BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Hà Phương

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Hà Phương BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH

Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CẢM ƠN

Xuất phát từ tình cảm chân thành của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu

sắc của mình đến PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, người đã hết lòng giúp đỡ và

hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin cảm ơn đến quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong thời

gian đào tạo vừa qua.

Xin cảm ơn gia đình - cha mẹ, chị, em gái, anh rể, cháu,…đã yêu quý và đã

dành cho tôi những động viên khích lệ và sự quan tâm đặc biệt để hoàn thành tốt

công việc.

Xin cảm ơn tất cả bạn bè đã luôn ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi

trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 12 năm 2013

Tác giả

Trần Hà Phương

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ

từ Giáo viên hướng dẫn là PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Các nội dung nghiên

cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất

cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian dối nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm

trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 12 năm 2013

Tác giả

Trần Hà Phương

MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

8TMỞ ĐẦU8T .................................................................................................................... 1

8T1. Lí do chọn đề tài8T .................................................................................................. 1

8T2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu8T ........................................................................... 4

8T3. Mục đích nghiên cứu8T ........................................................................................... 5

8T4. Lịch sử nghiên cứu8T .............................................................................................. 6

8T4.1.8T 8TVề biểu tượng nghệ thuật trong văn học nói chung (thơ ca)8T ......................... 6

8T4.2. Về biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh8T ......................................... 9

8T5. Phương pháp nghiên cứu8T ................................................................................... 13

8T6. Đóng góp của luận văn8T ...................................................................................... 14

8T7. Cấu trúc của luận văn8T ........................................................................................ 16

8TNỘI DUNG8T ............................................................................................................... 17

8TChương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG8T ................................................................ 17

8T1.1.8T 8TBiểu tượng và biểu tượng nghệ thuật8T .......................................................... 17

8T1.1.1. Biểu tượng8T ............................................................................................. 17

8T1.1.2. Biểu tượng nghệ thuật8T ........................................................................... 18

8T1.2. Xuân Quỳnh – Cuộc đời và sự nghiệp8T ........................................................ 33

8T1.2.1. Cuộc đời8T ................................................................................................ 33

8T1.2.2. Sự nghiệp8T .............................................................................................. 33

8TChương 2. BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH –

Mục lục

8T2.1. Các biểu tượng đơn - Hệ thống và Đặc điểm8T ............................................. 36

8T2.1.1. Bàn tay8T .................................................................................................. 36

HỆ THỐNG VÀ ĐẶC ĐIỂM8T ............................................................................. 36

8T2.1.2. Trái tim8T .................................................................................................. 47

8T2.1.3. Ngọn lửa8T ................................................................................................ 52

8T2.1.4. Tiếng8T ..................................................................................................... 56

8T2.2. Các biểu tượng kép – Hệ thống và Đặc điểm8T .............................................. 64

8T2.2.1. Con tàu – Sân ga8T .................................................................................. 65

8T2.2.2. Hoa - Cỏ dại8T ......................................................................................... 75

8T2.2.3. Sóng - Gió (Nước)8T ............................................................................... 84

8T2.2.4. Thuyền - Biển (Sông)8T ........................................................................... 89

8TChương 3. BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH –

8T3.1.Truyền thống8T ..............................................................................................100

8T3.1.1.Yếu tố khách quan8T ................................................................................100

8T3.1.1.1. Gia đình8T ........................................................................................100

8T3.1.1.2. Quê hương8T ....................................................................................102

8T3.1.1.3.Thời đại8T ..........................................................................................104

8T3.1.2.Yếu tố chủ quan8T ...................................................................................107

8T3.1.2.1.Phương diện tinh thần8T ....................................................................107

8T3.1.2.2. Tài năng nghệ thuật8T ......................................................................109

8T3.1.2.3.Vốn sống, vốn hiểu biết8T .................................................................114

8T3.1.2.4. Quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật8T ........................................118

8T3.2. Cách tân8T .....................................................................................................121

8T3.2.1. Lạ hóa8T ..................................................................................................121

8T3.2.1.1. Hoán đổi8T........................................................................................121

8T3.2.1.2. Đa giọng điệu8T ................................................................................123

TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH TÂN8T ..................................................................... 99

8T3.2.2. Gợi, nén8T ...............................................................................................125

8T3.2.3. Ám ảnh8T ................................................................................................127

8TKẾT LUẬN8T ............................................................................................................130

8TTÀI LIỆU THAM KHẢO8T ....................................................................................133

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Xuất phát từ sự trăn trở, nghi vấn của cá nhân người viết về câu hỏi muôn

đời của Triết học, cụ thể là chủ nghĩa Duy vật Mác – xít về hai vấn đề lớn: Thế giới

và con người. Thứ nhất: Thế giới này là gì? Thế giới này từ đâu mà ra? Thế giới này

tồn tại như thế nào? Thế giới này sẽ đi về đâu? Thứ hai, con người, ta là ai? Ta từ

đâu tới? Ta là gì trong thế giới này? Hay nói cách khác, người viết muốn đi tìm

chân lý của cuộc sống và chân lý khoa học. Và con đường đi ấy, bằng cách giải mã

các biểu tượng. Khái niệm biểu tượng, thoạt nghe thì tưởng chừng như đơn giản,

nhưng nó không hề dễ chút nào. Một khái niệm phức tạp và tổng hòa các khái niệm

khác, mà chắc hẳn rằng càng đi sâu tìm hiểu về nó thì càng khó khăn và thử thách.

Về góc độ cuộc sống: Có hàng loạt câu hỏi đặt ra, biểu tượng trái đất hình

tròn có ý nghĩa gì? Biểu tượng Liên Hiệp Quốc được thiết kế trên nền xanh da trời,

giữa lá cờ là hình ảnh hai cành oliu (hay hai bông lúa) có ý nghĩa gì ? Biểu tượng lá

cờ Thụy Sĩ có nền đỏ, thập màu trắng có ý nghĩa gì? Biểu tượng tổng hợp các nét

mặt trên yahoo có ý nghĩa gì? Biểu tượng gương mặt Harland Sanders của KFC có

ý nghĩa gì? Biểu tượng hoa Sen của Phật giáo có ý nghĩa gì? Biểu tượng tháp Eiffen

của nước Pháp có ý nghĩa gì? Biểu tượng Áo Dài của Việt Nam có ý nghĩa gì?

…Vâng, rất rất nhiều biểu tượng xung quanh chúng ta. Đúng như nhà sử học người

Pháp Guy Schoeller đã từng phát biểu rằng: “Sẽ là quá ít, nếu chúng ta nói rằng

chúng ta đang sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng sống

trong chúng ta”(http://tapchinhavan.vn/news/Nghien-cuu-Ly-luan-Phe-binh/Lua-

Tu-bieu-tuong-van-hoa-den-bieu-tuong-ngon-tu-132/). Thật vậy, biểu tượng như

một phần không thể thiếu gắn kết trong cuộc sống của chúng ta. Đó là kết tinh của

tất cả các yếu tố chủ quan và khách quan trong đời sống của con người. Chúng ta có

thể bắt gặp nó trong tất cả các lĩnh vực như khoa học, du lịch, ẩm thực, kinh tế, văn

hoá, giáo dục, y học,…đặc biệt là trong nghệ thuật – “lĩnh vực của sự độc đáo” (văn

học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, khiêu vũ, điện ảnh,…). Trong

2

đó, văn học, mà cụ thể thơ ca là vùng đất màu mỡ cho các biểu tượng toả sáng. Bởi

lẽ, thơ ca có sức nén, sức cô đọng hơn cả các bộ môn nghệ thuật khác. Nói một cách

khái quát, tất cả các biểu tượng hội tụ tạo thành văn hóa (văn hóa vật thể và văn hóa

phi vật thể). Như chúng ta đều biết văn hóa bao gồm cả yếu tố vật chất lẫn tinh thần,

có giá trị, nó gắn với một không gian và thời gian nhất định. Tìm hiểu về biểu

tượng, cũng là một phương thức tìm hiểu về văn hóa. Hơn nữa, chính nhờ các biểu

tượng mà chúng ta nhận diện ra một con người, một quốc gia, một sự việc, một khái

niệm,…nào đó nhanh chóng và tiện lợi.

Nói một cách cụ thể hơn, người viết, với tư cách là một phụ nữ mới chập

chững bước vào đời cần chuẩn bị những kiến thức cần và đủ về con người và cuộc

sống. Đặc biệt, quan tâm đến vấn đề: Tình yêu, hôn nhân, gia đình, giới tính, giáo

dục, nghệ thuật - Những vấn đề tưởng chừng như giản đơn, nhưng nghìn đời nay

nhân loại vẫn luôn nghi vấn và chúng vẫn luôn là những đề tài gây tranh cãi, quan

tâm của tất cả mọi người. Đâu là chân lý của cuộc sống? Mục đích của sự có mặt

của con người trong vũ trụ là gì? Và so với nam giới, nữ giới có vị trí, vai trò gì

trong cuộc sống? Bình đẳng giới thật sự có tồn tại? Tất cả điều đó, người viết sẽ cố

gắng tiếp cận thông qua con đường lịch sử, mà dừng lại ở một hiện tượng tiêu biểu

của Nữ giới trong văn đàn Việt Nam, đó là “Nữ hoàng thơ Tình yêu - Xuân Quỳnh”.

Dọc theo chiều dài lịch sử văn đàn Việt Nam, ngoài Hồ Xuân Hương ra, Xuân

Quỳnh được xem là nữ sĩ có những đóng góp tích cực, táo bạo, hồn nhiên, sâu sắc,

chân thành,...với những trăn trở với đời, với người. Và một nghi vấn đã đặt ra, tại

sao Hồ Xuân Hương, Xuân Quỳnh - những người thiết tha, sôi nổi, yêu đời, yêu con

người, yêu công lý, yêu tình thương, yêu hòa bình,…như vậy lại gặp những mất

mát, đau thương trong cuộc đời chung và cuộc đời riêng? Tính cách quyết định số

phận. Phải chăng chính cá tính đặc biệt, làm nên những số phận đặc biệt đầy bí ẩn

cho mọi người lúc đương thời lẫn các thế hệ sau? Những câu hỏi đó càng là động

lực mạnh mẽ thôi thúc người viết khám phá về Xuân Quỳnh - cuộc đời và sự

nghiệp. Và hơn thế nữa, khám phá về Xuân Quỳnh – một đại diện tiêu biểu của Nữ

giới, người viết cũng chính là đang khám phá về bản thân. Và còn gì tuyệt vời hơn

3

trong cuộc sống khi ta biết về chính ta? Đồng thời, người viết thật sự muốn tìm ra

chân lý của hạnh phúc qua công trình nghiên cứu khoa học này. Theo quan niệm

của Phật giáo (thuộc về tâm linh) thì “Hạnh phúc là do mình nghĩ”, và đó có phải là

câu trả lời?

Về góc độ khoa học: Nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong văn học nói

chung, trong thơ ca nói riêng và cũng như nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh là vấn đề

không mới trong giới nghiên cứu nước nhà. Tuy nhiên, chúng tôi chọn đề tài này, là

vì:

Thứ nhất, đó là từ niềm yêu thích, ngưỡng mộ tâm hồn và tài năng nhà thơ

Xuân Quỳnh của cá nhân người viết. Say đắm, chân thành, mãnh liệt, tin yêu nhưng

đầy lo toan, trăn trở, bất hạnh…là những gì mà người viết cảm nhận được mỗi lần

đọc thơ Xuân Quỳnh. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ truyền thống

lẫn hiện đại, một hồn thơ phong phú chứa đựng xúc cảm của những cô gái đang

yêu, của những người mẹ, người vợ lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm về hai từ

“hạnh phúc”. Đó còn là tiếng nói của một người đồng chí, một công dân gắn bó với

làng xóm, quê hương, đất nước tha thiết, đầy nhiệt huyết. Thiết nghĩ, ở độ tuổi vừa

mới ra trường như người viết, việc cảm, hiểu, lý giải được thơ Xuân Quỳnh là một

điều rất khó khăn. Nhưng bằng khát vọng được khám phá những cung bậc trong trái

tim của nữ sĩ luôn là một động lực thôi thúc người viết tìm đến và chọn đề tài này.

Thứ hai, việc tiếp cận, phê bình tác phẩm thông qua các biểu tượng nghệ

thuật là một trong những cách hữu hiệu vừa khoa học - vừa nghệ thuật trong những

năm gần đây ở Việt Nam. Và việc chọn thơ của Xuân Quỳnh làm đối tượng nghiên

cứu là điều rất hợp lý. Bởi lẽ, sáng tác của Xuân Quỳnh không phải là “nghệ thuật

vị nghệ thuật” mà là những vần thơ “từ cuộc đời mà nở hoa và sau đó trở về cuộc

đời mà kết trái”. Một loại thơ giản dị, hồn nhiên, tự nó quyết định cho mình một

hình thức. Nhưng đằng sau đó, chúng ta không quên đó là những sáng tạo tinh thần

của một nữ sĩ có tài năng nghệ thuật thật sự như Xuân Quỳnh. Thơ Xuân Quỳnh,

người ta thấy xuất hiện rất nhiều biểu tượng và mỗi biểu tượng luôn là một thông

điệp nhất định. Những biểu tượng nghệ thuật như một sự tất yếu xuất hiện trong thơ

4

bà. Việc giải mã được biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của nữ sĩ cùng đồng

nghĩa với việc người đọc đã hiểu và cảm được những gì mà nhà thơ truyền tải.

Thứ ba, thông qua đề tài này, người viết hy vọng góp thêm một tiếng nói

khách quan và mới mẻ trong việc nghiên cứu một hiện tượng độc đáo trong làng thơ

Việt Nam như Xuân Quỳnh. Đồng thời, đây cũng là một cơ sở khẳng định thêm

việc tiếp cận, phê bình tác phẩm văn học thông qua giải mã các biểu tượng nghệ

thuật là hữu hiệu. Tin rằng, đây sẽ là một cứ liệu bổ ích, ý nghĩa của những ai học,

dạy, nghiên cứu và yêu thích thơ văn.

Tổng hợp từ những lý do vi mô và vĩ mô như trên, nối tiếp hành trình nghiên

cứu từ luận văn đại học Khảo sát yếu tố ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật

của nhà văn qua một số nhà văn tiêu biểu (Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh

Châu), người viết chọn đề tài Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh làm

luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Xác định hướng đề tài là nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân

Quỳnh, chúng tôi khảo sát toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh (ở thể

loại thơ ca). Lưu ý rằng, vì các tập thơ của Xuân Quỳnh in không thống nhất và có

rất nhiều bài thơ in chung và nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, nên ở đây người

viết giới hạn lại trong tài liệu Xuân Quỳnh – Không bao giờ là cuối [61] gồm 100

bài thơ tiêu biểu được chia theo bố cục của Ban biên tập: Dẫu biết rằng anh trả lại,

Những năm tháng không yên, Bầu trời trong quả trứng. Bố cục này được xếp theo

chủ đề tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước và tình yêu dành cho trẻ em

trong thơ Xuân Quỳnh và dĩ nhiên trong quá trình làm bài người viết cũng tham

khảo thêm một số văn bản nằm ngoài tài liệu trên. Cụ thể là các tập thơ: Tơ tằm -

Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Cây trong

phố, chờ trăng, Bầu trời trong quả trứng, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ

may [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50].

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu cuộc đời của nhà thơ để lý giải cội

nguồn (truyền thống và cách tân) hình thành các biểu tượng nghệ thuật trong thơ bà

5

(đặc biệt chú ý đến gia đình nhỏ mà Xuân Quỳnh đã cùng vun đắp với kịch gia nổi

tiếng Lưu Quang Vũ).

Đồng thời, để làm nổi bật sự khác biệt, những đóng góp riêng của nhà thơ

Xuân Quỳnh, chúng tôi sẽ khảo sát một vài tác phẩm của các nhà thơ nữ cùng

thời (Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi,…). Bên cạnh đó, chúng tôi đặt nhà thơ Xuân Quỳnh

trong tiến trình của văn học Việt Nam từ văn học dân gian - truyền miệng (Ca dao -

dân ca, truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, truyện cười, truyện ngụ ngôn) đến

văn học viết để thấy vị trí của nữ sĩ trên văn đàn. Và để làm nổi bật, chúng tôi so

sánh với một số hiện tượng văn học tiêu biểu của thế giới. Không chỉ riêng về các

tác giả nữ, mà để toàn diện chúng tôi đối chiếu với các nhà văn nam giới. Bởi lẽ

tiếng nói của nữ giới luôn được lắng nghe và phản hồi từ nam giới, Adam và Eva

vốn dĩ luôn song hành cùng nhau. Và trong quá trình đối chiếu, có so sánh các tác

phẩm thơ ca lẫn văn xuôi.

Không dừng ở đó, bên cạnh lĩnh vực văn chương, để tăng sức thuyết phục,

chúng tôi cũng tiếp cận các hiện tượng tiêu biểu khác thuộc lĩnh vực nghệ thuật

khác như: âm nhạc, hội họa, điện ảnh, sân khấu, kiến trúc,…. Và các đối tượng

thuộc các ngành khoa học khác như triết học, địa lý, tâm lý, vật lý, lịch sử, sinh học,

ngôn ngữ học, kí hiệu học, logic học, nhân chủng học, đạo đức,….để có cái nhìn

toàn diện, biện chứng, tin cậy và chính xác. Đặc biệt, tham khảo những tài liệu về

giới tính, tâm sinh lý của nam và nữ giới, cũng như những sách dạy về kỹ năng

mềm - kỹ năng giao tiếp - kỹ năng sống.

3. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài luận văn này, chúng tôi hướng đến mục đích nghiên cứu cụ thể

sau:

Thứ nhất, nắm được những vấn đề chung về biểu tượng nghệ thuật trong thơ.

Từ đó làm cơ sở nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh.

Thứ hai, tìm và chỉ ra hệ thống và đặc điểm của các biểu tượng nghệ thuật

trong thơ Xuân Quỳnh.

6

Thứ ba, lý giải được việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật trong thơ

Xuân Quỳnh trên hai bình diện truyền thống và cách tân.

Qua các mục tiêu cụ thể đó, chúng tôi hướng đến mục tiêu cao hơn là góp

thêm một tiếng nói trong nghiên cứu khoa học để hiểu sâu sắc hơn những đặc sắc về

nội dung và nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh, khẳng định vị trí của nữ sĩ trong văn

đàn Việt Nam. Và dĩ nhiên, củng cố thêm một cơ sở khoa học vững chắc trong việc

tiếp cận tác phẩm văn học bằng phương thức giải mã biểu tượng nghệ thuật.

Và mục tiêu lớn nhất và cũng là niềm mong ước của tác giả là tìm ra chân lý

của khoa học và chân lý của cuộc sống, tìm ra được đâu là chân của hạnh phúc. Cụ

thể là những vấn đề xoay quanh thế giới, con người, giới tính, tình yêu, hôn nhân,

gia đình, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật. Tin chắc đây không chỉ là câu hỏi riêng của

người viết, mà là của tất cả những ai đang sống và muốn sống một cuộc sống đúng

nghĩa của nó. Bởi lẽ mỗi người chỉ có một cuộc đời - “Không ai tắm hai lần trên

một dòng sông” (Heralit) cả. Đặc biệt trách nhiệm công dân là một vấn đề nhức

nhối mà mỗi cá nhân nên suy ngẫm khi được mệnh danh hai tiếng Con Người.

4. Lịch sử nghiên cứu

4.1. Về biểu tượng nghệ thuật trong văn học nói chung (thơ ca)

Như đã đề cập, nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong văn học nói chung

(mà tiêu biểu là thơ ca) trên thế giới đã có nền tảng rất lâu, tiêu biểu là các bài viết

sau:

Bài viết “Khám phá biểu tượng trong văn học” của tác giả Raymond Firth

(Đinh Hồng Hải dịch, với sự cộng tác của Chu Tú Lệ, trong sách Biểu tượng

Chung và Riêng (Symbols: Pulic and Private), Nxb Đại học Cornell, 1973)

(8TUhttp://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/389315/phe-binh-van-hoc/kham-

pha-nhung-bieu-tuong-trong-van-hoc-.htmlU8T).

Bài viết “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa” của tác giả Iu. M. Lotman

(Trần Đình Sử dịch, bản tiếng Nga, trong sách Iu.M.Lotman - Bài báo chọn lọc,

Tập 1, Tallinn, 1992, tr.191-199) (8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=4979#more-

4979U8T).

7

Bài viết “Biểu tượng - Gène của truyện kể” của tác Iu. M. Lotman do Lã

Nguyên dịch (8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=3916#more-3916U8T).

Và nó cũng thật sự cũng không mới ở Việt Nam, đặc biệt là những năm gần

đây, giới nghiên cứu rất quan tâm đến vấn đề này.

Đầu tiên, trong văn học dân gian, chúng ta thấy có rất nhiều bài viết, công

24TBài viết, công trình của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp: Bài viết0T24T “0TTiếp cận

trình nghiên cứu:

biểu tượng trầu cau”,0T 0T2TTạp chí Văn hóa – Nghệ thuật0T2T 0Tsố 2, tr.65 - 68 (1997); bài viết

“2TTìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao Việt Nam”2T, Kỷ yếu Khoa Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tr.26 - 35 (1999); công trình nghiên cứu 0T 0T2TBiểu

tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt2T, Luận án Tiến sĩ, bảo vệ

cấp cơ sở tại Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, 2001 và bài viết “Biểu tượng ca

dao nhìn từ những góc độ khác nhau”,0T 0T2TBình luận văn học2T, niên giám của Hội

Nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp.HCM, Nxb ĐH Quốc gia Tp.HCM (2004).

Bài giảng “Một số biểu tượng và hình ảnh trong ca dao” của tác giả Nguyễn

Xuân Kính (8TUhttp://www.vtv2.tuvantuyensinh.vn/video/detail/bai-09:-mot-so-bieu-

tuong-va-hinh-anh-trong-ca-dao-174.htmlU8T)

Bài viết “Dải yếm - Biểu tượng văn hóa của người Việt” trong Ca dao tình

yêu của tác giả Lê Tấn Thích (8TUhttp://maxreading.com/?chapter=38275U8T)

Một công trình rất công phu của tác giả Nguyễn Thị Duyên là Ý nghĩa biểu

trưng con số trong ca dao người Việt (Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Hà

Nội, 2006) (8TUhttp://doc.edu.vn/tai-lieu/khoa-luan-y-nghia-bieu-trung-cua-he-bieu-

tuong-con-so-trong-ca-dao-nguoi-viet-36804/U8T)

Kế đến, là những bài viết, công trình của văn học viết, từ văn học trung đại,

đến văn học hiện đại:

Công trình Nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý - Trần dưới góc độ

nguồn gốc văn hoá của tác giả Trần Thị Tươi, trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh (8TUhttp://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2019:ngh

8

-thut-biu-tng-trong-th-thin-ly-trn-nhin-di-goc-ngun-gc-vn-hoa&catid=120:lun-vn-

ca-ncs-hvch-a-sv&Itemid=186U8T).

Công trình nghiên cứu Thế giới Biểu tượng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Đại học Vinh

(8TUhttp://updatebook.vn/threads/64367-The-gioi-bieu-tuong-trong-tho-Nom-Nguyen-

TraiU8T).

Bài viết “Đây thôn Vĩ Dạ từ hình ảnh đến biểu tượng” của tác giả Lê Thị

Hồ Quang (8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=7868#more-7868U8T)

Công trình Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Tố Hữu của

tác giả Nguyễn Thị Nguyệt, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội

(8TUhttp://ussh.vnu.edu.vn/ttlv-nhung-bieu-tuong-nghe-thuat-tieu-bieu-trong-tho-to-

huu/3711U8T).

Bài viết “Biểu tượng giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử” của

tác giả Hoàng Thị Huế, Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Huế

(8TUhttp://vietvan.vn/vi/bvct/id3430/Bieu-tuong-giac-mo-trong-tho-Nguyen-Binh,-

Han-Mac-Tu/U8T).

Bài viết “Biển - Biểu tượng của vũ trụ trong thơ Huy Cận” của tác giả Đỗ

Kiều Nga (8TUhttp://huc.edu.vn/vi/spct/id145/BIEN---BIEU-TUONG-CUA-VU-TRU-

TRON G-THO-HUY-CAN/U8T).

Bài viết “Lửa từ biểu tượng văn hoá đến biểu tượng ngôn từ” của tác giả Đoàn

Tiến Lực (8TUhttp://vietvan.vn/vi/bvct/id3057/Lua--Tu-bieu-tuong-van-hoa-den-bieu-

tuong-ngon-tu/U8T).

Công trình Biểu tượng Vườn trong thơ Nguyễn Bính

(8TUhttp://updatebook.vn/threads/34775-Bieu-tuong-vuon-trong-tho-Nguyen-BinhU8T).

Bài viết “Kết cấu biểu tượng trong bài thơ Viếng lăng Bác”, của tác giả Đoàn

Ánh Dương (8TUhttp://tapchinhavan.vn/news/Nghien-cuu-Ly-luan-Phe-binh/Ket-cau-

bieu-tuong-trong-bai-tho-VIENG-LANG-BAC-1283/U8T).

9

Công trình Biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ, của tác giả Trần Thị

Hường, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội

(8TUhttp://ussh.vnu.edu.vn/ttlv-bieu-tuong-trong-tho-luu-quang-vu/5075U8T).

Bài viết “Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca trữ tình Việt Nam” của tác

giả Trịnh Mai Phương (8TUhttp://khotailieu.com/tai-lieu/van-hoa-nghe-thuat/van-

hoc/van-de-nghien-cuu-bieu-tuong-tho-ca-tru-tinh-viet-nam.htmlU8T).

Bài viết “Về biểu tượng lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều”, tác giả Đặng

Vũ Hoàng (8TUhttp://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2009/10/ 54220.candU8T).

Bài viết “Biểu tượng thiên nhiên trong thơ nữ thời kì chống Mỹ”

(8TUhttp://vienvanhoc.org.vn/print/nghiencuulyluan/641/bieu-tuong-thien-nhien-trong-

tho-nu-thoi-ki-chong-my.aspxU8T).

Nhìn chung, các tác giả đã đi vào trọng tâm lý thuyết của biểu tượng nghệ

thuật. Từ đó làm cơ sở khảo sát về nội dung và hình thức ở các hiện tượng văn học

cụ thể.

4.2. Về biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh

Như chúng ta đã biết, Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi bật

nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp của bà luôn là một đề tài

gây được sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu học thuật. Không chỉ là một tài

năng đặc biệt trong nghệ thuật mà ngay cả cuộc đời thực của mình bà cũng có một

số phận đặc biệt. Vì thế, những bài viết, những bài nghiên cứu về cuộc đời và sự

nghiệp tác giả đã có số lượng khá lớn.

Đó là những bài viết tưởng niệm và tỏ lòng tiếc thương đối với sự ra đi của

Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ. Đây là những tư liệu quan trọng về cuộc đời thực

của Xuân Quỳnh, liên quan đến những yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan ảnh

hưởng đến việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật mà trong luận văn Biểu tượng

nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh kế thừa: (“Xuân Quỳnh – một nửa đời tôi” –

Đông Mai, “Xuân Quỳnh qua thời gian” – Vân Long, “Nhớ chị” – Lê Minh Khuê,

“Xuân Quỳnh – người mẹ, người vợ” – Vũ Thị Khánh, “Vài kỷ niệm” – Thạch

Quý, “Thương tiếc bạn gái Xuân Quỳnh” – Phan Thị Thanh Nhàn, “Con người và

10

nhà thơ” – Lại Nguyên Ân, “Quỳnh ơi” – Nguyễn Thị Như Trang, “Nhớ về một tài

năng” – Ngô Văn Phú, “Ngày cuối cùng của Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ và cháu

Quỳnh Thơ” – Doãn Châu, “Thương nhớ Xuân Quỳnh” – Nguyễn Thị Ngọc Tú,

“Tưởng nhớ Xuân Quỳnh” – Ý Nhi, “Tưởng niệm” – Vân Long, “Chẳng còn nữa

anh và em” – Nguyễn Thị Hồng Ngát, “Kinh cầu trong mưa” – Hoàng Phủ Ngọc

Tường, “Về một nhà thơ chết trẻ” – Hà Phương, “Nhớ một nhà thơ” – Tuyết

Nga,…) [21; tr.207 - 311].

Hay đó là những bài viết về những tác phẩm đặc sắc của Xuân Quỳnh

(“Sóng còn mãi nổi sóng” – Bùi Thị Tanh Hà, “Lại đọc Sóng của Xuân Quỳnh” –

Chu Văn Sơn, “Sóng” – Trần Đăng Suyền, “Sóng” – Trần Thị Thìn [21; tr.161-

194], “Cảm nghĩ về bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh”, Nguyễn Ngọc Thảo

[Tạp chí văn học và tuổi trẻ, 2001, số 153; tr.51 – 53], “Chuyện cổ tích về loài

người” – Đào Ngọc Chương [Tạp chí nghiên cứu văn học, 2007, số 10; tr.137]. Đây

là những cứ liệu quan trọng cho những biểu tượng nghệ thuật (sóng, tiếng gà) trong

thơ Xuân Quỳnh mà người viết kế thừa trong luận văn.

Hoặc là những bài viết đánh giá chung về thơ Xuân Quỳnh ở cả hai phương

diện nội dung và nghệ thuật ( “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh” – Lưu Khánh Thơ,

“Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh”– Lê Thị Ngọc Huỳnh, “Xuân Quỳnh”

– Mai Hương, “Người đàn bà yêu và làm thơ” – Đoàn Thị Đặng Hương, “Thơ tình

Xuân Quỳnh – Sự thể hiện sức mạnh của một tâm hồn phụ nữ” – Nguyễn Thị Bích

Ngọc, “Một giọng thơ tình ám ảnh” – Nguyễn Thị Minh Thái, “Những tình cảm

trắc ẩn trong thơ Xuân Quỳnh, Xuân Quỳnh và những buồn vui kiếp hoa dại”–

Vương Trí Nhàn, “Cánh chuồn trong giông bão” – Chu Văn Sơn, “Vẻ đẹp thơ Xuân

Quỳnh” – Nguyễn Xuân Nam) [21; tr.9 - 146]. Người viết cũng tiếp nhận những ý

kiến xoay quanh về những đặc sắc trong phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh từ

những bài viết này.

Song, nghiên cứu một cách kĩ lưỡng và đầy đủ về các vấn đề xoay quanh đề

tài Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh thì rất ít. Hầu hết các luận văn,

các bài báo, các sách khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đều nhìn một cách chung

11

chung về các biện pháp nghệ thuật được nhà thơ sử dụng, thông qua đó làm nổi bật

tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Phần lớn các tác

giả đề cập đến các khái niệm như hình ảnh, hình tượng, ẩn dụ, hoán dụ,…những

khái niệm rất gần với biểu tượng nghệ thuật.

Trong luận văn thạc sĩ Thi pháp thơ Xuân Quỳnh, tác giả Nguyễn Thị

Thanh Trúc khi bàn về “Ngôn ngữ, giọng điệu và hình ảnh trong thơ Xuân Quỳnh”

có đề cập đến những hình ảnh xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh như: hình ảnh cỏ

dại, hình ảnh bàn tay, hình ảnh trái tim [55; tr.138 – 147].

Trong luận văn thạc sĩ Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, tác giả

Đinh Thị Phương Hà trong chương “Xuân Quỳnh – Thế giới nghệ thuật độc đáo”

đã viết rất hay về các hình ảnh “đơn sơ, giản dị mà giàu sức gợi cảm” như: hình

ảnh trái tim, hình ảnh bàn tay, hình ảnh hoa – cỏ dại, hình ảnh con tàu – sân ga, hình

ảnh thuyền – biển – sóng [23; tr.78 – 98].

Trong luận văn thạc sĩ Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, tác giả

Nguyễn Thị Huyền Lê đã dành một dung lượng rất ưu ái để nói về các hình tượng

thơ: hình tượng sóng – biển, hình tượng cỏ dại, hoa dại, hình tượng con tàu – sân

ga, hình tượng bàn tay, hình tượng trái tim [30; tr.70 – 79].

Trong luận văn thạc sĩ Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh, tác giả

Tô Hà Tường Vân khi nói về hình tượng cái tôi đã rất chú trọng đến những hình

tượng sóng – biển, hình tượng đôi bàn tay, hình tượng con tàu – sân ga, hình tượng

trái tim [56; tr.41 – 62].

Trong luận văn tốt nghiệp Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh, tác giả Ngô Như

Quỳnh bàn về “Bản sắc ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh” đã nói chi tiết về những hình

ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng như: bàn tay, ngọn lửa, hoa cỏ dại, con tàu –

sân ga, thuyền – biển – sóng [41; tr.80 – 89].

Trong luận văn tốt nghiệp Tư duy nghệ thuật thơ của Xuân Quỳnh, tác giả

Trần Thanh Bình có nói đến “Tư duy nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh trên bình diện nội

dung trữ tình” và trong đó tác giả nhắc đến hình tượng sóng nước và hình tượng

hoa cỏ trong thơ Xuân Quỳnh [6; tr.34 – 38].

12

Trong luận văn Một số đặc trưng ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh, tác giả

Trương Thị Hiền khi nói về “Đặc trưng từ ngữ trong thơ” ở mục “Ẩn dụ tu từ” có

nói đến ẩn dụ hoa, ẩn dụ cỏ và cát, ẩn dụ con đường, ẩn dụ thuyền và biển [104;

tr.36 - 48].

Tuy nhiên, ở các luận văn trên, các tác giả chỉ nhìn nhận một cách sơ lược,

cảm nhận và phân tích một cách khái quát ở góc độ là hình ảnh, hình tượng, ẩn dụ,

hoán dụ, chứ chưa chỉ ra hệ thống và đặc điểm, cũng như bàn về phương diện

truyền thống và cách tân ở góc độ biểu tượng nghệ thuật.

Song song với vấn đề trên, nếu ở luận văn, chúng tôi đề cập đến những yếu

tố ảnh hưởng đến việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh,

thì hầu hết ở các luận văn khác, tác giả đi vào một cách tổng quát những yếu tố ảnh

hưởng đến toàn bộ các sáng tác của nhà thơ Xuân Quỳnh.

Trong luận văn thạc sĩ Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Nguyễn Thị

Huyền Lê đã đề cập đến “Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hồn thơ Xuân

Quỳnh” mà trong đó yếu tố gia đình, hoàn cảnh lịch sử, cá tính được tác giả điểm

qua [30; tr.37 – 42].

Trong luận văn thạc sĩ Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, tác giả

Đinh Thị Phương Hà bàn kĩ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hồn thơ Xuân Quỳnh,

tác giả cho rằng không khí thời đại và tình hình văn học giai đoạn từ 1964 đến sau

1975 và những thăng trầm trong đời riêng là những yếu tố ảnh hưởng đến sáng tác

của Xuân Quỳnh [23; tr.18 – 25].

Trong bài viết “Xuân Quỳnh - Một nửa cuộc đời tôi”, Đông Mai – chị ruột

của Xuân Quỳnh đã ghi lại rất chân thực, sinh động những yếu tố ảnh hưởng đến

sáng tác của Xuân Quỳnh. Bài viết nói về quê hương sinh ra Xuân Quỳnh, gia đình

của Xuân Quỳnh với những ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ và người cha. Đồng

thời đề cập đến cuộc sống đời tư của chị, trong đó hình ảnh người chồng và những

đứa con là nguồn cảm hứng, chất liệu thực cho những sáng tác của chị [33, tr.103 –

126].

13

Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu khoa học đã đi vào

phân tích, tìm hiểu, đánh giá, so sánh, nhận xét,…về các sáng tác của Xuân Quỳnh.

Đồng thời cũng đã nhìn nhận những giá trị về nội dung và nghệ thuật của Thơ Xuân

Quỳnh. Ngoài ra, các bài viết xoay quanh về cuộc đời thực của Xuân Quỳnh càng

tăng sự tò mò và là cơ sở để chúng ta hiểu thêm các sáng tác của Xuân Quỳnh. Đặc

biệt, những bài viết tỏ lòng kính mến, ngưỡng mộ và tiếc thương cái chết của Xuân

Quỳnh nói riêng và của chồng, con Xuân Quỳnh nói chung. Ở đây, người viết, trên

cơ sở tiếp bước, từ những nền tảng của các công trình nghiên cứu trước sẽ không

dừng lại ở hiện tượng mà rút ra bản chất, cũng như lý giải chúng trên những nền

tảng khoa học vững chắc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi tiến hành các phương pháp sau:

Thứ nhất, phương pháp luận chung, đó là phương pháp theo mô hình kết cấu

vòng tròn khép kín (chủ nghĩa Mác - Lê Nin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử): từ thực tiễn, rút ra lý thuyết, sau đó trở về thực tiễn kiểm

chứng. Hay nói một cách khác là: Khái quát hóa - Chi tiết hóa - Khái quát hóa.

Thứ hai, phương pháp chuyên ngành: Phê bình Mới ( đặc biệt chú ý biểu

tượng và thơ ca), Phê bình Cấu Trúc (phân tích mối quan hệ của các biểu tượng),

Phê bình Giới (phát hiện tính Nữ trong biểu tượng),.. đây là những cơ sở quan trọng

đặt nền tảng cho việc hiểu đúng và lý giải đúng các biểu tượng nghệ thuật.

Thứ ba, các tiếp cận liên ngành (Lịch sử, Văn hoá, Phân tâm học, Triết

học,…) để lý giải tất cả các vấn đề xoay quanh biểu tượng nghệ thuật.

Thứ tư, các phương pháp phổ thông, bao gồm:

- Phương pháp hệ thống được dùng để xác lập tính nhất quán trong các biểu

tượng nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. Qua các chặng đường thơ khác nhau, những

biểu tượng nghệ thuật có những sự thay đổi nhất định, nhưng vẫn giữ nguyên được

bản chất của chúng. Để từ đó xác định được những đặc điểm của các biểu tượng

nghệ thuật trong thơ bà. Mâu thuẫn, nhưng thống nhất.

14

- Phương pháp lịch sử được sử dụng, đặt các sáng tác của nhà thơ vào trong

hoàn cảnh cụ thể. Từ đây, chúng tôi có thể lý giải cội nguồn hình thành các biểu

tượng nghệ thuật hình thành trong thơ bà. Đồng thời, đặt những sáng tác của thơ

Xuân Quỳnh trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại để thấy được sự tiếp

thu cũng như những sáng tạo riêng trong thơ Xuân Quỳnh. Đồng thời, bằng con

đường lịch sử, chúng ta có thể lý giải được những vấn đề phức tạp liên quan đến

những vấn đề thế giới, con người, hạnh phúc, giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia

đình, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật.

- Phương pháp so sánh được sử dụng, chủ yếu là so sánh các sáng tác của

Xuân Quỳnh với các nhà thơ, nhà văn cùng thời, khác thời trong và ngoài nước.

Qua đây, thấy được nét riêng, độc đáo, cái hay, cái đẹp và những đóng góp của nữ

sĩ.

- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm phân tích các bài thơ, những

đoạn thơ cụ thể, để từ đó thấy được đặc điểm của các biểu tượng nghệ thuật xuất

hiện trong thơ Xuân Quỳnh.

- Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê các biểu tượng nghệ thuật

xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh. Từ đó thấy được hệ thống, đặc điểm, cội nguồn

hình thành của các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh.

- Phương pháp thực chứng, thông qua tiểu sử cuộc đời của tác giả, những bài

viết về cuộc đời tư, cũng như những nhận xét, tư liệu của các người thân, bạn bè,

gia đình, đồng nghiệp của Xuân Quỳnh để có cái nhìn cơ sở, đầy đủ hơn về Xuân

Quỳnh và các biểu tượng nghệ thuật được hình thành trong thơ bà.

Thứ năm, phương pháp tổng hợp, các phương pháp trên không thực hiện

riêng lẻ, biệt lập mà được sử dụng kết hợp, xen kẽ với nhau trong quá trình nghiên

cứu luận văn.

6. Đóng góp của luận văn

Thứ nhất, về mặt lý luận, đây là một trong những luận văn đầu tiên nghiên

cứu tập trung về biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Vì thế, luận văn sẽ

góp một cái nhìn mới trong việc tiếp cận các sáng tác thơ Xuân Quỳnh thông qua

15

việc giải mã các biểu tượng nghệ thuật. Khác với các luận văn khác, nhìn nhận biểu

tượng nghệ thuật như là hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật ẩn dụ, nghệ thuật hoán

dụ, hình ảnh,…nghiêng hẳn ở góc độ hình thức nghệ thuật, ở luận văn này, người

viết cố gắng nhìn nhận toàn diện ở hai phương diện nội dung lẫn hình thức. Đó là

chỉ ra hệ thống và đặc điểm của các biểu tượng nghệ thuật: các biểu tượng đơn và

các biểu tượng kép (bổ sung thêm biểu tượng nghệ thuật như tiếng). Song song đó

làm rõ các biểu tượng nghệ thuật ở mặt cách tân, cụ thể là lạ hoá (hoán đổi, đa

giọng điệu,…), gợi - nén, ám ảnh (phép lặp ) - đây là vấn đề hoàn toàn mới vì chúng

tôi chưa thấy bất cứ một tài liệu nào đề cập đến. Đồng thời cố gắng đi vào lý giải sự

kế thừa của các biểu tượng nghệ thuật trên bình diện truyền thống qua các yếu tố

khách quan (gia đình, quê hương, thời đại) và các yếu tố chủ quan (phương diện

tinh thần, tài năng nghệ thuật, vốn sống - vốn hiểu biết, quá trình lao động sáng tạo

nghệ thuật) – những yếu tố nằm bên ngoài tác phẩm, nhưng trực tiếp chi phối tác

phẩm. Qua đó, người viết cố gắng làm rõ cách tiếp cận các tác phẩm văn học bằng

con đường giải mã biểu tượng nghệ thuật.

Thứ hai, về mặt thực tiễn, Xuân Quỳnh là một tác giả tiêu biểu trong chương

trình giảng dạy phổ thông, do đó việc nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ

Xuân Quỳnh sẽ giúp giáo viên trung học phổ thông có cái nhìn đầy đủ hơn khi tiếp

cận các sáng tác của nữ sĩ. Sẽ bổ sung kiến thức và phương pháp giảng dạy mới cho

các giáo viên khi tiếp cận những sáng tác của nhà thơ bằng việc giải mã các biểu

tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Đồng thời, đây cũng là những tư liệu quan trọng

giúp các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu về thơ ca Xuân Quỳnh nói riêng và thơ

ca nói chung. Và cùng với Xuân Quỳnh, tất cả các tư tưởng, tình cảm của những

nghệ sĩ “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” trong và ngoài nước sẽ càng được

khẳng định như tuyên ngôn: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ

trong cốt tủy” (Sê – Khốp). Và mở rộng ra, không riêng gì với nghệ sĩ, mà với mỗi

con người là tìm được câu trả lời đâu là chân của hạnh phúc. Vấn đề thế giới, con

người, giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình, văn hóa và nghệ thuật luôn thường

16

trực, gắn bó và song hành với mỗi con người. Nếu hiểu được bản chất của nó,

chúng ta sẽ thích nghi và sống tốt.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu ( 17 trang), phần Kết luận (3 trang), phần Tài liệu tham

khảo1T ( 112 đề mục)1T 1Tt1Thì phần Nội dung của luận văn được chia thành ba chương.

Chương 1 là những vấn đề khái quát, chương 2 và chương 3 là phần triển khai vấn

đề cụ thể.

Chương 1: Những vấn đề chung ( 19 trang), tập trung giới thuyết về khái

niệm biểu tượng, biểu tượng nghệ thuật và giới thiệu một cách khái quát về cuộc

đời, sự nghiệp Xuân Quỳnh.

Chương 2: Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh – Hệ thống và đặc

điểm ( 63 trang), làm rõ hệ thống và đặc điểm của các biểu tượng nghệ thuật trong

thơ Xuân Quỳnh (các biểu tượng đơn, các biểu tượng kép) trên cơ sở vận dụng lý

thuyết biểu tượng nghệ thuật đã nêu ở chương 1.

Chương 3: Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh – Truyền thống và

cách tân ( 31 trang) lý giải việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật ở phương diện

truyền thống và cách tân. Ở chương này đề cập đến yếu tố khách quan (gia đình,

quê hương, thời đại), yếu tố chủ quan (phương diện tinh thần, vốn sống – vốn hiểu

biết, tài năng nghệ thuật, quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật) ở phương diện

truyền thống và những cách tân biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh cả

hình thức và nội dung (lạ hóa, gợi – nén, ám ảnh).

Ba chương trong luận văn được kết dính, nối tiếp, bổ sung cho nhau, trong

đó trọng tâm là chương 2, làm rõ hệ thống và đặc điểm biểu tượng nghệ thuật trong

thơ Xuân Quỳnh. Và cuối cùng, tất cả cùng đi đến mục đích là làm rõ đề tài Biểu

tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh.

17

NỘI DUNG

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật

1.1.1. Biểu tượng

Biểu tượng là một từ phổ thông và xoay quanh về khái niệm này có rất nhiều

ý kiến.

Theo Từ điển tiếng Việt, biểu tượng được hiểu là “hình thức của nhận thức,

cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác

động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt” hay “kí hiệu bằng hình đồ họa trên

màn hình máy tính, tượng trưng cho một chương trình, một file dữ liệu, người sử

dụng có thể kích chuột vào đấy để chọn một thao tác hoặc ứng dụng phần mềm nào

đó” [39; tr.112].

Hay một cách hiểu khác theo website 8TUhttp://en.wiktionary.org/wiki/symbol U8T

do tác giả Trần Hà Phương dịch và chọn lọc thì biểu tượng theo từ0T 0T8T Pháp là0T8T 0T8Tsymbole 8T

từ0T 0T8Ttiếng Latin là0T8T 0T8Tsymbolus8T,0T 0T8Tsymbolum8T0T 0T(0T 0T14Tmột dấu hiệu, nhãn hiệu, dấu hiệu, biểu

tượng, một tín ngưỡng0T14T 0T),0T 0Ttừ0T 0T8Ttiếng Hy Lạp cổ0T8T 0T3Tlà 3T8Tσύμβολον8T (0T 0T16Tsumbolon0T16T 0T,0T 0T14Tmột dấu hiệu

mà người ta suy luận ra một cái gì đó, một nhãn hiệu, dấu hiệu, huy hiệu, vé, kiểm

đếm, kiểm tra, một tín hiệu, khẩu hiệu, dấu hiệu bên

ngoài0T14T 0T),0T 0Ttừ0T 0T8Tσυμβάλλω8T0T 0T(0T 0T16Tsumballō0T16T 0T,0T 0T15Tđược hiểu như chức năng của14T15T dấu gạch ngang

nhằm để chỉ sự so sánh, tương ứng, kiểm đếm, kết luận0T14T 0T),0T..0T. Theo đó, nó được cụ thể

hóa bằng các nghĩa:

Thứ nhất, một0T 0T8Tnhân vật8T0T, 0Tmột ý tưởng, khái niệm hoặc đối tượng. Chẳng hạn,

người Trung Quốc sử dụng từ0T 0Tbiểu tượng0T 0Tcho văn bản hay sư tử là0T 0Tbiểu tượng0T 0Tcủa

lòng dũng cảm, con chiên là0T 0Tbiểu tượng0T 0Tcủa sự hiền lành và kiên nhẫn.

Thứ hai, bất kỳ đối tượng, điển hình là vật chất, mà có nghĩa là để đại diện

cho một (thường là trừu tượng) ngay cả khi không có mối quan hệ có ý nghĩa. Ví dụ

như đồng đô la0T 0Tbiểu tượng0T 0Tkhông có mối quan hệ với các khái niệm về tiền tệ hoặc

bất kỳ ý tưởng liên quan.

18

Thứ ba, 0T 0Tmột loại danh từ, theo đó các hình thức đề cập đến cùng một thực

thể độc lập với bối cảnh, một biểu tượng tùy tiện có nghĩa là một0T 0T8Tám8T ảnh0T 0T.

Thứ tư, một bản tóm tắt của một0T 0T8Tgiáo điều8T0T 0Ttuyên bố của đức tin. Chẳng hạn

như các Tông Đồ và những cuốn sách thú tội của đạo Tin Lành được coi là0T 0Tbiểu

tượng0T 0T.

Thứ năm, dấu vết có thể nhìn thấy hoặc hiển thị, thực hiện sử dụng một thiết

bị bằng văn bản hoặc công cụ, được kết nối với nhau và ngăn cách hoặc hơi tách

ra.0T 0TĐôi khi biểu tượng đại diện cho đối tượng hay sự kiện mà chiếm không gian

9TThứ sáu, 9Tcác0T 0T8Tsố0T8T 0T8Tbiểu hiện8T0T 0Tmà định nghĩa một0T 0T8Tmáy bay8T0T 0Tvị thế của liên quan

hoặc những điều không thể và không chiếm không gian.

đến các giả định0T 0T8Ttrục8T0T 0T.

Thứ bảy, biểu tượng như một quỹ chung, được bố nhiệm, phân phát,…rõ

ràng.

Thứ tám, biểu tượng được xem như cổ phần.0T

1.1.2. Biểu tượng nghệ thuật

1.1.2.1. Định nghĩa, đặc trưng và chức năng

Định nghĩa

Theo nguồn tham khảo 8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/SymbolU8T do tác giả Trần

Hà Phương dịch và chọn lọc gồm những ý kiến sau đây:

Một0T 0Tbiểu tượng0T 0Tlà một đối tượng đại diện, là viết tắt hoặc thể hiện một0T 0T8Tý

tưởng8T0T 0T, hình ảnh trực quan, niềm tin, hành động, hoặc các vật liệu8T thực thể8T0T 0T.0T 0TBiểu

tượng mang hình thức của các từ, âm thanh, cử chỉ, hoặc hình ảnh trực quan và

được sử dụng để truyền đạt ý tưởng và niềm tin.0T 0TVí dụ, một hình bát giác màu đỏ có

thể là một biểu tượng cho "Stop”.0T 0TTrên bản đồ, một hình ảnh của một chiếc lều có

thể đại diện cho một khu cắm trại.0T 0T8TChữ viết8T0T 0Tlà biểu tượng cho0T 0T8Tsố8T0T 0T.0T 0TTên cá nhân là

biểu tượng đại diện cho cá nhân.0T 0TMột bông hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu và

lòng từ bi. Trong0T 0T8Tbản đồ8T0T 0T, một bộ sưu tập tổ chức các biểu tượng tạo thành

một0T 0T8Thuyền thoại8T0T.

19

Biểu tượng có nguồn gốc từ0T 0T8Ttiếng Hy Lạp là0T8T 0Tsymbolon0T, 0Tcó nghĩa là mã thông

báo hoặc khẩu hiệu. Sự phát triển có ý nghĩa trong tiếng Hy Lạp là từ “ném đồ vật

lại với nhau”, để chỉ sự “tương phản”, so sánh để nhận ra dấu hiệu được sử dụng

trong tình huống đó đâu mới là gốc.

Trong việc xem xét tác động của một biểu tượng ở phương diện tinh thần,

trong bài viết sâu sắc của0T 0T8TJoseph Campbell8T0T 0Tđề xuất định nghĩa sau đây: 0T 0TMột biểu

tượng là một năng lượng không ngừng khơi dậy, chỉ đạo,…

Và từ định nghĩa trên của Campbell, có thể mở rộng ra: Một biểu tượng, như

mọi khái niệm khác chứa đựng những khía cạnh khác nhau. Chúng ta phải phân biệt

giữa khái niệm “cảm giác” và khái niệm “ý nghĩa” của biểu tượng. Rõ ràng tất cả

các hệ thống tượng trưng lớn và nhỏ có chức năng của nó và thường là tồn tại ở quá

khứ . Đồng thời trên các cấp độ: hữu hình của ý thức tỉnh táo, tinh thần của giấc mơ,

cảm giác thì nó được hiểu như các dấu hiệu. Các cảm giác có thể không thể nhận

thấy được, hay nói cách khác là không hiểu được mà chỉ có thể được cảm nhận. Về

góc sáng tạo, nghệ thuật không phải đơn thuần là “biểu hiện”, hay nó thậm chí càng

không phải cuộc tìm kiếm, xây dựng, chia sẻ kinh nghiệm đơn thuần từ góc độ lí trí,

8THeinrich Zimmer8T0T 0Tđưa ra một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về bản chất các

mà nó được khơi dậy, thăng hoa từ những cảm xúc.

biểu tượng: Từ những biểu tượng, các khái niệm, cũng như tầm nhìn, nghi lễ, và

hình ảnh hay nói cách khác là các phong tục tập quán của cuộc sống hàng ngày

thông qua tất cả những sự thật siêu việt là được nhân đôi lên. Biểu tượng chứa

đựng cả những ẩn dụ, phản ánh và ám chỉ điều gì đó. Mặc dù, có biểu hiện, nhưng

không thể tả được, nó đa dạng, nhưng vẫn bí ẩn. Biểu tượng bản thân nó là một sự

thật, nhưng lại mâu thuẫn ở chỗ khó tin, nên đôi khi được hiểu nhầm không phải là

sự thật. Mỗi nền văn minh, mọi thời đại sẽ mang cho mình một biểu tượng riêng.0T

Trong cuốn sách0T 0TCác dấu hiệu và biểu tượng, tuyên bố rằng0T 0Tmột biểu tượng

là một hình ảnh trực quan hoặc dấu hiệu đại diện cho một ý tưởng -. một chỉ số sâu

sắc hơn về một chân lý phổ quát0T.

20

Biểu tượng là một phương tiện truyền thông phức tạp mà đôi khi có thể có

nhiều tầng lớp ý nghĩa này chia các biểu tượng từ các dấu hiệu, như dấu hiệu chỉ có

một ý nghĩa.

Nền văn hóa con người sử dụng các ký hiệu để thể hiện tư tưởng cụ thể và

cấu trúc xã hội và đại diện các khía cạnh của nền văn hóa cụ thể của họ.0T 0TNhư vậy,

biểu tượng mang ý nghĩa mà phụ thuộc vào nền văn hóa của một người, nói cách

khác, ý nghĩa của một biểu tượng không phải là vốn có trong các biểu tượng riêng

của mình nhưng mà là cả một văn hóa cộng đồng.

Biểu tượng là cơ sở của mọi sự hiểu biết của con người và phục vụ lại con

người, nó như là phương tiện chứa đựng quan niệm cho tất cả các kiến thức của con

người.0T 0T Biểu tượng tạo điều kiện cho sự hiểu biết về thế giới mà chúng ta đang

sống, làm căn cứ phục vụ lại cho hành động của con người.0T 0TBằng cách này, người

sử dụng các biểu tượng không chỉ có ý nghĩa của thế giới xung quanh, mà còn

để0T 0T8Txác định8T0T 0Tvà hợp tác trong xã hội thông qua0T 0Tnhững thông điệp được chứa đựng

trong biểu tượng.

Nhà phân tâm học Thụy Sĩ0T 0T8TCarl Jung8T0T 0T, người đã nghiên cứu0T 0T8Tcác nguyên

mẫu8T0T 0T, đề xuất một định nghĩa khác của biểu tượng, phân biệt nó từ thuật ngữ0T 0T8Tdấu

hiệu8T0T 0T.0T 0TTheo quan điểm của Jung, một dấu hiệu tượng trưng cho một cái gì đó được

biết đến, như là một từ viết tắt ám chỉ của nó.0T 0TÔng tương phản với0T 0Tbiểu tượng0T 0T, mà

ông sử dụng để đại diện cho một cái gì đó chưa được biết và không thể được thực

hiện rõ ràng và chính xác.0T 0TMột ví dụ về một biểu tượng trong ý nghĩa này là0T 0T8TChúa

Kitô8T0T 0Tnhư một biểu tượng của0T 0T8Tnguyên mẫu8T0T 0Tđược gọi là0T 0T8Ttự8T0T 0T. Ví dụ, chữ viết được sáng

tác của một loạt các biểu tượng khác nhau mà tạo ra những từ.0T 0TThông qua các chữ

viết con người giao tiếp với nhau.

Burke tiếp tục mô tả các biểu tượng như cũng được bắt nguồn từ0T 0T8TSigmund

Freud8T0T,0T nói rõ thêm rằng họ không phải chỉ liên quan đến0T 0T8Tlý thuyết của những giấc

mơ8T0T 0Tmà còn để “hệ thống biểu tượng bình thường”.0T 0TÔng nói rằng họ có liên quan

thông qua “thay thế”, trong đó một từ, cụm từ, hoặc biểu tượng được thay thế cho

nhau để thay đổi ý nghĩa. Nói cách khác, nếu một người không hiểu một từ hay cụm

21

từ nào đó, một người khác có thể thay thế một từ đồng nghĩa hoặc biểu tượng để có

được ý nghĩa của từ gốc hoặc cụm từ trên.0T 0TTuy nhiên, khi đối mặt với phương pháp

mới để giải thích một biểu tượng cụ thể, một người có thể thay đổi ý tưởng đã hình

8TJean Dalby Clift8T0T 0Tcho biết những người không chỉ có thêm cách giải thích

thành của mình để kết hợp các thông tin mới.

riêng của họ để biểu tượng, họ cũng tạo ra các biểu tượng cá nhân đại diện cho sự

hiểu biết của họ về cuộc sống của họ, và cô gọi là đó là “hình ảnh cốt lõi” của con

người.0T 0TBà lập luận rằng công việc mang tính biểu tượng với các biểu tượng cá nhân

hoặc hình ảnh cốt lõi có thể là hữu ích như làm việc với các biểu tượng giấc mơ

trong phân tâm học hoặc tư vấn.

William Indick cho thấy những biểu tượng thường được tìm thấy trong thần

thoại, truyền thuyết, và tưởng tượng thực hiện chức năng tâm lý và do đó là lý do tại

sao các nguyên mẫu chẳng hạn như “người anh hùng”, “công chúa” và “phù thủy”

8TPaul Tillich8T0T 0Tcho rằng, trong khi dấu hiệu được phát minh và lãng quên, biểu

vẫn còn phổ biến trong nhiều thế kỷ. 0T 0T

tượng được sinh ra và chết.0T 0TDo đó, có các biểu tượng đã chết và sống.0T 0TMột biểu

tượng sống có thể tiết lộ cho một mức độ ẩn cá nhân của thực tế ý nghĩa và siêu việt

hay tôn giáo.0T 0TTillich cho rằng một biểu tượng không định lượng và bí ẩn, mang tính

hướng nội, chiều sâu. Biểu tượng rất phức tạp, và ý nghĩa của chúng có thể phát

triển trong vô thức cá nhân (cá tính - cái tôi) hay vô thức tập thể (văn hóa - cộng

đồng).0T 0TKhi một biểu tượng mất đi ý nghĩa và mất đi sức mạnh trong cá nhân hay

trong tập thể thì nó trở thành một biểu tượng chết.0T 0TCác0T 0T8Tvị thần Hy Lạp8T là một ví dụ,

đó là biểu tượng sống cho những người Hy Lạp cổ đại, nhưng ý nghĩa và sức mạnh

đó bây giờ đã biến mất.

Khi một biểu tượng trở nên đồng nhất với thực tế cái mà nó đề cập đến một

cách sâu sắc, thì nó trở nên hiện tượng sùng bái, hay nói cách khác là thần tượng,

biểu tượng đó được xem là tấm gương soi chiếu cho thực tế.0T 0TBiểu tượng có ý nghĩa

thực tế như một sự truyền đạt.0T 0TTính chất độc đáo của một biểu tượng là nó cho phép

truy cập vào các lớp sâu hơn của thực tại là không thể tiếp cận, hay nói cách khác là

22

nó luôn cuốn hút, hấp dẫn,…nhưng khó chạm được. Giống như những bản nhạc

không lời bất hủ của Mozart, Beethoven,… đầy cung bậc, nghe nhưng mấy ai đồng

điệu được.

Một biểu tượng của0T 0T8Tý nghĩa8T0T 0Tcó thể được sửa đổi bởi các yếu tố khác nhau

bao gồm cả việc sử dụng phổ biến,0T 0T8Tlịch sử8T0T 0T, và theo ngữ cảnh0T 0T8Tmục đích8T0T 0T.

Điều này lịch sử của một biểu tượng là một trong nhiều yếu tố trong việc xác

định nghĩa rõ ràng một biểu tượng cụ thể.0T 0TDo đó, các biểu tượng với sức mạnh cảm

xúc mang vấn đề tương tự0T 0T8Ttừ nguyên sai8T0T 0T.

Bối cảnh của một biểu tượng có thể thay đổi ý nghĩa của nó.0T 0TSao năm cánh

tương tự có thể biểu hiện một0T 0T8Tthực thi pháp luật8T0T 0Tsĩ quan hoặc một thành viên của0T 0T8Tlực

lượng vũ trang8T, phụ thuộc vào 8Tbộ đồng phục8T0T 0T.

Một0T 0Thành động mang tính biểu tượng0T 0Tlà một hành động mà không có, hoặc

rất ít, hiệu quả thiết thực nhưng tượng trưng, hoặc tín hiệu, những gì các diễn viên

muốn hoặc tin.0T 0THành động truyền tải ý nghĩa cho người xem.

Hành động tượng trưng có thể trùng với0T 0T8Tbài phát biểu mang tính biểu tượng8T0T 0T,

chẳng hạn như việc sử dụng các0T 0T8Tlá cờ đốt8T0T 0Tđể thể hiện thái độ thù địch hoặc chào cờ

để bày tỏ lòng yêu nước.

Phản biện công khai mạnh mẽ, các doanh nghiệp, tổ chức, và các chính phủ

có thể có những hành động mang tính biểu tượng hơn, hoặc thêm vào, trực tiếp giải

quyết các vấn đề được xác định.0T 0T

Hành động mang tính biểu tượng đôi khi bị chế nhạo, vì xem là giả tạo và

mang tính giải trí, không phù hợp với số đông còn lại, thậm chí nó được xem như

hành động ngốc nghếch.0T

Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng là “hình ảnh sáng tạo nghệ thuật có ý

nghĩa tượng trưng” [39; tr.112].

Theo bài dịch “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa” (Iu. Lotman) của Trần

Đình Sử thì từ “biểu tượng” (symbol) còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù

hiệu, kí hiệu, là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học

23

về kí hiệu. Cụm từ “ý nghĩa biểu trưng” được sử dụng rộng rãi như là một từ đồng

nghĩa với tính kí hiệu” (8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?tag=bieu-tuongU8T).

Một định nghĩa khác: “Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật là các biểu tượng nghệ

thuật được cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học. Trong phạm vi

ngôn ngữ văn học, các biểu tượng tâm lý, biểu tượng văn hóa đều được chuyển

thành cấu tứ biểu tượng”. Về mặt chất liệu biểu tượng ngôn từ là sự tín hiệu hóa

các hình thức vật chất cụ thể (sự vật, trạng thái, hành động) và các ý niệm trừu

tượng trong đời sống tinh thần của con người qua hệ thống âm thanh ngôn ngữ. Và

“cấu trúc ngôn từ của tác phẩm văn học có thể xem như một tổng thổng các tín hiệu

thẩm mỹ trong đó đóng vai trò quan trọng thuộc về các từ - biểu tượng với tư cách

là những điểm nhấn trong tổng thể đó” [98; tr.11]

Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính thì biểu tượng được hình thành trong một

quá trình lâu dài có tính chất ước lệ và bền vững. Biểu tượng là cái nhìn thấy mang

ký hiệu dẫn ta tới cái không nhìn thấy được.

Biểu tượng là vật môi giới giúp chúng ta tri giác cái bất khả tri giác.

Biểu tượng được hiểu tượng trưng các hình ảnh được cả cộng đồng chấp

nhập và được sử dụng rộng rãi trong thời gian dài lâu.

Nghĩa của biểu tượng phong phú, nhiều tầng bậc bên trong nhiều khi khó

nắm bắt.

Biểu tượng thể hiện quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng của từng nhóm tác giả, có

khi của riêng một nhóm tác giả, từng thời đại, từng dân tộc, từng khu vực lưu trú.

Thường ở biểu tượng, nghĩa đen, nghĩa biểu vật ít khai thác, mà khai thác

nhiều ở nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm”.

(8TUhttp://www.vtv2.tuvantuyensinh.vn/video/detail/bai-09:-mot-so-bieu-tuong-va-

hinh-anh-trong-ca-dao-174.htmlU8T).

Trên đây, là những cách hiểu xoay quanh khái niệm biểu tượng nghệ thuật.

Trong khuôn khổ của luận văn, đứng ở góc độ ngôn ngữ thì biểu tượng ngôn từ

(word - symbol): tín hiệu hóa, mã hóa bằng ngôn ngữ được hiểu theo nghĩa rộng

nhất là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm tính (tồn tại

24

trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: (cái biểu

trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lý do, tính tất yếu [98;

tr.10].

Đặc trưng

Về hình thức biểu tượng nghệ thuật thể hiện thông qua yếu tố ngôn ngữ, là

những tín hiệu mà theo L.Hjemslev là có tính phức hợp trong cấu tạo. Ba đặc tính

nổi trội nhất của biểu tượng nghệ thuật (biểu tượng ngôn từ) là: tính đa trị, tính khả

biến, tính tương tác.

Tính đa trị - vừa là đặc điểm vừa là hiệu quả của biểu tượng. Biểu tượng có

sức nén các tầng nghĩa bởi nó là sản phẩm của sự cộng hưởng, tương tác và thâm

nhập đa tầng văn hóa, kinh nghiệm sáng tác của mỗi chủ thể, từ đó tạo đặc tính đa

nghĩa, đa chiều, hay còn gọi là đa bội về giá trị, ý nghĩa. Từ một lượng tin cụ thể,

xác định lượng tin cơ sở biểu tượng tạo nên trường liên tưởng cấp số nhân “sự ứ

tràn nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của nó” - Tzvetan Todorov. Các ý nghĩa, các

giá trị của nó được gợi lên ở nhiều tầng bậc, nhiều cấp độ với sự dồn nén, cô đúc

của cái được biểu đạt từ một cái biểu đạt. Theo Gerand de Champeaux và

Domsterckx đó là đặc tính đặc biệt của biểu tượng: “chúng cô đúc vào tiêu điểm của

một hình ảnh duy nhất toàn bộ một trải nghiệm tinh thần…Chúng vượt lên trên các

nơi chốn và các thời điểm, các tình huống cá nhân và các hoàn cảnh ngẫu nhiên,

bằng cách quy tất cả chúng về một thực tại sâu sắc hơn, là lẽ tồn tại tối hậu của

chúng”

Tính khả biến - đặc tính tiêu biểu nhất, nổi trội nhất của các biểu tượng. Đó

chính là khả năng biến đổi ý nghĩa, sức sản sinh dồi dào của cái được biểu đạt từ

một cái biểu đạt. Tính khả biến của biểu tượng là nghĩa không cố định mà thay đổi,

biến đổi theo môi trường, thời kỳ, cá nhân, cộng đồng dân tộc…Đó là khả năng chu

chuyển liên tục, tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt. Quá trình

biến đổi đó theo tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa diễn ra qua hai cấp độ mô hình hóa

như sau:

25

Từ - Biểu tượng

(Biến đổi ý nghĩa cấp độ 1)

Các biến thể từ ngữ

(Hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ màu gốc đến hệ biểu tượng)

Phân hóa Chi tiết hóa Tương đồng Tương phản

(Biến đổi ý nghĩa cấp độ 2)

Biến thể kết hợp

(Hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ bình diện văn hóa đến bình diện chủ thể)

Tương tác Cộng hưởng

(Biến đổi sắc thái ý nghĩa) (Nảy sinh nghĩa mới)

Mô hình quá trình biến đổi ý nghĩa biểu tượng trên đã giải thích, cắt nghĩa

triệt để tính khả biến của biểu tượng - một đặc tính trung tâm của biểu tượng. Mô

hình đã khái quát hóa và cá biệt hóa được quy trình biến đổi ý nghĩa của biểu tượng

trong ngôn ngữ nghệ thuật.

Ngoài ra, một trong những đặc tính quan trọng của biểu tượng ngôn từ là tính

tương tác hay còn gọi là tính thâm nhập lẫn nhau của các biểu tượng. Các biểu

tượng thường xuyên liên hệ, tương tác lẫn nhau theo cơ chế tạo nghĩa, biểu trưng

sâu hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn. Đó là mối quan hệ tự nhiên, tất yếu của các

yếu tố thuộc cùng phạm trù hoặc cùng hệ thống [98, tr.11 - 12].

Chức năng

Có nhiều chức năng, nhưng chủ yếu là ba chức năng chính: chức năng biểu

hiện, chức năng thẩm mỹ, chức năng tác động.

Chất liệu của bất kỳ loại hình nghệ thuật nào cũng đều đảm nhiệm chức năng

biểu hiện. Với tác phẩm văn học thì đó là ngôn từ - biểu tượng là tâm điểm của năng

lượng tinh thần, là tâm điểm cơ thể phát ra vô số những vòng song với tần số khác

nhau. Chức năng của biểu tượng ngôn từ là biểu hiện nhận thức thẩm mỹ của chủ

thể (chủ thể thẩm mĩ sáng tạo nghệ thuật về đời sống, về thực tại). Biểu tượng là cơ

sở của trí tưởng tượng và liên tưởng tự do với những mối liên hệ vô tận. Vì thế biểu

26

tượng ngôn từ trở nên giàu có về khả năng biểu đạt, sức chứa đựng, sức dồn nén

khiến cho tác phẩm trở nên cô đọng, hàm súc.

Nó giúp cho tác phẩm văn học biểu hiện được mọi ý tính phong phú, mọi

tầng bậc cảm xúc. Biểu tượng xuất hiện ở nơi mà ngôn ngữ tự nhiên thuần túy cảm

thấy bất lực, không thể diễn đạt hết được. Khi những thực thể vật chất được định

danh, có tên gọi thì đó là những ký hiệu (sign), còn các biểu tượng (symbol) xuất

hiện khi cái được biểu đạt mơ hồ, chưa xác định.

Với khả năng biểu hiện sâu sắc và tập trung các lớp nghĩa, biểu tượng đảm

nhận tốt nhất chức năng thẩm mỹ. Biểu tượng tham gia trong cấu trúc chung của tác

phẩm nghệ thuật để xây dựng những hình tượng nghệ thuật sâu sắc, giàu giá trị tạo

hình và biểu cảm. Nhờ có biểu tượng mà hình tượng nghệ thuật trở nên lung linh, đa

nghĩa. Và thực chất bản thân biểu tượng cũng chính là hình tượng nghệ thuật sinh

động. Đó là những hình tượng nghệ thuật mà “ý nghĩa của biểu tượng ẩn sâu bên

trong, đòi hỏi trí não của con người một nguồn năng lực lớn lao để tìm tòi và khám

phá” – những hình tượng nghệ thuật có chiều sâu thẩm mỹ, có sức lay động mạnh

mẽ, có thể tác động sâu sắc tới tư duy và cảm xúc của con người.

Từ chức năng biểu hiện và những đặc tính của biểu tượng chúng ta có thể

thấy được vai trò, cơ chế tác động của nó. Nó tác động sâu sắc tới nhận thức, đời

sống tinh thần, tác động tới cảm xúc thanh lọc tâm hồn con người. Biểu tượng là sự

ký mã mà muốn có sự giải mã đòi hỏi phải có sự tương thích giữa văn hóa và tầm

nhận thức. Nhưng một sự thuận lợi là biểu tượng chứa trong đó mã văn hóa chung

thuộc bình diện văn hóa đồng thời lại mang đặc điểm bản thể văn hóa đời sống tâm

lý cá nhân nên nó có thể trực tiếp và dễ dàng giải mã. Đó cũng là một cơ sở để biểu

tượng có thể thực hiện thành công chức năng tác động sâu, rộng của mình. [98;

tr.12 - 14].

Hay theo một nguồn tham khảo Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới thì

biểu tượng có các chức năng như sau:

“Có thể nói chức năng thứ nhất của biểu tượng là thuộc lĩnh vực thăm dò.

Giống như một cái đầu thám hiểm thả mình vào cõi chưa biết, nó sục tìm và cố diễn

27

đạt cái ý nghĩa cuộc phiêu lưu tinh thần của con người đang lao mình qua cõi không

- thời gian. Quả thực nó cho phép ta nắm bắt bằng cách nào đó một mối liên hệ mà

lý trí không xác định được, bởi chỉ biết được một vế, còn vế kia lại không. Nó mở

rộng trường hoạt động của ý thức vào một lĩnh vực không thể có sự đo đếm chính

xác và bước vào đó là sẽ gặp một phần phiêu lưu và thách thức” [27; tr. XXIX].

“Chức năng thứ nhất này gắn liền chặt chẽ với chức năng thứ hai. Thực vậy,

cái chưa biết ở biểu tượng không phải là cái trống rỗng của sự không biết, đúng hơn

nó là cái không xác định của dự cảm. Một số hình ảnh có tính chuyển tải hay một

dạng thức ảnh – động lực sẽ phủ lên cái bất định ấy một tấm mạng che, nó sẽ đồng

thời là một chỉ dẫn hay một phát lộ đầu tiên.

Như vậy biểu tượng thực hiện chức năng vật thay thế. Dưới con mắt nhà

phân tâm học hay nhà xã hội học, bằng lối tượng hình, nó thay thế cho câu trả lời,

lời giải hay cách đáp ứng thỏa mãn cho một câu hỏi, một xung đột, một ham muốn,

lơ lửng trong vô thức” [27; tr.XXX].

“ Việc thay thế kéo theo một chức năng thứ ba: chức năng trung gian.

Biểu tượng thực sự thực hiện một chức năng trung gian; nó bắc những chiếc

cầu, nó tập hợp nhũng yếu tố riêng rẽ. Nó nối liền trời và đất, vật chất và tinh thần,

tự nhiên và văn hóa, thực và mộng, vô thức và ý thức. Đối lại với các lực ly tâm

của một tâm thần bản năng, có chiều hướng tản mạn trong muôn vàn cảm giác và

xúc động, biểu tượng đem đối diện một lực hướng tâm, bằng cách thiết lập đích xác

một trung tâm của các mối liên hệ, ở đó cái đa dạng được quy chiếu về và ở đó biểu

tượng tìm thấy sự thống nhất của mình. Biểu tượng sinh ra từ sự đối chiếu các

khuynh hướng đối nghịch và những lực lượng tương phản, mà nó tập hợp lại trong

các cấu trúc phân ly của một dục năng rối rắm bằng các cấu trúc kết hợp của một

dục năng được định hướng. Xét về mặt này, biểu tượng là nhân tố cân bằng. Một sự

kết hợp sống động các biểu tượng trong một tâm thần bảo đảm một hoạt động tinh

thần mãnh liệt và lành mạnh, đồng thời lại có tác dụng giải phóng. Biểu tượng mang

lại một sự hỗ trợ vào loại hiệu quả hơn cả cho sự phát triển nhân cách [27;

tr.XXXI].

28

“Một sự trung gian hòa giải là để nhằm cuối cùng tập hợp lại. Đấy là khía

cạnh khác trong vai trò chức năng của các biểu tượng: chúng là những lực thống

nhất. Các biểu tượng cơ bản cô đúc kinh nghiệm tổng thể của con người về tôn

giáo, vũ trụ, xã hội và tâm thần (ở ba cấp độ vô thức, ý thức, siêu thức): chúng cũng

thực hiện một sự tổng hợp thế giới bằng cách chỉ ra tính thống nhất cơ bản của ba

bình diện của thế giới (dưới mặt đất, trên mặt đất, trên trời) và trung tâm của sáu

phương không gian, bằng cách nêu bật ra các trục tập hợp lớn (mặt trăng, nước, lửa,

quái vật có cánh,…) cuối cùng chúng nối liền con người với thế giới, các qui trình

tích hợp cá nhân của con người nhập vào tiến hóa tổng thể, không cách biệt, cũng

chẳng lẫn lộn” [27; tr.XXXII].

“Là nhân tố hợp nhất, biểu tượng thực hiện một cách thích đáng một chức

năng giáo dục và cả trị liệu nữa. Thực vậy, nó tạo một cảm giác nếu không phải bao

giờ cũng là đồng nhất hóa, thì ít nhất cũng là tham gia vào một lực lượng siêu – cá

thể. Nối liền các yếu tố riêng biệt của vũ trụ, nó khiến đứa trẻ và con người cảm

thấy mình không phải là những sinh linh đơn độc và lạc loài trong cái tập hợp rộng

lớn bao quanh. Nhưng ở đây không nên lẫn lộn biểu tượng với cái hão huyền, cũng

chớ lẫn lộn việc bảo vệ nó với việc sùng bái cái phi thực tại. Dưới một hình thức

không chuẩn xác về khoa học, thậm chí ngây thơ, biểu tượng diễn đạt một thực tại

đáp ứng nhiều nhu cầu nhận thức, về tình yêu thương và về sự bình an” [27, tr.

XXXII].

“Nếu, bằng một sự phá vỡ tính thống nhất, biểu tượng có thể làm yếu đi cảm

giác về thực tại, thì nó vẫn thật sự là một trong những nhân tố mạnh mẽ nhất đưa

con người nhập sâu vào hiện thực, nhờ có chức năng xã hội hóa của nó. Nó tạo sự

thông lưu sâu sắc với môi trường xã hội. Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những

biểu tượng của mình: rung động trước cái biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm

người và thời đại ấy. Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết; xã hội thiếu

biểu tượng là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng thì sẽ chết;

nó chỉ còn thuộc về lịch sử.” [27; tr. XXXIII].

29

“Khoa xã hội học và khoa phân tích phân biệt rất đúng các biểu tượng chết

và các biểu tượng sống. Các biểu tượng chết không còn gây được âm văng trong ý

thức, cả cá nhân lẫn tập thể. Chúng chỉ còn thuộc về lịch sử, văn học hay triết học.

Cùng những hình ảnh ấy, sẽ là hình ảnh sống hay chết, tùy theo thiên hướng, các tư

thế tinh thần sâu xa của người chứng kiến, tùy theo sự phát triển xã hội. Chúng là

hình ảnh sống, nếu chúng khởi động toàn bộ con người anh ta một âm vang rung

động; là hình ảnh chết nếu chúng chỉ là một đồ vật bên ngoài, hạn chế trong chính

những ý nghĩa khách quan của chúng. Đối với người Hinđu, thấm nhuần tư tưởng

đạo Vệ Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tinh thần khác hẳn đối với người nuôi bò

xứ Normandie. Sức sống động của hình tượng phụ thuộc vào vị thế của ý thức và

các dữ liệu của vô thức. Nó giả định trước một sự tham gia nào đó bí ẩn, một mức

đồng bản chất nào đó với cái vô hình; nó phục hoạt chúng, tăng cường chúng và

biến người chứng kiến thành người tham gia…

Như vậy biểu tượng sống trù định một chức năng cộng hưởng. Chuyển sang

bình diện tâm lý, hiện tượng này có thể so sánh với hiện tượng mà khoa động lực

vật lý gọi là một hiện tượng rung. Một vật thể, một chiếc cầu treo chẳng hạn, rung

theo tần số riêng của nó, có thể biến đổi theo các tác động như gió ảnh hưởng lên

nó. Nếu một trong những tác động đó, do tần số riêng của mình, cộng hưởng với tần

số của vật thể nọ, và nếu nhịp của chúng kết hợp với nhau, thì sẽ tạo ra một hiệu

quả khuếch đại các rung động. tăng tốc dao động, có thể dần dần dẫn đến xoáy cuộn

và đứt gãy. Chức năng cộng hưởng của một biểu tượng càng mạnh khi biểu tượng

càng kết hợp tốt hơn với khí hậu tinh thần của một người, một xã hội, một thời đại,

một hoàn cảnh. Nó giả định trước rằng, biểu tượng gắn với một tâm lý tập thể nhất

định và sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào một hoạt động thuần túy cá nhân. Và

nhận xét đúng cả với nội dung tưởng tượng cũng như với việc hiểu biểu tượng. Biểu

tượng tắm mình trong môi trường xã hội, dầu là nó nhô lên từ ý thức cá nhân. Sức

mạnh gợi mở và giải phóng của nó biến đổi theo hiệu quả cộng hưởng do mối tương

quan ấy giữa cái xã hội và cái cá nhân” [27; tr.XXXV].

30

“Mối tương quan ấy chỉ có thể được cân bằng trong một sự tổng hợp hài hòa

những đòi hỏi thường khác nhau giữa con người và cộng đồng. Một trong những vai

trò của biểu tượng là nối liền và điều hòa đến cả những đối lập. C. G. Jung gọi đặc

tính ấy của các biểu tượng, thiết lập một mối liên thông giữa các lực lượng đối

kháng và, từ đó, vượt lên trên các đối lập và mở đường cho một tiến bộ của ý thức,

là chức năng siêu nghiệm ( chức năng vào loại phức tạp nhất, và không chút nào sơ

đẳng; siêu nghiệm theo nghĩa chuyển từ một vị thế này sang vị thế khác, dưới tác

động của chức năng này). Nhiều trang viết trong một số những trang tinh tế nhất

trong tác phẩm của ông đã mô tả cải cách, thông qua chức năng siêu nghiệm này

của các biểu tượng, các lực lượng sống, - đối nghịch nhưng không hề là không

tương hợp, chỉ có thể thống nhất lại với nhau trong một quá trình phát triển thống

hợp và đồng thời, đã được tháo gỡ, mở cởi, triển khai như thế nào” [27; tr.XXXV].

“Như vậy ta thấy biểu tượng khắc sâu trong hoạt động tiến hóa toàn vẹn của

con người, chứ không chỉ làm phong phú các hiểu biết và làm xao động cảm quan

thẩm mỹ của nó. Cuối cùng nó thực hiện chức năng biến đổi năng lượng tâm thần.

Dường như nó hút sâu trong một máy phát cực chừng nào đó mơ hồ và hỗn độn, để

tạo ra một dòng năng lượng ổn định và làm cho nó trở thành hữu dụng cho ứng xử

nhân thế của cá nhân. G. Adler viết: Năng lượng vô thức không thể hấp thụ dưới

dạng những triệu chứng nhiễu tâm sẽ biến đổi thành năng lượng có thể thống hợp

vào hành vi hữu thức nhờ có biểu tượng, dù là biểu tượng ấy do từ một giấc mơ hay

từ bất cứ hoạt động nào khác của vô thức mà có. Chính là cái tôi phải hấp thụ năng

lượng vô thức được giải phóng ra từ một giấc mơ (hay một biểu tượng) và cũng chỉ

khi cái tôi đã chín muồi cho tiến trình thống hợp ấy thì sự thống hợp đó mới thực

hiện được.

Biểu tượng không chỉ biểu đạt các tầng sâu của cái tôi, khiến nó có hình thù

và diện mạo, bằng năng lượng xúc cảm của các hình ảnh của mình, nó còn kích

thích sự phát triển của các quá trình tâm thần. Giống như chiếc lò luyện đan, nó

chuyển hóa các năng lượng: nó có thể biến chì thành vàng và bóng tối thành ánh

sáng” [27; tr.XXXVI].

31

1.1.2.2. Phân biệt biểu tượng nghệ thuật với các khái niệm ẩn dụ, hoán

dụ, hình tượng, hình ảnh

Ẩn dụ (metaphor) là phép dùng từ ngữ dựa trên sự liên tưởng một đối tượng

này với đối tượng khác và gọi bằng tên của đối tượng khác và gọi bằng tên của đối

tượng khác ấy, nhằm nêu bật một tính chất nào đó. [39; tr.30].

Hoán dụ (metonymy) là biện pháp dùng tên gọi của sự vật này để chỉ sự vật

khác, như lấy tên gọi cái toàn thể để chỉ cái bộ phận, lấy tên gọi chứa đựng để chỉ

cái chứa đựng, hoặc ngược lại,…[39; tr.701].

Hình tượng (image) là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ

thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực

tiếp bằng cảm tính. [39; tr.690].

Hình ảnh (image) là khả năng gợi tả sinh động trong cách diễn đạt - lối diễn

đạt có hình ảnh - dùng những từ ngữ giàu hình ảnh. [39; tr.688].

Từ cách hiểu về biểu tượng ở trên, cũng như những cách hiểu về ẩn dụ, hoán

dụ, hình tượng, hình ảnh, chúng khác biểu tượng ở chỗ: biểu tượng là tổng hòa tất

cả của ẩn dụ, hoán dụ, hình tượng, hình ảnh, biểu tượng là cấp số bội của ẩn dụ,

hoán dụ, hình tượng, hình ảnh. Nói đến biểu tượng là chắc chắn chứa đựng trong đó

ẩn dụ, hoán dụ, hình tượng, hình ảnh; nhưng không phải ẩn dụ, hoán dụ, hình tượng,

hình ảnh nào cũng là biểu tượng.

1.1.2.3. Mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và biểu tượng nghệ thuật

Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành

động, ý niệm,…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức

cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng cho những nền

văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kỵ, thần linh, trang phục,…Biểu tượng

văn hóa bao gồm cả những biến thể vật chất (các ngành nghệ thuật như kiến trúc,

hội họa, điêu khắc,..) và phi vật thể (tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, văn học).

Biểu tượng nghệ thuật là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa trong

nhiều ngành nghệ thuật khác nhau (hội họa, âm nhạc, văn học, kiến trúc…) [98;

tr.10].

32

1.1.2.4. Sự khác nhau cơ bản giữa biểu tượng nghệ thuật trong thơ và

biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi.

Với đặc trưng về thể loại, biểu tượng nghệ thuật trong thơ (tác phẩm trữ tình

nói chung) và biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi (tác phẩm tự sự nói chung) có

sự khác nhau cơ bản.

Ở thơ ca, thế giới chủ quan của con người - cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ được

trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu. Nhân vật trữ tình trong thơ ca

thường có giọng điệu, cảm xúc cụ thể trong cách cảm, cách nghĩ. Và với dung

lượng ngắn, ít ỏi, thơ ca có sức nén, nên các biểu tượng nghệ thuật xuất hiện

trong thơ có tính đa nghĩa, ấn tượng. Đó như những ngòi nổ, lấp lánh, làm nên sự

sống cho bài thơ. Tính chất động, tĩnh tạo nên những ý nghĩa, sắc thái phong phú

bởi nhịp điệu của bài thơ. Một bài thơ có thể là vĩnh cửu nếu nhà thơ nắm bắt và

thăng hoa bằng một biểu tượng. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ mang tính quyết

định. Chủ đề, tư tưởng, thông điệp được dệt nên từ đó. Nhắc đến biểu tượng Lá

diêu bông - Hoàng Cầm, biểu tượng Sóng – Xuân Quỳnh, biểu tượng Bếp lửa –

Bằng Việt, …chúng ta đều hiểu và cảm được.

Ở văn xuôi, tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống, trong đó các nhân vật

có đường đi và số phận của chúng. Thường thể hiện tính cách nhận vật qua đối

thoại và độc thoại, những mâu thuẫn, xung đột, tình huống. Nhân vật trong các

tác phẩm văn xuôi thường có ngoại hình, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể. Với

dung lượng dài, dày, các biểu tượng nghệ thuật xuất hiện trong các tác phẩm văn

xuôi có thể nhiều hơn một và nó góp phần cùng với các phương tiện nghệ thuật

khác (nhân vật, cách đặt tác phẩm, kết cấu tác phẩm, ngôn ngữ, giọng điệu,…)

làm nên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, nhưng khác với tác phẩm thơ ca, nó

không mang tính chất quyết định. Biểu tượng Bến quê của Nguyễn Minh Châu

bản thân nó đã góp một phần nói lên chủ đề của tác phẩm, nhưng để thật thấu đáo

và toàn diện, chúng ta phải xét các khía cạnh khác của tác phẩm văn học.

33

1.2. Xuân Quỳnh – Cuộc đời và sự nghiệp

1.2.1. Cuộc đời

Xuân Quỳnh tên thật là0T 0TNguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày0T 0T8T6 tháng

108T0T 0Tnăm0T 0T8T19428T0T 0Ttại làng0T 0T8TLa Khê8T, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Đông (nay

thuộc quận0T 0T8THà Đông8T,0T 0T8THà Nội8T). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất

sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, bà được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi

trưởng thành.

Tháng 2 năm0T 0T8T19558T, Xuân Quỳnh được tuyển vào0T 0TĐoàn Văn công nhân dân

Trung ương0T 0Tvà được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở

nước ngoài và dự0T 0TĐại hội thanh niên sinh viên thế giới0T 0Tnăm0T 0T8T19598T0T 0Ttại0T 0T8TViena8T0T 0T(Áo).

Từ năm0T 0T8T19628T0T 0Tđến0T 0T8T19648T, Xuân Quỳnh học0T 0TTrường bồi dưỡng những người

viết văn trẻ0T 0T(khoá I) của0T 0T8THội Nhà văn Việt Nam8T. Sau khi học xong, làm việc tại

báo0T 0TVăn nghệ, báo0T 0TPhụ nữ Việt nam.

Xuân Quỳnh là hội viên từ năm0T 0T8T19678T, ủy viên Ban chấp hành0T 0T8THội Nhà văn

Việt Nam8T0T 0Tkhoá III.

Năm8T19738T, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ0T 0T8TLưu Quang Vũ8T,

trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công của0T 0TĐoàn Văn công

nhân dân Trung ương0T 0Tvà đã ly hôn.

Từ năm0T 0T8T19788T0T 0Tđến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản0T 0TTác

phẩm mới.

Xuân Quỳnh mất ngày0T 0T8T29 tháng 88T0T 0Tnăm0T 0T8T19888T0T 0Ttrong một tai nạn giao thông tại

đầu cầu Phú Lương,0T 0T8Tthị xã Hải Dương8T0T 0T(nay là thành phố), tỉnh0T 0T8THải Dương8T0T 0Tcùng với

chồng0T 0T8TLưu Quang Vũ8T0T 0Tvà con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.

1.2.2. Sự nghiệp

Xuất thân là một vũ công có nhiều thành tựu rực rỡ và đã đi lưu diễn nhiều

nơi, nhưng Xuân Quỳnh được biết đến nhiều hơn với vai trò là một nhà thơ. Từ giã

ánh hào quang của sân khấu, Xuân Quỳnh đến với sự nghiệp văn chương như một

lẽ tự nhiên. Sau hơn hai mươi lăm năm cầm bút (1963 – 1988) với các thể loại khác

nhau: thơ tình, thơ thiếu nhi, truyện thiếu nhi,….Xuân Quỳnh đã để lại một sự

34

nghiệp đồ sộ - đủ làm nên một phong cách nghệ thuật và một vị trí quan trọng trên

văn đàn Việt Nam.

• Tơ tằm - chồi biếc0T 0T(thơ, in chung, NXB Văn học, 1963)

• Hoa dọc chiến hào0T 0T(thơ, in chung, 1968)

• Gió Lào, cát trắng0T 0T(thơ, 1974)

• Lời ru trên mặt đất0T 0T(thơ, 1978)

• Sân ga chiều em đi0T 0T(thơ, 1984)

• Tự hát0T 0T(thơ, 1984)

• Hoa cỏ may0T 0T(thơ, 1989)

• Thơ Xuân Quỳnh0T 0T(1992 , 1994)

• Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ0T 0T(1994)

• Cây trong phố - Chờ trăng0T 0T(thơ, in chung)

Các tác phẩm chính:

• Bầu trời trong quả trứng0T 0T(thơ thiếu nhi, 1982)

• Truyện Lưu Nguyễn0T 0T(truyện thơ, 1985)

• Mùa xuân trên cánh đồng0T 0T(truyện thiếu nhi, 1981)

• Bến tàu trong thành phố0T 0T(truyện thiếu nhi, 1984)

• Vẫn có ông trăng khác0T 0T(truyện thiếu nhi, 1986)

• Tuyển tập truyện thiếu nhi0T 0T(1995).

• Chú gấu trong vòng đu quay0T 0T(tập truyện)

19TThành tựu nghệ thuật:

Các tác phẩm viết cho thiếu nhi:

Xuân Quỳnh được truy tặng0T 0T8TGiải thưởng Nhà nước8T0T 0Tvề Văn học nghệ thuật

năm0T 0T8T20018T.

Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính

tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say,

lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một

người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh đã

trở nên nổi tiếng như0T 0TThuyền và biển,0T 0T8TSóng8T0T 0T(viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc

35

chiến hào năm 1968),0T 0THoa cỏ may,0T 0TTự hát,0T 0TNói cùng anh... Các bài

thơ0T 0TSóng,0T 0TTruyện cổ tích về loài người0T 0T(Lời ru trên mặt đất, NXB Tác phẩm mới,

1978) được đưa vào0T 0T8Tsách giáo khoa8T0T 0Tphổ thông của0T 0T8TViệt nam8T. Nhạc sỹ0T 0T8TPhan Huỳnh

Điểu8T0T 0Tđã phổ nhạc rất thành công các bài thơ:0T 0TThuyền và biển0T 0T(4/1963),0T 0TThơ tình

cuối mùa thu0T 0Tcủa Xuân Quỳnh.

Trên đây là những hiểu biết chung về biểu tượng, biểu tượng nghệ thuật và

cuộc đời, sự nghiệp của Xuân Quỳnh, chúng sẽ là cơ sở để chúng tôi tiếp tục tiếp

cận các vấn đề cụ thể của luận văn Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh

ở chương 2 và chương 3.

36

Chương 2. BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH –

HỆ THỐNG VÀ ĐẶC ĐIỂM

Để triển khai hệ thống và đặc điểm Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân

Quỳnh, chúng tôi chia thành các biểu tượng đơn và các biểu tượng kép. Sỡ dĩ chia

theo tiêu chí ấy là vì, các biểu tượng đơn xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh, bản thân

nó đứng một mình, đủ sức tạo thành hệ thống và đặc điểm một biểu tượng độc lập.

Còn các biểu tượng kép thì không thể đứng một mình được, hai biểu tượng đơn kết

hợp, tạo nên biểu tượng kép, đó là một cặp, chúng luôn song hành cùng nhau, hoặc

xuất hiện đồng thời, hoặc khi nhắc đến biểu tượng này, thì sẽ nghĩ ngay đến biểu

tượng còn lại và ngược lại. Các biểu tượng đơn gồm có: bàn tay, trái tim, ngọn lửa,

tiếng; các biểu tượng kép gồm có: con tàu – sân ga, hoa – cỏ dại, sóng – gió (nước),

thuyền – biển (sông).

2.1. Các biểu tượng đơn - Hệ thống và Đặc điểm

Bảng 2.1. Tổng hợp số lần xuất hiện của các biểu tượng đơn

trong thơ Xuân Quỳnh [30; tr.122 – tr.155] và [23; Phụ lục]

Các biểu tượng đơn Số lần xuất hiện

1.Bàn tay 100

2.Trái tim 45

3.Ngọn lửa 47

4.Tiếng 71

2.1.1. Bàn tay

Bàn tay (main - tiếng Pháp, hand – tiếng Anh) –“Diễn đạt các ý niệm về hoạt

động cũng như về quyền lực và quyền thống trị.

Bàn tay là một biểu trưng của nhà vua, là công cụ làm chủ và dấu hiệu thống

trị. Từ Do Thái cổ iad có nghĩa vừa là bàn tay, vừa là quyền lực.

Những điệu múa lễ nghi ở Nam Á đã được gọi là múa tay. Không những các

động tác của tay trong không gian, mà ngay cả tư thế của tay so với phần còn lại của

cơ thể và tư thế các ngón tay, ngón này so với ngón kia, đều rất ý nghĩa. Cũng như

37

vậy, trong các nghệ thuật tạo hình, trong hội họa và điêu khắc; các tư thế có liên

quan với nhau của bàn tay và ngón tay tượng trưng cho những tư thế nội tâm.

Mọi nền văn minh, với ít nhiều tinh tế, đều sử dụng ngôn ngữ của đôi bàn

tay, của các cử chỉ hoặc tư thế của chúng

Bàn tay đôi khi được ví với con mắt: nó trông thấy. Đây là một cách diễn

giải được giữ lại trong phân tâm học, vì bàn tay xuất hiện trong các giấc mơ được

xem như tương đương với mắt. Do đó có danh hiệu đẹp đẽ: Người mù với những

ngón tay sáng.

Theo Grégoire ở Nysse, bàn tay người cũng gắn với nhận thức, với thị giác,

vì chúng có cứu cánh là ngôn ngữ.

Đặt bàn tay mình vào bàn tay người khác, đó là trao quyền tự do của mình

hay đúng hơn là từ bỏ nó cho người khác, đó là từ bỏ quyền lực của mình.

Việc đặt bàn tay lên người khác có nghĩa là chuyển giao sức mạnh hay quyền

lực.

Cuối cùng bàn tay là một biểu tượng của hành động phân biệt” [27; Bàn tay -

tr.55 - 58].

Ông bà ta nghìn xưa đã đúc kết và luôn đặt biểu tượng bàn tay trong ý thức

của mình ở vị trí đầu tiên, cũng như nhà thơ Hoàng Trung Thông viết rằng:

“Bàn tay ta làm nên tất cả

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”

Vâng, trong tâm thức của tập thể, biểu tượng đôi bàn tay tượng trưng sức

mạnh của con người. Và con người thật sự là con người đúng nghĩa cũng nhờ biểu

tượng bàn tay. Nhìn lại lịch sử phát triển của loài người, con người từ vượn người

phát triển thành con người như ngày nay cũng do biểu tượng bàn tay. Chính trong

hoạt động hàng ngày, từ những việc thô sơ, vụng về như săn bắn, hái lượm, con

người càng hoàn thiện bộ óc của mình. Bởi lẽ, về mặt sinh học, tay trái điều khiển

não phải và tay phải điều khiển não trái. Và càng lao động tay chân, con người càng

linh hoạt và thông minh. Chính nhờ lao động chân tay mà con người tạo ra các giá

trị vật chất lẫn tinh thần. Chính nhờ bàn tay mà chúng ta quan tâm, chăm sóc, nâng

38

niu, giúp đỡ,…lẫn nhau. Và thật là tuyệt diệu và may mắn khi một cơ thể được sinh

ra hoàn chỉnh có chân tay. Và theo Nhân tướng học, tử vi phương Đông rất xem

trọng đôi bàn tay, đặc biệt là phụ nữ. Một phụ nữ được xem là xinh đẹp và có số

phận sung túc khi có đôi bàn tay suông, mềm, cánh tay thon nhỏ, cân đối với cơ

thể,…Hơn nữa, bàn tay, nơi tập trung những dây thần kinh nhạy cảm nhất, được

xem là nơi kết tinh số phận của một con người. Bàn tay không đơn thuần là một

công cụ lao động của con người, càng không chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ về hình thể,

mà từ lâu nó đã trở thành nơi huyền bí khám phá về số phận con người. Và ơ

phương Đông từ rất lâu và những năm gần đây ơ phương Tây có luôn một môn học

Tử vi và cụ thể là qua đôi bàn tay. Vì thế, khi xem tướng ai đó để đoán biết nhân

duyên hay số phận người ta thường xem tay và lòng bàn tay. Hơn thế nữa, biểu

tượng bàn tay là một phương tiện của giao tiếp. Đó chính là phần ngôn ngữ không

lời. Chúng ta thấy rõ ràng, mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế đều có nghi thức

chào hỏi qua biểu hiện các động tác của bàn tay. Biểu tượng bàn tay thật sự trở

thành một biểu tượng trong tâm thức cộng đồng. Nó trở thành biểu tượng của sự tán

thành qua hành vi giơ cao nhất trí trong một cuộc họp, nó trở thành biểu tượng tán

thưởng khi tất cả khán giả vỗ tay cho một nghệ sĩ thực thụ, nó trở thành biểu tượng

của chính kiến khi giơ tay phát biểu, nó trở thành biểu tượng đoàn kết khi nắm tay

nhau, nó trở thành biểu tượng của tình thương khi một bàn tay dắt một bàn tay qua

đường hay đó là cử chỉ âu yếm của những người yêu nhau, nó trở thành biểu tượng

của bạo lực khi ai đó tát vào mặt ai, nó trở thành biểu tượng của sự gian dối khi ai

đó đổi trắng thay đen, tráo trở, ném đá giấu tay…. Và dù ở đâu, dù làm bất cứ việc

gì, biểu tượng bàn tay vẫn luôn xuất hiện.

Còn với Xuân Quỳnh, biểu tượng bàn tay đi vào thơ bà có một đặc điểm

riêng và được chia thành hệ thống. Xuân Quỳnh có một bàn tay rất lạ, mà theo như

nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân thì đó là bàn tay Trương Chi. Dường như có một sự

mâu thuẫn lớn với gương mặt xinh đẹp, đôi mắt có hồn và sự hóm hỉnh của bà. Và

nhìn vào bàn tay của Xuân Quỳnh, dường như số phận đã được báo trước. Và đôi

bàn tay trở thành biểu tượng nghệ thuật chính trong thơ Xuân Quỳnh.

39

2.1.1.1. Bàn tay - Gia đình

Đó là hình ảnh vui tươi, rạo rực, như em bé nhận được quà, khi năm mới cả

nhà cùng đón Tết.

“Năm mới cầm trên tay”

(Lịch mới)

Hay đó là tình thương ruột thịt, thiêng liêng, gắn bó với người bà nuôi

dưỡng Xuân Quỳnh thuở nhỏ

“Tay bà khom soi trứng”

(Tiếng gà trưa)

Hay là những tri thức quý báu mà Xuân Quỳnh yêu quý, cũng như dôi bàn

tay

“Trang sách ngợi ca về những bàn tay”

(Vườn trong thư viện)

Và còn nữa những tâm sự về chính cuộc đời Xuân Quỳnh hay cũng chính là

những dự cảm, trăn trở về những đứa con hàng ngày do chính Xuân Quỳnh nuôi

dưỡng, chăm sóc. Nhà báo Lưu Minh Vũ, người con riêng của Lưu Quang Vũ có

lần tâm sự rằng, chính má Quỳnh là người nuôi dạy cậu từ những ngày ấu thơ, má

Quỳnh nhổ răng, má Quỳnh viết thơ tặng cậu,…đó là nghĩa cử sâu nặng, công

dưỡng dục được ví như công sinh thành vậy.

“Để khi khôn lớn con cầm trên tay”

(Tuổi thơ của con)

“Như lệ thường con thép mẹ giơ tay”

(Đưa con đi sơ tán)

“Tay con với con chuồn ớt bay cao”

(Những người mẹ không có lỗi)

Hay bàn ta quen với những sinh hoạt đời thường, đi chợ, nấu ăn, Xuân

Quỳnh viết rằng:

“Con dao chẳng chịu cái tay”

(Về những thói quen)

40

Người phụ nữ ấy, người phụ nữ sinh ra đã sớm mồ côi mẹ, và quen với việc

tự chăm sóc bản thân. Và những lúc nghĩ về mình, Xuân Quỳnh thấy thương cho

thân phận của bà. Khác với những phụ nữ khác, Xuân Quỳnh sinh ra đã bất hạnh và

đôi lúc chị quên mình là phụ nữ, quên rằng vẻ đẹp của người con gái được thể hiện

qua bàn tay:

“Tôi chợt nghĩ đến bàn tay và xấu hổ

……

Đã lâu rồi tôi quên có bàn tay

(Cơn mưa không phải của mình)

A mùa xuân như cầm được trên tay”

(Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi)

Và đó là bàn tay của người mẹ, chăm sóc con từng giấc ngủ:

“Tay mẹ đẩy đều đều

Hãi hùng xa tay mẹ”

(Ru con)

Nhưng dù bàn tay ấy có xấu xí, có vất vả, có làm đủ mọi việc đi nữa, thì

Xuân Quỳnh cũng yêu quý nó, xem nó như báu vật của mình, và cũng không quên

kiêu hãnh về nó.

2.1.1.2. Bàn tay - Tình yêu lứa đôi

Trong gia đình nhỏ mà Xuân Quỳnh hết mực yêu thương ấy, bà dành một

tình cảm đặc biệt đến người chồng, người yêu của mình.

Xuân Quỳnh thắc mắc với người yêu rằng:

“Gia tài em chỉ có bàn tay

…..

Anh nghĩ gì khi nhìn xuống bàn tay

……

Bàn tay anh ngón chẳng thon dài

…..

Rồi úp mặt trên bàn tay khóc mẹ

41

……..

Anh chờ em cho em vịn bàn tay

……

Trong tay anh, tay của em đây

….

Trời mưa lạnh tay em khép cửa

…..

Tay cắm hoa tay để treo tranh

Tay thắm sáng ngọn đèn đêm anh đọc

…..

Tay em dừng trên vừng trán lo âu

….

Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ

…..

Bàn tay em, gia tài bé nhỏ”

(Bàn tay em)

Hay

“Bàn tay nào giữ anh lại đây”

(Giữ lửa)

Và trong những chuyến đi ấy, tình yêu lứa đôi, tình nghĩa mặn nồng, chung

thủy được khắc tả qua bàn tay. Sự luyến tiếc, nhớ thương, bàn tay có nắm chặt,

nhưng giữ được bao lâu, khi tiếng còi tàu vẫy gọi:

“Bàn tay da diết nắm”

(Sân ga chiều em đi)

Hay

“Hơi lạnh qua bàn tay”

(Thơ tình cuối mùa thu)

42

Đó là biểu tượng sum vầy của đôi lứa yêu nhau, đẹp và ấm áp biết bao hình

ảnh tay trong tay của người con gái và người con trai song hành cùng nhau:

“Dưới hai hàng cây

Tay ấm trong tay”

(Chồi biếc)

“Bàn tay em trong tay anh siết chặt

….

Khi nhìn nhau tay vẫn nắm trong tay”

(Thành phố lạ)

Cảm động biết bao người con gái mang tên loài hoa Quỳnh ấy. Nếu người

con gái được ví như những bông hoa, sáng nở, tối tàn, thì đóa hoa Xuân Quỳnh

dường như luôn nở rộ trên gương mặt vui tươi. Nhưng ẩn đằng sau đó là đôi tay,

một đôi tay với một số phận đặc biệt. Một nỗi bất hạnh bao trùm trên cuộc đời con

gái ấy. Nhưng niềm lạc quan, tin yêu vào cuộc sống dườn như xóa tan mọi thứ, làm

Xuân Quỳnh trở nên duyên dáng, đáng yêu hơn qua đôi bàn tay ấy với người yêu

mình. Và chính biểu tượng bàn tay nâng đỡ tâm hồn Xuân Quỳnh. Chính biểu

tượng bàn tay làm tình yêu của Xuân Quỳnh thêm nhiều màu sắc, sống động hơn.

Nữ hoàng Thơ tình ấy, lần nữa lại nhắc lại:

“Gia tài chỉ có bàn tay”

(Thơ viết tặng anh)

để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của chị. Và thật lạ, cuộc sống đời thường đời tư-

cũng như cuộc đời chung có nhiều biến cố vất vả như thế, nhưng chị vẫn cảm nhận

được:

“Và hạnh phúc trong bàn tay có thật”

(Bầu trời đã trở về)

2.1.1.3. Bàn tay - Trách nhiệm công dân

Xuân Quỳnh với những chuyến đi xa, những đam mê, nhiệt huyết, trách

nhiệm của tuổi trẻ, và biểu tượng bàn tay gắn liền với cuộc hành trình dài của chị.

“Một bàn tay vẫy thiết tha con tàu

43

….

Tàu chạy rồi bỡ ngỡ vẫy bàn tay”

(Hát với con tàu)

Và đâu đó, Xuân Quỳnh thể hiện tình cảm của mình với anh em đồng chí qua

cử chỉ bàn tay:

“Nhường nhau còn ấm hơi tay”

(Viết trên đường 20)

Đó là những bàn tay lao động xây dựng xã hội mới với bao nhiệt huyết của

tuổi trẻ:

“Hạt lúa đầu qua kẽ ngón tay chai

….

Đất hoang dã đã gọi tay người đến vỡ

Bàn tay trắng bắt đầu nhen bếp lửa

….

Trẻ đi học thu hai tay vào túi

Bàn tay nhỏ che dưới trời nắng gắt”

(Nghe rét đến, nhớ về Hà Nội)

Hay những lúc ở xa quê anh, xa gia đình, Xuân Quỳnh thẩn thơ nhìn tay

mình mà ngẫm nghĩ:

“Em đeo vào tay em”

(Đá Ngũ Hành Sơn)

“Và có đôi lần bàn tay ấy thổn thức:

Tôi xiết bàn tay mế run run

….

Lắng nghe cùng cây sung xiết trong tay”

(Khán giả của tôi)

44

Đó là những tình cảm ân cần, mà người thanh niên trẻ tuổi Xuân Quỳnh thể

hiện với người mẹ già trong hành trình xung kích tuổi trẻ của mình.

Và người con gái mở đường vẫn liên tục ghi dấu ấn của mình trên khắp nẻo

đường cùng những trai thanh - gái tú khác của đoàn người ra trận:

“Bánh xe chuyển, bàn tay vẫy vội”

(Những lớp người cùng bài hát ra đi)

“Niềm vui lớn bởi tiếng chào, bàn tay

Tay ta nắm lấy tay người”

(Hát ru)

“Trong bàn tay người thanh niên xung phong”

(Chuyện con đường sau những năm chống Mĩ)

“Vạt đất mới bàn tay chai mới”

(Không đề)

“Đưa bàn tay trắng trẻo nhận thanh gươm

….

Những bàn tay suốt đời yên lặng”

(Lời giã từ của trung đoàn thủ đô)

“Nơi đây cầu nối nhịp, tay cầm tay”

(Bình Trị Thiên)

Hay đó là những hy vọng đến ngày hòa bình, niềm tin chiến thắng luôn là

động lực thôi thúc bước hành quân của bao thanh niên ra trận:

“Trang sách ngợi ca về những bàn tay”

(Vườn trong thư viện)

“Hạt lúa đầu qua kẽ ngón tay chai

Đất hoang dã gọi tay người đến vỡ

….

Bàn tay trắng bắt đầu nhen bếp lửa

…..

45

Trẻ đi học thu hai tay vào túi

….

Bàn tay nhỏ che dưới trời nắng gắt”

(Nghe rét đến, nhớ về Hà Nội)

Và đâu đó, tình cảm của những “Mẹ Tơm”, “Mẹ Suốt”, “Bà Má Hậu

Giang” mà Tố Hữu đã từng viết cũng xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh, những hình

tượng bà mẹ Việt Nam anh hùng gắn với biểu tượng bàn tay khắp mọi miền quê

hương đất nước:

“Nào vít nhanh tay, hái nữ

“Quê mẹ giang tay niềm nở”

(Hai mươi năm trước)

“Không chút nôn nao miệng gào tay chỉ

….

Mẹ đứng giơ tay lẫm liệt oai hung”

(Bà mẹ Đồng Tháp Mười)

“Tôi xiết bàn tay mế run run

…..

Lắng nghe cùng cây sung xiết trong tay”

(Khán giả của tôi)

2.1.1.4. Bàn tay - Tình yêu thiên nhiên

Bàn tay cũng là nơi thể hiện những cung bậc cảm xúc, là nơi nhận ra những

thay đổi tinh tế của thời tiết:

“Ngọn gió lạnh khô làm cóng bàn tay”

(Gió Bắc gió Nam)

Và Xuân Quỳnh, một hồn thơ nhạy cảm ấy, bà không những yêu đời, yêu

người mà yêu tha thiết thiên nhiên và tình ấy vun trồng qua những mầm xanh:

“Cây xanh nhờ những bàn tay”

(Lai lịch một tình yêu)

46

Rõ ràng, biểu tượng bàn tay xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh với một tần

suất đậm đặc (100 lần) và nó được chia thành hệ thống và đặc điểm riêng. Biểu

tượng bàn tay gắn với gia đình, tình yêu đôi lứa, trách nhiệm công dân và tình yêu

thiên nhiên. Dường như nhân vật trữ tình đã hóa thân thành nữ thần có nghìn tay.

Xuân Quỳnh đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau từ cuộc đời chung đến cuộc đời

riêng và dù có ở vị trí nào đi nữa, bà cũng thể hiện thái độ ân cần, nhiệt thành bằng

tất cả tấm lòng của mình. Xuân Quỳnh đã trở thành một biểu tượng của người phụ

nữ vĩ đại. Nếu tác phẩm Bóng đè nhà văn Đỗ Hoàng Diệu đã khắc tạc đậm nét hình

ảnh bàn tay với những khát khao cuộc sống ái ân, táo bạo chủ động, đậm chất phồn

thực, vượt qua mọi rào cản của tôn giáo. Bàn tay ấy biểu tượng cho sự thức tỉnh,

muốn được giải phóng của người phụ nữ nghiêng hẳn về mặt trần thế thì biểu tượng

bàn tay trong thơ Xuân Quỳnh có thêm phần ý vị, lãng mạn, trữ tình và đậm chất

nhân văn. Biểu tượng bàn tay ấy chính là tỏa sáng của vẻ đẹp trí tuệ và tâm hồn.

Còn nếu Phan Thị Thanh Nhàn, viết về bàn tay:

“Hè tay làm làn gió

Quạt cho anh giấc nồng

Đông – ngón như tia nắng

Tay nhen lên bếp hồng”

(Bàn tay)

thì nó vẫn chưa đậm nét, ân cần, nhiệt thành và đa dạng như biểu tượng bàn tay

trong thơ Xuân Quỳnh.

Và trong âm nhạc, bài hát Đôi bàn tay, Bàn tay mẹ,…mới thật sự lột tả được

những thông điệp qua biểu tượng nghệ thuật bàn tay xuất hiện trong thơ Xuân

Quỳnh.

Và khác với Xuân Quỳnh, bàn tay là tiếng nói của người phụ nữ, Thâm Tâm

đã nói đến biểu tượng bàn tay như là tâm huyết, chí hướng của đấng nam nhi:

“Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

47

Ba năm mẹ già cũng đừng mong”

(Tống biệt hành)

2.1.2. Trái tim

Tim (Coeur - tiếng Pháp, heart - tiếng Anh) - “Cơ quan trung ương của cơ

thể con người, ứng hợp một cách rất tổng quát với khái niệm tâm, trung tâm. Nếu

phương Tây biến trái tim thành nơi chứa đựng tình cảm, thì tất cả các nền văn minh

cổ truyền, ngược lại, đều coi đây là nơi trú ngụ của trí thông minh và năng lực trực

giác, có thể là bởi vì trung tâm của nhân cách con người đã chuyển dịch từ trí tuệ

tính sang hiệu dụng tính. Nhưng chẳng phải Pascal đã nói rằng những tư tưởng lớn

đến từ trái tim? Cũng cần nói thêm rằng trong nền văn hóa cổ truyền, tri thức, nhận

thức có một hàm nghĩa rất rộng, trong đó không loại trừ những giá trị cảm xúc” [27;

Tim – 921].

Tim có chức năng trí tuệ, vận động, khai triển và thu bóp của vũ trụ, là chủ

nhân của hơi thở, trung tâm của sự sống, của ý chí, của trí khôn, biểu trưng cho con

người bên trong.

Cùng với bàn tay, trái tim là một trong những bộ phận quan trọng của con người,

người ta có thể không tay mà sống, nhưng không thể sống mà không tim. Trái tim

được xem như bộ phận không nhìn thấy được, nhưng cảm được. Máu chảy về tim,

và tim quyết định nhịp thở, sự sống của con người. Khi một người vĩnh biệt cuộc

đời, cũng chính là lúc họ trút hơi thở cuối cùng. Một con người đúng nghĩa, cần lắm

một khẩu hiệu: Một cái đầu lạnh, một trái tim nóng, đôi bàn tay làm, đôi chân đi,

đôi mắt nhìn đời và đôi tai lắng nghe. Chính vì thế biểu tượng trái tim trở nên rất

quen thuộc trong tâm thức của cộng đồng. Những nghĩa cử, cao đẹp, từ thiện được

biểu tượng bằng trái tim. Hay để kết nối con người lại với nhau chính nhờ sức mạnh

của những trái tim. Hoặc những người yêu nhau, người ta vẫn thường bảo nhau “tri

âm, tri kỷ”, cùng nhịp đập, cùng hơi thở, cùng suy nghĩ của những trái tim đồng

điệu. Và “Những người sống không biết yêu là những người đến chết vẫn chưa

được sống”.

48

Biểu tượng trái tim đã từ lâu trở thành linh hồn của các tác phẩm nghệ thuật.

Từ văn học dân gian đến văn học viết. Từ văn học cổ chí kim. Đặc biệt, biểu tượng

trái tim ĐanKô soi sáng, mở đường, dâng hiến trở thành một biểu tượng tiêu biểu

của văn học.

Đến với thơ Xuân Quỳnh, một phụ nữ nhạy cảm. Trái tim của Xuân Quỳnh

đập những nhịp đập khác thường, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, những lo

toan, trăn trở, những biến động dù nhỏ nhất, tinh tế nhất, nhà thơ cũng cảm nhận

đầu tiên. Trái tim ấy nhạy cảm quá, nhưng lại bao la to lớn, nó như bao trùm cả vũ

trụ vậy. Xuân Quỳnh không những sống cho chính mình mà luôn nghĩ cho người

khác. Một trái tim không đáy và đập những nhịp đập vì đời, vì người.

2.1.2.1. Trái tim - Gia đình

Bằng trí tưởng tượng, Xuân Quỳnh ví nhịp đập của tim như nhịp đập của

thời gian. Từng giây, từng phút có mặt trên cuộc đời chị đều cảm nhận và hết mình:

“Quả tim như cái đồng hồ”

(Tuổi thơ của con)

Đó là tâm trạng của một người mẹ dành cho những đứa con yêu quý của

mình, trải qua tuổi thơ vất vả, hiểu và cảm về những nỗi đau và bất hạnh, Xuân

Quỳnh không thể không thổn thức khi nhớ về tuổi thơ của mình, cũng như liên

tưởng đến hình ảnh của những đứa con về tương lai của chúng luôn làm Xuân

Quỳnh nặng trĩu như thế. Và có lẽ ai trong chúng ta cũng biết đến ca khúc Nhật ký

của mẹ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung, bài hát ấy cũng chính là tâm trạng của

người mẹ Xuân Quỳnh. Tình mẫu tử là thiêng liêng và cao quý nhất của người phụ

nữ.

Hay đó là những lo lắng về những người thân trong gia đình, là bà, là chị, là

chồng,…tất cả Xuân Quỳnh gom lại thành nỗi lo chung:

“Trái tim buồn sau lần áo mỏng

….

Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ

49

Trái tim này chẳng còn có ích”

(Thời gian trắng)

2.1.2.2. Trái tim - Tình yêu đôi lứa

Chúng ta hiểu vì sao Xuân Quỳnh được mệnh danh là “Nữ Hoàng thơ Tình

yêu”, khái niệm tình yêu ở đây không chỉ bao hàm tất cả những tình cảm khác mà

nó còn được hiểu là đậm nét, sâu sắc nhất ở tình yêu đôi lứa, vợ chồng. Đã từ rất

lâu, những bài thơ tình của bài là nơi được nhiều bạn trẻ yêu thích tìm đến. Đó là

bách khoa thư về tình yêu. Nơi những người yêu nhau bắt gặp, chia sẻ, đồng cảm và

thấy mình trong đó. Chưa có một người phụ nữ nào trên văn đàn Việt Nam ngoài

Hồ Xương Hương ra, trái tim lại đập đầy đủ bảy cung bậc của tình yêu (thất tình: ai,

ái, ố, hỉ, nộ, dục, lạc) như Xuân Quỳnh cả. Trái tim ấy, ngân lên như những bản

nhạc giao hưởng bất hũ mọi thời đại mà các thiên tài âm nhạc như Mozart,

Beethoven mới hiểu, đồng điệu và chạm tới được. Tình yêu lứa đôi là cái gì đó

thường trực, là sức mạnh giúp Xuân Quỳnh vượt qua bao giông bão cuộc đời. Tình

yêu với Xuân Quỳnh là điều thiêng liêng. Bà yêu say đắm, mãnh liệt và đầy kiêu

hãnh. Người phụ nữ ấy không hề e dè khi bày tỏ tình cảm của mình, mà ngược lại

đầy vui tươi, hào sảng. Tình yêu như một món quà mà cuộc sống ban tặng cho con

người. Mà Xuân Quỳnh là người đón nhận và chia món quà ấy cho cuộc đời. Rất

đúng khi đại văn hào Victor Hugo nói rằng: “Biểu hiện của tình yêu chân thành là

sự rụt rè của người con trai và sự táo bạo của người con gái”. Xuân Quỳnh yêu

trong sáng, nhưng sâu sắc. Một tình yêu xuất phát từ trái tim, vô điều kiện, cho đi

không cần nhận lại. Và đúng “Cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đến được trái tim”,

không chỉ người yêu Xuân Quỳnh cảm nhận được, mà với những ai từng biết Xuân

Quỳnh và thơ bà không khỏi bồi hồi xúc động và ngưỡng mộ. Một cá tính mạnh mẽ

với những quan niệm tình yêu đặc biệt, hơn người.

“Trái tim đập cồn cào cơn đói

Trái tim em anh đã từng biết đấy

….

50

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

…………

Trái tim đập những điều không thể nói”

(Tự hát)

Một tình yêu nồng say và thường trực như hơi thở của cuộc sống vậy:

“Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực

……

Giây phút nào tim chẳng đập vì anh”

(Chỉ có sóng và em)

Và với Xuân Quỳnh, máu chảy về tim và tim ấy không chỉ để thở, mà còn để

yêu:

“Máu đào chuyển nóng tim em”

(Mớ tóc)

2.1.2.3. Trái tim - Đất nước

Xuân Quỳnh sinh ra trong một thời đại mà cả dân tộc Việt Nam đang chống

lại kẻ thù mạnh nhất thế giới là đế quốc Mỹ. Trách nhiệm công dân, cái chung được

đề cao hơn cả. Và là một tri thức trẻ tuổi, Xuân Quỳnh cũng hòa vào dòng người ra

trận. Đi để mở đường trên mọi địa hình, đi để xây dựng trên từng góc phố,….là hậu

phương hay tiền phương thì những người thanh niên Thủ đô cũng một lòng Nam

tiến, tất cả vì một sự nghiệp cách mạng chung: Giải phóng miền Nam, thống nhất

đất nước.

“Chỉ nghe tiếng trái tim mình đập”

(Những năm ấy)

Hay

“Gởi nhịp của trái tim”

(Con tàu)

“Trái tim đập giữa mênh mông đất trời

….

51

Nhịp tim nung cùng với nhịp tàu”

(Hát với con tàu)

Một niềm tự hào, kiêu hãnh đối với quê hương xứ sở:

“Vịnh này vịnh của con tim

(Tình ca trong lòng vịnh)

Hay

“Từ trái tim em cất cao tiếng hát”

(Về đại hội)

Tình yêu Tổ quốc với Xuân Quỳnh và những con người yêu nước thời ấy là

dâng hiến, là hy sinh cả con tim, cả cuộc đời cho sự nghiệp chung:

“Rút tủy trong xương, rút máu trong tim”

(Sáng tạo)

Và bên đồng đội, những con người đồng điệu, niềm tin chiến thắng luôn

dâng trào:

“Vai kề vai nghe rộn tiếng tim yêu”

(Khát vọng)

Và có lẽ, cũng chính thủ đô, quê nhà của Xuân Quỳnh là động lực thôi thúc

bước chân của chị:

“Nhịp trái tim dồn theo tiếng bánh xe quay”

(Lòng yêu thủ đô)

Hòa vào trái tim những con người yêu nước vĩ đại ấy của dân tộc Việt Nam

trong thời điểm ấy, có hàng loạt các sáng tác khác được ra đời. Tất cả như những

tiếng trống thôi thúc bước chân bao thế hệ, và tất cả như “Hịch tướng sĩ thời chống

Mỹ” làm ấm lòng người thanh niên ra trận. Đó là các nhà thơ tiêu biểu như Xuân

Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm,

Dương Hương Ly, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Tố Hữu, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh

Châu, Nguyễn Trung Thành…

Ở đây, trái tim của Xuân Quỳnh hòa vào nhịp đập chung của thời đại. Lời thề

với non sông, tổ quốc, lời thề với tổ tiên…là sức mạnh giúp những trái tim khỏe,

52

giàu năng lượng bình tĩnh trước kẻ thù. Lòng yêu quê hương đất nước, căm thù giặc

sâu sắc, tự hào về dân tộc, dũng cảm đối mặt với kẻ thù,…là những biểu hiện của

chủ nghĩa anh hùng, tất cả vì một nền hòa bình chung. Tính dân tộc, tính nhân dân

và tính quốc tế được thể hiện đậm nét ở đây.

Biểu tượng trái tim được xuất hiện 45 lần, ít hơn so với các biểu tượng khác,

tuy nhiên chúng cũng hình thành hệ thống và có những đặc điểm riêng. Biểu tượng

trái tim gắn với gia đình, tình yêu đôi lứa và đất nước.

Trong âm nhạc, chúng ta thấy các bài hát với biểu tượng trái tim xuất hiện

rất nhiều, mà nghệ sĩ Bằng Kiều đã thể hiện rất thành công như Trái tim bên lề,

Trái tim không ngủ yên, hay nghệ sĩ Céline Dion đã thể hiện chân thật qua bài hát

My heart will go on trong bộ phim lãng mạn của tình yêu Titanic.

2.1.3. Ngọn lửa

Ngọn lửa (feu - tiếng Pháp, fire - tiếng Anh) - “Trong tất cả các truyền

thuyết, ngọn lửa là biểu tượng cho sự tẩy uế, sự tỏa sáng và tình yêu theo nghĩa tinh

thần. Ngọn lửa là hình ảnh của tinh thần và của sự siêu việt, linh hồn của lửa.

Theo nghĩa xấu và đen tối, ngọn lửa làm cho đồi bại, gây chia rẽ, bất hòa: đó

là hơi thở cháy bỏng của sự nổi loạn, mẩu củi cháy dở dày vò của sự thèm muốn, lò

than hồng thiêu hủy của sự dâm ô, tiếng nổ giết người của quả lửu đạn” [27; Ngón

tay cái – tr.644]

Biểu tượng ngọn lửa trong tâm thức người con người từ lâu là biểu tượng của

sự sống. Lần theo dấu chân trong tiến trình lịch sử văn minh nhân loại, phát hiện ra

lửa là phát hiện sớm nhất và vĩ đại nhất. Nếu ban ngày ánh mặt trời chiếm lĩnh cả

vũ trụ thì khi đêm đến, ánh sáng của mặt trăng không đủ soi chiếu đến những ngõ

ngách sâu kín, ngọn lửa thể hiện vai trò của nó. Lửa giúp nấu chín thức ăn, soi sáng,

đồng thời sưởi ấm. Ngày nay, khi cuộc sống hiện đại được thay thế bằng những ánh

đèn điện sáng rực thì sự xuất hiện ngọn lửa trên bàn thờ tổ tiên hay trong dịp sinh

nhật, tỏ tình của những đôi trai gái hay bắn pháo bông ngày vui,…làm cho những

khoảnh khắc của cuộc sống trở nên thiêng liêng, vĩnh cửu và thi vị hóa hơn. Vì thế,

trong tâm thức của tập thể, ngọn lửa chiếm một vị trí quan trọng.

53

2.1.3.1. Ngọn lửa - Sinh hoạt đời thường

Là người phụ nữ lớn lên trong mồ côi, bếp lửa trở thành người bạn của Xuân

Quỳnh. Nó xuất hiện trong bữa ăn hàng ngày, trong những suy tư của nữ sĩ về bản

thân về cuộc đời, của những lo lắng của người mẹ yêu con, người bà yêu cháu,

người vợ yêu chồng.

Với Xuân Quỳnh, bếp lửa như người bạn, luôn gắn bó với bà cũng như với

tất cả những người phụ nữ giữ lửa khác:

“Chúng tôi có chậu có nồi có lửa”

(Thơ vui về phái yếu)

Hay

“Bàn tay trắng bắt đầu nhen bếp lửa”

(Nghe rét đến, nhớ về Hà Nội)

Và thật vui tươi, những hạt gạo được nấu chín thành cơm qua ngọn lửa:

“Nồi cơm reo trên ngọn lửa bếp đèn”

(Bầu trời đã trở về)

Xuân Quỳnh cũng không quên cảm nhận về màu sắc của ngọn lửa mà ngày

nào chỉ cùng nhìn thấy, bếp lửa cháy, như những gì cao cả nhất của người mẹ dành

cho những đứa con mình hàng ngày.

“Bập bùng lửa bếp đã hồng”

(Lòng mẹ)

Và ngọn lửa cũng chính là nhân chứng cho những nghĩa cử cao đẹp của đạo

vợ chồng:

“Hình như lửa đã tắt rồi”

(Hát ru chồng những đêm khó ngủ)

Và Xuân Quỳnh như những ngọn lửa vậy, tình yêu của bà dành cho chồng

lúc le lói, lúc dâng trào, mênh mông, vút cao:

“Là bóng rợp trên con đường nắng lửa”

(Nói cùng anh)

Hay

54

“Tình yêu bùng như lửa cháy”

(Không bao giờ là cuối)

“Em nhớ anh chập chờn như ánh lửa”

(Những năm ấy)

“Ngọn lửa nào đốt lòng tôi nung nấu”

(Một ngày đi)

“Đêm gió lạnh em xin làm ngọn lửa”

(Không đề I)

“Tán dừa xanh giữa lửa”

(Thành phố quê anh)

Và biểu tượng ngọn lửa cũng đã được Bằng Việt thể hiện rất thành công

trong bài thơ Bếp lửa cũng là một minh chứng cụ thể về biểu tượng ngọn lửa gắn

liền với sinh hoạt đời thường của con người.

2.1.3.2. Ngọn lửa - Tổ quốc

Lửa của khói, của bụi, của đạn, của ánh đèn, lửa của thời tiết…lửa nhiệt

thành của tình yêu Tổ quốc tất cả được Xuân Quỳnh ghi dấu ấn lại.

“Qua bao ngày lửa đạn”

(Đêm cuối năm)

Hay

“Làm ánh lửa giữa rừng khuya phía trước”

(Thương về ngày trước)

Lửa, một biểu tượng thực, nhưng nó cũng là biểu tượng tượng trưng cho lòng

căm thù giặc. Ngọn lửa của quân thù cháy trên quê hương, kẻ thù muốn thiêu đốt

tinh thần con người Việt Nam, nhưng người thanh niên Xuân Quỳnh rất tỉnh táo để

nhận ra kẻ thù mà viết rằng:

“Trong lửa đạn những ngày chống Mỹ”

(Lòng yêu thủ đô)

55

Và Việt Nam ngày ấy, ngọn lửa có mặt khắp nơi, bao nhiêu cảnh tan hoang,

tàn cháy:

“Là khi châm lửa đốt nhà, tản cư

…..

Cây rừng ngã cây rừng lửa cháy

…..

Như ngọn lửa ngàn năm trong bếp lửa

….

Mới về nhiều tên lửa dưới hàng cây”

(Những năm tháng không yên)

Và khắp dải đất miền Trung thân yêu cũng là ánh lửa:

“Chỉ có cát và gió Lào quạt lửa

….

Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa”

(Gió Lào cát trắng)

Nhưng tình yêu quê hương có thể bền vững bởi lẽ nhờ niềm tin, nó luôn ở

trong tim những con người Việt Nam mà Xuân Quỳnh là người nói hộ tiếng lòng

ấy:

“Bao dặm đường bao chặng lửa

Những đèn vui lửa sáng của muôn nhà”

(Gửi mẹ)

Hay

“À ơi….ngọn lửa ngày xưa

Lửa hôm nay đã trong màu cờ bay”

(Lời ru trên mặt đất)

“Con chuồn đỏ thân ngời như ngọn lửa”

56

(Chuồn chuồn báo bão)

“Nắng như màu lửa cháy”

(Gửi lại thành phố nắng)

“Như ngọn lửa bùng lên rực rỡ”

(Không đề III)

Sức lan tỏa và khí nóng hừng hực của những ngày chống Mỹ cứu nước sôi

sục độc giả hoàn toàn cảm nhận được qua những vần thơ của Xuân Quỳnh.

Biểu tượng ngọn lửa xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh 47 lần, nó gắn liền với

sinh hoạt đời thường và tổ quốc.

Chúng ta có thể liên hệ thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Cành mấy trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xây ngô tối

Xây hết lò thang, lửa rực hồng”

(Chiều tối)

Tư thế của người chiến sĩ cách mạng, ung dung, vượt qua mọi khó khăn của

hoàn cảnh, lạc quan, chủ động và luôn hướng đến tương lai là những gì đẹp nhất mà

thơ Xuân Quỳnh đã bắt gặp và đồng điệu cùng những vần thơ của Bác.

Hay trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, ngọn đuốc làm

từ nhựa cây xà nu đã xuất hiện trong sinh hoạt đời thường và xuất hiện trong những

ngày dân làng xà nu nổi dậy và chiến đấu với kẻ thù. Ngọn lửa hôm nào bọn giặc

đốt trên tay người chiến sĩ kiên trung Tnú đã trở thành biểu tượng của lòng căm thù

giặc sâu sắc. Ngọn lửa soi sáng, mở đường cho đấu tranh dân tộc.

2.1.4. Tiếng

Tiếng (language – tiếng Anh) hay nói cách khác là âm thanh, ngôn ngữ bằng

lời. Và chúng ta đều biết vận tốc âm thanh lớn hơn vận tốc ánh sáng. Tiếng là dấu

hiện để phân biệt con người với động vật, phân biệt giữa các loài vật (chó, mèo,

chim, vịt, sư tử,…), phận biệt giữa các đồ vật (xe máy, máy bay, ô tô, tàu,…), phân

biệt giữa người này và người khác. Tiếng hay ngôn ngữ chính là biểu hiện quan

57

trọng nhất trong lịch sử hình thành con người. Chính trong quá trình lao động mà

ngôn ngữ được hoàn thiện. Con người giao tiếp với nhau thông qua ngôn ngữ.

Chính nó là chất kết dính mọi người với nhau. Nó giúp còn người hiểu nhau, giải

quyết những xung đột, va chạm với nhau. Và “ngôn ngữ là võ vật chất của tư duy”

nên nó chính là phương tiện chuyên chở mọi suy nghĩ cảm xúc, tư tưởng, quan điểm

của con người. Đồng thời qua giọng nói, ít nhiều người ta có thể biết được tâm tính

của một con người. Tiếng mang trong nó những giọng điệu khác nhau, mà tùy theo

tâm trạng, mà người ta thể hiện phù hợp. Tiếng to, nhỏ, vang, trầm, bỗng hay

thấp,..thể hiện được khí chất của một người. Những ca sĩ, những MC hay những nhà

diễn thuyết buộc họ có chất giọng tự nhiên, đồng thời phải luyện tập thường xuyên

để ngày càng trôi chảy và hay hơn.

Tiếng hát (chant – tiếng Pháp, singing – tiếng Anh) - “Hát ca là biểu tượng

của diễn ngôn nối kết sức mạnh sáng tạo thế giới với vật tạo, chừng nào vật tạo ấy

thừa nhận sự phụ thuộc của mình vào đấng sáng tạo, biểu lộ niềm vui, lòng ngưỡng

mộ hay sự nguyện cầu. Đó là hơi thở của vật hòa hợp với hơi thở của đấng sáng tạo.

Hát ca là hình thức biểu đạt bình thường của file, nhà thơ – thầy bói thực hiện thiên

chức của mình” [27; Tiếng hát – tr.918]

Tiếng thét (cri – tiếng Pháp, cream – tiếng Anh)- “Trong pháp luật cổ Ailen,

tiếng thét có giá trị như là một hành động phản kháng hợp pháp. Nhưng để được là

như thế, nó phải đáp ứng những điều kiện về không gian và thời gian được quy định

nói chung với một độ chính xác lớn.

Tiếng thét trong chiến trận biểu thị sự giận dữ sát phạt của thần linh, cũng

như tiếng thét đau khổ biểu thị sự phản kháng của con người, tiếng thét vui sướng

biểu thị sự sung mãn tràn trề của sự sống” [27; Tiếng vang –tr.919]

Tiếng vang (Écho – tiếng Pháp, echo – tiếng Ạnh) - “Người Maya coi Tiếng

vang là một trong những biểu hiện của con Báo (Jaguar), vị thần của Âm ty. Do đó,

tiếng vang được gắn với núi và dã thú, đặc biệt là với con heo vòi và với những

tiếng trống gọi tập hợp” [27; Tiếng vang – tr.919]

2.1.4.1. Tiếng – Tình yêu con người

58

Biểu tượng tiếng trong thơ Xuân Quỳnh biểu hiện tình yêu đôi lứa, tình yêu

giữa con người với con người.

“Một tiếng cười khanh khách

Từ phòng múa vọng sang

…..

Tiếng đàn anh luyến luyến

Nghe đầm ấm ngọt ngào”

(Ghét)

“Tiếng tim anh đang đập vì em”

(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)

hay

“Chỉ nghe tiếng trái tim mình đập”

(Những năm ấy)

Thêm nữa

“Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm”

(Thơ tình cho bạn trẻ)

Hay đó là âm thanh vang vọng của một người ai đó, không quen biết, nhưng

Xuân Quỳnh đã nghe thấy được:

“Tiếng ai hát bên kia đồi cọ nắng”

(Trung du)

“Còn lạ người lạ tiếng”

(Sân ga chiều em đi)

Quen và lạ, trước lạ - sau quen, tất cả Xuân quỳnh đều muốn thâu tóm và hòa

nhập. Nữ sĩ ấy luôn nghe và cảm cho tất cả mọi người.

Và ngày cả những âm thanh của tiếng người đi, Xuân Quỳnh cũng khắc dạ:

“Nhớ cồn cào tiếng guốc phố ta”

(Ngày mai trời còn mưa)

59

Tiếng guốc ấy, chắc hẳn khác những âm thanh của những bước đi khác, nên

đã để lại ấn tượng cho Xuân Quỳnh. Giữa bao âm thanh ồn ào, Xuân Quỳnh chọn

lọc lại và nó trở thành biểu tượng trong thơ bà.

Và tình yêu con người ấy nó được chứa đựng trong tiếng cười, tiếng nói của

em thơ. Còn gì đẹp hơn vẻ đẹp vô tư và nụ cười hồn nhiên của tuổi nhỏ. Xuân

Quỳnh nhìn nó như xóa đi mọi vất vả trong cuộc đời và cũng chạnh lòng. Và đó

chính là tiếng nói của Xuân Quỳnh đối với trẻ thơ và đối với chính bà.

“Vui buồn trong tiếng nói, nụ cười em”

(Bàn tay em)

Hay đó là những âm thanh rất quen thuộc với các thành viên trong gia đình

như bà, cha, – những người đã trực tiếp gắn bó và đối thoại hàng ngày với nữ sĩ.

Tất cả đã đi vào thơ Xuân Quỳnh một cách tự nhiên:

“Có tiếng bà vẫn mắng”

(Tiếng gà trưa)

“Không tiếng nào đáp lại”

(Gặp cha)

“Tiếng nói nghe sao nhỏ nhẹ”

(Lòng mẹ)

Hay đó là giọng điệu cắt nghĩa, giảng giải cho con về những âm thanh quen

thuộc trong cuộc sống.

“Tiếng ồn sinh tàu điện”

(Cắt nghĩa)

“Thoáng tiếng cười đâu đó

Nghe tiếng con đạp thầm

Bỗng như lên tiếng hát”

(Con chả biết được đâu)

“Mẹ mang về tiếng hát”

(Chuyện cổ tích về loài người)

60

Hay trong những chuyến đi, hành trình khám phá với cuộc sống của nữ sĩ

càng phong phú hơn khi nữ sĩ nhận ra các âm thanh khác nữa:

“Như những tiếng vui cười các bạn

Tiếng đàn bầu từ bên nhạc cổ

Tiếng ai ca - lời ca tha thiết”

(Một ngày đi)

“Còn quát thêm vài tiếng trước khi xa”

(Câu chuyện quanh vết bánh xe)

Và hàng loạt các âm thanh, tiếng khác nhau xuất hiện dồn dập, nó như tiếng

còi thúc giục ra trận, cũng như thấy được sự lo âu, thấp thoảng của lòng người trong

những ngày bom đạn, khi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Xuân Quỳnh

đã nghe rõ rệt và phân biệt từng âm thanh một:

“Tiếng yêu anh nói cùng em

Tiếng ngàn năm của những đêm hội chèo

Tiếng người xưa nói với nhau

Tiếng yêu ông nói cùng bà ngày xưa

Tiếng yêu ta nói cùng nhau

Tiếng yêu người nói với người

Giữa muôn tiếng khóc tiếng cười đua chen

Giữa bao những tiếng xích xiềng khảo tra…

Tiếng yêu mẹ nói cùng cha

Tiếng yêu của những người xưa

Tiếng nói khác và cỏ cây cũng khác

Những đêm vắng nghe tiếng gào của gió

Tiếng súng rền, tiếng mõ, tiếng người la

Tiếng súng báo thông đường nơi trọng điểm

Rộn tiếng hò liên tiếp bánh xe qua

Khi căn hầm rung tiếng khóc trẻ thơ”

(Những năm tháng không yên)

61

Vâng, âm hưởng của hồn thiêng đất Việt nó vang dội và đánh thức tất cả mọi

cá nhân vì một sứ mệnh chung – sứ mệnh giải phóng dân tộc. Đọc thơ Tố Hữu, đặc

biệt là trong bài thơ Việt Bắc chúng ta càng cảm nhận được không khí hùng tráng,

thiêng liêng này hơn.

2.1.4.2. Tiếng – Tình yêu thiên nhiên

Biểu tượng tiếng trong thơ Xuân Quỳnh biểu hiện tình yêu thiên nhiên, cảnh

vật và động vật.

Đó là tiếng sóng vỗ khi Xuân Quỳnh đặt chân đến một vùng đất mới:

“Tiếng sóng vỗ dưới chân thành phố”

(Thành phố lạ)

Hay là tiếng hát, tiếng mưa, tiếng thuyền, tiếng bánh xe khi đất trời vào xuân:

“Tiếng mưa trên cánh hoa

Tiếng thuyền ra biển rộng”

(Lịch mới)

“Cây lúa ven cầu và tiếng hát trong hầm

Tất cả lặng im chỉ nghe tiếng bánh xe”

(Những năm ấy)

Là âm thanh của những chú chim:

“Nghe ríu rít tiếng chim buổi sáng

(Những năm ấy)

“Tiếng thì thầm lan mãi đến xa xôi

Nghe tiếng chim đêm, tôi chạm vào tảng đá”

(Đêm trở về)

“Tiếng chim rồi cũng hết”

(Ngôi nhà ở lại)

Và còn nữa, tiếng con tàu vang gọi:

“Tiếng con tàu đang gọi”

(Đêm cuối năm)

hay

62

“Vừa thoáng tiếng con tàu”

(Sân ga chiều em đi)

Hoặc

“Ga đã vỡ tiếng còi tàu day dứt”

(Nỗi buồn anh)

Và thêm nữa

“Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu”

(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)

Âm thanh của gió, Xuân Quỳnh cũng ghi vào trang thơ:

“Trong tiếng gió gọi hoài không ngớt”

(Đêm trăng trên Đất Mũi)

Hay đó là những âm thanh của con vật khác đời thường, gần gũi nhưng sôi

động biết bao:

“Tiếng gà trưa

Và tiếng gà cục tác”

(Tiếng gà trưa)

“Rào rào tiếng những bầy ong

Chuyên cần là tiếng cái tằm nhả tơ”

(Lời ru trên mặt đất)

“Tôi nghe tiếng rì rào trong kẽ lá

Tiếng mùa xuân đang chuyển nhựa lên cành”

(Ý nghĩa về thành phố lúc vào xuân)

“Tiếng ve nào còn sót trong lùm cây”

(Hoa dại núi Hoàng Liên)

“Tiếng dế thức suốt đêm dài oi bức

Tiếng cuốc dồn thúc giục nắng đang trưa”

(Mùa hạ)

“Cho trẻ nghe tiếng hót

Tiếng hót trong bằng nước

63

Tiếng hót cao bằng mây”

(Chuyện cổ tích về loài người)

Trong bức tranh của cuộc sống, những âm thanh của thiên nhiên: cảnh vật ,

động vật, thực vật,…hòa vào. Con người như lắng lòng lại và tìm trong ta những kí

ức, những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn. Chính nhờ những âm thanh này mà cuộc

sống sôi động hơn, đa thanh hơn.

2.1.4.3. Tiếng – Chiến tranh

Thật là khắc nghiệt, cuộc sống đời thường với bao âm thanh xô bồ đã làm

bao nhiêu vất vả cho con người, nhưng khắc nghiệt hơn khi con người nghe những

âm thanh rung rợn từ chiến tranh. Những âm thanh của sự hủy diệt, của cái chết và

chia ly.

“Tiếng bom rền bốn bên”

(Chùm thơ xuân cho ba con nhỏ)

“Tiếng bom gầm vỡ kính của phòng tôi”

(Những điều không liên quan)

Nhưng đối lập với đó vẫn là âm thanh đầy hào sảng và dũng cảm của con

người. Vẻ đẹp ấy là vẻ đẹp của lòng yêu Tổ quốc mà truyền thống dân tộc Việt

Nam vẫn luôn tự hào.

“Tiếng còi xe giục gọi

Như tiếng vang hòn sỏi

Tiếng gậy Người âm vang”

(Gửi lại thành phố nắng)

Biểu tượng tiếng trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện 71 lần và nó gắn với tình

yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên và chiến tranh.

Trong ca dao - dân ca hay trong những bài thơ của Tố Hữu, đặc biệt bài thơ

Việt Bắc, chúng ta thấy giọng nói của con người, thiên nhiên, cảnh vật, động vật,

….được ghi lại rất tinh tế. Tất cả mọi âm thanh dù nhỏ ấy, nhưng bằng tiếng lòng,

các nghệ sĩ đều nghe được cả. Những âm thanh của ngoại cảnh cũng chính là tiếng

lòng của chủ thể tiếp nhận nó. Rất hay khi Nguyễn Du viết: “Cảnh nào cảnh chẳng

64

đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều). Chỉ có những tâm

hồn biết lắng và cảm, mới nghe được những âm thanh tinh tế như vậy. Cuộc đời với

những âm thanh xô bồ, người nghệ sĩ hay thanh lọc tâm hồn bằng những âm thanh

trong trẻo và thánh thót nhất. Như những chú chim sơn ca hát say sưa, như “tiếng

chim hót trong bụi mận gai” (Colleen McCulough), nữ sĩ Xuân Quỳnh đã cất cao

tiếng nói đầy cung bậc của mình với đời và với người qua những vần thơ.

Hay

“Không nghe tiếng ai nói cười

Tôi còn ngồi chỉ đây một mình”

(Con chim sẻ và châu chấu – Hoàng Phủ Ngọc Tường)

“Thêm một tiếng chim gù

Thành ban mai tinh khiết”

(Thêm một – Trần Hòa Bình)

Tiếng chim hót, tiếng người nói cười,…những âm thanh quen thuộc hàng

ngày đã khơi gợi, đánh thức giấc mơ làm người lương thiện của “con quỷ làng Vũ

Đại” trong Chí Phèo (Nam Cao), tiếng của đoàn người đi phá kho thóc Nhật dưới

lá cờ bay phất phới đã mở ra một tương lai tươi sáng cho những người lao động

nghèo khó trong nạn đói năm 1945 mà Kim Lân đã ghi lại chân thực trong Vợ nhặt

hay đó là tiếng chim hót, mở đầu cho những kí ức của người thanh niên Lãm về

cuộc đời lái xe của mình và mối tình tuyệt đẹp với Nguyệt trong Mảnh trăng cuối

rừng (Nguyễn Minh Châu).

2.2. Các biểu tượng kép – Hệ thống và Đặc điểm

Bảng 2.2. Tổng hợp số lần xuất hiện các biểu tượng kép

trong thơ Xuân Quỳnh [30; tr.122 – tr.155] và [23; Phụ lục]

Các biểu tượng kép Số lần xuất hiện

1.Con tàu – Sân ga 126

2.Hoa – Cỏ dại 142

3.Sóng – Gió (Nước) 167

4.Thuyền – Biển (Sông) 169

65

2.2.1. Con tàu – Sân ga

Con tàu (train - tiếng Pháp, ship – tiếng Anh) - Trong các tranh vẽ và các

giấc mơ của trẻ em, cũng như trong cuộc sống và các giấc mơ của người lớn, xe lửa

có tầm quan trọng là đặc trưng của một nền văn minh giống như tầm quan trọng của

ngựa và xe trong các thế kỷ trước. Nó đã tràn vào hệ tư tưởng và chiếm một vị trí

rất lớn trong thế giới các biểu tượng.

Sân ga (gare - tiếng Pháp, station – tiếng Anh) - Mạng lưới đường sắt gợi

ngay hình ảnh một luồng đi về tấp nập các tàu tốc hành, tàu suốt hay tàu chợ, tàu

khách hay tàu hàng…Trong các giấc mơ, mạng lưới Đường sắt nổi rõ là một hình

ảnh của Bản nguyên Vũ trụ phi nhân cách, áp đặt luật lệ và nhịp độ khắc nghiệt của

nó nói lên các nội dung tâm lý phân tán và tự trị, như cái Tôi và phức cảm. Lợi ích

chung đứng trên các lợi ích riêng. Mạng lưới ấy cũng biểu thị các sức mạnh liên kết

và điều phối, tác động bên trong tổng thể tâm lý. Nó thể hiện cuộc sống toàn thể

đang áp đặt tất cả sức mạnh khắt khe của mình.

Đoàn tàu trong các giấc mơ là hình ảnh của cuộc sống tập thể, của cuộc sống

xã hội, của số phận cuốn ta đi. Nó gợi lên cỗ xe tiến hóa mà ta miễn cưỡng ngồi lên,

đi về hướng tốt hay về hướng xấu, hoặc là ta bị nhỡ mất: nó đánh dấu một tiến triển

tâm lý, một sự nhận biết sẽ đưa ta đến một cuộc sống mới.

Ga xuất phát là một biểu tượng của vô thức, là điểm xuất phát của quá trình

tiến hóa, của các dự định mới về vật chất, thể chất và tinh thần của chúng ta. Có thể

có nhiều hướng, nhưng phải chọn được hướng thích hợp. Hoặc đơn giản hơn, đó là

một trung tâm giao thông tấp nập tỏa ra tất cả các hướng, có thể gợi lên cái Ta.

Ga đến ít khi hiện lên trong các giấc mơ. Nó chỉ ra rằng tác động ngầm của

các quá trình tiến hóa đã đưa đến chỗ hoàn tất một giai đoạn của số phận chúng ta.

[27; Xe lửa – tr.1024]

Con tàu - sân ga, một cặp hình ảnh sóng đôi luôn song hành tồn tại cùng

nhau. Con tàu - sân ga là một trong những phát hiện đại của con người. Nhờ nó mà

thời gian trong những chuyến đi của con người được rút ngắn. Trên thế giới, ở

66

những nước hiện đại, người ta đã rút ngắn thời gian vận chuyển bằng những tàu

ngầm, Nhật Bản là một điển hình. Nó giúp giảm chi phí, an toàn, và không gây ô

nhiễm môi trường. Ở Việt Nam, chúng ta thấy biểu tượng con tàu – sân ga và tuyến

đường sắt Bắc – Nam. Đó là những công trình giao thông quan trọng mà những

người bạn Pháp đã dành tặng cho Việt Nam. Và biểu tượng con tàu - sân ga dù có

vẻ không gần gũi, và thường xuyên với nhiều người, nhưng nó là biểu tượng mà số

đông đều biết. Con tàu - sân ga, nơi ghi lại dấu chân bao thân phận người. Nơi

chứng kiến sự chia ly đầy nước mắt của bao gia đình. Nơi lưu giữ những lời thời sắt

son của những người yêu nhau. Những kỉ niệm, những niềm tin, những hy vọng,

những đợi chờ, những tiếc nuối,….một bức tranh đa màu sắc về cuộc sống chúng ta

hoàn toàn được minh chứng cụ thể qua biểu tượng con tàu – sân ga. Và tất cả những

điều đó, Xuân Quỳnh cảm được và ghi lại một cách tự nhiên trong những sáng tác

của mình.

2.2.1.1. Con tàu – Sân ga – Chia ly

Con tàu – sân ga nơi chứng kiến bao cảnh chia ly, bao cảnh tan thương mà

nữ sĩ Xuân Quỳnh với trái tim nhạy cảm đã ghi lại được:

“Anh bán vé chết trong tàu điện”

(Lời giã từ của trung đoàn thủ đô)

Hay đó là những âm thanh tiếc nuối của người ở lại, khi chia tay người ra đi

và vẫn dõi theo bóng tàu và cái đọng lại là tiếng còi tàu.

“Chỉ ga nhỏ giữa đường xa tít tắp

Ga trung du vang mãi tiếng còi tàu”

(Trung du)

Hoặc đó là cảnh hối hả của bao đoàn người vì mưu sinh mà ra đi:

“Hàng Cỏ ga đang dựng

Tàu hối hả ngược xuôi”

(Lịch mới)

67

Và buồn nhất vẫn là cảnh chia tay của những người ra trận, sao mà không

xúc động cho được trước cảnh chia ly không hẹn ngày trở về. Ra đi vì nghĩa vụ, nó

thương liêng, nhưng nó luôn ẩn chứa đâu đó mầm mống của sự ra đi mãi mãi:

“Dòng sông này con tàu lớn chưa qua

….

Tàu hỏa, ô tô có đoạn phải chung đường

……

Tàu điện cổ chạy trên đường ray hẹp

…..

Chặng đường ấy trên tàu kháng chiến

….

Tàu không đèn lá ngụy trang phủ kín

…..

Các hành khách trên tàu lặng lẽ

Bọn trẻ đi trên con tàu rộng dẹp”

(Những năm ấy)

2.2.1.2. Con tàu – Sân ga – Hy vọng

Con tàu – sân ga đồng thời cũng là những chuyến đi đầy hy vọng, nó mở ra

một hành trình mới, mà ở đó những công việc, những chiến lợi phẩm hứa hẹn sẽ thu

về. Đặc biệt là những con tàu – sân ga cuối năm thì rộn ràng và hối hả hơn bao giờ

hết:

“Con đường ga cát bụi

…..

Anh có nghe: ngoài ga

Tiếng con tàu đang gọi”

(Đêm cuối năm)

“Tàu hối hả ngược xuôi”

68

(Lịch mới)

“Để con tàu cũng nôn nao. Gió về”

(Đi với mùa xuân)

“Tiếng còi tàu giục giã chuyến đi xa”

(Một năm)

“Ôi con tàu, con tàu

….

Tàu hãy mang dùm nhau

…….

Tàu hôm nay nặng thêm

….

Khách trên tàu chẳng biết

….

Ôi những ga dọc đường

….

Đừng trách tàu đổ vội

….

Vì ở ga cuối kia

….

Tàu sẽ dừng ga cuối

….

Em khác chi con tàu”

(Con tàu)

Và khi có chiến tranh, bao con người cùng ra trận, ra đi với niềm tin chiến

thắng, lòng căm thù giặc và ý chí sắt bén:

“Nôn nao theo những con tàu

Về con tàu nhớ đoạn đường ray”

(Những năm tháng không yên)

69

“Những toa tầu chở nặng yêu thương”

(Một mơ ước)

“Theo những con tàu cập bến các vì sao”

(Khát vọng)

“Những con tàu băng băng về đại hội

…..

Cũng như tàu luyến trăm ga”

(Về đại hội)

“Sân ga thủ đô một sớm tưng bừng

….

Tạm biệt quê hương con tàu chuyển bánh

Giục con tàu quay bánh xe nhanh”

(Tiếng hát)

“Dẫn tới miền Nam ơi những con tàu”

(Một ngày đi)

2.2.1.3. Con tàu – Sân ga –Kỉ niệm

Con tàu – Sân ga cũng là nơi chứa đựng những kỉ niệm gắn bó với tuổi thơ

ngọt ngào mà ai trong đời cũng từng trải qua, gắn với tuổi thanh niên nhiều mộng

tưởng, khát vọng của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh con tàu – sân ga còn gắn với cả

cuộc đời bà. Nó như một nhân chứng sống ghi dấu lại sự trưởng thành của nữ sĩ:

“Dọc theo những con tàu

…..

Tiếng gọi những con tàu

…..

Con tàu của tuổi thơ

….

Nơi con tàu đi qua

70

Ga con tàu ở đâu

….

Có khi tàu ngẩn ngơ

Con tàu dừng ở đâu

Là ga tàu ở đó

Tôi đã qua những nhà ga đổ vỡ

….

Tuổi thanh niên tôi có những con tàu

Con tàu qua thăm thẳm đêm sâu

Nhịp tim nung cùng với nhịp con tàu

Còn tàu đi bên màu xanh quyết liệt

….

Con tàu đi cùng với vầng trăng

….

Tuổi thanh niên tôi có những con tàu

….

Những nhà ga gạch lát im lìm

Có nỗi đau một con tàu đứng sững

….

Đứng trên nền ga cũ giữa đồng khuya

….

Em tiễn anh ra ga

71

Tàu chạy rồi bỡ ngỡ vẫy bàn tay

Đêm lạnh giá như con tàu lầm lụi

….

Về nhà ga về những con tàu

Tuổi thanh niên em có những con tàu

Những trưa nắng bước trên đường tàu cũ

….

Nghe trong máu tiếng con tàu réo gọi

Con tàu đi giữa muôn lòng thương yêu

….

Tàu qua những sớm những chiều

Những sông những núi những đèo tàu qua

….

Nơi nào cũng muốn là ga

….

Một bàn tay vẫy thiết tha con tàu

….

Con tàu nối lại trăm quê

Con tàu đi giữa biển mây

Con tàu như cũng nói lời thiết tha

72

Với con tàu - hát những lời thương yêu”

(Hát với con tàu)

Hay đó là những kỉ niệm ngọt ngào gắn với hình ảnh đôi tình nhân yêu nhau

và từ giã cũng như chào mừng sau mỗi lần anh và em lên đường hoàn thành nhiệm

vụ:

“Bóng anh in thành tàu

….

Sân ga chiều anh đi

….

Con tàu với dòng sông

Vừa thoáng tiếng còi tàu”

(Sân ga chiều em đi)

“Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu

Em không còn thấy nhớ những sân ga”

(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)

Hay đó là những hình ảnh quen thuộc của con tàu gắn liền với những kỉ niệm

của tác giả về hình ảnh cha và mẹ:

“Nhớ năm xưa trên một con tàu

….

Cha ơi cha, cậy sợ tàu nó chạy

….

Cây đâu sợ mà tàu chạy đấy con

Nghe con tàu nhớ cây rên xiết mãi

Thương cả con tàu - tàu cũng cô đơn

….

73

Giá cây nhiều tàu có bạn sẽ vui hơn

Và xa tàu cây cũng không buồn đấy nhỉ

Trong toa tàu một em bé ngây thơ

….

Đón tàu mình mẹ có thấy không

Như giục giã con tàu lao tới

Cây ôm tàu hai cánh tay mát rượi

Trong long cây, tàu chẳng cô đơn

Tôi nghe tiếng con tàu reo hát”

(Cây trên đường)

Và cùng viết về biểu tượng con tàu – sân ga chúng ta không quên những câu

thơ rất hay này:

“Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Con tàu lên Tây Bắc, anh đi chăng?

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Đó là những hình ảnh thúc giục những con người mới đến với những vùng

đất mới đầy hứa hẹn.

Biểu tượng con tàu – sân ga trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện 126 lần và nó

gắn với chia ly, hy vọng và kỉ niệm.

74

Liên hệ với biểu tượng con tàu trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam) là ước mơ về

một cuộc tốt đẹp hơn của chị em Liên và những người lao động nghèo khổ nơi phố

huyện. Nó không chỉ chuyên chở những kỉ niệm đẹp thời quá khứ mà chị em Liên

từng có, mà cứ hàng đêm nó lại mở ra trong tâm hồn của hai đứa trẻ những tia sáng.

Đó là động lực, là niềm tin nhen nhóm lên hy vọng sống – nó buồn, nhưng đẹp.

Hay Nguyễn Bính cũng đã khắc tạc rất thành công hình ảnh con tàu – sân ga

về những cảnh chia ly đầy cảm xúc:

“Hai người bạn cũ tiễn chân nhau

Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu

Họ giục nhau về ba bốn bận

Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu

Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng

Lưng còng đổ xuống bóng sân ga”

(Những bóng người trên sân ga)

Hay những nuối tiếc về những ngày nghỉ hè sắp trôi qua, và chợt thoáng

buồn vì phải sắp chia xa một vùng quê tươi đẹp:

“Một nét mặt, trăm tiếng cười rộn rã

Lời trên môi chen chúc nối nghìn câu

Chờ đêm nay; sáng sớm bước lên tàu

Ăn chẳng được, lòng nôn nao khó ngủ”

(Nghỉ hè – Xuân Tâm)

Và đó là những cảm xúc thoáng qua, như là quy luật, khiến lòng người ngẩn

ngơ:

“đoàn tàu đi qua

để lại tiếng”

(Không đề - Văn Cao)

75

Dù là thời chiến hay thời bình, dù gặp gỡ hay ly biệt, tất cả là màu sắc của

cuộc sống. Và nếu cuộc đời là những chuyến đi, chuyến đi để hoàn thành nhiệm vụ,

chuyến đi công tác, chuyến đi thăm viếng, chuyến đi tham quan,…thì âu đó cũng là

cuộc sống. Có ra đi mới mở mang tầm mắt, có khi ra đi mới biết quý trọng những gì

quê nhà, tình thân. Biểu tượng con tàu - sân ga luôn vận động như quy luật của thời

gian vậy. Cứ hẹn lại lên, nó không chờ bất cứ ai cả, nếu ai đến trễ đành chờ chuyến

sau. Trễ nhưng không đồng nghĩa với việc đánh mất cơ hội khác. Hành trình của

con tàu - sân ga như cuộc đời, đã được lập trình sẵn và hành khách phải thật nhanh

chân để ngồi trên chuyến tàu ấy. Và tất cả những cảm xúc nhỏ, tinh tế, tự nhiên,…

ấy Xuân Quỳnh đã kịp ghi lại qua biểu tượng nghệ thuật con tàu – sân ga.

2.2.2. Hoa - Cỏ dại

Hoa (Fleur – tiếng Pháp, flower – tiếng Anh) – “Nếu như mỗi loài hoa có

một biểu trưng riêng ít ra là thứ phát, thì bông hoa nói chung, cũng không kém là

biểu tượng của bản thể thụ động. Đài hoa như là cái cốc có chân, nơi tiếp nhận Hoạt

động của trời, trong số những biểu tượng của hoạt động đó phải kể đến mưa và

sương. Ngoài ra sự phát triển của bông hoa từ đất và nước tượng trưng cho phát

triển của sinh tồn từ chính chất liệu thụ động này.

Thánh Jean de la Croix coi hoa là hình ảnh của những đức tính của tâm hồn

và bó hoa – tập hợp của những bông hoa – là hình ảnh của sự toàn hảo tinh thần.

Với Novalis hoa là biểu tượng của tình yêu và sự hài hòa đặc trưng cho bản chất

nguyên khởi, bản chất này đồng nhất với biểu tượng của thời thơ ấu và theo một

cách nào đó, với trạng thái thiên đường trên trái đất.

Hoa còn biểu tượng của tính không bền vững, không phải là tính hay đổi ý

vốn dĩ là thuộc tính của phụ nữ, mà là một sự không bền vững thuộc về bản chất của

con người, được tạo ra để tiến hóa liên tục và cũng là biểu tượng một cách hết sức

đặc biệt cho đặc tính thoáng qua của sắc đẹp.

Ở người Maya , hoa đại là biểu tượng của sự thông dâm. Hoa đại cũng có thể

là biểu hiện mặt trời, chuyển biến theo tín ngưỡng phối âm dương cơ bản mặt trời –

76

mặt trăng. Nó cũng có thể có nghĩa là con khỉ. Hoa đại có năm cánh (con số âm

tính) nhưng thường chỉ thể hiện bốn trong nghệ thuật khắc chìm, bốn là con số

dương tính.

Bông hoa còn biểu trưng cho linh hồn những người chết.

Ngoài ra, bông hoa thường hiện ra như một khuôn mặt – hình mẫu gốc của

tâm hồn, một trung tâm tinh thần. Ý nghĩa của nó được xác định tùy theo màu sắc,

nó làm lộ rõ sự định hướng của những xu hướng tâm lý: màu vàng mang biểu tượng

mặt trời, màu đỏ biểu tượng máu, màu xanh biểu tượng điều không thực tế, mộng

mơ. Nhưng các sắc thái tâm lý biến đổi đa dạng vô cùng” [27; Hoa – tr.428]

Cỏ (herbes – tiếng Pháp, weed - tiếng Anh) - “là biểu tượng của tất cả những

gì chữa khỏi bệnh tật tái lập sự sống, trả lại sức khỏe, sự cường tráng và khả năng

sinh sản. Tương truyền các thần linh đã phát hiện ra những hiệu năng trị bệnh của

chúng. Mircea Eliade gắn liền biểu tượng cây thảo với biểu tượng Cây đời.

Nhìn chung, thảo vật thường là cơ hội cho sự hiển linh của các phần phồn

thực:

Hỡi những cây thảo, các vị là những từ mẫu, tôi vái chào các vị như những

nữ thần!

Cây cỏ làm cho sự sinh đẻ được dễ dàng, gia tăng khả năng di truyền và bảo

đảm sự thịnh vượng, giàu có. Vì thế mà người ta đã đi đến việc khuyến dụ hiến sinh

động vật cho thực vật.

Một trong những tên của cỏ trong tiếng Breton, louzaouenn, ở số nhiều còn

có nghĩa cổ là thuốc. Y học nguyên thủy cua người Celtes sử dụng nhiều dược thảo,

và truyền thống này có nguồn gốc thần thoại, bởi vì thảo vật được xem là cơ sở hiệu

năng trị bệnh (thần chú chỉ là một phương tiện bổ trợ) của suối phun sức khỏe

(Slante) của người Tuastha Dé Dànann trong truyện cổ Trận đánh Mag Tured. Ý

nghĩa tượng trưng của thảo vật ở đây gặp gỡ ý nghĩa của suối phun [27; Cỏ ba lá -

tr.201]

Uốn cỏ xuống sát đất có nghĩa là tiêu diệt quân thù, trong sử thi anh hùng

của người Esquimaux ở châu Á [27; Cỏ ba lá - tr. 201]

77

Hoa – cỏ dại cặp biểu tượng thuộc về thiên nhiên. Thiên nhiên bao hàm

trong nó vạn vật và hoa, cỏ dại chiếm vị trí áp đảo. Hoa biểu tượng cho vẻ đẹp, cho

món quà của cuộc sống. Giống như con người có mỗi cái tên khác nhau gắn với

từng tính cách, mỗi bông hoa đều mang trong mình những cái tên và mùi hương

khác nhau. Và mỗi biểu tượng hoa gắn liền với ý nghĩa khác nhau. Hoa tràn ngập và

xuất hiện tất cả mọi nơi trong cuộc sống con người. Hoa ngày càng được trồng và

nhân nhiều giống mới hơn. Giống như cuộc sống đang dần thay đổi, số lượng hoa

ngày càng xuất hiện nhiều hơn và dù là ở đó và trong thời điểm nào, hoa cũng được

ưa chuộng và trân trọng. Và hoa vốn mỏng manh, khó trồng và dễ tàn úa, nên cần

được chăm sóc kĩ. Bởi lẽ hoa dù là hoa dại cũng có giá trị cho cuộc sống. Khác với

hoa, hình ảnh cỏ dại có phần đối lập. Trừ những trường hợp những loại cỏ có giá trị

trong y học, và những loại cỏ được sử dụng để trang trí nhà cửa, khu tập thể, sân

banh,…thì một số loài cỏ có ý nghĩa tiêu cực. Cỏ lấn át cây trồng, rau màu, ruộng

lúa,…của bà con nông dân, cỏ mọc ùm tùm che dấu chân trên đường đi mà con

người đã tốn công mở đường,…Nhưng khác với hoa, cỏ dại có sức sống mãnh liệt

và trường tồn bền bỉ với thời gian. Nó thuộc quy luật tự nhiên tự sinh, tự diệt. Sức

sống mãnh liệt, không cần tốn công chăm sóc và phân thuốc. Biểu tượng hoa đặt

cạnh biểu tượng cỏ dại vừa có chức năng tương hỗ, vừa có chức năng tương phản.

Và biểu tượng hoa - cỏ dại gắn liền với nhu cầu thưởng thức và sinh hoạt lao động

hàng ngày, nên hoàn toàn không xa lạ trong tâm thức cộng đồng.

Nói đến biểu tượng hoa và cỏ dại trong thơ mình, Xuân Quỳnh tự quý mình

như một loài hoa, giống như cái tên mà bà đã mang vậy. Cái tên ẩn cái tánh. Cái

tánh nói lên số phận cuộc đời. Đóa hoa Quỳnh mỏng manh, dễ vỡ nhưng luôn nở

thật tươi với đời. Và Xuân Quỳnh là phụ nữ, mà phụ nữ được ví như những bông

hoa, nhưng bông hoa Quỳnh cũng hương cũng sắc nhưng không được may mắn như

những bông hoa khác, số phận đưa đẩy chị thành cỏ dại. Xuân Quỳnh đã tự lớn lên,

tự quyết định số phận cuộc đời mình bằng một nghị lực phi thường, một tâm hồn

mạnh mẽ, vĩ đại. Nhiều lần hóa thân vào những loài hoa khác nhau. Rồi lại trở về là

78

cỏ dại. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, tất cả cũng chỉ tiếng nói của một người phụ

nữ có số phận đặc biệt mang nhiều trắc ẩn với người, với đời mà thôi.

2.2.2.1. Hoa – Cỏ dại – Kiêu sa - Mỏng manh

Hoa – Vẻ đẹp kiêu sa, mà đóa hoa Quỳnh nhiều lần kiêu hãnh. Các loại hoa,

mỗi hoa một hương, một sắc lần lượt thể hiện mình trong thơ Xuân Quỳnh:

Đầu tiên, hoa cúc – loài hoa tượng trưng cho mùa thu rực rỡ:

“Em về hoa trắng dâu da

….

Bông cúc biển mùa thu nở rồi”

(Tình ca trong lòng vịnh)

Hay

“Mẫu đơn dại, mấy cành tôi vẫn nhớ”

(Khán giả của tôi)

“Mẫu đơn dại, mấy cành tôi vẫn nhớ

…..

Tiếng mưa trên cánh hoa”

(Lịch mới)

Đó còn là loài hoa đặc trưng của Hà Nội:

“Phố Nguyễn Du nồng nàn hoa sữa

….

Ngọn gió Tây Hồ làm cánh hoa me rơi nhẹ”

(Em có đem gì theo đâu)

“Gió đường phố và mùi hương hoa sữa”

(Những năm ấy)

Trong thế giới tâm hồn của nữ sĩ, một thế giới đầy sắc màu còn xuất hiện các

loài hoa hương sắc khác như:

“Hoa còi trắng chuyển vàng sang tháng chín

….

79

Vị cúc tần thơm giữa vùng quê bình dị”

(Một vùng cửa sông)

“Bây giờ mùa hoa doi

….

Anh có nghe hoa rơi”

(Mùa hoa doi)

“Một mùi hương hoa lý”

(Chiến hào)

“Mưa to thế chắc sông tràn bờ cỏ

….

Hoa sen hồng mặt nước thì trong”

(Không đề (I))

“Tiếng ai hát bên kia đồi cọ trắng

….

Hoa lau bay, dốc vắng, khói chiều xanh

….

Hoa sở trắng, sim, mua đầy thung lũng”

(Trung du)

“Mùi hương thơm tự trong lòng của hoa

….

Cái hoa bận đỏ, cái hồ bận xanh”

(Lời ru trên mặt đất)

“Mùi hương thơm tự trong lòng của hoa

….

Cái hoa bận đỏ, cái hồ bận xanh”

(Lời ru trên mặt đất)

“Hoa chuối rừng, ớt núi sẻ chia nhau

…..

Tứ quý ơi, hoa nở bốn mùa

80

Loài hoa nhỏ tầm thường như cỏ”

(Miền đất ấy)

“Thoảng mùi hương hoa lý”

(Trưa hè)

“Bao giờ cây kinh giới ra hoa”

(Ngày mai trời còn mưa)

“Những bông hoa nho nhỏ

Mùa hoa ngâu ấy nở

….

Như ngâu vàng vẫn nở

….

Hoa ngâu ở nơi nào”

(Bao giờ ngâu nở hoa)

Chúng ta thấy biểu tượng hoa – cỏ dại xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh lúc

thì được nhà thơ nhắc chung, lúc thì được cụ thể thành những hoa như hoa cúc, hoa

kính giới, mẫu đơn, hoa còi, hoa ngâu, hoa me, hoa doi, hoa sữa, hoa lý, hoa

chuối,…những loài hoa có lúc được người ta trồng để trang trí, có lúc chỉ là những

bông hoa ven đường, những đầy kiêu hãnh. Đặc biệt, Xuân Quỳnh nhắc đến biểu

tượng hoa cúc rất nhiều lần, bởi lẽ hoa cúc màu vàng và là màu đặc trưng của mùa

thu, cũng chính là mùa Xuân Quỳnh sinh ra đời. Sắc vàng của cúc chính là sắc màu

của cuộc sống. Hơn nữa, biểu tượng hoa cúc đại diện cho vẻ đẹp trong sáng, thánh

thiện.Và cần thấy rằng, dù là hoa nào đi chăng nữa, những bông hoa trong thơ Xuân

Quỳnh luôn có hương, có sắc riêng. Và đặc những bông hoa bên cạnh hình ảnh cỏ

dại là vì thực tế cỏ, hoa luôn song hành và tô điểm cho nhau. Và cũng cần thấy

rằng, hoa vốn kiêu sa, nhưng mỏng manh, dễ vỡ, sớm nở, sớm tàn – đó vốn là quy

luật chung của các loài hoa.

81

2.2.2.2. Hoa – Cỏ dại – Trần trụi - Mạnh mẽ

Đối lập với các biểu tượng trên, biểu tượng hoa – cỏ dại trong thơ Xuân

Quỳnh mang thêm một nét khác biệt đó là trần trụi và mạnh mẽ. Hoa – cỏ dại như

quy luật tự nhiên tự sinh, tự diệt, sức sống và sức dẻo dai của nó là không gì có thể

hủy diệt được:

“Trên những cành phượng đỏ

Trong những đầm sen nở

Cỏ dại không người che”

(Tháng Năm)

“Trong ác liệt bỗng biết ơn màu cỏ

Những làng hoa hương thoáng xa gần

Vườn hoa trẻ như thuở mười sáu tuổi

…..

Cỏ làm bớt hoang tàn

….

Cỏ làm bớt thương đâu”

(Em có đem gì theo đâu)

Hay

“Cỏ dại quen nắng mưa

….

Cỏ thường ngập trước

Cỏ mọc đầu tiên

Khi tôi bước giữa một vùng cỏ dại

82

Cứ dường hào rẽ cỏ mà đi

Anh bỗng nghĩ đến một vùng cỏ dại

….

Anh nhận thấy trước tiên là cỏ

Đất quê mình cỏ đã mọc lên chưa

Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ”

(Cỏ dại)

Không dừng ở đó, ngọn cỏ trong thơ Xuân Quỳnh có một sức sống mãnh liệt

ngay cả trong lửa đạn:

“Nơi bom dội không còn ngọn cỏ

Cát sa mạc trở về cùng cây cỏ

Hoa sấu rụng trên trái nhà đã cũ

Mẫu đơn dại mọc quay quần thay cỏ

Người quên đi, cây cỏ khô cằn

Tiếng nói khác và cỏ cây cũng khác”

(Những năm tháng không yên)

Và tâm hồn bay bổng, phiêu lưu của Xuân Quỳnh cũng gởi cùng hoa, tất cả

như muốn hòa cùng thiên nhiên, đất trời:

“Gió chiều xưa hoa cỏ trắng bên đồi

Mùa hoa rừng, những tiếng ong bay

Màu mua tím, một khoảng trời thương nhớ

Mùa hoa chiều thương nhớ được nhân hai”

(Kỷ niệm người lính cũ)

83

Hoa – cỏ dại, cũng giống như con người, dù thời chiến hay thời bình nó vẫn

vươn mình và sinh tồn. Hàng loạt câu thơ liệt kê ở trên là minh chứng cho sức

trường tồn của hoa – cỏ dại. Cũng là các biểu tượng hoa ấy, nhưng nó không chỉ

kiêu hãnh mà nó còn trần trụi, nó không chỉ mỏng manh mà còn mạnh mẽ. Biểu

tượng nghệ thuật hoa – cỏ dại cũng chính là vẻ đẹp trong tính cách của Xuân

Quỳnh.

Biểu tượng hoa – cỏ dại trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện 142 lần và nó gắn

với hình ảnh của sự kiêu sa, nhưng mỏng manh và đồng thời lại mang một nét

tương phản là trần trụi và mạnh mẽ.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, nhưng đóa hoa – cỏ dại mang tên Quỳnh luôn ở tư

thế chủ động tỏa hương, bởi là bà ý thức được cuộc đời ngắn ngủi, và mỗi chúng ta

chỉ sống một lần trong đời. Quan niệm sống “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt -

Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu) rất đúng với Xuân Quỳnh. Và dù có cố

muốn trở thành một loài cỏ dại trường tồn với thời gian thì số phận khắc nghiệt đã

biến đóa hoa Quỳnh đầy sắc đầy hương sớm từ giã cuộc đời. Nhưng may mắn thay,

hương thơm của đóa Quỳnh ngày nào vẫn còn vương vấn đâu đây. Và dám chắc

rằng nó vẫn ngào ngạt trong lòng bao độc giả, những ai biết yêu và quý cái Đẹp,

nhất là vẻ đẹp tâm hồn.

Trên văn đàn, chúng ta thấy, biểu tượng hoa nhắc đến nhiều, tuy nhiên, các

tác giả nhắc hoa một cách chung chung và nếu là cụ thể thì đó là những bông hoa

rất quen thuộc như:

“Tôi thả một bông hoa

Bông hoa trôi”

(Trôi – Văn Cao)

Hay

“Bóc đi nỗi nhớ mùa

Đến mùa hoa vẫn nở

Có một bông hồng đỏ

Tự bóc mình tàn phai”

84

(Bóc đi nỗi nhớ mùa – Nguyễn Trọng Tạo)

Hoặc

“Mong manh nhất không phải tơ trời

Không phải nụ hồng”

(Không phải tơ trời, không phải sương mai – Đỗ Trung Quân)

“Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Em vẫn đây mà em ở đâu”

(Bóng chữ - Lê Đạt)

Khác với ca dao – dân ca, thơ trung đại các biểu tượng mai – lan – cúc - trúc

trong thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi,…đậm chất ước lệ, biểu tượng hoa – cỏ dại

trong thơ Xuân Quỳnh là những chất liệu thực và cụ thể.

2.2.3. Sóng - Gió (nước)

Hòa vào với không gian rông lớn của thuyền - biển - sông, sóng- gió (nước)

xuất hiện như tô thêm màu sắc, sôi động hơn cho bức tranh thiên nhiên vậy.

Sóng (flots- tiếng Pháp, waves (tiếng Anh) – “Cũng như lao vào lửa hay

những đám mây, sự lao vào sóng chỉ một sự đoạn tuyệt với cuộc sống thường ngày:

một sự đổi thay căn bản xảy ra trong tư tưởng, thái độ, cách xử sự trong cuộc sống.

Biểu tượng này kết hợp với biểu tượng của lễ rửa tội, với hai giai đoạn: chìm xuống

và nhô lên.

Trong Kinh Thánh, sóng nước đặc trưng cho những hiểm họa chết người và

đặc biệt nham hiểm, về thể chất hoặc tinh thần:

Những con sóng của cái chết bao bọc tôi

Những thác nước Beslial làm tôi ghê sợ;

Lưới địa ngục bủa vây tôi

Trước mặt tôi là cạm bẫy của tử thần”

[27; Số - tr. 827].

Gió (vent – Tiếng Pháp; wind – Tiếng Anh) – “Nghĩa biểu trưng của gió có

nhiều mặt. Do đặc tính của nó là náo động, gió là một biểu tượng của tính hư phù,

85

bất ổn định hay thay đổi. Gió là một sức mạnh sơ đẳng, thuộc về các Titan; như vậy

đủ nói lên vừa tính dữ dội vừa tính mù quáng của gió.

Mặt khác, gió đồng nghĩa với khí và do vậy, với Thần linh, với luồng tinh

thần gốc ở trời. Vì vậy sách Thánh vịnh, cũng như kinh Coran, lấy các cơn gió làm

các sứ giả của Chúa Trời, tương đương với các Thiên thần.

Gió kết hợp với nước ở Trung Quốc chỉ nghệ thuật phong thủy, về nguyên

tắc là thuật nghiên cứu các luồng khí trong không trung kết hợp với các dòng thủy

lưu và địa lưu trên một vị trí địa hình nào đó.

Theo các truyền thuyết Hinđu về nguồn gốc vũ trụ trong Luật của Manu, gió

được sinh ra từ thần linh và gió sinh ra ánh sáng.

Trong các truyền thuyết ở sách thánh Avesta của Ba Tư cổ, gió giữ vai trò

giá đỡ thế giới và điều tiết các thế cân bằng vũ trụ và tinh thần.

Theo các truyền thuyết đạo Hồi, gió được giao chức phận tàng trữ nước, việc

gió tạo ra không khí và mây, với vô số cánh, cũng làm cho gió trở thành một giá đỡ.

Trong các truyền thuyết Kinh Thánh, những con gió là hơi thở của Chúa

Trời.

Đối với người Hy Lạp, gió là những vị thần bất an và hiếu động, bị giam giữ

trong các hang sâu ở các Đảo Éoliennes.

Gió đạo sĩ (vent druidique) là một biểu hiện quyền lực của các giáo sĩ

celtique đối với các sức mạnh thiên nhiên, chúng như thể vật truyền thần diệu,

chúng rất gần gũi với khí.

Khi gió xuất hiện trong các giấc mơ, nó báo một sự kiện quan trọng đang

được chuẩn bị ngầm, một sự đổi thay sắp xảy ra” [27; Gió – tr. 362,363].

Sóng - gió (nước) thuộc về thiên nhiên, nó thường gắn với bão lũ lụt, những

thay đổi của quy luật thiên nhiên. Một biển được dệt nên bằng những con sóng, dù

to hay nhỏ, thì nó cũng làm mặt nước gợn. Và gió, chính là cội nguồn sinh ra những

con sóng trên mặt biển. Theo quy luật riêng của chúng, chúng sẽ vận hành, đó là

nhưng bí ẩn của vũ trụ mà ngày nay khoa học về vũ trụ đã lý giải được. Một con

sóng nhẹ làm mặt biển đẹp và sống động. Một cơn gió nhẹ làm khí trời nhẹ nhàng,

86

mát mẻ hơn. Nhưng thật rắc rối, nêu đó là những cơn sóng thần, những cơn bão và

kèm theo những trận gió kinh hoàng. Ơ nhiều nơi trên thế giới, nơi có những địa

hình bất ổn, thì người ta đã làm quen với việc thích nghi với sống chung với thiên

nhiên. Còn ở Việt Nam, do đặc điểm khí hậu, địa hình, năm nay cũng xảy ra, nhưng

những con bão, lũ lụt hàng năm vẫn là nguyên nhân gây ra những thiệt hại về người

và của. Và thật sự biểu tương sóng - gió (nước) in đậm trong tâm thức cộng đồng.

Đến với thơ Xuân Quỳnh, các biểu tượng ấy trở thành trọng tâm và liên tục

xuất hiện, thậm chí, Xuân Quỳnh còn hóa thân mình vào những biểu tượng đó.

2.2.3.1. Sóng – Gió (Nước) – Tình yêu đôi lứa

Biểu tượng sóng – gió (nước) đã từ lâu in đậm trong kí ức của bao độc giả về

tình yêu. Có thể nói, nhân vật trữ tình và em sóng đôi, nhập vào làm một:

“Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

….

Trước muôn trùng sóng bể

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Trăm nghìn con sóng đó

Thành trăm con sóng nhỏ”

87

(Sóng)

Và đó còn là những trăn trở, lo lắng của nhân vật trữ tình khi trời chuyển

mùa, nhân vật em lo cho người yêu của mình và chạnh lòng:

“Gió nhiều quá, phòng trở nên chật hẹp”

(Trời trở rét)

Vẻ đẹp trong tình yêu của Xuân Quỳnh chính là những giây phút thấp thỏm,

nghĩ đến người mình yêu một cách thường trực, thương cho những vất vả, khó khăn

của chồng:

“Gió trở lại một mình trên phố

….

Thương chiếc xe anh nhọc nhằn trong gió

….

Đêm gió lạnh em xin làm ngọn lửa”

(Không đề (I))

2.2.3.2. Sóng – Gió (Nước) – Tình yêu thiên nhiên

Và biểu tượng sóng – gió (nước) trong thơ Xuân Quỳnh còn là tình yêu thiên

nhiên. Những bước đi rất khẽ, rất nhẹ, rất nhanh của thiên nhiên, nhưng bằng một

trái tim nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã thâu tóm được:

“Mang gió nồng nắng lửa”

(Tháng Năm)

“Trời chuyển gió phải chăng hồ mềm yếu”

(Trời trở rét)

“Nghe gió mạnh về xô”

(Mái phố)

“Tiếng sóng vỗ dưới chân thành phố”

(Thành phố lạ)

“Ngọn gió đầu mùa thổi mạnh”

(Lịch mới)

88

Dù đó là sóng, gió hay nước – tất cả hình ảnh thiên nhiên đó vừa là vẻ đẹp,

nhưng nó lại mang nét không ổn định, hay thay đổi, điều đó cũng nói lên cảm xúc

thất thường và bất ổn của nhà thơ vậy.

Biểu tượng sóng - gió (nước) xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh 167 lần và nó

gắn với tình yêu đôi lứa và tình yêu thiên nhiên. Sóng – gió (nước) dù là những bất

thường, bất ổn của thiên nhiên, nhưng nó vẫn gắn bó và trường tồn cùng con người

bao đời nay. Dù muốn hay không con người vẫn phải chấp nhận và thích nghi với

nó. Và Xuân Quỳnh, một nữ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, bà yêu thiết tha thiên nhiên,

nhưng chính tâm hồn nhạy cảm đó cũng giúp Xuân Quỳnh đón nhận đầu tiên những

cơn giông bão của cuộc đời. Như những con sóng, tình yêu luôn thường trực trong

trái tim bé nhỏ của Xuân Quỳnh, những nhịp đập trái tim khác thường là vẻ đẹp

trong tâm hồn của nữ sĩ. Và nghệ thuật muôn đời nay vẫn dành những sáng tác rất

hay cho biểu tượng sóng - gió (nước).

Cùng viết về biểu tượng sóng nhưng Thâm Tâm nói về tiếng sóng lòng của

người thanh niên ra đi thực hiện chí lớn:

“Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”

(Tống biệt hành)

Hay cùng là biểu tượng gió, và cùng thể hiện tình yêu đôi lứa, nhà thơ Lâm

Thị Mĩ Dạ có cách nói riêng:

“Mây em bay lượn

Gió anh bao la”

(Anh có tốt không?)

Và tình yêu thiên nhiên thể hiện qua biểu tượng nghệ thuật gió, chúng ta

cũng thấy nó xuất hiện trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ:

“Thả mây cho gió

Thả xanh cho cỏ”

89

(Tôi về với tôi)

Và nhà thơ Vi Thùy Linh cũng khắc tả điều này, để nói lên tâm trạng của

nhân vật trữ tình em:

“Nơi em ở là phía ngày nắng tất

Nỗi buồn nhiều như gió

Gió vẫn thổi, buồn phiền không mất nổi”

(Từ phía ngày nắng tắt – Vi Thùy Linh)

Hay nhà thơ “điện trong cõi mộng” Bùi Giáng cũng thật thẳng thắn nói về

gió, đó như là một thái độ của nhà thơ với cuộc đời vậy:

“Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa”

(Mắt buồn)

Và Đỗ Trung Quân cũng có câu thơ rất sống động, miêu tả sự biến chuyển

của thiên nhiên:

“Như cơn giông ập tới

Đã như sóng xô bờ, sóng lại ngược ra khơi”

(Không phải tơ trời, không phải sương mai)

Gió còn là biểu tượng trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đàn anh

của thể loại tùy bút ấy đã viết rằng:

“Dáng ai như tôi đi qua cánh đồng

Thu nhặt lại mình trên ngọn gió”

(Cỏ chim sẻ và châu chấu)

2.2.4. Thuyền - Biển (Sông)

Thuyền (barque – tiếng Pháp, boat – tiếng Anh) - “Là biểu tượng của cuộc

hành trình, cuộc vượt qua do người sống hoặc người chết thực hiện” [27; Thuyền –

tr.910]

Nó vừa chứa sức mạnh thần kì, vừa chỉ hoạt động ma quái, vừa biểu tượng

của sự an toàn.

90

Sông (fleuve – Tiếng Pháp, river – tiếng Anh) hay dòng nước chảy đồng thời

“là biểu tượng của khả năng của vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng thể ( F.

Schoun) của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Dòng chảy là dòng của sự

sống và sự chết. Ta có thể xem xét kỹ hoặc là sự chảy xuôi dòng ra đại dương, sự

ngược dòng hay là sự vượt qua dòng từ bờ này sang bờ khác” [27, Sông – tr.829]

Trong tác phẩm Tây Du Kí, thầy trò Đường Tam Tạng đã vượt qua rất nhiều

chướng ngại vật, và địa hình sông – biển là một trong những thử thách đó. Con

đường đến với chân kinh không hề dễ dàng, từ đầu câu truyện đến kết thúc câu

truyện, tác giả đã khéo léo để cho Đường Tăng và các môn đệ gặp nạn tại các dòng

sông (Gặp SaTăng đầu câu chuyện, gặp Bạch Long Mã tại biển Đông Hải, kinh Phật

bị chìm và ướt ở cuối truyện,…). Giống như dòng chảy của dòng sông, những bước

đi của thầy trò Đường Tăng cứ diễn ra, và dù có bao nhiêu gào cản, cuối cùng họ

cũng đi đến đích. Chính nghị lực và tâm trong sáng, sự đoàn kết và dìu dắt của Phật

Tổ, mà con đường đi đến Chân kinh dẫu có xa nghìn trùng, nhưng cuối cùng cũng

đã về đích.

Biểu tượng sang sông còn là biểu tượng kết duyên của đôi nam nữ. Huyền

thoại về Nàng Chức Nữ qua sông Ngân Hà để gặp Ngưu Lang vào thu phân trở

thành một nghi lễ theo mùa nguyên mẫu ở nhiều nơi ở phương Đông.

Dòng sông, còn gợi lên sự tôn kính và sợ hãi. Người ta thờ thần sông và thực

hiện các nghi lễ để cúng bái theo phong tục, tập quán của từng vùng, miền,…khác

nhau khắp nơi trên thế giới. Người ta tin vào những con sông linh thiêng, những

vùng nước thánh.

Biển (mer – tiếng Pháp, sea – tiếng Anh) – “Một biểu tượng của động thái sự

sống. Tất cả từ biển mà ra và tất cả trở về biển: đây là nơi của những cuộc sinh đẻ,

những biến thái và những tái sinh. Là nước trong sự chuyển động, biển tượng trưng

cho một trạng thái quá độ giữa các khả năng còn phi hình và các thực tại đã hiện

hình, cho một tình thế nước đôi tình thế bấp bênh, đầy hồ nghi, chưa quyết định và

có thể kết thúc tốt hay xấu. Từ chỗ đó biển là hình tượng vừa của sự sống, vừa của

sự chết.

91

Biển, mà nghĩa biểu trưng tổng quát tiếp nối nghĩa biểu trưng của nước và

Đại dương, giữ một vai trò to lớn trong tất cả các quan niệm truyền thống của người

Celtes.

Kinh Thánh chắc chắn biết ít nhiều về nghĩa biểu trưng có nguồn gốc

phương Đông của nước nguyên thủy, của biển hoặc vực thẳm, đáng sợ ngay cả đối

với thần linh.

Biển hình như là biểu tượng của một vật thụ tạo tự coi mình hoặc được coi là

con tạo.

Đối với thần hiệp, biển tượng trưng cho thế gian và trái tim con người là nơi

trú ngụ các nỗi đam mê. [27; Biển – tr.80, 81]

Biểu tượng thuyền - biển (sông) biểu hiện cho thiên nhiên và cảnh vật. Biển

(sông) là do tạo hóa, nhưng cũng có thể do nhân tạo. Và biển thì chảy vào sông và

mọi con sông đều đổ ra biển. Biển rộng hơn sông, và có vị mặn. Sông nhỏ hơn biển

và có vị ngọt. Biển và sông giao nhau tại một vùng, mà chúng ta gọi đó là vùng

nước lợ. Và biển và sông nó có lưu lượng dòng chảy của riêng nó. Và thủy triều là

cách người ta đo mức độ nông sâu của các dòng sông. Cùng với núi, đồng bằng,

trung du, biển và sông là những dạng địa hình cơ bản của trái đất. Biển và sông

chứa lượng khoáng sản và thức ăn phong phú, là nguồn tài sản phong phú gắn bó

mật thiết với mỗi con người, nên trong tâm thức của mọi người, biển và sông đều

quen thuộc. Ở Việt Nam, địa hình chủ yếu là biển và sông. Miền Bắc, miền Trung

gắn bó nhiều hơn với biển, còn miền Nam là sông. Và nếu ví biển và sông là trái đất

thì chính thuyền là mặt trời. Thuyền là sản phẩm, phương tiện do con người chế tạo

ra nhằm phục vụ nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, đánh bắt của con người. Và

một sản phẩm nhân tạo ấy thật sự nhỏ bé khi đứng giữa bà mẹ thiên nhiên. Biển -

sông, đã trở thành biểu tượng giải trí - du lịch yêu thích của tất cả mọi người. Người

ta tìm đến biển - sông để tìm lại tâm hồn mình.

Biểu tượng thuyền - biển (sông) xuất hiện 169 lần trong thơ Xuân Quỳnh và

song hành cùng nhau.

92

2.2.4.1. Thuyền – Biển (Sông) – Tình yêu đôi lứa

Biểu tượng thuyền – biển (sông) cũng rất quen thuộc với chúng ta. Vẻ đẹp

của tình yêu được tỏa sáng và thăng hoa ở biểu tượng kép này:

“Em sẽ kể anh nghe

Chuyện con thuyền và biển:

“Từ ngày nào chẳng biết

Thuyền nghe lời biển khơi

Cánh hải âu, sóng biếc

Đưa thuyền đi muôn nơi

Lòng thuyền nhiều khát vọng

Và tình biển bao la

Thuyền đi hoài không mỏi

Biển vẫn xa…còn xa

Những đêm trăng hiền từ

Biển như cô gái nhỏ

Thầm thì gửi tâm tư

Quanh mạn thuyền sóng vỗ

Cũng có khi vô cớ

Biển ào ạt xô thuyền”

(Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên?)

Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu, về đâu

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau - rạn vỡ

93

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió”

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bảo tố”

(Thuyền và biển)

2.2.4.2. Thuyền – Biển (Sông) – Tình yêu Tổ quốc

Và song song với điều trên, biểu tượng thuyền – biển ( sông) còn gắn liền

với tình yêu tổ quốc và nó được cụ thể bằng tình yêu thiên nhiên:

“Mưa to thế chắc sông tràn bờ cỏ”

(Không đề I)

“Dòng sông chạy thành một nét vòng cung

Em quên tên con sông và không nhớ rõ”

(Thành phố lạ)

“Vắng đồng muối mặn mòi, xa biển lúa

……..

Không phải đích của sông, vẫn gửi nắng cho buồm”

(Trung du)

“Dải sông Hồng mong đợi”

(Lịch mới)

“Tiếng thuyền ra biển rộng”

(Lịch mới)

Và trong chiến tranh, biểu tượng thuyền – biển –sông cũng gắn bó với con

người:

“Do cát vàng với dòng sông đỏ

……..

Những năm chiến tranh người đi biển đi sông”

(Em có đem gì theo đâu)

94

Thiên nhiên đẹp, nhưng nó cũng ẩn chứa trong đó những bất ổn mà con

người phải đối mặt, lũ lụt, bão tố,…vẫn xảy ra. Tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc

của nhà thơ vì thế càng được tăng lên gấp bội qua nỗi lo lắng, suy tư đó.

Dù là biểu tượng thuyền - biển (sông) thì chúng ta cũng thấy sự kết dính, phụ

thuộc, tương hỗ, gắn bó nhau giữa chúng. Những biểu tượng này vừa thể hiện được

những nốt lặng trong tâm hồn, đồng thời cũng thể hiện những cảm xúc khác của nữ

sĩ về tình yêu đôi lứa, những trăn trở, suy tư, những khát khao, dự cảm,…đó là tình

yêu đời, yêu người, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.

Trong Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) hình tượng nhân vật ông lái đò

hay Ông già và biển cả (Hemingway), Thu Điếu (Nguyễn Khuyến), chiếc thuyền

được nhắn đến, đó như là phương tiện, chuyên chở những giấc mơ, khát vọng và

đồng thời là nhân chứng ghi lại những cảm xúc chân thực của con người. Dù đứng ở

vị trí là một người lao động hay là một nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, dù là

không gian tĩnh hay động,…thì cũng thấy được sự gắn kết giữa thiên nhiên và con

người.

Và cùng là nói về tình yêu, nếu ở thơ Xuân Quỳnh, biểu tượng thuyền – biển

(sông) được cất lên từ tâm hồn của người con gái, thì Xuân Diệu đã lắng nghe và

đáp lại bằng giọng điệu của người con trai, cũng đậm chất thi vị - lãng mạn của tình

yêu. “Ông Hoàng thơ Tình yêu” và “Nữ Hoàng thơ Tình yêu” đã có dịp đối đáp

nhau. Xuân Diệu viết rằng.

“Anh không xứng là biển xanh

Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng

Bờ cát dài phẳng lặng

Soi ánh nắng pha lê…

Bờ đẹp đẽ cát vàng

-Thoai thoải hàng thông đứng

Như lặng lẽ mơ màng

Suốt ngàn năm bên sóng…

Anh xin làm sóng biếc

95

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi, hôn lại

Cho đến mãi muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt…

Cũng có khi ào ạt

Như nghiến nát bờ em

Là lúc triều yêu mến

Ngận bến của ngày đêm

Anh không xứng là biển xanh

Nhưng cũng xin làm bể biếc

Để hát mãi bên gành

Một tình chung không hết

Để những khi bọt tung trắng xóa

Và gió về bay tỏa nơi nơi

Để những khi bọt tung trắng xóa

Và gió về bay tỏa nơi nơi

Như hôn mãi ngàn năm không thỏa,

Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi!”

(Biển )

Cũng là biểu tượng sông, nhưng khác với cái nhìn của nữ giới, Hàn Mặc Tử

cũng cất lên tiếng lòng:

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng:

“ – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc,

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang…”

(Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)

96

Hay Văn Cao cũng trải lòng mình qua biểu tượng thuyền:

“Tôi thả con thuyền giấy

Con thuyền giấy trôi”

(Trôi)

“Con thuyền đi qua

Để lại sóng”

(Không đề )

Khác với văn học dân gian, cũng như trong thơ Hồ Xuân Hương, thơ Xuân

Quỳnh không có biểu tượng ao, biểu tượng giếng. Không gian trong thơ Xuân

Quỳnh được mở rộng hơn và gắn liền với địa hình mà thời đại Xuân Quỳnh sống.

Không gian ấy tương ứng với dòng chảy của thời gian. Xuân Quỳnh là nhà thơ hiện

đại, tiếp bước tiếng lòng của Hồ Xuân Hương vọng lại, Xuân Quỳnh đã cất cao

giọng nói, ước vọng của mình với người, với đời và đã được đón nhận. Nếu như

trong thời đại của Hồ Xuân Hương thì tiếng nói của phụ nữ bị kìm hãi thì tới giai

đoạn của Xuân Quỳnh xã hội, cộng đồng có cái nhìn thoải mái và cởi mở hơn.

Tiếng nói của nữ giới vẫn luôn song hành cùng nam giới và nó xóa bỏ mọi ranh giới

về phân biệt giới tính.

Trong nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc, những ca khúc về biển được các nhạc

sĩ viết rất nhiều. Hình ảnh người chiến sĩ đứng canh ngoài biển đảo hay những

thanh niên xung quang hy sinh, tình nguyện hiến mình cho tổ quốc ở những đảo

xa,…tất cả là vẻ đẹp của con người. Đặc biệt, với những ai sinh ra gắn liền với

những dòng sông và biển tâm hồn của họ rất phóng khoáng và mở rộng. Nhà thơ

Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử là những tác giả đồng điệu với biển, với nữ sĩ Xuân

Quỳnh. Hay Tế Hanh với bài thơ Nhớ con sông quê hương cũng làm thổn thức

những ai đã từng biết yêu thương và gắn bó với xứ sở. Và cũng không có gì ngạc

nhiên, khi nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh được phổ nhạc, nó đã được hát lên hòa

vào tâm hồn của hàng triệu con người.

Ngoài các biểu tượng đơn và các biểu tượng kép trên, chúng ta thấy trong thơ

Xuân Quỳnh còn xuất hiện các biểu tượng khác như: trăng, ngày và đêm, con trai-

97

con gái, vườn - lá – cây, người lớn – con nít, núi đồi – đồng bằng, nắng – mưa, mùa,

ngôi nhà, con đường, phố,….tuy nhiên tần số ít nên trong khuôn khổ của luận văn,

người viết chỉ tập trung khai thác các biểu tượng như đã trình bày. Trong các biểu

tượng đó, có thể thấy rằng, biểu tượng bàn tay (100 lần), tiếng (71 lần), sóng – gió

(nước) (167 lần) và thuyền – biển (sông) (169 lần) xuất hiện đậm đặc nhất. Điều đó

đồng nghĩa với việc, những biểu tượng đó gắn liền với tâm thức của Xuân Quỳnh

ngay cả trong giấc mơ lẫn ngoài cuộc đời thực. Với người viết, ấn tượng nhất có lẽ

là biểu tượng sóng. Là một người mê nhạc giao hưởng và thích biển, nên cứ mỗi lần

nghe nhạc hay có dịp đặt chân đến biển, thì cảm giác rất thoải mái. Đứng trước biển

với những điệu nhạc du dương từ sóng vỗ, con người ta như tìm thấy chính ta, tâm

hồn ta trở nên thanh lọc và mát mẻ hơn bao giờ hết. Thiên nhiên, bà mẹ thứ hai và

như một câu hát “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” (Lòng mẹ), đánh

thức trong ta những tình cảm ngọt ngào nhất với đời, với người.

Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng, các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân

Quỳnh đa dạng, phong phú và đầy màu sắc. Thơ Xuân Quỳnh nói chung có nhiều

biểu tượng, và trong từng biểu tượng đơn hay từng biểu tượng kép chúng đều có

nhiều nét nghĩa.

Đồng thời, chúng ta thấy rằng, các biểu tượng đơn và các biểu tượng kép có

mối quan hệ tương quan với nhau. Có lúc thì tương phản, có lúc thì tương hỗ.

Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, chúng cũng kết nối với nhau hình thành nên biểu

tượng chính trong thơ Xuân Quỳnh, đó là biểu tượng Tình yêu. Xuân Quỳnh, được

biết đến là “Nữ Hoàng thơ Tình yêu” cũng là bởi toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của

bà đã xây dựng một tượng đài mang tên Tình yêu sừng sững, mà ở đó, mỗi bài thơ

là một viên gạch gắn chắc – bền vững.

Hồ Chí Minh từng viết rằng:

“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

98

(Cảm tưởng đọc thiên gia thi)

Vâng, thơ Xuân Quỳnh được viết bằng chính sự phong phú, muôn màu của

cuộc sống thực. Bà không tô hồng, cũng không bôi đen, chính vì thế, những vần thơ

của Xuân Quỳnh đậm chất thời sự và dễ đi vào lòng người là như vậy.

99

Chương 3. BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH –

TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH TÂN

Để lý giải vấn đề này, chúng tôi đứng từ góc độ phong cách nghệ thuật của

nhà văn (nhà thơ) để lý giải. Sở dĩ như vậy là vì, khi nhắc đến một tác giả nào đó,

người ta đề cập đến phong cách nghệ thuật của họ. Khái niệm phong cách nghệ

thuật được hiểu là:

“Thứ nhất, đó là cái tôi riêng, độc đáo (có tính thẩm mỹ), mới lạ.

Thứ hai, được thể hiện cả nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện của tác

phẩm.

Thứ ba, phải thể hiện đều đặn, thống nhất, lặp đi lặp lại, xuyên suốt.

Thứ tư, phong cách nghệ thuật phải ngày càng cao, càng hoàn thiện, càng

hoàn mỹ theo thời gian. Tức là có sự vận động và phát triển” [40; tr.13].

Và do đó, phong cách nghệ thuật chính là khẳng định vị trí, đóng góp của

một tác giả nào đó trên văn đàn. Và trên văn đàn Việt Nam, ngoài Hồ Xương

Hương ra, Xuân Quỳnh được xem là nhà thơ nữ có phong cách độc đáo nhất, ấn

tượng nhất và có một vị trí nhất định trên văn đàn. Cụ thể phong cách nghệ thuật

của Xuân Quỳnh là “Nữ Hoàng thơ Tình yêu”: quan niệm mới mẻ trong tình yêu:

chủ động, dám yêu, dám sống vì tình yêu đích thực, kiêu hãnh và tự hào về tình yêu

của mình đang có, say đắm, giữ gìn, vun đắp và biết hy sinh cho tình yêu, tình yêu

chân thành, mọi cung bậc cảm xúc đều được nhà thơ lột tả, sống thật với trái tim.

Từ tình yêu bồng bột, hồn nhiên đến những rung động xao động, kín đáo, nhẹ

nhàng, yêu là phải có niềm tin và khát vọng được hạnh phúc, đồng thời nhà thơ còn

dự cảm một cách rất tinh tế [23; tr.47 - 77]. Đồng thời ở Xuân Quỳnh còn là tiếng

nói của trách nhiệm công dân, tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Tình yêu

ấy còn là của người vợ, người mẹ, người chị, người con,…Bức tranh rộng lớn ấy

vẫn lấy tình yêu làm tâm điểm. Và đó còn là khát vọng được sống, được cống hiến

hết mình. Và ngoài những đặc điểm về phương diện nội dung, thì về mặt nghệ thuật

nhà thơ Xuân Quỳnh để lại giọng điệu riêng. Các bài thơ của Xuân Quỳnh phần lớn

là những mẫu chuyện, những giải bày tâm sự,…đa giọng điệu, đa đối tượng và nó

100

thường xuyên, ổn định và ngày càng phát triển, hoàn thiện qua những biểu tượng

nghệ thuật. Ngoài các biện pháp nghệ thuật thường thấy, trong thơ Xuân Quỳnh đặc

biệt ở chỗ, các bài thơ thường là kết cấu vòng tròn, được xây dựng bằng các hiệu

ứng như lạ hóa, gợi nén, ám ảnh. Tất cả những nét phong cách nghệ thuật độc đáo

đó Xuân Quỳnh đã biểu hiện ra bên ngoài bằng các biểu tượng nghệ thuật. Và

chúng tôi sẽ tiến hành lí giải, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách

nghệ thuật của Xuân Quỳnh qua các yếu tố khách quan (gia đình, quê hương, thời

đại) và yếu tố chủ quan (phương diện tinh thần, tài năng nghệ thuật, vốn sống – vốn

hiểu biết, quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật) và cần nhấn mạnh là yếu tố quyết

định là yếu tố chủ quan. Đó cũng là cách lý giải việc hình thành các biểu tượng

nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh.

3.1.Truyền thống

3.1.1.Yếu tố khách quan

3.1.1.1. Gia đình

Gia đình là nơi gắn bó trực tiếp của mỗi con người. Là nơi hằng ngày ta ăn,

ngủ, học tập, làm việc, vui chơi…Là nơi có những con người thân thiết, ruột rà,

dòng họ. Đó là ông bà, cha mẹ, anh chị, cô chú…những người yêu thương, chăm

sóc, dạy dỗ, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với chúng ta. Mọi người lớn lên là nhờ gia

đình và cũng vì gia đình mà mỗi con người không ngừng phấn đấu và nỗ lực. Một

người con ngoan ngoãn hay hư hỏng là tùy thuộc rất nhiều vào lối sống, tư tưởng và

cách giáo dục của mỗi gia đình. Bên cạnh đó, hoàn cảnh gia đình chi phối rất nhiều

đến một con người, nhìn vào thái độ và cách sống là chúng ta có thể biết một người

xuất thân từ gia đình nghèo, khá giả hay giàu sang. Và có người còn nói rằng, gia

đình là điểm khởi đầu cũng là điểm kết thúc cuộc đời của mỗi con người.

Từ cơ sở trên, chúng ta có thể nói yếu tố gia đình ảnh hưởng rõ nét đến

phong cách của nhà văn. Bởi lẽ, phong cách của nhà văn được hình thành và hoàn

thiện dần theo thời gian. Và đặc biệt ở những ngày ấu thơ, giai đoạn hoàn chỉnh về

thể chất và tâm hồn, nhà văn rất dễ bị ảnh hưởng bởi ở gia đình và điều đó góp phần

hình thành phong cách của nhà văn sau này. Chắc rằng, lớn lên bên gia đình, thì ai

101

cũng bị tác động bởi những người thân trong gia đình và dòng họ. Phan Huy Ích

cũng đã nói về vai trò của gia đình đối với nhà văn: “Thành một nhà văn là việc

nhỏ, một nhà văn mà đời nọ nối đời kia, chi này truyền chi khác, là một việc

quý…Tất phải là dòng dõi văn nhân, người trước sáng tác, người sau noi theo,

dòng nước xa nguồn mà vẫn tràn lan”. Thật vậy, những tư tưởng, những bài học về

Nho giáo mà Nguyễn Du được tiếp thu từ người cha và dòng họ đã làm nên sự uyên

bác trong phong cách sau này của ông. Hay là sự giản dị, mộc mạc trong những lời

ru của mẹ sẽ là hành trang giúp nhà văn có được cái ngọt ngào, trìu mến, đậm chất

dân gian mà chúng ta thấy rất rõ ở Tố Hữu. Đó là khí phách anh dũng của ông, của

cha,….để rồi cứ như một sự tự nhiên, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng

phảng phất trong những đứa con tinh thần của họ, ví như trường hợp của đại văn

hào Nguyễn Trãi. Hay là sự chịu thương, lòng nhân ái của mẹ,…để rồi người đọc

không nhầm lẫn đâu được một phong cách dạt dào tinh thần nhân đạo, vị tha của

ngòi bút Nguyên Hồng… Tất cả, tất cả những điều đó góp phần tạo nên phong cách

của nhà văn.

Qua đây, chúng ta thấy rằng, gia đình là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến

phong cách của một nhà văn [40; tr.16].

Xuân Quỳnh có một xuất thân đặc biệt, mồ côi mẹ, sống với bà nội từ nhỏ,

hơn nữa lại không hạnh phúc với cuộc đời tư, nên Xuân Quỳnh khát khao, yêu

mãnh liệt, gắn bó với từng người. Xuân Quỳnh càng thiếu thốn tình cảm bao nhiêu,

càng thể hiện mãnh liệt bấy nhiêu. Các biểu tượng lần lượt xuất hiện trong thơ Xuân

Quỳnh đó là những khát khao tình cảm của nữ sĩ.

Cùng với hình ảnh người bà mà Xuân Quỳnh gắn bó từ nhỏ và người mẹ mất

sớm, hình ảnh chị gái Đông Mai là những hình tượng phụ nữ thật ngoài đời trong

gia đình có tác động sâu sắc đến việc hình thành biểu tượng nghệ thuật trong thơ

Xuân Quỳnh, đặc biệt là biểu tượng bàn tay. Xuân Quỳnh viết về bàn tay, không chỉ

là bàn tay của riêng nữ sĩ, mà là bàn tay của phụ nữ trăm công ngàn việc và bàn tay

chính là đại diện cho người phụ nữ như phần trên đã trình bày. Chính những người

phụ nữ trên là những bức tranh sinh động nuôi dưỡng tâm hồn Xuân Quỳnh từ

102

những ngày ấu thơ cho đến khi chị ra đi mãi mãi. Những bài học, những kiến thức,

những nỗi niềm, những cảnh ngộ của bà, của mẹ, của chị, Xuân Quỳnh đã kế thừa

và đưa vào thơ một cách tự nhiên. Xuân Quỳnh nhìn cuộc sống rộng lớn hơn, toàn

diện hơn. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ là những ám

ảnh cá nhân, mà nó có cội nguồn từ trong cộng đồng của cả một bộ phận lớn đó là

nữ giới.

Người chồng đầu tiên của Xuân Quỳnh là nghệ sĩ violon Lưu Tuấn, người

chồng thứ hai và là người Xuân Quỳnh đặc biệt yêu thiết tha là Lưu Quang Vũ –

đây là những đối tượng cụ thể để từ đó các biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh

hình thành. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh xét cho cùng cũng để

cất lên tiếng nói của thân phận người phụ nữ, tiếng nói ấy cũng là muốn đối thoại

với nam giới mà thôi. Thân phận người phụ nữ trong ca dao, trong văn học trung đại

và đến văn học hiện đại, dù có khác nhau về hoàn cảnh sống, nhưng tâm tình và nỗi

niềm của họ là như nhau. Xuân Quỳnh khát khao được giữ sự chủ động, bình đẳng

giới. Và trong gia đình, Xuân Quỳnh luôn ý thức được trách nhiệm của người vợ.

Có thể nói, tất cả sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh cũng là để ghi lại những cảm

xúc thật đối với người yêu, đối với chồng mà thôi. Đồng thời, trách nhiệm làm mẹ

thiêng liêng và cao cả, Xuân Quỳnh luôn yêu và chăm sóc những đứa con (chung và

riêng). Chúng là điểm tựa tinh thần vững chắc và chất liệu thực cho những sáng tác

của bà. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh bắt đầu từ gia đình và nó

cũng trở về gia đình vậy.

3.1.1.2. Quê hương

Quê hương là khái niệm rộng hơn gia đình. Có thể hiểu đó là một vùng quê,

một địa phương hay nói rộng hơn là đất nước, tổ quốc. Là nơi mà con người sinh ra

và lớn lên. Là nơi của những kỉ niệm, của những tình cảm về con người và cảnh vật.

Mọi người có thể có quê hương thứ hai, quê hương thứ ba,…nhưng quê hương thứ

nhất trong lòng họ luôn luôn sâu sắc, đậm đà nhất. Rất đúng khi nhà thơ Đỗ Trung

Quân viết rằng: “Quê hương mỗi người chỉ một – Như là một mẹ mà thôi”. Tình

cảm quê hương ấy là một tình cảm thiêng liêng mà không gì có thể thay thế được.

103

Dù ở bất cứ nơi đâu tiếng gọi quê hương vẫn cháy bỏng và thường trực trong tim

của mỗi con người.

Đối với phong cách của một nhà văn thì rất dễ thấy yếu tố quê hương ảnh

hưởng đến. Bởi lẽ, nếu gia đình là nơi trực tiếp mỗi con người lớn lên thì chính quê

hương là môi trường gắn kết chúng ta với cuộc đời, với cộng đồng. Đó không chỉ là

dòng họ, mà đó còn là những người láng giềng, những bạn bè cùng cắp sách đến

trường…Đó còn là mái trường, bến nước, con sông, con đường, ngọn núi,….nơi

gắn bó hàng ngày của ta. Vì thế, nếu như nhà văn lớn lên từ quê hương của những

giai điệu ngọt ngào, của những câu hát thiết tha thì chúng ta dễ dàng bắt gặp trong

sáng tác của họ phong cách trữ tình, thương mến trong giọng điệu, như trường hợp

của nhà thơ Tố Hữu. Đó cũng là lí do vì sao phong cách của Xuân Diệu là phóng

khoáng, bay bổng với những tình cảm cực đỉnh khi ông lớn lên ở vùng biển, nơi của

sóng, của gió với sự dữ dội, mênh mông và rộng lớn. Đồng thời cũng giải thích việc

nhà văn gắn bó với vùng quê thì sáng tác của họ sẽ đậm chất nông thôn, chẳng hạn

nhà thơ Nguyễn Khuyến, nhà thơ được mệnh danh là “Nhà thơ của làng cảnh Việt

Nam”. Hoặc nếu nhà văn gởi trọn đời mình cho thành thị thì tất cả những gì của nơi

phố xá ấy cứ hiện diện trong từng sáng tác của họ, như trường hợp nhà thơ Tú

Xương…

Quê hương góp một phần vào sự hình thành phong cách của tác giả. Nên khi

lí giải phong cách của một nhà văn chúng ta cần chú ý đến yếu tố này [40; tr.16 -

17]

Quê hương đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các biểu tượng

nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Bởi lẽ, làng La Khê, Hà Đông là vùng đất của

thiên nhiên, của những phong tục tập quán và những lễ hội quanh năm suốt tháng.

Nơi có lịch sử và những chiến công. Những âm thanh của thiên nhiên, cảnh vật, con

người vùng quê ăn sâu vào trong tâm thức của nữ sĩ. Các biểu tượng tiếng vì thế mà

xuất hiện nhiều lần. Hay biểu tượng hoa – cỏ dại mà nhiều lần Xuân Quỳnh tự ví

mình như thế là vì nó có ở khắp nơi trên quê hương của bà. Rồi biểu tượng bàn tay

của những người phụ nữ khéo léo làng La Khê nổi tiếng đã ăn sâu vào nếp nghĩ của

104

một người phụ nữ luôn ý thức được giới tính của mình như Xuân Quỳnh. Hay các

biểu tượng con sông quen thuộc cũng từ đó mà hình thành,….Đồng thời, Xuân

Quỳnh được may mắn trở thành người con thủ đô. Hà Nội là quê hương của nữ sĩ.

Đó là niềm kiêu hãnh về một vùng đất sinh ra mình, nhưng cũng là một trách

nhiệm, một trách nhiệm của người con thủ đô. Tất cả những điều này, chúng ta có

thể thấy rõ hơn qua tác phẩm Một người Hà Nội của Nguyễn Khải. Điều đó giải

thích vì sao các biểu tượng tiếng (chỉ có Hà Nội mới có những âm thanh đặc trưng

riêng), con tàu - sân ga (chỉ có Hà Nội mới thường xuyên bắt gặp) xuất hiện trong

thơ Xuân Quỳnh.

Ngoài ra, Xuân Quỳnh cũng tự nhận Phú Thọ và Đà Nẵng quê của chồng

mình là quê hương của bà. Vì thế, biểu tượng thuyền – biển (sông), sóng – gió

(nước) xuất hiện với tần số cao như vậy. Tình yêu thiên nhiên từ trong vô thức nó sẽ

được đánh thức khi nữ sĩ bắt gặp những hình ảnh ấy ngoài thực tế. Và một khi nó

trở thành một ám ảnh thì sớm hay muộn nó sẽ được thăng hoa và giải phóng ra

ngoài bằng các biểu tượng nghệ thuật cụ thể.

Và xét cho cùng, một người như Xuân Quỳnh, thì đâu đâu cũng là nhà, bước

chân bà có mặt khắp nẻo đường quê hương. Vâng, đúng như người ta nói “Tình yêu

quê nhà, yêu làng sớm, yêu miền quê, trở thành tình yêu Tổ quốc”. Xuân Quỳnh đi

với mơ ước được khám phá, được trải nghiệm, đưa nghe, thấy, nhìn, sờ, cảm,…tận

mắt vẻ đẹp của con người và cảnh vật. Và bà đi để thực hiện trách nhiệm công dân

giữa những tháng ngày lửa đạn đang rình rập trong một tư thế chủ động, kiêu hãnh

và sẵn sàng. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân quỳnh cứ như thế xuất hiện

đồng hành cùng bước chân của bà.

3.1.1.3.Thời đại

Thời đại là khái niệm rộng nhất trong những yếu tố khách quan ảnh hưởng

đến phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Thời đại hay nói cách khác là xã hội mà nhà văn đang sống. Nó bao gồm một

cộng đồng người, đôi khi không chỉ trong nước và mà có thể là phạm vi trên toàn

thế giới. Đó là chế độ chính trị, là một thời kì, một giai đoạn của dân tộc, của thế

105

giới. Nếu như mỗi nhà văn có một gia đình và một quê hương riêng thì có thể có

nhiều nhà văn cùng sống chung trong một thời đại với những biến cố lớn của dân

tộc, của lịch sử xã hội.

Hồ Chí Minh từng phát biểu rằng: “Xã hội thế nào văn nghệ thế ấy”. Đúng

vậy, thời đại có tác động to lớn đến văn chương và không thể không tác động đến

phong cách nghệ thuật của nhà văn. Và cũng như Plêkhanôv nói: “Nếu không hiểu

tâm lý xã hội thì không thể tiến lên một bước nào trong lịch sử văn học, nghệ

thuật,…”, tức là đã làm công việc thuộc thượng tầng kiến trúc thì điều đầu tiên là

phải hiểu cái thời đại mình đang sống. Ví như nhà văn sống trong hoàn cảnh đất

nước chiến tranh, nô lệ thì trong nhà văn cái buồn, cái tủi luôn canh cánh trong sáng

tác của họ nhất là ở cái giọng điệu buồn da diết, sâu kín mà Huy Cận là một ví dụ.

Thế nhưng lịch sử, vận mệnh của dân tộc bước sang một trang mới như khi ánh

sáng cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin chiếu rọi thì khuynh hướng sử thi và cảm

hứng lãng mạn là một nét không thể thiếu trong phong cách của họ-trường hợp của

nhà thơ Tố Hữu. Nếu phong cách của nhà văn mang hơi thở của hiện đại, của đời

sống hàng ngày, không còn mang cái hừng hực của khói lửa chiến tranh thì chính là

lúc nhà văn được sống trong thời đại hòa bình, đọc thơ Chế Lan Viên trong những

sáng tác cuối đời chúng ta sẽ thấy rõ điều này…

Yếu tố thời đại là một cột mốc đôi khi làm thay đổi rất lớn đối với phong

cách của nhà văn. Phong cách nhà văn vận động và phát triển chính là do yếu tố

thời đại ảnh hưởng [40; tr.17]

Và nếu yếu tố thời đại ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách nghệ thuật

của nhà văn nói chung, cũng như ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật của nhà thơ

Xuân Quỳnh nói riêng, thì nó ảnh hưởng đến việc hình thành các biểu tượng nghệ

thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh là nhà thơ trưởng thành trong kháng

chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1955 - 1975 ( sáng tác của Xuân Quỳnh bắt đầu

từ năm 1963) – hai mươi năm đầy máu, nước mắt, mồ hôi nhưng cũng không thể

thiếu nụ cười của cả dân tộc Việt Nam. Giai đoạn, mà mỗi cá nhân, đặc biệt là

những thanh niên trẻ như Xuân Quỳnh luôn giữ vững khẩu hiệu: “Quyết tử cho Tổ

106

quốc quyết sinh”. Cái chung - trách nhiệm cộng đồng dân tộc được đặt lên hàng

đầu. Giai đoạn mà cảm hứng sử thi - khuynh hướng lãng mạn bao trùm. Cái chung

ấy được các văn nghệ sĩ ấy hòa cái riêng, ở đó hình tượng người thanh niên, đặc biệt

là phụ nữ được khắc tạc một cách đậm nét. Chất trí tuệ, tính thời sự, tính chiến đấu

cao. Nền văn học mang tính nhân dân, tính dân tộc, tính Đảng. Phương pháp sáng

tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các biểu tượng nghệ thuật lần lượt xuất hiện như

trên đã trình bày in đậm dấu ấn của thời đại. Bàn tay không chỉ xuất hiện trong

những sinh hoạt đời thường mà nó có mặt trên những bước hành quân của bao

người lính trẻ. Bàn tay dìu dắt con lánh đạn, bàn tay nâng đỡ các đồng chí, bàn tay

chia ly những người lính ra chiến trường, bàn tay chăm sóc các cụ già,… Đúng, với

Xuân Quỳnh “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, Xuân Quỳnh hô to rằng:

“Giặc đến phá nhà ta, ta phải đánh

Thành phố này không có thương dân”

(Thành phố không có thường dân)

Ngoài cái chung, Xuân Quỳnh có cái riêng, nói đến cái thầm lặng, gần gũi,

đời thường của con người. Xuân Quỳnh bắt nhịp thời đại, nhưng dường như khác

biệt với số đông, …và tất cả điều đó được thể hiện qua tình yêu đôi lứa. Với Xuân

Quỳnh: “Hạnh phúc non sông, hạnh phúc nhà - Đẹp tình Tổ quốc thắm tình ta”.

Lần lượt các biểu tượng nghệ thuật bàn tay, trái tim, thuyền – biển (sông), sóng –

gió (nước), tiếng,… xuất hiện đã nói lên được tâm tư của một người con gái đang

yêu, một người vợ sắt son và người mẹ trách nhiệm. Đúng, mỗi người chúng ta đều

có một cuộc đời bí mật, cuộc đời riêng, cuộc đời chung – Xuân Quỳnh sau những

phút giây ồn áo và nhiệt huyết của thời đại, bà cũng trải lòng mình qua những vần

thơ.

Giai đoạn thứ hai là đất nước trong thời bình (1975 - 1988), giai đoạn khôi

phục và xây dựng lại đất nước, ngoài những vương vấn về chiến tranh, cảm hứng

thế sự và đời tư là chủ đạo, các văn nghệ sĩ tập trung viết về cuộc sống và con người

thường nhật. Và theo dòng chảy của thời gian, tiếp tục các biểu tượng nghệ thuật

như đã trình bày trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện, nhưng nó đa dạng, màu sắc hơn,

107

và ngày càng hoàn thiện và phát triển. Vẫn là các biểu tượng đó, nhưng với Xuân

Quỳnh nó biến hóa khác nhau, phù hợp với cuộc sống thường nhật (như chương 2

đã trình bày). Và có thể nói, đọc thơ Xuân Quỳnh là một cách để biết về lịch sử Việt

Nam, vì đó là một dạng nhật ký bằng thơ của người thư ký trung thành của thời đại

Xuân Quỳnh.

3.1.2.Yếu tố chủ quan

3.1.2.1.Phương diện tinh thần

Đầu tiên phải kể đến phương diện tinh thần.Phương diện tinh thần là một

khái niệm rộng, bao hàm tất cả những yếu tố thuộc bên trong tâm hồn của mỗi con

người. Đó là cảm xúc, tình cảm, khí chất, hứng thú, xu hướng, tính cách, cá

tính,…Chính phương diện tinh thần giúp chúng ta đánh giá về một con người.

Đối với nhà văn thì phương diện tinh thần đóng một vai trò quan trọng, đó là

“tư chất nghệ sĩ của nhà văn”. Phương diện tinh thần, mà trong đó tình cảm có vai

trò xúc tác trực tiếp việc nhà văn đến với nghệ thuật. Nếu “trong khoa học, tình cảm

chỉ nằm trong tiền đề sáng tạo”thì “trong văn học, tình cảm nằm ngay trong thành

phần sáng tạo”. Có một tác giả nói rằng: “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu

nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ”, Targo thì nói “Tôi đã từng yêu”, Ngô

Thì Nhậm phát biểu: “Tình cảm dồi dào thì thơ nảy sinh”, còn Lê Ngọc Trà thì

khẳng định: “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, sự tự

giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Đúng, đã làm nghệ thuật thì tình cảm chính là đòn bẩy

của những thăng hoa. Và đã là nghệ sĩ thì anh phải có những vùng đau thương,

những miền yêu thương khác với người bình thường. Anh phải “lo trước thiên hạ và

vui sau thiên hạ”. Và đã là một nhà văn có phong cách, tức là họ đặc biệt hơn các

nhà văn khác thì ở họ có sự nhạy cảm hơn bao giờ hết.

Và có thể nói, phương diện tinh thần mà trong đó cá tính có vai trò trực tiếp

tạo nên phong cách của mỗi nhà văn. Bởi lẽ “cá tính là những đặc điểm độc đáo ở

mỗi người, nó tạo nên sắc thái riêng ở từng người về mặt tâm lý”. Một nhà văn có

phong cách phải có cá tính. Bởi lẽ, như đã khẳng định, phong cách là cái riêng, cái

độc đáo và mới lạ nên chỉ có những người có cá tính mới làm được những điều đó.

108

Trong Giáo trình lí luận văn học, Tập 1 của Trần Đình Sử có đưa ý kiến của Zola

nói về vai trò của cá tính đối với phong cách của nhà văn: “Cái bất hạnh của họ là

thiếu cá tính, đó là cái làm cho họ rơi vào sự tầm thường, họ uổng công viết, những

tác phẩm tràng giang đại hải, họ lạm dụng uổng phí cái sức lực phong phú của họ,

vì tất cả điều đó không làm nên sức sống cho tác phẩm của họ, mà ngược lại người

đọc cũng không xem họ là gì. Không cá tính thì coi như không có gì cả”. Và “nếu

cá tính của nhà văn mờ nhạt, không tạo được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì

đó là một sự tự sát trong văn học”. Rõ ràng, cá tính ảnh hưởng rất lớn đối với

phong cách của nhà văn. Trong văn chương ta đã từng biết những phong cách rất

ngông, thậm chí quá cuồng nhiệt là bởi những cây bút ấy có tính cách rất mạnh mẽ,

ngang tàng, thẳng thắn như trường hợp của Hồ Xuân Hương hay đó là gương mặt

riêng trữ tình, sâu lắng là bởi con người đó có cốt cách rất trầm tư, ít nói như trương

hợp của Bà Huyện Thanh Quan…Và Cao Xuân Dục nói rằng: “Nếu chỉ biết rập

khuôn, chắp nhặt những cái sáo cũ, thì dù cho câu đẹp lời hay, vẽ trăng tả gió,

nhưng ý hướng không kí thác vào được, thì rốt cuộc cũng là bắt chước giọng điệu

người khác, chẳng nói lên được tính tình thực của mình” hay Rô - lăng đã nói:

“Trái tim là đòn bẩy của những gì vĩ đại”. Mỗi người có một trái tim khác nhau, và

trái tim ấy ra sao, đập những nhịp như thế nào sẽ làm cho người đó thể hiện ra ngoài

như thế ấy. Nhưng đã là nhà văn có phong cách, thì cần lắm một trái tim đập những

nhịp đập khác người, đặc biệt hơn người, độc đáo hơn người để đủ sức làm nên

“những gì vĩ đại”. Những điều này làm rõ nét hơn vai trò của cá tính trong phong

cách của nhà văn.

Như chúng ta đã biết, phương diện tinh thần của một con người rất phức tạp.

Nhà văn sáng tạo tác phẩm đôi khi là chính tiếng lòng mình, thể hiện chính mình,

đôi khi là nói hộ cho người khác. Nhưng dù là cách thể hiện nào đi chăng nữa qua

sáng tác của họ người ta vẫn đánh giá được nhà văn đó như thế nào. Và thực tế cho

thấy rằng, phương diện tinh thần có vai trò to lớn trong việc hình thành phong cách

của nhà văn [40, tr.18 -19].

109

Về phương diện tinh thần Xuân Quỳnh là hiện tượng tâm lý phức tạp, giống

như khái niệm này vậy. Ở một cá thể có cá tính đặc biệt như Xuân Quỳnh, không

phải bất cứ ai có thể hiểu và chạm tới được. Bảy cung bậc cảm xúc (ai, ái, ố, hỉ, nộ,

dục, lạc) Xuân Quỳnh đều sỡ hữu. Đó là những trạng thái tâm lý mâu thuẫn, phức

tạp mà thống nhất. Biểu tượng sóng minh chứng rõ nhất đều này. Tâm hồn Xuân

Quỳnh như bản nhạc giao hưởng, thất thường và biến đổi liên tục. Điều đó giúp các

sáng tác của Xuân Quỳnh đa giọng điệu và đầy màu sắc, uyển chuyển, cuốn hút, bất

ngờ. Xuân Quỳnh thuộc khí chất nóng tính, hướng nội. Là một phụ nữ nhạy cảm.

Lần lượt các biểu tượng xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh là do sự nhạy cảm và ám

ảnh từ con người, cảnh vật, cuộc sống và về chính mình mà ra. Những cảm nhận

tinh tế, thoáng chốc mà những người bình thường không cảm được, Xuân Quỳnh đã

nhanh chóng bắt lấy hồn nó và ghi lại qua những biểu tượng nghệ thuật. Đúng,

giống như Nguyễn Minh Châu đã miêu tả về bức ảnh nhà báo Phùng chụp trong

một khoảnh khắc tạo nên kiệt tác nghệ thuật trong Chiếc thuyền ngoài xa. Đúng,

nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ không những hiểu mà phải còn bắt lấy cái hồn

trong một khoảnh khắc. Có những khoảnh khắc quyết định, có những khoảnh khắc

tạo nên vĩnh cửu. Xuân Quỳnh đã làm được như thế. Rõ ràng các biểu tượng nghệ

thuật: bàn tay, trái tim, tiếng, mùa, hoa – cỏ dại, con tàu - sân ga, thuyền – biển

(sóng), sóng – gió (nước),…nếu như qua cái nhìn của người khác hoặc là nó vô tri,

vô giác, hoặc là nó bình thường thì với Xuân Quỳnh nó lại mang trong đó bao cảm

xúc, bao nỗi niềm, nó gói trọn vào đó biết bao tâm tình của người con gái, của

những người cùng thời và ngay cả khác thời bà nữa. Vô thức tập thể hòa chung vô

thức cá thể và Xuân Quỳnh đại diện cho tất cả để nói lên.

3.1.2.2. Tài năng nghệ thuật

Tài năng nghệ thuật chính là cái khiếu, khả năng bẩm sinh về văn chương

của người nghệ sĩ. Không phải ai cũng có được khả năng ấy. Tài năng nghệ thuật có

thể bộc lộ ở nhà văn rất sớm: Tố Hữu, Trần Đăng Khoa (5,6 tuổi), Victor Hugo (11

tuổi nổi tiếng), hoặc ở tuổi thanh niên: Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên (15, 16

tuổi), cũng có khi ngoài 20 tuổi : Nguyễn Tuân (30 tuổi), Hồ Chí Minh (ngoài 30

110

tuổi). Tài năng ấy không chỉ được phát hiện mà còn phải được mài giũa để nó được

phát huy tốt nhất.

Tuốc – ghê - nhép từng nói: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng

nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ

họng của bất kì một người nào khác” hay một ý kiến khác: “Một nhà văn có tài

luôn để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết” thì là nói về cái Tài của một nhà văn

có phong cách nghệ thuật. Hay nhà văn Nguyễn Khải cũng nói: “Cái Tài là quyết

định hết thảy” và Phạm Văn Đồng khẳng định: “Tôi nghĩ chúng ta hoạt động trong

lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài có khiếu, thì khó

khăn lắm. Làm các nghề khác, không có tài cũng có thể làm được việc…Nếu không

có tài năng gì đặc biệt, thì anh nên làm việc khác, chứ làm văn nghệ khổ lắm”. Có

thể thấy rằng, đã làm công việc nghệ thuật thì yếu tố tài năng là bắt buộc phải có.

Và muốn tạo được cho mình một vị trí, một chỗ đứng không nhầm lẫn với bất kì ai

khác thì cái Tài ấy phải xuất chúng. Bởi như nhà văn Nguyễn Khải nói, nó quyết

định tất cả. Khi các yếu tố gia đình, quê hương, thời đại, vốn sống, vốn hiểu biết,

phương diện tinh thần tạo cho bên trong nhà văn những nét riêng trong phong cách

của nhà văn thì chúng phải được thể hiện ra bên ngoài bằng những thủ pháp nghệ

thuật. Cách thể hiện ấy có mới lạ không, có thú vị không, có làm người đọc ngưỡng

mộ không, có thu hút sự chú ý của công chúng không …đó là do cái Tài của nhà

văn vậy. Mà đâu chỉ thể hiện trong một tác phẩm mà người nghệ sĩ luôn luôn sử

dụng những sở trường, những sở thích của mình trong hàng loạt tác phẩm. Chúng

không rập khuôn, chúng biến hóa linh hoạt, nhưng vẫn là chính họ, người đọc vẫn

nhận ra họ. Bởi lẽ phong cách là cái luôn vận động và hoàn thiện dần theo thời gian.

Cái Tài không chỉ thể hiện ở hình thức tác phẩm, mà nó còn là cách nhìn,

cách nghĩ, quan điểm, tư tưởng của nhà văn được biểu hiện qua nội dung tác phẩm.

Như chúng ta đã biết, yêu cầu của phong cách nghệ thuật là phải tạo ra cái mới, mà

cái mới ấy phải có giá trị thẩm mỹ. Cái Tài sẽ giúp nhà văn làm được điều đó. Một

cái nhìn sâu sắc, một cái nghĩ thấu đáo, một quan niệm tiến bộ, một phát hiện đầy

sáng tạo,… được tạo ra bởi những con người có tài. Và cũng lưu ý rằng, người có

111

phong cách không phải vì họ lạ, họ khác thường mà vì họ tự tạo cho mình dấu ấn

độc đáo, nó hay, nó đẹp và nó có ý nghĩa với cuộc sống này.

Có thể kết luận rằng, cái Tài trong văn chương là cái Tài cả hai mặt nội dung

lẫn hình thức. Vì thế, Macxim Gorki từng phát biểu rằng: “Nghệ sĩ là người biết

khai thác những ấn tượng riêng - chủ quan - của mình, tìm thấy trong những ấn

tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức

riêng”.

Phong cách và người sở hữu nó là những tài năng kiệt xuất. Khi nói về

những yếu tố ảnh hưởng đến phong cách của một nhà văn tuyệt nhiên ta không thể

không xét đến yếu tố này [40; tr.19 - 20]

Và tương tự, phương diện tinh thần ảnh hưởng đến việc hình thành các biểu

tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Tài năng nghệ thuật biểu hiện ở phương

diện nội dung đó chính là tiếng nói cá nhân của một “Nữ Hoàng thơ Tình yêu”. Tình

yêu là chủ đề muôn thuở và gắn với con người, nhưng chỉ khi nó đến với Xuân

Quỳnh thì tình yêu mới thật sự đúng nghĩa của nó. Một tiếng yêu trong sáng, sâu

sắc, táo bạo, hồn nhiên, dự cảm, lo lắng, mãnh liệt, say mê…đầy đủ mọi cung bậc

của nó. Tiếng nói nữ quyền thật sự được tỏa sáng trong văn đàn Việt Nam qua hiện

tượng tiêu biểu là Xuân Quỳnh. Bên cạnh đó, còn là tiếng lòng của một công dân

yêu làng, yêu nước, yêu thiên nhiên tha thiết, cháy bỏng. Tình yêu quê hương đất

nước là đề tài muôn thuở, kế thừa cha ông ta nghìn năm văn hiến, đó là hình tượng

Lý Thường Kiệt,Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà

Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Tô Hoài, Nguyễn Minh

Châu, Hồ Chí Minh,… nhưng phần lớn thường gắn với các bậc nam nhi, và thật

mới mẻ và đáng ca ngợi khi Xuân Quỳnh nhận lấy trách nhiệm ấy thuộc về nữ giới.

Và tình yêu quê hương to lớn ấy, được Xuân Quỳnh cụ thể hóa qua những việc làm

đơn giản, nhỏ nhoi cuộc đời thường yêu mẹ, yêu con, yêu anh, yêu đồng chí, yêu

thiên nhiên,…Và tất cả điều đó đã được minh chứng qua các biểu tượng nghệ thuật

mang đậm dấu ấn sáng tạo của nữ sĩ. Có một kết luận rằng: “Thiên tài 1% là thiên

bẩm và 99% là rèn luyện”. Và Xuân Quỳnh may mắn được sở hữu được 1% đó, tuy

112

nhiên 99% được Xuân Quỳnh kế thừa một cách trọn vẹn từ cả một không gian nghệ

thuật rộng lớn từ xa xưa ông cha để lại đến thời đại Xuân Quỳnh sống. Xuân Quỳnh

còn được biết đến trong việc có sở trường trong nhiều đề tài (tình yêu đôi lứa, thiên

nhiên, quê hương đất nước, thiếu nhi). Những đề tài này trong văn đàn Việt Nam

cũng được các nghệ sĩ quan tâm rất nhiều, từ âm nhạc, điện ảnh, hội họa, điêu

khắc,…nó gần gũi, gắn bó trực tiếp với mỗi chúng ta.

Về phương diện hình thức, Xuân Quỳnh cũng tiếp thu vận dụng các các

phương tiện nghệ thuật của thơ ca như: nhân hóa, so sánh, từ chỉ số lượng, từ láy…

-Từ chỉ số lượng (xác định hoặc không xác định)

+ “UMộtU tiếng cười khanh khách

Từ phòng múa vọng sang”

(Ghét)

+ “UChỉ cóU biển mới hiểu

….

UChỉ cóU biển mới biết

Biển Uchỉ cònU sóng gió”

(Thuyền và biển)

+“UChỉ vuiU là những quán hàng hoa”

(Trời trở rét)

+ “Tiếng gà trưa

Mang Ubao nhiêuU hạnh phúc”

(Tiếng gà trưa)

+ “Cây nhờ xanh UnhữngU bàn tay

Phố dài in dấu Ubao ngàyU buồn vui”

(Lai lịch một tình yêu)

-Từ láy

+ “Một tiếng cười Ukhanh khách

Từ phòng múa vọng sang”

113

(Ghét)

+ “Cả đất trời Uquay quay

…..

Tiếng đàn anh Uluyến luyếnU

….

Vằng vặc ánh trăng đêm”

(Ghét)

+ “UDữ dộiU và dịu êm

UỒn àoU và Ulặng lẽU”

(Sóng)

- So sánh

+ “Những đêm trăng hiền từ

Biển UnhưU cô gái nhỏ”

(Thuyền và biển)

+ “UNhưU biển kia dẫu rộng”

(Sóng)

+ “Theo những con tàu cập bến các vì sao

UNhưU lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng”

(Khát vọng)

- Nhân hóa

+ “Thuyền nghe lời biển khơi

Lòng thuyền nhiều khát vọng

Và tình biển bao la

Thuyền đi hoài không mỏi

Biển vẫn xa…còn xa

Biển ồ ạt xô thuyền”

(Thuyền và biển)

114

+ “Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đên không ngủ được”

(Sóng)

3.1.2.3. Vốn sống, vốn hiểu biết

Vốn sống, vốn hiểu biết hay nói cách khác là kinh nghiệm sống, “là những

hiểu biết do tiếp xúc với thực tế, do từng trải, do tiếp thu ở người khác mà có được.

Cũng có thể hiểu đó là những tâm trạng, tư tưởng về một vấn đề nào đó trong xã

hội” (Nghiên cứu văn học - Tạp chí nghiên cứu lí luận, phê bình và lịch sử văn học

- 3/2010). Vốn sống, vốn hiểu biết do bản thân cá nhân mỗi người tự tích lũy, tự

trang bị cho mình; cũng có thể vì những nguyên nhân nào đó mà con người phải trải

nghiệm nhiều, đi nhiều. Vốn sống, vốn hiểu biết càng phong phú thì cá nhân đó

càng tự khẳng định được mình và dễ dàng thành công hơn trong cuộc sống.

Bêlinxki từng phát biểu: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ

thuật”, hay một tác giả khác cũng từng cho rằng “Thơ từ cuộc đời mà nở hoa, sau

đó trở về cuộc đời mà kết trái”. Thật vậy, thơ nói riêng, văn chương nói chung là

tiếng nói về cuộc đời và với cuộc đời. Và chính nhà văn là học trò của cuộc đời như

Đặng Thai Mai đã từng nói: “Điều quan trọng của những nhà văn vĩ đại ấy là cuộc

sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời

đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung

động tận đáy tâm hồn với những nỗi đau, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha

thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở sự sống của những tác phẩm vĩ

đại”. Đã là nhà văn thì anh phải đi nhiều, trải nghiệm nhiều; biết những điều người

khác không biết, hoặc người khác biết một anh phải hiểu mười. Và muốn là một nhà

văn có phong cách thì yếu tố này cần thiết hơn bao giờ hết. Lẽ tất nhiên một phong

cách nghệ thuật sẽ rất độc đáo và đặc sắc nếu phong cách ấy nói đúng về cuộc đời

115

và nói hay về cuộc đời và nói có ý nghĩa với cuộc đời. Chính vốn sống, vốn hiểu

biết không chỉ làm sâu sắc và phong phú về nội dung trong sáng tác của nhà văn,

mà còn giúp nhà văn có được phương tiện nghệ thuật hiệu quả để truyền đạt những

vấn đề tác giả muốn nói. Văn học bản thân nó là tổng hòa của tất cả các mặt trong

đời sống xã hội, vì thế nhà văn càng có nhiều kinh nghiệm thực tế, am hiểu về nhiều

lĩnh vực và biết vận dụng vào sáng tác của mình thì càng thành công. Người đọc

chắc hẳn sẽ rất ngưỡng mộ trước một phong cách uyên bác của những trang văn

giàu kiến thức thực tế với những am hiểu đa lĩnh vực. Và bạn đọc sẽ đọng mãi

những dòng kí ức về chiến tranh, về những tháng ngày khói lửa đạn bom của những

cây bút từng xông pha trận tuyến; cảm giác bồi hồi, như cháy ruột, lòng đầy băn

khoăn, như thắc mắc muốn biết vì sao nhà văn viết đúng, viết thật như thế….Thực

tế, những nhà văn lớn đều là những người có vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc. Mác

đã từng nói Bandắc là một người “hiểu biết sâu sắc kỳ lạ những quan hệ thực tế”,

Lênin nói L. Tônxtôi “hiểu biết một cách tuyệt diệu nước Nga nông thôn, đời sống

của địa chủ và nông dân”,…

Từ xưa, ông bà ta đã đúc kết: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, càng

đi càng trưởng thành hơn. Và đối với nhà văn, đi và trải nghiệm là công việc vô

cùng cần thiết. Đi, để có cảm hứng viết, đi để có chất liệu sáng tạo, đi để trang văn

sâu sắc hơn, hay hơn. Thật vậy, các bậc thầy của văn chương thế giới đều là những

người đi rất nhiều: “Huy Gô đi du lịch Tây Ban Nha, Xécvantéc đã sống bảy năm ở

Italia, Bairơn cũng đi Hy Lạp và nhiều nơi khác, Sê - Khôp đã thực hiện một chuyến

gian khổ, vượt qua Xibêri đến tận đảo Xakhalin, Gorki đã đi hầu hết khắp nước

Nga…”. Song, ngoài việc đi, có một cách khác rất hiệu quả để tăng vốn sống, vốn

hiểu biết là đọc. Phạm Phú Thứ cho rằng: “Không đọc hết muôn cuốn sách…không

thể đạt đến chỗ sâu rộng để cho văn thơ làm ra có thể lưu truyền đời sau”, hay

Nguyễn Tư Giản khẳng định: “Đọc nát vạn cuốn sách, cảm thấy như có thần ở bên

mình, thì thể cách văn sẽ lớn lao và đúng đắn”. Quả thật, sách là kho tàng tri thức

vô tận mà loài người đã tích lũy được. Nhà văn phải biết quý trọng và tận dụng tài

sản quý báu ấy để làm giàu thêm vốn sống, vốn hiểu biết của mình. Trong Tôi đã

116

học tập như thế nào, M. Gorki đã nói rất hay: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang

nhỏ mà khi bước lên tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con người…”. Nhà văn là

người viết về cuộc đời và trong cuộc đời ấy, còn gì hơn là tiếng nói với con người.

Chính việc đọc sách giúp nhà văn càng hiểu về đời, về người… và tiếng nói với con

người chắc hẳn càng sâu sắc, chân thật và ý nghĩa hơn. Đó là những điều cần thiết

của một nhà văn có phong cách.

Ngoài ra, việc trải nghiệm qua những nghề khác nhau giúp cho nhà văn học

hỏi những kinh nghiệm quý báu cho nghề văn của mình. Thật vậy, Hải Thượng Lãn

Ông, Lỗ Tấn,… đã vận dụng con mắt của một thầy thuốc vào nghệ thuật và biến

chúng thành những trang văn thật ý nghĩa, sâu sắc.

Điều đặc biệt, nhà văn phải “tham gia trực tiếp vào công cuộc đấu tranh cải

tạo xã hội”. Nhà văn không đứng bên lề cuộc sống mà nhìn, mà ngắm, họ phải

thâm nhập vào từng thay đổi, từng diễn biến hàng ngày của dân tộc, của cộng đồng.

Giống như Phạm Văn Đồng từng nói: “Người làm văn học nghệ thuật phải sống

cuộc chiến đấu, sống sự nghiệp cách mạng của dân tộc”.

Việc hiểu biết những tri thức văn hóa khác cũng vô cùng quan trọng đối với

mỗi nhà văn. Lỗ Tấn nói: “Chỉ chuyên xem sách văn học cũng không tốt lắm. Các

bạn nhà văn thanh niên trước đây thường ghét môn toán, lý, hóa, sử, địa, sinh vật,

cho rằng những môn ấy chả đâu vào đâu. Về sau thậm chí đến những tri thức thông

thường cũng không có. Do đó, tất nhiên khi đi sâu vào nghiên cứu văn học sẽ không

sáng rõ, rồi bản thân cũng hồ đồ nốt”. Những tri thức văn hóa sẽ làm những trang

văn hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn, văn học vốn dĩ là nghệ thuật tổng hòa của các bộ

môn khoa học khác.

Điều quan trọng là nhà văn phải có vốn hiểu biết đặc thù nghề nghiệp. Đã

làm bất cứ nghề gì thì những kiến thức thuộc chuyên môn nghề nghiệp có vai trò to

lớn đối với sự thành công. Sáng tác văn học thì phải biết được những vấn đề của

văn chương, của sáng tạo. Nào là đặc trưng văn học, vai trò của nhà văn với cuộc

đời, mối quan hệ giữa nhà văn - độc giả, sáng tác một bài thơ, một truyện ngắn, một

tiểu thuyết thì phải dựa những nguyên tắc gì, những thủ pháp, những nghệ thuật xây

117

dựng để tác phẩm hay, hấp dẫn…Vô vàn kiến thức về nghề nghiệp mà nhà văn phải

tự tích lũy, tự học hỏi.

Vốn sống, vốn hiểu biết như một minh chứng cho một nghệ sĩ thực thụ. Đó

là một yếu tố không thể thiếu cho người nghệ sĩ ngôn từ có phong cách [40; tr.21 -

23].

Vốn sống – vốn hiểu biết góp một phần quan trọng trong việc hình thành các

biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Nói tới vốn sống, vốn hiểu biết của

Xuân Quỳnh, như trên đã đề cập, chúng ta phải kể đến những ngày ấu thơ Xuân

Quỳnh được sống với bà nội với vùng đất sinh ra là làng La Khê, xã Văn Khê, thị

xã Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, Hà Nội), chính những gắn bó với vùng quê

bồi đắp cho Xuân Quỳnh tình yêu quê nhà và những hiểu biết về thiên nhiên . Điều

đó giải thích vì sao trong sáng tác của Xuân Quỳnh có các biểu tượng ngọn lửa,

tiếng, hoa - cỏ dại,... Ngoài ra tình cảm vun đắp từ người bà, sự thiếu hụt tình

thương của mẹ từ thuở nhỏ đã giúp Xuân Quỳnh các biết quý trọng tình thương gia

đình, ruột thịt hơn. Hơn nữa, là diễn viên múa, được tham gia biểu diễn ở nước

ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới tại Áo, Xuân Quỳnh hấp thụ

những hiểu biết về nghệ thuật và tình yêu đối với nghệ thuật. Điều đó mở đường

cho việc chị trở thành nhà thơ dễ dàng hơn. Đặc biệt là học viên của trường bồi

dưỡng những người viết văn trẻ khóa đầu tiên của Hội Nhà văn, biên tập viên báo

Văn nghệ, Nhà xuất Tác phẩm mới, thành viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt

Nam,… Xuân Quỳnh có dịp đọc, tìm hiểu, nghiên cứu tiếp xúc với các sáng tác

nghệ thuật. Hơn nữa, những tác phẩm được chị kiểm duyệt, biên tập là nguồn tư liệu

phong phú để chỉ mở mang tầm nhìn, chính kiến của mình về nghệ thuật. Đồng thời,

là người chồng đầu tiên và người chồng thứ hai của Xuân Quỳnh cũng là những

người làm nghệ thuật, Xuân Quỳnh chắc hẳn ảnh hưởng ít nhiều. Tiếp xúc trong

một môi trường nghệ thuật từ nhỏ đến lớn, từ đồng nghiệp đến người thân là môi

trường tốt nhất cho hồn thơ Xuân Quỳnh tỏa sáng. Học tập và rèn luyện từ môi

trường trong nước và nước ngoài (Áo, Đức, Matxcova) tạo cho Xuân Quỳnh tư duy

nhạy bén, sắc sảo như vậy. Bên cạnh đó, khoảng thời gian đặt dấu chân tình nguyện

118

trên khắp nẻo quê hương Việt Nam, những tháng ngày lửa đạn cùng gắn bó trong

tình đồng chí, quân dân,…càng khắc sâu tình yêu quê hương, đất nước cho Xuân

Quỳnh. Những địa danh đi qua, Xuân Quỳnh ghi lại dấu ấn và cảm xúc bằng những

vần thơ. Đó là Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn), biển Diêm Điền, Vĩnh Giang, Lĩnh Nam,

Thôn Đào, Thượng Thanh, Phố Huế, Hải Phòng, Bảo Ninh, ……và dĩ nhiên không

thể thiếu Hà Nội. Tất cả đều là cảnh thật, người thật, cảm xúc thật. Biểu tượng

thuyền - biển, sóng - gió (nước) cũng từ đó mà hình thành.

3.1.2.4. Quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật

Quá trình sáng tạo nghệ thuật cũng là yếu tố mà nhà văn có thể tự mình phấn

đấu và nỗ lực, chứ không phải sinh ra đã có.

Quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật đó là quá trình mà người nghệ sĩ tạo

ra những tác phẩm của mình. Quá trình ấy có thể ngắn hoặc dài và nó gắn với

những sáng tác của nhà văn. Quá trình đó được tính từ lúc nhà văn ra mắt công

chúng tác phẩm lần đầu cho đến khi người nghệ sĩ từ giã sự nghiệp cầm bút của

mình.

Bản thân quá trình lao động sáng tạo, chỉ nói sự ra đời của một tác phẩm thì

đã bao gồm nhiều công đoạn: “hình thành ý đồ, thu thập tư liệu, thiết lập sơ đồ,

viết, sửa chữa…”. Dĩ nhiên những khâu này có thể đan xen hoặc có hoặc không.

Thậm chí cũng có những sáng tác ra đời rất ngẫu nhiên, không tuân thủ những công

đoạn vừa nêu trên. Nhưng lao động nghệ thuật là công việc rất khó khăn, vất vả, L.

Tônxtôi khi viết Chiến tranh và hòa bình đã tâm sự: “Phải suy đi tính lại tất cả

những gì có thể xảy ra với tất cả những nhân vật tương lai trong tác phẩm sắp viết,

một tác phẩm rất lớn và phải nghĩ ra hàng triệu cách phối hợp có thể có được, để

rồi trong số đó chỉ chọn lấy một phần triệu mà thôi, thật là một điều kinh khủng”.

Viết và không bằng lòng, nhiều nhà văn phải đau đầu, nhức óc vì không hài lòng:

“Satôbriăng sửa chữa mười bảy lần bản thảo Atala. Raxin sửa chữa Phêđrơ trong

hai năm. Gorki đã chỉnh lý hơn bốn nghìn chỗ trong Người mẹ. Hainơ ngồi hàng

tuần để sữa chữa một bài thơ….”. Đó chỉ là nói về sự đời của một tác phẩm, đằng

119

này nhà văn còn phải sáng tạo ra rất nhiều tác phẩm khác thì đúng là một công việc

“khổ sai mà đầy hứng thú”.

Sở dĩ nói quá trình lao động nghệ thuật ảnh hưởng đến phong cách của nhà

văn là vì phong cách không phải tự nhiên mà có, nó cần thời gian dài để hình thành,

phát triển và hoàn thiện. Một hay vài tác phẩm thì chưa đủ để bạn đọc nhận ra

phong cách của họ. Nó phải được xây dựng bằng nhiều tác phẩm. Không dừng ở đó,

một người nghệ sĩ có phong cách không chỉ biết lao động nghệ thuật nghiêm túc để

tạo cho mình một phong cách mà còn phải lao động nhiều hơn nữa để phong cách

ấy ngày càng hoàn thiện, hoàn mỹ. Đó là đòi hỏi của chính bản thân nhà văn và của

độc giả thưởng thức nghệ thuật. Và có thể thấy rằng, càng viết nhiều, quá trình lao

động nghệ thuật của nhà văn càng dài thì kinh nghiệm sáng tác, kĩ năng viết văn,

phong cách của nhà văn càng tự nhiên hơn, đậm nét hơn..

Quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật gắn liền với nhà văn nào có phong

cách. Giống như Phạm Văn Đồng từng nhấn mạnh: “Nhưng dù có khiếu thế nào đi

nữa, nếu không cố gắng trau dồi bản thân thì không thể phát triển tài năng, làm nảy

nở tác phẩm tốt được. Cho nên tài năng phải đi đôi với công phu mới làm nên sự

nghiệp”. Đúng vậy, chính quá trình lao động sáng tạo giúp tài năng được rèn luyện,

bồi đắp, hoàn thiện và tỏa sáng [40; tr.13 - 25].

Và quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật gắn liền với việc ra đời các biểu

tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh. Có thể nói sáng tạo nghệ thuật đối với

Xuân Quỳnh như một nhu cầu tất yếu giống như các nhu cầu thường nhật khác, như

ăn, uống, mặc, ngủ,…vậy. Từng gắn bó nghệ thuật từ vị trí của một vũ công năm 13

tuổi, từng tham gia lớp bồi dưỡng viết văn trẻ khóa đầu tiên, từng đảm nhận vị trí

ban biên tập báo Văn nghệ, nhà xuất bản Tác phẩm mới, hội nhà văn Việt

Nam,…chính những môi trường ấy rèn luyện kỹ năng viết cho Xuân Quỳnh. Nhưng

cần nhớ rằng, Xuân Quỳnh là một tài năng bẩm sinh về thơ ca. Những vần thơ tự

nhiên được viết ra và tự nội dung tìm lấy cho nó những hình thức phù hợp. Và như

một lẽ tự nhiên, các sáng tác của Xuân Quỳnh tuôn tràn, tuôn tràn,..và không cần

phải chỉnh sửa nhiều. Và khi phong cách của Xuân Quỳnh được định hình và ghi

120

dấu ấn trong lòng mọi người, thì hàng loạt các sáng tác khác cũng được ra đời. Các

biểu tượng nghệ thuật lặp đi lặp lại và ngày càng hoàn thiện hơn. Và khi nhắc đến

các biểu tượng như thuyền, biển, sóng, hoa cúc dại,…người ta biết ngay đó là thơ

của Xuân Quỳnh. Nhưng cũng cần biết thêm, Xuân Quỳnh là nhà thơ ham học hỏi

và khám phá. Các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh không đơn thuần là

những vần thơ ám ảnh và diễn tả những cung bậc cảm xúc của nhà thơ mà nó là kết

tinh của trí tuệ - của một tư duy sắc bén như Xuân Quỳnh. Nếu là phụ nữ, muốn biết

và giải đáp các thắc mắc về kiến thức về tình yêu, giới tính, tâm lý thì hãy đọc thơ

Xuân Quỳnh. Nếu là đàn ông, muốn hiểu hơn về phụ nữ - đối tượng mình chinh

phục và gắn bó hãy đến với thơ Xuân Quỳnh. Nếu là trẻ thơ, muốn học hỏi, khám

phá thế giới xung quanh hãy đọc thơ Xuân Quỳnh. Nếu là người bà, người vợ,

người chị người muốn trang bị hành trang vào đời và chuẩn bị những kiến thức để

đảm nhận tốt những vai trò đó, hãy đọc thơ Xuân Quỳnh. Nếu là một công dân yêu

thiên nhiên, quê hương, đất nước,….hãy đọc thơ Xuân Quỳnh. Nếu là con người và

muốn làm người đúng nghĩa hãy đọc thơ Xuân Quỳnh. Và nếu muốn biết về văn

hóa hãy đọc thơ Xuân Quỳnh. Chính quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, say

mê đã giúp Xuân Quỳnh có được một kiến thức rộng lớn và như bà từng nói, bà liên

tục nhận thức và nhận thức lại:

“Biết xúc động qua nhiều nhận thức

Biết yêu anh và biết được anh yêu”

(Tự hát)

Vâng, ông cha ta từng dạy rằng: “Lửa thử vàng – gian nan thử sức”, “Đi một

ngày đàng học một sàng khôn”, nếu dõi theo từng sáng tác của Xuân Quỳnh cũng

như các biểu tượng nghệ thuật xuất hiện trong thơ bà, chúng ta thấy tư duy của

Xuân Quỳnh ngày càng sâu sắc, khái quát. Theo dòng chảy của thời gian, Xuân

Quỳnh không chỉ trưởng thành về mặt cảm xúc, mà còn về mặt tư duy. Trí tuệ và

tình cảm, cái đầu – trái tim của Xuân Quỳnh đã phối hợp nhịp nhàng và cho ra đời

các biểu tượng nghệ thuật vừa quen, vừa lạ như vậy.

121

Tóm lại, về phương diện truyền thống thì các yếu tố khách quan (gia đình,

quê hương, thời đại) và các yếu tố chủ quan (phương diện tinh thần, tài năng nghệ

thuật, vốn sống – vốn hiểu biết, quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật) ảnh hưởng

và có tác động mạnh mẽ trong việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật.

3.2. Cách tân

3.2.1. Lạ hóa

1THay nói cách khác, trong các sáng tác của mình, Xuân Quỳnh đã đưa ý nghĩa

3.2.1.1. Hoán đổi

1TQuy luật bình thường của tự nhiên là con thuyền chủ động trước biển. Muốn

mới cho các biểu tương nghệ thuật.

ra biển hay cặp bờ là do thuyền quyết định. Nhưng đến thơ Xuân Quỳnh ngược lại,

1T“Từ ngày nào chẳng biết

1TThuyền nghe lời biển khơi

1TCánh hải âu, sóng biếc

1TĐưa thuyền đi muôn nơi

1TLòng thuyền nhiều khát vọng

1TVà tình biển bao la

1TThuyền đi hoài không mỏi

1TBiển vẫn xa…còn xa

1TNhững đêm trăng hiền từ

1TBiển như cô gái nhỏ

1TThầm thì gửi tâm tư

1TQuanh mạn thuyền sóng vỗ

1TCũng có khi vô cớ

1TBiển ào ạt xô thuyền?

1T (Thuyền và biển)

1TBởi lẽ, nếu ví người con trai là thuyền, người con gái là biển, thì xưa nay

biển nên chủ động trước thuyền. Chính biển thay đổi quyết định của thuyền:

trong tình yêu con trai luôn chủ động, tấn công con gái, nhưng trong thơ Xuân

122

Quỳnh đã có sự hoán đổi. Nữ giới chủ động và làm chủ quyết định trong tình yêu.

Người con gái trong thơ Xuân Quỳnh tỏ ra bướng bĩnh và có cá tính rất riêng. Nó

thể hiện sự nghịch ngợm cũng như sự kiêu hãnh, đáng yêu của người con gái. Bình

đẳng giới, tiếng nói của phụ nữ được đặt ngang hàng với nam giới. Đó là khát khao

quyền cá nhân của con người. Thuyền muốn ra biển khi trời yên gió lặng, còn nếu

1THay biểu tượng con tàu – sân ga là một điển hình khác. Sân ga là cố định, đại

biển bão tố, sóng gió thì thuyền chỉ còn cách cập bến bình yên mà thôi.

diện cho người nữ giới, con tàu là di duyển, đại diện cho nam giới. Nhưng khi vào

1T“Sân ga chiều em đi

1TGạch dưới chân im lặng

1TBóng anh in thành tàu

1TTóc anh xòa ngang trán

1TSân ga chiều em đi

1TBàn tay da diết nắm

1TVừa thoáng tiếng còi tàu

1TLòng đã Nam đã Bắc

1TAnh thương nơi em qua

1TNhững phố phường nhộn nhịp

1TBỡ ngỡ trong ánh đèn

1TCòn lạ người lạ tiếng

1TAnh thương nơi em qua

1TNhững sương chiều mưa tối

1TDặm đường xa nắng dãi

1TChuyến phà con nước dâng”

1T (Sân ga chiều em đi)

1TThật là cảm động biết bao, hình ảnh người con trai ở lại và dõi theo bước

thơ Xuân Quỳnh, sân ga ở thế chủ động và có tác động làm thay đổi con tàu.

chân người con gái . Nó hoàn toàn ngược lại với những hình ảnh quen thuộc trong

tâm thức cộng đồng. Người con gái vẫn có thể xung phong, vẫn có thể mở đường,

123

đặt ngang hàng với nam giới. Nhưng bài thơ trên đẹp và đi vào lòng người ở chỗ,

biểu tương con tàu – nam giới đã biết đặt vào vị trí của người con gái mà thương

những vất vả, những khó khăn. Phái yếu, phái đẹp lại trở nên mạnh mẽ, phi thường

1TTư duy hoán đổi thể hiện qua biểu tượng thuyền -biển, con tàu – sân ga đã

hơn bao giờ hết trong mắt cánh mày râu.

toát lên vẻ đẹp trí tuệ - thông minh, khôn ngoan, mưu trí của người phụ nữ. Đồng

thời, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ về giới tính. Tiếng nói của nữ giới được đặt ngang

hàng với nam giới. Và cuộc đời thực, việc Xuân Quỳnh dám ly dị với người chồng

đầu tiên và kết hôn với Lưu Quang Vũ là một minh chứng sống động. Bỏ qua

những dư luận, Xuân Quỳnh đến với Lưu Quang bằng niềm yêu mến, ngưỡng mộ,

mặc dù Lưu Quang Vũ nhỏ hơn Xuân Quỳnh 6 tuổi và đã có con và gia đình riêng.

Khát khao được hạnh phúc, khát khao được sống đúng con người mình là động lực

cho những sáng tạo độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh. Tất cả là kết tinh từ cuộc đời

thực mà ra, những trang nhật ký được dệt bằng thơ.

3.2.1.2. Đa giọng điệu 1TCác biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh được khắc tả qua giọng kể

chuyện, dùng từ để kể và dùng từ xưng hô. Và đó còn là giọng hát ru, mang dấu ấn

rất riêng của Xuân Quỳnh. Tất cả tạo cho bài thơ uyển chuyển, tự nhiên, lôi cuốn và

sinh động:

- Giọng kể chuyện, dùng từ để kể:

+“Em sẽ Ukể Uanh nghe

Chuyện con thuyền và biển:”

(Thuyền và biển)

- Mệnh đề nếu …thì

+“UNếuU từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió”

1T- Dấu câu: dấu ba chấm (…), dấu ngăn cách (-), dấu chấm than (!), dấu hai

(Thuyền và biển)

chấm (:)

124

+“Thuyền đi hoài không mỏi

Biển vẫn xa…còn xa”

(Thuyền và biển)

+ “Hoa trắng, trời cao, gió mát

Một ngôi nhà giữa vườn xanh…”

(Không bao giờ là cuối)

+“Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau - rạn vỡ”

(Thuyền và biển)

+ “Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói

Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em…”

(Chỉ có sóng và em)

+ “Anh, dòng thơ nổi gió…

Mà em người đời thường”

(Anh)

+ “Hoa trắng, trời cao, gió mát

Một ngôi nhà giữa vườn xanh…”

(Không bao giờ là cuối)

+Tiếng gà ai nhảy ổ:

“Cục…cục tác cục ta”

Có tiếng bà vẫn mắng:

-Gà đẻ mà mày nhìn

Rồi sau này lang mặt!”

(Tiếng gà trưa)

+ “Dãy nhà Kim Liên – mỗi viên gạch lát

Một niềm vui ta dựng mỗi căn phòng”

(Lòng yêu thủ đô)

125

Có thể nói trong văn học dân gian, ta bắt gặp giọng hát ru của bà với cháu,

mẹ với con, chị với em, nhưng Xuân Quỳnh rất táo bạo, vợ ru chồng. Đây chính là

cách tân trong biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, nó thể hiện sự ân cần, tỉ mỉ,

sự quan tâm rất sâu sắc của vợ đối với chồng:

“Anh không ngủ được anh ư?

Để em mở quạt quấn mành lên cho

Lặng sao cái gió mặt hồ

Ghét sao cái nóng đầu mùa đã ghê!

Anh không ngủ được anh yêu?

Nghe chi con lũ đang chiều nước dâng

Ngủ đi, em khép cửa phòng

Để em lên gác em trông xem vào

Hình như lửa đã tắt rồi

Gió không thổi nữa anh ơi yên lòng

Khuya rồi anh hãy ngủ đi

Để em trở dậy em che bớt đèn

Ngủ đi anh, hãy ngủ đi..”

(Hát ru chồng những đêm khó ngủ)

1TXuân Quỳnh gợi mở bằng cách đặt ra những câu hỏi mang tính quy luật của

3.2.2. Gợi, nén

thiên, vũ trụ, của cuộc sống đời thường. Tất cả bắt đầu từ sự tò mò, nghi vấn của tác

giả từ những quan sát về cuộc sống - thiên nhiên - con người. Tư duy ấy thể hiện sự

tò mò, giống như của những đứa trẻ mới bước vào đời cần học hỏi mọi thứ. Và khi

đặt câu hỏi ra cũng là lúc có câu trả lời. Và những câu hỏi, những vấn đề Xuân

126

Quỳnh đặt ra, vừa mở, vừa gợi, nhưng nó có sức nén. Những câu hỏi tưởng chừng

như đơn giản, nhưng để trả lời nó rất phức tạp và đó chính là biểu tượng nghệ thuật.

Một khái niệm biểu tượng nghệ thuật đơn giản nhưng khi giải mã được nó không hề

dễ dàng chút nào. Mở mà nén. Mâu thuẫn mà thống nhất, đó chính là biểu tượng

nghệ thuật. Một khái niệm này chứa đựng một khái niệm khác, một khái niệm khác

chứa đựng một khái niệm khác nữa,…nó tạo người đọc cảm giác vừa hiểu và vừa

không hiểu. Bởi lẽ tư duy của Xuân Quỳnh là tư duy khái quát, nên ngôn ngữ được

nhà thơ dùng cũng là những từ khái quát. Nén cũng được hiểu là sức chứa của một

biểu tượng nghệ thuật. Nó đa tầng, đa nghĩa. Ở đây, xin đưa một vài ví dụ tiêu biểu:

+“Vì tình yêu muôn thuở

Có bao giờ đứng yên?”

(Thuyền và biển)

+ “Từ nơi nào sóng lên

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?”

(Sóng)

+ “Giữa câu chuyện có điều này đau nhói:

-Đất quê mình cỏ đã mọc lên chưa?”

(Cỏ dại)

+ “À ơi…ngọn lửa ngày xưa

Mẹ nuôi dưới đất bây giờ về đâu?”

(Lời ru trên mặt đất)

+ “Hết con đường đến đâu?

Dòng sông thì ra bể

Bể rộng tới nơi nào?

Mùa xuân sẽ về đâu

Khi nơi này xuân hết…?”

(Mười bảy tuổi)

127

+ “Không có chân, có cánh

Mà lại gọi: con sông?

Không có lá có cành

Là gọi là: ngọn gió?”

(Vì sao?)

3.2.3. Ám ảnh

Các biểu tượng đôi bàn tay, trái tim, ngọn lửa, tiếng, thuyền - biển - sông,

sóng - gió (nước), con tàu - sân ga, hoa - cỏ dại là những biểu tượng thuộc về Xuân

Quỳnh. Tức Xuân Quỳnh tự ví mình như những biểu tượng ấy. Tất cả nó xuất hiện

trong cuộc đời thường của Xuân Quỳnh. Và ban ngày, hay ban đêm, nó cũng song

hành, đeo bám,…và đến một độ chín của nó, tất cả những ám ảnh đó cần được giải

phóng ra ngoài, hay nói cách khác đó là sự thăng hoa. Những giây phút xuất thần,

các biểu tượng tuôn ra một cách tự nhiên, trôi chảy, không gượng ép. “Xuất khẩu

thành chương” chính là trường hợp của Xuân Quỳnh. Nói ám ảnh là một trong

những cách tân của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh như đã khảo sát là

vì tần số xuất hiện rất đậm đặc, chúng liên tục và thường xuyên, tạo nên dấu ấn

riêng không lẫn với các biểu tượng nghệ thuật của các văn nghệ sĩ khác.

Ám ảnh đã được Xuân Quỳnh giải phóng bằng những vần thơ, và qua phép

điệp cấu trúc, điệp ngữ, kết cấu vòng tròn…

- Điệp ngữ:

+ “Tay cắm hoa, tay để treo tranh

Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc”

(Bàn tay em)

+ “Mùa thu đi cùng lá

Mùa thu ra biển cả

Mùa thu vào hoa cúc”

(Thơ tình cuối mùa thu)

+ “Tiếng yêu anh nói cùng em

128

Tiếng ngàn năm của những đêm hội chèo

Tiếng người xưa nói với nhau”

(Những năm tháng không yên)

- Kết cấu vòng tròn:

+ “Gia tài em chỉ có bàn tay

Em trao tặng cho anh từ ngày ấy

Bàn tay em, gia tài bé nhỏ

Em trao anh cùng với cuộc đời em”

(Bàn tay em)

- Điệp cấu trúc:

+ “Hoa cúc xanh có hay là không có

….

Hoa cúc xanh có hay là không có

Hoa cúc xanh có hay là không có”

(Hoa cúc xanh)

Các biểu tượng nghệ thuật càng được khắc sâu và in đậm trong nhưng sáng

tác của bà cũng như dưới sự tiếp nhận của độc giả. Từ những ám ảnh của nữ sĩ,

thông qua phương tiện là những vần thơ nó trở nên ám ảnh trong lòng bao độc giả,

nhất là độc giả nữ, bởi lẽ, dường như bất cứ người phụ nữ nào cũng bắt gặp mình ở

trong thơ Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh nói về mình cũng là nói hộ bao nỗi niềm của

bao người con gái. Thơ Xuân Quỳnh sống được cũng nhờ lẽ đó.

Và có thể khẳng định một lần nữa, ở phương diện truyền thống, yếu tố khách

quan và yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh,

cũng như việc hình thành các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh, nhưng

yếu tố chủ quan là quyết định. Đồng thời, các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân

Quỳnh chúng ta thấy có xuất hiện trong thơ của các tác giả khác, nhưng các biểu

tượng nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh có đặc điểm riêng, đó chính là ở phương diện

129

cách tân mà chúng tôi đã làm rõ ở phần bên trên. Đồng thời chúng cũng có những

hệ thống và đặc điểm như đã trình bày ở chương 2.

Cội nguồn hay nguồn gốc của những biểu tượng nghệ thuật bao gồm cả hai

mặt truyền thống và cách tân. Một biểu tượng nghệ thuật được hình thành là kết tinh

của cả cái cũ và cái mới. Đó cũng là lý do, cái riêng và cái chung, cái cá thể và cái

tập thể mà chúng ta thấy xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh nó hợp với văn hóa người

Việt.

130

KẾT LUẬN

Biểu tượng nghệ thuật trong văn học nói chung (thơ ca nói riêng) và cụ thể

trong thơ Xuân Quỳnh như đã trình bày ở trên chính là kết tinh, hội tụ của tất cả các

yếu tố chủ quan và khách quan. Thơ của Xuân Quỳnh đến với trái tim bạn đọc và

đọng lại cũng nhờ những biểu tượng ấy. “Nữ Hoàng thơ Tình yêu” đã ra đi, nhưng

những gì còn lại mà bà đã sống và cháy hết mình với con người, cuộc đời còn mãi

với thời gian. Và liệu có ai đó thay thế vị trí ấy trên văn đàn Việt Nam? Nhưng dù

như thế nào đi chăng nữa, tính cách - số phận và những thông điệp của nhà thơ cứ

luôn ám ảnh trong lòng bao độc giả. Và đúng, chính Xuân Quỳnh tạo ra các biểu

tượng nghệ thuật thì thật là xứng đáng khi Xuân Quỳnh đã trở thành một biểu tượng

thật sự trong lòng độc giả bao thế hệ. Như một quy luật tự nhiên, biểu tượng là một

phần không thể thiếu trong cuộc sống con người. Chính Xuân Quỳnh góp phần tạo

nên văn hóa, tạo nên một đời sống tâm linh, tín ngưỡng, là động lực cũng như là

mục tiêu giúp con người vươn lên, sống tốt, đặc biệt là tình yêu đôi lứa và trách

nhiệm công dân đối với Tổ quốc. Nghiên cứu nghệ thuật ở góc độ biểu tượng nghệ

thuật, nó không hề đơn giản, nó là sự kết hợp của trí tuệ cá nhân và trí tuệ dân tộc.

Đồng thời, chính biểu tượng nghệ thuật sẽ rút ngắn thời gian và tạo sự kết nối của

tất cả mọi người trên thế giới. Do đó, việc tiếp cận một tác phẩm thông qua giải mã

các biểu tượng nghệ thuật là một phương pháp hữu hiệu.

Và có thể khẳng định thêm, các biểu tượng đơn và các biểu tượng kép trong

thơ Xuân Quỳnh kết hợp, bổ sung, hội tụ,…tạo ra một bức tranh phong phú và toàn

vẹn về cuộc sống. Sắc màu của cảm xúc, của thiên nhiên, cảnh vật, con người,…đã

được Xuân Quỳnh nhìn bằng cặp mắt của một thi sĩ nhạy cảm rất riêng, rất độc đáo,

ấy vậy mà chúng không hề cô độc mà lại gắn vào cái chung, cái tâm thế của cả cộng

đồng. Chính vì thế sức sống của những biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân

Quỳnh phi thường đến thế.

Hành trình hình thành các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh bằng

sự kế thừa những gì truyền thống đã lưu giữ và đồng thời Xuân Quỳnh đã sáng tạo,

cách tân thành những biểu tượng nghệ thuật rất độc đáo, đó là những đóng góp to

131

lớn của chị trên văn đàn Việt Nam. Bởi lẽ, đúng như Nam Cao khẳng định: “Văn

chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.

Văn chỉ chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn

chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”(Đời thừa). Người ta sẽ không thể

nhầm lẫn Xuân Quỳnh với bất cứ nhà thơ nào khác, bởi lẽ Xuân Quỳnh đã thật sự

sở hữu một phong cách nghệ thuật đặc sắc cho riêng mình và các biểu tượng nghệ

thuật là minh chứng cho điều đó. Và như đã trình bày, thì yếu tố chủ quan là quyết

định, chính nó tạo nên sự khác biệt giữ Xuân Quỳnh và các nghệ sĩ khác. Tư chất

nghệ sĩ vốn được trời ban là điều tự nhiên, tất yếu và Xuân Quỳnh đã may mắn sở

hữu nó.

Thế giới – con người – tình yêu – hôn nhân - gia đình – giới tính - giáo dục –

nghệ thuật – văn hóa,… chân lý cuộc sống, chân lý khoa học; vâng, tất cả các vấn

đề đó đã được hé mở sau hành trình tìm hiểu về biểu tượng nghệ thuật trong thơ

Xuân Quỳnh. Mỗi người trong chúng ta khi đọc thơ Xuân Quỳnh sẽ luôn thấy mình

trong đó, Xuân Quỳnh đã nói hộ dùm cho con người những cảm xúc. Cuộc sống có

những quy luật riêng của nó, thời gian thì cứ trôi, kiếp nhân sinh cứ thế mà tuần

hoàn,…nhưng thông điệp về tình yêu người, yêu cảnh vật, yêu thiên nhiên, yêu

cuộc đời sẽ là động lực thôi thúc chúng ta sống tốt. Hãy sống một cuộc đời ý nghĩa,

một cuộc đời thật sự. Lắng và cảm, nghe đâu đây âm hưởng của đất trời, mới thấy

hết được rằng làm con người là một điều tuyệt diệu nhất mà tạo hóa đã ban tặng. Có

một bản nhạc giao hưởng mang tên Xuân Quỳnh và mỗi khi những ca từ của bản

nhạc ấy ngân lên, người ta không thể không nghe, nó tự nhiên quá, chân thực quá,

gần gũi quá, giản dị quá, sâu sắc quá, bay bổng quá,…nó khiến chúng ta say sưa,

nửa mê, nửa tỉnh, như thực, như mơ….hòa vào dòng chảy khắc nghiệt của thời gian.

Nghệ thuật nhờ vậy mà đẹp hơn bao giờ hết và thơ ca mãi mãi vẫn là món ăn tinh

thần của tất cả mọi người. Những giá trị Chân – Thiện – Mỹ vẫn mãi trường tồn

trong lòng văn hóa Việt, và các biểu tượng nghệ thuật chính là biểu hiện sinh động

cho điều đó.

132

Chân lý khoa học và chân lý cuộc sống mà người viết đặt câu hỏi ở phần

đầu, đến đây đã dần sáng tỏ. Và theo nhịp chảy của thời gian, nhận thức và cảm xúc

của người viết cũng như của độc giả có thể dần thay đổi theo; điều đó đồng nghĩa

với việc thơ của Xuân Quỳnh sẽ luôn luôn tái sinh trong tiếp nhận của người đọc.

Và hy vọng rằng “Xuân Quỳnh – Không bao giờ là cuối” đối với tất cả chúng ta.

133

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Amy Keehn (2010), Sự hòa hợp và xung đột về tính cách trong tình yêu và cuộc

sống, Nxb Thanh Hóa.

2. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cho tôi một vé đi tuổi thơ , Nxb Trẻ.

3. Bùi Văn Ba (Chủ biên) (1976), Thường thức Lý luận Văn học - Sách bồi dưỡng

giáo viên cấp II, Nxb Giáo dục.

4. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hoá, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

5. Nguyễn Hoa Bằng (2003), Giáo trình Mỹ học Đại cương, Trường Đại học Cần

Thơ.

6. Trần Thanh Bình (1999), Tư duy nghệ thuật thơ của Xuân Quỳnh - Luận văn tốt

nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

7. Lâm Bình biên soạn (2011), Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại, Nxb Văn hóa

Thông tin.

8. Lưu Văn Bổng chủ biên (2001), Văn học so sánh Lý luận và Ứng dụng, Trung

tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Khoa học xã hội.

9. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hoá thông tin.

10. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học So sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

11. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa

học xã hội.

12. Phạm Đăng Dư, TS Lê Lưu Oanh (2001), Giáo trình Lý luận văn học, Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội, Nxb Giáo dục.

13. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

14. Nguyễn Lâm Điền, Trần Văn Minh (2004), Văn học Việt Nam 1945 - 1975,

24T15. Nguyễn Thị Ngọc Điệp0T24T 0T(1997), Tiếp cận biểu tượng trầu cau,0T 0T2TTạp chí Văn hóa

Trường Đại học Cần Thơ.

– Nghệ thuật0T2T 0Tsố 2, tr.65 - 68.

134

24T16. Nguyễn Thị Ngọc Điệp0T24T 0T(1999),0T “0T2TTìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao

Việt Nam”2T, Kỷ yếu Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, tr.26

24T17. Nguyễn Thị Ngọc Điệp0T24T 0T(2001),0T 0T2TBiểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền

- 35.

24T18. Nguyễn Thị Ngọc Điệp0T24T 0T(2004), “Biểu tượng ca dao nhìn từ những góc độ khác

thống người Việt2T, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

nhau”,0T 0T2TBình luận văn học2T, Niên giám của Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học

TP.HCM, Nxb ĐH Quốc gia Tp.HCM

19. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội Nhà văn.

20. Ngân Hà (2006), Thơ Xuân Quỳnh - Những lời bình, Nxb Văn hoá thông tin.

21. Ngân Hà, Thơ Xuân Quỳnh - Những lời bình - Tủ sách văn học trong nhà

trường, Nxb Văn hoá thông tin.

22. Lê Thị Diệu Hà (2009), Văn học dân gian 2, Trường Đại học Cần Thơ.

23. Đinh Thị Phương Hà (2010), Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, Trường

Đại học Cần Thơ.

24. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2008), Lý luận văn học 3, Trường Đại học Cần Thơ.

25. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tiếp cận văn học – Nxb Khoa học xã hội.

26. Lý Lan (2010), Ở ngưỡng cửa cuộc đời, Tản văn dành cho sinh viên, Nxb Văn

nghệ.

27. Jenan Chevalie và Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế

giới , Trường Viết Văn Nguyễn Du, Nxb Đà Nẵng.

28. Joanna Martine Woolfolk (2010), Quy luật Vũ trụ, Nxb Đồng Nai.

29. Nguyễn Thị Thanh Lâm (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa

đầu thế kỷ XIX, Trường Đại học Cần Thơ.

30. Nguyễn Thị Huyền Lê (2010), Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Luận văn

tốt nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.

31. Mai Quốc Liên (2012), Thi pháp học của R. Jakovson, Tài liệu bài giảng,

Trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.

135

32. Mai Quốc Liên (2012), Lý luận văn nghệ, Đề cương chi tiết, Trường Đại học

Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

33. Vân Long (1998), Xuân Quỳnh thơ và đời, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

34. Phương Lựu (Chủ biên) (1998), Lý luận văn học, Tập 1 - Văn học, Nhà văn,

Bạn đọc, Nxb Giáo dục.

35. Macxim Gorki (2009), Người Mẹ, Nxb Lao động.

36. Trần Văn Nam (2009), Văn học dân gian, Đề cương bài giảng, Trường Đại học

Cần Thơ.

37. Nguyễn Văn Nở (2007), Phong cách học Tiếng Việt, Trường Đại học Cần Thơ.

38. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, In lần thứ 11, Nxb

Khoa học Xã hội.

39. Hoàng Phê chủ biên (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

40. Trần Hà Phương (2011), Khảo sát phong cách nghệ thuật của nhà văn qua một

số nhà văn tiêu biểu, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.

41. Ngô Như Quỳnh (2005), Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh, Luận văn tốt nghiệp,

Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

42. Xuân Quỳnh (1963), Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Nxb Văn học, Hà Nội.

43. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, Nxb Văn học, Hà Nội.

44. Xuân Quỳnh (1974), Gió Lào cát trắng, Nxb Văn học, Hà Nội.

45. Xuân Quỳnh (1978), Lời ru trên mặt đất, Nxb Mới, Hà Nội.

46. Xuân Quỳnh (1980), Cây trong phố - Chờ trăng ( in chung), Nxb Hà Nội, Hà

Nội.

47. Xuân Quỳnh (1983), Bầu trời trong quả trứng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

48. Xuân Quỳnh (1984), Sân ga chiều em đi, Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Xuân Quỳnh (1984), Tự hát, Nxb Văn học, Hà Nội.

50. Xuân Quỳnh (1989), Hoa cỏ may. Nxb Mới, Hà Nội.

51. Nguyễn Thị Thu Thủy (2008), Dẫn luận ngôn ngữ học, Bài giảng, Trường Đại

học Cần Thơ.

136

52. Nguyễn Thị Thu Thủy (2008), Từ vựng học Tiếng Việt, Bài giảng, Trường Đại

học Cần Thơ.

53. Nguyễn Thị Thu Thủy (2009), Giáo trình Ngữ dụng học, Trường Đại học Cần

Thơ.

54. Lê Ngọc Trà (1991), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.

55. Nguyễn Thị Thanh Trúc (2009), Thi pháp thơ Xuân Quỳnh, Luận văn tốt

nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.

56. Tô Hà Tường Vân (2001), Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh, Luận văn

tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

57. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2013), Các phương pháp phê bình văn học, Đề cương

bài giảng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.

58. Vũ Kim Xuyến (2000), Xuân Quỳnh - Thơ và Những lời bình, Nxb Văn hoá -

Thông tin.

59. Tập thể Giảng viên (2006), Đề cương ôn tập, Tuyển sinh Cao học - Khoa học xã

hội, Bộ Giáo dục và đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

60. Giảng văn văn học nước ngoài (2003), Tập 1 và 2, Trường Đại học Cần Thơ.

61. Xuân Quỳnh – Không bao giờ là cuối (2011), Tuyển thơ, Nxb Hội Nhà văn.

25T63. Ethical Criticism: Literature and Beyond (w.w.w. sde.si/mikeln 2002

62. 25TSternberg, R. J. (1988) The Triangle of Love: Intimacy, Passion, Commitment.

25T64. Coleridgean Polarity and Theological Vision – Scholar Commons (scholar

students.pdf)

commons.sc.edu/cgi/view content.cgi?article=1000&context…)

65.http://huc.edu.vn/vi/spct/id57/VE-TINH-HINH-TUONG-VA-TINH-BIEU-

TUONG-TRONG-TAC-PHAM-VAN-HOA---NGHE-THUAT/

66.http://vietvan.vn/vi/bvct/id3430/Bieu-tuong-giac-mo-trong-tho-Nguyen-Binh,-

Han-Mac-

67.http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18

487

137

68.http://ussh.vnu.edu.vn/ttlv-nhung-bieu-tuong-nghe-thuat-tieu-bieu-trong-tho-to-

huu/3711

69.http://updatebook.vn/threads/34775-Bieu-tuong-vuon-trong-tho-Nguyen-Binh)

70.8Thttp://huc.edu.vn/vi/spct/id145/BIEN---BIEU-TUONG-CUA-VU-TRU-

TRONG-THO-HUY-CAN/8T

71.http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=

article&id=2019:ngh-thut-biu-tng-trong-th-thin-ly-trn-nhin-di-goc-ngun-gc-vn-

hoa&catid=120:lun-vn-ca-ncs-hvch-a-sv&Itemid=186

72.8Thttp://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/389315/phe-binh-van-

hoc/kham-pha-nhung-bieu-tuong-trong-van-hoc-.html8T

73.8Thttp://vietvan.vn/vi/bvct/id3057/Lua--Tu-bieu-tuong-van-hoa-den-bieu-tuong-

ngon-tu/8T

74.8Thttp://updatebook.vn/threads/64367-The-gioi-bieu-tuong-trong-tho-Nom-

Nguyen-Trai8T

75.8Thttp://updatebook.vn/threads/34775-Bieu-tuong-vuon-trong-tho-Nguyen-Binh8T

76.8Thttp://tapchinhavan.vn/news/Nghien-cuu-Ly-luan-Phe-binh/Ket-cau-bieu-tuong-

trong-bai-tho-VIENG-LANG-BAC-1283/8T

77.8Thttp://ussh.vnu.edu.vn/ttlv-bieu-tuong-trong-tho-luu-quang-vu/50758T

78.8Thttp://khotailieu.com/tai-lieu/van-hoa-nghe-thuat/van-hoc/van-de-nghien-cuu-

bieu-tuong-tho-ca-tru-tinh-viet-nam.html8T

79.8TUhttp://blog.zing.vn/jb/dt/smile.skye226/12614131?from=myU8T

80. 8Thttp://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2009/10/54220.cand8T

81.8Thttp://vienvanhoc.org.vn/print/nghiencuulyluan/641/bieu-tuong-thien-nhien-

82.8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=11107#more-11107U8T

trong-tho-nu-thoi-ki-chong-my.aspx8T

83.8TUhttp://www.youtube.com/watch?v=30ZOkIVLDQcU8T

84.8TUhttp://www.youtube.com/watch?v=vYNKyJyUc8cU8T

85.8TUhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n_Qu%E1%BB%B3nhU8T

138

86.8TUhttp://www.tinmoi.vn/giai-ma-vu-tai-nan-luu-quang-vu-xuan-quynh-p1-

87.8TUhttp://gocnhintangphat.com/sach-cua-toi/phe-binh-van-hoc-cua-toi/cac-nha-van-nu-va-

su-khung-hoang-trong-van-hoc-viet-nam-hien-dai/U8T

011276836.htmlU8T

88.8TUhttp://www.tinmoi.vn/giai-ma-vu-tai-nan-luu-quang-vu-xuan-quynh-p2-

011276869.htmlU8T

89.8TUhttp://poem.tkaraoke.com/tim.tho?q=Xu%C3%A2n-Qu%E1%BB%B3nh&t=6U8T

90.8TUhttp://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/dem-tuong-nho-luu-quang-

vu-xuan-quynh-gay-xuc-dong-2870533.htmlU8T

92.8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=10419#more-10419U8T

93.8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?p=11022#more-11022U8T

91.8TUhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Biểu_tượngU8T

94.8TUhttp://www.youtube.com/watch?v=uL5hPjs-L7IU8T

95.8TUhttp://vn.messenger.yahoo.com/features/hiddenemoticons/U8T

96.8TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn/?tag=bieu-tuongU8T

97.8TUhttp://vtc.vn/13-241115/giai-tri/dung-de-me-toi-noi-ve-xuan-quynh-luu-quang-

vu.htmU8T

98.8TUhttp://doc.edu.vn/tai-lieu/khoa-luan-y-nghia-bieu-trung-cua-he-bieu-tuong-con-

so-trong-ca-dao-nguoi-viet-36804/U8T

99.8TUhttp://hcm.megafun.vn/tin-tuc/cong-nghe/khoa-hoc-co-ban/201308/nhung-dieu-

co-the-ban-chua-biet-ve-giac-mo-284122/U8T

100.8TUhttp://vuhuu.edu.vn/null/Ebook/Van_Hoc_Viet_Nam_30-45/chuong2.htmU8T

101.8TUhttp://www.vtv2.tuvantuyensinh.vn/video/detail/bai-09:-mot-so-bieu-tuong-va-

hinh-anh-trong-ca-dao-174.htmlU8T

103.8TUhttp://www.duytue.org/index.php?option=com_content&view=article&id=396:thuc-

tinh-voi-su-mo-ho-va-dieu-tuong-tuong&catid=31:tra-loi-gan-day&Itemid=136U8T

104.8TUhttp://hocmai.infogate.vn/book/Luan-Van-Mot-so-dac-trung-ngon-ngu-tho-

102.8TUhttp://www.youtube.com/watch?v=lacVCjdyXToU8T

105.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/Analytical_psychologyU8T

Xuan-QuynhU8T

139

106.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/Anatomy_of_CriticismU8T

107.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_Quang_V%C5%A9U8T

108.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/Nam_qu%E1%BB%91c_s%C6%A1n_h%C3%A0U8T

110.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/ThomismU8T

109.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_H%C3%B3aU8T

111.8TUhttp://en.wikipedia.org/wiki/SymbolU8T

112.8TUhttp://en.wiktionary.org/wiki/symbolU8T