HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------------------------------------ NGUYỄN THỊ HẰNG BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG HIỆN NAY NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MƯỜNG TẠI HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------------------------------------ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG HIỆN NAY NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MƯỜNG TẠI HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HÒA BÌNH CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Mã số: 60 31 30

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS-TS VŨ HÀO QUANG

NGƯỜI THỰC HIỆN

: NGUYỄN THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2008

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Mô hình sản xuất kinh doanh ........................................................................ 55

Bảng 2: Việc sử dụng các công cụ sản xuất ............................................................... 58

Bảng 3: Tỷ lệ các loại nhà ở ....................................................................................... 60

Bảng 4: Tỷ lệ sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng ngày .......................................... 62

Bảng 5: Tỷ lệ người mặc trang phục truyền thống ở địa phương phân theo nhóm tuổi ... 65

Bảng 6: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống phân theo Vùng ......................................... 68

Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng các ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng ............................... 69

Bảng 8: Tỷ lệ gia đình tổ chức các ngày lễ/tết ................................................................. 73

Bảng 9: Các thủ tục cưới xin của người Mường .............................................................. 78

Bảng 10: Không gian kết hôn của người Mường ............................................................ 79

Bảng 11: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới ........................................ 80

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu 1: Tỷ lệ sử dụng các loại nhà ở phân theo vùng .................................................... 61

Biểu 2: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống dân tộc ....................................................... 66

Biểu 3: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp ở thị trấn Vụ Bản ................................... 68

Biểu 4: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp ở vùng Mường Vang ............................. 69

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 4

1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 4 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................. 6 2.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả người nước ngoài ..................... 6 2.2. Công trình nghiên cứu của các học giả người Việt Nam ............................... 7 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: .................................................................. 9 3.1. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................................... 9 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................................................... 9 4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiêm cứu: ............................................. 10 4.1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................... 10 4.2. Khách thể nghiên cứu: ................................................................................... 10 4.3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 10 5. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết ..................................................... 10 5.1. Giả thuyết nghiên cứu: ................................................................................... 10 5.2 Mô hình khung lý thuyết: ................................................................................ 12 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 12 6.1. Phương pháp luận: ......................................................................................... 12 6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: .................................................................. 13 6.2.1. Phương pháp định lượng ............................................................................ 13 6.2.2. Nhóm phương pháp định tính: .................................................................... 15

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 16

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................. 16

I. Một số lý thuyết và các khái niệm công cụ đƣợc vận dụng trong đề tài . 16 1. Một số khái niệm công cụ của đề tài ........................................................... 16 1.1. Khái niệm văn hóa .......................................................................................... 16 1.2. Khái niệm dân tộc ........................................................................................... 16 1.3. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa................................................................ 17 1.4. Bản sắc văn hóa: ............................................................................................. 18

2. Những quan điểm và lý thuyết xã hội học đƣợc vận dụng trong đề tài nghiên cứu ......................................................................................................... 19 2.1. Quan điểm của một số nhà xã hội học về giá trị : ......................................... 19 2.2. Quan điểm về biến đổi văn hóa ...................................................................... 21 2.3. Lý thuyết phát triển và biến đổi xã hội ........................................................... 22

II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ...................................................................... 22 1. Bản sắc văn hóa Mường - sự hình thành và phát triển ................................... 22 2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ...................................................................................................... 24

1

CHƢƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƢỜNG ....................................... 30

I. Bản sắc văn hóa truyền thống ..................................................................... 30 1. Tập quán sản xuất .............................................................................................. 30 1.1. Nghề trồng lúa nước ....................................................................................... 30 1.2. Một số nghề phụ khác ..................................................................................... 31 1.2.1.Chăn nuôi ...................................................................................................... 32 1.2.2. Làm vườn ..................................................................................................... 32 1.2.3. Nghề thủ công gia đình ............................................................................... 33 1.2.4. Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên ............................................................. 33 2. Đặc điểm cư trú và nhà ở, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ...... 35 2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở: .............................................................................. 35 2.1.1. Đặc điểm cư trú: .......................................................................................... 35 2.1.2. Đặc điểm nhà ở: ........................................................................................... 35 2.2. Tập quán tiêu dùng ......................................................................................... 40 2.3.Tập quán ẩm thực ............................................................................................ 41 2.4. Trang phục ...................................................................................................... 42 2.4.1. Trang phục nam giới ................................................................................... 42 2.4.2. Trang phục phụ nữ ...................................................................................... 42 3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng ............................. 43 3.1.Quan hệ gia đình, dòng họ .............................................................................. 43 3.2 Tổ chức đời sống cộng đồng ............................................................................ 44 3.2.1. Tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường........................................ 44 3.2.2. Chế độ Lang Cun ......................................................................................... 45 3.2.3. Tục lệ nhà Lang: .......................................................................................... 46 4. Tín ngưỡng, lễ hội, hôn nhân và ma chay ........................................................ 47 4.1.Tập quán tín ngưỡng, lễ hội ............................................................................ 47 4.1.1.Tín ngưỡng .................................................................................................... 47 4.2. Tập quán hôn nhân của dân tộc Mường ....................................................... 53 4.3. Tập quán ma chay của người Mường ........................................................... 56 III. Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay ................. 60 1. Tập quán và công cụ sản xuất ........................................................................... 60 1.1. Tập quán sản xuất: ......................................................................................... 60 1.2. Công cụ sản xuất............................................................................................. 63 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ................................................. 64 2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở hiện nay ................................................................ 64 2.2. Tiện nghi và đồ dùng sinh hoạt hiện nay ...................................................... 67 2.4. Việc mặc trang phục truyền thống ................................................................. 71 2.5. Ngôn ngữ: ....................................................................................................... 73 3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng ................................ 76 3.1. Quan hệ gia đình, dòng họ hiện nay .............................................................. 76 3.2. Tổ chức đời sống cộng đồng ........................................................................... 77

2

4. Tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin .............................................................. 78 4.1.Tín ngưỡng, lễ hội............................................................................................ 78 4.1.1.Về tín ngưỡng ................................................................................................ 78 4.1.2. Về lễ hội hiện nay......................................................................................... 80 4.2. Ma chay ........................................................................................................... 82 4.3. Cưới xin ........................................................................................................... 83

III. Những nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mƣờng ............................................................................................................................ 87 IV. Xu hƣớng biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng .................... 90 1. Tập quán và công cụ sản xuất ........................................................................... 90 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng ................................................. 91 3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng ............................. 92 4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin .............................................. 92

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 93

1. Kết luận ............................................................................................................... 93 2. Kiến nghị ............................................................................................................ 95

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Trong tiến trình lịch sử, không có nền văn hóa nào lại không tiếp thu, ảnh

hưởng và biến đổi do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Các

nền văn hóa của các dân tộc, trong khi tồn tại, tự thân nó đã chứa đựng và tiếp

nhận các yếu tố văn hóa mới như một quá trình tự nhiên, rồi khi có những tác động

mạnh của những điều kiện kinh tế - xã hội, các chính sách xã hội thì sự biến đổi

diễn ra càng rõ nét. Vì vậy, không quá ngạc nhiên khi trong thực tiễn, nền văn hóa

dân tộc này bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa dân tộc kia để thậm chí dẫn đến nhiều

nền văn hóa bị mai một, mất đi bản sắc riêng của mình.

Trong điều kiện ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và đô thị

hóa làm tăng cường giao lưu và hội nhập đưa đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đồng

thời, đây cũng là một thách thức lớn đối với nền văn hóa của các dân tộc, đặc biệt

là nền văn hóa của các dân tộc thiểu số.

Đối với đất nước ta, khi cách mạng tháng Tám thành công (năm 1945) đã

khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước dân chủ kiểu mới,

có sức mạnh to lớn làm thay đổi diện mạo nền văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam. Nó thay đổi trước tiên trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử :

Kế thừa và phát triển. Tính từ thời điểm này đến trước thời kỳ đổi mới (1986), trải

qua nhiều thập niên, văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và dân tộc

Mường nói riêng, về cơ bản, vẫn giữ được bản sắc truyền thống biểu hiện trên

nhiều lĩnh vực văn hóa.

Từ sau khi đất nước ta tiến hành đổi mới, bên cạnh các chính sách cải cách

về kinh tế thì các chính sách về văn hóa cũng đặc biệt được quan tâm theo quan

điểm bao trùm: bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Thời kỳ này, nền kinh tế nước

4

ta có những chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi hẳn về chất, đời sống của nhân dân nói

chung, đồng bào miền núi nói riêng từng bước đi vào ổn định. Trong bối cảnh biến

đổi mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, văn hóa cũng có những biến đổi sâu sắc trên

tất cả các mặt : văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội và ngôn

ngữ,…Sự biến đổi này thể hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, đã có những

biểu hiện rất rõ của chiều hướng mất dần truyền thống.

Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng và

Nhà nước ta hết sức quan tâm. Vấn đề này được nhấn mạnh trong các Văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX, thứ X và cụ thể hóa thành các chương

trình hành động trong thực tiễn.

Trong bối cảnh ấy, nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số trở thành một

trong những vấn đề trọng tâm của các ngành khoa học xã hội.

Dân tộc Mường là một trong những dân tộc thiểu số có tỷ lệ dân cư đông, bề

dày truyền thống văn hóa lâu đời và có nhiều nét tương đồng với dân tộc Kinh. Dân

tộc Mường chủ yếu tụ cư ở tỉnh Hòa Bình - vùng đất nổi tiếng với “Nền văn hóa

Hòa Bình”, là khởi thuỷ của nền văn minh lúa nước - nền văn minh sông Hồng

được ghi nhận trong diễn trình lịch sử dân tộc. Hòa Bình cũng là địa bàn tụ cư của

nhiều dân tộc như Kinh, Thái, Mông, Dao, Tày,…Mỗi dân tộc đều có đặc trưng

riêng về ngôn ngữ, chữ viết, trang phục, phong tục tập quán, lễ nghi, sinh hoạt và

cách tổ chức đời sống cộng đồng,… tạo nên vẻ đẹp đặc sắc trong bức tranh văn hóa

Hòa Bình.

Với đặc thù về mặt địa lý, văn hóa Mường thể hiện sự giao lưu mạnh mẽ với

các nền văn hóa của các dân tộc thiểu số. Đồng thời, văn hóa Mường có nhiều nét

tương đồng với dân tộc Kinh. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh, dân tộc Mường

và dân tộc Kinh có chung nguồn gốc. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã xác định

rằng, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa Mường chính là tìm về cội nguồn xa xưa của

5

chúng ta. Tuy nhiên, do không có chữ viết riêng, văn hóa Mường ngày càng bị mai

một trông thấy.

Mặt khác, dưới tác động của nền kinh tế thị trường và đô thị hóa, vấn đề bảo

tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa Mường trở thành một trong những thách

thức rất lớn. Văn hóa Mường có những nét đặc sắc nổi trội cần được quan tâm, duy

trì và phát triển.

Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài : “Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân

tộc Mường hiện nay” với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào xu hướng nghiên

cứu văn hóa dân tộc trong xã hội học cũng như các giải pháp hợp lý nhằm duy trì

và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Mường.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:

Văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa dân tộc Mường nói riêng đã và đang

được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ

khác nhau.

2.1. Các công trình nghiên cứu của các học giả người nước ngoài

Các nhà nghiên cứu người Pháp, đặc biệt là các nhà dân tộc học quan tâm

nghiên cứu văn hóa dân tộc Mường từ rất sớm - từ những năm 1940, khi Việt Nam

còn là thuộc địa của thực dân Pháp.

Công trình nghiên cứu về ngƣời Mƣờng của Jeanne Cuisinier: “Người

Mường, Địa lý nhân văn và Xã hội học (1946) - Viện Dân tộc học – Paris, có thể

xem là công trình Xã hội học đầu tiên nghiên cứu về người Mường nói chung và

văn hóa Mường nói riêng. Công trình này đã đề cập tới một số nét đặc trưng về

phong tục, tập quán và đặc điểm của người Mường.

6

Cuốn “Việc xây dựng nhà ở của người Mường” của Barker, Milton E. 1980.

đã giới thiệu về cách làm nhà sàn truyền thống của người Mường.

Các công trình nghiên cứu của Milton và Barker (người Pháp) những năm

1970 gồm “âm vị tiếng Mường” (1968), “Bài học tiếng Mường”, “Từ điển

Mường-Anh-Việt” hay công trình nghiên cứu “So sánh ngôn ngữ Mường với ngôn

ngữ Kh-mer” chỉ là những công trình nghiên cứu thuần tuý thuộc lĩnh vực ngôn

ngữ học.

Có thể nói, qua các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đã

cho thấy dân tộc Mường đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên

cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu dừng lại ở việc tìm hiểu

đặc trưng phong tục tập quán, tộc người. Chưa có công trình nào nghiên cứu về sự

biến đổi văn hóa của người Mường.

2.2. Công trình nghiên cứu của các học giả người Việt Nam

Cuốn Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình – NXB Văn hóa

dân tộc của PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Nga giới thiệu về văn hóa truyền thống

của người Mường, người Thái và người Mông ở Hòa Bình. Sự biến đổi và giao

lưu văn hóa giữa các tộc người Mường, Thái, Mông ở Hòa Bình.

Cuốn Người Mường ở Việt Nam – NXB Văn hóa Dân tộc, 1999 nêu những

nét chính về văn hóa vật chất và tinh thần của người Mường: đặc trưng về lối

sống, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, ẩm thực, kiến trúc.

Cuốn Người Mường ở Hòa Bình - Trần Từ - Hội Khoa học Lịch sử Việt

Nam, 1996 nghiên cứu các vấn đề của người Mường như xã hội Mường cổ truyền,

đặc điểm của loại ruộng Lang, việc khai thác ruộng và phát canh thu tô.

Cuốn Dân tộc Mường – NXB Kim Đồng, 2005 nêu một số nét cơ bản về

nguồn gốc, cư trú, tổ chức, văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội, ... của dân tộc

Mường.

7

Cuốn Người Mường ở Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình của nhóm biên soạn Nguyễn

Thị Thanh Nga, Nguyễn Ngọc Thanh, NXB Văn hóa Thông tin, 2003 nêu những

đặc trưng cơ bản về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội của Mường Bi - một

trong bốn cái nôi của người Mường (Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng,

Mường Động).

Các công trình nghiên cứu của văn hóa học về dân tộc Mường như Cuốn:

1)Tiếp cận với văn hóa bản Mường – Nghiên cứu và tiểu luận, Vương Anh, Nhà

xuất bản Văn hóa Dân tộc, 2001; 2)Nghi lễ mo trong đời sống tinh thần của người

Mường ở Mường Bi – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 2004; 3) Dân tộc Mường,

Nguyễn Quang Lập, NXB Kim Đồng, 2005: Giới thiệu những đặc trưng cơ bản về

nguồn gốc, các đặc trưng kinh tế - văn hóa - xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng

của người Mường; 4)Người Mường ở Việt Nam, Vũ Đức Tân, NXB Văn hóa Dân

tộc, 1999; 5) Người Mường ở Hòa Bình, Trần Từ, Hội Khoa học Lịch sử Việt

Nam, 1996. Cuốn sách nghiên cứu về các vấn đề của người Mường ở Hòa Bình

như: xã hội Mường cổ truyền, đặc điểm của loại ruộng Lang, việc khai thác riêng

và phát canh thu tô; 6) Cuốn Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Bùi

Chỉ - NXB Văn hóa dân tộc, 2001, nói về các món ăn dân gian đặc trưng của

người Mường, khác với các dân tộc khác; 7) Mo Mường: Mo Mường và nghi lễ

tang ma, Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi Văn Nợi; 8) Diễn xướng Mo - Trượng -

Mỡi, Bùi Thiện giới thiệu về những áng mo nổi tiếng của dân tộc Mường.

Tất cả những công trình nghiên cứu trên dường như chỉ dừng lại ở việc tìm

hiểu các đặc trưng về tộc người Mường cũng như phong tục tập quán dưới giác độ

thuần tuý về văn hóa học.

Có một số công trình xã hội học văn hóa nghiên cứu sâu sắc về người

Mường Thanh Sơn – Phú Thọ trong cuốn “Tổ chức xã hội cổ truyền và những

biến đổi của nó ở người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ” và cuốn “Người Mường ở

8

Thanh Sơn” đã phân tích các đặc trưng về tổ chức xã hội cổ truyền của người

Mường và những biến đổi của nó ở Thanh Sơn - Phú Thọ.

Đề tài cấp Bộ: "Bản sắc văn hóa Mường cổ truyền và xu hướng biến đổi

hiện nay - Qua khảo sát văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình" Mã số B06-27, do PGS,

TS Lương Quỳnh Khuê làm chủ nhiệm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền làm cơ

quan chủ trì 20/2/2008 có thể coi là công trình nguyên cứu đầu tiên về sự biến đổi

của văn hóa dân tộc Mường. Tác giả đã khảo sát và phân tích các kết quả nghiên

cứu về văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình, đồng thời trình chiếu những tấm ảnh do

tác giả chụp phản ánh văn hóa vật chất (ăn, mặc, ở, hoạt động sản xuất) và văn hóa

tinh thần, tâm linh của đồng bào Mường tỉnh Hòa Bình nói chung. Qua đó, tác giả

cũng dự báo xu hướng biến đổi của văn hóa Mường trước xu thế hội nhập và

những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát triển văn hóa Mường.

Đề tài nghiên cứu “Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường hiện

nay – Nghiên cứu trường hợp đồng bào Mường ở huyện Lạc Sơn, Hòa Bình”

mong muốn đóng góp thêm một phần nhỏ vào xu hướng nghiên cứu sự biến đổi

văn hóa Mường, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Luận văn tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hiện nay về

văn hóa dân tộc Mường. Đồng thời tìm hiểu nguyên nhân và xu hướng biến đổi một

số giá trị văn hóa Mường. Từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách nhằm

bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường.

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên

cứu về biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường hiện nay.

9

- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa Mường hiện nay

- Phân tích và làm rõ các nhân tố tác động làm biến đổi văn hóa dân tộc

Mường.

- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc Mường.

4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiêm cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Biến đổi một số giá trị văn hóa của dân tộc Mường hiện nay

4.2. Khách thể nghiên cứu:

Cộng đồng dân tộc Mường ở Hòa Bình (nghiên cứu trường hợp tại vùng

Mường Vang và Thị trấn Vụ Bản của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình).

4.3. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự biến đổi một số giá trị văn hóa Mường.

Các giá trị văn hóa này là những thành tố chính giúp cấu thành bản sắc văn hóa dân

tộc Mường, gồm các thành tố như sau:

- Tập quán và công cụ sản xuất

- Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng

- Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng

- Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin

5. Giả thuyết và mô hình khung lý thuyết

5.1. Giả thuyết nghiên cứu:

10

- Sự biến đổi văn hóa Mường chịu tác động của hàng loạt các nguyên nhân,

trong đó yếu tố tác động mạnh nhất là chính sách phát triển kinh tế, xã hội cũng

như sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

- Sự biến đổi các giá trị văn hóa của dân tộc Mường được biểu hiện rất

phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu

cực, nhưng chủ yếu theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên đã có những biểu hiện rất

rõ của sự mất dần bản sắc văn hóa truyền thống.

- Phong tục tập quán sinh hoạt và tổ chức đời sống cộng đồng là hai yếu tố

chịu sự biến đổi nhiều nhất.

- Văn hóa Mường biến đổi theo chiều hướng tăng cường giao lưu giữa các

nền văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc Kinh, địa bàn nào giao lưu mạnh mẽ hơn

với dân tộc Kinh thì sẽ có sự biến đổi nhanh hơn.

11

5.2 Mô hình khung lý thuyết:

CÁC ĐẶC TRƢNG NHÂN KHẨU

CÁC YẾU TỐ CHỦ QUAN

- Tuổi, giới tính

- Bản thân nền văn hóa

- Trình độ học vấn

- Đặc trưng về ngôn ngữ

- Nghề nghiệp

CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN - Các chính sách phát triển KT-XH, nền KTTT - Sự tăng cường giao lưu hội nhập - Địa bàn cư trú

Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay: 1. Tập quán và công cụ sản xuất 2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng 3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng 4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin,…

Hệ quả xã hội

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp luận:

Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật biện chứng mọi sự vật và hiện tượng có

12

mối liên hệ mật thiết với nhau và chúng luôn vận động, biến đổi và phát triển. Đó

là quy luật tất yếu của các sự vật hiện tượng, sự vật, hiện tượng mới ra đời tiến bộ

hơn, chất lượng hơn thay thế cho sự vật hiện tượng cũ để có thể thích nghi với

hoàn cảnh mới. Tác giả vận dụng quan điểm này để nhằm khẳng định sự biến đổi

của các giá trị văn hóa như một quy luật xã hội tất yếu trước yêu cầu của sự phát

triển.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử với những phân tích quan trọng trong việc lấy

mâu thuẫn là nhân tố có sẵn trong chính mỗi phương thức sản xuất để giải thích

các quy luật vận động và biến đổi thông qua các hành động của con người kể cả

đối với sự xuất hiện của các xã hội và các nền văn hóa khác nhau. Những giá trị

văn hoá phản ánh cách thức tổ chức của đời sống cộng đồng xã hội. Thực tại xã

hội quyết định ý thức xã hội. Văn hoá phản ánh tồn tại xã hội, nên khi các điều

kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì văn hóa tất yếu thay đổi. Đến lượt mình, văn hóa

có tác động ngược trở lại đối với cơ sở kinh tế. Hiểu được những điều này, tác giả

có cơ sở quan trọng để lý giải sự biến đổi các giá trị văn hóa.

6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Để tiếp cận nghiên cứu đạt kết quả đặt ra, luận văn đã sử dụng các phương

pháp nghiên cứu xã hội học để xem xét góc độ biến đổi về văn hóa dân tộc Mường.

Đồng thời kết hợp với tiếp cận nghiên cứu theo phương pháp dân tộc học và

phương pháp phân tích tài liệu nhằm kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây.

Cụ thể là các phương pháp nghiên cứu sau:

6.2.1. Phương pháp định lượng

Đề tài thu thập thông tin định lượng bằng bảng hỏi Ankét với 200 phiếu hỏi,

tiến hành ở vùng Mường Vang (141 phiếu) và Thị trấn Vụ Bản (59 phiếu) thuộc

huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Người Mường có câu truyền miệng nổi tiếng:

“Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. Mường Vang được xem là một trong

bốn “Cái nôi của văn hóa Mường”, thể hiện những nét đặc sắc của văn hóa

13

Mường. Đây cũng là lý do tác giả chọn vùng Mường Vang làm địa bàn nghiên cứu.

Đồng thời địa bàn xóm Nghĩa thuộc thị trấn Vụ Bản cũng được chọn nghiên cứu

nhằm mục đích so sánh giữa các địa bàn nghiên cứu dưới tác động của điều kiện

kinh tế - xã hội khác nhau.

Luận văn áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích. Địa bàn nghiên cứu

gồm có hai vùng: Vùng Thị trấn (59 phiếu hỏi) và Vùng Mường Vang (141 phiếu

hỏi). Lý do chọn hai vùng này là vì vùng Mường Vang là một trong bốn cái nôi

sinh ra người Mường, thể hiện được những nét đặc trưng nhất của văn hóa Mường,

Mường Vang là địa bàn cách xa thị trấn; còn vùng thị trấn để đo mức độ tác động

của đô thị hóa tới sự biến đổi của văn hóa. Từ đó, ta thấy sự khác biệt về mức độ

biến đổi khác nhau như thế nào giữa hai vùng.

Bên cạnh việc áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích, Luận văn áp

dụng quy trình chọn mẫu ngẫu nhiên và chọn mẫu phân tầng.

Áp dụng công thức chọn mẫu ngẫu nhiên k = N/n, trong đó k là khoảng cách

giữa tổng thể và dung lượng mẫu cần chọn. Trên cơ sở danh sách nhân khẩu của

các xã, được đánh số ngẫu nhiên, trung bình cứ 8 hộ, ta chọn 1 hộ để nghiên cứu.

Đồng thời luận văn cũng áp dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng theo

giới tính và nhóm tuổi.

Cơ cấu mẫu như sau:

Tuổi

Nam

Nữ

Tổng số

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

18-30

35

32.7%

44.1%

76

38%

41

31-49

38

35.5%

36.6%

72

36%

34

Từ 50 trở lên

34

31.8%

19.4%

52

26%

18

107

100%

100%

200

100%

93

Tổng số

14

6.2.2. Nhóm phương pháp định tính:

- Phương pháp phỏng vấn sâu

- Phương pháp phân tích tài liệu: Luận văn dựa trên các tài liệu dân tộc học,

văn hóa học và các tài liệu có sẵn khác để tìm hiểu, phân tích bản sắc văn hóa

truyền thống của dân tộc Mường.

- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở phương pháp phân tích tài liệu và kết quả

khảo sát, luận văn so sánh sự thay đổi của văn hóa dân tộc Mường hiện nay so với

bản sắc truyền thống.

15

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

I. Một số lý thuyết và các khái niệm công cụ đƣợc vận dụng trong đề tài

1. Một số khái niệm công cụ của đề tài

1.1. Khái niệm văn hóa

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa. Dưới góc độ xã hội học, văn

hóa là sản phẩm của con người, là cách quan niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống.

Văn hóa là để đáp ứng những nhu cầu nhất định của con người, là “mức độ con

người hóa” chính bản thân mình và tự nhiên.

Theo cách định nghĩa này, văn hóa đặc trưng cho một số xã hội nhất định và

đem lại diện mạo, bản sắc riêng của nó. Văn hóa bao gồm tất cả mọi sản phẩm của

con người. Và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất

của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa,

quần áo, các phương tiện,…

Như vậy trong xã hội học, văn hóa có thể được xem xét như hệ thống các giá

trị, chân lý và các chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau

trong quá trình tương tác và trải qua thời gian.

Các nhóm, các cộng đồng xã hội, các dân tộc trong mỗi xã hội khác nhau đều

xây dựng các giá trị, các chân lý, các chuẩn mực đặc trưng cho mình và như vậy họ

đã có một nền văn hóa.

1.2. Khái niệm dân tộc

Khái niệm “dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể (Mường, Thái, Việt,

Hoa,...), đó thực ra là khái niệm “Tộc người”, là một hình thái đặc thù của một tập

đoàn người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên

16

và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự

giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng ngàn năm lịch sử, ứng với mỗi

chế độ kinh tế - xã hội gắn với các phương thức sản xuất, tộc người có một trình độ

phát triển, được gọi bằng các tên: bộ lạc, bộ tộc chiếm nô, bộ tộc phong kiến, dân

tộc tư bản chủ nghĩa, dân tộc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, thực chất của “Dân tộc

Mường, dân tộc Kinh” người ta quen gọi chỉ là “tộc người Mường”, “Tộc người

Kinh”.

1.3. Khái niệm giá trị và giá trị văn hóa

Giá trị là phạm trù cơ bản của triết học, giờ đây được sử dụng rộng rãi trong

đời sống hàng ngày cũng như trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Thông thường, khi nói đến giá trị là nói đến tính ích lợi, tính có ý nghĩa của các

đối tượng trong hiện thực khách quan đối với cuộc sống của cá nhân, của nhóm và

xã hội. Nhà xã hội học J. H. Fichter cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham

chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” [5; tr

173-174]. Như vậy, khái niệm giá trị cần được hiểu một cách tường minh bao gồm

cả kinh nghiệm, tri thức, vốn sống, kỹ thuật, kỹ năng và công cụ lao động. Giá trị

là cái dùng để chỉ các phẩm chất và đức tính cao quý của con người, là cái được đa

số người trong xã hội ao ước và cùng nhau chia sẻ. Giá trị gắn liền với cái hay, cái

đẹp, cái đúng, cái tốt, cái có khả năng thôi thúc con người nỗ lực hành động để

vươn tới lý tưởng chân, thiện, mỹ.

Giáo sư Phạm Minh Hạc cho rằng, mục đích của hoạt động bao giờ cũng là

làm sao đạt tới cái mà mình cho là có giá trị đối với bản thân. Từ đó, có thể đi tới

định nghĩa giá trị là cái quy định mục đích của hoạt động

17

Theo ông, dưới góc độ của giá trị học, đời người là tổng các giá trị do người

đó tạo nên, tiếp thu, chấp nhận, lấy làm chuẩn mực bằng dòng hoạt động của bản

thân. Tổng các giá trị này là văn hóa của người đó.

Từ các quan điểm trên, có thể đi đến một cách hiểu chung về giá trị, đó là

cái quy định mục đích của hoạt động, cái định hướng cho hoạt động của chủ thể,

là cái mà chủ thể cần có để đạt được mục đích hoạt động của mình. Giá trị là sự

thể hiện mối quan hệ lợi ích, đánh giá của chủ thể với tồn tại xung quanh. Trong

giá trị bao giờ cũng hàm chứa những đặc tính ích lợi, có ý nghĩa tốt đẹp với chủ

thể.

Trong xã hội loài người, mỗi cộng đồng (nhóm xã hội hoặc giai tầng xã hội)

đều có một hệ thống giá trị đặc thù đóng vai trò là hạt nhân tạo nên tâm thức

chung của cộng đồng và định hướng cho các thành viên trong cộng đồng cùng

thống nhất hành động.

Từ quan niệm về giá trị ở trên, có thể dẫn dắt tới việc hiểu khái niệm giá trị

văn hóa như là tổng thể các quan niệm, thái độ, lối sống, phong tục,..., chúng định

hướng cho hoạt động của các cá nhân/cộng đồng. Các giá trị văn hóa này có thể

thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và các yếu tố chi phối

các giá trị đó.

Các giá trị văn hóa có thể kể đến như ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập

quán (sản xuất, tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ...), cách thức tổ chức đời sống cộng

đồng,...

1.4. Bản sắc văn hóa:

Bản sắc văn hóa dân tộc có thể hiểu là tổng thể các giá trị đặc trưng bản

chất của văn hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch

sử lâu dài của đất nước, các giá trị đặc trưng ấy ở “tầng nền” mang tính bền vững,

18

trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Do vậy, muốn nhận biết nó, phải thông qua vô

vàn các sắc thái văn hóa với tư cách là hiện diện của các sắc thái văn hóa ấy. Nếu

bản sắc văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững, thì các sắc thái biểu hiện của

nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn. Từ quan niệm chung như vậy,

chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng của

bản sắc văn hóa Việt Nam, như là chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, tinh thần

cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn hóa,...tính duy trình trong các cư

xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong các cư xử với tự nhiên,...

2. Những quan điểm và lý thuyết xã hội học đƣợc vận dụng trong đề tài nghiên cứu

2.1. Quan điểm của một số nhà xã hội học về giá trị :

Trên cơ sở quan điểm của nhà xã hội học người Mỹ J.H.Fichter như đã dẫn

dắt ở trên, rằng “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối

với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” [5; tr 173-174], tác giả đi đến sự lý

giải sự biến đổi giá trị từ thế hệ này qua thế hệ khác, dưới sự tác động của các

nhân tố chủ quan và khách quan như điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm cư trú,

các đặc trưng nhân khẩu, …

Tác giả cũng dựa trên quan điểm của R.Hartman để lý giải sự thay đổi giá

trị giữa các thế hệ và các địa bàn nghiên cứu khác nhau. R.Hartman ( 1910 - 1973)

đã đưa ra 3 chiều kích của giá trị để đi đến các thước đo giá trị.

a) Giá trị nội tại là giá trị cá thể hay giá trị tinh thần, được xác định qua vô

số các đặc điểm bằng vô số cách đo, được mô tả như là giá trị của bản thân sự vật

hay bản thân cá thể người. Thước đo giá trị ở đây là sự đồng cảm, lòng tự tin, xác

định giá trị của bản thân sự vật và của riêng cá thể người.

19

b) Giá trị ngoại tại là giá trị thực tiễn, gắn vào hoàn cảnh, được xác định qua

một số thuộc tính nhất định, được mô tả qua các quan điểm trừu tượng, giá trị so

sánh, nhóm lớp các sự vật họ hàng, cụ thể, giá trị tốt, tốt hơn, tốt nhất, các giá trị

vật chất, thực tiễn. Thước đo giá trị là một phán đoán thực tiễn hay ý thức về vai

trò. Xác định xem sự vật này có giống sự vật khác không, xếp vào lớp sự vật nào.

c) Giá trị hệ thống là quan điểm giá trị hay giá trị lý thuyết, được xác định

qua một số thuộc tính hữu hạn, được mô tả qua kiến tạo của tâm trí hay ý tưởng, giá

trị của sự hoàn thiện, vật trắng hay vật đen. tính phù hợp, thứ tự diễn dịch logic,

tính kiên định. uy quyền, vận dụng vào mọi vật là bộ phận của hệ thống, Thước đo

giá trị là hệ thống phán đoán và phương hướng của bản thân, xem sự vật này được

đo đạc có thích hợp không.

Nếu căn cứ vào vấn đề "con người đặt giá trị ở đâu?”, Spranger đưa ra mô

hình lý thuyết nổi tiếng thế giới về quan điểm giá trị. Spranger sử dụng phương

pháp thấu hiểu để khảo sát một số lĩnh vực trong cuộc sống xã hội của con người,

từ đó rút ra 6 mô hình phương hướng hay lĩnh vực liên quan đến giá trị như sau:

- Mô hình lý luận: trong đó quan điểm giá trị thống trị là nhận thức phổ biến

và chân lý thoả đáng đối với đối tượng, trọng tâm cuộc sống của những người

thuộc mô hình này có quan điểm giá trị được đặt vào việc truy tìm chân lý và nhận

thức phổ biến.

- Mô hình kinh tế: trong đó quan điểm giá trị thống soái là tính hiệu quả,

tính kinh tế như “được mất” đánh giá mọi sự vật trên quan điểm hiệu quả và kinh

tế, nhìn nhận thời gian và không gian, hành động của con người cũng từ góc độ

ấy.

20

- Mô hình thẩm mỹ: trong đó quan điểm giá trị về cái đẹp thống trị toàn bộ

cuộc sống của những người thuộc mô hình này, họ theo đuổi cái đẹp trên lập

trường tự do vượt lên mọi giới hạn của hiện thực.

- Mô hình xã hội: trong đó tình yêu con người thống trị toàn bộ cuộc sống

của những người thuộc mô hình xã hội, họ trải nghiệm qua sự thăng tiến của giá

trị với những hành vi xã hội quên mình vì người khác.

- Mô hình quyền lực: trong đó ý chí quyền lực chi phối tất cả, giá trị trung

tâm đặt vào việc làm thế nào để chi phối mọi sự vật và xã hội theo ý mình.

- Mô hình tôn giáo: trong đó toàn bộ cơ cấu tinh thần hướng vào việc liên tục

sản sinh ra những kinh nghiệm giá trị thoả mãn cao nhất và đáy đủ nhất.

Những mô hình phương hướng này nói một cách khác chính là thang giá trị

chi phối mọi hành vi, lối sống, ứng xử của cá nhân (ví dụ cá nhân theo mô hình

kinh tế thường lấy tiêu chuẩn "được mất" để đánh giá và quyết định hành vi và

phương tiện thực hiện hành vi...).

Vận dụng các quan điểm về giá trị trên để lý giải sự khác biệt văn hóa giữa

các thế hệ, các vùng cư trú và các thời điểm khác nhau. Mỗi thế hệ, mỗi thời điểm

và ở các vùng cư trú khác nhau có thể dẫn tới sự lựa chọn các mô hình khác nhau

dẫn tới sự khác biệt hay sự biến đổi về giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ

khác.

2.2. Quan điểm về biến đổi văn hóa

Lý thuyết của Parson cho rằng các “giá trị cơ bản” một khi đã hình thành thì

khó thay đổi, bất chấp những rối loạn tâm lý xã hội và nếu có biến đổi thì cũng diễn

ra trong khoảng thời gian rất dài.

Phát triển luận điểm của Parson, R.Inglehart có những nghiên cứu thực

nghiệm khẳng định giá trị có thể biến đổi qua các thế hệ. Sự chuyển đổi của giá trị

21

về cơ bản vẫn xuất phát từ giả thiết cho rằng những giá trị một khi đã hình thành sẽ

ổn định cao độ suốt cuộc đời, vì vậy sự chuyển đổi giá trị trong lập luận của ông

thực ra là sự chuyển đổi lâu dài giữa các thế hệ mà chủ yếu là do lớp thanh niên

thực hiện.

Vận dụng quan điểm về giá trị của Parson và Inglehart để giải thích sự khác

biệt về giá trị giữa các thế hệ và các vùng được quy định bởi đặc thù kinh tế của

vùng đó.

2.3. Lý thuyết phát triển và biến đổi xã hội

Nguyên lý phát triển của xã hội học Mác xít chỉ ra rằng phát triển là quá

trình trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ, là hiện tượng diễn ra không

ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguyên lý này chỉ ra rằng, mọi sự vật, hiện

tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt

động của bản thân, chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi

xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự

phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.

Văn hóa là một hình thái ý thức xã hội cũng không nằm ngoài quy luật chung

đó, chính vì thế sự phát triển và biến đổi văn hóa là một tất yếu. Tuy nhiên, mức độ

biến đổi như thế nào, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực nhiều khi còn phụ

thuộc vào điều kiện khách quan và các yếu tố tác động. Hiểu được những điều này

sẽ giúp cho việc xác định xu hướng biến đổi của nền văn hóa và có thể điều chỉnh

xu hướng đó thông qua các tác động của con người.

II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

1. Bản sắc văn hóa Mường - sự hình thành và phát triển

Sự hình thành bản sắc văn hóa Mường gắn liền với nền văn hóa nổi tiếng thế

giới - “Văn hóa Hòa Bình”. Đó là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp sơ khai

22

cách đây hàng vạn năm, là khởi thuỷ của nền văn minh lúa nước - nền văn minh

sông Hồng, được ghi nhận trong diễn trình lịch sử dân tộc. Chính vì thế, văn hóa

Mường cũng được hình thành từ rất lâu đời trong lịch sử. Người Mường đã tạo cho

mình những qui ước mang tính cộng đồng rộng rãi. Và từ những qui ước ấy đã tạo

nên bản sắc, tạo nên giá trị văn hóa của dân tộc Mường. Qua nhiều giai đoạn lịch

sử, bản sắc ấy lại được làm giàu lên, phong phú thêm.

Là cư dân canh tác lúa nước từ lâu đời, người Mường có nhiều kinh nghiệm

làm thuỷ lợi nhỏ trong điều kiện miền núi, hình thành nên tập quán sản xuất của

đồng bào Mường như làm ruộng nương, làm máng dẫn nước từ sông suối vào

ruộng và trông các loại cây lương thực, hoa màu phù hợp với điều kiện tự nhiên

như lúa nương, ngô, khoai, sắn, trồng bông dệt vải.

Người Mường xưa vốn dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Thu nhặt khai thác

lâm - thổ sản từ rừng cũng là nguồn kinh tế phụ đáng kể. Các hoạt động kinh tế

của người Mường mang tính tự cấp tự túc nên người Mường biết làm các nghề

thủ công gia đình để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: rèn, đan lát,

đồ mộc, ép dầu thảo mộc. Đặc sắc nhất là nghề dệt thổ cẩm với kỹ thuật, mỹ

thuật trang trí hoa văn trên nền vải có nhiều màu sắc hài hòa cùng với các họa

tiết tinh vi, độc đáo và mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc.

Các thói quen sinh hoạt hàng ngày cũng hình thành từ tập quán sản xuất ấy.

Từ tập quán sống phụ thuộc vào thiên nhiên, người Mường tin vào sức

mạnh của thiên nhiên, vào thần thánh hình thành nên tập quán tín ngưỡng thờ

bái vật giáo và thờ thần thánh. Đồng thời, theo các nhà nghiên cứu lịch sử, dân

tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa học, người Mường và người Kinh (Việt) cùng

một nguồn gốc. Tộc Mường - Việt hình thành từ lâu trong lịch sử Việt Nam.

Hai dân tộc này chỉ tách rời nhau vào cuối thời Bắc thuộc, cuối thế kỷ VIII và

23

IX thuộc công nguyên. Nên tập quán tín ngưỡng của người Mường có nhiều nét

tương đồng với người Kinh, cũng thờ cúng tổ tiên và thần thánh. Thậm chí, các

lễ hội truyền thống của người Mường cũng mang đậm nét tín ngưỡng dân gian.

Cuộc sống khó khăn phải đối chọi với nhiều thế lực, cả thiên nhiên, cả con

người, cả thế giới thần linh, đã giúp người Mường gắn kết lại với nhau hình

thành nên tính cộng đồng sâu sắc, và quan hệ dòng họ bền vững ở người

Mường.

Bản sắc văn hóa Mường đã được hình thành như đã phân tích ở trên. Trải

qua thời gia, bản sắc ấy càng được vun đắp tạo nên sự đa dạng, phong phú của

văn hóa Mường. Đồng thời, trải qua quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với

các dân tộc khác, văn hóa Mường vừa thể hiện được những đặc trưng riêng vừa

thể hiện tính giao thoa sâu sắc mà chúng ta sẽ có dịp phân tích ở phần sau.

2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc

Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ trên

phương diện kinh tế mà ảnh hưởng đến từng lĩnh vực của đời sống xã hội, đến

từng tổ chức và con người, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Bất luận tham gia chủ

động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hóa thì văn

hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới.

Bên cạnh những mặt tích cực mà giao lưu hội nhập kinh tế mang lại, những thách

thức đối với giá trị văn hóa truyền thống cũng gia tăng.

Nhận thức rõ vấn đề đó, Nghị quyết 22NQ ngày 27/11/1989 đã thể hiện rõ

quan điểm của Đảng ta đối với văn hóa dân tộc là: “Tôn trọng và phát huy những

phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn

minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn

24

hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc khác và góp phần phát

triển văn hóa chung của các nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn

minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Đảng ta đã nhấn mạnh chiến

lược văn hóa tập trung vào hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, giữ gìn, kế thừa và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc; thứ hai, phát huy văn hóa dân tộc, nguồn sức mạnh

nội sinh của đất nước trong quá trình hội nhập. Hai nội dung này có quan hệ biện

chứng chặt chẽ với nhau.

Đối với vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, Nghị Quyết Hội

nghị lần thứ 5 – BCH Trung ương Đảng khóa 8 nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản

vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo

những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy

những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao

gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo

lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.

Về việc bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tại

Hội nghị lần thứ 5 của Đảng (khóa VIII) đã nhấn mạnh: “Coi trọng bảo tồn, phát

huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn

hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ,

chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông,

khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và

sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ

chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn học nghệ thuật là

người dân tộc thiểu số, (...) Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ

biến các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số,...”.

Uỷ ban Dân tộc và Miền núi và Bộ Văn hóa Thông tin đã ban hành chương

trình phối hợp số 556/CTPH/BVHTT-UBDTMN, ngày 21/2/2000 về đẩy mạnh

25

cộng tác bảo tồn, phát triển văn hóa – thông tin ở miền núi và vùng các dân tộc

thiểu số năm 2000-2005, nội dung chương trình phối hợp gồm: 1)Bảo tồn và phát

huy những di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Những vấn đề cụ

thể như phong tục tập quán, cưới, tang, thờ cúng,... lễ hội văn hóa, văn nghệ dân

gian: chú ý bảo tồn, phát huy những lễ hội văn hóa mang tính cộng đồng, đậm đà

bản sắc văn hóa dân tộc; trang sắc phục các dân tộc thiểu số; tiếng nói và chữ viết

các dân tộc thiểu số trong hoạt động văn hóa thông tin. 2)Xây dựng đời sống văn

hóa ở miền núi và cùng dân tộc thiểu số: xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng

bản sắc văn hóa; xây dựng gia đình văn hóa, cơ quan văn hóa; xây dựng cơ sở vật

chất, tăng cường trang thiết bị hoạt động văn hóa thông tin vùng dân tộc thiểu số;

xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin, đặc biệt là cán

bộ người dân tộc thiểu số. 3) Bảo vệ, đầu tư, tôn tạo các di tích, danh lam thắng

cảnh.

Từ quan điểm trên cho thấy, Đảng và nhà nước ta rất coi trọng việc bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là nhiệm vụ không thể bỏ qua trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là một trong những điều kiện của phát triển bền

vững.

III. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

Huyện Lạc Sơn là một huyện vùng núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình,

phía Bắc giáp huyện Kim Bôi và Kỳ Sơn, phía Nam giáp huyện Thạch Thành

(Thanh Hóa), phía đông giáp huyện Yên Thuỷ và phía Tây giáp huyện Tân Lạc. Diện tích trên 580km2, dân số trên 13 vạn người, gồm 2 dân tộc Mường và Kinh,

trong đó dân tộc Mường chiếm 90%. Lạc Sơn là trung tâm văn hóa cổ của tỉnh

Hòa Bình gồm có 1 thị trấn và 28 xã.

26

Về hoạt động kinh tế, nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Lạc Sơn giàu tiềm

năng về phát triển nông nghiệp, các vùng đồi núi trong huyện phù hợp để trồng

trọt, phát triển các loại cây hoa màu (như lúa, ngô, khoai, sắn,...), cây công nghiệp,

cây lấy gỗ và nhất là chăn nuôi đại gia súc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12%,

trong đó: Cơ cấu kinh tế Nông-Lâm nghiệp chiếm 60,2%; công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp chiếm 14,4%, thương nghiệp - dịch vụ 25,4%. Bình quân thu nhập

đầu người ước đạt 4,7 triệu đồng/người/năm.

Về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, Lạc Sơn đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng so với trước thời kỳ đổi mới. Tỷ lệ phổ cập giáo dục đạt 89%, tỷ lệ hộ

nghèo 31,17%/34,4% KH, đạt 90,6% KH năm, tỷ lệ hộ được dùng điện đạt 90%,

tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giữ ở mức 0,95%/KH 1%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh

dưỡng ở mức 25%/KH 24%.

Hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cơ bản được chú trọng.

Công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thường xuyên

được quan tâm, trên địa bàn không xảy ra dịch bệnh. Trong 6 tháng đã tiến hành

khám bệnh cho 60.109 lượt người. Trong đó điều trị nội trú có 4.823 lượt người,

điều trị ngoại trú có 8.132 lượt người, công suất sử dụng giường bệnh tại bệnh

viện đa khoa là 100,5%. Đến nay toàn huyện có 38 Bác sỹ, bình quân 2,9 Bác sỹ/1

vạn dân, huyện đang đầu xây dựng 02 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia.

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được triển khai, tỷ lệ tăng

dân số tự nhiên ở mức 0,97%, đạt kế hoạch đề ra; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy

dinh dưỡng là 25%; tỷ lệ các cặp vợ, chồng sinh con thứ 3 trở lên 9%.

*) Đặc điểm địa bàn xã Tân Lập

Xã Tân Lập là một xã nằm ở phía Tây huyện Lạc Sơn, dân số khoảng 1300

người, trong đó dân tộc Mường chiếm tới 99%. Đây là vùng trung tâm của Mường

27

Vang (một trong bốn cái nôi sản sinh ra người Mường), vì vậy Tân Lập có một bề

dày văn hóa, là nơi lưu giữ những nét đặc trưng của văn hóa Mường.

Nông nghiệp là lĩnh vực kinh tế chủ đạo, gồm các hoạt động như trồng lúa

nước, trồng hoa màu, chăn nuôi đại gia súc,… Nông nghiệp chiếm tới 80% cơ cấu

thu nhập.

Tỷ lệ phổ cập giáo dục đạt 90% dân số.

*) Đặc điểm địa bàn xã Nhân Nghĩa

Nhân Nghĩa là một xã thuộc vùng Mường Vang, giáp xã Tân Lập. Dân số

khoảng 1000 người, dân tộc Mường chiếm khoảng 85%.

Xã Nhân Nghĩa nằm trên trục đường giao thông nối liền huyện Lạc Sơn với

huyện Kim Bôi (có điểm du lịch suối khoáng thu hút đông du khách) và tỉnh Hà

Tây (nay thuộc Hà Nội). Vì vậy, Nhân Nghĩa khá luận lợi cho việc giao lưu buôn

bán, trao đổi hàng hóa cũng như các lĩnh vực văn hóa xã hội với các huyện bạn và

tỉnh bạn.

Kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, thu nhập từ nông nghiệp chiếm

80% tổng cơ cấu thu nhập. Tỷ lệ dân số phổ cập đạt 90%.

*) Đặc điểm địa bàn xóm Nghĩa thuộc thị trấn Vụ Bản

Thị trấn Vụ Bản là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện Lạc Sơn.

Thị trấn Vụ Bản nằm trên trục đường 12A, con đường giao thông huyết mạch nối

liền với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, thuận lợi cho giao lưu thông thương giữa

miền núi và miền xuôi. Tổng số dân khoảng 1059 hộ với gần 5000 người, dân tộc

Mường chiếm khoảng 15% dân số, còn lại là dân tộc Kinh. Dân tộc Mường tập

trung chủ yếu trên địa bàn xóm Nghĩa, được coi là một bản của người Mường,

hình thành từ khá lâu đời.

28

Dân cư thị trấn Vụ Bản hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ,

nông nghiệp (trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi), trồng cây ăn quả và trồng rừng,…

trong đó thu nhập từ kinh doanh dịch vụ chiếm 50% tổng thu nhập. Bình quân thu

nhập năm 2007 khoảng 10 triệu đồng/người/năm.

Tỷ lệ dân số phổ cập tiểu học đạt 98%. Tỷ lệ người đi học chiếm 17%, tức

cứ 100 dân thì có 17 người được đi học.

29

CHƢƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC MƢỜNG

I. Bản sắc văn hóa truyền thống

1. Tập quán sản xuất

1.1. Nghề trồng lúa nước

Một trong những hoạt động kinh tế truyền thống của người Mường là nghề

nông trồng lúa nước. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương

thực chủ yếu.

Nghề nông trồng lúa nước được tiến hành ở những nơi có địa bàn bằng

phẳng gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng thung lũng hay những doi đất

nhỏ hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp. Người Mường rất coi trọng

cây lúa nếp. Trước đây, lúa nếp được trồng nhiều hơn lúa tẻ, vì trong cuộc sống,

bữa ăn truyền thống thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ đạo. Bên cạnh đó, đồng

bào còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ biến giống vì lúa này cho năng suất cao.

Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, đồng bào đa phần làm ruộng bậc

thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng

nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh các đồi gò. Do ruộng bậc thang

làm ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn nên người Mường biết đào mương

bắc máng, làm guồng xe nước lợi dụng dòng chảy của các con sông, suối, ngòi để

đưa nước lên cao, cung cấp cho những thửa ruộng dài ngoằn ngoèo. Ruộng bậc

thang chủ yếu chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác đồng bào

dùng để trồng ngô, khoai, rau… Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít

nước.

Bên cạnh những thửa ruộng nước, người Mường còn đốt nương làm rẫy với

hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc lỗ tra hạt. Đồng bào có kinh nghiệm quý

30

trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc

dày, trồng mùn màu mỡ hay những vạt đất đen ven đồi núi. Khi chọn đất, đồng

bào thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được

sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì,

nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là đất tốt. Chọn được

mảng rừng đồi ưng ý, người Mường tiến hành chặt khoanh vùng để phân giới

không cho người khác lấy mất. Đồng bào đốt mảng rừng này để lấy mùn và tiện

lợi cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng tiến hành vào khoảng tháng 3 -

tháng 4 khi bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu tiên. Người Mường xưa trồng

lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót

nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành

cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt lấp các hố lại. Việc gieo trồng lúa nương tương

đối đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều công sức, đặc biệt là làm cỏ cũng như trông

nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy, người Mường đặc biệt có

ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn lan. Điều này bắt nguồn từ quan niệm

truyền thống “vạn vật hữu linh”. Theo đồng bào, rừng núi, cây cối, dòng sông,

suối… cũng có linh hồn, do thần linh hoặc ma quỷ cai quản. Cho nên, họ tránh

làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ thụ coi là linh thiêng - nơi ngự trị của

thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở đó có màu mỡ tơi xốp đến đâu. Từ quan

niệm đó mà trong lao động sản xuất của người Mường nói chung, người Mường ở

Lạc Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu

mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng cửa rừng và mở cửa rừng,… kèm theo lệ

cấm kiêng kị mang tính chất siêu nhiên, linh thiêng.

1.2. Một số nghề phụ khác

Cùng với nghề nông trồng lúa (lúa nương và lúa nước) là chính, người

Mường còn tăng gia sản xuất với những hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn

31

nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát… đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc

dù những hoạt động này không phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo

cuộc sống của người Mường nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối

quan trọng trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.

1.2.1.Chăn nuôi

Những đàn gia súc, gia cầm thường được đồng bào nuôi thành bầy đàn thả

dông trong rừng. Người Mường nuôi gia súc chủ yếu là trâu, bò ngoài cung cấp

thực phẩm trong những ngày hội trọng đại còn dùng làm sức kéo trong lao động

sản xuất. Đối với đồng bào, trâu bò có vị trí đặc biệt trong đời sống thường ngày

vì đối với họ chúng là cả tài sản, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà

trong bản và bản này với bản khác. Bên cạnh đó, người Mường còn nuôi lợn, gà

để lấy thịt, trứng. Chúng cũng được đồng bào nuôi thả thành bầy.

Người Mường không có thói quen làm chuồng trại riêng cho gia súc, gia

cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa dưới gầm sàn và làm

chuồng trại cho gia cầm. Riêng đối với lợn, họ không mấy khi nhốt dưới sàn nhà

mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường còn biết tận dụng

ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy, do địa bàn cư trú bán trung du và miền

núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở xuất hiện ít. Họ chủ yếu dựa vào đánh bắt cá,

tôm tự nhiên ở sông, suối và các chi lưu của nó. Công cụ dùng để đánh bắt chủ

yếu là lưới, đó, đăng, chũm.

1.2.2. Làm vườn

Người Mường nói chung và người Mường ở Lạc Sơn nói riêng thường

không chú ý lắm đến hiệu quả kinh tế vườn đem lại. Vườn của người Mường

trồng đủ các loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế, chanh, trầu, tre, bương,

chuối… Có thể nói, ngoài các hình thức lao động kiếm sống phụ khác, mảnh vườn

32

trở nên gắn bó thân thiết với đồng bào như một phần của cuộc sống. Với người

Mường, hầu như nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ để trồng cây quanh nhà, mỗi

thứ một ít để phục vụ cho gia đình theo kiểu mùa nào thức ấy. Phụ nữ trong gia

đình rất chăm lo đến các loại cây trồng trong vườn. Đôi khi những người đàn ông

cũng rất thích thú với mảnh vườn quanh nhà của mình. Họ quyết định các giống

cây trồng và quan tâm đến chúng. Tuy vậy, vườn của người Mường chủ yếu vẫn là

loại vườn tạp.

1.2.3. Nghề thủ công gia đình

Nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát,

ươm tơ. Người Mường đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các vật dụng dùng

trong gia đình từ nguyên liệu là tre, nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi

rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp, giỏ…

Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo. Trong mỗi gia

đình Mường đều có các khung cửi dùng để dệt vải bông, vải lanh để phục vụ may

mặc cho các thành viên. Công việc trồng bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm

nhận. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở đồng bào chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ

chủ yếu sản xuất lúc nông nhàn mà chưa giành thời gian đáng kể cho nó. Nguyên

liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn nuôi tằm

tương đối phổ biến trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng tương đối

phát triển. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc riêng của

mình để phục vụ trong xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho lễ

tang… Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những sản phẩm

tương đối độc đáo như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng

khác phục vụ cho cuộc sống.

1.2.4. Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên

33

Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ

sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây,

song... Săn bắn và hái lượm là hoạt động kinh tế phụ gắn bó với cuộc sống thường

ngày của người Mường truyền thống.

Việc thu hái rau rừng thường được thực hiện cùng với các công việc khác

như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn… Họ tranh thủ làm việc này sau khi đã

hoàn tất các công việc khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn bắn

chim thú, bổ sung cho bữa ăn là công việc thường xuyên và là đặc quyền của

người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu cầu của việc bảo vệ

nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát các con vật nuôi.

Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho

riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng thể

hiện nam tính cũng như vai trò của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ

nhỏ đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên

rất thạo việc săn bắn. Đặc biệt, những sản phẩm người Mường thu từ rừng không

chỉ đủ dùng trong gia đình mà còn được dùng để trao đổi với các lái buôn từ miền

xuôi như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, các loại gỗ quý

như đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò… và các loại dược

liệu quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn… Người Mường đổi những sản phẩm

từ khai thác rừng để lấy những vật dụng dùng trong gia đình như muối, dầu thắp,

kim chỉ, kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương, lược. Bên cạnh đó, hàng

năm, đồng bào còn bán cho các lái thương một số lượng lớn trâu bò.

Hoạt động buôn bán ngày càng len lỏi vào tận các bản mường xa, từng bước

tạo nên mối quan hệ giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người

Kinh và các dân tộc khác, góp phần vào giao lưu văn hoá - kinh tế giữa các tộc

người gần gũi nhau.

34

2. Đặc điểm cư trú và nhà ở, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng

2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở:

2.1.1. Đặc điểm cư trú:

Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa bàn cư trú

tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi,

dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp. Làng bản Mường sống tập trung

thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh

nhà. Họ quần cư thành từng bản. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30

nóc nhà, và nếu bản to thì có thể nhiều hơn nữa. Còn Mường là địa phận của một

vùng đất rộng bằng vài xã, vài huyện, thậm chí bằng một tỉnh. Bản làng thường

dựng nơi gần nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy

vậy, bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được

bao bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường

mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với người Mường, họ

không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ

đó mà muốn vào bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con

đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.

Bản Mường truyền thống không nằm trên các trục đường cái lớn mà nằm

nhấp nhô bên những sườn núi, những mỏm đồi, mỗi bản có địa vực cư trú, phạm

vi đất canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối riêng. Lối vào bản thường khúc

khuỷu, uốn lượn theo thế đất, thế rừng tự nhiên. Phía tây bản là khu nghĩa địa nằm

dưới những tán cây um tùm.

2.1.2. Đặc điểm nhà ở:

Nhà sàn là loại hình phổ biến của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á. Tại Việt

Nam, cư trú trên nhà sàn là truyền thống của nhiều dân tộc như Giarai, Êđê, Tày,

35

Thái, Mường. Đó là sự thích ứng tối đa với điều kiện sống. Người Mường cư trú

trên những ngôi nhà sàn không biết từ bao đời nay. Mặc dầu vậy, nhà sàn của

người Mường vẫn có nhiều điều đặc biệt khác với nhà sàn của các dân tộc khác.

Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến những sự

kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối

với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật

chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.

Người Mường không coi trọng nhiều đến dựng nhà theo hướng nào mà chỉ

cốt thuận lợi cho đi lại cho lao động sản xuất. Từ dụng ý này mà làng bản của

người Mường đều giống nhau ở chỗ lộn xộn, chồng chéo, không có sự thống nhất

hay quy định chung về hướng nhà. Nhà dựng ở đồi gò thì lưng dựa vào đồi gò, cửa

hướng ra khoảng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông

thì mặt có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong... Tất cả những cái tưởng

chừng là “lộn xộn” đó lại tạo cho bản làng của người Mường cảm giác vừa vững

vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.

Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Nhà sàn được làm

theo truyền thuyết dân gian, gọi là nhà rùa: 4 mái, 3 tầng, mô phỏng theo quan

niệm dân gian ba tầng, bốn thế giới của người Mường. Việc dựng nhà sàn của

đồng bào là kết quả của một quá trình dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể

hiện ở bản mo nổi tiếng họ là “Te tấc te đác” (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ

sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người

Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải

đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun

Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin

Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở,

làm kho để lúa, để thịt:

36

Bốn chân tôi làm nên cột cái

Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui

Nhìn qua đuôi làm trái

Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ

Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài

Muốn làm mái thì trông vào mai

Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách

Lấy chạc vớt mà buộc kèo

Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần dọa làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn

lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết làm nhà để ở.

Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều sức lực

nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp

sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân làng, gia đình làm nhà phải

chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong

bản làng biết. Mỗi gia đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những

công việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan

gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kinh tế mà nhận sự giúp đỡ

khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại. Khi một người làm nhà

thì tuỳ vào khả năng mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo

nếp, hai chai rượu, một con gà… Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những quy định

khác nhau.

Nói chung, việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều

sức lực nên họ có tập quán giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp công, giúp

sức trong việc làm nhà của người Mường như đóng góp nguyên vật liệu, lương

thực, thực phẩm và ngày công đã thể hiện sự quan tâm chung của cả bản làng, tinh

thần “tương thân tương ái”, đoàn kết cộng đồng sâu sắc.

37

Trong quá trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò rất quan

trọng. Gia chủ nhờ thầy mo khấn cúng xin làm nhà mới và khấn vía lúa cầu cho

nhà no đủ.

Công việc làm nhà tiến hành trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái,

gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ

lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn. Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng

tổ tiên, thổ công, ma rừng, ma cây, ma bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia

đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ gia

đình may mắn.

Nhà của người Mường được chia thành nhiều gian, thường có từ ba đến

năm gian. Những gia đình đông con thì nhà có đến khoảng từ bảy đến mười hai

gian. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên trái để bắc cầu thang và máng

nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là “pen ngoài” (bên ngoài) hay

gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát

những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà. Đó là nơi tiếp khách và

cũng là nơi để bàn thờ tổ tiên. Gian tiếp theo gọi là “pen tlong”(bên trong) được

coi là một gian buồng, có hướng nhìn ra sân. Đây mới được xem là gian nhà

chính. Trong gian này có bếp và diễn ra mọi sinh hoạt trong đời sống hằng ngày

của gia đình người Mường.

Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc

(còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây cột gốc được đồng bào

trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà

chơi đều không được bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo

vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công

cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị

coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.

38

Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không được

ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì

chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi ăn uống.

Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa sổ

“voóng” linh thiêng, không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ

dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian

gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào

cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (đồng

bào gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu

cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm

linh, nói lên sự hỗn hợp, cân bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia

đình.

Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới ngủ

nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi

khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ

thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần bếp. Bếp của người Mường là rất công

phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh,

đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm

một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng

nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt gần

cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt bếp ở cửa sổ ít

được ưa chuộng hơn vì đồng bào quan niệm nếu đặt bếp gần cửa sổ thì hơi ẩm từ

bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên

dụng. Một bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi.

Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong gia đình ngồi sưởi vào

mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ

39

trong gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay

con gái út được yêu quý nhất.

Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ dùng

gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với các gian khác trong nhà

bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi

nhà, người Mường để một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ

dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc lớn như

đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một nhạc cụ sử dụng để gõ

những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm

vang, người Mường gọi là “đâm đuống” hay “châm đuống”. Dưới sàn nhà, người

Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong,

nia… Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song những ngôi nhà

dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thang ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu

thang như vậy khá hiếm vì người Mường quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị,

của nả sẽ không giữ được trong nhà “vào đầu này ra đầu kia”.

2.2. Tập quán tiêu dùng

Hoạt động lao động sản xuất truyền thống của người Mường mang nặng

tính tự cung, tự cấp.

Mặc dù trồng lúa nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng do diện tích trồng lúa

không phải là ưu thế, chỉ có những cánh đồng nhỏ, ruộng ở khe nên trồng lúa cũng

chỉ đủ để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Các sản phẩm đem ra chợ bán là gạo, lúa,

ngô, khoai, sắn, gà vịt, và một số sản vật lâm sản nhằm mua lại nhu yếu phẩm, vật

dụng cần thiết cho gia đình như dầu, muối, kim, chỉ, vải vóc,…

40

Các đồ dùng trong gia đình người Mường hết sức thô sơ, chủ yếu do người

chủ hay các thành viên trong gia đình tự làm. Hầu như không có tiện nghi như

giường, tủ, bàn, ghế và các tiện nghi hiện đại khác như ở vùng đồng bằng.

Có thể nói, trong tập quán tiêu dùng của người Mường truyền thống, hàng

công nghiệp là thứ rất hiếm hoi đối với đồng bào.

2.3.Tập quán ẩm thực

Trong ẩm thực, người Mường xưa thường ăn cơm đồ, uống rượu cần và

thường dùng cá đồ và lợn thui trong những ngày lễ. Tập quán này được đúc kết

qua câu thành ngữ: “cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui”.

Cơm nếp được sử dụng thường xuyên trong bữa ăn hằng ngày của người

Mường. Các giống lúa nếp của người Mường khá nổi tiếng như nếp quả Oàng, nếp

Khe, nếp Cú Pộôt, nếp Bản, nếp Ôi, nếp Boóng, nếp Trlông, nếp Diệu Hương.

Cơm nếp được đồ chín trong chiếc hông gỗ bắc trên nồi đáy bằng nhôm hoặc bằng

đồng.

Người Mường có tục uống rượu cần từ lâu đời. Cần làm bằng cây trúc hoặc

mảnh tre thông nòng (rỗng ống) tươi được hơ qua lửa rồi đem uốn tùy theo độ

cong lượn của vò rượu. Đặc biệt, dáng của những chiếc cần phụ thuộc vào tính

cách của người chủ, nên hiếm khi có hai bộ cần giống hệt nhau. Để có được vò

rượu cần ngon không chỉ phụ thuộc vào cách làm mà ngay cả cách uống cũng thật

công phu. Nếu có khách, chủ nhà trải chiếu vuông vắn giữa sàn rồi bưng vò rượu

đặt chính giữa chiếu, sau đó mời tất cả những người có mặt trong nhà ngồi vòng

quanh cùng chụm môi uống. Người Mường gọi đó là uống bước một (uống thông

cần). Tiếp theo là uống đôi (giữa chủ và khách), uống 4 người, uống 6 người và

nhiều người. Họ vừa uống vừa hát, hỏi thăm, hát mời, hát tiễn đưa, hát hẹn ước.

41

Trong đó hát đúm là điệu hát đặc trưng của người Mường, tương tự như hát đối

của người Kinh.

Vào dịp Tết cơm mới, người Mường làm các món đặc sản như đĩa quéch,

ngách lưỡi, ốc cá. Tất cả các món này đều phải đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên trước

khi ăn để bày tỏ lòng hiếu thảo và sự no đủ của con cháu.

2.4. Trang phục

2.4.1. Trang phục nam giới

Về trang phục của nam giới người Mường cũng gần giống với trang phục

truyền thống của người Kinh. Nam giới có hai loại áo: áo cánh và áo dài. Áo cánh

may xẻ ngực, cài khuy, hai vạt áo trước may hai chiếc túi khá to, trên ngực trái

may một túi nhỏ có gân chéo ở gần miệng túi và làm bằng vải màu trang trí, tay áo

dài buông tới mu bàn tay. Áo dài có hai loại, loại sang may bằng lụa hoặc đoạn

màu xanh, tím, vàng; loại thƣờng may bằng vải bong, màu đen sẫm. Áo dài đến

ngang đầu gối, cài khuy lệch về bên sườn phải, hai bên xẻ tà cao ngang hông. Cổ

áo đứng và cứng, thường được chú rể và hai phù rể mặc trong lễ cưới. Quần nam

có ống, đũng và cạp rộng, cắt kiểu chân què, khi mặc dùng sợi dây vải buộc chặt;

thường là màu trắng hoặc màu nâu.

2.4.2. Trang phục phụ nữ

Trang phục của phụ nữ Mường rất độc đáo và gợi cảm, gồm váy và áo. Áo

gồm có áo ngắn và áo dài, trong đó, áo ngắn dùng để mặc thường ngày. Loại áo

này ngắn và bó sát than, xẻ ngực, thường không có khuy hoặc có một chiếc khuy

bấm ở ngang ngực nên để lộ phần cạp váy trước ngực và chiếc yếm bó sát ngực.

Về cơ bản, chiếc yếm giống như phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn. Nẹp áo may to

khoảng 3-4 cm với màu sắc sặc sỡ, đường viền cổ áo, cổ tay có thêu và đính chỉ

màu. Áo dài thường mặc để tiếp khách, đi lễ hội, đám cưới, thường dài quá đầu

42

gối, phần nửa thân trên giống áo ngắn, phần nửa thân dưới từ eo xuống rộng dần,

áo xẻ ngực, không xẻ tà.

Nét đặc trưng nhất trên chiếc váy của phụ nữ Mường là cạp váy. Cạp váy

Mường có đường nét hoa văn rất tinh tế, mô phỏng nét hoa văn trên trống đồng

Đông Sơn. Điều này góp phần nói lên nguồn gốc chung của hai dân tộc Việt-

Mường, tức là lịch sử có sự tồn tại của thời kỳ tiền Việt - Mường.

Váy được thắt bằng dải thắt lưng làm bằng vải lụa, thường nhiều màu,

nhưng màu xanh hoa thiên lý (làm tôn vẻ đẹp hài hòa của chiếc váy) thường được

các thiếu nữ thích dùng hơn cả.

Cùng với váy, áo, phụ nữ Mường trang điểm bằng khăn đội đầu, vòng bạc,

chuỗi hạt cườm, bộ xà tích (riêng bộ xà tích làm bằng bạc, gồm nhiều sợi dây dài

ngắn có gắn đồng tiền, vuốt hổ được xâu thành chuỗi biểu hiện sự giàu sang của

người phụ nữ có địa vị trong xã hội.

3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng

3.1.Quan hệ gia đình, dòng họ

- Quan hệ gia đình:

Tương tự như người Kinh, gia đình truyền thống của người Mường là gia

đình phụ quyền. Người đàn ông làm chủ gia đình, người chồng, người cha có vai

trò quyết định, chi phối các quan hệ gia đình cũng như các hoạt động sản xuất, đối

nhân xử thế và đời sống tâm linh.

Tôn ti trật tự thứ bậc theo vai vế của người đàn ông trong gia đình và dòng

họ thể hiện khá rõ, tương tự như quan hệ dòng họ của người Kinh ở các làng nông

thôn của đồng bằng sông Hồng.

43

Hình thức gia đình mở rộng là phổ biến đối với các gia đình truyền thống

của người Mường. Các gia đình ở đây thường có từ ba đến bốn thế hệ, thậm chí có

nhiều gia đình nhỏ là anh em cùng chung sống hợp thành một đại gia đình.

- Quan hệ dòng họ:

Người Mường rất coi trọng quan hệ dòng họ, người Mường gọi dòng họ là

“ổ nhà”. Quan hệ dòng họ trở thành chất keo gắn kết mọi người. Mỗi khi có việc

hệ trọng, điều đó càng được thể hiện rất rõ. Mỗi thành viên trong dòng họ đều có

nghĩa vụ của đóng góp công, góp của theo quy định của dòng họ đó. Hoặc khi có

tranh chấp mâu thuẫn với dòng họ khác, thì tinh thần đoàn kết giữa các thành viên

trong họ lại thể hiện rõ ràng hơn lúc nào hết. Các thành viên trong họ thường

xuyên giúp đỡ lẫn nhau, ví dụ khi một người trong họ làm nhà, tuỳ theo khả năng

của từng thành viên trong họ có thể góp công, góp của mà không hề tính toán.

Người con trai trưởng trong họ thường có tiếng nói quyết định đối với các

việc đại sự như ma chay, cưới xin. Cha mẹ già thường sống với con trai trưởng.

3.2 Tổ chức đời sống cộng đồng

Trước kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang

đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng.

Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo

xóm, cai quản một xóm.

3.2.1. Tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường

Đặc điểm của xã hội cổ truyền của người Mường là sự phân hóa giai cấp khá

rõ nét biểu hiện qua chế độ lang đạo. Các dòng họ quý tộc như: Đinh, Quách,

Bạch, Hà v.v. .. chia nhau cai quản các vùng Mường và nắm trong tay quyền phân

phối ruộng đất. Đứng đầu mỗi mường, là một lang cun - vị chúa đất tối cao của

44

một vùng. Dưới lang cun, là lang xóm hoặc đạo xóm cai quản một xóm. Chế độ

lang, đã được cha truyền con nối. Nhà Lang thống trị dân Mường qua các Ậu.

Sơ đồ tổ chức xã hội truyền thống của xã hội Mường trước năm 1954

NHÀ LANG

- Lang Cun - Lang Tạo (Chiềng)

ẬU

- Ậu cả - Ậu Nhì - Ậu Cai

DÂN LÀNG

3.2.2. Chế độ Lang Cun

Tổ chức xã hội truyền thống của người Mường theo kiểu hình chóp, như

một xã hội phong kiến thu nhỏ, mọi quyền hành thâu tóm vào Lang Cun. Lang

Cun như ông vua con, cha truyền con nối. Khi Lang chết, con trưởng thay thế, nếu

Lang không có con trai, có khi vợ Lang được nắm quyền điều hành, dâu dù giỏi

đến đâu cũng không thể trở thành nhà Lang.

Trong xã hội Mường truyền thống, những vùng đất Mường nằm dưới sự cai

quản của một dòng họ quý tộc được gọi là nhà Lang. Mỗi dòng họ nhà Lang tự

45

phân biệt với các dòng họ khác không chỉ bằng Mường họ chiếm lĩnh mà còn

bằng tên họ. Các họ Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà thuộc tầng lớp thống trị. Còn

tầng lớp bị trị thường có chung một tên họ gọi là Bùi. Đứng đầu một Mường

thường gọi là Lang Cun.

- Lang Cun: là con cả trong chi nhánh cả của dòng họ quý tộc nhà Lang cai

quản Mường. Trên thực tế, ông ta chỉ trực tiếp cai quản làng ở trung tâm mường

(gọi là chiềng)

- Tạo: Đại diện cho chi nhánh thứ cũng thuộc dòng họ quý tộc nhà Lang

quản lý làng. Mọi công việc quản lý trong làng, Tạo đều phải xin ý kiến của Lang

Cun. Hàng năm, Tạo phải có đóng góp lễ vật cho Lang Cun. Khi bố mẹ Lang Cun

chết, Tạo cũng phải chịu tang như bố mẹ mình.

- Ậu: Lo thu thóc, bắt phu phen, cúng bái, ma chay, đốc thúc dân làng làm

xâu, làm nõ.

3.2.3. Tục lệ nhà Lang:

- Tục nộp trâu, nộp vai, nộp đùi: Nếu người dân trong làng có việc phải mổ trâu, bò, lợn, đều phải biếu nhà Lang một vai. Săn được thú rừng đều phải đem biếu nhà Lang theo nghi thức: “vác tru, lu vai” (Trâu nộp vai, nai nộp đùi).

- Phục vụ nhà Lang: Hàng năm, nếu nhà Lang có đám cưới hay ma chay,

dân trong Mường đều phải đến giúp. Nếu nhà Lang xây nhà mới thì mỗi nhà trong

Mường tự giác mang tre, nứa, lá cọ đến nộp.

Khi nhà Lang đến dự đám cưới hoặc dự tổ chức mừng nhà mới của người

dân trong Mường, thì người dân phải biếu nhà Lang 2 kg thịt lợn hoặc 1 con gà, 1

trai rượu.

46

- Nhà Lang là người chiếm nhiều ruộng đất trong vùng(Trâu kéo đứt trạc

mới hết ruộng nhà Lang). Người dân trong Mường phải đến cày cấy, làm ruộng

cho nhà Lang và họ chỉ được trả công bằng một bữa ăn không đủ no.

- Dân không được phép lấy con gái nhà Lang. Ngược lại, Lang vẫn được

lấy con gái dân, nhưng chỉ được làm vợ lẽ dù cưới trước. Vợ cả thuộc dòng họ nhà

Lang. Dân phải đóng góp mọi thứ trong thời kỳ cưới xin của Lang.

4. Tín ngưỡng, lễ hội, hôn nhân và ma chay

4.1.Tập quán tín ngưỡng, lễ hội

4.1.1.Tín ngưỡng

Trong đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng Mường, những sinh hoạt tín

ngưỡng tâm linh vẫn còn rất phổ biến trong cộng đồng và vẫn giữ được nguyên

những nét hồn nhiên mộc mạc.

Tương tự như người Kinh, tục thờ cúng là tín ngưỡng điển hình của người

Mường. Các vị thần được tôn thờ là những hiện tượng tự nhiên như: mưa, gió,

nắng,…là những dòng suối, ngọn núi, hòn đá, cây rừng, là những con vật hay bất

kể cái gì có ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người Mường. Đây hoàn

toàn không phải là mê tín dị đoan mà ở một góc độ nào đó, nó thể hiện sự sống

hòa mình cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên. Họ coi mình là một bộ phận của

thiên nhiên chứ hoàn toàn không áp đặt, chinh phục, phá hoại thiên nhiên một

cách vô ý thức.

Điều đó cũng có ý nghĩa, hệ thống tín ngưỡng của các dân tộc ở Hòa Bình

rất phong phú, từ đó dẫn đến sự phong phú của các nghi lễ thờ phụng các tín

ngưỡng đó. Đó là những lễ cầu mùa, cầu mưa, lễ xên bản, xên mường, thờ đức

thánh tản, thờ ma núi, ma nước, thần lúa, thần cây,…Mỗi nghi lễ ấy lại kèm theo

những hình thức sinh hoạt văn hóa như đánh chiêng, cồng, mo, đánh chống, thổi

47

kèn, múa kiếm…Những hình thức nghệ thuật này từ chỗ để truyền đạt lên thần

linh niềm mơ ước, khát vọng, sự bất ổn của con người, đã trở thành những hoạt

động nghệ thuật để đáp ứng chính đời sống trần tục hàng ngày của người dân.

4.1.2. Lễ hội

- Đặc trưng về lễ hội của người Mường

Người Mường không có những lễ hội quy mô, đồ sộ với sự tham gia của

nhiều ngàn người cùng những trang phục, lễ vật đa tế khí, những quy định bài bản

như các lễ hội của người Kinh dưới xuôi; không có lễ hội tầm cỡ như lễ hội Katê

của người Chăm, Oóc Om Boóc của người Khơ Me (Nam Bộ). Họ cũng không có

cơ hội chơi núi mùa xuân hay chợ tình lãng mạn, tha thiết của người Mông. Tuy

vậy, lễ hội của người Mường cũng có đặc trưng riêng: Không lớn, không nổi tiếng

nhưng lại mang cái hồn của cộng đồng dân tộc sinh sống trên các thung lũng của

vùng núi Hòa Bình.

Lễ hội của cộng đồng dân tộc Mường mang đậm các tín ngưỡng dân gian và

là sự biểu hiện của sự giao lưu văn hóa. Hầu hết các lễ hội đều liên quan đến nông

nghiệp và thường diễn ra vào mùa xuân.

Hai dân tộc Kinh - Mường vốn có chung nguồn gốc nên sự giao lưu văn hóa

Kinh-Mường thể hiện rất rõ. Một vị thần rất nổi tiếng trong tín ngưỡng của người

Mường là đức Thánh Tản Ba Vì, được thờ hầu khắp các nơi trên đất Mường, đồng

thời cũng là một trong “tứ bất tử” đối với người Kinh. Vị thần núi Ba Vì là một vị

thần tối linh của cả người Mường và người Kinh ăn sâu vào tâm thức tín ngưỡng

của cả hai dân tộc này. Khi người Mường thờ tam vị Thánh Tản thì người Việt các

nơi ghi rõ Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh.

Tiếp đó phải kể đến tục thờ Thành hoàng làng của người Mường cũng

tương tự như thành hoàng làng của người Kinh cùng với ý nghĩa nhớ ơn những

48

người đã có công giúp ích cho sự bình yên của bản Mường. Những vị thần này

giống như người Việt, có thể là “nhân thần”, có thể là “nhiên thần”,…Có thể họ có

công với bản làng hay chết vào những thời khắc ảnh hưởng đến cuộc sống của dân

địa phương. Ví như trường hợp nàng Ả Đắng (thần đánh dơi) ở Hội đu tre (Mường

Tre, Văn Nghĩa, Lạc Sơn) – cô gái nhà Lang đi vào hang Đắng bắt dơi, chẳng may

bị kẹt trong hốc đá rồi chết. Dân Mường đồn rằng nàng rất thiêng nên lập miếu thờ

để cầu nàng phù hộ cho dân Mường.

- Một số lễ hội tiêu biểu của người Mường

1) Hội hát sắc bùa ở Mường Vang

Hát sắc bùa ngày xuân là một trong những hoạt động văn hóa tinh thần quan

trọng nhất của cộng đồng dân tộc Mường mỗi khi Tết đến - xuân về.

Hát sắc bùa được chia làm ba vòng: Vòng 1: Chủ trò có lời chúc mừng năm

mới đối với gia chủ bằng những lời hát cùng với bản nhạc cồng chiêng của cả

phường bùa (mỗi phường bùa có từ 8 đến 12 chiêng, cồng). Lời hát làm vui lòng

gia chủ, cả phường bùa được mời vào thăm nhà. Vòng 2: Điệu cồng, chiêng lại

vang lên cùng với những câu chuyện dẫn dắt của chủ trò về những việc vui, thành

đạt của gia chủ trong một năm qua.

Gia chủ lại vui vẻ mời cả phường bùa ăn, uống. Ăn uống no say xong,

“khoách rác” cùng phường bùa lại tấu lên những lời khen cơm ngon, rượu ngọt,

hát lời tạm biệt và hẹn gặp lại năm tới (vòng 3). Cứ như thế, cả phường bùa sẽ đi

hết từ nhà này đến nhà khác trong những ngày đầu năm mới, cầu chúc gia chủ an

khang, thịnh vượng.

2) M úa Pồn Poong

49

Ngoài hát sắc bùa, trong những ngày lễ hội mùa xuân, đồng bào dân tộc

Mường còn biểu diễn tiết mục múa pồn poong. “Múa pồn poong là nghi thức tín

ngưỡng cúng tổ tiên của đồng bào Mường”.

Hiện vật không thể thiếu trong điệu múa này đó là một cây hoa được lấy từ

cây bông trăng trên rừng, thể hiện sự thuần khiết. Trên thân cây là những bông

hoa được làm từ thân cây bông trăng và muôn loài muông thú. Trên đỉnh cây hoa

gắn một con chim chiền chiện biểu hiện sự tôn nghiêm.

Theo truyền thuyết của người Mường, chim chiền chiện là chúa tể của

muôn loài, ấp bọc 100 trứng nở ra muôn loài. Chủ lễ là ông Mo, bà Máy - là

những người cha tinh thần của đồng bào. Sau phần lễ ca ngợi sự che chở của thần

linh tối cao, cầu mong sự an lành và phát triển, mùa màng bội thu… đến phần hội

là xoay cây hoa và mọi người đều múa hát. Hiện nay, truyền thuyết này vẫn được

lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Vì vậy, người Mường mỗi khi đi rừng

gặp chim chiền chiện thì không bao giờ bắn".

3)Lễ Mụ Thố

Đây là một lễ nghi chỉ được tổ chức cho người già lúc ốm đau bệnh tật. Gia

đình sợ vía của người già đi xa mất, mọi người tổ chức làm vía cho người già để

cầu mong sức khoẻ.

Bao giờ cũng vậy, trước khi tổ chức lễ vía mụ Thố, mỗi một gia đình người

Mường thường nhờ ông Mo chọn ngày lành tháng tốt để làm vía. Ngày lành tháng

tốt đến người con dâu cả trong gia đình đội nón chống gậy cầm ớp khọ đi xin gạo,

xin vải của hàng xóm. Số gia đình người con dâu vào xin gạo tương ứng với thứ tự

ngày hôm đó. Nếu là ngày mùng 3 cô đi xin gạo vào 3 nhà, ngày mùng 5 sẽ vào 5

nhà. Lúc này, người con dâu không khác gì ăn xin, song dù ít nhiều không quan

50

trọng, điều quan trọng hơn cả là sự đùm bọc thương yêu nhau của xóm giềng đối

với người già.

Cùng lúc đó, người con trai trưởng trong gia đình là chồng cô đi vào rừng

tìm cây si mọc ở nơi cao ráo đem về. Trong nghi lễ này không thể thiếu cành si

bởi trong đời sống tâm linh của đồng bào Mường hình tượng cây si được tôn vinh

như một vị thần có sức sống kỳ diệu. Và theo quan niệm của đồng bào, cây si

truyền sức sống mạnh mẽ kỳ diệu cho những người cao tuổi để họ luôn có sức

khoẻ không gặp ốm đau bệnh tật sống lâu trăm tuổi.

Đối với người Mường, bữa ăn thường ngày rất đơn giản, đạm bạc, nhưng

bất kỳ ngày lễ, Tết hay nhà có công có việc, mâm cỗ được chuẩn bị khá tỉ mỉ. Khi

những tia nắng cuối ngày khuất dần sau núi cũng là lúc gia đình tổ chức lễ Mụ

Thố. Ngay trong lễ mụ Thố, điều nhận thấy đó là công việc bếp núc cỗ bàn hầu hết

do người đàn ông đảm nhận. Đây cũng là thói quen lâu đời của người Mường.

Còn người phụ nữ chỉ đảm nhận tiệc chay trong buổi lễ. Đồ xôi, gói bánh, từ hái

rau hay ở vóng trong phụ giúp.

Nhận được lời mời họ hàng thân thích, anh em hàng xóm mang theo một

gói cơm hoặc một bát gạo, một chai rượu đến với ý nghĩa để góp lễ mời vía người

ốm ăn gọi là làm “cấp”.

Cỗ cúng trong ngày lễ mụ Thố thường được sắp đặt 5 mâm. Trên các mâm

cúng đều có xôi, rượu, vải, tiền đặt lễ, đồ chay. Thế nhưng trong 5 mâm thờ đó,

mỗi mâm thời vị thần khác nhau. Mâm đầu tiên có một cái vai lợn đùi trước, một

lá thịt đầu thăm, đĩa muối và bát nước canh. Mâm này dâng lên tổ tiên ông mo.

Mâm thứ 2 thờ ông hộ gốc kéo si, bà hộ lộc kéo sang. Hai vị này ngự ở cửa liền

đến Nam Chu nơi đình chân vua Pán quán vua trời. Mâm thứ 3 thờ ông Kem cầm

sổ trạng, mâm thứ tư thờ vua Pua sang nàng mụ thêm già. Hai vị này ngự tại vòm

si hoa, cành si thơm, bờm si ngọt. Mâm thứ năm thờ hai Pua sang nàng mụ, vị này

51

cũng ngự tại vòm si hoa, cành si thơm, bờm si ngọt. Mâm cỗ đặt thứ tự từ ngoài

vào trong ở vị trí trang trọng nhất trên sàn. Bên cạnh các mâm cúng là 1 cái rá

đựng cành si và các vật dụng làm lễ khác như cuốc, nón, quần áo.

Trong đời sống tinh thần của đồng bào Mường, thầy Mo có vai trò hết sức

quan trọng. Ông là nhân vật có quyền năng thông quan với thế giới thần linh. Vì

thế một trong những người không thể thiếu trong lễ mụ Thố là ông Mo. Khi các

mâm cỗ đã sắp đặt đầy đủ, thay mặt cho gia đình, thầy mo khăn áo chỉnh tề thắp

hương rồi khấn. Phải năm trời không thuận, đất không lành, người già ốm lắm đau

nhiều, hôm nay họ hàng con cháu có lòng đức, lòng đạo, lòng thảo, lòng nhân,

soạn lên mâm vía lễ mụ thố, cầu mong giữ vía cho người già mạnh khoẻ trở lại,

sống xa già lâu cùng con cháu họ hàng”. Sau khi trình bày lý do xong, ông mo tiếp

tục khấn để mời mụ thố về. Dân gian tương truyền, nhà mụ trú ở gốc cây si trên

trời cao nên thầy mo phải lên trời đi tìm mụ về. Dâng đủ 10 “thông” cơm chay, 10

“thông” cơm rượu. Con cháu ngồi dưới vái lạy mời các thần và mụ thố. Sau đó,

thầy Mo gieo quẻ âm dương. Khi công việc thuận lợi, bà mụ xuống chứng giám,

ông Mo thay mặt bà mụ đội nón tay cầm mảnh vải viết lên sổ trạng xin được thêm

số, thêm phận cho người già đang đau ốm.

Viết sổ trạng xong, người nhà một sợi dây được buộc vào cành si để tiến

hành nghi lễ kéo si, đây là nghi lễ quan trọng nhất trong buổi lễ này. Trước khi

kéo, ông Mo tiếp tục khấn. Con cháu ở đâu hãy lại đây! Cầm dây kéo cây si dậy.

Cho hồn người mạnh mẽ trở lại, để người sống lâu nghìn năm trăm tuổi. Buổi nào

cây si đổ, người mới đổ. Chỗ nào cây si héo người mới héo. Con cháu hỡi, con

cháu hà, ta cùng kéo cây si dậy! Để cây si mãi chắc gốc bân cành. Để người sống

lâu ngàn năm. Để người sống lâu trăm tuổi. Dậy dậy si hỡi! Dậy dậy si hà. Lúc

này con cháu cùng xúm vào cùng kéo, mỗi nhịp kéo mọi người lại đồng thanh

“hò....hơ” cho đến khi cây si dựng vưng chắc mới thội.

52

Cây si được dựng lên vững chắc, ai nấy trong gia đình cảm thấy trong lòng

thư thái. Người già trong nhà thì cảm thấy yên lòng, yên dạ, tinh thần sảng khoái

như được tăng hêm sinh lực. Làm lễ xong ông Mo tuyên bố kéo si đã lành, xanh lá

gốc, lá ngọn con cháu hãy cùng mời ông bà uống rượu, ăn uống no say. Con cháu

bê mâm cơm vía đến cho người già ăn gọi là ăn lấy vía.

Trong không khí hân hoan của bà con và gia đình làm lễ, ông Mo cho phép

mọi người ăn cơm, uống rượu cần để hưởng phúc, hưởng lộc của thần linh.

Không ồn ào, náo nhiệt như những lễ hội khác, lễ vía mụ Thố gần gũi với đời sống

tâm linh của người Mường. Ngày nay, nghi lễ này vẫn được tổ chức ở khắp các

bản mường khi gia đình nào có người già yếu.

4.2. Tập quán hôn nhân của dân tộc Mường

Hôn nhân truyền thống của người Mường cũng tương tự như người Kinh là

theo chế độ một vợ một chồng, cũng gồm các bước chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và

đón dâu. Trong quá trình đính hôn, ăn hỏi, cưới gả theo phong tục người Mường,

ông mối có vai trò quan trọng, là sứ giả cuộc hôn nhân của đôi trai gái.

Không gian kết hôn của người Mường truyền thống thường giới hạn ở phạm

vi trong cùng một bản Mường hoặc một số bản láng giềng.

Tục cưới xin của người Mường gồm các bước:

a. Lễ ướm hỏi(kháo thiếng)

Lễ ướm hỏi (dạm ngõ) là thủ tục đầu tiên của một đám cưới người Mường.

Khi đôi trai gái đã tâm đầu ý hợp, nhà trai nhờ ông mối sang nhà gái xin ý kiến.

Lần này, ông mối đi tay không đến đặt vấn đề, nhà gái chưa trả lời ngay. Thời

gian ngắn sau, ông mối lại sang giục, nhà gái bằng lòng thì trả lời cho ông mối

biết để nhà trai chuẩn bị hôn lễ, ngay sau đó, ông mối lại đến, mang 02 chai rượu

và một đấu chè sang nhà gái làm tin. Ngay hôm đó, nhà gái tổ chức một cuộc vui

53

nhỏ, nhờ ông mối xem lịch thẻ tre (lịch Sao Đoi - loại lịch truyền thống của người

Mường) để chọn ngày giờ (giờ tốt) làm lễ bỏ trầu.

Người Mường chọn ngày cưới kiêng tháng 7, tháng 3 và những ngày cuối

tháng. Tháng 7 là tháng mưa ngâu, tháng 3 là tháng rắc hạt và những ngày cuối

tháng là ngày cùng tháng tận đều không tốt cho nghi lễ trọng đại nhất của đời

người.

b. Lễ bỏ trầu(Ti nòm bánh)

Đến ngày hẹn, ông mối dẫn đầu họ nhà trai (không có chú rể) đến nhà gái

mang theo cơi trầu ăn hỏi. Theo tục lệ Mường, nhà gái được quyền thách cưới. Lễ

vật gồm một con lợn nặng 20kg, 02 gánh gạo, 120 chiếc bánh chưng, 5 chai rượu,

1 buồng cau, 100 lá trầu. Sau lễ bỏ trầu, nhà trai chuẩn bị ngày cưới chính thức.

Tục thách cưới còn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng gia đình. Ngày trước,

bản Mường đã từng chứng kiến những yêu cầu rất lớn của nhà có con gái đẹp đối

với nhà trai và thách cưới thường là vòng bạc, trâu bò, ruộng nương, vải.

Nhà gái làm cỗ đón nhà trai, sau khi ăn uống xong, nhà trai đặt vấn đề cưới

xin, dự định thời gian cưới chính thức.

c. Lễ đón rể

Đến ngày cưới, đoàn nhà trai do ông mối dẫn đầu mang theo một tạ gạo, 02

con lợn, 10 lít rượu, 100 lá trầu, một buồng cau, vài cây mía. Chú rể gùi một gùi

xôi, trên đặt 02 con gà thiến luộc, 02 phù rể đi hai bên, mỗi người gùi một nồi xôi.

Sau khi ông mối trao lễ cho nhà gái và nhà gái nhận lễ, chú rể trình diện trước bàn

thờ và họ tộc. Đại diện nhà gái khấn rượu để cô dâu và chú rể và hai họ uống

chung vò rượu cần. Hết tuần rượu, nhà gái khấn thần rượu, thần đất rồi mọi người

ăn cơm. Ăn xong, khách khứa ra về còn chú rể ở lại nhà gái. Sáng hôm sau, chú rể

mới về nhà.

54

Hôn lễ truyền thống của người Mường quy định một vài năm sau mới được

đón dâu. Với mục đích cô dâu làm quen dần với công việc bên nhà chồng; mỗi khi

đến tết nhất, chàng rể phải đến lễ bố mẹ vợ. Do vậy, trước khi cưới, dâu và rể đi đi

về về cả hai nhà.

d. Lễ đón dâu

Nhà trai và nhà gái đều chuẩn bị rất chu đáo cho đám cưới. Người nào trong

bản cũng được mời, tùy vào mỗi gia đình mà quy mô đám cưới khác nhau, nhà

khá làm đám cưới to, nhà bình thường thì làm vừa phải. Trong đám cưới còn có

nhạc cụ, và bản thân những người chơi nhạc ngày hôm qua vẫn còn là nông dân và

hôm nay họ bỗng trở thành nghệ sỹ. Tiếng nhạc làm cho cả bản Mường mang

không khí lễ hội. Xôi nếp nương và thịt lợn là món không thể thiếu trong ngày

cưới. Công việc nặng nhọc này thường được người đàn ông đảm nhiệm. Khi cỗ

làm xong, các món ăn cùng với rượu đều được bày lên bàn thờ để cúng. Theo

phong tục của người Mường, phần cúng mường trời, mường bản, cúng tổ tiên rất

quan trọng. Chính vì vậy, nhà trai, nhà gái đều phải sắp thành hai lễ, một lễ cúng

ông bà tổ tiên, một lễ cúng mường trời. Lễ cúng ông bà tổ tiên được đặt lên bàn

thờ, lễ cúng mường trời được đặt cạnh cửa sổ. Thầy mo làm lễ khấn mường trời

trước, khấn ông bà tổ tiên sau. Ở lời khấn mường trời, thầy mo cầu cho mưa thuận

gió hòa, trời đất an lành, vạn vật sinh sôi để cho đôi nam nữ “sau này có cái ăn cái

mặc”, con cháu đầy đàn và cầu mường trời cho họ khỏi những tại họa. Ở lễ khấn

ông bà tổ tiên, ông thầy mo cầu cho sức khoẻ, tình yêu, tài lộc cho đôi nam nữ và

quan trọng nhất là cầu ông bà tổ tiên phù hộ cho sự thuận hòa của một gia đình

mới. Cầu cho người vợ giữ được nết na, cầu cho người chồng giữ được gia phong.

Mặc dù theo chế độ phụ hệ, nhưng cô dâu mới phải sắm sửa chăn gối cho

gia đình mới và để tặng cho bố mẹ, họ hàng nhà chồng. Chiếu trắng dùng cho đôi

vợ chồng trẻ, chiếu đỏ dùng để biếu bố mẹ chồng, ngoài ra, cô dâu còn biếu bố mẹ

55

chồng hai bộ chăn gối, hai gối tựa để khi bố mẹ già yếu thì tựa vào gối để nghỉ

ngơi. Vợ chồng mới chỉ được dùng chiếu trắng, một đôi chăn gối và chưa được

dùng đệm. Cùng với các quà tặng trên, cô dâu phải chuẩn bị nhiều chiếc gối để

tặng cho họ hàng nhà chồng. Những lễ vật này được bạn của cô dâu mang về nhà

chồng cùng với lúc đón dâu.

“Cô dâu Mường phải chuẩn bị nhiều quà tặng như vậy để bày tỏ sự hiếu thảo với bố mẹ chồng và sự thân tình, chu đáo với anh em, họ hàng nhà chồng”. (Nữ, 70 tuổi, xã Nhân Nghĩa )

Ông Bùi Văn Tâm (65 tuổi, xã Tân Lập) cho biết: “Cồng chiêng được dùng trong đám cưới là để động viên tinh thần cô dâu về nhà chồng, không những thế, nó còn là âm vang rộn rã cả bản, cả núi rừng như để chứng kiến ngày lễ trọng đại này của đôi trai gái”. (Nam, 65 tuổi, xã Tân Lập)

Đến ngày đã định, nhà trai đem tiền, vải sang nhà gái, nhà gái cử một đoàn vài chục người đi đưa dâu, cô dâu mặc váy, áo đẹp, đầu đội nón. Dẫn đầu đoàn đưa dâu là ông mối và 02 cô gái trẻ của nhà trai cử sang đón dâu cùng với dàn cồng chiêng.

Sau khi đón dâu xong, cô dâu trình diện trước bàn thờ nhà chồng. Nhà trai

tổ chức tiệc tùng và múa hát suốt đêm. Sau khi đón dâu xong, cô dâu về nhà bố

mẹ đẻ ở lại ba hôm sau, khi hết ba ngày, nhà trai mới sang đón. Đón dâu lúc này

phải đón vào lúc nhá nhem tối và phù dâu phải đi cùng, sau khi về nhà chồng, phù

dâu còn phải ở lại ba ngày ở nhà chồng cùng với cô dâu. Điều này được giải thích

là để động viên tinh thần cô dâu cho đỡ buồn và một ý nghĩa khác là để thử người

con trai xem có kiên trì nhẫn nại để chờ cô dâu không. Như vậy sau sáu ngày, kể

từ ngày cưới, chú rể và cô dâu mới được sống một cuộc sống vợ chồng.

4.3. Tập quán ma chay của người Mường

Thường kéo dài tới 12 ngày đêm.

56

- Giai đoạn 1: Khi có người sắp chết, người nhà gióng 3 hồi chiêng, mỗi hồi

3 tiếng (chơm chiêng) để báo cho họ hàng biết trước mà nhìn mặt người sắp qua

đời lần cuối cùng. Khi người đó chết hẳn thì chiêng trống gõ liên hồi. Người chết

được tắm rửa bằng nước lá bưởi và đặt nằm ở gian giữa, trên chiếu và 4 tấm vải

trắng. Người ta đắp cho người chết bằng một chiếc chăn bông và hàng chục chiếc

chăn đơn, trải hai tấm lụa tơ nằm ở hai bên. Một người cao tuổi trong họ cầm một

hòn than vạch lên sàn và đọc lời bàn giao số vải vóc và quần áo cho người chết

đem theo. Trong khi người nhà mắc màn ở xung quanh chỗ người chết nằm, thì bà

con họ hàng, làng xóm đến đầy nhà. Những người thân đều mặc quần áo tang

(màu trắng). Người con trai cả tới cửa sổ (cửa voóng - nơi thờ cúng tổ tiên, rút dao

chặt 3 nhát lên thành cửa như để nhắc rằng từ nay anh ta là người đảm nhiệm việc

thờ cúng tổ tiên.

Sau đó, chiêng trống nổi lên và thân nhân bắt đầu khóc. Người nhà mời thầy

mo đến chuẩn bị cho tối mo Tần tịch – tang lễ chính thức bắt đầu. Một thầy mo

chính và hai thầy mo phụ làm lễ khẳng định cái chết là một việc đã được số phận

sắp đặt, tránh cho người chết sự luyến tiếc băn khoăn khi phải từ bỏ thế giới người

sống.

Tiếp theo là làm lễ Tống trùng, thầy mo dùng pháp thuật xua đuổi những

ma xấu đang lẩn khuất bên người chết. Lễ nghi này không được đánh chiêng. Tiếp

theo là lễ Tấng dây: Cắt sợi dây vải nối chân người chết với một chiếc cọc cắm

giữa nhà (mang ý nghĩa cắt đứt sự dây dưa, truyền nhiễm bệnh tật sang con cháu).

Buổi chiều làm lễ nhập quan (Pao khăng) cho người chết.

Một con gà luộc được bày lên bàn thờ để người chết ăn. Quan tài được làm

bằng các loại cây gỗ tốt: Cây được chặt từ trong rừng, cắt dài khoảng 1.9m, xẻ làm

đôi, khoét rỗng ở giữa rồi mới đưa về nhà. Quan tài để dọc nhà, quần áo (phải là

số lẻ) bỏ vào đó để chôn theo người chết.

57

Lễ nhập quan bắt đầu vào buổi tối. Người ta mổ một con lợn nhỏ, luộc rồi

thái nhỏ, bày lên lá chuối để lên bàn thờ. Chiêng và trống đánh bài “túc nược” mời

người chết ăn.

Sau đó, thầy mo ca thiên trường ca “đẻ đất đẻ nước” (tẻ tất tẻ rác). Thông

qua trường ca, mọi người ôn lại cho người chết quá trình hình thành đất nước và

con người để thêm lòng tin vào sự trường tồn của đất nước, mà vượt qua tổn thất

lớn lao này.

Đêm thứ ba – mo nghìn họ. Tiếng trống dẫn linh hồn người chết ra nghĩa

địa, và thầy mo đưa người chết đi tìm họ hàng trong thế giới những người chết.

Ngày thứ tư – đưa người chết ra mộ địa. Đi đầu đám tang là dàn nhạc đánh

những bản nhạc chia tay với người chết. Buổi tối, thầy mo tiếp tục mo những bài

thay mặt người chết dặn dò và lìa bỏ cọn cháu.

- Giai đoạn 2:

Đêm đầu, thầy mo đưa người chết đi gặp Lang Cun Chạo Hẹ (viên quan lo

việc sổ sách để người chết lên trời đi kiện).

Đêm thứ hai, người chết tiếp tục đi đến nhà Thiêng Mư, mượn áo xem cách

dệt vải của người Mường và lên nhà ông nội Keo Heng mượn một số tiền để đi

tiếp.

Đêm thứ ba - mo đi kiện

Đêm thứ tư - mo lên trời bán bông lấy tiền trả nợ Keo Heng. Kiện xong. mo

xin được xóa tội và xin nhập vào sổ ma, xin cấp phương tiện để đi lại lên trời.

Đêm thứ năm, mo xuống sông Ty (con sông ngăn cách thế giới người sống -

người chết) sắm sửa đồ đạc.

Đêm thứ 6 - lễ tế nhà táng (cao 12 tầng) và nhà xe (cao 3 tầng) ở ngoài

đồng: những người tế xếp hàng theo thứ tự: trước tiên là mo, rồi đến ông bà ngoại,

3-4 người đàn bà, các cháu nội ngoại. Con trai đội mũ tloọc, chống gậy, con gái

đội mũ nón.

58

Dàn nhạc gồm chiêng trống đánh gióng ba, kèm những bản nhạc tang lễ -

tất cả đi quanh nhà xe 7 vòng.

Ngày thứ 7 (tảng sáng): Gọi hồn về, nỗi lưu luyến của người chết với vườn

tược, nhà cửa, đồng thời chọn đất cắm nhà cho ma. Buổi chiều làm lễ cúng cơm,

bữa cơm cuối cùng của người chết tại gia đình trước khi về mường của những

người đã chết.

Ba hôm sau, người ta còn làm lễ dẫn đường cho hồn về, chỉ cho hồn biết nơi

thờ cúng và biết lối về. Con cháu ra nghĩa địa xây mộ, chôn vò đựng rượu ở đầu

mộ. Đến đây tang lễ kết thúc.

Trong thời gian 100 ngày, thân nhân người chết không được tham dự các

cuộc vui chơi, nếu buộc phải có mặt thì luôn phải cúi nhìn xuống đất, không được

nhìn lên.

Trước kia, những gia đình nghèo khó chưa đủ để tiến hành ma chay hoặc

nhà giàu có muốn phô chương thế lực, thường làm “ma khô” bỏ người chết vào

quan tài và để ở một nơi thoáng gió trong nhà. Cho đến bao giờ, gia đình thấy có

thể tổ chức lễ tang được thì khi đó mới tiến hành nghi thức tang lễ và đem chôn.

Ma khô có thể vài tháng đến 1 năm.

Điểm đáng chú ý trong tục ma chay của người Mường là tục làm hòn mồ.

Đó là ranh giới phân biệt mường ma với mường người. Số lượng hòn mồ nhiều

hay ít thường phụ thuộc vào thân phận người quá cố: Lang Cun 9 hòn mồ, Lang

Tạo (Đạo) 7 hòn mồ còn người dân thường 5 hòn. Hòn mồ bên trái là số lẻ, bên

phải là số chẵn. Ngoài ra số lượng hòn mồ còn phụ thuộc vào đêm mo, mo càng

nhiều đêm, hòn mồ càng được cắm nhiều.

Sau khi chôn người chết, họ thường dâng cáng, thức ăn từ 6-9 tháng.

Có thể nói, đám tang của người Mường mang những ý nghĩa xã hội sâu sắc,

thể hiện sự gắn kết cộng đồng, gia đình, dòng họ cũng như thể hiện quan niệm tâm

linh về mối quan hệ giữa thế giới người sống với thế giới người chết.

59

III. Sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng hiện nay

1. Tập quán và công cụ sản xuất

1.1. Tập quán sản xuất:

Hiện nay, hình thức canh tác chủ đạo của đồng bào Mường ở Lạc Sơn là

nông nghiệp và nông lâm kết hợp, mà cụ thể là trồng lúa kết hợp với chăn nuôi,

trồng rừng.

Hoạt động kinh tế đã có nhiều biến chuyển. Tuy nhiên, nông nghiệp hiện

nay vẫn là ngành kinh tế giữ vai trò chủ đạo, chiếm tới 88% (trong đó số hộ thuần

nông là 64,5% và số hộ nông lâm kết hợp chiếm 23,5%. Hoạt động sản xuất kinh

doanh đã có hướng chuyển dịch theo hình thức buôn bán, dịch vụ nhưng vẫn chỉ

chiếm 7% số hộ. Xóm Nghĩa (thuộc vùng thị trấn - nhóm 1) và xã Nhân Nghĩa có

tỷ lệ hộ hoạt động buôn bán, dịch vụ cao hơn xã Tân Lập. Xóm Nghĩa 6.8% và xã

Nhân Nghĩa (7,1%). Điều này được giải thích bằng nguyên nhân xóm Nghĩa và

Xã Nhân Nghĩa nằm trên trục đường tỉnh lộ, thuận lợi cho các hoạt động thông

thương, giao lưu buôn bán hàng hóa.

Bảng 1: Mô hình sản xuất kinh doanh

Tên xã

Tổng số

Xóm Nghĩa

Tân Lập

Nhân Nghĩa

Lĩnh vực

Tỷ lệ

Số hộ Tỷ lệ

Số hộ Tỷ lệ

Số hộ Tỷ lệ

Số hộ

%

%

%

%

Nông nghiệp

62,7

37

56.5

48

44

78.6

129

64.5

Nông - lâm kết hợp

22.0

13

30.6

26

8

14.3

47

23.5

Buôn bán, dịch vụ

6.8

4

2.4

2

4

7.1

10

5.0

Hình thức khác

8.5

5

10.6

9

0

0.0

14

7.0

Tổng cộng

59 100.0

85 100.0

56 100.0

200 100.0

Tuy vẫn còn đậm nét lối canh tác truyền thống, nhưng do tác động của

chính sách phát triển kinh tế, của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới, trong canh tác

sản xuất đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều loại giống mới, giống lai tạo được

60

đưa vào trồng trọt, chăn nuôi cho năng suất cao; các kỹ thuật canh tác và các công

cụ sản xuất hiện được phổ biến ngày càng rộng giúp làm tăng thời vụ, tăng năng

xuất cây trồng, vật nuôi.

Trồng lúa nước vẫn là hoạt động kinh tế chính của người Mường, chiếm

30% cơ cấu thu nhập. Lúa nếp ngày nay vẫn được trồng nhiều, nhưng phổ biến

hơn là các loại lúa lai giống mới cho năng suất cao như Q5, tạp giao, … Bên cạnh

trồng lúa, người Mường hiện nay trồng nhiều các loại cây hoa màu khác như ngô

lai, lạc, đỗ tương,…, trồng xen canh, chiếm 7,7% cơ cấu thu nhập. Trồng lúa

nương hiện nay không còn xuất hiện tại địa bàn nghiên cứu nữa, do hoạt động

kinh tế này mang lại năng suất rất thấp mà người ta có thể thay thế vào đó bằng

các hoạt động trồng trọt khác cho năng suất cao hơn, áp dụng các phương tiện kỹ

thuật tiên tiến.

Chăn nuôi cũng là một trong những hoạt động kinh tế chính. Chiếm 21% cơ

cấu thu nhập. Vật nuôi gồm các gia súc lớn như trâu, bò (chủ yếu nuôi để lấy sức

kéo), lợn, gà, ngan, vịt,…Hoạt động chăn nuôi có tính chất nhỏ lẻ, phân tán,

không có mô hình trang trại.

Tuy nhiên, hoạt động kinh tế chăn nuôi của đồng bào Mường ngày nay đã

chuyển dần từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Nhiều sản phẩm đã được

mang ra chợ bán hoặc tư thương đến tận nhà mua. Bên cạnh các loại giống cũ,

nhiều loại giống mới cho năng suất cao như bò lai, lợn lai, gà giống mới,...đã được

đưa vào chăn nuôi.

Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp chiếm khoảng 58,7% cơ cấu thu nhập

hiện nay của người Mường. Thu nhập từ buôn bán, dịch vụ cũng chỉ chiếm 7,7%

và từ lương chiếm khoảng 11%, còn lại là các thu nhập khác.

Một số nghề truyền thống như dệt vải, đan lát vẫn còn được duy trì (chủ yếu

ở xã Tân Lập), nhưng đã không phổ biến nữa, chỉ còn rất ít, chiếm 4% cơ cấu

ngành nghề. Điều này được giải thích bởi sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

61

Các mặt hàng như vải vóc rất phong phú, bền đẹp, giá cả phù hợp, tiện dụng và cả

các vật dụng trước kia làm bằng mây tre đan nay được thay thế bằng các sản phầm

bằng nhựa vừa rẻ, vừa bền mua ngoài thị trường.

Hoạt động săn bắt hái lượm hầu như rất hiếm hoi và khai thác các nguồn lợi

từ thiên nhiên cũng giảm dần, do nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm, đồng

thời sự tiến bộ về kỹ thuật sản xuất đã giúp giảm dần sự phụ thuộc vào thiên

nhiên.

Kinh tế vườn - rừng tiếp tục được duy trì. Song ngày nay, những cây trồng

trong vườn dần được đồng bào lưu ý đến giá trị kinh tế. Họ trồng các giống cây

cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt, nhãn, chuối

để bán ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường ngày càng chú ý cải tạo mảnh

vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường còn tận dụng cả những vạt

đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng các loại rau, củ, quả

như khoai, cà, bí, cải để cải thiện bữa cơm vốn đơn giản của mình. Nhưng có thể

nói, cũng giống như trước kia, người Mường vẫn chưa chú ý đến hoạt động kinh

tế do vườn mang lại. Vườn chủ yếu vẫn là vườn tạp, ít có giá trị kinh tế.

Do điều kiện thời tiết như cũ, về cơ bản lịch thời vụ không thay đổi nhiều

tuy có tác động khá tích cực của các công trình thuỷ lợi, tưới tiêu nhỏ. Hình thức

canh tác nương rẫy, trọc lỗ tra hạt - loại hình canh tác không đem lại năng suất cao

và tốn nhiều công sức đến nay hầu như không còn nữa. Thay thế một phần vào

diện tích canh tác này là việc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày, các loại

cây ăn quả được chú trọng phát triển, tuy hiệu quả còn thấp.

* Thay đổi về mức sống

Phần đa số người được hỏi nói rằng mức sống của họ có tăng lên nhiều so

với trước kia. Trong tổng số 200 người được hỏi, có 141 người (chiếm 70.5%) cho

rằng mức sống “tăng lên nhiều” so với trước năm 1995; 54 người (chiếm 27%)

nói rằng mức sống của họ chỉ “tăng ít”, chỉ có 2% trả lời mức sống vẫn “như cũ”.

62

Tổng thu nhập bình quân ước tính năm 2007 là 31.981.000 đồng, trong đó khoảng

trên 70% số hộ thu nhập từ 20 đến 30 triệu đồng. Như vậy, nhìn chung có thể

khẳng định rằng đời sống kinh tế của người dân đã có rất nhiều thay đổi so với

trước năm 1995.

1.2. Công cụ sản xuất

Hiện nay, hầu hết đồng bào Mường vẫn sử dụng các công cụ thô sơ trong

sản xuất nông nghiệp. Nhìn vào Bảng 2, ta thấy rằng tỷ lệ sử dụng các công cụ thô

sơ như cày, cuốc, xẻng, liềm, hái chiếm một tỷ lệ rất cao. Số hộ sử dụng cày

chiếm 79%, cuốc chiếm 95.5%, xẻng chiếm 98.5%, liềm/hái/dao chiếm 97%.

Đồng thời, đồng bào sử dụng nhiều máy móc hiện đại trong sản xuất nông

nghiệp. Tỷ lệ sử dụng các công cụ máy móc (chạy bằng động cơ) là khá cao, sử

dụng máy cày/bừa chiếm tới 83%, máy xay xát lúa gạo chiếm 99%, máy tuốt lúa

chiếm 99%. Không có sự khác biệt nhiều giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ sử

dụng các công cụ hiện đại trong sản xuất.

Bảng 2: Việc sử dụng các công cụ thô sơ

Dụng cụ thô sơ

Tỷ lệ %

Số hộ sử dụng

Tỷ lệ %

Số hộ sử dụng

Máy móc (Chạy bằng động cơ)

79.0

Máy cày/bừa

146

83.0

Cày

158

Cuốc

191

95.5

Máy gặt

7

4.0

Xẻng

197

98.5 Máy xay sát lúa

174

99.0

gạo

Liềm/hái/dao

194

97.0

Máy bơm nước

71

40.0

44

22.0

Máy tuốt lúa

174

99.0

Máy tuốt lúa (không chạy bằng động cơ)

12

6.0

Máy phát điện

14

8.0

Máy tẽ ngô không chạy bằng động cơ

17

8.5

Máy móc khác

5

2.8

Các công cụ thô sơ khác

63

Có thể nói, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và sử dụng các công cụ

máy móc trong lao động cũng như đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản

xuất đã góp phần tạo ra sự thay đổi nhất định trong tập quán và sử dụng công cụ

sản xuất của người Mường. Thay đổi này không những làm tăng năng suất, cải

thiện đáng kể thu nhập người dân mà còn góp phần nâng cao mức sống, giúp cho

việc giải phóng sức lao động thủ công ở miền núi sớm trở thành hiện thực.

2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng

2.1. Đặc điểm cư trú và nhà ở hiện nay

* Đặc điểm cư trú:

Người Mường ngày nay có xu hướng sống ở những vùng thấp hơn, gần

đường giao thông, thuận lợi cho việc đi lại. Họ không sống ở trên những triền đồi

gần con sông, khe suối như trước kia nữa. Họ cũng không còn tụ cư thành từng

bản mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và tự nhiên để làm nhà. Giữa các bản này

và bản khác, giữa thôn này và thôn khác không còn phân biệt rạch ròi như trước

kia.

* Đặc điểm nhà ở:

Những ngôi nhà sàn truyền thống hiện nay vẫn còn rất phổ biến đối với

đồng bào Mường, nhưng có sự khác biệt về tỷ lệ các loại nhà ở giữa các vùng

được nghiên cứu. Vùng thị trấn, tỷ lệ ở nhà xây (nhà kiên cố hóa) cao hơn.

Nhìn vào Bảng 3, ta thấy rõ ở Vùng Thị trấn, tỷ lệ ở nhà sàn gỗ chiếm 22%,

nhà cấp 4 chiếm 55.9%, trong khi đó ở Vùng Mường Vang, nhà sàn vẫn còn rất

phổ biến, số hộ ở nhà sàn gỗ là 70.9%, nhà sàn xây kết hợp gỗ là 5%. Sự khác biệt

này có thể được giải thích bằng nhiều nguyên nhân, nhưng tựu chung lại, có thể

được giải thích bằng nguyên nhân cơ bản sau:

64

Ở Vùng Thị trấn – trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện nên sự phát

triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ hơn. Đồng bào có điều kiện để so sánh ngôi nhà

của mình với các kiểu loại nhà khác và họ nhận thấy sự tiện dụng khi ở nhà xây so

với nhà sàn, cho nên đã lựa chọn kiểu nhà xây như là sự thích ứng tự nhiên.

Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế - xã hội tạo sự tăng cường giao lưu

về mọi mặt giữa các dân tộc đưa đến sự thay đổi về nhận thức dẫn tới sự lựa chọn

mô hình nhà ở phù hợp với điều kiện sống của đồng bào hơn và phù hợp với các

loại nguyên vật liệu có thể dựng nhà trọng điều kiện sống hiện nay của họ.

Ở mỗi điểm nghiên cứu, mức độ thay đổi mô hình nhà ở là không giống

nhau. Điều đó có thể cho ta nhận xét ban đầu, nơi nào không còn bóng dáng căn

nhà truyền thống nữa thì ở đó sự tác động của sự phát triển nền kinh tế - xã hội

diễn ra mạnh mẽ hơn.

Bảng 3 : Tỷ lệ các loại nhà ở tại Vùng Thị trấn và Vùng Mường Vang

Vùng Thị trấn

Vùng Mƣờng Vang

Tổng số

(Xóm Nghĩa)

Loại nhà

Số hộ

Tỷ lệ %

Số hộ

Tỷ lệ %

Số hộ

Tỷ lệ %

Nhà tạm

8

13.6

4.3

14

7.0

6

13

22.0

70.9

113

56.5

100

0

0.0

5.0

7

3.5

7

Nhà sàn gỗ Nhà sàn xây kết hợp gỗ Nhà cấp 4

33

55.9

9.9

47

23.5

14

4

6.8

7.1

14

7.0

10

1

1.7

2.8

5

2.5

4

Nhà mái bằng một tầng Nhà 2 tầng trở lên Tổng số

59

200

100.0

100.0

100.0

141

65

Những ngôi nhà càng làm về sau này càng có xu hướng cải tiến theo hướng

hiện đại và kiên cố hóa. Các cột nhà thay cột gỗ bằng cột bê tông, sàn nhà một số

gia đình cũng đổ bê tông.

Nếu như trước đây, chuồng trại chăn nuôi chủ yếu được bố trí dưới gầm nhà

sàn thì ngày ngay chuồng trại đã được đồng bào tách riêng, chỉ còn 4.5% số hộ

nuôi nhốt gia súc dưới gầm nhà sàn, 93% số hộ có chuồng nuôi nhốt gia súc riêng

nhưng ở gần nhà.

Tuy nhiên, về kiến trúc ngôi nhà, cơ bản vẫn không thay đổi. Những ý

nghĩa thiêng liêng về mặt tâm linh vẫn còn được duy trì. Ví dụ như “cửa voóng”

là loại cửa sổ mà đồng bào coi là rất linh thiêng, chỉ người già được ngồi ở gần đó,

còn trẻ em và phụ nữ không được phép ngồi.

Biều đồ 2: Tỷ lệ sử dụng các loại nhà ở phân theo Vùng(%)

60% số người được hỏi hiện đang ở nhà sàn. Có một điều thú vị là có tới

82.5% số người được hỏi thích làm nhà theo kiểu nhà sàn truyền thống và hiện

66

đại, trong đó 58% thích làm nhà sàn hiện đại. Và họ cho rằng ở nhà sàn thuận lợi

hơn nhà xây (70%).

“Nhà sàn mát mẻ hơn, cao ráo, sạch sẽ hơn, khi có khách thì rộng rãi

có thể ngủ chơi thoải mái mà không lo gì thiếu chỗ nằm”.

(Nam, 30 tuổi, xã Tân Lập)

Chỉ có 17.5% mong muốn làm nhà kiên cố. Đồng thời, không có sự khác

biệt về mong muốn làm nhà theo ý thích giữa người già, thanh niên và trung niên,

chứng tỏ thanh niên dân tộc Mường vẫn có xu hướng làm nhà theo truyền thống.

2.2. Tiện nghi và đồ dùng sinh hoạt hiện nay

Qua số liệu nghiên cứu cho thấy, tập quán sinh hoạt của đồng bào Mường

ngày nay đã thay đổi cơ bản về chất. Nếu như trước đổi mới, đồng bào vốn chỉ sử

dụng hàng thủ công là chính thì nay hàng hoá sản xuất công nghiệp đã tràn ngập

đến từng ngôi nhà. Cùng với việc sử dụng các tiện nghi sinh hoạt trước kia vẫn

dùng, việc sử dụng tiện nghi sinh hoạt mới hiện nay chiếm một tỷ lệ khá cao và

ngày càng tăng, cụ thể như quạt điện, ti vi màu, xe máy. Đặc biệt là các phương

tiện thông tin liên lạc (như điện thoại di động, điện thoại cố định), nếu như trước

đổi mới là rất hiếm hoi thì ngày nay đã khá thông dụng và có xu hướng gia tăng.

Số hộ sử dụng xe máy chiếm tới 80.5%, xe đạp 93%, quạt điện 94.5%, ti vi

màu 89%, đầu CD/DVD chiếm 51.5%, nồi cơm điện 70%. Tỷ lệ sử dụng điện

thoại cố định tới 63%, điện thoại di động 37%. Điều đó, chứng tỏ đời sống của

đồng bào Mường đã được cải thiện đáng kể và dẫn tới nhiều thay đổi trong việc sử

dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng này. Hầu hết các tiện nghi sinh hoạt đều được

67

mua từ chợ về chứ không phải tự làm. Bên cạnh các tiện nghi hiện đại, chiếc xe

đạp vẫn là phương tiện đi lại rất thông dụng đối với đồng bào bởi giá cả lợp lý và

sự tiện dụng của nó.

Giống như trước kia, người Mường cũng bán những vật phẩm mà mình sản

xuất được để mua những vật dụng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt. Nhưng hiện

nay, do việc vận dụng các kỹ thuật và giống mới làm tăng năng suất dẫn tới tăng

thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào, nên đồng bào có điều kiện để

sắm những tiện nghi cao cấp hơn, đắt tiền hơn như xe máy, ti vi, quạt điện, đài,

bàn ghế giường tủ, nồi cơm điện và nhiều các tiện nghi hiện đại khác.

Bảng 4: Tỷ lệ sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hàng ngày (tính theo %)

% Tổng

Loại tiện nghi SH

Vùng Thị trấn

% Tổng

Loại tiện nghi SH

Vùng Thị trấn

Vùng Mƣờng Vang

Vùng Mƣờng Vang

Xe đạp

88.1

95.0

93.0 Điện thoại

35.6

37.6

37.0

di động

Xe máy

81.4

80.1

80.5

1.7

7.8

6.0

Dàn âm thanh

Ô tô

1.7

2.8

2.5 Máy vi tính

3.4

2.8

3.0

Quạt điện

93.2

95.0

94.5 Máy giặt

1.7

1.4

1.5

1.7

1.4

1.5

Bếp ga

15.3

15.6

15.5

Máy điều hòa nhiệt độ

Tủ lạnh

15.3

18.4

17.5 Tủ/giá sách

25.4

24.8

25.0

Ti vi màu

100.0

84.4

89.0 Bình nóng

1.7

0.0

0.5

lạnh

0.0

12.8

9.0

Giường

84.7

39.0

52.5

Ti vi đen trắng

68

67.8

44.7

51.5

Bàn/ghế

76.3

37.6

49.0

Radio- casette/đầu CD

Dàn

18.6

9.9

12.5 Nồi cơm

84.7

63.8

70.0

điện

Karaoke

Điện thoại

72.9

58.9

63.0

Khác

5.1

7.8

7.0

Tuy nhiên, nhìn vào Bảng 3, có thể thấy rằng, tỷ lệ sử dụng các tiện nghi

sinh hoạt “cao cấp” vẫn còn rất thấp hoặc chưa từng sử dụng, chứng tỏ mức sống

của đồng bào vẫn còn ở mức trung bình. Tỷ lệ sử dụng bình nóng lạnh là 0.5%,

bếp ga 15.5%, máy giặt 1.5%, máy vi tính 3%, dàn âm thanh 6%.

Có sự khác biệt nhưng không quá lớn giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ

sử dụng các tiện nghi sinh hoạt, điều đó chứng tỏ không có sự khác biệt nhiều về

mức sống giữa hai vùng. Đồng bào Mường ở Vùng Thị trấn có tỷ lệ sử dụng ti vi,

đầu VCD, điện thoại cố định và giường cao hơn so với đồng bào ở Nhân Nghĩa. Ở

Vùng Thị trấn, 100% số hộ có ti vi màu, đầu VCD 67.8% , điện thoại cố định

72.9%, nồi cơm điện 84.7%. Trong khi đó Vùng Mường Vang, tỷ lệ sử dụng ti vi

là 84.4%, đầu VCD là 44.7%, điện thoại cố định 58.9%, nồi cơm điện 63.8%.

Điều này được giải thích bởi sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội làm thay đổi

thói quen tiêu dùng, sinh hoạt của đồng bào. Đồng thời, mức sống cao hơn là điều

kiện để đồng bào có thể mua sắm các vật dụng tiện ích hơn. Tỷ lệ sử dụng

“giường” của đồng bào Mường Vùng Thị trấn chiếm tới 84.7%, trong khi đó Vùng

Mường Vang chỉ chiếm 39%. Điều đó tỷ lệ thuận với việc lựa chọn mô hình nhà ở

kiên cố của đồng bào Vùng Thị trấn.

69

2.3. Ẩm thực

Ngày nay, ăn cơm nếp đồ vẫn là một nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của

người Mường, không thể thiếu trong các dịp lễ tết và được sử dụng thường xuyên

trong bữa ăn hàng ngày của người Mường.

Thói quen ăn cơm đồ, rau đồ và lợn thui, thịt gà nấu măng chua hạt dổi là

những đồ ăn thức uống không thể thiếu được trong những ngày lễ. Thậm chí,

những đồ ăn như cơm đồ, rau đồ và thịt gà nấu măng chua hạt dổi trở thành những

món ăn hàng ngày của đồng bào.

Người Mường có một thứ bánh gọi là Bánh Uôi - một loại bánh làm từ bột

gạo nếp, thường được làm trong các dịp lễ tết. Đồng bào Mường ở xã Tân Lập và

Nhân Nghĩa thường làm Bánh Uôi trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng 8 thành

công (19/8) và Ngày Quốc khánh 2/9. Trong dịp này, ở đây, thường có nhiều bạn

bè, anh em tụ tập ăn mừng ngày lễ lớn, Bánh Uôi trở thành món ăn không thể

thiếu trong bữa ăn và là một món quà quý mà gia chủ gửi về cho gia đình khách

trước khi chia tay buổi tiệc.

Rượu cần nói riêng, các loại rượu (rượu chuối, rượu gạo, rượu sắn,…) là

thứ đồ uống không thể thiếu trong bất kỳ dịp lễ tết nào từ xưa đến nay của người

Mường. Khi khách đến chơi nhà, anh em bạn bè thân hữu gặp mặt, người Mường

dùng chén rượu để chào nhau, hỏi thăm sức khỏe và gửi gắm những tình cảm thân

mật, thiết tha của mình. Và suốt trong bữa ăn rượu trở thành công cụ hữu ích cho

giao tiếp, giúp mọi người thân thiện, gần gũi nhau hơn. Uống cạn chén rượu là sự

Uống rượu và hát đúm (giống như hát đối của người Kinh), vừa hát vừa hỏi

thăm nhau là một nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Mường vẫn còn được duy trì.

thể hiện lòng thành với nhau, hết lòng với nhau – không say không về.

70

Đã từ lâu, các món ăn được xem là đặc sản thường làm trong dịp Tết cơm mới xưa của người Mường (đĩa quéch, ngách lưỡi, ốc cá) không còn nữa, không ai còn nhớ đến nữa. 100% số người được hỏi đều trả lời không biết món ăn này.

Ngày nay, người Mường có xu hướng đơn giản hóa những món ăn, tránh những món ăn chế biến cầu kỳ và các món ăn trong các dịp lễ tết cũng rất gần gũi, trở thành món ăn hàng ngày của đồng bào.

2.4. Việc mặc trang phục truyền thống

Đa số đồng bào Mường ngày nay vẫn còn mặc trang phục truyền thống,

nhưng chủ yếu vào các dịp lễ hội, ở Vùng Thị trấn chiếm 89.8%, ở Vùng Mường

Vang chiếm 70.2% . Tuy nhiên, việc mặc trang phục truyền thống “hàng ngày”

đã không còn phổ biến nữa, đặc biệt với nam giới. Đồng thời, trang phục của đồng

bào Mường ngày nay đã có sự cách tân, cải biến khác nhiều so với trước, ngay cả

về chất liệu vải. Nếu như trước kia, vải vóc được dệt thủ công thì ngày nay chủ

yếu là vải vóc công nghiệp, mua từ chợ về.

Bảng 5 cho thấy sự khác biệt theo nhóm tuổi về tỷ lệ mặc trang phục truyền

thống.

Bảng 5: Tỷ lệ người mặc trang phục truyền thống ở địa phương phân theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi

Tổng số

18-30

31-49

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

số người

số người

50 trở lên số Tỷ lệ % người

Số người

46

23.0%

63

31.5%

43

21.5%

152

76.0%

Mặc trang phục truyền thống

Mặc hàng ngày

17

8.5%

22

11.0%

20

10.0%

59

29.5%

44

22.0%

63

31.5%

42

21.0%

149

74.5%

Mặc vào ngày tết/hội

42

21.0%

57

28.5%

41

20.5%

140

70.0%

Mặc vào ngày lễ (cưới xin,ma chay)

71

Giả thuyết về việc không có mối quan hệ giữa biến tuổi tác và việc mặc

trang phục truyền thống. Kiểm định Khi - Bình phương cho thấy mức ý nghĩa Sig

= 0,000 (<0,05), vì vậy có thể bác bỏ sự độc lập giữa hai biến này và khẳng định

có một mối quan hệ phụ thuộc giữa biến tuổi tác và việc mặc trang phục.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống dân tộc

“Thanh niên bây giờ không còn mặc trang phục dân tộc hàng ngày nữa đâu,

một phần vì bất tiện, một phần vì theo xu thế chung. Chỉ còn những người già trong

làng còn mặc thôi. Mặc trang phục của dân tộc Kinh cũng thuận tiện cho đi lại, lao

động hơn, đi xe cộ tiện hơn và cũng không đắt lắm cũng tiện mua sắm nữa” (Nữ, 60

76% số người được hỏi vẫn còn mặc trang phục truyền thống. Tuy nhiên, tỷ lệ mặc trang phục này hàng ngày không cao. Đối nhóm I (18-30) chỉ chiếm 8,5%; nhóm II (31-49) chỉ chiếm 11% và nhóm III (50 tuổi trở lên) chiếm một tỷ lệ tương tự là 10%. Họ chủ yếu mặc trong những ngày Tết, ngày lễ: Nhóm I chiếm 43%, Nhóm II chiếm 60% và Nhóm III chiếm 41.5%. Khi được hỏi lý do tại sao đồng bào ít mặc trang phục truyền thống hàng ngày, mà thay vào đó là trang phục của dân tộc Kinh, có nhiều ý kiến cho rằng mặc trang phục truyền thống hàng ngày tuy đẹp nhưng rất bất tiện trong lao động, đi lại, làm việc. Trang phục của người Kinh thuận tiện hơn và mua cũng rẻ hơn.

tuổi, xã Tân Lập)

72

Số người có học vấn từ cấp 3 trở lên chỉ chiếm 63%. Tuy nhiên, 78% trong

số đó vẫn còn mặc trang phục truyền thống.

Một câu hỏi được đặt ra là phải chăng người có trình độ học vấn cao hơn thì

ít mặc trang phục truyền thống hơn ? Liệu có một tương quan nào đó giữa tuổi tác

và trình độ học vấn. Mức ý nghĩa Sig của tương quan này bằng 0.000 (<0.05), chỉ

ra có mối tương quan giữa tuổi tác và việc mặc trang phục. Khi dùng hệ số tương quan Spearman = -0.49 ( (-0.49)2 = 0.24), hệ số này cho ta thấy trình độ học vấn

chỉ giải thích được 24% việc mặc trang phục truyền thống hay không còn mặc

trang phục truyền thống nữa của đồng bào.

Bảng 6 cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ mặc trang phục truyền thống giữa

các địa bàn được nghiên cứu.

Bảng 6: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống phân theo Vùng (tính theo tỷ lệ %)

Mặc hàng ngày

Mặc vào dịp tết/hội

Mặc vào ngày khác

Vùng Thị trấn

Còn mặc trang phục truyền thống 89.8 70.2

Mặc vào ngày lễ (ma chay, cƣới xin) 85.7 89.3

3.6 22.3

8.9 52.4

96.4 92.2

Vùng Mƣờng Vang Tổng

76.0

88.1

15.7

37.1

93.7

Mặc dù Vùng Thị trấn có tỷ lệ mặc trang phục truyền thống (89.8%) cao

hơn Vùng Mường Vang (70.2%), nhưng tỷ lệ mặc trang phục hàng ngày của đồng

bào Mường Vùng Thị trấn rất thấp(chỉ chiếm 8.9%), Vùng Mường Vang tỷ lệ mặc

trang phục truyền thống hàng ngày phổ biến hơn, chiếm 52.4%. Đa số đồng bào

mặc trang phục truyền thống vào dịp tết, hội.

2.5. Ngôn ngữ:

Từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay, dưới sự tác động của nền kinh tế

thị trường và sự tăng cường giao lưu hội nhập, ngôn ngữ của đồng bào Mường đã

có nhiều biến đổi, theo hướng tăng cường sử dụng song ngữ.

73

Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng các ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng

Thƣờng sử dụng ngôn ngữ nào khi giao tiếp trong cộng đồng

Ngôn ngữ

Tổng số

Tiếng dân tộc

Tiếng Kinh

Cả hai tiếng

Số người

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Vùng

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

39.0

6

10.0

23

50.8

59

100.0

30

Nhóm I

13.5

54

38.3

19

48.2

141

100.0

68

Nhóm II

21.0

60

30.0

42

49.0

200

100.0

98

Tổng số

100% số người được hỏi đều biết nói hai tiếng là tiếng dân tộc mình và

tiếng dân tộc Kinh. Tuy nhiên khi giao tiếp trong gia đình, người Mường chủ yếu

sử dụng tiếng dân tộc mình (89%). Nhưng trong cộng đồng, họ vừa sử dụng tiếng

Kinh, vừa sử dụng tiếng dân tộc để giao tiếp: 30% sử dụng tiếng dân tộc, 21% sử

dụng tiếng Kinh và 49% sử dụng cả hai ngôn ngữ để giao tiếp trong cộng đồng.

Có sự khác biệt giữa vùng thị trấn và vùng Mường Vang trong việc sử dụng

các ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng và gia đình. Kiểm định Khi-bình phương

cho thấy mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05), khẳng định có tương quan giữa việc sử

dụng ngôn ngữ trong giao tiếp giữa các vùng được nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng

tiếng Kinh khi giao tiếp trong cộng đồng đối với đồng bào Mường vùng thị trấn

cao hơn vùng Mường Vang. Điều này được thể hiện rất rõ ở Bảng 7.

Biểu đồ 4: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng ở vùng Thị trấn Vụ Bản

74

Biểu đồ 5: Tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp trong cộng đồng

ở vùng Mường Vang

Nhìn vào Biểu đồ 4 và 5 có thể thấy được sự khác biệt giữa các vùng khi sử

dụng ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng. Số người chỉ sử dụng tiếng Kinh khi

giao tiếp trong cộng đồng ở vùng Thị trấn chiếm tới 39%, trong đó Vùng Mường

Vang chỉ chiếm 13%; còn số người chỉ sử dụng tiếng dân tộc khi giao tiếp trong

cộng đồng ở vùng thị trấn chiếm 10% nhưng ở vùng Mường Vang chiếm tới 38%.

Và có một điều thú vị là chiếm khoảng 50% số người được hỏi đều sử dụng cả hai

ngôn ngữ (tiếng Mường và tiếng Kinh) khi giao tiếp trong cộng đồng.

“Là người Mường thì phải biết tiếng Mường chứ. Có một số thanh niên này nay không chịu nói tiếng Mường là coi thường chính dân tộc mình vậy.” (Nam, 35 tuổi, xóm Nghĩa, Thị trấn Vụ Bản)

Có tới 98.5% số người được hỏi đều cho rằng mọi người đều phải biết tiếng

dân tộc mình và không có sự khác biệt nào giữa các nhóm tuổi trong quan điểm

này. 18% cho rằng nên dạy tiếng dân tộc ở trường học, 16% cho rằng chỉ cần dạy

tiếng Kinh trong trường và có tới 89% cho rằng nên dạy cả hai thứ tiếng ở trong

trường học. điều này cho thấy tiếng dân tộc vẫn còn rất được coi trọng.

75

Việc vay mượn tiếng Việt trong giao tiếp đã trở thành phổ biến, nhất là

những thuật ngữ liên quan đến cơ chế xã hội mới, liên quan đến khoa học công

nghệ mới hoặc các sản phẩm mới do công nghệ sản xuất,…Điều này chứng tỏ sự

hội nhập các dân tộc đã và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

3. Quan hệ gia đình, dòng họ, tổ chức đời sống cộng đồng

3.1. Quan hệ gia đình, dòng họ hiện nay

Hình thức gia đình phụ quyền vẫn còn là đặc trưng trong quan hệ gia đình

của người Mường. Tuy nhiên, tính chất gia trưởng cũng đã bị lung lay. Người đàn

ông trong xã hội tiểu nông xưa có vị trí quan trọng, có tiếng nói quyết định trong

gia đình thì ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo hướng đa dạng

hóa, vị trí của người đàn ông trong gia đình cũng không còn tuyệt đối nữa.

Ở đây, tuy hoạt động sản xuất gia đình vẫn chủ yếu là nông nghiệp, nhưng

với sự hỗ trợ của các phương tiện sản xuất hiện đại, người đàn ông với tư cách là

chủ lực trong các công việc đồng áng thì nay nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Các công

việc được các thành viên chia sẻ theo khả năng của mình, tạo cơ hội cho phụ nữ

khẳng định vai trò bình đẳng với nam giới. Vì thế, ngày nay quan hệ gia đình có

xu hướng bình đẳng hơn so với trước kia, người phụ nữ ngày càng có tiếng nói

trong gia đình. Đối với một số hộ, không kể là chồng hay vợ, nam giới hay phụ

nữ, người nào giỏi giang làm kinh tế thì sẽ có vai trò điều hành gia đình.

Nếu như trước kia, hình thức gia đình mở rộng là phổ biến, thường từ ba

đến bốn thế hệ, thì ngày nay có xu hướng tăng dần mô hình gia đình hạt nhân,

gồm hai thế hệ, cha mẹ và con cái. Đồng thời, quy mô gia đình cũng nhỏ dần. Mỗi

gia đình thường gồm khoảng 4 đến 6 người (chiếm khoảng 66%), từ 1 đến 3 người

chiếm 21%, chỉ có 13% gia đình có từ 7 người trở lên. Số thế hệ cùng sống phổ

biến là gia đình hai thế hệ (50%), gia đình ba thế hệ vẫn còn 38.5%, gia đình bốn

thế hệ chỉ còn chiếm 5.5%.

76

Người đàn ông vẫn có tiếng nói quyết định trong gia đình, khi thừa kế, con

trai trưởng được hưởng nhiều hơn và con trai trưởng là người chịu trách nhiệm

phụng dưỡng cha mẹ khi về già và thờ cúng cha mẹ khi mất. Người già rất được

coi trọng và có tiếng nói quan trọng trong gia đình, dòng họ. Tính chất phụ quyền

còn thể hiện rất rõ như cha mẹ thường ở với con trai trưởng hoặc khi có việc quan

trọng thường nhờ cậy đằng nhà chồng nhiều hơn, chiếm tới 94,5%, nhờ cậy đằng

nhà vợ 80%. Đồng thời sự giúp đỡ lẫn nhau là thường xuyên trong cộng đồng,

hàng xóm (81%).

Mối quan hệ gia đình, dòng họ tuy đã có nhiều biến chuyển xong vẫn rất chặt chẽ. Các thành viên trong gia đình, dòng họ thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau. Phần lớn số người được hỏi đều trả lời khi có việc hệ trọng họ thường nhờ anh em, họ hàng, bạn bè giúp đỡ.

Có thể nói, gia đình của đồng bào Mường ở Lạc Sơn ngày nay đã có những

biến đổi rõ rệt cả về quy mô và hình thức. Cùng với sự phát triển mọi mặt của đời

sống, quy mô gia đình của đồng bào Mường cũng ngày càng nhỏ lại. Sự biến đổi

này có thể được giải thích bởi sự tác động của chính sách kế hoạch hóa gia đình.

Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sự độc lập về kinh tế của những

người con đã làm giảm dần sự phụ thuộc vào cha mẹ mình, cả về tinh thần lẫn vật

chất. Điều đó tạo ra xu hướng tách hộ, sống độc lập, tự chủ ngày càng tăng.

3.2. Tổ chức đời sống cộng đồng

Xã hội Mường ngày nay không còn chế độ Lang Cun như trước kia. Tổ chức xã hội Mường ngày nay thống nhất với tổ chức bộ máy hành chính của nhà nước, thống nhất quyền lực với nhà nước. Xã là cấp chính quyền cơ sở, dưới xã là các thôn, đứng đầu là các trưởng thôn, trưởng bản, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động kinh tế - văn hóa – xã hội của thôn đó bản đó. Tuy nhiên, già làng vẫn rất được coi trọng, có tiếng nói quan trọng quyết định nhiều việc lớn trong làng, trong họ.

77

Người Mường được giải phóng khỏi chế độ Lang Cun, họ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của mình, không còn bị bóc lột, đồng thời họ được nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất kinh doanh nên đời sống của người Mường ngày nay đã khá hơn rất nhiều so với trước kia.

4. Tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin

4.1.Tín ngưỡng, lễ hội

4.1.1.Về tín ngưỡng

Sự thay đổi tập quán sản xuất với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản

xuất làm người lao động ngày càng chủ động trong sản xuất, giảm dần sự phụ

thuộc vào thiên thiên. Vì vậy, quan niệm “vạn vật hữu linh”, sùng bái thiên nhiên

với nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp trong lao động sản xuất như rước vía lúa, lễ

cầu mùa, lễ mừng cơm mới, đến tục đóng cửa rừng, mở cửa rừng kèm theo lệ cấm

kiêng kị có tính chất siêu nhiên, linh thiêng cũng đã mất dần, cùng với sự phát

triển của lực lượng sản xuất.

Người Mường cũng có những ngày lễ tương tự như người Kinh. Đây chính

là nét tương đồng về văn hóa sâu sắc, thể hiện sự giao thoa và sự gắn bó sâu sắc

giữa hai dân tộc Kinh và Mường.

Tương tự như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng có từ rất lâu

đời của người Mường 97.5% số người được hỏi có thờ cúng tổ tiên, 1% theo đạo

Phật, chỉ 1.5% là không thờ cúng.

Bảng 8 chỉ ra tỷ lệ các gia đình tổ chức các ngày lễ của người Mường.

Trong đó, số hộ tổ chức các ngày lễ chiếm một tỷ lệ rất cao. Có tới 82% số người

được hỏi cúng giao thừa, 65.5% tổ chức lễ thanh minh và 64.5% tổ chức giỗ. Tết

78

cơm mới vốn là một trong những Tết truyền thống quan trọng của đồng bào

Mường, tuy nhiên đến nay đã không còn phổ biến nữa, chỉ có 46% số hộ gia đình

tổ chức Tết cơm mới, tập trung chủ yếu ở vùng Mường Vang (58.9%), còn ở vùng

trấn chỉ chiếm 15%.

Đồng bào Mường đặc biệt coi trọng ngày Tết độc lập 2/9, hầu hết các gia

đình đều tổ chức lễ nhân ngày này (95%), đồng bào Mường ở xã Nhân Nghĩa

thường tổ chức ăn Tết 19/8 để kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng 8 thành công.

Bảng 8: Tỷ lệ các gia đình tổ chức các ngày lễ

Số gia đình tổ chức

Số gia đình tổ chức

Các ngày Lễ

Các ngày Lễ

Số gia đình

Tỷ lệ

Số gia đình

Tỷ lệ

Ngày Giỗ

129

64.5%

Trung thu

119

59.5%

83

41.5%

Tết cơm mới

92

46%

Ngày rằm, mùng một

Rằm tháng giêng

56

28%

64

32%

Cúng Ông Công, ông Táo

164

82%

Lễ thanh minh

131

65.5% Cúng giao thừa

Tết đoan ngọ

56

28%

Tết 2/9

190

95%

Rằm tháng 7

64

32%

130

65%

Ngày kỷ niệm CMT8 (19/8)

Một câu hỏi được đặt ra là liệu việc tổ chức các ngày lễ giữa các vùng được

chọn nghiên cứu có khác nhau không hay có mối tương quan nào giữa việc tổ

chức các ngày lễ với 2 nhóm vùng (Vùng Thị trấn và Vùng Mường Vang) không ?

Kiểm định Khi-Bình phương với mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05) chỉ ra ý

nghĩa thống kê rằng có sự khác biệt nhưng không nhiều về việc tổ chức ngày rằm

tháng giêng giữa vùng Thị trấn và vùng Mường Vang. Tuy nhiên, hệ số tương

79

quan Pearson’s R cho thấy nó chỉ có thể giải thích được 12.5% sự khác biệt đó mà

thôi.

Tương tự, việc tổ chức lễ thanh minh là phổ biến ở vùng Thị trấn Vụ Bản,

có tới 95% số hộ được hỏi tổ chức lễ thanh minh, ở vùng Mường Vang chỉ chiếm

53.2%. Tỷ lệ hộ tổ chức lễ thanh minh khác nhau được giải thích bởi 16% là do sự

khác nhau giữa hai vùng cư trú.

Có thể nói chung rằng, tập quán tín ngưỡng của người Mường đã có những

biến chuyển rõ rệt và có sự khác nhau giữa hai vùng: Vùng Thị trấn và Vùng

Mường Vang. Vùng thị trấn biến đổi mạnh hơn theo hướng xích lại gần với tập

quán tín ngưỡng của người Kinh. Điều này được giải thích bởi đặc điểm cư trú,

vùng thị trấn có đông người Kinh sinh sống, hoạt động trao đổi buôn bán và giao

tiếp giữa người Mường và người Kinh phát triển rất mạnh, vì thế có sự giao lưu

ảnh hưởng mạnh mẽ về nhiều mặt trong đó có tập quán tín ngưỡng.

Bên cạnh sự mai một của một số ngày lễ vốn được coi là truyền thống văn

hóa như Tết cơm mới, người Mường lại bổ xung thêm những ngày lễ như Tết Độc

lập (2/9), Ngày CMT8 thành công (19/8). Người Mường tổ chức những ngày này

thể hiện lòng biết ơn các chiến sỹ, niềm vui, tự hào vì đất nước được độc lập. Đặc

biệt ngày 2/9 được xem là ngày lễ rất lớn chỉ sau ngày Tết nguyên đán và đồng

bào chuẩn bị long trọng không kém gì Tết nguyên đán.

4.1.2. Về lễ hội hiện nay

Các lễ hội truyền thống ở địa phương đã bị mai một đi nhiều. Ở Xóm Nghĩa

(Vụ Bản), lễ hội xuống đồng (còn gọi là Tết khai hạ) vẫn còn được duy trì, tổ chức

vào mồng 7 tháng giêng hàng năm. Lễ hội này đã thu hút đông đảo đồng bào

Mường tham gia. Có tới 53/59 (90%) số người trả lời tham gia và đóng góp đầy

đủ khi lễ hội được tổ chức, chỉ có 10% là thỉnh thoảng tham gia, không có trường

80

hợp nào chưa từng tham gia. Đồng bào thường góp tiền, góp gạo và công sức tham

gia tổ chức lễ hội.

Lễ hội xuống đồng nói riêng được sự hưởng ứng tích cực của đồng bào, họ

đều cho rằng lễ hội giúp gắn bó các thành viên trong cộng đồng (76.3%), giúp giữ

gìn truyền thống văn hóa (100%), là dịp để cầu tài cầu lộc (95%) và là dịp để vui

chơi gặp gỡ (81.3%).

Các hội làng được tổ chức nhưng không thường xuyên (2-3 năm một lần),

thường là hội cồng chiêng, đánh mảng, ném còn, hát đôi, hát đúm, và thường được

kết hợp với ngày hội đoàn kết văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, khi hỏi ở địa phương có

còn lễ hội, một tỷ lệ khá lớn đồng bào xã Nhân Nghĩa và Tân Lập cho rằng ở địa

phương không còn lễ hội nữa (32.5%). Điều đó chứng tỏ lễ hội đã chưa mang lại

ấn tượng sâu sắc, chưa thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Đối với những

người khẳng định ở địa phương còn lễ hội (67.5%) thì tỷ lệ tham dự lễ hội cũng

khá cao: 70% thường xuyên tham gia, 23% tham dự một số lễ hội và chỉ có 8% là

không tham gia.

Việc tổ chức lễ hội nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của đồng bào Mường.

Đa số đều cho rằng lễ hội giúp gắn bó các thành viên trong cộng đồng (72%) và

giúp giữ gìn truyền thống văn hóa (89%) và là dịp để vui chơi gặp gỡ giao lưu

(76.5%).

Ngày nay, các hội lớn như sắc bùa hầu như không còn nữa, chỉ có người

già còn biết đến hội này mà thôi.

Một câu hỏi được đặt ra có sự khác nhau về mức độ tham dự lễ hội theo

nhóm tuổi hay không ? Mức ý nghĩa Sig = 0.02 (<0.05) giúp khẳng định rằng có

sự tương quan giữa nhóm tuổi và mức độ tham dự lễ hội. Tuy nhiên, khi dựa vào

81

hệ số tương quan pearson (0.286), thì tuổi tác chỉ giải thích được 8.2% sự biến

thiên của mức độ tham dự lễ hội.

4.2. Ma chay

Lễ tang của người Mường ngày nay đã khác nhiều so với trước kia. Thời

gian rút ngắn và các thủ tục, trình tự tang lễ cũng đơn giản hơn rất nhiều. Một số

trình tự cơ bản vẫn được duy trì như trước kia, song nhiều thủ tục rườm rà đã bị

lược bỏ.

Lễ tang thường chỉ kéo dài trong 24 giờ. Khi người chết tắt thở, người nhà

đánh chiêng liên tục 3 hồi để báo cho anh em, họ hàng biết. Sau đó trưởng bản

cùng với những người có vai vế trong họ họp nhau lại, bàn cách thức tổ chức lễ

tang, phân công nhiệm vụ cho mọi người trong họ. Lúc này, toàn thể con cái tập

trung về xung quanh người chết, con đẻ tắm cho cha/mẹ mình (người chết) bằng lá

bưởi cho sạch sẽ, rồi căng màn, đắp chăn cho người chết. Nếu là đàn ông thì đặt ở

gian ngoài, đàn bà thì đặt ở gian trong. Sau khi tắm xong, chọn giờ để khâm liệm.

Người đứng đầu họ cùng với con sẽ cho người chết vào quan tài.

Khi liệm xong, quan tài được khênh lên đặt ở gian giữa trên chiếu và bốn

tấm vải trắng, Người ta đắp cho người chết một chiếc chăn bông và hàng chục

chiếc chăn đơn, trải hai tấm lụa tơ nằm ở hai bên. Một người cao tuổi trong họ

cầm một hòn than vạch lên sàn và đọc lời bàn giao số vải vóc và quần áo cho

người chết đem theo. Trong khi người nhà mắc màn ở xung quanh chỗ người chết

nằm, thì bà con họ hàng, làng xóm đến đầy nhà. Những người thân đều mặc quần

áo tang (màu trắng). Người con trai cả tới cửa sổ (cửa voóng - nơi thờ cúng tổ

tiên, rút dao chặt 3 nhát lên thành cửa như để nhắc rằng từ nay anh ta là người

đảm nhiệm việc thờ cúng tổ tiên.

82

Sau đó, chiêng trống nổi lên và thân nhân bắt đầu khóc. Người nhà mời thầy

mo đến chuẩn bị cho tối mo Tần tịch – tang lễ chính thức bắt đầu. Một thầy mo

chính và hai thầy mo phụ làm lễ khẳng định cái chết là một việc đã được số phận

sắp đặt, tránh cho người chết sự luyến tiếc băn khoăn khi phải từ bỏ thế giới người

sống.

Các lễ tiếp theo vẫn được duy trì giống trước kia, như Lễ tống trùng, lễ

Tấng dây, lễ nhập quan cho người chết. Sau đó làm lễ cúng cơm tương tự như

người Kinh.

Lễ nhập quan bắt đầu vào buổi tối. Người ta mổ một con lợn nhỏ, luộc rồi

thái nhỏ, bày lên lá chuối để lên bàn thờ. Chiêng và trống đánh bài “túc nược” mời

người chết ăn.

Sau đó, thầy mo chỉ mo một số đoạn ngắn có tính hình thức mà thôi.

Ba hôm sau, người ta còn làm lễ dẫn đường cho hồn về, chỉ cho hồn biết nơi

thờ cúng và biết lối về. Con cháu ra nghĩa địa xây mộ, chôn vò đựng rượu ở đầu

mộ. Đến đây tang lễ kết thúc.

Trong thời gian 100 ngày, thân nhân người chết không được tham dự các

cuộc vui chơi, nếu buộc phải có mặt thì luôn phải cúi nhìn xuống đất, không được

nhìn lên.

Tục làm “ma khô” đến ngày nay đã mất hẳn.

Tục làm hòn mồ ngày nay đã không còn nhiều nữa. Người Mường ( đặc biệt

đồng bào Mường ở Xóm Nghĩa ) đã xây mộ như người Kinh.

4.3. Cưới xin

Đám cưới của người Mường ngày nay cũng gần tương tự như người Kinh,

cũng vẫn gồm các bước chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu hay xem ngày giờ

83

tổ chức đám cưới. Trong quá trình đính hôn, ông mối vẫn cần thiết. Tuy nhiên,

việc mai mối cũng chỉ còn là hình thức mà thôi. Tục thách cưới ngày nay vẫn còn

rất phổ biến, nhưng dường như chỉ mang tính hình thức, tượng trưng, lễ vật thách

cưới không yêu cầu cao, không còn khắt khe như trước kia nữa.

Đã có một số ít các thanh niên tổ chức tuần trăng mật sau khi kết hôn ở

vùng thị trấn (6.2%) , chứng tỏ đã có sự thâm nhập của nền văn hóa mới.

Đồng thời, thời gian tổ chức lễ cưới cũng được rút ngắn, thường chỉ kéo dài

trong 2 ngày và các thủ tục được đơn giản hóa, chỉ còn các bước như chạm ngõ,

ăn hỏi, đón dâu.

Bảng 9: Các thủ tục cưới xin của người Mường

Nhóm tuổi

18-30 tuổi

31-49 tuổi

Các thủ tục cƣới xin

Từ 50 tuổi trở lên

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Đăng ký kết hôn

100%

98.6%

90.4%

Chạm ngõ

77.6%

84.3%

84.6%

tổ

96%

91.4%

90.4%

Xem ngày giờ chức đám cưới

Ăn hỏi

97.4%

97.1%

94.2%

Thách cưới

82.9%

51.4%

61.5%

Xin dâu/đón dâu

97.4%

97.1%

92.3%

Nghỉ tuần trăng mật

6.2%

3%

0%

Kết quả kiểm định giả thuyết về tính độc lập của các biến tuổi và các thủ tục cưới xin cho thấy mức ý nghĩa quan sát Sig = 0,000 nên ta an toàn bác bỏ giả

84

thuyết về tính độc lập đó và khẳng định có tương quan giữa tuổi tác, các thủ tục cưới xin (chạm ngõ, thách cưới, xin dâu, xem ngày giờ tổ chức cưới).

Giá trị -2LL = 14.555, không cao, như vậy nó thể hiện một độ khá tốt của

mô hình tổng thể. Có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi về tỷ lệ đăng ký kết hôn. Nhóm người trẻ tuổi hơn có tỷ lệ đăng ký kết hôn cao hơn. Tỷ lệ đăng ký kết hôn khi cưới ở nhóm tuổi từ 18-30 đạt 100%, nhóm tuổi từ 31-49 đạt 98.6% và nhóm tuổi từ 50 trở lên chỉ chiếm 90.4%. Điều này chứng tỏ một sự tiến bộ trong nhận thức về hôn nhân của đồng bào Mường, đó là hôn nhân hợp pháp là phải được pháp luật thừa nhận. Còn về các thủ tục cưới xin khác như chạm ngõ, chọn giờ để tổ chức lễ cưới, ăn hỏi, xin dâu/đón dâu, không có sự khác biệt nhiều giữa các nhóm tuổi, và về cơ bản, các thủ tục này vẫn được duy trì từ thế hệ này qua thế hệ khác. Có một điều đáng ngạc nhiên tục thách cưới không những không bị loại bỏ trong quá trình phát triển của xã hội mà còn có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ thách cưới ở nhóm tuổi từ 50 trở lên chỉ chiếm 61.5%, nhóm tuổi từ 31-49 chiếm 51.4% và nhóm tuổi 18- 30 chiếm tới 82.9%. Vật thách cưới cũng khác trước và giá trị kinh tế cũng cao hơn. Ngày nay, bên cạnh các lễ vật thách cưới truyền thống như gạo, lợn, trâu và một số lễ vật khác thì tiền mặt là đồ thách cưới chủ yếu. Đồng thời các loại quà mừng ngày cưới cũng có khác trước rất nhiều. Nếu như trước kia người ta thường tặng nhau bằng những đồ vật như chăn gối, quần áo, vải vóc, trang sức thì ngày nay đa số đều mừng cưới bằng tiền mặt.

Về không gian kết hôn, nhìn vào Bảng 10, ta có thể thấy rằng không gian kết hôn của người Mường đã không ngừng mở rộng từ làng sang xã, từ xã đến huyện, rồi đến tỉnh. Sự biến đổi này không chỉ phù hợp với đời sống hiện đại mà còn phản ánh sự tự tăng cường giao lưu giữa các khu vực cư trú và sự tiến bộ của quan niệm hôn nhân của đồng bào Mường. Kiểm định Khi-bình phương cho thấy mức ý nghĩa Sig = 0.000 (<0.05) chứng tỏ có tương quan giữa nhóm tuổi và không gian kết hôn, những người tuổi càng ít thì phạm vi không gian kết hôn càng rộng. Tuy nhiên, biến tuổi chỉ giải thích được 16.6% sự biến thiên về không gian kết hôn (vì hệ số tương quan Pearson’s R = - 0.408).

85

Bảng 10: Không gian kết hôn của người Mường tại Xóm Nghĩa (Vụ Bản), xã Tân Lập và xã Nhân Nghĩa (tính theo tỷ lệ %)

Không gian kết hôn

Nhóm tuổi từ 50 trở lên (%)

Nhóm tuổi từ 31-49(%)

Nhóm tuổi từ 18-30 (%)

28.8

27.4

Cùng làng

44.3

36.4

35.3

Cùng xã (khác làng)

23.1

30.3

19.6

32.6

3.0

2.0

0.0

Cùng huyện (khác xã) Cùng tỉnh (khác huyện)

1.5

15.7

Khác tỉnh

0.0

100.0

100.0

100.0

Cùng với những thay đổi về các thủ tục cưới xin và mở rộng không gian kết

hôn là sự thay đổi về việc mặc trang phục trong ngày cưới. Có một sự khác biệt

lớn về tuổi tác và thế hệ trong việc mặc trang phục ngày cưới.

Bảng 11: Tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới (tính theo tỷ lệ %)

Xóm Nghĩa

Nhân Nghĩa

Tân Lập

18-34 35-50

18-34 35-50 51 trở

18-34 35-50 51 trở

51 trở lên 0.0

95.0

32.0

65.0

5.5

45.0

5.0

lên 0.0

lên 0.0

0.0

0.0

0.0

0.0

4.5

0.0

1.0

0.0

0.0

Váy cưới hiện đại Áo dài

0.0

10.0

0.0

5.0

10.0

3.0

10.0

6.5

5.0

5.0

58.0

100.0

30.0

80.0

93.5

52.0

84.0

95.0

Quần áo bình thường Trang phục dân tộc

Nhìn vào Bảng 11 ở trên có thể thấy rõ rằng, tỷ lệ mặc trang phục truyền

thống trong ngày cưới ngày càng giảm theo độ tuổi và theo thời gian, những người

trẻ tuổi chủ yếu mặc váy cưới hiện đại, những người nhiều tuổi hơn chủ yếu mặc

86

trang phục truyền thống. Đồng thời cũng có thể nhận thấy rõ rằng, có sự khác biệt

giữa các địa bàn nghiên cứu về tỷ lệ mặc trang phục trong ngày cưới.

Ở xóm Nghĩa, tỷ lệ mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới chỉ chiếm

3% ở nhóm tuổi từ 18-34, chiếm 58% ở nhóm tuổi từ 35-50 và 100% ở nhóm tuổi

từ 51 trở lên, còn lại là mặc váy cưới hiện đại và quần áo bình thường. Tỷ lệ mặc

váy cưới hiện đại đặc biệt cao ở nhóm tuổi 18-34.

Tỷ lệ này có khác so với xã Tân Lập và Nhân Nghĩa. Tỷ lệ mặc trang phục

truyền thống không chênh lệch quá chênh lệch giữa nhóm người trẻ và nhóm trung

niên, người già như ở xóm Nghĩa (Tại xã Tân Lập: 52% ở nhóm từ 18-34, 84% ở

nhóm 35-50 và 95% ở nhóm từ 51 trở lên; Tại xã Nhân Nghĩa: 30% ở nhóm từ 18-

34, 80% ở nhóm 35-50 và 93.5% ở nhóm từ 51 trở lên).

Sự thay đổi về tỷ lệ mặc trang phục truyền thống giữa các thế hệ cũng như

sự khác biệt giữa các địa bàn nghiên cứu được giải thích bởi sự tăng cường giao

lưu văn hóa trong quá trình hội nhập giữa các tộc người, giữa các địa phương,

giữa miền núi và miền xuôi.

III. Những nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mƣờng

Sự biến đổi văn hóa dân tộc Mường ở huyện Lạc Sơn có thể được lý giải

bởi một số nguyên nhân như:

1) Chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ Đổi mới: Trong thời

kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng hướng mục tiêu phát triển

kinh tế ở vùng miền núi, đặc biệt là các vùng đặc biệt khó khăn. Từ những năm

1995 trở lại đây, chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng cơ sở được

đồng loạt tiến hành trên hầu hết các địa bàn miền núi, trong đó có huyện Lạc Sơn,

tỉnh Hòa Bình. Các chương trình này đã làm cơ sở hạ tầng thay đổi rất nhiều ở

nông thôn miền núi nói chung, ở các địa bàn nghiên cứu nói riêng. Sự thay đổi hạ

87

tầng cơ sở như đường giao thông tốt hơn tạo thuận lợi cho hoạt động giao lưu,

buôn bán giữa người dân trên cùng địa bàn cũng như với những người ở các địa

phương khác;

Việc người dân được dùng điện cũng đã tác động quan trọng về sự thay đổi

đối với nhận thức, khả năng tiếp nhận cách thức lao động mới, sử dụng công cụ

sản xuất phù hợp hơn và sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hiện đại hơn. Thêm vào

đó, Nhà nước tích cực phát triển các chương trình khuyến nông với việc hỗ trợ

giống, kỹ thuật, có cán bộ khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật tận địa phương cũng

dễ dàng làm thay đổi những tập quán sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu, năng suất thấp.

2) Đặc điểm địa bàn cư trú

Như đã phân tích, Lạc Sơn là địa bàn tụ cư của hai dân tộc Kinh - Mường

cùng chung sống từ lâu đời. Đồng thời, Lạc Sơn cũng nằm trên trục đường liên

tỉnh nối liền miền núi với đồng bằng, miền ngược với miền xuôi, rất thuận lợi cho

thông thương, buôn bán và giao lưu hội nhập. Đặc biệt từ khi nhà nước thực hiện

phát triển nền kinh tế thị trường, việc giao lưu buôn bán giữa miền núi và đồng

bằng càng được tăng cường mạnh mẽ. Trong quá trình ấy, sự tác động, giao thoa

văn hóa giữa hai dân tộc Kinh - Mường ngày càng phát triển tạo nên sự biến đổi

văn hóa Mường theo hướng ngày càng có nhiều nét tương đồng về văn hóa với

dân tộc Kinh.

Xóm Nghĩa thuộc Vùng Thị trấn Vụ Bản – là trung tâm kinh tế - văn hóa -

xã hội của huyện Lạc Sơn nên sự giao lưu hội nhập kinh tế - văn hóa - xã hội

mạnh hơn các vùng khác trong huyện vì thế sự biến đổi văn hóa cũng mạnh hơn.

3) Sự phát triển của lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào

sản xuất và đời sống.

88

Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật là một trong những động lực chính của sự

phát triển, việc ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và đời

sống đã làm thay đổi tập quán canh tác cũng như các loại công cụ lao động mới,

con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, làm thay đổi tập quán sinh hoạt

thường nhật, thay đổi cách làm nhà ở, đặc biệt là thay đổi về tập quán tín ngưỡng,

lễ hội. Quan trọng hơn, chính người đồng bào cũng tự nhận thấy các tiến bộ này

đã làm cho đời sống của họ ngày càng ổn định, nên đã tự giác tiếp nhận và nhân

rộng ở cộng đồng. Sự thay đổi này theo hướng ngày càng hiện đại hóa, lược bỏ

bớt những hủ tục lạc hậu, lễ nghi rườm rà, rút ngắn thời gian.

4) Đặc trưng về ngôn ngữ và sự tăng cường giao lưu hội nhập giữa các nền

văn hóa.

Theo các nhà nghiên cứu, dân tộc Kinh - Mường vốn có chung nguồn gốc.

Tiếng Mường còn được coi là tiếng Việt cổ, điều này thể hiện sự gần gũi về tiếng

nói, người ta có thể tìm thấy sự giống nhau về ngôn ngữ của hai dân tộc. Chính vì

vậy, sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Kinh - Mường trở thành tất yếu tạo nên

những thay đổi trong tập quán sản xuất, tiêu dùng, tín ngưỡng và lễ hội,…Người

Mường ngày càng lược bỏ những yếu tố mang tính bảo thủ, cổ hủ, lạc hậu trong

văn hóa và bổ xung các yếu tố mới làm hiện đại, phong phú thêm nền văn hóa của

dân tộc mình.

Mặt khác, do không có chữ viết riêng, một số nét đẹp của văn hóa truyền

thống thể hiện trong tập quán tín ngưỡng, lễ hội đã bị mai một dần, không còn

được lưu truyền nữa. Ví dụ như Hội hát sắc bùa, Hội xuống đồng, múa Pồn

Poong,... Ngay cả những nét đẹp trong phong tục cưới xin, cho đến nay, nhiều nơi

đã không còn nữa.

5) Tự thân nền văn hóa

89

Sự biến đổi và phát triển là quy luật chung của bất kỳ sự vật, hiện tượng

nào. Bản thân văn hóa là một hình thái ý thức xã hội cũng không nằm ngoài quy

luật chung ấy. Văn hóa Mường đã tự loại bỏ đi những yếu tố có tính bảo thủ, lạc

hậu, tiếp thu những nét văn hóa hiện đại để làm phong phú thêm bản sắc của dân

tộc mình, điều này có thể thấy rõ trong việc thay đổi tập quán sản xuất, tập quán

sinh hoạt (trong đó có cách làm nhà ở), tập quán tín ngưỡng và lễ hội, ma chay,

cưới xin. Ngày nay, người Mường có thêm nhiều cộng cụ máy móc hiện đại phục

vụ cho sản xuất, nhiều tiện nghi hiện đại phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, nhiều

lễ hội mới được bổ xung, các thủ tục cưới xin, ma chay cũng được đơn giản hóa,

loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà.

6) Việc nâng cao trình độ dân trí Ngoài chính sách phát triển kinh - tế xã hội nói chung, việc nâng cao trình

độ dân trí cũng góp phần rất lớn thay đổi nhận thức của người dân để có thể tiếp

nhận nhanh chóng các tri thức khoa học - kỹ thuật áp dụng vào sản xuất cũng như

việc tiếp nhận các nhân tố văn hóa mới. Các phương tiện truyền thông đại chúng

như loa, đài, ti vi, báo...cũng tạo nên động lực lớn cho người dân ở đây học hỏi lẫn

nhau, giao lưu giữa các thành viên trong và ngoài cộng đồng.

IV. Xu hƣớng biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mƣờng

1. Tập quán và công cụ sản xuất

Trong tập quán sản xuất, như đã rõ, biến đổi chỉ dừng lại ở việc thay đổi cơ

cấu mùa vụ (tăng cường thâm canh), thay đổi một số kỹ thuật canh tác và một số

giống cây trồng vật nuôi theo hướng tăng các giống cây trồng, vật nuôi lai tạo cho

năng suất cao. Hoạt động sản xuất vẫn mang đặc trưng của nền sản xuất gia đình,

tự cấp tự túc, nhỏ lẻ, canh tác nông nghiệp kết hợp với chăn nuôi gia đình. Việc

thay đổi tập quán canh tác theo hướng hiện đại hóa, phát triển các mô hình trồng

90

trọt, chăn nuôi tập trung theo hướng hiện đại nhằm nâng cao mức sống cho người

dân là một việc làm khó khăn, vì hoạt động kinh tế vẫn còn mang tính tự cung tự

cấp, dù đã có những hoạt động trao đổi buôn bán nhưng còn mang tính nhỏ lẻ,

chất lượng sản phẩm thấp, số lượng không nhiều, không tập trung. Việc thay đổi

cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện đại vẫn còn là bài toán nan giải ở nơi đây. Do

vậy, trong xu thế phát triển kinh tế - xã hội, không thể một sớm một chiều thay đổi

tập quán sản xuất kiểu cũ do lực lượng sản xuất chưa phát triển.

2. Tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng

Tập quán sinh hoạt và tiêu dùng của người Mường hiện nay đã có sự thay

đổi rất sâu sắc. Tiện nghi sinh hoạt đã khác xa so với truyền thống, các sản phẩm

sử dụng cho sinh hoạt hầu hết đều được mua về chứ không phải tự làm. Và trong

tương lai, xu hướng này thể hiện ngày càng rõ vì các tiện nghi sinh hoạt rất phong

phú và đa dạng trên thị trường, giá cả tương đối phù hợp so với mức sống ngày

càng tăng của người dân, đồng thời rất cần thiết, tiện dụng cho người dân.

Về nhà ở, người Mường vẫn có xu hướng thích ở nhà sàn hơn nhà xây, tuy

nhiên, mong muốn làm nhà sàn hiện đại là rất phổ biến.

Về trang phục, đã có rất nhiều thay đổi về việc mặc trang phục. Với người

già, vẫn còn một số đông mặc trang phục truyền thống, đặc biệt là phụ nữ. Tầng

lớp thanh niên và trung niên ngày nay hầu như không còn mặc trang phục truyền

thống trong sinh hoạt thường này nữa, họ chỉ mặc trong các dịp lễ hội mà thôi.

Đồng thời có sự khác biệt trong việc mặc trang phục giữa các vùng. Ở xóm Nghĩa

thuộc vùng thị trấn, chỉ còn một số ít các cụ già mặc trang phục truyền thống hàng

ngày, hầu hết đều mặc trang phục của dân tộc Kinh. Chất liệu vải đa số không

phải là vải sản xuất thủ công nữa, kiểu cách trang phục cũng đã được cách điệu

hóa theo xu hướng đơn giản hơn, hiện đại hơn.

91

3. Quan hệ gia đình, dòng họ và tổ chức đời sống cộng đồng

Tổ chức đời sống cộng đồng có nhiều đổi khác so với trước kia. Việc thay

đổi cơ chế quản lý hành chính đã tạo nên nhiều thay đổi mới trong xã hội Mường

song cộng đồng Mường vẫn thể hiện một sự gắn kết sâu sắc, đoàn kết giúp đỡ lẫn

nhau.

Quan hệ gia đình, dòng họ vẫn là hình thức gia đình phụ quyền, người đàn

ông có tiếng nói quan trọng, quyết định trong gia đình, vẫn là một mối quan hệ

tương đối bền vững không khác nhiều so với truyền thống.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày nay, các giá trị trên đang

có nguy cơ bị đe dọa. Với sự thâm nhập của các lối sống lai căng, phi đạo đức,

văn hóa phẩm đồi trụy và các tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc,…tạo ra các nguy

cơ làm biến đổi văn hóa Mường theo chiều hướng tiêu cực.

4. Tập quán tín ngưỡng, lễ hội, ma chay, cưới xin

Có thể nói, sự biến đổi của văn hóa Mường thể hiện mạnh nhất ở tập quán

tín ngưỡng, lễ hội và ma chay. Nó thể hiện sự giao thoa mạnh mẽ với nền văn hóa

của dân tộc Kinh, một số lễ Tết vốn trước kia chỉ có ở người Kinh thì nay đã phổ

biến ở người Mường.

Nhiều lễ hội truyền thống của người Mường trước kia nay đã không còn

nữa hoặc có chăng, chỉ còn rơi rớt lại ở một vài nơi, không phổ biến nữa. Tuy

nhiên, lại xuất hiện thêm các lễ Tết mới như Tết Độc lập 2/9, Tết 19/8 mừng Cách

mạng tháng 8 thành công, ngày Hội Đại đoàn kết các dân tộc.

Tục ma chay, cưới xin của người Mường ngày nay có xu hướng đơn giản

hóa, loại bỏ bớt các hủ tục lạc hậu, các thủ tục rườm rà và rút ngắn thời gian hơn

Tục cưới xin cũng vậy, cũng được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian và chi phí.

trước kia (thời gian tổ chức lễ tang ngày nay cũng giống như người Kinh).

92

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Dân tộc Mường là một trong các dân tộc thiểu số có bề dày lịch sử và truyền

thống văn hóa mang bản sắc dân tộc đậm nét. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của

nền kinh tế - xã hội, sự tăng cường giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội giữa các vùng

miền, các dân tộc, văn hóa Mường thể hiện tính giao thoa sâu sắc và có nhiều đổi

khác so với nền văn hóa truyền thống. Sự biến đổi đó theo cả hai chiều hướng tích

cực và tiêu cực.

Một mặt, văn hóa Mường tiếp thu những những nét độc đáo của các nền văn

hóa khác, đặc biệt là dân tộc Kinh, bổ sung và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa

truyền thống, đồng thời loại bỏ những hủ tục lỗi thời về phong tục, tập quán, tín

ngưỡng. Mặt khác, sự biến đổi của văn hóa Mường đã có những biểu hiện rõ nét

của sự mất dần bản sắc truyền thống, ví dụ như một số lễ hội nổi tiếng như hội sắc

bùa, hội xuống đồng, Tết cơm mới,... đã không còn phổ biến, không còn được

nhiều người biết đến nữa, đặc biệt là thanh niên.

Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, sự biến đổi các giá trị văn hóa của

dân tộc Mường được biểu hiện rất phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực: tập

quán và công cụ sản xuất, tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng, quan hệ

gia đình dòng họ và cách thức tổ chức đời sống cộng đồng; tập quán tín ngưỡng, lễ

hội, ma chay, cưới xin,… Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, tập quán sản xuất và

công cụ sản xuất là hai yếu tố biến đổi mạnh mẽ nhất. Đồng thời, đây cũng là một

trong những nguyên nhân quan trọng tác động tới sự biến đổi các giá trị văn hóa

khác.

Sự biến đổi của tập quán và công cụ sản xuất, tiêu dùng thể hiện ở việc ứng

dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để sản xuất hàng hóa và sinh hoạt như đưa giống

93

mới cây trồng, vật nuôi vào sản xuất; thay thế các công cụ sản xuất thô sơ bằng các

công cụ hiện đại như thay trâu bằng máy cày, thay giã gạo thủ công bằng máy xay

xát, thay máy tuốt thủ công bằng máy tuốt chạy bằng động cơ,…Chính điều này đã

giúp nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao mức sống của đồng

bào.

Cùng với sự biến đổi mạnh mẽ về tập quán và công cụ sản xuất là sự biến đổi

về tập quán sinh hoạt thường nhật và tiêu dùng - nhiều đồ dùng thô sơ, thủ công, tự

làm cũng được thay bằng các tiện nghi hiện đại mua ngoài thị trường; sự biến đổi

về tập quán tín ngưỡng, lễ hội, phong tục cưới xin, ma chay. Sự biến đổi này theo

chiều hướng đơn giản hóa, lược bỏ bớt các hủ tục lạc hậu, các thủ rườm rà, hao tốn

thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, sự biến đổi cũng làm mất đi những tập quán tín

ngưỡng, lễ hội vốn được coi là bản sắc của người Mường. Đồng thời, các lễ hội

mới cũng được bổ sung làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Mường.

Cách thức tổ chức đời sống cộng đồng cũng đã thay đổi cùng với sự thay đổi

về chế độ chính trị, không còn chế độ Lang Cun như trước kia, mà thay vào đó là

bộ máy hành chính nhà nước (xã - thôn/bản). Tuy nhiên, quan hệ gia đình, dòng họ

và cộng đồng vẫn thể hiện sự gắn kết sâu sắc, hình thành trên cơ sở nền nông

nghiệp truyền thống còn mang nặng tính tự cấp tự túc.

Mức độ biến đổi là không giống nhau giữa các vùng. Vùng Thị trấn Vụ Bản

thể hiện sự biến đổi mạnh mẽ hơn, theo xu hướng xích lại gần với văn hóa dân tộc

Kinh, đặc biệt là trong việc sử dụng ngôn ngữ, cách làm nhà ở, viêc sử dụng các

tiện nghi sinh hoạt, tập quán tín ngưỡng, lễ hội, cưới xin và ma chay.

Có thế nói, văn hóa là phạm trù lịch sử, là một hình thái ý thức xã hội có môi

trường phát sinh, có điều kiện phát triển và biến đổi, được quyết định bởi đặc thù

của nền kinh tế. Văn hóa truyền thống dân tộc Mường được hình thành, phát triển

trong cơ chế tự túc, tự cấp và sản xuất bằng kỹ thuật thủ công. Nay chuyển đổi từ

94

cơ chế tự cấp tự túc sang cơ chế thị trường, từ kỹ thuật thủ công thô sơ sang máy

móc hiện đại chạy bằng động cơ thì tất yếu dẫn đến sự biến đổi trong nền văn hóa

truyền thống. Sự biến đổi này thể hiện theo chiều hướng giao lưu hội nhập giữa các

nền văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc Kinh.

Sự biến đổi các giá trị văn hóa của dân tộc Mường chịu tác động tổng hợp

của nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính phải kể đến là sự tác động

mạnh mẽ của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước cũng

như sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Điều này đã giúp cải thiện đáng kể đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân, gián tiếp làm thay đổi các giá trị văn hóa.

Sự biến đổi văn hóa đồng thời cũng là sự phát triển văn hóa, phát triển từ

truyền thống sang hiện đại. Trong quá trình biến đổi đó, tất nhiên có nhiều diễn

biến hoàn toàn phù hợp với quy luật xã hội. Tuy nhiên, cũng có những diễn biến

chưa phù hợp với quy luật chung, làm tổn hại đến văn hóa truyền thống, không

phản ánh đúng quy luật của văn hóa là quy luật kế thừa, là sự tiếp nối, sự phát triển

trên nền văn hóa truyền thống tiến dần từng bước tới hiện đại.

2. Kiến nghị

Trên cơ sở khảo sát thực trạng biến đổi văn hóa dân tộc Mường tại Vùng

Thị trấn và Vùng Mường Vang của huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình và tìm hiểu các

nguyên nhân tác động đến sự biến đổi văn hóa dân tộc Mường, để bảo tồn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường, tác giả đưa ra đề xuất vận dụng tổng hợp các

biện pháp sau :

1) Phát triển nền kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vì kinh tế có vững thì mới có điều kiện để

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào, mới có điều kiện để nâng cao

95

đời sống văn hóa cho đồng bào, mới có thể tổ chức được các lễ hội thường xuyên

hơn và thu hút đồng bào quan tâm tham gia.

2) Cùng với phát triển kinh tế là phát triển văn hóa, giáo dục. Giáo dục cho

thế hệ trẻ ý thức tôn trọng, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống, có

thể đưa vào giảng dạy trong nhà trường.

3) Tuyên truyền đường lối chính sách dân tộc và chính sách văn hóa

Công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, nhà nước là công

việc có tính chiến lược, đòi hỏi sự kiên trì, thực hiện thường xuyên, liên tục và có

giải pháp phù hợp với từng đối tượng, từng nội dung văn hóa cụ thể.

4) Đầu tư, khôi phục và tăng cường tổ chức các lễ hội truyền thống, đồng

thời kết hợp với các hoạt động văn hóa mới, mang tính hiện đại để thu hút đông đảo

cộng đồng tham gia, tham dự.

5) Có các biện pháp lưu ký tài liệu lễ hội dưới dạng chữ viết để có thể lưu

truyền. Do không có chữ viết riêng, các lễ hội của người Mường ngày càng bị mai

một trông thấy. Các lễ hội nổi tiếng như hội sắc bùa, hội xuống đồng, lễ Mụ Thố tới

nay dường như chỉ còn người già biết đến và ít được lưu truyền cho con cháu.

Chính vì thế, nó cần được ghi chép lại và tổ chức rộng rãi trong cộng đồng.

6) Xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng bản sắc văn hóa và xây dựng gia

đình văn hóa. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động văn hóa thông

tin, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin tuyên truyền, đặc biệt

là cán bộ dân tộc thiểu số.

7) Hiện đại hóa văn hóa dân tộc là ứng dụng các thành tựu khoa học công

nghệ hiện đại vào cuộc sống vật chất và tinh thần của đồng bào, loại bỏ bớt các hủ

tục lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của đồng bào. Hiện đại hóa văn hóa

vật chất như ứng dụng các phương tiện kỹ thuật công nghiệp hiện đại để làm nhà

96

theo kiểu truyền thống cho đẹp, chắc chắn và tiện dụng cho sinh hoạt nghỉ ngơi; sử

dụng các tiện nghi hiện đại, tiện dụng cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, sử dụng

thông tin liên lạc để tiết kiệm thời gian, công sức.

Bảo tồn văn hóa dân tộc có nghĩa là vừa loại bỏ được các hủ tục lạc hậu, gìn

giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của dân tộc đó lại vừa tiếp thu được những

nét độc đáo của các nền văn hóa khác, bổ sung để làm phong phú thêm cho nền văn

hóa dân tộc mình.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. "Bản sắc văn hóa Mường cổ truyền và xu hướng biến đổi hiện nay - Qua khảo sát văn hóa Mường ở tỉnh Hòa Bình" Mã số B06-27, do PGS, TS Lương Quỳnh Khuê chủ nhiệm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 2. Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo dục, 2000

3. Dân tộc Mường, Nguyễn Quang Lập, NXB Kim Đồng, 2005 4. Diễn xướng Mo - Trượng - Mỡi, Bùi Thiện, NXB Văn hóa Dân tộc, 2005 5. Lễ hội của người Mường - huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Quách Thị Lịch,

2005, NXB Đông Nam Á.

6. Lễ hội cồng - chiêng nét văn hóa đặc sắc của người Mường, Lương Thuỷ,

Báo Dân tộc và Thời đại, 2005.

7. Mo Mường: Mo Mường và nghi lễ tang ma, Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi

Văn Nợi, NXB Văn hóa Dân tộc.

8. Nghi lễ Mo trong đời sống tinh thần của người Mường ở Mường Bi, NXB

Khoa học Xã hội, 2004.

9. Người Mường ở Hòa Bình, Trần Từ, Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam, 1996 10. Người Mường ở Việt Nam, Vũ Đức Tân, NXB Văn hóa Dân tộc, 1999. 11. Người Mường ở Việt Nam = The Muong in Vietnam, Vũ Khánh chủ biên, tài

liệu dịch, 2008, NXB Thông Tấn.

12. Người Mường ở Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình, nhóm biên soạn Nguyễn Thị Thanh

Nga, Nguyễn Ngọc Thanh, NXB Văn hóa Thông tin, 2003.

13. Ngôi nhà sàn Mường Hòa Bình, xưa và nay, Lưu Huy Chiêm, Báo dân tộc và

Thời đại, 2005.

14. Tiếp vận với văn hóa bản Mường – Nghiên cứu và Tiểu luận, Vương Anh,

Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, 2001.

15. Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Bùi Chỉ - NXB Văn hóa dân

tộc, 2001

16. Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình – NXB Văn hóa dân tộc

của PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Nga.

17. Văn hoá truyền thống một số tộc người ở Hoà Bình, Nguyễn Thị Thanh Nga,

Nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc, 2007.

18. Xã hội học Văn hóa, Mai Văn Hai, NXB Khoa học Xã hội, 2003

Mã bảng hỏi..........

BẢNG HỎI VỀ SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA

DÂN TỘC MƢỜNG Ở HUYỆN LẠC SƠN HIỆN NAY

Kính thưa Ông/Bà ! Để phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học của học viên cao học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu để tài: “Tìm hiểu sự biến đổi một số giá trị văn hóa dân tộc Mường ở huyện Lạc Sơn hiện nay”. Đề nghị ông bà giúp đỡ chúng tôi bằng cách đánh dấu X vào các phương án trả lời thích hợp. Phần trả lời của ông bà chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học.

Xin chân thành cảm ơn ông/bà !

Thôn/bản:......................................................................

Xã:................................................................................

PHẦN I - THÔNG TIN CHUNG VỀ NGƢỜI TRẢ LỜI

1. Tuổi:...............................

2. Giới tính

Nữ

Nam

3. Trình độ học vấn

Cấp 1 Trung cấp, Cao đẳng

Không biết đọc, biết viết Cấp 3

Cấp 2 Đại học, trên đại học

4. Nghề nghiệp (chính)

Làm thuê

Khác (ghi rõ):…………

Cán bộ viên chức Buôn bán dịch vụ

Nông dân Dệt vải

5. Tôn giáo

Tôn giáo khác

Không tôn giáo

Thiên chúa giáo

Phật giáo

6. Tình trạng hôn nhân

Ly thân

Đã lập gia đình 4. Góa chồng/vợ

Chưa lập gia đình Ly dị

7. Gia đình ông/bà có bao nhiêu ngƣời cùng sống trong hộ gia đình? .....................................

8.

Số thế hệ cùng sống trong gia đình ? ......................................................................................

PHẦN II - MỨC SỐNG, THU NHẬP, CHI TIÊU

9: Thƣa ông/bà, nếu so với trƣớc năm 1995, ông/bà thấy mức sống của gia đình hiện nay thay đổi nhƣ thế nào?

Tăng ít

Tăng lên nhiều

Giảm nhiều

Như cũ

Giảm ít

10. Trong gia đình ta, ai là ngƣời ngƣời đem lại nguồn thu nhập chính? (Khoanh 1 ý kiến trả lời)

Chồng

Con cái

Khác

Cả hai

Vợ

11. Ông/bà đánh giá mức sống của gia đình hiện nay thuộc loại nào (Chọn 1 phương án)?

Khá

Trung bình

Nghèo

Đói

Giàu

1

12. Tổng thu nhập ƣớc tính của gia đình ta trong năm vừa qua là bao nhiêu ? (tính trong 12 tháng trở lại đây) ...........................................................ngàn đồng.

13. Trong đó, thu nhập cụ thể từ:

- Lúa : ..................................................ngàn đồng

Buôn bán: ....................................ngàn đồng

- Hoa màu: ..........................................ngàn đồng

Lương: .........................................ngàn đồng

- Chăn nuôi: ........................................ngàn đồng

Làm thuê: .....................................ngàn đồng

- Tiểu thủ công nghiệp: ......................... ngàn đồng Nguồn khác: .................................ngàn đồng

PHẦN III - NỘI DUNG

14. Xin Ông/bà cho biết mô hình sản xuất, kinh doanh chính của ông/bà là:

Nông nghiệp

Hình thức khác

Lâm nghiệp

Buôn bán, DV

Nông - Lâm kết hợp

15. Ông/bà cho biết, hiện tại gia đình có những công cụ sản xuất, máy móc nào sau đây?

15a. Công cụ thô sơ

15b. Máy móc (chạy bằng động cơ)

Cày

Cuốc

Xẻng

Liềm/hái/dao

Máy tẽ ngô (không chạy bằng động cơ)

Máy tuốt lúa (Không chạy bằng động cơ)

Các loại công cụ thô sơ khác (ghi rõ....)

Máy cày/bừa Máy gặt Máy xay, sát lúa, gạo Máy bơm nước Máy tuốt lúa Máy phát điện Máy móc khác

16. Hiện nay, gia đình ông/bà thƣờng trồng các loại lúa, màu và nuôi con gì? (ghi rõ) .................................

.................................................................................................................................................................................

..........................................................................................................................................................................

17. Hiện nay, Ông/bà thƣờng nuôi nhốt gia súc ở đâu ?

Ở dưới gầm nhà sàn

Chỗ khác (ghi rõ)

Có chuồng nuôi nhốt gia súc riêng ở gần nhà

18. Ông/bà cho biết cách thức sản xuất hiện nay có khác gì so với truyền thống hay không?

Không Chuyển đến câu 20 19. Nếu có: Thay đổi như thế nào?

Giống cây/con

Cho thuê thu hoa lợi

Công cụ sản xuất

Làm đổi công Thuê khoán người làm

Mùa vụ Kỹ thuật canh tác

20. Xin ông/bà cho biết tình trạng nhà ở của ông/bà hiện nay:

Nhà tranh tre nứa lá/nhà tạm

Nhà sàn xây kết hợp gỗ

Nhà 2 tầng trở lên

Nhà sàn xây Nhà mái bằng 1 tầng

Nhà sàn gỗ Nhà cấp 4 Nhà khác:………………….

21. Ngôi nhà ông/bà đang ở có đƣợc là do:

Bố mẹ để lại

Nhà nước cấp

Khác (Ghi rõ) :…………….

Tự xây

2

An toàn hơn

Ấm hơn

Thuận lợi cho giao tiếp Lịch sự văn minh hơn

Không thuận lợi như nhà sàn

22. Theo ông/bà, ở nhà kiên cố thuận lợi gì so với ở nhà sàn ?

23. Nếu có điều kiện hoặc đƣợc làm theo ý thích, ông/bà sẽ làm nhà nhƣ thế nào?

Nhà sàn truyền thống

Nhà kiên có một tầng

Nhà sàn hiện đại (đã cải tiến) Nhà kiên cố 2 tầng trở lên

Khác:…………………………

24. Hiện nay gia đình Ông/bà có những tiện nghi sinh hoạt nào sau đây?

1. Xe đạp

12. Điện thoại di động

2. Xe máy

13. Dàn âm thanh

3. Ôtô

14. Máy vi tính

4. Quạt điện

15. Máy giặt

5. Máy điều hòa nhiệt độ

16. Bếp ga

6. Tủ lạnh

17. Tủ/giá sách

7. Tivi màu

18. Bình nóng lạnh

8. Tivi đen trắng

19. Giường

9. Radio-cassette/đầu CD

20. Bàn/ghế

10. Dàn Karaoke

21. Nồi cơm điện

11. Điện thoại

22. Khác

25. Hiện nay Ông/bà có còn mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình không?

Không Chuyển đến câu 27

Có 26. Nếu có, thì thƣờng mặc vào những dịp nào? (có thể chọn nhiều phƣơng án)

Hàng ngày

Ngày lễ (cưới xin, ma chay)

Ngày hội (tết, lễ hội)

Ngày khác: (ghi rõ)…………… 27. Hiện nay ở địa phƣơng Ông/bà, lứa tuổi nào thƣờng mặc trang phục truyền thống ?

Nam

Nữ

Không

Không

1. Người già

2

3

4

1

2. Trung niên

2

3

4

1

3. Thanh niên

2

3

4

1

4. Trẻ em

2

3

4

1

28. Ông/bà có sống cùng bố mẹ của mình không? Vì sao ?

.............................................................................................................................

29. Ông/bà có sống cùng con cái của mình không? Vì sao ?

............................................................................................................................

30: Khi về già Ông/Bà thích sống với ai (chỉ chọn 1 phƣơng án trả lời)

3

Với con trai thứ

Với con gái đã trưởng thành

Với con nào cũng được Sống riêng Sống ở nhà dưỡng não

Với con trai trưởng

31: Theo Ông/Bà, mỗi cặp vợ chồng có nhất thiết phải sinh con trai không?

Nhất thiết

 Tiếp câu C9

Không nhất thiết

 Chuyển câu C10

32: Nếu nhất thiết phải sinh con trai thì vì sao? (Đƣợc chọn nhiều phƣơng án)

1. Để nối dõi tông đường (nối tiếp các thế hệ)

2. Để ở với con trai khi về già

3. Để có người cúng giỗ khi mất

4. Theo phong tục (vì nhiều người nghĩ thế)

33: Khi có việc hệ trọng (cƣới xin, ma chay, ốm đau, bệnh tật…), gia đình ông bà thƣờng nhờ cậy ai? (Đƣợc chọn nhiều phƣơng án)

Anh em bên chồng

Hàng xóm

Anh em bên vợ

Bạn bè

Bố mẹ chồng Bố mẹ vợ

34. Theo ông bà, những quan hệ nào dƣới đây trong gia đình là quan trọng ? (chọn 3 phƣơng án)

Người già cần được coi trọng hơn người trẻ Cha mẹ để đức cho con hơn để của Đàn ông nên coi trọng sự nghiệp, công danh cá nhân hơn công việc gia đình Đàn bà nên coi trọng việc nhà và gia đình hơn việc xã hội Uy tín, danh giá của gia đình với làng xóm là cần thiết

Con cái cần tuyệt đối vâng lời cha mẹ

35. Hàng năm, gia đình Ông/bà tổ chức các ngày lễ nào sau đây? (Được chọn nhiều phương án trả lời)

Rằm tháng 7 Trung thu Tết cơm mới Cúng ông Công, ông Táo Cúng giao thừa

Giỗ Ngày rằm, mùng một Rằm tháng riêng Lễ thanh minh Tết đoan ngọ 36: Nếu có tổ chức các ngày lễ nêu trên, thì vì sao? (Có thể chọn nhiều phương án)

Để giáo dục con cái Có thờ có thiêng, có kiêng có lành Đó là phong tục truyền thống Khác …………………………………………………………………….

37: Gia đình ông bà thờ cúng ai?

Khác (ghi rõ)……………………

Không thờ gì

Thờ cúng tổ tiên Thờ Phật

38: Hiện nay tại địa phƣơng Ông/bà còn lễ hội không?

Không => Chuyển đến 40

4

Nếu có, thường là lễ hội gì?.............................................................................................

39. Ông/ Bà có thƣờng xuyên tham dự không ?

Tham dự một số lễ hội

Khồng tham dự Tham dự đầy đủ 40. Gia đình ông/bà có đóng góp khi lễ hội đƣợc tổ chức tại địa phƣơng mình không ?

Không Chuyển đến câu 42

Có Chuyển đến câu 43 41: Nếu có. thì gia đình ông/bà đóng góp gì (tiền, hiện vật,...) ? ......................................................................

42: Nếu không, lý do vì sao ông/bà không tham gia? .....................................................................................

..............................................................................................................................................................................

43: Theo Ông/Bà, lễ hội tại địa phƣơng có những tác dụng gì? (Có thể chọn nhiều phương án)

Gắn bó các thành viên trong cộng đồng

Giữ gìn truyền thống văn hóa Là dịp cho các dòng họ thể hiện vai trò của mình Là dịp để vui chơi, gặp gỡ Là dịp để cầu tài, cầu lộc Khác…………………………

44. Khi xây dựng gia đình, ông/bà làm những việc nào trong số những việc dƣới đây? (Chọn tất cả những phương án phù hợp)

Đăng ký kết hôn

Ăn hỏi

Chạm ngõ

Thách cưới

Xem ngày giờ tổ chức đám cưới

Xin dâu/Đón dâu

Nghỉ tuần trăng mật

45: Vợ/chồng của ông/bà là ngƣời ở đâu ?

Cùng huyện

Cùng tỉnh

Khác (ghi rõ)

2.Làng bên cạnh

1.Cùng làng 46: Ông/bà mặc trang phục gì trong ngày cƣới (nếu chƣa kết hôn, hỏi giả định ?

Áo dài

Khác (ghi rõ)

2.Váy cưới hiện đại

1.Trang phục truyền thống

Quần áo bình thường

47: Lễ tang thƣờng đƣợc tổ chức mấy ngày ?

Ba ngày

Khác (ghi rõ)

2.Hai ngày 1.Một ngày 48: Lễ tang có thƣờng mời thầy cúng không ?

2.Không 1.Có Vì sao? ………………………………………..

49: Ông/bà biết nói thành thạo những ngôn ngữ nào dƣới đây ?

Tiếng dân tộc Kinh

Tiếng khác

Tiếng dân tộc mình 50: Trong cộng đồng thôn/bản xã, chỗ đông ngƣời, nơi hội họp, ông/bà thƣờng nói thứ tiếng nào?

Tiếng dân tộc mình

Tiếng dân tộc Kinh

Tiếng dân tộc khác (ghi rõ)

51. Trong gia đình, ông/bà thƣờng sử dụng ngôn ngữ nào là chính ?

Tiếng phổ thông

Tiếng dân tộc khác (ghi rõ)

Tiếng dân tộc mình 52: Ông/bà có đồng ý hay không đồng ý những nhận định sau:

5

Đồng ý

Không đồng ý

Không ý kiến

Mọi người đều phải biết tiếng của dân tộc mình Nên dạy tiếng dân tộc ở trường học Chỉ cần học tiếng Kinh, không cần biết tiếng dân tộc Cả hai tiếng

Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của Ông/Bà!

6