ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM THỊ NGỌC HOÀN
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ CHO
HỌC SINH QUA BÀI “ TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ ”
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 TẬP 1
TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG THPT TỈNH TUYÊN QUANG
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành
: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn
Văn – Tiếng Việt
Mã số
: 60 14 01 11
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Mai Diễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn i
Thái Nguyên – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng
dẫn của TS. Hoàng Mai Diễn. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là
trung thực và chƣa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iii
Phạm Thị Ngọc Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
TS. Hoàng Mai Diễn - người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau
đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học Trường Đại Học Sư phạm – Đại Học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn Thư viện Trường Đại Học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu và Thư viện Quốc Gia Hà Nội đã giúp
đỡ trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã động
viên, quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện giúp em hoàn thành tốt luận văn này.
Hà Nam, tháng 5 năm 2015
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iv
Phạm Thị Ngọc Hoàn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... iv
MỤC LỤC ..................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 7
NỘI DUNG .................................................................................................... 9
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƢỠNG NĂNG
LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN ................. 9
1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học
sinh ................................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực giao tiếp khẩu ngữ ............................. 9
1.1.2. Mục tiêu của dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh ....................... 13
1.1.3. Nguyên tắc của dạy học giao tiếp khẩu ngữ ........................................ 14
1.1.4. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học giao tiếp khẩu ngữ .......................... 15
1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ
văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang ............ 16
1.2.1. Thực trạng định hƣớng dạy học của một số giáo án, thiết kế bài “Trình
bày một vấn đề” SGK Ngữ văn 10 tập 1 ....................................................... 16
1.2.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” tại một số trƣờng trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn v
học phổ thông tại tỉnh Tuyên Quang............................................................. 21
Chƣơng 2:THIẾT KẾ DẠY HỌC BÀI “TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ”
THEO ĐỊNH HƢỚNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ
CHO HỌC SINH ......................................................................................... 31
2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 31
2.1.1. Phƣơng pháp dạy học tích cực với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 31
2.1.2. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 37
2.2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng
lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ
thông tỉnh Tuyên Quang ............................................................................... 42
2.3. Thuyết minh thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 ............................... 47
2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị lên lớp .................................................................. 48
2.3.3. Giai đoạn sau khi lên lớp .................................................................... 55
Chƣơng 3THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ........................................................ 57
3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................... 57
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm ......................................................... 57
3.3. Phƣơng pháp thực nghiệm ..................................................................... 58
3.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 58
3.5. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 59
3.6. KẾT LUẬN CHUNG VỀ THỰC NGHIỆM.......................................... 66
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn vi
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kĩ năng nghe, nói ngày càng quan trọng trong thời đại công nghệ
thông tin phát triển hiện nay. Trƣớc đây, ở các cơ quan Nhà nƣớc, thông tin
đƣợc truyền tải chủ yếu bằng văn bản, những sự việc mang tính quốc gia,
quốc tế đều phải thông qua văn bản, nhƣng ngày nay có thể thay thế một phần
bằng lời nói thông qua điện đàm. Lợi ích của phƣơng thức này là có thể
truyền đi những thông tin chính xác và biết ngay đƣợc phản ứng của đối
phƣơng để có cách xử lí kịp thời, do đó hiệu quả công việc đƣợc cải thiện rõ
ràng. Trƣớc những đòi hỏi của xã hội hiện nay, con ngƣời cần phải rèn luyện,
nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ để tự tin trong giao tiếp, trở thành con
ngƣời năng động tự tin xử lí mọi vấn đề đặt ra trong cuộc sống hàng ngày.
Việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ đƣợc đánh giá là phần nào giúp
cho con ngƣời hòa nhập, biểu lộ trạng thái cảm xúc, ƣớc mơ, niềm hi vọng
hay phát biểu những ý kiến, quan điểm của mình trong học tập. Vậy nên, việc
rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh là việc làm cần thiết.
1.2. Năng lực giao tiếp khẩu ngữ có quan hệ chặt chẽ với năng lực Ngữ
Văn. Chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện nay của Việt Nam
có đề cập vấn đề rèn luyện đồng bộ bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết nhƣ là
những kĩ năng cơ bản cần bồi dƣỡng cho học sinh trong dạy học Ngữ văn.
Các kĩ năng này đều đƣợc xác định là quan trọng và có ảnh hƣởng đến nhau,
tuy nhiên nhiều công trình nghiên cứu gần đây khẳng định kĩ năng nghe, nói
quan trọng hơn kĩ năng đọc, viết. Thực tế dạy học Ngữ văn hiện nay ở trƣờng
phổ thông cho thấy vẫn tồn tại tình trạng coi trọng việc rèn luyện kĩ năng đọc,
viết mà xem nhẹ kĩ năng nghe, nói. “Các kĩ năng này một mặt đƣợc phát triển
trên cơ sở kiến thức lí luận, mặt khác trở thành công cụ đắc lực để chiếm lĩnh
1
kiến thức và hình thành những kĩ năng, phẩm chất mới của ngƣời lao động
mới” [1, tr. 6]. Tập trung vào các năng lực giao tiếp cơ bản nhất là nghe, nói là
một trong những con đƣờng đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.
Kĩ năng nghe, nói có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực tƣ duy. Lời nói
là một trong những cơ sở để rèn luyện tƣ duy. Việc rèn luyện kĩ năng nghe,
nói không chỉ giúp học sinh phát triển ngôn ngữ mà còn khơi dậy tƣ duy tích
cực, ứng biến nhanh nhẹn và hiệu quả trong giao tiếp. Nhiều nhà ngôn ngữ
học cho rằng sự phát triển trí tuệ của con ngƣời phần lớn phụ thuộc vào năng
lực ngôn ngữ của ngƣời đó. Vì vậy, có thể khẳng định, bồi dƣỡng năng lực
ngôn ngữ, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh trong dạy học
Ngữ văn ở nhà trƣờng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển trí tuệ
của học sinh. Kỹ năng trình bày một vấn đề là một kĩ năng giao tiếp quan trọng
trong cuộc sống, để nâng cao hiệu quả của kỹ năng nghe, nói cho học sinh lớp
10 qua môn Ngữ Văn, chúng ta phải có kế hoạch cụ thể nhằm bồi dƣỡng năng
lực giao tiếp khẩu ngữ cho các em. Là lớp đầu tiên của cấp học trung học phổ
thông mang tính định hƣớng cho tƣơng lai, vì vậy bồi dƣỡng năng lực giao
tiếp khẩu ngữ cho học sinh trung học phổ thông nói chung và học sinh lớp 10
nói riêng là việc làm cấp thiết.
1.3. Nếu nhƣ nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp
nhận thông tin thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động biểu đạt
thông tin cần đƣợc rèn luyện và phát triển cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy,
chúng tôi thấy đƣợc môn Ngữ Văn bậc trung học phổ thông đang dành nhiều
thời lƣợng cho kỹ năng đọc, viết. Chú trọng đến việc nhận diện những đặc
điểm cú pháp dẫn đến việc học sinh ít đƣợc rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu
ngữ và không nắm vững đƣợc những chức năng cơ bản của giao tiếp khẩu
ngữ. Về lí thuyết, năng lực nói bao gồm hai phƣơng diện: phong cách nói hàng
ngày và phong cách nói trƣớc công chúng. Hiện nay, trọng tâm của chƣơng
2
trình dạy học nói tập trung vào phƣơng diện nói trƣớc công chúng nhƣ: diễn
thuyết, biện luận, báo cáo, tóm tắt… nhƣng nhìn từ góc độ ứng dụng, nhu cầu
rèn luyện phong cách giao tiếp hàng ngày cũng cần đƣợc quan tâm. Học sinh
còn diễn đạt lúng túng, không diễn đạt đúng hoặc không diễn đạt hết những
điều cần nói, cách lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu tự tin trong giao tiếp. Tình
trạng này còn phổ biến ở các cấp học. Thêm vào đó, trong xã hội phát triển
nhanh chóng hiện nay, phƣơng thức sử dụng ngôn ngữ luôn không ngừng thay
đổi. Giáo viên đứng trƣớc yêu cầu cập nhật thƣờng xuyên, phát huy vai trò định
hƣớng, tạo điều kiện cho học sinh đƣợc thực hành đều đặn để ngôn ngữ giao
tiếp của các em vừa hiện đại vừa chuẩn mực. Rèn luyện kĩ năng giao tiếp khẩu
ngữ tốt sẽ giúp ngƣời học có đƣợc một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc
sống xã hội.
Tuyên Quang là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc bộ, là địa bàn có
trên 64% ngƣời dân tộc thiểu số sinh sống, nâng cao năng lực sử dụng tiếng
Việt và bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trung học phổ
thông là một việc tƣơng đối khó khăn vì vốn tiếng Việt của học sinh không
đồng đều.
Chính vì những lí do trên, với mong muốn nâng cao hiệu quả trong việc
bồi dƣỡng năng lực giao tiếp cho học sinh chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Bồi dưỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh qua bài “Trình bày
một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1 tại một số trường trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang”.
2. Lịch sử vấn đề
Giao tiếp khẩu ngữ là một lĩnh vực quan trọng và phổ biến trong dạy
học cũng nhƣ trong cuộc sống. Lênin nhận định: “Hội thoại là một hoạt động
rất thƣờng xuyên, rất quen thuộc trong đời sống của mỗi con ngƣời, từ khi
bập bẹ tập nói cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Nhu cầu đƣợc nói với ngƣời
3
khác là một nhu cầu rất căn bản, rất đặc trƣng của đời sống con ngƣời. Vì
trong xã hội con ngƣời luôn luôn có nhu cầu giao tiếp, mà trong giao tiếp,
ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất” [34, tr. 90]. Nhƣ vậy định hƣớng giảng
dạy môn Ngữ văn trong nhà trƣờng đi theo hƣớng giao tiếp, nhấn mạnh dạy
trong giao tiếp và dạy bằng giao tiếp là đúng đắn. Ở các nƣớc phát triển,
ngƣời ta nhanh chóng nhận ra đƣợc sự bất cập của phƣơng pháp dạy học chỉ
chú trọng kĩ năng đọc, viết mà ít chú trọng kĩ năng nghe, nói. Để giải quyết
tình trạng bất cập đó, trong những năm 1940 của thế kỉ XX ở Mĩ các chuyên
đề về phân tích hội thoại của tác giả đáng chú ý nhƣ Harvey Sack, Schegloff,
Jefferson, Atkinson, Heritage về phƣơng pháp nghe khẩu ngữ đã bắt đầu đƣợc
hình thành dựa trên những đặc điểm của ngôn ngữ học, cấu trúc và tâm lý học
hành vi. Theo đó phƣơng pháp này chú trọng vào dạy học nghe nói. Bài học
tiếng bắt đầu bằng một đoạn hội thoại với trọng tâm kĩ năng theo trật tự dạy
học nghe nói trƣớc, sau đó mới dạy học đọc viết, để hƣớng tới việc hình thành
các năng lực giao tiếp cho học sinh. Phƣơng pháp này đã nhanh chóng đƣợc
nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi trong dạy học từ tiểu học đến đại học và trở
thành xu hƣớng phát triển chung của nhiều nƣớc phát triển trên thế giới.
Ở Việt Nam, chúng tôi đã tìm đƣợc một số tài liệu đề cập đến vấn đề bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ nhƣ cuốn “Một số vấn đề về dạy hội thoại
cho học sinh tiểu học” của tác giả Nguyễn Trí. Ở cuốn sách này, tác giả đã cố
gắng chọn lọc những kiến thức cơ bản, tối thiểu về hội thoại dựa theo chƣơng
trình môn Tiếng Việt tiểu học ban hành năm 2006 và lựa chọn cách trình bày
các kiến thức dựa trên sự phân tích một số dẫn chứng cụ thể để ngƣời mới
tiếp cận lí thuyết hội thoại dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn giới thiệu các kiểu bài tập dạy học luyện nói trong bộ sách giáo khoa
Tiếng Việt tiểu học. Bên cạnh cuốn sách này, tác giả Nguyễn Trí còn một số
bài viết “Kinh nghiệm dạy học ngôn bản theo phương hướng giao tiếp ở một
số nước” đã bàn về cơ cấu hệ thống chƣơng trình dạy ngôn ngữ viết và ngôn
4
ngữ nói cho học sinh tiểu học. Theo tác giả, phƣơng hƣớng dạy học giao tiếp
và để giao tiếp đã làm thay đổi nhiều mặt của nội dung chƣơng trình dạy tiếng
mẹ đẻ của một số nƣớc trên thế giới.
Tác giả Nguyễn Quang Ninh đã bàn đến việc rèn kĩ năng giao tiếp trong
các công trình“Một số vấn đề dạy học ngôn bản nói và viết ở tiểu học theo
hướng giao tiếp” và “Rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt”. Từ lý thuyết hội
thoại, tác giả đã rút ra một số vấn đề quan trọng là để học sinh làm một bài tập
làm văn nói tốt, ngƣời giáo viên cần phải chú ý tới một số điểm sau: phải
chuẩn bị tốt nội dung bài nói, phải tạo đƣợc nhu cầu về hội thoại cho học sinh
và phải tạo đƣợc hoàn cảnh giao tiếp tốt. Tác giả còn đƣa ra một số kinh
nghiệm giao tiếp thƣờng dẫn đến thành công cho mỗi ngƣời khi tham gia giao
tiếp nhƣ bình tĩnh, tự tin, chú ý văn hóa trong lời nói và sử dụng ngữ điệu sao
cho phù hợp với từng thời điểm nói.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến quan điểm phát triển
kĩ năng giao tiếp theo hai hƣớng: xu hƣớng tiếp cận theo tâm lý học giao tiếp
và xu hƣớng tâm lý học ứng dụng nhƣ: Phương pháp dạy học Tiếng Việt” (Lê
A- Nguyễn Quang Ninh- Bùi Minh Toán),“Vấn đề giao tiếp” (Nguyễn Văn
Lê), “Vấn đề giao tiếp trong việc xây dựng nhà trường thân thiện” (Nguyễn
Thị Thu Hiền)... Nhìn chung, các tác giả đều có cùng những nhận định: học
sinh Việt Nam còn yếu về kỹ năng giao tiếp, chƣa tự tin khi nói trƣớc đông
ngƣời, khi nói thiếu sức thuyết phục do phong cách thể hiện, lập luận, diễn
đạt... Một trong những nguyên nhân của hiện tƣợng này là vì các em chƣa
đƣợc học tập rèn luyện kỹ năng nói một cách bài bản. Nội dung dạy học
môn Ngữ văn trong nhà trƣờng vẫn chú trọng các kĩ năng đọc, viết hơn là
nghe, nói…
Từ việc phân tích nguyên nhân của thực trạng, hay tổng kết kinh
nghiệm dạy kĩ năng nghe, nói cho học sinh của nƣớc ngoài, các tác giả đã đề
5
xuất những biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong dạy học
Ngữ văn, hƣớng tới việc nâng cao năng lực giao tiếp cho ngƣời học. Tuy
nhiên, những biện pháp này mới có tính chất nhƣ những gợi mở ban đầu,
chƣa có những đề xuất mang tính lâu dài để tập trung giải quyết vấn đề làm
thế nào có thể rèn luyện hiệu quả năng lực giao tiếp cho những đối tƣợng học
sinh khác nhau trong nhà trƣờng phổ thông. Đi sâu nghiên cứu để tìm ra các
phƣơng pháp tăng cƣờng hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh
phổ thông gắn với chƣơng trình và sách giáo khoa hiện nay là vấn đề chƣa
đƣợc nghiên cứu đầy đủ. Do đó vấn đề này rất cần những nghiên cứu chuyên
sâu để có thể giúp mọi ngƣời thấy rõ đƣợc tầm quan trọng của việc phát triển
kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.
Để đem lại cái nhìn hệ thống hơn và đƣa ra giải pháp bồi dƣỡng, tăng
cƣờng hiệu quả rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu trong dạy học môn Ngữ văn,
chúng tôi quyết định triển khai nghiên cứu đề tài “Bồi dưỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa
Ngữ Văn 10 tập 1 tại một số trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang”.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những hoạt động bồi dƣỡng năng
lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh của giáo viên đƣợc tiến hành trong bài
học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1.
- Phạm vi nghiên cứu là thực trạng dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học
sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10
tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tiếp cận những cơ sở lí luận của vấn đề bồi dƣỡng kĩ năng giao tiếp
khẩu ngữ trong dạy học Ngữ văn.
5.2. Khảo sát thực trạng của việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ qua bài
6
“Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1.
5.3. Đề xuất giải pháp dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10
qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1 tại
một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
Tổng hợp những công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu, lí luận có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề nghiên cứu của đề tài.
5.2. Phƣơng pháp khảo sát, điều tra
Tiến hành khảo sát, điều tra thực trạng dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh lớp 10 môn Ngữ Văn ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh
Tuyên Quang.
5.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Tiếp cận, nghiên cứu, phân tích đƣa ra những kết luận khoa học, kết luận sƣ
phạm từ đó đề xuất các giải pháp dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong
dạy học môn Ngữ văn ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
6. Đóng góp của đề tài
Giúp giáo viên và học sinh có thêm hiểu biết về phƣơng pháp dạy học
giao tiếp khẩu ngữ, nhằm bồi dƣỡng và phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ
cho học sinh đặc biệt là học sinh lớp 10.
Luận văn hƣớng tới đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dƣỡng năng lực
giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ văn ở một số trƣờng trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
7. Cấu trúc của luận văn
7
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về bồi dƣỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ trong dạy học Ngữ Văn
1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh
1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ
văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang
Chƣơng 2: Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng
năng lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh
2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ
cho học sinh
2.1. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng
lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ thông
tỉnh Tuyên Quang
2.3. Thuyết minh về thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh lớp 10
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm
3.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sƣ phạm
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm
3.3. Phƣơng pháp tiến hành thực nghiệm sƣ phạm
3.4. Nội dung thực hiện
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
8
3.6. Kết luận chung về thực nghiệm
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC
GIAO TIẾP KHẨU NGỮ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN
1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh
Mục tiêu giáo dục phổ thông của nƣớc ta giai đoạn sau 2015 đƣợc phát
biểu nhƣ sau: Chương trình giáo dục phổ thông nhằm tạo ra những con người
Việt Nam phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, phát huy cao độ tiềm
năng của bản thân; có những phẩm chất cao đẹp là: yêu gia đình, quê hương
đất nước; nhân ái khoan dung; trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; tự lập, tự
tin, tự chủ; có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại;
nghĩa vụ công dân. Đề xuất hình thành 9 năng lực cho học sinh cụ thể là: Tự
học; giải quyết vấn đề; sáng tạo; tự quản lý; giao tiếp; hợp tác; sử dụng công
nghệ thông tin; sử dụng ngôn ngữ; tính toán [10, tr.11]. Chủ trƣơng chuyển
đổi cách tiếp cận chƣơng trình giáo dục định hƣớng nội dung sang định hƣớng
năng lực là một trong những đổi mới căn bản và tiến bộ. Vậy thế nào là năng
lực? Năng lực Ngữ văn là gì? Năng lực giao tiếp khẩu ngữ với học sinh có vai
trò quan trọng nhƣ thế nào ?
1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực giao tiếp khẩu ngữ
Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng La tinh
“competentia”. “Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố: kiến thức, kĩ
năng, thái độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác
để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống (học tập và
9
lao động)” [3, tr.3].
Năm 1972, nhà ngôn ngữ học D.H.Hymes đã đƣa ra khái niệm năng lực
giao tiếp khẩu ngữ. Ông cho rằng: “Con ngƣời trong hoạt động xã hội, giao tiếp
xã hội dần dần đã phát triển thành một loại năng lực sử dụng ngôn ngữ” bao
gồm hai mặt: năng lực ngôn ngữ và vận dụng ngôn ngữ, đó chính là năng lực
giao tiếp khẩu ngữ. Theo Hymes năng lực giao tiếp khẩu ngữ bao gồm năng
lực phán đoán nhƣ: nhìn chính xác khẩu hình, hiểu nghĩa của từ, đúng ngữ
pháp, tính thích hợp, tính khéo léo, tính thực tế, phát âm chuẩn, mô phỏng
giọng điệu.
Nhƣ vậy năng lực giao tiếp khẩu ngữ là khả năng vận dụng tri thức đã
học đƣợc vào cuộc sống thực tiễn, năng lực biểu đạt đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm,
sự hiểu biết của mình cho ngƣời khác hiểu, hoặc thông qua lời nói của mình
để thuyết phục, lôi cuốn ngƣời khác. Năng lực giao tiếp khẩu ngữ bao gồm
hai thành tố chính: Năng lực tổ chức bao gồm năng lực ngữ pháp, năng lực
diễn ngôn và năng lực ngữ dụng bao gồm năng lực ngôn ngữ xã hội và năng
lực tạo lời.
Theo Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên thì năng lực có
thể đƣợc hiểu theo hai nét nghĩa: “(1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có
sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó. (2) Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo
cho con ngƣời có khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lƣợng
cao” [37, tr.114].
Hiểu theo nét nghĩa thứ nhất, năng lực là một khả năng có thực, đƣợc
bộc lộ ra thông qua việc thành thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của ngƣời
học. Hiểu theo nét nghĩa thứ hai, năng lực là một một cái gì đó sẵn có ở dạng
tiềm năng của ngƣời học có thể giúp họ giải quyết những tình huống có thực
trong cuộc sống.
Theo định hƣớng xây dựng chƣơng trình giáo dục phổ thông mới sau
10
năm 2015, khái niệm năng lực đƣợc đề cập đến khá nhiều. Các nhà nghiên
cứu chia năng lực làm hai loại năng lực: năng lực chung là năng lực cốt lõi và
năng lực chuyên biệt. Đây là loại năng lực mà bất kỳ một học sinh nào cũng
cần đƣợc hình thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và
thách thức khi bƣớc vào cuộc sống thực. Bên cạnh đó là các năng lực chuyên
biệt do các lĩnh vực, môn học cụ thể mang lại. Tuy cách phát biểu về năng lực
có thể khác nhau nhƣng đều thống nhất trong cách hiểu về bản chất của khái
niệm này.
Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua
làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu. Tất
nhiên thực hiện ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ
năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”.
Trong công trình nghiên cứu: “Đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn
của học sinh theo hướng hình thành năng lực”của nhóm tác giả: Nguyễn Thị
Hồng Vân, Phạm Bích Đào, Nguyễn Tuyết Nga và Nguyễn Thúy Hồng (Viện
nghiên cứu Giáo dục Việt Nam) về mặt lí luận có thể xác định hai cách tiếp
cận chính về đánh giá kết quả học tập: 1: Đánh giá dựa theo chuẩn kiến thức,
kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông, cách đánh giá này thiên về
đánh giá tiếp nhận nội dung chương trình môn học; 2: Đánh giá dựa vào
năng lực: thiên về xác định mức độ năng lực của người học so với mục tiêu đề
ra của môn học. Khi đánh giá theo hướng năng lực cũng vẫn phải căn cứ vào
chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học để xác định các tiêu chí thể hiện năng
lực của người học, tuy nhiên do năng lực mang tính tổng hợp và tích hợp nên
các chuẩn kiến thức, kĩ năng cần được tổ hợp lại trong mối quan hệ nhất quán
để thể hiện được các năng lực của người học, đồng thời cần xác định những
mức năng lực theo chuẩn và cao hơn chuẩn để tạo được sự phân hóa, nhằm đo
11
được khả năng và sự tiến bộ của tất cả đối tượng người học”[3, tr.3].
Năng lực Ngữ văn có thể hiểu là năng lực tiếp nhận văn bản và năng
lực tạo lập văn bản. Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt
đƣợc các thông tin chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái
đẹp của văn bản, nhất là văn bản văn học. Đánh giá năng lực tiếp nhận thƣờng
dựa vào kết quả của hai kĩ năng chính là nghe và đọc. Năng lực tạo lập văn
bản là khả năng biết viết, nói, biết tổ chức, xây dựng một văn bản hoàn chỉnh
đúng quy cách và có ý nghĩa. Đánh giá năng lực tạo lập thƣờng dựa vào kết
quả của hai kĩ năng chính là nói và viết. Kĩ năng nói gắn liền với nghe nhƣ đã
nêu ở trên. Ngoài việc phản hồi nhanh và chính xác lại các thông tin nghe
đƣợc, nói phải rõ ràng, rành mạch, lƣu loát.
Vì vậy, để đánh giá năng lực Ngữ văn cần phải cụ thể hóa các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết thành nhiều mức độ khác nhau. Theo từng cấp học, phù
hợp với tâm lý lứa tuổi mà yêu cầu từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp.
Giao tiếp là sự tiếp xúc, giao lƣu giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, qua
đó con ngƣời bộc lộ và truyền đạt cho nhau những nhận thức, tƣ tƣởng, tình
cảm, thái độ đối với nhau và đối với điều đƣợc truyền đạt. Con ngƣời có thể
dùng nhiều phƣơng tiện để giao tiếp nhƣng ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp
quan trọng nhất.
“Năng lực giao tiếp là một trong những năng lực giúp học sinh có thể
trình bày đƣợc, diễn đạt đƣợc những suy nghĩ, quan điểm, nhu cầu, mong
muốn, cảm xúc của bản thân dƣới hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ
cơ thể một cách phù hợp với đối tƣợng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và văn hóa,
đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến ngƣời khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm. Năng lực giao tiếp giúp con ngƣời biết đánh giá tình huống và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở, bày tỏ suy nghĩ cảm
12
xúc nhƣng không làm hại hay tổn thƣơng cho ngƣời khác” [9, tr. 54].
Với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, ngôn ngữ có thể tồn tại dƣới hai
dạng nói và viết. Ở giao tiếp khẩu ngữ, ngôn ngữ tồn tại chủ yếu ở dạng nói.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Khẩu ngữ là ngôn ngữ nói thông thƣờng, dùng
trong cuộc sống hàng ngày, có đặc điểm đối lập với phong cách viết” [37, tr. 89].
Phong cách ngôn ngữ Tiếng Việt có thể chia thành: Phong cách ngôn
ngữ khẩu ngữ và phong cách ngôn ngữ gọt giũa. Khẩu ngữ là ngôn ngữ mà
con ngƣời sử dụng trong giao tiếp bằng lời nói. Khẩu ngữ đƣợc hiểu là cách
sử dụng ngôn ngữ, là công cụ giao tiếp chủ yếu của nhân loại trong các mối
quan hệ tự nhiên và xã hội. Trƣớc khi chữ viết ra đời, loài ngƣời giao tiếp với
nhau bằng lời nói, sau khi chữ viết ra đời, dựa trên cơ sở của lời nói loài
ngƣời sáng tạo ra ngôn ngữ viết.
Nhƣ vậy giao tiếp khẩu ngữ đƣợc hiểu ngắn gọn là quá trình sử dụng lời
nói để trao đổi thông tin, tình cảm với mục đích giao tiếp nhất định, là sự kết
hợp của tri thức lời nói và kĩ năng giao tiếp. Trong giao tiếp khẩu ngữ, bên
cạnh hai kĩ năng cơ bản là nghe, nói còn cần chú ý đối tƣợng, hoàn cảnh, mục
đích, nội dung giao tiếp.
1.1.2. Mục tiêu của dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh
Mục đích chính của việc giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ là để hƣớng dẫn
học sinh tìm hiểu và nắm vững ngôn ngữ để làm công cụ tƣ duy và giao tiếp.
Nói là một phần của ngôn ngữ, nói thể hiện đầy đủ hơn các đặc điểm của các
đối tƣợng ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong sự tƣơng tác giữa cá nhân và môi
trƣờng, đặc biệt là trong giao tiếp bằng lời nói với mọi ngƣời, phát triển trên
cơ sở nhận thức và tính năng thực tế giao tiếp của học sinh trong một bối cảnh
thực tế.
Mục tiêu dạy học giao tiếp khẩu ngữ là giúp học sinh có khả năng giao
tiếp hàng ngày cơ bản trong một loạt các hoạt động giao tiếp, học cách lắng
13
nghe, thể hiện và giao tiếp, tiến hành sơ bộ tìm hiểu thông tin liên lạc giữa các
cá nhân và tƣơng tác xã hội, sự phát triển của tinh thần hợp tác. Thực hiện
mục tiêu này, phù hợp với các khái niệm về chất lƣợng giáo dục. Bản chất của
chất lƣợng giáo dục là để khuyến khích học sinh để có đƣợc một sự phát triển
toàn diện và nhằm mục đích phát triển giao tiếp chất lƣợng một cách tổng thể
ở học sinh, không chỉ là lắng nghe mà còn là kỹ năng nói phát triển hợp tác,
và sức khoẻ tinh thần của học sinh, hành vi thích hợp, khả năng thích ứng và
sự hình thành của ý thức. Vì vậy, cải thiện năng lực giao tiếp của học sinh có
ý nghĩa thiết thực trong dạy học Ngữ văn.
1.1.3. Nguyên tắc của dạy học giao tiếp khẩu ngữ
Nguyên tắc thứ nhất là dạy học khẩu ngữ phải chú ý đến sự chuyển đổi
giữa ngôn ngữ và lời nói. Bởi vì tƣ duy và sự biểu đạt ý nghĩ gắn liền với sự
lựa chọn từ ngữ và mẫu câu. Do đó, nhiệm vụ của bài học về giao tiếp khẩu
ngữ là thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ ngôn ngữ sang lời nói. Ngƣời
dạy học giao tiếp khẩu ngữ trƣớc tiên phải chú trọng đến nội dung luyện tập,
những chủ điểm lựa chọn, không chỉ nghĩ tới tính thực dụng, tính giao tiếp mà
còn phải thú vị, hấp dẫn.
Nguyên tắc thứ hai là dạy học khẩu ngữ phải chú trọng và quán triệt
quy tắc hợp tác. Mục đích của dạy học khẩu ngữ là rèn luyện và nâng cao năng
lực biểu đạt khẩu ngữ cho học sinh. Nếu nhƣ cá nhân độc thoại chỉ cần chuẩn
bị tốt nội dung của lời nói, thì hội thoại phải chú ý đến sự hợp tác và điều tiết
của hai bên. Hợp tác ở đây là trình độ tri thức, năng lực tiếp thu thông tin và
hoàn cảnh xã hội khi đang giao tiếp. Nếu nội dung đàm thoại vƣợt qua phạm vi
kiến thức của đối phƣơng thì rất khó giao tiếp với nhau, lƣợng thông tin trong
một đơn vị thời gian quá nhiều hoặc chủ điểm đề cập đến không phù hợp với
hoàn cảnh xã hội của đối phƣơng thì cũng rất khó để tiến hành giao tiếp. Trong
giao tiếp phải triển khai, phát triển, chuyển đổi theo chủ đề của đối tƣợng giao
tiếp, không nên mỗi ngƣời nói một nội dung khác nhau, không có liên quan với
14
nhau. Những nguyên nhân trên đã gây ra rất nhiều khó khăn khi giáo viên vận
dụng nguyên tắc trong giờ hội thoại. Đây là những điều rất quan trọng mà
giáo viên dạy khẩu ngữ phải chú ý tới.
Nguyên tắc thứ ba là dạy học khẩu ngữ phải có đầy đủ thời gian để luyện
tập: Khẩu ngữ có nhiều đặc điểm khác các kĩ năng khác nhƣ: thời gian ngắn,
vừa nghĩ vừa nói. Từ suy nghĩ chuyển thành lời nói, đặc biệt là biểu đạt ngôn
ngữ đích phải trải qua trình tự rất nhiều khâu để lựa chọn, nếu không có một
thời gian nhất định thì không thể đạt đƣợc hiệu quả. Do đó, trong dạy học giao
tiếp khẩu ngữ, sự luyện tập của học sinh, trong một thời gian nhất định là rất
quan trọng
1.1.4. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học giao tiếp khẩu ngữ
Nắm đƣợc khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc là bƣớc đi đầu tiên của việc
dạy học giao tiếp khẩu ngữ, thực hiện thành công ý đồ giao tiếp là thƣớc đo
thể hiện hiệu quả của dạy học giao tiếp khẩu ngữ.
Giao tiếp khẩu ngữ nên đƣợc đánh giá dựa trên các mục tiêu giảng dạy,
trong ngữ cảnh cụ thể, bằng cách cho phép học sinh thực hiện nhiệm vụ giao
tiếp có ý nghĩa, điều chỉnh để cải thiện hành vi. Đánh giá ở học sinh các kỹ
năng giao tiếp, cần chú ý kiểm tra ý thức tham gia và đánh giá thái độ tình
cảm của học sinh phải đƣợc thực hiện trong bối cảnh cụ thể của thông tin liên
lạc, để học sinh thực hiện nhiệm vụ giao tiếp có ý nghĩa.
* Khi thực hiện đánh giá giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ phải dựa trên sự
phát triển của học sinh với mục đích kiến thức và kỹ năng, quy trình và
phƣơng pháp, thái độ và tình cảm, đƣa ra các mục tiêu, đánh giá là không chỉ
quan tâm đến kĩ năng nghe, nói của cá nhân học sinh, mà còn phải quan tâm
đến học sinh trong quá trình giao tiếp đƣợc chứng minh bởi khả năng toàn
diện. Không chỉ quan tâm đến khả năng của học sinh trong giao tiếp, mà còn
15
quan tâm đến mức độ học sinh quan tâm đến giao tiếp, chủ động giao tiếp tích
cực, tham gia vào các hoạt động thực tế có ý thức, cảm xúc và thái độ của học
sinh trong quá trình giao tiếp.
* Đánh giá phải đƣợc thực hiện trong các tình huống giao tiếp cụ thể. Khả
năng giao tiếp khẩu ngữ là một khả năng toàn diện, bao gồm nghe, biểu hiện,
nhƣng cũng tùy theo hoàn cảnh thể hiện bởi khả năng đáp ứng, theo các dịp
và các đối tƣợng, nghi thức giao tiếp khác nhau. Chúng ta phải tạo ra một tình
huống giao tiếp cụ thể cho học sinh, vì vậy đánh giá năng lực giao tiếp khẩu
ngữ cho học sinh cần trình bày tổng thể, khách quan và đánh giá toàn diện.
* Đánh giá phải đƣợc thiết kế để giao tiếp có ý nghĩa. Giao tiếp dựa trên
nhu cầu tƣơng tác của con ngƣời, học sinh chủ động thúc đẩy giao tiếp giữa
các cá nhân tích cực và hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình giao tiếp giữa con
ngƣời không phải là quá trình đào tạo, mà là một quá trình thông tin liên lạc
có ý thức có mục đích. Vì vậy, đánh giá việc giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ
không thể đánh giá một năng lực duy nhất, mà nên đƣợc thiết kế để có một
nhiệm vụ giao tiếp có ý nghĩa cho học sinh khi hoàn thành khóa học để chứng
minh khả năng giao tiếp của họ một cách chất lƣợng và toàn diện, nhằm phản
ánh tốt hơn cá tính, năng lực cũng nhƣ khả năng giao tiếp của học sinh.
1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa
Ngữ văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang
1.2.1. Thực trạng định hƣớng dạy học của một số giáo án, thiết kế bài
“Trình bày một vấn đề” SGK Ngữ văn 10 tập 1
a) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên
Ngữ văn 10
Bài học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên Ngữ văn 10 đƣợc
trình bày theo hai mục lớn là: mục tiêu bài học và những điều cần lƣu ý. Sách
giáo viên đã xác định mục tiêu bài học trên phƣơng diện kiến thức và thái độ.
16
Trong đó, mục tiêu thứ hai là phần thái độ giúp học sinh có thái độ mạnh dạn,
bình tĩnh và tự tin khi trình bày một vấn đề đã thể hiện mục tiêu nâng cao
năng lực giao tiếp khẩu ngữ một cách rõ rệt. Sau tiết học học sinh sẽ biết cách
thức trình bày một vấn đề và khả năng ứng biến linh hoạt trong giao tiếp hằng
ngày. Tuy nhiên, sách giáo viên đã thiếu về mục tiêu kĩ năng cho học sinh,
phải giúp học sinh nhận ra các tình huống cần trình bày một vấn đề và lập
đƣợc đề cƣơng và trình bày trƣớc tập thể.
Về nội dung, sách giáo viên xác định gồm ba đơn vị kiến thức: Tầm
quan trọng của việc trình bày một vấn đề; Công việc chuẩn bị; Trình bày.
Phần đầu chỉ lƣớt qua để tập trung vào hai phần sau, đặc biệt là phần sau
cùng. Bài học có sự đan xen giữa lí thuyết và luyện tập vậy phƣơng pháp dạy
học là thông qua việc hƣớng dẫn học sinh tiến hành các công việc chuẩn bị và
trực tiếp trình bày một đề tài cụ thể trƣớc lớp mà hình thành cho các em nội
dung công việc và cách thức tiến thành trình bày. Sau khi hình thành các nội
dung trên, cần tổ chức cho học sinh luyện tập để củng cố khắc sau kiến thức
và hình thành kĩ năng trình bày một vấn đề. Đây là phƣơng pháp phù hợp với
một tiết dạy học Làm văn có sự đan xen giữa lí thuyết và luyện tập. Ngoài ra
có thể thêm vào một số phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực thông qua
các hoạt động của học sinh nhằm nâng cao năng lực Ngữ văn và năng lực
giao tiếp khẩu ngữ. Tiến trình tổ chức dạy học cuốn sách giáo viên chia ra làm
bốn bƣớc: Nhận thức tầm quan trọng của việc trình bày một vấn đề; Nhận biết
những công việc chuẩn bị cho việc trình bày một vấn đề; Tiến hành trình bày;
Luyện tập. Bốn bƣớc trên đƣợc thực hiện với từng công việc cụ thể của giáo
viên và học sinh kèm theo các phƣơng pháp nhƣ diễn giảng, đặt tình huống,
phát vấn… Nhìn chung tiến trình tổ chức dạy đƣa ra khá phù hợp, tuy nhiên
hoạt động của học sinh chƣa đƣợc chú ý khai thác, thời gian cho các em thực
hành trên lớp là rất ít.
Phần kiểm tra đánh giá, gợi ý giải bài tập trong sách giáo viên đƣợc đƣa
17
ra cụ thể chi tiết, với dàn ý mẫu với đề tài “An toàn giao thông” đã phần nào
đáp ứng đƣợc yêu cầu luyện tập cho bài học, nhƣng các bài tập tạo lập văn
bản nói của học sinh này cần quan tâm chú ý hơn nữa, giáo viên cần nhanh
chóng phát hiện những biểu hiện, suy nghĩ lệch lạc của học sinh để kịp thời
uốn nắn, sửa chữa.
Nhìn chung, tiết học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên Ngữ
văn 10 đƣợc hƣớng dẫn khá cụ thể, chi tiết, phƣơng phƣơng và tiến trình dạy
học phù hợp với một tiết dạy học Làm văn có sự đan xen giữa lí thuyết và
luyện tập. Tuy nhiên, về lý thuyết học sinh đã có thể nắm đƣợc kiến thức bài
giảng, nhƣng còn yếu về kĩ năng trình bày một vấn đề trƣớc tập thể và năng
lực giao tiếp khẩu ngữ vì các hoạt động cho các em thực hành giao tiếp trong
lớp còn ít, các phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực nhằm nâng cao năng
lực giao tiếp khẩu ngữ chƣa đƣợc khai thác sử dụng.
b) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách “Thiết kế
bài giảng Ngữ Văn 10” Nguyễn Văn Đƣờng (chủ biên)
Về cấu trúc, các giáo án này đã đƣa ra mục tiêu cần đạt của tiết học bao
gồm: kiến thức, kĩ năng, thái độ, trong đó mục tiêu nâng cao năng lực giao
tiếp khẩu ngữ cho học sinh đƣợc chú trọng. Cách thức tiến hành bài học đƣợc
trình bày cụ thể: giáo viên hƣớng dẫn cho học sinh khai thác ngữ liệu, trả lời
câu hỏi, thảo luận nhóm để từ đó rút ra những vấn đề quan trọng của bài học,
trình bày những vấn đề gần gũi trong thực tế đời sống có hiệu quả… đây cũng
là phƣơng pháp dạy học chủ yếu đƣợc sử dụng trong tiết học cung cấp lý
thuyết gắn liền với thực hành. Tiến trình dạy học đƣợc chia thành các hoạt
động cụ thể, giáo án đƣợc chia cột, hoạt động của giáo viên và học sinh bố trí
theo nội dung và phƣơng pháp dạy học. Các ví dụ, bài mẫu đƣợc trích dẫn
phong phú đa dạng. Ngoài ra, có các bài đọc tham khảo sau tiết học.
Về nội dung, các thiết kế đã bám sát chƣơng trình, hệ thống hóa, cụ thể
18
hóa nội dung kiến thức bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa và
sách giáo viên Ngữ văn 10 tập 1. Hệ thống hóa hoạt động dạy học của giáo
viên bằng nhiều hình thức phong phú. Cả học sinh và giáo viên đều hoạt động
liên tục trong suốt 45 phút của giờ học, trong đó giáo viên là ngƣời hƣớng
dẫn, định hƣớng học sinh khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học. Hệ thống
câu hỏi về hình thức khá đa dạng, về nội dung đã bám sát lí thuyết nhằm củng
cố cho học sinh khắc sâu lí thuyết, nâng cao năng lực sử dụng Tiếng Việt cho
học sinh. Tuy nhiên, các hoạt động, hệ thống câu hỏi về nội dung lí thuyết vẫn
chiếm phần lớn thời gian nên thời gian thực hành giao tiếp cho học sinh trên
lớp và thời gian làm bài tập thực hành còn eo hẹp.
Bài học “Trình bày một vấn đề” giúp ngƣời học có đƣợc những kĩ thuật
cần thiết để có thể lập dàn ý và tự tin trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hoặc
ngƣời khác. Bên cạnh đó chúng ta có thể nhận thấy với những gì mà phần
kiến thức này cung cấp đã góp phần rèn giũa cho học sinh biết cách ứng xử
linh hoạt trong quá trình giao tiếp và nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ.
Tuy nhiên, các thiết kế trên còn nặng về hình thành lí thuyết, coi trọng việc
truyền thụ các đơn vị kiến thức: tầm quan trọng của việc trình bày một vấn
đề; những công việc chuẩn bị cho việc trình bày một vấn đề, chƣa chú trọng
đầy đủ đến việc luyện tập, rèn luyện thực hành nâng cao khả năng diễn đạt
cho các em học sinh. Thời gian phần thực hành, luyện tập khả năng giao tiếp
cho học sinh còn eo hẹp. Các giáo án này hoạt động của học sinh đƣợc tiến
hành chủ yếu dƣới dạng thực hiện nhiệm vụ của giáo viên chứ chƣa tự giác
rèn luyện khả năng nói của mình. Do vậy, kĩ năng trình bày một vấn đề của
các em học sinh lớp 10 chƣa đảm bảo độ thành thạo, thuần thục, chƣa có ý
19
thức tự giác nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong cuộc sống.
c) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong giáo án ở một
số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang
Trong quá trình thực nghiệm, thực hiện luận văn chúng tôi đã sƣu tầm
đƣợc một số giáo án, thiết kế dạy học bài bài “Trình bày một vấn đề” trong
sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1, ở một số trƣờng trung học phổ thông trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Về ƣu điểm: Các giáo án đã thể hiện đƣợc đúng, đầy đủ tinh thần của
một giáo án bao gồm 5 bƣớc cơ bản trong tiến trình dạy học đó là: Ổn định
lớp, Kiểm tra bài cũ; Bài mới; Củng cố dặn dò; Hƣớng dẫn học bài ở nhà.
Phần mục tiêu bài học của các giáo án đã đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, trong
đó đã đề cao mục tiêu rèn luyện kĩ năng trình bày cho học sinh, giáo án 2 cột
thể hiện cụ thể những công việc mà giáo viên và học sinh phải làm đồng thời
đề ra mục tiêu cần đạt ở mỗi nội dung. Bài học đƣợc chia ra các hoạt động
nhỏ phù hợp với yêu cầu của bài học. Phần dẫn dắt, chuyển ý của từng phần
diễn ra khá chi tiết. Qua sự thể hiện của giáo án, các em học sinh phần nào
lĩnh hội đƣợc kiến thức mới.
Về nhƣợc điểm: Những giáo án chƣa chú trọng vào hoạt động của học
sinh, các em còn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức mới. Những hoạt
động nhằm đa dạng hóa hình thức dạy học còn ít, tập trung vào phƣơng pháp
phát vấn, diễn giảng. Có nhiều giáo án không chia thời gian cụ thể cho từng
hoạt động trong bài dạy. Phần cho học sinh thực hành chƣa đƣợc đầu tƣ quan
tâm sáng tạo, học sinh chƣa đƣợc thực hành nhiều, khả năng các em có thể tự
tin trình bày vấn đề trƣớc đám đông là thấp. Xét theo yêu cầu đổi mới về
phƣơng pháp giảng dạy hƣớng tới phát triển năng lực cho học sinh, thì các
giáo án trên chƣa đáp ứng hoàn toàn các tiêu chí. Nhƣ phần trên đã nêu, đánh
giá năng lực của học sinh là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua
20
làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu.
Và việc vận dụng ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ
năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”.
Bên cạnh đó, thông qua những giáo án này việc hình thành cho học
sinh năng lực Ngữ văn là điều khó khăn. Học sinh cần phải đƣợc hình thành
năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực tạo lập văn bản. Năng lực tiếp nhận
văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt đƣợc các thông tin chủ yếu, những giáo
án trên phần nào đã giúp học sinh lĩnh hội đƣợc kiến thức mới. Tuy nhiên, về
năng lực tạo lập văn thì học sinh chắc chắn sẽ gặp nhiều lúng túng. Đối với
bài học này, cách tạo lập một văn bản nói là điều vô cùng quan trọng, nói phải
rõ ràng, rành mạch, lƣu loát; từ nói đúng, nói hay đến nói hùng biện…
Xét về mục đích bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh
lớp 10 với các tiêu chí: Ngôn ngữ diễn đạt; thái độ biểu cảm; trình bày suy
nghĩ, ý tƣởng; lắng nghe và phản hồi; đồng cảm và chia sẻ các ý kiến; khả
năng ứng xử, tự điều chỉnh thì các giáo án trên chƣa thật sự đáp ứng đƣợc
mục tiêu đề ra.
1.2.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” tại một số trƣờng
trung học phổ thông tại tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc có tới 70% diện tích là đồi núi,
tỉnh với 29 trƣờng trung học phổ thông, là địa bàn có nhiều học sinh dân tộc
thiểu số (khoảng 64%), việc bồi dƣỡng kĩ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học
sinh trung học phổ thông là một việc tƣơng đối khó khăn vì vốn tiếng Việt
của học sinh không đồng đều.
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu, dự
giờ và khảo sát bằng phiếu điều tra với 16 giáo viên và 100 học sinh về nội
dung dạy học giao tiếp khẩu ngữ trong giờ dạy môn Ngữ văn ở 2 trƣờng trung
học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang:
Trƣờng trung học phổ thông Chuyên Tuyên Quang, thành phố Tuyên
21
Quang: 8 giáo viên và 65 học sinh
Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên
Quang: 8 giáo viên và 35 học sinh
Kết quả và ý nghĩa rút ra từ cuộc điều tra nhƣ sau:
Về phía giáo viên:
Qua khảo sát giảng dạy nội dung giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn
ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang, có thể thấy rằng việc
dạy học Ngữ văn theo định hƣớng phát triển năng lực cụ thể là phát triển năng
lực giao tiếp khẩu ngữ đã và đang đƣợc quan tâm chú trọng. Các giáo viên bộ
môn trƣớc hết cho rằng trong sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông,
các bài học về đọc hiểu tác phẩm, tiếng Việt và Làm văn đƣợc sắp xếp đan
xen nhau, hỗ trợ cho nhau. Thông qua tri thức của ba phân môn mà năng lực
đọc văn và làm văn của học sinh đƣợc hình thành và rèn luyện đồng bộ. Đồng
thời qua việc rèn luyện kĩ năng đọc văn, làm văn mà củng cố và phát triển
năng lực giao tiếp khẩu ngữ. Các nội dung đƣợc đƣa vào chƣơng trình dạy
học là những nội dung tiêu biểu cho việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói của
giao tiếp khẩu ngữ. Nhìn chung, giáo viên đã nhận thức rõ những điểm không
phù hợp của phƣơng pháp dạy học truyền thống trong dạy học văn, kết hợp
với việc đƣợc trang bị đầy đủ và khá cơ bản về lý thuyết dạy học theo hƣớng
tích cực, đổi mới… cho nên hầu hết các giáo viên đã tổ chức lớp học khá linh
hoạt, đã tránh đƣợc lối dạy học đọc chép, thuyết giảng một chiều, đã coi trọng
nhu cầu tiếp nhận tri thức của ngƣời học; đã vận dụng linh hoạt các phƣơng
pháp và hình thức dạy học để phát huy năng lực giao tiếp khẩu ngữ ở học
sinh. Ngƣời giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, khơi gợi, nêu vấn đề, học sinh
chủ động lĩnh hội vận dụng tri thức để giao tiếp. Việc dạy học đã có sự đổi
mới khá rõ ràng, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy năng lực
giao tiếp khẩu ngữ cho các em học sinh
Những nội dung giao tiếp khẩu ngữ đƣợc giảng dạy là những nội dung
22
tiêu biểu cho tác dụng mở rộng khả năng giao tiếp khẩu ngữ qua các bài học
về đất nƣớc, con ngƣời, văn hóa, văn học, giúp học sinh có cái nhìn bao quát
hơn đối với những đóng góp và vai trò của giao tiếp khẩu ngữ trong hoạt động
giao tiếp cũng nhƣ trong hoạt động học tập, bồi dƣỡng cho các em kĩ năng và
năng lực giao tiếp khẩu ngữ, góp phần xây dựng khả năng sử dụng ngôn ngữ
khẩu ngữ và phát triển tƣ duy cho các em.
Tuy nhiên, việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ tuy đã đƣợc đề cập tới trong
chƣơng trình và sách giáo khoa nhƣng chƣa đƣợc hƣớng dẫn cụ thể về thiết kế
hoạt động học tập cũng nhƣ sự phổ biến trong các tƣ liệu tham khảo…làm
cho việc dạy học nội dung này trong nhà trƣờng phổ thông gặp một số khó
khăn. Cô giáo Nguyễn Thị Mến là giáo viên dạy Ngữ văn có trên 10 năm kinh
nghiệm giảng dạy tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn
Dƣơng cho rằng, mặc dù chƣơng trình đã giảm tải nhƣng khối lƣợng kiến
thức cần truyền thụ trong mỗi tiết học về giao tiếp còn nhiều (có khi trích dẫn
ngữ liệu dài nhƣ bài 5 phần luyện tập [6, tr. 22]), nên họ gặp rất nhiều khó
khăn khi giảng dạy, nhất là khi yêu cầu đổi mới về phƣơng pháp giảng dạy là
dạy học hƣớng tới phát triển năng lực Ngữ văn cho học sinh, chú ý tới năng
lực giao tiếp khẩu ngữ”. Sở dĩ giáo viên có sự nhìn nhận nhƣ vậy đối với nội
dung dạy học giao tiếp trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông bởi
chƣa có sự trình bày cụ thể về lý thuyết trong chƣơng trình và sách giáo khoa
Ngữ văn nên chƣa có sự nhận thức đầy đủ. Giáo viên vẫn còn thuyết giảng
nhiều, dẫn đến tình trạng học sinh ít đƣợc làm việc, ít có cơ hội đƣợc bày tỏ ý
kiến của mình trong giờ học, có giáo viên sử dụng hình thức trao đổi, thảo
luận…nhƣng hình thức dạy học này chỉ đƣợc vận dụng ở những bài học cụ
thể, những suy nghĩ, cách diễn đạt, trình bày vấn đề của cá nhân học sinh ít
đƣợc giáo viên quan tâm tới. Đồng thời, giáo viên gặp khó khăn hơn khi phải
dành nhiều thời gian cho việc thực hành của học sinh, nội dung giảng dạy
giao tiếp khẩu ngữ đƣợc cho rằng là một trong những nội dung khó truyền tải,
23
nội dung chủ đề luyện nói cho học sinh còn hạn hẹp. Việc này dẫn đến hiệu
quả của dạy học giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học
phổ thông chƣa đạt hiệu quả cao.
Chúng tôi đã quan sát cách thức tiến hành một giờ dạy về bồi dƣỡng
năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh thƣờng đƣợc tiến hành theo hình
thức: giáo viên giới thiệu bài học, nêu mục đích yêu cầu bài học, đọc mẫu
từng văn bản hoặc đoạn văn rồi học sinh đọc theo. Giáo án yêu cầu học sinh
trả lời các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa về nội dung của văn bản hoặc
ngữ liệu và làm một số bài tập ngữ pháp. Vì thế vẫn chƣa hoàn toàn khắc
phục đƣợc tình trạng thầy diễn giảng, còn học sinh nghe và ghi chép theo. Do
vậy, hiện nay, đối với việc dạy học Ngữ văn nhằm phát triển năng lực giao
tiếp cho học sinh, đa phần các giáo viên đang cố gắng truyền tải những nội
dung chủ đề có sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh mà chƣa chủ động tìm
ngữ liệu, dẫn chứng từ thực tế cuộc sống gần gũi cho các em, giáo viên chƣa
có nhiều sáng tạo để bài học đƣợc sinh động, mới mẻ hơn.
Về phía học sinh:
Qua quá trình tìm hiểu và dự giờ, bƣớc đầu chúng tôi nhận thấy đa số
các em tỏ ra khá hào hứng sôi nổi khi học những bài liên quan tới hoạt động
giao tiếp, đặc biệt là với các bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” và bài
“Trình bày một vấn đề” [6, tr. 21]. Các em cho rằng nội dung bài học có nhiều
tình huống thú vị. Hầu hết các em có soạn bài trƣớc khi đến lớp, trong giờ học
có ý thức xây dựng bài.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu kĩ hơn, chúng tôi nhận thấy hạn chế lớn nhất của
học sinh là thói quen thụ động trong quá trình học tập: quen nghe, chép, ghi
nhớ và tái hiện những gì giáo viên nói, gợi ý. Số đông học sinh chƣa có thói
quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu chƣa đƣợc giao nhiệm vụ hoặc
nếu có đƣợc giao nhiệm vụ cụ thể thì còn lúng túng khi độc lập giải quyết vấn
đề. Phần lớn học sinh khi chuẩn bị soạn bài, đều lệ thuộc vào các tài liệu học
tốt, các mẫu có sẵn trên internet hoặc nhờ ngƣời khác làm hộ. Thói quen dựa
vào cách hiểu, cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt… của tài liệu, hay của
24
ngƣời khác đã hạn chế rất nhiều năng lực sáng tạo của học sinh. Vì vậy, trong
giờ học, nhiều em tỏ ra lơ đãng không nghe giảng, nói chuyện với bạn học
hoặc nghịch ngầm, khi giáo viên gọi đứng dậy trả lời câu hỏi thì các em trả
lời theo lời bạn nhắc, có sẵn trong tài liệu, mới thoạt nghe thì các em trả lời
đúng, có hiểu bài nhƣng thật sự các em không chú ý vào bài giảng, không
suy nghĩ trả lời câu hỏi, mà trả lời nhƣ một cái máy đọc những cái có sẵn
trong tài liệu. Đặc biệt, khi lên bảng kiểm tra bài cũ, đối với những câu hỏi
yêu cầu nhắc lại nội dung ghi nhớ của bài học trƣớc thì các em trả lời đƣợc,
nhƣng đến phần yêu cầu trình bày một vấn đề, nói về một chủ đề mà em yêu
thích thì rất nhiều em tỏ ra lúng túng, trả lời sai, hoặc làm theo những khuôn
mẫu có sẵn đã đƣợc cung cấp từ sách giáo khoa, sách tham khảo hoặc bắt
trƣớc theo giáo viên.
Bên cạnh đó hình thức kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn hiện nay
chƣa vận dụng hình thức kiểm tra khách quan, hình thức thi nói vào đánh giá
kết quả học tập môn Ngữ văn. Vì thế, học sinh chƣa có đƣợc những hoạt động
giao tiếp khẩu ngữ một cách cụ thể và sự tự ý thức, tìm tòi, chiếm lĩnh kiến
thức bài học ở các em còn hạn chế.
Kết quả và ý nghĩa rút ra từ cuộc điều tra nhƣ sau:
Bảng 1.2: Nhận thức của giáo viên và học sinh về nội dung dạy học giao
tiếp khẩu ngữ trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông
Mức độ nhận thức Số Tƣơng đối đầy STT ĐTKS ngƣời Đầy đủ Không đầy đủ đủ khảo sát SL TL SL SL TL TL
1 GV 16 5 31,25% 8 3 18,75% 50%
2 HS 100 31 31% 39 30 30% 39%
Từ bảng thống kê ở trên, chúng tôi nhận thấy đa số giáo viên và học sinh
đƣợc điều tra có nhận thức tƣơng đối đầy đủ về nội dung dạy học giao tiếp khẩu
25
ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là: 45/116 chiếm 38,79%.
Số giáo viên và học sinh có nhận thức đầy đủ về nội dung dạy học giao tiếp
khẩu ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là: 36/116 chiếm
31,03%. Số giáo viên và học sinh có nhận thức không đầy đủ về nội dung dạy
học giao tiếp khẩu ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là
33/116 chiếm 30,18%.
Bảng 2.2: Các năng lực cơ bản được giáo viên và học sinh quan tâm rèn
luyện trong giờ học môn Ngữ văn.
Năng lực cơ bản
Tạo lập văn Cảm thụ văn STT ĐTKS Đọc hiểu Nghe nói bản chƣơng
SL TL SL TL SL TL SL TL
GV 1 4 25% 3 18,75% 5 31,25% 4 25% (16)
HS 2 40 40 % 15 15% 25 25% 20 21% (100)
Từ bảng thống kê trên cho thấy đa số giáo viên và học sinh đều cho rằng
trong giờ học môn Ngữ văn năng lực đƣợc quan tâm rèn luyện là năng lực đọc
hiểu văn bản: 44/116 chiếm: 37,9%. Năng lực tạo lập văn bản: 30/116 chiếm:
25,86%. Năng lực cảm thụ văn chƣơng: 24/116 chiếm: 20,69% và số giáo viên
26
và học sinh cho rằng năng lực nghe nói: 18/116 chiếm: 15,55%.
Bảng 3.2: Khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học sinh qua bài “Trình bày
một vấn đề” trong sách giáo khoa lớp 10 tập 1 ở một số trường trung học phổ
thông tỉnh Tuyên Quang.
Mức độ
Thƣờng xuyên Hiếm khi Thỉnh thoảng Không bao giờ
(SL) (SL) (SL) (SL)
Tiêu chí
Khó khăn khi diễn 16 10 64 10 đạt ý kiến
Mắc lỗi khi phát âm 8 25 58 9
Tự tin khi phát biểu, 12 40 28 20 thuyết trình
Tích cực tham gia
hoạt động ngoại 10 42 33 15
khóa
Từ bảng thống kê, chúng ta thấy khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học
sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10
đƣợc thể hiện qua các tiêu chí nhƣ sau:
Tiêu chí: Khó khăn khi diễn đạt ý kiến, cao nhất ở mức độ thỉnh thoảng
chiếm 64%.
Tiêu chí: Mắc lỗi khi phát âm, cao nhất ở mức độ thỉnh thoảng chiếm 58%.
Tiêu chí: Tự tin khi phát biểu, thuyết trình, cao nhất ở mức độ hiếm khi
chiếm 40%.
Tiêu chí: Tích cực tham gia hoạt động ngoại khóa, cao nhất ở mức độ
27
hiếm khi chiếm 42%.
Bảng 4.2: Các hoạt động được tổ chức trong giờ học “Trình bày một vấn
đề” nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 10.
Hoạt động cơ bản
Thuyết trình, Hoạt động S Thuật việc, kể ĐTKS Viết đoạn văn luyện nói nhóm, thảo T chuyện theo chủ đề luận T
SL TL SL TL SL TL SL TL
GV 1 6,25% 3 18,75% 9 56,25% 3 18,75% 1 (16)
HS 15 15 % 35 35% 30 30% 20 20% 2 (100)
Hình thức tổ chức các hoạt động trong giờ học “Trình bày một vấn đề” khá
đa dạng và phong phú, giáo viên có thể kết hợp nhiều hoạt động khác nhau nhằm
rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong giờ dạy bao gồm: hoạt
động thuyết trình, luyện nói theo chủ đề có 39/116 chiếm 33,62%; hoạt động viết
đoạn văn: 38/116 chiếm 32,8%; hoạt động nhóm: 23/116 chiếm 19,83% và hoạt
28
động thuật việc kể chuyện 16/116 chiếm 13,75%.
Bảng 5.2: Đánh giá của giáo viên và học sinh về nguyên nhân ảnh hưởng
đến vấn đề rèn luyện giao tiếp khẩu ngữ của học sinh trong giờ học “Trình
bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 tại một số trường trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.
Thứ Kết quả bậc STT Các nguyên nhân GV (16) HS (100)
SL TL SL TL
Tâm lý ngại giao tiếp, thiếu tự tin 1 9 56,25% 80 80% 1 trong giao tiếp khẩu ngữ
Không có những kiến thức nền
2 tảng về ngôn ngữ giao tiếp và thiếu 4 25% 30 30% 4
tài liệu tham khảo
Bản thân học sinh chƣa tích cực
3 rèn luyện thƣờng xuyên để nâng 8 50% 60 60% 2
cao khả năng giao tiếp khẩu ngữ
Giáo viên chƣa dành nhiều thời
4 gian cho học sinh thực hành giao 5 31,25% 20 20% 7
tiếp khẩu ngữ
Các thành viên trong lớp học chƣa
5 tích cực rèn luyện giao tiếp khẩu 4 25% 25 25% 6
ngữ
Chủ đề, đề tài luyện nói còn hạn 6 2 12,5% 30 30% 5 hẹp
29
Hoạt động ngoại khóa về giao tiếp 7 5 31,25% 30 30% 3 khẩu ngữ chƣa đƣợc chú trọng
Theo số liệu thống kê cho thấy trong số 100 em học sinh đƣợc điều tra
thì 50% học sinh đến từ thành phố, 20% học sinh đến từ vùng đồng bằng nông
thôn và 30% đến từ miền núi, trong đó có 60% học sinh là ngƣời dân tộc thiểu
số. Từ đó rút ra đƣợc kết luận học sinh đến từ những vùng khác nhau trong
cùng một tỉnh sẽ có sự khác biệt nhau về khả năng giao tiếp khẩu ngữ.
Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến vấn đề rèn luyện giao
tiếp khẩu ngữ của học sinh một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên
Quang là do tâm lý ngại giao tiếp, thiếu tự tin trong giao tiếp khẩu ngữ,
nguyên nhân thứ hai là bản thân học sinh chƣa tích cực rèn luyện thƣờng
xuyên để nâng cao khả năng giao tiếp khẩu ngữ, rồi đến lý do hoạt động ngoại
khóa về giao tiếp khẩu ngữ chƣa đƣợc chú trọng và không có những kiến thức
nền tảng về ngôn ngữ giao tiếp và thiếu tài liệu tham khảo. Điều đó chứng tỏ:
nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến vấn đề rèn luyện giao tiếp khẩu ngữ của
học sinh nhìn chung xuất phát từ chính bản thân các em là tâm lý ngại giao
tiếp, chƣa quyết tâm, kiên trì và chƣa quan tâm thực sự đến học tập…
Thông qua hệ thống phiếu điều tra, chúng tôi đã rút ra đƣợc những kết
quả sau:
Một là khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học sinh ở một số trƣờng trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang là không cao, điều này thể hiện hầu hết học
sinh có khả năng giao tiếp khẩu ngữ ở mức trung bình.
Hai là hiệu quả của việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách
giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thông chƣa cao.
Ba là có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ
trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thông chƣa có hiệu quả cao,
nhƣng nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ chính bản thân các em học sinh và
30
cách thức dạy học của giáo viên.
Chƣơng 2
THIẾT KẾ DẠY HỌC BÀI “TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ” THEO
ĐỊNH HƢỚNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ
CHO HỌC SINH
Nếu nhƣ chƣơng 1 đã trình bày một số cơ sở lí luận và thực tiễn của việc
bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ, thì chƣơng 2 của luận văn sẽ đề cập
đến việc thiết kế những hoạt động dạy và học trong bài “Trình bày một vấn
đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1), nhằm nâng cao năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh
Tuyên Quang.
2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao
tiếp khẩu ngữ cho học sinh
2.1.1. Phƣơng pháp dạy học tích cực với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp
khẩu ngữ cho học sinh
Phƣơng pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ đƣợc dùng ở nhiều nƣớc
để chỉ những phƣơng pháp giáo dục, dạy học, theo hƣớng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của ngƣời học. “Tích cực” trong phƣơng pháp dạy
học tích cực đƣợc dùng với nghĩa hoạt động, chủ động trái nghĩa với không
hoạt động, thụ động. Phƣơng pháp dạy học tích cực hƣớng tới việc hoạt động
hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của ngƣời học, tức là tập trung và phát
huy tính tích cực của ngƣời học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính
tích cực của ngƣời dạy.
Các đặc trƣng cơ bản của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực có
ảnh hƣởng không nhỏ tới việc nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho các
em học sinh. Phƣơng pháp dạy học tích cực nhằm phát huy cao nhất tính tích
cực, chủ động, độc lập, sáng tạo trong học tập của ngƣời học dƣới vai trò tổ
chức, hƣớng dẫn của giáo viên, việc lựa chọn một phƣơng pháp hay hoạt động
31
cụ thể phụ thuộc vào mục tiêu và nội dung bài học cụ thể. Nhằm đa dạng hóa
hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho các em học sinh, giáo viên có thể sử
dụng một cách linh hoạt các đặc trƣng cơ bản của dạy học theo hƣớng tích
cực để nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ.
Bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ
văn rất có ích đối với sự phát triển và trƣởng thành của học sinh, giúp học
sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung quanh. Đồng thời, giúp học sinh
tự tin hơn vào bản thân trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng nhƣ định
hƣớng nghề nghiệp trong tƣơng lai. Điểm mấu chốt để giúp học sinh phát
triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong giờ học Ngữ văn thì ngƣời giáo viên
cần phải có những biện pháp huy động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích
luỹ, rèn tập đƣợc có liên quan đến nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy
có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế chủ động cho học sinh trong việc tiếp thu bài
mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh
nhƣ: thực hành giao tiếp, thảo luận, trần thuật, tranh luận , thuyết trình , quan sát và thực hành theo mẫu , tự tin trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hoặc
trƣớc ngƣời khác để khám phá kiến thức mới, thông qua đó mà rèn luyện
đồng thời bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, chú trọng hơn về kĩ năng nghe, nói
để phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.
Dạy học theo hƣớng tích cực có bốn đặc trƣng:
Thứ nhất, dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Dạy
học theo hƣớng tích cực dựa trên cơ sở của tâm lí học cho rằng nhân cách của
trẻ đƣợc hình thành thông qua các hoạt động chủ động, thông qua các hoạt
động có ý thức. Trí thông minh của trẻ phát triển nhờ vào sự đối thoại giữa
chủ thể hoạt động với đối tƣợng và môi trƣờng. Trong phƣơng pháp dạy học
tích cực, ngƣời học là đối tƣợng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của
32
hoạt động học đƣợc cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức
và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chƣa rõ chứ
không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã đƣợc giáo viên sắp đặt sẵn.
Đƣợc đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, ngƣời học trực tiếp
quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy
nghĩ của mình, từ đó nắm đƣợc kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm đƣợc phƣơng
pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có,
đƣợc bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên
không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hƣớng dẫn hành động. Khả
năng hành động là một yêu cầu đƣợc đặt ra không chỉ đối với từng cá nhân
mà cả ở cấp độ cộng đồng toàn địa phƣơng và toàn xã hội.
Đối với việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa
Ngữ Văn 10, phƣơng pháp dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học
sinh là cách thức tiến hành hoàn toàn phù hợp. Giáo viên đƣa ra các tình
huống, vấn đề buộc học sinh phải tự mình tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội tri
thức mới. Đó là các tình huống gần gũi, trong môi trƣờng học tập và sinh
sống của học sinh. Giáo viên nên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc theo
nhóm để tìm tòi, sƣu tầm các tƣ liệu liên quan tới vấn đề đƣợc giao một cách
chủ động. VD: giáo viên đƣa ra vấn đề “Giới thiệu cho bạn bè quốc tế về
chiếc áo dài Việt Nam”, học sinh sẽ chủ động tìm hiểu thông tin, số liệu để
nói lên suy nghĩ của bản thân, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách riêng của
mình. Cách các em giải quyết vấn đề chính là quá trình các em sáng tạo, tự
bộc lộ bản thân. Tuy nhiên, vai trò của ngƣời giáo viên không chỉ dừng lại ở
đó, giáo viên còn là ngƣời dẫn dắt, định hƣớng cho học sinh biết cách nói ra
suy nghĩ của mình và điều chỉnh uốn nắn học sinh theo hƣớng tích cực.
Thứ hai, dạy học chú trọng phƣơng pháp tự học. Dạy học theo hƣớng
tích cực xem việc rèn luyện phƣơng pháp tự học cho học sinh không chỉ là
33
một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong các phƣơng pháp học thì cốt lõi là phƣơng pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho ngƣời học có đƣợc phƣơng pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con ngƣời, kết
quả học tập sẽ đƣợc nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay ngƣời ta nhấn mạnh
mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ
học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay
trong trƣờng phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả
trong tiết học có sự hƣớng dẫn của giáo viên. Làm đƣợc nhƣ vậy thì không
những kết quả học tập đƣợc nhân lên mà ngƣời học còn đƣợc chuẩn bị tự học
khi đã vào đời, dễ dàng thích ứng với cuộc sống lao động, công tác xã hội.
Ngày nay, ngƣời ta nhấn mạnh hoạt động trong quá trình dạy học, cố
gắng tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động. Chính
vì vậy, trong dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ
Văn 10 phải chú trọng hơn nữa tới phƣơng pháp tự học. Nên chăng hãy để
chính các em học sinh tự đƣa ra vấn đề mà các em yêu thích, quan tâm trong
giờ học để học sinh độc lập, chủ động giải quyết vấn đề. Từ chỗ học sinh
đƣợc tự đƣa ra vấn đề trình bày, các em sẽ chủ động tự tin trình bày vấn đề
cũng nhƣ vận dụng linh hoạt những điều đã học vào những tình huống mới,
biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Thứ ba là tăng cƣờng học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Dạy
học theo hƣớng tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi cá
nhân học sinh trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức mới. Ý chí và năng
lực của học sinh trong một lớp không thể đồng đều tuyệt đối, vì vậy buộc phải
chấp nhận sự phân hóa về cƣờng độ và tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập
nhất là bài học đƣợc thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Việc sử dụng
34
các phƣơng tiện nghe, nhìn, máy tính ngày càng rộng rãi trong nhà trƣờng sẽ
đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và năng lực của
mỗi học sinh.
Tuy nhiên trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
đƣợc hình thành bằng con đƣờng hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là
một môi trƣờng giao tiếp giữa thầy và trò, trò và trò, tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đƣờng đi tới chân lí. Trong giáo dục, công việc
hợp tác đƣợc tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trƣờng. Sử dụng phổ biến nhất
là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ, 3 hoặc 5 ngƣời. Hoạt động trong tập thể
nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao
động xã hội. Hiệu quả học tập sẽ tăng lên, nhất là lúc phải giải quyết những
vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để
hoàn thành công việc. Trong hoạt động theo nhóm, tính cách, năng lực của
mỗi cá nhân đƣợc bộc lộ, đƣợc uốn nắn, phát triển nhƣ tình bạn, ý thức tổ
chức kỉ luật, tinh thần tƣơng trợ, ý thức cộng đồng.
Thực ra trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là của toàn nhóm nhƣng
mỗi cá nhân đƣợc phân công nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau để đạt đƣợc
mục tiêu chung. Mô hình hợp tác trong xã hội đƣa vào đời sống học đƣờng có
tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, trong đó mỗi
ngƣời sống và làm việc trong sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng.
Đối với bài “Trình bày một vấn đề” học tập cá thể, phối hợp với học tập
hợp tác là phƣơng pháp học cần thiết đƣợc vận dụng. Học sinh trong lớp đƣợc
chia thành nhiều nhóm nhỏ để phối hợp giải quyết vấn đề. Đây là cách làm
hay, phát huy đƣợc tính tích cực chủ động của mỗi học sinh, đồng thời tạo
cho các em tinh thần đoàn kết, biết làm việc nhóm hạn chế nhƣợc điểm của
nhau, cùng sáng tạo giải quyết vấn đề. Các thành viên trong nhóm đều phải
35
làm việc với khối lƣợng và vai trò nhƣ nhau, ngƣời đứng lên trình bày sẽ là
bất kì ai trong nhóm vì vậy sẽ hạn chế đƣợc tình trạng vô trách nhiệm, ỷ lại
cho nhóm trƣởng.
Thứ tƣ là kết hợp đánh giá của thầy và sự tự đánh giá của trò. Trong dạy
học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trƣớc đây giáo viên giữ độc
quyền đánh giá học sinh. Trong phƣơng pháp tích cực, giáo viên phải hƣớng
dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên
quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh đƣợc
tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp
thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trƣờng phải
trang bị cho học sinh. Theo hƣớng phát triển các phƣơng pháp tích cực để đào
tạo những con ngƣời năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc
kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong
việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ
thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo
viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt
động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Các phƣơng pháp và phƣơng tiện mới sẽ tạo
điều kiện, tăng nhịp độ kiểm tra cho học sinh có thể thƣờng xuyên tự kiểm tra.
Bài học “Trình bày một vấn đề” là tiết dạy học kĩ năng trình bày một vấn
đề trƣớc tập thể hoặc ngƣời khác. Vì vậy các văn bản nói, cách trình bày của
học sinh không những cần sự đánh giá của giáo viên mà sự đánh giá của học
sinh trong lớp hay các thành viên trong nhóm là điều hết sức cần thiết. Sự
tranh luận, đánh giá lẫn nhau của các thành viên trong lớp là động lực để các
nhóm trình bày vấn đề của mình tốt hơn. Đây là cách thức vừa tạo không khí
36
sôi nổi trong giờ học vừa rèn luyện cho học sinh khả năng phản biện, tranh
luận tích cực. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò chỉ đạo và đánh giá của
ngƣời giáo viên giáo viên cần đƣa ra các tiêu chí hƣớng dẫn học sinh cách
đánh giá một cách cụ thể.
Trên đây là các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực, giáo viên
cần vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình dạy học Ngữ văn nói chung
và dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nói riêng để đạt hiệu quả cao trong
việc bồi dƣỡng năng lực Ngữ văn cho học sinh.
2.1.2. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp với việc bồi dƣỡng năng lực giao
tiếp khẩu ngữ cho học sinh
Giao tiếp vừa là mục đích vừa là phƣơng thức dạy học, đây là phƣơng
pháp học sinh dƣới sự chỉ đạo của giáo viên vận dụng các kiến thức đã học để
tiến hành thực hiện các nhiêm vụ giao tiếp khác nhau sao cho phù hợp với các
nhân tố giao tiếp. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp trở thành phƣơng pháp chủ
yếu để phát triển lời nói cho học sinh. Để thực hiện thành công phƣơng pháp
này ta cẩn hiểu giao tiếp không chỉ đơn giản là biết cách nói, giao tiếp tốt đòi
hỏi cả hai kĩ năng nói và lắng nghe. Tục ngữ có câu “nói là gieo, nghe là gặt”
đây là câu rất đúng với cuộc sống hàng ngày.
Lắng nghe không chỉ đơn thuần là quá trình sóng âm đập vào màng nhĩ
và chuyển lên não mà lắng nghe còn là quá trình tập trung chú ý để giải mã
sóng âm thanh thành ngữ nghĩa. Lắng nghe không phải là bản năng mà là
nghệ thuật, kỹ năng cần phải rèn luyện lâu dài. Lắng nghe chính là hùng biện
nhất song lại ít ngƣời biết đuợc điều đó. Trong giao tiếp với nhau chúng ta
thƣờng tranh nhau thể hiện mà thật ít ngƣời tranh nhau để lắng nghe. Nghe
một cách hiệu quả giúp chúng ta nắm bắt đƣợc nội dung vấn đề, thu thập đƣợc
nhiều thông tin, đánh giá nội dung thông tin và tƣơng tác qua lại trong quá
37
trình diễn đạt. Điều này vô cùng quan trọng đối với việc học tập của học sinh,
các em biết cách lắng nghe sẽ chọn lọc đƣợc những thông tin cần thiết của bài
học cho bản thân mình.
Học đƣợc cách lắng nghe sẽ tạo sự liên kết giữa ngƣời với ngƣời, đó là
liên kết về cảm xúc. Lúc này, sự lắng nghe lại có thêm những mục đích mới
tích cực về cảm xúc hơn nhƣ: tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với mọi ngƣời; chia
sẻ đồng cảm với ngƣời khác; khám phá ra những tính cách mới mẻ của ngƣời
đã quen biết. Biết cách lắng nghe giúp học sinh cải thiện các mối quan hệ
trong gia đình, nhà trƣờng, xã hội, năng lực giao tiếp khẩu ngữ của các em vì
thế đƣợc nâng lên rõ rệt.
Để trở thành ngƣời giao tiếp tốt, chúng ta không những phải học cách
lắng nghe mà còn phải học cách nói thông minh, nói có văn hóa. Lời nói
không chỉ phản ảnh thái độ mà tác động đến cả hành vi của con ngƣời. Lời
nói tác động đến tình cảm và ý nghĩ, nên có sức mạnh kỳ diệu giúp cải thiện
trạng thái tâm lý của bản thân và những ngƣời khác. Giống nhƣ nghe, nói
không phải là bản năng mà là nghệ thuật cần phải rèn luyện thƣờng xuyên.
Khi nói cần phải nắm vững cần trình bày những gì, sắp xếp vấn đề nào là
chính, vấn đề nào là phụ. Nói có chừng mực, thời lƣợng vừa phải. Ngoài ra,
để bài trình bày có hiệu quả, ngƣời nói phải có giọng nói, trang phục, tƣ thế
sao cho có thể rút ngắn khoảng cách giữa ngƣời nói và ngƣời nghe, tăng thêm
hứng thú cho ngƣời nghe. Học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ mạnh dạn, tự tin hơn
trong giao tiếp và khi trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hay đám đông.
Giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi ngƣời.
Giao tiếp tốt giúp chúng ta xây dựng và duy trì những mối quan hệ hữu ích,
thành công trong công việc, xây dựng một hình ảnh cá nhân ấn tƣợng, cũng
nhƣ đạt đƣợc những mục đích trong cuộc sống. Sử dụng phƣơng pháp giao
tiếp để nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh là phƣơng pháp
38
mang lại hiệu quả cao.
Trong dạy học Ngữ văn, để thực hiện tốt các phƣơng pháp giao tiếp cần
phải gắn các nội dung dạy học với các nhân tố giao tiếp.
- Nhân vật giao tiếp là những ngƣời tham gia trong cuộc giao tiếp đƣợc
chia làm hai phía: phát tin và nhận tin. Quan hệ giữa ngƣời phát và ngƣời
nhận có ảnh hƣởng nhiều đến nội dung và hình thức ngôn ngữ đƣợc sử dụng.
Có thể thay đổi vai của ngƣời nhận để học sinh diễn đạt các nội dung giao tiếp
theo các cách khác nhau phù hợp với vai giao tiếp.
- Nội dung giao tiếp là hiện thực khách quan đƣợc phản ánh trong lời của
các nhân vật giao tiếp. Thay đổi nội dung giao tiếp sẽ làm thay đổi hình thức
diễn đạt. Vì thế, cũng có thể dùng cách thay đổi nội dung đƣợc phản ánh để
học sinh diễn đạt sao cho phù hợp.
- Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh diễn ra hoạt động giao tiếp. Ngƣời ta
thƣờng phân biệt hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn
cảnh giao tiếp rộng là tất cả những hoàn cảnh tự nhiên (địa lí, lãnh thổ…),
hoàn cảnh xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa…), hoàn cảnh lịch sử…. Hoàn
cảnh giao tiếp rộng thực chất không tham gia vào cuộc giao tiếp mà tham gia
dƣới dạng hiểu biết, những kinh nghiệm về chúng có trƣớc hoạt động giao
tiếp trong tƣ duy ngƣời phát, ngƣời nhận. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là địa điểm
và thời gian cụ thể diễn ra hoạt động giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp ảnh
hƣởng rất nhiều đến nội dung và hình thức ngôn ngữ. Cùng về một nội dung,
nhƣng nếu hai học sinh nói chuyện với nhau ngoài sân trƣờng sẽ có hình thức
diễn đạt khác với cách diễn đạt trong giờ sinh hoạt lớp. Do vậy, cũng có thể
thay đổi hoàn cảnh giao tiếp để yêu cầu học sinh rèn luyện những cách diễn
đạt khác nhau phù hợp.
- Cách thức giao tiếp là hình thức diễn ra hoạt động giao tiếp: trực tiếp
hay gián tiếp, ở dạng nói hay dạng viết… Cách thức giao tiếp cũng ảnh hƣởng
không nhỏ đến nội dung và hình thức diễn đạt bằng ngôn ngữ: giao tiếp trực
39
tiếp, giao tiếp qua điện thoại và đặc biệt giao tiếp ở dạng nói và dạng viết…Vì
thế, cũng có thể thay đổi cách thức để yêu cầu học sinh có những cách diễn
đạt phù hợp.
- Mục đích giao tiếp là nhân tố giữ vị trí quan trọng trong hoạt động giao
tiếp. Mục đích giao tiếp chi phối tất cả những nhân tố giao tiếp còn lại nhƣ
nhân vật, nội dung, hoàn cảnh và cách thức giao tiếp. Chúng ta cần phải chú ý
thích đáng đến nhân tố giao tiếp này.
Phƣơng pháp giao tiếp là phƣơng pháp chủ yếu để phát triển lời nói cho
học sinh. Phƣơng pháp giao tiếp có thể đƣợc áp dụng để dạy học trong nhiều
nội dung tri thức, kĩ năng của bài “Trình bày một vấn đề” vì bài này sử dụng
ngôn ngữ ở dạng nói là chủ yếu.
VD: Bài “Trình bày một vấn đề” giáo viên có thể tiến hành dạy theo
phƣơng pháp giao tiếp với những hoạt động nhƣ sau:
+ Liên hệ với thực tế để biết mục đích của bài học.
+ Rèn luyện năng lực nói, trình bày một vấn đề trƣớc đám đông.
+ Xác định chủ đề nói và nội dung trình bày liên quan tới việc trình bày
một vấn đề.
+ Xác định mục đích, đối tƣợng, cách nói khi trình bày một vấn đề.
Phƣơng pháp giao tiếp thể hiện qua việc xác định cơ sở để lập dàn ý cho
bài trình bày.
Xác định: Đề tài trình bày có bao nhiêu vấn đề (chọn vấn đề nào?)
Am hiểu sâu sắc và sự hứng thú của bản thân về vấn đề muốn trình bày,
có tƣ liệu, số liệu phong phú về vấn đề sẽ trình bày.
Đối tƣợng nghe (Ai nghe? trình độ, tuổi tác giới tính, nghề
nghiệp,…của ngƣời nghe?)
Xác định mục đích nói (Nói để tuyên truyền vận động? Nói để giáo dục
40
hoặc giao nhiệm vụ? Nói để tham khảo trong một buổi ngoại khóa?)
Xác định cách nói (Bƣớc 1: Nói đúng thông tin chính xác, ngôn ngữ
chuẩn mực; Bƣớc 2: Nói hay, thông tin mới mẻ, ngôn ngữ sinh động, có
“khẩu khí” hùng biện).
Với phƣơng pháp thực hành giao tiếp, sau khi học xong bài “Trình bày
một vấn đề” giáo viên nên gợi ý để cho học sinh viết các bài hùng biện trạnh
luận về những vấn đề quen thuộc nhƣ: Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc
áo dài Việt Nam; giới thiệu về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em, hay
giới thiệu về trang phục truyền thống của dân tộc mình…
Việc thực hiện phƣơng pháp giao tiếp, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải
có những điều kiện nhất định: Môi trƣờng, nhân vật, trang phục, trang thiết
bị… phù hợp. Song, ở trong điều kiện nhƣ hiện nay, có thể tiến hành theo các
bƣớc sau:
- Định hƣớng giao tiếp: cho sẵn về chủ đề, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp.
- Học sinh hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm phân tích và sản sinh lời
nói theo định hƣớng của giáo viên.
Phƣơng pháp dạy học giao tiếp là phƣơng pháp quan trọng để phát triển
lời nói cho học sinh, phƣơng pháp này vừa rèn cho các em kĩ năng nghe nói,
kĩ năng trình bày một vấn đề vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp
khẩu ngữ.
Trên đây là phƣơng pháp giao tiếp có thể áp dụng phổ biến để tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu
ngữ trong dạy học Ngữ văn. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên có thể cân
nhắc và áp dụng cho từng loại bài cụ thể. Việc lựa chọn phƣơng pháp phải
41
dựa trên cơ sở xác định rõ mục đích của bài học. Giáo viên cần kết hợp khéo
léo, linh hoạt các phƣơng pháp dạy học để giáo viên và học sinh đạt đƣợc mục
đích học tập nhanh, hiệu quả nhất.
2.2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng
năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang
Dƣới đây là thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nhằm bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 đƣợc xây dựng dựa
trên cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học đã nêu ở phần trên
Tiết 47
TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ
MỤC TIÊU DẠY HỌC
- Thông qua dạy học giúp học sinh biết rõ khi trình bày một vấn đề cần phải
chuẩn bị một cách kĩ lƣỡng về nội dung, chú ý mục đích và hoàn cảnh giao tiếp,
nói rõ ràng, chính xác, truyền cảm, biết cách giao lƣu với ngƣời nghe qua đó bồi
dƣỡng cho học sinh năng lực nói một vấn đề trƣớc mọi ngƣời.
- Bồi dƣỡng cho học sinh thói quen tốt khi giao tiếp khẩu ngữ, mạnh dạn
tự tin khi trình bày một vấn đề trƣớc đám đông.
CHUẨN BỊ DẠY HỌC
1. Giáo viên sƣu tầm và giới thiệu cho học sinh một số nội dung gần gũi,
thiết thực gắn với địa phƣơng, phù hợp với sở thích, phát huy đƣợc sở trƣờng
của từng cá nhân học sinh. Đồng thời, giáo viên hƣớng dẫn cụ thể học sinh
cách chuẩn bị các nội dung đó.
- Một số nội dung học sinh cần chuẩn bị trƣớc khi dạy học bài “Trình
42
bày một vấn đề” cho học sinh tỉnh Tuyên Quang.
+ Trình bày cảm nhận của em về một tác phẩm văn học, hội họa, âm
nhạc, điêu khắc hay một bộ phim mà em yêu thích.
+ Trình bày cảm nhận của em về một nhân vật văn học mà em yêu thích.
+ Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc áo dài Việt Nam.
+ Giới thiệu về một chuyến thăm quan hoặc một kỉ niệm đáng nhớ của em.
+ Giới thiệu với bạn bè về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em.
+ Giới thiệu về bộ sƣu tập tem, tiền, bút…. mà em có.
+ Giới thiệu về một hoạt động ngoài giờ lên lớp mà em yêu thích.
+Giới thiệu cho mọi ngƣời về văn hóa đặc trƣng của dân tộc mình.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về một lễ hội độc đáo của tỉnh Tuyên Quang.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về nghệ thuật hát then, đàn tính của dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Tuyên Quang.
+ Giới thiệu với bạn bè về một di tích lịch sử hay danh lam thắng cảnh
của tỉnh Tuyên Quang.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về trang phục truyền thống của dân tộc em .
Ngoài các nội dung trên học sinh có thể tự đề xuất chủ đề mà các em yêu
thích và am hiểu sâu sắc .
- Hƣớng dẫn cách chuẩn bị cho học sinh:
+ Các em có thể tự mình chuẩn bị hoặc làm việc theo nhóm 3 hoặc 5 ngƣời.
+ Lựa chọn vấn đề nghiên cứu mà giáo viên giới thiệu hoặc chủ động đề
xuất vấn đề nghiên cứu. Một vấn đề tối đa không quá 02 nhóm lựa chọn.
+ Mỗi nhóm bầu nhóm trƣởng và lập kế hoạch phân công công việc một
43
cách cụ thể cho từng thành viên.
+ Đánh máy vấn đề trình bày và gửi vào hòm thƣ điện tử của giáo viên
trƣớc khi lên lớp.
+ Thời gian trình bày vấn đề ở trên lớp từ 4 đến 6 phút.
+ Nhóm có thể đƣợc cử ngƣời đại diện trình bày hoặc giáo viên lựa chọn
ngẫu nhiên 1 thành viên thay mặt nhóm lên trình bày.
+ Khi trình bày vấn đề, học sinh đƣợc tham khảo văn bản nhƣng không
đƣợc đọc văn bản.
+ Mỗi nhóm tự đánh giá và cho điểm quá trình làm việc của từng thành viên.
2. Học sinh chủ động sƣu tầm tài liệu chuẩn bị các nội dung theo yêu cầu
của giáo viên.
QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1. Giới thiệu mở đầu (2 phút)
Giáo viên có thể sử dụng một trong 2 phƣơng án sau nhằm kích thích
tính tò mò, khơi dạy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học:
Phƣơng án 1: giáo viên có thể chiếu một số hình ảnh hoặc mang theo
một số tranh ảnh chân dung của Nick Vujicic. “Chắc hẳn các em đã từng
nghe thấy cái tên Nick Vujicic người cụt cả chân tay nhưng đã truyền cảm
hứng sống cho cộng đồng. Anh không thể lao động được bằng chân tay nhưng
qua cách anh nói chuyện anh đã gặt hái được nhiều thành công trong cuộc
sống. Người ta nói đến anh là nói đến ý chí sắt thép và những bài phát biểu
nổi tiếng. Để làm nên thành công ngày hôm nay, anh Nick Vujicic đã phải
luyện tập rất nhiều cho việc trình bày một vấn đề tốt trước nhiều người, anh
nói chuyện, chia sẻ suy nghĩ, nguyện vọng của mình trước đám đông và họ
đồng cảm với anh. Vậy “Trình bày một vấn đề” như thế nào và nó có tầm
quan trọng như thế nào thì chúng ta sẽ bước vào tiết học ngày hôm nay: Tiết
44
47 bài Trình bày một vấn đề.”
Phƣơng án 2:
“Từ xưa, ông cha ta đã dạy phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”,
nghĩa là muốn nên người thì cái gì cũng phải học. Trong đó, việc “học nói”-
học cách giao tiếp bằng lời, nói có văn hóa, thuyết phục được người nghe là
một trong những điều quan trọng nhất để làm người. Bởi ăn ko nên đọi, nói
ko nên lời là một điều đáng hổ thẹn...Vậy làm thế nào để trình bày một vấn đề
trước đám đông có sức thuyết phục? Bài học hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu vấn đề đó. Chúng ta bước vào tiết 47 bài “Trình bày một vấn đề”.
2. Hƣớng dẫn học sinh cách đánh giá về trình bày một vấn đề (5 phút)
Giáo viên định hƣớng cho học sinh biết cách đánh giá về trình bày một
vấn đề để học sinh có thể tự nhận xét một cách chính xác.
Các tiêu chí đánh giá bao gồm:
- Nội dung bài trình bày: đúng hƣớng, đủ ý, ngắn gọn, sâu sắc, thuyết phục.
- Ngôn ngữ diễn đạt, cách trình bày: rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, sáng tạo
trong diễn đạt, giọng nói hay, ngữ điệu truyền cảm hấp dẫn ngƣời nghe, tốc
độ nói vừa phải, phù hợp.
- Sử dụng ngôn ngữ cơ thể: tƣ thế, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ
cƣời, biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể kết hợp với lời nói một cách hợp lí, hiệu
quả cao.
- Thái độ, biểu cảm: thƣờng xuyên thể hiện đƣợc thái độ cảm xúc phù
hợp với nội dung trình bày.
- Trình bày suy nghĩ, ý tƣởng: nội dung trao đổi phù hợp và đúng mục
đích, thông tin phong phú, đa dạng, thƣờng xuyên đƣa ra đƣợc nhiều ví dụ để
phát triển và gợi mở hơn, làm sâu sắc hơn chủ đề đang nói.
45
- Trang phục: phù hợp, văn hóa, lịch sự.
- Khả năng ứng xử, tự điều chỉnh: Cách ứng xử, điều chỉnh nội dung,
thời gian, thƣờng xuyên có cách ứng xử phù hợp, sáng tạo trong các tình
huống giao tiếp, tự điều chỉnh hợp lý, kịp thời về nội dung, thời gian và cách
trình bày.
3. Tổ chức cho học sinh trình bày các vấn đề (30 phút)
Các nhóm sẽ có 30 phút để trình bày vấn đề đã chuẩn bị ở nhà. Mỗi
nhóm sẽ có 4 đến 6 phút trình bày. Sau đó có khoảng 5 phút cho các bạn và cô
giáo nhận xét. Vì vậy 3- 4 nhóm trình bày trên lớp, giáo viên linh hoạt điều
chỉnh tùy theo thời gian trình bày và nhận xét của học sinh.
Nhóm 1: Lựa chọn theo hình thức xung phong, tự cử đại diện trình bày.
Nhóm 2: Rút thăm chọn nhóm bất kì, nhóm đƣợc quyền cử đại diện hoặc
nhóm trƣởng trình bày.
Nhóm 3: Lựa chọn theo hình thức bốc thăm, giáo viên chỉ định bất kì
thành viên nào trong nhóm lên trình bày.
Nhóm 4: Ƣu tiên chọn nhóm đã chuẩn bị tốt, có thể cho cử ngƣời trình
bày tốt nhất.
4. Tổng kết (8 phút)
- Gọi một hoặc hai học sinh trong lớp sau khi nghe xem các bạn trình
bày, rút ra bài học gì cho bản thân khi trình bày một vấn đề.
- Giáo viên nhận xét lời phát biểu của học sinh sau đó có thể bổ sung
một số nội dung về các khía cạnh sau đây:
+ Việc chuẩn bị lên lớp để có một bài trình bày một vấn đề tốt trƣớc đám đông.
+ Việc trình bày chú ý tới nội dung bài trình bày, ngôn ngữ, cách giao
46
lƣu với ngƣời nghe…
+ Việc nhận xét đánh giá của học sinh cần phải tích cực chủ động trong
phát ngôn.
- Các em về nhà ghi vào vở những nội dung quan trọng cần phải ghi nhớ
và bài học kinh nghiệm đã rút ra đƣợc sau tiết học.
- Ở buổi học ngoại khóa hoặc trong giờ sinh hoạt lớp các nhóm còn lại sẽ
có cơ hội trình bày bài làm của mình, đồng thời rèn luyện thêm năng lực giao
tiếp khẩu ngữ.
- Ngoài ra, các em có thể tìm hiểu một số bài phát biểu hay của các vị
lãnh đạo, nhà hùng biện sau đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
- Chuẩn bị các nội dung cụ thể cho việc dạy học bài “Lập kế hoạch cá
nhân”. Ví dụ:
+ Lên kế hoạch cho một buổi đi dã ngoại cùng bạn bè, ngƣời thân.
+ Lên kế hoạch cho một cuộc thi hùng biện do trƣờng, lớp tổ chức.
+ Lên kế hoạch cho một chuyến đi chơi.
+ Lên kế hoạch cho một ngày nghỉ cuối tuần.
+ Lên kế hoạch cho chuyến nghỉ hè cuối năm.
+ Lên kế hoạch cho một buổi đại hội chi đoàn.
+ Lên kế hoạch học tập cho năm học mới.
Các em có thể làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhƣ đã hƣớng dẫn với
các chủ đề ở bài học vừa qua
2.3. Thuyết minh thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo
hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10
Chúng ta đều biết rằng dạy học là một công việc vừa có tính khoa học
47
vừa có tính nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên trong quá trình giảng
dạy. Để làm tốt công việc này thì giáo viên nên tiến hành theo 3 giai đoạn:
chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp để phát
huy đƣợc tốt nhất các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng
pháp dạy học giao tiếp.
Nhƣ vậy, muốn dạy bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa
Ngữ văn 10 (tập 1) nhằm phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh
thì cần phải tiến hành theo 3 giai đoạn trên.
2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị lên lớp
Dạy học là một công việc luôn đòi hỏi sự sáng tạo của ngƣời giáo viên
trong suốt quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, không thể có một sự sáng tạo nào
mà lại thiếu đi sự chuẩn bị chu đáo. Vì vậy, việc chuẩn bị lên lớp không
những là điều cần thiết mà còn là điều bắt buộc không chỉ đối với ngƣời giáo
viên mà cả đối với học sinh. Dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nhằm bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10, đặc biệt là năng lực
nói trƣớc đám đông thì khâu chuẩn bị lên lớp của ngƣời giáo viên và học sinh
là rất quan trọng. Các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích
cực đã chỉ rõ trên lớp, học sinh hoạt động là chính, nhƣng trƣớc đó, giáo viên
phải đầu tƣ nhiều công sức và thời gian mới có thể thực hiện bài lên lớp với
vai trò là ngƣời gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt
động học tập của học sinh.
Về phía giáo viên, trong giai đoạn này ngƣời giáo viên cần có sự chuẩn
bị chu đáo về mặt tâm thế, tƣ duy và quan trọng hơn cả là công việc chuẩn bị
trực tiếp cho việc lên lớp bao gồm việc phân tích mục tiêu, nội dung sách giáo
khoa, định hƣớng về cách thức lên lớp, tiến trình tổ chức các hoạt động dạy
48
học và chuẩn bị những vật dụng cần thiết cho việc lên lớp.
Bƣớc đầu tiên là cần chuẩn bị về mặt tâm thế. Ngƣời giáo viên Ngữ văn
cần nắm đƣợc đối tƣợng giảng dạy của bài “Trình bày một vấn đề” là học sinh
lớp 10. Học sinh lớp 10 là lứa tuổi có tâm sinh lý thƣờng có nhiều biến đổi,
vậy nên khi tổ chức dạy học, giáo viên càng phải chú ý hơn tới mặt nhận thức
và tâm lí sao cho các em đƣợc rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ và rèn
luyện kĩ năng nghe, nói một cách hiệu quả nhất.
Bƣớc thứ hai chuẩn bị về tƣ duy, ngƣời giáo viên trƣớc hết cần nắm đƣợc
khối lƣợng công việc của mình. Cụ thể hơn, để dạy bài “Trình bày một vấn đề”
đạt đƣợc mục đích là phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh chúng
ta cần nắm đƣợc nội dung chƣơng trình giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn
trung học phổ thông. Từ đó đƣa ra đƣợc định hƣớng công việc và sự chuẩn bị
của ngƣời giáo viên để hình hành, phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học
sinh lớp 10 nói riêng và học sinh trung học phổ thông nói chung.
Bƣớc ba, quan trọng hơn cả là việc chuẩn bị trực tiếp lên lớp bao gồm
việc xác định mục tiêu bài học, nội dung sách giáo khoa, định hƣớng về cách
thức lên lớp, xây dựng tiến trình bài học và chuẩn bị những vật dụng cần thiết
cho việc lên lớp.
Bƣớc thứ năm, giáo viên cần chuẩn bị các công việc cụ thể trƣớc khi lên
lớp, dự đoán các tình huống sƣ phạm có thể xảy ra trong giờ học để chủ động
xử lí kịp thời.
Để bài học “Trình bày một vấn đề” diễn ra thuận lợi, đi đúng hƣớng và
đạt đƣợc mục đích đề ra, giáo viên cần soạn các nội dung cụ thể (khoảng 10 -
15 vấn đề), gửi trƣớc cho học sinh nghiên cứu chuẩn bị theo nhóm hoặc cá
nhân theo năng lực và sở thích của các em. Các vấn đề đƣa ra cần chú ý tới
mặt thiết thực, ứng dụng của bài học, các vấn đề phải thật sự gần gũi, cụ thể,
có thể theo sở thích của các em đặc biệt là với các em dân tộc thiểu số đang
49
sinh sống và học tập trên địa bàn Tuyên Quang. Chúng tôi mạnh dạn đƣa ra
một số vấn đề sau trên cơ sở thực tế dạy và học Ngữ văn ở một số trƣờng
trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang cho các em chuẩn bị nhƣ sau:
+ Trình bày cảm nhận của em về một tác phẩm văn học, hội họa, âm
nhạc, điêu khắc… hay một bộ phim mà em yêu thích.
+ Trình bày cảm nhận của em về một nhân vật văn học mà em yêu thích.
+ Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc áo dài Việt Nam.
+ Giới thiệu về một chuyến thăm quan hoặc một kỉ niệm đáng nhớ của em.
+ Giới thiệu với bạn bè về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em.
+ Giới thiệu về bộ sƣu tập tem, tiền, bút…. mà em có.
+ Giới thiệu về một hoạt động ngoài giờ lên lớp mà em yêu thích.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời về văn hóa đặc trƣng của dân tộc mình.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về một lễ hội độc đáo của tỉnh Tuyên Quang.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về nghệ thuật hát then, đàn tính của dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Tuyên Quang.
+ Giới thiệu với bạn bè về một di tích lịch sử hay danh lam thắng cảnh
của tỉnh Tuyên Quang.
+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về trang phục truyền thống của dân tộc em .
+ Giới thiệu về vấn đề mà em trăn trở, suy nghĩ và hiểu biết nhất.
Công việc chuẩn bị lên lớp của ngƣời giáo viên không chỉ dừng lại ở
việc giao vấn đề cho học sinh mà còn phải tổ chức, hƣớng dẫn học sinh cách
thức, nguyên tắc làm việc nhóm để học sinh tích cực chủ động làm việc hoàn
thành nhiệm vụ. Nhƣ vậy, vai trò của ngƣời giáo viên giai đoạn chuẩn bị
50
trƣớc khi lên lớp là rất quan trọng.
Về phía học sinh, sự chuẩn bị của học sinh trƣớc khi lên lớp cũng là một
phần không thể thiếu đóng góp vào sự thành công của bài học. Học sinh sẽ
đƣợc tăng cƣờng học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác thông qua cách
thức làm việc nhóm. Học sinh đƣợc trình bày, thảo luận, tranh luận về những
vấn đề do giáo viên đặt ra hoặc học sinh đề xuất đƣợc giáo viên thông qua
nhằm mục đích tự tìm hiểu vấn đề và tự giải đáp trƣớc khi vấn đề đó đƣợc
giải quyết dƣới sự giám sát, điều chỉnh của nhóm và giáo viên. Trong quá
trình tham gia làm việc nhóm, học sinh sẽ học đƣợc tính hòa nhập, chia sẻ để
giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, chủ động. Học sinh biết chia sẻ công
việc một cách bình đẳng, biết cách giao việc cho nhau và có trách nhiệm đối
với công việc của mình cũng nhƣ cả nhóm. Đồng thời, thông qua hoạt động
nhóm sẽ tập cho các em kĩ năng làm việc tập thể, giúp các em tự tin hơn, có
kinh nghiệm trong quản lý tổ chức làm việc, đặc biệt là tính năng động trong
giao tiếp khẩu ngữ. Tất cả các thành viên đều phải làm việc với khối lƣợng
công việc và vai trò nhƣ nhau, ngƣời trình bày sẽ đƣợc chọn ngẫu nhiên trong
nhóm, vì vậy bất kì cá nhân nào cũng phải chuẩn bị trƣớc khi lên lớp. Để
chuẩn bị tốt cho phần trình bày trên lớp các em sẽ phải sƣu tầm tài liệu về vấn
đề phải trình bày của nhóm trƣớc khi lên lớp một thời gian, bài chuẩn bị có
thể viết tay hoặc đánh máy và các thành viên đều phải luyện tập trình bày vấn
đề trƣớc tập thể nhóm. Nhƣ vậy, học sinh sẽ phải đọc sách, tham khảo tài liệu
trên mạng internet và tự học phần lý thuyết của bài học “Trình bày một vấn
đề” trƣớc khi lên lớp.
Thông qua cách thức làm việc nhóm học sinh có thể rèn luyện phƣơng
pháp tự học để rút ra bài học cho bản thân đồng thời học sinh cũng biết cách
làm việc theo nhóm để hoàn thành mục tiêu chung. Phƣơng pháp dạy học tích
cực thể hiện ở chỗ học sinh vừa có thể chủ động tự lựa chọn vấn đề theo sở
51
thích, sở trƣờng, mặt khác các em có thể tự mình đƣa ra chủ đề làm việc tùy
theo vốn hiểu biết cá nhân, từ đó các em có thể tự tin hơn khi trình bày vấn đề
của mình. 2.3.2. Giai đoạn lên lớp
Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện kế hoạch dạy
học đã vạch ra. Đây là lúc ngƣời giáo viên và ngƣời học tiếp xúc giao tiếp với
nhau. Chính trong thời gian đó ngƣời giáo viên mới thể hiện đầy đủ tính khoa
học và tính nghệ thuật trong công tác dạy học và giáo dục của mình, thể hiện
tầm hiểu biết, hứng thú, niềm tin, nói cách khác là thể hiện thế giới tinh thần
của mình.
Việc mở đầu tiết học có ảnh hƣởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết
học. Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy
và trò. Tiết học hiện đại thƣờng bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn
đề, gây hứng thú và thu hút sự chú ý của học sinh vào những vấn đề, vào đề
tài của tiết học. Tiếp đó, tổ chức công tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với
nhau theo từng nhóm để giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu bằng
công tác độc lập chung cho cả nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri thức đã
học và việc giải quyết vấn đề đó có liên quan đến tri thức sắp học. Tiến trình
của tiết học không chỉ phụ thuộc vàp việc mở đầu tiết học mà còn phụ thuộc
cả vào việc thông báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo cho các em
học sinh có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới. Trong
quá trình giảng dạy việc tổ chức hƣớng dẫn tốt các thao tác trong mỗi bƣớc,
kết hợp với sự linh hoạt của các nhà sƣ phạm sẽ giúp học sinh chủ động, tích
cực trong việc lĩnh hội nội dung bài học. Tƣ thế, tác phong của ngƣời giáo
viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng,
truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay
đổi giọng nói.
Dạy học bài “Trình bày một vấn ðề” trong sách giáo khoa Ngữ vãn 10
52
bao gồm việc xác ðịnh thế nào là trình bày một vấn đề, tầm quan trọng của
nó, các bƣớc chuẩn bị để trình bày một vấn đề; cách trình bày. Việc hình
thành nội dung lí thuyết và thời gian thực hành luyện tập cho học sinh đƣợc
thực hiện theo quy trình dạy học dƣới sự tổ chức, hƣớng dẫn của giáo viên,
học sinh làm quen, thực hiện theo yêu cầu và tự chiếm lĩnh tri thức của bài,
đặc biệt là phải tạo lập ra một văn bản nói theo chủ đề nhất định.
Về phía giáo viên, công việc của giáo viên khi lên lớp bài “Trình bày
một vấn đề” là tổ chức các hoạt động cho học sinh đƣợc thực hành trình bày
một vấn đề một cách tối đa và giúp học sinh nắm vững kiến thức lý thuyết.
Học sinh có thể thông qua việc thực hành thành thạo mà nắm vững lý thuyết,
bởi trong quá trình chuẩn bị học sinh đã phải đọc sách, tham khảo tài liệu
trƣớc. Vì vậy chúng tôi sử dụng thuật ngữ “giới thiệu mở đầu” thay cho thuật
ngữ “giới thiệu bài mới” bởi đối với học sinh, sau một quá trình chuẩn bị
trƣớc khi lên lớp bài học này không hẳn còn là bài mới đối với học sinh nữa.
Hoạt động hƣớng dẫn học sinh cách đánh giá về trình bày một vấn đề
đƣợc tiến hành trong 5 phút để giáo viên định hƣớng cho học sinh có thể tự
nhận xét một cách chính xác. Giáo viên có thể phát phiếu hoặc có thể viết lên
bảng hoặc dùng máy chiếu để học sinh có thể thuận tiện quan sát đánh giá.
Cách thức đánh giá dựa vào các tiêu chí cụ thể, giáo viên cần phải cung cấp
cho học sinh để các em có thể tự nhận xét đánh giá lẫn nhau, giúp học sinh
sớm trở thành con ngƣời năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa
nhập và phát triển cộng đồng. Giáo viên còn là trọng tài trong các hoạt động
học tập của học sinh. Bài nói của học sinh có đúng hƣớng, đảm bảo yêu cầu
đặt ra trong bài học hay không, các thành viên trong mỗi nhóm hoạt động thế
nào, tất cả đều phải đƣợc nhận xét đánh giá. Nhận xét của giáo viên cần cụ
thể, rõ ràng. Dạy học bài “Trình bày một vấn đề” với mục đích phát triển
năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10, khâu đánh giá không chỉ
53
nằm trong nội dung bài trình bày của các nhóm mà quan trọng hơn là phải
đánh giá khả năng diễn đạt ngôn ngữ, trình bày suy nghĩ ý tƣởng, thái độ cảm
xúc, lắng nghe và phản hồi, đồng cảm chia sẻ và tự điều chỉnh khi giao tiếp ở
các mức tối thiểu, cơ bản, thƣờng xuyên và trong các tình huống giao tiếp
quen thuộc hoặc trong các tình huống giao tiếp mới đối với học sinh. Đối với
bài “Trình bày một vấn đề” đây là một cách thức hoạt động hiệu quả nhằm
nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10.
Trong tiến trình dạy học, giáo viên phải chú ý duy trì đƣợc không khí
tích cực, hào hứng trong học sinh đối với bài học, luôn đặt học sinh ở trong
những tình huống phải tích cực hoá những tri thức, những kinh nghiệm đã có
để giải quyết vấn đề và thông qua đó mà lĩnh hội tri thức mới. Vì thế hoạt
động tổ chức cho học sinh trình bày một vấn đề giáo viên cần phải chú ý tới
việc duy trì không khí học tập trong lớp học và đảm bảo về mặt thời gian. Nên
để 2 đến 3 nhóm trình bày kết quả tránh cho nhiều nhóm trình bày dẫn tới tình
trạng bị rối và loãng kiến thức. Hoạt động tổng kết giáo viên cần linh hoạt khi
gọi học sinh rút ra những điều cần ghi nhớ, nên gọi một số học sinh có cả học
sinh tốt và học sinh yếu nhận xét, nếu các em tổng kết tốt rồi thì giáo viên
không nhất thiết phải tổng kết lại.
Về phía học sinh, trong tiết học này học sinh có cơ hội phát huy tính độc
lập và cá tính riêng trong việc trình bày vấn đề đã chuẩn bị trƣớc của nhóm.
Các nhóm thay phiên nhau trình bày theo nhiều hình thức khác nhau. Học
sinh phải chủ động trong việc cử ngƣời đại diện trình bày kết quả làm việc.
Việc nhận xét phần trình bày của các bạn có tác dụng giúp học sinh phát huy
tính tích cực, chủ động, khả năng tự học và tƣ duy phản biện. Đây là một đặc
trƣng của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực thầy đánh giá trò, trò tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp
thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà mỗi thầy cô cũng
54
nhƣ nhà trƣờng phải trang bị cho học sinh. Trong môi trƣờng lớp học, giáo
viên và học sinh có cơ hội giao tiếp trực tiếp với nhau, việc xác định các yếu
tố giao tiếp là rất quan trọng trong việc trình bày một vấn đề của học sinh.
Với việc chính xác nội dung giao tiếp, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp học
sinh đã bƣớc đầu thành công trong việc trình bày vấn đề trƣớc đám đông. Ở
trên lớp, với phƣơng pháp tích cực này thì học sinh hoạt động là chính, giáo
viên là ngƣời định hƣớng, gợi mở, điều chỉnh để các em tự tiến bộ.
Giai đoạn lên lớp bài “Trình bày một vấn đề” các hoạt động đƣợc thiết
kế dựa trên các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng pháp
dạy học giao tiếp, nhằm phát huy tinh thần học tập chủ động tích cực, giúp
học sinh trở thành những con ngƣời năng động trong giao tiếp khẩu ngữ. Với
phƣơng pháp này, giáo viên trở thành ngƣời thiết kế, tổ chức, hƣớng dẫn các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học
tập, chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chƣơng trình. Với phƣơng pháp dạy học mới còn giúp cho các em phát huy
tốt các kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, hợp tác, tự đánh giá lẫn, ngoài ra
giúp các em hiểu biết nhiều hơn, có trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá
trình học tập của mình.
Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì có liên quan trực tiếp, có trách
nhiệm tham gia với nhiều hoạt động và hỗ trợ nhà trƣờng nhiều hơn. Đồng
thời cha mẹ học sinh còn đƣợc tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trƣờng thông
qua học sinh.
2.3.3. Giai đoạn sau khi lên lớp
Về phía học sinh: Học sinh ghi lại các nội dung chính đã học vào vở theo
ngôn ngữ của bản thân, các em có thể xem một số bài phát biểu của các vị
lãnh đạo sau đó rút ra bài học kinh nghiệm. Chuẩn bị một bài thuyết trình và
luyện nói về một vấn đề mà em hiểu sâu và yêu thích. Chuẩn bị các nội dung
55
cho bài học “Lập kế hoạch cá nhân”.
Về phía giáo viên, ngƣời giáo viên phải phân tích sƣ phạm một cách tổng
hợp, cụ thể cần làm sáng tỏ:
- Sau 45 phút dạy học sinh có tự tin để trình bày một vấn đề trƣớc tập thể
hay đám đông hay chƣa?
- Học sinh đã hiểu đƣợc các nội dung chính của bài học
- Bài tập trên lớp và bài tập về nhà học sinh có làm đƣợc hết không?
- Thái độ học tập của các em thế nào?
Từ sự phân tích tiết học đó, những kinh nghiệm thành công và thất bại
rút ra cần ghi lại phía dƣới giáo án để những tiết học lần sau đƣợc tiến hành
với những kết quả cao hơn.
Giai đoạn sau khi lên lớp nhấn mạnh phƣơng pháp tự học của học sinh
tạo cho các em lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của các em.
Tóm lại, việc thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách
giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nhằm bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang đã dựa trên cơ
sở của các đặc trƣng trong phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng pháp dạy
họcgiao tiếp. Việc áp dụng phƣơng pháp dạy học này đƣợc thể hiện cụ thể
trong ba giai đoạn chính đó là giai đoạn chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn
lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp với các công việc cụ thể của giáo viên và
học sinh. Giáo viên và học sinh phải linh hoạt chủ động trong việc lựa chọn
các hình thức, cách thức tổ chức học tập để đạt hiệu quả cao nhất là bồi dƣỡng
cho học sinh thói quen tốt khi giao tiếp khẩu ngữ, mạnh dạn tự tin khi trình
56
bày một vấn đề trƣớc đám đông.
Chƣơng 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sƣ phạm là một phƣơng pháp vô cùng quan trọng. Thông
qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi sẽ kiểm tra, đánh giá tính khả thi của các
phƣơng pháp dạy học nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học
sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề”. Trên cơ sở đó sửa chữa, bổ sung
để hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” cho phù hợp với
đặc điểm và trình độ của từng đối tƣợng học sinh. Đồng thời đƣa ra những đề
xuất nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học bài “Trình bày một vấn đề” trong
sách giáo khoa Ngữ văn 10 và năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, dù rất muốn nhƣng chúng tôi khó có
thể thực hiện việc thực nghiệm rộng rãi trên nhiều địa bàn với nhiều đối tƣợng
học sinh ở các môi trƣờng giao lƣu văn hóa, xã hội khác nhau. Thực nghiệm
của chúng tôi đƣợc tiến hành tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, xã
Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang. Trƣờng có trên 90% học
sinh là dân tộc thiểu số. Bƣớc đầu trƣờng cũng đã có đầy đủ các cơ sở vật chất
cơ bản phục vụ dạy học, giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin và các
thiết bị dạy học hiện đại vào dạy học nhƣng vẫn còn hạn chế. Học sinh trong
trƣờng từ các xã vùng xa đến học tập nên gặp rất nhiều khó khăn ảnh hƣởng
đến học tập và giao lƣu văn hóa xã hội.
Thiết kế dạy học thực nghiệm tại lớp 10A3 với 35 học sinh của
57
Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, tỉnh Tuyên Quang. Giáo viên dạy
thực nghiệm: cô giáo Nguyễn Thị Mến – tổ Văn - Trƣờng trung học phổ
thông Sơn Nam.
Ngoài ra, chúng tôi còn xin ý kiến góp ý của giáo viên dạy môn Ngữ
văn bậc trung học phổ thông trong và ngoài tỉnh Tuyên Quang về thiết kế dạy
học bài “Trình bày một vấn đề”.
3.3. Phƣơng pháp thực nghiệm
Việc thực nghiệm sƣ phạm đƣợc chúng tôi tiến hành lần lƣợt nhƣ sau:
- Soạn thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề”.
- Xin ý kiến góp ý của giáo viên dạy môn Ngữ văn bậc trung học phổ
thông về thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề”.
- Giải thích thiết kế dạy học thực nghiệm cho giáo viên nghiên cứu
trƣớc để giáo viên chuẩn bị lên lớp.
- Trao đổi, rút kinh nghiệm với các giáo viên về những thuận lợi và khó
khăn khi thực hiện bài giảng theo yêu cầu thực nghiệm. Gặp gỡ với các học
sinh sau mỗi tiết học để tìm hiểu mức độ tiếp thu và cảm nhận của các em về
bài học.
3.4. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi biên soạn thiết kế dạy học thực nghiệm bài: “Trình bày một
vấn đề” (sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1).
Nguyên tắc xây dựng thiết kế dạy học thực nghiệm: Mục đích cao nhất là
rèn luyện cho học sinh phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ một cách toàn
58
diện nhất.
- Tiến trình bài giảng sẽ đƣợc xây dựng theo những bƣớc sau:
+ Bƣớc 1: Giáo viên giới thiệu cho học sinh chuẩn bị những vấn đề, chủ
đề trƣớc khi lên lớp.
+ Bƣớc 2: Giáo viên tổ chức, hƣớng dẫn cho học sinh cách đánh giá về
trình bày một vấn đề.
+ Bƣớc 3: Giáo viên tổ chức, hƣớng dẫn cho học sinh trình bày các vấn
đề trƣớc tập thể.
+Bƣớc 4: Củng cố bài học bằng hệ thống câu hỏi có tính chất tổng hợp
nội dung chi tiết của bài học. Kết thúc bài học giáo viên giao bài tập, củng cố
và hƣớng dẫn học sinh học tập ở nhà.
Dựa vào những yêu cầu trên, chúng tôi xây dựng thiết kế dạy học thực
nghiệm bài “Trình bày một vấn đề” (Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1).
Thiết kế dạy học thực nghiệm đã đƣợc trình bày tuần tự theo các hoạt
động (bốn hoạt động) và thời gian cụ thể cho từng hoạt động trong mục 2.2
của luận văn.
3.5. Kết quả thực nghiệm
- Điều kiện thời gian không cho phép nên chúng tôi tiến hành thực nghiệm
tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam huyện Sơn Dƣơng tỉnh Tuyên Quang.
Sau khi tiến hành thực nghiệm kết quả chúng tôi thu đƣợc nhƣ sau:
Về phía giáo viên dạy thực nghiệm, cô Nguyễn Thị Mến giáo viên Ngữ
văn Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam tỉnh Tuyên Quang cho biết:
“ Ƣu điểm của thiết kế dạy học thực nghiệm:
1. Thiết kế đã chuẩn bị kĩ, tập trung sâu vào trọng tâm bài học. Hiệu
59
quả bài học tăng lên rõ rệt khi đánh giá mức độ tự tin trình bày vấn đề trước
tập thể lớp của nhiều em học sinh. Nhiều nhóm đã chuẩn bị rất chu đáo về
mặt ngôn ngữ, trang phục, lời nói, nét mặt biểu cảm. Tiết học đã đạt được
mục đích dạy học.
2. Những vấn đề chuẩn bị để trình bày đa dạng, gần với thực tế đời
sống, tâm tư tình cảm của học sinh, đặc biệt là các em học sinh dân tộc thiểu
số trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Những vấn đề giáo viên nêu ra vừa có đề
tài chung có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh, lại có những chủ đề
dành riêng cho học sinh tỉnh Tuyên Quang như chủ đề “Giới thiệu về trang
phục truyền thống của dân tộc em”; “Giới thiệu về một lễ hội độc đáo của
tỉnh Tuyên Quang” được nhiều nhóm lựa chọn.
3. Thiết kế đã nêu cụ thể công việc của giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy học. Giáo viên đã hướng dẫn và có sự chuẩn bị chu đáo, tập trung
cho bài học thể hiện qua công việc chuẩn bị dạy học. Giáo viên hướng dẫn
cách chuẩn bị làm việc nhóm cho học sinh chuẩn bị, đưa ra các yêu cần cụ
thể cho từng vấn đề. Học sinh chủ động chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên
4. Thiết kế đã dành thời lượng phù hợp (30 phút) cho việc thực hành để
học sinh biết cách trình bày một vấn đề trên lớp, đảm bảo hiệu quả của giờ
học. Học sinh được thực hành với thời gian tối đa dưới sự tổ chức của giáo
viên. Thông qua việc thực hành học sinh có thể chủ động nắm bắt kiến thức lí
thuyết vì trước khi lên lớp các em đã phải tìm hiểu nội dung bài học trước để
có thể trình bày tốt một vấn đề.
5. Thiết kế đã nhấn mạnh phương pháp tự học của học sinh khi lựa
chọn chủ đề trình bày hoặc tự đưa ra chủ đề yêu thích, chủ động ghi vào
vở những nội dung quan trọng cần phải ghi nhớ và bài học kinh nghiệm rút
60
ra sau giờ học.
6. Tiết học phát huy được sự tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
học sinh đã mạnh dạn tự tin khi trình bày một vấn đề trước đám đông và có
khả năng giao tiếp linh hoạt trong học tập và cuộc sống.
Nhƣợc điểm của thiết kế dạy học thực nghiệm:
1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị hơi nhiều chủ đề. Cần hạn
chế bớt nội dung các chủ đề nhằm giúp học sinh tập trung để bài trình bày
chất lượng hơn (Cả về cách thức trình bày lẫn nội dung trình bày).
2. Trong giờ học hoạt động của giáo viên còn mờ nhạt, chưa thấy rõ vai
trò định hướng chủ đạo cho học sinh.
3. Giờ học rất có thể không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của những học sinh có ý thức kém.”
Về phía học sinh, sau khi tiết dạy thực nghiệm kết thúc các em tự tin,
chủ động khi trình bày trƣớc tập thể, học sinh kiểm soát bản thân trƣớc đám
đông khi trình bày một vần đề. Học sinh đƣợc kích thích khả năng tự học, tự
đánh giá và tự sửa chữa đƣợc những sai sót khi làm bài và trình bày trƣớc
đám đông. Củng cố thêm tinh thần đoàn kết, tình bạn trong lớp khi làm việc
nhóm. Ngoài ra, các em đã biết vận dụng những kiến thức đã học của nhiều
môn học nhƣ lịch sử, địa lí, sinh học, ….vào bài chuẩn bị để trình bày một
vấn đề thực tế. Thông qua tiết học, học sinh học đƣợc nhiều kĩ năng sống cho
bản thân.
- Chúng tôi đã tiến hành xin ý kiến góp ý về thiết kế dạy học thực
nghiệm bài “Trình bày một vấn đề” của 8 giáo viên Ngữ văn trung học phổ
thông trong và ngoài địa bàn tỉnh Tuyên Quang để xác minh tính khả thi của
đề tài. Bƣớc đầu đã thu đƣợc nhiều kết quả tích cực. Giáo viên đều ủng hộ
61
phƣơng pháp dạy học đƣợc đƣa ra trong thiết kế, đồng thời với kinh nghiệm
giảng dạy lâu năm các giáo viên này cũng chỉ ra những ƣu điểm và hạn chế
còn tồn tại trong thiết kế thực nghiệm.
Trên cơ sở phiếu nhận xét, góp ý và kết quả thực nghiệm cụ thể chúng
tôi thành lập bảng tổng hợp ƣu nhƣợc điểm về thiết kế dạy học để sửa chữa,
bổ sung, hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng
bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh tại một số trƣờng trung
học phổ thông tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:
Giáo viên nhận xét Ƣu điểm Nhƣợc điểm đánh giá
- Thiết kế chuẩn bị kĩ, tập trung - Giáo viên hƣớng dẫn
sâu vào trọng tâm bài học. học sinh chuẩn bị hơi
- Những vấn đề chuẩn bị để trình nhiều chủ đề.
bày đa dạng, gần với thực tế đời - Trong giờ học hoạt động
sống, tâm tƣ tình cảm của học của giáo viên còn mờ
Giáo viên thực sinh, đặc biệt là các em học sinh nhạt, chƣa thấy rõ vai trò
nghiệm dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh định hƣớng chủ đạo cho
Tuyên Quang. học sinh.
- Thiết kế đã dành thời lƣợng phù - Giờ học rất có thể không
hợp (30 phút) cho việc thực hành phát huy đƣợc tính tích
để học sinh biết cách trình bày cực, chủ động, sáng tạo
một vấn đề trên lớp, đảm bảo của những học sinh có ý
hiệu quả của giờ học. thức kém.
- Thiết kế đã nhấn mạnh phƣơng
pháp tự học của học sinh
- Tiết học phát huy đƣợc sự tích
cực, chủ động, sáng tạo của học
62
sinh.
- Thiết kế đảm bảo nội dung theo - Giáo viên sử dụng ít câu
chuẩn kiến thức kĩ năng, khoa hỏi gợi mở hƣớng dẫn học
học, đảm bảo tính hệ thống, làm sinh chiếm lĩnh kiến thức
rõ trọng tâm bài học. lý thuyết.
- Có đổi mới phƣơng pháp dạy - Ứng dụng công nghệ
học, sử dụng linh hoạt các thông tin vào giảng dạy
Giáo viên Ngữ văn phƣơng tiện dạy học nhằm phát còn hạn chế.
tại một số Trƣờng huy tính tích cực và chủ động của - Hoạt động của giáo viên
trung học phổ học sinh trong học tập và chiếm mờ nhạt.
thông trên địa bàn lĩnh tri thức. - Cần bổ sung các hoạt
tỉnh Tuyên Quang - Tích hợp liên môn có tính giáo động thực tế: Thăm di tích
dục đạo đức học sinh đem lại lịch sử "Cây đa Tân Trào"
hiệu quả cao trong hoạt động dạy tại Tỉnh Tuyên Quang để
và học. giáo dục đạo đức và
- Học sinh đƣợc hƣớng dẫn chủ truyền thống "Uống nƣớc
động trong các hoạt động học nhớ nguồn", giáo dục lòng
tập, đƣợc tích cực hóa tƣ duy học yêu nƣớc, từ hào về vẻ
tập, kích thích khả năng tự học. đẹp của non sông gấm
- Tổ chức đƣợc các mối quan hệ vóc....
tƣơng tác trong lớp học. Từ đó - Tổ chức các hoạt động
học sinh biết đánh giá và sửa ngoại khóa, các câu lạc bộ
chữa những sai sót khi học bài. văn học, để đánh giá khả
- Đảm bảo thời gian phân phối năng chọn vấn đề và cách
hợp lí cho các hoạt động. trình bày một vấn đề qua
việc thuyết trình về tác
63
phẩm yêu thích.
- Nội dung đƣợc trình bày rất - Giáo viên sử dụng ít câu
phong phú, đa dạng, gắn liền với hỏi đặc biệt là câu hỏi tạo
thực tế và trải nghiệm, kinh tình huống.
nghiệm của học sinh. Có khả - Có quá nhiều chủ đề
năng liên môn hiệu quả. đƣợc đề cập gây mất tập
- Đặc biệt, các em có thể tự do trung cho học sinh.
chọn một vấn đề gắn liền với - Phần mục tiêu dạy học
thực tế cuộc sống sinh hoạt mà không chia thành mục tiêu
Giáo viên Ngữ văn các em thấy phù hợp, hiểu biết về kiến thức, kĩ năng, thái
tại một số Trƣờng sâu rộng về nó và cảm thấy tự tin độ.
trung học phổ khi trình bày về nó. - Nhiều nhóm không đƣợc
thông ở địa - Cách chia nhóm làm việc khoa trình bày bài làm của
phƣơng khác học. Thiết kế logic đúng trọng mình.
tâm (học sinh đƣợc thực hành
nhiều trên lớp, rèn luyện ý thức
làm vc nhóm)
- Nhiều chủ đề gắn với thực tế
đời sống. Có sử dụng công nghệ
thông tin (học sinh rất thích thú).
Nhiều nhóm trình bày tốt sẽ tạo
ra tính cạnh tranh trong giờ học.
- Học sinh chủ động hoạt động
trong giờ học, học sinh là trung
tâm của mọi hoạt động. Củng cố
thêm tinh thần đoàn kết, tình bạn
64
trong lớp khi hoạt động nhóm.
Với những ý kiến phản hồi về nhƣợc điểm của thiết kế dạy học bài
“Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ
cho học sinh tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang, chúng
tôi xin tiếp thu và có những giải trình nhƣ sau:
+ Những chủ đề đƣợc đƣa ra trong thiết kế bao gồm những chủ đề
chung cho nhiều đối tƣợng học sinh không chỉ học sinh trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang mà thiết kế còn hƣớng tới bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu
ngữ cho nhiều đối tƣợng học sinh ở các vùng miền khác nhau. Hơn nữa, có
không quá 02 nhóm lựa chọn cùng chủ đề nên phải đƣa ra hệ thống các chủ
đề, đề tài phong phú tạo hứng thú, tinh thần tự học, làm việc nhóm cho các
em học sinh.
+ Đối với giờ học cung cấp lý thuyết gắn với thực hành thì vai trò của
ngƣời giáo viên là ngƣời định hƣớng, gợi mở. Học sinh hoạt động là chủ yếu,
học sinh phải tích cực, chủ động trong quá trình lĩnh hội và vận dụng kiến thức.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ vào bài học không chỉ thể
hiện trên lớp, học sinh khi chuẩn bị bài làm của mình trƣớc khi lên lớp các em
đã phải thu thập tài liệu trong sách vở, trên mạng internet, đánh máy bài trình
bày của nhóm và gửi vào email cho giáo viên giảng dạy. Nhƣ vậy, trong quá
trình chuẩn bị học sinh đã ứng dụng công nghệ thông tin vào bài làm của
mình. Ngoài ra, trên lớp các em có thể trình bày bài làm của mình bằng cách
trình chiếu các slides tin học.
+ Nhiều nhóm tiếc nuối vì không đƣợc trình bày bài làm của mình vì
thời gian trên lớp có 45 phút chỉ đủ cho 3 đến 4 nhóm trình bày và nhận xét.
Vậy nên giáo viên cần tổ chức cho các nhóm còn lại trình bày vào giờ sinh
65
hoạt lớp hoặc trong một buổi học ngoại khóa.
Từ những kết quả thực nghiệm trên chúng tôi có thêm cơ sở để khẳng
định tính khả thi của đề tài cũng nhƣ hƣớng đi đúng đắn của luận văn. Trên cơ
sở đó chúng tôi sẽ sửa chữa, bổ sung hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình
bày một vấn đề” sao cho phù hợp với nhiều đối tƣợng học sinh góp phần bồi
dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho các em học sinh lớp 10.
3.6. KẾT LUẬN CHUNG VỀ THỰC NGHIỆM
Những kết quả rất khả quan ban đầu trên đã giúp chúng tôi xác định
đƣợc hƣớng đi của đề tài là đúng và chúng tôi có cơ sở để đƣa ra những đánh
giá về đề tài. Sau khi tiến hành thực nghiệm, thống kê, tổng hợp kết quả điều
tra thực trạng chúng tôi có những nhận xét nhƣ sau:
- Xét về mặt chuyên môn sƣ phạm: Nội dung thiết kế thực nghiệm đều
đạt đƣợc mục đích đề ra với những nội dung và phƣơng pháp cụ thể, giáo viên
và học sinh dễ dàng thực hiện. Tiết học đã truyền tải đƣợc trọng tâm kiến
thức, hoàn thành kế hoạch bài giảng về khối lƣợng kiến thức cũng nhƣ thời
gian. Việc sử dụng, lựa chọn kết hợp các phƣơng pháp, phƣơng tiện, hình
thức dạy học trong các giờ thực nghiệm nhìn chung đã phát huy đƣợc tính tích
cực, chủ động của học sinh trong lớp. Đa số học sinh hiểu bài, sôi nổi hào
hứng trong những hoạt động tập thể nhƣ: hoạt động nhóm, trình bày bài chuẩn
bị. Song để việc thử nghiệm thiết kế đạt kết quả cao hơn nữa, giáo viên cần có
sự đầu tƣ kĩ lƣỡng trong việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy cho chu đáo và chủ
động; cần sử dụng không gian lớp học một cách sáng tạo để phù hợp với việc
tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm; linh hoạt trong cách đặt câu hỏi,
kích thích hứng thú học tập để tất cả học sinh đều vào cuộc một cách tự nhiên,
hiệu quả nhất.
- Xét về mặt hiệu quả thực nghiệm, việc thực nghiệm ở trƣờng trung học
66
phổ thông Sơn Nam đƣợc diễn ra và đạt kết quả nhƣ mong muốn. Hiệu quả
này thể hiện rõ ở việc giáo viên dạy thực nghiệm linh hoạt và nhạy bén hơn
khi dạy bằng các giáo án thực nghiệm, với các phƣơng tiện dạy học hiện đại;
Học sinh mạnh dạn, hăng hái phát biểu xây dựng bài, chủ động, tự tin khi
trình bày một vấn đề trƣớc tập thể. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng từ điều kiện vật
chất của trƣờng học và phần lớn học sinh là dân tộc ít ngƣời nên hiệu quả của
việc thực nghiệm chƣa đạt mức cao nhất.
Qua thực tế dự giờ, chúng tôi thấy rằng giờ dạy thực nghiệm đã đảm bảo
đƣợc tối đa những yêu cầu của một giờ học hình thành và cung cấp kiến thức
mới cho học sinh: Giáo viên chỉ đóng vai trò hƣớng dẫn tổ chức còn học sinh
tự mình hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng dƣới các
hình thức thảo luận nhóm, trao đổi, tranh luận…Đồng thời tiết dạy thực
nghiệm đã giúp các em học sinh đƣợc luyện tập, thực hành trình bày một vấn
đề trƣớc tập thể một cách tự tin, thuyết phục. Giờ học thực sự sôi nổi và hiệu
quả. Chúng tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng giáo án điện tử hay sự hỗ trợ của
các phƣơng tiện dạy học hiện đại là cần thiết, sẽ giúp giáo viên thuận lợi hơn
khi sử dụng phƣơng pháp dạy học mới (linh hoạt, chủ động và tiết kiệm thời
gian) và tạo hứng thú, gây ấn tƣợng cho học sinh. Song không nên lạm dụng
nó mà đánh mất đi vai trò chính của ngƣời học. Phải sử dụng phù hợp, có hiệu
quả, coi công nghệ thông tin là phƣơng tiện hỗ trợ dạy học.
Từ kết quả và những đánh giá nhƣ trên của quá trình thực nghiệm,
chúng tôi đã gặt hái đƣợc những thành công đáng kể về mặt lí luận cũng nhƣ
thực tiễn. Không có một phƣơng pháp nào là chuẩn mực cho ngƣời giáo viên
để giảng dạy cho mọi đối tƣợng học sinh, tất cả đều cần đƣợc đƣa vào thực tế
và đƣợc thực tế kiểm nghiệm. Qua thực nghiệm chúng tôi xác định đƣợc
những yếu tố cơ bản chi phối quá trình thực nghiệm nói riêng và quá trình dạy
học nói chung (điều kiện vật chất, giao lƣu văn hóa, trình độ chuyên môn của
67
giáo viên và khả năng nhận thức của học sinh…). Thực tế dạy thực nghiệm
cũng cho thấy những yêu cầu đặc biệt của giờ dạy cung cấp lí thuyết gắn liền
với luyện tập thực hành trên lớp. Chỉ có thực nghiệm và thông qua thực
nghiệm, ngƣời nghiên cứu mới có thể nhận thức đúng đắn về giá trị và hƣớng
đi của đề tài mà mình đang nghiên cứu là phù hợp hay chƣa. Từ đó sẽ có
những bổ sung điều chỉnh để đề tài vừa đảm bảo đƣợc tính khoa học, vừa có
68
hiệu quả trong thực tế giảng dạy.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nƣớc, đƣợc
ƣu tiên trƣớc nhất, thậm chí đi trƣớc một bƣớc so với các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội khác. Với tƣ cách là động lực cho sự phát triển, giáo dục
và đào tạo chuẩn bị cho con ngƣời sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh
vực, cho lợi ích hiện tại và tƣơng lai của đất nƣớc. Đổi mới phƣơng pháp dạy
học là một trong những bƣớc đi quyết định thành công của sự nghiệp giáo dục
nƣớc nhà. Các nhà nghiên cứu phƣơng pháp dạy học đã không ngừng nghiên
cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận của dạy học trong nƣớc và
nƣớc ngoài với hi vọng góp phần đƣa nền giáo dục của nƣớc ta ngày càng
hiện đại hơn, đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.
Môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông với mục tiêu cung cấp cho
học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về
ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Để đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng
tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, phƣơng pháp học tập tƣ duy,
đặc biệt là phƣơng pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào
cuộc sống thì năng lực giao tiếp khẩu ngữ của học sinh đang ngày đƣợc quan
tâm chú ý hơn. Theo nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục, việc bồi dƣỡng năng
lực giao tiếp khẩu ngữ, đặc biệt là kĩ năng nghe nói cho học sinh là một trong
những yêu cầu cơ bản của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông.
Theo một số điều tra thực tế ở nƣớc ngoài về việc sử dụng ngôn ngữ trong
69
cuộc sống, làm việc hàng ngày phát hiện ra rằng nghe chiếm 45%, nói chiếm
30%, đọc chiếm 16% và viết chỉ chiếm 9%. Nghe và nói chiếm đến 75%, đọc
và viết chiếm 25%. Điều này có nghĩa là thông tin liên lạc giữa con ngƣời chủ
yếu dựa vào nghe và nói.
Hơn nữa, chúng ta đang sống trong một thế giới hội nhập quốc tế và khu
vực ngày càng sâu rộng, chính môi trƣờng đó đòi hỏi con ngƣời ngày càng
phải mở rộng giao tiếp và giao tiếp nhiều hơn. Để tồn tại và phát triển, con
ngƣời phải tham gia vào các mối quan hệ xã hội, khi đó con ngƣời cần đến
giao tiếp, cũng chính trong quá trình giao tiếp tƣ duy của con ngƣời ngày càng
phát triển và hoàn thiện. Giao tiếp khẩu ngữ là một chiến lƣợc giảng dạy và
trong đời sống xã hội, nó đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy và phát
triển trí tuệ của học sinh, có tác dụng quan trọng đối với việc học tập suốt đời,
là nền tảng cho cuộc sống và công việc.
2. Việc vận dụng quan điểm dạy học theo định hƣớng phát triển năng
lực và dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy
học Ngữ văn là một nhu cầu cấp thiết nhằm đạt chất lƣợng, hiệu quả lớn nhất
trong thực hiện mục tiêu dạy học. Tƣ tƣởng dạy học theo hƣớng phát triển
năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh, đƣợc cụ thể hóa nhờ các phƣơng
pháp, các biện pháp, các hình thức tổ chức hoạt động của thầy và trò trong
quá trình dạy học. Nhờ đó các em nắm kiến thức sâu hơn, vững hơn, đồng
thời vận dụng linh hoạt những tri thức đã tiếp thu vào cuộc sống để tự tin giao
tiếp, trao đổi, thảo luận hay trình bày một vấn đề trƣớc tập thể.
Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài,
chúng tôi xác định luận văn bƣớc đầu đã đạt đƣợc kết quả nhƣ sau:
- Qua việc xác định cơ sở lí thuyết, thực tiễn của đề tài, chúng tôi có
đƣợc những hiểu biết cơ bản, khoa học về dạy học phát triển năng lực giao
70
tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ văn; hiểu biết về thực trạng
của việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn
10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang. Từ cơ sở lí
thuyết cũng nhƣ thực tiễn, chúng tôi đề xuất thiết kế dạy học bài “Trình bày
một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1) theo định hƣớng phát
triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ.
- Vận dụng cơ sở lí thuyết các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học theo
hƣớng tích cực và phƣơng pháp giao tiếp vào việc cụ thể hóa bằng các hoạt
động trong dạy học bài “Trình bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10
tập 1 theo định hƣớng phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ tại một số
trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang. Trên cơ sở đó đƣa ra quy trình
phát hiện, khắc sâu kiến thức, thực hành luyện tập, củng cố qua ba giai đoạn
chính, đó là giai đoạn chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn lên lớp và giai
đoạn sau khi lên lớp. Kết hợp xen kẽ phƣơng tiện hỗ trợ dạy học nhƣ ứng
dụng công nghệ thông tin, nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho
học sinh lớp 10, giúp các em chủ động, tự tin, bản lĩnh hơn trong học tập và
giao tiếp xã hội. Qua đó chúng tôi thấy đƣợc mối quan hệ gắn bó giữa các
thành tố của quá trình dạy học bao gồm: Mục tiêu, nội dung chƣơng trình,
sách giáo khoa, phƣơng pháp dạy học, hình thức tổ chức lớp học và phƣơng
tiện hỗ trợ dạy học.
- Vấn đề nghiên cứu của luận văn là vấn đề thiết thực, có tính khả thi.
Ngƣời nghiên cứu đã đƣa ra đƣợc những mục đích, nội dung và phƣơng pháp
nghiên cứu rõ ràng, cụ thể.
- Những vấn đề lí luận đƣa ra trong đề tài có cơ sở khoa học, có nguồn
gốc rõ ràng. Các chủ đề luyện nói bám sát chƣơng trình sách giáo khoa, phù
71
hợp với sở thích, tâm sinh lý của học sinh.
- Kết quả điều tra thực nghiệm đã chứng minh những hiệu quả đạt đƣợc
của các phƣơng pháp và giáo án đã đƣợc thực nghiệm trong luận văn. Lớp
đƣợc thực nghiệm có chất lƣợng học tập cao hơn lớp đối chứng, học sinh ở
lớp thực nghiệm chủ động, tự giác, tích cực phát biểu và tham gia các hoạt
động và vì thế hứng thú học tập, tính tự chủ, tự tin giao tiếp, tranh luận, trình
bày một vấn đề của các em khá hơn một cách rõ rệt. Mặc dù mới tiến hành
thử nghiệm trên địa bàn và quy mô nhỏ nhƣng những kết quả ban đầu cho
phép chúng tôi tin tƣởng và hi vọng vào tính khả thi của đề tài.
3. Mặc dù các phƣơng phƣơng pháp mà chúng tôi đƣa ra đã mang đến
hiệu quả tích cực ở phía học sinh trong dạy học Ngữ văn nói chung và dạy
học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nói
riêng, nhƣng tất cả song phụ thuộc vào năng lực và khả năng vận dụng của
ngƣời giáo viên. Trƣớc yêu cầu đổi mới về phƣơng pháp giáo dục và để thực
hiện đƣợc mục tiêu của phân môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông,
chúng tôi hi vọng rằng, vấn đề đƣợc đƣa ra trong đề tài này sẽ có những đóng
góp thiết thực và nó trở thành một vấn đề khoa học nhận đƣợc sự quan tâm,
đánh giá, trao đổi và vận dụng của các nhà phƣơng pháp cũng nhƣ các giáo
viên trực tiếp tham gia giảng dạy môn Ngữ văn mà cụ thể là giảng dạy khối
học sinh lớp 10.
4. Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi đƣa ra một số
đề xuất nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh một số
trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:
- Cần xây dựng một hoặc một số bài học lý thuyết cụ thể về giao tiếp
khẩu ngữ và xác định rõ mục tiêu bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ
72
trong chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. Biên soạn các bài học
về bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong sách giáo khoa Ngữ văn theo
định hƣớng thực hành.
- Kiểm tra, thi đối với học sinh có vai trò rất quan trọng. Đa phần giáo
viên cố gắng dạy những nội dung gần giống với đề thi. Phải đổi mới cách
thức kiểm tra đánh giá năng lực của học sinh, cần đƣa nội dung của giao tiếp
khẩu ngữ vào đề thi với những hình thức phù hợp.
- Nhà trƣờng phổ thông cần nâng cao hơn nữa chất lƣợng dạy học Ngữ
văn bằng các hoạt động nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên cũng
nhƣ khích lệ sự quan tâm đổi mới phƣơng pháp dạy học của họ, ví dụ: Tổ
chức bồi dƣỡng chuyên môn, tổ chức hội thảo chuyên đề bồi dƣỡng năng lực
giao tiếp khẩu ngữ trong dạy học Ngữ văn, tổ chức thi giáo viên dạy giỏi theo
tinh thần đổi mới, tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm dạy học cho giáo viên
văn; giáo viên cần nhiều thời gian đầu tƣ cho giáo án, tìm tòi cách tổ chức giờ
dạy, xây dựng hệ thống câu hỏi, cách dẫn dắt, uốn nắn những sai lệch của học
sinh sao cho phù hợp với nguyên tắc của qui luật sáng tạo cũng nhƣ các qui
tắc trong giao tiếp…
- Trong quá trình dạy học giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức học
tập, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phƣơng pháp dạy học nhằm phát huy
năng lực tự học mới có thể nâng cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh.
Để rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh, cần chú ý tích hợp ba
phân môn: Tiếng việt, Làm văn, Văn học; kết hợp với những buổi phụ đạo,
những buối ngoại khóa, thực tế, sinh hoạt tập thể, những cuộc thi nói, thi kể
chuyện, thi hùng biện…Để tạo ra một môi trƣờng vừa học vừa thực hành,
khơi dạy ở học sinh hứng thú học tập và rèn luyện.
- Để dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn
73
10 tập 1 nói riêng và dạy học Ngữ văn theo định hƣớng phát triển năng lực
giao tiếp khẩu ngữ nói chung cần phải có sự đổi mới tòa bộ từ mục tiêu, nội
dung chƣơng trình sách giáo khoa, phƣơng pháp, hình thức tổ chức đến
phƣơng tiện dạy học. Tuy nhiên vấn đề cơ bản nhất đó là sự quan tâm đầu tƣ
của ngành, ý thức trách nhiệm và trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ của
ngƣời giáo viên; ý thức và khả năng tích cực trong học tập của học sinh
Trên đây là một số kết luận và đề xuất của chúng tôi sau khi tiến hành
nghiên cứu đề tài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do kinh nghiệm nghiên
cứu khoa học bản thân còn hạn chế, điều kiện thời gian làm luận văn không
cho phép nhƣng với kết quả đã thu đƣợc, chúng tôi hi vọng vấn đề mà chúng
tôi đƣa ra trong luận văn sẽ trở thành vấn đề khoa học và nhận đƣợc sự quan
tâm đánh giá, trao đổi, góp ý của các nhà phƣơng pháp cũng nhƣ các thầy cô
giáo dạy Ngữ văn ở các trƣờng phổ thông và các bạn đọc yêu mến khoa học
74
trên toàn quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, “Dạy Tiếng Việt là một hoạt động và bằng hoạt động”, Tạp chí
ngôn ngữ, số 4/2000.
2. Phạm Thị Anh (2009), Rèn luyện năng lực diễn đạt cho học sinh THCS
trong dạy học kiểu văn bản tự sự, Luận án tiến sĩ Giáo dục học.
3. Nguyễn Thành Ngọc Bảo, Tạp chí khoa học giáo dục, số 56, 2014.
4. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
văn, Nxb Giáo dục.
5. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện
chương trình, sách giáo khoa lớp 10 Trung học phổ thông môn Ngữ văn,
Nxb Giáo Dục.
6. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb
Giáo dục.
7. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb
Giáo dục.
8. Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục
Việt Nam từ 2011-2020 (Dự thảo lần 26).
9. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Hướng dẫn đánh giá năng lực của học sinh cuối
cấp tiểu học, Nxb Giáo dục, 2014.
10. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Một số vấn đề về mục tiêu và chuẩn trong
chương trình giáo dục phổ thông sau 2015, Nxb Giáo Dục.
11. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt.
12. Nguyễn Viết Chữ (2007), “Về việc bồi dưỡng kĩ năng đọc, nói, nghe, viết
75
cho học sinh trong dạy học Ngữ văn”, Tạp chí Giáo dục, số 172.
13. Trần Trí Dõi, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
14. Trần Trí Dõi (2004), Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền
núi ba tỉnh miền núi phía bắc, những kiến nghị và giải pháp, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Đƣờng (2009), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb
Hà Nội.
16. Đỗ Thu Hà (2011), “Tầm quan trọng của việc phát triển kĩ năng nói cho
sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo nghiên cứu sinh, Viện KHGDVN.
17. Đỗ Thu Hà (2012), “Đề xuất một số nội dung dạy học nhằm phát triển kĩ
năng nghe - nói cho sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về
Phát triển kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên sƣ phạm, Nxb Giáo dục.
18. Nguyễn Bích Hà (2007), Vấn đề dạy văn trong nhà trường THPT hiện
nay, Văn học và tuổi trẻ số 12, Nxb Giáo dục.
19. Đỗ Thu Hà (2013), “Rèn luyện kĩ năng nghe- nói cho học sinh trong dạy
học Ngữ văn ở bậc THPT”, Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về dạy học Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục.
20. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
21. Trần Bá Hoành (2001), Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích
cực, Tạp chí Giáo dục số 32.
22. Trần Bá Hoành (2003), Dạy học lấy người học làm trung tâm - Nguồn
gốc, bản chất, đặc điểm Thông tin khoa học Giáo dục số 96.
23. Lê Thị Thu Hằng (2009), “Phát triển hài hòa bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc,
76
viết cho học sinh Trung học phổ thông trong học Ngữ văn”, Kỉ yếu hội
thảo Đổi mới phương pháp dạy học các môn Khoa học Xã hội, Đại học
Sƣ phạm Hà Nội, tháng 12.
24. Phạm Thị Thu Hiền (2010), “Việc rèn luyện kĩ năng nghe và nói cho học
sinh tiểu học ở Cafolia- Mĩ”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 52.
25. Nguyễn Chí Hòa (2009), Khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng giao
tiếp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Trần Bá Hoành (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách giáo khoa, Nxb Đại học sƣ phạm.
27. Nguyễn Thúy Hồng (2004), Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh phổ
thông, Tài liệu Bồi dƣỡng giáo viên chu kì 3, Nxb Giáo dục.
28. Nguyễn Thúy Hồng (2006), Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Trung học
cơ sở, Tạp chí Giáo dục, số 131.
29. Đặng Thành Hƣng (2001), Khái niệm phương pháp dạy học trong điều
kiện đổi mới, Thông tin khoa học giáo dục số 83.
30. Nguyễn Văn Lợi (1999), Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ dân tộc
thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân tộc học, Tạp chí ngôn ngữ (số 3).
31. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2004), Phương pháp dạy học văn tập 1, Nxb
Đại học Sƣ phạm.
32. Trần Thị Hiền Lƣơng (2008), Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ
năng nói cho học sinh tiểu học ở môn tiếng Việt, Đề tài khoa học cấp
Viện, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
33. Mác, Ăngghen, Lênin bàn về ngôn ngữ (1962), Nxb Sự thật.
34. Lê Đức Mậu (2009), “Môn Văn ở nhà trường dạy nói, dạy viết”, Tạp chí
77
Dạy và học ngày nay, số 11.
35. Ngô Giang Nam (2011), “Những yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp
của học sinh tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc, Tạp chí Giáo dục, tập
2, số 266.
36. Ngô Giang Nam (2011), “Thực trạng giáo dục kĩ năng giao tiếp của học sinh
tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc”, Tạp chí giáo dục, số đặc biệt tháng 9.
37. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ văn học, Nxb Đà Nẵng.
38. Phạm Hồng Quang (2002), Một số quan niệm về học tập và vai trò của
người dạy trong dạy học, Tạp chí Giáo dục số 36.
39. Nguyễn Huy Quát (2007), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp
dạy học văn, Nxb Đại học Thái Nguyên.
40. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn đề dạy học văn
trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
41. Đặng Thị Lệ Tâm (2011), “Vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để
dạy học nghi thức lời nói cho học sinh tiểu học”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ
học Toàn quốc.
42. Đặng Thị Lệ Tâm (2011), “Dạy học nghi thức lời nói trong môn Tiếng
Việt cho học sinh tiểu học theo nguyên tắc giao tiếp”.Tạp chí giáo dục, số
9, tr 91-93.
43. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ
văn trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
44. Hoàng Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
45. Hoàng Ngọc Thống (2011), Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông
theo hướng tiếp cận năng lực, Tạp chí Khoa học giáo dục (số 68).
46. Hoàng Ngọc Thống (2003), Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình
78
thành năng lực văn học cho học sinh, Tạp chí Giáo dục.
47. Hoàng Ngọc Thống (2009), Đánh giá năng lực đọc- hiểu cho học sinh
nhìn từ yêu cầu của Pisa, Tạp chí Khoa học giáo dục (số 40).
48. Nguyễn Trí (2006), Một số vấn đề về dạy hội thoại cho học sinh tiểu học,
Nxb Giáo Dục.
79
49. Từ điển bách khoa toàn thƣ Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 2011
PHỤ LỤC
Một số thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ
văn 10 (tập 1).
1. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” của một giáo viên Ngữ văn
Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang.
Tiết 47:
Làm văn:
TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ
A. Mục tiêu bài học
Giúp HS:
1. Về kiến thức
- Hoàn thiện kiến thức về văn bản thuyết minh (đặc điểm, yêu cầu và phƣơng
pháp thuyết minh).
2. Về kĩ năng:
- Biết trình bày miệng một vấn đề trƣớc tập thể.
3. Về thái độ:
- Mạnh dạn, bình tĩnh, tự tin khi trình bày một vấn đề.
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
- Giáo viên:
+ Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án
+ Tài liệu tham khảo
- Học sinh: sách giáo khoa, vở soạn, vở ghi.
C. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng 6 bài “Ca dao than thân yêu thƣơng tình
nghĩa” và phân tích một bài ca dao mà em tâm đắc.
2. Bài mới:
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1: Tìm hiểu tầm quan I. Tầm quan trọng của việc trình bày
trọng của việc trình bày một vấn đề. một vấn đề.
? Tầm quan trọng của việc trình bày - Bày tỏ suy nghĩ, nhận thức, nguyện
một vấn đề? vọng, tình cảm cá nhân.
- Thuyết phục ngƣời nghe, đồng tình,
Giáo viên dùng diễn giảng chứng chia sẻ với mình.
minh tầm quan trọng của việc trình - Tăng cƣờng hiệu quả cho công việc
bày một vấn đề (có thể thông qua kể mà mình mong muốn.
chuyện về các nhà hùng biện)
* Hoạt động 2: Tìm hiểu công việc II. Công việc chuẩn bị
chuẩn bị trình bày một vấn đề * VD: Giả định anh (chị) đã đăng kí
- Giáo viên nêu tình huống giả định trình bày trong buổi sinh hoạt câu lạc
và gợi ý để học sinh chuẩn bị một số bộ do Đoàn trƣờng tổ chức với đề tài
công việc “Thời trang và tuổi trẻ”
- Học sinh nắm đƣợc những công 1, Chọn vấn đề trình bày
việc cần chuẩn bị và thực hiện theo - Tìm xem đề tài “ Thời trang và tuổi
yêu cầu của giáo viên trẻ”có thể bao gồm những vấn đề
- Các học sinh khác theo dõi, nhận nào?
xét và bổ sung - Xác định xem ngƣời nghe là những
ai (tuổi tác, giới tính, trình độ, nghề
nghiệp)
- Xác định nên chọn vấn đề nào (lí
do, thời gian, mức độ trình bày, sự
quan tâm…)
=> Việc lựa chọn vấn đề trình bày
tuỳ thuộc vào đề tài chung, hiểu biết
của bản thân, tính hấp dẫn của khía
cạnh đƣợc lựa chọn, sự quan tâm của
ngƣời nghe..
2, Lập dàn ý cho bài trình bày
- Trình bày bao nhiêu ý, đó những ý
nào?
- Các ý đƣợc xắp xếp ra sao? ý nào là
trọng tâm của bài trình bày
- Chuẩn bị trƣớc những câu chào hỏi,
kết thúc, chuyển ý và dự kiến điều
khỉên giọng điệu, cử chỉ khi nói
- Từ hệ thống ý -> lập đề cƣơng
*Hoạt động 3: Tìm hiểu phần trình III. Trình bày
bày. - Cần bám sát dàn ý đã chuẩn bị sẵn
1. Bắt đầu trình bày
- Bƣớc lên diễn đàn: bình tĩnh, tự tin
- Bắt đầu (chào hỏi khi xuất hiện)
- Tự giới thiệu (nếu cần)
2. Trình bày nội dung chính
- Giới thiệu nội dung chính
- Trình bày từng ý chính, có chuyển ý
từ nội dung này sang nội dung khác.
- Chú ý phản ứng của ngƣời nghe để
điều chỉnh nội dung, cách nói, tƣ thế,
điệu bộ của mình cho phù hợp.
3. Kết thúc và cảm ơn
- Tóm tắt nhấn mạnh một số ý chính.
- Cảm ơn ngƣời nghe.
* Ghi nhớ: sách giáo khoa trang 150
* Hoạt động 4: Hƣớng dẫn học sinh IV. Luyện tập
làm bài tập trong phần luyện tập. Bài 1:
Bài 1: Hƣớng dẫn học sinh làm trên (1) Bắt đầu trình bày
lớp - Chào các bạn . Tôi rất phấn khởi…
- Chào các bạn. Cảm ơn các bạn đã
tới đây
- Trƣớc khi bắt đầu, cho phép tôi
đƣợc nói đôi điều về bản thân…
(2)Trình bày nội dung chính
- Giờ chúng ta hãy đi vào nội dung
chủ yếu của đề tài…
(3) Chuyển qua chủ đề khác
- Đã xem xét tất cả các phƣơng án có
thể…
- Giờ chúng ta chuyển sang vấn đề
môi trƣờng
Bài 2: Hƣớng dẫn học sinh làm ở (4)Tóm tắt và kết thúc nội dung trình
nhà bày
- Tôi muốn kết thúc bài nói….
- Giờ tôi sắp kết thúc bài nói…
3. Củng cố và luyện tập:
- Hệ thống lại kiến thức cơ bản
- Cách thức trình bày một vấn đề
4. Hƣớng dẫn học bài ở nhà:
- Hoàn thiện phần bài tập trong sách giáo khoa.
- Soạn bài “Lập kế hoạch cá nhân”.
2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách Thiết kế bài giảng
Ngữ văn 10 (tập 1), Nguyễn Văn Đƣờng chủ biên:
Tiết 47
LÀM VĂN
TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ
A. Kết quả cần đạt
1. Nắm đƣợc các yêu cầu cơ bản của việc trình bày một vấn đề trƣớc
nhiều ngƣời, tức là khả năng lập ngôn và thuyết phục ngƣời nghe đồng ý,
đồng tình, đồng cảm với luận điểm của mình.
- Biết cách trình bày một vấn đề theo đề cƣơng đã chuẩn bị.
- Rèn luyện tính tự tin và khả năng điều chỉnh bài nói cho phù hợp với đối
tƣợng và tình huống cụ thể.
2. Tích hợp với Văn, Tiếng Việt với vốn sống thực tế của bản thân.
B. Thiết kế dạy – học
Hoạt động 1
XÁC ĐỊNH TẦM QUAN TRỌNG CỦA
VIỆC TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ
- Giáo viên yêu cầu học sinh trao đổi, thảo luận một số câu hỏi sau:
1. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày thì hình thức giao tiếp nào đƣợc sử
dụng với tần số cao nhất? Tại sao?
2. Trong cuộc sống hàng ngày, có thể gặp những hình thức giao tiếp bằng lời
nói nào?
3. Các hình thức ấy có gì giống và khác nhau?
4. Mỗi ngƣời đều có thể nói đúng, nói hay đƣợc không? Tại sao?
- Giáo viên gợi dẫn học sinh trả lời:
1. Trong hoạt động giao tiếp hằng ngày thì hình thức giao tiếp bằng lời nói
đƣợc sử dụng với tần suất cao nhất, vì:
a) Trong gia tộc, gia đình:
- Con cái thƣờng phải chào hỏi bố mẹ, để đạt đƣợc yêu cầu nguyện vọng…
- Bố mẹ thƣờng phải dặn dò nhắc nhở hoặc giải thích về khả năng đáp ứng
hay không đáp ứng đƣợc các yêu cầu nguyện vọng của con cái…
- Anh chị em trao đổi tâm tƣ tình cảm hoặc trao đổi về công việc…
- Các cuộc gặp mặt nhân dịp giỗ, tết thì các thành viên trong gia tộc, gia đình
thƣờng phải trao đổi bàn bạc công việc chung hoặc hàn huyên tâm sự…
…
b) Khi đến trƣờng hoặc đến cơ quan:
- Thầy – trò giao tiếp với nhau trong giờ học chính khóa, ngoại khóa, giờ ra
chơi…
- Hoạt động giao tiếp trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn…
- Bạn bè cùng lớp, cùng trƣờng trò chuyện với nhau trong giờ ra chơi, trong
các buổi thăm quan, dã ngoại…
- Thầy – trò, bạn bè gặp gỡ và trò chuyện nhân ngày 20-11 hoặc các ngày kỉ
niệm lớn…
- Ở cơ quan, lãnh đạo và nhân viên giao tiếp trong và ngoài giờ hành chính,
giờ lao động; nhân viên giao tiếp với nhân viên trong quan hệ công việc hoặc
quan hệ cá nhân…
…
c) Trong xã hội:
- Các hoạt động giao tiếp khi đến cơ quan bạn, đến cửa hàng, đến triển lãm,
đến rạp xem phim, đến sân vận động…
- Các hoạt động giao tiếp trong việc giải quyết các tranh chấp, các va chạm về
quyền lợi vật chất hoặc tinh thần…
…
Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày cũng nhƣ trong học tập, công tác, chúng
ta thƣờng xuyên gặp tình huống phải trình bày một vấn đề nào đó trƣớc tập
thể hoặc trƣớc ngƣời khác để bày tỏ những suy nghĩ, tình cảm của mình nhằm
mục đích thuyết phục ngƣời nghe đồng ý, đồng tình với mình.
2. Có thể gặp hai hình thức giao tiếp bằng lời nói là:
a) Giao tiếp tự do:
Đây là hình thức thƣờng diễn ra ngoài giờ hành chính, giờ lao động, giờ học
chính khóa… Nó thƣờng là các cuộc trò chuyện, trao đổi tƣ tƣởng tình cảm
mang tính chất của những quan hệ cá nhân, do đó hoàn toàn tự do về nội dung
(muốn nói gì thì nói), về thời gian (nói bao lâu tùy thích), về không gian (nói
ở đâu cũng đƣợc) và về ngôn ngữ (có thể dùng biệt ngữ, tiếng lóng, cử chỉ
điệu bộ…).
b) Giao tiếp quy phạm:
Đây là hình thức diễn ra trong giờ hành chính, giờ lao động, giờ học… Nó là
hoạt động giao tiếp có nội dung quy định, thời gian quy định, không gian quy
định và ngôn ngữ phải đảm bảo tính trong sáng, chuẩn mực.
* Hai hình thức trên khác nhau ở chỗ:
- Giao tiếp tự do là khẩu ngữ thân mật, suồng sã.
- Giao tiếp quy phạm là một trong những hình thức hoạt động văn hóa của
con ngƣời.
3. Từ xƣa, cha ông ta đã dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”, nghĩa là
muốn nên ngƣời thì cái gì cũng phải học; trong đó cái “học nói” là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để làm ngƣời bởi “ăn không nên đọi, nói
không nên lời” đƣợc coi là một sự sỉ nhục.
Thế nhƣng nhiều ngƣời cứ tƣởng đã là con ngƣời thì ai mà chẳng nói
đƣợc, việc gì phải học? Đó là một suy nghĩ rất sai lầm. Đúng là con ngƣời ta
sinh ra đã biết khóc cƣời: Con người có miệng có môi- Khi buồn thì khóc khi
vui thì cười, nhƣng khóc cƣời (hiểu theo nghĩa là nói năng, bày tỏ thái độ tình
cảm) cũng có ba bảy loại khác nhau. Chẳng học hành gì cả mà nói thì đó là
nói tự phát, thƣờng không có đầu có đuôi, do đó thƣờng không “truyền” đƣợc
đúng ý nghĩ của mình tới ngƣời nghe và hiển nhiên là ngƣời nghe chẳng hiểu
gì cả, đôi khi còn cảm thấy buồn cƣời. Học hành bài bản, rèn luyện kĩ lƣỡng
thì có thể nói đúng đƣợc điều mình cần nói, giúp cho ngƣời nghe dễ dàng
“hiểu” đƣợc điều cần trao đổi, bàn bạc để tìm ra tiếng nói chung.
Nhƣ vậy, trong lời dạy của cha ông ta, thì:
- Học “ăn” tức là “ăn trông nồi, ngồi trông hƣớng”.
- Học “nói” tức là nói có đầu có đuôi, nói có văn hóa: Chim khôn kêu tiếng
rảnh rang- Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
- Học “gói, mở” tức là học làm một cách có ý thức, có bài bản, có trình tự…
Tóm lại, ai cũng có thể nói đúng, nói hay nếu có quyết tâm học tập, rèn luyện
để trở thành ngƣời “lập ngôn”.
Hoạt động 2
XÁC LẬP THAO TÁC CHUẨN BỊ
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác: Chọn đề tài:
a) Tên đề tài:
- Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ”.
- Vấn đề “Môi trƣờng và sự sống của con ngƣời”.
- Vấn đề “Hiểm họa ma túy học đƣờng”.
…
b) Điều kiện để chuẩn bị cho bài nói (thuyết trình)
- Phải am hiểu sâu sắc vấn đề sẽ trình bày.
- Phải có hứng thú chuẩn bị thì mới có hứng thú trình bày.
- Phải có tƣ liệu, số liệu phong phú về vấn đề sẽ trình bày…
c) Xác định đối tƣợng nghe:
- Nói cho ai nghe?
- Trình độ, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp… của ngƣời nghe?
- Ngƣời nghe đang quan tâm tới vấn đề gì?
d) Xác định mục đích nói:
- Nói để tuyên truyền vận động?
- Nói để giáo dục hoặc giao nhiệm vụ?
- Nói để tham khảo trong một buổi ngoại khóa?
e) Xác định cách nói:
- Bƣớc 1: Nói đúng thông tin chính xác, ngôn ngữ chuẩn mực
- Bƣớc 2: Nói hay, thông tin mới mẻ, ngôn ngữ sinh động, có “khẩu khí”
hùng biện.
Hoạt động 3
LẬP DÀN Ý CHO BÀI TRÌNH BÀY
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác sau:
1. Xác định các ý chính:
Ví dụ:
a) Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ” gồm các ý sau:
+ Trang phục là thứ bắt buộc phải có đối với con ngƣời văn minh, văn hóa,
nhất là đối với phụ nữ.
+ Trang phục phù hợp với cộng đồng, với thời đại, hài hòa với cá nhân…
đƣợc coi là “thời trang”.
+ Trang phục đẹp, hiện đại (thời trang) tức là phải “y phục xứng kì đức”.
b) Vấn đề “Môi trƣờng và sự sống con ngƣời”:
+ Môi trƣờng là các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh ta, nó có vai trò
quyết định sự sống của chúng ta.
+ Có ý thức bảo vệ môi trƣờng tức là có ý thức bảo vệ sự sống của chính mình.
+ Hủy hoại môi trƣờng là hành vi tự sát.
2. Chia tách ý chính thành các ý nhỏ:
Ví dụ: Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ”:
+ Trang phục là thứ bắt buộc phải có:
- Ngƣời Việt ta thƣờng nói “cơm ăn áo mặc” với ý nghĩa “ăn” và “mặc” là hai
trong những nhu cầu thiết yếu của con ngƣời. Lại nói “cơm no áo ấm” với ý
nghĩa là cái đích tối thiểu của lao động.
- Từ “cơm no áo ấm” đến “ăn ngon mặc đẹp” đƣợc coi là một chặng đƣờng
phấn đấu gian khổ của con ngƣời, trong đó cái đích hƣớng tới là “đẹp”.
- Nói nhƣ thế có nghĩa là, ở các mức độ khác nhau, trang phục là một trong
những tiêu chí để đánh giá con ngƣời, nhất là đối với ngƣời phụ nữ.
+ Trang phục phải phù hợp với cộng đồng:
- Ngƣời Việt có các trang phục truyền thống của mình, cho nên dù có cách tân
kiểu gì cũng phải chú ý kế thừa và phát triển cái đẹp truyền thống, chẳng hạn
cái áo dài của ngƣời phụ nữ Việt Nam là một ví dụ điển hình.
- Trong thời đại giao lƣu hội nhập hiện nay, chúng ta có thể chọn lọc các loại
trang phục của các dân tộc bạn và sử dụng có sáng tạo, chẳng hạn bộ com-lê
của nam giới, các kiểu váy của phụ nữ…; nhƣng điều quan trọng nhất là trang
phục phải hài hòa với hình thể, nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
+ Trang phục phải đúng với tinh thần “y phục xứng kì đức”, nghĩa là cùng với
vẻ đẹp hình thức còn cần phải chăm sóc vẻ đẹp của nhân cách và tâm hồn,
nếu không có cái y phục hình thức sẽ trở nên lòe loẹt, kệch cỡm.
- Chẳng hạn mặc đẹp nhƣng mồm luôn văng tục.
- Mặc đẹp nhƣng lƣời học.
- Mặc đẹp nhƣng phạm tội.
…
Hoạt động 4
THỰC HIỆN VIỆC TRÌNH BÀY
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành từng thao tác:
1. Lời dẫn:
(Giả định nói với các bạn đồng trang lứa trong một buổi diễn đàn của chi
đoàn hoặc của lớp với chủ đề “Thời trang và tuổi trẻ”)
* Thƣa các bạn!
Tuổi trẻ của chúng ta có rất nhiều nhu cầu chính đáng, trong đó có nhu cầu
đƣợc mặc đẹp. Tôi rất thích một lời dạy của cha ông ta “ăn cho mình, mặc
cho ngƣời”! Nghĩa là việc ăn mặc thế nào cho đẹp không chỉ là “sở thích tuyệt
đối của mỗi cá nhân” nhƣ một số bạn vừa phát biểu ! Sau đây là những suy
nghĩ của cá nhân tôi, rất mong các bạn vui lòng lắng nghe và cùng nhau trao
đổi, thảo luận. Các bạn có đồng ý nhƣ vậy không ạ?
2. Phần trình bày
+ Có lẽ một trong những bằng chứng quan trọng để phân biệt con ngƣời
với động vật là con ngƣời thì có mặc quần áo, còn con vật thì không. Nói cách
khác, mặc là nhu cầu thiết yếu bậc nhất của con ngƣời văn minh, văn hóa.
+ Từ xa xƣa, con ngƣời đã biết che thân bằng vỏ cây, bằng lá rừng… ngày
nay con ngƣời càng ngày càng chú trọng đến việc ăn mặc hơn bao giờ hết,
nhất là tuổi trẻ chúng ta và đặc biệt là các bạn nam nữ. Trƣớc hết, mặc là một
nhu cầu đƣợc làm đẹp về hình thức, nhƣng mặc thế nào là đẹp lại là một vấn
đề không hề đơn giản chút nào
+ Có bạn cho rằng, mặc nhƣ thế nào là quyền của tôi, là “sở thích cá nhân
tuyệt đối” của tôi, tôi thích gì mặc nấy, xin mọi ngƣời đừng can thiệp. Theo
tôi, bạn nào nói nhƣ vậy chỉ đúng một nửa (sở thích cá nhân), còn một nửa
nữa chƣa đúng, vì:
- Nếu lội xuống đồng, ao mƣơng thoát nƣớc, hoặc vào nhà máy công xƣởng…
mà bạn mặc comle, áo dài, quần bò… thì rõ ràng không chấp nhận đƣợc.
- Ngƣợc lại, nếu đi dự lễ hội, dự đám cƣới… mà quần áo lôi thôi, nhàu nhĩ
cũng khó chấp nhận đƣợc.
- Nếu các bạn gái đi học mà mặc quần áo ngắn ngang bụng, quần bò trễ
dƣới rốn tới cả chục phân liệu có coi là đẹp đƣợc không?
- Có bạn cao ngỏng lại mặc quần áo ngắn cũn cỡn, có bạn thấp tè lại ăn
mặc lòe xòe, bạn da đen mặc màu tối, bạn da trắng mặc màu sáng… liệu có
thật là đẹp hay không?
Vì vậy, theo tôi, cùng với “sở thích cá nhân”, ăn mặc còn phải phù hợp với
hoàn cảnh, với công việc và với cả vóc ngƣời của mỗi cá nhân nữa. Nói ngắn
gọn, cái đẹp là sự hợp lí và sự hài hòa.
…
3. Phần kết luận:
Thƣa các bạn, dù sao trên đây cũng chỉ là suy nghĩ cá nhân của riêng tôi,
rất mong đƣợc các bạn góp ý, trao đổi để chúng ta đi tới một quan niệm chung
về cái đẹp trong cách ăn mặc theo đúng tinh thần “ Y phục xứng kì đức”!
Xin chân thành cảm ơn các vị đại biểu và các bạn đã chú ý lắng nghe!
- Giáo viên chỉ định 3 học sinh lần lƣợt đọc chậm, rõ Ghi nhớ trong sách
giáo khoa.
Hoạt động 5
HƢỚNG DẪN LUYỆN TẬP
1. Bài tập 1
(1) Bắt đầu trình bày:
- Chào các bạn. Tôi rất phấn khởi đƣợc đến đây phục vụ các bạn. Tôi tên là…
- Chào các bạn. Cảm ơn các bạn đã đến đây. Xin tự giới thiệu, tôi tên là…
làm việc ở cơ quan…
- Trƣớc khi bắt đầu, cho phép tôi đƣợc nói đôi điều về bản thân. Tôi đã làm
việc ở công ty… trong…năm…
(2) Trình bày nội dung chính:
- Giờ chúng ta đi vào nội dung chủ yếu của đề tài. Thứ nhất…
- Đã xem xét tất cả các phƣơng án có thể có, chúng ta hãy chuyển sang
phân tích những thuận lợi và khó khăn của từng phƣơng án…
(3) Chuyển qua chủ đề khác:
Giờ chúng ta chuyển sang vấn đề môi trƣờng. Nhƣ các bạn đã biết, chúng
ta đã tận lực để đảm bảo công việc xử lí phế thải…
(4) Tóm tắt và kết thúc nội dung trình bày:
- Tôi muốn kết thúc bài nói bằng cách nhắc lại đôi điều đã nêu lên lúc mở
đầu…
- Giờ tôi sắp kết thúc bài nói, và đến đây, tôi muốn một lần nữa lƣớt qua
những điểm chính đã nêu…
2. Bài tập 2
Ví dụ chọn chủ đề “An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi ngƣời” có
thể nêu các ý sau:
(1) Mất an toàn giao thông là một trong những thực trạng nhức nhối của
đời sống hôm nay:
- Trong cả nƣớc, mỗi ngày có 30 ngƣời chết vì tai nạn giao thông, hơn
1000 ngƣời bị thƣơng vì tai nạn giao thông.
- Đặc biệt nghiêm trọng có những vụ hàng chục ngƣời chết nhƣ tai nạn ở
Kon Tum, ở Đồng Nai…
- Ngoài thiệt hại về ngƣời, thiệt hại về vật chất, phƣơng tiện cũng vô cùng
to lớn…
(2) Nguyên nhân:
- Ý thức chấp hành luật giao thông kém.
- Đƣờng sá, cầu cống chƣa đáp ứng nhu cầu tham gia giao thông.
- Quá tải về phƣơng tiện tham gia giao thông.
(3) Biện pháp:
- Biện pháp trƣớc mắt: Giáo dục, xử phạt nghiêm…
- Biện pháp lâu dài: Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thay thế các
phƣơng tiện hiện đại an toàn…