhiều. Nếu như trước kia người ta thường tặng nhau bằng những đồ vật như chăn gối, quần áo, vải vóc, trang sức thì ngày nay đa số đều mừng cưới bằng tiền mặt.
Về không gian kết hôn, nhìn vào Bảng 10, ta có thể thấy rằng không gian kết hôn của người Mường đã không ngừng mở rộng từ làng sang xã, từ xã đến huyện, rồi đến tỉnh. Sự biến đổi này không chỉ phù hợp với đời sống hiện đại mà còn phản ánh sự tự tăng cường giao lưu giữa các khu vực cư trú và sự tiến bộ của quan niệm hôn nhân của đồng bào Mường. Kiểm định Khi-bình phương cho thấy mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05) chứng tỏ có tương quan giữa nhóm tuổi và không gian kết hôn, những người tuổi càng ít thì phạm vi không gian kết hôn càng rộng. Tuy nhiên, biến tuổi chỉ giải thích được 16.6% sự biến thiên về không gian kết hôn (vì hệ số tương quan Pearson’s R = - 0.408).
85
Bảng 10: Không gian kết hôn của người Mường tại Xóm Nghĩa (Vụ Bản), xã Tân Lập và xã Nhân Nghĩa (tính theo tỷ lệ %)
Không gian kết hôn
Nhóm tuổi từ 50 trở lên (%)
Nhóm tuổi từ 31-49(%)
Nhóm tuổi từ 18-30 (%)
28.8
27.4
Cùng làng
44.3
36.4
35.3
Cùng xã (khác làng)
23.1
30.3
19.6
32.6
3.0
2.0
0.0
Cùng huyện (khác xã) Cùng tỉnh (khác huyện)
1.5
15.7
Khác tỉnh
0.0
100.0
100.0
100.0
Cùng với những thay đổi về các thủ tục cưới xin và mở rộng không gian kết
hôn là sự thay đổi về việc mặc trang phục trong ngày cưới. Có một sự khác biệt
lớn về tuổi tác và thế hệ trong việc mặc trang phục ngày cưới.
Bảng 11: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới (tính theo tỷ lệ %)
Xóm Nghĩa
Nhân Nghĩa
Tân Lập
18-34 35-50
18-34 35-50 51 trở
18-34 35-50 51 trở
51 trở lên 0.0
95.0
32.0
65.0
5.5
45.0
5.0
lên 0.0
lên 0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
4.5
0.0
1.0
0.0
0.0
Váy cưới hiện đại Áo dài
0.0
10.0
0.0
5.0
10.0
3.0
10.0
6.5
5.0
5.0
58.0
100.0
30.0
80.0
93.5
52.0
84.0
95.0
Quần áo bình thường Trang phục dân tộc
Nhìn vào Bảng 11 ở trên có thể thấy rõ rằng, tỷ lệ mặc trang phục truyền
thống trong ngày cưới ngày càng giảm theo độ tuổi và theo thời gian, những người
trẻ tuổi chủ yếu mặc váy cưới hiện đại, những người nhiều tuổi hơn chủ yếu mặc
86
trang phục truyền thống. Đồng thời cũng có thể nhận thấy rõ rằng, có sự khác biệt
giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ mặc trang phục trong ngày cưới.
Ở xóm Nghĩa, tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới chỉ chiếm
3% ở nhóm tuổi từ 18-34, chiếm 58% ở nhóm tuổi từ 35-50 và 100% ở nhóm tuổi
từ 51 trở lên, còn lại là mặc váy cưới hiện đại và quần áo bình thường. Tỷ lệ mặc
váy cưới hiện đại đặc biệt cao ở nhóm tuổi 18-34.
Tỷ lệ này có khác so với xã Tân Lập và Nhân Nghĩa. Tỷ lệ mặc trang phục
truyền thống không chênh lệch quá chênh lệch giữa nhóm người trẻ và nhóm trung
niên, người già như ở xóm Nghĩa (Tại xã Tân Lập: 52% ở nhóm từ 18-34, 84% ở
nhóm 35-50 và 95% ở nhóm từ 51 trở lên; Tại xã Nhân Nghĩa: 30% ở nhóm từ 18-
34, 80% ở nhóm 35-50 và 93.5% ở nhóm từ 51 trở lên).
Sự thay đổi về tỷ lệ mặc trang phục truyền thống giữa các thế hệ cũng như
sự khác biệt giữa các địa bàn nghiên cứu được giải thích bởi sự tăng cường giao
lưu văn hóa trong quá trình hội nhập giữa các tộc người, giữa các địa phương,
giữa miền núi và miền xuôi.
III. Những nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mƣờng
Sự biến đổi văn hóa dân tộc Mường ở huyện Lạc Sơn có thể được lý giải
bởi một số nguyên nhân như:
1) Chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ Đổi mới: Trong thời
kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng hướng mục tiêu phát triển
kinh tế ở vùng miền núi, đặc biệt là các vùng đặc biệt khó khăn. Từ những năm
1995 trở lại đây, chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng cơ sở được
đồng loạt tiến hành trên hầu hết các địa bàn miền núi, trong đó có huyện Lạc Sơn,
tỉnh Hòa Bình. Các chương trình này đã làm cơ sở hạ tầng thay đổi rất nhiều ở
nông thôn miền núi nói chung, ở các địa bàn nghiên cứu nói riêng. Sự thay đổi hạ
87
tầng cơ sở như đường giao thông tốt hơn tạo thuận lợi cho hoạt động giao lưu,
buôn bán giữa người dân trên cùng địa bàn cũng như với những người ở các địa
phương khác;
Việc người dân được dùng điện cũng đã tác động quan trọng về sự thay đổi
đối với nhận thức, khả năng tiếp nhận cách thức lao động mới, sử dụng công cụ
sản xuất phù hợp hơn và sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hiện đại hơn. Thêm vào
đó, Nhà nước tích cực phát triển các chương trình khuyến nông với việc hỗ trợ
giống, kỹ thuật, có cán bộ khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật tận địa phương cũng
dễ dàng làm thay đổi những tập quán sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu, năng suất thấp.
2) Đặc điểm địa bàn cư trú
Như đã phân tích, Lạc Sơn là địa bàn tụ cư của hai dân tộc Kinh - Mường
cùng chung sống từ lâu đời. Đồng thời, Lạc Sơn cũng nằm trên trục đường liên
tỉnh nối liền miền núi với đồng bằng, miền ngược với miền xuôi, rất thuận lợi cho
thông thương, buôn bán và giao lưu hội nhập. Đặc biệt từ khi nhà nước thực hiện
phát triển nền kinh tế thị trường, việc giao lưu buôn bán giữa miền núi và đồng
bằng càng được tăng cường mạnh mẽ. Trong quá trình ấy, sự tác động, giao thoa
văn hóa giữa hai dân tộc Kinh - Mường ngày càng phát triển tạo nên sự biến đổi
văn hóa Mường theo hướng ngày càng có nhiều nét tương đồng về văn hóa với
dân tộc Kinh.
Xóm Nghĩa thuộc Vùng Thị trấn Vụ Bản – là trung tâm kinh tế - văn hóa -
xã hội của huyện Lạc Sơn nên sự giao lưu hội nhập kinh tế - văn hóa - xã hội
mạnh hơn các vùng khác trong huyện vì thế sự biến đổi văn hóa cũng mạnh hơn.
3) Sự phát triển của lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống.
88
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật là một trong những động lực chính của sự
phát triển, việc ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và đời
sống đã làm thay đổi tập quán canh tác cũng như các loại công cụ lao động mới,
con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, làm thay đổi tập quán sinh hoạt
thường nhật, thay đổi cách làm nhà ở, đặc biệt là thay đổi về tập quán tín ngưỡng,
lễ hội. Quan trọng hơn, chính người đồng bào cũng tự nhận thấy các tiến bộ này
đã làm cho đời sống của họ ngày càng ổn định, nên đã tự giác tiếp nhận và nhân
rộng ở cộng đồng. Sự thay đổi này theo hướng ngày càng hiện đại hóa, lược bỏ
bớt những hủ tục lạc hậu, lễ nghi rườm rà, rút ngắn thời gian.
4) Đặc trưng về ngôn ngữ và sự tăng cường giao lưu hội nhập giữa các nền
văn hóa.
Theo các nhà nghiên cứu, dân tộc Kinh - Mường vốn có chung nguồn gốc.
Tiếng Mường còn được coi là tiếng Việt cổ, điều này thể hiện sự gần gũi về tiếng
nói, người ta có thể tìm thấy sự giống nhau về ngôn ngữ của hai dân tộc. Chính vì
vậy, sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Kinh - Mường trở thành tất yếu tạo nên
những thay đổi trong tập quán sản xuất, tiêu dùng, tín ngưỡng và lễ hội,…Người
Mường ngày càng lược bỏ những yếu tố mang tính bảo thủ, cổ hủ, lạc hậu trong
văn hóa và bổ xung các yếu tố mới làm hiện đại, phong phú thêm nền văn hóa của
dân tộc mình.
Mặt khác, do không có chữ viết riêng, một số nét đẹp của văn hóa truyền
thống thể hiện trong tập quán tín ngưỡng, lễ hội đã bị mai một dần, không còn
được lưu truyền nữa. Ví dụ như Hội hát sắc bùa, Hội xuống đồng, múa Pồn
Poong,... Ngay cả những nét đẹp trong phong tục cưới xin, cho đến nay, nhiều nơi
đã không còn nữa.
5) Tự thân nền văn hóa
89
Sự biến đổi và phát triển là quy luật chung của bất kỳ sự vật, hiện tượng
nào. Bản thân văn hóa là một hình thái ý thức xã hội cũng không nằm ngoài quy
luật chung ấy. Văn hóa Mường đã tự loại bỏ đi những yếu tố có tính bảo thủ, lạc
hậu, tiếp thu những nét văn hóa hiện đại để làm phong phú thêm bản sắc của dân
tộc mình, điều này có thể thấy rõ trong việc thay đổi tập quán sản xuất, tập quán
sinh hoạt (trong đó có cách làm nhà ở), tập quán tín ngưỡng và lễ hội, ma chay,
cưới xin. Ngày nay, người Mường có thêm nhiều cộng cụ máy móc hiện đại phục
vụ cho sản xuất, nhiều tiện nghi hiện đại phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, nhiều
lễ hội mới được bổ xung, các thủ tục cưới xin, ma chay cũng được đơn giản hóa,
loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà.
6) Việc nâng cao trình độ dân trí Ngoài chính sách phát triển kinh - tế xã hội nói chung, việc nâng cao trình
độ dân trí cũng góp phần rất lớn thay đổi nhận thức của người dân để có thể tiếp
nhận nhanh chóng các tri thức khoa học - kỹ thuật áp dụng vào sản xuất cũng như
việc tiếp nhận các nhân tố văn hóa mới. Các phương tiện truyền thông đại chúng
như loa, đài, ti vi, báo...cũng tạo nên động lực lớn cho người dân ở đây học hỏi lẫn
nhau, giao lưu giữa các thành viên trong và ngoài cộng đồng.
IV. Xu hƣớng biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng
1. Tập quán và công cụ sản xuất
Trong tập quán sản xuất, như đã rõ, biến đổi chỉ dừng lại ở việc thay đổi cơ
cấu mùa vụ (tăng cường thâm canh), thay đổi một số kỹ thuật canh tác và một số
giống cây trồng vật nuôi theo hướng tăng các giống cây trồng, vật nuôi lai tạo cho
năng suất cao. Hoạt động sản xuất vẫn mang đặc trưng của nền sản xuất gia đình,
tự cấp tự túc, nhỏ lẻ, canh tác nông nghiệp kết hợp với chăn nuôi gia đình. Việc
thay đổi tập quán canh tác theo hướng hiện đại hóa, phát triển các mô hình trồng
90
trọt, chăn nuôi tập trung theo hướng hiện đại nhằm nâng cao mức sống cho người
dân là một việc làm khó khăn, vì hoạt động kinh tế vẫn còn mang tính tự cung tự
cấp, dù đã có những hoạt động trao đổi buôn bán nhưng còn mang tính nhỏ lẻ,
chất lượng sản phẩm thấp, số lượng không nhiều, không tập trung. Việc thay đổi
cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện đại vẫn còn là bài toán nan giải ở nơi đây. Do
vậy, trong xu thế phát triển kinh tế - xã hội, không thể một sớm một chiều thay đổi
tập quán sản xuất kiểu cũ do lực lượng sản xuất chưa phát triển.
2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng
Tập quán sinh hoạt và tiêu dùng của người Mường hiện nay đã có sự thay
đổi rất sâu sắc. Tiện nghi sinh hoạt đã khác xa so với truyền thống, các sản phẩm
sử dụng cho sinh hoạt hầu hết đều được mua về chứ không phải tự làm. Và trong
tương lai, xu hướng này thể hiện ngày càng rõ vì các tiện nghi sinh hoạt rất phong
phú và đa dạng trên thị trường, giá cả tương đối phù hợp so với mức sống ngày
càng tăng của người dân, đồng thời rất cần thiết, tiện dụng cho người dân.
Về nhà ở, người Mường vẫn có xu hướng thích ở nhà sàn hơn nhà xây, tuy
nhiên, mong muốn làm nhà sàn hiện đại là rất phổ biến.
Về trang phục, đã có rất nhiều thay đổi về việc mặc trang phục. Với người
già, vẫn còn một số đông mặc trang phục truyền thống, đặc biệt là phụ nữ. Tầng
lớp thanh niên và trung niên ngày nay hầu như không còn mặc trang phục truyền
thống trong sinh hoạt thường này nữa, họ chỉ mặc trong các dịp lễ hội mà thôi.
Đồng thời có sự khác biệt trong việc mặc trang phục giữa các vùng. Ở xóm Nghĩa
thuộc vùng thị trấn, chỉ còn một số ít các cụ già mặc trang phục truyền thống hàng
ngày, hầu hết đều mặc trang phục của dân tộc Kinh. Chất liệu vải đa số không
phải là vải sản xuất thủ công nữa, kiểu cách trang phục cũng đã được cách điệu
hóa theo xu hướng đơn giản hơn, hiện đại hơn.
91
3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng
Tổ chức đời sống cộng đồng có nhiều đổi khác so với trước kia. Việc thay
đổi cơ chế quản lý hành chính đã tạo nên nhiều thay đổi mới trong xã hội Mường
song cộng đồng Mường vẫn thể hiện một sự gắn kết sâu sắc, đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau.
Quan hệ gia đình, dòng họ vẫn là hình thức gia đình phụ quyền, người đàn
ông có tiếng nói quan trọng, quyết định trong gia đình, vẫn là một mối quan hệ
tương đối bền vững không khác nhiều so với truyền thống.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày nay, các giá trị trên đang
có nguy cơ bị đe dọa. Với sự thâm nhập của các lối sống lai căng, phi đạo đức,
văn hóa phẩm đồi trụy và các tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc,…tạo ra các nguy
cơ làm biến đổi văn hóa Mường theo chiều hướng tiêu cực.
4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin
Có thể nói, sự biến đổi của văn hóa Mường thể hiện mạnh nhất ở tập quán
tín ngưỡng, lễ hội và ma chay. Nó thể hiện sự giao thoa mạnh mẽ với nền văn hóa
của dân tộc Kinh, một số lễ Tết vốn trước kia chỉ có ở người Kinh thì nay đã phổ
biến ở người Mường.
Nhiều lễ hội truyền thống của người Mường trước kia nay đã không còn
nữa hoặc có chăng, chỉ còn rơi rớt lại ở một vài nơi, không phổ biến nữa. Tuy
nhiên, lại xuất hiện thêm các lễ Tết mới như Tết Độc lập 2/9, Tết 19/8 mừng Cách
mạng tháng 8 thành công, ngày Hội Đại đoàn kết các dân tộc.
Tục ma chay, cưới xin của người Mường ngày nay có xu hướng đơn giản
hóa, loại bỏ bớt các hủ tục lạc hậu, các thủ tục rườm rà và rút ngắn thời gian hơn
Tục cưới xin cũng vậy, cũng được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian và chi phí.
trước kia (thời gian tổ chức lễ tang ngày nay cũng giống như người Kinh).
92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Dân tộc Mường là một trong các dân tộc thiểu số có bề dày lịch sử và truyền
thống văn hóa mang bản sắc dân tộc đậm nét. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội, sự tăng cường giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội giữa các vùng
miền, các dân tộc, văn hóa Mường thể hiện tính giao thoa sâu sắc và có nhiều đổi
khác so với nền văn hóa truyền thống. Sự biến đổi đó theo cả hai chiều hướng tích
cực và tiêu cực.
Một mặt, văn hóa Mường tiếp thu những những nét độc đáo của các nền văn
hóa khác, đặc biệt là dân tộc Kinh, bổ sung và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa
truyền thống, đồng thời loại bỏ những hủ tục lỗi thời về phong tục, tập quán, tín
ngưỡng. Mặt khác, sự biến đổi của văn hóa Mường đã có những biểu hiện rõ nét
của sự mất dần bản sắc truyền thống, ví dụ như một số lễ hội nổi tiếng như hội sắc
bùa, hội xuống đồng, Tết cơm mới,... đã không còn phổ biến, không còn được
nhiều người biết đến nữa, đặc biệt là thanh niên.
Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, sự biến đổi các giá trị văn hóa của
dân tộc Mường được biểu hiện rất phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực: tập
quán và công cụ sản xuất, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng, quan hệ
gia đình dòng họ và cách thức tổ chức đời sống cộng đồng; tập quán tín ngưỡng, lễ
hội, ma chay, cưới xin,… Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, tập quán sản xuất và
công cụ sản xuất là hai yếu tố biến đổi mạnh mẽ nhất. Đồng thời, đây cũng là một
trong những nguyên nhân quan trọng tác động tới sự biến đổi các giá trị văn hóa
khác.
Sự biến đổi của tập quán và công cụ sản xuất, tiêu dùng thể hiện ở việc ứng
dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để sản xuất hàng hóa và sinh hoạt như đưa giống
93
mới cây trồng, vật nuôi vào sản xuất; thay thế các công cụ sản xuất thô sơ bằng các
công cụ hiện đại như thay trâu bằng máy cày, thay giã gạo thủ công bằng máy xay
xát, thay máy tuốt thủ công bằng máy tuốt chạy bằng động cơ,…Chính điều này đã
giúp nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao mức sống của đồng
bào.
Cùng với sự biến đổi mạnh mẽ về tập quán và công cụ sản xuất là sự biến đổi
về tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng - nhiều đồ dùng thô sơ, thủ công, tự
làm cũng được thay bằng các tiện nghi hiện đại mua ngoài thị trường; sự biến đổi
về tập quán tín ngưỡng, lễ hội, phong tục cưới xin, ma chay. Sự biến đổi này theo
chiều hướng đơn giản hóa, lược bỏ bớt các hủ tục lạc hậu, các thủ rườm rà, hao tốn
thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, sự biến đổi cũng làm mất đi những tập quán tín
ngưỡng, lễ hội vốn được coi là bản sắc của người Mường. Đồng thời, các lễ hội
mới cũng được bổ sung làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Mường.
Cách thức tổ chức đời sống cộng đồng cũng đã thay đổi cùng với sự thay đổi
về chế độ chính trị, không còn chế độ Lang Cun như trước kia, mà thay vào đó là
bộ máy hành chính nhà nước (xã - thôn/bản). Tuy nhiên, quan hệ gia đình, dòng họ
và cộng đồng vẫn thể hiện sự gắn kết sâu sắc, hình thành trên cơ sở nền nông
nghiệp truyền thống còn mang nặng tính tự cấp tự túc.
Mức độ biến đổi là không giống nhau giữa các vùng. Vùng Thị trấn Vụ Bản
thể hiện sự biến đổi mạnh mẽ hơn, theo xu hướng xích lại gần với văn hóa dân tộc
Kinh, đặc biệt là trong việc sử dụng ngôn ngữ, cách làm nhà ở, viêc sử dụng các
tiện nghi sinh hoạt, tập quán tín ngưỡng, lễ hội, cưới xin và ma chay.
Có thế nói, văn hóa là phạm trù lịch sử, là một hình thái ý thức xã hội có môi
trường phát sinh, có điều kiện phát triển và biến đổi, được quyết định bởi đặc thù
của nền kinh tế. Văn hóa truyền thống dân tộc Mường được hình thành, phát triển
trong cơ chế tự túc, tự cấp và sản xuất bằng kỹ thuật thủ công. Nay chuyển đổi từ
94
cơ chế tự cấp tự túc sang cơ chế thị trường, từ kỹ thuật thủ công thô sơ sang máy
móc hiện đại chạy bằng động cơ thì tất yếu dẫn đến sự biến đổi trong nền văn hóa
truyền thống. Sự biến đổi này thể hiện theo chiều hướng giao lưu hội nhập giữa các
nền văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc Kinh.
Sự biến đổi các giá trị văn hóa của dân tộc Mường chịu tác động tổng hợp
của nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính phải kể đến là sự tác động
mạnh mẽ của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước cũng
như sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Điều này đã giúp cải thiện đáng kể đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, gián tiếp làm thay đổi các giá trị văn hóa.
Sự biến đổi văn hóa đồng thời cũng là sự phát triển văn hóa, phát triển từ
truyền thống sang hiện đại. Trong quá trình biến đổi đó, tất nhiên có nhiều diễn
biến hoàn toàn phù hợp với quy luật xã hội. Tuy nhiên, cũng có những diễn biến
chưa phù hợp với quy luật chung, làm tổn hại đến văn hóa truyền thống, không
phản ánh đúng quy luật của văn hóa là quy luật kế thừa, là sự tiếp nối, sự phát triển
trên nền văn hóa truyền thống tiến dần từng bước tới hiện đại.
2. Kiến nghị
Trên cơ sở khảo sát thực trạng biến đổi văn hóa dân tộc Mường tại Vùng
Thị trấn và Vùng Mường Vang của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình và tìm hiểu các
nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mường, để bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường, tác giả đưa ra đề xuất vận dụng tổng hợp các
biện pháp sau :
1) Phát triển nền kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vì kinh tế có vững thì mới có điều kiện để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào, mới có điều kiện để nâng cao
95
đời sống văn hóa cho đồng bào, mới có thể tổ chức được các lễ hội thường xuyên
hơn và thu hút đồng bào quan tâm tham gia.
2) Cùng với phát triển kinh tế là phát triển văn hóa, giáo dục. Giáo dục cho
thế hệ trẻ ý thức tôn trọng, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống, có
thể đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
3) Tuyên truyền đường lối chính sách dân tộc và chính sách văn hóa
Công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, nhà nước là công
việc có tính chiến lược, đòi hỏi sự kiên trì, thực hiện thường xuyên, liên tục và có
giải pháp phù hợp với từng đối tượng, từng nội dung văn hóa cụ thể.
4) Đầu tư, khôi phục và tăng cường tổ chức các lễ hội truyền thống, đồng
thời kết hợp với các hoạt động văn hóa mới, mang tính hiện đại để thu hút đông đảo
cộng đồng tham gia, tham dự.
5) Có các biện pháp lưu ký tài liệu lễ hội dưới dạng chữ viết để có thể lưu
truyền. Do không có chữ viết riêng, các lễ hội của người Mường ngày càng bị mai
một trông thấy. Các lễ hội nổi tiếng như hội sắc bùa, hội xuống đồng, lễ Mụ Thố tới
nay dường như chỉ còn người già biết đến và ít được lưu truyền cho con cháu.
Chính vì thế, nó cần được ghi chép lại và tổ chức rộng rãi trong cộng đồng.
6) Xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng bản sắc văn hóa và xây dựng gia
đình văn hóa. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động văn hóa thông
tin, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin tuyên truyền, đặc biệt
là cán bộ dân tộc thiểu số.
7) Hiện đại hóa văn hóa dân tộc là ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại vào cuộc sống vật chất và tinh thần của đồng bào, loại bỏ bớt các hủ
tục lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của đồng bào. Hiện đại hóa văn hóa
vật chất như ứng dụng các phương tiện kỹ thuật công nghiệp hiện đại để làm nhà
96
theo kiểu truyền thống cho đẹp, chắc chắn và tiện dụng cho sinh hoạt nghỉ ngơi; sử
dụng các tiện nghi hiện đại, tiện dụng cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, sử dụng
thông tin liên lạc để tiết kiệm thời gian, công sức.
Bảo tồn văn hóa dân tộc có nghĩa là vừa loại bỏ được các hủ tục lạc hậu, gìn
giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của dân tộc đó lại vừa tiếp thu được những
nét độc đáo của các nền văn hóa khác, bổ sung để làm phong phú thêm cho nền văn
hóa dân tộc mình.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. "Bản sắc văn hóa Mường cổ truyền và xu hướng biến đổi hiện nay - Qua khảo sát văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình" Mã số B06-27, do PGS, TS Lương Quỳnh Khuê chủ nhiệm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 2. Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo dục, 2000
3. Dân tộc Mường, Nguyễn Quang Lập, NXB Kim Đồng, 2005 4. Diễn xướng Mo - Trượng - Mỡi, Bùi Thiện, NXB Văn hóa Dân tộc, 2005 5. Lễ hội của người Mường - huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Quách Thị Lịch,
2005, NXB Đông Nam Á.
6. Lễ hội cồng - chiêng nét văn hóa đặc sắc của người Mường, Lương Thuỷ,
Báo Dân tộc và Thời đại, 2005.
7. Mo Mường: Mo Mường và nghi lễ tang ma, Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi
Văn Nợi, NXB Văn hóa Dân tộc.
8. Nghi lễ Mo trong đời sống tinh thần của người Mường ở Mường Bi, NXB
Khoa học Xã hội, 2004.
9. Người Mường ở Hòa Bình, Trần Từ, Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam, 1996 10. Người Mường ở Việt Nam, Vũ Đức Tân, NXB Văn hóa Dân tộc, 1999. 11. Người Mường ở Việt Nam = The Muong in Vietnam, Vũ Khánh chủ biên, tài
liệu dịch, 2008, NXB Thông Tấn.
12. Người Mường ở Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình, nhóm biên soạn Nguyễn Thị Thanh
Nga, Nguyễn Ngọc Thanh, NXB Văn hóa Thông tin, 2003.
13. Ngôi nhà sàn Mường Hòa Bình, xưa và nay, Lưu Huy Chiêm, Báo dân tộc và
Thời đại, 2005.
14. Tiếp vận với văn hóa bản Mường – Nghiên cứu và Tiểu luận, Vương Anh,
Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, 2001.
15. Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Bùi Chỉ - NXB Văn hóa dân
tộc, 2001
16. Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình – NXB Văn hóa dân tộc
của PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Nga.
17. Văn hoá truyền thống một số tộc người ở Hoà Bình, Nguyễn Thị Thanh Nga,
Nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc, 2007.
18. Xã hội học Văn hóa, Mai Văn Hai, NXB Khoa học Xã hội, 2003
Mã bảng hỏi..........
BẢNG HỎI VỀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
DÂN TỘC MƢỜNG Ở HUYỆN LẠC SƠN HIỆN NAY
Kính thưa Ông/Bà ! Để phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học của học viên cao học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu để tài: “Tìm hiểu sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường ở huyện Lạc Sơn hiện nay”. Đề nghị ông bà giúp đỡ chúng tôi bằng cách đánh dấu X vào các phương án trả lời thích hợp. Phần trả lời của ông bà chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn ông/bà !
Thôn/bản:......................................................................
Xã:................................................................................
PHẦN I - THÔNG TIN CHUNG VỀ NGƢỜI TRẢ LỜI
1. Tuổi:...............................
2. Giới tính
Nữ
Nam
3. Trình độ học vấn
Cấp 1 Trung cấp, Cao đẳng
Không biết đọc, biết viết Cấp 3
Cấp 2 Đại học, trên đại học
4. Nghề nghiệp (chính)
Làm thuê
Khác (ghi rõ):…………
Cán bộ viên chức Buôn bán dịch vụ
Nông dân Dệt vải
5. Tôn giáo
Tôn giáo khác
Không tôn giáo
Thiên chúa giáo
Phật giáo
6. Tình trạng hôn nhân
Ly thân
Đã lập gia đình 4. Góa chồng/vợ
Chưa lập gia đình Ly dị
7. Gia đình ông/bà có bao nhiêu ngƣời cùng sống trong hộ gia đình? .....................................
8.
Số thế hệ cùng sống trong gia đình ? ......................................................................................
PHẦN II - MỨC SỐNG, THU NHẬP, CHI TIÊU
9: Thƣa ông/bà, nếu so với trƣớc năm 1995, ông/bà thấy mức sống của gia đình hiện nay thay đổi nhƣ thế nào?
Tăng ít
Tăng lên nhiều
Giảm nhiều
Như cũ
Giảm ít
10. Trong gia đình ta, ai là ngƣời ngƣời đem lại nguồn thu nhập chính? (Khoanh 1 ý kiến trả lời)
Chồng
Con cái
Khác
Cả hai
Vợ
11. Ông/bà đánh giá mức sống của gia đình hiện nay thuộc loại nào (Chọn 1 phương án)?
Khá
Trung bình
Nghèo
Đói
Giàu
1
12. Tổng thu nhập ƣớc tính của gia đình ta trong năm vừa qua là bao nhiêu ? (tính trong 12 tháng trở lại đây) ...........................................................ngàn đồng.
13. Trong đó, thu nhập cụ thể từ:
- Lúa : ..................................................ngàn đồng
Buôn bán: ....................................ngàn đồng
- Hoa màu: ..........................................ngàn đồng
Lương: .........................................ngàn đồng
- Chăn nuôi: ........................................ngàn đồng
Làm thuê: .....................................ngàn đồng
- Tiểu thủ công nghiệp: ......................... ngàn đồng Nguồn khác: .................................ngàn đồng
PHẦN III - NỘI DUNG
14. Xin Ông/bà cho biết mô hình sản xuất, kinh doanh chính của ông/bà là:
Nông nghiệp
Hình thức khác
Lâm nghiệp
Buôn bán, DV
Nông - Lâm kết hợp
15. Ông/bà cho biết, hiện tại gia đình có những công cụ sản xuất, máy móc nào sau đây?
15a. Công cụ thô sơ
15b. Máy móc (chạy bằng động cơ)
Cày
Cuốc
Xẻng
Liềm/hái/dao
Máy tẽ ngô (không chạy bằng động cơ)
Máy tuốt lúa (Không chạy bằng động cơ)
Các loại công cụ thô sơ khác (ghi rõ....)
Máy cày/bừa Máy gặt Máy xay, sát lúa, gạo Máy bơm nước Máy tuốt lúa Máy phát điện Máy móc khác
16. Hiện nay, gia đình ông/bà thƣờng trồng các loại lúa, màu và nuôi con gì? (ghi rõ) .................................
.................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................
17. Hiện nay, Ông/bà thƣờng nuôi nhốt gia súc ở đâu ?
Ở dưới gầm nhà sàn
Chỗ khác (ghi rõ)
Có chuồng nuôi nhốt gia súc riêng ở gần nhà
18. Ông/bà cho biết cách thức sản xuất hiện nay có khác gì so với truyền thống hay không?
Có
Không Chuyển đến câu 20 19. Nếu có: Thay đổi như thế nào?
Giống cây/con
Cho thuê thu hoa lợi
Công cụ sản xuất
Làm đổi công Thuê khoán người làm
Mùa vụ Kỹ thuật canh tác
20. Xin ông/bà cho biết tình trạng nhà ở của ông/bà hiện nay:
Nhà tranh tre nứa lá/nhà tạm
Nhà sàn xây kết hợp gỗ
Nhà 2 tầng trở lên
Nhà sàn xây Nhà mái bằng 1 tầng
Nhà sàn gỗ Nhà cấp 4 Nhà khác:………………….
21. Ngôi nhà ông/bà đang ở có đƣợc là do:
Bố mẹ để lại
Nhà nước cấp
Khác (Ghi rõ) :…………….
Tự xây
2
An toàn hơn
Ấm hơn
Thuận lợi cho giao tiếp Lịch sự văn minh hơn
Không thuận lợi như nhà sàn
22. Theo ông/bà, ở nhà kiên cố thuận lợi gì so với ở nhà sàn ?
23. Nếu có điều kiện hoặc đƣợc làm theo ý thích, ông/bà sẽ làm nhà nhƣ thế nào?
Nhà sàn truyền thống
Nhà kiên có một tầng
Nhà sàn hiện đại (đã cải tiến) Nhà kiên cố 2 tầng trở lên
Khác:…………………………
24. Hiện nay gia đình Ông/bà có những tiện nghi sinh hoạt nào sau đây?
1. Xe đạp
12. Điện thoại di động
2. Xe máy
13. Dàn âm thanh
3. Ôtô
14. Máy vi tính
4. Quạt điện
15. Máy giặt
5. Máy điều hòa nhiệt độ
16. Bếp ga
6. Tủ lạnh
17. Tủ/giá sách
7. Tivi màu
18. Bình nóng lạnh
8. Tivi đen trắng
19. Giường
9. Radio-cassette/đầu CD
20. Bàn/ghế
10. Dàn Karaoke
21. Nồi cơm điện
11. Điện thoại
22. Khác
25. Hiện nay Ông/bà có còn mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình không?
Không Chuyển đến câu 27
Có 26. Nếu có, thì thƣờng mặc vào những dịp nào? (có thể chọn nhiều phƣơng án)
Hàng ngày
Ngày lễ (cưới xin, ma chay)
Ngày hội (tết, lễ hội)
Ngày khác: (ghi rõ)…………… 27. Hiện nay ở địa phƣơng Ông/bà, lứa tuổi nào thƣờng mặc trang phục truyền thống ?
Nam
Nữ
Không
Có
Không
Có
1. Người già
2
3
4
1
2. Trung niên
2
3
4
1
3. Thanh niên
2
3
4
1
4. Trẻ em
2
3
4
1
28. Ông/bà có sống cùng bố mẹ của mình không? Vì sao ?
.............................................................................................................................
29. Ông/bà có sống cùng con cái của mình không? Vì sao ?
............................................................................................................................
30: Khi về già Ông/Bà thích sống với ai (chỉ chọn 1 phƣơng án trả lời)
3
Với con trai thứ
Với con gái đã trưởng thành
Với con nào cũng được Sống riêng Sống ở nhà dưỡng não
Với con trai trưởng
31: Theo Ông/Bà, mỗi cặp vợ chồng có nhất thiết phải sinh con trai không?
Nhất thiết
Tiếp câu C9
Không nhất thiết
Chuyển câu C10
32: Nếu nhất thiết phải sinh con trai thì vì sao? (Đƣợc chọn nhiều phƣơng án)
1. Để nối dõi tông đường (nối tiếp các thế hệ)
2. Để ở với con trai khi về già
3. Để có người cúng giỗ khi mất
4. Theo phong tục (vì nhiều người nghĩ thế)
33: Khi có việc hệ trọng (cƣới xin, ma chay, ốm đau, bệnh tật…), gia đình ông bà thƣờng nhờ cậy ai? (Đƣợc chọn nhiều phƣơng án)
Anh em bên chồng
Hàng xóm
Anh em bên vợ
Bạn bè
Bố mẹ chồng Bố mẹ vợ
34. Theo ông bà, những quan hệ nào dƣới đây trong gia đình là quan trọng ? (chọn 3 phƣơng án)
Người già cần được coi trọng hơn người trẻ Cha mẹ để đức cho con hơn để của Đàn ông nên coi trọng sự nghiệp, công danh cá nhân hơn công việc gia đình Đàn bà nên coi trọng việc nhà và gia đình hơn việc xã hội Uy tín, danh giá của gia đình với làng xóm là cần thiết
Con cái cần tuyệt đối vâng lời cha mẹ
35. Hàng năm, gia đình Ông/bà tổ chức các ngày lễ nào sau đây? (Được chọn nhiều phương án trả lời)
Rằm tháng 7 Trung thu Tết cơm mới Cúng ông Công, ông Táo Cúng giao thừa
Giỗ Ngày rằm, mùng một Rằm tháng riêng Lễ thanh minh Tết đoan ngọ 36: Nếu có tổ chức các ngày lễ nêu trên, thì vì sao? (Có thể chọn nhiều phương án)
Để giáo dục con cái Có thờ có thiêng, có kiêng có lành Đó là phong tục truyền thống Khác …………………………………………………………………….
37: Gia đình ông bà thờ cúng ai?
Khác (ghi rõ)……………………
Không thờ gì
Thờ cúng tổ tiên Thờ Phật
38: Hiện nay tại địa phƣơng Ông/bà còn lễ hội không?
Không => Chuyển đến 40
Có
4
Nếu có, thường là lễ hội gì?.............................................................................................
39. Ông/ Bà có thƣờng xuyên tham dự không ?
Tham dự một số lễ hội
Khồng tham dự Tham dự đầy đủ 40. Gia đình ông/bà có đóng góp khi lễ hội đƣợc tổ chức tại địa phƣơng mình không ?
Không Chuyển đến câu 42
Có Chuyển đến câu 43 41: Nếu có. thì gia đình ông/bà đóng góp gì (tiền, hiện vật,...) ? ......................................................................
42: Nếu không, lý do vì sao ông/bà không tham gia? .....................................................................................
..............................................................................................................................................................................
43: Theo Ông/Bà, lễ hội tại địa phƣơng có những tác dụng gì? (Có thể chọn nhiều phương án)
Gắn bó các thành viên trong cộng đồng
Giữ gìn truyền thống văn hóa Là dịp cho các dòng họ thể hiện vai trò của mình Là dịp để vui chơi, gặp gỡ Là dịp để cầu tài, cầu lộc Khác…………………………
44. Khi xây dựng gia đình, ông/bà làm những việc nào trong số những việc dƣới đây? (Chọn tất cả những phương án phù hợp)
Đăng ký kết hôn
Ăn hỏi
Chạm ngõ
Thách cưới
Xem ngày giờ tổ chức đám cưới
Xin dâu/Đón dâu
Nghỉ tuần trăng mật
45: Vợ/chồng của ông/bà là ngƣời ở đâu ?
Cùng huyện
Cùng tỉnh
Khác (ghi rõ)
2.Làng bên cạnh
1.Cùng làng 46: Ông/bà mặc trang phục gì trong ngày cƣới (nếu chƣa kết hôn, hỏi giả định ?
Áo dài
Khác (ghi rõ)
2.Váy cưới hiện đại
1.Trang phục truyền thống
Quần áo bình thường
47: Lễ tang thƣờng đƣợc tổ chức mấy ngày ?
Ba ngày
Khác (ghi rõ)
2.Hai ngày 1.Một ngày 48: Lễ tang có thƣờng mời thầy cúng không ?
2.Không 1.Có Vì sao? ………………………………………..
49: Ông/bà biết nói thành thạo những ngôn ngữ nào dƣới đây ?
Tiếng dân tộc Kinh
Tiếng khác
Tiếng dân tộc mình 50: Trong cộng đồng thôn/bản xã, chỗ đông ngƣời, nơi hội họp, ông/bà thƣờng nói thứ tiếng nào?
Tiếng dân tộc mình
Tiếng dân tộc Kinh
Tiếng dân tộc khác (ghi rõ)
51. Trong gia đình, ông/bà thƣờng sử dụng ngôn ngữ nào là chính ?
Tiếng phổ thông
Tiếng dân tộc khác (ghi rõ)
Tiếng dân tộc mình 52: Ông/bà có đồng ý hay không đồng ý những nhận định sau:
5
Đồng ý
Không đồng ý
Không ý kiến
Mọi người đều phải biết tiếng của dân tộc mình Nên dạy tiếng dân tộc ở trường học Chỉ cần học tiếng Kinh, không cần biết tiếng dân tộc Cả hai tiếng
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của Ông/Bà!
6