BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Tấn Nguyên

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG

TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”

CỦA WILLIAM FAULKNER

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Tấn Nguyên

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG

TIỂUTHUYẾT “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”

CỦA WILLIAM FAULKNER

Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 60 22 30 45

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Đào Ngọc Chương

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình

nào khác.

Học viên

Nguyễn Tấn Nguyên

1

LỜI CẢM ƠN

Luận văn hoàn thành là quá trình cố gắng của bản thân nên dù kết quả có ra sao thì

tôi cũng đã nỗ lực hết mình. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:

PGS.TS Đào Ngọc Chương- người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.

Phòng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý Thư viện

trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, các thầy cô đã tạo mọi điều kiện

thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn Thạc sĩ.

Thầy cô, bạn bè – những người luôn giúp đỡ, động viên tôi.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình vì đã hỗ trợ tôi mọi mặt.

Học viên

Nguyễn Tấn Nguyên

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6

3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 13

5. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 14

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 14

7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 14

CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ......................................................................................................................... 16

1.1. Biểu tượng .................................................................................................................. 16

1.2. Biểu tượng nghệ thuật ............................................................................................... 21

1.3. Những lí thuyết liên quan đến Biểu tượng nghệ thuật ........................................... 25

1.3.1. Biểu tượng nghệ thuật với kí hiệu học .................................................................. 25

1.3.2. Biểu tượng nghệ thuật với phân tâm học .............................................................. 27

1.3.3. Biểu tượng nghệ thuật với huyền thoại học .......................................................... 29

CHƯƠNG 2: HỆ BIỂU TƯỢNG ÂM THANH TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 34

2.1. William Faulkner với “Âm thanh và cuồng nộ” ..................................................... 34

2.1.1. William Faulkner (1897-1962).............................................................................. 34

2.1.2. Về tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ” ............................................................... 35

2.2. Thanh âm của nhân vật ............................................................................................ 36

2.2.1. Thanh âm của Benjy .............................................................................................. 36

2.2.2. Thanh âm của Quentin .......................................................................................... 43

2.2.3. Âm thanh của Jason ............................................................................................... 51

2.2.4. Tiếng hát Dilsey .................................................................................................... 54

CHƯƠNG 3: HỆ BIỂU TƯỢNG VẬT THỂ KHÔNG - THỜI GIAN TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................. 61

3.1. Biểu tượng thời gian .................................................................................................. 61

3.1.1. Đồng hồ - cảm thức lưu đày .................................................................................. 62

3

3.1.2. Chiếc chuông- nhịp đập cuộc sống ....................................................................... 71

3.2. Biểu tượng không gian .............................................................................................. 73

3.2.1. Hàng rào và sự cách ngăn cuộc sống ................................................................... 74

3.2.2. Đồng cỏ - ước muốn trở về tự nhiên ..................................................................... 76

3.2.3. Cửa sổ - hành trình vượt thoát cô đơn ................................................................... 79

3.2.4. Ngọn cây - khát vọng truy tầm .............................................................................. 82

CHƯƠNG 4: HỆ BIỂU TƯỢNG TÂM LINH TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” ............................................................................................................. 85

4.1. Lửa như là bản nguyên của vũ trụ ........................................................................... 85

4.2. Nước - sự gột rửa nỗi đau.......................................................................................... 90

4.3. Hoa - nhịp thở lụi tàn ................................................................................................ 95

4.4. Bóng - những ảnh hình của cái chết ......................................................................... 97

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 104

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 107

4

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học Mỹ là một nền văn học lớn trên thế giới, trong đó William Faulkner cùng

với Ernest Hemingway là hai đại diện tiêu biểu của văn học Mỹ thế kỉ XX. Nếu ở Việt

Nam, tác phẩm của Hemingway được các nhà nghiên cứu nghiên cứu với nhiều công trình

khác nhau thì ngược lại sáng tác của Faulkner lại chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu thật kĩ

lưỡng và chi tiết. Faulkner là nhà văn luôn có ý thức đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Tác

phẩm của ông khá kén người đọc, luôn đòi hỏi người đọc phải làm việc thật nghiêm túc mới

có thể tìm thấy được những cái đẹp ẩn dưới các trang văn của ông.

Cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ (The Sound anh the Fury) là tiểu thuyết

được viết thứ tư trong số 20 cuốn tiểu thuyết của Faulkner. Nó được nhiều người đọc đánh

giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của thế kỉ XX. Âm thanh và cuồng nộ lúc

mới ra đời chưa được hoanh nghênh, nhưng nó đã khẳng định tài năng tiểu thuyết của

Faulkner, để rồi qua sự gạn lọc của thời gian, giá trị của nó càng được khẳng định. Và đồng

thời, theo thời gian tác phẩm này luôn mời gọi và thách đố các nhà nghiên cứu bởi sự trộn

lẫn tinh tế và tài hoa của nhiều thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt biểu tượng nghệ thuật với tư

tưởng nghệ thuật của Faulkner.

Faulkner là nhà văn sống và gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Nam nước Mĩ, mỗi

tác phẩm của ông luôn chứa những yếu tố văn hóa sâu sắc, lâu đời của vùng đất này. Xuất

phát từ những lí do đó, chúng tôi tìm hiểu tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ dưới góc nhìn

biểu tượng nghệ thuật.

Có thể khẳng định, cùng với hướng nghiên cứu văn học theo thi pháp học và huyền

thoại học thì tiếp cận văn học dưới ánh sáng của biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên

cứu văn học đầy triển vọng. Hướng tiếp cận này có khả năng chỉ ra được những nét riêng

độc đáo trong tác phẩm văn học. Đồng thời đi theo hướng nghiên cứu này chúng ta có thể

nhận rõ hơn đặc thù của văn học trong mối tương quan, đối sánh với các ngành khoa học xã

hội và nhân văn khác đặc biệt là văn hóa học, tâm lí học,... để người nghiên cứu tiếp nhận

tiệm cận với chân lí văn chương.

Từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong Âm

thanh và cuồng nộ của William Faulkner” để từ đó thấy được phong cách sáng tác của ông

và tư tưởng nhân văn mà người nghệ sĩ này gửi gắm cho hậu thế.

5

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng mà luận văn chúng tôi tiến hành nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong

Âm thanh và cuồng nộ, do đó chúng tôi sẽ tìm hiểu những biểu tượng nghệ thuật có trong

tác phẩm này và phân loại, sắp xếp chúng thành một hệ thống, từ đó làm chỉ ra cái hay và

cái đẹp trong sáng tác của Faulkner.

Phạm vi nghiên cứu chúng tôi tiến hành là tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ do dịch

giả Phan Đan và Phan Linh Đan dịch (Nxb Văn học, 2008). Trong quá trình nghiên cứu

chúng tôi sẽ đối sánh với những tác phẩm khác của Faulkner để có một cái nhìn sâu sắc hơn

về biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết này.

3. Lịch sử vấn đề

Khi tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ ra đời (1929) , tác phẩm đã thu hút được rất

nhiều sự quan tâm và nghiên cứu của người tiếp nhận trên thế giới. Trong khi ở Việt Nam,

việc nghiên cứu về Faulkner và sáng tác của ông cũng ít nhiều được các học giả chú ý:

Trước 1975, ở miền Nam chuyên luận “William Faulkner cuộc đời và tác phẩm” do

Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha viết là cuốn sách có giá trí nhất lúc đó trong việc nhìn

nhận và thẩm định tài năng nghệ thuật của Faulkner. Các nhà nghiên cứu đã thấy ở nhà văn,

“lối trưng bày quan điểm và kỹ thuật gợi cảm lương tri, ngay cả kỹ thuật vừa phân tích

nguyên do, vừa mô tả hành động của các nhân vật trong truyện cũng nhiều khi làm cho các

đoạn văn tối nghĩa, khiến người đọc lúng túng, kém hấp dẫn”[43, 27-28]. Họ tìm hiểu sáng

tác của ông thông qua tiếp cận thế giới nhân vật, đề tài cũng như các kĩ thuật độc thoại nội

tâm, dòng ý thức, cách dùng từ,... nhưng tác giả chưa chú ý đến biểu tượng nghệ thuật có

trong tiểu thuyết: “Kỹ thuật gợi tả của Faulkner qua lối độc thoại thay đổi tùy theo hoàn

cảnh và tùy theo nhân vật. Với Benjy thì câu viết ngắn, đứt quãng, dồn dập, tạo ra cái hiện

thực mãnh liệt của những tia chớp đột lóe trong đêm tối. Lời độc thoại nội tâm của chàng

Quentin thì rườm rà chải chuốt theo lối văn lãng mạn. Đến Jason thì câu ngắn gọn gàng,

mạch lạc, phản ánh đúng cái tâm trạng suy luận, tính toán của chàng này. Giọng văn ở

phần cuối lập lại bút pháp đã sử dụng ở ba phần trên tùy theo tâm tính của từng nhân vật

xuất hiện”[43, 55]. Cùng thời gian này, Bùi Giáng cũng đã viết một chuyên luận bàn về tiểu

thuyết của Faulkner, “Martin Heiderger và tư tưởng hiện đại” trong đó ông đánh giá tiểu

thuyết Âm thanh và cuồng nộ: “Đó là một bầu không khí u ám cuồng loạn, le lói những tia

sáng âm u bi đát… chập chờn bóng ma định mệnh về lè lưỡi giăng lưới phủ ngập cuộc đời,

6

trùm lên cõi thế một ngày tang tóc ảo não ác liệt, trong đó lố nhố những bóng người, đàn

ông có đàn bà có, trẻ con có, gái trai già trẻ có, không thiếu mặt người nào và thảy thảy đều

điên loạn như những con múa rối mù quay cuồng theo Định Mệnh thuần túy trong điên tiết,

trong nhiệt tình man rợ, lao đầu vào cái chết để hình hài tan vỡ như xác pháo mà chơi…cho

đê mê đi vì sống làm sao nổi với những cái đa đoan hệ lụy chằng chịt cởi gỡ không ra

vướng vít quanh mình ám hại thể phách tinh anh bì bõm thịt xương da máu với chết chóc

với cưỡng dâm, với gia hình khốc hại, tự vẫn tơi bời giữa hãi hùng điên đảo gió mưa sa

ngàn năm”[20, 209]. Và ông nhìn thấy đặc điểm thời gian trong tác phẩm , “chính khi kể

một giai đoạn ông cũng đảo lộn lung tung. Thời gian chảy ngập tràn lan trong một phút,

một phút loạn cuồng mê tơi vấn vít mịt mờ bóng sương xen đủ cả hiện tại, quá khứ, tương

lai..cái không gian điên đảo của Faulkner đã chạy lung tung khắp nẻo đường năm tháng lạc

lõng, bơ vơ, khác với không gian mù mịt”[20, 350]. Và rõ ràng thi sĩ họ Bùi đã có những

cảm nhận độc đáo khi đánh giá văn phong của Faulkner, nhưng chính lối phê bình ấn tượng

của ông khiến những luận điểm của ông khó được nhận ra.

Ở miền Bắc, viện sĩ Hoàng Trinh có lẽ là người tiếp cận Faulkner sớm nhất. Trong

chuyên luận, “Phương tây, văn học và con người” nhà nghiên cứu xem Faulkner là, “một

trong những nhà văn đầu đàn đã mở đầu cho kỉ nguyên mới của tiểu thuyết hiện đại phương

Tây”[50, 293]. Hoàng Trinh đặt Faulkner vào dòng chảy của văn học hiện đại và thấy ở ông

cùng với các nhà văn hiện đại khác là Kafka và James Joyce, “là những nhà văn đã dám

làm một cuộc ‘dấy loạn’ trong văn học hiện đại. Họ đã dám cắt đứt được các thứ ảo tưởng,

với tinh thần lạc quan ngây thơ và dễ dãi, với thói tự dối mình. Họ đã dũng cảm đi vào

những bí ẩn của cuộc sống, của “vấn đề con người”, của sinh tồn đích thực. Tiểu thuyết

của họ đã chọc thủng được những bức tường kiên cố bấy lâu nay bọc kín lấy thân phận con

người, không cho con người tìm thấy lại đúng bản thân mình”[50, 13]. Nhà nghiên cứu đã

nhận diện được chủ đề trong sáng tác của Faulkner là vấn đề thân phận của con người trong

xã hội tư sản: “Faulkner muốn chứng minh đời người trong thế giới tư bản chủ nghĩa chẳng

qua chỉ là một trò hề, một câu chuyện do một thằng ngốc kể lại, cũng đủ cả hò hét phẫn nộ

nhưng nào có ích gì đâu”[50, 43]. Thực ra thân phận con người mà Faulkner muốn viết

không chỉ là con người trong xã hội tư sản mà là con người nhân loại, “khi nhà văn viết về

con người tức là anh ta viết về những ước vọng, những gian khổ, những nỗi lo âu, lòng can

đảm và sự hèn nhát, những cái nhỏ nhen và những cái cao đẹp trong tâm hồn họ”[24, 357].

7

Ở chuyên luận này biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ cũng chưa được

viện sĩ Hoàng Trinh quan tâm.

Sau Hoàng Trinh, Lê Huy Bắc là nhà nghiên cứu đã có những tiếp cận Faulkner khi

dịch lại những đoạn phỏng vấn của phóng viên về Faulkner in trong tập “Phê Bình- lí luận

văn học Anh Mỹ”. Những mẫu đối thoại ấy đã gợi ý cho chúng tôi tiếp cận biểu tượng nghệ

thuật trong Âm thanh và cuồng nộ. Trong một đoạn phỏng vấn của chuyên luận này,

Faulkner nói, “tôi muốn rằng tác giả không dự tính trước nhưng tôi nghĩ, sống trong cùng

một môi trường văn hóa, nền tảng tri thức của nhà phê bình và của nhà văn là giống nhau

đến nỗi mỗi phần lịch sử của mỗi người là hạt giống mà có thể được chuyển thành hình ảnh

tượng trưng và được xác định tiêu chuẩn trong nền văn hóa đó”[6, 165]. Biểu tượng nghệ

thuật tồn tại trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà nghệ sĩ và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là

nhận thấy nó bằng ánh sáng của tư duy khoa học. Ngoài ra trong cuốn “Lịch sử văn chương

Hoa Kỳ” Lê Huy Bắc đã nhận định về tiểu thuyết của William Faulkner: “Tiểu thuyết và

truyện ngắn của Faulkner tạo nên một diện mạo độc đáo và qui tụ rất nhiều nhà cách tân

văn xuôi trong nhiều thập kỉ tiếp theo. Faulkner nổi tiếng khi viết về những điều băng hoại

đang thối rữa với niềm đau ẩn sâu sau lối trần thuật đạt đến mức độ khái quát hóa cao.

Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Faulkner là đi tìm chân lí phổ quát cho sự tồn tại của con

người”[8, 629]. Những nhận định ấy rất có giá trị đối với việc nghiên cứu Faulkner khi đã

chỉ ra được nét chủ đạo trong cảm hứng tư tưởng ở người nghệ sĩ là “sự tồn tại của con

người”. Dẫu vậy tác giả vẫn chỉ dừng lại ở sự định giá về nghệ thuật văn chương của

Faulkner chứ chưa đi vào khảo sát những biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng

nộ.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đàn khi nghiên cứu về Faulkner trong “Hành trình văn

học Mỹ” đã đi vào khám phá nét độc đáo làm nên phong cách của nhà văn, “văn phong của

Faulkner khá độc đáo, nó toàn gồm những câu dở dang, theo kiểu ngôn ngữ điện tín, tuy

nhiên từ ngữ của tác giả rất phong phú và có những đoạn thu ngắn gây ấn tượng sâu sắc,

nhiều trang viết rất tối nghĩa vì hình thức quá cô đọng. Faulkner vốn ở miền Nam, trong

cách miêu tả các khung cảnh làm nền, ông tỏ ra có hiểu biết sâu sắc về cảnh quan, phong

tục và tính cánh”[14, 259]. Ở đây nhà nghiên cứu không chỉ thấy nét đặc sắc của bút pháp

Faulkner từ phương diện ngôn từ mà đã bước đầu chú ý đến yếu tố văn hóa và đặc biệt là

những biểu tượng nghệ thuật: “Sáng tác của ông có ý nghĩa biểu tượng, nhưng muốn tìm

hiểu các biểu tượng ấy cần phải có một cái nhìn toàn thể. Lúc bấy giờ các truyện ngắn và

8

tiểu thuyết của ông mới rõ nghĩa”[14, 264]. Dẫu nhà nghiên cứu không phân tích một tác

phẩm nào của Faulkner theo hướng biểu tượng học nhưng cuốn sách đã cho chúng tôi

những gợi dẫn để tiếp cận tác phẩm theo hướng này.

Tìm hiểu Âm thanh và cuồng nộ trên trang yume.vn có một bài viết rất lí thú liên

quan đến biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm trên. Người viết tiếp cận tác phẩm Âm

thanh và cuồng nộ trên bốn phương diện chính là kết cấu, cốt truyện, nhân vật, không gian,

thời gian. Ở đây tác giả đã có ý thức vận dụng biểu tượng nghệ thuật nhằm khám phá nét

độc đáo và hấp dẫn của thể loại tiểu thuyêt Gotich miền Nam nước Mỹ, các biểu tượng

“Cửa sổ”, “Đồng hồ”, đã được người viết đề cập như một gợi mở cho chúng tôi đi tiến hành

làm đề tài biểu tượng nghệ thuật trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner

Nghiên cứu về Faulkner còn có khá nhiều công trình luận văn thạc sĩ có giá trị nhưng

chúng tôi chưa thấy luận án tiến sĩ nào viết về ông ở Việt Nam.

Các công trình luận văn thạc sĩ chúng tôi tìm được là luận văn thạc sĩ , “Âm thanh

và cuồng nộ của Wiliam Faulkner dưới góc nhìn phân tâm học” của học viên Đặng Thị

Nhã, trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2011 do PGS.TS Đào Ngọc Chương

hướng dẫn. Trong luận văn này, người viết đã tiếp cận tiểu thuyết trên dưới ánh sáng của

phân tâm học. Sau khi giới thuyết thuật ngữ phân tâm học ở chương một với ba khái niệm

trung tâm là vô thức, dục năng và giấc mơ, tác giả đã chỉ ra dấu ấn của phân tâm học trong

tiểu thuyết này: “Sự phân chia thành bốn chương như trên trong tác phẩm Âm thanh và

cuồng nộ, nếu nhìn dưới góc nhìn phân tâm học, nó giống với trình tự ba cấp độ tự ngã

(chương 10), bản ngã (chương 2) và siêu bản ngã (chương ba) trong cấu trúc tâm thần của

Freud và cuối cùng chính là con người tác giả”[34, 39]. Chúng tôi tập trung chú ý vào

chương hai của luận văn, trong chương này, ở phần 2.1.3, người viết đã nghiên cứu hệ thống

biểu tượng về chủ đề mất mát, “trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ, chúng tôi thấy

xuất hiện hai loại biểu tượng: Biểu tượng gốc và biểu tượng phái sinh. Với những biểu

tượng gốc có liên quan đến cổ mẫu như: Nước, lửa, bùn,(đất) chúng tôi sẽ từ nghĩa gốc đi

tìm nét nghĩa mới mà Faulkner đã bồi đắp cho. Với những biểu tượng phái sinh là những

sản phẩm của cá nhân như: lá, hoa, chiếc dép, đồng hồ,..Chúng tôi giải mã nguyên nhân mà

biểu tượng đó hình thành”[34, 63]. Tác giả đã chỉ ra được một số biểu tượng gốc và biểu

tượng phái sinh xuất hiện trong văn bản này và cố lí giải nó gắn với chủ đề mất mát mà

Faulkner đã cố xây dựng. Có thể nói, luận văn đã thấy được dụng ý xây dựng biểu tượng

của nhà văn đồng thời xây dựng được một hệ thống chủ đề xoay quanh các biểu tượng.

9

Nhưng tác giả vẫn chưa đi nghiên cứu sâu đặc điểm của các biểu tượng gắn bó mật thiết và

trực tiếp với mỗi nhân vật. Cho nên tác giả kết luận: “Những biểu tượng này vẫn mãi là

những ẩn số khơi gợi sự tò mò muốn khám phá với những ai đã một lần chạm tay vào

nó”[34, 79]. Dẫu vậy, luận văn đã gợi ra cho chúng tôi một cái nhìn mới khi tiếp cận tiểu

thuyết Âm thanh và cuồng nộ.

Luận văn thạc sĩ của học viên Tạ Như Oanh với đề tài “Nhân vật Caddy trong Âm

thanh và cuồng nộ của William Faulkner” do PGS.TS Đặng Anh Đào hướng dẫn. Luận

văn của Tạ Như Oanh khi tiếp cận hình tượng nhân vật Caddy trên ba phương diện điểm

nhìn của người kể chuyện, cái nhìn thực ảo và tính Mẫu của nhân vật Caddy. Luận văn

cũng đã chú ý đến vấn đề biểu tượng ở trong chương 2: Thực và ảo trong nhân vật Caddy,

phần 2.2. Tính biểu tượng: Caddy được biểu hiện qua những hình ảnh gián tiếp. Tác giả

luận văn cho rằng, “trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, nhân vật Caddy là nhân vật

trung tâm của toàn bộ tác phẩm đã được xây dựng bởi rất nhiều biểu tượng đặc biệt, giúp

gắn kết các sự kiện rời rạc trong tác phẩm. Những hình ảnh được nhắc đến nhiều trong tác

phẩm là cây, mùi hương, ngọn lửa, đồng hồ, nước, cây cầu… Trong đó loạt hình ảnh mang

tính biểu tượng về nhân vật Caddy được phác họa nhiều đó là ngọn lửa và cây”[40, 23].

Luận văn chỉ ra biểu tượng Lửa và biểu tượng Cây đã góp phần tạo nên sự độc đáo trong

cách thức xây dựng hình tượng Caddy. Dẫu chưa có một sự phân tích biểu tượng nghệ thuật

theo hướng hệ thống nhưng luận văn này cũng cho chúng tôi ý tưởng để tiến hành đề tài.

Các công trình nghiên cứu về Faulkner trên thế giới được chúng tôi tìm hiểu sẽ xoay

quanh những biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ bởi số

lượng công trình nghiên cứu về Faulkner ở Mĩ quốc và các nước khác là rất lớn. Chúng tôi

thấy có công trình “The Cambridge companion to the William Faulner” được viết bởi

Phillip M.Weinstein. Trong đó, tác giả đã cho nhấn mạnh tài năng của Faulkner, đặc biệt là

cảm hứng tư tưởng khi so sánh ông với Kafka, “xa hơn thế nữa, Faulkner và Kafka là hai

nhà văn mà tư tưởng của họ còn lớn hơn văn chương của họ”[56, 94]. Đồng thời khi đi vào

văn bản, người viết đã đánh giá: “Với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner đã khước từ lối

nhận diện dễ dàng với các chủng tộc khác ông và bắt đầu đến với vị trí thực trạng chủ đề

người da trắng trong nền chính trị và văn hóa của chủ nghĩa dân tộc miền Nam”[56, 135].

Và người viết thấy hình tượng của bốn đứa trẻ nhà Compson: “Chị gái của họ, Caddy

không sản sinh, không thể có tài khoản khi tất cả sự thay đổi và chuyển biến của nàng đều

gắn với mất mát ‘những nhành cây lấp lánh’ của tuổi trẻ trong một dòng lũ nhám của cuộc

10

sống trong nó. Trái ngược lại là Benjy, là người ‘ không bao giờ phải phát triển lúc này’

của mất mát và bất hạnh, Quentin và Jason là đại diện khác cho chế độ đã bị sụp đổ trong

sự đau buồn của họ”[56, 140]. Có thể nói cuốn sách đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu

biết sơ bộ để đi vào khám phá những biểu tượng trong tiểu thuyết này.

Ngoài ra trong bài viết “Reflections of the 1920s in The Sound and the Fury” được

viết bởi Nancy D. Hargrove. Chúng tôi cũng tìm thấy những ý kiến giá trị xoay quanh tiểu

thuyết này. Tác giả sau đi vào phân tích những ảnh hưởng của thời đại, đặc biệt là công

nghệ điện ảnh và các nhà văn khác đối với Faulkner, đã thấy ở nhà nghệ sĩ này những dấu

hiệu độc đáo của phương thức tư duy biểu tượng trong văn bản Âm thanh và cuồng nộ, đó

là dòng nước và hoa kim ngân: “Và cảnh tự tử gây sửng sốt giữa Quentin I và Caddy trong

đó Caddy nằm trong dòng nước với mùi hương của hoa kim ngân và mưa thấm trong không

khí là một trong những chi tiết gợi cảm mạnh mẽ nhất trong văn học hiện đại”[54, 56].

Người viết nhận ra một cảm quan lịch sử của thế kỉ XX, tình trạng bất ổn về tâm lí của các

nhân vật, sự mất mát, đổ vỡ niềm tin: “Âm thanh và cuồng nộ cũng tái hiện lại những cảm

giác tuyệt vọng và mất mát được tìm thấy – từ Luster mất đi đồng 25 xu đến Jason mất cơ

hội đầu tư trên thị trường bông, từ Quentin đến Benjy mất Caddy và Caddy mất đi con của

mình, và cứ như vậy. Hơn nữa, nhiều nhân vật trong truyện đã bị vỡ mộng, ông Jason

Compson với triết lí bi quan về cuộc sống đã thấy ở con người chỉ toàn sự thất bại và đổ vỡ

giá trị niềm tin và nhận thức: “không có trận chiến nào là thắng cả. Thậm chí họ không

chiến đấu. Cánh đồng chỉ là sự sở hữu điên rồ của con người, chiến thắng chỉ là trò ảo

tưởng của nhà triết học và những người ngốc”[54, 59].

Với cuốn “Faulkner International Perspectives”, một tập hợp những bài viết về

Faulkner và tác phẩm của ông, nó được biên tập bởi Doreen Fowlor và AnnJ.Abdie, trong

đó chúng tôi chú ý tới bài viết “from Jefferson to the World” của Calvins Brown. Tác giả đã

chỉ ra những ảnh hưởng của các nhà văn trên thế giới đến với Faulkner đặc biệt là các tác

giả của hai nền văn học là văn học Pháp và văn học Anh, “Faulkner đọc được những tác

phẩm nổi tiếng của văn chương Pháp sau những bài thơ vĩ đại của văn học lãng mạn Anh,

với Balzac và Gautier”[55, 23]. Qua cuốn sách trên, chúng tôi thấy chính dấu ấn của những

nhà văn đi trước đã giúp Faulkner có được một kĩ thuật xây dựng tác phẩm độc đáo và đi

cùng với nó là cảm hứng sáng tạo mãnh liệt,.. Những điều đó đã thổi hồn vào trong các

trang viết của ông. Bài viết cũng giúp chúng tôi mở ra được một cánh cửa khi đi vào biểu

tượng không gian mà Faulkner đã sáng tạo.

11

Trong bài viết “In The Sound and the Fury, Benjy Compson Most Likely Suffers from

Autism” của Patrick Samway, S.J. Gentry Silve. Khi nghiên cứu về nhân vật Benjy, tác giả

thấy được ngoài vốn từ vựng Benjy sử dụng để nói lên cảm nhận của mình với cuộc sống

còn có một tiếng khóc để nhân vật này giao tiếp với cuộc sống: “Các nhà phê bình đã đề

cập đến tiếng khóc của Benjy vì đó là một trong những cách thức làm nên đặc tính ở hắn,

chẳng hạn André Belaikastin đã viết, “tiếng kêu và âm thanh rên rỉ của hắn ám ảnh thông

qua sự lặp lại của “khóc”, “than khóc”, “rên rỉ”, “chảy nước dãi”, “rống”,- cung cấp

những thứ tạo nên nền tảng ở phần một, không bao giờ khớp nối giống như lời nói, tiếng

kêu của Benjy là biểu hiện của sự đáng thương và nỗi thống khổ không lời và không thể

chịu đựng”[54, 11]. Bài viết đã khắc họa được hình tượng nhân vật Benjy nhưng chưa xâu

chuỗi nhân vật này vào trong hệ thống các nhân vật mà Faulkner tạo dựng. Dẫu vậy công

trình cũng cung cấp cho chúng tôi những khám phá thú vị xoay quanh thanh âm của Benjy.

Ngoài ra chúng tôi còn thấy một tài liệu khác khá quan trọng có đề cập đến vấn đề

chúng tôi quan tâm, đó là “Rereading Faulkner: Authority, Criticism, and The Sound and

the Fury” của Stacy Burton . Trong công trình này, tác giả đã đọc lại những nghiên cứu về

Faulkner của những người đi trước như Malcolm Cowley, trong cuốn “Portable Faulkner

anthology the Appendix”, ở đó Cowley đã thấy ở cuốn tiểu thuyết này, “sự thay đổi cuối

cùng ông muốn làm, đó là cái đích sáng tạo mà nhà nghệ sĩ muốn trong công việc của

mình”[57, 605], ông thấy ở Richard Godden khi đọc tiểu thuyết này, “một câu chuyện trong

ba truyện: liên kết bởi cái chết, sự phục sinh, một phần sự sụp đổ và một nửa phục sinh của

nhân vật”[57, 606]. Bài viết cũng chỉ ra những thứ mà Benjy yêu nhất là, “ Đồng cỏ, chị gái

Caddy và Lửa”. Những biểu tượng đó đã góp phần cho chúng tôi nhận thức sâu sắc hơn về

biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Faulkner. Và công trình cũng lưu ý đến ý kiến của

Philip Weinstein trong bài viết năm 1980 khi tác giả của nó cho rằng trong văn bản Âm

thanh và cuồng nộ có dấu vết của nguồn gốc Kinh Thánh. Từ những ý kiến của những nhà

nghiên cứu trước, Stacy Burton đã đọc tiểu thuyết này dưới ánh sáng của lí thuyết Bakhtin.

Ông thấy ở Faulkner sự cách tân mạnh mẽ và táo bạo của một tiểu thuyết gia hàng đầu thế

kỉ XX, bởi theo Bakhtin, “cuộc sống trong những tác phẩm văn học là sự liên tục sáng tạo:

thực tại và đại diện thế giới tìm thấy bản thân họ trong sự tương tác lẫn nhau như người

đọc với không- thời gian, sáng tạo lại cũng như viết lại văn bản”[57, 627], với Âm thanh

và cuồng nộ, nhà văn đã xóa nhòa mọi đường biên thể loại như tác giả đã thấy. Ngoài ra tác

giả còn thấy trong văn bản biểu tượng trung tâm là Caddy: “Hình ảnh Caddy Compson với

12

chiếc quần đầy bùn, trèo lên ngọn cây và nhìn ra cửa sổ và truy tìm do đó tiểu thuyết này là

một chuỗi những nỗ lực được kể không bao giờ nằm trong sự yên lặng một cách đúng

đắn”[57, 620]. Theo tác giả, văn bản này ngoài khả năng phân tích tâm lí sâu sắc đã chứa

đựng huyền thoại: “Thế giới của nhà Compson giống như một vũ trụ nhỏ của những huyền

thoại lớn về mất mát và tái tạo”[57, 621]. Những luận điểm của tác giả đã dẫn chúng tôi

đến việc đưa những biểu tượng nghệ thuật của Faulkner vào nghiên cứu dưới ánh sáng của

huyền thoại.

Những tài liệu trong nước và quốc tế về nhà văn Faulkner và tiểu thuyết của ông đã

giúp chúng tôi rất nhiều trong việc khảo sát biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Âm

thanh và cuồng nộ .

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những biểu tượng nghệ thuật có trong tác phẩm Âm thanh và

cuồng nộ, phương pháp đầu tiên mà chúng tôi sử dụng là phương pháp kí hiệu học. Phương

pháp này sẽ được chúng tôi sử dụng trong chương hai khi nghiên cứu về hệ thống biểu

tượng Âm thanh của các nhân vật trong tiểu thuyết để chỉ ra nghĩa hàm của mỗi biểu tượng

bên cạnh nghĩa biểu hiện của nó.

Mỗi biểu tượng nghệ thuật phải được nhìn nhận trong hệ thống, do đó muốn hiểu sâu

mỗi biểu tượng nghệ thuật theo chúng tôi phải đặt nó vào trong hệ thống nên phương pháp

thứ hai chúng tôi vận dụng là phương pháp hệ thống. Và phương pháp hệ thống được chúng

tôi sử dụng trong bốn chương của luận văn để tạo một cái nhìn liên đới cho luận văn nhưng

nó được vận dụng nhiều nhất ở chương ba khi chúng tôi xây dựng hệ biểu tượng Không -

thời gian.

Biểu tượng nghệ thuật liên quan chặt chẽ đến văn hóa, xã hội, tâm lí,... nên phương

pháp liên ngành cũng đươc chúng tôi sử dụng trong luận văn này. Đặc biệt phương pháp

liên ngành được chúng tôi vận dụng nhiều trong chương cuối khi tiếp cận biểu tượng nghệ

thuật tâm linh để thấy được sự mối quan hệ của văn học với các loại hình nghệ thuật khác.

Âm thanh và cuồng nộ là một tác phẩm khó đọc do đó để có một cái nhìn sáng rõ

hơn về nó thì phương pháp cấu trúc cũng được chúng tôi sử dụng. Phương pháp cấu trúc sẽ

được chúng tôi vận dụng khi xây dựng cấu trúc luận văn và từng chương trong luận văn.

Đồng thời chúng tôi vận dụng trong luận văn phương pháp phê bình phân tâm học

mà chủ yếu là phân tâm học của C. Jung. Dưới góc nhìn của phương pháp phê bình phân

tâm học, chúng tôi hi vọng sẽ tiệm cận được những ánh sáng tâm lí trong mỗi biểu tượng.

13

Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng phương pháp thống kê để khảo sát tần số xuất hiện

của các biểu tượng nghệ thuật, nhằm chỉ ra được ý nghĩa biểu trưng của mỗi biểu tượng

nghệ thuật.

5. Mục đích nghiên cứu

Tiến hành đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ

của William Faulkner”, chúng tôi muốn tiếp cận tác phẩm này theo một hướng mới: biểu

tượng nghệ thuật. Đồng thời qua đó, chúng tôi có thể thấy được vài nét về phong cách và tư

tưởng nghệ thuật của Faulkner.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn mang đến cho người tiếp nhận một hướng tiếp cận mới đối với tác phẩm

“Âm thanh và cuồng nộ”.

Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những độc giả nào quan tâm

đến Faulkner và văn học hiện đại.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm bốn phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần tài liệu

tham khảo. Trong phần nội dung chúng tôi phân làm bốn chương.

Chương 1: Biểu tượng nghệ thuật và những lí thuyết liên quan

Trong chương này chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra được những đặc trưng của khái niệm

biểu tượng nghệ thuật. Phân biệt nó với những khái niệm khác gần biểu tượng nghệ thuật là

hình tượng nghệ thuật, ẩn dụ và hoán dụ, mẫu gốc. Đồng thời chúng tôi sẽ lí giải lí thuyết

biểu tượng nghệ thuật dựa trên các lí thuyết huyền thoại học, phân tâm học, kí hiệu học để

có một cách hiểu sâu hơn về lí thuyết biểu tượng nghệ thuật.

Chương 2: Hệ biểu tượng âm thanh trong Âm thanh và cuồng nộ

Chương này chúng tôi tìm hiểu hệ thống biểu tượng âm thanh trong mối tương giao

với các nhân vật trong truyện để thấy được những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và cảm hứng

tư tưởng mãnh liệt mà nhà văn muốn chia sẻ với người đọc.

Chương 3: Hệ biểu tượng vật thể không – thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ

Mĩ học của Faulkner là mĩ học bản thể. Các sáng tác của nhà văn luôn hướng về con

người, “tôi từ chối sự lụi tàn của con người”(Faulkner). Do đó chủ đề con người cô đơn

trong không-thời gian luôn được nhà văn trăn trở trong các tác phẩm của mình. Từ đó chúng

14

tôi muốn xem các biểu tượng nghệ thuật không –thời gian đã soi sáng tâm thức lưu đày và

cảm thức cô đơn, bất hạnh của các nhân vật như thế nào ? Qua đó thấy được giá trị nhân văn

và nhân đạo của nhà tác phẩm.

Chương 4: Hệ biểu tượng tâm linh trong Âm thanh và cuồng nộ

Giá trị của mỗi kiệt tác văn chương theo chúng tôi phải chứa đựng ý nghĩa phổ quát

toàn nhân loại. Và mỗi dân tộc sẽ nhận thấy gương mặt của mình trong tác phẩm đó.

Chương này chúng tôi tập trung tìm hiểu những biểu tượng làm nên giá trị thẩm mỹ ấy trong

tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ.

15

CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG LÍ

THUYẾT LIÊN QUAN

1.1. Biểu tượng

Biểu tượng là một phương thức tư duy chỉ có ở con người. Nguồn gốc hình thành

của nó phải xét trên sự hình thành con người. Trải qua hàng triệu năm tiến hóa, nhờ vào quá

trình lao động, con người làm ra nghệ thuật, trong đó có văn chương. Muốn tìm hiểu thật

sâu sắc biểu tượng, chúng tôi nghĩ phải lần theo mối quan hệ biện chứng giữa tư duy và

ngôn ngữ.

Biểu tượng giúp con người lưu giữ hình ảnh mình quan sát được trong cuộc sống, đi

liền quá trình hình thành ngôn ngữ ở con người, tức là với quá trình tư duy. Ngôn ngữ là vỏ

vật chất của tư duy, nó ra đời khi con người muốn trao gửi một thông điệp cho nhau. Để

khái quát thông điệp, tư duy phải biểu đạt sự vật dưới lớp vỏ ngôn ngữ. Theo Marx ngôn

ngữ, “là sự ý thức hiện thực” bởi, “ý nghĩa phải được cấu thành trước hết dưới một hình

thức khách quan trong sự vận động của ngôn ngữ, nổi bật ra trực tiếp từ những mối quan

hệ của đời sống xã hội”[49, 45]. Do đó tìm mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ phải đi

vào hiện thực đời sống.

Buổi ban đầu loài người chưa có ngôn ngữ, họ phải nhờ vào những cử chỉ, chỉ dẫn

bằng hình thể để trao đổi thông điệp cho nhau. Do đó biểu tượng có xuất phát điểm là cử

chỉ. Cử chỉ đánh dấu sự hiện diện của chủ thể trong đời sống hiện thực. Và, nhờ vào các

giác quan bên ngoài, đặc biệt là thính giác và thị giác, chúng góp phần hình thành nên cảm

giác, đem lại nhận thức cảm tính đầu tiên về sự vật, giúp con người có ấn tượng ban đầu về

sự vật. Để lưu giữ những cảm giác có được ấy vào trí não mình, loài người cần một tư duy

cao hơn, tri giác xuất hiện. Tri giác tổng hợp các cảm giác về sự vật, đưa đến khả năng nhận

thức sự vật một cách sâu sắc. Nhưng tri giác vẫn chưa giúp loài người nhận ra bản chất sự

vật, do đó tư duy cần một bước tiến nữa, lúc này biểu tượng được hình thành. Biểu tượng

giúp nhận thức khu biệt được những đặc trưng cơ bản của sự vật. Trong giai đoạn thứ ba

này, sự vật hiện ra tương đối hoàn chỉnh. Bởi biểu tượng có sự tham gia của các hoạt động

giác quan cùng sự tổng hợp, phân loại của tư duy. Theo Lenin, con đường nhận thức chân lí

của loài người luôn đi, “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu

tượng quay trở về thực tiễn”.

16

Trên con đường ấy, con người phải có một công cụ đi cùng tư duy là ngôn ngữ. Tư

duy và ngôn ngữ luôn dính chặt với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Chúng thống nhất và

biện chứng trong nhau. Biểu tượng với tư cách là một phương thức của tư duy không thể

không xét nó trên gốc nghĩa ngôn ngữ.

Biểu tượng (Symbol) theo nghĩa từ nguyên là một vật được cắt làm đôi, mang đặc

tính hai mặt: “Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa hai ý tưởng phân li và tái

hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, đã bị chia tách và có thể tái hình thành. Mọi biểu tượng

đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ

vừa là kết nối những phần của nó lại với nhau” [10, XXIII]. Mỗi biểu tượng luôn có hai

mặt, một mặt được trưng ra và một mặt bị dấu đi, cho nên biểu tượng là thuật ngữ mang bản

chất khó xác định và vô cùng sống động. Tuy vậy nó vẫn có dấu hiệu nhận diện: “Chính là

ở chỗ nó tổng hợp trong một biểu hiện dễ cảm nhận tất cả những ảnh hưởng ấy của vô thức

và ý thức cùng các sức mạnh bản năng và trí tuệ, xung đột lẫn nhau hay đang trong tiến

trình hài hòa bên trong mỗi con người”[10, XV].

Biểu tượng là sự kết tinh của quá trình tư duy hàng nghìn năm của nhân loại. Đồng

thời nó cũng chịu sự ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng nơi nó ra đời, nên cần xét thuật ngữ

này trên nhiều phương diện. Với tâm lí học và triết học, biểu tượng, “khái niệm chỉ một giai

đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại

trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào trong các giác quan ta đã chấm dứt”[44, 223].

Còn với ngôn ngữ học, biểu tượng được hiểu như một phép chuyển nghĩa dựa trên cơ

chế của hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ những tìm hiểu về nguồn gốc

của biểu tượng, chúng tôi nghĩ đây là một thuật ngữ mở, mang tính khơi gợi và rất khó cố

định vào những nghĩa duy nhất. Bởi biểu tượng bắt nguồn từ đời sống hiện thực, hình thành

bởi tư duy con người, vận động cùng thời gian và tồn tại trong không gian văn hóa của cộng

đồng sử dụng nó. Do đó cần hiểu biểu tượng như một sinh thể phức tạp, đa nghĩa và tùy vào

từng ngành khoa học mà có sự khu biệt nghĩa riêng về khái niệm “biểu tượng”.

Với văn học, “biểu tượng theo nghĩa rộng là sự phản ánh cuộc sống bằng hình

tượng của văn học nghệ thuật, nhưng nó có cội nguồn trong tâm thức của văn hóa nhân loại

biểu tượng tồn tại trước một văn bản cụ thể và không phụ thuộc vào nó. Biểu tượng rơi vào

ký ức nhà văn từ chiều sâu của kí ức văn hóa và được làm sống lại trong văn bản mới, như

một hạt giống đánh rơi vào lòng đất. Sự gợi nhớ chuyện cũ, trích dẫn hay gợi nhắc đều là

bộ phận hữu cơ của văn bản mới, thực hiện chức năng trong bình diện đồng đại. Chúng đi

17

từ văn bản vào chiều sâu của kí ức, còn biểu tượng thì đi từ ký ức vào văn bản”[21, 314].

Ngoài ra nếu nhìn theo nghĩa hẹp thì: “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời

nói hoặc một hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát

được bản chất của một hình tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng, hay

một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời”[21, 315].

Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy vài phương diện chính yếu về bản chất

của thuật ngữ biểu tượng.

Trước hết biểu tượng mang tính hai mặt, nó bao hàm trong bản thân hình ảnh biểu

hiện ra bên ngoài và hình ảnh được ẩn dấu bên trong. Biểu tượng có tính dấu hiệu, nó được

bắt nguồn từ những cử chỉ bên ngoài của con người và hình ảnh mà biểu tượng lưu giữ luôn

bắt nguồn từ hiện thực đời sống. Biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật

tượng trưng hay của hình tượng nghệ thuật. Ý nghĩa của nó tồn tại cả trong và ngoài văn bản

bởi quá trình sinh nghĩa của mỗi biểu tượng luôn thường gắn với chiều dài văn hóa lịch

sử, gắn với quá trình hình thành quan niệm về thế giới của con người cổ xưa. Mỗi biểu

tượng đi vào văn bản nghệ thuật tự bản thân nó đã mang trong mình ngôn ngữ văn hóa, mã

thời đại và toàn bộ sức nặng ngữ nghĩa mà nó tính lũy được qua nhiều thế kỷ. Do đó biểu

tượng bao giờ cũng mang tính mở.

Là một phạm trù lịch sử, biểu tượng chịu sự chi phối của ngôn ngữ, tâm lí, quan niệm

của dân tộc và thời đại. Do đó biểu tượng chứa vô thức tập thể. Biểu tượng được cấu trúc

trong trí tưởng tượng của con người, nó làm biến dạng các sao chép thực dụng do tri giác

cung cấp, cải tạo các cảm giác cho nên biểu tượng có “sức vang cốt yếu và tự sinh”. Nghĩa

là nó vừa biểu hiện vừa che đậy, vừa thiết lập vừa tháo dở, nó là một dạng thức gây xúc

động vì nó có thể tác động đến cấu trúc tinh thần của con người, bởi tính chất ảnh – động

lực của nó mà có lần C.Jung gọi đó là những mẫu gốc. Chúng là vật nối liền cái phổ quát

với cái cá thể.

Những biểu tượng luôn có tính động, chúng không đứng riêng một mình mà có xu

hướng kết hợp với những biểu tượng khác tạo thành hệ biểu tượng. Theo J. Lacan, “hệ biểu

tượng chỉ loại hiện tượng mà khoa phân tâm học quan tâm trong chừng mực chúng được

cấu trúc như một ngôn ngữ”[10, VXI]. Có thể thấy, hệ biểu tượng là tập hợp cấu trúc, cách

xếp đặt các biểu tượng và tìm hiểu nghĩa của biểu tượng cần đặt biểu tượng trong hệ biểu

tượng.

18

Biểu tượng là một phạm trù siêu nghiệm, nghĩa là nó chứa đựng sự bí ẩn khôn cùng

nên phải tiếp nhận biểu tượng với tất cả trí tuệ lẫn tâm hồn, như Eliade đã phát biểu:

“Khuynh hướng biểu tượng là một dữ kiện tức thì của con người toàn vẹn, tức là của con

người bộc lộ đúng mình. Con người ý thức được vị trí của mình trong vũ trụ; những khám

phá hàng đầu đó gắn liền với tấn bi kịch của con người cho đến nỗi chính khuynh hướng

biểu tượng đó quyết định cả hoạt động tiềm thức lẫn những biểu hiện cao cả nhất trong đời

sống tinh thần của nó”[10, XXVI].

Đi vào tìm hiểu biểu tượng, buộc người nghiên cứu phải có thái độ dấn thân bởi đặc

tính của biểu tượng, “mãi mãi gợi cảm đến bất tận: mỗi người thấy ở đấy cái mà năng lực

thị giác của mình có thể nhận ra. Thiếu sự thâm thúy sẽ chẳng nhận ra được cái gì cả”[10,

XXVI]. Quá trình giải mã biểu tượng, chúng ta phải nhận thấy rằng nếu sử dụng những

công cụ khoa học sẽ có nguy cơ làm: “Đông cứng nghĩa của biểu tượng, nếu ta không nhấn

mạnh đến tính chất tổng thể tương đối, cơ động và có tính cá thể hóa của nhận thức biểu

tượng”[10, XXVI]. Nên, “lối phân tích bằng cách cắt vụn và đập nhỏ ra không thể nắm bắt

được sự phong phú của biểu tượng; trực giác không phải bao giờ cũng đạt được điều đó;

phải tổng hợp và đồng cảm hết mực, nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cái nhìn nào đó về

thế giới”[10, XXVII]. Cái nhìn nhất lãm sẽ không thể nào nắm bắt được trọn vẹn và đầy đủ

ý nghĩa của biểu tượng, bởi biểu tượng có tính đa trị, tính đồng thời của những ý nghĩa nó

gợi lên.

Rõ ràng mỗi biểu tượng là một thế giới vĩ mô trong một hình ảnh vi mô, phải cảm

nhận và phân tích nó trên bình diện của vũ trũ lẫn bình diện của ý thức cá nhân. Todorov đã

thấy ở biểu tượng một hiện tượng ngưng kết, nghĩa là trong một biểu tượng, cái biểu trưng

hàm chứa trong mình rất nhiều dấu hiệu của cái được biểu trưng: “Chỉ một cái biểu đạt giúp

ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt; hoặc đơn giản hơn…cái được biểu đạt dồi dào hơn

cái biểu đạt”[10, XXVII]. Bởi nghĩa mà biểu tượng luôn bộc lộ, “tính không thích hợp giữa

tồn tại và hình thức…sự ứ tràn của nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của nó”[10, XXVII].

Dẫu vậy biểu tượng chứa đựng hạt nhân là chiều dài của văn hóa nhận thức của nhân loại

nên nó mang trong mình tính ổn định về nghĩa của cái được biểu trưng và cái biểu trưng cho

dù vách ngăn về nghĩa ở hai khái niệm này là không rõ ràng. Các biểu tượng luôn có khả

năng thâm nhập lẫn nhau, từ đó chúng trở nên đa chiều về nghĩa, buộc người cảm nhận về

biểu tượng phải luôn thấy được tính đa dạng và sự sâu sắc khi nhìn về biểu tượng.

19

Đồng thời không thể tách rời biểu tượng khỏi môi trường sống, nơi biểu tượng đó ra

đời. Vì biểu tượng gắn bó sâu sắc với nghi lễ của người nguyên thủy, chính cái bè đệm hiện

sinh này giúp biểu tượng trở nên sống động nên cần đặt biểu tượng trong môi trường nghi lễ

để xem xét nó.

Từ những đặc tính trên của biểu tượng, chúng tôi muốn xem xét những chức năng cơ

bản mà khái niệm này mang lại trong hoạt động tinh thần của con người. Thế giới tự nhiên

là vô cùng tận, mà khát vọng nhận thức và cải tạo nó của con người là có hạn. Biểu tượng là

công cụ giúp nhân loại thăm dò tự nhiên và chính bản thân mình. Con người với bản chất

phiêu lưu luôn cố đi đến đích và muốn hiểu biết đến tận cùng cuộc sống trong khi cuộc sống

luôn chứa đựng sự bí ẩn và phức tạp của mình, nằm ngoài tri thức của con người. Do đó

biểu tượng được tạo ra để cố gắng diễn đạt những khái niệm mà con người chưa hiểu biết

được trọn vẹn. Chính tư duy biểu tượng đã mở ra, “khả năng lưu thông tự do qua các cấp

độ của thực tại”(M.Eliade). Chúng ta dùng biểu tượng để diễn đạt những gì con người chưa

biết nhưng có khả năng tồn tại trong thực tại: “Một biểu tượng bao giờ cũng giả định là

cách diễn đạt được chọn lựa đó chỉ rõ hoặc trình bày được hoàn hảo nhất những sự kiện

nào đó còn chưa biết, nhưng rõ ràng có tồn tại và cần tồn tại”[10, XXIX]. Các dạng thức

tưởng tượng của biểu tượng sẽ mời gọi con người vào những cuộc thăm dò, hướng vào cái

chưa biết vì nó đã sáng tạo ra một tương quan, mỗi lần giải mã, biểu tượng lại gợi ra những

ý nghĩa mới, “khi trí óc muốn làm công việc thăm dò một biểu tượng, nó sẽ đi đến những ý

tưởng nằm ở bên ngoài những gì lí trí của chúng ta có thể nắm bắt được” (C. Jung). Và cái

bị che dấu, cái chưa biết nó không phải là cái trống rỗng mà nó là cái không xác định của dự

cảm, cho nên chức năng thứ hai của biểu tượng là khả năng làm vật thay thế. Với tính hình

tượng của mình, biểu tượng không chỉ thay thế cho những hình ảnh, nội dung không thể

được diễn đạt bằng ý thức mà còn cho cả vô thức, “chức năng cơ bản của biểu tượng đích

thị là sự phát hiện hiện sinh của con người cho chính mình, thông qua một trải nghiệm có

tính vũ trụ”[10, XXXI]. Chức năng thay thế của biểu tượng đã bắt những chiếc cầu nối liền

kinh nghiệm của con người trong xã hội, tôn giáo và vũ trụ tạo thành lực liên, kết thống nhất

chúng lại với nhau khiến con người có một điểm tựa khi biểu tượng chuyển di vào trong đầu

óc con người, giúp con người xâm nhập sâu hơn vào bản chất của hiện thực do chức năng

cộng hưởng của nó với môi trường xã hội nơi biểu tượng nảy sinh.

Từ những cách hiểu về nguồn gốc, bản chất và chức năng của biểu tượng như trên,

chúng tôi cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vậy khi nào một biểu tượng được gọi là biểu

20

tượng nghệ thuật? Và mối quan hệ của nó với những lí thuyết liên quan tới biểu tượng là kí

hiệu học, phân tâm học và huyền thoại học như thế nào?

1.2. Biểu tượng nghệ thuật

Nghệ thuật là một trong những hình thái nhận thức đời sống của loài người. Trong

qui trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ sẽ tư duy theo nhiều kiểu khác nhau. Chúng tôi

dùng thuật ngữ “biểu tượng nghệ thuật” để chỉ phương thức tư duy nhà văn sử dụng để sáng

tạo tác phẩm mà ở đây là thể loại tiểu thuyết. Qua đó chỉ ra những nét đặc trưng của biểu

tượng nghệ thuật. Trước hết, chúng tôi xem cái gì đã biến một thông điệp lời nói trở thành

một văn bản văn học.

Theo Jakobson, không thể đi tìm bản chất của văn học mà lại bỏ qua chất liệu thứ

nhất của nó là ngôn ngữ: “Một nhà ngôn ngữ học mà không biết gì về chức năng của thi ca

thì cũng như một chuyên gia văn học vô tâm đối với những vấn đề của ngôn ngữ học và mịt

mù với những phương pháp của ngành khoa học ấy, cả hai loại này về sau đều là những thứ

lỗi thời một cách quả tang”[26, 360]. Một văn bản nghệ thuật giá trị, ngoài sự nhận thức và

cảm hứng tư tưởng của nhà văn thì chất liệu ngôn ngữ là nhân tố vô cùng quan trọng trong

quá trình sáng tạo nghệ thuật. Văn chương không thể tồn tại ở ngoài xã hội, nó luôn luôn

biến chuyển cùng thời đại và chiếm một vị trí quan trọng trong các loại hình nghệ thuật.

Thấy được điều đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn

chương.

Biểu tượng nghệ thuật là những kí mã thẩm mĩ mang tính chủ quan nhưng chứa xúc

cảm của người nghệ sĩ nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của người tiếp nhận.

Vậy, biểu tượng nghệ thuật bao hàm những dấu hiệu, bản chất như biểu tưởng và ngoài ra

nó phải mang năng lượng xúc cảm của nhà văn.

Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật có những đặc trưng của một

phương thức tư duy nghệ thuật. Đó là tính cá thể hóa và tính khái quát hóa, tính phi vật thể

của hình tượng văn học. Đồng thời, biểu tượng nghệ thuật xét trên phương diện là một công

cụ chuyển nghĩa của lời nói, một cái biểu trưng chuyển tải nhiều cái được biểu trưng, tạo

nên sự đa nghĩa khi lí giải biểu tượng nghệ thuật. Ngoài ra tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật,

chúng ta phải vận dụng phương pháp liên ngành. Vì biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong kí

ức của nhân loại, như một thứ vô thức tập thể. Từ những điều trên ta mới có cơ may hiểu rõ

về biểu tưởng nghệ thuật.

21

Biểu tượng là sáng tạo độc đáo của nhà văn, cần phải nhìn nó trong mối tương quan

với chủ thể sáng tạo. Là một hình thức nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật không chỉ chuyển

tải thông điệp của nhà văn mà nó còn cộng hưởng với những yếu tố nghệ thuật khác trong

văn bản nhằm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo. Và văn bản mang tính biểu tượng

bao giờ cũng cổ sơ hơn văn bản phi biểu tượng.

Mỗi biểu tượng bao giờ cũng chứa một cái gì cổ sơ, thuộc về một thời đại văn hóa.

Ngược dòng thời gian nhìn về lịch sử nhân loại, khi con người chưa có chữ viết, họ đã sáng

tạo nên các kí hiệu, chúng được khắc trên những vách đá, đó là dạng biểu tượng sơ khai. Đi

cùng với nó là các chuyện kể, chúng được gìn giữ trong văn học dân gian. Ngoài ra còn một

đặc điểm khác cũng cổ sơ, thú vị hơn đối với chúng ta: mỗi biểu tượng như là một văn bản

đã hoàn thiện, không thể tham gia vào bất cứ chuỗi kết hợp khác, mà dù nếu có đưa vào thì

nó vẫn giữ tính độc lập về ý nghĩa và cấu trúc của nó. Nó dễ dàng tách khỏi môi trường kí

hiệu xung quanh, cũng như dễ dàng tham gia vào các kết hợp văn bản khác. Từ đó có thể

thấy biểu tượng nghệ thuật không bao giờ thuộc vào một mặt cắt đồng đại của văn hóa. Nó

bao giờ cũng xuyên qua mặt cắt đó bằng chiều thẳng đứng, đi từ quá khứ đến tận tương lai.

Tìm hiểu một biểu tượng có phải là biểu tượng nghệ thuật hay không là một việc làm

không khó, nhưng để chỉ ra giá trị và nghĩa của nó thì không đơn giản. Bởi biểu tượng

nghệ thuật hàm chứa tính nguyên hợp của tư duy nguyên thủy, gắn liền với những nhân tố

nghi lễ và ma thuật nên lí giải nó như một phương thức nghệ thuật là chưa đủ. Phải thấy

trong nó cái phôi mầm của văn hóa học, nhân học và ngôn ngữ học. Chính sự phức hợp, đa

tạp, đó là nét đặc thù rất riêng của biểu tượng nghệ thuật.

Những lí thuyết về biểu tượng nghệ thuật hiện nay vẫn chưa thống nhất, mỗi loại

hình nghệ thuật có những cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Và văn học, một hình thái nghệ

thuật nhận thức cuộc sống đặc thù mà đặc trưng của nó là sáng tạo nên những hình tượng

độc đáo không thể nào không dùng đến biểu tượng nghệ thuật. Từ đó biểu tượng nghệ thuật

trong văn học hay bị nhầm lẫn là hình tượng nghệ thuật.

Người nghệ sĩ với tư cách là chủ thể sáng tạo, anh ta nhận thức hiện thực và chuyển

nhận thức này thành thông điệp, gửi nó đến người tiếp nhận. Quá trình lập mã và chuyển mã

buộc nhà văn nên chọn mã nào. Mã đó là mã hình tượng hay mã biểu tượng, hay mã huyền

thoại là tùy vào đặc điểm của thông điệp. Chính các mã sẽ qui định phương thức tư duy

nghệ thuật của người nghệ sĩ. Và không có một ranh giới rạch ròi giữa các phương thức tư

duy. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ mà ngôn ngữ lại là tài sản chung của nhân loại. Các

22

phương thức tư duy nghệ thuật khác nhau sẽ biểu đạt thông điệp khác nhau. Trong tư duy

hình tượng, mỗi hình tượng nghệ thuật sẽ biểu đạt một ý nghĩa nhất định. Trong tư duy biểu

tượng, một biểu tượng sẽ biểu trưng nhiều hơn một ý nghĩa. Chỉ những hình tượng nghệ

thuật nào vươn lên đến mức điển hình hóa mới có thể trở thành biểu tượng nghệ thuật. Biểu

tượng nghệ thuật có nguồn gốc ở văn hóa. Việc hiểu biểu trưng nghệ thuật, cắt nghĩa nó

phải vận dụng cả góc nhìn đồng đại lẫn lịch đại. Nghĩa là, xem xét một biểu tượng nghệ

thuật nào đó không chỉ với nghĩa mà nó tạo dựng mà cả quá trình hình thành nghĩa biểu

tượng này trong đời sống cộng đồng. Đồng thời đặt nó dưới ánh sáng của các ngành khoa

học xã hội.

Biểu tượng nghệ thuật là một kí mã thẩm mỹ đặc thù. Nếu cấu trúc của một kí hiệu là

mối quan hệ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ chế võ đoán, thì cấu trúc của

biểu tượng nghệ thuật lại khác. Tiếp nối Saussure, nhà ngôn ngữ học Hjelmslev đã chỉ ra

trong ngôn ngữ không chỉ có nghĩa biểu thị cho khái niệm mà còn chứa một nghĩa hàm.

Sơ đồ 1.1. “Cú pháp học hàm nghĩa nghĩa của R.Bathes” [59]

Dựa vào sơ đồ trên, chúng tôi thấy có hai hệ thống. Hệ thống A đó một kí hiệu biểu

thị, nó chứa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Hệ thống này lại làm hình thức hay làm cái

biểu đạt cho hệ thống B, hệ thống kí hiệu học nghĩa hàm. Hai hệ thống A và hệ thống B tạo

nên hệ thống siêu kí hiệu, hay còn gọi là biểu tượng nghệ thuật.

Vận dụng vào văn học, những hình tượng nghệ thuật muốn trở nên hấp dẫn và độc

đáo phải thống nhất và biện chứng với hình thức nghĩa hàm. Có như vậy chúng mới chuyển

tải sâu sắc nội dung cho nghĩa hàm, làm thành biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm.

Biểu tượng nghệ thuật được thoát thai từ biểu tượng văn hóa. Nó tồn tại suốt tiến

trình tiến hóa của lịch sử loài người và thuộc về vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại,

tồn tại dưới dạng những nguyên mẫu. Biểu tượng chỉ trở thành biểu tượng nghệ thuật khi

23

thấm đẫm cảm xúc thẩm mỹ cũng như phong cách cá nhân của nhà văn. Trong văn học,

biểu tượng nghệ thuật là một cấu trúc chứa hàm nghĩa, có quan hệ gắn bó mật thiết với hình

tượng nghệ thuật, muốn giải mã nghĩa của biểu tượng nghệ thuật, buộc người nghiên cứu

phải vận dụng phương pháp liên ngành mới có cơ may tiệm cận được sâu sắc ý nghĩa của

chúng. Đồng thời xem xét và lí giải mỗi biểu tượng nghệ thuật phải đặt chúng vào trong hệ

thống. Chỉ có trong hệ thống chúng ta mới thấy hết mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố

biểu tượng nghệ thuật. Cuối cùng phải thấy rằng tiếp cận văn bản dưới góc nhìn biểu tượng

không chỉ cho thấy được những giá trị thẩm mỹ của văn bản nghệ thuật mà còn cả giá trị

nhân văn của nó.

Muốn xác định một biểu tượng có phải là biểu tượng nghệ thuật hay không, chúng tôi

đưa ra một số tiêu chí: trước hết, là tần số lặp lại của nó trong văn bản nghệ thuật. Sau đó

xem biểu tượng nghệ thuật có chuyển tải được mối quan hệ giữa nghĩa biểu hiện và nghĩa

hàm khi xét nó như cái biểu đạt cho hình tượng nghệ thuật. Biểu tượng sẽ mang tính nghệ

thuật khi mặt tượng trưng của nó hàm chứa xúc cảm thẩm mỹ của người sáng tạo. Bản thân

nó phải mang đậm cá tính sáng tạo làm nên phong cách của nhà văn. Ngoài ra đó là những

cổ mẫu, thấm đẫm vô thức tập thể của một thứ huyền thoại đạt tầm nhân loại. Từ đó chúng

tôi thấy biểu tượng nghệ thuật nếu xét trên phương diện ngôn ngữ thì nó là một cách tư duy

ngôn ngữ, như ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ, ngụ ngôn,…Bởi tất cả chúng đều là những phép

chuyển nghĩa, mang trong mình cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nhưng nếu xét trên

phương diện nghĩa, không được nhầm chúng với biểu tượng nghệ thuật. Để phân biệt các

khái niệm trên với biểu tượng nghệ thuật, người nghiên cứu phải có những tiêu chí phân loại

dẫu chỉ mang tính tương đối.

Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa nhằm dựa trên sự tương đồng của hai sự vật mà

giữa chúng có có nghĩa bị che dấu. Như vậy, nghĩa ẩn đi có gốc từ nghĩa được hiện lên. Vậy

là nó không có sự liên tưởng đến nhiều nghĩa như biểu tượng nghệ thuật, dẫu chúng vẫn có

nghĩa gốc. Với hoán dụ, phép chuyển nghĩa này dựa trên sự liên tưởng tương cận giữa

những sự vật có nét tương cận giữa chúng. Vậy ẩn dụ và hoán dụ có sự gần nhau về nghĩa

với biểu tượng nghệ thuật. Nhưng hoán dụ là dấu hiệu để chỉ ra nghĩa phái sinh từ một nghĩa

gốc, do đó chúng không phải là biểu tượng nghệ thuật. Còn với ngụ ngôn, ta thấy được một

bài học luân lí từ một hình tượng nghệ thuật nào đó gợi lên. Ngụ ngôn chỉ biểu đạt được một

nghĩa duy nhất. Phúng dụ là một thủ thuật dùng người hay vật để nói về một việc khác.

Nhưng nghĩa của nó hiện trên bình diện bề mặt hình tượng, không có sự hàm ý về nghĩa:

24

“Chuyển dịch sang một bình diện mới của tồn tại, cũng không đào thêm vào một chiều sâu

của ý thức; đây là sự biểu hình, ở cùng một cấp độ ý thức, cái mà đã có thể biết khá rõ bằng

một cách khác”[10, XVIII].

Biểu tượng nghệ thuật chứa đựng tính đa trị về nghĩa, đòi hỏi phải giải mã nhiều lần mới

hiểu rõ nghĩa. Nó có sự giống và khác với các phương thức tu từ trong văn học. Nghiên cứu

về biểu tượng cần một sự phân loại. Từ hướng suy nghĩ đó, chúng tôi thử tìm hiểu sự giao

thoa của biểu tượng nghệ thuật với những lí thuyết gần gũi với nó là kí hiệu học và huyền

thoại học.

1.3. Những lí thuyết liên quan đến Biểu tượng nghệ thuật

1.3.1. Biểu tượng nghệ thuật với kí hiệu học

Kí hiệu học là một ngành khoa học được ra đời muộn trong thế kỉ XX. Nhưng nó đã

đóng góp rất lớn cho khoa học xã hội, đặc biệt là ngữ văn học. Bởi đối tượng mà nó nghiên

cứu là ngôn ngữ, “chất liệu thứ nhất của văn học”(Gorhki). Công lớn phải được ghi cho

cha đẻ ngôn ngữ học hiện đại là F.Saussure. Ông đã chỉ ra cơ chế hai mặt của cái biểu đạt và

cái được biểu đạt dựa trên một quan hệ võ đoán để từ đó phác thảo nên mô hình biểu tượng,

“biểu trưng có một đặc tính là không bao giờ hoàn toàn võ đoán nó không phải là trống

không ở đây có một yếu tố tương quan cổ sơ nào đấy, giữa biểu đạt và cái sở biểu. Biểu

trưng của công lý là cái cân không phải lấy cái gì thay thế cũng được”[41, 112]. Đồng thời

ông lưu ý mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ, “chất liệu ngữ âm cũng chẳng cố định mà

hữu hình hơn tư duy, nó không phải là một cái khuôn trong đó tư duy nhất định phải được

đúc thành hình khối, mà là một chất liệu mềm dẻo”[41, 281]. Chính những suy nghĩ ấy đã

gợi ý cho các nhà khoa học đến sau một hướng nghiên cứu về ngôn ngữ mới, đó là kí hiệu

học.

Sau Sassure, khoa học về kí hiệu đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Một loạt

những nhà lí luận văn học có uy tín trên thế giới đều đã ít nhiều vận dụng kí hiệu học vào

phân tích văn bản. Một trong số đó là nhà ngữ văn học I. U. Lotman, ông là nhà kí hiệu học

lớn không chỉ ở Nga mà còn trên thế giới. Tầm vóc về tư tưởng của ông đã được thể hiện

trong khoảng 800 công trình nghiên cứu về khoa học xã hội có giá trị. Nhất là những khám

phá của I. U. Lotman về bản chất của kí hiệu trong văn bản nghệ thuật. Ông và Bakhtin

được xem là những nhà lí luận văn học kiệt xuất của thế kỉ XX.

25

I. Lotman cho rằng, văn bản nghệ thuật thực chất là một mô hình giao tiếp, nơi hội tụ

nghệ thuật và dung kết tư tưởng của nhà văn. Nhà nghiên cứu phải khảo sát thật chi tiết văn

bản mới chỉ ra được tư tưởng của người nghệ sĩ gửi gắm, “tư tưởng của nhà văn được hiện

thực hóa trong một cấu trúc nghệ thuật xác định và không thể tách ra được khỏi nó”[31,

30]. Ông cho rằng tính chất: hình thức phù hợp với nội dung sẽ đúng trong ý nghĩa triết học,

nhưng với văn học nghệ thuật nó tồn tại nhiều bất cập, “tư tưởng không được chứa đựng

trong bất kì trong những trích đoạn cho dẫu gọn ghẽ nào, mà được diễn đạt trong toàn bộ

cấu trúc nghệ thuật” [31,31]. Do đó, “tính nhị nguyên của hình thức và nội dung cần phải

được thay thế bằng khái niệm về cái tư tưởng hiện thực hóa bản thân mình trong một cấu

trúc thích hợp và không tồn tại bên ngoài cấu trúc đó”[31, 30]. Bởi văn bản nghệ thuật

chứa những ý nghĩa vô cùng phức tạp. Chúng ta phải xét nó trên phương diện nghĩa hàm

chứ không chỉ dừng lại ở nghĩa biểu hiện.

Từ cách đặt vấn đề trên, nhà nghiên cứu đã đi vào làm rõ những dấu hiệu đặc trưng

của văn học để chỉ ra bản chất của văn bản nghệ thuật như một hệ thống kí hiệu giao tiếp

nhằm mô hình hóa quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc sống. Văn học

đặc thù hơn những ngành nghệ thuật khác bởi công cụ mà nó truyền tin là ngôn ngữ, “một

hệ thống trừu tượng nhưng lại có tính xác định, chung cho cả người truyền đạt lẫn người

tiếp nhận, cái hệ thống làm cho chính hành vi giao tiếp trở thành cá thể”[31, 37]. Và kí hiệu

học sẽ làm nhiệm vụ nghiên cứu những ngôn ngữ tự nhiên xuất hiện trong xã hội, còn biểu

tượng nghệ thuật cần xem xét ngôn ngữ nghệ thuật mang nghĩa hàm của văn bản nghệ thuật.

Do đó chúng tôi tiến hành xem xét biểu tượng nghệ thuật để chỉ ra được tư tưởng nhân đạo

và giá trị nhân văn, giá trị thẩm mĩ của văn bản Âm thanh và cuồng nộ. Để thấy được sự

chuyển dịch từ kí hiệu phổ thông, ngôn ngữ tự nhiên sang ngôn ngữ nghệ thuật, kí mã ngôn

ngữ sang kí mã thẩm mỹ. Nó là sự phân tầng biểu tượng nghệ thuật giữa các liên tưởng trên

bình diện cú đoạn lẫn hệ hình.

Nhìn văn học dưới ánh sáng biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên cứu triển vọng.

Bởi biểu tượng nghệ thuật mang những phẩm chất tạo tác sự cô đúc và hàm xúc, chứa đầy

năng lượng cảm xúc ở cả người phát lẫn người nhận. Biểu tượng nghệ thuật là một hệ thống

kí mã thẩm mỹ đặc thù và hàm chứa những tư tưởng nghệ thuật. Người nghiên cứu phải

phân biệt được đâu là kí hiệu đơn thuần và đâu là biểu tượng nghệ thuật. Lấy hình ảnh “mặt

trời” làm một dẫn chứng. Chúng tôi thấy, với nhà kí hiệu học, hình ảnh này mang những

nghĩa sau: vật thể chứa đựng sức nóng, đặc tính phát sáng và cả khả năng đốt cháy, thiêu

26

hủy vật thể. Nhưng khi “mặt trời” được nhìn qua đôi mắt của Tố Hữu, nó đã trở thành biểu

tượng nghệ thuật, “mặt trời chân lí”. Từ đó nó không chỉ mang trong mình những thuộc

tính của sự vật ban đầu mà còn khoác lên mình những nghĩa tương quan với người nhìn nó.

Lúc này “mặt trời chân lí”, sẽ có thêm nghĩa, đó là con đường soi sáng cho lí tưởng cách

mạng của những người vô sản. Từ hình ảnh đến biểu tượng và trở thành biểu tượng nghệ

thuật là một đường đi qua nhiều khúc đoạn. Hình ảnh khi trở thành biểu tượng nghệ thuật sẽ

trở nên đa nghĩa, đấy sức gợi, chứa giá trị mới. Ngoài ra còn phải gắn với cái nhìn phâm tâm

học để thấy được chiều sâu văn hóa của hình ảnh đã trở thành biểu tượng, vì bản chất của

biểu tượng, “soi sáng hoạt động của cơ chế vô thức trong các hệ thống kí hiệu”[15, 15].

Đồng thời biểu tượng được nhìn qua đôi mắt của một chủ thể quan sát. Nên nó gắn

với tư tưởng của người quan sát biểu tượng và cả kết cấu nơi biểu tượng được đưa vào như

một thành tố của văn bản. Khi đó sẽ thấy biểu tượng ở văn bản nghệ thuật những thuộc tính,

tính đơn lập, tính cá biệt và tính cấu trúc (Lotman). Muốn xét nội dung những đặc tính này

cần một cơ chế chuyển mã.

Rõ ràng kí hiệu học và biểu tượng nghệ thuật có mối tương quan mật thiết với nhau.

Chúng tôi muốn khu biệt những đặc trưng của nó. Cố gắng xem xét nó trong mối tương

quan giữa nghĩa hàm với biểu tượng nghệ thuật, cơ chế chuyển mã để một hình tượng nghệ

thuật, những phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, hoán dụ,… trở thành biểu tượng nghệ thuật.

Những vấn đề trên chỉ có thể được rọi sáng dưới ánh sáng của nhiều ngành khoa học xã hội

đặc biệt là tâm lí học.

1.3.2. Biểu tượng nghệ thuật với phân tâm học

Thế kỉ XX đã chứng kiến sự phát triển của nhiều học thuyết tâm lí trong đó phân

tâm học là một phát kiến vĩ đại. Phân tâm học soi rọi vào khoa học nhân văn những phát

hiện vô cùng thú vị, khám phá giá trị được ẩn dấu trong các biểu tượng văn học. Cha đẻ của

nó là S.Freud. Với học thuyết của mình, Freud khám phá lại con người, đặc biệt là vấn đề vô

thức và tính dục. Ông cũng dành nhiều sự quan tâm cho văn học. Freud dùng học thuyết

phân tâm học tìm hiểu một số tác phẩm văn học nghệ thuật. Và ông qui những sáng tạo

nghệ thuật này là do năng lượng tính dục của nhà nghệ sĩ, “tư duy vô thức là một tư duy bị

ước muốn chế ngự và luôn là một tư duy đi tìm lạc thú, không phục tùng trình tự thời gian,

cũng không phục tùng sự hợp lí”[48, 35].

Không đồng tình với những ý kiến của thầy mình, C. Jung cho rằng, quá trình tạo tác

nên tác phẩm có bàn tay rất lớn của tiềm thức chứ không chỉ dục tính, đặc biệt là vô thức.

27

Phân tâm học của C. Jung có những đóng góp rất quan trọng cho văn học. Chính ông là

người đề xuất khái niệm cổ mẫu. Theo Jung mỗi sáng tạo của người nghệ sĩ đều không chỉ

bị chi phối bởi ý thức mà còn bởi vô thức. Lực sáng tạo nên tác phẩm văn học không phải

là năng lượng tính dục như Freud nghĩ mà là vô thức tập thể, có mầm mống lâu đời trong

lịch sử hình thành nhân loại. Văn học nhận thức đời sống với những biểu tượng nguyên mẫu

phải có mối quan hệ với vô thức, “tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng nhưng phải là

tác phẩm có cội nguồn không phải trong cá nhân tác giả vô thức mà là trong phạm vi của

huyền thoại vô thức và những hình tượng của nó là tài sản chung của cả nhân loại”[27, 78].

Ý nghĩa của một tác phẩm văn học chân chính, “là ở chỗ người ta có thể lôi được nó từ ở

chỗ chật chội và bí ẩn của lĩnh vực cá nhân ra khoảng không rộng lớn, bỏ mặt lại sau tất cả

tính tạm thời và hữu hạn của một cá tính bị giới hạn”[27, 62]. Phân tâm học của Jung cho

rằng biểu tượng nghệ thuật, “phải được xem là khả năng có một ý nghĩa khác rộng hơn, cao

hơn nằm ngoài năng lực cảm nhận và ám chỉ đến ý nghĩa đó của chúng ta”[27, 79]. Vì cổ

mẫu là một sản phẩm được hình thành trong một chiều dài lịch sử của văn hóa loài người,

nó thật sự: “Nối liền văn học với các hiện tượng văn hóa bằng cách đặt văn học vào một

không gian văn hóa rộng lớn từ đó nhấn mạnh hiện tượng tương đồng và khác biệt của văn

học với những giấc mơ huyền thoại, folklore, huyễn tưởng hoặc tôn giáo”[36, 12].

“Thăm dò tiềm thức” là tiểu luận rất có giá trị của C. Jung. Nó gợi mở nhiều vấn đề

thú vị cho các nhà nghiên cứu biểu tượng. Bởi cách hiểu về biểu tượng nghệ thuật của Jung

là sâu sắc. Ông không quá thiên về cảm tính như Freud hay nặng về cấu trúc ngôn ngữ như

Lacan, biểu tượng nghệ thuật mà Jung hiểu gắn liền với văn hóa. Jung tiếp cận vấn đề biểu

tượng dựa trên giấc mơ của con người, “biểu tượng giấc mơ là nguồn gốc chính để ta tìm

hiểu vấn đề biểu tượng”[36, 148]. Với C. Jung cái: “Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh

từ, một tên gọi hay một hình ảnh đã quen thuộc với ta hằng ngày, nhưng còn gợi ra những ý

nghĩ khác thêm vào ý nghĩ ước định hiển nhiên của nó. Biểu tượng gợi lên một cái gì mờ

mịt, xa lạ hay tàng ẩn đối với ta”[36, 107].

Công cụ để tìm hiểu biểu tượng theo ông là giấc mơ, “khi chúng ta muốn tìm hiểu

khả năng tạo ra biểu tượng của con người, chúng ta phải nhận thấy giấc mơ là tài liệu

chính yếu và dễ thăm dò nhất để khảo sát”[36, 122]. Bởi giấc mơ là lằn ranh giữa vô thức

và ý thức của con người. Nó là tiềm thức, đi vào giấc mơ, ta không chỉ thấy những ẩn ức

dục tính: “Người ta tìm thấy trong mộng mị những hình ảnh và những liên hệ tưởng tượng

tự ý tưởng, huyền thoại và nghi lễ thờ phụng của người cổ xưa”[36, 138]. Và tìm hiểu về

28

con người luôn là một công việc không dễ, “ở thời đại xã hội đảo lộn và thay đổi nhanh

chóng, nên biết nhiều hơn về con người, kể riêng lẻ từng cá nhân, bởi vì rất nhiều sự tùy

thuộc những đức tính tinh thần và đạo đức của mỗi người. Tuy nhiên nếu chúng ta muốn

nhìn sự vật cho đúng, là phải hiểu quá khứ của loài người cũng như thực tại của loài người.

Bởi vậy cho nên tìm hiểu thần tượng và biểu tượng là điều chính yếu”[15, 154]. Muốn tìm

hiểu được biểu tượng nghệ thuật theo ông, “phải xem xét biểu tượng liên hệ với một kinh

nghiệm hoàn toàn cá nhân hay người tạo ra nó nhân một giấc mơ, nhân một trường hợp

đặc biệt có vận dụng cái hiểu biết của một ý thức tập thể”[36, 199]. Cổ mẫu theo C. Jung là

hình ảnh chứa năng lượng cảm xúc: “Siêu tượng vừa là hình ảnh lại vừa là xúc động. Người

ta chỉ có thể nói đến siêu tượng khi nào hai khía cạnh đó cùng xuất hiện cùng một lúc. Khi

nào chỉ có tả cảnh thì siêu tượng chỉ tương đương với một sự tả cảnh không có âm vang gì.

Nhưng khi siêu tượng chất chứa xúc động tâm tình thì hình ảnh trở nên huyền nhiệm”[27,

154]. Và Jung thừa nhận, “không thể lấy một định nghĩa chuẩn xác để diễn đúng bản chất

của nó” chỉ có thể sử dụng nó tùy vào mục đích của cá nhân hướng đến vì, “biểu tượng bao

giờ cũng giữ vai trò như là cương lĩnh cô đọng của quá trình sáng tạo”(C. Jung).

Chính vì lẽ đó, chúng tôi mới cố gắng phân biệt dẫu chỉ là sơ bộ biểu tượng nghệ

thuật và phân tâm học. Ngoài ra biểu tượng nghệ thuật còn liên quan mật thiết với một khái

niệm khác không kém phần phức tạp là huyền thoại.

1.3.3. Biểu tượng nghệ thuật với huyền thoại học

Nếu có một thuật ngữ khoa học nào gây sự tranh cãi nhiều nhất ở thế kỉ XX thì có lẽ

đó là thuật ngữ “huyền thoại”. Công trình “Thi pháp của huyền thoại” của E.Meletinsky đã

tóm lược gần như tất cả những lí thuyết mới nhất về huyền thoại từ trước đến nay. Từ công

trình này và những cuốn sách viết về huyền thoại ở Việt Nam, chúng tôi thấy những dấu

hiệu liên quan giữa huyền thoại và biểu tượng nghệ thuật.

“Huyền thoại là một hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một

phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại xung quanh và bản chất của con người. Huyền

thoại cũng là mô hình của mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của mọi loại hình văn hóa

khác nhau”[33, XIV]. Huyền thoại cũng cổ sơ như biểu tượng vì mục đích của nó, “duy trì

sự hòa hợp giữa cá nhân, xã hội và tự nhiên, duy trì trật tự xã hội và vũ trụ”[33, XV]. Vì

con người trong huyền thoại chưa thể tách mình ra khỏi tự nhiên nên huyền thoại thời cổ là

một phương thức tư duy nguyên hợp, nó có quan hệ mật thiết với nghi lễ và biểu tượng.

29

Vấn đề thấy mối quan hệ giữa huyền thoại và biểu tượng là vô cùng cần thiết. Thế kỉ

XX nhân loại chứng kiến sự trở lại của phương thức tư duy huyền thoại trong văn học.Theo

chúng tôi huyền thoại luôn sống trong tâm thức mỗi con người và chỉ chờ vào những biến

cố lịch sử để biểu hiện mình. Chính sự khủng hoảng về các giá trị xã hội đầu thế kỉ XIX

được các nhà văn tái hiện bằng sự phân tích xã hội và phân tích lịch sử sâu sắc trong các tác

phẩm của họ. Đến thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng xã hội đã lên đến đỉnh điểm. Các giá trị đạo

đức mà nhân loại gìn giữ đã bị phá tan, đời sống chính trị đầy biến động... Nhà văn muốn

khám phá sâu hơn về con người và hiện thực đời sống. Do đó, huyền thoại được họ sử dụng

như một phương thức chuyển tải thông điệp của họ về con người và cuộc sống lúc này. Đó

là cách nhìn huyền thoại dưới góc nhìn lịch đại.

Với góc nhìn đồng đại, chúng tôi thấy rằng một hình ảnh đạt tầm huyền thoại phải

mang trong nó tính khái quát và gợi lên “kí ức nhân loại”. Điều đó lí giải được tại sao

những tác phẩm văn học tồn tại qua thời gian và vượt khỏi biên giới của dân tộc, gia nhập

vào di sản văn học nhân loại. Trở lại với hình ảnh “Mặt trời”, khi đã trở thành một biểu

tượng nghệ thuật với ý nghĩa là sự vật soi đường cho những người chiến sĩ giác ngộ được

con đường cách mạng đúng đắn. “Mặt trời chân lí” còn mang trong bản thân dấu vết của

một thực thể tồn tại gắn liền với những nghi lễ cổ xưa gắn bó mật thiết trong tư duy loài

người. “Mặt trời”, được tìm thấy trong rất nhiều câu chuyện thần thoại cả phương Đông lẫn

phương Tây. Ở Trung Quốc đó là truyện Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời, ở Phương Tây hình

ảnh này gắn với Thần thoại Hi Lạp, câu chuyện con thần Mặt trời không nghe lời cha và bị

chết vì sức nóng của Mặt trời. Rõ ràng, biểu tượng này đã gắn bó mặt thiết trong các nghi lễ

hiến sinh ở các dân tộc trên thế giới. Và hình ảnh “mặt trời” được soi sáng dưới ánh sáng

huyền thoại đã lí giải được tâm thức xem trọng và sùng bái biểu tượng này.

Từ đó, khi khảo sát và phân tích những biểu tượng nghệ thuật chứa trong văn bản

nghệ thuật, chúng tôi có một cái nhìn biện chứng hơn về tư duy biểu tượng. Thật ra phương

thức tư duy huyền thoại xuất hiện khi con người chưa có sự phân loại, trừu xuất mình ra

khỏi tự nhiên. Mọi vật xung quanh được họ nhìn trong trạng thái “vạn vật hữu linh”, có “sự

nhân hóa tự nhiên so sánh ẩn dụ, thậm chí là có sự đồng nhất giữa tự nhiên và những vật

thể văn hóa; có sự nhân cách hóa mọi vật, hình dung cái tổng thể như là cái cụ thể cảm

tính, không phân biệt đối tượng và kí hiệu, biểu tượng và mô hình, sự vật và ngôn từ”[33,

XV]. Chính sự xếp chồng, lẫn lộn những hình ảnh như vậy nên huyền thoại hàm chứa cả

biểu tượng nghệ thuật, nếu xuất phát huyền thoại, “chuyện về các nguồn gốc thế giới, về các

30

hiện tượng tự nhiên, về các thần và các anh hùng văn hóa. Nó là yếu tố cấu thành của ý

thức tập thể, được dùng làm phương tiện hài hòa hóa quan niệm về thế giới chung quanh và

về vị trí của con người trong đó”[33, XVIII]. Thì khi đi vào văn học, huyền thoại là một

phương thức tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ. Truy nguyên thuật ngữ “huyền thoại”,

nhiều nhà nghiên cứu đã tìm đến từ “Mythos”, với nghĩa, “lời nói mơ hồ tối nghĩa, cần

phải giải mã mới tìm ra được ẩn ý”(Phùng Văn Tửu). Và nó được dùng để phân biệt với

“Logos”, những sự kiện có thể xác minh được bằng chứng cứ chắc chắc. Do đó R. Bathes

cho huyền thoại là một ngôn từ. Nhưng không phải mọi lời nói đều là ngôn từ, ngôn từ trở

thành huyền thoại khi nó mang theo thông báo đặc biệt. Và theo ông nghiên cứu huyền thoại

thật ra là nghiên cứu về kí hiệu học, “huyền thoại thuộc về một khoa học tổng quát mở rộng

của ngôn ngữ học, và đó là kí hiệu học”(R.Bathes).Trong bản thân huyền thoại luôn chứa

đựng hạt nhân mơ hồ, tối nghĩa. Điều này không chỉ vì sự ẩn dấu sau những biểu tượng

ngôn từ như R. Bathes đã thấy. Mà bởi biểu tượng trong huyền thoại còn thuộc về cấu trúc

bề sâu của tâm thức nhân loại và sự sáng tạo của người nghệ sĩ.

Theo chúng tôi huyền thoại gần với biểu tượng bởi đó là những “mô hình do nghệ sĩ

sáng tạo ra trong tác phẩm”(Garaudy). Theo Garaudy, “nghệ thuật là nhận thức, nhưng là

nhận thức mang tính đặc thù bởi đối tượng của nó và bởi ngôn ngữ của nó: con người nhận

thức quyền lực sáng tạo của mình và bằng ngôn ngữ chẳng bao giờ cạn của huyền

thoại”[45, 216]. Huyền thoại và biểu tượng nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ hai, giúp con

người đi sâu vào khám phá sự bí ẩn của cuộc sống tâm linh của con người và vũ trụ rộng

lớn. Huyền thoại cũng như biểu tượng luôn có tính khơi gợi đến vô cùng. Những tác phẩm

chứa yếu tố huyền thoại sẽ có sức chứa và sức mở to lớn vì, “huyền thoại là hình tượng

nghệ thuật gián tiếp, có tầm tư tưởng cao và sức khái quát sâu”(Phùng Văn Tửu). Nghĩa là

bên ngoài nghĩa bề mặt, tác phẩm ấy chứa đựng những nghĩa khác, chuyện khác. Huyền

thoại thường được các nhà nghiên cứu phân loại thành ba kiểu, một đơn vị tình tiết của cốt

truyện, một sáng tạo lời nói chứa sức khái quát cao và là một phương thức tư duy nghệ

thuật.

Huyền thoại như là một sáng tạo lời nói bởi nó gắn bó mật thiết và sâu sắc với yếu tố

nghi lễ và ma thuật. Trong huyền thoại có lưu giữ kí ức thể loại của quá khứ. Nó lại mang

sức khái quát cao vì bên trong cái tổng thể này luôn chứa đựng những yếu tố cổ sơ. Đó là

tính chất im lặng, u huyền cần phải được giải mã. Cho nên biểu tượng được ẩn dưới bộ cánh

của huyền thoại. Đồng thời chúng tôi thấy biểu tượng không chỉ là cái che dấu cảm quan

31

huyền của huyền thoại mà chính: “Cảm quan siêu tự nhiên về thế giới mới là yếu tố cổ sơ

của huyền thoại”[11, 25]. Từ đó chúng tôi cho rằng sợi dây liên hệ giữa huyền thoại và biểu

tượng là vô cùng mật thiết. Chính cây cầu huyền thoại đã nối kết biểu tượng nghệ thuật như

hệ thống tín hiệu thứ hai để nhà văn khái quát những hiện thực được ẩn sâu trong tiềm thức

con người. Vậy huyền thoại đã chuyển hóa vào văn học và hình thành nên biểu tượng nghệ

thuật như thế nào?

Theo chúng tôi, vì huyền thoại với tư cách một hệ thống tín hiệu thứ hai được con

người sáng tạo nên. Nó chứa những mẫu gốc của vô thức tập thể, các mẫu gốc này có nguồn

gốc từ trong tâm thức của cộng đồng nhân loại. Do đó huyền thoại mang trong mình hai đặc

trưng cơ bản là “tính phổ biến và tính khả biến”(Đào Ngọc Chương). Nhờ hai thuộc tính

trên mà huyền thoại dễ dàng được chuyển hóa vào trong văn học. Vậy biểu tượng nghệ

thuật với tư cách là sáng tạo của nhà văn phải được nhìn trong mối quan hệ gắn bó mật thiết

với kí hiệu bởi nó là một hệ thống tín hiệu thông báo của chủ thể. Đồng thời nó được thoát

thai trong tâm thức huyền thoại nên dấu ấn của huyền thoại trong biểu tượng là vô cùng bền

chặt. Muốn chỉ ra được hàm ý của biểu tượng được nhà văn sử dụng trong văn bản nghệ

thuật, người nghiên cứu phải gắn biểu tượng đó với huyền thoại mới thấy được hết cá tính

sáng tạo và sức khái quát mà biểu tượng nghệ thuật mang lại cho tác phẩm.

Vậy, biểu tượng nghệ thuật trong văn học được chúng tôi nhìn dưới góc độ là kí mã

thẩm mỹ đặc thù, có nội hàm là những thuộc tính đặc trưng cơ bản của một kí hiệu mang

nghĩa hàm và ngoại diên của nó là cách thức nhận thức hiện thực của huyền thoại.

Tóm lại biểu tượng nghệ thuật phải được nhìn trong mối tương quan mật thiết và liên

đới với kí hiệu như một phương thức tạo nghĩa, với phân tâm học như một thành tố văn hóa

và với huyền thoại như cách thức tạo sự khái quát thẩm mỹ mang tầm nhân loại. Những

biểu tượng nghệ thuật nào chứa những nguồn năng lượng như vậy mới có thể trở thành

những biểu tượng nghệ thuật có giá trị.

Lí thuyết về biểu tượng nghệ thuật vẫn chưa được định hình một cách rắn chắc và

chặt chẽ như hình tượng nghệ thuật. Do đó hiểu biểu tượng nghệ thuật từ một lí thuyết nhân

học hay văn hóa học, tâm lí học, triết học,… e rằng có phần hơi dập khuôn. Tìm hiểu biểu

tượng nghệ thuật trong văn học phải có sự liên hội giữa những lí thuyết trên với hai hạt nhân

cơ bản của nó là kí hiệu học và huyền thoại. Đồng thời, nên đặt những biểu tượng nghệ

thuật dưới cái nhìn của thi pháp học và phân tâm học để giải mã yếu tố hình thức này.

32

Chúng đã góp phần soi sáng thông điệp gì mà nhà văn muốn gửi cho người đọc ? Qua đó

thấy được mô hình quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc sống.

Tiểu kết chương 1:

Biểu tượng là một yếu tố của văn hóa nhân loại, do đó chúng tôi cố gắng truy tìm

nguồn gốc của nó trong ngôn ngữ và tư duy của loài người để từ đó thấy được những đặc

trưng cơ bản của yếu tố hình thức này.

Biểu tượng mang tính nguyên hợp, biểu tượng nghệ thuật là thuật ngữ đa nghĩa,

chúng tôi cố gắng khu biệt những dấu hiệu đặc trưng của nó trong văn học, dồng thời đưa

ra một số tiêu chí để nhận diện và hướng phân tích biểu tượng nghệ thuật. Đi cùng với đó là

việc tìm hiểu sự chuyển hóa từ biểu tượng nghệ thuật vào trong tác phẩm văn học và trở

thành một yếu tố hình thức trong chỉnh thể văn bản nghệ thuật.

Quá trình tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật chúng tôi thấy có ba lí thuyết liên quan mật

thiết đến nó là kí hiệu học, phân tâm học và huyền thoại học. Từ đó chúng tôi thấy mối quan

hệ giữa chúng. Điều đó sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về mối quan hệ và sự xâm nhập lẫn

nhau giữa các lí thuyết này để nhằm khu biệt và chỉ ra biểu tượng nghệ thuật một cách chính

xác và hợp lí hơn.

Việc giải mã biểu tượng nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật không những tìm thấy

được giá trị thẩm mỹ từ văn bản mà còn là giá trị nhân bản, nhân văn mang tầm nhân loại

của tác phẩm.

Từ cách hiểu và những suy nghĩ về biểu tượng nghệ thuật trên, chúng tôi sẽ đi vào

khám phá những hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ

của William Faulkner.

33

CHƯƠNG 2: HỆ BIỂU TƯỢNG ÂM THANH TRONG “ÂM THANH

VÀ CUỒNG NỘ”

2.1. William Faulkner với “Âm thanh và cuồng nộ”

2.1.1. William Faulkner (1897-1962)

William Faulkner là nhà văn thuộc thế kỉ XX, một thế kỉ đầy sự biến động về chính

trị, văn hóa và xã hội. Cuộc đời ông trải qua rất nhiều thăng trầm cuộc sống. Faulkner sinh

ra trong một gia đình quí tộc miền Nam nước Mỹ. Miền Nam với bao câu chuyện huyền

thoại của người da đỏ đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn, tạo những ấn tượng sâu đậm, làm

thành nguồn tư liệu cho các câu chuyện của ông. Bản thân Faulkner cùng gia đình trải qua

nhiều biến cố, chúng khiến tâm thức người nghệ sĩ có những vết hằn kí ức rất sâu, có thể

thấy rõ nó từ các tiểu thuyết viết theo lối tự thuật của Faulkner. Các tiểu thuyết của Faulkner

hiện lên hình ảnh con người bất hạnh cùng những mảnh đời đầy bi kịch. Ngoài ra, việc sớm

đến những trung tâm văn hóa lớn ở châu Âu như Pháp và Ý đã giúp ông tiếp cận được với

nhiều trào lưu và trường phái văn học lúc bấy giờ. Đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng cùng

những khám phá to lớn về khoa học cơ bản và khoa học xã hội ở Âu châu.

Trước khi trở thành nhà văn, Faulkner viết khá nhiều thơ nhưng ông sớm nhận ra

mình không có sở trường với thể loại này. Một phần chất thơ đã đi vào các trang văn xuôi

của Faulkner làm câu văn tiểu thuyết của ông thêm hàm xúc, cô đọng, chứa được nhiều

thông điệp nghệ thuật của nhà văn.

Và sau cùng, là người nghệ sĩ chân chính Faulkner cố gắng đấu tranh cho quyền lợi

và hạnh phúc của con người. Mỗi trang văn của ông luôn chứa đựng khao khát giải phóng

nô lệ, áp bức con người. Tiếng nói nhà nghệ sĩ cất vang, tôi từ chối chấp nhận sự lụi tàn của

con người. Bởi với ông, “con người có thể bị tiêu diệt chứ không thể bị khuất phục” ( E.

Hemingway).

Những dấu ấn cuộc đời ấy đã in sâu vào sáng tác của nhà văn: từ lối kể chuyện phân

vai, cách miêu tả thiên nhiên thấm đẫm chất thơ, khả năng xây dựng tính cách nhân vật, tái

hiện mảnh đất miền Nam huyền thoại.

Đồng thời Faulkner là nhà văn yêu mến quê hương rất sâu đậm. Chúng tôi thấy ông

hư cấu trong tiểu thuyết địa hạt Jefferson thành một vương quốc kì ảo với những câu chuyện

li kì và bí ẩn, chứa đựng các biểu tượng nghệ thuật làm nên phong cách của người nghệ sĩ.

34

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Faulkner viết khá nhiều tiểu thuyết, gần 20 cuốn

và có những cuốn rất hay, nhưng Âm thanh và cuồng nộ vẫn là tác phẩm được nhà văn yêu

thích nhất, “nó là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của đời tôi”. (Faulkner)

2.1.2. Về tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ”

Đây là tiểu thuyết được viết thứ tư của Faulkner. Nó đánh dấu bước chuyển về tư duy

sáng tác của nhà văn. Đó là lối viết theo phong cách dòng ý thức cùng sự phân vai ngôi kể.

Lúc mới ra đời, tác phẩm chưa được người đọc hoan nghênh, nhưng theo thời gian nó đã tạo

được tiếng vang lớn, đưa tên tuổi của nhà văn đến người đọc trong nước và thế giới. Đồng

thời giúp ông đoạt giải Nobel văn học năm 1949.

Sở dĩ hội đồng chấm giải đề cao tiểu thuyết này không chỉ bởi hình thức hết sức độc

đáo, mới lạ của nó mà còn vì thông điệp vô cùng nhân văn được người nghệ sĩ ẩn dấu dưới

các biểu tượng nghệ thuật. Âm thanh và cuồng nộ là câu chuyện kể về cách sống của gia

đình Compson ở miền Nam nước Mỹ đang bị mất quyền lợi về kinh tế, chính trị. Họ có bốn

người con, ba trai và một gái, riêng đứa con út bị thiểu năng. Chung sống với họ có một

người cậu tên Maury và một gia đình giúp việc người da đen. Truyện được kể theo lối tự

thuật với bốn ngôi kể khác nhau và trật tự thời gian tuyến tính bị đảo lộn nhưng được kể

trong bốn ngày chính là ngày 6, 7, 8 tháng 4 của năm 1928 và ngày 2 tháng 6 năm 1910. Do

đó tóm tắt cốt truyện của tác phẩm là một việc không dễ.

Mở đầu truyện là thời gian 7/4/1928 với giọng kể của Benjy, đứa con út bị khùng của

nhà Compson. Hắn ta không có ý thức về không thời gian, nhân vật này nhận thức thế giới

và cuộc sống quanh mình thông qua cảm giác và mùi vị. Benjy yêu thích ba thứ là lửa, đồng

cỏ và người chị gái của mình là Caddy. Dưới cái nhìn của Benjy, những sự kiện của ngôi

nhà Comspon lần lượt được tái hiện qua các mảng mờ kí ức của một kẻ thiểu năng.

Tiếp theo là giọng kể của Quentin, được kể với thời gian năm 1910. Quentin là

người anh cả của nhà Compson. Dưới lớp kí ức của Quentin, hình ảnh về gia đình đang suy

sụp và tình yêu bi kịch giữa anh và người em gái đã hiện lên. Những ám ảnh quá khứ về

Caddy khiến anh ta không thể vượt qua được nó và Queetin tự sát bằng cách chết đuối .

Mạch truyện được tiếp nối với giọng kể của Jason, người anh thứ hai trong gia đình.

Phần này trở lại mốc thời gian hiện tại 6/ 4/ 1928, nếu giọng kể của Benjy đứt gãy theo từng

sự kiện, giọng Quentin chậm thì giọng của Jason lại nhanh với nhịp điệu khẩn trương, hằn

học pha lẫn sự trách móc đớn đau khi nhìn cảnh suy vi của gia đình. Sự phẫn uất của anh ta

hướng đến chị gái mình là Caddy và con gái của cô là Quentin, cháu gọi hắn bằng cậu. Dưới

35

con mắt Jason, bức tranh về gia đình Compson thêm hoàn thiện, nhưng nó vẫn thiếu một cái

gì đấy!

Do đó, nhà văn đã đứng ra và kể tiếp phần cuối cùng. Bằng giọng trần thuật trầm,

Faulkner đứng ở góc nhìn nhà quan sát, cố gắng diễn đạt khách quan đến mức có thể để

“giải thiêng” cho câu chuyện nhưng ông vẫn thất bại. Nên truyện có phần phụ lục được nhà

văn viết thêm.

Tiếp xúc với tác phẩm, chúng tôi thấy hiện lên cảm hứng tư tưởng mãnh liệt của nhà

văn cùng kết cấu hình thức nghệ thuật độc đáo. Truyện gần như không có nhân vật chính

nhưng mỗi nhân vật lại giữ một phần giá trị riêng. Đặc biệt là hệ thống biểu tượng chứa

đựng những hàm nghĩa mà nhà văn đã xây dựng. Những điều ấy khiến tiểu thuyết tựa một

bài ca “vô nghĩa lí” nhưng có sức hút và mời gọi độc giả khám phá nó.

Theo chúng tôi, nét đặc sắc, độc đáo trước hết ở văn bản là nghệ thuật kết cấu âm

nhạc như nhiều nhà nghiên cứu nhận định. Cấu trúc này giúp nhà văn sáng tạo nên những

biểu tượng âm thanh độc đáo. Từ đó một sự phức hợp giữa hai loại hình nghệ thuật là văn

học và âm nhạc trong văn bản. Đồng thời văn bản còn chứa yếu tố huyền thoại khiến nó đạt

chiều sâu suy tưởng; đưa tác phẩm vượt khỏi đường biên của dân tộc để bước vào ngôi đền

văn chương nhân loại.

Do đó chúng tôi đi vào khảo sát hệ biểu tượng âm thanh trong tiểu thuyết để thấy

được một phần điều đó.

2.2. Thanh âm của nhân vật

2.2.1. Thanh âm của Benjy

Nhân vật Benjy là một sáng tạo độc đáo của Faulkner. Dưới đôi mắt của một thằng

khùng, những âm thanh được hắn cất lên chứa ý niệm cảm xúc mãnh liệt. Đồng thời nó mở

ra những khả năng biểu cảm to lớn cho câu chuyện. Tìm hiểu thanh âm của Benjy sẽ giúp

chúng tôi khám phá một vài tầng vỉa giá trị của tác phẩm và thông điệp đầy nhân văn của

Faulkner với cuộc đời.

Tiếng khóc đánh dấu sự hiện hữu của chủ thể trước cuộc đời. Faulkner tâm sự rằng:

ban đầu ông muốn viết một truyện ngắn về những đứa trẻ, hình ảnh trẻ thơ với sự tò mò về

cái chết của người thân. Nhưng có gì đó lôi cuốn và buộc nhà văn chuyển tải nó thành tiểu

thuyết.

36

Chủ đề bi kịch đã dẫn Faulkner đến những suy ngẫm về cuộc đời. Câu chuyện về đứa

bé gái mang tên Caddy được chuyển thể thành câu chuyện về một gia đình, cộng đồng miền

Nam nước Mỹ trước sự thay đổi của cuộc sống. Trên cảm hứng tư tưởng ấy, từng thanh âm

hiện lên làm rõ hơn chủ đề cho câu chuyện, “thế giới âm thanh nằm ngoài tâm hồn con

người và không chỉ gồm các tiếng ồn của tự nhiên mà cả những giọng con người nói, la hét,

hát tạo nên chất thịt âm vang cho cuộc sống hằng ngày cũng như cuộc sống trong các lễ

hội”[30, 244]. Và thanh âm chúng tôi nghe rõ nhất là tiếng khóc.

Đi vào tác phẩm, chúng tôi thấy có rất nhiều nhân vật đã khóc, tiếng khóc đưa ma

của Dilsey và bà Caroline, tiếng khóc ấm ức của Jason thời thơ bé, của Quentin khi nhìn

thấy sự đổi thay của Caddy,…Mỗi tiếng khóc lại chứa đựng các thông điệp khác nhau. Và

dễ nhận thấy nhất là tiếng khóc của Benjy.

Benjy là nhân vật khóc nhiều nhất truyện. Tiếng khóc của hắn cất lên ở cả bốn phần

của tiểu thuyết. Benjy 33 tuổi và bị thiểu năng nên hắn như một đứa trẻ; những mảng kí ức

ùa về với nhân vật này khi anh ta chạm phải một vật gì đó gợi nhớ về quá khứ. Benjy chỉ có

cảm giác của một sinh vật. Tiếng khóc là cách mà nhân vật giao tiếp với những người xung

quanh. Những khám phá sinh động, độc đáo trong cơ chế tâm thức của Benjy gắn với hệ

biểu tượng âm thanh. Cuộc sống với hắn xoay quanh những hình ảnh và âm thanh hỗn độn.

Nhân vật này không có khả năng cảm nhận thời gian, anh ta đồng nhất thời gian quá khứ,

hiện tại làm một. Tiếng khóc của Benjy mở ra những trường nghĩa rộng lớn cho văn bản.

Trước hết, đó là tiếng nói bất hạnh của Benjy khi chứng kiến từng cái chết của người

thân và việc mất đi những thứ mà mình yêu thương. Đồng thời âm thanh của gia đình

Compson dội lại tâm thức Benjy cũng mang ý niệm rất mơ hồ và khó nắm bắt. Đó là tiếng

kêu của các con vật, con Dan hú, được lặp lại năm lần trong cảm nhận của Benjy, rồi tiếng

con bò cái rống,.. Và thanh âm gợi lên sự ấm áp từ ngôi nhà, “chúng tôi nghe thấy lửa và

mái nhà”[18, 101].

Có thể nói tiếng khóc của Benjy còn là tiếng nói muốn đối thoại của một cái Tôi bị

thất lạc giữa thế giới, “tôi không khóc nhưng không thể dừng lại được. Tôi không khóc

nhưng đất chao đảo, và thế là tôi khóc. Đất cứ dềnh mãi lên và đàn bò chạy lên đồi”[18,

38]. Benjy mang vào mình nỗi đau hư thực, không thể nhận biết được thời gian, trộn lẫn các

thanh âm rống, rên rĩ, khóc và tiếng gào của hắn. Nó tưởng chừng vô nghĩa lí, nhưng cấu âm

ấy đều thể hiện một sự cuồng nộ của một cái Tôi không thể đối thoại với người khác.

37

Thời gian câu chuyện ở đoạn tường thuật của Benjy bị đảo ngược liên tục. Truyện

mở đầu với ngày 7 tháng 4 năm 1928, khi đó Benjy 33 tuổi và là ngày sinh nhật của hắn.

Hắn được Luster dẫn đi tìm đồng xu 25 Cent bị đánh rơi. Benjy nghe được tiếng gọi

“caddie” của người đánh gôn, tiếng kêu làm kí ức về người chị mang tên Caddy hiện về.

Âm thanh này mở ra kí ức về quá khứ của hắn, nó nối kết những khoảng mờ trong tiềm thức

nhân vật. Từng sự kiện mất mát của gia đình Compson được Faulkner trải ra qua cái nhìn

của Benjy. Trên nền thanh âm lộn xộn, nỗi đau, bi kịch của từng thành viên của gia đình

được thể hiện.

Tiếng khóc của Benjy luôn gắn với sự mất mát và bất hạnh. Những sự kiện khiến ông

khóc là khi Benjy mất đi tên khai sinh, tên em bây giờ là Bejamin, hắn được mẹ đổi tên từ

Maury thành Bejamin. Khi đó Benjy lên năm tuổi, năm 1900. Rồi những cái chết của người

thân, mở đầu là cái chết của người bà, kế đó là anh trai Quentin, rồi cha mình và gia nhân

Rukos. Đặc biệt là sự mất mát của người chị gái Caddy: “Chúng tôi nghe thấy Caddy bước

vội vã… mắt chị lướt qua tôi rồi nhìn đi chỗ khác. Tôi òa khóc. Tôi khóc to và đứng dậy.

Caddy vào và đứng quay lưng vào tường, nhìn tôi. Tôi đi tới chị, khóc, chị lùi sát tường và

tôi nhìn mắt chị và khóc lớn hơn và kéo áo chị. Chị chìa tay ra nhưng tôi kéo áo chị. Mắt

chị chạy đi”[18, 107]. Diễn ngôn diễn tả thật tinh tế cảm xúc của Benjy khi Caddy bỏ nhà

đi. Ông yêu Caddy, nhìn thấy những bất hạnh nàng phải chịu, tiếng khóc của Benjy thổn

thức nỗi đau muốn níu kéo những giá trị và tình yêu mà mình dành cho chị gái, khi Caddy

đánh mất trinh tiết, “tay chị để lên miệng tôi và tôi thấy đôi mắt chị và tôi khóc. Chúng tôi

lên thang gác. Chị dừng lại, dựa vào tường nhìn tôi và tôi khóc và chị đi tiếp và tôi đi theo,

khóc, và chị lùi sát tường, nhìn tôi. Chị mở cửa phòng chị, nhưng tôi kéo áo chị và chúng tôi

đi tới phòng tắm và chị đứng tựa cửa, nhìn tôi. Rồi chị quàng tay ôm tôi và tôi đẩy chị ra,

khóc”[ 18, 108]. Caddy đánh mất trinh tiết khiến Benjy đau đớn. Tiếng khóc chuyển tải

thông điệp này với giọng điệu đầy bi thương. Biểu tượng tiếng khóc đã gợi ra những nghĩa

biểu trưng khác với nghĩa ban đầu của nó, không chỉ đánh dấu sự hiện hữu của con người

trong cuộc đời mà còn chuyển tải nghĩa khác là nỗi đau khi mất đi những thứ mình yêu

thương.

Tiếng khóc của Benjy đã thổi vào bản hợp âm Âm thanh và cuồng nộ những nốt

điệu khiến câu chuyện nhuốm đầy thực ảo. Nỗi đau và sự bất hạnh của gia đình Compson

được nhìn dưới mắt Benjy với biểu trưng là tiếng khóc đã cho thấy được dụng ý của nhà

38

văn: tạo khắc nên một bài ca bất tận về sự thống khổ và bất hạnh mất mát của con người

trong cuộc đời.

Âm thanh và cuồng nộ là bài ca về tình yêu và thân phận của con người thời

hiện đại. Tình yêu của chị gái dành cho Benjy hệt như tình mẫu tử. Benjy chào đời trong

một gia đình đang suy sụp, thiếu vắng tình thương. Ở gia đình Compson, Caddy như người

mẹ nâng đỡ tình yêu và cứu rỗi cuộc sống cho hắn. Nàng là hiện thân của cái đẹp bị cuộc

sống dục tình lôi kéo và hủy hoại. Benjy yêu chị gái. Tình yêu đó như người con với mẹ, lại

như người tình. Benjy cảm nhận Caddy bằng các giác quan, đặc biệt là thính giác “Caddy

có mùi như cây”, “Caddy có mùi như mưa”,.. Nhưng hắn không thể đối thoại với nàng, chỉ

có thể biểu lộ cảm xúc bằng tiếng kêu đau thương. Mỗi khi chị mình bị mất đi một cái gì đó,

Benjy lại khóc. Đó là tiếng khóc khi thấy quần lót của nàng bị dính bùn lúc nàng leo lên

cây, khi Caddy mất nụ hôn đầu và nhất là khi nàng đánh mất trinh tiết. Tiếng khóc thổn thức

nỗi đau vì nhìn thấy sự mất mát của người mình yêu thương. Nó vọng vào Caddy làm nàng

nhận thức lại hành động của mình, Caddy luôn cố gắng làm vui lòng Benjy bởi tình yêu

thương vô bờ bến của nàng với hắn, “em đâu phải là thằng bé khốn khổ, em có Caddy của

em mà”[18,18]. Nhưng rồi Caddy lớn lên và thay đổi, khao khát và ham muốn đẩy nàng vào

tội lỗi. Benjy ngửi được nó, nhưng hắn không thể làm gì được, chỉ biết khóc, gào, rống và

rên rĩ,...

Thủ pháp dòng ý thức cùng nghệ thuật tương giao khiến thanh âm của Benjy hiện

lên cực kỳ sống động. Mỗi hình ảnh, tiếng kêu, hay vật dụng khi Benjy cảm thấy, chạm

thấy, nghe thấy lại gọi ông trở về kí ức. Đó là cách xây dựng hiện thực tâm hồn nhân vật của

Faulkner. Những khoảng mờ, lối tắt của tâm lí nhân vật được dòng ý thức soi sáng, lát cắt

thời gian tuyến tính bị xóa bỏ, thay vào đó thời gian tâm trạng được tác giả sử dụng. Tràn

ngập tiểu thuyết là âm thanh đối thoại triền miên không dứt của các nhân vật, là tiếng kêu

khóc, rền rĩ của những cái tôi mất mát; tình yêu và con người thân phận của thời hiện đại

được Faulkner ý thức sâu sắc.

Nổi lên trên dàn hợp xướng là Âm thanh của Benjy, một cái Tôi bị thất lạc giữa cõi

trần, lang thang và đi tìm những giá trị tình yêu và ý nghĩa của sự sống. Tiếng khóc của

Benjy mang nhiều biến thái, nó là tiếng rên rĩ, tiếng gào, tiếng thét, tiếng rống,… mỗi biến

điệu lại chứa tải những cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngôn ngữ âm thanh được Benjy dùng

nhận thức, đối thoại với cuộc đời, “tiếng nói được sinh ra khi tiếng kêu và hơi thở tạo thành

âm tiết”[8, 20]. Đi vào hình tượng Benjy là đến với một bộ phim câm, trên nền cử chỉ, hành

39

động của hắn, tiếng kêu cất lên đã chuyển tải những cảm xúc đau thương, nỗi bất hạnh

không thể thốt ra thành lời, “người ta không cần phải hiểu tất cả các từ của câu mà vẫn có

thể nắm bắt được tinh thần, thái độ của người nói, sự cay đắng, giả dối hay lòng hận thù

của người đó”[47, 21 ]. Người chị là sợi dây nối giữa hắn với gia đình, nhưng rồi Caddy

cũng bỏ hắn, Benjy cô đơn, lạc lõng bởi hàng rào ngăn cách nhân vật với thế giới bên ngoài.

Benjy chỉ vui khi ngửi thấy ánh sáng ấm áp. Nó đối lập với cái chết luôn đi cùng hắn, “tôi

ngửi thấy cái đó”.

Với tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, cái chết được Faulkner miêu tả luôn xoay

quanh Benjy. Bởi cái chết “như một thoáng chốc hiện sinh đã buộc mọi nếp gấp của cuộc

đời lộ rõ ra thành một vấn đề trong cõi người phù thế”(Đào Ngọc Chương).

Benjy một thằng khùng, mang thanh âm của chết chóc. Hắn hiện lên như một định

mệnh xấu cho gia đình Compson. Từng cái chết liên tiếp xảy đến với gia đình được hắn cảm

nhận bằng thính giác. Khả năng ngửi và cảm thấy cái chết ở Benjy khiến hắn như kẻ mang

đến sự sui xẻo, “nó biết nhiều thứ hơn người ta tưởng. Nó biết ai đến ngày đến giờ, như nó

được mách bảo vậy. Nó có thể bảo bà lúc nào giờ nào của nó điểm, nếu nó nói ra được,

hoặc của bà. Hoặc của tôi”[18, 54]. Trên nền không gian xám và ảm đạm của ngôi nhà

đang suy sụp, tiếng khóc của Benjy luôn đi kèm mùi của chết chóc, bất hạnh, đó là cái chết

của người bà: “Rồi chúng tôi ngừng ăn và nhìn nhau im lặng, và rồi tôi lại nghe thấy và òa

khóc”[18, 45].

Và của người thân Dilsey:

“Đám ma là gì?’’,Jason nói.

“Mamy không dặn chị là đừng nói với họ à?” Versh nói.

“Là chỗ mà người ta khóc”, Frony nói. “Người ta khóc hai ngày hồi đám ma dì

Beulah Clay.”

Họ khóc ở nhà Dilsey. Dilsey khóc. Dilsey rền rĩ, Luster nói ,Im, và chúng tôi im, rồi

tôi bật khóc và con Blue hú dưới thềm nhà bếp. Rồi Dilsey thôi khóc và chúng tôi cũng

thôi…,

Dilsey rền rì và khi đó đến tôi bật khóc và con Blue hú dưới thềm. Luster, Frony nói

trong cửa sổ”[18, 56].

Của cha hắn :

“Những lóng xương rải rác quanh hố, nơi những dây nho sẫm màu mọc trong hố đen

sì, len bò vào ánh trăng như một vài hình thể đã ngưng đọng. Rồi mọi người thôi khóc và

40

trời đổ tối, và tôi thôi khóc để lại khóc tiếp, tôi nghe thấy mẹ, và tiếng chân vội vã đi khỏi,

và tôi ngửi thấy cái đó. Rồi căn phòng tới, nhưng mắt tôi đã nhắm. Tôi không thôi khóc. Tôi

ngửi thấy cái đó… Một cánh cửa mở và tôi ngửi thấy cái đó hơn bao giờ hết, và một cái đầu

thò ra. .. Nhưng tôi ngửi thấy cái đó..Con Dan đang ngồi ở sân sau, hú... Bóng chúng tôi

lay động còn bóng con Dan bất động trừ lúc nó hú”[ 18, 57-58].

Tiếng khóc của Benjy dưới đôi mắt Faulkner đã mang một ý nghĩa khác với tiếng

khóc thông thường. Nó biểu trưng cho cái chết, sự suy sụp của gia đình mà cha mẹ hắn đã

cố giấu kín, “cấm kị là một kiểu những văn phong cách ly nhằm để làm cho những sức

mạnh tâm linh của những con người chứa đầy sức mạnh đó trở nên trơ lì, cốt để cho những

con người đó không phải đau khổ, cũng như làm cho người khác đau khổ, và thế giới bên

ngoài vẫn giữ được những nguyên vẹn nếu như thế giới đó thoát khỏi sự lây nhiễm của

họ”[19, 366], họ không muốn con cái thấy được sự mất mát của bản thân mình. Nhà

Compson với những thế hệ nối tiếp nhau không thể thích nghi với những thay đổi của cuộc

sống. Thông qua những thanh âm vô nghĩa của Benjy, chúng tôi thấy hiện lên thông điệp hết

sức nhân văn mà Faulkner muốn nói với chúng ta: Tình yêu và con người thân phận

trong xã hội. Tiếng khóc của nhân vật này gợi lên hình ảnh về sự lụi tàn của gia đình, mất

mát của người thân. Bên ngoài thanh âm rỗng của tiếng khóc rống vô nghĩa lí, tiếng gào

điên dại, là một Benjy khao khát đối thoại, sẻ chia, muốn tìm lấy, níu giữ tình yêu và tháng

ngày đẹp đẽ của tuổi thơ với chị gái, với anh em. Ba đứa trẻ da đen lần lượt chăm sóc hắn là

Vesh, TP, Luster không hiểu những điều đó. Với họ, Benjy chỉ là một thằng ngốc, chỉ có

Caddy là không nghĩ vậy. Caddy luôn xem Benjy là người em bé nhỏ, khờ khạo của mình.

Hắn cất tiếng khóc, âm thanh đó là muốn đối thoại, sẻ chia những cảm nhận của mình với

mọi người, muốn được quan tâm, nhận được tình yêu của người thân dành cho mình. Hắn

chỉ có cảm giác ấm áp, thích thú khi được nhìn lửa, ngắm những cây hoa và nhìn đồng cỏ

của mình. Chúng là những cổ mẫu giúp hình tượng Benjy được hiện lên sâu sắc. Ngôn ngữ

đối thoại của Benjy với cuộc sống là tiếng khóc.

Benjy với ngôn ngữ hỗn độn là tiếng khóc khiến những mảnh vỡ gia đình Compson

được hiện lên, thu hút được sự chú ý của người tiếp nhận. Ẩn dưới tiếng khóc ấy là những

thông điệp nhân văn sâu sắc của Faulkner.

Tình yêu, một dạng xúc cảm của con người xã hội, nếu không biết cách chăm sóc và

nuôi dưỡng, nó sẽ lụi tàn, khiến con người trở nên vô cảm, trơ lì với những nỗi đau của

người thân và đồng loại. Gia đình là nơi ươm mầm và giúp tình yêu nảy nở. Benjy không có

41

được nó. Caddy với những phẩm chất của một người mẹ đã giúp ông cảm nhận được giá trị

của gia đình.

Ngoài tiếng khóc, chúng tôi còn thấy được những thanh âm khác ở Benjy. Chúng là

những hình ảnh bên ngoài đi vào tâm thức hắn, cộng hưởng cùng thanh âm của Benjy, khiến

chủ đề cái chết và bi kịch được trải ra trước mắt người tiếp nhận.

Thanh âm của Benjy không chỉ có tiếng kêu mà còn là những hình ảnh hiện qua đôi

mắt hắn. Đó là nghệ thuật lấy động để tả tĩnh của Faulkner. Benjy không nói được, những

mẫu hồi đáp của hắn phải được thông qua một số hình ảnh để chuyển tải thông điệp ngôn từ

cho người đối thoại, “qua hàng rào, giữa những vạt hoa gợn sóng, tôi thấy họ vụt”[18, 1].

Hình ảnh hàng rào và đồng cỏ, với đất rì rào và những vạt hoa gợn sóng tạo cho truyện một

chất thơ. Benjy sống giữa thực tại đau thương khi đồng cỏ đã mất và hàng rào cách ngăn

hắn với cuộc sống. Những cái chết, ám gợi với tiếng quạ kêu và tiếng hú của con chó Dan,

trên nền bức tranh ấy là bóng dật dờ của Benjy. Faulkner phác thảo những cái chết từ từ xảy

đến với gia đình Compson dưới đôi mắt của Benjy. Tất cả đều bằng những hình ảnh tĩnh tại,

tựa như một cuốn phim quay chậm. Từng thời khắc Benjy sống, từ khi ông hiện hữu và cảm

nhận sự suy vi của gia đình. Những tiếng hét và tiếng khóc tưởng như vô nghĩa lí, nhưng ẩn

sâu là hình ảnh cuồng nộ đau xót cho sự suy sụp, xuống dốc của gia đình. Các giá trị của

tình thương yêu bị đánh mất bởi cách sống, lối nuôi dạy con cái của gia đình Compson. Chỉ

duy nhất có Disey với tình yêu thương vô hạn của mình đã bảo bọc, chăm sóc và san sẻ tình

yêu cho lũ trẻ nhà Compson, nuôi nấng và dìu dắt họ vượt qua nỗi đau của số phận.

Những âm thanh mà Benjy cảm nhận thuộc về chiều sâu của vô thức. Chúng khó có

thề cảm nhận bằng ý thức thông thường để cắt nghĩa mà phải là vô thức bởi, “vô thức là

toàn thể những hiện tượng tâm thần mà ý thức không thể đạt tới một cách tạm thời hay vĩnh

viễn”[36, 324]. Tất cả đều ở dạng nguyên sơ, mang đậm dấu ấn huyền thoại.

Trước hết, đó là sự đổi tên của Benjy, thuở nhỏ hắn tên là Maury, khi gia đình

Compson nhận thấy dấu hiệu thiểu năng đã đổi tên hắn là Benjamin. Tên sau có nguồn gốc

trong Kinh Thánh, đó là tên đứa con út của Giacop, người đã gặp may mắn khi bị hại bởi

các anh.

Ở một gia đình mà người cha chìm ngập trong rượu, chỉ dồn hết tình yêu thương cho

Quentin, một người mẹ luôn đau bệnh, suốt ngày than vãn. Benjy chỉ có được tình yêu từ

Caddy, chính nàng là ngọn lửa sưởi ấm lòng ông. Mọi thanh âm hình ảnh Benjy cảm nhận

bằng giác quan chỉ xoay quanh nàng và cái chết. Chính lối trần thuật với giọng kể của một

42

thằng khùng là Benjy, câu chuyện tựa những mẫu đối thoại rời rạc, lẻ tẻ, không thành câu.

Nó chứa thanh âm, hơi thở của nhịp điệu cuộc sống. Sự hỗn tạp, bừa bộn với những đối

thoại giữa các nhân vật với Benjy hàm chứa sự đa âm trong giọng kể. Đa âm trong giọng kể

giúp cho những mã biểu tượng về âm thanh tĩnh về nhân vật Benjy trở nên khó nắm bắt.

Những thanh âm của Benjy rất khó nắm bắt nên chúng tôi phải tiệm cận chúng dưới

góc độ phân tâm học. Bởi biểu tượng nghệ thuật thoát thai từ những nguyên sơ tượng, nó là

một phần của vô thức. Thật vậy, mỗi biểu tượng âm thanh luôn gắn bó mật thiết với vô thức

của Benjy. Bóng tối tràn ngập ngôi nhà Compson, trên đó thanh âm của bông hoa ràn rạt,

tiếng hú của lũ chó và tiếng rống của đàn bò hòa cùng tiếng khóc rền rĩ của Benjy cộng

hưởng vào nhau. Tất cả tạo làm nên một Benjy mất mát. Khi gia đình nhận ra sự thiểu năng

của mình, Benjy lần lượt bị mất đi tình yêu của họ. Vì không có khả năng giao tiếp, hắn chỉ

biết dùng âm thanh để đối thoại với cuộc sống. Tiếng khóc chuyển tải cảm thức đau thương

mà Benjy đã trải qua và những mất mát ông phải gánh chịu. Nhân vật này chỉ cảm nhận

được hơi ấm của tình yêu với Caddy, và không ai thay thế được nàng trong tiềm thức của

hắn.

Tóm lại, Benjy là một sáng tạo độc đáo của Faulkner. Tiếng khóc của hắn đã lay

động sâu sắc đến cảm thức người đọc. Những biểu tượng thanh âm được hòa điệu cùng

nhau, dạng thức của thanh âm Benjy mang nhiều ám gợi. Benjy khắc khoải chờ đợi tình

yêu, ánh sáng và sự cứu rỗi. Bóng của nhân vật này tỏa những thanh âm rợn người buồn vô

tận cho một hiện thực suy tàn của dòng họ Compson. Không phải là định mệnh, mà cách

sống, phương thức giáo dục con cái của những gia đình miền Nam nơi nhà văn sống, không

phù hợp với sự phát triển của xã hội Mỹ lúc này. Đồng thời tác phẩm là một bè của nhiều

hợp âm, những âm thanh của nhân vật khác cộng hưởng cùng thanh âm Benjy làm nên bản

giao hưởng đầy cuồng nộ ở gia đình Compson.

2.2.2. Thanh âm của Quentin

Âm thanh và cuồng nộ là tác phẩm mà nhân vật quan trọng nhất của tiểu thuyết là

Caddy vắng mặt. Nàng được hiện lên qua kí ức của người thân. Nếu sự gợi nhớ về Caddy

của Benjy là cảm thức về nỗi đau hư thực trước những mất mát của người chị gái thì tâm

thức của Quentin về nàng là sự đau đớn khi không thể chiếm hữu em gái cho riêng mình.

Quentin là người nhạy cảm và sáng lạn nhất của gia đình Compson. Anh ta yêu em

gái như một tình nhân. Hắn ghen với tất cả những ai được nàng yêu thương. Những tội lỗi

và bất hạnh của Caddy đã đẩy Queetin vào bi kịch, Quentin tự sát vào ngày 24 tháng 6 năm

43

1910. Phần hai của câu chuyện về gia đình Compson được nhìn qua đôi mắt của Quentin

vào một ngày trước khi anh ta chết.

Thanh âm chủ đạo của giọng kể Quentin là tiếng nấc uất nghẹn của một người thất

bại trong tình yêu. Nhưng hắn không chấp nhận điều đó. Quentin muốn thoát ra khỏi nó

bằng cách chạy trốn vào trong thời gian, “có một chiếc đồng hồ cao tít trong nắng, và tôi

nghĩ, khi người ta không cố làm điều gì, tại sao cơ thể người ta lại cứ cố dụ dỗ làm điều đó,

một cách vô thức. Tôi cảm thấy những thớ thịt trên gáy tôi, và rồi tôi nghe thấy tiếng đồng

hồ của tôi kêu tích tắc trong túi và trong chốc lát, tôi đã gạt bỏ mọi thanh âm khác, chỉ giữ

lại tiếng tích tắc của đồng hồ trong túi”[18, 126 ]. Quentin cảm nhận tiếng tích tắc vô nghĩa

lí của đồng hồ, nó biểu trưng cho cuộc sống mà Quentin đang bị lưu đày, đưa nhân vật suy

niệm về thời gian. Người ảnh hưởng đến Quentin nhiều nhất sau Caddy là cha hắn. Triết lí

hư vô chủ nghĩa của ông dẫn hắn vào việc hoài nghi tất cả, “chẳng có gì cứu giúp được

mình- tôn giáo, niềm kiêu hãnh, bất kì điều gì- mà là khi người ta nhận thức rằng người ta

chẳng cần cái gì cứu giúp”[18, 122]. Nhưng Quentin không thể sống hoài nghi một điều là

tình yêu của mình dành cho em gái. Hồi ức mà Quentin nhớ lại cũng như Benjy, luôn gắn

với hình ảnh Caddy. Hắn cố gắng che chở cho em, dùng tình yêu của mình để cứu nàng khỏi

con đường tội lỗi. Benjy và anh trai thất bại khi giữ Caddy bên mình bởi họ luôn muốn độc

chiếm nàng. Dù tới học Harvard nhưng tiềm thức Quentin vẫn bị ám ảnh bởi Caddy. Những

thanh âm hắn cảm nhận và phát ra đều hướng về nàng và bi kịch gia đình. Nó không hướng

ra ngoài như Benjy mà vang dội, thấm vào không gian. Đó là tiếng nói uất hận, nghẹn ngào

khi Caddy đi cùng người khác, san sẻ tình yêu cho Benjy, là niềm nối tiếc tháng năm quá

khứ tươi đẹp ở Jefferson. Quentin lạc trong tình yêu tội lỗi với em gái. Tiếng tích tắc của

Đồng hồ tựa nhịp đập của trái tim đang thổn thức, cuồng nộ vì Caddy. Tiếng chuông lắng

đọng vào hắn sự chảy trôi buồn tẻ của cuộc sống bởi Caddy đã đi lấy chồng. Tất cả chúng

dội đến hắn như một bi kịch và con đường giải thoát chỉ có thể là chết. Chìm vào nước,

Quentin muốn gột rửa mọi tội lỗi mà em gái hắn đã mắc phải.

Hình tượng Quentin mang đến cho người tiếp nhận một dạng thức khác của con

người đó là triết lí hư vô, chán nản và bi quan, hoài nghi những giá trị chân chính của cuộc

sống. Nó được nâng lên tầm biểu tượng khi thông điệp đó được ẩn dấu dưới giọng điệu triết

lí. Nhân vật này đối thoại cùng bố nhưng tư tưởng của ông không thỏa mãn hắn, “những tư

tưởng bố nói bám ở đâu đó như những dây nho chết bám trên phế tích xưa. Vậy là không có

ở Harvard. Dù sao cũng không ở tôi. Lại nữa. Buồn hơn. Buồn tột cùng. Lại nữa”[18, 142],

44

Quentin tìm về mẹ những bà chỉ cho anh sự thất vọng: “Nhưng tại sao mẹ”… và tiếng gọi

hướng về mẹ của hắn là tiếng gọi đớn đau “Mẹ ơi! Mẹ ơi” những thanh âm được cấu trúc

trùng điệp, tiếng nói đối thoại cùng hình ảnh ám gợi cho cái chết của anh ta là bóng và đồng

hồ. Chúng trộn hòa vào tiếng lòng của nhân vật gây sự ám ảnh cho người tiếp nhận. Chúng

tôi không thấy Quentin khóc lóc, rên rĩ như Benjy nhưng cảm nhận được nỗi đau của hắn.

Quentin không nhận được tình yêu từ mẹ, hắn hầu như không gắn bó với bà mà chỉ với cha,

những kiến thức người cha trang bị cho hắn bước vào đời: “Đàn bà không bao giờ đồng

trinh. Sự trong sạch là trạng thái phản tiêu cực vì thế phản tự nhiên. Chính tự nhiên làm

con đau khổ chứ không phải Caddy và tôi nói bố không biết. Bố không thể biết và ông nói

Phải. Chính lúc đó chúng tôi nhận thức được rằng bi kịch là một thứ đồ cũ mua lại”[18,

170]. Chúng không giúp hắn lí giải được bất hạnh, tội lỗi mà Caddy phải chịu.

Bi kịch hiện lên từ tiếng khóc của Quentin là sự bất hạnh và mất mát của em gái.

Chúng tôi thấy nhân vật đang thức tỉnh bởi nỗi đau về sự cuồng dại trong tình yêu. Do hắn

không phát triển đầy đủ về tâm hồn, những vết xước tinh thần đẩy hắn tìm đến Caddy như

một nơi kí thác tình yêu, chỗ nương tựa. Nàng nâng đỡ tâm hồn hắn, cho hắn tình yêu cuộc

sống. Khi Caddy lấy chồng, hi vọng, ước vọng của hắn với cuộc đời chấm dứt, chỉ có cái

chết mới giúp hắn thoát khỏi những kí ức về Caddy, “anh còn nghĩ đến cái khác ngay cả

khóc anh cũng không thể anh đã chết từ năm ngoái anh đã bảo em anh chết nhưng lúc ấy

anh đâu biết anh định nói gì và đâu biết mình đang nói gì ở nhà có những ngày vào cuối

tháng Tám cũng giống thế này, không khí cũng loãng và háo hức thế này, cũng có chút gì

buồn bã luyến tiếc và thân thuộc. Con người là tổng số những kinh nghiệm phong trần của

mình. Con người là tổng số những gì chiếm hữu hắn. Một bài toán tẻ ngắt của những vật sở

hữu không trong sạch dẫn đến một con số không bất biến: sự bế tắc của cát bụi và ước

vọng. Nhưng bây giờ anh biết anh đã chết anh nói với em… Bán cánh đồng cỏ. Áo sơ mi

trắng của nó bất động trên chạc cây, trong bóng râm lấp loáng. Bánh xe bám đầy mạng

nhện. Dưới bụng xe vó ngựa dồn từng đợt như bàn tay thiếu phụ đưa kim thêu, nhỏ dần mà

không tiến tới, như một hình bóng trên đèn kéo quân đang chạy khỏi màn ảnh. Con đường

lại rã ngoặt. Tôi thấy mái vòm trắng và mặt đồng hồ khăng khăng ngu ngốc” [18, 181-182].

Những trang văn thấm đẫm chất thơ và nỗi đau, chứa giọng điệu triết lý về cuộc đời và sự

hư vô của nó. Trong sự đau đớn, phẫn uất, đam mê, Quentin đã sống và yêu em gái như một

người tình.

45

Chính quan niệm về đạo đức của xã hội miền Nam khiến Quentin đau đớn khi thấy

em gái quan hệ bừa bãi. Luôn được cha ý thức về truyền thống vẻ vang của gia tộc, hắn

không chấp nhận hiện thực gia đình suy vong. Thật khó nhận ra biểu tượng âm thanh nơi

nhân vật này bởi thanh âm mà Quentin thể hiện là những nốt trầm, từng dòng suy tưởng về

ý nghĩa và mục đích hiện hữu trên cõi đời. Nhưng nếu nhìn sâu vào kết cấu văn bản, ta vẫn

nghe ra được nó, những tiếng nấc nghẹn ngào của một con người bất hạnh đang cố bám víu

vào những lí lẽ hư vô .

Trong Âm thanh và cuồng nộ, hình tượng con người hư vô thể hiện đầy đủ nhất với

Quentin. Hắn bất hạnh trước hiện thực, hoài nghi mọi thứ. Ám ảnh của nhân vật này không

hướng nhiều về cái chết như Benjy mà là những tội lỗi em gái hắn đã phạm phải. Quentin

yêu thương Caddy, muốn nàng luôn và mãi trong sạch theo những chuẩn mực đạo đức của

miền Nam bấy giờ: “Bởi vì phụ nữ rất mỏng manh và rất bí ẩn bố nói. Sự cân bằng mỏng

manh của cái ô uế định kì giữa hai mùa trăng cân bằng. Những tuần trăng ông nói tròn và

vàng như trăng mùa gặt hông em đùi em. Bên ngoài luôn luôn bên ngoài họ nhưng vàng.

Những gan bàn chân như đang bước tới. Rồi biết rằng có ai đó rằng tất cả những gì được

che giấu bi ẩn và độc đoán. Tất cả những cái đó bên trong họ tạo thành cái dịu ngọt bên

ngoài chờ đợi một sự đụng chạm. Thối rữa thành chất lỏng như những vật chết trôi nổi lềnh

bềnh như cao su nhợt nhạt ướt nhũn đều mùi hoa kim Ngân hỗn độn”[18, 187]. Nên khi

Caddy thay đổi, Quentin đau đớn và nhận ra mình không thể che chở cho nàng. Hắn đánh

nhau với người tình của Caddy, cho Benjy uống rượu vì Benjy dành tình yêu của Caddy,

đánh T.P trong đám cưới Caddy, “anh đá T.P ngã vào cái máng mà đám lợn vừa ăn và T.P

nằm trong đó”[18, 38].

Kết cấu âm nhạc tạo nên cho văn bản một mô hình âm thanh độc đáo và những khám

phá tinh tế tâm lí nhân vật, “cấu trúc âm nhạc là cấu trúc giải thích thuần túy nhất. Bởi vì

một tác phẩm âm nhạc tạo khả năng thể nghiệm chất liệu rộng lớn và đa dạng nhất, nhất là

chất liệu tâm lí”[47, 420]. Từng nhịp điệu nhanh, chậm, trong các phần của tiểu thuyết. Âm

điệu mà Quentin mang đến là sự chậm chạp, trầm lắng của bản tổng phổ. Trái ngược với âm

điệu rời rạc, đứt gãy của Benjy và nhịp nhanh, gấp gáp ở đoạn tường thuật của Jason. Nhịp

điệu ấy khiến thanh âm Quentin tựa như tiếng của một con tim đang hấp hối. Có lẽ Quentin

là biểu tượng của con người hư vô chủ nghĩa mà Faulkner đã học tập ở Dostoivesky trong

tiểu thuyết Lũ người quỉ ám. Tiếp nối Faulkner, nhân vật hư vô lần lượt xuất hiện trong

46

Người xa lạ của A. Camus và Buồn nôn của J.P.Satre. Những âm thanh của Quentin đều

hướng đến Caddy và cái chết.

Biểu tượng âm thanh ở Benjy là những tiếng động và hình ảnh bởi anh ta không cảm

nhận được hiện thực quanh mình. Trong khi đó, âm thanh Quentin lại mang biểu hiện khác.

Là người có trí óc nên âm thanh dội vào cảm thức của Quentin khác so với Benjy. Hai âm

thanh thường trực ám ảnh hắn là tiếng tích tắc của đồng hồ và tiếng chuông. Vì quá say đắm

Caddy, Quentin mất đi khả năng cảm nhận thời gian. Anh ta muốn giết chết thời gian để

không phải nhớ lại những sự kiện đau thương của quá khứ: “Những chiếc Đồng hồ đã giết

thời gian. Ông nói những bánh xe nhỏ xíu còn kêu tích tắc thì thời gian còn chết, chỉ khi

nào đồng hồ ngừng chạy, thời gian mới bắt đầu sống. Những cây kim xoãi ra, chênh chếch

khỏi đường chân trời một góc mờ, như cánh chim chao trong gió, ôm giữ tất cả những gì ta

thường hối tiếc như trăng non giữ nước”[18, 129]. Với tiếng chuông, Quentin nghe sự chảy

trôi của đời sống đã cuốn đi tuổi thơ êm đềm và đưa hắn vào một hiện tại đau thương.

Âm thanh và cuồng nộ là tiểu thuyết chứa đậm yếu tố huyền thoại. Từ nhân vật

Benjy gợi người đọc liên tưởng đến hình tượng Chúa Giesu ở thánh Kinh Cựu Ước. Còn cái

chết của Quentin như một nghi lễ hiến sinh của huyền thoại tôn giáo. Yếu tố huyền thoại

cũng được ẩn dấu dưới các nguyên mẫu mà đặc trưng nhất là hệ biểu tượng cổ mẫu. Chúng

là kí mã thẫm mĩ mà nhà văn muốn xây dựng để nhờ người đọc giải mã, để nhằm tìm thấy

được thông điệp về con người và cuộc sống được người nghệ sĩ che giấu. Mỗi nhà văn luôn

có cách xây dựng huyền thoại riêng, nếu F.Kafka: “Đi từ những sự kiện rất thực tế nhưng

để xây dựng một thế giới huyền bí có tính chất mập mờ, hai mặt theo kiểu của ông. Một mặt

thực và một mặt giả, lơ lửng giữa thực tế và ảo ảnh, giữa nhận thức và trực giác, giữa thái

độ nhập cuộc và tinh thần thoát tục”[50, 135], thì W.Faulkner lại sáng tạo huyền thoại dựa

vào Kinh Thánh.

Biểu tượng âm thanh tiếng tích tắc của đồng hồ biểu trưng cho nhịp đập của cuộc

sống hiện thực, nhưng với Quentin nó là sự chối bỏ hiện thực. Quentin thất bại trong tình

yêu. Hành động đập nát đồng hồ như ước muốn làm ngưng đọng thời gian, nhưng anh ta

vẫn thất vọng khi không thể làm được điều đó. Nên nó đã dẫn hắn vào bi kịch tự vẫn, “con

nên nhớ rằng con đến Harvard là ước mơ của mẹ con ngay từ ngày con ra đời và không một

người nào mang họ Compson lại làm cho phụ nữ phải thất vọng và tôi tạm thời thôi sao

điều đó có lợi cho con, cho tất cả chúng ta hơn và ông mỗi người là quan tòa của đức hạnh

của chính mình nhưng đừng ai kê đơn cho hạnh phúc của kẻ khác và tôi tạm thời thôi sao và

47

ông đó là từ ngữ buồn thảm nhất chẳng còn gì khác trên đời đó không phải là tuyệt vọng

cho đến khi thời gian không phải là thời gian cho đến khi nó tồn tại”[18, 256-257].

Bi kịch tinh thần của nhân vật này còn đến từ sự mâu thuẫn bởi cái nhìn của anh ta

về quan niệm đạo đức luân lí trong xã hội miền Nam nước Mỹ lúc này. Khi nhận thấy

những đổi thay của Caddy trong tình ái, Quentin biểu hiện một thanh âm giận dữ và cay

đắng. Nó biểu hiện bằng những mẩu đối thoại giữa hắn và bố. Từng hình ảnh, hành động và

lời nói của những người quanh mình đều đưa Quentin trở lại, nhớ lại Caddy. Tình yêu đó đi

đến cực cùng với lời thú tội, “con đã phạm tội loạn luân rồi bố ạ”, là đỉnh điểm của tình

yêu ngang trái của hắn với em gái.

Âm thanh Quentin chậm, buồn, nó như tiếng thở dài tuyệt vọng. Toàn bộ phần

chuyện kể của nhân vật này góp phần chỉ ra rõ hơn bi kịch của gia đình Compson, lí giải

những uẩn khúc phía sau câu chuyện. Có thể nói, “nhu cầu về cái đẹp và hoạy động sáng

tạo thể hiện cái đẹp là không thể tách rời ở con người và không có nó thì con người không

muốn sống trên đời này nữa”[24, 137]. Những trang hồi ức của Benjy và Quentin hiện lên

thật đẹp. Faulkner đã chứng tỏ tài năng của một nhà văn lớn ở sự nhạy bén với sự vật và

khả năng truyền tải, phân tích nó.

Trong gia đình Compson, mỗi cá nhân luôn lạc lõng. Họ không cảm nhận được hơi

ấm của tình yêu gia đình. Bọn trẻ nhà Compson lớn lên thiếu đi sợi dây gắn kết với gia đình.

Trên hành trình đi tìm sự hiện hữu, giá trị sống, những va chạm cuộc sống đã đánh gục họ,

khoét sâu thêm, làm rạn nứt đi tình yêu thương của mỗi người và khiến họ trở nên ích kỉ với

chính người thân của mình. Biểu tượng âm thanh ở mỗi nhân vật được chúng tôi nhìn từ hai

góc độ. Những thanh âm được nhân vật cảm nhận và ngữ cảnh âm thanh hiện lên.

Mỗi thanh âm đều được hiện thực hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Ngữ cảnh sẽ

mang những ý nghĩa khác nhau do cấu trúc thông điệp mà nhà văn hướng đến. Âm thanh

và cuồng nộ là một tác phẩm khó đọc. Do đó có lần Faulkner đã khuyên độc giả muốn hiểu

tác phẩm của mình thì cần đọc nó ít nhất bốn lần. Bởi tác phẩm đi vào phân tích tâm lí nhân

vật hết sức sâu sắc và tinh vi. Dưới những thanh âm tưởng như vô ngôn nhưng ta có thể

nghe ra cảm hứng tư tưởng của nhà nghệ sĩ: “Tầng âm thanh cuả tác phẩm, tổ chức âm

thanh của nó, tiết điệu và thi luật. Các đơn vị ý nghĩa xác định cấu trúc ngôn ngữ hình thức

tác phẩm văn học và phong cách của nó. Các đặc điểm quan trọng nhất và đặc thù văn học

nhất trong tất cả các đặc điểm tu từ mà chúng cần phải được chú ý đặc biệt và bởi chúng

hòa lẫn một cách không rõ rệt với thế giới đặc biệt của thi ca”[9,146]. Chính lối kể theo kĩ

48

thuật dòng ý thức và sự đa âm giọng điệu ở từng nhân vật trong từng ngữ cảnh khác nhau

khiến mỗi sự kiện trở nên khó nắm bắt. Nó gợi lên tính chất mơ hồ, đa nghĩa ở từng mã

thẩm mỹ, khiến người tiếp nhận rối tung không biết lần tìm đầu mối sự việc, “chỉ cần liên

tưởng tới bụi cây dường như tôi có thể nghe thấy những tiếng thì thầm, những con sóng

triều bí mật ngửi thấy tiếng đập của dòng máu nóng hổi dưới da thịt cuồng dại phô bày nhìn

ngược lại đôi mi mắt đỏ mọng lợn được cởi trói từng cặp sóng đôi lao xuống biển và ông

chúng ta phải thức tỉnh xem ma quỉ hoành hành đôi chút trong khi những cái đó không phải

lúc nào cũng vậy và tôi thậm chí không cần phải lâu đến thế đối với một người can đảm và

ông con có coi là can đảm hay không và tôi thưa vâng bố không coi là như vậy sao và ông

mỗi người là quan tòa đức hạnh của chính mình việc con có còn coi là can đảm hay không

còn quan trọng hơn chính bản thân hành vi ấy hơn mọi hành vi nếu con không thể nghiêm

túc và tôi bố không tin là con nghiêm túc hay sao và ông bố nghĩ rằng con quá nghiêm túc

để bố có lí do sự sợ hãi lẽ ra con không nên cảm thấy bị bắt buộc phải thú nhận mình đã

phạm tội loạn luân và tôi con không nói dối và ông con muốn thăng hoa một phần cái điên

rồ tự nhiên của con người thành nỗi khiếp sợ rồi yểm trừ nó thành sự thật”[18, 254-255].

Có hai chủ thể lời nói đang hồi đáp nhau và không một dấu chấm câu, người đọc khó nhận

ra đâu là giọng của Quentin và đâu là của bố anh ta, tất cả tan vào cuộc đối thoại bất tận của

hai nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức đã che lấp xóa mờ ranh giới không gian và thời gian.

Không chỉ là cách kể, cảm hứng tư tưởng mãnh liệt của nhà văn khiến câu chuyện sống

động, hiện thực hiện ra như chính hơi thở của cuộc sống. Nó buộc người tiếp nhận phải làm

việc thật nghiêm túc mới mong lần ra được những thông điệp nghệ thuật mà người nghệ sĩ

đã kí thác.

Tiếng nói uất nghẹn của cái Tôi mất mát và thất bại trong tình yêu, âm điệu lắng vào

bên trong, từng tiếng lòng của Quentin được trải trên những hình ảnh về quá khứ. Faulkner

ném từng mảnh hội thoại tưởng như vô cùng rời rạc và đơn lẻ nhưng tất cả đều hướng đến

Caddy, nó khoét sâu hơn sự đau đớn khi Quentin nhìn thấy em gái băng hoại đạo đức, “đó

là vì anh không còn tin vào điều gì khác còn những cái khác nữa nhưng có lẽ không có và

rồi anh em sẽ thấy rằng ngay cả bất công cũng khó xứng với cái mà em tin là mình” [18,

180].

Sự phức tạp ở giọng điệu Quentin còn được thể hiện trong cấu trúc tác phẩm. Được

viết theo lối kĩ thuật dòng ý thức, nên tác phẩm xóa mờ ranh giới thời gian tuyến tính. Từng

sự kiện hiện về Quentin, chúng âm vang thanh âm đối thoại, thấm vào cảm nhận của hắn.

49

Sự cãi nhau của bố và mẹ, những hội thoại giữa hắn và Caddy… Tất cả chúng nối kết lại

trong một thông điệp là nỗi bất hạnh của Quentin. Bi kịch của lối sống trong gia đình

Compson hiện lên. Giai điệu trầm buồn là nét chủ đạo mà nhân vật này cố thể hiện thành

lời. Tiếng chuông ngân đánh thức hắn, thời điểm một ngày với đầy ắp sự kiện được hắn

nhìn lại, quá khứ sống dậy đau buồn còn hiện thức thì đầy bế tắc, “tôi đứng giữa bóng tối và

lắng nghe từng hồi chuông đều đặn và êm đềm trải dài trong nắng, giữa đám lá non mỏng

mảnh. Đều đặn thanh bình và trong sáng, ngay cả giữa tháng cưới xin, tiếng chuông vẫn

mang đầy những đặc tính thanh bình của mùa thu”[18, 149]. Lắng nghe tiếng chuông và

nhịp điệu của nó, hắn nhớ quá khứ tươi đẹp ở quê nhà, tiếng chuông đánh thức nỗi đau thực

tại và là tiếng nguyện cầu đưa Quentin đến gần hơn cái chết. Tái hiện thực tại nhưng không

phải sự phản ánh giản đơn hiện thực, Faulkner dẫn người đọc vào một thế giới đầy tinh vi

của sự phức hợp tâm lí. Chính khả năng cộng hưởng nhiều cung bậc âm thanh và cấu trúc

âm nhạc đã khiến nhà văn thể hiện chúng dưới đôi mắt của một nghệ sĩ lập thể. Từng mảng

cuộc sống tự kết nối trong nhau, những thanh âm “vô nghĩa lí” chuyển tải những vấn đề

nhân văn về tình yêu và con người thân phận trong xã hội miền Nam lúc này.

Tiếp cận tác phẩm chúng tôi thấy dấu vết liên văn bản ở Faulkner. Tất cả thiên truyện

đều hướng về nhân vật vắng mặt, Caddy, có ba người anh em cùng nhìn về nàng với những

tâm trạng và thái độ khác nhau, khá nhiều song chiếu được nhà văn gợi ra để liên tưởng đến

nàng. Với Quentin đó là hình ảnh đứa bé gái Italia mà anh gặp trên đường. Dễ dàng nhận ra

dấu vết liên văn bản trong nó và Vụ án của F. Kafka, tình huống Queetin bị kết án và nộp

phạt và đoạn K bị tòa án buộc tội, cả hai đều phi lí, nhưng thông điệp là khác nhau. Với K

đó là sự phi lí của cuộc sống, luôn có những thế lực vây bủa con người và tòa án là một

trong số đó, tội mà Quentin phải chịu lại gắn với mặc cảm loạn luân mà anh ta cố nghĩ ra

bởi quá yêu Caddy. Thanh âm giúp hình tượng Quentin được nâng lên tầm biểu tượng: Con

người phi lí, chối bỏ thực tại và thời gian. Nó là tiếng vọng cuộng nộ cho sự bất hạnh ở

nhân vật này. Đi sâu vào tâm lí phức tạp của Queetin còn có rất nhiều hình ảnh ám gợi.

Những mẫu gốc này góp phần lí giải tầng sâu trong cơ chế tạo hình liên tưởng trong nhân

vật này. Tiếng chuông đánh thức Quentin dậy, Đồng hồ tích tắc gợi lên nhịp đập cuộc sống.

Nhưng là một kẻ luôn thất bại, anh ta sợ cuộc sống hiện tại. Những hình ảnh quá khứ hiện

về, ám ảnh hắn. Nó lộn xộn, phi logich, bởi chúng được nhìn qua con mắt của một kẻ bị ám

ảnh bởi tội lỗi loạn luân. Khao khát chiếm lĩnh, độc chiếm Caddy cho riêng mình nên tiếng

vọng đối thoại của Quentin hàm chứa cả những biểu hiện của tính giao, chúng được dấu

50

dưới lớp sương mờ của vô thức. Hành động ghen của hắn với các người tình của Caddy, nhà

văn khắc họa tâm lí đó nhờ vào thuyết phân tâm học.

Tài năng của Faulkner là với dung lượng một ngày nhưng câu chuyện về Quentin

đầy ắp sự kiện. Hình ảnh và đối thoại vang lên như khoét sâu hơn mặc cảm tự trị khi nhân

vật này lần lượt mất đi những điểm tựa luân lí, lạc lõng và trơ trọi giữa cuộc sống. Cái chết

đến với hắn là một tất yếu.

Tóm lại, Quentin là nhân vật phức tạp về tâm lí, hệ thống âm thanh chuyển tải tình

yêu cuồng vọng của hắn là tiếng tích tắc của đồng hồ, biểu trưng cho hiện thực và tiếng

chuông gợi nhớ về kỉ niệm, đánh thức thực tại đau thương. Vì là một nhân vật bị tình yêu

làm cho mù quáng, Quentin cảm nhận thanh âm cuốc sống không theo trật tự logich, đó là

sự chồng ghép của nhiều mẫu đối thoại với tiếng nói đa thanh xen vào chủ thể cảm nhận. Đi

cùng với nó là kĩ thuật dòng ý thức được Faulkner sử dụng để ghép nối những khoảng mờ

vô thức trong tâm lí nhân vật. Song chiếu hình ảnh lên tâm thức nhân vật, giúp anh ta

nghiệm sinh sự phi lí của cuộc đời. Thanh âm của Quentin soi rõ thêm bi kịch của gia đình

Compson, đặc biệt là bi kịch của Caddy.

Là câu chuyện về tình yêu và con người thân phận trong xã hội miền Nam nước Mỹ

thế kỉ XX, Âm thanh và cuồng nộ ngập tràn tiếng nói đối thoại giữa các nhân vật, một kĩ

thuật có lẽ được nhà văn học được từ kinh thánh Cựu Ước. Xen giữa thanh âm tình yêu

hướng ngoại của Benjy và hướng nội của Quentin dành cho Caddy là sự trách móc, khinh

miệt của Jason, người em của nàng.

2.2.3. Âm thanh của Jason

Jason là nhân vật tỉnh táo nhất gia đình Compson. Hắn cũng trải qua một tuổi thơ

thiếu vắng tình yêu của cha và các anh em. Tình yêu tôn thờ của mẹ không giúp nhân vật

này cân bằng được trạng thái xúc cảm. Trước sự suy sụp của gia đình, thanh âm của hắn

hướng về sự trách móc những người thân. Jason ghét nhất là Caddy. Nên khi Caddy đi khỏi

nhà, hắn trút sự thù hận lên con riêng của nàng là Quentin. Và bức tranh về gia đình

Compson không thể toàn vẹn nếu thiếu những thanh âm của Jason.

Tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ là bản giao hưởng với nhiều cung điệu khác

nhau và tiết điệu của Jason là nhịp nhanh và mạnh, tiếng nói gấp gáp của một cái tôi duy lí

đang cay nghiến thực tại, “tiền đó là của mẹ”, tôi nói. ‘mẹ muốn ném cho chim chóc thì

cũng là việc của mẹ”[18, 316]. Tư duy của Jason luôn gắn liền với vấn đề tiền bạc và địa vị

gia đình.

51

Tiếng chửi xuất hiện ngay từ phần mở đầu “ đã là điếm thì suốt đời vẫn là điếm. Tôi

đã bảo mà”[18, 258]. Câu chuyện được mở đầu với ngày 6 tháng tư năm 1928 một ngày

trước lời kể của Benjy. Jason dưới con mắt của gia nhân và anh em hắn là một kẻ chuyên

mách lẻo, keo kiệt. Tính cách này khiến hắn xa cách với anh em trong gia đình, luôn mâu

thuẫn với tình yêu thương cao cả của Caddy. Từ sau cái chết của người bà, Jason không có

được tình yêu của gia đình, hắn dường như tách biệt với những anh em của mình. Hình

tượng Jason được thể trong mắt người anh Quentin và người em Benjy là một cá tính ích kỉ,

hay khóc nhè. Cha hắn không yêu thương hắn mà dành hết tình yêu của mình cho ba người

con khác. Âm thanh của tuổi thơ Jason là tiếng khóc đấu tranh cho tình yêu gia đình không

trọn vẹn. Những bất hạnh của gia đình theo hắn chính là do Caddy. Bị hầu hết mọi người

trong gia đình coi khinh, chỉ trừ mẹ, do đó hắn cố hành động để giành được sự yêu thương

của gia đình. Chính tuổi thơ bất hạnh đã khiến Jason trở nên lạnh lùng và khắt nghiệt với

đứa cháu ruột của mình là Quentin. Cô là con riêng của Caddy với một người đàn ông khác

là Dalton Ames. Những xung đột quá khứ với Caddy trong tình yêu gia đình càng khiến

Jason khinh miệt con gái Caddy. Hắn cố áp đặt suy nghĩ và lối sống của mình lên các thành

viên khác. Do đó Jason gặp phải tiếng nói phảng kháng lại trật tự đó và kết quả là hắn bị

mất số tiền hơn 7000 đôla còn cháu gái hắn trốn nhà đi theo người khác. Thanh âm của mẹ

hướng đến hắn là tiếng cảm thông và đau xót cho đứa con trai bà yêu nhất không được đối

xử bình đẳng. Nhưng nó khiến Jason khó chịu, bởi nó như một sự ban ơn. Còn với Benjy,

hắn ghét tiếng la hét, gào khóc của em trai bởi nó khiến cho thực tại suy vi gia đình trở nên

rõ ràng hơn. Âm thanh của người vú già Dilsey với tiếng nói bênh vực và che chở cũng bị

Jason bác bỏ. Đặc biệt hắn ghét cay ghét đắng thanh âm của đứa cháu Quentin. với Jason,

đó là một niềm ô nhục trong gia đình. Jason luôn xung đột và gây hấn với cô bé, áp đặt lối

sống lên cô, khiến cô bé phải bỏ nhà đi, “cái con đĩ đã khiến tôi mất một việc làm, một cơ

hội để tiến thân, đã giết cha tôi và làm mẹ tôi mòn mỏi từng ngày, làm tên tuổi tôi thành trò

cười trong tỉnh. Tôi sẽ không làm gì hết. Tiếng chuông lại vang rền, cao tít trong nắng

thành từng dải thanh âm hỗn độn và chói sáng”[18, 419].

Vì là nhân vật tỉnh táo nhất của Compson, Jason cảm nhận thanh âm cuộc sống theo

tự thời gian, tiếng tích tắc của đồng hồ luôn gợi cho Jason sự hối hả, vội vã của cuộc sống.

Jason luôn tính toán hơn thiệt. Hắn không yêu thương một ai, đổ tất cả tội lỗi về sự suy sụp

của gia đình lên Caddy, vì nàng, nàng chiếm hết tình yêu của bố, vì nàng, Jason không thể

vào được ngân hàng làm việc, khiến bố và anh trai Quentin phải chết,… Thanh âm trách

52

móc và hằn học được thể hiện đậm nét với những mẫu đối thoại giữa hắn và Quentin, cháu

gái mình: “Tôi hư, đó là vì tôi phải hư… Cậu làm tôi hư. Tôi chỉ muốn chết cho xong. Tôi

ước gì tất cả chết hết đi”[18, 316]. Jason lợi dụng tình cảm mẹ con của Caddy để chiếm hữu

số tiền nàng gửi về hàng tháng. Dưới con mắt tiếp nhận của độc giả, Jason là kẻ tham lam

và độc ác, cay nghiệt,… Nhưng bi kịch nhân vật này phải chịu có nguồn gốc bên trong gia

đình, cách sống, thái độ sống và nuôi dưỡng người thân của Jason là nguyên nhân đẩy

Quentin trốn khỏi nhà. Khi cha mất, Jason nắm gần như sinh hoạt của gia đình. Do đó anh ta

cố tìm cách chia rẽ tình yêu của Chị gái mình và con gái cô ấy.

Tiếng nói của những đối thoại quá khứ được Jason cảm nhận, đó là việc Caddy luôn

cố gắng giành hết tình yêu về phía mình. Nàng không san sẻ nó cho Jason, khiến anh ta luôn

bị bỏ rơi và chìm trong mặc cảm lạc lõng. Hiện thực đó khiến hắn theo năm tháng trở thành

một con người đầy tính toán, nhỏ nhen và ích kỉ. Anh ta không ban phát tình yêu thương

cho cháu gái, luôn tìm cách ngăn chặn và dùng kỉ luật áp chế Quentin cháu. Chân dung

Jason thời bé với đôi tay luôn đút vào túi quần, ám gợi sự keo kiệt, chuyên đi mách léo gợi

lên sự hèn hạ. Là một kẻ hay khóc nhè và luôn chơi một mình. Jason tách xa và cách biệt

với gia đình, luôn hằn học gây hấn với Caddy. Hắn là một kẻ cơ hội, chờ thời cơ để trục lợi.

Jason chỉ biết yêu mình. Tâm hồn hắn là một sa mạc cằn cỗi. Nên âm thanh cuộc sống dội

đến với Jason không có sự cao đẹp mà chỉ là sự ích kỉ, thấp hèn. Jason không có đức tin về

Chúa, chai sạn xúc cảm và tình yêu với mỗi người, cái nhìn của nhân vật này với mọi người

xung quanh như đôi mắt của người cha, luôn coi khinh và yếm thế với cuộc đời. Do đó hắn

không chấp nhận thực tại, thanh âm phản kháng được Jason trút vào người thân, la mắng,

mỉa mai, đùa cợt, thậm chí chà đạp lên những tình cảm thiêng liêng của tình anh em,…Biểu

tượng Jason là một lối sống Mỹ thực dụng trong xã hội tư sản mà nhà văn đã phác thảo nên.

Nó bất chấp tiếng gọi yêu thương, xua đuổi tình yêu, sự hi sinh, chỉ vang lên tiếng nói ích kỉ

luôn muốn lợi ích cho riêng mình. Jason nhớ về những hành động, việc làm của mình, giọng

kể tái hiện lại những sự việc xảy ra với gia đình, nhưng nó lại được nhìn dưới một đôi mắt

khác Benjy và Quentin. Sự cuồng nộ của Jason là tính hẹp hòi của một cái tôi ích kỉ, nó

khác với khao khát được yêu thương của Benjy, tình yêu mù quáng của Quentin. Jason nhận

thức nỗi đau gia đình từ phía những người thân. Ý thức của Jason cũng được viết theo kĩ

thuật dòng ý thức. Anh ta góp cho thanh âm bi kịch của nhà Compson được nghe rõ hơn.

Tiếng nói cuồng nộ bởi hiện thực cay đắng hiện ra và Jason nhìn quá khứ đau thương. Nỗi

đau khi tài sản và địa vị gia tộc lần lượt bị mất đi. Hắn sống trong hiện tại đau thương, cố đi

53

tìm lời giải đáp cho thất bại của mình và mất mát của gia đình. Với Jason chính Caddy là

nguồn gốc của tất cả bi kịch hắn phải chịu. Những mẫu đối thoại được Jason tái hiện, những

hình ảnh gợi nhớ về Caddy của Jason không tươi đẹp và đau thương như hai người anh em

trước của ông, mà nó tràn ngập sự thù hận, oán trách.

Có những cách đặt tên được Faulkner sử dụng để tạo nên sự trùng lặp về tính cách và

gây rối cho người đọc, đó là Jason trùng với tên của bố là ông Jason Compson, Quentin là

con của Caddy trùng với tên của anh trai Caddy là Quentin Compson. Gia đình Compson

tồn tại qua bốn thế hệ là mẫu hình những gia tộc miền Nam trong thế kỉ XIX. Sự bảo thủ

trong suy nghĩ và cách dạy dỗ con cái dẫn tới sự suy vong của gia tộc. Jason nhận ra điều đó

nhưng anh lại có những cách suy nghĩ và hành động cực đoan, điều đó không thể cứu vãn

gia đình này mà còn đẩy họ lún sâu vào bất hạnh. Sự ích kỉ, lối sống khắc nghiệt và thiếu

vắng tình yêu thương là nguyên nhân của bất hạnh .

Dưới đôi mắt và cảm nhận của mỗi thành viên, âm thanh hằn chứa những thông điệp

khác nhau, nhưng tất cả đều là tiếng kêu tuyệt vọng, là lối sống ích kỉ của nhân vật. Họ

muốn được yêu thương, nhưng lại không biết học sự yêu thương do đó mất di tình yêu của

người khác. Mỗi nhân vật rơi vào vòng định mệnh, con người thân phận trong họ lên tiếng

khóc than cho số phận của mình và nỗi bất hạnh của gia đình. Trong sự bất hạnh đó, chỉ có

ánh sáng của tình yêu, sự chở che và đức hi sinh mới giúp họ vượt thoát được nó, giúp họ

tìm lại được tình yêu. Những thanh âm lạc điệu và cuồng nộ một nỗi bất hạnh của thân phận

con người, và Faulkner đã xây dựng hình tượng Dislsey với biểu tượng tiếng hát của bà như

một cách để hòa giải và cứu vớt linh hồn cho tội lỗi của gia đình này.

2.2.4. Tiếng hát Dilsey

Âm thanh và cuồng nộ là tác phẩm tiểu thuyết mà Faulkner yêu thích nhất. Nó là

thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của ông. Bởi Faulkner không thể nói hết được những thông

điệp mà nhà văn cố gửi đến người đọc.

Tồn tại song song với gia đình Compson là gia đình Dilsey. Họ là gia nhân của nhà

Compson, Dilsey nuôi nấng bốn đứa trẻ nhà Compson, và cả đứa con gái của Caddy. Bà yêu

thương tất cả, tình yêu của Dilsey san sẻ đều cho chúng. Chứng kiến sự suy tàn của dòng họ

Compson, Dilsey bỏ ngoài tai lời nói của chồng về định mệnh và số phận của gia đình này.

Bà tin tình yêu sẽ cứu rỗi được tất cả, Dilsey chăm sóc lũ trẻ khi mẹ chúng đau ốm triền

miên còn cha của lũ trẻ thì ngập chìm trong rượu. Tình thương của Dilsey được thể hiện qua

đoạn đối thoại giữa bà và cha mẹ chúng, giữa bà và các anh em nhà Compson và giữa

54

những người thân trong gia đình Dilsey. Ở đó vang lên một thanh âm của tình yêu thương

vô bờ bến của người vú già da đen đối với lũ trẻ da trắng.

Phần bốn của câu chuyện được kể với giọng trầm, tác giả đứng ở ngôi thứ ba, cố

khách quan hóa đời sống của gia đình Compson bằng cái nhìn của người ngoài cuộc. Với

điểm nhìn bên ngoài, hiện thực khách quan được vẽ nên.

Một buổi sáng chủ nhật ngày 8/ 4 /1928, ảm đạm và u ám, con gái của Caddy trốn đi

cùng một người trong rạp hát còn Jason thì bị mất hơn 7000 Đôla. Không khí nặng nề và u

ám tràn ngập ngôi nhà Compson khi Jason biết được sự việc đó. Trên sự kiện ấy, hình bóng

của Dilsey hiện lên với tất cả phẩm chất bao dung và tình thương bảo bọc của một người vú

già đã trải qua quá nhiều biến cố. Năm tháng cuộc đời đã bao mòn thân xác bà, “Chiếc áo

rủ xuống buồn thảm từ vai đến bộ ngực chảy nhẽo, bó lại phía sau bụng, rồi lại rũ xuống

trên những váy lót mà bà sẽ cởi bỏ từng lớp khi mùa xuân tới hẳn với màu sắc vương giả và

suy tàn. Trước kia bà là một phụ nữ to lớn, nhưng giờ đây khung xương đã nhô lên dưới lớp

da bùng nhùng, tuy nhiên, lớp da này thít lại trên cái bụng gần như phù thủng, như thể cơ

và mô một thời từng là can đảm và chịu đựng đã bị năm tháng gặm mòn cho đến khi chỉ

còn bộ xương bất khuất trồi lên như một tàn tích hay một cột mốc dựng trên can trường và

đờ đẫn, và trên nữa là khuôn mặt sụp xuống, khiến người ta có cảm tưởng như xương ở

ngoài da, gương mặt ngước lên đón một ngày cuồn cuộn với vẻ vừa an phận vừa như một

đứa trẻ thất vọng ngỡ ngàng”[18, 368]. Nhưng bà vẫn cất tiếng hát dù trong mọi hoàn cảnh

thương đau nhất. Tiếng hát của Dilsey là bài ca lạc quan về tình yêu và cuộc sống của con

người trước mọi hoàn cảnh và bất hạnh của cuộc đời. Trước thanh âm gào khóc, rên rỉ của

Benjy, bà vẫn cố gắng chăm sóc và yêu thương hắn. Bà yêu thương Caddy dù nàng có sa

đọa và luôn cố gắng chèo lái, chồng gánh gia đình Compson suốt từng ấy năm từ khi Benjy

ra đời đến lúc Quentin cháu trốn nhà đi. Gia đình Dilsey song chiếu lên gia đình Compson,

với hai người con trai và một cô con gái, tất cả họ thấm đẫm ý thức lạc quan, tinh thần yêu

cuộc sống. Nó khác với thái độ bi quan và hoài nghi, bế tắc trước cuộc đời của những thành

viên nhà Compson.

Dilsey luôn cố gắng để giúp nhà Compson tồn tại và phát triển. Hành trình đi tìm

đồng xu của Luster, đứa con của Frony tương ứng với cố gắng tái tạo, tìm kiếm lại hiện thực

quá khứ của Benjy. Mỗi nhân vật trong truyện là một nốt nhạc của bản giao hưởng định

mệnh về cuộc đời con người. Nó tấu lên nhạc khúc, hỉ, nộ, ái , ố,… Tất cả cung bậc thanh

điệu cuộc sống được trộn lẫn trong thanh âm đầy cuộc nộ và Dilsey là người chứng kiến tất

55

cả mọi điều đó, bà cố gắng hòa giải chúng. Lời thoại của Dilsey vang lên tiếng nói của đức

hi sinh, nó biểu tượng cho hình ảnh con người dám đương đầu và bất chấp số phận, điều đó

chỉ có ở bà và Caddy.

Khi mất người thân, Dilsey cũng than khóc, nhưng bà luôn cố gắng vượt thoát nỗi

đau đó. Nên tiếng hát của Dilsey cất lên sau đó, nó cố gắng hòa giải những mất mát, đau

thương trong cuộc đời. Với bà, định mệnh, số phận không phải là nguyên nhân dẫn đến sự

diệt vong của một dòng họ. Chính sự ích kỉ và thói thù ghét cá nhân, sự tư lợi mới khiến con

người rơi vào vòng xoáy của tội lỗi, đưa con người đến sự suy tàn. Thanh âm trong trẻo của

tiếng hát Dilsey chen vào những thanh âm trầm đục của những nhân vật tạo cho Thanh âm

và cuồng nộ tựa một bản giao hưởng mà mọi niêm luật đều xô bồ, vô trật tự.

Âm thanh và cuồng nộ trước hết là một cuộc đối thoại lớn dường như bất tận của

Faulkner với những thay đổi của thế kỉ XX, bởi, “nghệ thuật là một lạc thú nhu cầu tình

cảm. Nghệ thuật gia chân chính bao giờ cũng chất chứa trong tâm tư những nỗi niềm khổ

sở không nói ra được”[44, 30]. Nhà văn chân chính Faulkner không thể nói thành lời nên

ông đã gửi hết tâm sự đó vào tiểu thuyết này. Nhà tiểu thuyết phải không ngừng đổi mới

hình thức nghệ thuật mới có thể tạo nên những tác phẩm có giá trị. Faulkner đã chọn kết cấu

đối thoại và những thủ pháp dòng ý thức, thủ pháp song trùng, chính gia đình Dilsey là một

sự phóng chiếu lên gia đình Compson, những đổi thay đã diễn ra, từng biến cố, sự kiện của

họ gắn chặt với nhau. Đặc biệt là sự phức hợp đến ngẫu nhiên của các hình tượng, nếu tiếng

nói của bà Caroline là giọng điệu sợ hãi, đau ốm thì Dilsey lại mang giọng điệu mạnh mẽ,

cảm thương, thấu hiểu và lắng nghe. Những âm điệu trong tiếng khóc của bà, tiếng nói và

tiếng hát, tất cả hòa âm cho một khúc nhạc của tình yêu thương vô bờ bến của một người

mẹ đối với những đứa con của mình và những đứa trẻ nhà Compson do chính bà nuôi dưỡng

và chăm sóc.

Hình tượng Dilsey với tiếng hát cất vang trong tác phẩm biểu trưng cho thông điệp,

dù trong đau thương, mất mát, tình yêu con người, lòng cảm thông và tinh thần trắc ẩn sẽ

cứu vớt họ qua nỗi đau ấy.

Và một lần nữa, Faulkner lại tìm về tôn giáo, lời thuyết pháp của vị linh mục già với

âm điệu trầm ấm, dẫn người đọc đến với nguyên do của mọi sự. “Tôi đã thấy”, là thanh âm

của mục sư, nó gợi sự suy tàn của một dòng họ. Dilsey đưa Benjy vào buổi thuyết pháp như

nghi lễ hiến tế cho những tội lỗi. Dẫu cố gắng để kết thúc câu chuyện, nhưng Faulkner vẫn

bất lực trong việc chuyển tải nội dung mình cố gắng thể hiện trong tác phẩm. Tôn giáo có

56

thể cứu rỗi nỗi đau cho con người ? Chúng tôi thấy thấp thoáng những ảnh hưởng của

Dostoievski trong Faulkner, ông đã cố gắng vận chuyển hình tượng người tu sĩ để lí giải

những bất hạnh trong đời sống con người nhưng rõ ràng nó vẫn bất lực.

Kết cấu âm nhạc là một đặc trưng lớn của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX. Các nhà

văn quan niệm cuộc sống luôn vận động và muốn nắm bắt được bản chất của nó, người

nghệ sĩ phải trộn hòa nhiều loại hình nghệ thuật với nhau, và âm nhạc là gần với văn học

hơn cả. Sự phức tạp từng cung bậc âm thanh với những nốt, hợp âm của nhạc sẽ diễn tả tinh

tế hơn những xúc cảm tế vi trong con người. Bởi bản chất của cuộc sống là đối thoại, đó là

con đường ngắn nhất đi đến chân lí mà tất cả mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới đều dựa

vào nó. Do đó người nghệ sĩ hiện đại Falkner đã lựa chọn những hợp âm để cố diễn đạt trọn

vẹn những suy nghĩ của ông về con người và xã hội thế kỉ XX.

Với bốn phần khác nhau, những mảnh ghép của sự kiện, biến cố khiến số phận mỗi

nhân vật được lộ rõ. Hầu hết họ đều mang những thanh âm riêng, và mọi người lại cuồng nộ

theo những cách khác nhau. Chỉ có duy nhất Dilsey, người vú già đảm đang chỉ mang âm

thanh mà không chứa đựng sự cuồng nộ. Bởi âm thanh mà bà mang đến là tiếng hát của

lòng yêu thương, sự cam chịu và nhẫn nhục, đức hi sinh đầy cao quí của một con người luôn

cố gắng để yêu thương tất thảy mọi người. Âm thanh và cuồng nộ là một câu chuyện

không có nhân vật chính, những nhân vật lại có những đặc trưng riêng, đó là một đặc tài của

Faulkner. Mọi người góp vào một phần thanh âm để cho cuốn tiểu thuyết trở nên hoàn thiện

và cuối cùng, tiếng nói đối thoại của nhà văn với cuộc sống vang lên.

Sự phức điệu cũng là một đặc trưng của cuộc sống hiện đại. Do đó đối thoại là thủ

pháp được Faulkner sử dụng hầu hết trong các tiểu thuyết của mình. Dưới ánh sáng của

nguyên lí này, cuộc sống hiện lên bộn bề, phức tạp, bí ẩn và kì vĩ. Sơ khai nhân loại đã biết

giao tiếp như một cách trao gửi thông điệp cho nhau. Tín hiệu âm thanh là một phần của

cuộc sống loài người. Nhưng để chúng hiện lên sống động và chuyển tải những thông điệp

đến người đọc, nhà văn phải sắp xếp, xử lí thật tinh vi khối nguyên liệu thô này.

Bốn phần của câu chuyện là bốn giọng khác nhau, bên cạnh bốn hợp âm chủ đạo, các

giọng khác phối bè với nhau, khiến giọng chủ đạo được cất vang và tình điệu thẩm mỹ của

nhà văn được hiện lên. Giọng điệu của Dilsey hiện ra qua mẩu đối thoại của bà với chồng,

con và với các thành viên của gia đình Compson. Với người chồng Rukos, giọng bênh vực

và xóa tan nghi ngờ của ông về định mệnh của dòng họ Compson, với ba người con, mỗi

người Dilsey lại có những cách yêu thương riêng, đặc biệt là Luster, đứa cháu ngoại, dù

57

quát nạt nó nhưng Dilsey luôn dành cho nó một tình yêu cao cả. Không chỉ yêu thương

những đứa con của mình, Dilsey còn ra sức chăm sóc, bảo bọc cho từng đứa trẻ nhà

Compson. Tiếng nói của bà chia sẻ, cảm thông và tiếng hát như xoa dịu đi những nỗi đau

mà chúng phải gánh lấy. Do đó biểu tượng tiếng hát của Dilsey được xây dựng trong tác

phẩm là thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến người đọc. Nó được cấu trúc với những thanh

âm khác, là tiếng nói hòa giải nỗi đau, sự bất hạnh của gia đình Compson. Benjy, Quentin,

Jason, mỗi nhân vật lần lượt kể lại cuộc đời họ và gia đình. Chứng kiến sự suy sụp của gia

đình, họ lí giải nó theo những cách khác nhau, những điểm nhìn ấy khiến câu chuyện hiện

lên chân thực hơn. Nhưng nó vẫn thiếu một cái gì đó, một cái tôi đứng bên ngoài câu

chuyện, tác giả không trao điểm nhìn đó cho Dilsey, bởi bà là người chứng kiến tất cả, do

đó ông phải cố kể phần phần cuối cùng.

Hình tượng Dilsey trải khắp bốn phần của câu chuyện, tiếng nói của bà vang lên gần

như ở cả bốn phần. Nó mang đầy đủ những cung điệu tâm trạng của một người đầy tớ già,

cần mẫn, chăm chỉ làm việc, chăm lo gia đình, giữ vững bếp lửa cho nhà Compson. Những

đức tính cao đẹp đó được thể hiện qua dòng hồi tưởng của các nhân vật. Những mảng tự

thuật của các anh em nhà Compson, Caddy và Dilsey hiện lên chân dung về bóng dáng

người phụ nữ đã cưu mang và nuôi dưỡng tâm hồn họ. Hiện thực và quá khứ đan cài, trộn

lẫn trong nhau, nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được những thông số chung trong

cảm thức của họ. Tất cả đều có một tình yêu, họ không yêu người mẹ sinh ra mình mà gắn

bó phần lớn cuộc đời họ với hai người phụ nữ trên. Nó ám ảnh tâm thức họ, làm nên những

thanh âm chất đầy giọng điệu cuồng nộ trong mỗi nhân vật. Do đó nhà văn không cho họ

xuất hiện để nói về thân phận của mình và gia đình Compson mà phải là các người anh em

nhà Compson.

Người phụ nữ là một nửa của nhân loại. Dilsey với phẩm chất của mình giúp gia đình

Compson tồn tại suốt một khoảng thời gian dài từ khi bà nội Caddy chết, đến lúc cô bé

Quentin trốn nhà đi. Trên âm thanh khóc than cho những cái chết, tiếng rên rĩ, tuyệt vọng

cho đời sống đang bị chảy trôi một cách tầm thường và buồn chán là tiếng hát vượt lên số

phận, ca ngợi tình yêu con người, cảm thông và tranh đấu với hiện thực khắt nghiệt của

Dilsey. Nó âm vang một thông điệp của Faulkner, “sống trên đời này chỉ có tình yêu và

thân phận, thân phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô cùng, phải làm sao nuôi dưỡng tình yêu để

tình yêu cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”(Trịnh Công Sơn). Và Dilsey là một

phụ nữ như vậy.

58

Tiếng chuông số phận báo hiệu sự suy tàn của gia đình này, tiếng hát Dilsey nâng đỡ

xoa dịu nỗi đau cho từng người trong đó. Với tiếng hát, dường như mọi mệt mỏi, vất vả về

thể xác và tâm hồn của người phụ nữ da đen này tan biến hết. Chỉ còn lại một tình yêu cuộc

sống.

Là một người phụ nữ không biết chữ, Dilsey tin ở Chúa, Chúa của bà khác với mẹ

Caddy, nó là tình yêu chứ không phải sự than thở, là đức hi sinh chứ không phải sự ích kỉ,

khát vọng sống và hành động chứ không phải ngồi im và nhìn cuộc sống chảy trôi vô ích.

Bài ca về nó được hoàn tất trong đoạn thuyết pháp của vị linh mục già: kết thúc để mở ra

một cái mới, kết thúc đóng lại một trang sử cho dòng họ. Bà nhìn thấy cái mở đầu, và giờ bà

nhìn ra cái kết thúc như bà đã thốt lên ở đoạn cuối câu chuyện. Trốn chảy khỏi số phận với

sự đánh tráo tên gọi, đám cưới, ngập tràn trong rượu, đau ốm,… Mỗi thành viên bị những

định chế, cách sống áp đặt khiến họ không vượt thoát được nó, và diệt vong là kết thúc tất

yếu. Một cái kết vòng tròn khi mở đầu là hành trình kiếm tìm của hai con người với hai

mục đích và kết thúc là nỗi bi kịch bất hạnh khi họ bị Jason đánh đập khi từ nghĩa trang trở

về. Những thanh âm vô nghĩa, lạc điệu cứ miên man bất tận trong từng dòng chảy của tâm

trạng các nhân vật. Và dưới biểu tượng ấy, bóng dáng hình điệu cuồng nộ hiện lên, tâm thức

cá nhân với những mặc cảm đớn đau được phô bày.

Faulkner đã cố đưa kết cấu âm nhạc và biểu tượng âm thanh để chuyển tải những

thông điệp nhân văn về tình yêu và con người thân phận cho người tiếp nhận. Nhưng dường

như biểu tượng âm thanh vẫn tỏ ra bất lực trước việc chuyển tải những thông điệp ấy. Bởi

cuộc sống quá phức tạp và bề bộn. Chúng tôi có thấy thấp thoáng bóng dáng huyền thoại

với những thánh tích Kinh Thánh trong tác phẩm. Là một công dân thanh giáo, Faulkner có

chịu ảnh hưởng của huyền thoại Kinh Thánh. Biểu tượng huyền thoại được nhà văn viện

dẫn như một lối vào trong tác phẩm. Chính sự phức hợp của nhiều hợp đề như vậy khiến

bản thân Âm thanh và cuồng nộ trở nên khó nắm bắt, và để những thanh âm đó đến với

người đọc rõ hơn, người nghệ sĩ đã cố gắng chuyển tải nó trong những biểu tượng khác nữa.

Mỗi con người luôn thuộc về một nơi mình sinh ra. Do đó không gian như một nơi

chốn làm nền cho sự trưởng thành và nâng đỡ nhân vật. Cùng với không gian, thời gian luôn

luôn hiện hữu bên trong hành trình sống của mỗi con người. Do đó theo chúng tôi muốn

hiểu thật sâu tác phẩm, ngoài lớp biểu tượng âm thanh trên thì không thể bỏ qua hệ thống

biểu tượng Không- thời gian. Nó được Faulkner sáng tạo và giấu kín như một ý đồ nghệ

thuật tinh vi trong suốt hành trình sáng tác tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ.

59

Tiểu kết chương 2:

Khả năng tạo ra những tiếng nói đối thoại thật tự nhiên và sinh động là một biệt tài

của W. Faulkner. Trong cuộc hội thoại này, người đọc không chỉ nghe ra được giọng điệu

nhân vật mà còn dựng lên được hình ảnh và tính cách của nhân vật, tất cả đều bắt đầu với

âm thanh.

Mỗi nhà nghệ sĩ luôn cố gắng sáng tạo nên một hiện thực gần với cuộc sống nhất và

thông qua hệ biểu tượng âm thanh hiện thực về gia đình Compson đã hiện lên với như chính

hơi thở cuộc đời. Những thăng trầm và biến cố trong gia đình ấy đều gắn chặt với những

thanh âm cuồng nộ trong các thành viên của dòng họ Compson. Chọn lựa và sắp xếp để

những phát ngôn ấy tự nó tấu lên khúc nhạc cuộc đời và để chuyển tải thông điệp về tình

yêu và con người thân phận mà nhà văn muốn nói đến là một sáng tạo tài tình của ông.

Thông qua lớp biểu tượng âm thanh, chúng tôi muốn đưa người đọc thấy được một

kết cấu kĩ âm nhạc đã được lồng ghép vào trong văn học và lằn ranh giao thoa giữa các loại

thể trong tiểu thuyết này. Với hệ biểu tượng âm thanh, mỗi hình tượng nhân vật đều mang

một thanh âm tượng trưng cho bản chất của họ và trên nền đó, bức tranh về biểu tượng

không thời gian và biểu tượng tâm linh từng bước được hé lộ. Thanh âm hòa cùng những

nhịp điệu và hình ảnh xuất hiện liên tục đã chuyển tải những thông điệp đầy nhân văn của

tác giả, “khi nhà văn viết viết về con người, tức là anh ta đã viết về những ước vọng, những

gian khổ, những nổi lo âu, lòng can đảm và sự hèn nhát, những cái nhỏ nhen và những cái

cao đẹp trong tâm hồn họ”(Faulkner).

60

CHƯƠNG 3: HỆ BIỂU TƯỢNG VẬT THỂ KHÔNG - THỜI GIAN

TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ”

3.1. Biểu tượng thời gian

Khát vọng chiếm hữu thời gian là ước muốn to lớn của con người. Văn minh nhân

loại đã phát minh nhiều công cụ để tìm hiểu thời gian, từ chiếc đồng hồ Cát đến những

tượng tháp cổ của người Ai Cập, Maya, đồng hồ mặt trời ở nước Anh… tất cả chỉ với mục

đích chiếm hữu thời gian, làm chủ thời gian. Khoa học kĩ thuật phát triển khiến đòi hỏi văn

học cũng phải bắt nhịp với nó để đi vào nhận thức con người sâu sắc hơn. Văn học hiện đại

thế kỉ XX đã chứng kiến nhiều khám phá vĩ đại trong việc chiếm lĩnh hiện thực, đặc biệt là

những kĩ thuật được nhà nghệ sĩ sử dụng trong thể loại tiểu thuyết để khám phá bề sâu tinh

thần con người hiện đại, “họ tin tưởng rằng vũ trụ sẽ không chịu tiết lộ bí mật cho bất kì

người nào chỉ biết tra vấn cuộc sống bằng những tính toán rạch ròi và những gì là tinh túy

của đời sống thường lại nằm ngoài nhận thức duy lí” [23, 32]. Nỗi ám ảnh về thời gian đã

hằn những vết thương to lớn vào tâm thức nhân loại từ buổi sơ khai. Nó lại càng trở nên bức

thiết hơn trong kỉ nguyên khủng hoảng toàn bộ mọi thiết chế xã hội ở thế kỉ XX.

Vấn đề xử lí thời gian nghệ thuật đã tạo ra những hiệu ứng thẫm mĩ rất to lớn nhằm

kích thích sự đồng sáng tạo của người đọc hiện đại. Một Ulysse của J. Joyce với một ngày

tại Dulbin mà bao sự kiện và biến cố đã xảy đến với nhân vật chính Stephen Dedalus, những

mảnh hồi ức của quá khứ, hiện thực, giấc mơ tràn ngập suy tư của các nhân vật này về con

người, cuộc sống. Một “Đi tìm thời gian đã mất” của M. Proust, nơi mà trật tự thời gian

tuyến tính bị đảo lộn, nhân vật chính “Tôi” sống lại với các hồi ức quá khứ khi chạm tay

vào những hiện vật gợi nhớ kỉ niệm xưa, trong dòng chảy của thời gian tâm trạng, các sự

kiện và biến cố tự nó phơi bày chính hiện thực của riêng mình,… Tất cả những điều đó

khiến các tác phẩm ấy trở nên sinh động và hiện thực được hiện lên một cách tươi mới,

những thủ pháp che dấu cốt truyện bằng lối trần thuật phi tuyến tính khiến người tiếp nhận

muốn lĩnh hội được văn bản phải có một cách đọc khác lối đọc truyền thống. Đó là một nét

độc đáo, đặc sắc của văn học hiện đại chính bởi các nhà văn hiện đại có quan niệm thời gian

nghệ thuật khác xa với các nhà văn trước đây. Họ sáng tạo ra một hệ thống biểu tượng thời

gian riêng biệt để nó góp phần soi rọi hiện thực nhận thức thêm phần linh diệu, “quá độ từ

chủ nghĩa phân tích tâm lí- xã hội đến cấu trúc ‘tổng hợp’ về một mô hình tượng trưng thế

giới,….là sự dịch chuyển hứng thú sáng tạo sang những vấn đề siêu hình vĩnh cửa với việc

61

thoát ra khỏi những giới hạn cụ thể về không gian và thời gian”[47, 470]. Với Âm thanh

và cuồng nộ, W. Faulkner cho thấy tài năng độc đáo của mình khi câu chuyện về một gia

đình được ông ngưng đọng chỉ với bốn ngày nhưng đầy những biến cố và sự kiện. Biểu

tượng thời gian chúng tôi nhận thấy trước tiên ở tác phẩm chính là biểu tượng Đồng hồ. Một

công cụ để chiếm lĩnh tri thức về thời gian của nhân loại.

3.1.1. Đồng hồ - cảm thức lưu đày

Hình ảnh chiếc đồng hồ được nhà văn miêu tả tỉ mỉ và chi tiết trong phần hai của văn

bản. Khi Quentin học tại Harvard vào năm 1910, sau đám cưới em gái gần hai tháng, 25 /4

/1910, nhân vật này đập nát chiếc đồng hồ của người cha trao cho với ý định trốn chạy khỏi

cuộc đời. Bởi biểu tượng đồng hồ gắn với tâm thức của hắn, nó biểu trưng cho thời gian

cầm tù và lưu đày: “Quentin, bố cho con nấm mồ của mọi hi vọng và ước muốn; điều đáng

suy tư hơn là con dùng nó để lĩnh hội cái mô hình phi lí của toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh

có thể chẳng thích hợp với những nhu cầu cá nhân của con...Bố cho con không phải để con

nhớ thời gian mà để con có thể đôi lúc quên nó đi và đừng có kiệt sức tàn hơi cố gắng chinh

phục nó”[18, 117]. Bố hắn chỉ cho hắn thấy, không có gì ngoài thời gian dù đó là chiến

thắng hay thất bại, “bãi chiến trường chỉ khải thị cho con người sự điên rồ và tuyệt vọng

của chính họ, và chiến thắng chỉ là ảo tưởng của các triết gia và những thằng ngốc”[18,

117]. Do đó Quentin lo sợ tiếng tích tắc của đồng hồ, nó dội vào hắn làm hắn rơi vào bế tắc

trước những hình ảnh đầy cuồng nộ khi anh nhớ về quá khứ với bao hối tiếc đau thương:

“Người ta có thể lãng quên cái thanh âm ấy thật lâu, rồi trong một tích tắc nó tạo ra trong

tâm tưởng triền miên chuỗi thu giảm dằng dặc của thời gian mà người ta đã không

nghe”[18, 117]. Đồng hồ đánh những tiếng chuông đưa nhân vật này trở lại thời gian thực

tại ở Harvard. Hắn không thể hòa hợp với cuộc sống tại đây. Mỗi tiếng ngân của hình ảnh

đồng hồ như biểu trưng cho cảm thức lưu đày của Quentin trong hiện thực đau thương.

Nhưng sự lưu đày do biểu tượng này gợi lên ở nhân vật này khác với Benjy. Mỗi thanh âm

Quentin nghe được từ tiếng kêu của nó đó là sự vô nghĩa của cuộc đời, không có gì ngoài

tuyệt vọng và đau thương. Là nhân vật hoài nghi, Quentin luôn nghi ngờ sự tồn tại của thời

gian.

Đồng thời những thanh âm của chiếc đồng hồ gợi cho anh ta nhớ về thời gian quá

khứ. Năm tháng ấu thơ ít xuất hiện trong kí ức hắn, thời gian hiện thực luôn ám ảnh anh ta,

“tôi sẽ phải quay lại với nó cho đến khi ngục tù chính là mẹ bà và bố hướng lên nguồn sáng

yếu ớt nắm tay nhau và chúng tôi lạc lõng đâu đó bên dưới họ ngay cả một tia sáng cũng

62

không có”[18, 250]. Rất ít ánh sáng rọi vào tâm thức Quentin, cõi lòng hắn ngập tràn bóng

tối. Chúng tôi thấy rõ sự tương phản sáng – tối trong cung bậc xúc cảm của nhân vật này.

Không tìm thấy ánh sáng cứu rỗi, Quentin bị bóng đen thất bại phủ vây. Anh ta đau đớn

nhận ra hiện thực bất hạnh khi biểu tượng đồng hồ luôn hiện hữu trong anh. Nó đánh thức

nỗi đau trong hắn, đó là một hiện thực tràn ngập nỗi bất hạnh, Quentin là một nhân vật thất

bại, anh ta không giữ được Caddy, chính sự băng hoại về dục tính của nàng đã đẩy Quentin

vào bi kịch. Không chấp nhận điều đó, hắn cố gắng bịa ra tội lỗi loạn luân với em gái mình,

cố nghĩ về sự vô nghĩa lí của cuộc đời trong thời gian. Lắng nghe thời gian được gợi nên bởi

Đồng hồ, một nỗi sợ cái chết thoáng chốc trùm lên suy nghĩ của hắn, “tôi chưa bắt đầu đếm,

tới khi đồng hồ điểm chuông ba giờ. Rồi tôi bắt đầu, đếm đến sáu mươi lại gập một ngón

tay và nghĩ đến mười bốn gón tay nữa đang chờ để gập xuống rồi mười ba rồi mười hai rồi

tám rồi bảy, cho đến hết, rồi đến khi tôi nhận thấy những sự im lặng ”[18,132]. Quentin bế

tắc vì không ai hướng đạo cuộc sống cho mình, những lí thuyết hư vô về thời gian mà hắn

tiếp thu được từ bố cũng là một nguyên nhân đẩy anh tự vẫn: “Bố nói những chiếc đồng hồ

đã giết thời gian”[18, 129]. Sự suy tàn của dòng họ, gia đình theo thời gian. Cuộc sống

không đứng yên, nó luôn vận động nhưng gia đình Compson vẫn sống, dạy dỗ con cái theo

cách thức của xã hội cũ. Mâu thuẫn đó đẩy tất cả họ vào bi kịch. Từng sự kiện bất hạnh xảy

đến với gia đình, đặc biệt là việc Caddy có thai và đám cưới với người con trai khác là

nguyên nhân trực tiếp đẩy Quentin tìm đến cái chết. Anh không chấp nhận điều đó. Thời

gian tâm thức hiện lên khi nhân vật lắng nghe tiếng đồng hồ, nó như sự trôi của đời sống,

“có một tá đồng hồ trong cửa hiệu, chỉ một tá giờ khác nhau và chiếc nào cũng đoan chắc

một cách đầy mâu thuẫn, với sự quả quyết như nhau, y hệt chiếc đồng hồ chẳng còn cây kim

nào của tôi, kêu tích tắc trong túi, dù chẳng ai thấy nó, nó cũng chẳng chỉ được gì nếu như

có ai thấy đi nữa”[18, 128-129]. Bởi với hắn, không có một thời gian nào là chính xác “tất

cả đồng hồ cần phải lấy lại giờ”, thời gian đày đọa Quentin vào sự bất hạnh. Trước ranh

giới sống chết, Quentin vẫn không thể thoát được nỗi ám ảnh về Caddy. Nàng là hiện thân

của sự mất mát, bất hạnh của gia đình và là hiện thân của cái đẹp. Caddy nâng đỡ tinh thần,

cứu rỗi linh hồn cho Quentin và Benjy. Dòng chảy thời gian với biểu tượng đồng hồ gợi lên

nhịp trôi của đời sống, những tích tắc, nhịp điệu này gợi lên sự lặp lại miên viễn của đời

sống đang bị cầm tù. Không có lối thoát, nhân vật cố chạy trốn nó, ẩn mình vào những triết

thuyết hư vô. Nhưng nhịp đồng hồ vẫn làm anh ta ý thức được sự tồn tại của mình. Nó lưu

đày nhân vật trong nỗi đau hư thực khi quá khứ rồi hiện tại cứ lần lượt hiện ra rồi trở lại.

63

Mỗi nhịp ngân của nó đưa nhân vật thức tỉnh, hơn 7 lần Quentin nghe tiếng tích tắc ngân lên

từ đồng hồ. Nó khiến hắn hoảng hốt khi đi tìm một ý nghĩa sống đích thực. Mặc cảm đau

thương vì những bất hạnh mà gia đình và bản thân gánh chịu đã không được giải đáp. Có

một chút luyến tiếc đời sống trong anh. Thái độ lo sợ ấy xảy đến khi hắn nghe tiếng chuông,

sự hiện hữu của đời sống, tiếng chuông gợi nhắc về cuộc sống thanh bình ở quê nhà, đánh

thức hắn sự trống vắng vô nghĩa của cuộc sống hiện tại ở Harvard. Tất cả được Quentin

nghe bằng thính giác, hắn đã là một cái bóng chết. Anh ta không sống được kể từ lúc em gái

lấy chồng.

Đồng hồ như điệu ru đưa người đọc thâm nhập vào thời gian bên trong của đời

sống tinh thần nhân vật. Quentin sống trong sợ hãi và bất an về linh hồn. Mỗi thời khắc hắn

nhìn Đồng hồ đều gợi lên nhịp trôi cuộc sống. Hắn cố hình dung cuộc đời theo ý nghĩ của

riêng mình. Một ngày trôi qua trước khi tìm đến cái chết. Từng mẩu thời gian trôi qua, tất cả

chúng được gói trọn vào chiếc Đồng hồ. Âm điệu của nó báo hiệu một tiếng kêu định mệnh

trước lúc rời xa cuộc sống. Hắn cố lật lại những biến cố gia đình. Thời gian như ngưng đọng

khi Quentin nhớ về kí ức với Caddy. Nàng là nỗi đau đớn lớn nhất dày vò trái tim hắn: “Sao

em không đưa anh ta vào nhà, Caddy ? Sao em làm như một mụ đàn bà da đen ngoài đồng

ngoài rãnh trong bụi trong bờ lẩn lút mơ cuồng nơi rừng tối ?”[18, 137-138]. Hắn muốn

làm ngưng đọng thời gian bằng việc cố nghĩ về những triết lí về thời gian và cuộc sống của

cha dạy cho mình, nhưng nó vẫn bế tắc. Không thể sống với thời gian thực tại, Quentin lần

tìm thời gian quá khứ. Những mảnh hiện thực gắn liền với biểu tượng Đồng hồ. Nó được

chuyển đi và trở lại như những mảnh ghép của nhân vật về cuộc đời.

Thời gian cầm tù nhân vật, đó cũng là một đặc điểm của văn học thế kỉ XX. Trong

cảm nhận của Quentin, biểu tượng thời gian là ẩn số không lời giải đáp. Đồng hồ là một

biểu trưng cho thời gian, nó cũng gợi lên ý nghĩa cuộc sống với tiếng tích tắc. Biểu tượng

này giao hội với biểu tượng âm thanh. Lằn ranh của nó khó phân biệt. Nhưng dù thế nào thì

Đồng hồ cũng chuyển tải thông điệp là cảm thức của nhân vật. Nó kết hợp với kết cấu văn

bản tạo sự trùng phức cho câu chuyện. Có sự học tập Dostoivesky và Kafka ở Faulkner.

Chính họ gợi mở cho ông cánh cửa đi vào các biểu tượng nghệ thuật đậm sắc màu huyền

thoại tôn giáo. Huyền thoại về kinh thánh được nhà văn khai thác trong xã hội hiện đại

mang đậm tính bi kịch. Đó là sự mất đức tin của con người rời bỏ Chúa. Do đó họ mất niềm

tin vào cuộc sống, không có chân lí để xác tín nó. Và ba mốc thời gian mà nhà văn chọn để

tường thuật câu chuyện cũng gợi lên ý nghĩa tôn giáo, với ngày Chúa nhật của lễ phục sinh

64

8/ 4/ 1928 của người da đen. Quentin lạc loài trong mớ nhận thức hỗn độn, anh chìm trong

sắc màu của hư vô. Thời gian như một dòng chảy cắt ngang tâm thức của Quentin, nó len

vào đời sống các nhân vật trong Âm thanh và cuồng nộ, rất khó nhận ra dấu vết của từng

sự kiện ăn nhập với thời gian tuyến tính. Đảo lộn trật tự truyện kể, tác phẩm như dòng suối

tuôn trào, từng mạch cảm xúc của nhân vật tuôn trào theo sự kiện và biến cố của cuộc đời

họ. Ở đó thời gian dường như bị bỏ qua. Dẫu vậy, nhưng nó vẫn luôn hiện hữu trong tâm

thức của các nhân vật.

Cách đặt tên thời gian ở từng phần của câu chuyện đã cho thấy một dụng ý của

Faulkner. Có bốn mốc thời gian làm điểm tựa để các nhân vật tự nói về mình, cảm nhận

cuộc sống đang chảy trôi quanh mình. Ngày 7 tháng 4 năm 1928, một điểm thời gian nhưng

biến cố của một ngày ở Benjy không phải chỉ là sự việc anh ta và thằng bé Luster đi tìm

đồng xu 25 Cent. Nó là hồi ức và kí ức về tháng năm của gia đình Compson với bao sự kiện

xảy đến với họ. Dưới đôi mắt của một gã khùng, nhà văn cố giấu đi dòng thời gian sự kiện

xảy đến với họ. với Benjy, những hình ảnh và âm thanh đập vào mắt mình đưa hắn trở lại

hiện thực quá khứ. Đồng hồ cầm tù nhân vật. Benjy dù không có ý thức được nó, nhưng

biến cố xảy đến với hắn luôn gắn chặt với thời gian. Thật vậy, nỗi đau hắn phải gánh chịu

khi gia đình chợt nhận ra căn bệnh chậm phát triển của Benjy, nó có mốc sự kiện khi anh ta

bị đổi tên từ Maury thành Benjy: “Bây giờ tên nó là Benjy, Caddy nói

Sao lại thế, Dilsey nói. Cậu ấy làm hỏng cái tên cha sinh mẹ đẻ hồi nào đâu.

Bejamin là tên trong Kinh Thánh, Caddy nói. Tên ấy tốt cho nó hơn là tên

Maury”[18, 92].

Người chị mà Benjy vô cùng yêu thương là Caddy lớn lên với bao thay đổi khiến

hắn mặc dù không thể nói nhưng hiểu và nghe được tất cả những sự thay đổi ấy ở Caddy.

Đó là khi nàng đi học lúc bảy tuổi, cột mốc đánh dấu sự mất mát của Caddy khi cô bé chơi

với các anh em dưới suối với chiếc quần lót dính đầy bùn: “Caddy ướt nhẹp và dính đầy bùn

sau lưng, và tôi bật khóc và chị tới ngồi xổm dưới nước”[18, 36]. Một biểu trưng của tội lỗi

tính dục về sau ở nàng. Benjy nhận ra sự thay đổi thật sự của Caddy khi cô 14 tuổi. Hắn

biểu lộ sự không chấp nhận nó với hành động òa khóc. Và đặc biệt là việc nàng bị mất trinh,

tiếng khóc của Benjy càng đau đớn và phẫn uất hơn nữa, nó xảy đến với thời gian khi

Caddy 17 tuổi. Đặc biệt là khi nàng bỏ nhà đi và giao đứa con riêng cho ông bà Compson.

Benjy cảm nhận được tất cả nỗi đau đó. Khi bị thiến, hắn mang vào mình mặc cảm của cái

tôi không toàn vẹn: “Tôi cởi quần áo và nhìn mình, và tôi òa khóc”[18, 114], nhưng âm

65

thanh phẫn uất đó là tiếng thét đớn đau, nó âm ỉ và thổn thức trong tâm hồn nhân vật, “khi

tôi sờ đến thì nó đã mở, và tôi nắm chặt lấy nó trong ánh hoàng hôn. Tôi không khóc, và cố

nín, nhìn các cô gái đi qua trong ánh hoàng hôn. Tôi không khóc”[18, 84]. Tất cả chúng gắn

chặt với các mốc thời gian như từng nhịp trôi của chiếc đồng hồ tạo hóa đã lên dây cót.

Faulkner sáng tạo biểu tượng Đồng hồ đã gợi nhắc những mảnh kí ức chìm sâu của Benjy.

Mỗi nhân vật gia đình Compson và gia đình Dilsey có cách cảm nhận thời gian riêng. Thời

gian tồn tại với ông Jason Compson luôn phản ánh những trang sử chói lọi và lấp lánh của

dòng tộc. Ông sống và cố bám víu vào quá khứ đó, thái độ ăn mày dĩ vãng khiến ông ngập

chìm và chết trong rượu. Với bà Compson, đó là mặc cảm về thời gian quá khứ với sự thấp

kém của dòng họ. Nó khiến bà luôn có một định kiến và rơi vào trạng thái u uất, đau ốm,

sống vật vờ như cái bóng không thể chăm lo và yêu thương con cái, “họ bên tôi nào phải

thua kém gì bên ông. Chỉ vì Maury ốm yếu”[18, 71]. Dilsey nhìn thấy cái mở đầu và cái kết

thúc trong gia đình này.

Lũ trẻ nhà Compson thiếu vắng tình yêu của cha mẹ nên chúng không được phát

triển nhân cách toàn diện. Hiện thực cái chết được che giấu với đám tang của bà nội, năm

1989, và chúng không được biết về nó. Do đó Caddy cố tìn hiểu nó. Hành trình này mở ra

nhận thức khác nhau về vấn đề sống chết và danh dự trong gia đình ở các nhân vật. Tất cả

quá trình đó luôn đi kèm với biểu tượng thời gian.

Thời gian hơn 30 năm được gói trong ba ngày. Đồng hồ là một biểu tượng thời gian

được Faulkner sử dụng xuyên suốt cả bốn phần của câu chuyện. Nó không chỉ ghép nối

những mẩu sự kiện với nhau mà còn ám gợi những hiện thực nằm sâu bên trong, chuyển tải

những thông điệp của nhà văn đến người tiếp nhận. Trong tâm thức nhân loại đó là công cụ

giúp loài người chiếm lĩnh thời gian, nhưng đi vào tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, biểu

tượng này lại chứa đựng những thông điệp khác do sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Với mỗi

nhân vật, nó là cảm thức của cái tôi hiện hữu bị lưu đày trong đời sống. Tất cả những nhân

vật bị cuốn vào vòng xoáy thời gian. Thời gian luôn sống bên trong mỗi con người, nó giúp

nhân vật ý thức sự hiện tồn của họ. Cách xử lí thời gian với biểu tượng này đòi hỏi một bản

lĩnh nghệ thuật của người nghệ sĩ.

Vấn đề thời gian được xuất phát từ văn học cổ đại với những câu chuyện thần thoại

và cổ tích, tác giả dân gian đã chú ý đến thời gian bởi mở đầu các câu chuyện thường là

motip “ngày xửa ngày xưa”. Nhưng phải đến các nhà văn hiện đại, thời gian mới được nâng

66

lên thành biểu tượng mang nghĩa. Ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ ở những văn bản nghệ

thuật của họ là vô cùng rõ ràng: “Miêu tả nghệ thuật đều được xây dựng một cách có tính

toán để người ta hoàn toàn không thể nào chuyển dịch mỗi câu và mỗi từ thành các biểu

tượng dễ nhận thấy” [31, 87]. Những mẫu hình thời gian được họ giấu kín với ý niệm như

một thông điệp nào đó gửi đến cuộc sống. Xã hội đầy biến động với bao biến cố và sự kiện

dội vào tâm thức người sáng tạo đòi hỏi họ một kĩ thuật xử lí để thông điệp đến với mọi

người luôn chứa đựng yếu tố nhận thức và thẩm mỹ cao độ. Vì, “tiểu thuyết sáng tạo ra

những cuộc đời, những số phận khác nhau, các nhà văn cũng đồng thời sáng tạo ra những

thời gian, những hình thức thời gian. Trong sự khám phá thực tại của anh ta, mang lại cho

độc giả sự phong phú và cái nhìn sâu xa của cuộc sống”[25, 67]. Chúng được thấy rõ ở

những sáng tác bậc thầy của nhà văn thế kỉ XIX, cách hiểu thời gian tuyến tính trong nhiều

tác phẩm của những đại văn hào của phương Tây như Balzac hay Standal,..khiến câu

chuyện hiện lên như thật, sống động từng chi tiết. Nhưng có cảm giác hiện thực ở đây vẫn

thiếu vắng một thứ hơi thở mặn mòi của đời sống.

Do đó một cuộc cách mạng về vấn đề thời gian đã xảy ra ở các nhà văn thế kỉ XX.

Họ cố đi sâu vào sự kiện, tìm kiếm và thấy sợi dây liên hội trong từng sự kiện tưởng như

tách rời. Xâu chuỗi nó theo đường biên của tư duy hệ hình. Vấn đề thời gian thành trở thành

một chủ đề lớn của văn học hiện đại thế kỉ XX. Thời gian tồn tại xung quanh con người,

nhận thức về nó dễ nhưng để lí giải nó là một việc không đơn giản, đặc biệt là trong tiểu

thuyết: “Thời gian bao giờ cũng là vấn đề chủ quan của tiểu thuyết. Có điều là làm sao nắm

bắt được thời gian thực tại mà các nhân vật sống trong đó”[25, 62]. Cho nên biểu tượng

Đồng hồ dẫn đưa người đọc xâm nhập sâu hơn vào cảm nhận đời sống ở mỗi nhân vật trong

tác phẩm.

Đồng thời Đồng hồ còn là biểu tượng để cấu trúc tác phẩm. Với bốn phần là bốn

mốc thời gian riêng biệt, ba ngày kế tiếp nhau được nhìn và kể lại với ba giọng điệu khác

nhau. Và một mốc thời gian được lùi về xa hơn mười tám năm với giọng kể của Quentin

trước khi tìm đến cái chết để giải thoát cho mình. Những sự kiện đó được lồng vào biểu

tượng thời gian, nhân vật cảm nhận thời gian như một thước đo về khả năng sống của mình,

tất cả mọi cung bậc cảm xúc gắn chặt với nó. Nó vẽ nên những trạng thái xúc cảm rất riêng

cho từng nhân vật. Đồng hồ đã chứa đựng những thanh âm đầy cuồng nộ, nó góp phần lí

giải về hiện thực đau thương mà gia đình Compson phải gánh chịu.

67

Có thể nói với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner đã làm sống dậy một hiện thực tang

thương của những gia đình quí tộc ở miền Nam trong thời đại mới. Ảo tưởng về thời gian

quá khứ đã ám ảnh Jason Compson và nó còn truyền vào những thế hệ sau của họ. Do đó

câu chuyện không chỉ về một gia đình mà hiểu rộng ra là cả cộng đồng miền Nam nước Mỹ.

Theo dòng chảy đời sống, nó có thể tồn tại ở bất kì gia đình nào trên thế giới.

Thời gian được Faulkner xử lí thật tinh tế và khéo léo. Ông để sự kiện tự nó bộc lộ

thời gian của mình trong cảm nhận của từng nhân vật. Mỗi bước đi của thời gian là sự phai

tàn và mất mát của hiện thực đời sống xảy đến với gia đình họ. Rất ít miêu tả, chúng tôi thấy

đối thoại dồn dập và liên tiếp gần như tất thảy từng phần của văn bản. Điều đó cho thấy ý

định của Faulkner trong việc muốn tạo ra một hệ thống âm thanh dồn dập liên hồi mà ở đó

thời gian không thể can dự vào được. Nhưng những nhân vật luôn ngước nhìn đồng hồ. Nó

cho thấy họ không thể vượt thoát được hiện thực nghiệt ngã tang thương của gia đình. Bấu

víu vào thời gian, tìm hiểu và lí giải nó, đó là cách thức tồn tại và giao tiếp của các nhân vật

trong tiểu thuyết này.

Đồng hồ là biểu tượng đậm chất nghệ thuật mà dụng ý về thời gian nghệ thuật được

Faulkner khai thác. Ông cũng tạo ra những độ căng và độ dãn giữa tương quan văn bản trần

thuật và thời gian trần thuật. Thời gian được dồn nén đến cực hạn với biểu tượng này. Từ đó

cho thấy ý tưởng thẩm mỹ của ông, một hiện thực được cô đặc trong thời gian. Từ đó mở ra

mối quan hệ giữa thời gian và thể loại tiểu thuyết: “Tiểu thuyết tiếp xúc với cái thể loại

chưa hoàn thành, chính đặc điểm này không cho phép thể loại ấy bị đông cứng lại. Người

viết tiểu thuyết thiên về tất cả những gì còn chưa xong xuôi… thế giới đã thiết lập những

quan hệ mới với cái tiểu thuyết mà nhà tiểu thuyết miêu tả, giờ đây, họ cùng tồn tại trong

những chiều thời gian-giá trị như nhau, lời miêu tả của tác giả nằm ở cùng một bình diện

với lời nhân vật được miêu tả và có thể tạo lập với nó quan hệ đối thoại và đan kết lai

tạp”[13, 57].

Vì bị thiểu năng nên Benjy không cảm nhận được nhịp trôi của thời gian. Nhưng

hình ảnh chiếc đồng hồ cũng gắn với hành trình 33 năm tồn tại trên cuộc đời của mình, nó

soi vào từng nỗi đau mà nhân vật này phải mang lấy trong cuộc sống. Benjy cũng bị thời

gian lưu đày, do đó anh ta cố gắng vượt thoát khỏi nó bằng việc cố thoát ra bên ngoài, ngắm

nhìn đồng cỏ và cuộc sống bên ngoài. Còn Jason đó là hiện thực với hiện tại đau thương mà

hắn phải đối diện. Gia đình suy tàn, khánh kiệt, những tiếng tích tắc của thời gian đẩy hắn

lại gần hơn với nỗi bất hạnh. Tất cả tạo nên ở Jason một sự thù ghét thực tại, căm phẫn với

68

quá khứ gia đình. Đồng hồ đưa Jason trở về với quá khứ, ở đó những sự dồn nén của âm

thanh câm phẫn khi không thể có được tình yêu thương của gia đình, đặc biệt là bố. Nó cũng

khiến anh ta cố tìm hiểu ra những nguyên nhân do đâu gia đình lại trở nên sa sút, thảm hại

đến vậy. Là một nhân vật luôn ý thức sâu sắc giá trị của thời gian, nhưng anh ta cũng bị nó

khống chế, không thể vượt thoát ra được thời gian. Nó cầm tù Jason vào cuộc sống tù túng

và mòn mỏi ở quê nhà. Thời gian khi anh ta ngước nhìn đồng hồ trở nên gấp gáp, thôi thúc

khi nghĩ người cháu lấy đi số tiền của mình. Tâm lí hoảng loạn ấy chứng tỏ Jason cũng bị

thời gian ám ảnh. Và Dilsey là người thấu hiểu tất cả, bà thấy được thời gian mở đầu và thời

gian kết thúc mà chiếc đồng hồ cuộc sống đã chỉ ra. Nó đeo vào gông cổ họ sợi dây xích

định mệnh, hai tiếng ấy vang lên làm nên sự cuồng nộ đau đớn cho số phận con người.

Nhưng cái cứu vớt con người thoát khỏi sự luân trầm của nó chính là tình yêu thương của

con người với nhau. Tình yêu xóa đi mặc cảm bị thời gian nuốt chửng, cầm chặt, xiết tay lại

và con người sẽ vượt qua được nỗi bất hạnh đó. Chỉ có tình yêu, sự hi sinh và tấm lòng trắc

ẩn bao la mới đưa con người vượt thoát được sự cầm tù của thời gian. Không có một dụng

cụ nào hữu ích hơn, chính tình yêu thương mới xoa dịu được nỗi đau sự bất hạnh của họ.

Bởi đồng hồ là công cụ có thể chiếm lĩnh được thời gian, làm ngưng đọng được nó. Do đó

có thể nói con người trong xã hội hiện đại: “Con người bị treo chơi vơi giữa các hố thẳm,

bất lực và tuyệt vọng, không tìm thấy mình ở ngoài không gian và thời gian”[11, 22.].

Nhưng thời gian tuyến tính chỉ giúp ta thấy dấu vết sự kiện xảy ra, muốn đi vào

trong nó, nhà văn phải tạo dựng một loại thời gian phi tuyến tính, do đó huyền thoại và

những giấc mơ đã được Faulkner tái hiện trong tác phẩm. Có thể nói Âm thanh và cuồng

nộ một tác phẩm đậm dấu ấn phân tâm học và yếu tố huyền thoại. Mặc dù nhà văn phủ nhận

ảnh hưởng của phân tâm học, nhưng những đoạn hay nhất trong tiểu thuyết lại có vết dấu

của khoa học này. Theo chúng tôi có sự trùng lặp hay gặp gỡ tình cờ giữa ông và phân tâm

học. Những biểu tượng được ẩn dấu dưới dạng nguyên mẫu xuất hiện đậm và rất nhiều ở

văn bản này. Trong đó ta có thể thấy được những biểu tượng như chiếc Bóng, Lửa, Bùn,..

chúng cộng hưởng với biểu tượng Đồng hồ tạo nên một mạch ngầm văn bản trong dòng

chảy của đời sống các nhân vật.

Biểu tượng thời gian là một biểu tượng gắn với hành trình nhận thức cuộc sống của

mỗi nhân vật trong truyện. Mỗi khúc đoạn của thời gian, các giọng kể có những điệu tình

khác nhau làm nên một bản nhạc khúc đầy biến điệu, nhưng chủ âm của nó vẫn là tiếng nói

đau thương của những cá nhân rơi vào bi kịch. Họ bị thời gian trói chặt và cầm tù. Mỗi thân

69

phận con người đang cố gắng vượt thoát khỏi nó nhưng càng cố vùng vẫy, họ vẫn rơi bế tắc.

Âm thanh của tiếng đồng hồ đưa họ trở lại với hiện thực. Để các nhân vật đối diện với thực

tại cuộc đời, một thế giới ngập tràn buồn đau và mất mát.

Cảm thức về bi kịch là một chủ đề lớn của tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ. Mỗi nhân

vật bị lạc trong thời gian, họ cố đi tìm một xác tín cho tồn tại. Đồng hồ đánh dấu sự hiện

hữu của họ, mỗi phút giây được mỗi thành viên cảm nhận khác nhau. Dòng chảy tâm trạng

của chủ đề bi kịch ở Faulkner luôn tràn ngập cảm thức thời gian và ở đó: “Sức nặng của nỗi

đam mê tư tưởng được chuyển hóa thông qua ngôn từ và bất chấp cả ngôn từ”[17, 24] .

Với Quentin, một ngày trước khi chết được đã hiện lên với sự làm chậm thời gian,

từng nhịp trôi của đồng hồ, tiếng tích tắc của nó là vũ điệu đưa tang trước khi lìa bỏ cuộc

đời của nhân vật này. Còn Jason, biểu tượng này gợi lên nhịp nhanh, gấp, thời gian được

cảm nhận bởi Jason luôn trôi đi quá nhanh, khiến hắn luôn hoảng sợ và cố níu kéo nó. Với

Dilsey, bà thấy được thời gian đang chảy trôi, mỗi nhịp đập của nó là sự báo hiệu cho cái

kết thúc. Bà đã cố gắng ngăn chặn nó bằng tất cả tình yêu bao la của mình.

Đồng hồ như biểu tượng gốc nó không chỉ nối kết các nhân vật mà còn là bản thiết kế

cho kết cấu của tác phẩm. Bởi thông qua biểu tượng thời gian, Faulkner muốn tạo ra một

một kết cấu phân mảnh thời gian để các sự kiện tự nó nói lên nội tâm nhân vật. Qua thời

gian, họ sẽ lần lượt vén những bức rèm bí ẩn về sự suy tàn và diệt vong của dòng họ

Compson. Mỗi mốc thời gian luôn gắn với cái chết, sự li tán, nỗi bất hạnh gợi lên trong đó

làm cho tác phẩm tựa một bản nhạc đưa tang cho các linh hồn. Thời gian hiện hữu trong

tiềm thức của Benjy, mặc dù anh ta không thể nhận biết được nó. Biểu tượng thời gian ít tác

động đến Benjy hơn hai người anh. Cả ba anh em nhà Compson luôn bị cầm tù trong thời

gian, và họ sống trong cảm thức với sự gợi nhớ về hình bóng Caddy. Nàng là nỗi đau của

họ. Nàng cũng bị thời gian lưu đày, không thể trở về cuộc sống hiện tại. Caddy không thể

nói về mình, nàng là hiện thân của tính nữ mà Faulkner khao khát hướng tới. Thanh âm gợi

nhớ về nàng thông qua biểu tượng đồng hồ là từng thời điểm nàng hiện lên từ thuở ấu thơ

thông qua kí ức của các anh em nàng.

Tuổi thơ của Caddy trôi qua với các anh em trong thanh bình đã không còn khi cái

chết của bà nội xảy đến. Đó là sự kiện đánh dấu sự mất mát đầu tiên trong gia đình

Compson. Caddy là hiện thân của bi kịch khi nàng luôn muốn khao khát và khám phá tất cả

bí ẩn của cuộc sống. Nó gặp phải những rào cản của gia đình và định chế xã hội đẩy nàng ra

khỏi gia đình, không có cơ hội yêu thương đứa con gái của mình. Từ ý muốn trèo lên ngọn

70

cây để tìm hiểu đám tang người bà, nàng bước vào tuổi thiếu nữ 14 thiếu đi sự giáo dục giới

tính của mẹ, mất trinh năm 17 tuổi, có thai và phải lấy người không yêu, bị đuổi khỏi nhà

chồng, mất quyền chăm sóc đứa con,… Tất cả những bất hạnh đó hiện lên lần lượt dưới con

mắt của các người thân xung quanh nàng. Nàng bị cuốn vào cuộc sống với những đam mê

và khao khát sống mạnh mẽ. Nhưng hiện thực quanh nàng là sự u ám, bế tắc của định kiến

xã hội,… đã trói buộc và xua đuổi nàng khỏi những người nàng yêu thương. Những thổn

thức về thời gian ám gợi nàng, cái chết, tình yêu và dục vọng xâm lấn khiến Caddy bị lưu

đày bởi những người nàng yêu thương. Tiếng gọi thổn thức về nỗi bất hạnh của dòng họ

Compson được gửi đi dưới ánh sáng của biểu tượng thời gian. Nó giúp cho những thông

điệp nghệ thuật của Faulkner được chưng cất hết sức tinh tế.

Thời gian là thứ mà con người luôn muốn chiếm lĩnh, nhịp trôi và ý niệm về nó chảy trong

tâm thức mỗi nhân vật của tác phẩm đã làm nên bài ca về tình yêu và thân phận của con

người hiện đại trong xã hội. Đồng hồ là biểu tượng thời gian hiện tại, tuyến tính. Ở đó mỗi

thanh âm và sự trôi của biểu tượng này đều gợi cho các nhân vật một cảm thức bị lưu đày

trong cuộc đời. Họ cố gắng bấu víu, tìm kiếm và tuyệt vọng. Tất cả chúng hòa âm cùng

nhau để bức tranh về gia đình Compson thêm phần hoàn thiện, những cuồng nộ bất hạnh

được lộ sáng dưới ánh sáng của biểu tượng này.

Đồng thời trong tác phẩm Faulkner đã biến thị trấn nơi ông sống thành vương quốc

Jefferson với hạt Yoknapatawpha, biểu tượng bất tử trong tiểu thuyết của ông. Ở đó, nhà

văn là người nhạc trưởng, dưới cây đũa phép của mình từng biểu tượng nghệ thuật về không

gian ở đây lần lượt hiện lên để chuyển tải một huyền thoại về một địa danh đầy huyền bí và

ám ảnh đối với người đọc.

3.1.2. Chiếc chuông- nhịp đập cuộc sống

Biểu tượng chiếc Chuông cũng nằm giữa lằn ranh gợi nhắc âm thanh và tiếng gọi của

thời gian. Chúng tôi dựa trên tiêu chí định tính khi xếp nó vào hệ biểu tượng thời gian trong

tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ.

Chiếc Chuông với tiếng ngân của nó cộng hưởng với cuộc đời các nhân vật trong đã

xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm của Faulkner như Thánh đường, Nắng tháng Tám,

Khi tôi hấp hối,.. Và mỗi lần Chuông rung, nó nhắc cho nhân vật về sự hiện hữu của đời

sống. Do đó chúng tôi khảo sát biểu tượng này như một phương thức nhà văn đã dùng để

khắc họa hơi thở cuộc sống đang đập trong trái tim của mỗi nhân vật. Thật vậy, tiếng

Chuông xuất hiện rất nhiều ở toàn văn bản. Cụ thể với Benjy, nó xuất hiện 3 lần, đó là lúc

71

Ruskos rung chuông để gọi bọn trẻ về ăn chiều, Dilsey rung chuông để báo hiệu bữa ăn.

Còn ở phần tự thuật của Quentin, chiếc chuông xuất hiện hơn 10 lần, đó là tiếng chuông

đánh điểm danh của trường Harvard, tiếng chuông ngân của quảng trường, của quê nhà

Jefferson,.. Và hành trình tìm đến cái chết của nhân vật này cũng gắn với tiếng chuông.

Tiếng Chuông đánh thức cảm thức thời gian ở Quentin, và cả với Jason, anh ta cũng cảm

nhận thời gian bằng cách nghe tiếng chuông rung, báo hiệu sự hiện hữu của đời sống đang

diễn ra. Đặc biệt là phần cuối của câu chuyện, Faulkner cho Benjy cảm nhận tiếng chuông

cứu rỗi của nhà thờ. Thanh âm và hình ảnh của nó chứa đầy tính biểu trưng cho hình tượng

nhân vật.

Với Quentin, thanh âm của tiếng chuông đưa hắn trở lại thực tại của đời sống, giúp

hắn nhận thấy ra sự hiện hữu trong cõi đời. Đó không chỉ là tiếng chuông báo hiệu sự sống

đang chảy trôi qua đôi tai của hắn, mà còn biểu trưng cho sự cứu chuộc tội lỗi và linh hồn

cho em gái Caddy. Nó âm vang trong mỗi phút suy tư của nhân vật này về ý nghĩa và giá trị

cuộc sống. Đồng thời những thanh âm của nó gợi nhắc đến một quá khứ tươi đẹp và thanh

bình ở quê nhà Jefferson với những buổi chiều tháng Tám êm dịu và tháng Tư yên ả,…Do

đó tiếng chuông với những đặc tính của mình khiến tâm thức Quentin xáo trộn trong sự

tranh đấu giữa sự sống và cái chết. Mỗi lần xuất hiện, tiếng chuông lại chứa đựng những

biến điệu, đó là sự chảy trôi chậm rãi của một ngày, lúc thì gấp gáp và hối hả, khi lại buồn

đến ghê rợn và có lúc lại thanh bình, yên ả,.. Những sự phức điệu do thanh âm của tiếng

chuông mang lại góp phần chỉ ra được trạng thái của một kẻ mất hết hi vọng vào cuộc sống.

Biểu tượng chiếc Chuông gắn với Benjy là sự gợi nhắc tới bữa ăn gia đình khi mỗi

lần chuông rung. Bởi Benjy chỉ có cảm giác của một sinh vật, do đó tiếng Chuông đánh vào

anh ta như tiếng kẻng gọi bữa ăn theo những thí nghiệm của Palop trên loài chó. Những

chuỗi âm dằng dặc của nó đánh vào tâm thức của một thằng khùng, cùng với tiếng “Caddy”

của người đánh gôn, khiến hắn lẫn lộn giữa hiện thực và quá khứ. Đồng thời, nó ngân vang

trong sự thanh bình và êm ả của buổi thuyết giáo, đó là tiếng chuông cứu dỗi linh hồn cho

hắn, một kẻ bất hạnh được sinh ra trong cõi đời.

Âm thanh của chiếc chuông cũng mang tới những cảm nhận cho Jason, hắn với đầu

óc tỉnh táo nghe ra được sự u buồn khi nhà thờ đánh từng hồi chuông ngân. Nó là tiếng nói

định mệnh đang trói buộc hắn trong một hiện tại bế tắc và chán nản vì sự suy sụp của gia

đình. Hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống trong tiếng chuông của Jason là quá trình khước từ

quá khứ đau thương và một thực tại bế tắc đang vây xung quanh hắn. Tiếng chuông khiến

72

hắn nhận ra được sự bất hạnh của mình. Nhưng sự bất hạnh của Jason không giống em trai

hắn, đó không phải là nỗi đau khi không thể đối thoại với người khác mà là sự đánh mất địa

vị và lợi ích của dòng họ trên mảnh đất miền Nam.

Còn Dilsey nghe ra được thông điệp của tiếng chuông cứu rỗi linh hồn cho các nhân

vật nhà Compson bởi sự đau thương và thất bại mà họ đã gánh trên vai mình. Do đó tiếng

chuông nhà thờ cùng với lời thuyết giảng của mục sư Shegog giúp bà thấy cái mở đầu và cái

kết thúc của bi kịch trong gia đình Compson, “tao đã thấy cái bắt đầu, và bây giờ tao thấy

cái kết thúc”[18, 411].

Với những đặc tính của mình, thông điệp mỗi lần chuông rung đã tạo cho nhân vật

những xúc cảm riêng. Đưa người đọc xâm nhập sâu hơn vào đời sống nội tâm bên trong mỗi

hình tượng. Tiếng nói nhân bản về tình yêu thương con người và cuộc sống được hiện rõ

trong biểu tượng độc đáo này. Không chỉ là dấu ấn của Kinh Thánh mà còn hơn thế nữa, đó

là thanh âm của tình thương yêu giữa con người với nhau. Trong mỗi cá nhân luôn có

một quả chuông tình yêu ngân reo và hòa điệu với cuộc sống. Đó có lẽ là thông điệp mà nhà

nghệ sĩ đã kí thác cho mỗi người tiếp nhận văn bản. Đồng hồ và chiếc chuông cộng hưởng

cùng nhau để làm nên hệ thanh âm độc đáo trong văn bản, chúng kết nối những khoảng mờ

giữa các thanh âm lộn xộn giữa các hình tượng nhân vật với nhau. Đồng thời thông qua nó,

dấu ấn kĩ thuật dòng ý thức hiện lên đậm nét. Thời gian có thể tồn tại như một chiều thứ tư

trong cuộc sống. Đó là thứ thời gian hiện sinh trong ý thức của mỗi người chứ không là thời

gian tuyến tính. Với Đồng hồ, ta thấy được một cảm thức lưu đày rõ nét trong mỗi nhân vật.

Còn chiếc Chuông lại gợi lên nhịp đập của cuộc đời và đưa ta vào hành trình cứu rỗi linh

hồn cho mỗi hình tượng. Nếu biểu tượng thời gian như một thứ lưu đày nhân vật trong sự

hiện hữu của cuộc sống, thì biểu tượng không gian bên trong tiểu thuyết trên lại chứa đựng

những thông điệp khác mà Faulkner muốn người đọc khám phá và giải mã cùng ông.

3.2. Biểu tượng không gian

Tràn ngập trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ là hình ảnh không gian miền

Nam nước Mỹ. Chúng gợi lên chất thơ và những tượng trưng sâu lắng của một nhà văn luôn

gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương. Không gian này thật kì ảo và tràn đầy biểu tượng.

Thật vậy, mỗi biểu tượng không gian trong văn bản là sự đào sâu của huyền thoại vào văn

hóa nhân loại. Ý thức xây dựng biểu tượng không gian nghệ thuật biểu hiện ở tầng số xuất

hiện của chúng. Đồng thời nó là sự gắn bó mật thiết với biểu tượng âm thanh thông qua cái

nhìn của các nhân vật. Chúng tôi thấy có bốn biểu tượng không gian tiêu biểu trong tác

73

phẩm là biểu tượng Hàng rào, biểu tượng Đồng cỏ, biểu tượng Cửa sổ và biểu tượng Ngọn

cây.

3.2.1. Hàng rào và sự cách ngăn cuộc sống

Hàng rào là một biểu tượng không gian gợi sự chia cắt. Từ xa xưa nó biểu trưng cho

việc đánh dấu vị trí, gợi sự chiếm hữu lãnh thổ của cá nhân với tập thể. Nếu đất đai là thứ

gắn bó với con người sớm nhất trong lịch sử xã hội thì hàng rào như một vách ngăn chia đôi

nó. Hàng rào luôn tượng trưng cho sự chia cắt. Do đó khi đi vào văn bản nghệ thuật của

người nghệ sĩ, ngoài nghĩa gốc, biểu tượng này sẽ chứa một lớp nghĩa phái sinh để biểu thị

giá trị nghệ thuật của nó và thông điệp thẩm mỹ của nhà nghệ sĩ.

Mở đầu văn bản, Faulkner đưa người đọc vào hành trình kiếm tìm của hai nhân vật

với những mục đích khác nhau. Và hình ảnh hàng rào xuất hiện đầu văn bản, nó ngăn trở

hiện tại và quá khứ trong tâm thức của Benjy, ngăn cách gia đình hắn với cộng đồng bên

ngoài. Hình ảnh Benjy bám vào hàng rào và ngước mắt nhìn ra bên ngoài như sự ngăn trở

cuộc sống của hắn với khát vọng muốn giao tiếp và hòa hợp với mọi người. Hàng rào cách

ngăn đồng cỏ thơ bé của hắn, khi nhân vật cố vượt thoát ra nó thì kí ức về tuổi thơ tràn về.

Có thể nói, biểu tượng này như một cánh cửa mở ra một thời gian khác, kỉ niệm và hồi ức

sống lại trong Benjy, người chị Caddy và biến cố của mình và gia đình.

Đồng thời có một Hàng rào được dựng lên trong chính gia đình Compson, hàng rào

vô hình này ngăn cách từng thành viên trong gia đình, mỗi người chạy theo những ước

muốn riêng. Họ không thể gỡ bỏ nó để cảm thông và chia sẻ tình yêu cho nhau. Ông Jason

Compson thì luôn khinh rẻ em vợ Maury, xem anh ta là kẻ bất tài: “Tôi sẽ không đánh đổi

Maury dù là lấy một cỗ ngựa xứng đáng”[18, 71], bà Caroline là hàng rào đau ốm triền

miên để không phải chăm sóc con cái. Còn Quentin đó là Caddy, Quentin không có tình yêu

với ai ngoài nàng. Với Jason, hắn chỉ yêu mẹ và khinh ghét tất cả những người còn lại.

Benjy bị khùng, hàng rào dựng lên trong nhân vật này là những tiếng khóc, thanh âm vô

nghĩa lí chứa đầy sự cuồng nộ mà nhân vật không thể thoát ra khỏi nó. Benjy yêu thương

Caddy nhưng lại không thể diễn tả nó thành lời,…. Bi kịch do Hàng rào định kiến đã được

dựng lên trong gia đinh Compson là một lí do kiến họ rơi vào sự suy tàn. Khi cố gắng vượt

thoát chúng, đi sang một không gian khác, các nhân vật không thích ứng được với hoàn

cảnh mới và lại một lần nữa họ rơi vào bi kịch.

Benjy với hành trình đi tìm Caddy khi vượt thoát khỏi cánh cổng đã bị thiến vì nhầm

tưởng những cô gái đi đường là chị mình. Jason khi vượt ra khỏi thị trấn Jefferson để đến

74

một nơi khác thì anh ta lại suýt bị giết, Quentin không thể tồn tại và phải tìm đến cái chết

khi hắn rời ngôi nhà của mình và vào học tại Harvard. Chúng đều có nguyên do từ sự

“phong bế” cuộc sống của những gia đình miền Nam trong xã hội Mỹ bấy giờ. Cách sống

của họ không thay đổi để thích hợp với xã hội đang phát triển, họ vẫn sống theo thế kỉ XIX

khi lịch sử đã sang thế kỉ XX. Bà mẹ Caddy luôn lấy những thước đo giá trị của xã hội cũ để

định giá phẩm chất của Caddy. Bà thấy những thay đổi của nàng nhưng lại không biết cách

uốn nắn nó. Nàng phát triển lệch lạc về giới tính, Caddy rơi vào bi kịch bị đuổi khỏi nhà

chồng, bà đã xua đuổi và cấm đoán nàng trở lại ngôi nhà cũ,… Ông Jason Compson luôn

sống với những triết lí hư vô. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Quentin. Anh ta cố đối thoại với

bố để tìm kiếm chân lí cho cuộc đời. Và khi không thể lí giải được nó, Quentin chối bỏ cuốc

sống bởi sự bế tắc trong chính hiện thực tồn tại của bản thân.

Hàng rào bên trong gia đình và một hành rào dựng lên vô hình trong các thành viên

nhà Compson. Nó khác với gia đình Dilsey, tình cảm và sự chia sẻ của họ về tình yêu và

cuộc sống một cách chân thành, giữa người thân trong không có một hành rào nào ngăn

cách. Họ sống mộc mạc, giản dị, tình yêu giữa các thành viên được san sẻ đều đặn cho

nhau. Nó được cảm nhận khi Benjy xuống ngủ tại đây, lúc Quentin nhớ về gia đình và

người thân yêu thì bóng hình họ hiện lên trong tâm thức anh ta thật tươi đẹp. Đó là thông

điệp mà biểu tượng này mang đến, con người trong mọi thời đại phải luôn cố gắng xóa bỏ

trước hết là những vách ngăn trong tâm hồn của chính mình để có thể thông cảm và thấu

hiểu cho nhau. Rukos khi nhìn thấy những bất hạnh trong gia đình compson, ông ta nói với

Dilsey rằng đó là định mệnh của gia đình này và muốn bà xa lánh họ.Đó là hàng rào trong

nhận thức của ông ta. Nhưng Dilsey thì khác, với tình yêu thương bao la và sự tận tụy của

mình, bà đã xóa bỏ những chia cắt đó, tranh đấu với chồng về định kiến ấy. Xóa bỏ Hàng

rào sẽ giúp con người thông cảm và hiểu nhau hơn. Khi không còn sự chia cắt, biên giới của

tình yêu sẽ lấn át lòng thù hận, sự ti tiện, xóa đi trong con người những mặc cảm số phận.

Biểu tượng hàng rào với ý nghĩa vách ngăn đã mang một thông điệp khác trong tác phẩm

này. Biên giới của nó không chỉ là sự chia cắt của con người trong không gian mà còn là sự

biểu trưng cho nỗi đau không thể vượt thoát hiện thực cuộc sống của nhân vật. Nơi đó chỉ

có tình yêu thương bao la, không khoảng cách của Dilsey mới giúp các nhân vật cảm thấy

bình yên và ấm áp.

Hàng rào cũng là một biểu tượng liên hội những biểu tượng âm thanh và biểu tượng

thời gian để tạo nên sự cuồng nộ bất tận cho tác phẩm. Tiếng khóc đau thương của các nhân

75

vật khi bị cầm tù trong thời gian và không gian. Ở đó nhân vật như một cái tôi bị lưu đày

trong đời sống. Đồng hồ và hàng rào ngăn trở họ hòa hợp với cuộc sống bên ngoài. Cảm

thức đau thương sống trong họ. Sự tàn suy của thời gian như đang chết và không gian ngột

ngạt không thở được là nguyên do của bi kịch. Một bầu không khí ngột ngạt và bị vẩn đục

hiện lên trong văn bản. Họ muốn tìm đến một không gian khác đó chính là khát vọng muốn

trở về tự nhiên, sống lại những tháng ngày tươi đẹp.

3.2.2. Đồng cỏ - ước muốn trở về tự nhiên

Là một nhà quí tộc, gia đình Compson có một lượng lớn đất đai và của cải. Nhưng họ

dần rơi vào cảnh túng bẩn. Và nhà Compson đã phải bán đi Đồng cỏ để làm tiệc cưới cho

Caddy và chu cấp tiền học phí cho Quentin. Trong tâm thức nhân loại, cánh đồng tượng

trưng cho sự trù phú, biểu hiện của quyền lực địa chủ, đồng thời Đồng cỏ còn gợi lên sự

thanh bình, yên ả của cuộc sống.

Trong Âm thanh và cuồng nộ, biểu tượng này gắn bó mật thiết với Benjy. Nó một

trong ba thứ hắn yêu nhất. Đồng cỏ sống trong tâm thức của các nhân vật. Do đó đây là một

biểu tượng nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm nên chúng tôi muốn tập trung tìm hiểu và khai

thác giá trị thẩm mỹ của nó.

Khi Benjy nhìn sang hàng rào, hắn muốn ngắm Đồng cỏ. Nhưng nó đã mất và thay

vào đó là sân gôn. Benjy và Luster đứa trẻ da đen chăm sóc mình đi qua những chỗ mà ở đó

từng cảnh vật lại gợi cho Benjy nhớ về Caddy. Dòng suối, chuồng ngựa, ngôi nhà Dilsey,…

lần lượt chúng chạm vào hắn và kí ức ùa về, một quá khứ với bao thăng trầm của số phận

hiện lên. Trong từng mốc thời gian được cảm nhận bởi Benjy, Đồng cỏ luôn gợi nhớ những

sự kiện và biến cố hắn trải qua. Benjy ngóng Caddy đi học khi nàng lên 7 tuổi, chơi đùa với

các anh em ở dòng suối,…Tất cả dấu ấn trên đều gắn bó mật thiết với Đồng cỏ, mỗi cảm

nghiệm của hắn luôn xoay quanh nó. Benjy có khả năng phát hiện dấu hiệu của sự chết. Nó

ngửi thấy cái chết. Cánh đồng tưới mát đau thương trong hắn, giúp Benjy cân bằng trạng

thái xúc cảm khi không thể đối thoại với cuộc sống. Nhìn đồng cỏ, hắn sống lại cảm giác

thanh bình, như người chị Caddy đã che chở cho mình.

Chúng tôi thấy một khát vọng trở về với đất mẹ. Đồng cỏ mang đến cho hắn cảm

giác ấm áp và sự che chở. Benjy với số phận bất hạnh của một thằng khùng. Hắn yêu vô

cùng đồng cỏ, khát vọng của Benjy là được ngắm chúng. Đồng cỏ đối lập với không gian

chật hẹp trong ngôi nhà Benjy. Đó là ước muốn sống hòa mình vào tự nhiên, những sự xâm

hại tự nhiên sẽ dẫn đến bi kịch.

76

Đó cũng là thông điệp đầy nhân văn trong các tiểu thuyết khác của Faulkner. Bi

kịch của xã hội hiện đại đã được báo trước với những tác phẩm nổi tiếng khác của ông như

Hoa hồng cho Emily, con Gấu, Thánh đường,… Ở đó, thông điệp về sự chan hòa với tự

nhiên đã được tác giả nói đến. Faulnker luôn có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất nơi

mình sinh ra. Ông gửi hết tình yêu ấy vào những tiểu thuyết và truyện ngắn của mình. Miền

Nam với những tháng ngày tươi đẹp đã không còn sau cuộc nội chiến Nam- Bắc. Nó hằn

những vết thương trong các trang văn của mình. Những bi kịch và tội ác ngập tràn ở tiểu

thuyết của người nghệ sĩ. Con người xa rời tự nhiên, thời đại công nghiệp đã biến mảnh đất

miền Nam thanh bình thành những công trường công nghiệp, khát vọng trở lại thời thơ bé

được ông gửi gắm vào những nhân vật trong tác phẩm. Benjy luôn cầm Hàng rào để được

nhìn qua Đồng cỏ. Đồng cỏ thanh bình xua tan hết những đau thương, dung chứa tiếng khóc

của hắn. Cỏ với sự sống bất diệt, những cánh đồng mênh mông đã biến thành mất như sự

phai tàn của cuộc sống.

Quentin nghĩ về Đồng cỏ với một niềm tiếc thương vì nó bị bán đi để làm đám cưới

cho Caddy, “bán cánh đồng cỏ”, thanh âm vang lên đầy đau đớn và tiếc nuối. Những tiếng

nói cuồng vọng trong anh là mặc cảm của cái tôi yếu đuối không thể giữ được những thứ

mình yêu thương. Cùng với Caddy, cánh đồng gợi dậy ở hắn cảm giác ấm áp và thanh bình.

Nó khác xa với không gian ở Havard u buồn, bế tắc. Khung cảnh quê hương với cái nắng

tháng Tám thanh bình làm cho tác phẩm âm vang một chất thơ đầy diễm lệ và tuyệt đẹp.

Đồng cỏ cũng giúp xoa dịu tâm hồn Quentin. Đó là khát vọng trở lại quê nhà, muốn được

sống trọn vẹn một ngày ý nghĩa trước khi giã từ cuộc sống. Đất mẹ luôn dung chứa những

đứa con trở lại. Vì là người mất hết lí tưởng cuộc sống nên hắn tìm đến nước để chuộc tội

cho em gái mình. Anh ta từ chối đất mẹ, không muốn trở lại sống một cuộc đời mà dường

như nó đã chết từ khi Caddy mất trinh. Và trinh tiết của nàng được Queetin cảm nhận như

mùi một loài hoa, hoa Kim Ngân.

Không có đồng cỏ, những thanh âm êm ả của tuổi thơ đã không còn. Đường về quá

khứ bị bịt kín, Caddy như đất mẹ. Nàng cũng đã thay đổi, không một thứ gì bấu víu ngoài

những lí thuyết hư vô Quentin hội đáp cùng bố mình. Không gian tâm tưởng ấy nhằm khỏa

lấp hiện thực bế tắc và quá khứ đau thương trong anh. Hành động tự vẫn của Quentin bằng

cách chết đuối, không phải là ước muốn trở về đất mẹ mà là chối bỏ nó. Tất cả đã thay đổi,

Caddy thay đổi và đồng cỏ không còn, những giá trị, tình yêu mất đi nên tiếng vọng cuồng

nộ dội vào trong hắn là tiếng nấc thổn thức của một kẻ bại trận.

77

Trên cánh đồng, những thứ tươi đẹp đã mất. Dòng suối tuổi thơ, năm tháng dạo chơi

của lũ trẻ nhà Compson đã lùi vào quá vãng. Hiện thực đau buồn được cảm nhận qua thanh

âm phẫn nộ của Jason khi gia đình bán mất cánh đồng. Gia đình không còn lại gì ngoài ngôi

nhà ngập không gian xám điêu tàn với tiếng la khóc của thằng khùng Benjy. Jason là một kẻ

tham lam và ích kỉ, khi không nhận được gì từ việc bán đi Đồng cỏ. Nỗi đau của hắn nhân

lên gấp bội. Cánh đồng trong cảm thức của Jason là sự giàu có và trù phú của gia đình. Nó

đã bị mất đi bởi cha hắn đã yêu thương Caddy và Quentin nhiều hơn mình. Jason không

thấy được sự rộng lớn, thanh bình của Đồng cỏ, chỉ có tiếng đay nghiến hiện thực khi nó

mất đi. Hiện thực đó cho thấy nỗi buồn của Faulkner với những đổi thay của thời cuộc. Một

gia đình quí tộc và danh giá đã không thể tồn tại trước đổi thay của hiện thực cuộc đời.

Những giá trị vật chất và giá trị tinh thần trong xã hội miền Nam bị xuống cấp và băng hoại

nghiêm trọng. Đó là tiếng chuông róng cảnh tỉnh loài người trước những đổi thay của thời

cuộc: phải luôn biết giữ lấy những giá trị do thiên nhiên ban tặng cho con người, mọi hành

động tướt đoạt và hủy phá thiên nhiên sẽ để lại những vết thương to lớn trong tâm thức mỗi

thế hệ về sau (Nhật Chiêu). Chính người cha đã không trân trọng và nâng niu những giá trị

ấy. Nó được tiếp diễn và sẽ dẫn đến lụi tàn vì đi ngược lại chân lí cuộc đời.

Dilsey đã nhìn thấy được điều đó. Cái mở đầu và kết thúc của một bài ca về nỗi

thống khổ của con người trong sự hiện hữu. Bà là cánh đồng tưới mát tấm lòng yêu thương

che chở tất cả những người nhà Compson. Những cái nhìn của mọi nhân vật khi rọi vào biểu

tượng này như sự kiếm tìm một thực tại. Đó là ước muốn được chở che và sống lại những kí

ức đẹp trong tuổi ấu thơ. Khát khao được yêu thương và che chở là những thứ chúng không

có được. Nhưng hiện thực với bao biến cố và bất hạnh khiến lũ trẻ phát triển nhân cách theo

những hướng rất riêng. Và bi kịch là ở đó. Không có những thang bậc giá trị, lũ trẻ như

những cái cây phát triển trên một đồng cỏ thiếu vắng tình yêu thương của cha mẹ. Chúng

chỉ có thể nương tựa vào tự nhiên, hòa và sống vào thiên nhiên nhưng khi nó thay đổi và

mất đi, họ không còn bấu víu được vào nó, tất cả chúng làm nên một nỗi đau không lời bởi

sự cô đơn của chúng trong chính ngôi nhà của mình. Do đó mỗi đứa trẻ nhà Compson luôn

muốn tìm một Cửa sổ để có thể vượt thoát được sự cô đơn của số phận.

Tóm lại, biểu tượng không gian với hàng rào và đồng cỏ, Faulkner đã kể cho chúng

ta một hiện thực. Mà ở đó, nhân vật bị cầm tù và lưu đày trong không gian huyền ảo với

miền Nam hoang sơ và cách biệt với thế giới bên ngoài. Với những biểu tượng này, thanh

âm bi kịch của gia đình Compson trải từng nhịp chậm buồn, đổ bóng xuống từng nhân vật,

78

làm nên những hình ảnh cuồng nộ thấm đẫm đau thương trong dòng họ Compson, “mỗi gia

đình đều hạnh phúc giống nhau nhưng sẽ bất hạnh theo những kiểu riêng của

nó”(L.Toistoil). Sâu thẳm bên trong, Faulkner luôn là con đẻ của ruộng đồng miền Nam.

Ông yêu vô cùng mảnh đất quê hương, nỗi đau khi nhìn thấy những đổi thay trên quê hương

đã khiến trái tim Faulkner quặn thắt, tất cả tình yêu đó được nhà nghệ sĩ gửi vào các sáng

tác của mình. Một không gian đẫm chất thơ và đầy huyền thoại được dựng lên, miền Nam

cách biệt với cuộc sống bên ngoài, cho nên ông cố gắng đưa nhân vật vượt thoát ra khỏi nó.

3.2.3. Cửa sổ - hành trình vượt thoát cô đơn

Cô đơn là một trạng thái cảm xúc tồn tại trong con người. Nó hiện sinh trong mỗi

kiếp người. Với một tác phẩm mà chủ đề của nó là tình yêu và con người thân phận thì cái

cô đơn trong hành trình hiện hữu của mỗi nhân vật lại càng thêm sâu sắc. Chính cô đơn là

nguyên nhân dẫn mọi người trong nhà Compson luôn cố theo đuổi những ý nghĩa riêng của

mình và không chia sẻ cùng người khác. Nó đẩy họ vào bi kịch không hiểu nhau và biểu

tượng Cửa sổ được nhà văn xây dựng trong tác phẩm như hàm chứa một thông điệp vượt

thoát khỏi nó, dẫn họ vào một không gian khác.

Cửa sổ trong ngôi nhà Compson dường như khép kín. Nó như một sự tuyệt giao với

thế giới bên ngoài. Ở đó, các nhân vật lại cố gắng mở nó, để họ có thể ra một không gian

rộng lớn. Benjy luôn khóc khi anh bị nhốt kín trong nhà, ngắm cánh đồng và nhìn lửa mới

làm hắn nín. Cửa sổ là nơi nhìn ra bên ngoài. Biểu tượng này như đôi mắt nhìn vào hiện

thực đau thương của gia đình Compson, ngôi nhà tràn ngập sự lạnh lẽo, u ám, không có hơi

ấm của tình yêu. Ánh sáng yếu ớt của nó khiến Benjy khi được ra ngoài hắn luôn thấy

những “hình thể tươi sáng và ấm áp”. Do đó sự kiện Caddy trèo lên ngọn cây để nhìn vào

cửa sổ như muốn truy tìm những bí ẩn của cuộc sống mà gia đình cố che giấu. Cái chết và

sự cô đơn trong xã hội khiến lũ trẻ phải gắn bó với nhau để chơi đùa và từ đó khao khát

kiếm tìm luôn hiện hữu trong nó.

Từ Cửa sổ, Benjy nhìn vào hiện thực đau thương của gia đình. Hắn ngửi thấy sự cô

đơn, cái chết. Nó mở toang cánh cổng không gian gia đình Compson. Benjy dẫn người đọc

nhìn vào từng mảnh đời bất hạnh của nhân vật với những hình ảnh và thanh âm vô cùng

sinh động. Cửa sổ với Quentin vẽ nên hình ảnh Caddy “một thoáng em đứng trong khung

cửa”, nó gợi cho hắn sự cô đơn khi Caddy lấy chồng, bóng khung cửa kính hiện ra đưa hắn

trở lại Harvard gợi nhớ về thời gian thực tại. Queetin nhìn vào cửa sổ, để cảm nhận về sự hư

vô của cuộc đời. Cửa sổ gợi lên hiện thực cô đơn của nhân vật khi anh ta đứng ở đó và nhìn

79

ra một không gian khác xa hơn, “con tàu dừng lại và tôi kéo tấm rèm cửa sổ nhìn ra bên

ngoài”. Cùng với Hàng rào và Đồng cỏ, biểu tượng này gợi lên một không gian ngập tràn

sự cô đơn trong tâm thức của mỗi nhân vật. Họ lạc lõng trong không gian mình tồn tại.

Muốn vượt thoát ra nó nhưng cách thức hành động ở mỗi nhân vật là khác nhau. Caddy đi

tìm đến tận cùng bằng sự dấn thân, nàng muốn ngước qua cửa sổ để nhìn ra một thế giới

rộng lớn bên ngoài. Queetin thì luôn trăn trở và suy niệm về sự cô đơn. Benjy phản kháng

bằng những âm thanh cuồng vọng. Jason muốn vượt thoát trên nó bằng sự toan tính và ích

kỉ của riêng mình. Dilsey thì dùng tình yêu thương của mình để xoa dịu đi mặc cảm đó cho

mỗi đứa trẻ bất hạnh nhà Compson. Do đó những biểu tượng này được khúc xạ qua cảm

nhận của mỗi đứa trẻ lại có những biểu hiện khác nhau. Chúng cố gắng chuyển một thông

điệp về tình yêu và con người thân phận của nhà văn. Các biểu tượng có những nét tương

đồng và khác biệt so với nghĩa ban đầu. Giữa chúng có một sự liên hội với nhau để khắc sâu

hơn không gian đầy cô đơn và mất mát của xã hội miền Nam lúc này.

Mỗi nhân vật không chỉ bị thời gian cầm tù mà họ còn phải sống trong một không

gian đầy bóng tối, thiếu đi ánh sáng của tình người. Cửa sổ đó là biểu tượng không gian

biểu trưng cho ước vọng vượt thoát sự cầm tù của các nhân vật trong gia đình Compson. Do

đó con gái Caddy là Quentin đã leo qua cửa sổ để thoát khỏi ngôi nhà. Jason chỉ thấy ở cửa

sổ sự phẫn uất và bất hạnh khi hắn bị cuỗm mất số tiền và bị cầm tù tại thị trấn. Nỗi cô đơn

và bất hạnh mà Jason phải gánh chịu khiến hắn không thể nghĩ về một việc gì khác ngoài

lòng hận thù. Hắn phẫn uất khi gia đình suy tàn, bản thân không có được công việc mình

muốn. Tất cả chúng được trút xuống Caddy và con gái nàng. Jason nghĩ Caddy là ngọn

nguồn của mọi tai họa mà gia đình hắn và bản thân gánh chịu, sự cô đơn đã theo Jason từ

thuở bé. Không ai chơi với hắn, Jason thiếu vắng tình yêu thương và nó là nguyên nhân

khiến hắn không có nhiều cảm xúc về tình máu mủ. Cửa sổ hiện ra trong Jason ở đó sự

cuồng nộ hiện lên thật rõ nét, cảm giác đau đớn và phẫn uất khi cháu gái trèo cửa sổ và có

thể đã cuỗm đi số tiền hắn tích cóp.

Trong đôi mắt Faulkner, biểu tượng Cửa sổ ngập tràn ánh sáng đối lập lại bóng tối bất hạnh

mà anh em nhà Compson phải gánh chịu. Dường như bi kịch của con người trong xã hội

luôn là chủ đề yêu thích của Faulkner. Nhà văn cố xây dựng con người mà ở đó “tâm hồn

luôn gây hấn với chính hắn”, ông cố gắng đi thật sâu vào đời sống tâm linh của họ. Nhưng

“biện chứng pháp” tâm hồn của người nghệ sĩ này khác xa với những nhà văn bậc thầy khác

như Balzac hay Toistol và nhất là Dostoievsky, bởi phép biện chứng tâm hồn của Balzac

80

nghiêng về phân tích tâm lí xã hội. Trong khi đó đại văn hào Tostoil thì đi vào khám phá

những biến chuyển tinh vi và phức tạp của nhân vật với phương thức độc thoại nội tâm sâu

sắc. Có lẽ Faulkner gần với Dostoievky hơn cả, bởi tâm lí của nhân vật trong sáng tác của

hai nhà văn này là đều dựa vào nguyên lí đối thoại để từ đó tiếng nói của xúc cảm và tâm

trạng của nhân vật được vang lên. Nhưng Dostoievky đó là những trạng huống say mê, ở đó

nhân vật ông yêu cất vang tiếng nói của cảm hứng tư tưởng, nó gợi lên chiều sâu của bản

chất tôn giáo là một chủ đề luôn ám ảnh nhà văn Nga vĩ đại. Đối thoại cũng thường trực và

đậm đặc trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Faulkner, ông gần với J. Joyce ở khả năng dồn

nén dung lượng thông báo, “các âm thanh của từ khi kết hợp tự nó có thể biểu đạt được

những sự chuyển động sâu xa, tinh tế nhất của tâm trạng, và xa hơn, nhờ đó con người có

thể thoát ra khỏi thực tại trần trụi bủa vây để đến với những không gian mới, những thế giới

mới, nơi ngự trị của cái thuần khiết, vĩnh hằng”[41, 58]. Bên dưới đối thoại tầm thường,

vụn vặt và nhỏ bé, là những tiếng kêu đau thương được cất cao giọng. Nếu lắng xuống, ta

nghe ra được cuộc đối thoại lớn về ý nghĩa tình yêu và hiện hữu của con người sau những

âm thanh bình thường. Âm thanh này kết hợp với những biểu tượng nghệ thuật thời –không

sẽ tạo nên những hình ảnh ám gợi đầy cuộng nộ. Nó trở thành những biểu tượng nghệ thuật

sâu sắc, lay động tình cảm, xúc cảm của mỗi người. Hình ảnh khung cửa bật sáng trong đám

ma bà Nội hòa trong tiếng khóc của người mẹ đã khắc họa lên dấu hiệu cái chết đang xảy

đến và bi kịch của gia đình Compson.

Thói ích kỉ và bản chất xấu của Jason được bộc lộ tột cùng khi anh ta phát hiện đã bị

mất đi số tiền bất hợp pháp do mình tích cóp được. Nó hòa điệu cùng thanh âm giận dữ điên

cuồng tạo nên một Jason đầy cuồng nộ, bi phẫn. Do đó có thể thấy những biểu tượng

Không- thời gian đã gắn bó mật thiết với biểu tượng Âm thanh để chuyển tải thông điệp về

tình yêu thương và thân phận của từng nhân vật nhà Compson.

Tình yêu luôn là thứ đối lập với sự cô đơn. Do đó biểu tượng Cửa sổ được người

nghệ sĩ nói đến luôn hiện lên khi nhân vật cố gắng đi tìm ý nghĩa của tình yêu. Đó là tình

người thân, tình nam nữ và thậm chí là tình yêu mảnh đất quê hương, đó là Nhà. Mỗi nhân

vật luôn cố và cố gắng hành động để vượt thoát khỏi nó. Những thanh âm dằng dặc bất hạnh

là bản trường ca cho sự lụi tàn và nỗi đau số phận trong cuộc đời của các nhân vật. Họ

cuồng nộ bởi họ mất mát. Hành trình đi tìm lại kí ức luôn hiện hữu ở các nhân vật. Đó là

đồng xu với Luster, kí ức với Benjy, câu hỏi cuộc đời với Quentin, hay bi kịch nỗi đau hiện

tại mà Jason phải gánh chịu. Dường như nhà văn vẫn bất lực khi không thể nói về Caddy,

81

nàng vẫn mãi là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của đời ông. Caddy mang trong mình vẻ

đẹp của “thiên tính nữ”(Hoàng Ngọc Hiến), nàng là hiện thân của khát vọng truy tầm ý

nghĩa sự sống và nâng đỡ giá trị tinh thần cho những người mình yêu thương. Caddy hiện

lên trong văn bản là người gánh chịu nhiều tổn thương và mất mát nhất. Nhưng nàng vượt

lên trên nó. Vẻ đẹp, sự bất hạnh của nàng là biểu tượng cho mảnh đất miền Nam tươi đẹp

nhưng đầy đau thương mà Faulkner đã chứng kiến và suy nghiệm.

3.2.4. Ngọn cây - khát vọng truy tầm

Biểu tượng Ngọn cây như biểu trưng cho khát vọng khám phá bản chất của cuộc

sống.

Biểu tượng này gắn bó mật thiết với Caddy và con gái nàng. Khi Caddy leo lên cây

để nhìn vào đám tang của bà Nội. Đó là ước muốn và khát vọng tìm hiểu ý nghĩa của cái

chết. Sau đó, nàng leo cây để đến với người tình, khát vọng muốn khám phá đời sống xác

thân. Những thay đổi ở Caddy cũng gắn bó với Ngọn cây. Khi Caddy trèo lên cây, chiếc váy

nàng đính đầy bùn, dấu hiệu đó báo trước sự bất hạnh về tình dục mà cô phải gánh lấy sau

này. Dường như ở Faulkner có một thuyết định mệnh của phương Đông khi miêu tả về các

nhân vật. Thật ra biểu tượng nghệ thuật với tư duy trừu tượng sẽ là mảnh đất ươm mầm cho

biểu tượng nghệ thuật. Xây dựng một tác phẩm chứa nhiều yếu tố huyền thoại, Faulkner đã

cố làm sống lại những biểu tượng độc đáo mang đậm tâm thức tôn giáo và biểu tượng

phương Đông. Có sự giao thoa văn hóa Đông- Tây trong tiểu thuyết của nhà văn. Cây gắn

bó mật thiết với đất mẹ, nó làm thành một quan hệ phức hợp về tình yêu bám rễ vào cuộc

đời.

Những đứa trẻ nhà Compson không bám được vào tình yêu thương của mẹ.

Chúng không có rễ yêu thương nên khi trèo lên ngọn cây, Caddy đã mang mầm

mống của bi kịch như Faulkner miêu tả. Khát vọng truy tầm cuộc sống với một cô

bé, khi cô không tin có bất hạnh và đau thương trong đời sống. Caddy với “thiên tính

nữ” cố gắng dẫn dắt và che chở các anh em nàng. Tiếng nói đối thoại của cô với cuộc

sống vang lên đầy phức tạp. Từ một cô gái êm đềm trong tuổi thơ, Caddy bất hạnh

khi không thể trở về chính ngôi nhà mình yêu thương bởi khát vọng kiếm tìm tình

yêu và hạnh phúc của mình đã không được trân trọng. Caddy là đất mẹ, thanh âm

cuồng nộ của nàng chính là bi kịch bất hạnh từ tình yêu vô bờ bến của nàng, Caddy

không chấp nhận sự ti tiện và ích kỉ của em trai là Jason. Nó được hiện lên với những

trang hồi ức lấp lánh ánh sáng tinh nguyên của dòng kí ức. Với ba điểm nhìn của ba

82

anh em, nàng vẫn mãi không trọn vẹn và có điểm khuyết. Ngọn cây không chỉ gợi ra

một không gian cao với hiện thân của vẻ đẹp trong sạch mà nó còn chứa đựng một

khát vọng đi vào thật sâu trong hành trình khám phá tâm linh con người.

Bản chất đời sống đó là hành trình đi tìm kiếm và khám phá. Trên con đường ấy, đớn

đau, vinh quang và tủi nhục luôn song hành. Các nhà văn Mỹ luôn đẩy các nhân vật của

mình vào lộ trình này, một Moby Dick với Ahab đi tìm con cá voi Trắng, một Gastby vĩ đại

trong hành trình đi tìm tình yêu hay những cuộc phiêu lưu của Hulklebelly Finn, … Khát

vọng chinh phục tự nhiên luôn sống trên mảnh đất Hoa Kỳ. Họ với bản chất phiêu lưu của

một nền văn hóa Lai tạo cho cư dân Mỹ ưa thích khám phá. Và từ tự nhiên, nhà văn đi vào

tìm hiểu những bí ẩn giấu kín trong tâm hồn mỗi thế hệ nước Mỹ.

Xã hội miền Nam thời Faulkner sống đã qua thời chiến tranh Nam- Bắc nhưng vẫn

có một hoài niệm, nỗi đau về nó. Bất hạnh đã hằn sâu lên dấu ấn trong những sáng tác trước

của ông. Là một nhà văn của lương tri, Faulkner và Hemingway đã cố gắng đi thật sâu vào

tận cùng tâm hồn của những cư dân Mỹ trong thế kỉ XX. Các nhân vật Faulkner đa phần

thất bại trong cuộc sống, họ chìm vào rượu như Jason Compson cha. Nó hằn lên Jason con

và cả tâm trạng hoài nghi yếm thế trước cuộc đời của Quentin. Chỉ có sức sống mãnh liệt và

tình yêu vô tận của Dilsey và Caddy mới vượt thoát được nó. Đó cũng là khát vọng của nhà

văn, đưa mảnh đất miền Nam đang cằn cỗi, đau thương thành một vùng đất huyền thoại và

ngập tràn sự cuồng nộ trong những thanh âm của bi kịch và bất hạnh. Và Faulkner đã thật sự

sáng tạo được một không gian như thế.

Tóm lại, với hai biểu tượng Cửa sổ và Ngọn cây, nhà văn đã làm sống dậy một vùng

đất hoang cằn đầy bóng tối một khát vọng vượt thoát nỗi cô đơn và bất hạnh của hiện hữu

trước số phận cuộc đời. Chúng tôi thấy rất rõ thông điệp đã gửi gắm cho người đọc. Nhà văn

muốn sáng tạo một không gian nhuốm đầy đau thương ở đó các nhân vật luôn cố gắng vượt

lên trên số phận nhưng họ luôn bị rơi vào bất hạnh. Chính nó đã tạo nên thanh âm cuồng nộ

đầy đau đớn trong các sáng tác của nhà văn này.

Tiểu kết chương 3:

Hệ biểu tượng Không- thời gian trong tiểu thuyết đã được Faulkner sáng tạo đầy độc

đáo. Dưới các biểu tượng đó, nhân vật bị cầm tù trong không gian và họ cố vượt thoát khỏi

sự lưu đày của thời gian. Nhưng tất cả những cố gắng ấy đều bị thất bại, bi kịch “tâm hồn

con người gây hấn với chính nó” hiện lên. Chính điều đó đã tạo nên những thanh âm khác

nhau đầy cuồng nộ với các biểu hiện rất riêng, tạo nên những sắc thái xúc cảm khác nhau

83

trong mỗi nhân vật. Dưới ánh sáng của biểu tượng này, bi kịch về sự suy tàn của gia đình

Compson được lộ ra đầy đủ và rõ nét hơn. Một không gian miền Nam thật đẹp nhưng đầy

đau thương được hiện ra trên cái nền của thời gian chiến tranh Nam – Bắc đã kết thúc nhưng

dư ảnh và sự thương đau của nó vẫn tồn tại trong tâm thức của những thế hệ sau.

Hệ biểu tượng Không - thời gian kết hợp với hệ biểu tượng Âm thanh đã cho thấy

được khả năng sáng tạo của nhà nghệ sĩ Faulkner trong việc tái hiện hiện thực bên trong tâm

hồn của mỗi người bởi, “Tiểu thuyết là một đối tượng khác hẳn với hiện thực, nó bước ra từ

chính cái cung cách mà một bức tranh vẽ lâu đài khác với cái lâu đài mà nó thể hiện”

(Kundera). Nên bức tranh tâm lí nhân vật đạt đến chiều sâu của nhận thức.

Biểu tượng nghệ thuật Không - thời gian còn tạo cho văn bản Âm thanh và cuồng

nộ một chất thơ đặc biệt. Với những biểu tượng hàm chứa năng lượng cảm xúc , nó dồn nén

những cung bậc và thổi vào văn bản những ý niệm đậm sắc màu huyền thoại.

Để hiểu được tính huyền thoại được cất giấu như thế nào trong văn bản này, chúng

tôi muốn đi vào khám phá hệ biểu tượng Tâm linh mà nhà văn đã sáng tạo trong tiểu thuyết

này.

84

CHƯƠNG 4: HỆ BIỂU TƯỢNG TÂM LINH TRONG “ÂM THANH

VÀ CUỒNG NỘ”

Mỗi nhà văn lớn trước hết luôn thuộc về một đất nước, một dân tộc sau đó là gương

mặt công dân nhân loại. Tiếng nói tư tưởng cùng nhận thức về con người và cuộc sống làm

nên mô hình quan niệm của nhà nghệ sĩ trước cuộc đời. Faulkner gắn bó mật thiết với mảnh

đất miền Nam nước Mỹ với bao câu chuyện hoang đường và huyền bí khiến những trang

văn của ông chứa đầy sắc màu biểu tượng và huyền thoại. Bởi bản chất của văn học nghệ

thuật, “không chỉ là mô tả thực tại, cái thế giới nhìn thấy được, có sẵn, mà quan trọng hơn

là biểu hiện, là khám phá các tầng sâu uyển chuyển và tế nhị của đời sống tâm linh con

người, chỉ có như thế nghệ thuật mới khắc phục được tính đơn điệu, phiến diện và đạt tới

chiều sâu”[10, 110].

Hành trình tìm kiếm giá trị tình yêu và con người thân phận đã đưa Faulkner đến gần

hơn những giá trị vĩnh hằng của tâm thức nhân loại đậm chất nhân văn. Do đó đi vào Âm

thanh và cuồng nộ, bên trên lớp biểu tượng Âm thanh gợi lên những hình ảnh đầy cuồng

nộ đầy đớn đau ở nhân vật. Đi cùng với nhóm biểu tượng Không - thời gian như cầm tù và

lưu đày nhân vật trong một hiện thực tang thương là hệ biểu tượng Tâm linh chứa những giá

trị biểu trưng đậm chất nhân văn. Từ đó bài ca nhân đạo về tình yêu thương con người và

cuộc sống được cất vang.

4.1. Lửa như là bản nguyên của vũ trụ

Lửa một dạng vất chất sống trong tâm thức của loài người từ thuở sơ khai. Nó là một

biểu tượng đa nghĩa. Theo “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, ngọn lửa luôn gắn với

hai nét nghĩa lớn đó là sự tái sinh và sự hiến tế. Từ hai gốc nghĩa này, biểu tượng Lửa đã

được tái hiện trong văn hóa nhân loại. Lửa đi vào trong văn học và làm nên những ý nghĩa

biểu trưng độc đáo. Ở phương Tây, biểu tượng Lửa gắn với hình ảnh chàng Promete đánh

cắp ngọn lửa trên trên đỉnh Olympia cho loài người. Lửa sưởi ấm, biểu trưng cho cảm giác

ấm áp nhưng đồng thời Lửa với sức nóng lại tượng trưng cho sự hủy diệt. Đi vào khám phá

Lửa, phải thấy được ý nghĩa do biểu tượng này gợi lên.Đi cùng với nó là các giá trị do Lửa

mang lại ở từng ngữ cảnh của văn bản Âm thanh và cuồng nộ.

Lửa, trong đôi mắt Benjy là một chất hắn yêu thích nhất. Ngắm Lửa luôn đem lại cho

Benjy cảm giác bình yên và dễ chịu. Hắn cảm nhận con người thông qua ánh mắt. Khi

những người thân giận dữ, Benjy như thấy lửa trong mắt họ, đó là ngọn lửa hủy diệt, nó tàn

85

phá những giá trị của tình yêu: “Chị dẫn tôi tới ngọn lửa và tôi nhìn những hình thể sáng

ngời, êm dịu. Tôi nghe thấy lửa và mái nhà”[18, 101]. Faulkner xây dựng biểu tượng này

bằng cách lặp lại rất nhiều lần nó. Đó là ước muốn đi vào khám phá đời sống tâm hồn được

che giấu bên trong của mỗi người, “ngọn lửa gợi lên lòng ham muốn được biến đổi, được

thúc đẩy thời gian, được đưa toàn bộ về tới điểm kết thúc, tới quãng thế giới bên kia”[34,

109]. Lửa trong mắt các nhân vật khi giận dữ. Nó làm nên tiếng vọng đau thương khi chứng

kiến những nỗi đau và bất hạnh không gì khỏa lấp được.

Lửa như một biểu tượng hiến sinh cho cái chết của Quentin. Hắn ao ước được chết

chung với Caddy trong ngọn lửa tinh khiết để xóa đi tất cả những dục vọng xấu xa mà em

gái hắn đã phải chịu, “giá như địa ngục ở ngay bên kia: ngọn lửa tinh khiết hai đứa mình

hơn là chết. Rồi em sẽ chỉ có anh rồi chỉ có anh rồi hai đứa giữa sự chỉ định kinh hoàng bên

kia ngọn lửa tinh khiết”[18, 170-171]. Lửa ấm áp làm nên thanh âm êm diệu, thanh bình.

Hình ảnh ngọn đèn trong lúc nhân vật nhớ về những kỉ niệm tươi đẹp ở quê nhà. Lửa phẫn

uất khi Quentin không thể đánh thắng Daton Almes trong cuộc đấu tay đôi. Biểu tượng này

đối với Benjy là rõ hơn các anh em của mình. Bởi Benjy chỉ có thể cảm giác sự vật xung

quanh bằng cảm giác. Lửa luôn gợi cho hắn sự tò mò. Lửa cũng gợi lên sức nóng của dục

tính, nó tràn vào bên trong Benjy khi hắn bị thiến. Cảm thức đau thương không thể nói do

đó Benjy chỉ biết gào thét để trút hết những buồn đau và cuồng nộ của mình. Lửa cũng cho

Benjy cảm giác ầm áp của gia đình “tôi nghe thấy lửa và mái nhà”,. Lửa thiêu hủy và gây

nên sự đớn đau lúc Benjy chạm vào nó, khiến hắn bị phỏng tay trong lần sinh nhật 33 tuổi

của mình. Benjy thấy được ngọn lửa đấu tranh và thù ghét lẫn nhau giữa Caddy và Jason,

ngọn lửa ấm áp nơi ngôi nhà của T.P và Versh. Bởi nơi ấy tràn ngập tình yêu. Nó khác xa

với ngôi nhà Benjy chỉ chứa đựng sự hận thù và những tính toán tầm thường, nhỏ nhen, ích

kỉ. Do đó Lửa như là biểu tượng chuyển tải những thông điệp của Benjy với cuộc sống.

Chính nó làm nên trong hắn sự cuồng nộ đớn đau khi phải chứng kiến mọi thứ xảy đến với

bản thân và gia đình. Benjy với khả năng cảm nhận được sự bất hạnh và cái chết. Trong hắn

còn có một ngọn lửa dục tính và những khát khao trần tục. Nỗi bi thương khi không thể giao

tiếp với cuộc đời nên Benjy tìm đến chiếc dép. Nó như một biểu trưng cho hành trình lưu

đày của Caddy ra khỏi ngôi nhà và Lửa để xóa đi nỗi đau và tìm hơi ấm nơi người chị mà

hắn yêu thương. Lửa hận thù đốt cháy tình yêu. Chỉ có ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của

gia đình mới ấm áp và giúp con người cảm nhận giá trị của tình yêu.

86

Do đó hành động nhóm lại lửa của Dilsey như một thông điệp, nhóm lại những tình

yêu bị nguội tắt trong ngôi nhà đầy băng giá của nhà Compson. Một ngày tang thương và

bất hạnh xảy đến trong gia đình Compson. Giữa cái lạnh của buổi sáng Chúa nhật với bao

sự kiện, Dilsey vẫn thức dậy và nhóm lên ngọn lửa của tình yêu thương. Chính bà chứ

không phải ai khác đã gánh vác ngôi nhà Compson trên đôi vai nhỏ bé của mình.

Với biểu tượng Lửa, Faulkner muốn sáng tạo một kí mã thẩm mỹ mang đậm dấu ấn của văn

hóa độc đáo. Nó song hành và tồn tại trong tâm thức của nhân loại. Biểu tượng tâm linh này

sẽ giúp hình tượng chạm tới bề sau của vô thức, “bỏ mất sự mơ mộng trước lửa là đánh mất

thói quen thật nhân văn và nguyên thủy của lửa”[10, 107]. Đi vào khám phá biểu tượng

Lửa, người tiếp nhận như được trôi vào một không gian khác, mơ hồ và đầy ảo ảnh. Hình

tượng nhân vật được khai thác ở chiều sâu của sự liên tưởng bằng dấu ấn của vô thức tập

thể. Lửa như một nguyên sơ tượng cổ xưa, hàm chứa trong bản thân biết bao sự mơ mộng

vô hình. Nó gợi lên hình ảnh đầy mơ mộng và cả sự điêu tàn hủy diệt. Lửa trong mắt, trong

gương, trên mái nhà, bếp lò,..Những dạng tồn tại của nó được cảm nhận bởi Benjy. Nó hủy

diệt và nuôi dưỡng tình yêu trong hắn. Lửa xâu chuỗi từng thời gian sự kiện xảy đến với

cuộc đời Benjy, làm thành vòng tròn bất tận trong nỗi bất hạnh của nhân vật. Hắn cảm nhận

được nó trong ánh mắt đầy lửa của bố và mẹ khi họ biết hắn bị chậm phát triển.Sự giận dữ

của Jason vì hắn là nỗi sỉ nhục của dòng họ. Bi kịch đau thương khi Caddy lìa xa mình và

lúc bản thân bị thiến thì ánh lửa cuồng nộ bùng cháy mãnh liệt, đầy đớn đau. Nỗi đau hiện

hữu trong Benjy được cảm nhận với Lửa. Ánh lửa thổi bùng lên bao suy niệm về yêu

thương và căm giận.

Lửa trong mắt Quentin chỉ chứa toàn thù hận. Sự thất bại trong việc giữ gìn trinh tiết

và phẩm giá cho em gái khiến ngọn lửa đam mê và dục vọng trỗi dậy trong hắn. Quentin say

mê em gái như người tình. Ánh lửa cuồng si hiện lên trong mắt hắn, khi Caddy yêu thương

Benjy và bố hơn mình. Ánh lửa cuồng dại khi Caddy bị mất trinh, nó đau đớn và cuồng nộ.

Trong đôi mắt nhân vật này,một ngọn lửa đớn đau khi Caddy lấy chồng, Quentin trút tất cả

Lửa bất lực của mình lên T.P. Lửa trong mắt anh ta được nhìn bởi Benjy. Quentin là một

người bất hạnh và là kẻ thất bại. Lửa hoài nghi cận vấn cuộc đời của Quentin trước những

sự thay đổi của thời cuộc. Biến dạng của Lửa mang lại những cung bậc xúc cảm khác nhau

trong tâm thức của nhân vật. Đi cùng với biểu tượng Lửa là sự xen vào những đoạn độc

thoại với nhiều giọng nói chen vào nhau. Sự phức hợp cảm xúc này được nhà văn sử dụng

87

khi ông cố diễn đạt những biến chuyển tâm lí cực kì tinh tế và phức tạp trong cảm thức của

nhân vật. Dòng suối cảm xúc tự tuôn trào trong sự tinh nguyên cảm xúc.

Faulkner là bậc thầy trong việc dựng lại bức chân dung thời đại, các nhân vật của

ông với bao mặc cảm về con người thân phận của miền Nam đau thương. Trái tim họ thổn

thức những nhịp đập khi thanh âm cuộc đời mới dội đến họ.Để cảm nhận được bề sâu trong

tâm hồn, nhà văn cần một lối diễn đạt mới, “tư tưởng con người là trầm tích của các thời đại

lịch sử”(Konrad). Một thế hệ dòng họ Compson trong thế kỉ XX được nhìn qua lăng kính

đầy sắc màu huyền thoại.Đó là trái tim thổn thức của một con người am hiểu rộng văn học,

văn hóa nước Mỹ. Nó giúp nhà văn trải được cảm xúc trên cả bề rộng lẫn bề sâu của tâm

hồn con người lên trang giấy. Những cổ mẫu được nhìn dưới ánh sáng của so sánh, đối

chiếu với những cổ mẫu khác.Nó tạo cho văn bản những khoảng trắng cần được lấp đầy bởi

người đọc. Do đó tiểu thuyết này luôn mời gọi và thách đố sự phát hiện lại những giá trị

tưởng như bất biến.

Qua cổ mẫu, bức tranh hiện thực được ẩn dấu dưới phát hiện khá thú vị. Biểu tượng cổ mẫu

Lửa cộng hưởng với biểu tượng Nước như sự đối lập, xoa dịu cho nỗi đau nhân vật. Bằng sự

diễn đạt tinh tế và khéo léo, ngôn ngữ Faulkner luôn đậm chất biểu tượng. Đó là một đặc

trưng trong văn phong của ông. Chiều sâu của tâm thức nhân vật không được Faulkner vẽ ra

thông qua biến cố và hành động cùng thời gian tuyến tính mà ẩn sâu bên trong, câu chuyện

tự nó kể với chúng ta bằng một giọng điệu rất riêng, như Faulkner từng tâm sự, “nhà văn thì

đơn giản đang kể cho bạn câu chuyện của trái tim con người trong xung đột với chính nó,

với những kẻ khác hoặc với hoàn cảnh bằng một cách thức thật sống động”[7, 647].

Tiếng nói đối thoại là chủ âm trong mọi văn bản của Faulkner. Những hội thoại được

nhà nghệ sĩ tạo lập rất tự nhiên. Nó như chính hơi thở của hiện thực. Bên trên lớp nghĩa do

ngữ cảnh đối thoại mang lại là một chiều kích khác của tồn tại. Những gam màu được ông

sử dụng trong tác phẩm và kết cấu âm nhạc đã bộc lộ một kĩ thuật vô cùng linh diệu mà có

lẽ chỉ Faulkner làm được. Sự giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật là nét độc đáo trong

cấu trúc tác phẩm của ông. Ẩn bên dưới sâu những kết cấu đó, một ý nghĩa phổ quát mang

tầm nhân loại mà có lẽ nhà nghệ sĩ cũng không được ý thức được. Những cổ mẫu hòa quện

trong cảm hứng tư tưởng đưa nhà văn vào hàng nghệ sĩ bậc thầy trong văn chương nhân

loại.

88

Lửa như là bản nguyên của vũ trụ. Đặc tính và chiều sâu suy nghiệm của Lửa gợi dẫn

một sự khám phá ý nghĩa ẩn sâu bên dưới nó. Tất cả đều cuồng nộ bởi âm thanh của cuộc

sống đang và đã đổ bóng xuống cuộc đời họ, làm nên trong họ bài ca vô nghĩa lí của cuộc

đời. Có một bản nguyên bên trong mỗi con người cho dù hắn là ai. Bản nguyên này có thể là

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tương sinh tương khắc trong văn hóa Trung Hoa, được khởi đi

từ triết học Lão, Trang, “Muốn cho tâm được chính , trước phải giữ ý cho thành. Muốn ý

được thành, phải biết cho tới nơi. Mà có xét rõ sự vật cái biết mới có thể tới nơi

được”(Trang Tử), hay là những yếu tố vật chất đã cấu thành nên thế giới như nước, lửa,

không khí, đất trong quan niệm của các nhà duy vật biện chứng cổ sơ Hi Lạp. Khát vọng

tìm hiểu bản chất con người được khai phá trước hết bởi những nhà triết học. Linh hồn của

con người đến và đi về đâu luôn là câu hỏi ám ảnh những nhà triết thuyết. Mỗi nhà văn

trong khát vọng đi tìm con người trong con người nên ở họ luôn hình bóng nhà tư tưởng. Và

thông điệp mà họ nói được ẩn dấu dưới những hình tượng và sẽ đạt đến tầm biểu tượng nếu

người nghệ sĩ thổi vào đó những cổ mẫu mang sự khái quát nhân loại. Nghĩa là hình tượng

nghệ thuật không chỉ gây sự xúc động mạnh liệt, giúp chúng ta nhận ra “con người này”

trong hàng vạn người mà nó còn đạt đến chiều sâu của bản chất nhân loại. Người tiếp nhận

trong từng vùng văn hóa khác nhau vẫn nhận ra những nét chung bên cạnh tính riêng độc

đáo của hình tượng.

Và theo chúng tôi, cái cung cấp cho hình tượng trở thành biểu tượng chính là những

cổ mẫu, Cái mà ta có thể thấy và hiểu nó trong bất kì những hình tượng văn học nào trên

thế giới. Điều đó giúp cho người tiếp nhận có thể hiểu những nhân vật từ các nền văn học,

văn hóa khác nhau trên thế giới, dẫu nó tồn tại qua không gian và bất chấp thời gian. Bởi

chúng mang trong mình những giá trị vĩnh hằng. Đó là ước muốn và khát vọng của những

nghệ sĩ văn chương chân chính. Faulkner làm được điều đó. Cổ mẫu Lửa của ông khiến

những hình tượng nhân vật trong văn bản này có một sức sống nội tại rất riêng. Ở họ, tính

cách của con người miền Nam nước Mỹ nói riêng và của người Mỹ hiện đại được hiện ra.

Nhưng nó không đơn giản và sơ lược mà được nhìn trong đôi mắt của một nghệ sĩ thấu hiểu

đến tận cùng con người và vùng đất quê hương. Sự quện se giữa tôn giáo và cuộc đời đã

khiến tiểu thuyết chứa những trang đời lấp lánh ánh sáng của tình yêu thánh kinh Cựu Ước

nhưng vẫn ngồn ngột hơi thở cuộc đời. Điệu chuông ngân vang trong tâm trí của mỗi nhân

vật. Tiếng chuông luôn gợi lên cảm giác yên bình, hòa giải song đề đối lập trong biểu tượng

Lửa căm hờn đang cháy trong sự bất hạnh trong cuộc đời nhân vật. Chính nó giúp người

89

tiếp nhận đi sâu hơn trong nội tâm của nhân vật, khám phá thêm được một mẩu sự sống

khác đang tồn tại bên trên ý thức của con người.

Với những biểu tượng vô thức, người nghệ sĩ đã cố cho độc giả thấy được những

biến ảnh của cuộc sống.Đồng thời sự phân vai đối thoại giúp cho, “tiếng nói của nhà văn

được cất lên trước khi cuộc hội thoại được bắt đầu”(Todorov). Tiếng vọng cuồng nộ dưới

những biến thể của Lửa lúc thì đớn đau, khi lại ấm áp, lấp lánh ánh sáng của tình yêu. Giúp

ta nghe tiếng gọi sâu thẳm như gió, lung linh như ánh nắng và êm ả như đồng cỏ, dữ dội như

Lửa đang tồn tại trong họ. Biểu tượng Lửa đã ánh xạ những tia sáng thiên tài trong việc giao

thoa giữa cổ mẫu văn hóa vào trong văn học. Với Lửa, hiện thực đau thương và bất hạnh

của mỗi nhân vật được nhìn ở bề sâu. Nó chạm đến vô thức tập thể của nhân loại. Do đó

biểu tượng này kết nối những khoảng mờ trong tâm thức nhân vật với hành động bên ngoài

của họ, khiến bản giao hưởng “Âm thanh và cuồng nộ” thêm phần sâu sắc. Nếu Lửa là một

cổ mẫu tồn tại như bản nguyên của vũ trụ gợi lên hai đặc tính biểu trưng là hủy diệt và ấm

áp thì Nước là cổ mẫu mang trong mình thuộc tính gột rửa nỗi đau bên cạnh biểu trưng hiến

sinh.

4.2. Nước - sự gột rửa nỗi đau

Nước, “ dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc của sự sống và là yếu tố tái

sinh thể xác và là biểu trưng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền

minh, tính khoan dung và đức hạnh”[10, 710]. Trong văn hóa nhân loại, biểu tượng này gợi

nhắc tới nạn đại hồng thủy trong kinh thánh Cựu Ước. Nước như một chất khởi thủy thông

điệp, làm thanh sạch tâm hồn con người. Cùng với Lửa đây là biểu tượng được dùng trong

các nghi lễ hiến tế. Âm thanh và cuồng nộ một tác phẩm mang đậm yếu tố tôn giáo. Biểu

tượng Nước có một kí mã chung với những dấu ấn văn hóa mà nó gợi lên trong tâm thức

cộng đồng. Đồng thời nó chuyển tải những ý thức thẩm mỹ riêng của Faulkner trong chủ đề

của văn bản.

Nước tái hiện bức tranh sinh hoạt chơi đùa của anh em nhà Compson ở dòng suối từ

thuở ấu thơ. Những hồn nhiên và ngây thơ của họ được miêu tả. Trên đó nhà văn dự báo khi

để cho Benjy nhìn thấy bùn trên cơ thể của người chị gái Caddy. Bùn cũng là một biểu

tượng văn hóa. Nó là chất lỏng có mùi hôi, bùn gợi lên dục tính của con người. Chính điều

đó báo hiệu những mất mát tổn thương trong đời sống dục tính về sau ở cô. Cổ mẫu Nước

với những biến thể là Bùn và Mưa đã hắt chiếc bóng của nó xuống cơ thể Caddy, gợi lên sự

90

“cuồng nộ”: “gương mặt em nằm trong nước đầu gối lên doi cát nước chảy gương mặt em

nằm trong nước váy em ướt sũng một nửa bập bềnh bên sườn em theo dòng nước trong

những con sóng nặng nề chẳng đổ về đâu tự phục hồi những chuyển động của mình” [18,

215]. Khi nàng bị mất trinh, Benjy không ngửi thấy mùi Mưa và mùi Cây trên mình Caddy.

Nước giúp nàng gột rửa nó, để hắn lại thấy Caddy như ngày xưa. Ông Jason suốt ngày ngập

tràn trong rượu-một biến thể của Nước, và chết trong nó. Queetin tìm đến Nước để tự vẫn

đó là hành động muốn chuộc lại những tỗi lỗi mà em gái đã phải gánh chịu. Jason luôn bị

ám ảnh và khó chịu bởi mùi xăng, đó là dạng thức của Nước. Nó gợi hắn nhớ lại sự đau

thương của gia đình. Những thanh âm của tiếng nước róc rách chảy trong tâm hồn của mỗi

nhân vật đã len vào cảm nhận của Jason về sự lụi tàn của đời sống. Nước luôn mang những

đặc tính của một chất lỏng đặc biệt, nó có thể đóng băng, có thể bay hơi, như sự hư ảo và

băng giá của tâm hồn mỗi cá nhân của gia đình Compson. Đồng thời cổ mẫu Nước đưa lại

trong Quentin những cảm nhận cuộc sống : “Nước trong vắt và phẳng lặng trong bóng râm,

rì rầm róc rách quanh những viên đá thành những mảnh trời xoáy tròn tan dần”[18, 169],

Nước soi cho cổ mẫu Bóng: “Tôi không nhìn thấy đáy, nhưng tôi thấy những chuyển động

của lớp nước sâu, trước khi mắt tôi hoa lên, rồi tôi thấy một cái bóng như một mũi tên ngắn

cũn cắm vào dòng chảy”[18, 170]. Đó là sự ám gợi cái chết. Đi vào Nước là hành trình tìm

lại bản thể của cuộc đời. Không gian nước, gợi lên sự thanh sạch, nó không chứa những dục

vọng và tà niệm. Biểu trưng Nước gợi sự nhấn chìm và trở lại thiêng đàng. Ở đó không có

tội lỗi và bất hạnh, chỉ có sự giải thoát mọi đớn đau trần thế mà con người gặp phải trong

đời sống hiện hữu.

Thông qua cổ mẫu Lửa và cổ mẫu Nước, chúng tôi thấy dấu ấn của nghi lễ hiến sinh

trong văn bản này.

Trước hết, cách đặt tên của nhà văn cho các nhân vật của mình, có ba sự trùng lặp tên

gọi trong truyện. Đó là tên của ông Jason Compson được đặt lại cho con trai Jason, tên

Quentin Compson được đặt lại cho con gái của Caddy là Quentin người gọi Quentin

Compson là cậu, Benjy Compson lúc đầu mang tên của người cậy mình là Maury Bascomd.

Nó đã cho thấy dụng ý của nhà văn. Mỗi thế hệ sau dường như lại có những tính cách của

thế hệ trước. Benjy vô dụng như cậu. Quentin cháu là sự ương bướng và nổi loạn của

Quentin cậu. Jason có những tính hư vô và bất cần đời như cha,…Tên gọi đó gắn mật thiết

với biểu tượng Lửa khi họ cảm nhận về tên của mình trong sự đối sánh với những người

thân. Để từ đó những ám ảnh cuồng nộ hiện lên trong mắt họ.Việc đổi tên của Benjy như

91

một nghi lễ hiến tế. Nó khơi dậy trong gia đình hắn một khát vọng hiến sinh để đạt tới một

giao ước với Chúa. Cách thức tự sát của Quentin cũng là một nghi lễ. Anh hiến tế mình bởi

những tội lỗi của em gái đã phạm phải. Tìm đến với nước, Quentin đã bỏ qua tất cả những

giáo lí Kito, chết trong nước. Quentin sống trong ảm giác của một ngày cuối cùng đầy biến

cố. Hiến sinh là một nghi lễ đã tồn tại rất lâu đời trong tâm thức nhân loại, “một chuỗi cử

chỉ để đáp ứng những nhu cầu chủ yếu; những cử chỉ đó phải được thực hiện theo một

chuẩn mực hài hòa nào đó”[8, 119] .Chúng tôi thấy một ngày trôi với hành động đập nát

chiếc đồng hồ, ước vọng làm ngưng kết thời gian. Hắn nhờ đến Nước để rửa đi vết thương

trên thân xác. Rồi những đối thoại với người cha được vang trong Quentin, đó là thanh âm

của ý niệm muốn trốn chạy khỏi cuộc sống trần thế. Ngữ cảnh về con cá và ba chàng trai mà

Quentin gặp khi dạo bước trên sông: Con cá vàng dưới dòng nước xiết như một thông điệp

cho sự kiếm tìm vô vọng một hiện thực không thể tồn tại đó là khát vọng chiếm hữu Caddy

cho riêng mình. Ba chàng trai là các anh em nhà Compson thời thơ bé. Đặc biệt là sự kiện

chàng gặp cô bé đi lạc người Ý và bị buộc tội hiếp dâm cô gái này. Từng sự việc trôi qua

trong tâm trí Quentin đều gợi về bóng dáng của Caddy với những tội lỗi nàng đã phạm phải.

Tất cả chúng làm nên ước muốn trầm mình xuống dòng sông của hắn, một cách thức hiến tế

mình để chuộc tội cho em gái: “Tôi nhìn xuống và thấy những lóng xương thì thầm của tôi

và nước thẳm sâu như gió, như một mái nhà của gió và rất lâu sau này người ta không còn

phân biệt nổi những lóng xương trên nền cát hoang vu cô quạnh”[18, 122]. Dấu hiệu nghi lễ

được thể hiện rõ nét ở phần bốn của câu chuyện. Cảnh Dilsey đưa Benjy đến nhà thờ của

người da đen, một nghi thức nguyện cầu và thuyết pháp đã được nhà văn miêu tả. Benjy,

đứa trẻ bất hạnh đã được cứu rỗi trong vòng tay Thiên Chúa. Dưới ánh sáng ấm áp của đức

tin tôn giáo dường như Dilsey nhận ra được những bất hạnh của nhà Compson. Bà thấy

được cái mở đầu và sự kết thúc của dòng họ này.

Biểu tượng Nước xuất hiện nhiều nhất trong tâm thức của Benjy và Queetin, nó ít

thấy ở Jason và những nhân vật.Vì Benjy và Queetin mù quáng và điên loạn trong tình yêu

đã không thể nào đủ lí trí để nhận biết hiện thực. Họ cảm nhận nỗi đau dưới đôi mắt tượng

trưng. Những hình ảnh đến với họ luôn ở dạng nguyên sơ nhất, trinh nguyên nhất. Cho nên

cổ mẫu Nước được tái hiện trong tâm thức họ với mật độ lớn. Còn Jason và những thành

viên còn lại, mặc dù họ có sự cuồng nộ, nhưng bên trong họ vẫn còn đủ lí trí và tỉnh táo. Do

đó biểu tượng Nước chỉ có thể xuất hiện thông qua giấc mơ và những hồi ức của các nhân

vật khác trong tương quan với họ. Nhưng cho dù xuất hiện dưới dạng thức nào và mật độ ra

92

sao, cổ mẫu Nước luôn mang đến nhiều ám gợi, “những dòng nước trong, những dòng nước

mùa xuân, những dòng nước chảy, những dòng nước đa tình, những dòng nước sâu, nước

đọng, nước chết, nước pha tạp, nước định kiến, nước dữ dội, nước làm chủ ngôn ngữ là

nguồn cội khoái lạc của biểu tượng lấp lánh ánh sáng mơ màng”(G. Bachelard). Trước khi

tìm về cái chết trong nước, Quentin cảm nhận chiếc lá rơi vào trong nó, những chiếc thuyền

lấp loáng trên dòng nước. Nước trong dòng suối nơi họ chơi đùa, nước chảy dưới chân cầu

khi anh gặp người tình của Caddy, nước tù hãm giam cầm bóng anh trong nó, “nước dịch

chuyển làm mọi vật bình đẳng. Bóng của một kẻ chết đuối lúc nào cũng rình rập họ ở dưới

nước. Nó long lanh và lấp loáng, như đang thở, bến thuyền dập dềnh chậm dãi như cũng

đang thở, và những mảnh ván nhấp nhô, cuốn nhau ra biển cả và những hang động của

nước”[18, 135]. Những cảm nhận khác nhau khi đối diện với cổ mẫu này khơi dậy trong

hắn những nỗi đau xảy ra. Ở đó Nước hiện diện và đi cùng với nó là mặc cảm thương đau

khi không thể vượt thoát được hiện thực đau thương là caddy, “Rồi nước mưa đọng lại đọng

lại trên cái lưng ngồi xổm bùn nhầy nhựa bốc lên trên bề mặt mưa lấm tấm trên mặt nước tí

tách như mỡ nổ trên bếp nóng”[18, 200], người hắn yêu thương nhất đã đi lấy chồng. Nỗi

đau ấy khiến Quentin nghĩ về một loài hoa đặc trưng của miền Nam, hoa Kim Ngân. Hương

thơm của nó khiến hắn gợi nhớ về Caddy. Mùi của nó ám ảnh hắn, biểu trưng cho trinh tiết

của phụ nữ. Hoa kim Ngân hòa vào trong mưa- biến thể khác của nước, tạo cho Quentin

một ám ảnh không bao giờ quên được, “mặt em ngước nhìn trời trời thấp quá đến nỗi như

mọi mùi vị và thanh âm của đêm bị cô đặc lại dưới mái lều chung nhất là mùi hoa kin ngân

ngấm vào hơi thở của tôi phảng phất trên mặt và cổ em như một lớp sơn máu em đập dưới

tay tôi tôi chống người lên cánh tay kia nó bắt đầu giật và co rút lại tôi phải thở hổn hển để

hít lấy chút không khí bên ngoài mùi hoa kim ngân xám đặc quánh kia”[18, 220]. Mùi mưa

cũng khơi dậy trong hắn những kỉ niệm êm đềm của tuổi trẻ, “và những ngày mưa khi mẹ

không cảm thấy yếu đến nỗi phải ngồi tránh cửa sổ chúng tôi thường chơi dưới gốc cây

đậu. Khi mẹ nằm liệt, Dilsey thường lấy quần áo cũ cho chúng tôi mặc và cho chúng tôi ra

nghịch mưa vì bà bảo mưa không có hại cho trẻ con bao giờ” [18, 246]. Cổ mẫu Nước với

những biến thể của mình, tạo cho văn bản chiều sâu nhận thức. Đi vào những hình ảnh đầy

ám gợi của tâm linh, văn hóa nhân loại được hiện ra trong cái nhìn của Faulkner đầy hình

ảnh nên thơ và đậm chất trữ tình. Không gian nước tượng trưng cho nghi lễ hiến sinh. Nó

gợi lên sự thẳm sâu và mênh mông của vũ trụ trong đó bóng dáng con người nhỏ bé lạc loài

trong cõi phù sinh. Nước là khởi nguyên của sự sống. Các nền văn hóa lớn luôn nằm bên

93

cạnh các con sông lớn. Từ trong tâm thức nhân loại, cổ mẫu Nước vô cùng linh thiêng. Sự

bí ẩn và những đặc tính của nó là đề tài trong những câu chuyện thần thoại và cổ tích về sự

hủy diệt và tái sinh của con người trong nước. Phương Đông với motip lụt trong các truyện

về sự tích Quả bầu Mẹ. Phương Tây đó là nạn đại hồng thủy. Do đó biểu tượng tâm linh này

được Faulkner nói về sự tái sinh trong sự lụi tàn không chỉ của gia đình Compson hay cộng

đồng miền Nam mà nó còn biểu trưng cho tất cả những gia đình trên toàn nhân loại. Sức

chứa và sức mở của Nước là vô tận. Do đó Âm thanh và cuồng nộ chứa đựng dấu ấn của

tư duy huyền thoại ở Faulkner. Nó biểu đạt một sự khái quát cao độ với biểu tượng Nước,

có thể thấy được chiều sâu tư tưởng trong từng hình tượng nhân vật được Faulkner tạo

dựng.

Đi vào khám phá cổ mẫu Nước là đi vào một hành trình tìm lại bản thể của nhân vật,

nhằm nhận ra “bản lai diện mục” của người nghệ sĩ Faulkner với tình yêu và sự say mê ông

dành cho mảnh đất và con người miền Nam. Từng hạt giống được gieo bởi những thanh âm

cuồng nộ được tưới mát bởi cổ mẫu Nước. Nó thổi hồn vào từng nỗi đau và xoa dịu những

bất hạnh mà họ phải gánh chịu. Một sự sáng tạo bậc thầy của Faulkner trong việc đồng hóa

những biểu tượng văn hóa vào trong văn học, giúp nó có một vóc dáng và hình hài khác

hẳn, lay động và thổn thức người tiếp nhận. Sự diễn đạt đến trạng thái tế vi những biến thái

trong tâm hồn nhân vật là nét đặc thù chỉ mà không phải người nghệ sĩ nào cũng làm được.

Với Faulkner, đường biên phân giới của văn học và những loại hình nghệ thuật khác

như âm nhạc và hội họa là khó mà phân định, cũng như dấu vết của nó với văn hóa- một

thành tố của ý thức xã hội loài người, không có sự phân biệt rạch ròi. Những giá trị nhân

văn do cổ mẫu Nước mang lại đã đem đến cho người đọc những xúc cảm sâu sắc khi chứng

kiến nỗi bất hạnh của Benjy với sự đổi thay của người chị được anh cảm nhận như mùi của

Mưa, của Queetin khi anh phải trầm mình tự vẫn trong làn nước, thương Caddy với những

bi kịch mà cô phải chịu và Nước gột rửa tâm hồn họ.

Mỗi cổ mẫu không chỉ chứa đựng hình ảnh của tâm thức nhân loại mà còn mang

những âm thanh riêng. Tiếng nước róc rách chảy qua tâm hồn mỗi nhân vật làm nên biết

bao sự xao động trong tâm trí họ, có lúc êm đềm thơ mộng khi dữ dội khi thì bi phẫn. Đồng

thời cổ mẫu Nước cộng hưởng với những cổ mẫu và biểu tượng khác góp phần tạo nên

trong văn bản một sự hòa âm rất riêng mà chỉ Faulkner mới làm được. Hơi thở của cuộc

sống không chỉ được cảm nhận qua giọng điệu, ngôi kể và các biến thái cuả lời nói mà ngay

cả những cổ mẫu cũng chứa đựng những nhịp điệu đó, và cổ mẫu Hoa là một minh chứng.

94

4.3. Hoa - nhịp thở lụi tàn

Âm thanh và cuồng nộ như một bản Fuga của nhiều bè giọng, trong đó mỗi giọng

lại có nhiều bè đệm riêng. Chúng tương tác với nhau. Nó tạo nên trong văn bản những

khoảng trắng cần được cần được lấp đầy bởi người đọc. Cổ mẫu là một trong những phương

thức mà nhà nghệ sĩ cất giấu những thanh âm vô hình.

Đi liền với sáng tạo ngôn ngữ, loài người tạo làm ra nghệ thuật. Văn chương đã lưu giữ kí

ức thẩm mỹ của nhân loại qua thời gian. Cùng kí ức thể loại, biểu tượng nghệ thuật làm văn

bản nghệ thuật sống lâu hơn người tạo ra chúng. Những hình tượng văn học được người

nghệ sĩ sáng tạo sẽ trở thành tài sản cho cả một cộng đồng mang tên nhân loại nếu nó chứa

đựng trong mình hạt nhân quan trọng nhất là cổ mẫu. Do đó phê bình cổ mẫu phải thấy

chiều sâu vô thức của nó: “Vô thức của văn bản là một tấm nhiễu mà người phân tích cho

thấy nó lóng lánh nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ của việc đọc. phân tích văn bản là

một công việc không bao giờ xong” [48, 196]. Người nghiên cứu phải nhận diện được

những dấu ấn của hình tượng đã được cổ mẫu phản ánh như thế nào và nó đạt được những

xúc cảm nghệ thuật gì trong văn bản.

Hoa biểu trưng cho vẻ đẹp, với hương thơm và màu sắc của mình, nó được Faulkner

xây dựng thành một biểu tượng thẩm mỹ độc đáo trong Âm thanh và cuồng nộ. Bốn loài

hoa được nhà văn nói đến là hoa Cà, hoa Thủy Tiên, hoa Lê và hoa Kim Ngân. Nếu ba loại

hoa trước chủ yếu được cảm nhận bởi Benjy thì hoa Kim Ngân lại trực tiếp gắn bó mật thiết

với Queetin. Từ biểu tượng Hoa, chúng tôi muốn tìm hiểu xem cổ mẫu này đã góp những

thanh âm gì vào tiếng nói đối thoại đầy đau đớn trong tâm hồn nhân vật.

Benjy trong nỗi đau hư thực khi Caddy và những người thân lìa bỏ mình, hắn được

Luster đưa những cây hoa cho xem và chơi đùa với chúng. Mới đầu là cây hoa Cà, nó xuất

hiện rồi biến mất trong cái nhìn của Benjy. Một biểu trưng cho cái đẹp đã phôi phai. Bên

cạnh những thanh âm hiện hữu, chúng tôi nghe ra được hơi thở cuộc sống được phổ vào

trong những hình ảnh. Chúng hiện hữu và có thể cảm nhận được như nhịp điệu của vũ trụ,

một vũ trụ đang lụi tàn. Một kết cấu vòng tròn được tạo ra trong văn bản. Hiện thực đau

thương dần hé mở, từng mảnh ghép của biểu tượng được nhìn ngắm dưới ánh sáng cổ mẫu

khiến câu chuyện hiện lên đầy nhịp điệu. Bên trong đặc tính riêng của biểu tượng Hoa luôn

chứa đựng những thanh âm cuồng nộ, nó là điệu ru nước mắt của những tâm hồn bất hạnh

đang tấu lên những điệu buồn ai oán.

95

Biểu tượng Hoa hiện lên trong đôi mắt thơ trẻ của Benjy thật đẹp và buồn. Nó là sự

lụi tàn của một cái đẹp đã ở trong thời quá vãng, nhịp thở của Benjy khi ngắm những cánh

hoa mỏng manh ấy, có chút gì đó vừa tiếc thương đau xót, vừa hân hoan vui sướng. Những

cung bậc cảm xúc do biểu tượng Hoa gợi trong Benjy rất tinh tế, hắn không bao giờ cảm

nhận được cuộc sống một cách trọn vẹn, chỉ có hình ảnh và mùi vị, cảm giác và sự liên

tượng. Do đó những lần tiếp xúc với mỗi loại hoa, Benjy lại có những liên tưởng bất định về

những sự việc đã xảy đến trong quá khứ. Nó là sự dự báo cho những cái kết bất hạnh cho

thời gian sau này.

Cổ mẫu Hoa gợi lên cái đẹp lụi tàn trong cuộc đời nhân vật. Những biến điệu của nó

tạo nên những cung bậc cảm xúc khác nhau cho các nhân vật khi cảm nhận chúng. Nó là sự

mất mát, là tiếng nói bất hạnh vì sự tàn rữa của những cánh hoa và ngữ cảnh nơi biểu tượng

này xuất hiện, nó gắn với nghĩa trang, với sự tuyệt vọng. Benjy theo mẹ đến nghĩa trang và

Queetin nhớ về em gái với mùi hoa Kim Ngân.

Mùi hương của hoa Kim Ngân gợi lên sự bất hạnh và tuyệt vọng, một Queetin đang

chết trong tâm hồn vì sự mất trinh của em gái. Quentin liên tưởng trinh tiết của Caddy với

mùi hương của nó, là một sự liên tưởng đầy hình ảnh ám gợi đau thương và thật đẹp. Mùi

hương của Kim Ngân thổi vào trong tâm thức Queetin, làm thành hình ảnh cuồng nộ trước

mất mát của em mình. Nó thấm trong lồng ngực hắn, bay vào tâm trí hắn, gọi dậy một hiện

thực đau thương là sự ghen tuông của hắn với những người tình của nàng. Đó thật sự là kí

ức buồn thảm và tuyệt vọng nhất của nhân vật này. Hắn như kẻ chết đuối và thật sự đã chết

đuối trong ái tình với em gái. Mùi hoa còn khiến hơi thở của nhân vật này như gấp gáp, hối

hả trong hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống. Faulkner luôn dựng lên những sự kiện rời rạc,

mới nhìn thật khó tìm ra được sự tương liên của chúng. Có một kết cấu bề sâu nơi từng biểu

tượng xuất hiện, từng cổ mẫu được đưa vào từng nhân vật, nó giải mã những bí ẩn nằm sâu

bên trong vô thức của nhân vật. Hoa Kim Ngân gắn bó với Queetin vì cái đẹp và mùi hương

đặc trưng của nó. Nó hòa với cổ mẫu nước, gọi dậy trong nhân vật những nỗi buồn thảm

đến vô tận. Hành trình đi tìm ý nghĩa sự sống của nhân vật được hiện với từng giai đoạn của

cuộc đời sẽ lí giải được nỗi đau và phần nào bất hạnh mà mỗi nhân vật phải gánh chịu. Vũ

trụ luôn vận động theo nhịp của nó, sự tuần hoàn của thời gian sáng tối của trái đất, thở ra

và hít vào của con người và động vật thì những cánh hoa đó là sự nở và tàn của chúng.

Trong tất cả gia đình Compson, Caddy như “một bông hoa mọc giữa đám rêu”, bởi ánh

96

sáng của cánh hoa, mùi vị và hương sắc của nàng góp phần tô điểm thêm cái đẹp trong

cuộc đời.

Cổ mẫu Hoa đã giúp nhà văn khái quát được những chân lí sâu sắc về con người và

cuộc sống, cái đẹp và sự phai tàn, tình yêu và hành trình cứu rỗi linh hồi, âm thanh và cuồng

nộ trong đời sống của mỗi con người,…Chính sức khái quát đó giúpthông điệp của người

nghệ sĩ đến gần hơn với cuộc đời. Đó không phải những trang giáo huấn mà là tiếng gọi

nhân văn cất lên từ trái tim yêu thương con người của ông. Cảm xúc thẩm mĩ được che giấu

dưới điệu tình bi kịch nhờ vào những cổ mẫu rọi sáng, âm và hình do nó gợi ra lay động

cảm xúc người đọc, và mở rộng trường liên tưởng cho họ. Có thể nói, với những đặc tính

thẩm mỹ của mình, Hoa là cổ mẫu đã cho thấy ánh sáng của tình yêu và sự lụi tàn của bóng

tối, bất hạnh đã xảy ra với từng người trong gia đình Compson. Dưới biểu tượng Hoa, hình

ảnh về mảnh đất miền Nam nước Mỹ được hiện lên sinh động với những cánh hoa Kim

Ngân đặc trưng đã gọi dậy được hương vị của tình yêu mãnh liệt, say đắm.

Với cổ mẫu Hoa, ta nghe ra được cuộc hòa âm con người và tạo vật. Chúng tạo nên

một bức tranh với hai gam màu chủ đạo là âm thanh và hình ảnh. Nhưng lại chứa đựng

những nội dung vô cùng tận, làm nên bút pháp đặc trưng cho phong cách Faulkner và chủ

nghĩa hiện đại trong văn học của thế kỉ XX.

4.4. Bóng - những ảnh hình của cái chết

Cổ mẫu bóng như một hình ảnh tâm linh gắn bó với con người từ thuở sơ khai. Trong

tâm thức của nhân loại, cổ mẫu này luôn gắn chặt với hình. Bóng gợi lên một thực thể

không thể nào nắm bắt, nó linh động, vô hình và ám gợi cái chết. Đi vào bóng, mỗi người

nghệ sĩ lại có những cách thức khai thác cổ mẫu này .

Với Faulkner, chiếc bóng xuất hiện trong Âm thanh và cuồng nộ luôn đi kèm với

một không gian tối và sự bất an trong tâm hồn nhân vật. Khi Bóng xuất hiện, nó gợi lên cái

chết. Bắt đầu là hình ảnh cái chết của bà nội được gia đình Compson giấu kín và lũ trẻ

không được biết về nó. Nhưng Benjy với giác quan của một con thú, hắn đã ngửi thấy cái

chết với âm thanh của những tiếng hú của các con vật và tiếng kêu đưa ma của lũ Quạ. Trên

nền ấy, chiếc Bóng tâm thức dật dờ xuất hiện. Nó biểu trưng cho nỗi bất hạnh đó là sự suy

tàn của một gia đình. Benjy nghe ra nó nhưng lại không có khả năng giao tiếp với cuộc đời

nên hắn chỉ biết hồi đáp với tiếng khóc và tiếng rên rĩ vô nghĩa lí.

Một hiện thực bên trong gia đình Compson được mở đầu với cái chết. Nhưng sự

kiện thời gian được nhảy cóc về tương lai của năm 1928, trong khi cái chết của bà nội Benjy

97

là vào năm 1989, Benjy nhìn thấy chiếc bóng của con vật rồi những hình bóng của cha,

anh,.. những biến thể của bóng dật dờ trong mắt hắn. Cái chết đã phóng chiếu kinh nghiệm

quan sát về hiện tượng mất bóng trong bóng tối, dưới ánh sáng của ánh trăng. Benjy cảm

thấy được sự hiện hữu của bản thể Bóng, “kinh nghiệm cái bóng là một trong những kinh

nghiệm sớm nhất của loài người khi bản thân họ là thiên nhiên, là tự nhiên, là vũ trụ”[10,

145]. Con người luôn có xu hướng phóng chiếu lên mình những trải nghiệm của bản thân,

nó giúp họ nhận ra được bản ngã của chính mình. Và cũng như những cổ mẫu trên, cổ mẫu

cái Bóng: “Sống nơi tầng sâu vô thức tập thể, có lúc được đẩy lên tầng ý thức (nhưng gốc

rễ vẫn là nơi vô thức tập thể) để chuyển tải cái vô thức cá nhân trong thế nối kết với vô thức

tập thể khi đi vào văn chương và các ngành nghệ thuật thuật khác, vì thế nó có những biến

hóa khôn lường”[10,146]. Chính những biến thái tinh vi của nó khi đi vào văn học hiện đại;

bi kịch đánh mất chiếc bóng của mình gợi lên trong nhân vật chiều sâu của bản ngã. Cái tôi

hiện hữu cảm nhận được bản thân thông qua ý nghĩa của sự sống và cái chết.

Chiếc Bóng gắn chặt với kinh nghiệm hiện hữu, khi một người mất bóng, anh ta rơi

vào bi kịch của sự đánh mất chính mình, và cái chết về thể xác và tâm hồn được gợi ra ở

chủ thể. Benjy cảm nhận được bi kịch ấy khi “ngửi” được những chiếc bóng của người thân

đang chuyển dịch dưới đôi mắt trẻ thơ của hắn. Cái Bóng thiên nhiên với hình ảnh của ánh

nắng gợi lên “những hình thể sáng ngời” được nhà văn miêu tả để chỉ ra được bi kịch đánh

mất Bóng của chính Benjy. Từ lúc đánh mất tên gọi Maury, cái bóng cũng đã bị mất với

Benjy, trong hắn chỉ có sự tồn tại của hình mà không còn Bóng. Khi con người đánh mất tên

gọi, anh ta đồng thời đánh mất bản ngã của chính mình, sự tồn tại của một cá nhân bị cắt đứt

khỏi gia đình và cộng đồng. Benjy chỉ còn biết đối thoại với chính bản thân mình, chiếc

bóng bên trong anh ta phản ánh sự đánh mất đời sống cộng đồng trong gia đình Compson.

Và Benjy có khả năng nghe ra được nỗi bất hạnh và bi kịch trong gia đình mình. Sự

cuồng nộ của anh khi nhìn thấy những chiếc bóng mình yêu thương lần lượt bị mất, ánh

sáng chìm lấp và thay vào đó bóng tối vây phủ một màu tang trong họ.

Đi vào trong gương, Bóng gợi những ảnh hình mà ở đó những kỉ niệm thân thương

và tươi đẹp về Caddy sống lại trong Benjy, “tôi không nhìn thấy nó nhưng tay tôi thấy nó,

và tôi nghe được đêm xuống, và tay tôi thấy được chiếc dép nhưng chính tôi không thấy, và

tay tôi thấy được chiếc dép, và tôi ngồi xổm ở đó, nghe trời đổ tối”[18, 67].Tràn ngập trong

ngôi nhà của Benjy là một không gian phủ đầy bóng tối. Nên Benjy luôn yêu thích ánh sáng,

nó gợi lên sự ấm áp và hoa, lửa là những thứ có khả năng phát ra ánh sáng ấm áp thì đều

98

cuốn hút hắn và sưởi ấm Benjy. Ánh sáng đối lập với bóng tối, sự sống đối lập với cái chết,

tái sinh bên trên hiện thực điêu tàn.

Mỗi cổ mẫu luôn chứa đựng bên trong nó hai cặp đôi đối ngẫu, mâu thuẫn trong

thống nhất, chính những cặp đôi đó đã tạo nên lực hút cuốn tư duy con người với biểu tượng

tạo nên sự tranh đấu mãnh liệt bên trong tâm hồn con người. Bóng với Hình, Nước với Lửa,

Hoa với Bùn,… Những cổ mẫu đối lập tạo nên trạng thái phân lập cảm xúc cho nhân vật.

Đồng thời mỗi cổ mẫu luôn gợi lên hơn một tầng ý nghĩa, những biến thái đó khiến thực thể

tâm hồn trở nên khó nắm bắt và hiện thực hiện lên với tất cả tính phức tạp và sống động của

nó.

Chiếc Bóng chuyển di trong cái nhìn của Benjy không chỉ giản đơn với sự chết mà

ảnh hình của Bóng còn gợi nhắc sự tồn tại của con người. Mỗi lần Bóng xuất hiện, có một

không gian tối tràn ngôi nhà Compson, những mảnh thời gian được ghép nối trong từng

mẫu kí ức vụn vỡ trong tâm thức của Benjy. Chiếc Bóng đi về giữa hai miền sáng tối trong

tiềm thức và ý thức, khiến lằn ranh khu biệt hiện thực và ảo giác trở nên mập mờ, chỉ còn lại

âm thanh và hình ảnh nổi bật lên. Tiếng khóc dội vào Benjy vì hắn không cảm nhận được sự

ấm áp của tình yêu thương, và nó gắn chặt với cổ mẫu Bóng. Chiếc Bóng hiện lên với

Quentin bắt đầu là bóng khung cửa kính, từ khung cửa ấy, Quentin nghe ra nhịp đập vô

nghĩa của thời gian. Từ đó chiếc Bóng đã gắn chặt với hình trong hành trình tìm về cái chết

của Quentin. Chàng cố tình tránh mặt nó, nhưng Bóng vẫn đuổi theo chàng, đó là tâm thế

của một kẻ sắp từ giã cuộc đời nhưng vẫn sợ hãi cái chết. Những tiếng vọng đau thương của

Quentin được chuyển tải với cổ mẫu Bóng in hình trên dòng nước. Bóng trôi cùng anh trong

một ngày định mệnh, dắt anh tìm lại những kí ức bị mất đi; tuổi thơ và sự kiện xảy đến với

gia đình. Bên trong dòng trôi của tâm trạng bất định ấy là một khát vọng hiến sinh mạnh

mẽ. Ở đó Quentin tìm lại được bản ngã bị đánh mất của mình.

Có thể nói nghệ thuật trình diễn Bóng, dùng bóng tối trên phông nền sáng tạo nên

những hình ảnh sinh động đã có từ rất lâu trong đời sống sinh hoạt của con người. Khi ánh

sáng truyền đến, những con rối hiện lên sinh động. Nó như sự phản ánh cuộc đời của các

nhân vật trong gia đình Compson. Họ tựa bóng những con rối bị cuộc đời giật dây, đang

lang thang đi về miền vô định và cất lên những thanh âm ai oán cho cuộc đời bất hạnh

của mình. Ánh sáng hiện lên trên vùng tối, soi những mảng tối xuống vô thức của nhân vật.

Với những cổ mẫu, dấu ấn sáng tạo của nhà văn trở nên đậm nét. Ông nối kết chúng lại

99

cùng nhau dưới ánh sáng của một ngọn đuốc thiên tài, nó leo lét cháy trong đêm trường dạ

của một miền Nam đầy tang thương sau nội chiến.

Cổ mẫu Bóng đi giữa hai miền sáng tối. Không gian đó tạo nên một khoảng không

để nhân vật cuồng nộ với chính mình và với những người khác. Đời sống chảy trôi trong 33

năm được dồn nén trong 3 ngày. Nó biểu trưng cho hành trình của đời sống gia đình nhân

loại, những đau thương và bất hạnh, tiếng nói về tình yêu và đức hi sinh,…. Gia đình

Compson với một truyền thống vẻ vang trong quá khứ thoáng chốc lụi tàn bởi thời cuộc. Đó

cũng là sự trôi của tạo hóa, những chiếc bóng trong họ ánh xạ những xót thương trong trái

tim Faulkner, con người luôn yêu và xem mảnh đất miền Nam như máu thịt đời mình. Bài

ca Âm thanh và cuồng nộ được tấu lên trong chính khúc nhạc lòng của người nghệ sĩ vĩ đại

này.

Chiếc bóng cuộc đời đã đổ xuống từng trang văn đầy xúc động của ông, ta nghe ra

được cái chết đang gặm nhắm từng thành viên trong nhà Compson, và tuyệt vọng trong tình

yêu của Quentin cũng đẹp như một bông hoa. Với bóng, anh ta thấy mình hiện hữu một

cách thật vô nghĩa lí. Có một Queetin vô thần nhưng luôn tin ở Chúa. Bởi đời sống trong đôi

mắt anh đã lụi tàn khi Caddy lấy chồng, hành trình tìm về cái chết của Quentin là một cuộc

chạy trốn chính mình. Tiếng nói đối thoại với cha, mẹ, em gái và tự vấn bản thân anh chính

là sự trốn chạy khỏi chiếc bóng cuộc sống đang ám ảnh hắn. Quentin cật vấn với cha về thời

gian, sự tồn tại trong cuộc đời với những đức tin, với mẹ về tình yêu thương trong mái nhà

thiếu vắng ánh sáng tình mẫu tử, và với em. Quentin tranh đấu với những người tình của

Caddy và với chính nàng. Người đọc phải xâm nhập thật sâu vào cái giây phút nhân vật này

nghĩ về cái chết, phát hiện trong tiềm thức của hắn những hạt giống hắn gieo vào ý nghĩ

trước khi tìm đến cái chết. Ông chọn cổ mẫu Bóng để nó song hành cùng Quentin trong

nghi lễ hiến tế thân mình trong dòng nước nhằm cứu rỗi cuộc đời tội lỗi của Caddy.

Dưới ngòi bút của Faulkner, ánh sáng cũng như nước, nó là cổ mẫu giúp nhân vật gột

rửa vết thương lòng. Có một chiếc bóng cuộc đời luôn đi theo với cái bóng chết của

Quentin, nhưng nó không thắng được những ưu tư và sự tuyệt vọng trong anh, cái chết đến

như một tất định.

Dòng diễn ngôn về Quentin thấm đẫm dấu ấn của dòng ý thức, nhân vật này trôi bất

định trong sự đối thoại vô tận với cuộc đời. Chiếc bóng cũng gắn chặt với cổ mẩu Trăng, có

một vầng trăng soi sáng cho sự chuyển di của các nhân vật. Trăng gợi chất thơ của đời sống,

nhưng ánh sáng của nó trong cảm nhận của Faulkner chứa đựng một nghĩa khác. Trong tiểu

100

thuyết này, trăng luôn xuất hiện khi nó chuyển tải những bóng chết đang đổ xuống ngôi nhà

Compson. Ở đó sự bí ẩn của đời sống được hé lộ, chính nghệ thuật tương giao là cánh cửa

đã mở ra những mê lộ trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Nhà văn đã xếp chồng những âm

thanh, màu sắc và ánh sáng tương hợp cùng nhau nhằm tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ đó là

sự gây hấn của những tâm hồn với chính bản thân nó.

Nghệ thuật tương giao được bắt nguồn với trường phái tượng trưng pháp mà người

khởi đầu là Baudelaire. Với tập thơ “Hoa của nỗi đau” nhân loại đã thấy một phương thức

tư duy mới về hiện thực của nghệ sĩ. Baudelaire đã vận dụng tất cả các giác quan vào cảm

nhận hiện thực để chúng tương giao và hô ứng với nhau khiến cho hiện thực đời sống được

cảm nhận ở chiều sâu bên trong của nó. Chính các nhà văn hiện đại sau ông đã học tập

phương thức tư duy này và vận dụng nó vào thể loại tiểu thuyết. Trong Âm thanh và cuồng

nộ chúng tôi thấy một sự giao thoa đường biên giữa thể loại thơ và văn xuôi, những câu văn

đầy chất thơ trong tiểu thuyết là một nét độc đáo trong văn phong của Faulkner. Theo chúng

tôi, ngoài việc vận dụng nghệ thuật tương ứng với sự thay đổi điểm nhìn nhà văn còn có ý

thức sử dụng các cổ mẫu mang đậm tính biểu trưng.

Chiếc Bóng được nhìn qua đôi mắt của các nhân vật sẽ mang những thông điệp khác

nhau trong cảm nhận của họ với cuộc đời. Mỗi lần Bóng xuất hiện, nó cộng hưởng với

những cổ mẫu khác để tạo nên trong tâm thức hình tượng một ẩn ức nào đấy, khiến những

thanh âm trong nhân vật sống dậy, trên nền tranh tối tranh sáng ấy, chiếc Bóng lột trần

những bí ẩn chìm sâu trong đời sống nhân loại. Cổ mẫu chiếc Bóng hiện ra trên nền xám,

chính gam màu chủ đạo đó làm cho chiếc bóng trở nên ảm đạm và thấm đẫm một màu xám

xịt, tang thương cho số phận mỗi nhân vật trong truyện.

Rõ ràng cổ mẫu Bóng là một biểu tượng nghệ thuật chưa đựng yếu tố văn hóa tâm

linh sâu sắc. Nó gắn bó mật thiết với thuở sơ khai của con người, đối diện với bóng, mỗi

nhân vật nhận ra được bản ngã của mình trong hiện thực. Trong văn bản này, Bóng được

người nghệ sĩ phác thảo nên với một tập hợp của những ảnh hình đang lụi tàn đi theo thời

gian. Từng chiếc bóng của sự vật, con vật và cả con người trộn lẫn trong màu xám ảm đạm

của một ngày Chúa nhật. Dấu ấn sáng tạo của Faulkner là ông biết kết hợp những hình ảnh

rất đơn sơ nhưng chứa đầy sự ám gợi ấy làm thành những thanh âm đầy cuồng nộ. Mỗi cổ

mẫu luôn có những chức năng riêng, và chúng không đứng riêng biệt mà luôn chuyển hóa

và xâm nhập lẫn nhau trong hệ thống biểu tượng tâm linh. Chiếc Bóng xuất hiện trong

tương giao với Lửa và Nước và cả Hoa, các cổ mẫu trên chứa đựng ánh sáng, tạo nên sự

101

đối lập với bóng tối đang tràn ngập trong ngôi nhà Compson. Bóng đêm của sự lụi tàn song

đối với ánh sáng của niềm tin và hi vọng, đối lập cặp đôi như vậy là một phương thức tư

duy đặc trưng của huyền thoại. Nó mở ra trường liên tưởng rộng lớn cho người tiếp nhận có

thể hiểu văn bản theo nhiều cách khác nhau.

Có thể nói cảm hứng tư tưởng là một điểm mạnh nhất trong sáng tác của Faulkner.

Cảm hứng bi kịch của gia đình Compson được khúc xạ qua lăng kính của ông luôn tràn

ngập những tình cảm sâu sắc. Đó là cái mênh mông và bát ngát của những đêm trăng đang

khuất lấp bóng tối vào ngôi nhà Compson, là tiếng róc rách của những con suối thân thương

chôn giấu bao kỉ niệm ấu thơ của mỗi thành viên trong gia đình, tiếng than khóc đưa tang

cho những người thân yêu trong gia đình,… Chính cảm hứng ấy dắt dẫn ông vào hành trình

sáng tạo nên những biểu tượng nghệ thuật độc đáo, trong đó biểu tượng chiếc Bóng như một

cổ mẫu tồn tại trong văn hóa nhân loại được nhà nghệ sĩ tạo khắc vào trong hành trình

chuyển di tâm hồn của mỗi nhân vật, nó gợi biết bao chiều sâu về sự suy tư của bản gã và

cái tôi hiện hữu trong cuộc đời. Trên nền nghệ thuật bóng đã có từ ngàn xưa, chiếc bóng của

Vũ Thị Thiết trong người con gái Nam Xương, cái bóng của Adersen thì cái bóng Queetin

của Faulkner vẫn có những nét riêng độc đáo của ông. Cảm thức về cái chết và sự hiện hữu

với những biến thể ảnh hình của nó buộc người đọc phải sáng tạo cùng nhà văn mới tìm ra

được thông điệp nhà nghệ sĩ ẩn giấu bên dưới cổ mẫu.

Hành trình trốn chạy của Bóng khỏi hình hay của vô thức khỏi nỗi đau của ý thức là

cách mà các nhân vật trong truyện đã cố làm, nhưng họ vẫn bị lạc trong mê lộ của đời sống

hiện hữu. Đó là bi kịch bất hạnh, khao khát sự cảm thông và yêu thương từ những người

xung quanh nhưng dường như luôn có một hàng rào chắn ngang con đường nhận thức cuộc

đời trong mỗi nhân vật, những định chế, định kiến,… giam hãm họ vào trong sự tù đọng và

ngột ngạt với một không gian Xám, trên đó từng chiếc Bóng lững thững đi về miền vô định

và tấu lên khúc nhạc bi thương về tình yêu và con người thân phận trong xã hội. Ánh trăng

có lẽ là cổ mẫu được tác giả đặt kề với cái Bóng nhiều nhất, ánh sáng âm tính, lạnh chói của

nó tạo cho Bóng thêm phần hư ảo, tô điểm cho sự lạnh lẽo của ngôi nhà và bất hạnh mà mỗi

nhân vật sống trong đó phải gánh chịu. Từ đó cái chết xảy đến như một định luật tất định và

chiếc bóng có lẽ là ảnh hình của điều đó.

Tiểu kết chương 4:

Hệ biểu tượng tâm linh với bốn cổ mẫu tiêu biểu trên đã cho thấy được cái nhìn

hướng ngoại của nhà văn trong việc tri nhận thế giới. Faulkner không chỉ giỏi tạo khắc trạng

102

thái “tâm hồn con người đang gây hấn với chính nó” mà còn đưa được những cái nhìn ra xa

hơn trong hiện thực tâm hồn mỗi nhân vật.

Mỗi biểu tượng lại có những tầng ý nghĩa riêng biệt và trên mỗi tầng nghĩa đó, chúng

chuyển tải những thanh âm làm nên nỗi đau và sự bất hạnh trong đời sống của mỗi thành

viên nhà Compson. Các biểu tượng tâm linh không đứng riêng lẻ mà đứng cùng nhau.

Chúng tạo nên một sự liên đới trong cảm nhận cuộc đời của mỗi nhân vật, luôn có một mắc

xích nối chúng lại với nhau dù rất vô hình. Đó chính là nghệ thuật tương giao mà Faulkner

đã học được từ các nhà thơ tượng trưng Pháp. Mỗi cổ mẫu luôn chứa đựng những mẫu gốc

của đời sống nhân loại. Đi vào sáng tạo nên một hệ thống biểu tượng Tâm linh, nhà văn đã

chọn những hạt nhân cổ mẫu tiêu biểu nhất. Tất cả những cổ mẫu mà nhà văn đưa vào văn

bản luôn chứa đựng đặc tính phát sáng, do đó có thể nói các cổ mẫu trên luôn xoay quanh

ánh sáng, trên nền sáng đó, bóng tối hiện lên và tranh đấu cùng nó, chúng tạo thành một

hiện thực cuồng nộ bên trong văn bản.

Cổ mẫu luôn thấm đẫm những ý nghĩa biểu trưng cho nên chúng đầy sức ám gợi,

đặc biệt là cổ mẫu Tâm linh, do đó tiếp xúc với chúng, người nghiên cứu cần những cái nhìn

liên đới với các ngành khoa học xã hội khác mới mong tiệm cân được chân giá trị thẩm mỹ

của chúng. Hệ biểu tượng tâm linh là cái hạt nhân quan trọng giúp nhà văn khái quát nên

những chiều sâu hiện thực tâm hồn nhân vật, giúp hình tượng nghệ thuật hiện lên không chỉ

sinh động mà còn chứa đựng tính điển hình hóa cao độ. Cuối cùng phải thấy được dấu ấn

sâu đậm của phân tâm học và huyền thoại trong hệ biểu tượng tâm linh, nó giúp người

nghiên cứu lí giải được những hiện tượng và biến cố quá phức tạp trong văn bản văn học

hiện đại.

103

KẾT LUẬN

Tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner vẫn mãi là một thách thức

cho giới nghiên cứu vì tính phức tạp và đa nghĩa của nó. Tiếp cận tiểu thuyết này dưới góc

nhìn biểu tượng nghệ thuật, chúng tôi cố gắng chỉ ra những góc khuất và giá trị mà văn bản

nghệ thuật chứa đựng.

Trước hết, tiểu thuyết này có sự giao thoa giữa những thanh âm khác nhau trong một

dàn đồng ca mà tất cả đều lạc nhịp. Do đó chúng tôi muốn sắp xếp chúng lại để xem nó biểu

hiện những cuồng nộ gì đang dẫy sóng trong tâm thức mỗi nhân vật. Và hệ biểu tượng Âm

thanh hi vọng đưa đến một cái nhìn sáng rõ hơn về một kết cấu âm nhạc cực kì tinh vi và

phức tạp của người nghệ sĩ lớn Faulkner. Để từ đó chúng tôi nghe ra cuộc hội thoại lớn của

nhà văn với cuộc đời, bởi dấu ấn đối thoại đậm nét tràn ngập ngữ cảnh hội thoại giữa các

nhân vật trong văn bản này. Đó là tiếng nói của tình yêu và lòng thù hận, nỗi đau và sự bất

hạnh mà con người phải mang lấy trong hành trình sống của mình. Và tôn giáo có phải là

con đường giúp con người xoa dịu được tất cả những mất mát đó hay chính sự bao dung,

đức hi sinh và tinh thần nhân ái mới đưa họ đến được bến bờ chân, thiện, mĩ! Câu trả lời

được ông đẩy về phía người đọc.

Qua tác phẩm, chúng tôi thấy có một sự quện chặt giữa cảm hứng tư tưởng của

Faulkner và những thủ pháp nghệ thuật được ông sử dụng. Với cảm hứng tư tưởng,

Faulkner hiện lên là một nhà văn yêu mảnh đất quê hương miền Nam và con người nơi đây

mãnh liệt. Nó giúp ông sáng tạo nên một không gian Miền Nam nước Mĩ ngập tràn chất thơ

và cũng vô cùng khắc nghiệt. Trên nền không gian đó, thoáng hiện một cảm thức nuối tiếc

thời gian trong các tiểu thuyết của nhà văn đặc biệt là tiểu thuyết này. Trái tim nhạy cảm và

tinh tế với những đổi thay của thời cuộc cũng hắt bóng ít nhiều xuống những trang văn của

ông.

Đi vào khám phá hệ biểu tượng không- thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ,

không chỉ để thấy cảm hứng tư tưởng bi kịch về một miền Nam đổ vỡ và mất mát với sự lụi

tàn của gia đình Compson mà còn thấy được nguyên nhân của sự tang thương ấy. Vượt trên

những giá trị là một cuốn tiểu thuyết đạo đức, bởi nó không chỉ đã cung cấp cho người đọc

một mẩu ý nghĩa của sự sống, tác phẩm chứa đựng một kĩ thuật trần thuật độc đáo của

người sáng tạo.

Trong Âm thanh và cuồng nộ nhà văn dường như xóa bỏ đường biên của các thể

loại. Bởi sự trộn lẫn của chất thơ trong các câu văn xuôi của ông và chính thử nghiệm táo

104

bạo này khiến cho hiện thực không - thời gian trong tiểu thuyết bị đảo lộn, nó là một tác

phẩm tự sự bằng thơ với bốn điểm nhìn khác nhau và sự tham gia của dòng ý thức, do đó có

thể nói, tiểu thuyết này chứa đựng rất nhiều thủ pháp, trong đó nghệ thuật tương giao trong

thơ hiện đại là phương thức tư duy đã được nhà văn sử dụng nhiều nhất bên cạnh thủ pháp

đối thoại. Chính nghệ thuật tương giao đã khiến cho những hình ảnh, màu sắc và âm thanh

hiện lên sinh động, chúng hòa vào nhau, tạo nên một hiện thực bề sâu cho cảm nhận của

người tiếp nhận. Đồng thời khiến hiện thực bên trong nhân vật trở nên vi diệu hơn. Với hệ

thống biểu tượng Không - thời gian, Faulkner muốn tạo lập một quan hệ phi tuyến tính khác

với trật tự nhân quả trong tiểu thuyết của thế kỉ XIX. Nhân vật mang thanh âm chỉ có thể bị

cầm tù và lưu đày trên thời gian hiện tồn và không gian là nơi giam cầm họ, trong đó họ

vùng vẫy và bất lực.

Hệ biểu tượng Âm thanh và hệ biểu tượng Không- thời gian soi sáng trong nhau,

chúng góp phần tạo cho hình tượng mỗi nhân vật trở nên sinh động hơn, từng bước hé mở

nguyên nhân của mọi bất hạnh ở gia đình Compson. Đó cũng là cách mà Faulkner đã viết

bốn phần trong văn bản này. Một thanh âm phát ra tiếng kêu, chúng được truyền theo

không khí, đến một không gian với những hình ảnh bi thương và thời gian huyền thoại đầy

sự cô nén. Đi tìm sợi dây kết nối chúng lại với nhau, chúng tôi thấy đó chính là cổ mẫu, cây

cầu nối biểu tượng thanh âm và biểu tượng không thời gian, khiến Âm thanh có thể chuyển

tải sự cuồng nộ mang sâu sắc.

Hệ biểu tượng Tâm linh với những hạt nhân cổ mẫu cơ bản mang đậm dấu ấn của

bản thể luận, nó khiến văn bản gợi nên chiều sâu của huyền thoại, đồng thời với biểu tượng

Tâm linh, văn bản đã chạm tới bề sâu giá trị và những vô thức của các nhân vật, đưa Âm

thanh và cuồng nộ trở thành một tác phẩm “không có đáy” (Phạm Vĩnh Cư). Hệ biểu tượng

tâm linh khám phá ra sức sống mãnh liệt và lâu dài của văn bản này trong lịch sử tiếp nhận

nó. Những ý nghĩa phổ quát và chân lí vĩnh hằng của tiểu thuyết được thổi vào bởi những cổ

mẫu được nhào nặn dưới bàn tay tài hoa và khối óc tinh anh của Faulkner khiến cổ mẫu tâm

linh rọi sáng được thông điệp về tình yêu và con người thân phận không chỉ ở miền Nam

nước Mĩ mà còn ở mỗi vùng khác nhau trên trái đất. Chính những khám phá đó khiến tiểu

thuyết có một giá trị thẩm mỹ độc đáo kích thích sự đồng sáng tạo của người tiếp nhận. Và

đây là một giá trị to lớn của tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ: “Người nghệ sĩ vĩ đại là

người sở hữu “cái nhìn nguyên thủy” một sự nhảy cảm đặc biệt đối với các mẫu, cổ mẫu và

một năng khiếu nói bằng những hình ảnh nguyên thủy, và những hình ảnh nguyên thủy này

105

giúp nhà nghệ sĩ có thể truyền những kinh nghiệm về ‘tác phẩm nội tại’ thông qua nghệ

thuật”[10,158].

Faulkner thừa nhận tiểu thuyết này mãi là thất bại đau đớn tuyệt diệu nhất của ông,

và của những ai yêu mến tác phẩm này. Do đó, chúng tôi muốn đề xuất một hướng nghiên

cứu cao hơn nếu có điều kiện và thời gian, đó là hướng tiếp cận về diễn ngôn đối thoại để

làm sáng rõ thi pháp tiểu thuyết của William Faulkner.

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Albérès, R. M. (2003), Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX

Văn học, Hà Nội.

2. Aristote và Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca - Văn tâm điêu long, Nxb Văn học,

Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1998), 150 Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

4. Bakhtin, M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Bộ

văn hóa Thông tin và thể thao, trường viết văn Nguyễn Du.

5. Bakhtin, M. (1993), Những vấn đề thi pháp Dôxtôiepxki, nhóm dịch giả, Nxb Hội

nhà văn.

6. Lê Huy Bắc (2009), Đặc trưng truyện ngắn Anh - Mỹ, Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà

Nội.

7. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Fhran-Dơ Káp-Ka, Nxb Giáo dục.

8. Lê Huy Bắc (2010), Lịch sử văn học Mỹ, Nxb Giáo dục.

9. Benois, L. (2006), Dấu hiệu, Biểu trưng và thần thoại, Nxb Thế giới, Hà Nội.

10. Chevalier, J. và Gheerbrant, A. (2002), Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, Nhiều

người dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

11. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học quốc gia thành phố

Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

12. Đào Ngọc Chương (2002), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của E.Hemingway, Đại

học khoa học Xã hội và Nhân văn.

13. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Đức Đàn (2002), Hành trình văn học Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Văn học,Trung tâm

nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

16. Hà Minh Đức (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Nguyễn Trung Đức (2001), Tuyển tập Borgers, Nxb Đà Nẵng.

107

18. Faulkner, W. (2008), Âm thanh và cuồng nộ, Phan Đan và Phan Linh Lan dịch, Nxb

Văn học.

19. George, J. (2007), Cành vàng bách khoa thư về văn hóa nguyên thủy, Ngô Bình Lâm

dịch, NXb Văn hóa thông tin.

20. Bùi Giáng (2001), Martin Heiderger và tư tưởng hiện đại, Nxb Văn học, Sài Gòn.

21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

22. Hamburger, Kate. (2004), Logich học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch và

Trần Ngọc Vương dịch, NXb Đại học quốc gia Hà Nội.

23. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Những biểu hiện của khuynh

hướng tượng trưng trong thơ mới Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học khoa học xã hội

và Nhân.

24. Lê Huy Hòa và Nguyễn Văn Bình ( 2006), Những bậc thầy văn chương, Nxb Lao

động.

25. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết đến hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

26. Jakovson (2008), Thi học và ngữ học lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần

Duy Châu biên khảo, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Jung, C. (2007), Thăm dò tiềm thức, Vũ Đình Lưu dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.

28. Kant, I. (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Bùi Văn Nam Sơn dịch, Nxb Tri

thức.

29. Kinh thánh Cựu Ước (2001), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

30. Kundera, M. (2001), Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa thông tin.

31. Lotman, I.U. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nhóm tác giả dịch, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội.

31. Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển, Nxb Tri thức, Hà Nội.

32. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Meletinnsky, E.M. (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn và Song Mộc

dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Đặng Thị Nhã (2010), Âm thanh và cuồng nộ dưới góc nhìn phân tâm học, Luận văn

thạc sĩ, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Hồ Chí Minh.

108

35. Nhiều tác giả (2006), Đỗ Lai Thúy (chủ biên), Phân tâm học và văn hóa tâm linh,

Nxb Văn hóa Thông tin.

36. Nhiều tác giả (2004), Đỗ Lai Thúy (chủ biên), Phân tâm học và văn học, NXb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

37. Nietzsche, F. (2011), Kẻ phản Ki-tô: Thử đưa ra một phê bình Ki-tô giáo, Hà Vũ

Trọng dịch, Nxb Tri thức, TP.HCM.

38. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học quốc gia

thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Pospelov,G.N (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Tạ Như Oanh (2011), Nhân vật Caddy trong Âm thanh và cuồng nộ, Luận văn thạc

sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội

41. Saussure, F. (1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb Văn học, Hà

Nội.

42. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, phần 1,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

43. Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Văn Nha (1974), William Faulkner: Cuộc đời và tác

phẩm, Nxb Hiện đại Thư xã, Sài Gòn.

44. Chu Quang Tiềm (1996), Tâm lí văn nghệ, Nxb thông tin, Tp.Hồ chí Minh.

45. Đỗ Lai Thúy (2008), Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

46. Todorov, T. (2004), Mikhail Bakhtin – Nguyên lý đối thoại, Đào Ngọc Chương dịch,

Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, TP.HCM.

47. Lộc Phương Thúy (chủ biên) (2007), Lí luận- phê bình văn học thế giới thế kỉ XX-

tập hai, Nxb Giáo dục.

48. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và Phê bình văn học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

49. Trần Đức Thảo (1996), Tìm hiểu cội nguồn ngôn ngữ và ý thức, Nxb Văn hóa Thông

tin.

50. Hoàng Trinh (1998), Phương Tây và con người, Nxb văn học, Hà Nội.

51. Hoàng Trinh (1996), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Phùng Văn Tửu (2006), Tiểu thuyết Pháp những tìm tòi đổi mới, Nxb Văn học.

53. Vygoski, L. X.(1981), Tâm lý học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội.

109

Tiếng Anh

54. Hargrove, D Nancy. (1984), Reflections of the 1920s in The Sound and the

Fury, Mississippi State University

(1984), Faulkner International Perspectives, 55. Fowlor, Doreen.,Abdie. AnnJ

University Mississippi.

56. Weinstein, Phillips.D. (1995), The Cambridge companion to the William Faulner,

Swarthmore College, University of Cambridge, Cambridge.

Website

57. Burton, Stacy., Rereading Faulkner: Authority, Criticism, and The Sound and the

Fury, University of Nevada, Reno, truy cập ngày 3/8/2013,

http://www.jstor.org/discover/10.2307/439123?uid=3739320&uid=2&uid=4&sid=21

102679036841

58. Nhật Chiêu, William Faulkner, con người và thời gian, ngày truy cập, 7/9/2013,

http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&

view=article&id=4179%3Awilliam-faulkner-con-ngi-va-thi gian&catid=64%3Avn-

hc-nc-ngoai-va-vn

59. Nguyễn Văn Hậu, về tính hình tượng và tính biểu tượng trong văn học-nghệ thuật,

ngày truy cập 3/5/2013, http://huc.edu.vn/chi-tiet/1463/Ve-tinh-hinh-tuong-va-tinh-

bieu-tuong-trong-tac-pham-van-hoa---nghe-thuat.html

60. Firth, R., Đinh Hồng Hải dịch, Khám phá những biểu tượng trong văn học, truy cập

ngày 20/8/2012,

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17891

61. Loutman, I.U. Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, truy cập ngày 3/8/2013,

http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/LyLuanVanHoc/View_Detail.asp

x?ItemId=24

62. Đoàn Tiến Lực, Lửa: từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng ngôn ngữ, ngày truy cập,

1/7/20113, http://vietvan.vn/vi/bvct/id3057/Lua--Tu-bieu-tuong-van-hoa-den-bieu-

tuong-ngon-tu/

110

Samway, Patrick, S.J. Gentry Silve , In The Sound and the Fury, Benjy Compson

Most Likely Suffers from Autism”, truy cập ngày 7/7/2013,

http://www.faulknerjapan.com/journal/no12/pdf/EJNo12_Samway_Silver.pdf

111