ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LẠI THỊ HƯƠNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ NHÂN HÓA TRONG TÁC PHẨM VIẾT

CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LẠI THỊ HƯƠNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ NHÂN HÓA TRONG TÁC PHẨM VIẾT

CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8220102 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÚ QUYÊN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa

từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lại Thị Hương

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn cô giáo - TS. Nguyễn Tú Quyên -

người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên

cứu và hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo

Khoa Ngữ Văn, các thầy cô Khoa Sau Đại học, các thầy cô trường Đại học Sư

phạm, Đại học Thái Nguyên đã giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi

trong quá trình học tập, nghiên cứu để em hoàn thành luận văn.

Vì thời gian có hạn, khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên kết quả nghiên

cứu có thể còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của

các thầy giáo, cô giáo và các bạn đang quan tâm tới vấn đề được trình bày trong

luận văn, để luận văn được hoàn thiện hơn.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lại Thị Hương

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................. v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu , ................................................................. 5

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

6. Cấu trúc của luận văn. ..................................................................................... 6

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .............................................. 7

1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 7

1.1.1. Khái quát về biện pháp tu từ ...................................................................... 7

1.1.2. Biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa .............................. 10

1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 29

1.2.1. Tiểu sử của tác giả Tô Hoài ..................................................................... 29

1.2.2. Sự nghiệp của tác giả Tô Hoài ................................................................. 30

1.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ trong văn xuôi của Tô Hoài .................................... 34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 37

Chương 2. BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH TRONG TÁC PHẨM

VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ..................................................... 38

2.1. Biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

xét về mặt cấu tạo hình thức .............................................................................. 38

2.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 38

2.1.2. Mô hình của cấu trúc so sánh .................................................................. 38

2.1.3. Đặc điểm ngữ pháp của các thành tố trong cấu trúc so sánh .................. 45

2.2. Biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

xét về mặt ngữ nghĩa .......................................................................................... 49

2.2.1. Ngữ nghĩa khái quát của biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm của

Tô Hoài .............................................................................................................. 49

2.2.2. Các kiểu cấu trúc so sánh được phân loại theo ngữ nghĩa của đối

tượng được so sánh (A) và đối tượng so sánh (B) ............................................. 53

2.3. Vai trò của biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi

của Tô Hoài ........................................................................................................ 56

2.3.1. Bộc lộ đặc điểm của nhân vật .................................................................. 56

2.3.2. Thể hiện văn hóa của người Việt ............................................................. 59

2.3.3. Thể hiện cái tài sử dụng ngôn từ của tác giả ........................................... 60

2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 63

Chương 3. BIỆN PHÁP TU TỪ NHÂN HÓA TRONG TÁC PHẨM

VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ..................................................... 64

3.1. Biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô

Hoài xét về mặt cấu tạo hình thức ..................................................................... 64

3.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 64

3.1.2. Phân loại và miêu tả các kiểu cấu tạo hình thức của các phương tiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tu từ nhân hóa .................................................................................................... 64

3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết

cho thiếu nhi của Tô Hoài .................................................................................. 73

3.2.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 73

3.2.2. Đối tượng được nhân hóa là động vật ..................................................... 74

3.2.3. Đối tượng được nhân hóa là thực vật ...................................................... 78

3.2.4. Đối tượng được nhân hóa là đồ vật ......................................................... 80

3.3. Vai trò của biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi

của Tô Hoài ........................................................................................................ 82

3.3.1. Bộc lộ thái độ của tác giả đối với thế giới sự vật không phải là người ......... 82

3.3.2. Thể hiện sự sống động của thế giới sự vật vô tri, vô giác ....................... 85

3.3.3. Thể hiện cái tài quan sát hiện thực của nhà văn ...................................... 87

3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 89

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU THỐNG KÊ ............ 94

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt, kí hiệu Nội dung

1 YTĐSS Yếu tố được so sánh

3 YTPD Yếu tố chỉ phương diện so sánh

4 YTQH Yếu tố chỉ quan hệ so sánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2 YTSS Yếu tố so sánh

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 2.1. Các kiểu cấu trúc so sánh .............................................................. 45

Bảng 2.2. Các dạng của yếu tố được so sánh ................................................ 47

Bảng 2.3. Các dạng của yếu tố so sánh .......................................................... 49

Bảng 2.4. Các từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh .................................... 52

Bảng 2.5. Tần xuất các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh ............................... 53

Bảng 2.6. Sáu kiểu so sánh được phân loại dựa vào ý nghĩa của A và B ...... 56

Bảng 3.1. Bảng tần xuất số lần xuất hiện các kiểu câu đơn .......................... 70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bảng 3.2. Bảng số lần xuất hiện của các đối tượng được nhân hóa .............. 73

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nghiên cứu biện pháp ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương nói

chung, nghiên cứu biện pháp tu từ nói riêng là một trong những hướng nghiên

cứu được chú ý trong ngôn ngữ học hiện đại. Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác

phẩm của Tô Hoài cũng nằm trong hướng nghiên cứu đó.

1.2. Tô Hoài là một nhà văn có tên tuổi trong nền văn học nước nhà. Văn

của ông, đặc biệt những trang văn viết cho thiếu nhi đã để lại những ấn tượng sâu

sắc trong lòng người đọc. Một trong những nguồn gốc hình thành nên những tác

phẩm xuất sắc của Tô Hoài là bởi tài năng sử dụng ngôn từ, trong đó có các biện

pháp tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ… của một nhà văn lão luyện.

1.3. Đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào dành riêng cho việc tìm

hiểu các biện pháp tu từ trong tác phẩm của Tô Hoài cũng như chưa công trình

nghiên cứu biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong văn ông một cách bài

bản. Theo thống kê ban đầu của chúng tôi, đây là hai biện pháp tư từ được Tô

Hoài sử dụng khá nhiều, chúng góp phần quan trọng làm nên diện mạo phong

cách văn ông. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp tu từ so sánh và biện

pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài” để

nghiên cứu, một phần nhằm góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị văn chương

của tác giả Tô Hoài.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Một số công trình nghiên cứu về các biện pháp tu từ

Biện pháp tu từ là một phương diện quan trọng trong việc nghiên cứu nội

dung và nghệ thuật trong một tác phẩm văn học. Trong đó, chúng tôi có chú ý

đến các cuốn giáo trình nền tảng: Đinh Trọng Lạc với Giáo trình Việt ngữ (Nxb

GD, 1964), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt (Nxb GD, 1966),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phong cách học tiếng Việt (Nxb GD, 1998), Cù Đình Tú với cuốn Phong cách

học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb ĐH & THCN, 1983), Hữu Đạt với cuốn

Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nxb ĐHQGHN, 2001), Nguyễn Thế Lịch

với Từ so sánh đến ẩn dụ (Tạp chí ngôn ngữ, số 3,1991)…

Có thể nhận thấy trong những công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả

đã chú trọng đến việc hình thành khái niệm, phân loại và tìm ra hiệu quả vai trò

của các biện pháp tu từ trong đó có hai biện pháp tu từ là so sánh và nhân hóa.

Đây là cơ sở lý thuyết quan trọng để có thể tham khảo và đi sâu nghiên cứu các

biện pháp tu từ nói chung, trong đó có có hai biện pháp tu từ so sánh và biện

pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

Ngoài những cuốn giáo trình có tính chất nền tảng trên, còn có nhiều những

công trình nghiên cứu về các mặt khác nhau của các biện pháp tu từ: Đỗ Hữu Châu

với các cuốn: Các bình diện của từ và từ tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội, H,

1986), Cơ sở ngữ dụng học (Nxb, Đại học Sư phạm, H, 2001), Giáo trình ngữ

dụng học, (Nxb Đại học Sư phạm, H, 2003), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (Nxb

Giáo dục, H, 1994), Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Ngọc Phiến với cuốn

Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Nxb Giáo dục, H, 2001)…

2.2. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài

Với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, tính đến nay có rất nhiều những công

trình khoa học nghiên cứu về ông cũng như về các tác phẩm của ông ở mọi

phương diện từ nội dung đến nghệ thuật. Sau đây, chúng tôi tổng quát một số

cuốn giáo trình, chuyên khảo, luận văn, luận án tiêu biểu về tác giả Tô Hoài và

sự nghiệp văn học của ông:

* Giáo trình:

Giáo trình Văn học hiện đại 3A, giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp văn học và

phong cách nghệ thuật của tác giả Tô Hoài, Nxb Đại học sư phạm Thái Nguyên.

* Chuyên khảo:

- Sổ tay viết văn, tác giả Tô Hoài, Nxb Văn học. Đây là đứa con tinh thần

do chính Tô Hoài chắt chiu, gom góp. Đây được xem như cuốn sách gối đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giường dành cho những ai yêu thích chủ nghĩa. Với ông viết là thành quả lao

động và người viết cần phải chăm chút, tỉ mỉ. Tô Hoài như một từ điển sống, một

pho sách sống. Nhà thơ Trần Đăng Khoa “Ông như cuốn Bách khoa toàn thư mà

không viện sĩ nào, không học giả nào sánh được”.

- Những gương mặt của tác giả Tô Hoài Nxb Văn học. Đây được coi là tác

phẩm mở đầu cho thành công về đề tài chân dung văn học của Tô Hoài. Tô Hoài đã

dành những nét vẽ chân thật và sinh động để phác họa về một thế hệ cầm bút:

Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng. Tô Hoài đã quan sát một

cách tổng quát, góp nhặt những cái hay, cái dở đưa vào sáng tác của mình.

* Bài báo, tạp chí:

- Tô Hoài, người sinh ra để viết đăng trong Tạp chí văn nghệ quân đội

của tác giả Nguyễn Đăng Điệp, 6/2011. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu về

cuộc đời, sự nghiệp văn học của nhà văn Tô Hoài. Tô Hoài là cây bút gắn bó với

2 mảnh đất: con người phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc. Bài viết

nói về phong cách, giọng điệu rất riêng của nhà văn Tô Hoài. Bài viết cũng có

sự so sánh giữa hai nhà văn Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân truy tìm cái

đẹp đượm màu lý tưởng, đó là cái đẹp kì vĩ, khác lạ. Còn Tô Hoài thì đi tìm cái

đẹp từ trong đời thường, những cái bình dị và thân thương nhất…

- Tô Hoài, Một biểu tượng sống của Hà Nội, tác giả Hà Thủy - Thu Hoài

đăng trên báo Thể thao và văn hóa: Đề tài Hà Nội luôn trở đi trở lại trong các tác

phẩm của Tô Hoài. Có thể nói bóng dáng và linh hồn Hà Nội luôn luôn hiện hữu

trong tâm tưởng và các trang viết của ông.

* Luận văn, luận án:

- Tác giả Hoàng Thị Diệu với Văn xuôi viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

sau cách mạng tháng tám, luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, người hướng dẫn

khoa học, PGS.TS Vân Thanh. Trong đó, tác giả viết về vị trí của Tô Hoài trong

nền văn học thiếu nhi Việt Nam, những nét đặc sắc trong thể loại văn xuôi viết

cho thiếu nhi của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám và những đặc điểm nghệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuật trong văn xuôi viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

- Tác giả Phó Thị Hồng Oanh với Trường từ vựng - ngữ nghĩa trong

truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Người hướng dẫn

khoa học, PGS.TS Nguyễn Thị Nhung. Đây là công trình khoa học nghiên cứu về

đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa trong truyện Tây Bắc, vai trò của việc sử

dụng các từ ngữ thuộc các trường nghĩa khác nhau trong truyện Tây Bắc của Tô

Hoài để thấy được vẻ đẹp, sự giàu có của thiên nhiên Tây Bắc, sự đặc biệt của khí

hậu, sự đa dạng của địa hình và phong tục, văn hóa đặc trưng Tây Bắc.

- Tác giả Giáp Thị Thủy với Hội thoại trong Dế Mèn phiêu lưu kí, Luận

văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Người hướng dẫn khoa học, PGS.TS Tạ Văn Thông.

Đây là công trình khoa học nghiên cứu về đặc điểm của cuộc hội thoại trong Dế

Mèn phiêu lưu kí và sự thể hiện của những quan hệ liên cá nhân - phép lịch sự

trong Dế Mèn phiêu lưu kí. Chúng cho thấy sự hồi đáp phối hợp đa dạng của

người nói và người nghe sự tương tác uyển chuyển qua những phát ngôn.

- Tác giả Tạ Minh Thủy với Nghệ thuật tự sự trong truyện viết cho thiếu

nhi của Tô Hoài, luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận văn học, người hướng

dẫn khoa học, PGS.TS. Lý Hoài Thu. Đây là công trình nghiên cứu khoa học

khái quát về nghệ thuật tự sự và sáng tác của Tô Hoài trong bức tranh thiếu nhi

Việt Nam, nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong truyện thiếu

nhi của Tô Hoài và người kể chuyện, ngôn ngữ trần thuật trong truyện viết cho

thiếu nhi của Tô Hoài.

Như vậy, cho đến nay chưa thấy có tài liệu nghiên cứu riêng nào nghiên cứu

một cách đầy đủ và sâu sắc về phương thức so sánh và nhân hóa trong các tác phẩm

của Tô Hoài đặc biệt là trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

2.3. Những vấn đề còn bỏ ngỏ

Đề tài của chúng tôi sẽ tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các nhà

nghiên cứu đi trước, đồng thời đề tài sẽ cố gắng vận dụng những lí luận của Ngữ

dụng học để tìm hiểu hai biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp tu từ so sánh và biện pháp

tu từ nhân hóa trong tác phẩm của Tô Hoài viết cho thiếu nhi.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi ngữ liệu khảo sát: Đối tượng khảo sát của luận văn là ba tuyển tập:

+ Tô Hoài (1997), Tuyển tập Văn học thiếu nhi, Tập 1, Nxb Văn học, Hà

Nội.

+ Tô Hoài (1997), Tuyển tập Văn học thiếu nhi, Tập 2, Nxb Văn học Hà

Nội.

+ Tô Hoài (2000), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945 Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

- Phạm vi nội dung nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa

về ba phương diện:

(1) Cấu tạo hình thức của các phương tiện ngôn ngữ sử dụng cho các biện

pháp tu từ này.

(2) Ngữ nghĩa của các phương tiện tu từ so sánh và tu từ nhân hóa trong

tác phẩm của Tô Hoài viết cho thiếu nhi.

(3) Vai trò của biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa trong

tác phẩm của Tô Hoài.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần làm rõ đặc điểm ngôn

ngữ của nhà văn Tô Hoài.

- Giúp người đọc thấy được vai trò của biện pháp tu từ so sánh và nhân

hóa trong tác phẩm văn chương nói chung, trong văn Tô Hoài nói riêng.

- Làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

văn chương.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đã đặt ra, đề tài tài xác định một số nhiệm vụ chủ

yếu sau đây:

- Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết liên quan được dùng làm căn cứ lí

luận cho đề tài.

- Khảo sát, thống kê và phân loại đối tượng nghiên cứu theo các tiêu chí

đã định trước.

- Phân tích, miêu tả vai trò của biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ

nhân hóa được dùng trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

- Tổng kết các kết quả đã nghiên cứu được dưới hình thức biểu bảng và

bằng lời.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp và thủ

pháp nghiên cứu sau:

5.1. Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được

dùng để thống kê và phân loại các biểu thức ngôn ngữ dùng để thực hiện biện pháp

tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa trong các tác phẩm đã nói trên.

5.2. Phương pháp phân tích miêu tả: Phương pháp nghiên cứu này dùng

để phân tích các ngữ liệu khảo sát, sau đó kết luận những kết quả đã nghiên cứu

theo từng loại, từng nhóm.

5.3. Phương pháp đối chiếu so sánh: Phương pháp nghiên cứu này dùng để đối

chiếu việc sử dụng hai biện pháp tu từ đang bàn với trường hợp không dùng chúng

trong một bối cảnh ngôn ngữ để thấy được vai trò của các biện pháp tu từ này.

6. Cấu trúc của luận văn.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung chính của

luận văn chia làm 3 chương như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương 2. Biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của

Tô Hoài.

Chương 3. Biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tô Hoài.

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Khái quát về biện pháp tu từ

1.1.1.1. Khái niệm biện pháp tu từ

Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều nhằm những mục đích

thực tiễn. Và để đạt được mục đích đó, con người phải sử dụng những phương

tiện (công cụ) theo những cách thức (biện pháp) nhất định. Do đó trong hoạt

động ngôn ngữ cũng như trong mọi hoạt động khác của con người cần phân biệt

mục đích, phương tiện và biện pháp. Con người sử dụng ngôn ngữ như một

phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và có hai loại phương tiện: phương tiện

ngôn ngữ trung hoà và phương tiện ngôn ngữ tu từ; đồng thời ngoài những biện

pháp sử dụng ngôn ngữ thông thường còn có những biện pháp sử dụng ngôn ngữ

một cách đặc biệt, gọi là những biện pháp tu từ.

Tuy nhiên, việc xác định khái niệm biện pháp tu từ có nhiều quan điểm

khác nhau. Cù Đình Tú đồng nhất biện pháp tu từ với cách tu từ, phép mĩ từ.

Hiểu như vậy có nghĩa là hạn chế nó chỉ trong các hình thức chuyển nghĩa, tức

“những hình thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm, có sức hấp dẫn, lôi cuốn trong

khi trình bầy”. Đinh Trọng Lạc dùng một thuật ngữ chung (biện pháp tu từ)

nhưng khi đi miêu tả cụ thể ở mỗi cấp độ thì lại dùng những thuật ngữ khác nhau

như: phương thức, biện pháp. Đỗ Hữu Châu cũng dùng một thuật ngữ thống nhất

là biện pháp tu từ song với cách hiểu không xác định, ví dụ như biện pháp tu từ

từ vựng được dùng để chỉ biện pháp tu từ ngữ nghĩa hoặc biện pháp tu từ cú pháp

lại bao gồm cả các phương tiện tu từ cú pháp…Những cách hiểu biện pháp tu từ

như vậy không phân biệt được phương tiện tu từ với biện pháp tu từ và đã thu

hẹp phạm vi hoạt động của biện pháp tu từ chỉ ở hai cấp độ: ngữ nghĩa và cú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

pháp.

Như vậy, cần phải định nghĩa phương tiện tu từ và biện pháp tu từ một

cách khái quát, nhất quán ở mọi cấp độ. Phương tiện tu từ được các nhà phong

cách học quan niệm: “Phương tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà

ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - logic) ra chúng còn có ý nghĩa bổ sung,

còn có màu sắc tu từ và được hình thành từ bốn yếu tố: biểu cảm (chứa đựng yếu

tố hình tượng), cảm xúc (chứa đựng những yếu tố diễn đạt tình cảm, cảm xúc),

bình giá (chứa đựng những yếu tố khen chê) và phong cách chức năng (chỉ rõ

phạm vi sử dụng thường xuyên, cố định)”. Hiểu như vậy có nghĩa là cho rằng

phương tiện tu từ bao giờ cũng nằm trong thế đối lập tu từ học tiềm tàng (trong

ý thức của người bản ngữ) với phương tiện tương liên có tính chất trung hoà của

hệ thống ngôn ngữ.

Biện pháp tu từ còn được gọi là phương thức tu từ, được các nhà phong

cách học hiểu như sau: “[…] là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt động

lời nói các phương tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không có màu

sắc tu từ, trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn

tượng về hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh). Hiểu như vậy có nghĩa biện

pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt trong một hoàn cảnh cụ thể,

nhằm một mục đích tu từ nhất định. Nó đối lập với biện pháp sử dụng thông

thường trong mọi hoàn cảnh, chỉ nhằm mục đích diễn đạt lí trí.

1.1.1.2. Phân biệt khái niệm phương tiện tu từ và biện pháp tu từ

Để có thể nhận biết dễ dàng và sử dụng hiệu quả phương tiện tu từ, biện

pháp tu từ, ta cần phải xác định một cách rõ ràng, chính xác, đồng thời cần phân

loại chặt chẽ và miêu tả đầy đủ chúng. Ta có thể phân biệt phương tiện tu từ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

biện pháp tu từ dựa trên một số yếu tố cơ bản sau:

Biện pháp tu từ Phương tiện tu từ

- Là những cách phối hợp sử dụng các - Là những yếu tố thuộc các cấp độ

đơn vị lời nói trong giới hạn của một khác nhau, được đánh dấu về tu

đơn vị thuộc bậc cao hơn. từ học trong giới hạn của một cấp

độ nào đó của ngôn ngữ.

- Ý nghĩa tu từ học của biện pháp tu từ - Ý nghĩa tu từ học của phương tiện

nảy sinh ra trong ngữ cảnh của một đơn tu từ được củng cố ở ngay

vị lời nói nào đó, bị quy định bởi những phương tiện đó, được quy định

quan hệ cú đoạn giữa các đơn vị của bởi những quan hệ hệ hình của

một bậc hay các bậc khác nhau. các yếu tố cùng bậc

Tuy rằng giữa phương tiện tu từ và biện pháp tu từ là hai phương diện khác

biệt, nhưng giữa chúng vẫn có mối quan hệ biện chứng. Một mặt, việc sử dụng

các phương tiện tu từ sẽ tạo ra các biện pháp tu từ, mặt khác việc sử dụng một

biện pháp tu từ nào đó trong lời nói cũng có thể chuyển hoá nó thành một phương

tiện tu từ (đây là trường hợp của so sánh). Hơn nữa, cùng một phương tiện tu từ

có thể xây dựng nên những biện pháp tu từ khác nhau. Và ngược lại, những

phương tiện tu từ khác nhau có thể cùng tham gia vào việc xây dựng cùng một

biện pháp tu từ duy nhất.

Tóm lại, biện pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt trong

một hoàn cảnh cụ thể nhằm mục đích tu từ nhất định, đó là cách diễn đạt ngôn

ngữ mới mẻ, thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của người sử dụng ngôn ngữ. Do

vậy, việc phân loại và miêu tả các biện pháp tu từ đạt được tính hệ thống, tính

nhất quán trong tất cả các cấp độ ngôn ngữ sẽ giúp cho người học luôn có ý thức

nhận thức được tầm quan trọng nổi bật của sự đối lập quen thuộc, mới mẻ giữa

các biện pháp thông thường và biện pháp tu từ (biện pháp đặc biệt). Sự lựa chọn,

sử dụng các biện pháp tu từ ở người sử dụng ngôn ngữ luôn là sự sáng tạo không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngừng, nhưng không nên nghĩ rằng phải luôn dùng hình thức diễn đạt mới mẻ,

bóng bẩy mới hay, bởi trình độ cao trong việc sử dụng ngôn ngữ không phải ở

chỗ biết nhiều, dùng nhiều biện pháp tu từ mà thể hiện ở khả năng lựa chọn sử

dụng các yếu tố ngôn ngữ nói chung phù hợp với đặc trưng của từng phong cách

chức năng của hoạt động lời nói. Vì thế, có khám phá, phát hiện và khai thác giá

trị sử dụng của các biện pháp tu từ, người đọc mới có thể phát hiện và nhận thức

sâu sắc về giá trị thẩm mĩ của ngôn từ.

Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được phối hợp

sử dụng, các biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng, biện pháp tu

từ ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp, biện pháp tu từ văn bản, biện pháp tu từ

ngữ âm - văn tự.

1.1.2. Biện pháp tu từ so sánh và biện pháp tu từ nhân hóa

1.1.2.1. Biện pháp tu từ so sánh

a. Định nghĩa:

So sánh là một thao tác của tư duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối chiếu

với sự vật khác để nhìn thấy nét tương đồng và khác biệt giữa chúng. Có thể dễ

dàng nhận thấy, phép so sánh được sử dụng phổ biến và rộng rãi trong nhiều lĩnh

vực của đời sống xã hội: từ cuộc sống sinh hoạt đời thường đến trong thơ ca nghệ

thuật hay trong các ngành khoa học khác.

Cùng bàn về biện pháp tu từ so sánh đến nay các tác giả đã đưa ra rất nhiều

định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một số định nghĩa tiêu biểu:

* Định nghĩa trong từ điển

Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa - Viện Ngôn ngữ học,

Hà Nội 2010 do Hoàng Phê chủ biên: so sánh là: “nhìn vào cái này mà xem xét cái

kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc sự hơn kém” [52, tr.106].

Trong cuốn Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội 2010 do Song Dương, Đặng Thông chủ biên so sánh là: “xem xét để

tìm ra những điểm giống, tương tự hoặc khác biệt về mặt số lượng, kích thước,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phẩm chất” [14, tr.382].

Các định nghĩa trên tuy có phần khác nhau nhưng đều chung ở một điểm:

So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật với nhau để tìm ra điểm tương đồng

hoặc khác biệt giữa chúng.

* Định nghĩa của một số nhà nghiên cứu khác

Nhìn từ góc độ phong cách học, so sánh là một phương thức phổ biến ở

mọi ngôn ngữ. Vì thế, đây cũng là một trong những vấn đề được các nhà ngôn

ngữ học quan tâm nghiên cứu: A.Ju.Xtêpannov với Phong cách học tiếng Pháp

(1965), Vinôgradov với Phong cách học tiếng Nga (1969), Moorren với Phong

cách học tiếng Pháp (1970)… Những công trình này được giới thiệu ở Việt Nam

góp phần làm sáng tỏ về mặt lý thuyết và ứng dụng của phương thức so sánh

cũng như khẳng định giá trị của phương thức này trong sáng tạo hình tượng nghệ

thuật.

Phương thức so sánh cũng sớm được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học

nước ta đề cập đến. Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ 20, khi xuất hiện những

công trình nghiên cứu tiếng Việt, so sánh cũng được nhắc đến trong các bài giảng

về phong cách học.

Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu đã đề cập tới so sánh như: Phong

cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú, Nxb Đại học và trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội 1973; Giáo trình Việt ngữ, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà

Nội 1994 (Đinh Trọng Lạc chủ biên); 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng

Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998, (Đinh Trọng Lạc chủ biên), Phong cách học

tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998, (Đinh Trọng Lạc chủ biên)… Trong các

công trình này, các tác giả đều đưa ra quan niệm về so sánh.

Trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã quan niệm

về so sánh như sau: “So sánh là định nghĩa sự vật, hiện tượng hoặc khái niệm

ở trong ngôn ngữ nghệ thuật thông qua sự so sánh chúng với hiện tượng hoặc

khái niệm có cùng dấu hiệu chung. Mục đích so sánh là cụ thể hóa những sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vật trừu tượng, để người đọc dễ hiểu, dễ tưởng tượng hơn”. Ở cuốn giáo trình

này, tác giả chủ yếu tiến hành khảo sát hình thức biểu hiện của so sánh. Có

thể nói, đây chính là một trong những giáo trình đầu tiên của môn Phong cách

học ở Việt Nam.

Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục

1994, tác giả Đinh Trọng Lạc định nghĩa: “So sánh là một biện pháp tu từ ngữ

nghĩa trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan

không đồng nhất với nhau hoàn toàn chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm

diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng” [42, tr.154].

Sau này, các tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa ở giáo trình

Phong cách học tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa về so sánh: “So sánh là

phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là

giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể, những

cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe ” [44, tr190].

Tác giả Hữu Đạt đã định nghĩa so sánh tu từ như sau: “So sánh là đặt hai

hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự

giống nhau và khác biệt giữa chúng ” [15, tr.294].

Như vậy, theo tác giả Hữu Đạt, về bản chất, phép so sánh tu từ dùng thuộc

tính hay tình trạng của sự vật hay hiện tượng này giải thích cho thuộc tính, tình

trạng của sự vật.

Trong bài Các yếu tố và cấu trúc của so sánh nghệ thuật (đăng trên Tạp

chí Ngôn ngữ số 1, 1998), tác giả Nguyễn Thế Lịch đã đưa ra quan niệm về so

sánh: “So sánh thường được hiểu là đưa một sự vật ra đối chiếu về một mặt nào

đó với một sự vật khác khác loại nhưng lại có đặc điểm tương tự mà giác quan

có thể nhận biết để hiểu sự vật đưa ra đó dễ dàng hơn” [47, tr36]. Điều kiện cần

thiết để một phép so sánh tu từ tồn tại là: Hai sự vật được đem ra đối chiếu phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khác loại. Ví dụ: Mặt cô ấy tươi như hoa

* Quan điểm của luận văn về phép so sánh

Trên cơ sở tiếp thu những quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên,

luận văn trình bày quan niệm về phép so sánh (trong đó có cả so sánh luận lí và

so sánh tu từ):

- So sánh là việc đối chiếu một phương diện nào đó của ít nhất hai sự vật,

hiện tượng.

- Những sự vật, hiện tượng được đưa ra đối chiếu có thể cùng loại và có

thể khác loại.

- Những sự vật hiện tượng đưa ra đối chiếu phải có nét tương đồng sâu xa

nào đó trong những ngữ cảnh nhất định mà giác quan có thể nhận biết được.

- Mục đích của so sánh là để tìm ra các nét tương đồng và khác biệt giữa

đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh.

b. Phân biệt so sánh luận lí và so sánh tu từ

Khi nghiên cứu về biện pháp tu từ so sánh cần phải phân biệt so sánh luận

lí và so sánh tu từ:

* So sánh luận lí

So sánh luận lí là kiểu so sánh, đối chiếu giữa hai đối tượng cùng loại

nhằm xác lập sự tương đồng giữa hai đối tượng này. Đây là kết quả của tư duy

khái niệm, tư duy khoa học theo những quy luật thông thường.

Tác giả Cù Đình Tú chỉ rõ: So sánh luận lí là phép so sánh mà trong đó:

“Cái được so sánh và cái so sánh là các đối tượng cùng loại và mục đích của sự

so sánh này là xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng”[62, tr.175].

Chức năng chủ yếu của so sánh logic là nhận thức. Kiểu so sánh này là

dạng thức được dùng phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, giúp người nghe

hiểu rõ, hiểu sâu sắc phương diện nào đó của sự vật. Mục đích của so sánh luận

lí là xác lập một giá trị, một đại lượng, một tính chất, một đặc trưng nào đó bằng

cách đối chiếu đối tượng này với một đối tượng khác có giá trị lớn hơn bằng hoặc

kém nó.

Ví dụ 1: Đức cao hơn Minh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ví dụ 2: Con mèo đen to hơn con mèo tam thể

* So sánh tu từ

So sánh tu từ được dùng rộng rãi và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày

cũng như trong thơ ca nghệ thuật.

Theo tác giả Cù Đình Tú, điểm khác biệt cơ bản giữa so sánh tu từ và so

sánh luận lí: Bản chất của so sánh luận lí là đối tượng đưa ra so sánh là các đối

tượng cùng loại mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai đối

tượng. Tức là cái được so sánh và cái so sánh là những đối tượng cùng loại, còn

ở so sánh tu từ, các đối tượng được đưa ra so sánh là những đối tượng khác loại.

Mục đích của so sánh tu từ là làm cho các đối tượng giàu hình ảnh, gợi hình, gợi

cảm, giàu sức hấp dẫn.

Ví dụ 1:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa.”

(Chế Lan Viên)

Ví dụ 2:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

(Tố Hữu)

Như vậy, qua quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên, ta có thể

thấy sự khác nhau cơ bản giữa so sánh luận lí và so sánh tu từ là đối tượng so

sánh và đối tượng được so sánh. Trong so sánh luận lí, đối tượng so sánh và đối

tượng được so sánh là những đối tượng cùng loại. Trong so sánh tu từ, đối tượng

so sánh là đối tượng được so sánh là những đối tượng khác loại.

c. Cấu trúc so sánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc so sánh.

* Theo tác giả Cù Đình Tú

Cấu tạo của so sánh tu từ bao giờ cũng phô bày hai vế: Vế được so sánh

và vế so sánh. Mỗi vế này có thể gồm một hoặc nhiều đối tượng. Các đối tượng

này gắn với nhau, tạo thành những kiểu hình thức so sánh:

- A như (y như, coi như, tựa như, như là…) B

- A bao nhiêu B bấy nhiêu

- A là B

Trong đó A là cái được so sánh, B là cái so sánh

* Quan điểm của tác giả Đinh Trọng Lạc và tác giả Nguyễn Thái Hòa

Tác giả Đinh Trọng Lạc và tác giả Nguyễn Thái Hòa cho rằng, cấu trúc so

sánh có thể ở dạng đầy đủ và dạng không đầy đủ.

- Cấu trúc so sánh ở dạng đầy đủ là:

Ở dạng đầy đủ, phép so sánh tu từ gồm 4 yếu tố đó là: cái được so sánh,

cơ sở so sánh, từ so sánh và cái so sánh.

Có thể mô hình cấu trúc so sánh ở dạng đầy đủ là: A + t + tss + B.

- A: cái được so sánh

- t: cơ sở so sánh

- tss: từ so sánh (từ dùng để biểu thị quan hệ so sánh (như, là, bằng, hơn,

khác nào, thua, kém…).

- B: cái so sánh

- Cấu trúc so sánh ở dạng không đầy đủ:

Theo hai tác giả này, cấu trúc so sánh trên không phải là cố định. Tùy từng

trường hợp, trật tự của các yếu tố có thể thay đổi hoặc bớt một số yếu tố trong

cấu trúc. Trường hợp cấu trúc so sánh vắng một hay một số yếu tố là cấu trúc so

sánh ở dạng không đầy đủ. Chẳng hạn:

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố (t), mô hình cấu trúc là: A + t + tss + B.

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố A và t, mô hình cấu trúc là: tss + B.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

+ Cấu trúc so sánh có mô hình là: A + t + B

+ Cấu trúc so sánh có mô hình là: A bao nhiêu B bấy nhiêu:

+ Cấu trúc so sánh có mô hình A là B. Từ là có giá trị như từ như nhưng có

sắc thái khác nhau. Nếu thay từ là bằng từ như thì nội dung cơ bản không thay đổi

chỉ thay đổi về sắc thái ý nghĩa từ sắc thái khẳng định chuyển sang giả định.

* Quan điểm của tác giả Hữu Đạt:

Trong cuốn Phong cách học tiếng Việt, tác giả Hữu Đạt đã đưa ra mô hình

khái quát của phép so sánh là: A - X - B

Trong đó: A là đối tượng được so sánh, X là từ so sánh, B là đối tượng

so sánh.

Quan sát vào cấu trúc này, dễ dàng nhận thấy, so với quan điểm của tác

giả Đinh Trọng Lạc và tác giả Nguyễn Thái Hòa, cấu trúc so sánh mà tác giả

Hữu Đạt đưa ra chỉ có 3 yếu tố, thiếu yếu tố chỉ phương diện so sánh.

Tác giả Hữu Đạt cũng nêu rõ biến thể của cấu trúc này chỉ có hai loại là:

- So sánh không có từ so sánh với mô hình cấu trúc là: A - B

Ví dụ:

“Bác ngồi đó lớn mênh mông

Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non.”

(Tố Hữu)

Trong ví dụ trên, A (đối tượng được so sánh) là:Bác ngồi đó lớn mênh

mông ; B1 (đối tượng so sánh 1) là: Trời cao biển rộng; B2 (đối tượng so sánh

2) là ruộng đồng nước non.

- So sánh có từ so sánh, với mô hình cấu trúc là: A - X - B

Ví dụ:

“Lũ đế quốc như bầy quỷ đói

Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười”.

(Tố Hữu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Theo đó: A: Lũ đế quốc, X: như, B: bầy quỷ đói.

* Quan điểm của tác giả Nguyễn Thế Lịch

Trong bài Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt đăng trên Tạp chí ngôn ngữ,

số 7 năm 2001, tác giả Nguyễn Thế Lịch cũng đưa ra một số cấu trúc so sánh

hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố (giống như quan điểm của tác giả Đinh Trọng Lạc đã

nói ở trên) đó là:

- Yếu tố cần đưa ra so sánh, có thể là được hay bị xét về tương quan với

chuẩn (YTĐ/ BSS): A

- Yếu tố nêu rõ so sánh về phương diện nào (YTPD): (t)

- Yếu tố thể hiện mối quan hệ trong so sánh (YTQH): (tss)

- Yếu tố được dùng làm chuẩn để so sánh (YTSS): (B)

Theo đó, tác giả đã đưa ra một ví dụ minh họa về cấu trúc so sánh:

YTĐSS YTPD YTQH YTSS

Mặt tươi Như Hoa

Đặc điểm của từng yếu tố được Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ thể như sau:

Về yếu tố được/bị so sánh (YTĐSS: A), tác giả cho rằng, về nguyên tắc,

bất luận yếu tố được/bị so sánh là sự vật, hiện tượng gì thì cũng có thể đem ra so

sánh. Chẳng hạn:

Đối tượng được so sánh là người:

Ví dụ:

“Em như cây quế giữa rừng

Thơm cho ai biết, ngát lừng ai hay.”

(Ca dao)

Đối tượng được so sánh là vật:

Ví dụ:

“Lạt mềm như bún”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguyễn Khuyến)

- Về yếu tố phương diện so sánh (YTPD), tác giả Nguyễn Thế Lịch cho

rằng, trong cấu trúc so sánh, yếu tố phương diện so sánh có vai trò xác định ý

nghĩa của so sánh. Nó thể hiện thuộc tính của sự vật mà yếu tố được so sánh biểu

thị. Nói khác đi, thuộc tính này là thuộc tính tiêu biểu của sự vật mà yếu tố được

so sánh biểu thị.

Đối với cấu trúc so sánh vắng YTPD (t), người nghe (đọc) phải dựa vào

liên tưởng để tìm ra nét tương đồng giữa YTĐSS và YTSS, từ đó mới có thể xác

định YTĐSS đã được so sánh về phương diện nào.

Ví dụ: Tóc đen như gỗ mun.

Ở đây, sự tương đồng giữa tóc và gỗ mun là có màu sắc giống nhau (màu

đen). Tóc có màu đen bóng, đẹp. Gỗ mun là cây gỗ quý, cũng có màu đen bóng.

Từ sự so sánh này, người dùng có mục đích là khen. Sự tương đồng này là căn

cứ để suy ra (t) - YTPD

- Yếu tố quan hệ so sánh (YTQH: tss): Yếu tố này là yếu tố được coi là đơn

giản nhất trong cấu trúc so sánh. Nó bao gồm các từ so sánh như: như, tựa, như

là, như thể, chừng như, tựa như, hồ như, bao nhiêu… bấy nhiêu…

Ví dụ:

“Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là dao cau. »

(Ca dao)

Từ là trong cấu trúc so sánh có giá trị tương đương từ như, nhưng sắc thái

ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Là đem đến cho cấu trúc này sắc thái khẳng định

sự đồng nhất hoàn toàn sự đánh giá có cơ sở khách quan, khác với như là mang

sắc thái giả định, chỉ có một sự tương đồng về một khía cạnh nào đó, do cảm

nhận chủ quan mang lại.

Cặp từ hô ứng: bao nhiêu… bấy nhiêu. Ví dụ:

Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Ca dao)

- Yếu tố so sánh (YTSS: B): Yếu tố này được xem là yếu tố quan trọng

nhất và không thể thiếu của cấu trúc so sánh. Bởi nó là cái chuẩn của so sánh.

Không có chuẩn thì không thành so sánh sự xuất hiện của yếu tố này là kết quả

của quá trình quan sát, liên tưởng, lựa chọn và thông qua quá trình đó nó mang

trong mình sắc thái tâm lý, tư duy, văn hóa của người nói. Không thể hiểu YTSS

thì không thể hiểu ý nghĩa của so sánh.

Cần lưu ý thêm là, không phải lúc nào cấu trúc so sánh cũng hội tụ đủ 4

yếu tố trên, tức là có trường hợp cấu trúc so sánh không hoàn chỉnh, đó là:

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố phương diện (vắng t), tức cấu trúc so sánh

là: A + tss + B

Ví dụ:

Mẹ già như chuối chín cây

Như xôi nếp mật, như đường mía lau.

(Ca dao)

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố phương diện so sánh và yếu tố quan hệ

vắng (t và vắng tss). Mô hình cấu trúc so sánh là A + B.

Ví dụ:

Trường Sơn: chí lớn ông cha

Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.

(Nguyễn Văn Trỗi)

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố bị / được so sánh (vắng A), mô hình cấu

trúc so sánh chỉ có t+ tss + B.

Ví dụ:

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

Như sông, như núi, như người Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Nguyễn Văn Trỗi)

Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố được so sánh đã tạo ra rất nhiều các

thành ngữ so sánh: Cao như núi, mềm như bún, dai như đỉa, ngọt như mía lùi, đỏ

như son… giúp cho việc tiếp nhận trở nên dễ dàng.

+ Cấu trúc so sánh vắng yếu tố bị / được so sánh và yếu tố phương diện,

cấu trúc so sánh là: tss + B

Ví dụ:

- Nhanh như sóc.

- Hôi như cú.

- Hiền như bụt.

(Thành ngữ)

Như vậy, mặc dù các tác giả đã đưa ra những quan điểm khác nhau về cấu

trúc so sánh, song phần lớn các tác giả đều cho rằng cấu trúc so sánh có 2 dạng:

- Ở dạng đầy đủ, cấu trúc so sánh gồm có 4 thành tố: A (cái được so sánh),

t (phương diện so sánh), tss (từ so sánh) và B (cái so sánh).

- Ở dạng không đầy đủ, cấu trúc so sánh có thể khuyết một hoặc hai trong

4 thành tố trên.

*Quan điểm của luận văn về cấu trúc so sánh

- Ở dạng đầy đủ, một cấu trúc so sánh bao gồm 4 yếu tố:

A + t + tss +B

Trong đó: + A: Yếu tố được so sánh

+ t: Yếu tố phương diện so sánh

+ tss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh

+ B: Yếu tố so sánh

Ví dụ: Mặt đỏ như gấc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

A tss t B

- Ở dạng không đầy đủ, cấu trúc so sánh có thể khuyết một hay hai thành

tố, chẳng hạn:

+ Cấu trúc so sánh vắng A, cấu trúc so sánh là: t + tss + B.

+ Cấu trúc so sánh vắng t, cấu trúc so sánh là: A + tss + B.

+ Cấu trúc so sánh vắng tss, cấu trúc so sánh là: A + t + B.

+ Cấu trúc so sánh vắng t và tss, cấu trúc so sánh là: A + B.

Tùy mục đích và cách sử dụng từ ngữ mà mô hình cấu trúc hoàn chỉnh kể

trên có thể tạo ra biến thể bằng cách bớt hoặc đảo trật tự trong cấu trúc.

d. Các kiểu so sánh

* Quan điểm của tác giả Đào Thản

Nhìn nhận phép so sánh ở mặt nội dung và phân chia dựa vào mục đích so

sánh. Theo đó, tác giả đã đưa ra 8 kiểu so sánh:

- So sánh để giải thích

Ví dụ: Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội ví như thuyền,

nước sông lên thì thuyền đi lại dễ dàng.

(Hồ Chí Minh)

- So sánh để miêu tả

Ví dụ:

Hai mắt mèo tròn và quắc như đôi hòn bi ve để dưới ánh mặt trời.

(Tô Hoài)

- So sánh để đánh giá

Ví dụ:

Thế địch như lửa, thế ta như nước.

(Hồ Chí Minh)

- So sánh để biểu lộ tình cảm

Ví dụ:

Cậu nào cậu nấy vui như con chim chích đi giao thông không hề biết mỏi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Tô Hoài)

- So sánh liên tiếp

Ví dụ:

Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

(Ca dao)

- So sánh phát triển

Ví dụ:

Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai.

(Ca dao)

- So sánh hơn kém

Ví dụ:

Ngọc nào bằng tay em.

(Tố Hữu)

- So sánh đặc biệt

Sự cân đối hoàn toàn về hình thức và nội dung được thể hiện hoàn toàn

trong kiểu so sánh này. Kiểu so sánh này chỉ dùng trong diễn đạt tình huống hoặc

sự kiện mà ở đó có tính cân đối. Đây là điều kiện quan trọng để nhận ra có sự so

sánh. Kiểu so sánh này không được dùng khi diễn đạt thuộc tính.

Ví dụ:

Cây khô xuống núi cũng khô

Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo

(Ca dao)

* Quan điểm của tác giả Hữu Đạt

Tác giả Hữu Đạt dựa vào cả hai tiêu chí là hình thức và nội dung để phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

loại cấu trúc được tác giả chia thành ba loại đó là:

- So sánh ngang bằng

Ví dụ:

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa.

(Lưu Quang Vũ)

- So sánh hơn - kém

Ví dụ:

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

(Nguyễn Du)

- So sánh bậc cao nhất

Ví dụ:

Đại đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất.

(Phạm Tiến Duật)

Như vậy, mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện ra được sự đồng

nhất hay khác biệt về các thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Do đó, ta có

thể phân chia so sánh thành hai kiểu:

1) So sánh đồng nhất bao gồm:

- So sánh tương tự: So sánh kiểu này thường dùng các từ so sánh: như, như là,

như thể, tỉ như, giá như, tựa, kém gì, hơn gì, khác gì… mang tính chất giả định.

Ví dụ:

“Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa.”

“Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Ca dao)

- So sánh ngang bằng: Ở kiểu so sánh này thường có các từ so sánh: bằng,

là… mang tính khẳng định.

Ví dụ:

“Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm hòn máu nhỏ.”

(Tố Hữu)

2) So sánh dị biệt

- So sánh dị biệt hơn gồm:

+ So sánh dị biệt hơn tuyệt đối: thường có những từ so sánh nhất (A), nhì

(B), tam, tứ…, thứ nhất (A), thứ nhì (B)… Thông thường trong dạng kết cấu này,

A và B được xếp theo thứ tự phân hạng đánh giá.

Ví dụ: Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền.(Tục ngữ)

Tuy nhiên vẫn có những trường hợp thứ tự này chỉ mang tính ước lệ, tức

là người sáng tác quan tâm đến vần điệu nhiều hơn là thứ tự mức độ “quan trọng”

của đối tượng được liệt kê. Xếp một đối tượng nào đó theo thứ tự nhất, nhì…

còn tùy thuộc vào quan điểm chủ quan của người nói.

+ So sánh dị biệt hơn tương đối: thường có những từ chuyên dụng: hơn,

còn hơn….

Ví dụ:

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.

Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.

(Tục ngữ)

+ So sánh dị biệt kém: Để biểu thị quan hệ so sánh dị biệt kém, người ta

thường dùng các từ so sánh: thua, kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không

tày…

Ví dụ:

Đêm nằm ở dưới bóng trăng

Thương cha, nhớ mẹ, không bằng thương em.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Ca dao).

Như vậy, hầu như các tác giả nói trên đều gặp nhau ở một điểm, về ngữ

nghĩa, có thể chia cấu trúc thành hai kiểu: So sánh đồng nhất và so sánh dị biệt.

Mỗi kiểu so sánh lại có thể chia thành những nhóm nhỏ hơn, tùy theo những tiêu

chí phân loại.

1.1.2.2. Biện pháp tu từ nhân hóa

a. Khái niệm

Bàn về biện pháp tu từ nhân hóa các tác giả đưa ra những quan niệm

của mình:

* Quan điểm của tác giả Đinh Trọng Lạc

Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt (Nxb GD 1999)

tác giả Đinh Trọng Lạc định nghĩa: “Nhân hóa (còn gọi: là nhân cách hóa) là

một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính,

dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được

miêu tả trở nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng

bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.”[42, tr.63]

* Quan điểm của tác giả Lại Nguyên Ân

Theo tác giả Lại Nguyên Ân: Nhân hóa (còn gọi là Nhân cách hóa là một

dạng đặc biệt của ẩn dụ chuyển những đặc điểm của con người (và rộng ra là

những sinh thể) sang những đối tượng và hiện tượng không phải là con người

(hoặc không có đặc tính của những cơ thể sống).[1]

Như vậy, nhân hóa là lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, hoạt động của

người dùng để biểu thị thuộc tính, hoạt động của đối tượng khác loại dựa trên

quan hệ liên tưởng nét tương đồng về thuộc tính, về hoạt động giữa người và đối

tượng không phải người (khác loại).

Ví dụ:

Trâu ơi, ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Ca dao)

b. Các hình thức của biện pháp tu từ nhân hóa

* Tác giả Đinh Trọng Lạc:

Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt (Nxb GD 1994),

tác giả đã phân loại như sau:

Về mặt hình thức, nhân hóa có thể được cấu tạo theo hai cách:

- Dùng những từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động của đối tượng không phải

con người:

Ví dụ:

Thân gầy guộc lá mong manh

Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi, đá vôi bạc màu.

(Nguyễn Duy)

- Coi đối tượng không phải như con người và tâm tình trò chuyện với nhau:

Ví dụ:

Núi cao chi lắm núi ơi?

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương!

(Ca dao)

Như vậy, dựa trên sự liên tưởng nhằm phát hiện ra nét giống nhau giữa đối

tượng không phải là người và người, giúp cho những đối tượng nhân hóa trở nên

sinh động và hấp dẫn hơn.

Do có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm - cảm xúc cho nên

nhân hóa được sử dụng rộng rãi trong các phong cách: khẩu ngữ, chính luận, văn

chương.

Trong sinh hoạt hàng ngày ta thường nghe nói: điếu cày kêu sòng sọc, con

đường lượn vòng, đá đổ mồ hôi, cái bụng muốn đi (mà) cái chân không muốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bước…

Trong lời nói nghệ thuật ta thường gặp nhân hóa: gió khóc, gió rền rĩ,

trăng chiếu mơ màng, sông thì thầm mấy khúc hùng ca xưa cũ, nước biếc chao

mình, mây vui đón em, khăn thương nhớ ai, đèn thương nhớ ai…

Nhân hóa chỉ có thể được thực hiện hóa trong một hoàn cảnh nhất định.

Ví dụ:

“Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng,

đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh

để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre anh hùng chiến đấu!”

(Thép Mới)

* Theo tác giả Phan Thị Thạch trong Giáo trình Phong cách học tiếng

Việt (Nxb Hà Nội, 1992) đã chia nhân hóa theo các kiểu như sau:

- Dùng từ ngữ chỉ tình cảm, hoạt động của con người để gắn cho đối tượng

không phải là con người: Yêu, thương, chạy, nhảy…

Ví dụ:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất?

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai??

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

(Ca dao)

- Dùng từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc của con người trong gia đình để gọi

các đối tượng không phải là người: anh, chị, em, mẹ, con…

Ví dụ:

Những chị lúa phất phơ bím tóc

Những cây tre bá vai nhau thì thầm đứng học

Đàn cò trắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khiêng nắng

Qua sông

Cô gió chăn mây trên đồng

Bác mặt trời đạp xe qua ngọn núi.

(Trần Đăng Khoa)

- Coi các sự vật không phải là con người như là con người để tâm tình, trò

chuyện với chúng.

Ví dụ:

Con cá rô ơi chớ có buồn

Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn.

Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái

Bác vẫn chăm tay tưới ướt bồn.

(Tố Hữu)

* Quan điểm của luận văn

- Dùng những yếu tố chỉ đặc điểm thuộc về con người để chỉ đối tượng khác.

- Nhân hóa bằng cách sử dụng các đại từ xưng hô.

- Nhân hóa bằng cách sử dụng những yếu tố chỉ công việc lao động của

con người.

- Gán cho sự vật tư thế, dáng vẻ của con người.

- Mặc cho sự vật trang phục như con người.

- Coi các con vật giống như con người đê tâm tình và trò chuyện với chúng.

- Sử dụng những từ ngữ chỉ tính cách, suy nghĩ, phẩm chất giống như con

người khi miêu tả các con vật.

- Gán cho con vật những từ chỉ địa vị, chức tước và trình độ học vấn như

của con người.

Như vậy có thể thấy được sự đa dạng của các hình thức nhân hóa.Đối với

từng đối tượng ta có thể dùng các hình thức nhân hóa khác nhau sao cho phù hợp

với đối tượng đó và phù hợp với hoàn cảnh xuất hiện của các đối tượng được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhân hóa.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Tiểu sử của tác giả Tô Hoài

Tên thật là Nguyễn Sen. Các bút danh khác: Mắt Biển, Mai Trang, Hồng

Hoa, Duy Phương… sinh ngày 07/09/1920 ở quê ngoại: Làng Nghĩa Đô, quận

Cầu Giấy, Hà Nội, quê nội: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, nay là xã Kim

An, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

Tô Hoài sinh trưởng trong một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công.

Học xong bậc tiểu học, ông làm nhiều nghề: thợ cửi, dạy tư, bán giày, phụ kế toán

hiệu buôn… Tuy quê gốc ở Thanh Oai nhưng ông lại gắn bó với làng Nghĩa Đô.

Bút danh của ông được lấy từ hai địa danh phủ Hoài Đức và sông Tô Lịch.

Từ năm 1938 chịu ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân, Tô Hoài

bắt đầu tham gia hoạt động trong các tổ chức Ái hữu thợ dệt và Thanh niên dân

chủ ở Hà Nội. Lúc này, ông mới 17 tuổi. Từ đây, nhà văn đã bắt đầu tìm và đi

theo cách mạng. Ông đi giải chữ cho mọi người: Viết văn, truyền đơn, viết văn

để mưu sinh và lấy văn chương để phục vụ cách mạng. Giáo sư Phan Cư Đệ viết:

“Có những người từ sách vở lý luận, từ vốn văn hóa kiến thức đi vào văn học.

Tô Hoài chủ yếu từ cuộc sống mồ hôi nước mắt, từ cuộc đời lam lũ của quần

chúng, từ những cái gì rất dân tộc và dân gian mà đi vào con đường sáng tác”.

Những sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết

thứ bảy vào cuối những năm 30.

Từ năm 1943, Tô Hoài tham gia hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc và

phong trào Việt Minh; viết bài báo bí mật. Sau cách mạng tháng Tám và trong

kháng chiến chống Pháp, ông lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc, sau đó về công

tác ở Hội văn nghệ Việt Nam.Từ năm 1957 đến năm 1980, ông liên tục tham gia

công tác lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam.Từ năm 1966 đến năm 1996, ông làm

chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội và còn đảm nhiệm nhiều chức trách xã hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khác.Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014, hưởng thọ 94 tuổi.

Với một hành trình sáng tác không mệt mỏi cho đến nay ông đã sở hữu

một gia tài văn học lớn. Ông được coi là nhà văn Việt Nam có số trang viết kỷ

lục với khoảng trên 150 tác phẩm. Trong đó có 60 tác phẩm viết cho thiếu nhi

thuộc các thể loại văn xuôi và văn cho thiếu nhi. Sự nghiệp văn chương của Tô

Hoài có 3 thành công tiêu biểu không phải nhà văn nào cũng đạt được. Đó là

thành công cho mảng viết cho thiếu nhi, thành công cho mảng viết về miền núi

và thành công cho mảng viết về Hà Nội. Vì những đóng góp lớn lao trong lĩnh

vực văn học nghệ thuật nên ông được nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí

Minh năm 1996.

1.2.2. Sự nghiệp của tác giả Tô Hoài

Tô Hoài vừa tự nhiên, vừa ngẫu nhiên vào nghề viết văn. Theo lời ông kể:

“Tôi không thể so sánh và tưởng tượng ra giá một bài báo và công xá những việc

tôi đã làm bấy lâu để kiếm sống. Hãng giày Bata mỗi tháng trả lương tôi 6 đồng.

Bây giờ một cái truyện ngắn tôi được 10 đồng, lại có băng quấn quanh tờ giấy bạc,

ngoài để tên mình. Ôi, lịch sự! Mà một tháng, tôi có thể viết mấy cái truyện ngắn.

Điếc không sợ súng, tôi cứ viết tràn lan”. [Tự Truyện, Tô Hoài].

Chặng đường văn học của ông được chia làm hai giai đoạn:

Trước năm 1945 ông viết:

Truyện thiếu nhi: Dế Mèn phiêu lưu kí (được gộp từ hai truyện Con dế mèn

- Truyền bá số 3 và Dế Mèn phiêu lưu kí - Truyền bá số 16 và số 17) (Nxb Á

Châu, 1941). Truyện ngắn: O chuột (NxbTân Dân, 1942), Nhà nghèo (NxbTân

Dân, 1942), Nước lên (Nxb Tân Dân, 1942). Hồi ức: Cỏ dại (Nxb Hà Nội, 1944).

Truyện vừa và dài: Giăng thề (Nxb Tân Dân, 1941), Quê người (Nxb Á Châu,

1942), Đêm mưa, Xóm Giếng (NxbTân Dân, 1944), Chuột thành phố (Tiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuyết thứ 7, 1945).

Thành công lớn của Tô Hoài đó là mảng truyện về thiếu nhi. Trong đó

phải kể đến Dế Mèn phiêu lưu kí. Tác phẩm đã gắn liền với bao thế hệ thiếu nhi

ở Việt Nam và được dịch ra gần 40 thứ tiếng trên thế giới. Đây là tập truyện “gối

đầu giường” của biết bao thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Một tập truyện với thế giới

nhân vật sinh động hấp dẫn đã đánh dấu thành công đầu tiên trên con đường văn

học của mình.

Thế giới nhân vật trong truyện Dế Mèn phiêu lưu kí là thế giới côn trùng

phong phú về chủng loại và đa dạng về tính cách. Trong đó không xuất hiện

những con vật to lớn có sức mạnh phi thường, đó không phải là những con vật

đặc biệt mà là những chú Dế nhỏ bé, đáng yêu, và gắn với tuổi thơ của trẻ em

vùng nông thôn. Đó cũng là những con vật gần gũi và gắn bó với người dân lao

động. Những nhân vật đó là một xã hội thu nhỏ với đầy đủ tính cách của con

người: tốt có xấu có…Dế Mèn là một chàng thanh niên khỏe mạnh, tự lập, tự rèn

luyện được bản thân mình qua các chương của truyện và ngày càng trưởng thành.

Sau cái chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã rút ra bài học đường đời cho mình: Ở đời

đừng có thói hung hăng, bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ rồi cũng có ngày

chuốc họa vào thân. Để tạo nên sức hấp dẫn của truyện tác giả đã xây dựng nên

một hệ thống nhân vật trong đó cáo cả nhân vật chính diện, các nhân vật phản

diện, nhân vật trung gian. Đó là anh: Dế Trũi, bác Xiến Tóc, anh Gọng Vó, chị

Cào Cào, chị Cốc, bọn Nhện, …Đây là những nhân vật đại diện cho nhiều giai

cấp, nhiều tầng lớp khác nhau lúc bấy giờ. Không chỉ xây dựng thành công tính

cách của các nhân vật, tác giả còn tạo nên những mối quan hệ anh em, bạn bè…

ở thế giới loài vật: Dế Mèn, Dế Trũi như anh em kết nghĩa, sẵn sàng hi sinh tính

mạng của mình vì vì nghĩa lớn.Anh Xiến Tóc trầm lặng, vừa yêu đời vừa chán đời.

Chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn.... Từ đời sống

và tích cách của từng con vật, nhà văn muốn bày tỏ quan niệm của mình về thế giới

nhân sinh, về khát vọng chính đáng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình,

yên vui, về tình thương, lòng chân thành và sự đoàn kết. Bởi thế câu chuyện về chú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho người lớn và cho cả

xã hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người, cũng

vì thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài

học ý nghĩa từ tác phẩm này.

Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám:

Truyện ngắn: Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây

Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác

trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành (1972). Tiểu thuyết: Mười

năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970 của Hội Nhà

văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978), Những ngõ phố,

người đường phố (1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải thưởng Hội

Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988).Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành

phố Lênin (1961), Tôi thăm Camphuchia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái

đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981), Cát bụi chân ai (1992).

Truyện thiếu nhi: Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999). Tiểu luận và kinh

nghiệm sáng tác: Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn đọc

ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn (1997).

Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế

mèn phiêu lưu kí được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đông đảo bạn đọc yêu

thích.

Trong đó, đoạn trích Dế Mèn phiêu lưu kí được trích từ chương 1 của tác

phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký và đoạn trích Vợ chồng A Phủ được trích từ tác

phẩm Truyện Tây Bắc (1953) đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình

Trung học phổ thông và được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh đã thu hút

đông đảo bạn đọc quan tâm và theo dõi.

Hơn 40 năm gắn bó với đề tài miền núi, nhà văn thành công lớn với tập

Truyện Tây Bắc. Tập truyện được coi là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học

Việt Nam hiện đại viết về con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và được trao giải nhất văn xuôi của hội văn nghệ Việt Nam năm 1955.

Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con

đường sáng tạo nghệ thuật của tác giả Tô Hoài. Qua đó ông cũng bộc lộ sự nhận

thức đúng đắn của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.

Tô Hoài đã trở thành nhà văn kể chuyện Hà Nội xưa hay nhất với các tác

phẩm: Mười năm, Quê nhà, Những ngõ phố, Người đường phố và gần đây là

truyện cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như

nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của tác giả về Hà Nội vô cùng phong phú, đa

dạng. Qua các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có điều kiện hiểu hơn

về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải dài suốt

cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường và cả trong chiến tranh.

Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt

được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Các tác phẩm kí của ông được viết sau những

chuyến đi lên Tây Bắc như: Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, Tôi thăm

Campuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song cửa... Đặc biệt, Tô Hoài có

các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về

những bạn văn, đời văn của ông như Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ

các tập hồi kí này, người đọc có điều kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật,

thân phận, nhân cách nhà văn trong hành trình văn chương của ông và một số nhà

văn khác. Cách viết hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai

thác theo mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức hấp dẫn đối

với người đọc không thua kém gì so với thể loại khác.

Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá nhiều

tác phẩm cho thiếu nhi như: Con mèo lười, Vừ A Dính, Đảo hoang, Chuyện nỏ

thần, Nhà Chử… Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ Tô

Hoài vẫn có được cách cảm nhận và thể hiện đời sống qua trang văn phù hợp với

tâm hồn, nhận thức của tuổi thơ, để cùng các em đến với một thế giới biết bao

điều kì thú. Trên cơ sở đó, góp phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tâm hồn trẻ thơ.

Tính đến nay, Tô Hoài đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại:

Truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim, tiểu thuyết và kinh

nghiệm sáng tác. Tô Hoài được đánh giá là cây đại thụ trong khu rừng văn học

Việt Nam. Ở mọi thể loại sáng tác, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng,

một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn và để lại nhiều dấu ấn với những tác

phẩm có giá trị.

Giải thưởng: Giải nhất Tiểu thuyết của Hội văn nghệ Việt Nam 1956

(Truyện Tây Bắc), giải A Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội 1970 (Tiểu thuyết

Quê nhà), giải thưởng của hội nhà văn Á - Phi năm 1970 (Tiểu thuyết miền

Tây), giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - Nghệ thuật (Đợt 1- 1996, giải Bùi

Xuân Phái - vì tình yêu Hà Nội 2010.

1.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ trong văn xuôi của Tô Hoài

Theo Nguyễn Đăng Điệp: “Nói đến Tô Hoài không thể không mói đến tài

năng sử dụng ngôn ngữ của ông. Tô Hoài rất ít khi dùng đến thứ ngôn ngữ óng

ả, ắc mùi sách vở, chữ nghĩa của ông cất lên từ đời sống, nhưng đó là thứ ngôn

ngữ chắt lọc”.

Tô Hoài làm rất nhiều nghề: thợ cửi, dạy tư, bán giày, phụ kế toán hiệu

buôn… Chính những công việc này của Tô Hoài cũng là một kiểu đi thực tế giúp

ông tích lũy thêm kinh nghiệm, am hiểu về cuộc sống đời thường bình dị của con

người lao động. Ngoài ra, ông còn có sở thích đọc báo, đọc sách, xem những bản

tin thời sự. Có lẽ điều này trau dồi thêm vốn ngôn từ của nhà văn. Chả thế mà ta

thấy ngôn ngữ của nhà văn hết sức đa dạng nhưng vẫn rất gần gũi mang đậm nét

văn hóa của người dân Việt Nam.

Tô Hoài là một người có sức tự học hết sức bền bỉ ít có nhà văn nào có được.

Ông là người có vốn sống phong phú ở mọi vùng miền của Tổ Quốc. Hơn 60

năm qua, Tô Hoài đã đi khắp các vùng miền từ Hà Nội lên đến Tây Bắc đến Tây

Nguyên xuống đến đồng bằng. Trong suốt thời gian hoạt động của mình Tô Hoài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

luôn luôn ghi chép. Ông ghi chép lại tất cả từ sự việc nhỏ nhất.

Tô Hoài là người có quan niệm về sức nghiêm túc về nghề viết văn.

Đề tài về thiếu nhi là một trong những đề tài được đông đảo các nhà văn

chú ý. Nhưng Tô Hoài được coi là nhà văn có công đặt viên gạch đầu tiên dựng

nên ngôi nhà văn học thiếu nhi hiện đại. Mảng truyện viết về thiếu nhi là một

trong những thành công đầu tiên trong cuộc đời viết văn của ông. Nó thành công

ngoài sức tưởng tượng của nhà văn. Trong những trang văn viết cho thiếu nhi,

Tô Hoài là một người tuy trưởng thành nhưng ông luôn vô tư, hóm hỉnh hài hước.

Ông hóa thân thành người bạn cùng trang lứa với các em với lối suy nghĩ tinh

nghịch. Ngòi bút của ông đã mang đến cho các em những câu chuyện sinh động

của cuộc sống thường ngày.Vũ Ngọc Phan viết: “ Những truyện nhi đồng của

ông có cái đặc sắc là rất linh động và dí dỏm” Tô Hoài là nhà văn của thiếu nhi.

Ông đã chinh phục bạn đọc nhỏ tuổi bằng những câu chuyện đời thường, giản dị

mà sâu lắng.

Tô Hoài còn có sở trường viết về loài vật. Vương Trí Nhàn có lời nhận

xét: “Tô Hoài lõi đời, sành sỏi con ruồi bay qua cũng không lọt khỏi mắt”

Thế giới loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế giới ấy gợi

lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Có lẽ, từ

trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật

nhiều và đặc sắc như Tô Hoài.

Trong suy nghĩ của ông những con vật mang đầy đủ đặc điểm tính cách

của một con người: Biết yêu thương, ghét bỏ, có sở thích và đặc biệt có khả năng

trò chuyện với nhau như với con người. Cách kể chuyện của ông rất tự nhiên, có

duyên và sinh động.

Để có được những trang vết hết sức sức sinh động như vậy không thể

không nói đến khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo, có tấm lòng thực sự yêu thương,

và hòa mình vào cuộc sống của thế giới nhân vật của mình. Hà Minh Đức khẳng

định: “Tô Hoài có một năng lực đặc biệt và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quan”.

Các tác phẩm của ông có sức sáng tạo rất lớn, ngòi bút sinh động của ông

đã khám phá cuộc phiêu lưu của chú Dế Mèn bé nhỏ nhưng mang trong mình

một xứ mệnh lớn là đi tìm thế giới đại đồng. Những câu chuyện viết về loài vật

chứa đựng trong đó những giá trị tư tưởng, những bài học của cuộc sống. Qua

đó người đọc có thể tự hoàn thiện mình nhân cách của mình hơn. Giọng của ông

hiền lành, trong trẻo, hồn nhiên gần gũi. Việc sử dụng ngôn ngữ của ông giản dị,

dễ hiểu phù hợp với mọi lứa tuổi từ thiếu nhi cho đến người lớn tuổi.

Để xây dựng thành công hệ thống nhân vật phong phú đa dạng của mình,

Tô Hoài đã sử dụng biện pháp nghệ thuật miêu tả. Miêu tả chú gà lúc tuổi thanh

niên “Màu sắc trên bộ mã sẫm lại, đen thì đen biếc, trắng thành trắng bạch và

đỏ trở nên đỏ khé”. Miêu tả màu sắc kì dị của bộ lông mèo mướp: “Nó vừa

trắng màu lụa, vừa xám màu tro, lại vừa đen xỉn”, loài chuột có: “bộ lông xám

tro”,loài gà ri lúc bé thì “gày gò, ốm yếu” đến khi trưởng thành thì lại “cường

tráng, to khỏe”…. Ngòi bút của Tô Hoài biến đổi sinh động, linh hoạt khi miêu

tả các nhân vật của mình khiến độc giả hình dung ra hình dáng và tính cách của

các nhân vật.

Góp phần tạo nên những thành công đó tác giả đã sử dụng triệt để hai biện

pháp tu tu từ nghệ thuật nhân hóa: “thím vịt”, “cậu gà ri”, “nàng là một ả Kiều

già”, “chị mái già”, “anh gà gáy”, “chú Dế Choắt”, “anh Dế Mèn”… và so

sánh: “Mèo lừ lừ và nghiêm nghị tựa một thày giáo nhà dòng, trên mình có khoác

bộ áo thâm”, “Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ”, “Những

con ngan nhỏ mới nở được ba hôm, chỉ to hơn cái trứng một tí”, “Người loắt

choắt, bé chưa bằng gi cam, mà lại bé hơn cả chim sẻ”… Nhờ vậy mà. Những

lối ví von so sánh như vậy khiến cho ngôn ngữ trong tác phẩm giàu hình ảnh,

sống động và rất độc đáo. Nhờ có biện pháp nghệ thuật nhân hóa mà các nhân

vật trong truyện mang những đặc điểm tính cách của con người. Trong mỗi

trang viết của ông, người đọc như dõi theo từng bước chân và cử chỉ của nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vật.

Ngôn từ trong các tác phẩm của Tô Hoài là ngôn từ mang đậm dấu ấn của

từ Thuần việt. Thứ ngôn ngữ rất đời thường của quần chúng qua lăng kính của

mình Tô Hoài đã biến nó thành ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là “thứ ngôn ngữ phong

phú trong sáng mà giản dị, giàu chất khẩu ngữ” (Theo Trần Đăng Suyền).

Trong khi làm những công việc thường ngày, Tô Hoài đã học hỏi, tích lũy

và thu lượm hay nói cách khác là sự chắt lọc tiếng nói của dân gian, của sách vở.

Ngôn từ chau chuốt đó là thành quả của sự quan sát tinh tế và việc ông chịu khó

tỉ mỉ ghi chép lại.

1.3. Tiểu kết

Chương 1, trình bày các quan niệm của các tác giả ngôn ngữ về biện pháp

tu từ, phân biệt biện pháp tu từ và phương tiện tu từ. Những khái quát nhất về

hai biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa từ định nghĩa, cấu trúc, hình thức, cho

đến nội dung và nêu ra các công dụng của các biện pháp nghệ thật này trong cuộc

sống cũng như trong văn chương. Điều này rất cần thiết khi phân tích cái hay,

cái độc đáo của một tác phẩm văn học. Đồng thời, cũng khái quát về tiểu sử cũng

như sự nghiệp văn học của nhà văn Tô Hoài. Đặc điểm ngôn ngữ trong các tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phẩm của ông. Góp phần to lớn vào việc nghiên cứu văn học hiện thực Việt Nam

Chương 2

BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH TRONG TÁC PHẨM

VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

2.1. Biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

xét về mặt cấu tạo hình thức

2.1.1. Nhận xét chung

Biện pháp tu từ so sánh là một trong những biện pháp tu từ được dùng phổ

biến trong văn chương. Trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài, biện pháp

tu từ so sánh được sử dụng khá nhiều. Tô Hoài đã sử dụng linh hoạt các kiểu cấu

trúc so sánh khiến cho hệ thống nhân vật của ông hiện lên một cách sinh động.

Qua biện pháp tu từ so sánh các nhân vật cũng mang những tính cách và đặc

điểm riêng của mình.

2.1.2. Mô hình của cấu trúc so sánh

2.1.2.1. Cấu trúc so sánh ở dạng đầy đủ: A + t + tss + B

Đây là kiểu cấu trúc so sánh được tạo thành bởi 4 thành tố:

A: Cái được so sánh, t: Phương diện so sánh, tss: Từ so sánh, B: Cái so sánh.

Ví dụ 1:

Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện

A t tss B

thuốc phiện. [40, tr.169]

Ví dụ 2:

Trẻ con Hà Nội nhanh như chuột. [38. tr.145].

A t tss B

Ở dạng đầy đ ủ này được tác giả sử dụng nhiều nhất với 530/ 680 lượt,

chiếm tỉ lệ 71.3%. Với kiểu so sánh này, tác giả đã nêu ra một sự vật cùng với

một đặc tính nhất định của nó để so sánh với một sự vật hiện tượng khác loại.

Cách so sánh này có tác dụng gợi dẫn người nghe, người đọc dễ dàng nhận ra

những đặc tính nhất định của đối tượng, thường là tồn tại hiển nhiên ở sự vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

được làm đối tượng so sánh hay đối tượng được so sánh.

Các yếu tố trong cấu trúc so sánh dạng đầy đủ thành tố thường có trật tự

như các ví dụ vừa dẫn trên, song cũng có thể đảo vị trí cho nhau.

Kiểu cấu trúc so sánh đầy đủ thành tố có những dạng biến thể khác nhau:

Ví dụ 3:

Bốn cái chân như bốn cái tăm lũn cũn. [35, tr.440].

A tss B t

Ví dụ 4:

Đã thành tục ngữ: Ghét nhau như chó với mèo mà. [35, tr.285].

t tss A B

2.1.2.2. Cấu trúc so sánh không đầy đủ các thành tố

a. Cấu trúc: A + tss + B,

Ví dụ 5:

Chú Bọ Ngựa này là một trong những kẻ ngu ngốc kia. [35, tr.442].

A tss B

Cấu trúc A + tss + B được sử dụng 129/743 lần chiếm tỉ lệ 17.4%. Với

kiểu cấu trúc này tác giả đã đồng nhất hoặc tương tự hóa hai sự vật hiện tượng

khác loại (A và B). Mặc dù chúng có nhiều đặc tính. Cách so sánh này bắt buộc

người đọc phải suy ngẫm, phát huy khả năng liên tưởng để chọn ra đặc tính nào

là căn bản và được xem là tương đồng ở hai sự vật, hiện tượng mà tác giả đã lấy

làm căn cứ để so sánh.

Cấu trúc so sánh vắng thành tố phương diện so sánh có khá nhiều kiểu loại.

Ví dụ 6:

Bướm vàng, bướm trắng, bướm đen, bướm nâu cả đàn, như một miền hoa

A1 A2 A3 A4 tss1 B1

ban nở trắng, như giàn hoa mướp vàng rung rinh, như mặt ruộng đất nâu óng

tss2 B2 tss3 B3

vừa cày, đương xếp ải [36, tr.145].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cấu trúc vừa dẫn có mô hình: A + (tss1 + B1) + (tss2 + B2) + (tss3 + B3)

b. Cấu trúc:t + tss + B (vắng A)

Ví dụ 7:

Ông tớ dát lắm. Dát hơn thầy tớ.[35, tr.209].

t tss B

Ví dụ 8:

Im lặng như gốc mít, gốc trám, gốc nghiến, gốc vối. [36, tr.359].

t tss B1 B2 B3 B4

Ví dụ 9:

Nhanh như cắt, Tễu nhảy tót lên cổng, thò đầu vào cái thòng lọng, và buông

t tss B

thõng hai chân xuống [36, tr.222].

Cấu trúc t + tss + B được sử dụng 50/743 lượt chiếm 6.7%. Đây là kiểu

cấu trúc vắng thành tố A. Thường là một ngữ cố định, mang tính biểu trưng,

hàm ý.

Các kiểu cấu trúc so sánh như: nhanh như sóc, nhanh như cắt, nhanh như

ngựa phi, hiền như bụt…đều thuộc loại cấu trúc so sánh này.

c. Cấu trúc so sánh: tss + B (đây là kiểu so sánh vắng A và t)

Ví dụ 10:

Ơ hay, tiếng rào rào ở đâu. Như tiếng những con nước lũ đương réo chạy

tss B

trong lòng suối [36, tr.118].

Ví dụ 11:

Những làn lá mần tang mùa thu rụng bay nghiêng từ mặt suối lên. Như đàn

tss B

cá vàng lấp lánh trên không [36. 114].

Cấu trúc tss + B được sử dụng 17/743 lượt chiếm 2.3%. Trong cấu trúc

này, yếu tố so sánh và phương diện so sánh đã được dấu đi, trở thành mơ hồ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người đọc muốn biết cái được so sánh ở đây là gì và tác giả dựa vào phương

diện nào để làm cơ sở so sánh thì phải đoán định căn cứ vào văn cảnh cụ thể, đó

là những câu, đoạn… đứng trước hoặc sau nó. Trong một văn bản cụ thể yếu tố

bị khuyết được nói đến trong câu đứng trước hoặc sau nó.

Nếu như ta gộp lại thì cấu trúc câu sẽ bị thay đổi, cấu trúc của câu sẽ có

mô hình: A + tss + B

Những làn lá mần tang mùa thu rụng bay nghiêng từ mặt suối lên như đàn cá

A tss B

vàng lấp lánh trên không. [36, tr.114]

d. Cấu trúc A + tss + t (Vắng B)

Ví dụ 12:

Ở Việt Nam cũng có những cây đa rậm râu như thế. [36, tr.169].

A tss t

Kiểu câu trúc A + tss + t này được sử dụng 4/743 lượt, chiếm 0.5%. Đây là

kiểu cấu trúc vắng thành tố B. Hay nói cách khác yếu tố so sánh đã được ngầm ẩn

không hiện lên trên văn bản. Tuy vậy ta vẫn hiểu được ý nghĩa của câu.

e. Cấu trúc A + t + B (kiểu cấu trúc vắng tss)

Ví dụ 13:

Chẳng thế mà người ta nói “đầu bẹt cá trê” để chế giễu những ai tính nết cục

A t B

cằn thô lỗ. [36, tr.83].

Ví dụ 14:

Ông già séc-ba, khổ người bé nhỏ, mặt đỏ gấc. [36, tr.189].

A t B

Cấu trúc A + t + B được sử dụng 3/743 lượt, chiếm 0.4%. Đôi khi trong

kiểu cấu trúc này ý nghĩa so sánh không được thể hiện rõ. Nó có thể khiến người

nghe, người đọc hiểu nội dung của câu theo hướng miêu tả đặc điểm của sự vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chứ không phải so sánh để tìm ra nét tương đồng giữa các đối tượng.

f. Cấu trúc A1 + A2 + t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2

Ví dụ 15:

Non sông cẩm tú tươi như mùa xuân, xinh như tranh vẽ. [35, tr.433].

A1 A2 t1 tss1 B1 t2 tss2 B2

Ví dụ 15:

Anh Trắm, anh Chuối to bằng cột nhà, lao nhanh như máy

A1 A2 t1 tss1 B1 t2 tss2

bay bổ nhào [36, tr.84].

B2

Kiểu cấu trúc A1 + A2 + t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2, được sử dụng

2/743 lượt, chiếm 0.3%.

g. Cấu trúc: t+ tss1 + B1 + t2 + B2 + t3 + B3

Ví dụ 16:

Nhưng dốt như mèo, như chó, như bò đã tai tiếng, không có trường dạy

t tss1 B1 tss2 B2 tss3 B3

mèo nào [35, tr.293].

Cấu trúc t+ tss1 + B1 + t2 + B2 + t3 + B3, được sử dụng 1/743 lượt chiếm

0.1%. Đây là kiểu cấu trúc so sánh vắng cái được so sánh (A bị ẩn) giúp làm nổi

bật sắc thái tiêu cực của cái được so sánh.

h. Cấu trúc A + B; (đây là kiểu cấu trúc vắng t và tss)

Ví dụ 17:

Tôi còn nhớ như in khuôn mặt trăng tròn, con mắt tinh anh và cử chỉ nhanh

A B

thoăn thoắt của A Dính. [36, tr.324].

Kiểu so sánh A + B được sử dụng 1/743 lượt, chiếm 0.1%.Là kiểu cấu trúc

so sánh vắng thành tố phương diện so sánh và từ ngữ so sánh chỉ quan hệ, chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

còn lại thành tố được so sánh (A) và thánh tố so sánh (B), được đặt dưới hình

thức đối chọi. Chính vì vậy, sự liên kết giữa chúng không được hiển ngôn mà

người đọc phải căn cứ vào khả năng liên tưởng của mình để hiểu phát ngôn. Cách

so sánh này khiến người đọc phải tìm ra những đặc tính của A, tức là chọn ra đặc

tính chung nhất của hai đối tượng. Không những thế người đọc còn phải suy

ngẫm để xác định quan hệ giữa A và B là quan hệ tương tự, quan hệ ngang bằng

hay quan hệ hơn kém.

i. Cấu trúc A + t + (tss1 + B1) + (tss2 + B2)

Ví dụ 19:

Người loắt choắt, bé chưa bằng gi cam, mà lại bé hơn cả chim sẻ. [38, tr.42].

A t tss B1 t tss B2

Cấu trúc A + t + (tss1 + B1) + (tss2 + B2) được sử dụng 1/743 lượt, chiếm

0.1%. Tương tự như cấu trúc A + (tss1 + B1) + (tss2 + B2)… Cấu trúc này là

cách so sánh một sự vật hiện tượng với nhiều sự vật hiện tượng. Nếu cấu trúc A

+ (tss1 + B1) + (tss2 + B2) vắng cơ sở so sánh thì trong cấu trúc A + t + (tss1 +

B1) + (tss2 + B2), tác giả lại đưa ra một thuộc tính được coi là chung của cả yếu

tố được so sánh và các yếu tố so sánh.

k. Cấu trúc A1 + A2 + t + tss + B

Ví dụ 20:

Những sườn cỏ mượt, cỏ ngọt rộng bát ngát như trời xanh. [36, tr.258].

A1 A2 t tss B

Cấu trúc A1 + A2 + t + tss + B được sử dụng 1/743 lượt, chiếm 0.1%. Trong

cấu trúc này, tác giả đã đưa ra hai hay nhiều yếu tố được so sánh để so sánh với một

sự vật hiện tượng khác. Ở đây, tác giả đưa ra những liên tưởng đoán định những

thuộc tính chung của các yếu tố được so sánh với yếu tố so sánh.

l. Cấu trúc A + (t1 + tss1+ B1) + (t2 + tss2 + B2)

Ví dụ 21:

Song cậu cả hôi như cú, tanh như cá. [35, tr.421].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

A t1 tss1 B1 t2 tss2 B2

Kiểu cấu trúc A + (t1 + tss1+ B1) + (t2 + tss2 + B2), được sử dụng1/743

lượt, chiếm 0.1%. Đây là kiểu cấu trúc so sánh nói về thuộc tính chung của cái

được so sánh.

m. Cấu trúc so sánh: t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2

Ví dụ 22:

Tài ba như bác, võ nghệ như bác thiết tưởng là độc nhất vô nhị rồi.

t1 tss1 B1 t2 tss2 B2

[35, tr.424]

Kiểu cấu trúc so sánh t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2 chiếm 1/743 lượt,

chiếm 0.1%.

n. Cấu trúc: A + t1 + tss1 + t2 + tss2 + B1

Ví dụ 25:

Người ta bảo ông Hổ khôn nhất, khỏe nhất rừng mà, sao ông Hổ lại dại thế.

A t1 tss1 t2 tss2 B

[35, tr.263].

Kiểu so sánh A + t1 + tss1 + t2 + tss2 + B1 được sử dụng 1/743 lượt,

chiếm 0.1% tổng số các kiểu cấu trúc so sánh. Dưới đây là bảng số lần xuất

hiện của các kiểu cấu trúc so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô

Hoài.

Từ bảng trên có thể rút ra một vài nhận xét:

Các kiểu cấu trúc so sánh Tô Hoài được Tô Hoài sử dụng rất phong phú

và đa dạng. Tô Hoài đã sử dụng 15 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu cấu trúc

so sánh ở dạng đầy đủ A + t + tss + B (có đầy đủ cả bốn thành tố) được sử dụng

nhiều nhất. Các kiểu cấu trúc còn lại được sử dụng ít hơn.Có những kiểu cấu trúc

chỉ được sử dụng một đến hai lần nhưng cũng góp phần xây dụng thành công hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thống nhân vật của Tô Hoài.

Bảng 2.1. Các kiểu cấu trúc so sánh

STT Kiểu cấu trúc so sánh Số lượt Tỉ lệ %

530 71,3% 1 A + t + tss + B

129 17,4% 2 A + tss + B

3 50 6.7% t+tss+B

4 17 2.3% tss +B

4 0.5% 5 A + tss+t

3 0.4% 6 A + t+B

2 0.3% 7 A1 + A2 + t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2

8 1 0.1% t + tss1 + B1 + t2 + B2 + t3 + B3

1 0.1% 9 A + B

1 0.1% 10 A+ t+(tss1+B1)+(tss2+B2)

1 0.1% 11 A1+A2+t+tss+B

1 0.1% 12 A+(t1+tss1+B1)+(t2+tss2+B2)

13 1 0.1% t1 + tss1 + B1 + t2 + tss2 + B2

1 0.1% 14 A + t1 + tss1 + t2 + tss2 + B

1 0.1% 15 A + (tss1 + B1) + (tss2 + B2) +(tss3+B3)

743 100 Tổng

2.1.3. Đặc điểm ngữ pháp của các thành tố trong cấu trúc so sánh

2.1.3.1. Đặc điểm của thành tố A

Yếu tố được so sánh là các từ bao gồm:

- Danh từ (chân núi, dòng suối, đôi mắt…)

Ví dụ 26: Chân núi như những tảng rễ bành khổng lồ; tỏa ra ba nước lớn

nhất trên thế giới: Liên Bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc [36, tr.187].

Ví dụ 27: Ka Đâu ra suối, dòng suối như chảy ngược [36, tr.474].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Yếu tố được so sánh là danh từ được sử dụng 198/674 lượt chiếm 29.4%.

- Động từ (lao nhanh, đi ngủ, cháy…)

Ví dụ 28:Anh Trắm, anh Chuối to bằng cột nhà, lao nhanh như máy bay

bổ nhào; thế mà cũng có khi vô ý vào gần lão Trê; thình lình bị lão Trê húc; phải

bật ra. [36, tr.84]

Ví dụ 29: Cháy như nến [36, tr.47].

Yếu tố được so sánh là động từ được sử dụng 56/674lượt chiếm 8.3%. Đó

là những động từ chỉ hoạt động của con người hay của sự vật.

- Tính từ (vui, im lặng, nhẹ…)

Ví dụ 30: Đàn cá bơi len lỏi qua đấy; vui như người ta chen bóng cây; cứ

nhự nhàng đi mãi [36, tr.26].

Ví dụ 31: Im lặng như gốc mít; gốc trám; gốc nghến; gốc vối [36, tr 359].

Ví dụ 32: Nhẹ như một tiếng lá rơi; và cũng lẩn ngay vào lá; không động

tĩnh gì hết. [38, tr.42].

Yếu tố được so sánh là tính từ được sử dụng 18/674 lượt chiếm 62.7% chủ

yếu là những từ chỉ trạng thái cảm xúc của sự vật.

* Yếu tố được so sánh là các đoản ngữ (cụm từ):

- Danh ngữ (nhiều thứ tròn, bọn nhà giàu, những tiếng khô và giòn…)

Ví dụ 33: Nhiều thứ tròn như mặt trăng [36, tr.49].

Yếu tố được so sánh là danh ngữ được sử dụng 256/674 lượt chiếm 38%

chủ yếu là những danh ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng cụ thể hoặc trừu tượng.

- Động ngữ (nói dối, ngáy khò khò, nghe ồ ồ…)

Ví dụ 34: Nói dối như Cuội! [36, tr.150]

Ví dụ 35: Ngáy khò khò như thợ xẻ kéo gỗ [35, tr.211].

Yếu tố được so sánh là động ngữ dược sử dụng 34/674 lượt chiếm 5.0%

chủ yếu là những động ngữ chỉ hoạt động của con người hay của sự vật.

- Cụm chủ vị (ô mạng nhện bám mưa bụi, Tiếng súng nổ păng păng, Bóng

Chăm Sa chùm xuống…)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ví dụ 36: Tiếng súng nổ păng păng như đuổi trên đầu [36, tr.92].

Ví dụ 37: Bóng Chăm Sa chùm xuống như làn mây rợp trên đôi vai cháy

nắng của Ka Đâu [36, tr.478].

Yếu tố được so sánh là cụm chủ vị được sử dụng 112/674 lượt chiếm 5.0%,

thường được sử dụng miêu tả sự vật hay hoạt động của con người. Dưới đây là

bảng số lần xuất hiện của các dạng yếu tố được so sánh (Vế A)

Bảng 2.2. Các dạng của yếu tố được so sánh

Số lượng Số lượt Dạng

Danh từ 198 29.4%

Từ Động từ 56 8.3%

Tính từ 18 2.7%

Danh ngữ 256 38%

Đoản ngữ Cụm chủ vị (C - V) 112 16.6%

Động ngữ 34 5.0%

674 100% Tổng

Từ bảng trên có thể đưa ra một số nhận xét sau:

Yếu tố được so sánh trong các kiểu cấu trúc so sánh gồm (danh từ, động

từ, tính từ) và các đoản ngữ (danh ngữ, cụm chủ vị, động ngữ).Trong đó danh từ

và danh ngữ được sử dụng nhiều nhất.Động từ và tính từ được sử dụng ít hơn.

Cụm chủ vị và động ngữ cũng chiếm tỉ nên nhỏ bởi vì các yếu tố so sánh thường

là những sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít trường hợp là tính

chất hoặc hành động.

2.1.3.2. Đặc điểm của thành tố B

* Yếu tố so sánh là các từ:

- Danh từ (hạt đỗ, mặt gương, thuyền, tên…)

Ví dụ 38: Đốm lửa chỉ đỏ và xanh như hạt đô [35, tr.104]

Ví dụ 39: Bò lại không quên khen thêm rằng: Dao bơi nhanh hơn cả thuyền;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhẹ như tên mà không phải tầm phóng hai chân lên mặt nước [35, tr.16].

Yếu tố so sánh là danh từ được sử dụng 237/739 lượt chiếm 32%. Chủ yếu

là các danh từ chỉ sự vật.

- Động từ (chết, cắt, bay…)

Ví dụ 40: Đêm đến, nó ngủ say như chết [35, tr.162].

Ví dụ 41: Nhanh như cắt, Tễu nhảy tót lên cổng, thò đầu vào cái thòng

lọng, và buông thõng hai chân xuống [35, tr.214].

Yếu tố so sánh là động từ được sử dụng 48/739 lượt, chiếm 6.5%.

- Tính từ (hư không, câm, e thẹn, ngượng ngùng,…)

Ví dụ 42: Trâu im lặng như câm [36, tr.151].

Ví dụ 43: Những chị Cào Cào trong làng ra, mỹ miều áo đỏ, áo xanh mớ

ba mớ bảy, bước từng bước chân chầm chậm, khoan thai; khuôn mặt trái xoan

như e thẹn; như làm dáng; như ngượng ngùng [38, tr.212].

Yếu tố so sánh là tính từ được sử dụng 16/739lượt, chiếm 2.2% chủ yếu là

những từ chỉ tính chất, trạng thái của đối tượng.

* Yếu tố so sánh là các đoản ngữ (cụm từ)

- Danh ngữ (dải lá cờ nheo, những cẳng con nhện)

Ví dụ 44: Nó nằm ngoẹo, chân và tay co quắp như những cẳng con nhện

[38, tr.82].

Yếu tố so sánh là danh ngữ chiếm 247/739 lượt, chiếm 33,4%, chủ yếu là

những cụm từ bổ sung ý nghĩa cho yếu tố được so sánh.

- Động ngữ (ngã sắp khuỵu xuống, nhai kẹo mạch nha, rong chơi đâu..)

Ví dụ 45: Nó đọc nhai chữ; như nhai kẹo mạch nha [35, tr.206].

Ví dụ 46: Phải, việc sinh nở có nhẹ nhàng như rong chơi đâu [36, tr.38].

Yếu tố so sánh là động ngữ được sử dụng 39/739 lượt, chiếm 5.3% chủ

yếu để bổ sung ý nghĩa cho cái được so sánh.

- Cụm chủ vị (lính đi tập, tài trai đáng mặt đội trời đạp đất ở đời, cặp môi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

son hồng của cô gái 18 đương thì)

Ví dụ 47: Chân nó bước đều dẻo như lính đi tập [35, tr.340].

Yếu tố so sánh là cụm chủ vị được sử dụng 152/739 lượt chiếm 20.6% là

những cụm có đầy đủ hai thành phần chính: chủ ngữ và vị ngữ. Dưới đây là bảng

số lần xuất hiện các dạng của yếu tố so sánh (Vế B).

Bảng 2.3. Các dạng của yếu tố so sánh

Số lượng Số lượt Dạng

Danh từ 23A7 32%

Động từ 48 6.5% Từ Tính từ 16 2.2%

Danh ngữ 247 33.4%

Đoản ngữ Cụm chủ vị (C - V) 152 20.6%

Động ngữ 39 5.3%

Tổng 739 100%

Từ bảng trên có thể đưa ra một số nhận xét:

Yếu tố so sánh trong các kiểu cấu trúc so sánh gồm (danh từ, động từ, tính

từ), các đoản ngữ (danh ngữ, cụm chủ vị, động ngữ). Trong đó danh từ được sử

dụng nhiều nhất. Động từ và tính từ được sử dụng ít hơn. Trong các đoản ngữ thì

các danh ngữ được sử dụng với số liệu nhiều nhất, cụm chủ vị được sử dụng ít

hơn. Các động ngữ được sử dụng ít nhất. Bởi vì các yếu tố so sánh thường là

những sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít trường hợp là tính chất

hoặc hành động.

2.2. Biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

xét về mặt ngữ nghĩa

2.2.1. Ngữ nghĩa khái quát của biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm của Tô

Hoài

Mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện được sự đồng nhất hay khác

biệt về cả thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Căn cứ vào ý nghĩa của từ

ngữ so sánh (tss) và kết quả so sánh, có thể chia cấu trúc so sánh thành hai kiểu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đó là: so sánh đồng nhất và so sánh dị biệt.

2.2.1.1. So sánh đồng nhất

So sánh đồng nhất là “kiểu so sánh giữa những sự vật, hiện tượng có các đặc

điểm, thuộc tính giống nhau” [49, tr.90]. Kiểu so sánh này bao gồm hai loại nhỏ,

đó là so sánh tương tự và so sánh ngang bằng. Ta dễ dàng nhận diện được hai kiểu

so sánh này nhờ vào những từ ngữ so sánh được dùng trong cấu trúc:

* So sánh tương tự:“là kiểu so sánh thường có những từ so sánh như, như

là, như thể, tỉ như, giống như, tựa như, tựa, kém gì, hơn gì, khác già…mang tính

giả định” [49, tr.90].

Ví dụ 48: Hai mắt mèo tròn và quắc như đôi hòn bi ve để dưới ánh mặt trời.

[37, tr.24].

Ở đây, vế so sánh và vế được so sánh là hai đối tượng khác nhau, cụ thể

đó là:hai mắt mèo và đôi hòn bi ve. Hai đối tượng này có điểm tương đồng: tròn

và quắc khi có ánh mặt trời chiếu vào.

Ví dụ 49: Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như

hai lưỡi liềm máy làm việc [37, tr.169].

* So sánh ngang bằng: “là loại so sánh thường có những từ so sánh, như

bằng, là… mang tính khẳng định cao” [49, tr.90]. Cũng tùy thuộc vào từ so sánh

chuyên dụng trong cấu trúc so sánh, loại so sánh ngang bằng lại có thể chia thành

các loại nhỏ hơn. Ví dụ: so sánh ngang bằng có chứa từ bằng, so sánh ngang

bằng có chứa từ là…

Ví dụ 50: Ông trăng to bằng cái mẹt bánh đúc và vành vạnh trên nền trời

trong [35, tr.269].

Ví dụ 51: Thằng biệt kích là thằng trộm cướp, nó chúa hay nhìn trộm [38,

tr.129].

2.2.1.2. So sánh dị biệt

So sánh dị biệt “là kiểu so sánh giữa các sự vật hiện tượng mang những

đặc điểm tính chất khác nhau” [49, tr.90]. So sánh dị biệt có thể chia thành hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tiểu loại là so sánh dị biệt hơn và so sánh dị biệt kém.

* So sánh dị biệt hơn“là kiểu so sánh giữa các sự vật hiện tượng mang

những đặc điểm, tính chất khác nhau, được biểu hiện bằng các từ ngữ so

sánh như nhất, nhị, hơn, còn hơn” [49, tr.90]. So sánh dị biệt hơn lại bao

gồm hai kiểu loại nhỏ, đó là so sánh dị biệt hơn tuyệt đối và so sánh dị biệt

hơn tương đối

- So sánh dị biệt hơn tuyệt đối“là kiểu so sánh thường được biểu hiện bằng

những từ so sánh như: nhất (A), nhì (B), tam, tứ…, thứ nhất (A), thứ nhì (B)…”

[49, tr.90]. Thông thường trong dạng kết cấu này, A và B được xếp theo thứ tự

phân hạng đánh giá.

Ví dụ 52: Nhất cận thị, nhị cận giang [49, tr.90].

Trong ví dụ trên, các từ so sánh là nhất, nhị. Với lối so sánh hơn tuyệt đối

này, cấu trúc so sánh đã phản ánh phần nào quan niệm, văn hóa dân gian về vai

trò, tầm quan trọng của các đối tượng được nói đến bằng cách sắp xếp chúng

theo thứ tự: nhất, nhị. Với kiểu so sánh dị biệt hơn tuyệt đối này, không có câu

nào được sử dụng trong tác phẩm.

- So sánh hơn tương đối “là kiểu so sánh thường được biểu hiện bằng từ

chuyên dụng, như: hơn, còn hơn và các phương tiện ngôn ngữ lâm thời khác”

[49, tr.91].

Ví dụ 53: Ta lên đường một mình mà sau này nổi tiếng ắt hẳn còn rạng rỡ

hơn ông Dế Mèn [35, tr.431].

Ví dụ 54: Bốn chiếc trứng nhỉnh hơn bốn củ lạc lớn, màu trắng đục có lốm

đốm nâu, nằm đều đặn, gọn thon lỏn trong lòng tổ[37, tr.31].

* So sánh dị biệt kém “là kiểu so sánh thường dùng những từ chuyên dụng:

thua kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không tày” [49, tr.90].

Ví dụ 55: Cái gan của bọn này chưa to bằng gan con muỗi [35, tr.316].

Ví dụ 56: Hai cái bóng bé quá, chụm lại với nhau chưa bằng được một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngón chân cái của người lớn ta [37, tr.271].

Dưới đây là bẳng số lần xuất hiện của các từ ngữ so sánh trong các kiểu

so sánh:

Bảng 2.4. Các từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh

Số Tỉ Các kiểu cấu cấu trúc so sánh lượt lệ %

So sánh tương tự 587 79.7 So sánh đồng nhất So sánh ngang bằng 105 14.3

So sánh dị biệt hơn tuyệt đối 0 0 So sánh dị

biệt hơn So sánh dị biệt So sánh dị biệt hơn tương đối 28 3.8

So sánh dị biệt kém 2.2 16

Tổng 736 100

Từ bảng trên có thể đưa ra một số nhận xét

Căn cứ vào ý nghĩa của từ so sánh (tss), có thể chia cấu trúc so sánh trong

tiếng Việt thành hai kiểu nhỏ là so sánh đồng nhất và so sánh dị biệt. So sánh

đồng nhất lại bao gồm so sánh tương tự và so sánh ngang bằng. So sánh dị biệt

cũng bao gồm so sánh dị biệt hơn và so sánh dị biệt kém. Mỗi tiểu loại cấu trúc

so sánh này có những từ ngữ so sánh chuyên dụng khác nhau.

2.2.1.3. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

Các từ biểu thị quan hệ so sánh như: như, tựa như, y như, bằng, là, hơn,

kém, không giống, nhất, giống như cũng như. Đây là những từ quan trọng của

hai vế so sánh: Cái được so sánh và cái so sánh giúp cho hai vế này tìm ra được

nét chung. Dưới đây là bảng tần số xuất hiện của các từ biểu thị quan hệ so sánh

trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài.

Từ bảng trên có thể đưa ra một số nhận xét:

Trong các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh trên. Từ biểu thị quan hệ so sánh

như được sử dụng nhiều nhất. Từ bằng, là được sử dụng ít hơn, từ hơn, kém sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dụng không nhiều. Những từ ngữ còn lại được sử dụng rất ít tựa như, y như, giống

như, cũng như. Trong đó từ không giống và từ nhất được sử dụng ít nhất. Các từ

ngữ này góp phần làm cho các kiểu cấu trúc so sánh trở nên đa dạng, phong phú

hơn. Đồng thời thể hiện được hết dụng ý nghệ thuật của tác giả.

Bảng 2.5. Tần xuất các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

STT Từ ngữ so sánh Số lượt Tỉ lệ

Như 1 564 76.1

Tựa như 2 9 1.2

Y như 3 4 0.5

Bằng 4 40 5.4

Là 5 65 8.8

Hơn 6 28 3.8

Kém 7 16 2.2

8 Không giống 1 0.1

9 Nhất 4 0.5

10 Giống như 4 0.5

11 Cũng như 6 0.8

Tổng 741 100

2.2.2. Các kiểu cấu trúc so sánh được phân loại theo ngữ nghĩa của đối tượng

được so sánh (A) và đối tượng so sánh (B)

Căn cứ vào nội dung ngữ nghĩa của (A) - đối tượng được so sánh và nội

dung ngữ nghĩa của B.

- Đối tượng so sánh, có thể chia cấu trúc của so sánh trong tiếng Việt thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các tiểu loại:

(1) Cấu trúc so sánh có A chỉ người, B chỉ sự vật

Đây là kiểu cấu trúc so sánh mà nghĩa của vế được so sánh thuộc trường

nghĩa chỉ người và nghĩa của yếu tố so sánh thuộc trường nghĩa chỉ sự vật.

Ví dụ 57: Mặt vua đen như sắt, chăm chăm nhìn xuống cái cũi, tay cầm

chiếc dùi khiêng [37, tr.484].

Trong ví dụ trên, xét về nội dung ý nghĩa của các vế, có thể thấy đối tượng

được so sánh (A) (mặt vua) là yếu tố thuộc trường nghĩa chỉ người. Còn đối

tượng so sánh (B) (sắt) thuộc trường nghĩa chỉ sự vât.

Cấu trúc so sánh có A chỉ người, B chỉ sự vật được sử dụng 127/672 lượt,

chiếm 18.9%. Yếu tố được so sánh bao gồm những trường nghĩa nhỏ, như trường

nghĩa chỉ bộ phận của con người (mặt, mũi, chân, tay, da, mắt…); các yếu tố

thuộc trường nghĩa quan hệ bạn bè, gia đình (bạn tôi, vợ, chồng, mẹ, anh, em…);

các yếu tố thuộc trường nghĩa chỉ giới tính (đàn ông, đàn bà…)…

(2) Cấu trúc so sánh chỉ có A chỉ sự vật, B chỉ người

Đây là kiểu so sánh có tương quan ngữ nghĩa giữa yếu tố được so sánh là

sự vật, hiện tượng thuộc thế giới tự nhiên với yếu tố so sánh nói về người.

Ví dụ 58: Con Đực thật giống hệt một đứa trẻ bướng bỉnh và anh hùng

rơm [36, tr.66].

Trong ví dụ trên, đối tượng được so sánh là (A) con Đực; còn đối tượng

so sánh là người (B) một đứa trẻ. Con Đực cũng giống như tính cách của một

đứa trẻ mới lớn: bưởng bỉnh và ngang ngược.

Kiểu cấu trúc so sánh chỉ có A chỉ sự vật, B chỉ người được sử dụng

68/672 lượt, chiếm 10.1%.Việc so sánh giữa các sự vật, hiện tượng với con người

hoặc các hoạt động của con người khiến cho đối tượng được so sánh trở nên sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

động hơn và giàu sắc thái biểu cảm hơn.

(3) Cấu trúc so sánh có (A) chỉ sự vật, (B) cũng chỉ sự vật

Ví dụ 59: Sương buổi sáng như một chuỗi hoa long lanh chen trắng chen

hồng với hoa đào [36, tr.307].

Ở ví dụ trên, Vế (A) - cái được so sánh là sự vật (sương buổi sáng), vế (B)

- cái so sánh cũng là sự vật (chuỗi hoa). Sự tương đồng của đối tượng được so

sánh và đối tượng so sánh ở đây là đẹp long lanh. Hai đặc tính này đã được người

viết lấy làm căn cứ để xây dựng cấu trúc so sánh.

Kiểu Cấu trúc so sánh có (A) chỉ sự vật, (B) cũng chỉ sự vật được sử dụng

405/ 672 lượt, chiếm 60.3%. Đây là kiểu cấu trúc so sánh được sử dụng nhiều

nhất trong đó đối tượng được so sánh và đối tượng so sánh đa dạng từ cây cối

(cây chuối), hoa cỏ (đóa hoa hồng nở, hoa thuốc phiện), cho đến những âm thanh

(tiếng gà gáy, tiếng nhai ngoàm ngoạp…) làm cho các sự vật trở nên sống động

hơn.

(4) Cấu trúc so sánh (A) và(B) đều chỉ người

Đây là kiểu cấu trúc so sánh có cái được so sánh (A) và cái so sánh (B)

đều thuộc trường nghĩa chỉ người (chúng có thể nói về hành động, tính cách,

phẩm chất hay chỉ bộ phận của cơ thể người…)

Ví dụ 37: Anh Ngư Mạn mặc cái áo rách nhem nhuốc, như người đi phu

về [36, tr.453].

Kiểu cấu trúc so sánh (A) và (B) đều chỉ người này được sử dụng 70/672

lượt, chiếm 10.5%.

(5) Cấu trúc so sánh (A) là cái cụ thể, (B) là cái trừu tượng.

(6) Cấu trúc so sánh (A) là cái trừu tượng, (B) là cái cụ thể

Ví dụ 62: Bởi vì nó biết công mẹ nặng như núi, bổn phận làm con phải

biết ăn ở làm sao cho Người được vui lòng [35, tr.165].

Ở ví dụ trên, cái được so sánh (A) (công mẹ) là cái trừu tượng; còn cái so

sánh (B) (núi) là cái cụ thể

Kiểu cấu trúc so sánh (A) là cái trừu tượng, (B) là cái cụ thể này được sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dụng 1/672 chiếm 0.1%.

Dưới đây là bảng thể hiện số lần xuất hiện của 6 kiểu so sánh được phân

loại dựa vào ý nghĩa của vế A và vế B

Bảng 2.6. Sáu kiểu so sánh được phân loại dựa vào ý nghĩa của A và B

STT Kiểu so sánh

Số lượt 127 Tỉ lệ % 18.9 1 Cấu trúc so sánh có A chỉ người-B chỉ sự vật

68 10.1 2 Cấu trúc so sánh chỉ có A chỉ sự vật - B chỉ người

3 Cấu trúc so sánh có (A) chỉ sự vật - (B) cũng chỉ sự vật 405 60.3

70 10.5 4 Cấu trúc so sánh (A) và(B) đều chỉ người

1 0.1 5 Cấu trúc so sánh (A) là cái cụ thể - (B) là cái trừu tượng

1 0.1 6 Cấu trúc so sánh (A) là cái trừu tượng - (B) là cái cụ thể

672 100 Tổng

Từ bảng trên có thể rút ra một vài nhận xét:

Trong 6 kiểu cấu trúc so sánh trên kiểu cấu trúc so sánh có vế được so

sánh và vế so sánh chỉ sự vật được sử dụng nhiều nhất. Kiểu cấu trúc so sánh

có vế được so sánh chỉ người và vế so sánh chỉ vật được sử dụng ít hơn. Kiểu

cấu trúc so sánh có vế được so sánh chỉ người và vế so sánh chỉ sự vật và kiểu

so sánh có vế được so sánh và vế so sánh đều chỉ người được sử dụng tương

đương nhau. Kiểu cấu trúc so sánh có vế được so sánh là cái cụ thể, vế so sánh

là trừu tượng và vế được so sánh là cái trừu tượng, vế so sánh là cụ thể được sử

dụng ít nhất.

2.3. Vai trò của biện pháp tu từ so sánh trong tác phẩm viết cho thiếu nhi

của Tô Hoài

2.3.1. Bộc lộ đặc điểm của nhân vật

Việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh góp phần làm cho các nhân vật của

tác giả hiện lên một cách sinh động, chân thực, gần gũi với con người. Từ những

con vật nhỏ bé: Dế Mèn, dế Choắt, những gã chuột…cho đến những con vật lớn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hơn: con hổ, con voi, cá sấu…Tất cả hiện lên một cách rất lạ lùng. Những con

mèo mướp được so sánh với thầy giáo để làm nổi bật lên vẻ lừ lừ và nghiêm nghị

của chú mèo: “Mèo lừ lừ và nghiêm nghị tựa một thày giáo nhà dòng, trên mình

có khoác bộ áo thâm” (O chuột). Mụ mẹ ngan được so sánh với một người đàn

bà đụn và hiền: “Mụ mẹ ngan, lờ đờ như một người đàn bà đụn và hiền, lúc nào

cũng như mải nghĩ ngợi một điều gì ở tận đâu đâu” (Tuổi trẻ). So sánh để làm

nổi bật cái tính cách chung là thích yêu của loài gà với con người lúc tuổi thanh

xuân: “Nó có cái tật mê gái, như cái tính chung của loài gà - cả của loài người

- khi mới lớn lên” (Tuổi trẻ).Với sự quan sát tinh tế vẽ lên hình dáng của một gã

chuột bạch: “Gã chỉ bé bằng một quả nhót và cũng mũm mĩm như thế” (Truyện

gã chuột bạch).

Trong Những chuyện xa lạ,tác giả so sánh mắt của Sơn Dương với

đôi sao hôm đẹp, sáng long lanh, khiến cho chú Dê Bé khát khao và tìm mọi

cách để được giống Sơn Dương: “lừ lừ biếc xanh như đôi sao hôm cùng mọc

một lúc”.

Khi miêu tả các nhân vật của mình, tác giả có sự so sánh rất linh hoạt khiến

cho những nhân vật mang những đặc tính giống như con người làm nổi bật ý

nghĩa sâu xa cho câu chuyện. Trong Bướm rồng bướm ma Tô Hoài miêu tả 2

vẻ đẹp trái ngược nhau. Chú Bướm Rồng có vẻ đẹp thật rực rỡ: “to bằng bông

hồng nở. Thân mình và cánh đốm đỏ, nhung đen, trắng lụa, vàng hoa hiên, cả

người rực rỡ múa lên”. Còn chú Bướm ma thì lại xấu xí: “to bằng lá đa, cánh

màu mỡ, lẫn với màu đất ướt nước mưa óng ánh” Một con bướm đẹp rực rỡ

nhưng lạnh lùng, thờ ơ lại được nhân vật tôi rất quý. Còn con Bướm ma tuy xấu

xí nhưng lại rất tình cảm. Hàng ngày, nhân vật tôi chờ đợi chú Bướm rồng đến

chơi cùng. Những chờ mãi không thấy,chú Bướm ma đã đến động viên nhân vật

tôi. Qua đó, muốn người đọc nhận ra được một triết lý của cuộc sống: Không

nên đánh giá sự vật, sự việc qua dáng vẻ bề ngoài,mà nên yêu quý và trân trọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những ai yêu quý mình.

Tác giả so sánh cái dáng đi của gã gà trọi: “Gã bước đi, cái cần cổ gục

xuống, hai vai cánh so lên, khệnh khạng, xiêu vẹo như một lão kiết đã nghiện

nặng mà lại còn thiếu cả sái hút”(Một cuộc bể dâu). Dưới ngòi bút của Tô Hoài,

những con vật ấy cũng có tình cảm cá tính, và cả tâm trạng, số phận nữa. Thông

qua thế giới loài vật cuộc sống và số phận của những người nông dân, thợ thủ

công hiện lên rõ nét.

Vai trò của biện pháp tu từ so sánh rất quan trọng trong việc bộc lộ đặc điểm

của nhân vật. Qua hình tượng con chim gi trong Đôi gi đá người đọc liên tưởng tới

hình ảnh người nông dân cần cù, lam lũ: “Ở con chim gi, có hình bóng một thứ người

cù rù nhưng nhẫn nại, lam lũ và luôn luôn chân lấm tay bùn - thứ người cần cù lao

động”. Dấu gạch ngang ở đây mang ý nghĩa so sánh giúp bộc lộ đặc điểm của con

chim gi: kiên trì, bền bỉ giống như người dân lao động vậy. Tác giả Tô Hoài so sánh

cuộc sống của đôi chim dưới tán lá xanh với cuộc đời của những người dân Nghiã

Đô: “Cuộc đời trôi chảy âm thầm dưới khu lá xanh, y như cuộc đời của những người

Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khó trên cái khung củi, trong bốn lũy tre làng”, ngày

ngày làm việc, khi gặp sóng gió thì chia ly tan tác, khổ đau, gợi lên cảm giác bi

thương, xót xa. Như vậy, số phận của những con chim kia cũng đáng thương như số

phận của con người trong hoàn cảnh của chế độ cũ.

Nổi bật nhất trong tập truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài là truyện Dế

Mèn phiêu lưu kí. Đây là một thiên đồng thoại xuất sắc viết cho thiếu nhi. Tác

giả đối lập giữa ngoại hình của Dế Mèn và Dế Choắt. Dế Mèn có vẻ đẹp khỏe

khoắn, cường tráng: “Hai cái răng đen nháng lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp

như hai lưỡi liềm máy làm việc”. còn anh chàng Dế Choắt: “người gầy gò và dài

lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện”. Chính thói hung hăng, hống hách của

Dế Mèn đã gây ra cái chết cho Dế Choắt. Cuối cùng Dế Mèn cũng nhận ra bài

học đường đời đầu tiên cho mình: Ở đời mà giữ thói hung hăng hống hách sớm

muộn gì cũng rước họa vào thân. Đây là ý nghĩa sâu xa của câu chuyện. Vì truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đồng thoại không có ý nghĩa trực tiếp mà nó mang ý nghĩa gián tiếp. Qua hình

tượng Dế Mèn nhà văn muốn gửi đến bạn đọc khát vọng cháy bỏng của lớp người

trẻ tuổi ước mơ được sống một cuộc sống tự do phóng khoáng, ước mơ được

khám phá những vùng đất lạ. Lý tưởng sống về một thế giới đại đồng hòa bình

và yên vui.

2.3.2. Thể hiện văn hóa của người Việt

Truyền thống yêu nước, ca ngợi con người lao động là một nét văn hóa rất

riêng của người Việt. Và biện pháp tu từ so sánh góp quan trọng trong việc thể hiện

giá trị văn hóa đó. Trong Hoa Sơn (1948), Vừ A Dính (1962), Kim Đồng (1973),

Tô Hoài đã ghi lại một cách chân thực những nhân vật có thực và những sự kiện có

thực trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi miêu tả quân Pháp tác giả

đã so sánh chúng với nước lũ và mối đùn: “Cái thằng Pháp nó như giặc lũ”, “nhưng

sao mỗi lần đánh chặn, Pháp chết, Pháp chạy, nhưng rồi ngày khác nó lại kéo qua,

đi đùn đùn như mối đùn”. Tức là tác giả đã so sánh đối lập tương quan lực lượng

giữa quân ta với quân Pháp. Quân Pháp với lực lượng đông và mạnh trong khi ta

lực lượng mỏng và ít. Nhưng cuối cùng với ý chí kiên cường và lòng yêu nước

chúng ta đã chiến thắng chúng. Sợi dây xuyên suốt trong ba tác phẩm này là giáo

dục các em về truyền thống yêu nước của dân tộc ta.

Những câu văn mang đậm chất của người miền núi: “Lát sau, vẫn trong

bóng tối và sương đêm mờ mờ, đột nhiên một đàn trâu từ trên dốc núi đùng đùng

lao xuống như cơn bão, như một trăm con ngựa cùng chạy ra một lúc”, “Tao

phải ở nhà một mình với con trâu, tao buồn lắm, từ giờ tao cũng chẳng muốn nói

như con trâu” (Hoa Sơn). Câu văn thể hiện tính cách, tâm hồn, vẻ chất phác thật

thà của người miền núi.Khi miêu tả A Dính tác giả viết: “A Dính cứ thoăn thoắt

như con dơi bay”, “A Dính leo lên người tôi, nhanh như con sóc trèo cây”, “A

Dính lại nhẹ như con sóc, leo theo người tôi”, “Cái gan của bọn này chưa to

bằng gan con muỗi” (Vừ A Dính). Tô Hoài đã dùng những mô típ so sánh truyền

thống để xây dựng hình tượng điển hình về lòng dũng cảm và tinh thần kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chiến chống giặc Pháp của nhân dân miền núi.

Nét văn hóa của người Việt Nam còn được thể hiện ở tiếng hát then. Tiếng

hát kể về con người cực khổ. Trang phục truyền thống của người dân miền núi

cũng rất đặc sắc: “Thanh Thủy mặc như cô gái gái lớn. Tuy cái áo dài thì cũ, đã

ngắn, nhưng chiếc thắt lưng mới, dấu chàm nhuộm còn xanh trên hai bàn tay,

đầu thắt lưng ngoắt như hai sừng bò vắt vẻo đằng sau” (Kim Đồng). Đó là trang

phục được “diện” vào ngày tết, lễ hội.Chợ tình từ bao đời nay đã trở thành món

ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào dân tộc vùng cao. Ở đây sẽ có những:

“Tiếng hát đằng xa, như nước mưa mới ở khe núi róc rách”, “Quần áo mới của

ai cũng thẫm hơn màu chàm núi”.

Người dân miền núi cũng rất coi trọng việc cúng bái. Khi trong gia đình

có người ốm thì việc đầu tiên họ nghĩ đến là tìm thầy cúng: “Chỉ có người tìm

thầy cúng cho người ốm giong đuốc đi, như đánh thức chó dậy, qua xóm nào

cũng loạn tiếng chó sủa theo” (Kim Đồng). Khi đi làm nhiệm vụ, Kim Đồng

không quên mang theo “bát gạo” và “áo cũ”: “Đi tìm then, tìm mo về cúng

cho người ốm phải đem theo cái áo của người ốm và bát gạo để nhà thầy thắp

hương bói quẻ”.

Nét ẩm thực cũng là một nét văn hóa khá đặc trưng của người Việt: “Tết

đến, nhà nào cũng làm bánh gai - trẻ con thích bánh gai, bánh gai ngọt hơn bánh

nếp”. Tô Hoài là một nhà văn miền xuôi nhưng lại rất am hiểu về nét văn hóa

của người miền núi. Đó là cái hay, cái tài của nhà văn.Thể hiện phong tục tập

quán là một thế mạnh của Tô Hoài. Ông góp phần vào việc giữ gìn và phát huy

truyền thống dân tộc.

2.3.3. Thể hiện cái tài sử dụng ngôn từ của tác giả

Tô Hoài đã sử dụng những chữ nghĩa thường ngày khi miêu tả các nhân

vật của mình, mang lại hiệu quả tạo hình cao: “Hai cái răng đen nhánh lúc nào

cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc” (Dế Mèn phiêu lưu

kí), “Và những ngón tay múp míp cứ kềnh ra như những cái chân cua càng”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

“Tôi bật dậy như cái lò xo nẩy” (Ghẻ đặc biệt).

Tô Hoài đã chắt lọc từ thực tế, từ văn học dân gian, từ tiếng nói của quần

chúng lao động. Nhà văn rất chịu khó nhặt nhạnh chữ nghĩa và ông đã cố gắng ghi

lại tất cả mọi thứ diễn ra xung quanh cuộc sống của mình. Cách so sánh của nhà

văn rất hay và đặc sắc: “Cái thằng Pháp nó như nước lũ”, “Nhưng sau mỗi lần

đánh chặn, Pháp chết, Pháp chạy, nhưng rồi ngày khác nó lại kéo qua, đi đùn đùn

như mỗi đùn”. Dưới ngòi bút của nhà văn Tô Hoài thì hạt mưa cũng trở nên sinh

động: “Những giọt mưa to lố nhố như có chân từ đằng xa lộp bộp chạy lại”. Những

cậu Rô đực khi gặp cơn mưa đầu mùa được tác giả miêu tả rất hay: “Những cậu

Rô đực cường tráng mình dài mốc thếch, suốt mùa đông ẩn náu trong bùn ao, bây

giờ chui ra khoan khoái đớp bóng nước mưa mới ấm áp rồi dựng vây lên như ta

trương cờ, tăng tả đánh ngạnh rạch ngược qua mặt bùn khô khô, nhanh như cóc

nhảy”

Ngôn ngữ đối thoại được Tô Hoài sử dụng rất nhiều. Có cuộc hội thoại chất

chứa nỗi buồn, có cuộc đối thoại là sự hài hước, vui tươi, dí dỏm, và sinh động.Đây

là cuộc đối thoại giữa anh Cai Vườn và hai chú ngỗng:

Cai Vườn quát:

- Những quái kia, chưa vào chuồng để ta đóng cửa, còn lẩn thẩn làm gì đó.

- Một ngỗng thở dài:

- Ông ơi! Chán lắm.

- Sao mà chán? Chỉ có việc ngày ăn đêm ngủ mà cũng kêu chán. Còn

người ta làm quần quật từ sớm đến tối sao không kêu chán.

- Ông ơi! Chúng tôi chán là chúng tôi chán cái thứ khác kia.

- Cái gì nói nghe.

- Bây giờ là mùa nực…

- Ừ, mùa nực…Mùa nực thì sao?

- Mùa nực thì oi lắm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Phải, mùa nực oi ả.

- Những bệnh thổ tả của loài người, những bênh dây của bọn thổ tả chúng

tôi thường phát sinh về mùa này vì phải ở những nơi lụp xụp, ẩm thấp…

- Phải, nói có vẻ hiểu biết lắm nhỉ. Sao nữa?

- Ông có trông cái chuồng mà chúng tôi ngủ không? Nó bằng cái lỗ mũi.

Nó thiếu ánh sáng, thiếu không khí và không có vệ sinh. Vậy mà những một đàn

gà, hai ông bà ngan to xù, và hai ngỗng chúng tôi chen nhau trong đó. Cái bệnh

dây tai ác sẽ đến chơi dễ dàng lắm. Ông ơi, chúng tôi chán đời lắm. Tối hôm nay

không ngủ trong chuồng đâu.

- Chúng tôi ngủ ngoài này. Vào trong ấy, bệnh tật sẽ giết chúng tôi. Mà ở

ngoài này quân cáo, quân cầy cũng lôi chúng tôi đi. Đằng nào cũng thế, chúng

tôi chết thôi.

- Thôi thôi các mi dài dòng. Vậy, ta hỏi thẳng, các mi muốn gì?

- Ông này đoán giỏi đấy. Chúng tôi muốn ở một cái chuồng khác, chuồng

riêng.

Qua cuộc đối thoại trên, người đọc có thể hình dung hai con ngỗng là

những kẻ rất khôn khéo, chúng đã đưa ra những lí do chính đáng, hợp lí và cuối

cùng ước nguyện của chúng đã thành hiện thực. Trong cuộc đối thoại của mình

nhân vật tôi thường xuất hiện, tạo nên sự hấp dẫn và linh hoạt trong mạch

truyện.Tô Hoài đã sử dụng những từ ngữ xưng hô rất linh hoạt trong các cuộc

hội thoại.Ban đầu, Dế Mèn xưng ta, gọi chú mày khi nói với Dế Choắt:

- Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo

thế này, ta nào chịu được .

Khi nhận ra sai lầm của mình thì Dế Mèn có sự thay đổi khi dùng từ ngữ

xưng hô: tôi- anh

- Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm!

Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi . Lúc này Dế Mèn vô

cùng hôi hận và đã coi Dế Choắt như một người bạn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khi trò chuyện với Dế Mèn, Dế Choắt đã nói “em” và xưng “anh”:

- Thưa anh, em cũng muốn khôn, nhưng khôn không được. Đụng đến việc

gì là em thở rồi, không còn hơi sức đâu mà đào bới nữa…

Cách xưng hô em - anh đó là cách xưng hô có phân biệt vị thế trên dưới

của một kẻ yếu thế và một kẻ kiêu căng.

Khi cái chết cận kề Dế Choắt lại thay đổi cách xưng hô: tôi - anh:

- Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt tôi

khuyên anh: Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm

muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy .

Dế Choắt đã khuyên nhủ Dế Mèn một cách chân thành. Như vậy, Tô Hoài

đã thay đổi một cách linh hoạt những từ ngữ xưng hô. Điều này góp phần tăng

thêm giá trị ý nghĩa tác phẩm.

2.4. Tiểu kết

Như vậy, có thể thấy so sánh là một biện pháp tu từ không thể thiếu trong

các tác phẩm văn chương. Nó góp phần tạo nên cái hay, cái đẹp của tác phẩm và

giúp ý nghĩa của tác phẩm được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Phương thức này

được tác giả Tô Hoài sử dụng và thay đổi một cách linh hoạt và đa dạng.

Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 15 kiểu cấu trúc so sánh. Trong đó kiểu

cấu trúc so sánh A + t + tss + B được sử dụng nhiều nhất. Đây là kiểu cấu trúc

so sánh có đầy đủ 4 thành tố. Từ đó, người đọc dễ dàng thất được những nét

tương đồng và giống nhau giữa cái được so sánh và cái so sánh.

Xét về, yếu tố so sánh và yếu tố được so sánh, Tô Hoài sử dụng danh từ

nhiều hơn động từ và tính từ. Kiểu kết cấu cụm C - V và danh ngữ được sử dụng

khá hay và độc đáo.

Tô Hoài sử dụng 11 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, trong đó các từ ngữ sử

dụng trong kiểu so sánh tương tự (như, tựa như, như là, cũng như) xuất hiện với tần

số cao nhất, tiếp theo là từ ngữ biểu thị quan hệ ngang bằng (bằng, là). Tần số xuất

hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu so sánh dị biệt kém chiếm số lượng nhỏ.

Về mặt ngữ nghĩa, Tô Hoài sử dụng 6 kiểu so sánh. Trong đó, kiểu so sánh

giữa cái được so sánh và cái so sánh là sự vật chiếm số lượng nhiều nhất. Kiểu

cấu trúc so sánh giữa cái cụ thể và cái trừu tượng và giữa cái trừu tượng và cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cụ thể chiếm số lượng ít nhất.

Chương 3

BIỆN PHÁP TU TỪ NHÂN HÓA TRONG TÁC PHẨM VIẾT CHO

THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

3.1. Biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài

xét về mặt cấu tạo hình thức

3.1.1. Nhận xét chung

Với một số lượng lớn các câu nhân hóa được sử dụng trong các câu chuyện

của Tô Hoài. Tô Hoài đã tạo nên một diện mạo của riêng mình. Trong các câu

nhân hóa của ông, có những câu đơn được sử dụng để thông báo, có những câu

không phải là câu đơn đó là câu phức. Thế giới nhân vật trong đó rất đa dạng và

phong phú: có các con vật, và những vật vô tri vô giác. Chúng ta cùng xem các

phân tích ở bên dưới để rõ hơn điều này.

3.1.2. Phân loại và miêu tả các kiểu cấu tạo hình thức của các phương tiện tu

từ nhân hóa

3.1.2.1. Phương tiện tu từ nhân hóa có cấu tạo là câu đơn

a. Khái niệm về câu đơn

Câu đơn là loại câu mà trong thành phần cấu tạo chỉ có một kết cấu nòng

cốt (một kết cấu C-V). Phần nòng cốt đó có thể có cấu tạo đơn giản là một từ

(nghĩa là mỗi thành phần chỉ bao gồm một từ) hoặc là một cụm từ:

Ví dụ 63: Xe đỗ [38, tr.53].

Ví dụ 64: Trên trời xanh trong, một đàn cò lửa thong thả bay [38, tr.101].

b. Các kiểu câu đơn

* Câu đơn bình thường: Phân loại câu đơn dựa vào thành phần phụ và

thành tố phụ:

Câu đơn hai thành phần không mở rộng

- Khái niệm: Là loại câu đơn trong đó có mặt đầy đủ hai thành phần chính:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chủ ngữ và vị ngữ.

Ví dụ 65: Tôi sống độc lập từ thuở bé [38, tr.167].

Ví dụ 66: Tôi đi đứng oai vệ [38, tr.169].

- Những kiểu kết cấu thường gặp:

+ Kiểu có vị ngữ động từ gồm một hoặc một vài động từ.

Ví dụ 67: Các chú ngủ [35, tr.307].

Ví dụ 68: Cậu Miu bước ra [35, tr.55].

+ Kiểu có vị ngữ là danh từ gồm động từ quan hệ (là) và danh từ hoặc cụm

danh từ.

Ví dụ 69: Y là một chàng mèo mướp [38, tr.23].

+ Kiểu câu có vị ngữ là tính từ.

Ví dụ 70 Lão Trê mừng thầm [35. Tr.82].

+ Kiểu câu có vị ngữ là một ngữ cố định.

Ví dụ 71: Đã vậy, tính nết lại ăn xổi ở thì [38, tr.170].

+ Kiểu câu có vị ngữ là một kết cấu giới ngữ.

Ví dụ 72: Các bạn cùng reo lên! [38, tr.235]

+ Kiểu có vị ngữ là một cụm chủ vị hoặc một cụm chính phụ.

Ví du 73: Nhưng con này nó đương đẻ [35, tr.332].

Ví dụ 74: Mưa rào rất to [35, tr.140].

+ Kiểu câu đơn có vị ngữ là một kết cấu bị động.

Ví dụ 75: Nhôm đã được các anh Mèo dạy cho hiểu biết mà! [35, tr.288]

+ Kiểu câu đơn có vị ngữ là một kết cấu khứ hồi.

Ví dụ 76: Ông Dế Mèn vừa đi du lịch về [38, tr.429].

Câu đơn hai thành phần mở rộng:

- Khái niệm: Là câu đơn trong đó ngoài hai thành phần chính còn có

những thành phần phụ hoặc ít nhất một thành phần chính được cấu tạo bởi cụm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

từ.

- Căn cứ vào chức năng của thành phần phụ, ta có thể phân biệt các loại

câu đơn mở rộng sau:

+ Câu đơn có thành phần phụ bổ ngữ: Bổ ngữ là thành phần phụ có chức

năng nêu lên đối tượng của hành động hay hoạt động, bổ sung ý nghĩa cho động

từ. Bổ ngữ thường đứng sau vị từ ngoại hướng.

Ví dụ 77: Tôi ăn cơm [35, tr.288].

Ví dụ 78: Chúng bay đuổi gà [35, tr.302].

+ Câu đơn có thành phần phụ định ngữ: Định ngữ là thành phần phụ bổ

nghĩa cho danh từ, dùng để nêu lên đặc điểm tính chất của danh từ. Định ngữ có

thể là một tính từ, số từ, danh từ, đại từ, nhưng cũng có thể là một cụm từ (cụm

danh từ, cụm tính từ).

Ví dụ 79: Mụ ấy chuồn ngay [35, tr.427].

Ví dụ 80: Tiếng tăm của anh Dế Mèn cồn lên như sóng [35, tr.428].

+ Câu đơn có thành phần phụ là trạng ngữ: Trạng ngữ là thành phần phụ

có thể bổ sung ý nghĩa cho toàn bộ nòng cốt câu (cả chủ ngữ và vị ngữ) hoặc

chỉ bổ sung ý nghĩa cho một thành phần nào đó của câu. Khi bổ sung ý nghĩa

cho toàn bộ nòng cốt câu trạng ngữ thường đứng ở đầu câu. Tuy nhiên, trong

nhiều trường hợp trạng ngữ có thể đứng sau nòng cốt câu hoặc đứng giữa chủ

ngữ và vị ngữ. Nếu đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ, nó phải được nhấn mạnh tách

rời bằng quãng nghỉ khi nói, bằng dấu phảy khi viết và có thể kèm theo một kết

từ thích hợp.

Ví dụ 81: Ở quê nhà, vợ chồng ông Thử khấp khởi mừng thầm [35, tr.441].

Ví dụ 82: Thằng Nhôm đã chết đuối ở ngoài ao kia [35, tr.290].

Ví dụ 83: Tên kia, đến đây làm chi ? [35, tr.435]

+ Câu đơn có thành phần phụ khởi ngữ: Khởi ngữ (còn gọi là đề ngữ) là

thành phần dùng để nêu trước, báo trước đối tượng hay nội dung sẽ được đề cập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tới trong câu.

Ví dụ 84: Ông trăng, ông trăng đẹp lắm.[36, tr.268].

+ Câu đơn có thành phần phụ gia ngữ: Gia ngữ (còn gọi là giải ngữ) là

thành phần bổ sung, làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của câu, hoặc dùng để

bày tỏ sự đánh giá, quan điểm, tình cảm của người nói (người viết) đối với nội

dung được nêu ra trong câu. Gia ngữ có thể là một từ, một cụm từ, một câu hoặc

cũng có thể là một chuỗi câu. Khi nói gia ngữ được tách ra bằng quãng nghỉ.

Khi viết, gia ngữ được phân biệt bằng dấu phảy, dấu nối (dấu gạch ngang), hoặc

dấu ngoặc đơn. Gia ngữ là thành phần độc lập về mặt ngữ pháp của câu.

Ví dụ 85: Nghĩ được thế, lòng tôi mới tạm yên [38, tr.183].

* Phân loại câu đơn dựa vào sự có mặt của thành phần chính:

Câu đơn không tỉnh lược:

- Khái niệm: Là những câu có mặt cả hai thành phần chính là chủ ngữ và

vị ngữ.

Ví dụ 86: Tôi đói lắm [35, tr.369].

Ví dụ 87: Ta là một anh hùng ở trên đời [35, tr.418].

Câu đơn tỉnh lược

- Khái niệm: Là câu trong đó có một hoặc hai thành phần chính, hoặc bổ

tố bắt buộc bị lược đi mà người tiếp nhận vẫn hiểu được nhờ hoàn cảnh giao tiếp

cụ thể. Trong câu tỉnh lược, các thành phần vắng mặt có thể được khôi phục lại

nhờ vào hoàn cảnh giao tiếp.

- Phân loại và việc sử dụng câu tỉnh lược

+ Dựa vào lĩnh vực sử dụng:

1) Câu tỉnh lược trong khẩu ngữ: Có thể dựa vào ngữ cảnh để khôi phục

thành phần bị tỉnh lược nhằm hiểu được câu nói.

Ví dụ 88: - Anh ốm hả?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Không [36, tr.39].

Nhờ ngữ cảnh trong truyện, ta có thể hiểu được câu hỏi là lời của chú gà

con còn câu trả lời là lời nói của anh Tía.

Để đảm bảo phương châm lịch sự, người dưới (về tuổi tác, địa vị) không

nên sử dụng câu tỉnh lược với người trên.

2) Câu tỉnh lược trong văn viết: Còn gọi là bán câu,ngữ phụ gia, ngữ trực

thuộc, câu dưới bậc. Đây là loại câu thường có tính nghệ thuật nên việc khôi phục

không cần thiết.

3) Dựa vào bộ phận tỉnh lược:

- Câu tỉnh lược chủ ngữ: Đây là loại câu phổ biến nhất. Trong khẩu ngữ,

những câu tỉnh lược chủ ngữ này còn được gọi là câu đơn khuyết chủ ngữ.

Thường là những câu dùng để ra lệnh, để chào, chúc tụng, chuyển ý, để nói với

chính mình hoặc là câu khẩu lệnh hành động, câu tục ngữ.

Ví dụ 89:

Bọ Ngựa: Ngươi biết nhà con mụ Bọ Muỗm đấy chứ?

Châu Chấu Ma: Bẩm biết [35, tr.420].

Trong văn bản, những câu tỉnh lược chủ ngữ được gọi là câu đơn ẩn chủ

ngữ. Ta có thể khôi phục chủ ngữ nhờ những từ ngữ trong câu đứng trước

hoặc sau nó.

Câu tỉnh lược vị ngữ: Là những câu khuyết thành phần vị ngữ. Ta cũng có

thể khôi phục được thành phần vị ngữ.

Ví dụ 90:

Bọ Ngựa: Đứa nào dám đánh ngươi?

Châu Chấu Ma: Mụ Bọ Muỗm ạ [35, tr.425].

Câu tỉnh lược cả chủ ngữ và vị ngữ: Là câu khuyết cả hai thành phần chính

là chủ ngữ và vị ngữ nhưng người đọc vẫn hiểu được ý nghĩa của câu nói. Ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng có thể khôi phục được chúng.

Ví dụ 91:

Tôi trố mắt: Vện ơi mày biết nó à?

Vện vểnh mõm: Chứ sao? [35, tr.222]

- Câu tỉnh lược bổ ngữ: Đây là kiểu câu tỉnh lược có mức độ phổ biến thứ

hai sau kiểu câu tỉnh lược chủ ngữ.

Ví dụ 92: Mẹ nó đương còn hăng, đuổi theo đánh [35, tr.291].

- Câu tỉnh lược định ngữ.

Ví dụ 93:

Cái thân mình chú dài không được bằng một ngón tay.

Bốn chân như bốn cái tăm lũn cũn [35, tr.440].

* Câu đặc biệt

- Khái niệm: Là loại câu mà thông báo của nó được tạo nên từ các từ, cụm

từ (cụm từ chính phụ hoặc cụm từ đẳng lập). Các cụm từ này không thể phân

tách thành hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Câu đặc biệt cũng có thể có các

thành phần phụ của câu.

- Phân loại: Những kiểu câu đặc biệt thường gặp.

1) Những câu thể hiện sự phản ứng tức thì hay sự bộc lộ cảm xúc một cách

trực tiếp trước tác động của hoàn cảnh.

Những câu kiểu này thường được biểu hiện bằng thán từ.Ví dụ:

Chao ôi! [35, tr.285]

À! [35, tr.301]

Ừ! [38, tr.172]

Ồ! [35, tr.422]

2) Những câu mô phỏng tiếng động (được biểu thị bằng các từ tượng

thanh). Ví dụ:

Hừ… hừ…[38, tr.171]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Suỵt. [35, tr.407]

2. Những câu là sự phàn nàn, ca thán về một điều gì đó khiến người nói

bực mình, khó chịu (trong nhiều trường hợp được nói ra một mình). Ví dụ:

Đấy con ơi! [35, tr.439]

No gì mà no! [ 36, tr.149]

4) Những câu hô gọi (nhằm xác lập mối quan hệ giao tiếp giữa chủ thể và

đối thể giao tiếp). Ví dụ:

Con ơi! [35, tr.460]

Nhà chị kia. [35, tr.85]

Này! [36, tr.296]

Dưới đây là bảng tần số xuất hiện của các kiểu câu đơn:

Bảng 3.1. Bảng tần xuất số lần xuất hiện các kiểu câu đơn

Phân loại Các kiểu câu đơn Số lượt Tỉ lệ %

648 25.2% Câu đơn

Câu đơn hai thành không phần mở rộng Câu đơn hai thành phần mở rộng 398 12% bình

Câu đơn không tỉnh lược 346 13.5% thường

Câu đơn tỉnh lược 319 12.4%

Câu đơn Câu biểu hiện bằng các thán từ 476 18.5%

Câu mô phỏng tiếng động 72 2.8% Câu đặc

biệt Câu phàn nàn ca thán 216 8.4%

Câu hô gọi 184 7.2%

Tổng 2.569 100

Từ bảng trên có thể đưa ra một vài nhận xét:

Trong tổng số 3707 câu nhân hóa, câu đơn chiếm 69,3%. Nghĩa là số câu

đơn chiếm hơn một nửa. Câu đơn có thể chia nhỏ làm nhiều loại. Câu đơn bình

thường và câu đơn đặc biệt. Đối với câu đơn bình thường khi dựa vào thành phần

phụ và thành tố phụ câu đơn được chia thành: câu đơn 2 thành phần không mở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

rộng (chiếm 25,2%) và câu đơn hai thành phần mở rộng (chiếm 12%). Dựa vào

thành phần chính bao gồm câu đơn không tỉnh lược (chiếm 13.5%) và câu đơn

tỉnh lược (chiếm 12.4%). Đối với câu đơn đặc biệt ta cũng chia làm 4 loại nhỏ:

Câu biểu hiện bằng các thán từ (chiếm 18.5%).

Câu mô phỏng tiếng động (chiếm 2.8%), câu phàn nàn ca thán (1chiếm

8.4%) và câu hô gọi (chiếm 7.2%). Các câu đơn này có vai trò hữu ích trong việc

miêu tả nhân vật và trong các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.

3.1.2.2. Phương tiện tu từ nhân hóa có cấu tạo là câu phức

1) Khái niệm câu phức: Là câu gồm từ hai cụm chủ vị trở lên trong đó

có một kết cấu chủ vị làm nòng cốt các kết cấu chủ vị còn lại bị bao hàm trong

kết cấu làm nòng cốt đó.

2) Câu phức được chia thành: Câu phức được chia thành: câu phức có

cụm chủ vị làm chủ ngữ, câu phức có cụm chủ vị làm vị ngữ, câu phức có cụm

chủ vị làm bổ ngữ, câu phức có cụm chủ vị làm định ngữ, câu phức có cụm chủ

vị làm trạng ngữ.

- Câu phức có cụm chủ vị làm chủ ngữ: Chủ ngữ là cụm chủ vị thường

xuất hiện bên vị ngữ là động từ quan hệ hoặc có gắn với nét nghĩa quan hệ.

Ví dụ 97: Chuột sợ mèo là một sự dĩ nhiên [35, 445].

Ví dụ 98: Anh vinh qui ỏm tỏi, đó là một sự huyênh hoang vô ích [35, 465].

- Câu phức có cụm chủ vị làm chủ ngữ:

- Câu phức có cụm chủ vị làm bổ ngữ: Cụm chủ vị làm bổ ngữ, nói chung,

chỉ xuất hiện sau vị ngữ là động từ. Những nhóm động từ thường gặp:

+ Nhóm động từ cảm nghĩ, nói năng, thông báo.

Ví dụ 99: Bởi tôi biết anh ta cũng hãi lũ trẻ, chỉ đứng trên cây [38, tr180].

Tôi chỉ biết thế là tôi sắp phải đi đánh nhau [38, tr180].

+ Nhóm động từ thụ cảm.

Ví dụ 100: Bỗng chốc, tôi nghe tiếng bước chân thình thịch loạn trên đầu

[38, tr.174].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ví dụ 101: Lập tức, tôi nghe tiếng thọc dao chuyển cả đất [38, tr.174].

+ Nhóm động từ tiếp thụ bị động.

Ví dụ 102: Đêm đến, tôi được các cậu cho lên đứng uống sương trên giàn

mồng tơi [38, tr.180].

Ví dụ 103: Ôi, tôi đã quên cái thân bị đem làm trò chơi [38, tr.180].

+ Nhóm động từ gây khiến.

Ví dụ104: Cái ý hay đã khiến lúc nãy lão Chim Trả kêu lên: đây rồi, đây

rồi, là thế đấy [38, tr.232].

+ Nhóm động từ chỉ quan hệ đồng nhất.

Ví dụ 105: Huống chi lại là một chuyến đò nên nghĩa [38, tr.473].

- Câu phức có cụm chủ vị làm trạng ngữ.

+ Câu phức nguyên nhân.

Ví dụ 106: Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi

[38, tr.173].

+ Câu phức điều kiện.

Ví dụ 107: Giá tôi không trêu chị Cốc thì đâu đến nỗi Choắt việc gì [38, tr.173].

Nếu bây giờ tôi muốn bỏ tính hung hăng xằng bậy đi thì tôi nhất quyết rời

hai đứa bé này ra [38, tr.183].

+ Câu phức mục đích.

Ví dụ 108: Bởi mục đích của họ là để bắt tôi làm trò choảng nhau, cho họ

cười [38, tr.183].

Ví dụ 109: Chú chịu hy sinh cho anh sống[38, tr.200].

+ Câu phức so sánh:

Ví dụ 110: Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như

hai lưỡi liềm máy làm việc [38, tr.169].

- Câu phức phụ thuộc có cụm chủ vị làm định ngữ:

+ Danh từ làm chủ ngữ.

Ví dụ 111: Ông trời ông ấy cứ xua tay nhăn mặt mà rằng hồi này tôi mắc

bận [38, tr.204].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

+ Danh từ làm bổ ngữ.

Ví dụ 112: Mèo đương rình mấy thằng chuột nhắt hay vào thạp ăn vụng

gạo. [35, tr.44].

+ Danh từ làm trạng ngữ.

Ví dụ 113: Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng

mỡ soi gương được và rất ưa nhìn [38, tr.169].

+ Danh từ làm định ngữ.

Ví dụ 114: Câu chuyện ân hận đầu tiên mà tôi ghi nhớ suốt đời [38, tr.169].

+ Danh từ làm chú giải ngữ.

Ví dụ 115: Bác là người lớn,bác đã có răng có càng to rồi [38, tr.180].

3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết

cho thiếu nhi của Tô Hoài

3.2.1. Nhận xét chung

Thế giới nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài rất đa dạng

và sinh động. Đối tượng được nhân hóa không chỉ là các con vật gần gũi với cuộc

sống của người lao động và gắn bó với tuổi thơ của các em thiếu nhi đặc biệt là

trẻ em vùng nông thôn (gà, vịt, chó, mèo, dế chim…), mà đối tượng được nhân

hóa còn là đồ vật Ông Giăng một nhân vật cực kì đặc biệt, thường được con

người kính nể, tôn trọng nhưng vẫn hiện lên vô cùng đáng yêu, dí dỏm và hài

hước. Ngoài ra đối tượng được nhân hóa còn là những vật vô tri vô giác (cây cối,

hoa cỏ…). Những cây này cũng mang những tâm tính giống như con người: biết

yêu, biết khóc, biết xót thương đồng loại của mình. Trong đó, đối tượng được

nhân hóa là các con vật chiếm số lượng lớn nhất: chiếm 97.7% với 3622/ 3707

câu. Đối tượng được nhân hóa là đồ vật chiếm số lượng ít hơn với 61/ 3707 câu,

chiếm 1.6%.Và đối tượng được nhân hóa là thực vật được sử dụng ít nhất với

24/377 câu, chiếm 0.7%. Dưới đây là bảng số lần xuất hiện của các đối tượng

được nhân hóa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bảng 3.2. Bảng số lần xuất hiện của các đối tượng được nhân hóa

Đối tượng được nhân hóa Số lượt Tỉ lệ

Đối tượng được nhân hóa là động vật 3622 97.7%

Đối tượng được nhân hóa là đồ vật 61 1.6%

Đối tượng được nhân hóa là thực vật 24 0.7%

Tổng 3.707 100

3.2.2. Đối tượng được nhân hóa là động vật

* Dùng những yếu tố chỉ đặc điểm thuộc về con người để chỉ đối tượng khác

Dùng những yếu tố chỉ đặc điểm thuộc về con người để chỉ đối tượng khác,

những đặc điểm đó có thể là những đặc điểm về cơ thể, sinh lí, tuổi tác. Theo số

liệu thống kê, những câu này được sử dụng 105/3622 lượt, chiếm 2,8% tổng số

câu có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 124: Dần dần nó lấn thêm một bước nữa, nghĩa là con gà gi của tôi,

một bữa kia mổ ông ngỗng cao lêu nghêu một cái vào cổ rồi lùi lại rất nhanh

để giữ miếng [38. Tr.32].

Trong câu trên, cụm từ cao lêu nghêu có nghĩa là cao quá cỡ và gầy nhìn

mất cân đối. Cụm từ này, chỉ được sử dụng để làm nổi bật lên ngoại hình của con

người. Vậy mà tác giả lại sử dụng để miêu tả một con gà gi, ý nói con gà gi này

có đặc điểm giống như con người: cao trội lên so với bạn bè cùng trang lứa.

Ví dụ 125: Đầu tóc lão bạc phơ và mặt lão xùm xòe những râu [38, tr.93].

Ở đây, đầu tóc của anh gà gáy được tác giả miêu tả bạc phơ còn mặt anh

gà gáy được tác giả miêu tả xùm xòe những râu. Đầu tóc chính là lông của con

gà. Bạc phơ chỉ được dùng khi miêu tả cụ già tóc đã hoàn toàn bạc trắng vậy mà

tác giả lại sử dụng để miêu tả bộ lông của con gà như muốn nói đến sự lam lũ,

vất vả, bươn trải của chú gà trống cũng giống như con người. Râu chỉ có ở người

đàn ông nhưng được tác giả sử dụng để miêu tả bộ lông của con gà, làm cho hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ảnh của con gà trở nên hấp dẫn, sinh động.

* Nhân hóa bằng cách sử dụng các đại từ xưng hô: ông - bà, thím - chú,

cha - con, chồng - vợ, chị - em…

Câu nhân hóa bằng cách sử dụng các đại từ xưng hô, có 1592/3622 lượt,

chiếm 42,9%. Như vậy, câu đố loại này chiếm số lượng nhiều nhất trong tất

cả các câu có sử dụng biện pháp nhân hóa có đối tượng là động vật. Dưới đây

là một số.

Ví dụ 126: Cậu gầy hơn mợ [35, tr.37].

Cậu ở đây là con chuột bạch đực. Mợ ở đây là con chuột bạch cái. Tô Hoài

đã gọi đôi vợ chồng ấy bằng cặp danh từ thân tộc: cậu - mợ. Biện pháp nhân hóa

bằng cách dùng từ xưng hô sinh động, dí dỏm biến hóa các con vật mang những

tính cách và có cuộc sống sinh hoạt giống như là con người.

* Nhân hóa bằng cách sử dụng những yếu tố chỉ công việc lao động của

con người

Các câu nhân hóa thuộc kiểu này được sử dụng 57/3622 lượt, chiếm 1,6%

tổng số câu nhân hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 127: Mỗi khi tôi vũ lên, đã nghe thấy tiếng phành phạch giòn giã

[38, tr.169].

Vũ có nghĩa là múa. Có thể hiểu vũ là khi Dế Mèn vỗ cánh và phát ra âm

thanh nghe rất giòn. Hành động vũ của chú giống như một điệu múa điệu nghệ

của con người vậy.

Ví dụ 128: Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng

mỡ soi gương được và rất ưa nhìn [38, tr.169].

Đi bách bộ là lững thững bước, khoan thai, chậm rãi, đầy oai vệ. Tác giả

dùng cách nói đi bách bộ đã giúp cho hình ảnh Dế Mèn hiện lên với tất cả dáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vẻ, tính cách của một chú dế đã trưởng thành, đầy sức mạnh.

* Sử dụng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lý, tình cảm của con người để

chỉ đối tượng khác

Kiểu câu này được sử dụng 127/ 3622 câu chiếm 3.5% tổng số câu nhân

háo có đối tượng là động vật.

Ví dụ 129: Được tin ấy, Chuột Nhắt ta mừng hí hửng [35, tr.444].

Mừng hí hửng là trạng thái tâm lý của con người khi mọi thứ diễn ra theo

đúng ý nguyện của con người. Tâm trạng này được tác giả gán cho chú chuột

nhắt, làm tăng thêm sự hài hước của câu chuyện.

* Gán cho sự vật tư thế, dáng vẻ của con người

Kiểu câu này được sử dụng 148/3622 lượt chiếm 4,0% tổng số câu nhân

hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 130: Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân

lên vuốt râu [38, tr.169].

Trong câu trên trịnh trọng và khoan thai là những từ ngữ miêu tả cử chỉ

dáng của con người. Ở đây, tác giả đã gán cho Dế Mèn để miêu tả vẻ bề ngoài

rất đàng hoàng và oai vệ.

* Mặc cho sự vật trang phục như con người

Kiểu câu này được sử dụng 16/3622 lượt, chiếm 0.4% tổng số câu nhân

hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 131: Đầu chú đội chiếc mũ xanh, có hai cánh chuồn. Mình chú

mặc áo thụng lam [35, tr.449].

Đây là bộ quần áo của chú chuột nhắt trong buổi rước kiệu khi chú đỗ

trạng nguyên: chiếc mũ xanh, có hai cánh chuồn, áo thụng lam. Đây cũng là bộ

trang phục được con người mặc trong dịp lễ tết. Tác giả mặc cho chú chuột bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quần áo này làm tăng thêm tính sinh động của câu chuyện.

* Coi các con vật giống như con người đê tâm tình và trò chuyện với chúng.

Kiểu câu này được sử dụng 1438/ 3622 lượt, chiếm 38,8% tổng số câu

nhân hóa có đối tượng là động vật. Đây là kiểu câu sử dụng nhiều thứ 2 trong tất

cả các câu có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Những con vật trong truyện của

tác giả không những trò chuyện được với nhau mà còn có khả năng trò chuyện

được với con người.

Ví dụ 132: Một hôm, vợ chồng Cóc ra thăm con. Chẳng thấy còn một mống

nào. Một cái bợn nước cũng mất tăm. Hai anh chị lăn ra khóc nỉ non. Nhưng mà

khóc cũng chẳng thấy hy vọng về đàn con mất tích. Chồng bảo vợ:

- Hay là có đứa gian bắt mất các con của chúng ta rồi. Mình đứng đây để

tôi lội thử xuống tìm….

Chồng Cóc xắn cao ống quần, lội quanh khắp bờ ao. Bụi nào cũng dờ,

mô nào cũng tới. Vợ Cóc đứng trên bờ khóc hi hi. Chồng Cóc vừa lội bì bõm

vừa rao:

- Chiềng làng chiềng nước, có ai bắt được lũ con tôi lạc thì cho tôi xin…

chiềng làng chiềng nước…[35, tr.507].

Đây là cuộc trò chuyện rao tìm con của vợ chồng nhà Cóc khi bị nhà Trê

bắt trộm con. Tác giả vừa tinh tế vừa có sức tưởng tượng vô cùng phong phú thì

mới có thể nói ra được nỗi lòng của chú Cóc khi mất con. Khi mất con bất kì con

vật nào cũng thương xót. Vì chúng cũng có tình cảm máu mủ ruột thịt giống như

con người vậy.

* Sử dụng những từ ngữ chỉ tính cách, suy nghĩ, phẩm chất giống như con

người khi miêu tả các con vật

Kiểu câu này được sử dụng 82/3622 câu, chiếm 2.2% tổng số câu nhân

hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 133: Nhưng nó cũng không khỏi cái tính ích kỉ, nhỏ nhen [38, tr.67].

Tính ích kỉ là một tính xấu chỉ biết suy nghĩ cho mình mà không biết suy

nghĩ đến người khác. Tính xấu này hay có ở con người. Tác giả gán tính xấu này

cho con Đực (tên của một con chó). Như vậy, trong con mắt của tác giả những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con vật cũng như con người có cả tính xấu lẫn tính tốt.

* Gán cho con vật những từ chỉ địa vị, chức tước và trình độ học vấn:

Công tử chuột nhắt, tiểu thư chuột chù, quan huyện Trạch, thầy lục lươn…

Kiểu câu nhân hóa này được sử dụng 142/3622 lượt, chiếm 3.9% tổng số

câu nhân hóa có đối tượng là động vật.

Ví dụ 134: Bắt đầu, những người hay nịnh, đã gọi Thử ông, Thử bà là “hai

cụ cố sinh ra cậu cử tân khoa”. [35, tr.443].

Thử ông ở đây là bố chú chuột nhắt, còn Thử Bà là mẹ chú chuột nhắt. Thử

ông và thử bà để chỉ những người trong tầng lớp quý tộc, gia đình danh giá. Cậu

cử tân khoa là chú chuột nhắt. Như vậy, tác giả đã gán cho những con vật có địa

vị xã hội giống như con người.

3.2.3. Đối tượng được nhân hóa là thực vật

Trong tổng số 3707 câu nhân hóa, những câu nhân hóa có đối tượng dược

nhân hóa là động vật chiếm số lượng ít nhất: Chỉ có 24 câu, chiếm 0,7% tổng số

câu nhân hóa.

* Nhân hóa bằng cách sử dụng các đại từ xưng hô (tôi, anh - em, bạn, ông…)

Kiểu câu sử dụng các địa từ xưng hô được sử dụng 3/24 lượt chiếm 12.5%

trong tổng số các câu nhân hóa có đối tượng là thực vật.

Ví dụ 135: Chúng em đi nhé! Chúng em đi nhé! Các bạn bằng lăng chóng

tươi lên, xanh tươi lên! [36, tr.81].

Cách xưng hô này giúp bộc lộ tình cảm và thái độ của đối tượng được

miêu tả.

* Nhân hóa bằng cách sử dụng những yếu tố chỉ công việc hành động của

con người

Kiểu nhân hóa này được sử dụng 1/24 lượt, chiếm 4.2% tổng số câu nhân

hóa có đối tượng là thực vật. Đây là kiểu câu được sử dụng ít nhất.

Ví dụ 136: Cây lắc lư, lảo đảo, chóng mặt, héo cả lá [36, tr.78].

* Gán cho thực vật tư thế, dáng vẻ của con người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Kiểu câu này được sử dụng 1/24 lượt, chiếm 12,5%.

Ví dụ 137: Đã ra dáng cây nhớn nhao rồi [36, tr.77].

Tác giả miêu tả cây đang ở độ tuổi trưởng thành giống như người con gái

đang bước vào độ tuổi dậy thì với vẻ đẹp căng tràn đầy sức sống.

* Nhân hóa bằng cách dùng những từ nói về thể chất, trạng thái, sức khỏe

của con người để gán cho đối tượng

Kiểu câu nhân hóa này được sử dụng 4/24 lượt, chiếm 16.6% tổng số câu

nhân hóa có đối tượng là thực vật.

Ví dụ 138: Không thương xót cái cây bị thương [ 36, tr.78].

Ví dụ 139: Chẳng mấy hôm mà những cây bằng lăng đầu phờ phạc, lử

khử [36, tr.78].

Những trò chơi đu cây của các bạn trẻ con đường phố đã làm cho những

cây bằng lăng bị thương. Cành cây phờ phạc, lử khử giống như trạng thái của

con người mệt mỏi cả về thể chất và tinh thần.

* Coi cây cối giống như con người để tâm tình và trò chuyện với chúng

Kiểu câu này được sử dụng 12/24 lượt, chiếm 50% tổng số câu nhân hóa

có đối tượng là thực vật. Dưới đây là một ví dụ tiêu biểu:

Ví dụ140: Cây trám hỏi:

- Đến chơi với tôi à?

- Không phải.

- Thế đi đâu?Ở đây vắng quá. Chẳng khi nào có ai đến làm khách chơi.

Đến mùa quả mới được nhìn thấy con nai về.

- Ừ, nai.

- Thế cũng đỡ vắng. Ở lại đây chơi, sắp đến lúc nai về đấy.

- Tớ chỉ đợi lúc ấy.

- Hay lắm!

- Cho nó một phát.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Sao? [36, tr.215]

Ví dụ trên là cuộc trò chuyện giữa cây trám và người đi săn. Khi người đi

săn vào rừng để săn con nai. Cây trám biết được điều này liền bày tỏ thái độ

không đồng tình và cảm thương cho chú nai rừng.

* Sử dụng các từ ngữ chỉ trạng thái, tâm lý, tình cảm của con người để chỉ

đối tượng khác

Kiểu câu nhân hóa này được sử dụng 3/24 lượt, chiếm 12.5% tổng số câu

nhân hóa có đối tượng là thực vật.

Ví dụ 141: Cây bằng lăng khóc vì cảm động [36, tr.181].

Hành động khóc được gán cho cây bằng lăng khi nó biểu lộ thái độ và cảm

xúc của con người.

3.2.4. Đối tượng được nhân hóa là đồ vật

* Nhân hóa bằng cách sử dụng các đại từ xưng hô (ông, bạn, chúng ta,

chúng tôi…)

Kiểu câu nhân hóa bằng cách sử dụng những đại từ xưng hô được sử dụng

21/61 lượt, chiếm 34,5%.

Ví dụ 142: Em đã thề với ông Giăng rằng em với nó quyết sống chết không

đội trời chung [36, tr.362].

Em là mèo thuộc ngôi thứ nhất, ông Giăng và nó (thằng Xược) thuộc ngôi

thứ 3. Cách sử dụng đại từ xưng hô này có tác dụng bày tỏ thái độ, tình cảm của

người nói.

* Nhân hóa bằng cách sử dụng những từ ngữ dùng để phê phán con người.

Kiểu câu nhân hóa này được sử dụng 1/61 lượt, chiếm 1.6% tổng số câu

nhân hóa có đối tượng là sự vật.

Ví dụ 143: Con suối hỏi hỏi một câu không ra chế giễu, không ra đùa: Về

không à? [36, tr.217].

Ví dụ 144: Con suối chế giễu người đi săn ý muốn phê phán người đi săn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

về việc săn nai trong rừng.

* Sử dụng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lý, tình cảm của con người để

chỉ đối tượng khác.

Kiểu câu nhân hóa này được sử dụng 5/61 lượt, chiếm 8.2%.

Ví dụ 145: Ông Giăng cười khành khạch [35, tr.376].

* Sử dụng những từ ngữ chỉ tính cách, giống như con người khi miêu tả

các sự vật

Kiểu câu này, được sử dụng 1/61 lượt, chiếm 1.6% tổng số câu nhân hóa

có đối tượng là sự vật.

Ví dụ 146: Bởi vì ông Giăng vốn tính lơ đễnh lúc nào cũng mơ màng [35,

tr.376].

Tính lơ đễnh là tính hay quên, đãng trí. Ông Giăng cũng có tính cách giống

như con người.

* Dùng những yếu tố chỉ đặc điểm thuộc về con người để chỉ đối tượng khác

Kiểu câu có này được sử dụng 1/61 câu chiếm 2.1%.

Ví dụ 147: Những người đi đường xúm lại hoan hô anh chàng gấu tài hoa,

thân thể lực lưỡng mà cầm chiếc sáo xinh, nhẹ nhàng [36, tr.203].

Chiếc sáo là đồ vật vậy mà lại được tác giả miêu tả có một vẻ đẹp thanh

thoát như con người: xinh và nhẹ nhàng.

* Coi các con vật giống như con người đê tâm tình và trò chuyện với chúng

Kiểu câu này được sử dụng 32/61 câu, chiếm 52,5% tổng số câu nhân hóa

có đối tượng là sự vật.

Ví dụ 148:

- Ông Giăng ơi, ông canh giấc ngủ cho chúng tôi nhé.

- Chúng bay đi đâu?

- Chúng tôi đi ngủ mà.

Ông Giăng cười khành khạch:

- Chúng bay đi ngủ thì cứ ngủ, lại bắt ta canh gác? Dễ nghe nhỉ? Ừ, thôi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngủ đi, ta canh cho [35, tr.376].

Đây là cuộc trò chuyện vui đùa giữa ông Giăng và Dê khi mà Dê thích

thức xem đêm trăng rằm mà lại sợ mình ngủ quên nên Dê muốn ông Giăng canh

giấc ngủ cho mình.

3.3. Vai trò của biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi

của Tô Hoài

3.3.1. Bộc lộ thái độ của tác giả đối với thế giới sự vật không phải là người

Trong các câu chuyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài, thế giới nhân vật

trong đó vô cùng đa dạng và phong phú, từ các con động vật nhỏ bé, cho đến các

nhân vật vô tri vô giác (cây cối) và cả những nhân vật mà con người kính nể (ông

Giăng). Nhờ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa mà các nhân vật hiện lên giống như

con người: có những suy nghĩ, tình cảm, tính cách, nếp sống, sinh hoạt giống như

những người lao động. Và phải yêu những loài đó thì tác giả mới có thể vẽ ra trước

mắt người đọc một hệ thống nhân vật sinh động như vậy.

Trong truyện Ba anh em, khi miêu tả cuộc đụng độ giữa Đen và Vện Tô

Hoài giúp hai nhân vật này hiểu nhau hơn thông qua những cuộc trò chuyện giữa

hai chú chó.Tuy là con vật nhưng những chú chó này cũng có những ngôn ngữ

riêng của mình. Với biện pháp nghệ thuật nhân hóa, Tô Hoài đã miêu tả một cách

tinh tế tính cách của từng nhân vật: Đen và Vện đều có tính ương ngạnh. Ban

đầu, không ai chịu nhường nhịn ai và cuối cùng cả hai anh em đã được nhận trận

đòn roi của lão chủ trại. Còn mèo ban đầu cũng có tính xấu. Mèo lấy lòng lão

chủ bằng cách nói cho lão chủ biết ý định đi trốn của cả Đen và Vện để cho Đen

và Vện bị trận đòn đau của ông chủ. Không dừng lại ở đó, mèo ta tiếp tục tạo ân

oán với Đen và Vện và liên tục mèo trêu tức cả hai anh em nhà chó. Vài tuy mèo

nhỏ bé và yếu sức nhưng mèo có thể trèo lên cao được, còn Đen và Vện chỉ đứng

ở dưới thấp được thôi. Nhưng cuối cùng, khi mèo gặp nạn, cả hai anh em Đen và

Vện cùng cứu giúp mèo. Điều này khiến mèo vô cùng cảm động và ăn năn về

những việc làm của mình. Cuối truyện Đen, Vện và mèo kết thân làm ba anh em.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ở đây, Tô Hoài bộc bộ tình cảm yêu thương, đoàn kết giữa các con vật.

Qua biện pháp nghệ thuật nhân hóa, Tô Hoài còn bộc lộ tình cảm xót xa,

thương cảm đối với những con vật hiền lành, yếu đuối nhưng vì cuộc sống đã

phải chịu hy sinh rất nhiều thứ, thậm chí cả tính mạng của mình. Nhân vật anh

gà gáy trong truyện của ông vừa đáng thương lại có thêm một chút đáng trách.

Đáng thương vì vợ lão bỏ đi và đứa con trai duy nhất của lão đã chết. Đáng trách

là vì do tính nóng nảy, không kiềm chế được cảm xúc của mình gã đã lỡ tay đánh

vợ mình: “Anh ta đóng một vai anh quân dạy vợ nhưng không dạy bằng lời. Dạy

bằng đòn gánh và gậy”. Dù đã cố gắng hết sức nhưng cuối cùng vợ lão cũng

không về và con của lão cũng chết vì bệnh.

Viết về các nhân vật nhỏ bé, yếu đuối, Tô Hoài còn bộc lộ thái độ trân

trọng, nâng niu như Dế Choắt, Dế Trũi trong Dế Mèn phiêu lưu kí. Dế Choắt

tuy nhỏ bé và mắc bệnh từ nhở nhưng lại có tấm lòng khoan dung. Cái chết của

Dế Choắt được Tô Hoài miêu tả khá tỉ mỉ. Dù Dế Mèn trực tiếp gây ra cái chết

của Dế Choắt nhưng Dế Choắt không hề oán trách mà chỉ nói: “Thôi, tôi ốm yếu

quá rối, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt tôi khuyên anh: ở đời mà có

thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ

vào mình đấy”. Cái chết của Choắt đã khiến Mèn thức tỉnh và trưởng thành hơn

rất nhiều. Còn Dế Trũi tuy nhỏ bé nhưng cũng mang trong mình tinh thần trượng

nghĩa, hết lòng vì anh em, đồng đội.

Khi miêu tả về Dế Mèn, Tô Hoài bày tỏ thái độ đồng cảm của mình với

nhân vật. Dế Mèn là một chàng thanh niên khỏe mạnh nhưng có tính hung hăng,

hống hách. Tuy nhiên tuổi trẻ có ai là không phạm phải sai lầm. Khi Dế Mèn gây

ra cái chết cho Dế Choắt, Dế Mèn đã vô cùng hối hận. Đây chính là bài học

đường đời đầu tiên dành cho chú. Dế Mèn là đại diện cho một lớp thanh niên đi

thực hiện khát vọng về một thế giới hòa bình lúc bấy giờ.

Trong truyện Đám cưới chuột Tô Hoài bày tỏ thái độ mỉa mai đối với họ

hàng nhà chuột bởi tính thích phô trương và khoe khoang. Nhưng đồng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ông cũng muốn nói đến một tính xấu tồn tại ở con người: đó là cái tính khoe

mẽ, phô bày cái hình thức bên ngoài. Khi chú chuột nhắt có tên trong yết bảng,

cả gia đình chú đều vui sướng một cách thái quá. Còn họ hàng nhà chuột thì

tìm cách nịnh bợ và bày cách cho Thử ông, Thử bà rước kiệu và lấy vợ cho chú

chuột nhắt. Đó là một đám rước kiệu trịnh trọng. Có kẻ hầu người hạ, có kèn,

có trống lại có cả kiệu. Trong kiệu là cậu cử tân khoa chú chuột nhắt. Nhưng

thực chất, họ hàng nhà chuột lại vô cùng nhút nhát. Cô tiểu thư Chuột chù thì

kênh kiệu. Câu chuyện có ý nghĩa châm biếm rất sâu sắc. Đó là một bức tranh

thu nhỏ của xã hội.

Viết về chú Bọ Ngựa trong Võ sĩ Bọ Ngựa, Tô Hoài đã biến hóa chú Bọ

Ngựa mới được hơn một tháng tuổi giống như một kẻ hiếu thắng. Chú Bọ Ngựa

mang bóng dáng của một “ngựa non háu đá” - trẻ tuổi hung hăng, không biết

lượng sức mình. Vì chú mới được ít ngày tuổi, chưa đi ra ngoài bao giờ nên khi

có cơ hội tiếp xúc với mọi thứ xung quanh chú thấy mình thật tài giỏi. Chú muốn

đi du lịch tứ xứ để nổi tiếng như Dế Mèn, để mọi người kính nể. Thế nhưng mới

đi được vài bước chân chú đã mỏi. Sau cùng, gặp Cồ Cộ chú Bọ Ngựa đã được

dạy cho một bài học đáng nhớ. Chú Bọ Ngựa quay về kể mọi chuyện với mẹ.

Chú đã tỉnh ngộ ra và học được nhiều bài học trong cuộc sống.

Trong truyện Trê và Cóc, tác giả cũng bày tỏ thái độ đồng cảm. Vì đâu

mà Trê phải đi bắt trộm đàn con của Cóc để đến nỗi Cóc phải kiện lên quan.

Vì Trê mãi không đẻ được con. Đó là khát vọng được làm cha, làm mẹ của bất

cứ loài vật nào - khát vọng bản năng. Còn Cóc mất con thì Cóc phải đi tìm.

Đó cũng là một đặc tính chung của tất cả các loài vật - muốn bảo vệ đàn con

của mình.

Khi đối tượng nhân hóa là đồ vật Tô Hoài đã bộc lộ thái độ kính nể qua

cách xưng hô: Ông Giăng giống như cách con người thường kính nể một bậc tối

cao. Ông Giăng cũng có sự hài hước, dí dóm và rất đáng yêu tạo nên sự hấp dẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cho người đọc.

Khi đối tượng nhân hóa là thực vật: cây trám, cây bằng lăng (đây là đối

tượng vô tri, vô giác) nhưng chúng cũng có tình cảm như con người (biết đau,

biết khóc, và cũng có tư duy như con người).

Như vậy, câu chuyện nào cũng mang một ý nghĩa riêng, qua đó tác giả

cũng bộc lộ được thái độ và tình cảm của mình với các nhân vật trong truyện nói

riêng và thế giới bên ngoài nói chung. Câu chuyện nào bạn đọc cũng có thể rút

ra bài học cho riêng mình. Đó là cái hay, cái khác biệt trong ngòi bút của ông.

Với một số lượng câu nhân hóa lớn, tác giả đã thổi hồn mình vào thế giới nhân

vật không phải là người.

3.3.2. Thể hiện sự sống động của thế giới sự vật vô tri, vô giác

Trước hết, thế giới sự vật vô tri vô giác ở đây là cây cối, trăng, sao, những

đồ vật nhỏ bé đáng yêu nhưng lại có tư tưởng cảm xúc giống như con người.

Không chỉ thể hiện sự sống động với thế giới động vật, trong con mắt của Tô

Hoài thế giới thực vật cũng vô cùng sôi nổi và giàu cung bậc cảm xúc.

Cây bằng lăng gắn bó với tuổi thơ của biết bao bạn trẻ. Hàng ngày, nó chứng

kiến các bạn đi học, các bạn vui đùa nên dần dần nó cũng như muốn hòa vào cùng

bọn trẻ. Khi bị thương, cây bằng lăng cũng biết đau giống như con người vậy. Vào

mùa hạ, khi có những trận mưa rào tác giả miêu tả: “Những cây bằng lăng ốm yếu lại

nhú lộc”, “Cái cây được cho uống thuốc”. Có thể nói, tình cảm giữa những chú chim

vành khuyên và cây bằng lăng là một thứ tình cảm gắn bó khăng khít. Chim vành

khuyên bắt sâu cho cây bằng lăng khiến cho cây bằng lăng cảm động: “Hạt nước trên

cành bằng lăng rơi lã chã. Cây bằng lăng khóc vì cảm động”. Vành khuyên còn hát

cho cây nghe. Đó là thứ tình cảm đẹp, đáng trân trọng.

Trong truyện Người đi săn và con nai có xuất hiện hình ảnh cây trám.

Cuộc trò chuyện giữa cây trám và người đi săn:

Cây trám hỏi:

- Đến chơi với tôi à?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Không phải.

- Thế đi đâu? Ở đây vắng quá. Chẳng khi nào có ai đến làm khách chơi.

Đến mùa quả mới nhìn thấy được con nai về.

- Ừ, nai.

- Thế cũng đỡ vắng. Ở lại đây chơi, sắp đến lúc nai về đấy.

- Tớ chỉ đợi lúc ấy.

- Hay lắm!

- Cho nó một phát.

- Sao?

- Cái đèn ló này…

- Để rọi cho nai chói mắt, không biết đường chạy. Cái súng này…

- Ác thế!

- Thịt nai ngon lắm.

Cây trám rưng rưng.

- Thế thì cút đi!

Người đi săn không để ý đến những tiếng rì rào tức tưởi

Khi người đi săn nói đợi con nai về để bắn lấy thịt. Cây trám đã bộc lộ thái

độ không đồng tình. Đó là tình cảm thương xót đồng loại. Tình cảm này không

chỉ có ở con người mà còn có cả ở những cây cối (vô tri vô giác). Nó cũng biết

khóc khi chứng kiến đồng loại của nó bị bắn, giết.

Hình ảnh Ông Giăng được tác giả miêu tả khá thú vị. Ông Giăng ở đây

biết nói, biết cười, biết canh gác giấc ngủ cho các con vật: “Ông Giăng đêm mười

sáu, tròn vành vạnh. Ông Giăng ông ấy đêm nào cũng cười một mình. Ông Giăng

lại hát một mình ở trên cao nữa. Ông Giăng còn biết soi đường cho các con vật

lên nương: “Các em cứ đi, vừa đi vừa hát cho thật vui. Ông Giăng sẽ xuống thật

gần, soi đường thật sáng cho các em đi lên đến tận nương. Như vậy, có thế thấy

thế giới sự vật vô tri vô giác trong truyện vô cùng sống động. Chúng cũng có

những suy nghĩ và công việc giống như con người. Tất cả được thể hiện qua biện

pháp tu từ nhân hóa. Biện pháp tu từ nhân hóa góp phần bộc lộ thành công nội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dung mà tác giả muốn truyền tải đến bạn đọc.

3.3.3. Thể hiện cái tài quan sát hiện thực của nhà văn

Để có được những trang viết sinh động như vậy, trước hết nói đến cái tài

quan sát hiện thực của nhà văn. Tô Hoài đã quan sát và ghi chép lại tất cả những

gì diễn ra xung quanh mình từ cái nhỏ nhất, cộng thêm vốn sống phong phú.

Chính điều đó đã tạo nên dấu ấn riêng biệt trong các trang viết của ông.

Với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, viết ở mọi thể loại đề tài, từ những

câu chuyện hài hước dí dỏm về tuổi ấu thơ cho đến những câu chuyện về các loài

vật… trong đó tác giả luôn cố gắng tìm ra cho mình một phong cách khác biệt.

Nhà văn hiện thực nào cũng có tài quan sát hiện thực cuộc sống nhưng có lẽ Tô

Hoài có tài quan sát hiện thực độc đáo và khác biệt nhất. Cái tài đó được thể hiện

qua việc sử dụng ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có nhưng quan trọng nhất vẫn là

tình cảm của nhà văn dành cho các đối tượng nhân vật của mình. Phải yêu mến

các con vật, có tình thương với chúng thì mới có thể làm cho chúng trở nên sinh

động như vậy được. Tô Hoài đã biết quan sát, thu thập thông tin về các nhân vật

sau đó sâu chuỗi lại khiến cho người đọc có cảm giác như nhân vật đó đang hiện

ra trước mắt mình.Quan sát, thu thập nhưng không phải bị động trước những dữ

liệu đó mà phải chủ động, linh hoạt. Đó chính là óc quan sát tinh tế của nhà văn.

Chẳng hạn khi miêu tả về nhân vật Dế Mèn, ngoài việc quan sát kĩ ngoại

hình của chú dế, Tô Hoài còn đi sâu vào tính cách của từng chú. Khi miêu tả Dế

Mèn, Tô Hoài viết:

“Bởi tôi ăn uống và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng

bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Đôi càng tôi mẫm

bóng. Những cái vuốt ở chân, ở kheo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng,

muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phành phạch vào

các ngon cỏ gãy rạp y như có nhát dao lia qua. Đôi cánh tôi trước kia ngắn hủn

hoẳn, bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vũ lên, đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghe tiếng phành phạch giòn giã”

Như vậy, không chỉ quan sát kĩ từng chi tiết như ngoại hình và hành động

của chú Dế mà Tô Hoài còn hiểu được tính cách của từng chú dế.

Ngoài óc quan sát tinh tế, Tô Hoài còn có trí tưởng tượng sáng tạo phong

phú. Nếu không có tưởng tượng thì không thể xây dựng hình tượng nhân vật.

Nhờ có trí tưởng tượng trong sáng tạo mà hình tượng nhân vật hư cấu trở nên

gần gũi và chân thực với con người hơn. Điều này được thể hiện rất rõ khi tác

giả miêu tả ông Giăng. Ông Giăng biết cười, biết hát, biết làm những công việc

như con người. Những con vật đáng yêu gần gũi với người dân lao động: chó,

mèo, gà, vịt…tạo nên một bức tranh sinh động, màu sắc phong phú. Chó thì có

tính ương ngạnh nhưng cũng biết yêu thương, đoàn kết với đồng loại và đặc biệt

là rất trung thành. Ngan có tính lì lợm và vô tâm. Gà thì hiền lành. Mèo thì: “Chú

mèo thì coi bộ lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng đương khoắc bộ

áo lông có cốt cách quý phái và trưởng giả lúc nào cũng ra vẻ nghĩ ngợi như

mưu toan một điều gì ghê gớm”. Mỗi con vật có một tính cách riêng, không con

nào giống con nào. Chúng cũng cần mẫn và chăm chỉ giống như người dân lao

động: “Chàng ta đi kiếm ở các xó vườn lạ về những cẳng lá xoan, cẳng lá khế

đã khô đét. Chàng xếp thành từng lượt ngang lượt dọc trên nóc tổ. A !Anh chàng

lợp một cái mái. Cái mái nhà để che mưa và che nắng. Chàng lại đi khuôn lá

duối khuôn cẳng rạ về và xếp một lượt dầy lên trên những lượt cẳng” Đó là công

việc hàng ngày của con chim gi đá. Tác giả miêu tả công việc của chúng rất tỉ

mỉ. Và phải quan sát thật kĩ từng cử chỉ của chúng mới có thể miêu tả được công

việc làm tổ của đôi chim gi đá. Quá trình sáng tác của ông là một quá trình lao

động kiên trì và bề bỉ. Trong mỗi câu văn đều thấm đượm cái tình của tác giả:

“Mây hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng

trắng mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược,

thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két xơ xác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tận đâu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày học cãi cọ nhau

om bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép. Có những anh cò gầy vêu vao,

ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn héch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ

quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn thật lực thế mà cũng không sống nổi” .Đó là tình

cảm thương xót khi các con vật phải vật lộn kiếm ăn.

Có thể nói biện pháp tu từ nhân hóa được tác giả sử dụng rất hữu hiệu. Tác

giả không để những con vật là những con vật đơn thuần nữa mà nó mang tâm

tính của con người thực thụ. Nhờ đó ta thấy những con vật hiện lên như đứa trẻ

mới lớn vừa có nét đáng yêu, vừa có nét đáng trách. Đôi khi chúng có những trò

nghịch ngợm mang đặc tính củ trẻ con. Những phút bồng bột của tuổi trẻ đã

khiến cho những con vật trưởng thành lên rất nhiều. Chẳng hạn như nhân vật Dế

Mèn trong Dế Mèn phiêu lưu kí. Biện pháp nhân hóa ở đây không chỉ là một

biện pháp tu từhọc nữa mà nó trở thành phương pháp xây dựng hình tượng nhân

vật. Qua đó nhân vật hiện lên một cách rõ nét.

Để có một khả năng quan sát hiện thực phong phú, Tô Hoài còn có một trí

tuệ sắc xảo. Tô Hoài đã chọn lọc, phân loại và sắp xếp các chi tiết một cách khoa

học. Sau đó, ông xâu chuỗi một cách logic. Từ đó, các tác phẩm của ông vừa ngắn

gọn, mà người đọc lại tiếp thụ văn bản rất sâu. Trong truyện Mèo già hóa cáo, hai

chú mèo Mini và Tam Thể luôn tìm cách làm cho chú chó Nhôm bị ông chủ đánh.

Sau đó chúng còn nghi ngờ cho lão mèo mướp hóa thành cáo và ăn thịt hai chú gà

con. Cuối cùng lão mèo mướp đã giảng giải cho hai chú mèo nghe.

Trong quá trình sáng tác của mình, Tô Hoài luôn nỗ lực làm việc và học

hỏi. Bởi vậy mà trong sự nghiệp văn học của mình Tô Hoài đã cho ra đời một

khối lượng tác phẩm lớn. Trong đó những truyện viết cho thiếu nhi của ông hết

sức đặc sắc. Trong sự nghiệp phát triển của văn học nước nhà, Tô Hoài có công

lao lớn đối với ngôn ngữ văn học hiện đại và đương đại. Ông đã viết và viết

không ngừng nghỉ, đó cũng là tấm lòng của ông luôn hướng về thiếu nhi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3.4. Tiểu kết

Chương 3 là biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết cho thiếu nhi

của Tô Hoài. Phần đầu là lý thuyết về câu. Trong luận văn chúng tôi trình bày

khái niệm về câu đơn. Câu đơn được chia thành cấu đơn bình thường và câu đơn

đặc biệt. Phân loại câu đơn dựa vào thành phần phụ và thành tố phụ ta có thể

phân chia thành câu đơn 2 thành phần không không mở rộng và câu đơn hai

thành phần mở rộng. Phân loại câu đơn dựa vào thành phần chính lại được chia

thành câu đơn không tỉnh lược và câu đơn tỉnh lược. Câu đơn đặc biệt gồm kiểu

câu biểu hiện bằng các thán từ, câu mô phỏng tiếng động, câu phàn nàn ca thán

và kiểu câu hô gọi.

Phân loại dựa đơn thuần vào số lượng cụm chủ vị, theo cách này, câu được

chia thành hai loại: câu đơn và câu phức. Ưu điểm của cách phân loại này là đơn

giản, tiện lợi và cho phép vạch ra ranh giới rõ ràng, dứt khoát giữa câu đơn và

câu phức. Câu phức lại được chia thành câu phức phụ thuộc và cấu phức đẳng

lập (câu ghép).

Phần tiếp theo là vai trò của biện pháp tu từ nhân hóa trong tác phẩm viết

cho thiếu nhi của Tô Hoài. Biện pháp tu từ nhân hóa giúp bộc lộ thái độ của tác

giả với thế giới sự vật không phải là người, không những vậy còn giúp thể hiện

sự sống động của thế giới sự vật vô tri vô giác. Qua đó thể hiện cái tài quan sát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiện thực của nhà văn.

KẾT LUẬN

Từ tất cả các vấn đề đã được tìm hiểu và nghiên cứu về tác giả Tô Hoài và

những truyện viết cho thiếu nhi của ông, chúng tôi có một vài những kết luận

như sau:

Trước hết về tác giả Tô Hoài, ông là một nhà văn bền bỉ cần mẫn và dẻo

dai trong quá trình sáng tác. Ông là người sinh ra để viết. Với một khối lượng

tác phẩm đồ sộ, trong đó phần lớn các tác phẩm của ông có đối tượng là thiếu

nhi. Mỗi câu chuyện đều mang ý nghĩa giáo dục nhân cách cho các em từ rất

sớm. Với một thành tựu to lớn đã đạt được, sau hơn nửa thế kỉ sáng tạo nghệ

thuật, Tô Hoài xứng đáng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn

xuôi Việt Nam hiện đại và là một tấm gương sáng cho lớp nhà văn trẻ về lao

động nghệ thuật.

Điểm nổi bật trong chuyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài chính là hai biện

pháp tu từ: so sánh và nhân hóa. Với một số lượng lớn câu so sánh và câu nhân

hóa được sử dụng trong đó đã giúp cho các nhân vật của ông hiện lên một cách

sinh động. Nó đã đưa người đọc đặc biệt là các bạn thiếu nhi hòa vào cuộc sống

muôn màu muôn vẻ của thế giới loài vật, giúp cho bạn đọc thêm hiểu về tính

cách đặc trưng của từng loài vật.

Bức tranh về thế giới loài vật được tác giả Tô Hoài khéo léo vẽ với đầy đủ

màu sắc. Các con vật trong đó hiện lên một cách cụ thể, sinh động từ cử chỉ, hành

động, suy nghĩ cho đến lời ăn tiếng nói của mình. Qua đó, bạn đọc thêm yêu mến

các con vật hơn.

Khi xã hội ngày càng phát triển thì cuộc sống của con người cũng dần

phát triển theo. Nhu cầu thị hiếu của con người cũng khác xưa rất nhiều. Trẻ

em sẽ ít được tiếp xúc với các con vật, đặc biệt là trẻ em thành thị. Chúng chỉ

có thể biết được các con vật thông qua những bài học trên lớp, hoặc bằng truyện,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tranh ảnh. Những chuyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài đã đưa trẻ em đến gần

với thế giới động vật. Đây là một ý nghĩa vô cùng to lớn trong các truyện của

ông. Biết yêu mến, cảm thông với những con vật, từ đó hình thành nên giá trị

nhân cách của trẻ em, một phương diện mà không phải nhà văn nào cũng làm

được.

Thành công lớn của nhà văn Tô Hoài đó là ông luôn nắm bắt được tâm

lý của của người đọc. Ông có tài quan sát hiện thực phong phú. Cái tài của

ông luôn đi liền với cái tình. Đó là tình cảm gắn bó, thái độ xót thương với thế

giới loài vật khi chúng bị hoàn cảnh của cuộc sống xô đẩy. Điều này được thể

hiện rất rõ qua các cuộc đối thoại của các nhân vật. Mỗi cuộc hội thoại là một

giọng điệu khác nhau: vui tươi, hóm hỉnh, hài hước, nhưng cũng có những

cuộc hội thoại mang đậm nỗi buồn…Đó là những giọng điệu rất linh hoạt, sinh

động và ngộ nghĩnh.

Thế giới nhân vật của Tô Hoài không chỉ là những con vật nhỏ bé, đáng

yêu, gần gũi với đời sống của con người mà còn là thế giới của những sự vật

vô tri vô giác (cây cối, trăng…). Qua ngòi bút của tác giả, những nhân vật này

hiện lên một cách vô cùng sống động. Chúng được so sánh với những sự vật

khác làm nổi bật lên nét tính cách riêng của từng loài và chúng cũng mang

những tâm tính như con người: biết khóc, biết cười và sống một cuộc sống có

ích, có ý nghĩa.

Có một số câu chuyện của Tô Hoài mang đậm nét văn hóa và phong tục

của người miền núi. Điều này được thể hiện qua các mô típ so sánh của ông.

Viết về các anh hùng nhỏ tuổi như Kim Đồng, Vừ A Dính, Hoa Sơn, Tô Hoài

cũng muốn dăn dạy các bạn nhỏ tuổi về tinh thần yêu nước bất khuất của nhân

dân ta. Đó là tinh thần sắt thép giúp người dân Việt Nam chiến thắng biết bao

kẻ thù xâm lược.

Có thể nói khi nghiên cứu sâu về tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô Hoài,

so sánh và nhân hóa là hai phương diện nghệ thuật rất hay và rất cần thiết. Qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hai biện pháp tu từ nghệ thuật này mà đặc sắc nghệ thuật của tác giả hiện lên rõ

nét. Ngôn ngữ của ông trong sáng, bình dị, phù hợp với tâm lý của bạn đọc. Qua

đó, ta cũng thấy được thái độ sống chan hòa với thiên nhiên của tác giả. Nét cá

tính của Tô Hoài không giống như những nhà văn khác. Nó không mạnh mẽ, dữ

dội như các nhà văn hiện đại đương thời mà nó dịu hiền và điềm đạm. Một thứ

không phải thoạt đầu ai thấy cũng phải say mê mà nó càng đọc càng say, càng

thấm. Đó chính là chất rất riêng của Tô Hoài.

Tuy đã qua đời nhưng sự nghiệp văn học của Tô Hoài vẫn còn mãi trong

lòng bạn đọc. Chúng ta sẽ luôn nhớ về ông, một người đã dành hầu hết những

năm tháng của cuộc đời vào những trang viết. Chỉ xét riêng về mảng truyện

viết cho thiếu nhi, ông đã góp phần làm nên diện mạo văn học thiếu nhi Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nam hôm nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A/ Tài liệu tham khảo

1. Lại Quang Ân (2003), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh,

Nxb Văn hóa thông tin.

3. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Vũ Ngọc Bình (1985), Văn học và trẻ em, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

5. Kim Cận (1985), Sáng tác đồng thoại và một số vấn đề khác (Sách dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, Nxb Đại học sư phạm Hà

Nội.

7. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục.

8. Đỗ Hữu Châu - Bùi Minh Toán (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, Nxb

Giáo dục.

9. Đỗ Hữu Châu (2007), Giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Giáo dục Huế.

10. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

11. Đỗ Hữu Châu (2011), Từ vựng - ngữ nghĩa tiến Việt, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

12. Đỗ Hữu Châu (2001), Cơ sở ngữ dụng học, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

13. Đỗ Hữu Châu (2003), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà

Nội.

14. Song Dương, Đặng Thông (2010), Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội .

15. Hữu Đạt (2009), Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp tiếng Việt, Nxb

Giáo dục Việt Nam.

16. Phan Cự Đệ (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Điệp (2011), Tô Hoài người sinh ra để viết, tạp chí nhà văn.

18. Đinh Văn Đức (2000), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (1987), Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb văn học,

Hà Nội.

20. Hà Minh Đức (1994), Truyện viết về loài vật của Tô Hoài, Nxb Tác phẩm

mới, Hội nhà văn Việt Nam.

21. Hoàng Anh Đường, "Vấn đề sáng tác về con người có thật trong văn học

thiếu nhi", Tạp chí Văn học, số 8, 1966.

22. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội.

23. Phạm Thị Thu Hà (2013), Đặc điểm truyện viết về loài vật trước 1945, luận

văn thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

24. Cao Thị Hảo (2010), Văn học hiện đại 3A, DH SP Thai Nguyen

25. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Khoa học

xã hội.

26. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận Phong cách học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

27. Nguyễn Thái Hòa (1983), Phân tích phong cách học, Đại học Sư phạm

Hà Nội.

28. Tô Hoài (1960), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học.

29. Tô Hoài (1963), Trao đổi về đồng thoại, Báo văn nghệ, số 13.

30. Tô Hoài (1968), Tôi viết đồng thoại Dế Mèn, Chim gáy, Bồ nông, Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

văn học, số 10.

31. Tô Hoài (1989), Những sách thiếu nhi được tặng thưởng năm 1998, Báo

Văn nghệ số 40.

32. Tô Hoài (1991), Viết về Kim Đồng và Vừ A Dính, Báo thiếu niên Tiền phong.

33. Tô Hoài (1993), "Văn học cho thiếu nhi hôm nay", Tạp chí văn học, số

5/1993. Trang 2,3.

34. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nxb tác phẩm mới Hà Nội.

35. Tô Hoài (1997), Tuyển tập văn học thiếu nhi, tập 1, Nxb văn học Hà Nội.

36. Tô Hoài (1997), Tuyển tập văn học thiếu nhi, tập 2, Nxb văn học Hà Nội.

37. Tô Hoài (1999), Tuyển tập văn học thiếu nhi, tập 1, 2, Nxb Văn học.

38. Tô Hoài (2000), Những tác phẩm tiêu biểu (trước năm 1945), PGS.TS. Vân

Thanh, Nxb Giáo dục.

39. Văn Hồng (1997), 10 năm ghi nhận, Nxb Kim Đồng.

40. Diệp Thanh Khiết (2013), Đối chiếu cấu trúc so sánh trong tiếng Việt và

tiếng Hán, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

41. Đinh Trọng Lạc, (1999) Giáo trình Việt ngữ, Nxb Giao duc

42. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục.

43. Đinh Trọng Lạc (1999), 300 bài tập phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

44. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2010), Phong cách học tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

45. Đinh Trọng Lạc (1992), "Vấn đề xác định, phân loại và miêu tả các phương

tiện tu từ và các biện pháp tu từ", Tạp chí ngôn ngữ số 4.

46. Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn) (2001), Tô Hoài về tác

gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Nguyễn Thế Lịch (2001), "Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt", Tạp chí ngôn

ngữ, số 7 + 9, Hà Nội.

48. Nguyễn Thế Lịch (1988), "Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ thuật tiếng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Việt", Tạp chí Ngôn ngữ số 1.

49. Huỳnh Hữu Lộc, (2004), Danh ngôn Việt Nam va thế giới, Nxb Thuan Hoa.

50. Nguyễn Văn Lộc (2017), Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục Việt

Nam.

51. Nguyễn Thị Nhung (2015), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Thái Nguyên.

52. Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

53. Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt, câu, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp.

54. Nguyễn Mạnh Tiến (2012), Đề cương bài giảng: Ngữ pháp tiếng Việt, Thái

Nguyên.

55. Phan Thị Thạch, (1992), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Ha Noi,

56. Lê Xuân Thại (1994), Câu chủ vị trong tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

57. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học xã

hội, H.

58. Tạ Văn Thông (2001), Cách xưng hô trong Dế Mèn phiêu lưu ký, Tạp chí

Ngôn ngữ, số 16.

59. Tạ Minh Thúy (2016.), Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài,

Đại học Quốc gia Hà Nội

60. Tạ Minh Thủy (2016), Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài,

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Người hướng dẫn khoa

học PGS.TS Lý Hoài Thu, Trường ĐH Quốc Gia Hà Nội.

61. Nguyễn Đức Tồn (1990), Chiến lược liên tưởng - so sánh trong giao tiếp

của người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3.

62. Cù Đình Tú (1983), Phong Cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DDH và THCN, Hà Nội.