BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Tấn Nguyên
BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”
CỦA WILLIAM FAULKNER
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Tấn Nguyên
BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”
CỦA WILLIAM FAULKNER
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Đào Ngọc Chương
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nào khác.
Học viên
Nguyễn Tấn Nguyên
1
LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành là quá trình cố gắng của bản thân nên dù kết quả có ra sao thì
tôi cũng đã nỗ lực hết mình. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
PGS.TS Đào Ngọc Chương- người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.
Phòng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý Thư viện
trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, các thầy cô đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
Thầy cô, bạn bè – những người luôn giúp đỡ, động viên tôi.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình vì đã hỗ trợ tôi mọi mặt.
Học viên
Nguyễn Tấn Nguyên
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 13
5. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 14
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 14
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 14
CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ......................................................................................................................... 16
1.1. Biểu tượng .................................................................................................................. 16
1.2. Biểu tượng nghệ thuật ............................................................................................... 21
1.3. Những lí thuyết liên quan đến Biểu tượng nghệ thuật ........................................... 25
1.3.1. Biểu tượng nghệ thuật với kí hiệu học .................................................................. 25
1.3.2. Biểu tượng nghệ thuật với phân tâm học .............................................................. 27
1.3.3. Biểu tượng nghệ thuật với huyền thoại học .......................................................... 29
CHƯƠNG 2: HỆ BIỂU TƯỢNG ÂM THANH TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 34
2.1. William Faulkner với “Âm thanh và cuồng nộ” ..................................................... 34
2.1.1. William Faulkner (1897-1962).............................................................................. 34
2.1.2. Về tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ” ............................................................... 35
2.2. Thanh âm của nhân vật ............................................................................................ 36
2.2.1. Thanh âm của Benjy .............................................................................................. 36
2.2.2. Thanh âm của Quentin .......................................................................................... 43
2.2.3. Âm thanh của Jason ............................................................................................... 51
2.2.4. Tiếng hát Dilsey .................................................................................................... 54
CHƯƠNG 3: HỆ BIỂU TƯỢNG VẬT THỂ KHÔNG - THỜI GIAN TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................. 61
3.1. Biểu tượng thời gian .................................................................................................. 61
3.1.1. Đồng hồ - cảm thức lưu đày .................................................................................. 62
3
3.1.2. Chiếc chuông- nhịp đập cuộc sống ....................................................................... 71
3.2. Biểu tượng không gian .............................................................................................. 73
3.2.1. Hàng rào và sự cách ngăn cuộc sống ................................................................... 74
3.2.2. Đồng cỏ - ước muốn trở về tự nhiên ..................................................................... 76
3.2.3. Cửa sổ - hành trình vượt thoát cô đơn ................................................................... 79
3.2.4. Ngọn cây - khát vọng truy tầm .............................................................................. 82
CHƯƠNG 4: HỆ BIỂU TƯỢNG TÂM LINH TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 85
4.1. Lửa như là bản nguyên của vũ trụ ........................................................................... 85
4.2. Nước - sự gột rửa nỗi đau.......................................................................................... 90
4.3. Hoa - nhịp thở lụi tàn ................................................................................................ 95
4.4. Bóng - những ảnh hình của cái chết ......................................................................... 97
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 107
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Mỹ là một nền văn học lớn trên thế giới, trong đó William Faulkner cùng
với Ernest Hemingway là hai đại diện tiêu biểu của văn học Mỹ thế kỉ XX. Nếu ở Việt
Nam, tác phẩm của Hemingway được các nhà nghiên cứu nghiên cứu với nhiều công trình
khác nhau thì ngược lại sáng tác của Faulkner lại chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu thật kĩ
lưỡng và chi tiết. Faulkner là nhà văn luôn có ý thức đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Tác
phẩm của ông khá kén người đọc, luôn đòi hỏi người đọc phải làm việc thật nghiêm túc mới
có thể tìm thấy được những cái đẹp ẩn dưới các trang văn của ông.
Cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ (The Sound anh the Fury) là tiểu thuyết
được viết thứ tư trong số 20 cuốn tiểu thuyết của Faulkner. Nó được nhiều người đọc đánh
giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của thế kỉ XX. Âm thanh và cuồng nộ lúc
mới ra đời chưa được hoanh nghênh, nhưng nó đã khẳng định tài năng tiểu thuyết của
Faulkner, để rồi qua sự gạn lọc của thời gian, giá trị của nó càng được khẳng định. Và đồng
thời, theo thời gian tác phẩm này luôn mời gọi và thách đố các nhà nghiên cứu bởi sự trộn
lẫn tinh tế và tài hoa của nhiều thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt biểu tượng nghệ thuật với tư
tưởng nghệ thuật của Faulkner.
Faulkner là nhà văn sống và gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Nam nước Mĩ, mỗi
tác phẩm của ông luôn chứa những yếu tố văn hóa sâu sắc, lâu đời của vùng đất này. Xuất
phát từ những lí do đó, chúng tôi tìm hiểu tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ dưới góc nhìn
biểu tượng nghệ thuật.
Có thể khẳng định, cùng với hướng nghiên cứu văn học theo thi pháp học và huyền
thoại học thì tiếp cận văn học dưới ánh sáng của biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên
cứu văn học đầy triển vọng. Hướng tiếp cận này có khả năng chỉ ra được những nét riêng
độc đáo trong tác phẩm văn học. Đồng thời đi theo hướng nghiên cứu này chúng ta có thể
nhận rõ hơn đặc thù của văn học trong mối tương quan, đối sánh với các ngành khoa học xã
hội và nhân văn khác đặc biệt là văn hóa học, tâm lí học,... để người nghiên cứu tiếp nhận
tiệm cận với chân lí văn chương.
Từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong Âm
thanh và cuồng nộ của William Faulkner” để từ đó thấy được phong cách sáng tác của ông
và tư tưởng nhân văn mà người nghệ sĩ này gửi gắm cho hậu thế.
5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn chúng tôi tiến hành nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong
Âm thanh và cuồng nộ, do đó chúng tôi sẽ tìm hiểu những biểu tượng nghệ thuật có trong
tác phẩm này và phân loại, sắp xếp chúng thành một hệ thống, từ đó làm chỉ ra cái hay và
cái đẹp trong sáng tác của Faulkner.
Phạm vi nghiên cứu chúng tôi tiến hành là tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ do dịch
giả Phan Đan và Phan Linh Đan dịch (Nxb Văn học, 2008). Trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi sẽ đối sánh với những tác phẩm khác của Faulkner để có một cái nhìn sâu sắc hơn
về biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết này.
3. Lịch sử vấn đề
Khi tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ ra đời (1929) , tác phẩm đã thu hút được rất
nhiều sự quan tâm và nghiên cứu của người tiếp nhận trên thế giới. Trong khi ở Việt Nam,
việc nghiên cứu về Faulkner và sáng tác của ông cũng ít nhiều được các học giả chú ý:
Trước 1975, ở miền Nam chuyên luận “William Faulkner cuộc đời và tác phẩm” do
Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha viết là cuốn sách có giá trí nhất lúc đó trong việc nhìn
nhận và thẩm định tài năng nghệ thuật của Faulkner. Các nhà nghiên cứu đã thấy ở nhà văn,
“lối trưng bày quan điểm và kỹ thuật gợi cảm lương tri, ngay cả kỹ thuật vừa phân tích
nguyên do, vừa mô tả hành động của các nhân vật trong truyện cũng nhiều khi làm cho các
đoạn văn tối nghĩa, khiến người đọc lúng túng, kém hấp dẫn”[43, 27-28]. Họ tìm hiểu sáng
tác của ông thông qua tiếp cận thế giới nhân vật, đề tài cũng như các kĩ thuật độc thoại nội
tâm, dòng ý thức, cách dùng từ,... nhưng tác giả chưa chú ý đến biểu tượng nghệ thuật có
trong tiểu thuyết: “Kỹ thuật gợi tả của Faulkner qua lối độc thoại thay đổi tùy theo hoàn
cảnh và tùy theo nhân vật. Với Benjy thì câu viết ngắn, đứt quãng, dồn dập, tạo ra cái hiện
thực mãnh liệt của những tia chớp đột lóe trong đêm tối. Lời độc thoại nội tâm của chàng
Quentin thì rườm rà chải chuốt theo lối văn lãng mạn. Đến Jason thì câu ngắn gọn gàng,
mạch lạc, phản ánh đúng cái tâm trạng suy luận, tính toán của chàng này. Giọng văn ở
phần cuối lập lại bút pháp đã sử dụng ở ba phần trên tùy theo tâm tính của từng nhân vật
xuất hiện”[43, 55]. Cùng thời gian này, Bùi Giáng cũng đã viết một chuyên luận bàn về tiểu
thuyết của Faulkner, “Martin Heiderger và tư tưởng hiện đại” trong đó ông đánh giá tiểu
thuyết Âm thanh và cuồng nộ: “Đó là một bầu không khí u ám cuồng loạn, le lói những tia
sáng âm u bi đát… chập chờn bóng ma định mệnh về lè lưỡi giăng lưới phủ ngập cuộc đời,
6
trùm lên cõi thế một ngày tang tóc ảo não ác liệt, trong đó lố nhố những bóng người, đàn
ông có đàn bà có, trẻ con có, gái trai già trẻ có, không thiếu mặt người nào và thảy thảy đều
điên loạn như những con múa rối mù quay cuồng theo Định Mệnh thuần túy trong điên tiết,
trong nhiệt tình man rợ, lao đầu vào cái chết để hình hài tan vỡ như xác pháo mà chơi…cho
đê mê đi vì sống làm sao nổi với những cái đa đoan hệ lụy chằng chịt cởi gỡ không ra
vướng vít quanh mình ám hại thể phách tinh anh bì bõm thịt xương da máu với chết chóc
với cưỡng dâm, với gia hình khốc hại, tự vẫn tơi bời giữa hãi hùng điên đảo gió mưa sa
ngàn năm”[20, 209]. Và ông nhìn thấy đặc điểm thời gian trong tác phẩm , “chính khi kể
một giai đoạn ông cũng đảo lộn lung tung. Thời gian chảy ngập tràn lan trong một phút,
một phút loạn cuồng mê tơi vấn vít mịt mờ bóng sương xen đủ cả hiện tại, quá khứ, tương
lai..cái không gian điên đảo của Faulkner đã chạy lung tung khắp nẻo đường năm tháng lạc
lõng, bơ vơ, khác với không gian mù mịt”[20, 350]. Và rõ ràng thi sĩ họ Bùi đã có những
cảm nhận độc đáo khi đánh giá văn phong của Faulkner, nhưng chính lối phê bình ấn tượng
của ông khiến những luận điểm của ông khó được nhận ra.
Ở miền Bắc, viện sĩ Hoàng Trinh có lẽ là người tiếp cận Faulkner sớm nhất. Trong
chuyên luận, “Phương tây, văn học và con người” nhà nghiên cứu xem Faulkner là, “một
trong những nhà văn đầu đàn đã mở đầu cho kỉ nguyên mới của tiểu thuyết hiện đại phương
Tây”[50, 293]. Hoàng Trinh đặt Faulkner vào dòng chảy của văn học hiện đại và thấy ở ông
cùng với các nhà văn hiện đại khác là Kafka và James Joyce, “là những nhà văn đã dám
làm một cuộc ‘dấy loạn’ trong văn học hiện đại. Họ đã dám cắt đứt được các thứ ảo tưởng,
với tinh thần lạc quan ngây thơ và dễ dãi, với thói tự dối mình. Họ đã dũng cảm đi vào
những bí ẩn của cuộc sống, của “vấn đề con người”, của sinh tồn đích thực. Tiểu thuyết
của họ đã chọc thủng được những bức tường kiên cố bấy lâu nay bọc kín lấy thân phận con
người, không cho con người tìm thấy lại đúng bản thân mình”[50, 13]. Nhà nghiên cứu đã
nhận diện được chủ đề trong sáng tác của Faulkner là vấn đề thân phận của con người trong
xã hội tư sản: “Faulkner muốn chứng minh đời người trong thế giới tư bản chủ nghĩa chẳng
qua chỉ là một trò hề, một câu chuyện do một thằng ngốc kể lại, cũng đủ cả hò hét phẫn nộ
nhưng nào có ích gì đâu”[50, 43]. Thực ra thân phận con người mà Faulkner muốn viết
không chỉ là con người trong xã hội tư sản mà là con người nhân loại, “khi nhà văn viết về
con người tức là anh ta viết về những ước vọng, những gian khổ, những nỗi lo âu, lòng can
đảm và sự hèn nhát, những cái nhỏ nhen và những cái cao đẹp trong tâm hồn họ”[24, 357].
7
Ở chuyên luận này biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ cũng chưa được
viện sĩ Hoàng Trinh quan tâm.
Sau Hoàng Trinh, Lê Huy Bắc là nhà nghiên cứu đã có những tiếp cận Faulkner khi
dịch lại những đoạn phỏng vấn của phóng viên về Faulkner in trong tập “Phê Bình- lí luận
văn học Anh Mỹ”. Những mẫu đối thoại ấy đã gợi ý cho chúng tôi tiếp cận biểu tượng nghệ
thuật trong Âm thanh và cuồng nộ. Trong một đoạn phỏng vấn của chuyên luận này,
Faulkner nói, “tôi muốn rằng tác giả không dự tính trước nhưng tôi nghĩ, sống trong cùng
một môi trường văn hóa, nền tảng tri thức của nhà phê bình và của nhà văn là giống nhau
đến nỗi mỗi phần lịch sử của mỗi người là hạt giống mà có thể được chuyển thành hình ảnh
tượng trưng và được xác định tiêu chuẩn trong nền văn hóa đó”[6, 165]. Biểu tượng nghệ
thuật tồn tại trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà nghệ sĩ và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là
nhận thấy nó bằng ánh sáng của tư duy khoa học. Ngoài ra trong cuốn “Lịch sử văn chương
Hoa Kỳ” Lê Huy Bắc đã nhận định về tiểu thuyết của William Faulkner: “Tiểu thuyết và
truyện ngắn của Faulkner tạo nên một diện mạo độc đáo và qui tụ rất nhiều nhà cách tân
văn xuôi trong nhiều thập kỉ tiếp theo. Faulkner nổi tiếng khi viết về những điều băng hoại
đang thối rữa với niềm đau ẩn sâu sau lối trần thuật đạt đến mức độ khái quát hóa cao.
Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Faulkner là đi tìm chân lí phổ quát cho sự tồn tại của con
người”[8, 629]. Những nhận định ấy rất có giá trị đối với việc nghiên cứu Faulkner khi đã
chỉ ra được nét chủ đạo trong cảm hứng tư tưởng ở người nghệ sĩ là “sự tồn tại của con
người”. Dẫu vậy tác giả vẫn chỉ dừng lại ở sự định giá về nghệ thuật văn chương của
Faulkner chứ chưa đi vào khảo sát những biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng
nộ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đàn khi nghiên cứu về Faulkner trong “Hành trình văn
học Mỹ” đã đi vào khám phá nét độc đáo làm nên phong cách của nhà văn, “văn phong của
Faulkner khá độc đáo, nó toàn gồm những câu dở dang, theo kiểu ngôn ngữ điện tín, tuy
nhiên từ ngữ của tác giả rất phong phú và có những đoạn thu ngắn gây ấn tượng sâu sắc,
nhiều trang viết rất tối nghĩa vì hình thức quá cô đọng. Faulkner vốn ở miền Nam, trong
cách miêu tả các khung cảnh làm nền, ông tỏ ra có hiểu biết sâu sắc về cảnh quan, phong
tục và tính cánh”[14, 259]. Ở đây nhà nghiên cứu không chỉ thấy nét đặc sắc của bút pháp
Faulkner từ phương diện ngôn từ mà đã bước đầu chú ý đến yếu tố văn hóa và đặc biệt là
những biểu tượng nghệ thuật: “Sáng tác của ông có ý nghĩa biểu tượng, nhưng muốn tìm
hiểu các biểu tượng ấy cần phải có một cái nhìn toàn thể. Lúc bấy giờ các truyện ngắn và
8
tiểu thuyết của ông mới rõ nghĩa”[14, 264]. Dẫu nhà nghiên cứu không phân tích một tác
phẩm nào của Faulkner theo hướng biểu tượng học nhưng cuốn sách đã cho chúng tôi
những gợi dẫn để tiếp cận tác phẩm theo hướng này.
Tìm hiểu Âm thanh và cuồng nộ trên trang yume.vn có một bài viết rất lí thú liên
quan đến biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm trên. Người viết tiếp cận tác phẩm Âm
thanh và cuồng nộ trên bốn phương diện chính là kết cấu, cốt truyện, nhân vật, không gian,
thời gian. Ở đây tác giả đã có ý thức vận dụng biểu tượng nghệ thuật nhằm khám phá nét
độc đáo và hấp dẫn của thể loại tiểu thuyêt Gotich miền Nam nước Mỹ, các biểu tượng
“Cửa sổ”, “Đồng hồ”, đã được người viết đề cập như một gợi mở cho chúng tôi đi tiến hành
làm đề tài biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner
Nghiên cứu về Faulkner còn có khá nhiều công trình luận văn thạc sĩ có giá trị nhưng
chúng tôi chưa thấy luận án tiến sĩ nào viết về ông ở Việt Nam.
Các công trình luận văn thạc sĩ chúng tôi tìm được là luận văn thạc sĩ , “Âm thanh
và cuồng nộ của Wiliam Faulkner dưới góc nhìn phân tâm học” của học viên Đặng Thị
Nhã, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2011 do PGS.TS Đào Ngọc Chương
hướng dẫn. Trong luận văn này, người viết đã tiếp cận tiểu thuyết trên dưới ánh sáng của
phân tâm học. Sau khi giới thuyết thuật ngữ phân tâm học ở chương một với ba khái niệm
trung tâm là vô thức, dục năng và giấc mơ, tác giả đã chỉ ra dấu ấn của phân tâm học trong
tiểu thuyết này: “Sự phân chia thành bốn chương như trên trong tác phẩm Âm thanh và
cuồng nộ, nếu nhìn dưới góc nhìn phân tâm học, nó giống với trình tự ba cấp độ tự ngã
(chương 10), bản ngã (chương 2) và siêu bản ngã (chương ba) trong cấu trúc tâm thần của
Freud và cuối cùng chính là con người tác giả”[34, 39]. Chúng tôi tập trung chú ý vào
chương hai của luận văn, trong chương này, ở phần 2.1.3, người viết đã nghiên cứu hệ thống
biểu tượng về chủ đề mất mát, “trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ, chúng tôi thấy
xuất hiện hai loại biểu tượng: Biểu tượng gốc và biểu tượng phái sinh. Với những biểu
tượng gốc có liên quan đến cổ mẫu như: Nước, lửa, bùn,(đất) chúng tôi sẽ từ nghĩa gốc đi
tìm nét nghĩa mới mà Faulkner đã bồi đắp cho. Với những biểu tượng phái sinh là những
sản phẩm của cá nhân như: lá, hoa, chiếc dép, đồng hồ,..Chúng tôi giải mã nguyên nhân mà
biểu tượng đó hình thành”[34, 63]. Tác giả đã chỉ ra được một số biểu tượng gốc và biểu
tượng phái sinh xuất hiện trong văn bản này và cố lí giải nó gắn với chủ đề mất mát mà
Faulkner đã cố xây dựng. Có thể nói, luận văn đã thấy được dụng ý xây dựng biểu tượng
của nhà văn đồng thời xây dựng được một hệ thống chủ đề xoay quanh các biểu tượng.
9
Nhưng tác giả vẫn chưa đi nghiên cứu sâu đặc điểm của các biểu tượng gắn bó mật thiết và
trực tiếp với mỗi nhân vật. Cho nên tác giả kết luận: “Những biểu tượng này vẫn mãi là
những ẩn số khơi gợi sự tò mò muốn khám phá với những ai đã một lần chạm tay vào
nó”[34, 79]. Dẫu vậy, luận văn đã gợi ra cho chúng tôi một cái nhìn mới khi tiếp cận tiểu
thuyết Âm thanh và cuồng nộ.
Luận văn thạc sĩ của học viên Tạ Như Oanh với đề tài “Nhân vật Caddy trong Âm
thanh và cuồng nộ của William Faulkner” do PGS.TS Đặng Anh Đào hướng dẫn. Luận
văn của Tạ Như Oanh khi tiếp cận hình tượng nhân vật Caddy trên ba phương diện điểm
nhìn của người kể chuyện, cái nhìn thực ảo và tính Mẫu của nhân vật Caddy. Luận văn
cũng đã chú ý đến vấn đề biểu tượng ở trong chương 2: Thực và ảo trong nhân vật Caddy,
phần 2.2. Tính biểu tượng: Caddy được biểu hiện qua những hình ảnh gián tiếp. Tác giả
luận văn cho rằng, “trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, nhân vật Caddy là nhân vật
trung tâm của toàn bộ tác phẩm đã được xây dựng bởi rất nhiều biểu tượng đặc biệt, giúp
gắn kết các sự kiện rời rạc trong tác phẩm. Những hình ảnh được nhắc đến nhiều trong tác
phẩm là cây, mùi hương, ngọn lửa, đồng hồ, nước, cây cầu… Trong đó loạt hình ảnh mang
tính biểu tượng về nhân vật Caddy được phác họa nhiều đó là ngọn lửa và cây”[40, 23].
Luận văn chỉ ra biểu tượng Lửa và biểu tượng Cây đã góp phần tạo nên sự độc đáo trong
cách thức xây dựng hình tượng Caddy. Dẫu chưa có một sự phân tích biểu tượng nghệ thuật
theo hướng hệ thống nhưng luận văn này cũng cho chúng tôi ý tưởng để tiến hành đề tài.
Các công trình nghiên cứu về Faulkner trên thế giới được chúng tôi tìm hiểu sẽ xoay
quanh những biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ bởi số
lượng công trình nghiên cứu về Faulkner ở Mĩ quốc và các nước khác là rất lớn. Chúng tôi
thấy có công trình “The Cambridge companion to the William Faulner” được viết bởi
Phillip M.Weinstein. Trong đó, tác giả đã cho nhấn mạnh tài năng của Faulkner, đặc biệt là
cảm hứng tư tưởng khi so sánh ông với Kafka, “xa hơn thế nữa, Faulkner và Kafka là hai
nhà văn mà tư tưởng của họ còn lớn hơn văn chương của họ”[56, 94]. Đồng thời khi đi vào
văn bản, người viết đã đánh giá: “Với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner đã khước từ lối
nhận diện dễ dàng với các chủng tộc khác ông và bắt đầu đến với vị trí thực trạng chủ đề
người da trắng trong nền chính trị và văn hóa của chủ nghĩa dân tộc miền Nam”[56, 135].
Và người viết thấy hình tượng của bốn đứa trẻ nhà Compson: “Chị gái của họ, Caddy
không sản sinh, không thể có tài khoản khi tất cả sự thay đổi và chuyển biến của nàng đều
gắn với mất mát ‘những nhành cây lấp lánh’ của tuổi trẻ trong một dòng lũ nhám của cuộc
10
sống trong nó. Trái ngược lại là Benjy, là người ‘ không bao giờ phải phát triển lúc này’
của mất mát và bất hạnh, Quentin và Jason là đại diện khác cho chế độ đã bị sụp đổ trong
sự đau buồn của họ”[56, 140]. Có thể nói cuốn sách đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu
biết sơ bộ để đi vào khám phá những biểu tượng trong tiểu thuyết này.
Ngoài ra trong bài viết “Reflections of the 1920s in The Sound and the Fury” được
viết bởi Nancy D. Hargrove. Chúng tôi cũng tìm thấy những ý kiến giá trị xoay quanh tiểu
thuyết này. Tác giả sau đi vào phân tích những ảnh hưởng của thời đại, đặc biệt là công
nghệ điện ảnh và các nhà văn khác đối với Faulkner, đã thấy ở nhà nghệ sĩ này những dấu
hiệu độc đáo của phương thức tư duy biểu tượng trong văn bản Âm thanh và cuồng nộ, đó
là dòng nước và hoa kim ngân: “Và cảnh tự tử gây sửng sốt giữa Quentin I và Caddy trong
đó Caddy nằm trong dòng nước với mùi hương của hoa kim ngân và mưa thấm trong không
khí là một trong những chi tiết gợi cảm mạnh mẽ nhất trong văn học hiện đại”[54, 56].
Người viết nhận ra một cảm quan lịch sử của thế kỉ XX, tình trạng bất ổn về tâm lí của các
nhân vật, sự mất mát, đổ vỡ niềm tin: “Âm thanh và cuồng nộ cũng tái hiện lại những cảm
giác tuyệt vọng và mất mát được tìm thấy – từ Luster mất đi đồng 25 xu đến Jason mất cơ
hội đầu tư trên thị trường bông, từ Quentin đến Benjy mất Caddy và Caddy mất đi con của
mình, và cứ như vậy. Hơn nữa, nhiều nhân vật trong truyện đã bị vỡ mộng, ông Jason
Compson với triết lí bi quan về cuộc sống đã thấy ở con người chỉ toàn sự thất bại và đổ vỡ
giá trị niềm tin và nhận thức: “không có trận chiến nào là thắng cả. Thậm chí họ không
chiến đấu. Cánh đồng chỉ là sự sở hữu điên rồ của con người, chiến thắng chỉ là trò ảo
tưởng của nhà triết học và những người ngốc”[54, 59].
Với cuốn “Faulkner International Perspectives”, một tập hợp những bài viết về
Faulkner và tác phẩm của ông, nó được biên tập bởi Doreen Fowlor và AnnJ.Abdie, trong
đó chúng tôi chú ý tới bài viết “from Jefferson to the World” của Calvins Brown. Tác giả đã
chỉ ra những ảnh hưởng của các nhà văn trên thế giới đến với Faulkner đặc biệt là các tác
giả của hai nền văn học là văn học Pháp và văn học Anh, “Faulkner đọc được những tác
phẩm nổi tiếng của văn chương Pháp sau những bài thơ vĩ đại của văn học lãng mạn Anh,
với Balzac và Gautier”[55, 23]. Qua cuốn sách trên, chúng tôi thấy chính dấu ấn của những
nhà văn đi trước đã giúp Faulkner có được một kĩ thuật xây dựng tác phẩm độc đáo và đi
cùng với nó là cảm hứng sáng tạo mãnh liệt,.. Những điều đó đã thổi hồn vào trong các
trang viết của ông. Bài viết cũng giúp chúng tôi mở ra được một cánh cửa khi đi vào biểu
tượng không gian mà Faulkner đã sáng tạo.
11
Trong bài viết “In The Sound and the Fury, Benjy Compson Most Likely Suffers from
Autism” của Patrick Samway, S.J. Gentry Silve. Khi nghiên cứu về nhân vật Benjy, tác giả
thấy được ngoài vốn từ vựng Benjy sử dụng để nói lên cảm nhận của mình với cuộc sống
còn có một tiếng khóc để nhân vật này giao tiếp với cuộc sống: “Các nhà phê bình đã đề
cập đến tiếng khóc của Benjy vì đó là một trong những cách thức làm nên đặc tính ở hắn,
chẳng hạn André Belaikastin đã viết, “tiếng kêu và âm thanh rên rỉ của hắn ám ảnh thông
qua sự lặp lại của “khóc”, “than khóc”, “rên rỉ”, “chảy nước dãi”, “rống”,- cung cấp
những thứ tạo nên nền tảng ở phần một, không bao giờ khớp nối giống như lời nói, tiếng
kêu của Benjy là biểu hiện của sự đáng thương và nỗi thống khổ không lời và không thể
chịu đựng”[54, 11]. Bài viết đã khắc họa được hình tượng nhân vật Benjy nhưng chưa xâu
chuỗi nhân vật này vào trong hệ thống các nhân vật mà Faulkner tạo dựng. Dẫu vậy công
trình cũng cung cấp cho chúng tôi những khám phá thú vị xoay quanh thanh âm của Benjy.
Ngoài ra chúng tôi còn thấy một tài liệu khác khá quan trọng có đề cập đến vấn đề
chúng tôi quan tâm, đó là “Rereading Faulkner: Authority, Criticism, and The Sound and
the Fury” của Stacy Burton . Trong công trình này, tác giả đã đọc lại những nghiên cứu về
Faulkner của những người đi trước như Malcolm Cowley, trong cuốn “Portable Faulkner
anthology the Appendix”, ở đó Cowley đã thấy ở cuốn tiểu thuyết này, “sự thay đổi cuối
cùng ông muốn làm, đó là cái đích sáng tạo mà nhà nghệ sĩ muốn trong công việc của
mình”[57, 605], ông thấy ở Richard Godden khi đọc tiểu thuyết này, “một câu chuyện trong
ba truyện: liên kết bởi cái chết, sự phục sinh, một phần sự sụp đổ và một nửa phục sinh của
nhân vật”[57, 606]. Bài viết cũng chỉ ra những thứ mà Benjy yêu nhất là, “ Đồng cỏ, chị gái
Caddy và Lửa”. Những biểu tượng đó đã góp phần cho chúng tôi nhận thức sâu sắc hơn về
biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Faulkner. Và công trình cũng lưu ý đến ý kiến của
Philip Weinstein trong bài viết năm 1980 khi tác giả của nó cho rằng trong văn bản Âm
thanh và cuồng nộ có dấu vết của nguồn gốc Kinh Thánh. Từ những ý kiến của những nhà
nghiên cứu trước, Stacy Burton đã đọc tiểu thuyết này dưới ánh sáng của lí thuyết Bakhtin.
Ông thấy ở Faulkner sự cách tân mạnh mẽ và táo bạo của một tiểu thuyết gia hàng đầu thế
kỉ XX, bởi theo Bakhtin, “cuộc sống trong những tác phẩm văn học là sự liên tục sáng tạo:
thực tại và đại diện thế giới tìm thấy bản thân họ trong sự tương tác lẫn nhau như người
đọc với không- thời gian, sáng tạo lại cũng như viết lại văn bản”[57, 627], với Âm thanh
và cuồng nộ, nhà văn đã xóa nhòa mọi đường biên thể loại như tác giả đã thấy. Ngoài ra tác
giả còn thấy trong văn bản biểu tượng trung tâm là Caddy: “Hình ảnh Caddy Compson với
12
chiếc quần đầy bùn, trèo lên ngọn cây và nhìn ra cửa sổ và truy tìm do đó tiểu thuyết này là
một chuỗi những nỗ lực được kể không bao giờ nằm trong sự yên lặng một cách đúng
đắn”[57, 620]. Theo tác giả, văn bản này ngoài khả năng phân tích tâm lí sâu sắc đã chứa
đựng huyền thoại: “Thế giới của nhà Compson giống như một vũ trụ nhỏ của những huyền
thoại lớn về mất mát và tái tạo”[57, 621]. Những luận điểm của tác giả đã dẫn chúng tôi
đến việc đưa những biểu tượng nghệ thuật của Faulkner vào nghiên cứu dưới ánh sáng của
huyền thoại.
Những tài liệu trong nước và quốc tế về nhà văn Faulkner và tiểu thuyết của ông đã
giúp chúng tôi rất nhiều trong việc khảo sát biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Âm
thanh và cuồng nộ .
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những biểu tượng nghệ thuật có trong tác phẩm Âm thanh và
cuồng nộ, phương pháp đầu tiên mà chúng tôi sử dụng là phương pháp kí hiệu học. Phương
pháp này sẽ được chúng tôi sử dụng trong chương hai khi nghiên cứu về hệ thống biểu
tượng Âm thanh của các nhân vật trong tiểu thuyết để chỉ ra nghĩa hàm của mỗi biểu tượng
bên cạnh nghĩa biểu hiện của nó.
Mỗi biểu tượng nghệ thuật phải được nhìn nhận trong hệ thống, do đó muốn hiểu sâu
mỗi biểu tượng nghệ thuật theo chúng tôi phải đặt nó vào trong hệ thống nên phương pháp
thứ hai chúng tôi vận dụng là phương pháp hệ thống. Và phương pháp hệ thống được chúng
tôi sử dụng trong bốn chương của luận văn để tạo một cái nhìn liên đới cho luận văn nhưng
nó được vận dụng nhiều nhất ở chương ba khi chúng tôi xây dựng hệ biểu tượng Không -
thời gian.
Biểu tượng nghệ thuật liên quan chặt chẽ đến văn hóa, xã hội, tâm lí,... nên phương
pháp liên ngành cũng đươc chúng tôi sử dụng trong luận văn này. Đặc biệt phương pháp
liên ngành được chúng tôi vận dụng nhiều trong chương cuối khi tiếp cận biểu tượng nghệ
thuật tâm linh để thấy được sự mối quan hệ của văn học với các loại hình nghệ thuật khác.
Âm thanh và cuồng nộ là một tác phẩm khó đọc do đó để có một cái nhìn sáng rõ
hơn về nó thì phương pháp cấu trúc cũng được chúng tôi sử dụng. Phương pháp cấu trúc sẽ
được chúng tôi vận dụng khi xây dựng cấu trúc luận văn và từng chương trong luận văn.
Đồng thời chúng tôi vận dụng trong luận văn phương pháp phê bình phân tâm học
mà chủ yếu là phân tâm học của C. Jung. Dưới góc nhìn của phương pháp phê bình phân
tâm học, chúng tôi hi vọng sẽ tiệm cận được những ánh sáng tâm lí trong mỗi biểu tượng.
13
Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng phương pháp thống kê để khảo sát tần số xuất hiện
của các biểu tượng nghệ thuật, nhằm chỉ ra được ý nghĩa biểu trưng của mỗi biểu tượng
nghệ thuật.
5. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ
của William Faulkner”, chúng tôi muốn tiếp cận tác phẩm này theo một hướng mới: biểu
tượng nghệ thuật. Đồng thời qua đó, chúng tôi có thể thấy được vài nét về phong cách và tư
tưởng nghệ thuật của Faulkner.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn mang đến cho người tiếp nhận một hướng tiếp cận mới đối với tác phẩm
“Âm thanh và cuồng nộ”.
Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những độc giả nào quan tâm
đến Faulkner và văn học hiện đại.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm bốn phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần tài liệu
tham khảo. Trong phần nội dung chúng tôi phân làm bốn chương.
Chương 1: Biểu tượng nghệ thuật và những lí thuyết liên quan
Trong chương này chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra được những đặc trưng của khái niệm
biểu tượng nghệ thuật. Phân biệt nó với những khái niệm khác gần biểu tượng nghệ thuật là
hình tượng nghệ thuật, ẩn dụ và hoán dụ, mẫu gốc. Đồng thời chúng tôi sẽ lí giải lí thuyết
biểu tượng nghệ thuật dựa trên các lí thuyết huyền thoại học, phân tâm học, kí hiệu học để
có một cách hiểu sâu hơn về lí thuyết biểu tượng nghệ thuật.
Chương 2: Hệ biểu tượng âm thanh trong Âm thanh và cuồng nộ
Chương này chúng tôi tìm hiểu hệ thống biểu tượng âm thanh trong mối tương giao
với các nhân vật trong truyện để thấy được những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và cảm hứng
tư tưởng mãnh liệt mà nhà văn muốn chia sẻ với người đọc.
Chương 3: Hệ biểu tượng vật thể không – thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ
Mĩ học của Faulkner là mĩ học bản thể. Các sáng tác của nhà văn luôn hướng về con
người, “tôi từ chối sự lụi tàn của con người”(Faulkner). Do đó chủ đề con người cô đơn
trong không-thời gian luôn được nhà văn trăn trở trong các tác phẩm của mình. Từ đó chúng
14
tôi muốn xem các biểu tượng nghệ thuật không –thời gian đã soi sáng tâm thức lưu đày và
cảm thức cô đơn, bất hạnh của các nhân vật như thế nào ? Qua đó thấy được giá trị nhân văn
và nhân đạo của nhà tác phẩm.
Chương 4: Hệ biểu tượng tâm linh trong Âm thanh và cuồng nộ
Giá trị của mỗi kiệt tác văn chương theo chúng tôi phải chứa đựng ý nghĩa phổ quát
toàn nhân loại. Và mỗi dân tộc sẽ nhận thấy gương mặt của mình trong tác phẩm đó.
Chương này chúng tôi tập trung tìm hiểu những biểu tượng làm nên giá trị thẩm mỹ ấy trong
tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ.
15
CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ
THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Biểu tượng
Biểu tượng là một phương thức tư duy chỉ có ở con người. Nguồn gốc hình thành
của nó phải xét trên sự hình thành con người. Trải qua hàng triệu năm tiến hóa, nhờ vào quá
trình lao động, con người làm ra nghệ thuật, trong đó có văn chương. Muốn tìm hiểu thật
sâu sắc biểu tượng, chúng tôi nghĩ phải lần theo mối quan hệ biện chứng giữa tư duy và
ngôn ngữ.
Biểu tượng giúp con người lưu giữ hình ảnh mình quan sát được trong cuộc sống, đi
liền quá trình hình thành ngôn ngữ ở con người, tức là với quá trình tư duy. Ngôn ngữ là vỏ
vật chất của tư duy, nó ra đời khi con người muốn trao gửi một thông điệp cho nhau. Để
khái quát thông điệp, tư duy phải biểu đạt sự vật dưới lớp vỏ ngôn ngữ. Theo Marx ngôn
ngữ, “là sự ý thức hiện thực” bởi, “ý nghĩa phải được cấu thành trước hết dưới một hình
thức khách quan trong sự vận động của ngôn ngữ, nổi bật ra trực tiếp từ những mối quan
hệ của đời sống xã hội”[49, 45]. Do đó tìm mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ phải đi
vào hiện thực đời sống.
Buổi ban đầu loài người chưa có ngôn ngữ, họ phải nhờ vào những cử chỉ, chỉ dẫn
bằng hình thể để trao đổi thông điệp cho nhau. Do đó biểu tượng có xuất phát điểm là cử
chỉ. Cử chỉ đánh dấu sự hiện diện của chủ thể trong đời sống hiện thực. Và, nhờ vào các
giác quan bên ngoài, đặc biệt là thính giác và thị giác, chúng góp phần hình thành nên cảm
giác, đem lại nhận thức cảm tính đầu tiên về sự vật, giúp con người có ấn tượng ban đầu về
sự vật. Để lưu giữ những cảm giác có được ấy vào trí não mình, loài người cần một tư duy
cao hơn, tri giác xuất hiện. Tri giác tổng hợp các cảm giác về sự vật, đưa đến khả năng nhận
thức sự vật một cách sâu sắc. Nhưng tri giác vẫn chưa giúp loài người nhận ra bản chất sự
vật, do đó tư duy cần một bước tiến nữa, lúc này biểu tượng được hình thành. Biểu tượng
giúp nhận thức khu biệt được những đặc trưng cơ bản của sự vật. Trong giai đoạn thứ ba
này, sự vật hiện ra tương đối hoàn chỉnh. Bởi biểu tượng có sự tham gia của các hoạt động
giác quan cùng sự tổng hợp, phân loại của tư duy. Theo Lenin, con đường nhận thức chân lí
của loài người luôn đi, “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng quay trở về thực tiễn”.
16
Trên con đường ấy, con người phải có một công cụ đi cùng tư duy là ngôn ngữ. Tư
duy và ngôn ngữ luôn dính chặt với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Chúng thống nhất và
biện chứng trong nhau. Biểu tượng với tư cách là một phương thức của tư duy không thể
không xét nó trên gốc nghĩa ngôn ngữ.
Biểu tượng (Symbol) theo nghĩa từ nguyên là một vật được cắt làm đôi, mang đặc
tính hai mặt: “Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa hai ý tưởng phân li và tái
hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, đã bị chia tách và có thể tái hình thành. Mọi biểu tượng
đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ
vừa là kết nối những phần của nó lại với nhau” [10, XXIII]. Mỗi biểu tượng luôn có hai
mặt, một mặt được trưng ra và một mặt bị dấu đi, cho nên biểu tượng là thuật ngữ mang bản
chất khó xác định và vô cùng sống động. Tuy vậy nó vẫn có dấu hiệu nhận diện: “Chính là
ở chỗ nó tổng hợp trong một biểu hiện dễ cảm nhận tất cả những ảnh hưởng ấy của vô thức
và ý thức cùng các sức mạnh bản năng và trí tuệ, xung đột lẫn nhau hay đang trong tiến
trình hài hòa bên trong mỗi con người”[10, XV].
Biểu tượng là sự kết tinh của quá trình tư duy hàng nghìn năm của nhân loại. Đồng
thời nó cũng chịu sự ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng nơi nó ra đời, nên cần xét thuật ngữ
này trên nhiều phương diện. Với tâm lí học và triết học, biểu tượng, “khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại
trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào trong các giác quan ta đã chấm dứt”[44, 223].
Còn với ngôn ngữ học, biểu tượng được hiểu như một phép chuyển nghĩa dựa trên cơ
chế của hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ những tìm hiểu về nguồn gốc
của biểu tượng, chúng tôi nghĩ đây là một thuật ngữ mở, mang tính khơi gợi và rất khó cố
định vào những nghĩa duy nhất. Bởi biểu tượng bắt nguồn từ đời sống hiện thực, hình thành
bởi tư duy con người, vận động cùng thời gian và tồn tại trong không gian văn hóa của cộng
đồng sử dụng nó. Do đó cần hiểu biểu tượng như một sinh thể phức tạp, đa nghĩa và tùy vào
từng ngành khoa học mà có sự khu biệt nghĩa riêng về khái niệm “biểu tượng”.
Với văn học, “biểu tượng theo nghĩa rộng là sự phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng của văn học nghệ thuật, nhưng nó có cội nguồn trong tâm thức của văn hóa nhân loại
biểu tượng tồn tại trước một văn bản cụ thể và không phụ thuộc vào nó. Biểu tượng rơi vào
ký ức nhà văn từ chiều sâu của kí ức văn hóa và được làm sống lại trong văn bản mới, như
một hạt giống đánh rơi vào lòng đất. Sự gợi nhớ chuyện cũ, trích dẫn hay gợi nhắc đều là
bộ phận hữu cơ của văn bản mới, thực hiện chức năng trong bình diện đồng đại. Chúng đi
17
từ văn bản vào chiều sâu của kí ức, còn biểu tượng thì đi từ ký ức vào văn bản”[21, 314].
Ngoài ra nếu nhìn theo nghĩa hẹp thì: “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời
nói hoặc một hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát
được bản chất của một hình tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng, hay
một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời”[21, 315].
Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy vài phương diện chính yếu về bản chất
của thuật ngữ biểu tượng.
Trước hết biểu tượng mang tính hai mặt, nó bao hàm trong bản thân hình ảnh biểu
hiện ra bên ngoài và hình ảnh được ẩn dấu bên trong. Biểu tượng có tính dấu hiệu, nó được
bắt nguồn từ những cử chỉ bên ngoài của con người và hình ảnh mà biểu tượng lưu giữ luôn
bắt nguồn từ hiện thực đời sống. Biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật
tượng trưng hay của hình tượng nghệ thuật. Ý nghĩa của nó tồn tại cả trong và ngoài văn bản
bởi quá trình sinh nghĩa của mỗi biểu tượng luôn thường gắn với chiều dài văn hóa lịch
sử, gắn với quá trình hình thành quan niệm về thế giới của con người cổ xưa. Mỗi biểu
tượng đi vào văn bản nghệ thuật tự bản thân nó đã mang trong mình ngôn ngữ văn hóa, mã
thời đại và toàn bộ sức nặng ngữ nghĩa mà nó tính lũy được qua nhiều thế kỷ. Do đó biểu
tượng bao giờ cũng mang tính mở.
Là một phạm trù lịch sử, biểu tượng chịu sự chi phối của ngôn ngữ, tâm lí, quan niệm
của dân tộc và thời đại. Do đó biểu tượng chứa vô thức tập thể. Biểu tượng được cấu trúc
trong trí tưởng tượng của con người, nó làm biến dạng các sao chép thực dụng do tri giác
cung cấp, cải tạo các cảm giác cho nên biểu tượng có “sức vang cốt yếu và tự sinh”. Nghĩa
là nó vừa biểu hiện vừa che đậy, vừa thiết lập vừa tháo dở, nó là một dạng thức gây xúc
động vì nó có thể tác động đến cấu trúc tinh thần của con người, bởi tính chất ảnh – động
lực của nó mà có lần C.Jung gọi đó là những mẫu gốc. Chúng là vật nối liền cái phổ quát
với cái cá thể.
Những biểu tượng luôn có tính động, chúng không đứng riêng một mình mà có xu
hướng kết hợp với những biểu tượng khác tạo thành hệ biểu tượng. Theo J. Lacan, “hệ biểu
tượng chỉ loại hiện tượng mà khoa phân tâm học quan tâm trong chừng mực chúng được
cấu trúc như một ngôn ngữ”[10, VXI]. Có thể thấy, hệ biểu tượng là tập hợp cấu trúc, cách
xếp đặt các biểu tượng và tìm hiểu nghĩa của biểu tượng cần đặt biểu tượng trong hệ biểu
tượng.
18
Biểu tượng là một phạm trù siêu nghiệm, nghĩa là nó chứa đựng sự bí ẩn khôn cùng
nên phải tiếp nhận biểu tượng với tất cả trí tuệ lẫn tâm hồn, như Eliade đã phát biểu:
“Khuynh hướng biểu tượng là một dữ kiện tức thì của con người toàn vẹn, tức là của con
người bộc lộ đúng mình. Con người ý thức được vị trí của mình trong vũ trụ; những khám
phá hàng đầu đó gắn liền với tấn bi kịch của con người cho đến nỗi chính khuynh hướng
biểu tượng đó quyết định cả hoạt động tiềm thức lẫn những biểu hiện cao cả nhất trong đời
sống tinh thần của nó”[10, XXVI].
Đi vào tìm hiểu biểu tượng, buộc người nghiên cứu phải có thái độ dấn thân bởi đặc
tính của biểu tượng, “mãi mãi gợi cảm đến bất tận: mỗi người thấy ở đấy cái mà năng lực
thị giác của mình có thể nhận ra. Thiếu sự thâm thúy sẽ chẳng nhận ra được cái gì cả”[10,
XXVI]. Quá trình giải mã biểu tượng, chúng ta phải nhận thấy rằng nếu sử dụng những
công cụ khoa học sẽ có nguy cơ làm: “Đông cứng nghĩa của biểu tượng, nếu ta không nhấn
mạnh đến tính chất tổng thể tương đối, cơ động và có tính cá thể hóa của nhận thức biểu
tượng”[10, XXVI]. Nên, “lối phân tích bằng cách cắt vụn và đập nhỏ ra không thể nắm bắt
được sự phong phú của biểu tượng; trực giác không phải bao giờ cũng đạt được điều đó;
phải tổng hợp và đồng cảm hết mực, nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cái nhìn nào đó về
thế giới”[10, XXVII]. Cái nhìn nhất lãm sẽ không thể nào nắm bắt được trọn vẹn và đầy đủ
ý nghĩa của biểu tượng, bởi biểu tượng có tính đa trị, tính đồng thời của những ý nghĩa nó
gợi lên.
Rõ ràng mỗi biểu tượng là một thế giới vĩ mô trong một hình ảnh vi mô, phải cảm
nhận và phân tích nó trên bình diện của vũ trũ lẫn bình diện của ý thức cá nhân. Todorov đã
thấy ở biểu tượng một hiện tượng ngưng kết, nghĩa là trong một biểu tượng, cái biểu trưng
hàm chứa trong mình rất nhiều dấu hiệu của cái được biểu trưng: “Chỉ một cái biểu đạt giúp
ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt; hoặc đơn giản hơn…cái được biểu đạt dồi dào hơn
cái biểu đạt”[10, XXVII]. Bởi nghĩa mà biểu tượng luôn bộc lộ, “tính không thích hợp giữa
tồn tại và hình thức…sự ứ tràn của nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của nó”[10, XXVII].
Dẫu vậy biểu tượng chứa đựng hạt nhân là chiều dài của văn hóa nhận thức của nhân loại
nên nó mang trong mình tính ổn định về nghĩa của cái được biểu trưng và cái biểu trưng cho
dù vách ngăn về nghĩa ở hai khái niệm này là không rõ ràng. Các biểu tượng luôn có khả
năng thâm nhập lẫn nhau, từ đó chúng trở nên đa chiều về nghĩa, buộc người cảm nhận về
biểu tượng phải luôn thấy được tính đa dạng và sự sâu sắc khi nhìn về biểu tượng.
19
Đồng thời không thể tách rời biểu tượng khỏi môi trường sống, nơi biểu tượng đó ra
đời. Vì biểu tượng gắn bó sâu sắc với nghi lễ của người nguyên thủy, chính cái bè đệm hiện
sinh này giúp biểu tượng trở nên sống động nên cần đặt biểu tượng trong môi trường nghi lễ
để xem xét nó.
Từ những đặc tính trên của biểu tượng, chúng tôi muốn xem xét những chức năng cơ
bản mà khái niệm này mang lại trong hoạt động tinh thần của con người. Thế giới tự nhiên
là vô cùng tận, mà khát vọng nhận thức và cải tạo nó của con người là có hạn. Biểu tượng là
công cụ giúp nhân loại thăm dò tự nhiên và chính bản thân mình. Con người với bản chất
phiêu lưu luôn cố đi đến đích và muốn hiểu biết đến tận cùng cuộc sống trong khi cuộc sống
luôn chứa đựng sự bí ẩn và phức tạp của mình, nằm ngoài tri thức của con người. Do đó
biểu tượng được tạo ra để cố gắng diễn đạt những khái niệm mà con người chưa hiểu biết
được trọn vẹn. Chính tư duy biểu tượng đã mở ra, “khả năng lưu thông tự do qua các cấp
độ của thực tại”(M.Eliade). Chúng ta dùng biểu tượng để diễn đạt những gì con người chưa
biết nhưng có khả năng tồn tại trong thực tại: “Một biểu tượng bao giờ cũng giả định là
cách diễn đạt được chọn lựa đó chỉ rõ hoặc trình bày được hoàn hảo nhất những sự kiện
nào đó còn chưa biết, nhưng rõ ràng có tồn tại và cần tồn tại”[10, XXIX]. Các dạng thức
tưởng tượng của biểu tượng sẽ mời gọi con người vào những cuộc thăm dò, hướng vào cái
chưa biết vì nó đã sáng tạo ra một tương quan, mỗi lần giải mã, biểu tượng lại gợi ra những
ý nghĩa mới, “khi trí óc muốn làm công việc thăm dò một biểu tượng, nó sẽ đi đến những ý
tưởng nằm ở bên ngoài những gì lí trí của chúng ta có thể nắm bắt được” (C. Jung). Và cái
bị che dấu, cái chưa biết nó không phải là cái trống rỗng mà nó là cái không xác định của dự
cảm, cho nên chức năng thứ hai của biểu tượng là khả năng làm vật thay thế. Với tính hình
tượng của mình, biểu tượng không chỉ thay thế cho những hình ảnh, nội dung không thể
được diễn đạt bằng ý thức mà còn cho cả vô thức, “chức năng cơ bản của biểu tượng đích
thị là sự phát hiện hiện sinh của con người cho chính mình, thông qua một trải nghiệm có
tính vũ trụ”[10, XXXI]. Chức năng thay thế của biểu tượng đã bắt những chiếc cầu nối liền
kinh nghiệm của con người trong xã hội, tôn giáo và vũ trụ tạo thành lực liên, kết thống nhất
chúng lại với nhau khiến con người có một điểm tựa khi biểu tượng chuyển di vào trong đầu
óc con người, giúp con người xâm nhập sâu hơn vào bản chất của hiện thực do chức năng
cộng hưởng của nó với môi trường xã hội nơi biểu tượng nảy sinh.
Từ những cách hiểu về nguồn gốc, bản chất và chức năng của biểu tượng như trên,
chúng tôi cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vậy khi nào một biểu tượng được gọi là biểu
20
tượng nghệ thuật? Và mối quan hệ của nó với những lí thuyết liên quan tới biểu tượng là kí
hiệu học, phân tâm học và huyền thoại học như thế nào?
1.2. Biểu tượng nghệ thuật
Nghệ thuật là một trong những hình thái nhận thức đời sống của loài người. Trong
qui trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ sẽ tư duy theo nhiều kiểu khác nhau. Chúng tôi
dùng thuật ngữ “biểu tượng nghệ thuật” để chỉ phương thức tư duy nhà văn sử dụng để sáng
tạo tác phẩm mà ở đây là thể loại tiểu thuyết. Qua đó chỉ ra những nét đặc trưng của biểu
tượng nghệ thuật. Trước hết, chúng tôi xem cái gì đã biến một thông điệp lời nói trở thành
một văn bản văn học.
Theo Jakobson, không thể đi tìm bản chất của văn học mà lại bỏ qua chất liệu thứ
nhất của nó là ngôn ngữ: “Một nhà ngôn ngữ học mà không biết gì về chức năng của thi ca
thì cũng như một chuyên gia văn học vô tâm đối với những vấn đề của ngôn ngữ học và mịt
mù với những phương pháp của ngành khoa học ấy, cả hai loại này về sau đều là những thứ
lỗi thời một cách quả tang”[26, 360]. Một văn bản nghệ thuật giá trị, ngoài sự nhận thức và
cảm hứng tư tưởng của nhà văn thì chất liệu ngôn ngữ là nhân tố vô cùng quan trọng trong
quá trình sáng tạo nghệ thuật. Văn chương không thể tồn tại ở ngoài xã hội, nó luôn luôn
biến chuyển cùng thời đại và chiếm một vị trí quan trọng trong các loại hình nghệ thuật.
Thấy được điều đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn
chương.
Biểu tượng nghệ thuật là những kí mã thẩm mĩ mang tính chủ quan nhưng chứa xúc
cảm của người nghệ sĩ nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của người tiếp nhận.
Vậy, biểu tượng nghệ thuật bao hàm những dấu hiệu, bản chất như biểu tưởng và ngoài ra
nó phải mang năng lượng xúc cảm của nhà văn.
Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật có những đặc trưng của một
phương thức tư duy nghệ thuật. Đó là tính cá thể hóa và tính khái quát hóa, tính phi vật thể
của hình tượng văn học. Đồng thời, biểu tượng nghệ thuật xét trên phương diện là một công
cụ chuyển nghĩa của lời nói, một cái biểu trưng chuyển tải nhiều cái được biểu trưng, tạo
nên sự đa nghĩa khi lí giải biểu tượng nghệ thuật. Ngoài ra tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật,
chúng ta phải vận dụng phương pháp liên ngành. Vì biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong kí
ức của nhân loại, như một thứ vô thức tập thể. Từ những điều trên ta mới có cơ may hiểu rõ
về biểu tưởng nghệ thuật.
21
Biểu tượng là sáng tạo độc đáo của nhà văn, cần phải nhìn nó trong mối tương quan
với chủ thể sáng tạo. Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật không chỉ chuyển
tải thông điệp của nhà văn mà nó còn cộng hưởng với những yếu tố nghệ thuật khác trong
văn bản nhằm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo. Và văn bản mang tính biểu tượng
bao giờ cũng cổ sơ hơn văn bản phi biểu tượng.
Mỗi biểu tượng bao giờ cũng chứa một cái gì cổ sơ, thuộc về một thời đại văn hóa.
Ngược dòng thời gian nhìn về lịch sử nhân loại, khi con người chưa có chữ viết, họ đã sáng
tạo nên các kí hiệu, chúng được khắc trên những vách đá, đó là dạng biểu tượng sơ khai. Đi
cùng với nó là các chuyện kể, chúng được gìn giữ trong văn học dân gian. Ngoài ra còn một
đặc điểm khác cũng cổ sơ, thú vị hơn đối với chúng ta: mỗi biểu tượng như là một văn bản
đã hoàn thiện, không thể tham gia vào bất cứ chuỗi kết hợp khác, mà dù nếu có đưa vào thì
nó vẫn giữ tính độc lập về ý nghĩa và cấu trúc của nó. Nó dễ dàng tách khỏi môi trường kí
hiệu xung quanh, cũng như dễ dàng tham gia vào các kết hợp văn bản khác. Từ đó có thể
thấy biểu tượng nghệ thuật không bao giờ thuộc vào một mặt cắt đồng đại của văn hóa. Nó
bao giờ cũng xuyên qua mặt cắt đó bằng chiều thẳng đứng, đi từ quá khứ đến tận tương lai.
Tìm hiểu một biểu tượng có phải là biểu tượng nghệ thuật hay không là một việc làm
không khó, nhưng để chỉ ra giá trị và nghĩa của nó thì không đơn giản. Bởi biểu tượng
nghệ thuật hàm chứa tính nguyên hợp của tư duy nguyên thủy, gắn liền với những nhân tố
nghi lễ và ma thuật nên lí giải nó như một phương thức nghệ thuật là chưa đủ. Phải thấy
trong nó cái phôi mầm của văn hóa học, nhân học và ngôn ngữ học. Chính sự phức hợp, đa
tạp, đó là nét đặc thù rất riêng của biểu tượng nghệ thuật.
Những lí thuyết về biểu tượng nghệ thuật hiện nay vẫn chưa thống nhất, mỗi loại
hình nghệ thuật có những cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Và văn học, một hình thái nghệ
thuật nhận thức cuộc sống đặc thù mà đặc trưng của nó là sáng tạo nên những hình tượng
độc đáo không thể nào không dùng đến biểu tượng nghệ thuật. Từ đó biểu tượng nghệ thuật
trong văn học hay bị nhầm lẫn là hình tượng nghệ thuật.
Người nghệ sĩ với tư cách là chủ thể sáng tạo, anh ta nhận thức hiện thực và chuyển
nhận thức này thành thông điệp, gửi nó đến người tiếp nhận. Quá trình lập mã và chuyển mã
buộc nhà văn nên chọn mã nào. Mã đó là mã hình tượng hay mã biểu tượng, hay mã huyền
thoại là tùy vào đặc điểm của thông điệp. Chính các mã sẽ qui định phương thức tư duy
nghệ thuật của người nghệ sĩ. Và không có một ranh giới rạch ròi giữa các phương thức tư
duy. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ mà ngôn ngữ lại là tài sản chung của nhân loại. Các
22
phương thức tư duy nghệ thuật khác nhau sẽ biểu đạt thông điệp khác nhau. Trong tư duy
hình tượng, mỗi hình tượng nghệ thuật sẽ biểu đạt một ý nghĩa nhất định. Trong tư duy biểu
tượng, một biểu tượng sẽ biểu trưng nhiều hơn một ý nghĩa. Chỉ những hình tượng nghệ
thuật nào vươn lên đến mức điển hình hóa mới có thể trở thành biểu tượng nghệ thuật. Biểu
tượng nghệ thuật có nguồn gốc ở văn hóa. Việc hiểu biểu trưng nghệ thuật, cắt nghĩa nó
phải vận dụng cả góc nhìn đồng đại lẫn lịch đại. Nghĩa là, xem xét một biểu tượng nghệ
thuật nào đó không chỉ với nghĩa mà nó tạo dựng mà cả quá trình hình thành nghĩa biểu
tượng này trong đời sống cộng đồng. Đồng thời đặt nó dưới ánh sáng của các ngành khoa
học xã hội.
Biểu tượng nghệ thuật là một kí mã thẩm mỹ đặc thù. Nếu cấu trúc của một kí hiệu là
mối quan hệ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ chế võ đoán, thì cấu trúc của
biểu tượng nghệ thuật lại khác. Tiếp nối Saussure, nhà ngôn ngữ học Hjelmslev đã chỉ ra
trong ngôn ngữ không chỉ có nghĩa biểu thị cho khái niệm mà còn chứa một nghĩa hàm.
Sơ đồ 1.1. “Cú pháp học hàm nghĩa nghĩa của R.Bathes” [59]
Dựa vào sơ đồ trên, chúng tôi thấy có hai hệ thống. Hệ thống A đó một kí hiệu biểu
thị, nó chứa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Hệ thống này lại làm hình thức hay làm cái
biểu đạt cho hệ thống B, hệ thống kí hiệu học nghĩa hàm. Hai hệ thống A và hệ thống B tạo
nên hệ thống siêu kí hiệu, hay còn gọi là biểu tượng nghệ thuật.
Vận dụng vào văn học, những hình tượng nghệ thuật muốn trở nên hấp dẫn và độc
đáo phải thống nhất và biện chứng với hình thức nghĩa hàm. Có như vậy chúng mới chuyển
tải sâu sắc nội dung cho nghĩa hàm, làm thành biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm.
Biểu tượng nghệ thuật được thoát thai từ biểu tượng văn hóa. Nó tồn tại suốt tiến
trình tiến hóa của lịch sử loài người và thuộc về vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại,
tồn tại dưới dạng những nguyên mẫu. Biểu tượng chỉ trở thành biểu tượng nghệ thuật khi
23
thấm đẫm cảm xúc thẩm mỹ cũng như phong cách cá nhân của nhà văn. Trong văn học,
biểu tượng nghệ thuật là một cấu trúc chứa hàm nghĩa, có quan hệ gắn bó mật thiết với hình
tượng nghệ thuật, muốn giải mã nghĩa của biểu tượng nghệ thuật, buộc người nghiên cứu
phải vận dụng phương pháp liên ngành mới có cơ may tiệm cận được sâu sắc ý nghĩa của
chúng. Đồng thời xem xét và lí giải mỗi biểu tượng nghệ thuật phải đặt chúng vào trong hệ
thống. Chỉ có trong hệ thống chúng ta mới thấy hết mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố
biểu tượng nghệ thuật. Cuối cùng phải thấy rằng tiếp cận văn bản dưới góc nhìn biểu tượng
không chỉ cho thấy được những giá trị thẩm mỹ của văn bản nghệ thuật mà còn cả giá trị
nhân văn của nó.
Muốn xác định một biểu tượng có phải là biểu tượng nghệ thuật hay không, chúng tôi
đưa ra một số tiêu chí: trước hết, là tần số lặp lại của nó trong văn bản nghệ thuật. Sau đó
xem biểu tượng nghệ thuật có chuyển tải được mối quan hệ giữa nghĩa biểu hiện và nghĩa
hàm khi xét nó như cái biểu đạt cho hình tượng nghệ thuật. Biểu tượng sẽ mang tính nghệ
thuật khi mặt tượng trưng của nó hàm chứa xúc cảm thẩm mỹ của người sáng tạo. Bản thân
nó phải mang đậm cá tính sáng tạo làm nên phong cách của nhà văn. Ngoài ra đó là những
cổ mẫu, thấm đẫm vô thức tập thể của một thứ huyền thoại đạt tầm nhân loại. Từ đó chúng
tôi thấy biểu tượng nghệ thuật nếu xét trên phương diện ngôn ngữ thì nó là một cách tư duy
ngôn ngữ, như ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ, ngụ ngôn,…Bởi tất cả chúng đều là những phép
chuyển nghĩa, mang trong mình cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nhưng nếu xét trên
phương diện nghĩa, không được nhầm chúng với biểu tượng nghệ thuật. Để phân biệt các
khái niệm trên với biểu tượng nghệ thuật, người nghiên cứu phải có những tiêu chí phân loại
dẫu chỉ mang tính tương đối.
Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa nhằm dựa trên sự tương đồng của hai sự vật mà
giữa chúng có có nghĩa bị che dấu. Như vậy, nghĩa ẩn đi có gốc từ nghĩa được hiện lên. Vậy
là nó không có sự liên tưởng đến nhiều nghĩa như biểu tượng nghệ thuật, dẫu chúng vẫn có
nghĩa gốc. Với hoán dụ, phép chuyển nghĩa này dựa trên sự liên tưởng tương cận giữa
những sự vật có nét tương cận giữa chúng. Vậy ẩn dụ và hoán dụ có sự gần nhau về nghĩa
với biểu tượng nghệ thuật. Nhưng hoán dụ là dấu hiệu để chỉ ra nghĩa phái sinh từ một nghĩa
gốc, do đó chúng không phải là biểu tượng nghệ thuật. Còn với ngụ ngôn, ta thấy được một
bài học luân lí từ một hình tượng nghệ thuật nào đó gợi lên. Ngụ ngôn chỉ biểu đạt được một
nghĩa duy nhất. Phúng dụ là một thủ thuật dùng người hay vật để nói về một việc khác.
Nhưng nghĩa của nó hiện trên bình diện bề mặt hình tượng, không có sự hàm ý về nghĩa:
24
“Chuyển dịch sang một bình diện mới của tồn tại, cũng không đào thêm vào một chiều sâu
của ý thức; đây là sự biểu hình, ở cùng một cấp độ ý thức, cái mà đã có thể biết khá rõ bằng
một cách khác”[10, XVIII].
Biểu tượng nghệ thuật chứa đựng tính đa trị về nghĩa, đòi hỏi phải giải mã nhiều lần mới
hiểu rõ nghĩa. Nó có sự giống và khác với các phương thức tu từ trong văn học. Nghiên cứu
về biểu tượng cần một sự phân loại. Từ hướng suy nghĩ đó, chúng tôi thử tìm hiểu sự giao
thoa của biểu tượng nghệ thuật với những lí thuyết gần gũi với nó là kí hiệu học và huyền
thoại học.
1.3. Những lí thuyết liên quan đến Biểu tượng nghệ thuật
1.3.1. Biểu tượng nghệ thuật với kí hiệu học
Kí hiệu học là một ngành khoa học được ra đời muộn trong thế kỉ XX. Nhưng nó đã
đóng góp rất lớn cho khoa học xã hội, đặc biệt là ngữ văn học. Bởi đối tượng mà nó nghiên
cứu là ngôn ngữ, “chất liệu thứ nhất của văn học”(Gorhki). Công lớn phải được ghi cho
cha đẻ ngôn ngữ học hiện đại là F.Saussure. Ông đã chỉ ra cơ chế hai mặt của cái biểu đạt và
cái được biểu đạt dựa trên một quan hệ võ đoán để từ đó phác thảo nên mô hình biểu tượng,
“biểu trưng có một đặc tính là không bao giờ hoàn toàn võ đoán nó không phải là trống
không ở đây có một yếu tố tương quan cổ sơ nào đấy, giữa biểu đạt và cái sở biểu. Biểu
trưng của công lý là cái cân không phải lấy cái gì thay thế cũng được”[41, 112]. Đồng thời
ông lưu ý mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ, “chất liệu ngữ âm cũng chẳng cố định mà
hữu hình hơn tư duy, nó không phải là một cái khuôn trong đó tư duy nhất định phải được
đúc thành hình khối, mà là một chất liệu mềm dẻo”[41, 281]. Chính những suy nghĩ ấy đã
gợi ý cho các nhà khoa học đến sau một hướng nghiên cứu về ngôn ngữ mới, đó là kí hiệu
học.
Sau Sassure, khoa học về kí hiệu đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Một loạt
những nhà lí luận văn học có uy tín trên thế giới đều đã ít nhiều vận dụng kí hiệu học vào
phân tích văn bản. Một trong số đó là nhà ngữ văn học I. U. Lotman, ông là nhà kí hiệu học
lớn không chỉ ở Nga mà còn trên thế giới. Tầm vóc về tư tưởng của ông đã được thể hiện
trong khoảng 800 công trình nghiên cứu về khoa học xã hội có giá trị. Nhất là những khám
phá của I. U. Lotman về bản chất của kí hiệu trong văn bản nghệ thuật. Ông và Bakhtin
được xem là những nhà lí luận văn học kiệt xuất của thế kỉ XX.
25
I. Lotman cho rằng, văn bản nghệ thuật thực chất là một mô hình giao tiếp, nơi hội tụ
nghệ thuật và dung kết tư tưởng của nhà văn. Nhà nghiên cứu phải khảo sát thật chi tiết văn
bản mới chỉ ra được tư tưởng của người nghệ sĩ gửi gắm, “tư tưởng của nhà văn được hiện
thực hóa trong một cấu trúc nghệ thuật xác định và không thể tách ra được khỏi nó”[31,
30]. Ông cho rằng tính chất: hình thức phù hợp với nội dung sẽ đúng trong ý nghĩa triết học,
nhưng với văn học nghệ thuật nó tồn tại nhiều bất cập, “tư tưởng không được chứa đựng
trong bất kì trong những trích đoạn cho dẫu gọn ghẽ nào, mà được diễn đạt trong toàn bộ
cấu trúc nghệ thuật” [31,31]. Do đó, “tính nhị nguyên của hình thức và nội dung cần phải
được thay thế bằng khái niệm về cái tư tưởng hiện thực hóa bản thân mình trong một cấu
trúc thích hợp và không tồn tại bên ngoài cấu trúc đó”[31, 30]. Bởi văn bản nghệ thuật
chứa những ý nghĩa vô cùng phức tạp. Chúng ta phải xét nó trên phương diện nghĩa hàm
chứ không chỉ dừng lại ở nghĩa biểu hiện.
Từ cách đặt vấn đề trên, nhà nghiên cứu đã đi vào làm rõ những dấu hiệu đặc trưng
của văn học để chỉ ra bản chất của văn bản nghệ thuật như một hệ thống kí hiệu giao tiếp
nhằm mô hình hóa quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc sống. Văn học
đặc thù hơn những ngành nghệ thuật khác bởi công cụ mà nó truyền tin là ngôn ngữ, “một
hệ thống trừu tượng nhưng lại có tính xác định, chung cho cả người truyền đạt lẫn người
tiếp nhận, cái hệ thống làm cho chính hành vi giao tiếp trở thành cá thể”[31, 37]. Và kí hiệu
học sẽ làm nhiệm vụ nghiên cứu những ngôn ngữ tự nhiên xuất hiện trong xã hội, còn biểu
tượng nghệ thuật cần xem xét ngôn ngữ nghệ thuật mang nghĩa hàm của văn bản nghệ thuật.
Do đó chúng tôi tiến hành xem xét biểu tượng nghệ thuật để chỉ ra được tư tưởng nhân đạo
và giá trị nhân văn, giá trị thẩm mĩ của văn bản Âm thanh và cuồng nộ. Để thấy được sự
chuyển dịch từ kí hiệu phổ thông, ngôn ngữ tự nhiên sang ngôn ngữ nghệ thuật, kí mã ngôn
ngữ sang kí mã thẩm mỹ. Nó là sự phân tầng biểu tượng nghệ thuật giữa các liên tưởng trên
bình diện cú đoạn lẫn hệ hình.
Nhìn văn học dưới ánh sáng biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên cứu triển vọng.
Bởi biểu tượng nghệ thuật mang những phẩm chất tạo tác sự cô đúc và hàm xúc, chứa đầy
năng lượng cảm xúc ở cả người phát lẫn người nhận. Biểu tượng nghệ thuật là một hệ thống
kí mã thẩm mỹ đặc thù và hàm chứa những tư tưởng nghệ thuật. Người nghiên cứu phải
phân biệt được đâu là kí hiệu đơn thuần và đâu là biểu tượng nghệ thuật. Lấy hình ảnh “mặt
trời” làm một dẫn chứng. Chúng tôi thấy, với nhà kí hiệu học, hình ảnh này mang những
nghĩa sau: vật thể chứa đựng sức nóng, đặc tính phát sáng và cả khả năng đốt cháy, thiêu
26
hủy vật thể. Nhưng khi “mặt trời” được nhìn qua đôi mắt của Tố Hữu, nó đã trở thành biểu
tượng nghệ thuật, “mặt trời chân lí”. Từ đó nó không chỉ mang trong mình những thuộc
tính của sự vật ban đầu mà còn khoác lên mình những nghĩa tương quan với người nhìn nó.
Lúc này “mặt trời chân lí”, sẽ có thêm nghĩa, đó là con đường soi sáng cho lí tưởng cách
mạng của những người vô sản. Từ hình ảnh đến biểu tượng và trở thành biểu tượng nghệ
thuật là một đường đi qua nhiều khúc đoạn. Hình ảnh khi trở thành biểu tượng nghệ thuật sẽ
trở nên đa nghĩa, đấy sức gợi, chứa giá trị mới. Ngoài ra còn phải gắn với cái nhìn phâm tâm
học để thấy được chiều sâu văn hóa của hình ảnh đã trở thành biểu tượng, vì bản chất của
biểu tượng, “soi sáng hoạt động của cơ chế vô thức trong các hệ thống kí hiệu”[15, 15].
Đồng thời biểu tượng được nhìn qua đôi mắt của một chủ thể quan sát. Nên nó gắn
với tư tưởng của người quan sát biểu tượng và cả kết cấu nơi biểu tượng được đưa vào như
một thành tố của văn bản. Khi đó sẽ thấy biểu tượng ở văn bản nghệ thuật những thuộc tính,
tính đơn lập, tính cá biệt và tính cấu trúc (Lotman). Muốn xét nội dung những đặc tính này
cần một cơ chế chuyển mã.
Rõ ràng kí hiệu học và biểu tượng nghệ thuật có mối tương quan mật thiết với nhau.
Chúng tôi muốn khu biệt những đặc trưng của nó. Cố gắng xem xét nó trong mối tương
quan giữa nghĩa hàm với biểu tượng nghệ thuật, cơ chế chuyển mã để một hình tượng nghệ
thuật, những phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, hoán dụ,… trở thành biểu tượng nghệ thuật.
Những vấn đề trên chỉ có thể được rọi sáng dưới ánh sáng của nhiều ngành khoa học xã hội
đặc biệt là tâm lí học.
1.3.2. Biểu tượng nghệ thuật với phân tâm học
Thế kỉ XX đã chứng kiến sự phát triển của nhiều học thuyết tâm lí trong đó phân
tâm học là một phát kiến vĩ đại. Phân tâm học soi rọi vào khoa học nhân văn những phát
hiện vô cùng thú vị, khám phá giá trị được ẩn dấu trong các biểu tượng văn học. Cha đẻ của
nó là S.Freud. Với học thuyết của mình, Freud khám phá lại con người, đặc biệt là vấn đề vô
thức và tính dục. Ông cũng dành nhiều sự quan tâm cho văn học. Freud dùng học thuyết
phân tâm học tìm hiểu một số tác phẩm văn học nghệ thuật. Và ông qui những sáng tạo
nghệ thuật này là do năng lượng tính dục của nhà nghệ sĩ, “tư duy vô thức là một tư duy bị
ước muốn chế ngự và luôn là một tư duy đi tìm lạc thú, không phục tùng trình tự thời gian,
cũng không phục tùng sự hợp lí”[48, 35].
Không đồng tình với những ý kiến của thầy mình, C. Jung cho rằng, quá trình tạo tác
nên tác phẩm có bàn tay rất lớn của tiềm thức chứ không chỉ dục tính, đặc biệt là vô thức.
27
Phân tâm học của C. Jung có những đóng góp rất quan trọng cho văn học. Chính ông là
người đề xuất khái niệm cổ mẫu. Theo Jung mỗi sáng tạo của người nghệ sĩ đều không chỉ
bị chi phối bởi ý thức mà còn bởi vô thức. Lực sáng tạo nên tác phẩm văn học không phải
là năng lượng tính dục như Freud nghĩ mà là vô thức tập thể, có mầm mống lâu đời trong
lịch sử hình thành nhân loại. Văn học nhận thức đời sống với những biểu tượng nguyên mẫu
phải có mối quan hệ với vô thức, “tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng nhưng phải là
tác phẩm có cội nguồn không phải trong cá nhân tác giả vô thức mà là trong phạm vi của
huyền thoại vô thức và những hình tượng của nó là tài sản chung của cả nhân loại”[27, 78].
Ý nghĩa của một tác phẩm văn học chân chính, “là ở chỗ người ta có thể lôi được nó từ ở
chỗ chật chội và bí ẩn của lĩnh vực cá nhân ra khoảng không rộng lớn, bỏ mặt lại sau tất cả
tính tạm thời và hữu hạn của một cá tính bị giới hạn”[27, 62]. Phân tâm học của Jung cho
rằng biểu tượng nghệ thuật, “phải được xem là khả năng có một ý nghĩa khác rộng hơn, cao
hơn nằm ngoài năng lực cảm nhận và ám chỉ đến ý nghĩa đó của chúng ta”[27, 79]. Vì cổ
mẫu là một sản phẩm được hình thành trong một chiều dài lịch sử của văn hóa loài người,
nó thật sự: “Nối liền văn học với các hiện tượng văn hóa bằng cách đặt văn học vào một
không gian văn hóa rộng lớn từ đó nhấn mạnh hiện tượng tương đồng và khác biệt của văn
học với những giấc mơ huyền thoại, folklore, huyễn tưởng hoặc tôn giáo”[36, 12].
“Thăm dò tiềm thức” là tiểu luận rất có giá trị của C. Jung. Nó gợi mở nhiều vấn đề
thú vị cho các nhà nghiên cứu biểu tượng. Bởi cách hiểu về biểu tượng nghệ thuật của Jung
là sâu sắc. Ông không quá thiên về cảm tính như Freud hay nặng về cấu trúc ngôn ngữ như
Lacan, biểu tượng nghệ thuật mà Jung hiểu gắn liền với văn hóa. Jung tiếp cận vấn đề biểu
tượng dựa trên giấc mơ của con người, “biểu tượng giấc mơ là nguồn gốc chính để ta tìm
hiểu vấn đề biểu tượng”[36, 148]. Với C. Jung cái: “Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh
từ, một tên gọi hay một hình ảnh đã quen thuộc với ta hằng ngày, nhưng còn gợi ra những ý
nghĩ khác thêm vào ý nghĩ ước định hiển nhiên của nó. Biểu tượng gợi lên một cái gì mờ
mịt, xa lạ hay tàng ẩn đối với ta”[36, 107].
Công cụ để tìm hiểu biểu tượng theo ông là giấc mơ, “khi chúng ta muốn tìm hiểu
khả năng tạo ra biểu tượng của con người, chúng ta phải nhận thấy giấc mơ là tài liệu
chính yếu và dễ thăm dò nhất để khảo sát”[36, 122]. Bởi giấc mơ là lằn ranh giữa vô thức
và ý thức của con người. Nó là tiềm thức, đi vào giấc mơ, ta không chỉ thấy những ẩn ức
dục tính: “Người ta tìm thấy trong mộng mị những hình ảnh và những liên hệ tưởng tượng
tự ý tưởng, huyền thoại và nghi lễ thờ phụng của người cổ xưa”[36, 138]. Và tìm hiểu về
28
con người luôn là một công việc không dễ, “ở thời đại xã hội đảo lộn và thay đổi nhanh
chóng, nên biết nhiều hơn về con người, kể riêng lẻ từng cá nhân, bởi vì rất nhiều sự tùy
thuộc những đức tính tinh thần và đạo đức của mỗi người. Tuy nhiên nếu chúng ta muốn
nhìn sự vật cho đúng, là phải hiểu quá khứ của loài người cũng như thực tại của loài người.
Bởi vậy cho nên tìm hiểu thần tượng và biểu tượng là điều chính yếu”[15, 154]. Muốn tìm
hiểu được biểu tượng nghệ thuật theo ông, “phải xem xét biểu tượng liên hệ với một kinh
nghiệm hoàn toàn cá nhân hay người tạo ra nó nhân một giấc mơ, nhân một trường hợp
đặc biệt có vận dụng cái hiểu biết của một ý thức tập thể”[36, 199]. Cổ mẫu theo C. Jung là
hình ảnh chứa năng lượng cảm xúc: “Siêu tượng vừa là hình ảnh lại vừa là xúc động. Người
ta chỉ có thể nói đến siêu tượng khi nào hai khía cạnh đó cùng xuất hiện cùng một lúc. Khi
nào chỉ có tả cảnh thì siêu tượng chỉ tương đương với một sự tả cảnh không có âm vang gì.
Nhưng khi siêu tượng chất chứa xúc động tâm tình thì hình ảnh trở nên huyền nhiệm”[27,
154]. Và Jung thừa nhận, “không thể lấy một định nghĩa chuẩn xác để diễn đúng bản chất
của nó” chỉ có thể sử dụng nó tùy vào mục đích của cá nhân hướng đến vì, “biểu tượng bao
giờ cũng giữ vai trò như là cương lĩnh cô đọng của quá trình sáng tạo”(C. Jung).
Chính vì lẽ đó, chúng tôi mới cố gắng phân biệt dẫu chỉ là sơ bộ biểu tượng nghệ
thuật và phân tâm học. Ngoài ra biểu tượng nghệ thuật còn liên quan mật thiết với một khái
niệm khác không kém phần phức tạp là huyền thoại.
1.3.3. Biểu tượng nghệ thuật với huyền thoại học
Nếu có một thuật ngữ khoa học nào gây sự tranh cãi nhiều nhất ở thế kỉ XX thì có lẽ
đó là thuật ngữ “huyền thoại”. Công trình “Thi pháp của huyền thoại” của E.Meletinsky đã
tóm lược gần như tất cả những lí thuyết mới nhất về huyền thoại từ trước đến nay. Từ công
trình này và những cuốn sách viết về huyền thoại ở Việt Nam, chúng tôi thấy những dấu
hiệu liên quan giữa huyền thoại và biểu tượng nghệ thuật.
“Huyền thoại là một hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một
phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại xung quanh và bản chất của con người. Huyền
thoại cũng là mô hình của mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của mọi loại hình văn hóa
khác nhau”[33, XIV]. Huyền thoại cũng cổ sơ như biểu tượng vì mục đích của nó, “duy trì
sự hòa hợp giữa cá nhân, xã hội và tự nhiên, duy trì trật tự xã hội và vũ trụ”[33, XV]. Vì
con người trong huyền thoại chưa thể tách mình ra khỏi tự nhiên nên huyền thoại thời cổ là
một phương thức tư duy nguyên hợp, nó có quan hệ mật thiết với nghi lễ và biểu tượng.
29
Vấn đề thấy mối quan hệ giữa huyền thoại và biểu tượng là vô cùng cần thiết. Thế kỉ
XX nhân loại chứng kiến sự trở lại của phương thức tư duy huyền thoại trong văn học.Theo
chúng tôi huyền thoại luôn sống trong tâm thức mỗi con người và chỉ chờ vào những biến
cố lịch sử để biểu hiện mình. Chính sự khủng hoảng về các giá trị xã hội đầu thế kỉ XIX
được các nhà văn tái hiện bằng sự phân tích xã hội và phân tích lịch sử sâu sắc trong các tác
phẩm của họ. Đến thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng xã hội đã lên đến đỉnh điểm. Các giá trị đạo
đức mà nhân loại gìn giữ đã bị phá tan, đời sống chính trị đầy biến động... Nhà văn muốn
khám phá sâu hơn về con người và hiện thực đời sống. Do đó, huyền thoại được họ sử dụng
như một phương thức chuyển tải thông điệp của họ về con người và cuộc sống lúc này. Đó
là cách nhìn huyền thoại dưới góc nhìn lịch đại.
Với góc nhìn đồng đại, chúng tôi thấy rằng một hình ảnh đạt tầm huyền thoại phải
mang trong nó tính khái quát và gợi lên “kí ức nhân loại”. Điều đó lí giải được tại sao
những tác phẩm văn học tồn tại qua thời gian và vượt khỏi biên giới của dân tộc, gia nhập
vào di sản văn học nhân loại. Trở lại với hình ảnh “Mặt trời”, khi đã trở thành một biểu
tượng nghệ thuật với ý nghĩa là sự vật soi đường cho những người chiến sĩ giác ngộ được
con đường cách mạng đúng đắn. “Mặt trời chân lí” còn mang trong bản thân dấu vết của
một thực thể tồn tại gắn liền với những nghi lễ cổ xưa gắn bó mật thiết trong tư duy loài
người. “Mặt trời”, được tìm thấy trong rất nhiều câu chuyện thần thoại cả phương Đông lẫn
phương Tây. Ở Trung Quốc đó là truyện Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời, ở Phương Tây hình
ảnh này gắn với Thần thoại Hi Lạp, câu chuyện con thần Mặt trời không nghe lời cha và bị
chết vì sức nóng của Mặt trời. Rõ ràng, biểu tượng này đã gắn bó mặt thiết trong các nghi lễ
hiến sinh ở các dân tộc trên thế giới. Và hình ảnh “mặt trời” được soi sáng dưới ánh sáng
huyền thoại đã lí giải được tâm thức xem trọng và sùng bái biểu tượng này.
Từ đó, khi khảo sát và phân tích những biểu tượng nghệ thuật chứa trong văn bản
nghệ thuật, chúng tôi có một cái nhìn biện chứng hơn về tư duy biểu tượng. Thật ra phương
thức tư duy huyền thoại xuất hiện khi con người chưa có sự phân loại, trừu xuất mình ra
khỏi tự nhiên. Mọi vật xung quanh được họ nhìn trong trạng thái “vạn vật hữu linh”, có “sự
nhân hóa tự nhiên so sánh ẩn dụ, thậm chí là có sự đồng nhất giữa tự nhiên và những vật
thể văn hóa; có sự nhân cách hóa mọi vật, hình dung cái tổng thể như là cái cụ thể cảm
tính, không phân biệt đối tượng và kí hiệu, biểu tượng và mô hình, sự vật và ngôn từ”[33,
XV]. Chính sự xếp chồng, lẫn lộn những hình ảnh như vậy nên huyền thoại hàm chứa cả
biểu tượng nghệ thuật, nếu xuất phát huyền thoại, “chuyện về các nguồn gốc thế giới, về các
30
hiện tượng tự nhiên, về các thần và các anh hùng văn hóa. Nó là yếu tố cấu thành của ý
thức tập thể, được dùng làm phương tiện hài hòa hóa quan niệm về thế giới chung quanh và
về vị trí của con người trong đó”[33, XVIII]. Thì khi đi vào văn học, huyền thoại là một
phương thức tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ. Truy nguyên thuật ngữ “huyền thoại”,
nhiều nhà nghiên cứu đã tìm đến từ “Mythos”, với nghĩa, “lời nói mơ hồ tối nghĩa, cần
phải giải mã mới tìm ra được ẩn ý”(Phùng Văn Tửu). Và nó được dùng để phân biệt với
“Logos”, những sự kiện có thể xác minh được bằng chứng cứ chắc chắc. Do đó R. Bathes
cho huyền thoại là một ngôn từ. Nhưng không phải mọi lời nói đều là ngôn từ, ngôn từ trở
thành huyền thoại khi nó mang theo thông báo đặc biệt. Và theo ông nghiên cứu huyền thoại
thật ra là nghiên cứu về kí hiệu học, “huyền thoại thuộc về một khoa học tổng quát mở rộng
của ngôn ngữ học, và đó là kí hiệu học”(R.Bathes).Trong bản thân huyền thoại luôn chứa
đựng hạt nhân mơ hồ, tối nghĩa. Điều này không chỉ vì sự ẩn dấu sau những biểu tượng
ngôn từ như R. Bathes đã thấy. Mà bởi biểu tượng trong huyền thoại còn thuộc về cấu trúc
bề sâu của tâm thức nhân loại và sự sáng tạo của người nghệ sĩ.
Theo chúng tôi huyền thoại gần với biểu tượng bởi đó là những “mô hình do nghệ sĩ
sáng tạo ra trong tác phẩm”(Garaudy). Theo Garaudy, “nghệ thuật là nhận thức, nhưng là
nhận thức mang tính đặc thù bởi đối tượng của nó và bởi ngôn ngữ của nó: con người nhận
thức quyền lực sáng tạo của mình và bằng ngôn ngữ chẳng bao giờ cạn của huyền
thoại”[45, 216]. Huyền thoại và biểu tượng nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ hai, giúp con
người đi sâu vào khám phá sự bí ẩn của cuộc sống tâm linh của con người và vũ trụ rộng
lớn. Huyền thoại cũng như biểu tượng luôn có tính khơi gợi đến vô cùng. Những tác phẩm
chứa yếu tố huyền thoại sẽ có sức chứa và sức mở to lớn vì, “huyền thoại là hình tượng
nghệ thuật gián tiếp, có tầm tư tưởng cao và sức khái quát sâu”(Phùng Văn Tửu). Nghĩa là
bên ngoài nghĩa bề mặt, tác phẩm ấy chứa đựng những nghĩa khác, chuyện khác. Huyền
thoại thường được các nhà nghiên cứu phân loại thành ba kiểu, một đơn vị tình tiết của cốt
truyện, một sáng tạo lời nói chứa sức khái quát cao và là một phương thức tư duy nghệ
thuật.
Huyền thoại như là một sáng tạo lời nói bởi nó gắn bó mật thiết và sâu sắc với yếu tố
nghi lễ và ma thuật. Trong huyền thoại có lưu giữ kí ức thể loại của quá khứ. Nó lại mang
sức khái quát cao vì bên trong cái tổng thể này luôn chứa đựng những yếu tố cổ sơ. Đó là
tính chất im lặng, u huyền cần phải được giải mã. Cho nên biểu tượng được ẩn dưới bộ cánh
của huyền thoại. Đồng thời chúng tôi thấy biểu tượng không chỉ là cái che dấu cảm quan
31
huyền của huyền thoại mà chính: “Cảm quan siêu tự nhiên về thế giới mới là yếu tố cổ sơ
của huyền thoại”[11, 25]. Từ đó chúng tôi cho rằng sợi dây liên hệ giữa huyền thoại và biểu
tượng là vô cùng mật thiết. Chính cây cầu huyền thoại đã nối kết biểu tượng nghệ thuật như
hệ thống tín hiệu thứ hai để nhà văn khái quát những hiện thực được ẩn sâu trong tiềm thức
con người. Vậy huyền thoại đã chuyển hóa vào văn học và hình thành nên biểu tượng nghệ
thuật như thế nào?
Theo chúng tôi, vì huyền thoại với tư cách một hệ thống tín hiệu thứ hai được con
người sáng tạo nên. Nó chứa những mẫu gốc của vô thức tập thể, các mẫu gốc này có nguồn
gốc từ trong tâm thức của cộng đồng nhân loại. Do đó huyền thoại mang trong mình hai đặc
trưng cơ bản là “tính phổ biến và tính khả biến”(Đào Ngọc Chương). Nhờ hai thuộc tính
trên mà huyền thoại dễ dàng được chuyển hóa vào trong văn học. Vậy biểu tượng nghệ
thuật với tư cách là sáng tạo của nhà văn phải được nhìn trong mối quan hệ gắn bó mật thiết
với kí hiệu bởi nó là một hệ thống tín hiệu thông báo của chủ thể. Đồng thời nó được thoát
thai trong tâm thức huyền thoại nên dấu ấn của huyền thoại trong biểu tượng là vô cùng bền
chặt. Muốn chỉ ra được hàm ý của biểu tượng được nhà văn sử dụng trong văn bản nghệ
thuật, người nghiên cứu phải gắn biểu tượng đó với huyền thoại mới thấy được hết cá tính
sáng tạo và sức khái quát mà biểu tượng nghệ thuật mang lại cho tác phẩm.
Vậy, biểu tượng nghệ thuật trong văn học được chúng tôi nhìn dưới góc độ là kí mã
thẩm mỹ đặc thù, có nội hàm là những thuộc tính đặc trưng cơ bản của một kí hiệu mang
nghĩa hàm và ngoại diên của nó là cách thức nhận thức hiện thực của huyền thoại.
Tóm lại biểu tượng nghệ thuật phải được nhìn trong mối tương quan mật thiết và liên
đới với kí hiệu như một phương thức tạo nghĩa, với phân tâm học như một thành tố văn hóa
và với huyền thoại như cách thức tạo sự khái quát thẩm mỹ mang tầm nhân loại. Những
biểu tượng nghệ thuật nào chứa những nguồn năng lượng như vậy mới có thể trở thành
những biểu tượng nghệ thuật có giá trị.
Lí thuyết về biểu tượng nghệ thuật vẫn chưa được định hình một cách rắn chắc và
chặt chẽ như hình tượng nghệ thuật. Do đó hiểu biểu tượng nghệ thuật từ một lí thuyết nhân
học hay văn hóa học, tâm lí học, triết học,… e rằng có phần hơi dập khuôn. Tìm hiểu biểu
tượng nghệ thuật trong văn học phải có sự liên hội giữa những lí thuyết trên với hai hạt nhân
cơ bản của nó là kí hiệu học và huyền thoại. Đồng thời, nên đặt những biểu tượng nghệ
thuật dưới cái nhìn của thi pháp học và phân tâm học để giải mã yếu tố hình thức này.
32
Chúng đã góp phần soi sáng thông điệp gì mà nhà văn muốn gửi cho người đọc ? Qua đó
thấy được mô hình quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc sống.
Tiểu kết chương 1:
Biểu tượng là một yếu tố của văn hóa nhân loại, do đó chúng tôi cố gắng truy tìm
nguồn gốc của nó trong ngôn ngữ và tư duy của loài người để từ đó thấy được những đặc
trưng cơ bản của yếu tố hình thức này.
Biểu tượng mang tính nguyên hợp, biểu tượng nghệ thuật là thuật ngữ đa nghĩa,
chúng tôi cố gắng khu biệt những dấu hiệu đặc trưng của nó trong văn học, dồng thời đưa
ra một số tiêu chí để nhận diện và hướng phân tích biểu tượng nghệ thuật. Đi cùng với đó là
việc tìm hiểu sự chuyển hóa từ biểu tượng nghệ thuật vào trong tác phẩm văn học và trở
thành một yếu tố hình thức trong chỉnh thể văn bản nghệ thuật.
Quá trình tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật chúng tôi thấy có ba lí thuyết liên quan mật
thiết đến nó là kí hiệu học, phân tâm học và huyền thoại học. Từ đó chúng tôi thấy mối quan
hệ giữa chúng. Điều đó sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về mối quan hệ và sự xâm nhập lẫn
nhau giữa các lí thuyết này để nhằm khu biệt và chỉ ra biểu tượng nghệ thuật một cách chính
xác và hợp lí hơn.
Việc giải mã biểu tượng nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật không những tìm thấy
được giá trị thẩm mỹ từ văn bản mà còn là giá trị nhân bản, nhân văn mang tầm nhân loại
của tác phẩm.
Từ cách hiểu và những suy nghĩ về biểu tượng nghệ thuật trên, chúng tôi sẽ đi vào
khám phá những hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ
của William Faulkner.
33
CHƯƠNG 2: HỆ BIỂU TƯỢNG ÂM THANH TRONG “ÂM THANH
VÀ CUỒNG NỘ”
2.1. William Faulkner với “Âm thanh và cuồng nộ”
2.1.1. William Faulkner (1897-1962)
William Faulkner là nhà văn thuộc thế kỉ XX, một thế kỉ đầy sự biến động về chính
trị, văn hóa và xã hội. Cuộc đời ông trải qua rất nhiều thăng trầm cuộc sống. Faulkner sinh
ra trong một gia đình quí tộc miền Nam nước Mỹ. Miền Nam với bao câu chuyện huyền
thoại của người da đỏ đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn, tạo những ấn tượng sâu đậm, làm
thành nguồn tư liệu cho các câu chuyện của ông. Bản thân Faulkner cùng gia đình trải qua
nhiều biến cố, chúng khiến tâm thức người nghệ sĩ có những vết hằn kí ức rất sâu, có thể
thấy rõ nó từ các tiểu thuyết viết theo lối tự thuật của Faulkner. Các tiểu thuyết của Faulkner
hiện lên hình ảnh con người bất hạnh cùng những mảnh đời đầy bi kịch. Ngoài ra, việc sớm
đến những trung tâm văn hóa lớn ở châu Âu như Pháp và Ý đã giúp ông tiếp cận được với
nhiều trào lưu và trường phái văn học lúc bấy giờ. Đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng cùng
những khám phá to lớn về khoa học cơ bản và khoa học xã hội ở Âu châu.
Trước khi trở thành nhà văn, Faulkner viết khá nhiều thơ nhưng ông sớm nhận ra
mình không có sở trường với thể loại này. Một phần chất thơ đã đi vào các trang văn xuôi
của Faulkner làm câu văn tiểu thuyết của ông thêm hàm xúc, cô đọng, chứa được nhiều
thông điệp nghệ thuật của nhà văn.
Và sau cùng, là người nghệ sĩ chân chính Faulkner cố gắng đấu tranh cho quyền lợi
và hạnh phúc của con người. Mỗi trang văn của ông luôn chứa đựng khao khát giải phóng
nô lệ, áp bức con người. Tiếng nói nhà nghệ sĩ cất vang, tôi từ chối chấp nhận sự lụi tàn của
con người. Bởi với ông, “con người có thể bị tiêu diệt chứ không thể bị khuất phục” ( E.
Hemingway).
Những dấu ấn cuộc đời ấy đã in sâu vào sáng tác của nhà văn: từ lối kể chuyện phân
vai, cách miêu tả thiên nhiên thấm đẫm chất thơ, khả năng xây dựng tính cách nhân vật, tái
hiện mảnh đất miền Nam huyền thoại.
Đồng thời Faulkner là nhà văn yêu mến quê hương rất sâu đậm. Chúng tôi thấy ông
hư cấu trong tiểu thuyết địa hạt Jefferson thành một vương quốc kì ảo với những câu chuyện
li kì và bí ẩn, chứa đựng các biểu tượng nghệ thuật làm nên phong cách của người nghệ sĩ.
34
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Faulkner viết khá nhiều tiểu thuyết, gần 20 cuốn
và có những cuốn rất hay, nhưng Âm thanh và cuồng nộ vẫn là tác phẩm được nhà văn yêu
thích nhất, “nó là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của đời tôi”. (Faulkner)
2.1.2. Về tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ”
Đây là tiểu thuyết được viết thứ tư của Faulkner. Nó đánh dấu bước chuyển về tư duy
sáng tác của nhà văn. Đó là lối viết theo phong cách dòng ý thức cùng sự phân vai ngôi kể.
Lúc mới ra đời, tác phẩm chưa được người đọc hoan nghênh, nhưng theo thời gian nó đã tạo
được tiếng vang lớn, đưa tên tuổi của nhà văn đến người đọc trong nước và thế giới. Đồng
thời giúp ông đoạt giải Nobel văn học năm 1949.
Sở dĩ hội đồng chấm giải đề cao tiểu thuyết này không chỉ bởi hình thức hết sức độc
đáo, mới lạ của nó mà còn vì thông điệp vô cùng nhân văn được người nghệ sĩ ẩn dấu dưới
các biểu tượng nghệ thuật. Âm thanh và cuồng nộ là câu chuyện kể về cách sống của gia
đình Compson ở miền Nam nước Mỹ đang bị mất quyền lợi về kinh tế, chính trị. Họ có bốn
người con, ba trai và một gái, riêng đứa con út bị thiểu năng. Chung sống với họ có một
người cậu tên Maury và một gia đình giúp việc người da đen. Truyện được kể theo lối tự
thuật với bốn ngôi kể khác nhau và trật tự thời gian tuyến tính bị đảo lộn nhưng được kể
trong bốn ngày chính là ngày 6, 7, 8 tháng 4 của năm 1928 và ngày 2 tháng 6 năm 1910. Do
đó tóm tắt cốt truyện của tác phẩm là một việc không dễ.
Mở đầu truyện là thời gian 7/4/1928 với giọng kể của Benjy, đứa con út bị khùng của
nhà Compson. Hắn ta không có ý thức về không thời gian, nhân vật này nhận thức thế giới
và cuộc sống quanh mình thông qua cảm giác và mùi vị. Benjy yêu thích ba thứ là lửa, đồng
cỏ và người chị gái của mình là Caddy. Dưới cái nhìn của Benjy, những sự kiện của ngôi
nhà Comspon lần lượt được tái hiện qua các mảng mờ kí ức của một kẻ thiểu năng.
Tiếp theo là giọng kể của Quentin, được kể với thời gian năm 1910. Quentin là
người anh cả của nhà Compson. Dưới lớp kí ức của Quentin, hình ảnh về gia đình đang suy
sụp và tình yêu bi kịch giữa anh và người em gái đã hiện lên. Những ám ảnh quá khứ về
Caddy khiến anh ta không thể vượt qua được nó và Queetin tự sát bằng cách chết đuối .
Mạch truyện được tiếp nối với giọng kể của Jason, người anh thứ hai trong gia đình.
Phần này trở lại mốc thời gian hiện tại 6/ 4/ 1928, nếu giọng kể của Benjy đứt gãy theo từng
sự kiện, giọng Quentin chậm thì giọng của Jason lại nhanh với nhịp điệu khẩn trương, hằn
học pha lẫn sự trách móc đớn đau khi nhìn cảnh suy vi của gia đình. Sự phẫn uất của anh ta
hướng đến chị gái mình là Caddy và con gái của cô là Quentin, cháu gọi hắn bằng cậu. Dưới
35
con mắt Jason, bức tranh về gia đình Compson thêm hoàn thiện, nhưng nó vẫn thiếu một cái
gì đấy!
Do đó, nhà văn đã đứng ra và kể tiếp phần cuối cùng. Bằng giọng trần thuật trầm,
Faulkner đứng ở góc nhìn nhà quan sát, cố gắng diễn đạt khách quan đến mức có thể để
“giải thiêng” cho câu chuyện nhưng ông vẫn thất bại. Nên truyện có phần phụ lục được nhà
văn viết thêm.
Tiếp xúc với tác phẩm, chúng tôi thấy hiện lên cảm hứng tư tưởng mãnh liệt của nhà
văn cùng kết cấu hình thức nghệ thuật độc đáo. Truyện gần như không có nhân vật chính
nhưng mỗi nhân vật lại giữ một phần giá trị riêng. Đặc biệt là hệ thống biểu tượng chứa
đựng những hàm nghĩa mà nhà văn đã xây dựng. Những điều ấy khiến tiểu thuyết tựa một
bài ca “vô nghĩa lí” nhưng có sức hút và mời gọi độc giả khám phá nó.
Theo chúng tôi, nét đặc sắc, độc đáo trước hết ở văn bản là nghệ thuật kết cấu âm
nhạc như nhiều nhà nghiên cứu nhận định. Cấu trúc này giúp nhà văn sáng tạo nên những
biểu tượng âm thanh độc đáo. Từ đó một sự phức hợp giữa hai loại hình nghệ thuật là văn
học và âm nhạc trong văn bản. Đồng thời văn bản còn chứa yếu tố huyền thoại khiến nó đạt
chiều sâu suy tưởng; đưa tác phẩm vượt khỏi đường biên của dân tộc để bước vào ngôi đền
văn chương nhân loại.
Do đó chúng tôi đi vào khảo sát hệ biểu tượng âm thanh trong tiểu thuyết để thấy
được một phần điều đó.
2.2. Thanh âm của nhân vật
2.2.1. Thanh âm của Benjy
Nhân vật Benjy là một sáng tạo độc đáo của Faulkner. Dưới đôi mắt của một thằng
khùng, những âm thanh được hắn cất lên chứa ý niệm cảm xúc mãnh liệt. Đồng thời nó mở
ra những khả năng biểu cảm to lớn cho câu chuyện. Tìm hiểu thanh âm của Benjy sẽ giúp
chúng tôi khám phá một vài tầng vỉa giá trị của tác phẩm và thông điệp đầy nhân văn của
Faulkner với cuộc đời.
Tiếng khóc đánh dấu sự hiện hữu của chủ thể trước cuộc đời. Faulkner tâm sự rằng:
ban đầu ông muốn viết một truyện ngắn về những đứa trẻ, hình ảnh trẻ thơ với sự tò mò về
cái chết của người thân. Nhưng có gì đó lôi cuốn và buộc nhà văn chuyển tải nó thành tiểu
thuyết.
36
Chủ đề bi kịch đã dẫn Faulkner đến những suy ngẫm về cuộc đời. Câu chuyện về đứa
bé gái mang tên Caddy được chuyển thể thành câu chuyện về một gia đình, cộng đồng miền
Nam nước Mỹ trước sự thay đổi của cuộc sống. Trên cảm hứng tư tưởng ấy, từng thanh âm
hiện lên làm rõ hơn chủ đề cho câu chuyện, “thế giới âm thanh nằm ngoài tâm hồn con
người và không chỉ gồm các tiếng ồn của tự nhiên mà cả những giọng con người nói, la hét,
hát tạo nên chất thịt âm vang cho cuộc sống hằng ngày cũng như cuộc sống trong các lễ
hội”[30, 244]. Và thanh âm chúng tôi nghe rõ nhất là tiếng khóc.
Đi vào tác phẩm, chúng tôi thấy có rất nhiều nhân vật đã khóc, tiếng khóc đưa ma
của Dilsey và bà Caroline, tiếng khóc ấm ức của Jason thời thơ bé, của Quentin khi nhìn
thấy sự đổi thay của Caddy,…Mỗi tiếng khóc lại chứa đựng các thông điệp khác nhau. Và
dễ nhận thấy nhất là tiếng khóc của Benjy.
Benjy là nhân vật khóc nhiều nhất truyện. Tiếng khóc của hắn cất lên ở cả bốn phần
của tiểu thuyết. Benjy 33 tuổi và bị thiểu năng nên hắn như một đứa trẻ; những mảng kí ức
ùa về với nhân vật này khi anh ta chạm phải một vật gì đó gợi nhớ về quá khứ. Benjy chỉ có
cảm giác của một sinh vật. Tiếng khóc là cách mà nhân vật giao tiếp với những người xung
quanh. Những khám phá sinh động, độc đáo trong cơ chế tâm thức của Benjy gắn với hệ
biểu tượng âm thanh. Cuộc sống với hắn xoay quanh những hình ảnh và âm thanh hỗn độn.
Nhân vật này không có khả năng cảm nhận thời gian, anh ta đồng nhất thời gian quá khứ,
hiện tại làm một. Tiếng khóc của Benjy mở ra những trường nghĩa rộng lớn cho văn bản.
Trước hết, đó là tiếng nói bất hạnh của Benjy khi chứng kiến từng cái chết của người
thân và việc mất đi những thứ mà mình yêu thương. Đồng thời âm thanh của gia đình
Compson dội lại tâm thức Benjy cũng mang ý niệm rất mơ hồ và khó nắm bắt. Đó là tiếng
kêu của các con vật, con Dan hú, được lặp lại năm lần trong cảm nhận của Benjy, rồi tiếng
con bò cái rống,.. Và thanh âm gợi lên sự ấm áp từ ngôi nhà, “chúng tôi nghe thấy lửa và
mái nhà”[18, 101].
Có thể nói tiếng khóc của Benjy còn là tiếng nói muốn đối thoại của một cái Tôi bị
thất lạc giữa thế giới, “tôi không khóc nhưng không thể dừng lại được. Tôi không khóc
nhưng đất chao đảo, và thế là tôi khóc. Đất cứ dềnh mãi lên và đàn bò chạy lên đồi”[18,
38]. Benjy mang vào mình nỗi đau hư thực, không thể nhận biết được thời gian, trộn lẫn các
thanh âm rống, rên rĩ, khóc và tiếng gào của hắn. Nó tưởng chừng vô nghĩa lí, nhưng cấu âm
ấy đều thể hiện một sự cuồng nộ của một cái Tôi không thể đối thoại với người khác.
37
Thời gian câu chuyện ở đoạn tường thuật của Benjy bị đảo ngược liên tục. Truyện
mở đầu với ngày 7 tháng 4 năm 1928, khi đó Benjy 33 tuổi và là ngày sinh nhật của hắn.
Hắn được Luster dẫn đi tìm đồng xu 25 Cent bị đánh rơi. Benjy nghe được tiếng gọi
“caddie” của người đánh gôn, tiếng kêu làm kí ức về người chị mang tên Caddy hiện về.
Âm thanh này mở ra kí ức về quá khứ của hắn, nó nối kết những khoảng mờ trong tiềm thức
nhân vật. Từng sự kiện mất mát của gia đình Compson được Faulkner trải ra qua cái nhìn
của Benjy. Trên nền thanh âm lộn xộn, nỗi đau, bi kịch của từng thành viên của gia đình
được thể hiện.
Tiếng khóc của Benjy luôn gắn với sự mất mát và bất hạnh. Những sự kiện khiến ông
khóc là khi Benjy mất đi tên khai sinh, tên em bây giờ là Bejamin, hắn được mẹ đổi tên từ
Maury thành Bejamin. Khi đó Benjy lên năm tuổi, năm 1900. Rồi những cái chết của người
thân, mở đầu là cái chết của người bà, kế đó là anh trai Quentin, rồi cha mình và gia nhân
Rukos. Đặc biệt là sự mất mát của người chị gái Caddy: “Chúng tôi nghe thấy Caddy bước
vội vã… mắt chị lướt qua tôi rồi nhìn đi chỗ khác. Tôi òa khóc. Tôi khóc to và đứng dậy.
Caddy vào và đứng quay lưng vào tường, nhìn tôi. Tôi đi tới chị, khóc, chị lùi sát tường và
tôi nhìn mắt chị và khóc lớn hơn và kéo áo chị. Chị chìa tay ra nhưng tôi kéo áo chị. Mắt
chị chạy đi”[18, 107]. Diễn ngôn diễn tả thật tinh tế cảm xúc của Benjy khi Caddy bỏ nhà
đi. Ông yêu Caddy, nhìn thấy những bất hạnh nàng phải chịu, tiếng khóc của Benjy thổn
thức nỗi đau muốn níu kéo những giá trị và tình yêu mà mình dành cho chị gái, khi Caddy
đánh mất trinh tiết, “tay chị để lên miệng tôi và tôi thấy đôi mắt chị và tôi khóc. Chúng tôi
lên thang gác. Chị dừng lại, dựa vào tường nhìn tôi và tôi khóc và chị đi tiếp và tôi đi theo,
khóc, và chị lùi sát tường, nhìn tôi. Chị mở cửa phòng chị, nhưng tôi kéo áo chị và chúng tôi
đi tới phòng tắm và chị đứng tựa cửa, nhìn tôi. Rồi chị quàng tay ôm tôi và tôi đẩy chị ra,
khóc”[ 18, 108]. Caddy đánh mất trinh tiết khiến Benjy đau đớn. Tiếng khóc chuyển tải
thông điệp này với giọng điệu đầy bi thương. Biểu tượng tiếng khóc đã gợi ra những nghĩa
biểu trưng khác với nghĩa ban đầu của nó, không chỉ đánh dấu sự hiện hữu của con người
trong cuộc đời mà còn chuyển tải nghĩa khác là nỗi đau khi mất đi những thứ mình yêu
thương.
Tiếng khóc của Benjy đã thổi vào bản hợp âm Âm thanh và cuồng nộ những nốt
điệu khiến câu chuyện nhuốm đầy thực ảo. Nỗi đau và sự bất hạnh của gia đình Compson
được nhìn dưới mắt Benjy với biểu trưng là tiếng khóc đã cho thấy được dụng ý của nhà
38
văn: tạo khắc nên một bài ca bất tận về sự thống khổ và bất hạnh mất mát của con người
trong cuộc đời.
Âm thanh và cuồng nộ là bài ca về tình yêu và thân phận của con người thời
hiện đại. Tình yêu của chị gái dành cho Benjy hệt như tình mẫu tử. Benjy chào đời trong
một gia đình đang suy sụp, thiếu vắng tình thương. Ở gia đình Compson, Caddy như người
mẹ nâng đỡ tình yêu và cứu rỗi cuộc sống cho hắn. Nàng là hiện thân của cái đẹp bị cuộc
sống dục tình lôi kéo và hủy hoại. Benjy yêu chị gái. Tình yêu đó như người con với mẹ, lại
như người tình. Benjy cảm nhận Caddy bằng các giác quan, đặc biệt là thính giác “Caddy
có mùi như cây”, “Caddy có mùi như mưa”,.. Nhưng hắn không thể đối thoại với nàng, chỉ
có thể biểu lộ cảm xúc bằng tiếng kêu đau thương. Mỗi khi chị mình bị mất đi một cái gì đó,
Benjy lại khóc. Đó là tiếng khóc khi thấy quần lót của nàng bị dính bùn lúc nàng leo lên
cây, khi Caddy mất nụ hôn đầu và nhất là khi nàng đánh mất trinh tiết. Tiếng khóc thổn thức
nỗi đau vì nhìn thấy sự mất mát của người mình yêu thương. Nó vọng vào Caddy làm nàng
nhận thức lại hành động của mình, Caddy luôn cố gắng làm vui lòng Benjy bởi tình yêu
thương vô bờ bến của nàng với hắn, “em đâu phải là thằng bé khốn khổ, em có Caddy của
em mà”[18,18]. Nhưng rồi Caddy lớn lên và thay đổi, khao khát và ham muốn đẩy nàng vào
tội lỗi. Benjy ngửi được nó, nhưng hắn không thể làm gì được, chỉ biết khóc, gào, rống và
rên rĩ,...
Thủ pháp dòng ý thức cùng nghệ thuật tương giao khiến thanh âm của Benjy hiện
lên cực kỳ sống động. Mỗi hình ảnh, tiếng kêu, hay vật dụng khi Benjy cảm thấy, chạm
thấy, nghe thấy lại gọi ông trở về kí ức. Đó là cách xây dựng hiện thực tâm hồn nhân vật của
Faulkner. Những khoảng mờ, lối tắt của tâm lí nhân vật được dòng ý thức soi sáng, lát cắt
thời gian tuyến tính bị xóa bỏ, thay vào đó thời gian tâm trạng được tác giả sử dụng. Tràn
ngập tiểu thuyết là âm thanh đối thoại triền miên không dứt của các nhân vật, là tiếng kêu
khóc, rền rĩ của những cái tôi mất mát; tình yêu và con người thân phận của thời hiện đại
được Faulkner ý thức sâu sắc.
Nổi lên trên dàn hợp xướng là Âm thanh của Benjy, một cái Tôi bị thất lạc giữa cõi
trần, lang thang và đi tìm những giá trị tình yêu và ý nghĩa của sự sống. Tiếng khóc của
Benjy mang nhiều biến thái, nó là tiếng rên rĩ, tiếng gào, tiếng thét, tiếng rống,… mỗi biến
điệu lại chứa tải những cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngôn ngữ âm thanh được Benjy dùng
nhận thức, đối thoại với cuộc đời, “tiếng nói được sinh ra khi tiếng kêu và hơi thở tạo thành
âm tiết”[8, 20]. Đi vào hình tượng Benjy là đến với một bộ phim câm, trên nền cử chỉ, hành
39
động của hắn, tiếng kêu cất lên đã chuyển tải những cảm xúc đau thương, nỗi bất hạnh
không thể thốt ra thành lời, “người ta không cần phải hiểu tất cả các từ của câu mà vẫn có
thể nắm bắt được tinh thần, thái độ của người nói, sự cay đắng, giả dối hay lòng hận thù
của người đó”[47, 21 ]. Người chị là sợi dây nối giữa hắn với gia đình, nhưng rồi Caddy
cũng bỏ hắn, Benjy cô đơn, lạc lõng bởi hàng rào ngăn cách nhân vật với thế giới bên ngoài.
Benjy chỉ vui khi ngửi thấy ánh sáng ấm áp. Nó đối lập với cái chết luôn đi cùng hắn, “tôi
ngửi thấy cái đó”.
Với tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, cái chết được Faulkner miêu tả luôn xoay
quanh Benjy. Bởi cái chết “như một thoáng chốc hiện sinh đã buộc mọi nếp gấp của cuộc
đời lộ rõ ra thành một vấn đề trong cõi người phù thế”(Đào Ngọc Chương).
Benjy một thằng khùng, mang thanh âm của chết chóc. Hắn hiện lên như một định
mệnh xấu cho gia đình Compson. Từng cái chết liên tiếp xảy đến với gia đình được hắn cảm
nhận bằng thính giác. Khả năng ngửi và cảm thấy cái chết ở Benjy khiến hắn như kẻ mang
đến sự sui xẻo, “nó biết nhiều thứ hơn người ta tưởng. Nó biết ai đến ngày đến giờ, như nó
được mách bảo vậy. Nó có thể bảo bà lúc nào giờ nào của nó điểm, nếu nó nói ra được,
hoặc của bà. Hoặc của tôi”[18, 54]. Trên nền không gian xám và ảm đạm của ngôi nhà
đang suy sụp, tiếng khóc của Benjy luôn đi kèm mùi của chết chóc, bất hạnh, đó là cái chết
của người bà: “Rồi chúng tôi ngừng ăn và nhìn nhau im lặng, và rồi tôi lại nghe thấy và òa
khóc”[18, 45].
Và của người thân Dilsey:
“Đám ma là gì?’’,Jason nói.
“Mamy không dặn chị là đừng nói với họ à?” Versh nói.
“Là chỗ mà người ta khóc”, Frony nói. “Người ta khóc hai ngày hồi đám ma dì
Beulah Clay.”
Họ khóc ở nhà Dilsey. Dilsey khóc. Dilsey rền rĩ, Luster nói ,Im, và chúng tôi im, rồi
tôi bật khóc và con Blue hú dưới thềm nhà bếp. Rồi Dilsey thôi khóc và chúng tôi cũng
thôi…,
Dilsey rền rì và khi đó đến tôi bật khóc và con Blue hú dưới thềm. Luster, Frony nói
trong cửa sổ”[18, 56].
Của cha hắn :
“Những lóng xương rải rác quanh hố, nơi những dây nho sẫm màu mọc trong hố đen
sì, len bò vào ánh trăng như một vài hình thể đã ngưng đọng. Rồi mọi người thôi khóc và
40
trời đổ tối, và tôi thôi khóc để lại khóc tiếp, tôi nghe thấy mẹ, và tiếng chân vội vã đi khỏi,
và tôi ngửi thấy cái đó. Rồi căn phòng tới, nhưng mắt tôi đã nhắm. Tôi không thôi khóc. Tôi
ngửi thấy cái đó… Một cánh cửa mở và tôi ngửi thấy cái đó hơn bao giờ hết, và một cái đầu
thò ra. .. Nhưng tôi ngửi thấy cái đó..Con Dan đang ngồi ở sân sau, hú... Bóng chúng tôi
lay động còn bóng con Dan bất động trừ lúc nó hú”[ 18, 57-58].
Tiếng khóc của Benjy dưới đôi mắt Faulkner đã mang một ý nghĩa khác với tiếng
khóc thông thường. Nó biểu trưng cho cái chết, sự suy sụp của gia đình mà cha mẹ hắn đã
cố giấu kín, “cấm kị là một kiểu những văn phong cách ly nhằm để làm cho những sức
mạnh tâm linh của những con người chứa đầy sức mạnh đó trở nên trơ lì, cốt để cho những
con người đó không phải đau khổ, cũng như làm cho người khác đau khổ, và thế giới bên
ngoài vẫn giữ được những nguyên vẹn nếu như thế giới đó thoát khỏi sự lây nhiễm của
họ”[19, 366], họ không muốn con cái thấy được sự mất mát của bản thân mình. Nhà
Compson với những thế hệ nối tiếp nhau không thể thích nghi với những thay đổi của cuộc
sống. Thông qua những thanh âm vô nghĩa của Benjy, chúng tôi thấy hiện lên thông điệp hết
sức nhân văn mà Faulkner muốn nói với chúng ta: Tình yêu và con người thân phận
trong xã hội. Tiếng khóc của nhân vật này gợi lên hình ảnh về sự lụi tàn của gia đình, mất
mát của người thân. Bên ngoài thanh âm rỗng của tiếng khóc rống vô nghĩa lí, tiếng gào
điên dại, là một Benjy khao khát đối thoại, sẻ chia, muốn tìm lấy, níu giữ tình yêu và tháng
ngày đẹp đẽ của tuổi thơ với chị gái, với anh em. Ba đứa trẻ da đen lần lượt chăm sóc hắn là
Vesh, TP, Luster không hiểu những điều đó. Với họ, Benjy chỉ là một thằng ngốc, chỉ có
Caddy là không nghĩ vậy. Caddy luôn xem Benjy là người em bé nhỏ, khờ khạo của mình.
Hắn cất tiếng khóc, âm thanh đó là muốn đối thoại, sẻ chia những cảm nhận của mình với
mọi người, muốn được quan tâm, nhận được tình yêu của người thân dành cho mình. Hắn
chỉ có cảm giác ấm áp, thích thú khi được nhìn lửa, ngắm những cây hoa và nhìn đồng cỏ
của mình. Chúng là những cổ mẫu giúp hình tượng Benjy được hiện lên sâu sắc. Ngôn ngữ
đối thoại của Benjy với cuộc sống là tiếng khóc.
Benjy với ngôn ngữ hỗn độn là tiếng khóc khiến những mảnh vỡ gia đình Compson
được hiện lên, thu hút được sự chú ý của người tiếp nhận. Ẩn dưới tiếng khóc ấy là những
thông điệp nhân văn sâu sắc của Faulkner.
Tình yêu, một dạng xúc cảm của con người xã hội, nếu không biết cách chăm sóc và
nuôi dưỡng, nó sẽ lụi tàn, khiến con người trở nên vô cảm, trơ lì với những nỗi đau của
người thân và đồng loại. Gia đình là nơi ươm mầm và giúp tình yêu nảy nở. Benjy không có
41
được nó. Caddy với những phẩm chất của một người mẹ đã giúp ông cảm nhận được giá trị
của gia đình.
Ngoài tiếng khóc, chúng tôi còn thấy được những thanh âm khác ở Benjy. Chúng là
những hình ảnh bên ngoài đi vào tâm thức hắn, cộng hưởng cùng thanh âm của Benjy, khiến
chủ đề cái chết và bi kịch được trải ra trước mắt người tiếp nhận.
Thanh âm của Benjy không chỉ có tiếng kêu mà còn là những hình ảnh hiện qua đôi
mắt hắn. Đó là nghệ thuật lấy động để tả tĩnh của Faulkner. Benjy không nói được, những
mẫu hồi đáp của hắn phải được thông qua một số hình ảnh để chuyển tải thông điệp ngôn từ
cho người đối thoại, “qua hàng rào, giữa những vạt hoa gợn sóng, tôi thấy họ vụt”[18, 1].
Hình ảnh hàng rào và đồng cỏ, với đất rì rào và những vạt hoa gợn sóng tạo cho truyện một
chất thơ. Benjy sống giữa thực tại đau thương khi đồng cỏ đã mất và hàng rào cách ngăn
hắn với cuộc sống. Những cái chết, ám gợi với tiếng quạ kêu và tiếng hú của con chó Dan,
trên nền bức tranh ấy là bóng dật dờ của Benjy. Faulkner phác thảo những cái chết từ từ xảy
đến với gia đình Compson dưới đôi mắt của Benjy. Tất cả đều bằng những hình ảnh tĩnh tại,
tựa như một cuốn phim quay chậm. Từng thời khắc Benjy sống, từ khi ông hiện hữu và cảm
nhận sự suy vi của gia đình. Những tiếng hét và tiếng khóc tưởng như vô nghĩa lí, nhưng ẩn
sâu là hình ảnh cuồng nộ đau xót cho sự suy sụp, xuống dốc của gia đình. Các giá trị của
tình thương yêu bị đánh mất bởi cách sống, lối nuôi dạy con cái của gia đình Compson. Chỉ
duy nhất có Disey với tình yêu thương vô hạn của mình đã bảo bọc, chăm sóc và san sẻ tình
yêu cho lũ trẻ nhà Compson, nuôi nấng và dìu dắt họ vượt qua nỗi đau của số phận.
Những âm thanh mà Benjy cảm nhận thuộc về chiều sâu của vô thức. Chúng khó có
thề cảm nhận bằng ý thức thông thường để cắt nghĩa mà phải là vô thức bởi, “vô thức là
toàn thể những hiện tượng tâm thần mà ý thức không thể đạt tới một cách tạm thời hay vĩnh
viễn”[36, 324]. Tất cả đều ở dạng nguyên sơ, mang đậm dấu ấn huyền thoại.
Trước hết, đó là sự đổi tên của Benjy, thuở nhỏ hắn tên là Maury, khi gia đình
Compson nhận thấy dấu hiệu thiểu năng đã đổi tên hắn là Benjamin. Tên sau có nguồn gốc
trong Kinh Thánh, đó là tên đứa con út của Giacop, người đã gặp may mắn khi bị hại bởi
các anh.
Ở một gia đình mà người cha chìm ngập trong rượu, chỉ dồn hết tình yêu thương cho
Quentin, một người mẹ luôn đau bệnh, suốt ngày than vãn. Benjy chỉ có được tình yêu từ
Caddy, chính nàng là ngọn lửa sưởi ấm lòng ông. Mọi thanh âm hình ảnh Benjy cảm nhận
bằng giác quan chỉ xoay quanh nàng và cái chết. Chính lối trần thuật với giọng kể của một
42
thằng khùng là Benjy, câu chuyện tựa những mẫu đối thoại rời rạc, lẻ tẻ, không thành câu.
Nó chứa thanh âm, hơi thở của nhịp điệu cuộc sống. Sự hỗn tạp, bừa bộn với những đối
thoại giữa các nhân vật với Benjy hàm chứa sự đa âm trong giọng kể. Đa âm trong giọng kể
giúp cho những mã biểu tượng về âm thanh tĩnh về nhân vật Benjy trở nên khó nắm bắt.
Những thanh âm của Benjy rất khó nắm bắt nên chúng tôi phải tiệm cận chúng dưới
góc độ phân tâm học. Bởi biểu tượng nghệ thuật thoát thai từ những nguyên sơ tượng, nó là
một phần của vô thức. Thật vậy, mỗi biểu tượng âm thanh luôn gắn bó mật thiết với vô thức
của Benjy. Bóng tối tràn ngập ngôi nhà Compson, trên đó thanh âm của bông hoa ràn rạt,
tiếng hú của lũ chó và tiếng rống của đàn bò hòa cùng tiếng khóc rền rĩ của Benjy cộng
hưởng vào nhau. Tất cả tạo làm nên một Benjy mất mát. Khi gia đình nhận ra sự thiểu năng
của mình, Benjy lần lượt bị mất đi tình yêu của họ. Vì không có khả năng giao tiếp, hắn chỉ
biết dùng âm thanh để đối thoại với cuộc sống. Tiếng khóc chuyển tải cảm thức đau thương
mà Benjy đã trải qua và những mất mát ông phải gánh chịu. Nhân vật này chỉ cảm nhận
được hơi ấm của tình yêu với Caddy, và không ai thay thế được nàng trong tiềm thức của
hắn.
Tóm lại, Benjy là một sáng tạo độc đáo của Faulkner. Tiếng khóc của hắn đã lay
động sâu sắc đến cảm thức người đọc. Những biểu tượng thanh âm được hòa điệu cùng
nhau, dạng thức của thanh âm Benjy mang nhiều ám gợi. Benjy khắc khoải chờ đợi tình
yêu, ánh sáng và sự cứu rỗi. Bóng của nhân vật này tỏa những thanh âm rợn người buồn vô
tận cho một hiện thực suy tàn của dòng họ Compson. Không phải là định mệnh, mà cách
sống, phương thức giáo dục con cái của những gia đình miền Nam nơi nhà văn sống, không
phù hợp với sự phát triển của xã hội Mỹ lúc này. Đồng thời tác phẩm là một bè của nhiều
hợp âm, những âm thanh của nhân vật khác cộng hưởng cùng thanh âm Benjy làm nên bản
giao hưởng đầy cuồng nộ ở gia đình Compson.
2.2.2. Thanh âm của Quentin
Âm thanh và cuồng nộ là tác phẩm mà nhân vật quan trọng nhất của tiểu thuyết là
Caddy vắng mặt. Nàng được hiện lên qua kí ức của người thân. Nếu sự gợi nhớ về Caddy
của Benjy là cảm thức về nỗi đau hư thực trước những mất mát của người chị gái thì tâm
thức của Quentin về nàng là sự đau đớn khi không thể chiếm hữu em gái cho riêng mình.
Quentin là người nhạy cảm và sáng lạn nhất của gia đình Compson. Anh ta yêu em
gái như một tình nhân. Hắn ghen với tất cả những ai được nàng yêu thương. Những tội lỗi
và bất hạnh của Caddy đã đẩy Queetin vào bi kịch, Quentin tự sát vào ngày 24 tháng 6 năm
43
1910. Phần hai của câu chuyện về gia đình Compson được nhìn qua đôi mắt của Quentin
vào một ngày trước khi anh ta chết.
Thanh âm chủ đạo của giọng kể Quentin là tiếng nấc uất nghẹn của một người thất
bại trong tình yêu. Nhưng hắn không chấp nhận điều đó. Quentin muốn thoát ra khỏi nó
bằng cách chạy trốn vào trong thời gian, “có một chiếc đồng hồ cao tít trong nắng, và tôi
nghĩ, khi người ta không cố làm điều gì, tại sao cơ thể người ta lại cứ cố dụ dỗ làm điều đó,
một cách vô thức. Tôi cảm thấy những thớ thịt trên gáy tôi, và rồi tôi nghe thấy tiếng đồng
hồ của tôi kêu tích tắc trong túi và trong chốc lát, tôi đã gạt bỏ mọi thanh âm khác, chỉ giữ
lại tiếng tích tắc của đồng hồ trong túi”[18, 126 ]. Quentin cảm nhận tiếng tích tắc vô nghĩa
lí của đồng hồ, nó biểu trưng cho cuộc sống mà Quentin đang bị lưu đày, đưa nhân vật suy
niệm về thời gian. Người ảnh hưởng đến Quentin nhiều nhất sau Caddy là cha hắn. Triết lí
hư vô chủ nghĩa của ông dẫn hắn vào việc hoài nghi tất cả, “chẳng có gì cứu giúp được
mình- tôn giáo, niềm kiêu hãnh, bất kì điều gì- mà là khi người ta nhận thức rằng người ta
chẳng cần cái gì cứu giúp”[18, 122]. Nhưng Quentin không thể sống hoài nghi một điều là
tình yêu của mình dành cho em gái. Hồi ức mà Quentin nhớ lại cũng như Benjy, luôn gắn
với hình ảnh Caddy. Hắn cố gắng che chở cho em, dùng tình yêu của mình để cứu nàng khỏi
con đường tội lỗi. Benjy và anh trai thất bại khi giữ Caddy bên mình bởi họ luôn muốn độc
chiếm nàng. Dù tới học Harvard nhưng tiềm thức Quentin vẫn bị ám ảnh bởi Caddy. Những
thanh âm hắn cảm nhận và phát ra đều hướng về nàng và bi kịch gia đình. Nó không hướng
ra ngoài như Benjy mà vang dội, thấm vào không gian. Đó là tiếng nói uất hận, nghẹn ngào
khi Caddy đi cùng người khác, san sẻ tình yêu cho Benjy, là niềm nối tiếc tháng năm quá
khứ tươi đẹp ở Jefferson. Quentin lạc trong tình yêu tội lỗi với em gái. Tiếng tích tắc của
Đồng hồ tựa nhịp đập của trái tim đang thổn thức, cuồng nộ vì Caddy. Tiếng chuông lắng
đọng vào hắn sự chảy trôi buồn tẻ của cuộc sống bởi Caddy đã đi lấy chồng. Tất cả chúng
dội đến hắn như một bi kịch và con đường giải thoát chỉ có thể là chết. Chìm vào nước,
Quentin muốn gột rửa mọi tội lỗi mà em gái hắn đã mắc phải.
Hình tượng Quentin mang đến cho người tiếp nhận một dạng thức khác của con
người đó là triết lí hư vô, chán nản và bi quan, hoài nghi những giá trị chân chính của cuộc
sống. Nó được nâng lên tầm biểu tượng khi thông điệp đó được ẩn dấu dưới giọng điệu triết
lí. Nhân vật này đối thoại cùng bố nhưng tư tưởng của ông không thỏa mãn hắn, “những tư
tưởng bố nói bám ở đâu đó như những dây nho chết bám trên phế tích xưa. Vậy là không có
ở Harvard. Dù sao cũng không ở tôi. Lại nữa. Buồn hơn. Buồn tột cùng. Lại nữa”[18, 142],
44
Quentin tìm về mẹ những bà chỉ cho anh sự thất vọng: “Nhưng tại sao mẹ”… và tiếng gọi
hướng về mẹ của hắn là tiếng gọi đớn đau “Mẹ ơi! Mẹ ơi” những thanh âm được cấu trúc
trùng điệp, tiếng nói đối thoại cùng hình ảnh ám gợi cho cái chết của anh ta là bóng và đồng
hồ. Chúng trộn hòa vào tiếng lòng của nhân vật gây sự ám ảnh cho người tiếp nhận. Chúng
tôi không thấy Quentin khóc lóc, rên rĩ như Benjy nhưng cảm nhận được nỗi đau của hắn.
Quentin không nhận được tình yêu từ mẹ, hắn hầu như không gắn bó với bà mà chỉ với cha,
những kiến thức người cha trang bị cho hắn bước vào đời: “Đàn bà không bao giờ đồng
trinh. Sự trong sạch là trạng thái phản tiêu cực vì thế phản tự nhiên. Chính tự nhiên làm
con đau khổ chứ không phải Caddy và tôi nói bố không biết. Bố không thể biết và ông nói
Phải. Chính lúc đó chúng tôi nhận thức được rằng bi kịch là một thứ đồ cũ mua lại”[18,
170]. Chúng không giúp hắn lí giải được bất hạnh, tội lỗi mà Caddy phải chịu.
Bi kịch hiện lên từ tiếng khóc của Quentin là sự bất hạnh và mất mát của em gái.
Chúng tôi thấy nhân vật đang thức tỉnh bởi nỗi đau về sự cuồng dại trong tình yêu. Do hắn
không phát triển đầy đủ về tâm hồn, những vết xước tinh thần đẩy hắn tìm đến Caddy như
một nơi kí thác tình yêu, chỗ nương tựa. Nàng nâng đỡ tâm hồn hắn, cho hắn tình yêu cuộc
sống. Khi Caddy lấy chồng, hi vọng, ước vọng của hắn với cuộc đời chấm dứt, chỉ có cái
chết mới giúp hắn thoát khỏi những kí ức về Caddy, “anh còn nghĩ đến cái khác ngay cả
khóc anh cũng không thể anh đã chết từ năm ngoái anh đã bảo em anh chết nhưng lúc ấy
anh đâu biết anh định nói gì và đâu biết mình đang nói gì ở nhà có những ngày vào cuối
tháng Tám cũng giống thế này, không khí cũng loãng và háo hức thế này, cũng có chút gì
buồn bã luyến tiếc và thân thuộc. Con người là tổng số những kinh nghiệm phong trần của
mình. Con người là tổng số những gì chiếm hữu hắn. Một bài toán tẻ ngắt của những vật sở
hữu không trong sạch dẫn đến một con số không bất biến: sự bế tắc của cát bụi và ước
vọng. Nhưng bây giờ anh biết anh đã chết anh nói với em… Bán cánh đồng cỏ. Áo sơ mi
trắng của nó bất động trên chạc cây, trong bóng râm lấp loáng. Bánh xe bám đầy mạng
nhện. Dưới bụng xe vó ngựa dồn từng đợt như bàn tay thiếu phụ đưa kim thêu, nhỏ dần mà
không tiến tới, như một hình bóng trên đèn kéo quân đang chạy khỏi màn ảnh. Con đường
lại rã ngoặt. Tôi thấy mái vòm trắng và mặt đồng hồ khăng khăng ngu ngốc” [18, 181-182].
Những trang văn thấm đẫm chất thơ và nỗi đau, chứa giọng điệu triết lý về cuộc đời và sự
hư vô của nó. Trong sự đau đớn, phẫn uất, đam mê, Quentin đã sống và yêu em gái như một
người tình.
45
Chính quan niệm về đạo đức của xã hội miền Nam khiến Quentin đau đớn khi thấy
em gái quan hệ bừa bãi. Luôn được cha ý thức về truyền thống vẻ vang của gia tộc, hắn
không chấp nhận hiện thực gia đình suy vong. Thật khó nhận ra biểu tượng âm thanh nơi
nhân vật này bởi thanh âm mà Quentin thể hiện là những nốt trầm, từng dòng suy tưởng về
ý nghĩa và mục đích hiện hữu trên cõi đời. Nhưng nếu nhìn sâu vào kết cấu văn bản, ta vẫn
nghe ra được nó, những tiếng nấc nghẹn ngào của một con người bất hạnh đang cố bám víu
vào những lí lẽ hư vô .
Trong Âm thanh và cuồng nộ, hình tượng con người hư vô thể hiện đầy đủ nhất với
Quentin. Hắn bất hạnh trước hiện thực, hoài nghi mọi thứ. Ám ảnh của nhân vật này không
hướng nhiều về cái chết như Benjy mà là những tội lỗi em gái hắn đã phạm phải. Quentin
yêu thương Caddy, muốn nàng luôn và mãi trong sạch theo những chuẩn mực đạo đức của
miền Nam bấy giờ: “Bởi vì phụ nữ rất mỏng manh và rất bí ẩn bố nói. Sự cân bằng mỏng
manh của cái ô uế định kì giữa hai mùa trăng cân bằng. Những tuần trăng ông nói tròn và
vàng như trăng mùa gặt hông em đùi em. Bên ngoài luôn luôn bên ngoài họ nhưng vàng.
Những gan bàn chân như đang bước tới. Rồi biết rằng có ai đó rằng tất cả những gì được
che giấu bi ẩn và độc đoán. Tất cả những cái đó bên trong họ tạo thành cái dịu ngọt bên
ngoài chờ đợi một sự đụng chạm. Thối rữa thành chất lỏng như những vật chết trôi nổi lềnh
bềnh như cao su nhợt nhạt ướt nhũn đều mùi hoa kim Ngân hỗn độn”[18, 187]. Nên khi
Caddy thay đổi, Quentin đau đớn và nhận ra mình không thể che chở cho nàng. Hắn đánh
nhau với người tình của Caddy, cho Benjy uống rượu vì Benjy dành tình yêu của Caddy,
đánh T.P trong đám cưới Caddy, “anh đá T.P ngã vào cái máng mà đám lợn vừa ăn và T.P
nằm trong đó”[18, 38].
Kết cấu âm nhạc tạo nên cho văn bản một mô hình âm thanh độc đáo và những khám
phá tinh tế tâm lí nhân vật, “cấu trúc âm nhạc là cấu trúc giải thích thuần túy nhất. Bởi vì
một tác phẩm âm nhạc tạo khả năng thể nghiệm chất liệu rộng lớn và đa dạng nhất, nhất là
chất liệu tâm lí”[47, 420]. Từng nhịp điệu nhanh, chậm, trong các phần của tiểu thuyết. Âm
điệu mà Quentin mang đến là sự chậm chạp, trầm lắng của bản tổng phổ. Trái ngược với âm
điệu rời rạc, đứt gãy của Benjy và nhịp nhanh, gấp gáp ở đoạn tường thuật của Jason. Nhịp
điệu ấy khiến thanh âm Quentin tựa như tiếng của một con tim đang hấp hối. Có lẽ Quentin
là biểu tượng của con người hư vô chủ nghĩa mà Faulkner đã học tập ở Dostoivesky trong
tiểu thuyết Lũ người quỉ ám. Tiếp nối Faulkner, nhân vật hư vô lần lượt xuất hiện trong
46
Người xa lạ của A. Camus và Buồn nôn của J.P.Satre. Những âm thanh của Quentin đều
hướng đến Caddy và cái chết.
Biểu tượng âm thanh ở Benjy là những tiếng động và hình ảnh bởi anh ta không cảm
nhận được hiện thực quanh mình. Trong khi đó, âm thanh Quentin lại mang biểu hiện khác.
Là người có trí óc nên âm thanh dội vào cảm thức của Quentin khác so với Benjy. Hai âm
thanh thường trực ám ảnh hắn là tiếng tích tắc của đồng hồ và tiếng chuông. Vì quá say đắm
Caddy, Quentin mất đi khả năng cảm nhận thời gian. Anh ta muốn giết chết thời gian để
không phải nhớ lại những sự kiện đau thương của quá khứ: “Những chiếc Đồng hồ đã giết
thời gian. Ông nói những bánh xe nhỏ xíu còn kêu tích tắc thì thời gian còn chết, chỉ khi
nào đồng hồ ngừng chạy, thời gian mới bắt đầu sống. Những cây kim xoãi ra, chênh chếch
khỏi đường chân trời một góc mờ, như cánh chim chao trong gió, ôm giữ tất cả những gì ta
thường hối tiếc như trăng non giữ nước”[18, 129]. Với tiếng chuông, Quentin nghe sự chảy
trôi của đời sống đã cuốn đi tuổi thơ êm đềm và đưa hắn vào một hiện tại đau thương.
Âm thanh và cuồng nộ là tiểu thuyết chứa đậm yếu tố huyền thoại. Từ nhân vật
Benjy gợi người đọc liên tưởng đến hình tượng Chúa Giesu ở thánh Kinh Cựu Ước. Còn cái
chết của Quentin như một nghi lễ hiến sinh của huyền thoại tôn giáo. Yếu tố huyền thoại
cũng được ẩn dấu dưới các nguyên mẫu mà đặc trưng nhất là hệ biểu tượng cổ mẫu. Chúng
là kí mã thẫm mĩ mà nhà văn muốn xây dựng để nhờ người đọc giải mã, để nhằm tìm thấy
được thông điệp về con người và cuộc sống được người nghệ sĩ che giấu. Mỗi nhà văn luôn
có cách xây dựng huyền thoại riêng, nếu F.Kafka: “Đi từ những sự kiện rất thực tế nhưng
để xây dựng một thế giới huyền bí có tính chất mập mờ, hai mặt theo kiểu của ông. Một mặt
thực và một mặt giả, lơ lửng giữa thực tế và ảo ảnh, giữa nhận thức và trực giác, giữa thái
độ nhập cuộc và tinh thần thoát tục”[50, 135], thì W.Faulkner lại sáng tạo huyền thoại dựa
vào Kinh Thánh.
Biểu tượng âm thanh tiếng tích tắc của đồng hồ biểu trưng cho nhịp đập của cuộc
sống hiện thực, nhưng với Quentin nó là sự chối bỏ hiện thực. Quentin thất bại trong tình
yêu. Hành động đập nát đồng hồ như ước muốn làm ngưng đọng thời gian, nhưng anh ta
vẫn thất vọng khi không thể làm được điều đó. Nên nó đã dẫn hắn vào bi kịch tự vẫn, “con
nên nhớ rằng con đến Harvard là ước mơ của mẹ con ngay từ ngày con ra đời và không một
người nào mang họ Compson lại làm cho phụ nữ phải thất vọng và tôi tạm thời thôi sao
điều đó có lợi cho con, cho tất cả chúng ta hơn và ông mỗi người là quan tòa của đức hạnh
của chính mình nhưng đừng ai kê đơn cho hạnh phúc của kẻ khác và tôi tạm thời thôi sao và
47
ông đó là từ ngữ buồn thảm nhất chẳng còn gì khác trên đời đó không phải là tuyệt vọng
cho đến khi thời gian không phải là thời gian cho đến khi nó tồn tại”[18, 256-257].
Bi kịch tinh thần của nhân vật này còn đến từ sự mâu thuẫn bởi cái nhìn của anh ta
về quan niệm đạo đức luân lí trong xã hội miền Nam nước Mỹ lúc này. Khi nhận thấy
những đổi thay của Caddy trong tình ái, Quentin biểu hiện một thanh âm giận dữ và cay
đắng. Nó biểu hiện bằng những mẩu đối thoại giữa hắn và bố. Từng hình ảnh, hành động và
lời nói của những người quanh mình đều đưa Quentin trở lại, nhớ lại Caddy. Tình yêu đó đi
đến cực cùng với lời thú tội, “con đã phạm tội loạn luân rồi bố ạ”, là đỉnh điểm của tình
yêu ngang trái của hắn với em gái.
Âm thanh Quentin chậm, buồn, nó như tiếng thở dài tuyệt vọng. Toàn bộ phần
chuyện kể của nhân vật này góp phần chỉ ra rõ hơn bi kịch của gia đình Compson, lí giải
những uẩn khúc phía sau câu chuyện. Có thể nói, “nhu cầu về cái đẹp và hoạy động sáng
tạo thể hiện cái đẹp là không thể tách rời ở con người và không có nó thì con người không
muốn sống trên đời này nữa”[24, 137]. Những trang hồi ức của Benjy và Quentin hiện lên
thật đẹp. Faulkner đã chứng tỏ tài năng của một nhà văn lớn ở sự nhạy bén với sự vật và
khả năng truyền tải, phân tích nó.
Trong gia đình Compson, mỗi cá nhân luôn lạc lõng. Họ không cảm nhận được hơi
ấm của tình yêu gia đình. Bọn trẻ nhà Compson lớn lên thiếu đi sợi dây gắn kết với gia đình.
Trên hành trình đi tìm sự hiện hữu, giá trị sống, những va chạm cuộc sống đã đánh gục họ,
khoét sâu thêm, làm rạn nứt đi tình yêu thương của mỗi người và khiến họ trở nên ích kỉ với
chính người thân của mình. Biểu tượng âm thanh ở mỗi nhân vật được chúng tôi nhìn từ hai
góc độ. Những thanh âm được nhân vật cảm nhận và ngữ cảnh âm thanh hiện lên.
Mỗi thanh âm đều được hiện thực hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Ngữ cảnh sẽ
mang những ý nghĩa khác nhau do cấu trúc thông điệp mà nhà văn hướng đến. Âm thanh
và cuồng nộ là một tác phẩm khó đọc. Do đó có lần Faulkner đã khuyên độc giả muốn hiểu
tác phẩm của mình thì cần đọc nó ít nhất bốn lần. Bởi tác phẩm đi vào phân tích tâm lí nhân
vật hết sức sâu sắc và tinh vi. Dưới những thanh âm tưởng như vô ngôn nhưng ta có thể
nghe ra cảm hứng tư tưởng của nhà nghệ sĩ: “Tầng âm thanh cuả tác phẩm, tổ chức âm
thanh của nó, tiết điệu và thi luật. Các đơn vị ý nghĩa xác định cấu trúc ngôn ngữ hình thức
tác phẩm văn học và phong cách của nó. Các đặc điểm quan trọng nhất và đặc thù văn học
nhất trong tất cả các đặc điểm tu từ mà chúng cần phải được chú ý đặc biệt và bởi chúng
hòa lẫn một cách không rõ rệt với thế giới đặc biệt của thi ca”[9,146]. Chính lối kể theo kĩ
48
thuật dòng ý thức và sự đa âm giọng điệu ở từng nhân vật trong từng ngữ cảnh khác nhau
khiến mỗi sự kiện trở nên khó nắm bắt. Nó gợi lên tính chất mơ hồ, đa nghĩa ở từng mã
thẩm mỹ, khiến người tiếp nhận rối tung không biết lần tìm đầu mối sự việc, “chỉ cần liên
tưởng tới bụi cây dường như tôi có thể nghe thấy những tiếng thì thầm, những con sóng
triều bí mật ngửi thấy tiếng đập của dòng máu nóng hổi dưới da thịt cuồng dại phô bày nhìn
ngược lại đôi mi mắt đỏ mọng lợn được cởi trói từng cặp sóng đôi lao xuống biển và ông
chúng ta phải thức tỉnh xem ma quỉ hoành hành đôi chút trong khi những cái đó không phải
lúc nào cũng vậy và tôi thậm chí không cần phải lâu đến thế đối với một người can đảm và
ông con có coi là can đảm hay không và tôi thưa vâng bố không coi là như vậy sao và ông
mỗi người là quan tòa đức hạnh của chính mình việc con có còn coi là can đảm hay không
còn quan trọng hơn chính bản thân hành vi ấy hơn mọi hành vi nếu con không thể nghiêm
túc và tôi bố không tin là con nghiêm túc hay sao và ông bố nghĩ rằng con quá nghiêm túc
để bố có lí do sự sợ hãi lẽ ra con không nên cảm thấy bị bắt buộc phải thú nhận mình đã
phạm tội loạn luân và tôi con không nói dối và ông con muốn thăng hoa một phần cái điên
rồ tự nhiên của con người thành nỗi khiếp sợ rồi yểm trừ nó thành sự thật”[18, 254-255].
Có hai chủ thể lời nói đang hồi đáp nhau và không một dấu chấm câu, người đọc khó nhận
ra đâu là giọng của Quentin và đâu là của bố anh ta, tất cả tan vào cuộc đối thoại bất tận của
hai nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức đã che lấp xóa mờ ranh giới không gian và thời gian.
Không chỉ là cách kể, cảm hứng tư tưởng mãnh liệt của nhà văn khiến câu chuyện sống
động, hiện thực hiện ra như chính hơi thở của cuộc sống. Nó buộc người tiếp nhận phải làm
việc thật nghiêm túc mới mong lần ra được những thông điệp nghệ thuật mà người nghệ sĩ
đã kí thác.
Tiếng nói uất nghẹn của cái Tôi mất mát và thất bại trong tình yêu, âm điệu lắng vào
bên trong, từng tiếng lòng của Quentin được trải trên những hình ảnh về quá khứ. Faulkner
ném từng mảnh hội thoại tưởng như vô cùng rời rạc và đơn lẻ nhưng tất cả đều hướng đến
Caddy, nó khoét sâu hơn sự đau đớn khi Quentin nhìn thấy em gái băng hoại đạo đức, “đó
là vì anh không còn tin vào điều gì khác còn những cái khác nữa nhưng có lẽ không có và
rồi anh em sẽ thấy rằng ngay cả bất công cũng khó xứng với cái mà em tin là mình” [18,
180].
Sự phức tạp ở giọng điệu Quentin còn được thể hiện trong cấu trúc tác phẩm. Được
viết theo lối kĩ thuật dòng ý thức, nên tác phẩm xóa mờ ranh giới thời gian tuyến tính. Từng
sự kiện hiện về Quentin, chúng âm vang thanh âm đối thoại, thấm vào cảm nhận của hắn.
49
Sự cãi nhau của bố và mẹ, những hội thoại giữa hắn và Caddy… Tất cả chúng nối kết lại
trong một thông điệp là nỗi bất hạnh của Quentin. Bi kịch của lối sống trong gia đình
Compson hiện lên. Giai điệu trầm buồn là nét chủ đạo mà nhân vật này cố thể hiện thành
lời. Tiếng chuông ngân đánh thức hắn, thời điểm một ngày với đầy ắp sự kiện được hắn
nhìn lại, quá khứ sống dậy đau buồn còn hiện thức thì đầy bế tắc, “tôi đứng giữa bóng tối và
lắng nghe từng hồi chuông đều đặn và êm đềm trải dài trong nắng, giữa đám lá non mỏng
mảnh. Đều đặn thanh bình và trong sáng, ngay cả giữa tháng cưới xin, tiếng chuông vẫn
mang đầy những đặc tính thanh bình của mùa thu”[18, 149]. Lắng nghe tiếng chuông và
nhịp điệu của nó, hắn nhớ quá khứ tươi đẹp ở quê nhà, tiếng chuông đánh thức nỗi đau thực
tại và là tiếng nguyện cầu đưa Quentin đến gần hơn cái chết. Tái hiện thực tại nhưng không
phải sự phản ánh giản đơn hiện thực, Faulkner dẫn người đọc vào một thế giới đầy tinh vi
của sự phức hợp tâm lí. Chính khả năng cộng hưởng nhiều cung bậc âm thanh và cấu trúc
âm nhạc đã khiến nhà văn thể hiện chúng dưới đôi mắt của một nghệ sĩ lập thể. Từng mảng
cuộc sống tự kết nối trong nhau, những thanh âm “vô nghĩa lí” chuyển tải những vấn đề
nhân văn về tình yêu và con người thân phận trong xã hội miền Nam lúc này.
Tiếp cận tác phẩm chúng tôi thấy dấu vết liên văn bản ở Faulkner. Tất cả thiên truyện
đều hướng về nhân vật vắng mặt, Caddy, có ba người anh em cùng nhìn về nàng với những
tâm trạng và thái độ khác nhau, khá nhiều song chiếu được nhà văn gợi ra để liên tưởng đến
nàng. Với Quentin đó là hình ảnh đứa bé gái Italia mà anh gặp trên đường. Dễ dàng nhận ra
dấu vết liên văn bản trong nó và Vụ án của F. Kafka, tình huống Queetin bị kết án và nộp
phạt và đoạn K bị tòa án buộc tội, cả hai đều phi lí, nhưng thông điệp là khác nhau. Với K
đó là sự phi lí của cuộc sống, luôn có những thế lực vây bủa con người và tòa án là một
trong số đó, tội mà Quentin phải chịu lại gắn với mặc cảm loạn luân mà anh ta cố nghĩ ra
bởi quá yêu Caddy. Thanh âm giúp hình tượng Quentin được nâng lên tầm biểu tượng: Con
người phi lí, chối bỏ thực tại và thời gian. Nó là tiếng vọng cuộng nộ cho sự bất hạnh ở
nhân vật này. Đi sâu vào tâm lí phức tạp của Queetin còn có rất nhiều hình ảnh ám gợi.
Những mẫu gốc này góp phần lí giải tầng sâu trong cơ chế tạo hình liên tưởng trong nhân
vật này. Tiếng chuông đánh thức Quentin dậy, Đồng hồ tích tắc gợi lên nhịp đập cuộc sống.
Nhưng là một kẻ luôn thất bại, anh ta sợ cuộc sống hiện tại. Những hình ảnh quá khứ hiện
về, ám ảnh hắn. Nó lộn xộn, phi logich, bởi chúng được nhìn qua con mắt của một kẻ bị ám
ảnh bởi tội lỗi loạn luân. Khao khát chiếm lĩnh, độc chiếm Caddy cho riêng mình nên tiếng
vọng đối thoại của Quentin hàm chứa cả những biểu hiện của tính giao, chúng được dấu
50
dưới lớp sương mờ của vô thức. Hành động ghen của hắn với các người tình của Caddy, nhà
văn khắc họa tâm lí đó nhờ vào thuyết phân tâm học.
Tài năng của Faulkner là với dung lượng một ngày nhưng câu chuyện về Quentin
đầy ắp sự kiện. Hình ảnh và đối thoại vang lên như khoét sâu hơn mặc cảm tự trị khi nhân
vật này lần lượt mất đi những điểm tựa luân lí, lạc lõng và trơ trọi giữa cuộc sống. Cái chết
đến với hắn là một tất yếu.
Tóm lại, Quentin là nhân vật phức tạp về tâm lí, hệ thống âm thanh chuyển tải tình
yêu cuồng vọng của hắn là tiếng tích tắc của đồng hồ, biểu trưng cho hiện thực và tiếng
chuông gợi nhớ về kỉ niệm, đánh thức thực tại đau thương. Vì là một nhân vật bị tình yêu
làm cho mù quáng, Quentin cảm nhận thanh âm cuốc sống không theo trật tự logich, đó là
sự chồng ghép của nhiều mẫu đối thoại với tiếng nói đa thanh xen vào chủ thể cảm nhận. Đi
cùng với nó là kĩ thuật dòng ý thức được Faulkner sử dụng để ghép nối những khoảng mờ
vô thức trong tâm lí nhân vật. Song chiếu hình ảnh lên tâm thức nhân vật, giúp anh ta
nghiệm sinh sự phi lí của cuộc đời. Thanh âm của Quentin soi rõ thêm bi kịch của gia đình
Compson, đặc biệt là bi kịch của Caddy.
Là câu chuyện về tình yêu và con người thân phận trong xã hội miền Nam nước Mỹ
thế kỉ XX, Âm thanh và cuồng nộ ngập tràn tiếng nói đối thoại giữa các nhân vật, một kĩ
thuật có lẽ được nhà văn học được từ kinh thánh Cựu Ước. Xen giữa thanh âm tình yêu
hướng ngoại của Benjy và hướng nội của Quentin dành cho Caddy là sự trách móc, khinh
miệt của Jason, người em của nàng.
2.2.3. Âm thanh của Jason
Jason là nhân vật tỉnh táo nhất gia đình Compson. Hắn cũng trải qua một tuổi thơ
thiếu vắng tình yêu của cha và các anh em. Tình yêu tôn thờ của mẹ không giúp nhân vật
này cân bằng được trạng thái xúc cảm. Trước sự suy sụp của gia đình, thanh âm của hắn
hướng về sự trách móc những người thân. Jason ghét nhất là Caddy. Nên khi Caddy đi khỏi
nhà, hắn trút sự thù hận lên con riêng của nàng là Quentin. Và bức tranh về gia đình
Compson không thể toàn vẹn nếu thiếu những thanh âm của Jason.
Tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ là bản giao hưởng với nhiều cung điệu khác
nhau và tiết điệu của Jason là nhịp nhanh và mạnh, tiếng nói gấp gáp của một cái tôi duy lí
đang cay nghiến thực tại, “tiền đó là của mẹ”, tôi nói. ‘mẹ muốn ném cho chim chóc thì
cũng là việc của mẹ”[18, 316]. Tư duy của Jason luôn gắn liền với vấn đề tiền bạc và địa vị
gia đình.
51
Tiếng chửi xuất hiện ngay từ phần mở đầu “ đã là điếm thì suốt đời vẫn là điếm. Tôi
đã bảo mà”[18, 258]. Câu chuyện được mở đầu với ngày 6 tháng tư năm 1928 một ngày
trước lời kể của Benjy. Jason dưới con mắt của gia nhân và anh em hắn là một kẻ chuyên
mách lẻo, keo kiệt. Tính cách này khiến hắn xa cách với anh em trong gia đình, luôn mâu
thuẫn với tình yêu thương cao cả của Caddy. Từ sau cái chết của người bà, Jason không có
được tình yêu của gia đình, hắn dường như tách biệt với những anh em của mình. Hình
tượng Jason được thể trong mắt người anh Quentin và người em Benjy là một cá tính ích kỉ,
hay khóc nhè. Cha hắn không yêu thương hắn mà dành hết tình yêu của mình cho ba người
con khác. Âm thanh của tuổi thơ Jason là tiếng khóc đấu tranh cho tình yêu gia đình không
trọn vẹn. Những bất hạnh của gia đình theo hắn chính là do Caddy. Bị hầu hết mọi người
trong gia đình coi khinh, chỉ trừ mẹ, do đó hắn cố hành động để giành được sự yêu thương
của gia đình. Chính tuổi thơ bất hạnh đã khiến Jason trở nên lạnh lùng và khắt nghiệt với
đứa cháu ruột của mình là Quentin. Cô là con riêng của Caddy với một người đàn ông khác
là Dalton Ames. Những xung đột quá khứ với Caddy trong tình yêu gia đình càng khiến
Jason khinh miệt con gái Caddy. Hắn cố áp đặt suy nghĩ và lối sống của mình lên các thành
viên khác. Do đó Jason gặp phải tiếng nói phảng kháng lại trật tự đó và kết quả là hắn bị
mất số tiền hơn 7000 đôla còn cháu gái hắn trốn nhà đi theo người khác. Thanh âm của mẹ
hướng đến hắn là tiếng cảm thông và đau xót cho đứa con trai bà yêu nhất không được đối
xử bình đẳng. Nhưng nó khiến Jason khó chịu, bởi nó như một sự ban ơn. Còn với Benjy,
hắn ghét tiếng la hét, gào khóc của em trai bởi nó khiến cho thực tại suy vi gia đình trở nên
rõ ràng hơn. Âm thanh của người vú già Dilsey với tiếng nói bênh vực và che chở cũng bị
Jason bác bỏ. Đặc biệt hắn ghét cay ghét đắng thanh âm của đứa cháu Quentin. với Jason,
đó là một niềm ô nhục trong gia đình. Jason luôn xung đột và gây hấn với cô bé, áp đặt lối
sống lên cô, khiến cô bé phải bỏ nhà đi, “cái con đĩ đã khiến tôi mất một việc làm, một cơ
hội để tiến thân, đã giết cha tôi và làm mẹ tôi mòn mỏi từng ngày, làm tên tuổi tôi thành trò
cười trong tỉnh. Tôi sẽ không làm gì hết. Tiếng chuông lại vang rền, cao tít trong nắng
thành từng dải thanh âm hỗn độn và chói sáng”[18, 419].
Vì là nhân vật tỉnh táo nhất của Compson, Jason cảm nhận thanh âm cuộc sống theo
tự thời gian, tiếng tích tắc của đồng hồ luôn gợi cho Jason sự hối hả, vội vã của cuộc sống.
Jason luôn tính toán hơn thiệt. Hắn không yêu thương một ai, đổ tất cả tội lỗi về sự suy sụp
của gia đình lên Caddy, vì nàng, nàng chiếm hết tình yêu của bố, vì nàng, Jason không thể
vào được ngân hàng làm việc, khiến bố và anh trai Quentin phải chết,… Thanh âm trách
52
móc và hằn học được thể hiện đậm nét với những mẫu đối thoại giữa hắn và Quentin, cháu
gái mình: “Tôi hư, đó là vì tôi phải hư… Cậu làm tôi hư. Tôi chỉ muốn chết cho xong. Tôi
ước gì tất cả chết hết đi”[18, 316]. Jason lợi dụng tình cảm mẹ con của Caddy để chiếm hữu
số tiền nàng gửi về hàng tháng. Dưới con mắt tiếp nhận của độc giả, Jason là kẻ tham lam
và độc ác, cay nghiệt,… Nhưng bi kịch nhân vật này phải chịu có nguồn gốc bên trong gia
đình, cách sống, thái độ sống và nuôi dưỡng người thân của Jason là nguyên nhân đẩy
Quentin trốn khỏi nhà. Khi cha mất, Jason nắm gần như sinh hoạt của gia đình. Do đó anh ta
cố tìm cách chia rẽ tình yêu của Chị gái mình và con gái cô ấy.
Tiếng nói của những đối thoại quá khứ được Jason cảm nhận, đó là việc Caddy luôn
cố gắng giành hết tình yêu về phía mình. Nàng không san sẻ nó cho Jason, khiến anh ta luôn
bị bỏ rơi và chìm trong mặc cảm lạc lõng. Hiện thực đó khiến hắn theo năm tháng trở thành
một con người đầy tính toán, nhỏ nhen và ích kỉ. Anh ta không ban phát tình yêu thương
cho cháu gái, luôn tìm cách ngăn chặn và dùng kỉ luật áp chế Quentin cháu. Chân dung
Jason thời bé với đôi tay luôn đút vào túi quần, ám gợi sự keo kiệt, chuyên đi mách léo gợi
lên sự hèn hạ. Là một kẻ hay khóc nhè và luôn chơi một mình. Jason tách xa và cách biệt
với gia đình, luôn hằn học gây hấn với Caddy. Hắn là một kẻ cơ hội, chờ thời cơ để trục lợi.
Jason chỉ biết yêu mình. Tâm hồn hắn là một sa mạc cằn cỗi. Nên âm thanh cuộc sống dội
đến với Jason không có sự cao đẹp mà chỉ là sự ích kỉ, thấp hèn. Jason không có đức tin về
Chúa, chai sạn xúc cảm và tình yêu với mỗi người, cái nhìn của nhân vật này với mọi người
xung quanh như đôi mắt của người cha, luôn coi khinh và yếm thế với cuộc đời. Do đó hắn
không chấp nhận thực tại, thanh âm phản kháng được Jason trút vào người thân, la mắng,
mỉa mai, đùa cợt, thậm chí chà đạp lên những tình cảm thiêng liêng của tình anh em,…Biểu
tượng Jason là một lối sống Mỹ thực dụng trong xã hội tư sản mà nhà văn đã phác thảo nên.
Nó bất chấp tiếng gọi yêu thương, xua đuổi tình yêu, sự hi sinh, chỉ vang lên tiếng nói ích kỉ
luôn muốn lợi ích cho riêng mình. Jason nhớ về những hành động, việc làm của mình, giọng
kể tái hiện lại những sự việc xảy ra với gia đình, nhưng nó lại được nhìn dưới một đôi mắt
khác Benjy và Quentin. Sự cuồng nộ của Jason là tính hẹp hòi của một cái tôi ích kỉ, nó
khác với khao khát được yêu thương của Benjy, tình yêu mù quáng của Quentin. Jason nhận
thức nỗi đau gia đình từ phía những người thân. Ý thức của Jason cũng được viết theo kĩ
thuật dòng ý thức. Anh ta góp cho thanh âm bi kịch của nhà Compson được nghe rõ hơn.
Tiếng nói cuồng nộ bởi hiện thực cay đắng hiện ra và Jason nhìn quá khứ đau thương. Nỗi
đau khi tài sản và địa vị gia tộc lần lượt bị mất đi. Hắn sống trong hiện tại đau thương, cố đi
53
tìm lời giải đáp cho thất bại của mình và mất mát của gia đình. Với Jason chính Caddy là
nguồn gốc của tất cả bi kịch hắn phải chịu. Những mẫu đối thoại được Jason tái hiện, những
hình ảnh gợi nhớ về Caddy của Jason không tươi đẹp và đau thương như hai người anh em
trước của ông, mà nó tràn ngập sự thù hận, oán trách.
Có những cách đặt tên được Faulkner sử dụng để tạo nên sự trùng lặp về tính cách và
gây rối cho người đọc, đó là Jason trùng với tên của bố là ông Jason Compson, Quentin là
con của Caddy trùng với tên của anh trai Caddy là Quentin Compson. Gia đình Compson
tồn tại qua bốn thế hệ là mẫu hình những gia tộc miền Nam trong thế kỉ XIX. Sự bảo thủ
trong suy nghĩ và cách dạy dỗ con cái dẫn tới sự suy vong của gia tộc. Jason nhận ra điều đó
nhưng anh lại có những cách suy nghĩ và hành động cực đoan, điều đó không thể cứu vãn
gia đình này mà còn đẩy họ lún sâu vào bất hạnh. Sự ích kỉ, lối sống khắc nghiệt và thiếu
vắng tình yêu thương là nguyên nhân của bất hạnh .
Dưới đôi mắt và cảm nhận của mỗi thành viên, âm thanh hằn chứa những thông điệp
khác nhau, nhưng tất cả đều là tiếng kêu tuyệt vọng, là lối sống ích kỉ của nhân vật. Họ
muốn được yêu thương, nhưng lại không biết học sự yêu thương do đó mất di tình yêu của
người khác. Mỗi nhân vật rơi vào vòng định mệnh, con người thân phận trong họ lên tiếng
khóc than cho số phận của mình và nỗi bất hạnh của gia đình. Trong sự bất hạnh đó, chỉ có
ánh sáng của tình yêu, sự chở che và đức hi sinh mới giúp họ vượt thoát được nó, giúp họ
tìm lại được tình yêu. Những thanh âm lạc điệu và cuồng nộ một nỗi bất hạnh của thân phận
con người, và Faulkner đã xây dựng hình tượng Dislsey với biểu tượng tiếng hát của bà như
một cách để hòa giải và cứu vớt linh hồn cho tội lỗi của gia đình này.
2.2.4. Tiếng hát Dilsey
Âm thanh và cuồng nộ là tác phẩm tiểu thuyết mà Faulkner yêu thích nhất. Nó là
thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của ông. Bởi Faulkner không thể nói hết được những thông
điệp mà nhà văn cố gửi đến người đọc.
Tồn tại song song với gia đình Compson là gia đình Dilsey. Họ là gia nhân của nhà
Compson, Dilsey nuôi nấng bốn đứa trẻ nhà Compson, và cả đứa con gái của Caddy. Bà yêu
thương tất cả, tình yêu của Dilsey san sẻ đều cho chúng. Chứng kiến sự suy tàn của dòng họ
Compson, Dilsey bỏ ngoài tai lời nói của chồng về định mệnh và số phận của gia đình này.
Bà tin tình yêu sẽ cứu rỗi được tất cả, Dilsey chăm sóc lũ trẻ khi mẹ chúng đau ốm triền
miên còn cha của lũ trẻ thì ngập chìm trong rượu. Tình thương của Dilsey được thể hiện qua
đoạn đối thoại giữa bà và cha mẹ chúng, giữa bà và các anh em nhà Compson và giữa
54
những người thân trong gia đình Dilsey. Ở đó vang lên một thanh âm của tình yêu thương
vô bờ bến của người vú già da đen đối với lũ trẻ da trắng.
Phần bốn của câu chuyện được kể với giọng trầm, tác giả đứng ở ngôi thứ ba, cố
khách quan hóa đời sống của gia đình Compson bằng cái nhìn của người ngoài cuộc. Với
điểm nhìn bên ngoài, hiện thực khách quan được vẽ nên.
Một buổi sáng chủ nhật ngày 8/ 4 /1928, ảm đạm và u ám, con gái của Caddy trốn đi
cùng một người trong rạp hát còn Jason thì bị mất hơn 7000 Đôla. Không khí nặng nề và u
ám tràn ngập ngôi nhà Compson khi Jason biết được sự việc đó. Trên sự kiện ấy, hình bóng
của Dilsey hiện lên với tất cả phẩm chất bao dung và tình thương bảo bọc của một người vú
già đã trải qua quá nhiều biến cố. Năm tháng cuộc đời đã bao mòn thân xác bà, “Chiếc áo
rủ xuống buồn thảm từ vai đến bộ ngực chảy nhẽo, bó lại phía sau bụng, rồi lại rũ xuống
trên những váy lót mà bà sẽ cởi bỏ từng lớp khi mùa xuân tới hẳn với màu sắc vương giả và
suy tàn. Trước kia bà là một phụ nữ to lớn, nhưng giờ đây khung xương đã nhô lên dưới lớp
da bùng nhùng, tuy nhiên, lớp da này thít lại trên cái bụng gần như phù thủng, như thể cơ
và mô một thời từng là can đảm và chịu đựng đã bị năm tháng gặm mòn cho đến khi chỉ
còn bộ xương bất khuất trồi lên như một tàn tích hay một cột mốc dựng trên can trường và
đờ đẫn, và trên nữa là khuôn mặt sụp xuống, khiến người ta có cảm tưởng như xương ở
ngoài da, gương mặt ngước lên đón một ngày cuồn cuộn với vẻ vừa an phận vừa như một
đứa trẻ thất vọng ngỡ ngàng”[18, 368]. Nhưng bà vẫn cất tiếng hát dù trong mọi hoàn cảnh
thương đau nhất. Tiếng hát của Dilsey là bài ca lạc quan về tình yêu và cuộc sống của con
người trước mọi hoàn cảnh và bất hạnh của cuộc đời. Trước thanh âm gào khóc, rên rỉ của
Benjy, bà vẫn cố gắng chăm sóc và yêu thương hắn. Bà yêu thương Caddy dù nàng có sa
đọa và luôn cố gắng chèo lái, chồng gánh gia đình Compson suốt từng ấy năm từ khi Benjy
ra đời đến lúc Quentin cháu trốn nhà đi. Gia đình Dilsey song chiếu lên gia đình Compson,
với hai người con trai và một cô con gái, tất cả họ thấm đẫm ý thức lạc quan, tinh thần yêu
cuộc sống. Nó khác với thái độ bi quan và hoài nghi, bế tắc trước cuộc đời của những thành
viên nhà Compson.
Dilsey luôn cố gắng để giúp nhà Compson tồn tại và phát triển. Hành trình đi tìm
đồng xu của Luster, đứa con của Frony tương ứng với cố gắng tái tạo, tìm kiếm lại hiện thực
quá khứ của Benjy. Mỗi nhân vật trong truyện là một nốt nhạc của bản giao hưởng định
mệnh về cuộc đời con người. Nó tấu lên nhạc khúc, hỉ, nộ, ái , ố,… Tất cả cung bậc thanh
điệu cuộc sống được trộn lẫn trong thanh âm đầy cuộc nộ và Dilsey là người chứng kiến tất
55
cả mọi điều đó, bà cố gắng hòa giải chúng. Lời thoại của Dilsey vang lên tiếng nói của đức
hi sinh, nó biểu tượng cho hình ảnh con người dám đương đầu và bất chấp số phận, điều đó
chỉ có ở bà và Caddy.
Khi mất người thân, Dilsey cũng than khóc, nhưng bà luôn cố gắng vượt thoát nỗi
đau đó. Nên tiếng hát của Dilsey cất lên sau đó, nó cố gắng hòa giải những mất mát, đau
thương trong cuộc đời. Với bà, định mệnh, số phận không phải là nguyên nhân dẫn đến sự
diệt vong của một dòng họ. Chính sự ích kỉ và thói thù ghét cá nhân, sự tư lợi mới khiến con
người rơi vào vòng xoáy của tội lỗi, đưa con người đến sự suy tàn. Thanh âm trong trẻo của
tiếng hát Dilsey chen vào những thanh âm trầm đục của những nhân vật tạo cho Thanh âm
và cuồng nộ tựa một bản giao hưởng mà mọi niêm luật đều xô bồ, vô trật tự.
Âm thanh và cuồng nộ trước hết là một cuộc đối thoại lớn dường như bất tận của
Faulkner với những thay đổi của thế kỉ XX, bởi, “nghệ thuật là một lạc thú nhu cầu tình
cảm. Nghệ thuật gia chân chính bao giờ cũng chất chứa trong tâm tư những nỗi niềm khổ
sở không nói ra được”[44, 30]. Nhà văn chân chính Faulkner không thể nói thành lời nên
ông đã gửi hết tâm sự đó vào tiểu thuyết này. Nhà tiểu thuyết phải không ngừng đổi mới
hình thức nghệ thuật mới có thể tạo nên những tác phẩm có giá trị. Faulkner đã chọn kết cấu
đối thoại và những thủ pháp dòng ý thức, thủ pháp song trùng, chính gia đình Dilsey là một
sự phóng chiếu lên gia đình Compson, những đổi thay đã diễn ra, từng biến cố, sự kiện của
họ gắn chặt với nhau. Đặc biệt là sự phức hợp đến ngẫu nhiên của các hình tượng, nếu tiếng
nói của bà Caroline là giọng điệu sợ hãi, đau ốm thì Dilsey lại mang giọng điệu mạnh mẽ,
cảm thương, thấu hiểu và lắng nghe. Những âm điệu trong tiếng khóc của bà, tiếng nói và
tiếng hát, tất cả hòa âm cho một khúc nhạc của tình yêu thương vô bờ bến của một người
mẹ đối với những đứa con của mình và những đứa trẻ nhà Compson do chính bà nuôi dưỡng
và chăm sóc.
Hình tượng Dilsey với tiếng hát cất vang trong tác phẩm biểu trưng cho thông điệp,
dù trong đau thương, mất mát, tình yêu con người, lòng cảm thông và tinh thần trắc ẩn sẽ
cứu vớt họ qua nỗi đau ấy.
Và một lần nữa, Faulkner lại tìm về tôn giáo, lời thuyết pháp của vị linh mục già với
âm điệu trầm ấm, dẫn người đọc đến với nguyên do của mọi sự. “Tôi đã thấy”, là thanh âm
của mục sư, nó gợi sự suy tàn của một dòng họ. Dilsey đưa Benjy vào buổi thuyết pháp như
nghi lễ hiến tế cho những tội lỗi. Dẫu cố gắng để kết thúc câu chuyện, nhưng Faulkner vẫn
bất lực trong việc chuyển tải nội dung mình cố gắng thể hiện trong tác phẩm. Tôn giáo có
56
thể cứu rỗi nỗi đau cho con người ? Chúng tôi thấy thấp thoáng những ảnh hưởng của
Dostoievski trong Faulkner, ông đã cố gắng vận chuyển hình tượng người tu sĩ để lí giải
những bất hạnh trong đời sống con người nhưng rõ ràng nó vẫn bất lực.
Kết cấu âm nhạc là một đặc trưng lớn của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX. Các nhà
văn quan niệm cuộc sống luôn vận động và muốn nắm bắt được bản chất của nó, người
nghệ sĩ phải trộn hòa nhiều loại hình nghệ thuật với nhau, và âm nhạc là gần với văn học
hơn cả. Sự phức tạp từng cung bậc âm thanh với những nốt, hợp âm của nhạc sẽ diễn tả tinh
tế hơn những xúc cảm tế vi trong con người. Bởi bản chất của cuộc sống là đối thoại, đó là
con đường ngắn nhất đi đến chân lí mà tất cả mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới đều dựa
vào nó. Do đó người nghệ sĩ hiện đại Falkner đã lựa chọn những hợp âm để cố diễn đạt trọn
vẹn những suy nghĩ của ông về con người và xã hội thế kỉ XX.
Với bốn phần khác nhau, những mảnh ghép của sự kiện, biến cố khiến số phận mỗi
nhân vật được lộ rõ. Hầu hết họ đều mang những thanh âm riêng, và mọi người lại cuồng nộ
theo những cách khác nhau. Chỉ có duy nhất Dilsey, người vú già đảm đang chỉ mang âm
thanh mà không chứa đựng sự cuồng nộ. Bởi âm thanh mà bà mang đến là tiếng hát của
lòng yêu thương, sự cam chịu và nhẫn nhục, đức hi sinh đầy cao quí của một con người luôn
cố gắng để yêu thương tất thảy mọi người. Âm thanh và cuồng nộ là một câu chuyện
không có nhân vật chính, những nhân vật lại có những đặc trưng riêng, đó là một đặc tài của
Faulkner. Mọi người góp vào một phần thanh âm để cho cuốn tiểu thuyết trở nên hoàn thiện
và cuối cùng, tiếng nói đối thoại của nhà văn với cuộc sống vang lên.
Sự phức điệu cũng là một đặc trưng của cuộc sống hiện đại. Do đó đối thoại là thủ
pháp được Faulkner sử dụng hầu hết trong các tiểu thuyết của mình. Dưới ánh sáng của
nguyên lí này, cuộc sống hiện lên bộn bề, phức tạp, bí ẩn và kì vĩ. Sơ khai nhân loại đã biết
giao tiếp như một cách trao gửi thông điệp cho nhau. Tín hiệu âm thanh là một phần của
cuộc sống loài người. Nhưng để chúng hiện lên sống động và chuyển tải những thông điệp
đến người đọc, nhà văn phải sắp xếp, xử lí thật tinh vi khối nguyên liệu thô này.
Bốn phần của câu chuyện là bốn giọng khác nhau, bên cạnh bốn hợp âm chủ đạo, các
giọng khác phối bè với nhau, khiến giọng chủ đạo được cất vang và tình điệu thẩm mỹ của
nhà văn được hiện lên. Giọng điệu của Dilsey hiện ra qua mẩu đối thoại của bà với chồng,
con và với các thành viên của gia đình Compson. Với người chồng Rukos, giọng bênh vực
và xóa tan nghi ngờ của ông về định mệnh của dòng họ Compson, với ba người con, mỗi
người Dilsey lại có những cách yêu thương riêng, đặc biệt là Luster, đứa cháu ngoại, dù
57
quát nạt nó nhưng Dilsey luôn dành cho nó một tình yêu cao cả. Không chỉ yêu thương
những đứa con của mình, Dilsey còn ra sức chăm sóc, bảo bọc cho từng đứa trẻ nhà
Compson. Tiếng nói của bà chia sẻ, cảm thông và tiếng hát như xoa dịu đi những nỗi đau
mà chúng phải gánh lấy. Do đó biểu tượng tiếng hát của Dilsey được xây dựng trong tác
phẩm là thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến người đọc. Nó được cấu trúc với những thanh
âm khác, là tiếng nói hòa giải nỗi đau, sự bất hạnh của gia đình Compson. Benjy, Quentin,
Jason, mỗi nhân vật lần lượt kể lại cuộc đời họ và gia đình. Chứng kiến sự suy sụp của gia
đình, họ lí giải nó theo những cách khác nhau, những điểm nhìn ấy khiến câu chuyện hiện
lên chân thực hơn. Nhưng nó vẫn thiếu một cái gì đó, một cái tôi đứng bên ngoài câu
chuyện, tác giả không trao điểm nhìn đó cho Dilsey, bởi bà là người chứng kiến tất cả, do
đó ông phải cố kể phần phần cuối cùng.
Hình tượng Dilsey trải khắp bốn phần của câu chuyện, tiếng nói của bà vang lên gần
như ở cả bốn phần. Nó mang đầy đủ những cung điệu tâm trạng của một người đầy tớ già,
cần mẫn, chăm chỉ làm việc, chăm lo gia đình, giữ vững bếp lửa cho nhà Compson. Những
đức tính cao đẹp đó được thể hiện qua dòng hồi tưởng của các nhân vật. Những mảng tự
thuật của các anh em nhà Compson, Caddy và Dilsey hiện lên chân dung về bóng dáng
người phụ nữ đã cưu mang và nuôi dưỡng tâm hồn họ. Hiện thực và quá khứ đan cài, trộn
lẫn trong nhau, nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được những thông số chung trong
cảm thức của họ. Tất cả đều có một tình yêu, họ không yêu người mẹ sinh ra mình mà gắn
bó phần lớn cuộc đời họ với hai người phụ nữ trên. Nó ám ảnh tâm thức họ, làm nên những
thanh âm chất đầy giọng điệu cuồng nộ trong mỗi nhân vật. Do đó nhà văn không cho họ
xuất hiện để nói về thân phận của mình và gia đình Compson mà phải là các người anh em
nhà Compson.
Người phụ nữ là một nửa của nhân loại. Dilsey với phẩm chất của mình giúp gia đình
Compson tồn tại suốt một khoảng thời gian dài từ khi bà nội Caddy chết, đến lúc cô bé
Quentin trốn nhà đi. Trên âm thanh khóc than cho những cái chết, tiếng rên rĩ, tuyệt vọng
cho đời sống đang bị chảy trôi một cách tầm thường và buồn chán là tiếng hát vượt lên số
phận, ca ngợi tình yêu con người, cảm thông và tranh đấu với hiện thực khắt nghiệt của
Dilsey. Nó âm vang một thông điệp của Faulkner, “sống trên đời này chỉ có tình yêu và
thân phận, thân phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô cùng, phải làm sao nuôi dưỡng tình yêu để
tình yêu cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”(Trịnh Công Sơn). Và Dilsey là một
phụ nữ như vậy.
58
Tiếng chuông số phận báo hiệu sự suy tàn của gia đình này, tiếng hát Dilsey nâng đỡ
xoa dịu nỗi đau cho từng người trong đó. Với tiếng hát, dường như mọi mệt mỏi, vất vả về
thể xác và tâm hồn của người phụ nữ da đen này tan biến hết. Chỉ còn lại một tình yêu cuộc
sống.
Là một người phụ nữ không biết chữ, Dilsey tin ở Chúa, Chúa của bà khác với mẹ
Caddy, nó là tình yêu chứ không phải sự than thở, là đức hi sinh chứ không phải sự ích kỉ,
khát vọng sống và hành động chứ không phải ngồi im và nhìn cuộc sống chảy trôi vô ích.
Bài ca về nó được hoàn tất trong đoạn thuyết pháp của vị linh mục già: kết thúc để mở ra
một cái mới, kết thúc đóng lại một trang sử cho dòng họ. Bà nhìn thấy cái mở đầu, và giờ bà
nhìn ra cái kết thúc như bà đã thốt lên ở đoạn cuối câu chuyện. Trốn chảy khỏi số phận với
sự đánh tráo tên gọi, đám cưới, ngập tràn trong rượu, đau ốm,… Mỗi thành viên bị những
định chế, cách sống áp đặt khiến họ không vượt thoát được nó, và diệt vong là kết thúc tất
yếu. Một cái kết vòng tròn khi mở đầu là hành trình kiếm tìm của hai con người với hai
mục đích và kết thúc là nỗi bi kịch bất hạnh khi họ bị Jason đánh đập khi từ nghĩa trang trở
về. Những thanh âm vô nghĩa, lạc điệu cứ miên man bất tận trong từng dòng chảy của tâm
trạng các nhân vật. Và dưới biểu tượng ấy, bóng dáng hình điệu cuồng nộ hiện lên, tâm thức
cá nhân với những mặc cảm đớn đau được phô bày.
Faulkner đã cố đưa kết cấu âm nhạc và biểu tượng âm thanh để chuyển tải những
thông điệp nhân văn về tình yêu và con người thân phận cho người tiếp nhận. Nhưng dường
như biểu tượng âm thanh vẫn tỏ ra bất lực trước việc chuyển tải những thông điệp ấy. Bởi
cuộc sống quá phức tạp và bề bộn. Chúng tôi có thấy thấp thoáng bóng dáng huyền thoại
với những thánh tích Kinh Thánh trong tác phẩm. Là một công dân thanh giáo, Faulkner có
chịu ảnh hưởng của huyền thoại Kinh Thánh. Biểu tượng huyền thoại được nhà văn viện
dẫn như một lối vào trong tác phẩm. Chính sự phức hợp của nhiều hợp đề như vậy khiến
bản thân Âm thanh và cuồng nộ trở nên khó nắm bắt, và để những thanh âm đó đến với
người đọc rõ hơn, người nghệ sĩ đã cố gắng chuyển tải nó trong những biểu tượng khác nữa.
Mỗi con người luôn thuộc về một nơi mình sinh ra. Do đó không gian như một nơi
chốn làm nền cho sự trưởng thành và nâng đỡ nhân vật. Cùng với không gian, thời gian luôn
luôn hiện hữu bên trong hành trình sống của mỗi con người. Do đó theo chúng tôi muốn
hiểu thật sâu tác phẩm, ngoài lớp biểu tượng âm thanh trên thì không thể bỏ qua hệ thống
biểu tượng Không- thời gian. Nó được Faulkner sáng tạo và giấu kín như một ý đồ nghệ
thuật tinh vi trong suốt hành trình sáng tác tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ.
59
Tiểu kết chương 2:
Khả năng tạo ra những tiếng nói đối thoại thật tự nhiên và sinh động là một biệt tài
của W. Faulkner. Trong cuộc hội thoại này, người đọc không chỉ nghe ra được giọng điệu
nhân vật mà còn dựng lên được hình ảnh và tính cách của nhân vật, tất cả đều bắt đầu với
âm thanh.
Mỗi nhà nghệ sĩ luôn cố gắng sáng tạo nên một hiện thực gần với cuộc sống nhất và
thông qua hệ biểu tượng âm thanh hiện thực về gia đình Compson đã hiện lên với như chính
hơi thở cuộc đời. Những thăng trầm và biến cố trong gia đình ấy đều gắn chặt với những
thanh âm cuồng nộ trong các thành viên của dòng họ Compson. Chọn lựa và sắp xếp để
những phát ngôn ấy tự nó tấu lên khúc nhạc cuộc đời và để chuyển tải thông điệp về tình
yêu và con người thân phận mà nhà văn muốn nói đến là một sáng tạo tài tình của ông.
Thông qua lớp biểu tượng âm thanh, chúng tôi muốn đưa người đọc thấy được một
kết cấu kĩ âm nhạc đã được lồng ghép vào trong văn học và lằn ranh giao thoa giữa các loại
thể trong tiểu thuyết này. Với hệ biểu tượng âm thanh, mỗi hình tượng nhân vật đều mang
một thanh âm tượng trưng cho bản chất của họ và trên nền đó, bức tranh về biểu tượng
không thời gian và biểu tượng tâm linh từng bước được hé lộ. Thanh âm hòa cùng những
nhịp điệu và hình ảnh xuất hiện liên tục đã chuyển tải những thông điệp đầy nhân văn của
tác giả, “khi nhà văn viết viết về con người, tức là anh ta đã viết về những ước vọng, những
gian khổ, những nổi lo âu, lòng can đảm và sự hèn nhát, những cái nhỏ nhen và những cái
cao đẹp trong tâm hồn họ”(Faulkner).
60
CHƯƠNG 3: HỆ BIỂU TƯỢNG VẬT THỂ KHÔNG - THỜI GIAN
TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”
3.1. Biểu tượng thời gian
Khát vọng chiếm hữu thời gian là ước muốn to lớn của con người. Văn minh nhân
loại đã phát minh nhiều công cụ để tìm hiểu thời gian, từ chiếc đồng hồ Cát đến những
tượng tháp cổ của người Ai Cập, Maya, đồng hồ mặt trời ở nước Anh… tất cả chỉ với mục
đích chiếm hữu thời gian, làm chủ thời gian. Khoa học kĩ thuật phát triển khiến đòi hỏi văn
học cũng phải bắt nhịp với nó để đi vào nhận thức con người sâu sắc hơn. Văn học hiện đại
thế kỉ XX đã chứng kiến nhiều khám phá vĩ đại trong việc chiếm lĩnh hiện thực, đặc biệt là
những kĩ thuật được nhà nghệ sĩ sử dụng trong thể loại tiểu thuyết để khám phá bề sâu tinh
thần con người hiện đại, “họ tin tưởng rằng vũ trụ sẽ không chịu tiết lộ bí mật cho bất kì
người nào chỉ biết tra vấn cuộc sống bằng những tính toán rạch ròi và những gì là tinh túy
của đời sống thường lại nằm ngoài nhận thức duy lí” [23, 32]. Nỗi ám ảnh về thời gian đã
hằn những vết thương to lớn vào tâm thức nhân loại từ buổi sơ khai. Nó lại càng trở nên bức
thiết hơn trong kỉ nguyên khủng hoảng toàn bộ mọi thiết chế xã hội ở thế kỉ XX.
Vấn đề xử lí thời gian nghệ thuật đã tạo ra những hiệu ứng thẫm mĩ rất to lớn nhằm
kích thích sự đồng sáng tạo của người đọc hiện đại. Một Ulysse của J. Joyce với một ngày
tại Dulbin mà bao sự kiện và biến cố đã xảy đến với nhân vật chính Stephen Dedalus, những
mảnh hồi ức của quá khứ, hiện thực, giấc mơ tràn ngập suy tư của các nhân vật này về con
người, cuộc sống. Một “Đi tìm thời gian đã mất” của M. Proust, nơi mà trật tự thời gian
tuyến tính bị đảo lộn, nhân vật chính “Tôi” sống lại với các hồi ức quá khứ khi chạm tay
vào những hiện vật gợi nhớ kỉ niệm xưa, trong dòng chảy của thời gian tâm trạng, các sự
kiện và biến cố tự nó phơi bày chính hiện thực của riêng mình,… Tất cả những điều đó
khiến các tác phẩm ấy trở nên sinh động và hiện thực được hiện lên một cách tươi mới,
những thủ pháp che dấu cốt truyện bằng lối trần thuật phi tuyến tính khiến người tiếp nhận
muốn lĩnh hội được văn bản phải có một cách đọc khác lối đọc truyền thống. Đó là một nét
độc đáo, đặc sắc của văn học hiện đại chính bởi các nhà văn hiện đại có quan niệm thời gian
nghệ thuật khác xa với các nhà văn trước đây. Họ sáng tạo ra một hệ thống biểu tượng thời
gian riêng biệt để nó góp phần soi rọi hiện thực nhận thức thêm phần linh diệu, “quá độ từ
chủ nghĩa phân tích tâm lí- xã hội đến cấu trúc ‘tổng hợp’ về một mô hình tượng trưng thế
giới,….là sự dịch chuyển hứng thú sáng tạo sang những vấn đề siêu hình vĩnh cửa với việc
61
thoát ra khỏi những giới hạn cụ thể về không gian và thời gian”[47, 470]. Với Âm thanh
và cuồng nộ, W. Faulkner cho thấy tài năng độc đáo của mình khi câu chuyện về một gia
đình được ông ngưng đọng chỉ với bốn ngày nhưng đầy những biến cố và sự kiện. Biểu
tượng thời gian chúng tôi nhận thấy trước tiên ở tác phẩm chính là biểu tượng Đồng hồ. Một
công cụ để chiếm lĩnh tri thức về thời gian của nhân loại.
3.1.1. Đồng hồ - cảm thức lưu đày
Hình ảnh chiếc đồng hồ được nhà văn miêu tả tỉ mỉ và chi tiết trong phần hai của văn
bản. Khi Quentin học tại Harvard vào năm 1910, sau đám cưới em gái gần hai tháng, 25 /4
/1910, nhân vật này đập nát chiếc đồng hồ của người cha trao cho với ý định trốn chạy khỏi
cuộc đời. Bởi biểu tượng đồng hồ gắn với tâm thức của hắn, nó biểu trưng cho thời gian
cầm tù và lưu đày: “Quentin, bố cho con nấm mồ của mọi hi vọng và ước muốn; điều đáng
suy tư hơn là con dùng nó để lĩnh hội cái mô hình phi lí của toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh
có thể chẳng thích hợp với những nhu cầu cá nhân của con...Bố cho con không phải để con
nhớ thời gian mà để con có thể đôi lúc quên nó đi và đừng có kiệt sức tàn hơi cố gắng chinh
phục nó”[18, 117]. Bố hắn chỉ cho hắn thấy, không có gì ngoài thời gian dù đó là chiến
thắng hay thất bại, “bãi chiến trường chỉ khải thị cho con người sự điên rồ và tuyệt vọng
của chính họ, và chiến thắng chỉ là ảo tưởng của các triết gia và những thằng ngốc”[18,
117]. Do đó Quentin lo sợ tiếng tích tắc của đồng hồ, nó dội vào hắn làm hắn rơi vào bế tắc
trước những hình ảnh đầy cuồng nộ khi anh nhớ về quá khứ với bao hối tiếc đau thương:
“Người ta có thể lãng quên cái thanh âm ấy thật lâu, rồi trong một tích tắc nó tạo ra trong
tâm tưởng triền miên chuỗi thu giảm dằng dặc của thời gian mà người ta đã không
nghe”[18, 117]. Đồng hồ đánh những tiếng chuông đưa nhân vật này trở lại thời gian thực
tại ở Harvard. Hắn không thể hòa hợp với cuộc sống tại đây. Mỗi tiếng ngân của hình ảnh
đồng hồ như biểu trưng cho cảm thức lưu đày của Quentin trong hiện thực đau thương.
Nhưng sự lưu đày do biểu tượng này gợi lên ở nhân vật này khác với Benjy. Mỗi thanh âm
Quentin nghe được từ tiếng kêu của nó đó là sự vô nghĩa của cuộc đời, không có gì ngoài
tuyệt vọng và đau thương. Là nhân vật hoài nghi, Quentin luôn nghi ngờ sự tồn tại của thời
gian.
Đồng thời những thanh âm của chiếc đồng hồ gợi cho anh ta nhớ về thời gian quá
khứ. Năm tháng ấu thơ ít xuất hiện trong kí ức hắn, thời gian hiện thực luôn ám ảnh anh ta,
“tôi sẽ phải quay lại với nó cho đến khi ngục tù chính là mẹ bà và bố hướng lên nguồn sáng
yếu ớt nắm tay nhau và chúng tôi lạc lõng đâu đó bên dưới họ ngay cả một tia sáng cũng
62
không có”[18, 250]. Rất ít ánh sáng rọi vào tâm thức Quentin, cõi lòng hắn ngập tràn bóng
tối. Chúng tôi thấy rõ sự tương phản sáng – tối trong cung bậc xúc cảm của nhân vật này.
Không tìm thấy ánh sáng cứu rỗi, Quentin bị bóng đen thất bại phủ vây. Anh ta đau đớn
nhận ra hiện thực bất hạnh khi biểu tượng đồng hồ luôn hiện hữu trong anh. Nó đánh thức
nỗi đau trong hắn, đó là một hiện thực tràn ngập nỗi bất hạnh, Quentin là một nhân vật thất
bại, anh ta không giữ được Caddy, chính sự băng hoại về dục tính của nàng đã đẩy Quentin
vào bi kịch. Không chấp nhận điều đó, hắn cố gắng bịa ra tội lỗi loạn luân với em gái mình,
cố nghĩ về sự vô nghĩa lí của cuộc đời trong thời gian. Lắng nghe thời gian được gợi nên bởi
Đồng hồ, một nỗi sợ cái chết thoáng chốc trùm lên suy nghĩ của hắn, “tôi chưa bắt đầu đếm,
tới khi đồng hồ điểm chuông ba giờ. Rồi tôi bắt đầu, đếm đến sáu mươi lại gập một ngón
tay và nghĩ đến mười bốn gón tay nữa đang chờ để gập xuống rồi mười ba rồi mười hai rồi
tám rồi bảy, cho đến hết, rồi đến khi tôi nhận thấy những sự im lặng ”[18,132]. Quentin bế
tắc vì không ai hướng đạo cuộc sống cho mình, những lí thuyết hư vô về thời gian mà hắn
tiếp thu được từ bố cũng là một nguyên nhân đẩy anh tự vẫn: “Bố nói những chiếc đồng hồ
đã giết thời gian”[18, 129]. Sự suy tàn của dòng họ, gia đình theo thời gian. Cuộc sống
không đứng yên, nó luôn vận động nhưng gia đình Compson vẫn sống, dạy dỗ con cái theo
cách thức của xã hội cũ. Mâu thuẫn đó đẩy tất cả họ vào bi kịch. Từng sự kiện bất hạnh xảy
đến với gia đình, đặc biệt là việc Caddy có thai và đám cưới với người con trai khác là
nguyên nhân trực tiếp đẩy Quentin tìm đến cái chết. Anh không chấp nhận điều đó. Thời
gian tâm thức hiện lên khi nhân vật lắng nghe tiếng đồng hồ, nó như sự trôi của đời sống,
“có một tá đồng hồ trong cửa hiệu, chỉ một tá giờ khác nhau và chiếc nào cũng đoan chắc
một cách đầy mâu thuẫn, với sự quả quyết như nhau, y hệt chiếc đồng hồ chẳng còn cây kim
nào của tôi, kêu tích tắc trong túi, dù chẳng ai thấy nó, nó cũng chẳng chỉ được gì nếu như
có ai thấy đi nữa”[18, 128-129]. Bởi với hắn, không có một thời gian nào là chính xác “tất
cả đồng hồ cần phải lấy lại giờ”, thời gian đày đọa Quentin vào sự bất hạnh. Trước ranh
giới sống chết, Quentin vẫn không thể thoát được nỗi ám ảnh về Caddy. Nàng là hiện thân
của sự mất mát, bất hạnh của gia đình và là hiện thân của cái đẹp. Caddy nâng đỡ tinh thần,
cứu rỗi linh hồn cho Quentin và Benjy. Dòng chảy thời gian với biểu tượng đồng hồ gợi lên
nhịp trôi của đời sống, những tích tắc, nhịp điệu này gợi lên sự lặp lại miên viễn của đời
sống đang bị cầm tù. Không có lối thoát, nhân vật cố chạy trốn nó, ẩn mình vào những triết
thuyết hư vô. Nhưng nhịp đồng hồ vẫn làm anh ta ý thức được sự tồn tại của mình. Nó lưu
đày nhân vật trong nỗi đau hư thực khi quá khứ rồi hiện tại cứ lần lượt hiện ra rồi trở lại.
63
Mỗi nhịp ngân của nó đưa nhân vật thức tỉnh, hơn 7 lần Quentin nghe tiếng tích tắc ngân lên
từ đồng hồ. Nó khiến hắn hoảng hốt khi đi tìm một ý nghĩa sống đích thực. Mặc cảm đau
thương vì những bất hạnh mà gia đình và bản thân gánh chịu đã không được giải đáp. Có
một chút luyến tiếc đời sống trong anh. Thái độ lo sợ ấy xảy đến khi hắn nghe tiếng chuông,
sự hiện hữu của đời sống, tiếng chuông gợi nhắc về cuộc sống thanh bình ở quê nhà, đánh
thức hắn sự trống vắng vô nghĩa của cuộc sống hiện tại ở Harvard. Tất cả được Quentin
nghe bằng thính giác, hắn đã là một cái bóng chết. Anh ta không sống được kể từ lúc em gái
lấy chồng.
Đồng hồ như điệu ru đưa người đọc thâm nhập vào thời gian bên trong của đời
sống tinh thần nhân vật. Quentin sống trong sợ hãi và bất an về linh hồn. Mỗi thời khắc hắn
nhìn Đồng hồ đều gợi lên nhịp trôi cuộc sống. Hắn cố hình dung cuộc đời theo ý nghĩ của
riêng mình. Một ngày trôi qua trước khi tìm đến cái chết. Từng mẩu thời gian trôi qua, tất cả
chúng được gói trọn vào chiếc Đồng hồ. Âm điệu của nó báo hiệu một tiếng kêu định mệnh
trước lúc rời xa cuộc sống. Hắn cố lật lại những biến cố gia đình. Thời gian như ngưng đọng
khi Quentin nhớ về kí ức với Caddy. Nàng là nỗi đau đớn lớn nhất dày vò trái tim hắn: “Sao
em không đưa anh ta vào nhà, Caddy ? Sao em làm như một mụ đàn bà da đen ngoài đồng
ngoài rãnh trong bụi trong bờ lẩn lút mơ cuồng nơi rừng tối ?”[18, 137-138]. Hắn muốn
làm ngưng đọng thời gian bằng việc cố nghĩ về những triết lí về thời gian và cuộc sống của
cha dạy cho mình, nhưng nó vẫn bế tắc. Không thể sống với thời gian thực tại, Quentin lần
tìm thời gian quá khứ. Những mảnh hiện thực gắn liền với biểu tượng Đồng hồ. Nó được
chuyển đi và trở lại như những mảnh ghép của nhân vật về cuộc đời.
Thời gian cầm tù nhân vật, đó cũng là một đặc điểm của văn học thế kỉ XX. Trong
cảm nhận của Quentin, biểu tượng thời gian là ẩn số không lời giải đáp. Đồng hồ là một
biểu trưng cho thời gian, nó cũng gợi lên ý nghĩa cuộc sống với tiếng tích tắc. Biểu tượng
này giao hội với biểu tượng âm thanh. Lằn ranh của nó khó phân biệt. Nhưng dù thế nào thì
Đồng hồ cũng chuyển tải thông điệp là cảm thức của nhân vật. Nó kết hợp với kết cấu văn
bản tạo sự trùng phức cho câu chuyện. Có sự học tập Dostoivesky và Kafka ở Faulkner.
Chính họ gợi mở cho ông cánh cửa đi vào các biểu tượng nghệ thuật đậm sắc màu huyền
thoại tôn giáo. Huyền thoại về kinh thánh được nhà văn khai thác trong xã hội hiện đại
mang đậm tính bi kịch. Đó là sự mất đức tin của con người rời bỏ Chúa. Do đó họ mất niềm
tin vào cuộc sống, không có chân lí để xác tín nó. Và ba mốc thời gian mà nhà văn chọn để
tường thuật câu chuyện cũng gợi lên ý nghĩa tôn giáo, với ngày Chúa nhật của lễ phục sinh
64
8/ 4/ 1928 của người da đen. Quentin lạc loài trong mớ nhận thức hỗn độn, anh chìm trong
sắc màu của hư vô. Thời gian như một dòng chảy cắt ngang tâm thức của Quentin, nó len
vào đời sống các nhân vật trong Âm thanh và cuồng nộ, rất khó nhận ra dấu vết của từng
sự kiện ăn nhập với thời gian tuyến tính. Đảo lộn trật tự truyện kể, tác phẩm như dòng suối
tuôn trào, từng mạch cảm xúc của nhân vật tuôn trào theo sự kiện và biến cố của cuộc đời
họ. Ở đó thời gian dường như bị bỏ qua. Dẫu vậy, nhưng nó vẫn luôn hiện hữu trong tâm
thức của các nhân vật.
Cách đặt tên thời gian ở từng phần của câu chuyện đã cho thấy một dụng ý của
Faulkner. Có bốn mốc thời gian làm điểm tựa để các nhân vật tự nói về mình, cảm nhận
cuộc sống đang chảy trôi quanh mình. Ngày 7 tháng 4 năm 1928, một điểm thời gian nhưng
biến cố của một ngày ở Benjy không phải chỉ là sự việc anh ta và thằng bé Luster đi tìm
đồng xu 25 Cent. Nó là hồi ức và kí ức về tháng năm của gia đình Compson với bao sự kiện
xảy đến với họ. Dưới đôi mắt của một gã khùng, nhà văn cố giấu đi dòng thời gian sự kiện
xảy đến với họ. với Benjy, những hình ảnh và âm thanh đập vào mắt mình đưa hắn trở lại
hiện thực quá khứ. Đồng hồ cầm tù nhân vật. Benjy dù không có ý thức được nó, nhưng
biến cố xảy đến với hắn luôn gắn chặt với thời gian. Thật vậy, nỗi đau hắn phải gánh chịu
khi gia đình chợt nhận ra căn bệnh chậm phát triển của Benjy, nó có mốc sự kiện khi anh ta
bị đổi tên từ Maury thành Benjy: “Bây giờ tên nó là Benjy, Caddy nói
Sao lại thế, Dilsey nói. Cậu ấy làm hỏng cái tên cha sinh mẹ đẻ hồi nào đâu.
Bejamin là tên trong Kinh Thánh, Caddy nói. Tên ấy tốt cho nó hơn là tên
Maury”[18, 92].
Người chị mà Benjy vô cùng yêu thương là Caddy lớn lên với bao thay đổi khiến
hắn mặc dù không thể nói nhưng hiểu và nghe được tất cả những sự thay đổi ấy ở Caddy.
Đó là khi nàng đi học lúc bảy tuổi, cột mốc đánh dấu sự mất mát của Caddy khi cô bé chơi
với các anh em dưới suối với chiếc quần lót dính đầy bùn: “Caddy ướt nhẹp và dính đầy bùn
sau lưng, và tôi bật khóc và chị tới ngồi xổm dưới nước”[18, 36]. Một biểu trưng của tội lỗi
tính dục về sau ở nàng. Benjy nhận ra sự thay đổi thật sự của Caddy khi cô 14 tuổi. Hắn
biểu lộ sự không chấp nhận nó với hành động òa khóc. Và đặc biệt là việc nàng bị mất trinh,
tiếng khóc của Benjy càng đau đớn và phẫn uất hơn nữa, nó xảy đến với thời gian khi
Caddy 17 tuổi. Đặc biệt là khi nàng bỏ nhà đi và giao đứa con riêng cho ông bà Compson.
Benjy cảm nhận được tất cả nỗi đau đó. Khi bị thiến, hắn mang vào mình mặc cảm của cái
tôi không toàn vẹn: “Tôi cởi quần áo và nhìn mình, và tôi òa khóc”[18, 114], nhưng âm
65
thanh phẫn uất đó là tiếng thét đớn đau, nó âm ỉ và thổn thức trong tâm hồn nhân vật, “khi
tôi sờ đến thì nó đã mở, và tôi nắm chặt lấy nó trong ánh hoàng hôn. Tôi không khóc, và cố
nín, nhìn các cô gái đi qua trong ánh hoàng hôn. Tôi không khóc”[18, 84]. Tất cả chúng gắn
chặt với các mốc thời gian như từng nhịp trôi của chiếc đồng hồ tạo hóa đã lên dây cót.
Faulkner sáng tạo biểu tượng Đồng hồ đã gợi nhắc những mảnh kí ức chìm sâu của Benjy.
Mỗi nhân vật gia đình Compson và gia đình Dilsey có cách cảm nhận thời gian riêng. Thời
gian tồn tại với ông Jason Compson luôn phản ánh những trang sử chói lọi và lấp lánh của
dòng tộc. Ông sống và cố bám víu vào quá khứ đó, thái độ ăn mày dĩ vãng khiến ông ngập
chìm và chết trong rượu. Với bà Compson, đó là mặc cảm về thời gian quá khứ với sự thấp
kém của dòng họ. Nó khiến bà luôn có một định kiến và rơi vào trạng thái u uất, đau ốm,
sống vật vờ như cái bóng không thể chăm lo và yêu thương con cái, “họ bên tôi nào phải
thua kém gì bên ông. Chỉ vì Maury ốm yếu”[18, 71]. Dilsey nhìn thấy cái mở đầu và cái kết
thúc trong gia đình này.
Lũ trẻ nhà Compson thiếu vắng tình yêu của cha mẹ nên chúng không được phát
triển nhân cách toàn diện. Hiện thực cái chết được che giấu với đám tang của bà nội, năm
1989, và chúng không được biết về nó. Do đó Caddy cố tìn hiểu nó. Hành trình này mở ra
nhận thức khác nhau về vấn đề sống chết và danh dự trong gia đình ở các nhân vật. Tất cả
quá trình đó luôn đi kèm với biểu tượng thời gian.
Thời gian hơn 30 năm được gói trong ba ngày. Đồng hồ là một biểu tượng thời gian
được Faulkner sử dụng xuyên suốt cả bốn phần của câu chuyện. Nó không chỉ ghép nối
những mẩu sự kiện với nhau mà còn ám gợi những hiện thực nằm sâu bên trong, chuyển tải
những thông điệp của nhà văn đến người tiếp nhận. Trong tâm thức nhân loại đó là công cụ
giúp loài người chiếm lĩnh thời gian, nhưng đi vào tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, biểu
tượng này lại chứa đựng những thông điệp khác do sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Với mỗi
nhân vật, nó là cảm thức của cái tôi hiện hữu bị lưu đày trong đời sống. Tất cả những nhân
vật bị cuốn vào vòng xoáy thời gian. Thời gian luôn sống bên trong mỗi con người, nó giúp
nhân vật ý thức sự hiện tồn của họ. Cách xử lí thời gian với biểu tượng này đòi hỏi một bản
lĩnh nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Vấn đề thời gian được xuất phát từ văn học cổ đại với những câu chuyện thần thoại
và cổ tích, tác giả dân gian đã chú ý đến thời gian bởi mở đầu các câu chuyện thường là
motip “ngày xửa ngày xưa”. Nhưng phải đến các nhà văn hiện đại, thời gian mới được nâng
66
lên thành biểu tượng mang nghĩa. Ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ ở những văn bản nghệ
thuật của họ là vô cùng rõ ràng: “Miêu tả nghệ thuật đều được xây dựng một cách có tính
toán để người ta hoàn toàn không thể nào chuyển dịch mỗi câu và mỗi từ thành các biểu
tượng dễ nhận thấy” [31, 87]. Những mẫu hình thời gian được họ giấu kín với ý niệm như
một thông điệp nào đó gửi đến cuộc sống. Xã hội đầy biến động với bao biến cố và sự kiện
dội vào tâm thức người sáng tạo đòi hỏi họ một kĩ thuật xử lí để thông điệp đến với mọi
người luôn chứa đựng yếu tố nhận thức và thẩm mỹ cao độ. Vì, “tiểu thuyết sáng tạo ra
những cuộc đời, những số phận khác nhau, các nhà văn cũng đồng thời sáng tạo ra những
thời gian, những hình thức thời gian. Trong sự khám phá thực tại của anh ta, mang lại cho
độc giả sự phong phú và cái nhìn sâu xa của cuộc sống”[25, 67]. Chúng được thấy rõ ở
những sáng tác bậc thầy của nhà văn thế kỉ XIX, cách hiểu thời gian tuyến tính trong nhiều
tác phẩm của những đại văn hào của phương Tây như Balzac hay Standal,..khiến câu
chuyện hiện lên như thật, sống động từng chi tiết. Nhưng có cảm giác hiện thực ở đây vẫn
thiếu vắng một thứ hơi thở mặn mòi của đời sống.
Do đó một cuộc cách mạng về vấn đề thời gian đã xảy ra ở các nhà văn thế kỉ XX.
Họ cố đi sâu vào sự kiện, tìm kiếm và thấy sợi dây liên hội trong từng sự kiện tưởng như
tách rời. Xâu chuỗi nó theo đường biên của tư duy hệ hình. Vấn đề thời gian thành trở thành
một chủ đề lớn của văn học hiện đại thế kỉ XX. Thời gian tồn tại xung quanh con người,
nhận thức về nó dễ nhưng để lí giải nó là một việc không đơn giản, đặc biệt là trong tiểu
thuyết: “Thời gian bao giờ cũng là vấn đề chủ quan của tiểu thuyết. Có điều là làm sao nắm
bắt được thời gian thực tại mà các nhân vật sống trong đó”[25, 62]. Cho nên biểu tượng
Đồng hồ dẫn đưa người đọc xâm nhập sâu hơn vào cảm nhận đời sống ở mỗi nhân vật trong
tác phẩm.
Đồng thời Đồng hồ còn là biểu tượng để cấu trúc tác phẩm. Với bốn phần là bốn
mốc thời gian riêng biệt, ba ngày kế tiếp nhau được nhìn và kể lại với ba giọng điệu khác
nhau. Và một mốc thời gian được lùi về xa hơn mười tám năm với giọng kể của Quentin
trước khi tìm đến cái chết để giải thoát cho mình. Những sự kiện đó được lồng vào biểu
tượng thời gian, nhân vật cảm nhận thời gian như một thước đo về khả năng sống của mình,
tất cả mọi cung bậc cảm xúc gắn chặt với nó. Nó vẽ nên những trạng thái xúc cảm rất riêng
cho từng nhân vật. Đồng hồ đã chứa đựng những thanh âm đầy cuồng nộ, nó góp phần lí
giải về hiện thực đau thương mà gia đình Compson phải gánh chịu.
67
Có thể nói với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner đã làm sống dậy một hiện thực tang
thương của những gia đình quí tộc ở miền Nam trong thời đại mới. Ảo tưởng về thời gian
quá khứ đã ám ảnh Jason Compson và nó còn truyền vào những thế hệ sau của họ. Do đó
câu chuyện không chỉ về một gia đình mà hiểu rộng ra là cả cộng đồng miền Nam nước Mỹ.
Theo dòng chảy đời sống, nó có thể tồn tại ở bất kì gia đình nào trên thế giới.
Thời gian được Faulkner xử lí thật tinh tế và khéo léo. Ông để sự kiện tự nó bộc lộ
thời gian của mình trong cảm nhận của từng nhân vật. Mỗi bước đi của thời gian là sự phai
tàn và mất mát của hiện thực đời sống xảy đến với gia đình họ. Rất ít miêu tả, chúng tôi thấy
đối thoại dồn dập và liên tiếp gần như tất thảy từng phần của văn bản. Điều đó cho thấy ý
định của Faulkner trong việc muốn tạo ra một hệ thống âm thanh dồn dập liên hồi mà ở đó
thời gian không thể can dự vào được. Nhưng những nhân vật luôn ngước nhìn đồng hồ. Nó
cho thấy họ không thể vượt thoát được hiện thực nghiệt ngã tang thương của gia đình. Bấu
víu vào thời gian, tìm hiểu và lí giải nó, đó là cách thức tồn tại và giao tiếp của các nhân vật
trong tiểu thuyết này.
Đồng hồ là biểu tượng đậm chất nghệ thuật mà dụng ý về thời gian nghệ thuật được
Faulkner khai thác. Ông cũng tạo ra những độ căng và độ dãn giữa tương quan văn bản trần
thuật và thời gian trần thuật. Thời gian được dồn nén đến cực hạn với biểu tượng này. Từ đó
cho thấy ý tưởng thẩm mỹ của ông, một hiện thực được cô đặc trong thời gian. Từ đó mở ra
mối quan hệ giữa thời gian và thể loại tiểu thuyết: “Tiểu thuyết tiếp xúc với cái thể loại
chưa hoàn thành, chính đặc điểm này không cho phép thể loại ấy bị đông cứng lại. Người
viết tiểu thuyết thiên về tất cả những gì còn chưa xong xuôi… thế giới đã thiết lập những
quan hệ mới với cái tiểu thuyết mà nhà tiểu thuyết miêu tả, giờ đây, họ cùng tồn tại trong
những chiều thời gian-giá trị như nhau, lời miêu tả của tác giả nằm ở cùng một bình diện
với lời nhân vật được miêu tả và có thể tạo lập với nó quan hệ đối thoại và đan kết lai
tạp”[13, 57].
Vì bị thiểu năng nên Benjy không cảm nhận được nhịp trôi của thời gian. Nhưng
hình ảnh chiếc đồng hồ cũng gắn với hành trình 33 năm tồn tại trên cuộc đời của mình, nó
soi vào từng nỗi đau mà nhân vật này phải mang lấy trong cuộc sống. Benjy cũng bị thời
gian lưu đày, do đó anh ta cố gắng vượt thoát khỏi nó bằng việc cố thoát ra bên ngoài, ngắm
nhìn đồng cỏ và cuộc sống bên ngoài. Còn Jason đó là hiện thực với hiện tại đau thương mà
hắn phải đối diện. Gia đình suy tàn, khánh kiệt, những tiếng tích tắc của thời gian đẩy hắn
lại gần hơn với nỗi bất hạnh. Tất cả tạo nên ở Jason một sự thù ghét thực tại, căm phẫn với
68
quá khứ gia đình. Đồng hồ đưa Jason trở về với quá khứ, ở đó những sự dồn nén của âm
thanh câm phẫn khi không thể có được tình yêu thương của gia đình, đặc biệt là bố. Nó cũng
khiến anh ta cố tìm hiểu ra những nguyên nhân do đâu gia đình lại trở nên sa sút, thảm hại
đến vậy. Là một nhân vật luôn ý thức sâu sắc giá trị của thời gian, nhưng anh ta cũng bị nó
khống chế, không thể vượt thoát ra được thời gian. Nó cầm tù Jason vào cuộc sống tù túng
và mòn mỏi ở quê nhà. Thời gian khi anh ta ngước nhìn đồng hồ trở nên gấp gáp, thôi thúc
khi nghĩ người cháu lấy đi số tiền của mình. Tâm lí hoảng loạn ấy chứng tỏ Jason cũng bị
thời gian ám ảnh. Và Dilsey là người thấu hiểu tất cả, bà thấy được thời gian mở đầu và thời
gian kết thúc mà chiếc đồng hồ cuộc sống đã chỉ ra. Nó đeo vào gông cổ họ sợi dây xích
định mệnh, hai tiếng ấy vang lên làm nên sự cuồng nộ đau đớn cho số phận con người.
Nhưng cái cứu vớt con người thoát khỏi sự luân trầm của nó chính là tình yêu thương của
con người với nhau. Tình yêu xóa đi mặc cảm bị thời gian nuốt chửng, cầm chặt, xiết tay lại
và con người sẽ vượt qua được nỗi bất hạnh đó. Chỉ có tình yêu, sự hi sinh và tấm lòng trắc
ẩn bao la mới đưa con người vượt thoát được sự cầm tù của thời gian. Không có một dụng
cụ nào hữu ích hơn, chính tình yêu thương mới xoa dịu được nỗi đau sự bất hạnh của họ.
Bởi đồng hồ là công cụ có thể chiếm lĩnh được thời gian, làm ngưng đọng được nó. Do đó
có thể nói con người trong xã hội hiện đại: “Con người bị treo chơi vơi giữa các hố thẳm,
bất lực và tuyệt vọng, không tìm thấy mình ở ngoài không gian và thời gian”[11, 22.].
Nhưng thời gian tuyến tính chỉ giúp ta thấy dấu vết sự kiện xảy ra, muốn đi vào
trong nó, nhà văn phải tạo dựng một loại thời gian phi tuyến tính, do đó huyền thoại và
những giấc mơ đã được Faulkner tái hiện trong tác phẩm. Có thể nói Âm thanh và cuồng
nộ một tác phẩm đậm dấu ấn phân tâm học và yếu tố huyền thoại. Mặc dù nhà văn phủ nhận
ảnh hưởng của phân tâm học, nhưng những đoạn hay nhất trong tiểu thuyết lại có vết dấu
của khoa học này. Theo chúng tôi có sự trùng lặp hay gặp gỡ tình cờ giữa ông và phân tâm
học. Những biểu tượng được ẩn dấu dưới dạng nguyên mẫu xuất hiện đậm và rất nhiều ở
văn bản này. Trong đó ta có thể thấy được những biểu tượng như chiếc Bóng, Lửa, Bùn,..
chúng cộng hưởng với biểu tượng Đồng hồ tạo nên một mạch ngầm văn bản trong dòng
chảy của đời sống các nhân vật.
Biểu tượng thời gian là một biểu tượng gắn với hành trình nhận thức cuộc sống của
mỗi nhân vật trong truyện. Mỗi khúc đoạn của thời gian, các giọng kể có những điệu tình
khác nhau làm nên một bản nhạc khúc đầy biến điệu, nhưng chủ âm của nó vẫn là tiếng nói
đau thương của những cá nhân rơi vào bi kịch. Họ bị thời gian trói chặt và cầm tù. Mỗi thân
69
phận con người đang cố gắng vượt thoát khỏi nó nhưng càng cố vùng vẫy, họ vẫn rơi bế tắc.
Âm thanh của tiếng đồng hồ đưa họ trở lại với hiện thực. Để các nhân vật đối diện với thực
tại cuộc đời, một thế giới ngập tràn buồn đau và mất mát.
Cảm thức về bi kịch là một chủ đề lớn của tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ. Mỗi nhân
vật bị lạc trong thời gian, họ cố đi tìm một xác tín cho tồn tại. Đồng hồ đánh dấu sự hiện
hữu của họ, mỗi phút giây được mỗi thành viên cảm nhận khác nhau. Dòng chảy tâm trạng
của chủ đề bi kịch ở Faulkner luôn tràn ngập cảm thức thời gian và ở đó: “Sức nặng của nỗi
đam mê tư tưởng được chuyển hóa thông qua ngôn từ và bất chấp cả ngôn từ”[17, 24] .
Với Quentin, một ngày trước khi chết được đã hiện lên với sự làm chậm thời gian,
từng nhịp trôi của đồng hồ, tiếng tích tắc của nó là vũ điệu đưa tang trước khi lìa bỏ cuộc
đời của nhân vật này. Còn Jason, biểu tượng này gợi lên nhịp nhanh, gấp, thời gian được
cảm nhận bởi Jason luôn trôi đi quá nhanh, khiến hắn luôn hoảng sợ và cố níu kéo nó. Với
Dilsey, bà thấy được thời gian đang chảy trôi, mỗi nhịp đập của nó là sự báo hiệu cho cái
kết thúc. Bà đã cố gắng ngăn chặn nó bằng tất cả tình yêu bao la của mình.
Đồng hồ như biểu tượng gốc nó không chỉ nối kết các nhân vật mà còn là bản thiết kế
cho kết cấu của tác phẩm. Bởi thông qua biểu tượng thời gian, Faulkner muốn tạo ra một
một kết cấu phân mảnh thời gian để các sự kiện tự nó nói lên nội tâm nhân vật. Qua thời
gian, họ sẽ lần lượt vén những bức rèm bí ẩn về sự suy tàn và diệt vong của dòng họ
Compson. Mỗi mốc thời gian luôn gắn với cái chết, sự li tán, nỗi bất hạnh gợi lên trong đó
làm cho tác phẩm tựa một bản nhạc đưa tang cho các linh hồn. Thời gian hiện hữu trong
tiềm thức của Benjy, mặc dù anh ta không thể nhận biết được nó. Biểu tượng thời gian ít tác
động đến Benjy hơn hai người anh. Cả ba anh em nhà Compson luôn bị cầm tù trong thời
gian, và họ sống trong cảm thức với sự gợi nhớ về hình bóng Caddy. Nàng là nỗi đau của
họ. Nàng cũng bị thời gian lưu đày, không thể trở về cuộc sống hiện tại. Caddy không thể
nói về mình, nàng là hiện thân của tính nữ mà Faulkner khao khát hướng tới. Thanh âm gợi
nhớ về nàng thông qua biểu tượng đồng hồ là từng thời điểm nàng hiện lên từ thuở ấu thơ
thông qua kí ức của các anh em nàng.
Tuổi thơ của Caddy trôi qua với các anh em trong thanh bình đã không còn khi cái
chết của bà nội xảy đến. Đó là sự kiện đánh dấu sự mất mát đầu tiên trong gia đình
Compson. Caddy là hiện thân của bi kịch khi nàng luôn muốn khao khát và khám phá tất cả
bí ẩn của cuộc sống. Nó gặp phải những rào cản của gia đình và định chế xã hội đẩy nàng ra
khỏi gia đình, không có cơ hội yêu thương đứa con gái của mình. Từ ý muốn trèo lên ngọn
70
cây để tìm hiểu đám tang người bà, nàng bước vào tuổi thiếu nữ 14 thiếu đi sự giáo dục giới
tính của mẹ, mất trinh năm 17 tuổi, có thai và phải lấy người không yêu, bị đuổi khỏi nhà
chồng, mất quyền chăm sóc đứa con,… Tất cả những bất hạnh đó hiện lên lần lượt dưới con
mắt của các người thân xung quanh nàng. Nàng bị cuốn vào cuộc sống với những đam mê
và khao khát sống mạnh mẽ. Nhưng hiện thực quanh nàng là sự u ám, bế tắc của định kiến
xã hội,… đã trói buộc và xua đuổi nàng khỏi những người nàng yêu thương. Những thổn
thức về thời gian ám gợi nàng, cái chết, tình yêu và dục vọng xâm lấn khiến Caddy bị lưu
đày bởi những người nàng yêu thương. Tiếng gọi thổn thức về nỗi bất hạnh của dòng họ
Compson được gửi đi dưới ánh sáng của biểu tượng thời gian. Nó giúp cho những thông
điệp nghệ thuật của Faulkner được chưng cất hết sức tinh tế.
Thời gian là thứ mà con người luôn muốn chiếm lĩnh, nhịp trôi và ý niệm về nó chảy trong
tâm thức mỗi nhân vật của tác phẩm đã làm nên bài ca về tình yêu và thân phận của con
người hiện đại trong xã hội. Đồng hồ là biểu tượng thời gian hiện tại, tuyến tính. Ở đó mỗi
thanh âm và sự trôi của biểu tượng này đều gợi cho các nhân vật một cảm thức bị lưu đày
trong cuộc đời. Họ cố gắng bấu víu, tìm kiếm và tuyệt vọng. Tất cả chúng hòa âm cùng
nhau để bức tranh về gia đình Compson thêm phần hoàn thiện, những cuồng nộ bất hạnh
được lộ sáng dưới ánh sáng của biểu tượng này.
Đồng thời trong tác phẩm Faulkner đã biến thị trấn nơi ông sống thành vương quốc
Jefferson với hạt Yoknapatawpha, biểu tượng bất tử trong tiểu thuyết của ông. Ở đó, nhà
văn là người nhạc trưởng, dưới cây đũa phép của mình từng biểu tượng nghệ thuật về không
gian ở đây lần lượt hiện lên để chuyển tải một huyền thoại về một địa danh đầy huyền bí và
ám ảnh đối với người đọc.
3.1.2. Chiếc chuông- nhịp đập cuộc sống
Biểu tượng chiếc Chuông cũng nằm giữa lằn ranh gợi nhắc âm thanh và tiếng gọi của
thời gian. Chúng tôi dựa trên tiêu chí định tính khi xếp nó vào hệ biểu tượng thời gian trong
tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ.
Chiếc Chuông với tiếng ngân của nó cộng hưởng với cuộc đời các nhân vật trong đã
xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm của Faulkner như Thánh đường, Nắng tháng Tám,
Khi tôi hấp hối,.. Và mỗi lần Chuông rung, nó nhắc cho nhân vật về sự hiện hữu của đời
sống. Do đó chúng tôi khảo sát biểu tượng này như một phương thức nhà văn đã dùng để
khắc họa hơi thở cuộc sống đang đập trong trái tim của mỗi nhân vật. Thật vậy, tiếng
Chuông xuất hiện rất nhiều ở toàn văn bản. Cụ thể với Benjy, nó xuất hiện 3 lần, đó là lúc
71
Ruskos rung chuông để gọi bọn trẻ về ăn chiều, Dilsey rung chuông để báo hiệu bữa ăn.
Còn ở phần tự thuật của Quentin, chiếc chuông xuất hiện hơn 10 lần, đó là tiếng chuông
đánh điểm danh của trường Harvard, tiếng chuông ngân của quảng trường, của quê nhà
Jefferson,.. Và hành trình tìm đến cái chết của nhân vật này cũng gắn với tiếng chuông.
Tiếng Chuông đánh thức cảm thức thời gian ở Quentin, và cả với Jason, anh ta cũng cảm
nhận thời gian bằng cách nghe tiếng chuông rung, báo hiệu sự hiện hữu của đời sống đang
diễn ra. Đặc biệt là phần cuối của câu chuyện, Faulkner cho Benjy cảm nhận tiếng chuông
cứu rỗi của nhà thờ. Thanh âm và hình ảnh của nó chứa đầy tính biểu trưng cho hình tượng
nhân vật.
Với Quentin, thanh âm của tiếng chuông đưa hắn trở lại thực tại của đời sống, giúp
hắn nhận thấy ra sự hiện hữu trong cõi đời. Đó không chỉ là tiếng chuông báo hiệu sự sống
đang chảy trôi qua đôi tai của hắn, mà còn biểu trưng cho sự cứu chuộc tội lỗi và linh hồn
cho em gái Caddy. Nó âm vang trong mỗi phút suy tư của nhân vật này về ý nghĩa và giá trị
cuộc sống. Đồng thời những thanh âm của nó gợi nhắc đến một quá khứ tươi đẹp và thanh
bình ở quê nhà Jefferson với những buổi chiều tháng Tám êm dịu và tháng Tư yên ả,…Do
đó tiếng chuông với những đặc tính của mình khiến tâm thức Quentin xáo trộn trong sự
tranh đấu giữa sự sống và cái chết. Mỗi lần xuất hiện, tiếng chuông lại chứa đựng những
biến điệu, đó là sự chảy trôi chậm rãi của một ngày, lúc thì gấp gáp và hối hả, khi lại buồn
đến ghê rợn và có lúc lại thanh bình, yên ả,.. Những sự phức điệu do thanh âm của tiếng
chuông mang lại góp phần chỉ ra được trạng thái của một kẻ mất hết hi vọng vào cuộc sống.
Biểu tượng chiếc Chuông gắn với Benjy là sự gợi nhắc tới bữa ăn gia đình khi mỗi
lần chuông rung. Bởi Benjy chỉ có cảm giác của một sinh vật, do đó tiếng Chuông đánh vào
anh ta như tiếng kẻng gọi bữa ăn theo những thí nghiệm của Palop trên loài chó. Những
chuỗi âm dằng dặc của nó đánh vào tâm thức của một thằng khùng, cùng với tiếng “Caddy”
của người đánh gôn, khiến hắn lẫn lộn giữa hiện thực và quá khứ. Đồng thời, nó ngân vang
trong sự thanh bình và êm ả của buổi thuyết giáo, đó là tiếng chuông cứu dỗi linh hồn cho
hắn, một kẻ bất hạnh được sinh ra trong cõi đời.
Âm thanh của chiếc chuông cũng mang tới những cảm nhận cho Jason, hắn với đầu
óc tỉnh táo nghe ra được sự u buồn khi nhà thờ đánh từng hồi chuông ngân. Nó là tiếng nói
định mệnh đang trói buộc hắn trong một hiện tại bế tắc và chán nản vì sự suy sụp của gia
đình. Hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống trong tiếng chuông của Jason là quá trình khước từ
quá khứ đau thương và một thực tại bế tắc đang vây xung quanh hắn. Tiếng chuông khiến
72
hắn nhận ra được sự bất hạnh của mình. Nhưng sự bất hạnh của Jason không giống em trai
hắn, đó không phải là nỗi đau khi không thể đối thoại với người khác mà là sự đánh mất địa
vị và lợi ích của dòng họ trên mảnh đất miền Nam.
Còn Dilsey nghe ra được thông điệp của tiếng chuông cứu rỗi linh hồn cho các nhân
vật nhà Compson bởi sự đau thương và thất bại mà họ đã gánh trên vai mình. Do đó tiếng
chuông nhà thờ cùng với lời thuyết giảng của mục sư Shegog giúp bà thấy cái mở đầu và cái
kết thúc của bi kịch trong gia đình Compson, “tao đã thấy cái bắt đầu, và bây giờ tao thấy
cái kết thúc”[18, 411].
Với những đặc tính của mình, thông điệp mỗi lần chuông rung đã tạo cho nhân vật
những xúc cảm riêng. Đưa người đọc xâm nhập sâu hơn vào đời sống nội tâm bên trong mỗi
hình tượng. Tiếng nói nhân bản về tình yêu thương con người và cuộc sống được hiện rõ
trong biểu tượng độc đáo này. Không chỉ là dấu ấn của Kinh Thánh mà còn hơn thế nữa, đó
là thanh âm của tình thương yêu giữa con người với nhau. Trong mỗi cá nhân luôn có
một quả chuông tình yêu ngân reo và hòa điệu với cuộc sống. Đó có lẽ là thông điệp mà nhà
nghệ sĩ đã kí thác cho mỗi người tiếp nhận văn bản. Đồng hồ và chiếc chuông cộng hưởng
cùng nhau để làm nên hệ thanh âm độc đáo trong văn bản, chúng kết nối những khoảng mờ
giữa các thanh âm lộn xộn giữa các hình tượng nhân vật với nhau. Đồng thời thông qua nó,
dấu ấn kĩ thuật dòng ý thức hiện lên đậm nét. Thời gian có thể tồn tại như một chiều thứ tư
trong cuộc sống. Đó là thứ thời gian hiện sinh trong ý thức của mỗi người chứ không là thời
gian tuyến tính. Với Đồng hồ, ta thấy được một cảm thức lưu đày rõ nét trong mỗi nhân vật.
Còn chiếc Chuông lại gợi lên nhịp đập của cuộc đời và đưa ta vào hành trình cứu rỗi linh
hồn cho mỗi hình tượng. Nếu biểu tượng thời gian như một thứ lưu đày nhân vật trong sự
hiện hữu của cuộc sống, thì biểu tượng không gian bên trong tiểu thuyết trên lại chứa đựng
những thông điệp khác mà Faulkner muốn người đọc khám phá và giải mã cùng ông.
3.2. Biểu tượng không gian
Tràn ngập trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ là hình ảnh không gian miền
Nam nước Mỹ. Chúng gợi lên chất thơ và những tượng trưng sâu lắng của một nhà văn luôn
gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương. Không gian này thật kì ảo và tràn đầy biểu tượng.
Thật vậy, mỗi biểu tượng không gian trong văn bản là sự đào sâu của huyền thoại vào văn
hóa nhân loại. Ý thức xây dựng biểu tượng không gian nghệ thuật biểu hiện ở tầng số xuất
hiện của chúng. Đồng thời nó là sự gắn bó mật thiết với biểu tượng âm thanh thông qua cái
nhìn của các nhân vật. Chúng tôi thấy có bốn biểu tượng không gian tiêu biểu trong tác
73
phẩm là biểu tượng Hàng rào, biểu tượng Đồng cỏ, biểu tượng Cửa sổ và biểu tượng Ngọn
cây.
3.2.1. Hàng rào và sự cách ngăn cuộc sống
Hàng rào là một biểu tượng không gian gợi sự chia cắt. Từ xa xưa nó biểu trưng cho
việc đánh dấu vị trí, gợi sự chiếm hữu lãnh thổ của cá nhân với tập thể. Nếu đất đai là thứ
gắn bó với con người sớm nhất trong lịch sử xã hội thì hàng rào như một vách ngăn chia đôi
nó. Hàng rào luôn tượng trưng cho sự chia cắt. Do đó khi đi vào văn bản nghệ thuật của
người nghệ sĩ, ngoài nghĩa gốc, biểu tượng này sẽ chứa một lớp nghĩa phái sinh để biểu thị
giá trị nghệ thuật của nó và thông điệp thẩm mỹ của nhà nghệ sĩ.
Mở đầu văn bản, Faulkner đưa người đọc vào hành trình kiếm tìm của hai nhân vật
với những mục đích khác nhau. Và hình ảnh hàng rào xuất hiện đầu văn bản, nó ngăn trở
hiện tại và quá khứ trong tâm thức của Benjy, ngăn cách gia đình hắn với cộng đồng bên
ngoài. Hình ảnh Benjy bám vào hàng rào và ngước mắt nhìn ra bên ngoài như sự ngăn trở
cuộc sống của hắn với khát vọng muốn giao tiếp và hòa hợp với mọi người. Hàng rào cách
ngăn đồng cỏ thơ bé của hắn, khi nhân vật cố vượt thoát ra nó thì kí ức về tuổi thơ tràn về.
Có thể nói, biểu tượng này như một cánh cửa mở ra một thời gian khác, kỉ niệm và hồi ức
sống lại trong Benjy, người chị Caddy và biến cố của mình và gia đình.
Đồng thời có một Hàng rào được dựng lên trong chính gia đình Compson, hàng rào
vô hình này ngăn cách từng thành viên trong gia đình, mỗi người chạy theo những ước
muốn riêng. Họ không thể gỡ bỏ nó để cảm thông và chia sẻ tình yêu cho nhau. Ông Jason
Compson thì luôn khinh rẻ em vợ Maury, xem anh ta là kẻ bất tài: “Tôi sẽ không đánh đổi
Maury dù là lấy một cỗ ngựa xứng đáng”[18, 71], bà Caroline là hàng rào đau ốm triền
miên để không phải chăm sóc con cái. Còn Quentin đó là Caddy, Quentin không có tình yêu
với ai ngoài nàng. Với Jason, hắn chỉ yêu mẹ và khinh ghét tất cả những người còn lại.
Benjy bị khùng, hàng rào dựng lên trong nhân vật này là những tiếng khóc, thanh âm vô
nghĩa lí chứa đầy sự cuồng nộ mà nhân vật không thể thoát ra khỏi nó. Benjy yêu thương
Caddy nhưng lại không thể diễn tả nó thành lời,…. Bi kịch do Hàng rào định kiến đã được
dựng lên trong gia đinh Compson là một lí do kiến họ rơi vào sự suy tàn. Khi cố gắng vượt
thoát chúng, đi sang một không gian khác, các nhân vật không thích ứng được với hoàn
cảnh mới và lại một lần nữa họ rơi vào bi kịch.
Benjy với hành trình đi tìm Caddy khi vượt thoát khỏi cánh cổng đã bị thiến vì nhầm
tưởng những cô gái đi đường là chị mình. Jason khi vượt ra khỏi thị trấn Jefferson để đến
74
một nơi khác thì anh ta lại suýt bị giết, Quentin không thể tồn tại và phải tìm đến cái chết
khi hắn rời ngôi nhà của mình và vào học tại Harvard. Chúng đều có nguyên do từ sự
“phong bế” cuộc sống của những gia đình miền Nam trong xã hội Mỹ bấy giờ. Cách sống
của họ không thay đổi để thích hợp với xã hội đang phát triển, họ vẫn sống theo thế kỉ XIX
khi lịch sử đã sang thế kỉ XX. Bà mẹ Caddy luôn lấy những thước đo giá trị của xã hội cũ để
định giá phẩm chất của Caddy. Bà thấy những thay đổi của nàng nhưng lại không biết cách
uốn nắn nó. Nàng phát triển lệch lạc về giới tính, Caddy rơi vào bi kịch bị đuổi khỏi nhà
chồng, bà đã xua đuổi và cấm đoán nàng trở lại ngôi nhà cũ,… Ông Jason Compson luôn
sống với những triết lí hư vô. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Quentin. Anh ta cố đối thoại với
bố để tìm kiếm chân lí cho cuộc đời. Và khi không thể lí giải được nó, Quentin chối bỏ cuốc
sống bởi sự bế tắc trong chính hiện thực tồn tại của bản thân.
Hàng rào bên trong gia đình và một hành rào dựng lên vô hình trong các thành viên
nhà Compson. Nó khác với gia đình Dilsey, tình cảm và sự chia sẻ của họ về tình yêu và
cuộc sống một cách chân thành, giữa người thân trong không có một hành rào nào ngăn
cách. Họ sống mộc mạc, giản dị, tình yêu giữa các thành viên được san sẻ đều đặn cho
nhau. Nó được cảm nhận khi Benjy xuống ngủ tại đây, lúc Quentin nhớ về gia đình và
người thân yêu thì bóng hình họ hiện lên trong tâm thức anh ta thật tươi đẹp. Đó là thông
điệp mà biểu tượng này mang đến, con người trong mọi thời đại phải luôn cố gắng xóa bỏ
trước hết là những vách ngăn trong tâm hồn của chính mình để có thể thông cảm và thấu
hiểu cho nhau. Rukos khi nhìn thấy những bất hạnh trong gia đình compson, ông ta nói với
Dilsey rằng đó là định mệnh của gia đình này và muốn bà xa lánh họ.Đó là hàng rào trong
nhận thức của ông ta. Nhưng Dilsey thì khác, với tình yêu thương bao la và sự tận tụy của
mình, bà đã xóa bỏ những chia cắt đó, tranh đấu với chồng về định kiến ấy. Xóa bỏ Hàng
rào sẽ giúp con người thông cảm và hiểu nhau hơn. Khi không còn sự chia cắt, biên giới của
tình yêu sẽ lấn át lòng thù hận, sự ti tiện, xóa đi trong con người những mặc cảm số phận.
Biểu tượng hàng rào với ý nghĩa vách ngăn đã mang một thông điệp khác trong tác phẩm
này. Biên giới của nó không chỉ là sự chia cắt của con người trong không gian mà còn là sự
biểu trưng cho nỗi đau không thể vượt thoát hiện thực cuộc sống của nhân vật. Nơi đó chỉ
có tình yêu thương bao la, không khoảng cách của Dilsey mới giúp các nhân vật cảm thấy
bình yên và ấm áp.
Hàng rào cũng là một biểu tượng liên hội những biểu tượng âm thanh và biểu tượng
thời gian để tạo nên sự cuồng nộ bất tận cho tác phẩm. Tiếng khóc đau thương của các nhân
75
vật khi bị cầm tù trong thời gian và không gian. Ở đó nhân vật như một cái tôi bị lưu đày
trong đời sống. Đồng hồ và hàng rào ngăn trở họ hòa hợp với cuộc sống bên ngoài. Cảm
thức đau thương sống trong họ. Sự tàn suy của thời gian như đang chết và không gian ngột
ngạt không thở được là nguyên do của bi kịch. Một bầu không khí ngột ngạt và bị vẩn đục
hiện lên trong văn bản. Họ muốn tìm đến một không gian khác đó chính là khát vọng muốn
trở về tự nhiên, sống lại những tháng ngày tươi đẹp.
3.2.2. Đồng cỏ - ước muốn trở về tự nhiên
Là một nhà quí tộc, gia đình Compson có một lượng lớn đất đai và của cải. Nhưng họ
dần rơi vào cảnh túng bẩn. Và nhà Compson đã phải bán đi Đồng cỏ để làm tiệc cưới cho
Caddy và chu cấp tiền học phí cho Quentin. Trong tâm thức nhân loại, cánh đồng tượng
trưng cho sự trù phú, biểu hiện của quyền lực địa chủ, đồng thời Đồng cỏ còn gợi lên sự
thanh bình, yên ả của cuộc sống.
Trong Âm thanh và cuồng nộ, biểu tượng này gắn bó mật thiết với Benjy. Nó một
trong ba thứ hắn yêu nhất. Đồng cỏ sống trong tâm thức của các nhân vật. Do đó đây là một
biểu tượng nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm nên chúng tôi muốn tập trung tìm hiểu và khai
thác giá trị thẩm mỹ của nó.
Khi Benjy nhìn sang hàng rào, hắn muốn ngắm Đồng cỏ. Nhưng nó đã mất và thay
vào đó là sân gôn. Benjy và Luster đứa trẻ da đen chăm sóc mình đi qua những chỗ mà ở đó
từng cảnh vật lại gợi cho Benjy nhớ về Caddy. Dòng suối, chuồng ngựa, ngôi nhà Dilsey,…
lần lượt chúng chạm vào hắn và kí ức ùa về, một quá khứ với bao thăng trầm của số phận
hiện lên. Trong từng mốc thời gian được cảm nhận bởi Benjy, Đồng cỏ luôn gợi nhớ những
sự kiện và biến cố hắn trải qua. Benjy ngóng Caddy đi học khi nàng lên 7 tuổi, chơi đùa với
các anh em ở dòng suối,…Tất cả dấu ấn trên đều gắn bó mật thiết với Đồng cỏ, mỗi cảm
nghiệm của hắn luôn xoay quanh nó. Benjy có khả năng phát hiện dấu hiệu của sự chết. Nó
ngửi thấy cái chết. Cánh đồng tưới mát đau thương trong hắn, giúp Benjy cân bằng trạng
thái xúc cảm khi không thể đối thoại với cuộc sống. Nhìn đồng cỏ, hắn sống lại cảm giác
thanh bình, như người chị Caddy đã che chở cho mình.
Chúng tôi thấy một khát vọng trở về với đất mẹ. Đồng cỏ mang đến cho hắn cảm
giác ấm áp và sự che chở. Benjy với số phận bất hạnh của một thằng khùng. Hắn yêu vô
cùng đồng cỏ, khát vọng của Benjy là được ngắm chúng. Đồng cỏ đối lập với không gian
chật hẹp trong ngôi nhà Benjy. Đó là ước muốn sống hòa mình vào tự nhiên, những sự xâm
hại tự nhiên sẽ dẫn đến bi kịch.
76
Đó cũng là thông điệp đầy nhân văn trong các tiểu thuyết khác của Faulkner. Bi
kịch của xã hội hiện đại đã được báo trước với những tác phẩm nổi tiếng khác của ông như
Hoa hồng cho Emily, con Gấu, Thánh đường,… Ở đó, thông điệp về sự chan hòa với tự
nhiên đã được tác giả nói đến. Faulnker luôn có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất nơi
mình sinh ra. Ông gửi hết tình yêu ấy vào những tiểu thuyết và truyện ngắn của mình. Miền
Nam với những tháng ngày tươi đẹp đã không còn sau cuộc nội chiến Nam- Bắc. Nó hằn
những vết thương trong các trang văn của mình. Những bi kịch và tội ác ngập tràn ở tiểu
thuyết của người nghệ sĩ. Con người xa rời tự nhiên, thời đại công nghiệp đã biến mảnh đất
miền Nam thanh bình thành những công trường công nghiệp, khát vọng trở lại thời thơ bé
được ông gửi gắm vào những nhân vật trong tác phẩm. Benjy luôn cầm Hàng rào để được
nhìn qua Đồng cỏ. Đồng cỏ thanh bình xua tan hết những đau thương, dung chứa tiếng khóc
của hắn. Cỏ với sự sống bất diệt, những cánh đồng mênh mông đã biến thành mất như sự
phai tàn của cuộc sống.
Quentin nghĩ về Đồng cỏ với một niềm tiếc thương vì nó bị bán đi để làm đám cưới
cho Caddy, “bán cánh đồng cỏ”, thanh âm vang lên đầy đau đớn và tiếc nuối. Những tiếng
nói cuồng vọng trong anh là mặc cảm của cái tôi yếu đuối không thể giữ được những thứ
mình yêu thương. Cùng với Caddy, cánh đồng gợi dậy ở hắn cảm giác ấm áp và thanh bình.
Nó khác xa với không gian ở Havard u buồn, bế tắc. Khung cảnh quê hương với cái nắng
tháng Tám thanh bình làm cho tác phẩm âm vang một chất thơ đầy diễm lệ và tuyệt đẹp.
Đồng cỏ cũng giúp xoa dịu tâm hồn Quentin. Đó là khát vọng trở lại quê nhà, muốn được
sống trọn vẹn một ngày ý nghĩa trước khi giã từ cuộc sống. Đất mẹ luôn dung chứa những
đứa con trở lại. Vì là người mất hết lí tưởng cuộc sống nên hắn tìm đến nước để chuộc tội
cho em gái mình. Anh ta từ chối đất mẹ, không muốn trở lại sống một cuộc đời mà dường
như nó đã chết từ khi Caddy mất trinh. Và trinh tiết của nàng được Queetin cảm nhận như
mùi một loài hoa, hoa Kim Ngân.
Không có đồng cỏ, những thanh âm êm ả của tuổi thơ đã không còn. Đường về quá
khứ bị bịt kín, Caddy như đất mẹ. Nàng cũng đã thay đổi, không một thứ gì bấu víu ngoài
những lí thuyết hư vô Quentin hội đáp cùng bố mình. Không gian tâm tưởng ấy nhằm khỏa
lấp hiện thực bế tắc và quá khứ đau thương trong anh. Hành động tự vẫn của Quentin bằng
cách chết đuối, không phải là ước muốn trở về đất mẹ mà là chối bỏ nó. Tất cả đã thay đổi,
Caddy thay đổi và đồng cỏ không còn, những giá trị, tình yêu mất đi nên tiếng vọng cuồng
nộ dội vào trong hắn là tiếng nấc thổn thức của một kẻ bại trận.
77
Trên cánh đồng, những thứ tươi đẹp đã mất. Dòng suối tuổi thơ, năm tháng dạo chơi
của lũ trẻ nhà Compson đã lùi vào quá vãng. Hiện thực đau buồn được cảm nhận qua thanh
âm phẫn nộ của Jason khi gia đình bán mất cánh đồng. Gia đình không còn lại gì ngoài ngôi
nhà ngập không gian xám điêu tàn với tiếng la khóc của thằng khùng Benjy. Jason là một kẻ
tham lam và ích kỉ, khi không nhận được gì từ việc bán đi Đồng cỏ. Nỗi đau của hắn nhân
lên gấp bội. Cánh đồng trong cảm thức của Jason là sự giàu có và trù phú của gia đình. Nó
đã bị mất đi bởi cha hắn đã yêu thương Caddy và Quentin nhiều hơn mình. Jason không
thấy được sự rộng lớn, thanh bình của Đồng cỏ, chỉ có tiếng đay nghiến hiện thực khi nó
mất đi. Hiện thực đó cho thấy nỗi buồn của Faulkner với những đổi thay của thời cuộc. Một
gia đình quí tộc và danh giá đã không thể tồn tại trước đổi thay của hiện thực cuộc đời.
Những giá trị vật chất và giá trị tinh thần trong xã hội miền Nam bị xuống cấp và băng hoại
nghiêm trọng. Đó là tiếng chuông róng cảnh tỉnh loài người trước những đổi thay của thời
cuộc: phải luôn biết giữ lấy những giá trị do thiên nhiên ban tặng cho con người, mọi hành
động tướt đoạt và hủy phá thiên nhiên sẽ để lại những vết thương to lớn trong tâm thức mỗi
thế hệ về sau (Nhật Chiêu). Chính người cha đã không trân trọng và nâng niu những giá trị
ấy. Nó được tiếp diễn và sẽ dẫn đến lụi tàn vì đi ngược lại chân lí cuộc đời.
Dilsey đã nhìn thấy được điều đó. Cái mở đầu và kết thúc của một bài ca về nỗi
thống khổ của con người trong sự hiện hữu. Bà là cánh đồng tưới mát tấm lòng yêu thương
che chở tất cả những người nhà Compson. Những cái nhìn của mọi nhân vật khi rọi vào biểu
tượng này như sự kiếm tìm một thực tại. Đó là ước muốn được chở che và sống lại những kí
ức đẹp trong tuổi ấu thơ. Khát khao được yêu thương và che chở là những thứ chúng không
có được. Nhưng hiện thực với bao biến cố và bất hạnh khiến lũ trẻ phát triển nhân cách theo
những hướng rất riêng. Và bi kịch là ở đó. Không có những thang bậc giá trị, lũ trẻ như
những cái cây phát triển trên một đồng cỏ thiếu vắng tình yêu thương của cha mẹ. Chúng
chỉ có thể nương tựa vào tự nhiên, hòa và sống vào thiên nhiên nhưng khi nó thay đổi và
mất đi, họ không còn bấu víu được vào nó, tất cả chúng làm nên một nỗi đau không lời bởi
sự cô đơn của chúng trong chính ngôi nhà của mình. Do đó mỗi đứa trẻ nhà Compson luôn
muốn tìm một Cửa sổ để có thể vượt thoát được sự cô đơn của số phận.
Tóm lại, biểu tượng không gian với hàng rào và đồng cỏ, Faulkner đã kể cho chúng
ta một hiện thực. Mà ở đó, nhân vật bị cầm tù và lưu đày trong không gian huyền ảo với
miền Nam hoang sơ và cách biệt với thế giới bên ngoài. Với những biểu tượng này, thanh
âm bi kịch của gia đình Compson trải từng nhịp chậm buồn, đổ bóng xuống từng nhân vật,
78
làm nên những hình ảnh cuồng nộ thấm đẫm đau thương trong dòng họ Compson, “mỗi gia
đình đều hạnh phúc giống nhau nhưng sẽ bất hạnh theo những kiểu riêng của
nó”(L.Toistoil). Sâu thẳm bên trong, Faulkner luôn là con đẻ của ruộng đồng miền Nam.
Ông yêu vô cùng mảnh đất quê hương, nỗi đau khi nhìn thấy những đổi thay trên quê hương
đã khiến trái tim Faulkner quặn thắt, tất cả tình yêu đó được nhà nghệ sĩ gửi vào các sáng
tác của mình. Một không gian đẫm chất thơ và đầy huyền thoại được dựng lên, miền Nam
cách biệt với cuộc sống bên ngoài, cho nên ông cố gắng đưa nhân vật vượt thoát ra khỏi nó.
3.2.3. Cửa sổ - hành trình vượt thoát cô đơn
Cô đơn là một trạng thái cảm xúc tồn tại trong con người. Nó hiện sinh trong mỗi
kiếp người. Với một tác phẩm mà chủ đề của nó là tình yêu và con người thân phận thì cái
cô đơn trong hành trình hiện hữu của mỗi nhân vật lại càng thêm sâu sắc. Chính cô đơn là
nguyên nhân dẫn mọi người trong nhà Compson luôn cố theo đuổi những ý nghĩa riêng của
mình và không chia sẻ cùng người khác. Nó đẩy họ vào bi kịch không hiểu nhau và biểu
tượng Cửa sổ được nhà văn xây dựng trong tác phẩm như hàm chứa một thông điệp vượt
thoát khỏi nó, dẫn họ vào một không gian khác.
Cửa sổ trong ngôi nhà Compson dường như khép kín. Nó như một sự tuyệt giao với
thế giới bên ngoài. Ở đó, các nhân vật lại cố gắng mở nó, để họ có thể ra một không gian
rộng lớn. Benjy luôn khóc khi anh bị nhốt kín trong nhà, ngắm cánh đồng và nhìn lửa mới
làm hắn nín. Cửa sổ là nơi nhìn ra bên ngoài. Biểu tượng này như đôi mắt nhìn vào hiện
thực đau thương của gia đình Compson, ngôi nhà tràn ngập sự lạnh lẽo, u ám, không có hơi
ấm của tình yêu. Ánh sáng yếu ớt của nó khiến Benjy khi được ra ngoài hắn luôn thấy
những “hình thể tươi sáng và ấm áp”. Do đó sự kiện Caddy trèo lên ngọn cây để nhìn vào
cửa sổ như muốn truy tìm những bí ẩn của cuộc sống mà gia đình cố che giấu. Cái chết và
sự cô đơn trong xã hội khiến lũ trẻ phải gắn bó với nhau để chơi đùa và từ đó khao khát
kiếm tìm luôn hiện hữu trong nó.
Từ Cửa sổ, Benjy nhìn vào hiện thực đau thương của gia đình. Hắn ngửi thấy sự cô
đơn, cái chết. Nó mở toang cánh cổng không gian gia đình Compson. Benjy dẫn người đọc
nhìn vào từng mảnh đời bất hạnh của nhân vật với những hình ảnh và thanh âm vô cùng
sinh động. Cửa sổ với Quentin vẽ nên hình ảnh Caddy “một thoáng em đứng trong khung
cửa”, nó gợi cho hắn sự cô đơn khi Caddy lấy chồng, bóng khung cửa kính hiện ra đưa hắn
trở lại Harvard gợi nhớ về thời gian thực tại. Queetin nhìn vào cửa sổ, để cảm nhận về sự hư
vô của cuộc đời. Cửa sổ gợi lên hiện thực cô đơn của nhân vật khi anh ta đứng ở đó và nhìn
79
ra một không gian khác xa hơn, “con tàu dừng lại và tôi kéo tấm rèm cửa sổ nhìn ra bên
ngoài”. Cùng với Hàng rào và Đồng cỏ, biểu tượng này gợi lên một không gian ngập tràn
sự cô đơn trong tâm thức của mỗi nhân vật. Họ lạc lõng trong không gian mình tồn tại.
Muốn vượt thoát ra nó nhưng cách thức hành động ở mỗi nhân vật là khác nhau. Caddy đi
tìm đến tận cùng bằng sự dấn thân, nàng muốn ngước qua cửa sổ để nhìn ra một thế giới
rộng lớn bên ngoài. Queetin thì luôn trăn trở và suy niệm về sự cô đơn. Benjy phản kháng
bằng những âm thanh cuồng vọng. Jason muốn vượt thoát trên nó bằng sự toan tính và ích
kỉ của riêng mình. Dilsey thì dùng tình yêu thương của mình để xoa dịu đi mặc cảm đó cho
mỗi đứa trẻ bất hạnh nhà Compson. Do đó những biểu tượng này được khúc xạ qua cảm
nhận của mỗi đứa trẻ lại có những biểu hiện khác nhau. Chúng cố gắng chuyển một thông
điệp về tình yêu và con người thân phận của nhà văn. Các biểu tượng có những nét tương
đồng và khác biệt so với nghĩa ban đầu. Giữa chúng có một sự liên hội với nhau để khắc sâu
hơn không gian đầy cô đơn và mất mát của xã hội miền Nam lúc này.
Mỗi nhân vật không chỉ bị thời gian cầm tù mà họ còn phải sống trong một không
gian đầy bóng tối, thiếu đi ánh sáng của tình người. Cửa sổ đó là biểu tượng không gian
biểu trưng cho ước vọng vượt thoát sự cầm tù của các nhân vật trong gia đình Compson. Do
đó con gái Caddy là Quentin đã leo qua cửa sổ để thoát khỏi ngôi nhà. Jason chỉ thấy ở cửa
sổ sự phẫn uất và bất hạnh khi hắn bị cuỗm mất số tiền và bị cầm tù tại thị trấn. Nỗi cô đơn
và bất hạnh mà Jason phải gánh chịu khiến hắn không thể nghĩ về một việc gì khác ngoài
lòng hận thù. Hắn phẫn uất khi gia đình suy tàn, bản thân không có được công việc mình
muốn. Tất cả chúng được trút xuống Caddy và con gái nàng. Jason nghĩ Caddy là ngọn
nguồn của mọi tai họa mà gia đình hắn và bản thân gánh chịu, sự cô đơn đã theo Jason từ
thuở bé. Không ai chơi với hắn, Jason thiếu vắng tình yêu thương và nó là nguyên nhân
khiến hắn không có nhiều cảm xúc về tình máu mủ. Cửa sổ hiện ra trong Jason ở đó sự
cuồng nộ hiện lên thật rõ nét, cảm giác đau đớn và phẫn uất khi cháu gái trèo cửa sổ và có
thể đã cuỗm đi số tiền hắn tích cóp.
Trong đôi mắt Faulkner, biểu tượng Cửa sổ ngập tràn ánh sáng đối lập lại bóng tối bất hạnh
mà anh em nhà Compson phải gánh chịu. Dường như bi kịch của con người trong xã hội
luôn là chủ đề yêu thích của Faulkner. Nhà văn cố xây dựng con người mà ở đó “tâm hồn
luôn gây hấn với chính hắn”, ông cố gắng đi thật sâu vào đời sống tâm linh của họ. Nhưng
“biện chứng pháp” tâm hồn của người nghệ sĩ này khác xa với những nhà văn bậc thầy khác
như Balzac hay Toistol và nhất là Dostoievsky, bởi phép biện chứng tâm hồn của Balzac
80
nghiêng về phân tích tâm lí xã hội. Trong khi đó đại văn hào Tostoil thì đi vào khám phá
những biến chuyển tinh vi và phức tạp của nhân vật với phương thức độc thoại nội tâm sâu
sắc. Có lẽ Faulkner gần với Dostoievky hơn cả, bởi tâm lí của nhân vật trong sáng tác của
hai nhà văn này là đều dựa vào nguyên lí đối thoại để từ đó tiếng nói của xúc cảm và tâm
trạng của nhân vật được vang lên. Nhưng Dostoievky đó là những trạng huống say mê, ở đó
nhân vật ông yêu cất vang tiếng nói của cảm hứng tư tưởng, nó gợi lên chiều sâu của bản
chất tôn giáo là một chủ đề luôn ám ảnh nhà văn Nga vĩ đại. Đối thoại cũng thường trực và
đậm đặc trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Faulkner, ông gần với J. Joyce ở khả năng dồn
nén dung lượng thông báo, “các âm thanh của từ khi kết hợp tự nó có thể biểu đạt được
những sự chuyển động sâu xa, tinh tế nhất của tâm trạng, và xa hơn, nhờ đó con người có
thể thoát ra khỏi thực tại trần trụi bủa vây để đến với những không gian mới, những thế giới
mới, nơi ngự trị của cái thuần khiết, vĩnh hằng”[41, 58]. Bên dưới đối thoại tầm thường,
vụn vặt và nhỏ bé, là những tiếng kêu đau thương được cất cao giọng. Nếu lắng xuống, ta
nghe ra được cuộc đối thoại lớn về ý nghĩa tình yêu và hiện hữu của con người sau những
âm thanh bình thường. Âm thanh này kết hợp với những biểu tượng nghệ thuật thời –không
sẽ tạo nên những hình ảnh ám gợi đầy cuộng nộ. Nó trở thành những biểu tượng nghệ thuật
sâu sắc, lay động tình cảm, xúc cảm của mỗi người. Hình ảnh khung cửa bật sáng trong đám
ma bà Nội hòa trong tiếng khóc của người mẹ đã khắc họa lên dấu hiệu cái chết đang xảy
đến và bi kịch của gia đình Compson.
Thói ích kỉ và bản chất xấu của Jason được bộc lộ tột cùng khi anh ta phát hiện đã bị
mất đi số tiền bất hợp pháp do mình tích cóp được. Nó hòa điệu cùng thanh âm giận dữ điên
cuồng tạo nên một Jason đầy cuồng nộ, bi phẫn. Do đó có thể thấy những biểu tượng
Không- thời gian đã gắn bó mật thiết với biểu tượng Âm thanh để chuyển tải thông điệp về
tình yêu thương và thân phận của từng nhân vật nhà Compson.
Tình yêu luôn là thứ đối lập với sự cô đơn. Do đó biểu tượng Cửa sổ được người
nghệ sĩ nói đến luôn hiện lên khi nhân vật cố gắng đi tìm ý nghĩa của tình yêu. Đó là tình
người thân, tình nam nữ và thậm chí là tình yêu mảnh đất quê hương, đó là Nhà. Mỗi nhân
vật luôn cố và cố gắng hành động để vượt thoát khỏi nó. Những thanh âm dằng dặc bất hạnh
là bản trường ca cho sự lụi tàn và nỗi đau số phận trong cuộc đời của các nhân vật. Họ
cuồng nộ bởi họ mất mát. Hành trình đi tìm lại kí ức luôn hiện hữu ở các nhân vật. Đó là
đồng xu với Luster, kí ức với Benjy, câu hỏi cuộc đời với Quentin, hay bi kịch nỗi đau hiện
tại mà Jason phải gánh chịu. Dường như nhà văn vẫn bất lực khi không thể nói về Caddy,
81
nàng vẫn mãi là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của đời ông. Caddy mang trong mình vẻ
đẹp của “thiên tính nữ”(Hoàng Ngọc Hiến), nàng là hiện thân của khát vọng truy tầm ý
nghĩa sự sống và nâng đỡ giá trị tinh thần cho những người mình yêu thương. Caddy hiện
lên trong văn bản là người gánh chịu nhiều tổn thương và mất mát nhất. Nhưng nàng vượt
lên trên nó. Vẻ đẹp, sự bất hạnh của nàng là biểu tượng cho mảnh đất miền Nam tươi đẹp
nhưng đầy đau thương mà Faulkner đã chứng kiến và suy nghiệm.
3.2.4. Ngọn cây - khát vọng truy tầm
Biểu tượng Ngọn cây như biểu trưng cho khát vọng khám phá bản chất của cuộc
sống.
Biểu tượng này gắn bó mật thiết với Caddy và con gái nàng. Khi Caddy leo lên cây
để nhìn vào đám tang của bà Nội. Đó là ước muốn và khát vọng tìm hiểu ý nghĩa của cái
chết. Sau đó, nàng leo cây để đến với người tình, khát vọng muốn khám phá đời sống xác
thân. Những thay đổi ở Caddy cũng gắn bó với Ngọn cây. Khi Caddy trèo lên cây, chiếc váy
nàng đính đầy bùn, dấu hiệu đó báo trước sự bất hạnh về tình dục mà cô phải gánh lấy sau
này. Dường như ở Faulkner có một thuyết định mệnh của phương Đông khi miêu tả về các
nhân vật. Thật ra biểu tượng nghệ thuật với tư duy trừu tượng sẽ là mảnh đất ươm mầm cho
biểu tượng nghệ thuật. Xây dựng một tác phẩm chứa nhiều yếu tố huyền thoại, Faulkner đã
cố làm sống lại những biểu tượng độc đáo mang đậm tâm thức tôn giáo và biểu tượng
phương Đông. Có sự giao thoa văn hóa Đông- Tây trong tiểu thuyết của nhà văn. Cây gắn
bó mật thiết với đất mẹ, nó làm thành một quan hệ phức hợp về tình yêu bám rễ vào cuộc
đời.
Những đứa trẻ nhà Compson không bám được vào tình yêu thương của mẹ.
Chúng không có rễ yêu thương nên khi trèo lên ngọn cây, Caddy đã mang mầm
mống của bi kịch như Faulkner miêu tả. Khát vọng truy tầm cuộc sống với một cô
bé, khi cô không tin có bất hạnh và đau thương trong đời sống. Caddy với “thiên tính
nữ” cố gắng dẫn dắt và che chở các anh em nàng. Tiếng nói đối thoại của cô với cuộc
sống vang lên đầy phức tạp. Từ một cô gái êm đềm trong tuổi thơ, Caddy bất hạnh
khi không thể trở về chính ngôi nhà mình yêu thương bởi khát vọng kiếm tìm tình
yêu và hạnh phúc của mình đã không được trân trọng. Caddy là đất mẹ, thanh âm
cuồng nộ của nàng chính là bi kịch bất hạnh từ tình yêu vô bờ bến của nàng, Caddy
không chấp nhận sự ti tiện và ích kỉ của em trai là Jason. Nó được hiện lên với những
trang hồi ức lấp lánh ánh sáng tinh nguyên của dòng kí ức. Với ba điểm nhìn của ba
82
anh em, nàng vẫn mãi không trọn vẹn và có điểm khuyết. Ngọn cây không chỉ gợi ra
một không gian cao với hiện thân của vẻ đẹp trong sạch mà nó còn chứa đựng một
khát vọng đi vào thật sâu trong hành trình khám phá tâm linh con người.
Bản chất đời sống đó là hành trình đi tìm kiếm và khám phá. Trên con đường ấy, đớn
đau, vinh quang và tủi nhục luôn song hành. Các nhà văn Mỹ luôn đẩy các nhân vật của
mình vào lộ trình này, một Moby Dick với Ahab đi tìm con cá voi Trắng, một Gastby vĩ đại
trong hành trình đi tìm tình yêu hay những cuộc phiêu lưu của Hulklebelly Finn, … Khát
vọng chinh phục tự nhiên luôn sống trên mảnh đất Hoa Kỳ. Họ với bản chất phiêu lưu của
một nền văn hóa Lai tạo cho cư dân Mỹ ưa thích khám phá. Và từ tự nhiên, nhà văn đi vào
tìm hiểu những bí ẩn giấu kín trong tâm hồn mỗi thế hệ nước Mỹ.
Xã hội miền Nam thời Faulkner sống đã qua thời chiến tranh Nam- Bắc nhưng vẫn
có một hoài niệm, nỗi đau về nó. Bất hạnh đã hằn sâu lên dấu ấn trong những sáng tác trước
của ông. Là một nhà văn của lương tri, Faulkner và Hemingway đã cố gắng đi thật sâu vào
tận cùng tâm hồn của những cư dân Mỹ trong thế kỉ XX. Các nhân vật Faulkner đa phần
thất bại trong cuộc sống, họ chìm vào rượu như Jason Compson cha. Nó hằn lên Jason con
và cả tâm trạng hoài nghi yếm thế trước cuộc đời của Quentin. Chỉ có sức sống mãnh liệt và
tình yêu vô tận của Dilsey và Caddy mới vượt thoát được nó. Đó cũng là khát vọng của nhà
văn, đưa mảnh đất miền Nam đang cằn cỗi, đau thương thành một vùng đất huyền thoại và
ngập tràn sự cuồng nộ trong những thanh âm của bi kịch và bất hạnh. Và Faulkner đã thật sự
sáng tạo được một không gian như thế.
Tóm lại, với hai biểu tượng Cửa sổ và Ngọn cây, nhà văn đã làm sống dậy một vùng
đất hoang cằn đầy bóng tối một khát vọng vượt thoát nỗi cô đơn và bất hạnh của hiện hữu
trước số phận cuộc đời. Chúng tôi thấy rất rõ thông điệp đã gửi gắm cho người đọc. Nhà văn
muốn sáng tạo một không gian nhuốm đầy đau thương ở đó các nhân vật luôn cố gắng vượt
lên trên số phận nhưng họ luôn bị rơi vào bất hạnh. Chính nó đã tạo nên thanh âm cuồng nộ
đầy đau đớn trong các sáng tác của nhà văn này.
Tiểu kết chương 3:
Hệ biểu tượng Không- thời gian trong tiểu thuyết đã được Faulkner sáng tạo đầy độc
đáo. Dưới các biểu tượng đó, nhân vật bị cầm tù trong không gian và họ cố vượt thoát khỏi
sự lưu đày của thời gian. Nhưng tất cả những cố gắng ấy đều bị thất bại, bi kịch “tâm hồn
con người gây hấn với chính nó” hiện lên. Chính điều đó đã tạo nên những thanh âm khác
nhau đầy cuồng nộ với các biểu hiện rất riêng, tạo nên những sắc thái xúc cảm khác nhau
83
trong mỗi nhân vật. Dưới ánh sáng của biểu tượng này, bi kịch về sự suy tàn của gia đình
Compson được lộ ra đầy đủ và rõ nét hơn. Một không gian miền Nam thật đẹp nhưng đầy
đau thương được hiện ra trên cái nền của thời gian chiến tranh Nam – Bắc đã kết thúc nhưng
dư ảnh và sự thương đau của nó vẫn tồn tại trong tâm thức của những thế hệ sau.
Hệ biểu tượng Không - thời gian kết hợp với hệ biểu tượng Âm thanh đã cho thấy
được khả năng sáng tạo của nhà nghệ sĩ Faulkner trong việc tái hiện hiện thực bên trong tâm
hồn của mỗi người bởi, “Tiểu thuyết là một đối tượng khác hẳn với hiện thực, nó bước ra từ
chính cái cung cách mà một bức tranh vẽ lâu đài khác với cái lâu đài mà nó thể hiện”
(Kundera). Nên bức tranh tâm lí nhân vật đạt đến chiều sâu của nhận thức.
Biểu tượng nghệ thuật Không - thời gian còn tạo cho văn bản Âm thanh và cuồng
nộ một chất thơ đặc biệt. Với những biểu tượng hàm chứa năng lượng cảm xúc , nó dồn nén
những cung bậc và thổi vào văn bản những ý niệm đậm sắc màu huyền thoại.
Để hiểu được tính huyền thoại được cất giấu như thế nào trong văn bản này, chúng
tôi muốn đi vào khám phá hệ biểu tượng Tâm linh mà nhà văn đã sáng tạo trong tiểu thuyết
này.
84
CHƯƠNG 4: HỆ BIỂU TƯỢNG TÂM LINH TRONG “ÂM THANH
VÀ CUỒNG NỘ”
Mỗi nhà văn lớn trước hết luôn thuộc về một đất nước, một dân tộc sau đó là gương
mặt công dân nhân loại. Tiếng nói tư tưởng cùng nhận thức về con người và cuộc sống làm
nên mô hình quan niệm của nhà nghệ sĩ trước cuộc đời. Faulkner gắn bó mật thiết với mảnh
đất miền Nam nước Mỹ với bao câu chuyện hoang đường và huyền bí khiến những trang
văn của ông chứa đầy sắc màu biểu tượng và huyền thoại. Bởi bản chất của văn học nghệ
thuật, “không chỉ là mô tả thực tại, cái thế giới nhìn thấy được, có sẵn, mà quan trọng hơn
là biểu hiện, là khám phá các tầng sâu uyển chuyển và tế nhị của đời sống tâm linh con
người, chỉ có như thế nghệ thuật mới khắc phục được tính đơn điệu, phiến diện và đạt tới
chiều sâu”[10, 110].
Hành trình tìm kiếm giá trị tình yêu và con người thân phận đã đưa Faulkner đến gần
hơn những giá trị vĩnh hằng của tâm thức nhân loại đậm chất nhân văn. Do đó đi vào Âm
thanh và cuồng nộ, bên trên lớp biểu tượng Âm thanh gợi lên những hình ảnh đầy cuồng
nộ đầy đớn đau ở nhân vật. Đi cùng với nhóm biểu tượng Không - thời gian như cầm tù và
lưu đày nhân vật trong một hiện thực tang thương là hệ biểu tượng Tâm linh chứa những giá
trị biểu trưng đậm chất nhân văn. Từ đó bài ca nhân đạo về tình yêu thương con người và
cuộc sống được cất vang.
4.1. Lửa như là bản nguyên của vũ trụ
Lửa một dạng vất chất sống trong tâm thức của loài người từ thuở sơ khai. Nó là một
biểu tượng đa nghĩa. Theo “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, ngọn lửa luôn gắn với
hai nét nghĩa lớn đó là sự tái sinh và sự hiến tế. Từ hai gốc nghĩa này, biểu tượng Lửa đã
được tái hiện trong văn hóa nhân loại. Lửa đi vào trong văn học và làm nên những ý nghĩa
biểu trưng độc đáo. Ở phương Tây, biểu tượng Lửa gắn với hình ảnh chàng Promete đánh
cắp ngọn lửa trên trên đỉnh Olympia cho loài người. Lửa sưởi ấm, biểu trưng cho cảm giác
ấm áp nhưng đồng thời Lửa với sức nóng lại tượng trưng cho sự hủy diệt. Đi vào khám phá
Lửa, phải thấy được ý nghĩa do biểu tượng này gợi lên.Đi cùng với nó là các giá trị do Lửa
mang lại ở từng ngữ cảnh của văn bản Âm thanh và cuồng nộ.
Lửa, trong đôi mắt Benjy là một chất hắn yêu thích nhất. Ngắm Lửa luôn đem lại cho
Benjy cảm giác bình yên và dễ chịu. Hắn cảm nhận con người thông qua ánh mắt. Khi
những người thân giận dữ, Benjy như thấy lửa trong mắt họ, đó là ngọn lửa hủy diệt, nó tàn
85
phá những giá trị của tình yêu: “Chị dẫn tôi tới ngọn lửa và tôi nhìn những hình thể sáng
ngời, êm dịu. Tôi nghe thấy lửa và mái nhà”[18, 101]. Faulkner xây dựng biểu tượng này
bằng cách lặp lại rất nhiều lần nó. Đó là ước muốn đi vào khám phá đời sống tâm hồn được
che giấu bên trong của mỗi người, “ngọn lửa gợi lên lòng ham muốn được biến đổi, được
thúc đẩy thời gian, được đưa toàn bộ về tới điểm kết thúc, tới quãng thế giới bên kia”[34,
109]. Lửa trong mắt các nhân vật khi giận dữ. Nó làm nên tiếng vọng đau thương khi chứng
kiến những nỗi đau và bất hạnh không gì khỏa lấp được.
Lửa như một biểu tượng hiến sinh cho cái chết của Quentin. Hắn ao ước được chết
chung với Caddy trong ngọn lửa tinh khiết để xóa đi tất cả những dục vọng xấu xa mà em
gái hắn đã phải chịu, “giá như địa ngục ở ngay bên kia: ngọn lửa tinh khiết hai đứa mình
hơn là chết. Rồi em sẽ chỉ có anh rồi chỉ có anh rồi hai đứa giữa sự chỉ định kinh hoàng bên
kia ngọn lửa tinh khiết”[18, 170-171]. Lửa ấm áp làm nên thanh âm êm diệu, thanh bình.
Hình ảnh ngọn đèn trong lúc nhân vật nhớ về những kỉ niệm tươi đẹp ở quê nhà. Lửa phẫn
uất khi Quentin không thể đánh thắng Daton Almes trong cuộc đấu tay đôi. Biểu tượng này
đối với Benjy là rõ hơn các anh em của mình. Bởi Benjy chỉ có thể cảm giác sự vật xung
quanh bằng cảm giác. Lửa luôn gợi cho hắn sự tò mò. Lửa cũng gợi lên sức nóng của dục
tính, nó tràn vào bên trong Benjy khi hắn bị thiến. Cảm thức đau thương không thể nói do
đó Benjy chỉ biết gào thét để trút hết những buồn đau và cuồng nộ của mình. Lửa cũng cho
Benjy cảm giác ầm áp của gia đình “tôi nghe thấy lửa và mái nhà”,. Lửa thiêu hủy và gây
nên sự đớn đau lúc Benjy chạm vào nó, khiến hắn bị phỏng tay trong lần sinh nhật 33 tuổi
của mình. Benjy thấy được ngọn lửa đấu tranh và thù ghét lẫn nhau giữa Caddy và Jason,
ngọn lửa ấm áp nơi ngôi nhà của T.P và Versh. Bởi nơi ấy tràn ngập tình yêu. Nó khác xa
với ngôi nhà Benjy chỉ chứa đựng sự hận thù và những tính toán tầm thường, nhỏ nhen, ích
kỉ. Do đó Lửa như là biểu tượng chuyển tải những thông điệp của Benjy với cuộc sống.
Chính nó làm nên trong hắn sự cuồng nộ đớn đau khi phải chứng kiến mọi thứ xảy đến với
bản thân và gia đình. Benjy với khả năng cảm nhận được sự bất hạnh và cái chết. Trong hắn
còn có một ngọn lửa dục tính và những khát khao trần tục. Nỗi bi thương khi không thể giao
tiếp với cuộc đời nên Benjy tìm đến chiếc dép. Nó như một biểu trưng cho hành trình lưu
đày của Caddy ra khỏi ngôi nhà và Lửa để xóa đi nỗi đau và tìm hơi ấm nơi người chị mà
hắn yêu thương. Lửa hận thù đốt cháy tình yêu. Chỉ có ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của
gia đình mới ấm áp và giúp con người cảm nhận giá trị của tình yêu.
86
Do đó hành động nhóm lại lửa của Dilsey như một thông điệp, nhóm lại những tình
yêu bị nguội tắt trong ngôi nhà đầy băng giá của nhà Compson. Một ngày tang thương và
bất hạnh xảy đến trong gia đình Compson. Giữa cái lạnh của buổi sáng Chúa nhật với bao
sự kiện, Dilsey vẫn thức dậy và nhóm lên ngọn lửa của tình yêu thương. Chính bà chứ
không phải ai khác đã gánh vác ngôi nhà Compson trên đôi vai nhỏ bé của mình.
Với biểu tượng Lửa, Faulkner muốn sáng tạo một kí mã thẩm mỹ mang đậm dấu ấn của văn
hóa độc đáo. Nó song hành và tồn tại trong tâm thức của nhân loại. Biểu tượng tâm linh này
sẽ giúp hình tượng chạm tới bề sau của vô thức, “bỏ mất sự mơ mộng trước lửa là đánh mất
thói quen thật nhân văn và nguyên thủy của lửa”[10, 107]. Đi vào khám phá biểu tượng
Lửa, người tiếp nhận như được trôi vào một không gian khác, mơ hồ và đầy ảo ảnh. Hình
tượng nhân vật được khai thác ở chiều sâu của sự liên tưởng bằng dấu ấn của vô thức tập
thể. Lửa như một nguyên sơ tượng cổ xưa, hàm chứa trong bản thân biết bao sự mơ mộng
vô hình. Nó gợi lên hình ảnh đầy mơ mộng và cả sự điêu tàn hủy diệt. Lửa trong mắt, trong
gương, trên mái nhà, bếp lò,..Những dạng tồn tại của nó được cảm nhận bởi Benjy. Nó hủy
diệt và nuôi dưỡng tình yêu trong hắn. Lửa xâu chuỗi từng thời gian sự kiện xảy đến với
cuộc đời Benjy, làm thành vòng tròn bất tận trong nỗi bất hạnh của nhân vật. Hắn cảm nhận
được nó trong ánh mắt đầy lửa của bố và mẹ khi họ biết hắn bị chậm phát triển.Sự giận dữ
của Jason vì hắn là nỗi sỉ nhục của dòng họ. Bi kịch đau thương khi Caddy lìa xa mình và
lúc bản thân bị thiến thì ánh lửa cuồng nộ bùng cháy mãnh liệt, đầy đớn đau. Nỗi đau hiện
hữu trong Benjy được cảm nhận với Lửa. Ánh lửa thổi bùng lên bao suy niệm về yêu
thương và căm giận.
Lửa trong mắt Quentin chỉ chứa toàn thù hận. Sự thất bại trong việc giữ gìn trinh tiết
và phẩm giá cho em gái khiến ngọn lửa đam mê và dục vọng trỗi dậy trong hắn. Quentin say
mê em gái như người tình. Ánh lửa cuồng si hiện lên trong mắt hắn, khi Caddy yêu thương
Benjy và bố hơn mình. Ánh lửa cuồng dại khi Caddy bị mất trinh, nó đau đớn và cuồng nộ.
Trong đôi mắt nhân vật này,một ngọn lửa đớn đau khi Caddy lấy chồng, Quentin trút tất cả
Lửa bất lực của mình lên T.P. Lửa trong mắt anh ta được nhìn bởi Benjy. Quentin là một
người bất hạnh và là kẻ thất bại. Lửa hoài nghi cận vấn cuộc đời của Quentin trước những
sự thay đổi của thời cuộc. Biến dạng của Lửa mang lại những cung bậc xúc cảm khác nhau
trong tâm thức của nhân vật. Đi cùng với biểu tượng Lửa là sự xen vào những đoạn độc
thoại với nhiều giọng nói chen vào nhau. Sự phức hợp cảm xúc này được nhà văn sử dụng
87
khi ông cố diễn đạt những biến chuyển tâm lí cực kì tinh tế và phức tạp trong cảm thức của
nhân vật. Dòng suối cảm xúc tự tuôn trào trong sự tinh nguyên cảm xúc.
Faulkner là bậc thầy trong việc dựng lại bức chân dung thời đại, các nhân vật của
ông với bao mặc cảm về con người thân phận của miền Nam đau thương. Trái tim họ thổn
thức những nhịp đập khi thanh âm cuộc đời mới dội đến họ.Để cảm nhận được bề sâu trong
tâm hồn, nhà văn cần một lối diễn đạt mới, “tư tưởng con người là trầm tích của các thời đại
lịch sử”(Konrad). Một thế hệ dòng họ Compson trong thế kỉ XX được nhìn qua lăng kính
đầy sắc màu huyền thoại.Đó là trái tim thổn thức của một con người am hiểu rộng văn học,
văn hóa nước Mỹ. Nó giúp nhà văn trải được cảm xúc trên cả bề rộng lẫn bề sâu của tâm
hồn con người lên trang giấy. Những cổ mẫu được nhìn dưới ánh sáng của so sánh, đối
chiếu với những cổ mẫu khác.Nó tạo cho văn bản những khoảng trắng cần được lấp đầy bởi
người đọc. Do đó tiểu thuyết này luôn mời gọi và thách đố sự phát hiện lại những giá trị
tưởng như bất biến.
Qua cổ mẫu, bức tranh hiện thực được ẩn dấu dưới phát hiện khá thú vị. Biểu tượng cổ mẫu
Lửa cộng hưởng với biểu tượng Nước như sự đối lập, xoa dịu cho nỗi đau nhân vật. Bằng sự
diễn đạt tinh tế và khéo léo, ngôn ngữ Faulkner luôn đậm chất biểu tượng. Đó là một đặc
trưng trong văn phong của ông. Chiều sâu của tâm thức nhân vật không được Faulkner vẽ ra
thông qua biến cố và hành động cùng thời gian tuyến tính mà ẩn sâu bên trong, câu chuyện
tự nó kể với chúng ta bằng một giọng điệu rất riêng, như Faulkner từng tâm sự, “nhà văn thì
đơn giản đang kể cho bạn câu chuyện của trái tim con người trong xung đột với chính nó,
với những kẻ khác hoặc với hoàn cảnh bằng một cách thức thật sống động”[7, 647].
Tiếng nói đối thoại là chủ âm trong mọi văn bản của Faulkner. Những hội thoại được
nhà nghệ sĩ tạo lập rất tự nhiên. Nó như chính hơi thở của hiện thực. Bên trên lớp nghĩa do
ngữ cảnh đối thoại mang lại là một chiều kích khác của tồn tại. Những gam màu được ông
sử dụng trong tác phẩm và kết cấu âm nhạc đã bộc lộ một kĩ thuật vô cùng linh diệu mà có
lẽ chỉ Faulkner làm được. Sự giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật là nét độc đáo trong
cấu trúc tác phẩm của ông. Ẩn bên dưới sâu những kết cấu đó, một ý nghĩa phổ quát mang
tầm nhân loại mà có lẽ nhà nghệ sĩ cũng không được ý thức được. Những cổ mẫu hòa quện
trong cảm hứng tư tưởng đưa nhà văn vào hàng nghệ sĩ bậc thầy trong văn chương nhân
loại.
88
Lửa như là bản nguyên của vũ trụ. Đặc tính và chiều sâu suy nghiệm của Lửa gợi dẫn
một sự khám phá ý nghĩa ẩn sâu bên dưới nó. Tất cả đều cuồng nộ bởi âm thanh của cuộc
sống đang và đã đổ bóng xuống cuộc đời họ, làm nên trong họ bài ca vô nghĩa lí của cuộc
đời. Có một bản nguyên bên trong mỗi con người cho dù hắn là ai. Bản nguyên này có thể là
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tương sinh tương khắc trong văn hóa Trung Hoa, được khởi đi
từ triết học Lão, Trang, “Muốn cho tâm được chính , trước phải giữ ý cho thành. Muốn ý
được thành, phải biết cho tới nơi. Mà có xét rõ sự vật cái biết mới có thể tới nơi
được”(Trang Tử), hay là những yếu tố vật chất đã cấu thành nên thế giới như nước, lửa,
không khí, đất trong quan niệm của các nhà duy vật biện chứng cổ sơ Hi Lạp. Khát vọng
tìm hiểu bản chất con người được khai phá trước hết bởi những nhà triết học. Linh hồn của
con người đến và đi về đâu luôn là câu hỏi ám ảnh những nhà triết thuyết. Mỗi nhà văn
trong khát vọng đi tìm con người trong con người nên ở họ luôn hình bóng nhà tư tưởng. Và
thông điệp mà họ nói được ẩn dấu dưới những hình tượng và sẽ đạt đến tầm biểu tượng nếu
người nghệ sĩ thổi vào đó những cổ mẫu mang sự khái quát nhân loại. Nghĩa là hình tượng
nghệ thuật không chỉ gây sự xúc động mạnh liệt, giúp chúng ta nhận ra “con người này”
trong hàng vạn người mà nó còn đạt đến chiều sâu của bản chất nhân loại. Người tiếp nhận
trong từng vùng văn hóa khác nhau vẫn nhận ra những nét chung bên cạnh tính riêng độc
đáo của hình tượng.
Và theo chúng tôi, cái cung cấp cho hình tượng trở thành biểu tượng chính là những
cổ mẫu, Cái mà ta có thể thấy và hiểu nó trong bất kì những hình tượng văn học nào trên
thế giới. Điều đó giúp cho người tiếp nhận có thể hiểu những nhân vật từ các nền văn học,
văn hóa khác nhau trên thế giới, dẫu nó tồn tại qua không gian và bất chấp thời gian. Bởi
chúng mang trong mình những giá trị vĩnh hằng. Đó là ước muốn và khát vọng của những
nghệ sĩ văn chương chân chính. Faulkner làm được điều đó. Cổ mẫu Lửa của ông khiến
những hình tượng nhân vật trong văn bản này có một sức sống nội tại rất riêng. Ở họ, tính
cách của con người miền Nam nước Mỹ nói riêng và của người Mỹ hiện đại được hiện ra.
Nhưng nó không đơn giản và sơ lược mà được nhìn trong đôi mắt của một nghệ sĩ thấu hiểu
đến tận cùng con người và vùng đất quê hương. Sự quện se giữa tôn giáo và cuộc đời đã
khiến tiểu thuyết chứa những trang đời lấp lánh ánh sáng của tình yêu thánh kinh Cựu Ước
nhưng vẫn ngồn ngột hơi thở cuộc đời. Điệu chuông ngân vang trong tâm trí của mỗi nhân
vật. Tiếng chuông luôn gợi lên cảm giác yên bình, hòa giải song đề đối lập trong biểu tượng
Lửa căm hờn đang cháy trong sự bất hạnh trong cuộc đời nhân vật. Chính nó giúp người
89
tiếp nhận đi sâu hơn trong nội tâm của nhân vật, khám phá thêm được một mẩu sự sống
khác đang tồn tại bên trên ý thức của con người.
Với những biểu tượng vô thức, người nghệ sĩ đã cố cho độc giả thấy được những
biến ảnh của cuộc sống.Đồng thời sự phân vai đối thoại giúp cho, “tiếng nói của nhà văn
được cất lên trước khi cuộc hội thoại được bắt đầu”(Todorov). Tiếng vọng cuồng nộ dưới
những biến thể của Lửa lúc thì đớn đau, khi lại ấm áp, lấp lánh ánh sáng của tình yêu. Giúp
ta nghe tiếng gọi sâu thẳm như gió, lung linh như ánh nắng và êm ả như đồng cỏ, dữ dội như
Lửa đang tồn tại trong họ. Biểu tượng Lửa đã ánh xạ những tia sáng thiên tài trong việc giao
thoa giữa cổ mẫu văn hóa vào trong văn học. Với Lửa, hiện thực đau thương và bất hạnh
của mỗi nhân vật được nhìn ở bề sâu. Nó chạm đến vô thức tập thể của nhân loại. Do đó
biểu tượng này kết nối những khoảng mờ trong tâm thức nhân vật với hành động bên ngoài
của họ, khiến bản giao hưởng “Âm thanh và cuồng nộ” thêm phần sâu sắc. Nếu Lửa là một
cổ mẫu tồn tại như bản nguyên của vũ trụ gợi lên hai đặc tính biểu trưng là hủy diệt và ấm
áp thì Nước là cổ mẫu mang trong mình thuộc tính gột rửa nỗi đau bên cạnh biểu trưng hiến
sinh.
4.2. Nước - sự gột rửa nỗi đau
Nước, “ dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc của sự sống và là yếu tố tái
sinh thể xác và là biểu trưng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền
minh, tính khoan dung và đức hạnh”[10, 710]. Trong văn hóa nhân loại, biểu tượng này gợi
nhắc tới nạn đại hồng thủy trong kinh thánh Cựu Ước. Nước như một chất khởi thủy thông
điệp, làm thanh sạch tâm hồn con người. Cùng với Lửa đây là biểu tượng được dùng trong
các nghi lễ hiến tế. Âm thanh và cuồng nộ một tác phẩm mang đậm yếu tố tôn giáo. Biểu
tượng Nước có một kí mã chung với những dấu ấn văn hóa mà nó gợi lên trong tâm thức
cộng đồng. Đồng thời nó chuyển tải những ý thức thẩm mỹ riêng của Faulkner trong chủ đề
của văn bản.
Nước tái hiện bức tranh sinh hoạt chơi đùa của anh em nhà Compson ở dòng suối từ
thuở ấu thơ. Những hồn nhiên và ngây thơ của họ được miêu tả. Trên đó nhà văn dự báo khi
để cho Benjy nhìn thấy bùn trên cơ thể của người chị gái Caddy. Bùn cũng là một biểu
tượng văn hóa. Nó là chất lỏng có mùi hôi, bùn gợi lên dục tính của con người. Chính điều
đó báo hiệu những mất mát tổn thương trong đời sống dục tính về sau ở cô. Cổ mẫu Nước
với những biến thể là Bùn và Mưa đã hắt chiếc bóng của nó xuống cơ thể Caddy, gợi lên sự
90
“cuồng nộ”: “gương mặt em nằm trong nước đầu gối lên doi cát nước chảy gương mặt em
nằm trong nước váy em ướt sũng một nửa bập bềnh bên sườn em theo dòng nước trong
những con sóng nặng nề chẳng đổ về đâu tự phục hồi những chuyển động của mình” [18,
215]. Khi nàng bị mất trinh, Benjy không ngửi thấy mùi Mưa và mùi Cây trên mình Caddy.
Nước giúp nàng gột rửa nó, để hắn lại thấy Caddy như ngày xưa. Ông Jason suốt ngày ngập
tràn trong rượu-một biến thể của Nước, và chết trong nó. Queetin tìm đến Nước để tự vẫn
đó là hành động muốn chuộc lại những tỗi lỗi mà em gái đã phải gánh chịu. Jason luôn bị
ám ảnh và khó chịu bởi mùi xăng, đó là dạng thức của Nước. Nó gợi hắn nhớ lại sự đau
thương của gia đình. Những thanh âm của tiếng nước róc rách chảy trong tâm hồn của mỗi
nhân vật đã len vào cảm nhận của Jason về sự lụi tàn của đời sống. Nước luôn mang những
đặc tính của một chất lỏng đặc biệt, nó có thể đóng băng, có thể bay hơi, như sự hư ảo và
băng giá của tâm hồn mỗi cá nhân của gia đình Compson. Đồng thời cổ mẫu Nước đưa lại
trong Quentin những cảm nhận cuộc sống : “Nước trong vắt và phẳng lặng trong bóng râm,
rì rầm róc rách quanh những viên đá thành những mảnh trời xoáy tròn tan dần”[18, 169],
Nước soi cho cổ mẫu Bóng: “Tôi không nhìn thấy đáy, nhưng tôi thấy những chuyển động
của lớp nước sâu, trước khi mắt tôi hoa lên, rồi tôi thấy một cái bóng như một mũi tên ngắn
cũn cắm vào dòng chảy”[18, 170]. Đó là sự ám gợi cái chết. Đi vào Nước là hành trình tìm
lại bản thể của cuộc đời. Không gian nước, gợi lên sự thanh sạch, nó không chứa những dục
vọng và tà niệm. Biểu trưng Nước gợi sự nhấn chìm và trở lại thiêng đàng. Ở đó không có
tội lỗi và bất hạnh, chỉ có sự giải thoát mọi đớn đau trần thế mà con người gặp phải trong
đời sống hiện hữu.
Thông qua cổ mẫu Lửa và cổ mẫu Nước, chúng tôi thấy dấu ấn của nghi lễ hiến sinh
trong văn bản này.
Trước hết, cách đặt tên của nhà văn cho các nhân vật của mình, có ba sự trùng lặp tên
gọi trong truyện. Đó là tên của ông Jason Compson được đặt lại cho con trai Jason, tên
Quentin Compson được đặt lại cho con gái của Caddy là Quentin người gọi Quentin
Compson là cậu, Benjy Compson lúc đầu mang tên của người cậy mình là Maury Bascomd.
Nó đã cho thấy dụng ý của nhà văn. Mỗi thế hệ sau dường như lại có những tính cách của
thế hệ trước. Benjy vô dụng như cậu. Quentin cháu là sự ương bướng và nổi loạn của
Quentin cậu. Jason có những tính hư vô và bất cần đời như cha,…Tên gọi đó gắn mật thiết
với biểu tượng Lửa khi họ cảm nhận về tên của mình trong sự đối sánh với những người
thân. Để từ đó những ám ảnh cuồng nộ hiện lên trong mắt họ.Việc đổi tên của Benjy như
91
một nghi lễ hiến tế. Nó khơi dậy trong gia đình hắn một khát vọng hiến sinh để đạt tới một
giao ước với Chúa. Cách thức tự sát của Quentin cũng là một nghi lễ. Anh hiến tế mình bởi
những tội lỗi của em gái đã phạm phải. Tìm đến với nước, Quentin đã bỏ qua tất cả những
giáo lí Kito, chết trong nước. Quentin sống trong ảm giác của một ngày cuối cùng đầy biến
cố. Hiến sinh là một nghi lễ đã tồn tại rất lâu đời trong tâm thức nhân loại, “một chuỗi cử
chỉ để đáp ứng những nhu cầu chủ yếu; những cử chỉ đó phải được thực hiện theo một
chuẩn mực hài hòa nào đó”[8, 119] .Chúng tôi thấy một ngày trôi với hành động đập nát
chiếc đồng hồ, ước vọng làm ngưng kết thời gian. Hắn nhờ đến Nước để rửa đi vết thương
trên thân xác. Rồi những đối thoại với người cha được vang trong Quentin, đó là thanh âm
của ý niệm muốn trốn chạy khỏi cuộc sống trần thế. Ngữ cảnh về con cá và ba chàng trai mà
Quentin gặp khi dạo bước trên sông: Con cá vàng dưới dòng nước xiết như một thông điệp
cho sự kiếm tìm vô vọng một hiện thực không thể tồn tại đó là khát vọng chiếm hữu Caddy
cho riêng mình. Ba chàng trai là các anh em nhà Compson thời thơ bé. Đặc biệt là sự kiện
chàng gặp cô bé đi lạc người Ý và bị buộc tội hiếp dâm cô gái này. Từng sự việc trôi qua
trong tâm trí Quentin đều gợi về bóng dáng của Caddy với những tội lỗi nàng đã phạm phải.
Tất cả chúng làm nên ước muốn trầm mình xuống dòng sông của hắn, một cách thức hiến tế
mình để chuộc tội cho em gái: “Tôi nhìn xuống và thấy những lóng xương thì thầm của tôi
và nước thẳm sâu như gió, như một mái nhà của gió và rất lâu sau này người ta không còn
phân biệt nổi những lóng xương trên nền cát hoang vu cô quạnh”[18, 122]. Dấu hiệu nghi lễ
được thể hiện rõ nét ở phần bốn của câu chuyện. Cảnh Dilsey đưa Benjy đến nhà thờ của
người da đen, một nghi thức nguyện cầu và thuyết pháp đã được nhà văn miêu tả. Benjy,
đứa trẻ bất hạnh đã được cứu rỗi trong vòng tay Thiên Chúa. Dưới ánh sáng ấm áp của đức
tin tôn giáo dường như Dilsey nhận ra được những bất hạnh của nhà Compson. Bà thấy
được cái mở đầu và sự kết thúc của dòng họ này.
Biểu tượng Nước xuất hiện nhiều nhất trong tâm thức của Benjy và Queetin, nó ít
thấy ở Jason và những nhân vật.Vì Benjy và Queetin mù quáng và điên loạn trong tình yêu
đã không thể nào đủ lí trí để nhận biết hiện thực. Họ cảm nhận nỗi đau dưới đôi mắt tượng
trưng. Những hình ảnh đến với họ luôn ở dạng nguyên sơ nhất, trinh nguyên nhất. Cho nên
cổ mẫu Nước được tái hiện trong tâm thức họ với mật độ lớn. Còn Jason và những thành
viên còn lại, mặc dù họ có sự cuồng nộ, nhưng bên trong họ vẫn còn đủ lí trí và tỉnh táo. Do
đó biểu tượng Nước chỉ có thể xuất hiện thông qua giấc mơ và những hồi ức của các nhân
vật khác trong tương quan với họ. Nhưng cho dù xuất hiện dưới dạng thức nào và mật độ ra
92
sao, cổ mẫu Nước luôn mang đến nhiều ám gợi, “những dòng nước trong, những dòng nước
mùa xuân, những dòng nước chảy, những dòng nước đa tình, những dòng nước sâu, nước
đọng, nước chết, nước pha tạp, nước định kiến, nước dữ dội, nước làm chủ ngôn ngữ là
nguồn cội khoái lạc của biểu tượng lấp lánh ánh sáng mơ màng”(G. Bachelard). Trước khi
tìm về cái chết trong nước, Quentin cảm nhận chiếc lá rơi vào trong nó, những chiếc thuyền
lấp loáng trên dòng nước. Nước trong dòng suối nơi họ chơi đùa, nước chảy dưới chân cầu
khi anh gặp người tình của Caddy, nước tù hãm giam cầm bóng anh trong nó, “nước dịch
chuyển làm mọi vật bình đẳng. Bóng của một kẻ chết đuối lúc nào cũng rình rập họ ở dưới
nước. Nó long lanh và lấp loáng, như đang thở, bến thuyền dập dềnh chậm dãi như cũng
đang thở, và những mảnh ván nhấp nhô, cuốn nhau ra biển cả và những hang động của
nước”[18, 135]. Những cảm nhận khác nhau khi đối diện với cổ mẫu này khơi dậy trong
hắn những nỗi đau xảy ra. Ở đó Nước hiện diện và đi cùng với nó là mặc cảm thương đau
khi không thể vượt thoát được hiện thực đau thương là caddy, “Rồi nước mưa đọng lại đọng
lại trên cái lưng ngồi xổm bùn nhầy nhựa bốc lên trên bề mặt mưa lấm tấm trên mặt nước tí
tách như mỡ nổ trên bếp nóng”[18, 200], người hắn yêu thương nhất đã đi lấy chồng. Nỗi
đau ấy khiến Quentin nghĩ về một loài hoa đặc trưng của miền Nam, hoa Kim Ngân. Hương
thơm của nó khiến hắn gợi nhớ về Caddy. Mùi của nó ám ảnh hắn, biểu trưng cho trinh tiết
của phụ nữ. Hoa kim Ngân hòa vào trong mưa- biến thể khác của nước, tạo cho Quentin
một ám ảnh không bao giờ quên được, “mặt em ngước nhìn trời trời thấp quá đến nỗi như
mọi mùi vị và thanh âm của đêm bị cô đặc lại dưới mái lều chung nhất là mùi hoa kin ngân
ngấm vào hơi thở của tôi phảng phất trên mặt và cổ em như một lớp sơn máu em đập dưới
tay tôi tôi chống người lên cánh tay kia nó bắt đầu giật và co rút lại tôi phải thở hổn hển để
hít lấy chút không khí bên ngoài mùi hoa kim ngân xám đặc quánh kia”[18, 220]. Mùi mưa
cũng khơi dậy trong hắn những kỉ niệm êm đềm của tuổi trẻ, “và những ngày mưa khi mẹ
không cảm thấy yếu đến nỗi phải ngồi tránh cửa sổ chúng tôi thường chơi dưới gốc cây
đậu. Khi mẹ nằm liệt, Dilsey thường lấy quần áo cũ cho chúng tôi mặc và cho chúng tôi ra
nghịch mưa vì bà bảo mưa không có hại cho trẻ con bao giờ” [18, 246]. Cổ mẫu Nước với
những biến thể của mình, tạo cho văn bản chiều sâu nhận thức. Đi vào những hình ảnh đầy
ám gợi của tâm linh, văn hóa nhân loại được hiện ra trong cái nhìn của Faulkner đầy hình
ảnh nên thơ và đậm chất trữ tình. Không gian nước tượng trưng cho nghi lễ hiến sinh. Nó
gợi lên sự thẳm sâu và mênh mông của vũ trụ trong đó bóng dáng con người nhỏ bé lạc loài
trong cõi phù sinh. Nước là khởi nguyên của sự sống. Các nền văn hóa lớn luôn nằm bên
93
cạnh các con sông lớn. Từ trong tâm thức nhân loại, cổ mẫu Nước vô cùng linh thiêng. Sự
bí ẩn và những đặc tính của nó là đề tài trong những câu chuyện thần thoại và cổ tích về sự
hủy diệt và tái sinh của con người trong nước. Phương Đông với motip lụt trong các truyện
về sự tích Quả bầu Mẹ. Phương Tây đó là nạn đại hồng thủy. Do đó biểu tượng tâm linh này
được Faulkner nói về sự tái sinh trong sự lụi tàn không chỉ của gia đình Compson hay cộng
đồng miền Nam mà nó còn biểu trưng cho tất cả những gia đình trên toàn nhân loại. Sức
chứa và sức mở của Nước là vô tận. Do đó Âm thanh và cuồng nộ chứa đựng dấu ấn của
tư duy huyền thoại ở Faulkner. Nó biểu đạt một sự khái quát cao độ với biểu tượng Nước,
có thể thấy được chiều sâu tư tưởng trong từng hình tượng nhân vật được Faulkner tạo
dựng.
Đi vào khám phá cổ mẫu Nước là đi vào một hành trình tìm lại bản thể của nhân vật,
nhằm nhận ra “bản lai diện mục” của người nghệ sĩ Faulkner với tình yêu và sự say mê ông
dành cho mảnh đất và con người miền Nam. Từng hạt giống được gieo bởi những thanh âm
cuồng nộ được tưới mát bởi cổ mẫu Nước. Nó thổi hồn vào từng nỗi đau và xoa dịu những
bất hạnh mà họ phải gánh chịu. Một sự sáng tạo bậc thầy của Faulkner trong việc đồng hóa
những biểu tượng văn hóa vào trong văn học, giúp nó có một vóc dáng và hình hài khác
hẳn, lay động và thổn thức người tiếp nhận. Sự diễn đạt đến trạng thái tế vi những biến thái
trong tâm hồn nhân vật là nét đặc thù chỉ mà không phải người nghệ sĩ nào cũng làm được.
Với Faulkner, đường biên phân giới của văn học và những loại hình nghệ thuật khác
như âm nhạc và hội họa là khó mà phân định, cũng như dấu vết của nó với văn hóa- một
thành tố của ý thức xã hội loài người, không có sự phân biệt rạch ròi. Những giá trị nhân
văn do cổ mẫu Nước mang lại đã đem đến cho người đọc những xúc cảm sâu sắc khi chứng
kiến nỗi bất hạnh của Benjy với sự đổi thay của người chị được anh cảm nhận như mùi của
Mưa, của Queetin khi anh phải trầm mình tự vẫn trong làn nước, thương Caddy với những
bi kịch mà cô phải chịu và Nước gột rửa tâm hồn họ.
Mỗi cổ mẫu không chỉ chứa đựng hình ảnh của tâm thức nhân loại mà còn mang
những âm thanh riêng. Tiếng nước róc rách chảy qua tâm hồn mỗi nhân vật làm nên biết
bao sự xao động trong tâm trí họ, có lúc êm đềm thơ mộng khi dữ dội khi thì bi phẫn. Đồng
thời cổ mẫu Nước cộng hưởng với những cổ mẫu và biểu tượng khác góp phần tạo nên
trong văn bản một sự hòa âm rất riêng mà chỉ Faulkner mới làm được. Hơi thở của cuộc
sống không chỉ được cảm nhận qua giọng điệu, ngôi kể và các biến thái cuả lời nói mà ngay
cả những cổ mẫu cũng chứa đựng những nhịp điệu đó, và cổ mẫu Hoa là một minh chứng.
94
4.3. Hoa - nhịp thở lụi tàn
Âm thanh và cuồng nộ như một bản Fuga của nhiều bè giọng, trong đó mỗi giọng
lại có nhiều bè đệm riêng. Chúng tương tác với nhau. Nó tạo nên trong văn bản những
khoảng trắng cần được cần được lấp đầy bởi người đọc. Cổ mẫu là một trong những phương
thức mà nhà nghệ sĩ cất giấu những thanh âm vô hình.
Đi liền với sáng tạo ngôn ngữ, loài người tạo làm ra nghệ thuật. Văn chương đã lưu giữ kí
ức thẩm mỹ của nhân loại qua thời gian. Cùng kí ức thể loại, biểu tượng nghệ thuật làm văn
bản nghệ thuật sống lâu hơn người tạo ra chúng. Những hình tượng văn học được người
nghệ sĩ sáng tạo sẽ trở thành tài sản cho cả một cộng đồng mang tên nhân loại nếu nó chứa
đựng trong mình hạt nhân quan trọng nhất là cổ mẫu. Do đó phê bình cổ mẫu phải thấy
chiều sâu vô thức của nó: “Vô thức của văn bản là một tấm nhiễu mà người phân tích cho
thấy nó lóng lánh nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ của việc đọc. phân tích văn bản là
một công việc không bao giờ xong” [48, 196]. Người nghiên cứu phải nhận diện được
những dấu ấn của hình tượng đã được cổ mẫu phản ánh như thế nào và nó đạt được những
xúc cảm nghệ thuật gì trong văn bản.
Hoa biểu trưng cho vẻ đẹp, với hương thơm và màu sắc của mình, nó được Faulkner
xây dựng thành một biểu tượng thẩm mỹ độc đáo trong Âm thanh và cuồng nộ. Bốn loài
hoa được nhà văn nói đến là hoa Cà, hoa Thủy Tiên, hoa Lê và hoa Kim Ngân. Nếu ba loại
hoa trước chủ yếu được cảm nhận bởi Benjy thì hoa Kim Ngân lại trực tiếp gắn bó mật thiết
với Queetin. Từ biểu tượng Hoa, chúng tôi muốn tìm hiểu xem cổ mẫu này đã góp những
thanh âm gì vào tiếng nói đối thoại đầy đau đớn trong tâm hồn nhân vật.
Benjy trong nỗi đau hư thực khi Caddy và những người thân lìa bỏ mình, hắn được
Luster đưa những cây hoa cho xem và chơi đùa với chúng. Mới đầu là cây hoa Cà, nó xuất
hiện rồi biến mất trong cái nhìn của Benjy. Một biểu trưng cho cái đẹp đã phôi phai. Bên
cạnh những thanh âm hiện hữu, chúng tôi nghe ra được hơi thở cuộc sống được phổ vào
trong những hình ảnh. Chúng hiện hữu và có thể cảm nhận được như nhịp điệu của vũ trụ,
một vũ trụ đang lụi tàn. Một kết cấu vòng tròn được tạo ra trong văn bản. Hiện thực đau
thương dần hé mở, từng mảnh ghép của biểu tượng được nhìn ngắm dưới ánh sáng cổ mẫu
khiến câu chuyện hiện lên đầy nhịp điệu. Bên trong đặc tính riêng của biểu tượng Hoa luôn
chứa đựng những thanh âm cuồng nộ, nó là điệu ru nước mắt của những tâm hồn bất hạnh
đang tấu lên những điệu buồn ai oán.
95
Biểu tượng Hoa hiện lên trong đôi mắt thơ trẻ của Benjy thật đẹp và buồn. Nó là sự
lụi tàn của một cái đẹp đã ở trong thời quá vãng, nhịp thở của Benjy khi ngắm những cánh
hoa mỏng manh ấy, có chút gì đó vừa tiếc thương đau xót, vừa hân hoan vui sướng. Những
cung bậc cảm xúc do biểu tượng Hoa gợi trong Benjy rất tinh tế, hắn không bao giờ cảm
nhận được cuộc sống một cách trọn vẹn, chỉ có hình ảnh và mùi vị, cảm giác và sự liên
tượng. Do đó những lần tiếp xúc với mỗi loại hoa, Benjy lại có những liên tưởng bất định về
những sự việc đã xảy đến trong quá khứ. Nó là sự dự báo cho những cái kết bất hạnh cho
thời gian sau này.
Cổ mẫu Hoa gợi lên cái đẹp lụi tàn trong cuộc đời nhân vật. Những biến điệu của nó
tạo nên những cung bậc cảm xúc khác nhau cho các nhân vật khi cảm nhận chúng. Nó là sự
mất mát, là tiếng nói bất hạnh vì sự tàn rữa của những cánh hoa và ngữ cảnh nơi biểu tượng
này xuất hiện, nó gắn với nghĩa trang, với sự tuyệt vọng. Benjy theo mẹ đến nghĩa trang và
Queetin nhớ về em gái với mùi hoa Kim Ngân.
Mùi hương của hoa Kim Ngân gợi lên sự bất hạnh và tuyệt vọng, một Queetin đang
chết trong tâm hồn vì sự mất trinh của em gái. Quentin liên tưởng trinh tiết của Caddy với
mùi hương của nó, là một sự liên tưởng đầy hình ảnh ám gợi đau thương và thật đẹp. Mùi
hương của Kim Ngân thổi vào trong tâm thức Queetin, làm thành hình ảnh cuồng nộ trước
mất mát của em mình. Nó thấm trong lồng ngực hắn, bay vào tâm trí hắn, gọi dậy một hiện
thực đau thương là sự ghen tuông của hắn với những người tình của nàng. Đó thật sự là kí
ức buồn thảm và tuyệt vọng nhất của nhân vật này. Hắn như kẻ chết đuối và thật sự đã chết
đuối trong ái tình với em gái. Mùi hoa còn khiến hơi thở của nhân vật này như gấp gáp, hối
hả trong hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống. Faulkner luôn dựng lên những sự kiện rời rạc,
mới nhìn thật khó tìm ra được sự tương liên của chúng. Có một kết cấu bề sâu nơi từng biểu
tượng xuất hiện, từng cổ mẫu được đưa vào từng nhân vật, nó giải mã những bí ẩn nằm sâu
bên trong vô thức của nhân vật. Hoa Kim Ngân gắn bó với Queetin vì cái đẹp và mùi hương
đặc trưng của nó. Nó hòa với cổ mẫu nước, gọi dậy trong nhân vật những nỗi buồn thảm
đến vô tận. Hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống của nhân vật được hiện với từng giai đoạn của
cuộc đời sẽ lí giải được nỗi đau và phần nào bất hạnh mà mỗi nhân vật phải gánh chịu. Vũ
trụ luôn vận động theo nhịp của nó, sự tuần hoàn của thời gian sáng tối của trái đất, thở ra
và hít vào của con người và động vật thì những cánh hoa đó là sự nở và tàn của chúng.
Trong tất cả gia đình Compson, Caddy như “một bông hoa mọc giữa đám rêu”, bởi ánh
96
sáng của cánh hoa, mùi vị và hương sắc của nàng góp phần tô điểm thêm cái đẹp trong
cuộc đời.
Cổ mẫu Hoa đã giúp nhà văn khái quát được những chân lí sâu sắc về con người và
cuộc sống, cái đẹp và sự phai tàn, tình yêu và hành trình cứu rỗi linh hồi, âm thanh và cuồng
nộ trong đời sống của mỗi con người,…Chính sức khái quát đó giúpthông điệp của người
nghệ sĩ đến gần hơn với cuộc đời. Đó không phải những trang giáo huấn mà là tiếng gọi
nhân văn cất lên từ trái tim yêu thương con người của ông. Cảm xúc thẩm mĩ được che giấu
dưới điệu tình bi kịch nhờ vào những cổ mẫu rọi sáng, âm và hình do nó gợi ra lay động
cảm xúc người đọc, và mở rộng trường liên tưởng cho họ. Có thể nói, với những đặc tính
thẩm mỹ của mình, Hoa là cổ mẫu đã cho thấy ánh sáng của tình yêu và sự lụi tàn của bóng
tối, bất hạnh đã xảy ra với từng người trong gia đình Compson. Dưới biểu tượng Hoa, hình
ảnh về mảnh đất miền Nam nước Mỹ được hiện lên sinh động với những cánh hoa Kim
Ngân đặc trưng đã gọi dậy được hương vị của tình yêu mãnh liệt, say đắm.
Với cổ mẫu Hoa, ta nghe ra được cuộc hòa âm con người và tạo vật. Chúng tạo nên
một bức tranh với hai gam màu chủ đạo là âm thanh và hình ảnh. Nhưng lại chứa đựng
những nội dung vô cùng tận, làm nên bút pháp đặc trưng cho phong cách Faulkner và chủ
nghĩa hiện đại trong văn học của thế kỉ XX.
4.4. Bóng - những ảnh hình của cái chết
Cổ mẫu bóng như một hình ảnh tâm linh gắn bó với con người từ thuở sơ khai. Trong
tâm thức của nhân loại, cổ mẫu này luôn gắn chặt với hình. Bóng gợi lên một thực thể
không thể nào nắm bắt, nó linh động, vô hình và ám gợi cái chết. Đi vào bóng, mỗi người
nghệ sĩ lại có những cách thức khai thác cổ mẫu này .
Với Faulkner, chiếc bóng xuất hiện trong Âm thanh và cuồng nộ luôn đi kèm với
một không gian tối và sự bất an trong tâm hồn nhân vật. Khi Bóng xuất hiện, nó gợi lên cái
chết. Bắt đầu là hình ảnh cái chết của bà nội được gia đình Compson giấu kín và lũ trẻ
không được biết về nó. Nhưng Benjy với giác quan của một con thú, hắn đã ngửi thấy cái
chết với âm thanh của những tiếng hú của các con vật và tiếng kêu đưa ma của lũ Quạ. Trên
nền ấy, chiếc Bóng tâm thức dật dờ xuất hiện. Nó biểu trưng cho nỗi bất hạnh đó là sự suy
tàn của một gia đình. Benjy nghe ra nó nhưng lại không có khả năng giao tiếp với cuộc đời
nên hắn chỉ biết hồi đáp với tiếng khóc và tiếng rên rĩ vô nghĩa lí.
Một hiện thực bên trong gia đình Compson được mở đầu với cái chết. Nhưng sự
kiện thời gian được nhảy cóc về tương lai của năm 1928, trong khi cái chết của bà nội Benjy
97
là vào năm 1989, Benjy nhìn thấy chiếc bóng của con vật rồi những hình bóng của cha,
anh,.. những biến thể của bóng dật dờ trong mắt hắn. Cái chết đã phóng chiếu kinh nghiệm
quan sát về hiện tượng mất bóng trong bóng tối, dưới ánh sáng của ánh trăng. Benjy cảm
thấy được sự hiện hữu của bản thể Bóng, “kinh nghiệm cái bóng là một trong những kinh
nghiệm sớm nhất của loài người khi bản thân họ là thiên nhiên, là tự nhiên, là vũ trụ”[10,
145]. Con người luôn có xu hướng phóng chiếu lên mình những trải nghiệm của bản thân,
nó giúp họ nhận ra được bản ngã của chính mình. Và cũng như những cổ mẫu trên, cổ mẫu
cái Bóng: “Sống nơi tầng sâu vô thức tập thể, có lúc được đẩy lên tầng ý thức (nhưng gốc
rễ vẫn là nơi vô thức tập thể) để chuyển tải cái vô thức cá nhân trong thế nối kết với vô thức
tập thể khi đi vào văn chương và các ngành nghệ thuật thuật khác, vì thế nó có những biến
hóa khôn lường”[10,146]. Chính những biến thái tinh vi của nó khi đi vào văn học hiện đại;
bi kịch đánh mất chiếc bóng của mình gợi lên trong nhân vật chiều sâu của bản ngã. Cái tôi
hiện hữu cảm nhận được bản thân thông qua ý nghĩa của sự sống và cái chết.
Chiếc Bóng gắn chặt với kinh nghiệm hiện hữu, khi một người mất bóng, anh ta rơi
vào bi kịch của sự đánh mất chính mình, và cái chết về thể xác và tâm hồn được gợi ra ở
chủ thể. Benjy cảm nhận được bi kịch ấy khi “ngửi” được những chiếc bóng của người thân
đang chuyển dịch dưới đôi mắt trẻ thơ của hắn. Cái Bóng thiên nhiên với hình ảnh của ánh
nắng gợi lên “những hình thể sáng ngời” được nhà văn miêu tả để chỉ ra được bi kịch đánh
mất Bóng của chính Benjy. Từ lúc đánh mất tên gọi Maury, cái bóng cũng đã bị mất với
Benjy, trong hắn chỉ có sự tồn tại của hình mà không còn Bóng. Khi con người đánh mất tên
gọi, anh ta đồng thời đánh mất bản ngã của chính mình, sự tồn tại của một cá nhân bị cắt đứt
khỏi gia đình và cộng đồng. Benjy chỉ còn biết đối thoại với chính bản thân mình, chiếc
bóng bên trong anh ta phản ánh sự đánh mất đời sống cộng đồng trong gia đình Compson.
Và Benjy có khả năng nghe ra được nỗi bất hạnh và bi kịch trong gia đình mình. Sự
cuồng nộ của anh khi nhìn thấy những chiếc bóng mình yêu thương lần lượt bị mất, ánh
sáng chìm lấp và thay vào đó bóng tối vây phủ một màu tang trong họ.
Đi vào trong gương, Bóng gợi những ảnh hình mà ở đó những kỉ niệm thân thương
và tươi đẹp về Caddy sống lại trong Benjy, “tôi không nhìn thấy nó nhưng tay tôi thấy nó,
và tôi nghe được đêm xuống, và tay tôi thấy được chiếc dép nhưng chính tôi không thấy, và
tay tôi thấy được chiếc dép, và tôi ngồi xổm ở đó, nghe trời đổ tối”[18, 67].Tràn ngập trong
ngôi nhà của Benjy là một không gian phủ đầy bóng tối. Nên Benjy luôn yêu thích ánh sáng,
nó gợi lên sự ấm áp và hoa, lửa là những thứ có khả năng phát ra ánh sáng ấm áp thì đều
98
cuốn hút hắn và sưởi ấm Benjy. Ánh sáng đối lập với bóng tối, sự sống đối lập với cái chết,
tái sinh bên trên hiện thực điêu tàn.
Mỗi cổ mẫu luôn chứa đựng bên trong nó hai cặp đôi đối ngẫu, mâu thuẫn trong
thống nhất, chính những cặp đôi đó đã tạo nên lực hút cuốn tư duy con người với biểu tượng
tạo nên sự tranh đấu mãnh liệt bên trong tâm hồn con người. Bóng với Hình, Nước với Lửa,
Hoa với Bùn,… Những cổ mẫu đối lập tạo nên trạng thái phân lập cảm xúc cho nhân vật.
Đồng thời mỗi cổ mẫu luôn gợi lên hơn một tầng ý nghĩa, những biến thái đó khiến thực thể
tâm hồn trở nên khó nắm bắt và hiện thực hiện lên với tất cả tính phức tạp và sống động của
nó.
Chiếc Bóng chuyển di trong cái nhìn của Benjy không chỉ giản đơn với sự chết mà
ảnh hình của Bóng còn gợi nhắc sự tồn tại của con người. Mỗi lần Bóng xuất hiện, có một
không gian tối tràn ngôi nhà Compson, những mảnh thời gian được ghép nối trong từng
mẫu kí ức vụn vỡ trong tâm thức của Benjy. Chiếc Bóng đi về giữa hai miền sáng tối trong
tiềm thức và ý thức, khiến lằn ranh khu biệt hiện thực và ảo giác trở nên mập mờ, chỉ còn lại
âm thanh và hình ảnh nổi bật lên. Tiếng khóc dội vào Benjy vì hắn không cảm nhận được sự
ấm áp của tình yêu thương, và nó gắn chặt với cổ mẫu Bóng. Chiếc Bóng hiện lên với
Quentin bắt đầu là bóng khung cửa kính, từ khung cửa ấy, Quentin nghe ra nhịp đập vô
nghĩa của thời gian. Từ đó chiếc Bóng đã gắn chặt với hình trong hành trình tìm về cái chết
của Quentin. Chàng cố tình tránh mặt nó, nhưng Bóng vẫn đuổi theo chàng, đó là tâm thế
của một kẻ sắp từ giã cuộc đời nhưng vẫn sợ hãi cái chết. Những tiếng vọng đau thương của
Quentin được chuyển tải với cổ mẫu Bóng in hình trên dòng nước. Bóng trôi cùng anh trong
một ngày định mệnh, dắt anh tìm lại những kí ức bị mất đi; tuổi thơ và sự kiện xảy đến với
gia đình. Bên trong dòng trôi của tâm trạng bất định ấy là một khát vọng hiến sinh mạnh
mẽ. Ở đó Quentin tìm lại được bản ngã bị đánh mất của mình.
Có thể nói nghệ thuật trình diễn Bóng, dùng bóng tối trên phông nền sáng tạo nên
những hình ảnh sinh động đã có từ rất lâu trong đời sống sinh hoạt của con người. Khi ánh
sáng truyền đến, những con rối hiện lên sinh động. Nó như sự phản ánh cuộc đời của các
nhân vật trong gia đình Compson. Họ tựa bóng những con rối bị cuộc đời giật dây, đang
lang thang đi về miền vô định và cất lên những thanh âm ai oán cho cuộc đời bất hạnh
của mình. Ánh sáng hiện lên trên vùng tối, soi những mảng tối xuống vô thức của nhân vật.
Với những cổ mẫu, dấu ấn sáng tạo của nhà văn trở nên đậm nét. Ông nối kết chúng lại
99
cùng nhau dưới ánh sáng của một ngọn đuốc thiên tài, nó leo lét cháy trong đêm trường dạ
của một miền Nam đầy tang thương sau nội chiến.
Cổ mẫu Bóng đi giữa hai miền sáng tối. Không gian đó tạo nên một khoảng không
để nhân vật cuồng nộ với chính mình và với những người khác. Đời sống chảy trôi trong 33
năm được dồn nén trong 3 ngày. Nó biểu trưng cho hành trình của đời sống gia đình nhân
loại, những đau thương và bất hạnh, tiếng nói về tình yêu và đức hi sinh,…. Gia đình
Compson với một truyền thống vẻ vang trong quá khứ thoáng chốc lụi tàn bởi thời cuộc. Đó
cũng là sự trôi của tạo hóa, những chiếc bóng trong họ ánh xạ những xót thương trong trái
tim Faulkner, con người luôn yêu và xem mảnh đất miền Nam như máu thịt đời mình. Bài
ca Âm thanh và cuồng nộ được tấu lên trong chính khúc nhạc lòng của người nghệ sĩ vĩ đại
này.
Chiếc bóng cuộc đời đã đổ xuống từng trang văn đầy xúc động của ông, ta nghe ra
được cái chết đang gặm nhắm từng thành viên trong nhà Compson, và tuyệt vọng trong tình
yêu của Quentin cũng đẹp như một bông hoa. Với bóng, anh ta thấy mình hiện hữu một
cách thật vô nghĩa lí. Có một Queetin vô thần nhưng luôn tin ở Chúa. Bởi đời sống trong đôi
mắt anh đã lụi tàn khi Caddy lấy chồng, hành trình tìm về cái chết của Quentin là một cuộc
chạy trốn chính mình. Tiếng nói đối thoại với cha, mẹ, em gái và tự vấn bản thân anh chính
là sự trốn chạy khỏi chiếc bóng cuộc sống đang ám ảnh hắn. Quentin cật vấn với cha về thời
gian, sự tồn tại trong cuộc đời với những đức tin, với mẹ về tình yêu thương trong mái nhà
thiếu vắng ánh sáng tình mẫu tử, và với em. Quentin tranh đấu với những người tình của
Caddy và với chính nàng. Người đọc phải xâm nhập thật sâu vào cái giây phút nhân vật này
nghĩ về cái chết, phát hiện trong tiềm thức của hắn những hạt giống hắn gieo vào ý nghĩ
trước khi tìm đến cái chết. Ông chọn cổ mẫu Bóng để nó song hành cùng Quentin trong
nghi lễ hiến tế thân mình trong dòng nước nhằm cứu rỗi cuộc đời tội lỗi của Caddy.
Dưới ngòi bút của Faulkner, ánh sáng cũng như nước, nó là cổ mẫu giúp nhân vật gột
rửa vết thương lòng. Có một chiếc bóng cuộc đời luôn đi theo với cái bóng chết của
Quentin, nhưng nó không thắng được những ưu tư và sự tuyệt vọng trong anh, cái chết đến
như một tất định.
Dòng diễn ngôn về Quentin thấm đẫm dấu ấn của dòng ý thức, nhân vật này trôi bất
định trong sự đối thoại vô tận với cuộc đời. Chiếc bóng cũng gắn chặt với cổ mẩu Trăng, có
một vầng trăng soi sáng cho sự chuyển di của các nhân vật. Trăng gợi chất thơ của đời sống,
nhưng ánh sáng của nó trong cảm nhận của Faulkner chứa đựng một nghĩa khác. Trong tiểu
100
thuyết này, trăng luôn xuất hiện khi nó chuyển tải những bóng chết đang đổ xuống ngôi nhà
Compson. Ở đó sự bí ẩn của đời sống được hé lộ, chính nghệ thuật tương giao là cánh cửa
đã mở ra những mê lộ trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Nhà văn đã xếp chồng những âm
thanh, màu sắc và ánh sáng tương hợp cùng nhau nhằm tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ đó là
sự gây hấn của những tâm hồn với chính bản thân nó.
Nghệ thuật tương giao được bắt nguồn với trường phái tượng trưng pháp mà người
khởi đầu là Baudelaire. Với tập thơ “Hoa của nỗi đau” nhân loại đã thấy một phương thức
tư duy mới về hiện thực của nghệ sĩ. Baudelaire đã vận dụng tất cả các giác quan vào cảm
nhận hiện thực để chúng tương giao và hô ứng với nhau khiến cho hiện thực đời sống được
cảm nhận ở chiều sâu bên trong của nó. Chính các nhà văn hiện đại sau ông đã học tập
phương thức tư duy này và vận dụng nó vào thể loại tiểu thuyết. Trong Âm thanh và cuồng
nộ chúng tôi thấy một sự giao thoa đường biên giữa thể loại thơ và văn xuôi, những câu văn
đầy chất thơ trong tiểu thuyết là một nét độc đáo trong văn phong của Faulkner. Theo chúng
tôi, ngoài việc vận dụng nghệ thuật tương ứng với sự thay đổi điểm nhìn nhà văn còn có ý
thức sử dụng các cổ mẫu mang đậm tính biểu trưng.
Chiếc Bóng được nhìn qua đôi mắt của các nhân vật sẽ mang những thông điệp khác
nhau trong cảm nhận của họ với cuộc đời. Mỗi lần Bóng xuất hiện, nó cộng hưởng với
những cổ mẫu khác để tạo nên trong tâm thức hình tượng một ẩn ức nào đấy, khiến những
thanh âm trong nhân vật sống dậy, trên nền tranh tối tranh sáng ấy, chiếc Bóng lột trần
những bí ẩn chìm sâu trong đời sống nhân loại. Cổ mẫu chiếc Bóng hiện ra trên nền xám,
chính gam màu chủ đạo đó làm cho chiếc bóng trở nên ảm đạm và thấm đẫm một màu xám
xịt, tang thương cho số phận mỗi nhân vật trong truyện.
Rõ ràng cổ mẫu Bóng là một biểu tượng nghệ thuật chưa đựng yếu tố văn hóa tâm
linh sâu sắc. Nó gắn bó mật thiết với thuở sơ khai của con người, đối diện với bóng, mỗi
nhân vật nhận ra được bản ngã của mình trong hiện thực. Trong văn bản này, Bóng được
người nghệ sĩ phác thảo nên với một tập hợp của những ảnh hình đang lụi tàn đi theo thời
gian. Từng chiếc bóng của sự vật, con vật và cả con người trộn lẫn trong màu xám ảm đạm
của một ngày Chúa nhật. Dấu ấn sáng tạo của Faulkner là ông biết kết hợp những hình ảnh
rất đơn sơ nhưng chứa đầy sự ám gợi ấy làm thành những thanh âm đầy cuồng nộ. Mỗi cổ
mẫu luôn có những chức năng riêng, và chúng không đứng riêng biệt mà luôn chuyển hóa
và xâm nhập lẫn nhau trong hệ thống biểu tượng tâm linh. Chiếc Bóng xuất hiện trong
tương giao với Lửa và Nước và cả Hoa, các cổ mẫu trên chứa đựng ánh sáng, tạo nên sự
101
đối lập với bóng tối đang tràn ngập trong ngôi nhà Compson. Bóng đêm của sự lụi tàn song
đối với ánh sáng của niềm tin và hi vọng, đối lập cặp đôi như vậy là một phương thức tư
duy đặc trưng của huyền thoại. Nó mở ra trường liên tưởng rộng lớn cho người tiếp nhận có
thể hiểu văn bản theo nhiều cách khác nhau.
Có thể nói cảm hứng tư tưởng là một điểm mạnh nhất trong sáng tác của Faulkner.
Cảm hứng bi kịch của gia đình Compson được khúc xạ qua lăng kính của ông luôn tràn
ngập những tình cảm sâu sắc. Đó là cái mênh mông và bát ngát của những đêm trăng đang
khuất lấp bóng tối vào ngôi nhà Compson, là tiếng róc rách của những con suối thân thương
chôn giấu bao kỉ niệm ấu thơ của mỗi thành viên trong gia đình, tiếng than khóc đưa tang
cho những người thân yêu trong gia đình,… Chính cảm hứng ấy dắt dẫn ông vào hành trình
sáng tạo nên những biểu tượng nghệ thuật độc đáo, trong đó biểu tượng chiếc Bóng như một
cổ mẫu tồn tại trong văn hóa nhân loại được nhà nghệ sĩ tạo khắc vào trong hành trình
chuyển di tâm hồn của mỗi nhân vật, nó gợi biết bao chiều sâu về sự suy tư của bản gã và
cái tôi hiện hữu trong cuộc đời. Trên nền nghệ thuật bóng đã có từ ngàn xưa, chiếc bóng của
Vũ Thị Thiết trong người con gái Nam Xương, cái bóng của Adersen thì cái bóng Queetin
của Faulkner vẫn có những nét riêng độc đáo của ông. Cảm thức về cái chết và sự hiện hữu
với những biến thể ảnh hình của nó buộc người đọc phải sáng tạo cùng nhà văn mới tìm ra
được thông điệp nhà nghệ sĩ ẩn giấu bên dưới cổ mẫu.
Hành trình trốn chạy của Bóng khỏi hình hay của vô thức khỏi nỗi đau của ý thức là
cách mà các nhân vật trong truyện đã cố làm, nhưng họ vẫn bị lạc trong mê lộ của đời sống
hiện hữu. Đó là bi kịch bất hạnh, khao khát sự cảm thông và yêu thương từ những người
xung quanh nhưng dường như luôn có một hàng rào chắn ngang con đường nhận thức cuộc
đời trong mỗi nhân vật, những định chế, định kiến,… giam hãm họ vào trong sự tù đọng và
ngột ngạt với một không gian Xám, trên đó từng chiếc Bóng lững thững đi về miền vô định
và tấu lên khúc nhạc bi thương về tình yêu và con người thân phận trong xã hội. Ánh trăng
có lẽ là cổ mẫu được tác giả đặt kề với cái Bóng nhiều nhất, ánh sáng âm tính, lạnh chói của
nó tạo cho Bóng thêm phần hư ảo, tô điểm cho sự lạnh lẽo của ngôi nhà và bất hạnh mà mỗi
nhân vật sống trong đó phải gánh chịu. Từ đó cái chết xảy đến như một định luật tất định và
chiếc bóng có lẽ là ảnh hình của điều đó.
Tiểu kết chương 4:
Hệ biểu tượng tâm linh với bốn cổ mẫu tiêu biểu trên đã cho thấy được cái nhìn
hướng ngoại của nhà văn trong việc tri nhận thế giới. Faulkner không chỉ giỏi tạo khắc trạng
102
thái “tâm hồn con người đang gây hấn với chính nó” mà còn đưa được những cái nhìn ra xa
hơn trong hiện thực tâm hồn mỗi nhân vật.
Mỗi biểu tượng lại có những tầng ý nghĩa riêng biệt và trên mỗi tầng nghĩa đó, chúng
chuyển tải những thanh âm làm nên nỗi đau và sự bất hạnh trong đời sống của mỗi thành
viên nhà Compson. Các biểu tượng tâm linh không đứng riêng lẻ mà đứng cùng nhau.
Chúng tạo nên một sự liên đới trong cảm nhận cuộc đời của mỗi nhân vật, luôn có một mắc
xích nối chúng lại với nhau dù rất vô hình. Đó chính là nghệ thuật tương giao mà Faulkner
đã học được từ các nhà thơ tượng trưng Pháp. Mỗi cổ mẫu luôn chứa đựng những mẫu gốc
của đời sống nhân loại. Đi vào sáng tạo nên một hệ thống biểu tượng Tâm linh, nhà văn đã
chọn những hạt nhân cổ mẫu tiêu biểu nhất. Tất cả những cổ mẫu mà nhà văn đưa vào văn
bản luôn chứa đựng đặc tính phát sáng, do đó có thể nói các cổ mẫu trên luôn xoay quanh
ánh sáng, trên nền sáng đó, bóng tối hiện lên và tranh đấu cùng nó, chúng tạo thành một
hiện thực cuồng nộ bên trong văn bản.
Cổ mẫu luôn thấm đẫm những ý nghĩa biểu trưng cho nên chúng đầy sức ám gợi,
đặc biệt là cổ mẫu Tâm linh, do đó tiếp xúc với chúng, người nghiên cứu cần những cái nhìn
liên đới với các ngành khoa học xã hội khác mới mong tiệm cân được chân giá trị thẩm mỹ
của chúng. Hệ biểu tượng tâm linh là cái hạt nhân quan trọng giúp nhà văn khái quát nên
những chiều sâu hiện thực tâm hồn nhân vật, giúp hình tượng nghệ thuật hiện lên không chỉ
sinh động mà còn chứa đựng tính điển hình hóa cao độ. Cuối cùng phải thấy được dấu ấn
sâu đậm của phân tâm học và huyền thoại trong hệ biểu tượng tâm linh, nó giúp người
nghiên cứu lí giải được những hiện tượng và biến cố quá phức tạp trong văn bản văn học
hiện đại.
103
KẾT LUẬN
Tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner vẫn mãi là một thách thức
cho giới nghiên cứu vì tính phức tạp và đa nghĩa của nó. Tiếp cận tiểu thuyết này dưới góc
nhìn biểu tượng nghệ thuật, chúng tôi cố gắng chỉ ra những góc khuất và giá trị mà văn bản
nghệ thuật chứa đựng.
Trước hết, tiểu thuyết này có sự giao thoa giữa những thanh âm khác nhau trong một
dàn đồng ca mà tất cả đều lạc nhịp. Do đó chúng tôi muốn sắp xếp chúng lại để xem nó biểu
hiện những cuồng nộ gì đang dẫy sóng trong tâm thức mỗi nhân vật. Và hệ biểu tượng Âm
thanh hi vọng đưa đến một cái nhìn sáng rõ hơn về một kết cấu âm nhạc cực kì tinh vi và
phức tạp của người nghệ sĩ lớn Faulkner. Để từ đó chúng tôi nghe ra cuộc hội thoại lớn của
nhà văn với cuộc đời, bởi dấu ấn đối thoại đậm nét tràn ngập ngữ cảnh hội thoại giữa các
nhân vật trong văn bản này. Đó là tiếng nói của tình yêu và lòng thù hận, nỗi đau và sự bất
hạnh mà con người phải mang lấy trong hành trình sống của mình. Và tôn giáo có phải là
con đường giúp con người xoa dịu được tất cả những mất mát đó hay chính sự bao dung,
đức hi sinh và tinh thần nhân ái mới đưa họ đến được bến bờ chân, thiện, mĩ! Câu trả lời
được ông đẩy về phía người đọc.
Qua tác phẩm, chúng tôi thấy có một sự quện chặt giữa cảm hứng tư tưởng của
Faulkner và những thủ pháp nghệ thuật được ông sử dụng. Với cảm hứng tư tưởng,
Faulkner hiện lên là một nhà văn yêu mảnh đất quê hương miền Nam và con người nơi đây
mãnh liệt. Nó giúp ông sáng tạo nên một không gian Miền Nam nước Mĩ ngập tràn chất thơ
và cũng vô cùng khắc nghiệt. Trên nền không gian đó, thoáng hiện một cảm thức nuối tiếc
thời gian trong các tiểu thuyết của nhà văn đặc biệt là tiểu thuyết này. Trái tim nhạy cảm và
tinh tế với những đổi thay của thời cuộc cũng hắt bóng ít nhiều xuống những trang văn của
ông.
Đi vào khám phá hệ biểu tượng không- thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ,
không chỉ để thấy cảm hứng tư tưởng bi kịch về một miền Nam đổ vỡ và mất mát với sự lụi
tàn của gia đình Compson mà còn thấy được nguyên nhân của sự tang thương ấy. Vượt trên
những giá trị là một cuốn tiểu thuyết đạo đức, bởi nó không chỉ đã cung cấp cho người đọc
một mẩu ý nghĩa của sự sống, tác phẩm chứa đựng một kĩ thuật trần thuật độc đáo của
người sáng tạo.
Trong Âm thanh và cuồng nộ nhà văn dường như xóa bỏ đường biên của các thể
loại. Bởi sự trộn lẫn của chất thơ trong các câu văn xuôi của ông và chính thử nghiệm táo
104
bạo này khiến cho hiện thực không - thời gian trong tiểu thuyết bị đảo lộn, nó là một tác
phẩm tự sự bằng thơ với bốn điểm nhìn khác nhau và sự tham gia của dòng ý thức, do đó có
thể nói, tiểu thuyết này chứa đựng rất nhiều thủ pháp, trong đó nghệ thuật tương giao trong
thơ hiện đại là phương thức tư duy đã được nhà văn sử dụng nhiều nhất bên cạnh thủ pháp
đối thoại. Chính nghệ thuật tương giao đã khiến cho những hình ảnh, màu sắc và âm thanh
hiện lên sinh động, chúng hòa vào nhau, tạo nên một hiện thực bề sâu cho cảm nhận của
người tiếp nhận. Đồng thời khiến hiện thực bên trong nhân vật trở nên vi diệu hơn. Với hệ
thống biểu tượng Không - thời gian, Faulkner muốn tạo lập một quan hệ phi tuyến tính khác
với trật tự nhân quả trong tiểu thuyết của thế kỉ XIX. Nhân vật mang thanh âm chỉ có thể bị
cầm tù và lưu đày trên thời gian hiện tồn và không gian là nơi giam cầm họ, trong đó họ
vùng vẫy và bất lực.
Hệ biểu tượng Âm thanh và hệ biểu tượng Không- thời gian soi sáng trong nhau,
chúng góp phần tạo cho hình tượng mỗi nhân vật trở nên sinh động hơn, từng bước hé mở
nguyên nhân của mọi bất hạnh ở gia đình Compson. Đó cũng là cách mà Faulkner đã viết
bốn phần trong văn bản này. Một thanh âm phát ra tiếng kêu, chúng được truyền theo
không khí, đến một không gian với những hình ảnh bi thương và thời gian huyền thoại đầy
sự cô nén. Đi tìm sợi dây kết nối chúng lại với nhau, chúng tôi thấy đó chính là cổ mẫu, cây
cầu nối biểu tượng thanh âm và biểu tượng không thời gian, khiến Âm thanh có thể chuyển
tải sự cuồng nộ mang sâu sắc.
Hệ biểu tượng Tâm linh với những hạt nhân cổ mẫu cơ bản mang đậm dấu ấn của
bản thể luận, nó khiến văn bản gợi nên chiều sâu của huyền thoại, đồng thời với biểu tượng
Tâm linh, văn bản đã chạm tới bề sâu giá trị và những vô thức của các nhân vật, đưa Âm
thanh và cuồng nộ trở thành một tác phẩm “không có đáy” (Phạm Vĩnh Cư). Hệ biểu tượng
tâm linh khám phá ra sức sống mãnh liệt và lâu dài của văn bản này trong lịch sử tiếp nhận
nó. Những ý nghĩa phổ quát và chân lí vĩnh hằng của tiểu thuyết được thổi vào bởi những cổ
mẫu được nhào nặn dưới bàn tay tài hoa và khối óc tinh anh của Faulkner khiến cổ mẫu tâm
linh rọi sáng được thông điệp về tình yêu và con người thân phận không chỉ ở miền Nam
nước Mĩ mà còn ở mỗi vùng khác nhau trên trái đất. Chính những khám phá đó khiến tiểu
thuyết có một giá trị thẩm mỹ độc đáo kích thích sự đồng sáng tạo của người tiếp nhận. Và
đây là một giá trị to lớn của tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ: “Người nghệ sĩ vĩ đại là
người sở hữu “cái nhìn nguyên thủy” một sự nhảy cảm đặc biệt đối với các mẫu, cổ mẫu và
một năng khiếu nói bằng những hình ảnh nguyên thủy, và những hình ảnh nguyên thủy này
105
giúp nhà nghệ sĩ có thể truyền những kinh nghiệm về ‘tác phẩm nội tại’ thông qua nghệ
thuật”[10,158].
Faulkner thừa nhận tiểu thuyết này mãi là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của ông,
và của những ai yêu mến tác phẩm này. Do đó, chúng tôi muốn đề xuất một hướng nghiên
cứu cao hơn nếu có điều kiện và thời gian, đó là hướng tiếp cận về diễn ngôn đối thoại để
làm sáng rõ thi pháp tiểu thuyết của William Faulkner.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Albérès, R. M. (2003), Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX
Văn học, Hà Nội.
2. Aristote và Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca - Văn tâm điêu long, Nxb Văn học,
Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (1998), 150 Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
4. Bakhtin, M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Bộ
văn hóa Thông tin và thể thao, trường viết văn Nguyễn Du.
5. Bakhtin, M. (1993), Những vấn đề thi pháp Dôxtôiepxki, nhóm dịch giả, Nxb Hội
nhà văn.
6. Lê Huy Bắc (2009), Đặc trưng truyện ngắn Anh - Mỹ, Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà
Nội.
7. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Fhran-Dơ Káp-Ka, Nxb Giáo dục.
8. Lê Huy Bắc (2010), Lịch sử văn học Mỹ, Nxb Giáo dục.
9. Benois, L. (2006), Dấu hiệu, Biểu trưng và thần thoại, Nxb Thế giới, Hà Nội.
10. Chevalier, J. và Gheerbrant, A. (2002), Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, Nhiều
người dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
11. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
12. Đào Ngọc Chương (2002), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của E.Hemingway, Đại
học khoa học Xã hội và Nhân văn.
13. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Đàn (2002), Hành trình văn học Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Văn học,Trung tâm
nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Trung Đức (2001), Tuyển tập Borgers, Nxb Đà Nẵng.
107
18. Faulkner, W. (2008), Âm thanh và cuồng nộ, Phan Đan và Phan Linh Lan dịch, Nxb
Văn học.
19. George, J. (2007), Cành vàng bách khoa thư về văn hóa nguyên thủy, Ngô Bình Lâm
dịch, NXb Văn hóa thông tin.
20. Bùi Giáng (2001), Martin Heiderger và tư tưởng hiện đại, Nxb Văn học, Sài Gòn.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
22. Hamburger, Kate. (2004), Logich học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch và
Trần Ngọc Vương dịch, NXb Đại học quốc gia Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Những biểu hiện của khuynh
hướng tượng trưng trong thơ mới Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học khoa học xã hội
và Nhân.
24. Lê Huy Hòa và Nguyễn Văn Bình ( 2006), Những bậc thầy văn chương, Nxb Lao
động.
25. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết đến hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
26. Jakovson (2008), Thi học và ngữ học lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần
Duy Châu biên khảo, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Jung, C. (2007), Thăm dò tiềm thức, Vũ Đình Lưu dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.
28. Kant, I. (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Bùi Văn Nam Sơn dịch, Nxb Tri
thức.
29. Kinh thánh Cựu Ước (2001), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
30. Kundera, M. (2001), Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa thông tin.
31. Lotman, I.U. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nhóm tác giả dịch, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
31. Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển, Nxb Tri thức, Hà Nội.
32. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Meletinnsky, E.M. (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn và Song Mộc
dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Đặng Thị Nhã (2010), Âm thanh và cuồng nộ dưới góc nhìn phân tâm học, Luận văn
thạc sĩ, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Hồ Chí Minh.
108
35. Nhiều tác giả (2006), Đỗ Lai Thúy (chủ biên), Phân tâm học và văn hóa tâm linh,
Nxb Văn hóa Thông tin.
36. Nhiều tác giả (2004), Đỗ Lai Thúy (chủ biên), Phân tâm học và văn học, NXb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
37. Nietzsche, F. (2011), Kẻ phản Ki-tô: Thử đưa ra một phê bình Ki-tô giáo, Hà Vũ
Trọng dịch, Nxb Tri thức, TP.HCM.
38. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
39. Pospelov,G.N (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Tạ Như Oanh (2011), Nhân vật Caddy trong Âm thanh và cuồng nộ, Luận văn thạc
sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội
41. Saussure, F. (1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb Văn học, Hà
Nội.
42. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, phần 1,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
43. Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha (1974), William Faulkner: Cuộc đời và tác
phẩm, Nxb Hiện đại Thư xã, Sài Gòn.
44. Chu Quang Tiềm (1996), Tâm lí văn nghệ, Nxb thông tin, Tp.Hồ chí Minh.
45. Đỗ Lai Thúy (2008), Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
46. Todorov, T. (2004), Mikhail Bakhtin – Nguyên lý đối thoại, Đào Ngọc Chương dịch,
Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, TP.HCM.
47. Lộc Phương Thúy (chủ biên) (2007), Lí luận- phê bình văn học thế giới thế kỉ XX-
tập hai, Nxb Giáo dục.
48. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và Phê bình văn học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
49. Trần Đức Thảo (1996), Tìm hiểu cội nguồn ngôn ngữ và ý thức, Nxb Văn hóa Thông
tin.
50. Hoàng Trinh (1998), Phương Tây và con người, Nxb văn học, Hà Nội.
51. Hoàng Trinh (1996), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Phùng Văn Tửu (2006), Tiểu thuyết Pháp những tìm tòi đổi mới, Nxb Văn học.
53. Vygoski, L. X.(1981), Tâm lý học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội.
109
Tiếng Anh
54. Hargrove, D Nancy. (1984), Reflections of the 1920s in The Sound and the
Fury, Mississippi State University
(1984), Faulkner International Perspectives, 55. Fowlor, Doreen.,Abdie. AnnJ
University Mississippi.
56. Weinstein, Phillips.D. (1995), The Cambridge companion to the William Faulner,
Swarthmore College, University of Cambridge, Cambridge.
Website
57. Burton, Stacy., Rereading Faulkner: Authority, Criticism, and The Sound and the
Fury, University of Nevada, Reno, truy cập ngày 3/8/2013,
http://www.jstor.org/discover/10.2307/439123?uid=3739320&uid=2&uid=4&sid=21
102679036841
58. Nhật Chiêu, William Faulkner, con người và thời gian, ngày truy cập, 7/9/2013,
http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&
view=article&id=4179%3Awilliam-faulkner-con-ngi-va-thi gian&catid=64%3Avn-
hc-nc-ngoai-va-vn
59. Nguyễn Văn Hậu, về tính hình tượng và tính biểu tượng trong văn học-nghệ thuật,
ngày truy cập 3/5/2013, http://huc.edu.vn/chi-tiet/1463/Ve-tinh-hinh-tuong-va-tinh-
bieu-tuong-trong-tac-pham-van-hoa---nghe-thuat.html
60. Firth, R., Đinh Hồng Hải dịch, Khám phá những biểu tượng trong văn học, truy cập
ngày 20/8/2012,
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17891
61. Loutman, I.U. Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, truy cập ngày 3/8/2013,
http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/LyLuanVanHoc/View_Detail.asp
x?ItemId=24
62. Đoàn Tiến Lực, Lửa: từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng ngôn ngữ, ngày truy cập,
1/7/20113, http://vietvan.vn/vi/bvct/id3057/Lua--Tu-bieu-tuong-van-hoa-den-bieu-
tuong-ngon-tu/
110
Samway, Patrick, S.J. Gentry Silve , In The Sound and the Fury, Benjy Compson
Most Likely Suffers from Autism”, truy cập ngày 7/7/2013,
http://www.faulknerjapan.com/journal/no12/pdf/EJNo12_Samway_Silver.pdf
111