ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ NGỌC HOÀN

BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ CHO

HỌC SINH QUA BÀI “ TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ ”

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 TẬP 1

TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG THPT TỈNH TUYÊN QUANG

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuyên ngành

: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn

Văn – Tiếng Việt

Mã số

: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Mai Diễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn i

Thái Nguyên – 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng

dẫn của TS. Hoàng Mai Diễn. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là

trung thực và chƣa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iii

Phạm Thị Ngọc Hoàn

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn

TS. Hoàng Mai Diễn - người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt

quá trình thực hiện luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau

đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học Trường Đại Học Sư phạm – Đại Học

Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu tại trường.

Em xin chân thành cảm ơn Thư viện Trường Đại Học Sư phạm - Đại

học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu và Thư viện Quốc Gia Hà Nội đã giúp

đỡ trong suốt thời gian thực hiện luận văn.

Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã động

viên, quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện giúp em hoàn thành tốt luận văn này.

Hà Nam, tháng 5 năm 2015

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn iv

Phạm Thị Ngọc Hoàn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... iv

MỤC LỤC ..................................................................................................... v

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 7

6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 7

7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 7

NỘI DUNG .................................................................................................... 9

Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƢỠNG NĂNG

LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN ................. 9

1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học

sinh ................................................................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực giao tiếp khẩu ngữ ............................. 9

1.1.2. Mục tiêu của dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh ....................... 13

1.1.3. Nguyên tắc của dạy học giao tiếp khẩu ngữ ........................................ 14

1.1.4. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học giao tiếp khẩu ngữ .......................... 15

1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ

văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang ............ 16

1.2.1. Thực trạng định hƣớng dạy học của một số giáo án, thiết kế bài “Trình

bày một vấn đề” SGK Ngữ văn 10 tập 1 ....................................................... 16

1.2.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” tại một số trƣờng trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn v

học phổ thông tại tỉnh Tuyên Quang............................................................. 21

Chƣơng 2:THIẾT KẾ DẠY HỌC BÀI “TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ”

THEO ĐỊNH HƢỚNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ

CHO HỌC SINH ......................................................................................... 31

2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 31

2.1.1. Phƣơng pháp dạy học tích cực với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 31

2.1.2. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh .................................................................................. 37

2.2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng

lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ

thông tỉnh Tuyên Quang ............................................................................... 42

2.3. Thuyết minh thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 ............................... 47

2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị lên lớp .................................................................. 48

2.3.3. Giai đoạn sau khi lên lớp .................................................................... 55

Chƣơng 3THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ........................................................ 57

3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................... 57

3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm ......................................................... 57

3.3. Phƣơng pháp thực nghiệm ..................................................................... 58

3.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 58

3.5. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 59

3.6. KẾT LUẬN CHUNG VỀ THỰC NGHIỆM.......................................... 66

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn vi

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Kĩ năng nghe, nói ngày càng quan trọng trong thời đại công nghệ

thông tin phát triển hiện nay. Trƣớc đây, ở các cơ quan Nhà nƣớc, thông tin

đƣợc truyền tải chủ yếu bằng văn bản, những sự việc mang tính quốc gia,

quốc tế đều phải thông qua văn bản, nhƣng ngày nay có thể thay thế một phần

bằng lời nói thông qua điện đàm. Lợi ích của phƣơng thức này là có thể

truyền đi những thông tin chính xác và biết ngay đƣợc phản ứng của đối

phƣơng để có cách xử lí kịp thời, do đó hiệu quả công việc đƣợc cải thiện rõ

ràng. Trƣớc những đòi hỏi của xã hội hiện nay, con ngƣời cần phải rèn luyện,

nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ để tự tin trong giao tiếp, trở thành con

ngƣời năng động tự tin xử lí mọi vấn đề đặt ra trong cuộc sống hàng ngày.

Việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ đƣợc đánh giá là phần nào giúp

cho con ngƣời hòa nhập, biểu lộ trạng thái cảm xúc, ƣớc mơ, niềm hi vọng

hay phát biểu những ý kiến, quan điểm của mình trong học tập. Vậy nên, việc

rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh là việc làm cần thiết.

1.2. Năng lực giao tiếp khẩu ngữ có quan hệ chặt chẽ với năng lực Ngữ

Văn. Chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện nay của Việt Nam

có đề cập vấn đề rèn luyện đồng bộ bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết nhƣ là

những kĩ năng cơ bản cần bồi dƣỡng cho học sinh trong dạy học Ngữ văn.

Các kĩ năng này đều đƣợc xác định là quan trọng và có ảnh hƣởng đến nhau,

tuy nhiên nhiều công trình nghiên cứu gần đây khẳng định kĩ năng nghe, nói

quan trọng hơn kĩ năng đọc, viết. Thực tế dạy học Ngữ văn hiện nay ở trƣờng

phổ thông cho thấy vẫn tồn tại tình trạng coi trọng việc rèn luyện kĩ năng đọc,

viết mà xem nhẹ kĩ năng nghe, nói. “Các kĩ năng này một mặt đƣợc phát triển

trên cơ sở kiến thức lí luận, mặt khác trở thành công cụ đắc lực để chiếm lĩnh

1

kiến thức và hình thành những kĩ năng, phẩm chất mới của ngƣời lao động

mới” [1, tr. 6]. Tập trung vào các năng lực giao tiếp cơ bản nhất là nghe, nói là

một trong những con đƣờng đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.

Kĩ năng nghe, nói có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực tƣ duy. Lời nói

là một trong những cơ sở để rèn luyện tƣ duy. Việc rèn luyện kĩ năng nghe,

nói không chỉ giúp học sinh phát triển ngôn ngữ mà còn khơi dậy tƣ duy tích

cực, ứng biến nhanh nhẹn và hiệu quả trong giao tiếp. Nhiều nhà ngôn ngữ

học cho rằng sự phát triển trí tuệ của con ngƣời phần lớn phụ thuộc vào năng

lực ngôn ngữ của ngƣời đó. Vì vậy, có thể khẳng định, bồi dƣỡng năng lực

ngôn ngữ, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh trong dạy học

Ngữ văn ở nhà trƣờng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển trí tuệ

của học sinh. Kỹ năng trình bày một vấn đề là một kĩ năng giao tiếp quan trọng

trong cuộc sống, để nâng cao hiệu quả của kỹ năng nghe, nói cho học sinh lớp

10 qua môn Ngữ Văn, chúng ta phải có kế hoạch cụ thể nhằm bồi dƣỡng năng

lực giao tiếp khẩu ngữ cho các em. Là lớp đầu tiên của cấp học trung học phổ

thông mang tính định hƣớng cho tƣơng lai, vì vậy bồi dƣỡng năng lực giao

tiếp khẩu ngữ cho học sinh trung học phổ thông nói chung và học sinh lớp 10

nói riêng là việc làm cấp thiết.

1.3. Nếu nhƣ nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp

nhận thông tin thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động biểu đạt

thông tin cần đƣợc rèn luyện và phát triển cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy,

chúng tôi thấy đƣợc môn Ngữ Văn bậc trung học phổ thông đang dành nhiều

thời lƣợng cho kỹ năng đọc, viết. Chú trọng đến việc nhận diện những đặc

điểm cú pháp dẫn đến việc học sinh ít đƣợc rèn luyện kỹ năng giao tiếp khẩu

ngữ và không nắm vững đƣợc những chức năng cơ bản của giao tiếp khẩu

ngữ. Về lí thuyết, năng lực nói bao gồm hai phƣơng diện: phong cách nói hàng

ngày và phong cách nói trƣớc công chúng. Hiện nay, trọng tâm của chƣơng

2

trình dạy học nói tập trung vào phƣơng diện nói trƣớc công chúng nhƣ: diễn

thuyết, biện luận, báo cáo, tóm tắt… nhƣng nhìn từ góc độ ứng dụng, nhu cầu

rèn luyện phong cách giao tiếp hàng ngày cũng cần đƣợc quan tâm. Học sinh

còn diễn đạt lúng túng, không diễn đạt đúng hoặc không diễn đạt hết những

điều cần nói, cách lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu tự tin trong giao tiếp. Tình

trạng này còn phổ biến ở các cấp học. Thêm vào đó, trong xã hội phát triển

nhanh chóng hiện nay, phƣơng thức sử dụng ngôn ngữ luôn không ngừng thay

đổi. Giáo viên đứng trƣớc yêu cầu cập nhật thƣờng xuyên, phát huy vai trò định

hƣớng, tạo điều kiện cho học sinh đƣợc thực hành đều đặn để ngôn ngữ giao

tiếp của các em vừa hiện đại vừa chuẩn mực. Rèn luyện kĩ năng giao tiếp khẩu

ngữ tốt sẽ giúp ngƣời học có đƣợc một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc

sống xã hội.

Tuyên Quang là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc bộ, là địa bàn có

trên 64% ngƣời dân tộc thiểu số sinh sống, nâng cao năng lực sử dụng tiếng

Việt và bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trung học phổ

thông là một việc tƣơng đối khó khăn vì vốn tiếng Việt của học sinh không

đồng đều.

Chính vì những lí do trên, với mong muốn nâng cao hiệu quả trong việc

bồi dƣỡng năng lực giao tiếp cho học sinh chúng tôi quyết định chọn đề tài:

“Bồi dưỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh qua bài “Trình bày

một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1 tại một số trường trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang”.

2. Lịch sử vấn đề

Giao tiếp khẩu ngữ là một lĩnh vực quan trọng và phổ biến trong dạy

học cũng nhƣ trong cuộc sống. Lênin nhận định: “Hội thoại là một hoạt động

rất thƣờng xuyên, rất quen thuộc trong đời sống của mỗi con ngƣời, từ khi

bập bẹ tập nói cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Nhu cầu đƣợc nói với ngƣời

3

khác là một nhu cầu rất căn bản, rất đặc trƣng của đời sống con ngƣời. Vì

trong xã hội con ngƣời luôn luôn có nhu cầu giao tiếp, mà trong giao tiếp,

ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất” [34, tr. 90]. Nhƣ vậy định hƣớng giảng

dạy môn Ngữ văn trong nhà trƣờng đi theo hƣớng giao tiếp, nhấn mạnh dạy

trong giao tiếp và dạy bằng giao tiếp là đúng đắn. Ở các nƣớc phát triển,

ngƣời ta nhanh chóng nhận ra đƣợc sự bất cập của phƣơng pháp dạy học chỉ

chú trọng kĩ năng đọc, viết mà ít chú trọng kĩ năng nghe, nói. Để giải quyết

tình trạng bất cập đó, trong những năm 1940 của thế kỉ XX ở Mĩ các chuyên

đề về phân tích hội thoại của tác giả đáng chú ý nhƣ Harvey Sack, Schegloff,

Jefferson, Atkinson, Heritage về phƣơng pháp nghe khẩu ngữ đã bắt đầu đƣợc

hình thành dựa trên những đặc điểm của ngôn ngữ học, cấu trúc và tâm lý học

hành vi. Theo đó phƣơng pháp này chú trọng vào dạy học nghe nói. Bài học

tiếng bắt đầu bằng một đoạn hội thoại với trọng tâm kĩ năng theo trật tự dạy

học nghe nói trƣớc, sau đó mới dạy học đọc viết, để hƣớng tới việc hình thành

các năng lực giao tiếp cho học sinh. Phƣơng pháp này đã nhanh chóng đƣợc

nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi trong dạy học từ tiểu học đến đại học và trở

thành xu hƣớng phát triển chung của nhiều nƣớc phát triển trên thế giới.

Ở Việt Nam, chúng tôi đã tìm đƣợc một số tài liệu đề cập đến vấn đề bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ nhƣ cuốn “Một số vấn đề về dạy hội thoại

cho học sinh tiểu học” của tác giả Nguyễn Trí. Ở cuốn sách này, tác giả đã cố

gắng chọn lọc những kiến thức cơ bản, tối thiểu về hội thoại dựa theo chƣơng

trình môn Tiếng Việt tiểu học ban hành năm 2006 và lựa chọn cách trình bày

các kiến thức dựa trên sự phân tích một số dẫn chứng cụ thể để ngƣời mới

tiếp cận lí thuyết hội thoại dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Bên cạnh đó, cuốn

sách còn giới thiệu các kiểu bài tập dạy học luyện nói trong bộ sách giáo khoa

Tiếng Việt tiểu học. Bên cạnh cuốn sách này, tác giả Nguyễn Trí còn một số

bài viết “Kinh nghiệm dạy học ngôn bản theo phương hướng giao tiếp ở một

số nước” đã bàn về cơ cấu hệ thống chƣơng trình dạy ngôn ngữ viết và ngôn

4

ngữ nói cho học sinh tiểu học. Theo tác giả, phƣơng hƣớng dạy học giao tiếp

và để giao tiếp đã làm thay đổi nhiều mặt của nội dung chƣơng trình dạy tiếng

mẹ đẻ của một số nƣớc trên thế giới.

Tác giả Nguyễn Quang Ninh đã bàn đến việc rèn kĩ năng giao tiếp trong

các công trình“Một số vấn đề dạy học ngôn bản nói và viết ở tiểu học theo

hướng giao tiếp” và “Rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt”. Từ lý thuyết hội

thoại, tác giả đã rút ra một số vấn đề quan trọng là để học sinh làm một bài tập

làm văn nói tốt, ngƣời giáo viên cần phải chú ý tới một số điểm sau: phải

chuẩn bị tốt nội dung bài nói, phải tạo đƣợc nhu cầu về hội thoại cho học sinh

và phải tạo đƣợc hoàn cảnh giao tiếp tốt. Tác giả còn đƣa ra một số kinh

nghiệm giao tiếp thƣờng dẫn đến thành công cho mỗi ngƣời khi tham gia giao

tiếp nhƣ bình tĩnh, tự tin, chú ý văn hóa trong lời nói và sử dụng ngữ điệu sao

cho phù hợp với từng thời điểm nói.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến quan điểm phát triển

kĩ năng giao tiếp theo hai hƣớng: xu hƣớng tiếp cận theo tâm lý học giao tiếp

và xu hƣớng tâm lý học ứng dụng nhƣ: Phương pháp dạy học Tiếng Việt” (Lê

A- Nguyễn Quang Ninh- Bùi Minh Toán),“Vấn đề giao tiếp” (Nguyễn Văn

Lê), “Vấn đề giao tiếp trong việc xây dựng nhà trường thân thiện” (Nguyễn

Thị Thu Hiền)... Nhìn chung, các tác giả đều có cùng những nhận định: học

sinh Việt Nam còn yếu về kỹ năng giao tiếp, chƣa tự tin khi nói trƣớc đông

ngƣời, khi nói thiếu sức thuyết phục do phong cách thể hiện, lập luận, diễn

đạt... Một trong những nguyên nhân của hiện tƣợng này là vì các em chƣa

đƣợc học tập rèn luyện kỹ năng nói một cách bài bản. Nội dung dạy học

môn Ngữ văn trong nhà trƣờng vẫn chú trọng các kĩ năng đọc, viết hơn là

nghe, nói…

Từ việc phân tích nguyên nhân của thực trạng, hay tổng kết kinh

nghiệm dạy kĩ năng nghe, nói cho học sinh của nƣớc ngoài, các tác giả đã đề

5

xuất những biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong dạy học

Ngữ văn, hƣớng tới việc nâng cao năng lực giao tiếp cho ngƣời học. Tuy

nhiên, những biện pháp này mới có tính chất nhƣ những gợi mở ban đầu,

chƣa có những đề xuất mang tính lâu dài để tập trung giải quyết vấn đề làm

thế nào có thể rèn luyện hiệu quả năng lực giao tiếp cho những đối tƣợng học

sinh khác nhau trong nhà trƣờng phổ thông. Đi sâu nghiên cứu để tìm ra các

phƣơng pháp tăng cƣờng hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh

phổ thông gắn với chƣơng trình và sách giáo khoa hiện nay là vấn đề chƣa

đƣợc nghiên cứu đầy đủ. Do đó vấn đề này rất cần những nghiên cứu chuyên

sâu để có thể giúp mọi ngƣời thấy rõ đƣợc tầm quan trọng của việc phát triển

kỹ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.

Để đem lại cái nhìn hệ thống hơn và đƣa ra giải pháp bồi dƣỡng, tăng

cƣờng hiệu quả rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu trong dạy học môn Ngữ văn,

chúng tôi quyết định triển khai nghiên cứu đề tài “Bồi dưỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa

Ngữ Văn 10 tập 1 tại một số trường trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang”.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những hoạt động bồi dƣỡng năng

lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh của giáo viên đƣợc tiến hành trong bài

học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1.

- Phạm vi nghiên cứu là thực trạng dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học

sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10

tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Tiếp cận những cơ sở lí luận của vấn đề bồi dƣỡng kĩ năng giao tiếp

khẩu ngữ trong dạy học Ngữ văn.

5.2. Khảo sát thực trạng của việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ qua bài

6

“Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1.

5.3. Đề xuất giải pháp dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10

qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 1 tại

một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên

cứu sau:

5.1. Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.

Tổng hợp những công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu, lí luận có

liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề nghiên cứu của đề tài.

5.2. Phƣơng pháp khảo sát, điều tra

Tiến hành khảo sát, điều tra thực trạng dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh lớp 10 môn Ngữ Văn ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh

Tuyên Quang.

5.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp

Tiếp cận, nghiên cứu, phân tích đƣa ra những kết luận khoa học, kết luận sƣ

phạm từ đó đề xuất các giải pháp dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong

dạy học môn Ngữ văn ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.

6. Đóng góp của đề tài

Giúp giáo viên và học sinh có thêm hiểu biết về phƣơng pháp dạy học

giao tiếp khẩu ngữ, nhằm bồi dƣỡng và phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ

cho học sinh đặc biệt là học sinh lớp 10.

Luận văn hƣớng tới đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dƣỡng năng lực

giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ văn ở một số trƣờng trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.

7. Cấu trúc của luận văn

7

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về bồi dƣỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ trong dạy học Ngữ Văn

1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh

1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ

văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang

Chƣơng 2: Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng

năng lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh

2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ

cho học sinh

2.1. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng

lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ thông

tỉnh Tuyên Quang

2.3. Thuyết minh về thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ học sinh lớp 10

Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm

3.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sƣ phạm

3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm

3.3. Phƣơng pháp tiến hành thực nghiệm sƣ phạm

3.4. Nội dung thực hiện

3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm

8

3.6. Kết luận chung về thực nghiệm

NỘI DUNG

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC

GIAO TIẾP KHẨU NGỮ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN

1.1. Một số vấn đề về dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh

Mục tiêu giáo dục phổ thông của nƣớc ta giai đoạn sau 2015 đƣợc phát

biểu nhƣ sau: Chương trình giáo dục phổ thông nhằm tạo ra những con người

Việt Nam phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, phát huy cao độ tiềm

năng của bản thân; có những phẩm chất cao đẹp là: yêu gia đình, quê hương

đất nước; nhân ái khoan dung; trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; tự lập, tự

tin, tự chủ; có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại;

nghĩa vụ công dân. Đề xuất hình thành 9 năng lực cho học sinh cụ thể là: Tự

học; giải quyết vấn đề; sáng tạo; tự quản lý; giao tiếp; hợp tác; sử dụng công

nghệ thông tin; sử dụng ngôn ngữ; tính toán [10, tr.11]. Chủ trƣơng chuyển

đổi cách tiếp cận chƣơng trình giáo dục định hƣớng nội dung sang định hƣớng

năng lực là một trong những đổi mới căn bản và tiến bộ. Vậy thế nào là năng

lực? Năng lực Ngữ văn là gì? Năng lực giao tiếp khẩu ngữ với học sinh có vai

trò quan trọng nhƣ thế nào ?

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực giao tiếp khẩu ngữ

Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng La tinh

“competentia”. “Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố: kiến thức, kĩ

năng, thái độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác

để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống (học tập và

9

lao động)” [3, tr.3].

Năm 1972, nhà ngôn ngữ học D.H.Hymes đã đƣa ra khái niệm năng lực

giao tiếp khẩu ngữ. Ông cho rằng: “Con ngƣời trong hoạt động xã hội, giao tiếp

xã hội dần dần đã phát triển thành một loại năng lực sử dụng ngôn ngữ” bao

gồm hai mặt: năng lực ngôn ngữ và vận dụng ngôn ngữ, đó chính là năng lực

giao tiếp khẩu ngữ. Theo Hymes năng lực giao tiếp khẩu ngữ bao gồm năng

lực phán đoán nhƣ: nhìn chính xác khẩu hình, hiểu nghĩa của từ, đúng ngữ

pháp, tính thích hợp, tính khéo léo, tính thực tế, phát âm chuẩn, mô phỏng

giọng điệu.

Nhƣ vậy năng lực giao tiếp khẩu ngữ là khả năng vận dụng tri thức đã

học đƣợc vào cuộc sống thực tiễn, năng lực biểu đạt đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm,

sự hiểu biết của mình cho ngƣời khác hiểu, hoặc thông qua lời nói của mình

để thuyết phục, lôi cuốn ngƣời khác. Năng lực giao tiếp khẩu ngữ bao gồm

hai thành tố chính: Năng lực tổ chức bao gồm năng lực ngữ pháp, năng lực

diễn ngôn và năng lực ngữ dụng bao gồm năng lực ngôn ngữ xã hội và năng

lực tạo lời.

Theo Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên thì năng lực có

thể đƣợc hiểu theo hai nét nghĩa: “(1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có

sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó. (2) Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo

cho con ngƣời có khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lƣợng

cao” [37, tr.114].

Hiểu theo nét nghĩa thứ nhất, năng lực là một khả năng có thực, đƣợc

bộc lộ ra thông qua việc thành thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của ngƣời

học. Hiểu theo nét nghĩa thứ hai, năng lực là một một cái gì đó sẵn có ở dạng

tiềm năng của ngƣời học có thể giúp họ giải quyết những tình huống có thực

trong cuộc sống.

Theo định hƣớng xây dựng chƣơng trình giáo dục phổ thông mới sau

10

năm 2015, khái niệm năng lực đƣợc đề cập đến khá nhiều. Các nhà nghiên

cứu chia năng lực làm hai loại năng lực: năng lực chung là năng lực cốt lõi và

năng lực chuyên biệt. Đây là loại năng lực mà bất kỳ một học sinh nào cũng

cần đƣợc hình thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và

thách thức khi bƣớc vào cuộc sống thực. Bên cạnh đó là các năng lực chuyên

biệt do các lĩnh vực, môn học cụ thể mang lại. Tuy cách phát biểu về năng lực

có thể khác nhau nhƣng đều thống nhất trong cách hiểu về bản chất của khái

niệm này.

Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua

làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu. Tất

nhiên thực hiện ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ

năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”.

Trong công trình nghiên cứu: “Đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn

của học sinh theo hướng hình thành năng lực”của nhóm tác giả: Nguyễn Thị

Hồng Vân, Phạm Bích Đào, Nguyễn Tuyết Nga và Nguyễn Thúy Hồng (Viện

nghiên cứu Giáo dục Việt Nam) về mặt lí luận có thể xác định hai cách tiếp

cận chính về đánh giá kết quả học tập: 1: Đánh giá dựa theo chuẩn kiến thức,

kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông, cách đánh giá này thiên về

đánh giá tiếp nhận nội dung chương trình môn học; 2: Đánh giá dựa vào

năng lực: thiên về xác định mức độ năng lực của người học so với mục tiêu đề

ra của môn học. Khi đánh giá theo hướng năng lực cũng vẫn phải căn cứ vào

chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học để xác định các tiêu chí thể hiện năng

lực của người học, tuy nhiên do năng lực mang tính tổng hợp và tích hợp nên

các chuẩn kiến thức, kĩ năng cần được tổ hợp lại trong mối quan hệ nhất quán

để thể hiện được các năng lực của người học, đồng thời cần xác định những

mức năng lực theo chuẩn và cao hơn chuẩn để tạo được sự phân hóa, nhằm đo

11

được khả năng và sự tiến bộ của tất cả đối tượng người học”[3, tr.3].

Năng lực Ngữ văn có thể hiểu là năng lực tiếp nhận văn bản và năng

lực tạo lập văn bản. Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt

đƣợc các thông tin chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái

đẹp của văn bản, nhất là văn bản văn học. Đánh giá năng lực tiếp nhận thƣờng

dựa vào kết quả của hai kĩ năng chính là nghe và đọc. Năng lực tạo lập văn

bản là khả năng biết viết, nói, biết tổ chức, xây dựng một văn bản hoàn chỉnh

đúng quy cách và có ý nghĩa. Đánh giá năng lực tạo lập thƣờng dựa vào kết

quả của hai kĩ năng chính là nói và viết. Kĩ năng nói gắn liền với nghe nhƣ đã

nêu ở trên. Ngoài việc phản hồi nhanh và chính xác lại các thông tin nghe

đƣợc, nói phải rõ ràng, rành mạch, lƣu loát.

Vì vậy, để đánh giá năng lực Ngữ văn cần phải cụ thể hóa các kĩ năng

nghe, nói, đọc, viết thành nhiều mức độ khác nhau. Theo từng cấp học, phù

hợp với tâm lý lứa tuổi mà yêu cầu từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp.

Giao tiếp là sự tiếp xúc, giao lƣu giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, qua

đó con ngƣời bộc lộ và truyền đạt cho nhau những nhận thức, tƣ tƣởng, tình

cảm, thái độ đối với nhau và đối với điều đƣợc truyền đạt. Con ngƣời có thể

dùng nhiều phƣơng tiện để giao tiếp nhƣng ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp

quan trọng nhất.

“Năng lực giao tiếp là một trong những năng lực giúp học sinh có thể

trình bày đƣợc, diễn đạt đƣợc những suy nghĩ, quan điểm, nhu cầu, mong

muốn, cảm xúc của bản thân dƣới hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ

cơ thể một cách phù hợp với đối tƣợng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và văn hóa,

đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến ngƣời khác ngay cả khi bất đồng

quan điểm. Năng lực giao tiếp giúp con ngƣời biết đánh giá tình huống và điều

chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở, bày tỏ suy nghĩ cảm

12

xúc nhƣng không làm hại hay tổn thƣơng cho ngƣời khác” [9, tr. 54].

Với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, ngôn ngữ có thể tồn tại dƣới hai

dạng nói và viết. Ở giao tiếp khẩu ngữ, ngôn ngữ tồn tại chủ yếu ở dạng nói.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Khẩu ngữ là ngôn ngữ nói thông thƣờng, dùng

trong cuộc sống hàng ngày, có đặc điểm đối lập với phong cách viết” [37, tr. 89].

Phong cách ngôn ngữ Tiếng Việt có thể chia thành: Phong cách ngôn

ngữ khẩu ngữ và phong cách ngôn ngữ gọt giũa. Khẩu ngữ là ngôn ngữ mà

con ngƣời sử dụng trong giao tiếp bằng lời nói. Khẩu ngữ đƣợc hiểu là cách

sử dụng ngôn ngữ, là công cụ giao tiếp chủ yếu của nhân loại trong các mối

quan hệ tự nhiên và xã hội. Trƣớc khi chữ viết ra đời, loài ngƣời giao tiếp với

nhau bằng lời nói, sau khi chữ viết ra đời, dựa trên cơ sở của lời nói loài

ngƣời sáng tạo ra ngôn ngữ viết.

Nhƣ vậy giao tiếp khẩu ngữ đƣợc hiểu ngắn gọn là quá trình sử dụng lời

nói để trao đổi thông tin, tình cảm với mục đích giao tiếp nhất định, là sự kết

hợp của tri thức lời nói và kĩ năng giao tiếp. Trong giao tiếp khẩu ngữ, bên

cạnh hai kĩ năng cơ bản là nghe, nói còn cần chú ý đối tƣợng, hoàn cảnh, mục

đích, nội dung giao tiếp.

1.1.2. Mục tiêu của dạy học giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh

Mục đích chính của việc giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ là để hƣớng dẫn

học sinh tìm hiểu và nắm vững ngôn ngữ để làm công cụ tƣ duy và giao tiếp.

Nói là một phần của ngôn ngữ, nói thể hiện đầy đủ hơn các đặc điểm của các

đối tƣợng ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong sự tƣơng tác giữa cá nhân và môi

trƣờng, đặc biệt là trong giao tiếp bằng lời nói với mọi ngƣời, phát triển trên

cơ sở nhận thức và tính năng thực tế giao tiếp của học sinh trong một bối cảnh

thực tế.

Mục tiêu dạy học giao tiếp khẩu ngữ là giúp học sinh có khả năng giao

tiếp hàng ngày cơ bản trong một loạt các hoạt động giao tiếp, học cách lắng

13

nghe, thể hiện và giao tiếp, tiến hành sơ bộ tìm hiểu thông tin liên lạc giữa các

cá nhân và tƣơng tác xã hội, sự phát triển của tinh thần hợp tác. Thực hiện

mục tiêu này, phù hợp với các khái niệm về chất lƣợng giáo dục. Bản chất của

chất lƣợng giáo dục là để khuyến khích học sinh để có đƣợc một sự phát triển

toàn diện và nhằm mục đích phát triển giao tiếp chất lƣợng một cách tổng thể

ở học sinh, không chỉ là lắng nghe mà còn là kỹ năng nói phát triển hợp tác,

và sức khoẻ tinh thần của học sinh, hành vi thích hợp, khả năng thích ứng và

sự hình thành của ý thức. Vì vậy, cải thiện năng lực giao tiếp của học sinh có

ý nghĩa thiết thực trong dạy học Ngữ văn.

1.1.3. Nguyên tắc của dạy học giao tiếp khẩu ngữ

Nguyên tắc thứ nhất là dạy học khẩu ngữ phải chú ý đến sự chuyển đổi

giữa ngôn ngữ và lời nói. Bởi vì tƣ duy và sự biểu đạt ý nghĩ gắn liền với sự

lựa chọn từ ngữ và mẫu câu. Do đó, nhiệm vụ của bài học về giao tiếp khẩu

ngữ là thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ ngôn ngữ sang lời nói. Ngƣời

dạy học giao tiếp khẩu ngữ trƣớc tiên phải chú trọng đến nội dung luyện tập,

những chủ điểm lựa chọn, không chỉ nghĩ tới tính thực dụng, tính giao tiếp mà

còn phải thú vị, hấp dẫn.

Nguyên tắc thứ hai là dạy học khẩu ngữ phải chú trọng và quán triệt

quy tắc hợp tác. Mục đích của dạy học khẩu ngữ là rèn luyện và nâng cao năng

lực biểu đạt khẩu ngữ cho học sinh. Nếu nhƣ cá nhân độc thoại chỉ cần chuẩn

bị tốt nội dung của lời nói, thì hội thoại phải chú ý đến sự hợp tác và điều tiết

của hai bên. Hợp tác ở đây là trình độ tri thức, năng lực tiếp thu thông tin và

hoàn cảnh xã hội khi đang giao tiếp. Nếu nội dung đàm thoại vƣợt qua phạm vi

kiến thức của đối phƣơng thì rất khó giao tiếp với nhau, lƣợng thông tin trong

một đơn vị thời gian quá nhiều hoặc chủ điểm đề cập đến không phù hợp với

hoàn cảnh xã hội của đối phƣơng thì cũng rất khó để tiến hành giao tiếp. Trong

giao tiếp phải triển khai, phát triển, chuyển đổi theo chủ đề của đối tƣợng giao

tiếp, không nên mỗi ngƣời nói một nội dung khác nhau, không có liên quan với

14

nhau. Những nguyên nhân trên đã gây ra rất nhiều khó khăn khi giáo viên vận

dụng nguyên tắc trong giờ hội thoại. Đây là những điều rất quan trọng mà

giáo viên dạy khẩu ngữ phải chú ý tới.

Nguyên tắc thứ ba là dạy học khẩu ngữ phải có đầy đủ thời gian để luyện

tập: Khẩu ngữ có nhiều đặc điểm khác các kĩ năng khác nhƣ: thời gian ngắn,

vừa nghĩ vừa nói. Từ suy nghĩ chuyển thành lời nói, đặc biệt là biểu đạt ngôn

ngữ đích phải trải qua trình tự rất nhiều khâu để lựa chọn, nếu không có một

thời gian nhất định thì không thể đạt đƣợc hiệu quả. Do đó, trong dạy học giao

tiếp khẩu ngữ, sự luyện tập của học sinh, trong một thời gian nhất định là rất

quan trọng

1.1.4. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học giao tiếp khẩu ngữ

Nắm đƣợc khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc là bƣớc đi đầu tiên của việc

dạy học giao tiếp khẩu ngữ, thực hiện thành công ý đồ giao tiếp là thƣớc đo

thể hiện hiệu quả của dạy học giao tiếp khẩu ngữ.

Giao tiếp khẩu ngữ nên đƣợc đánh giá dựa trên các mục tiêu giảng dạy,

trong ngữ cảnh cụ thể, bằng cách cho phép học sinh thực hiện nhiệm vụ giao

tiếp có ý nghĩa, điều chỉnh để cải thiện hành vi. Đánh giá ở học sinh các kỹ

năng giao tiếp, cần chú ý kiểm tra ý thức tham gia và đánh giá thái độ tình

cảm của học sinh phải đƣợc thực hiện trong bối cảnh cụ thể của thông tin liên

lạc, để học sinh thực hiện nhiệm vụ giao tiếp có ý nghĩa.

* Khi thực hiện đánh giá giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ phải dựa trên sự

phát triển của học sinh với mục đích kiến thức và kỹ năng, quy trình và

phƣơng pháp, thái độ và tình cảm, đƣa ra các mục tiêu, đánh giá là không chỉ

quan tâm đến kĩ năng nghe, nói của cá nhân học sinh, mà còn phải quan tâm

đến học sinh trong quá trình giao tiếp đƣợc chứng minh bởi khả năng toàn

diện. Không chỉ quan tâm đến khả năng của học sinh trong giao tiếp, mà còn

15

quan tâm đến mức độ học sinh quan tâm đến giao tiếp, chủ động giao tiếp tích

cực, tham gia vào các hoạt động thực tế có ý thức, cảm xúc và thái độ của học

sinh trong quá trình giao tiếp.

* Đánh giá phải đƣợc thực hiện trong các tình huống giao tiếp cụ thể. Khả

năng giao tiếp khẩu ngữ là một khả năng toàn diện, bao gồm nghe, biểu hiện,

nhƣng cũng tùy theo hoàn cảnh thể hiện bởi khả năng đáp ứng, theo các dịp

và các đối tƣợng, nghi thức giao tiếp khác nhau. Chúng ta phải tạo ra một tình

huống giao tiếp cụ thể cho học sinh, vì vậy đánh giá năng lực giao tiếp khẩu

ngữ cho học sinh cần trình bày tổng thể, khách quan và đánh giá toàn diện.

* Đánh giá phải đƣợc thiết kế để giao tiếp có ý nghĩa. Giao tiếp dựa trên

nhu cầu tƣơng tác của con ngƣời, học sinh chủ động thúc đẩy giao tiếp giữa

các cá nhân tích cực và hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình giao tiếp giữa con

ngƣời không phải là quá trình đào tạo, mà là một quá trình thông tin liên lạc

có ý thức có mục đích. Vì vậy, đánh giá việc giảng dạy giao tiếp khẩu ngữ

không thể đánh giá một năng lực duy nhất, mà nên đƣợc thiết kế để có một

nhiệm vụ giao tiếp có ý nghĩa cho học sinh khi hoàn thành khóa học để chứng

minh khả năng giao tiếp của họ một cách chất lƣợng và toàn diện, nhằm phản

ánh tốt hơn cá tính, năng lực cũng nhƣ khả năng giao tiếp của học sinh.

1.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa

Ngữ văn 10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang

1.2.1. Thực trạng định hƣớng dạy học của một số giáo án, thiết kế bài

“Trình bày một vấn đề” SGK Ngữ văn 10 tập 1

a) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên

Ngữ văn 10

Bài học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên Ngữ văn 10 đƣợc

trình bày theo hai mục lớn là: mục tiêu bài học và những điều cần lƣu ý. Sách

giáo viên đã xác định mục tiêu bài học trên phƣơng diện kiến thức và thái độ.

16

Trong đó, mục tiêu thứ hai là phần thái độ giúp học sinh có thái độ mạnh dạn,

bình tĩnh và tự tin khi trình bày một vấn đề đã thể hiện mục tiêu nâng cao

năng lực giao tiếp khẩu ngữ một cách rõ rệt. Sau tiết học học sinh sẽ biết cách

thức trình bày một vấn đề và khả năng ứng biến linh hoạt trong giao tiếp hằng

ngày. Tuy nhiên, sách giáo viên đã thiếu về mục tiêu kĩ năng cho học sinh,

phải giúp học sinh nhận ra các tình huống cần trình bày một vấn đề và lập

đƣợc đề cƣơng và trình bày trƣớc tập thể.

Về nội dung, sách giáo viên xác định gồm ba đơn vị kiến thức: Tầm

quan trọng của việc trình bày một vấn đề; Công việc chuẩn bị; Trình bày.

Phần đầu chỉ lƣớt qua để tập trung vào hai phần sau, đặc biệt là phần sau

cùng. Bài học có sự đan xen giữa lí thuyết và luyện tập vậy phƣơng pháp dạy

học là thông qua việc hƣớng dẫn học sinh tiến hành các công việc chuẩn bị và

trực tiếp trình bày một đề tài cụ thể trƣớc lớp mà hình thành cho các em nội

dung công việc và cách thức tiến thành trình bày. Sau khi hình thành các nội

dung trên, cần tổ chức cho học sinh luyện tập để củng cố khắc sau kiến thức

và hình thành kĩ năng trình bày một vấn đề. Đây là phƣơng pháp phù hợp với

một tiết dạy học Làm văn có sự đan xen giữa lí thuyết và luyện tập. Ngoài ra

có thể thêm vào một số phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực thông qua

các hoạt động của học sinh nhằm nâng cao năng lực Ngữ văn và năng lực

giao tiếp khẩu ngữ. Tiến trình tổ chức dạy học cuốn sách giáo viên chia ra làm

bốn bƣớc: Nhận thức tầm quan trọng của việc trình bày một vấn đề; Nhận biết

những công việc chuẩn bị cho việc trình bày một vấn đề; Tiến hành trình bày;

Luyện tập. Bốn bƣớc trên đƣợc thực hiện với từng công việc cụ thể của giáo

viên và học sinh kèm theo các phƣơng pháp nhƣ diễn giảng, đặt tình huống,

phát vấn… Nhìn chung tiến trình tổ chức dạy đƣa ra khá phù hợp, tuy nhiên

hoạt động của học sinh chƣa đƣợc chú ý khai thác, thời gian cho các em thực

hành trên lớp là rất ít.

Phần kiểm tra đánh giá, gợi ý giải bài tập trong sách giáo viên đƣợc đƣa

17

ra cụ thể chi tiết, với dàn ý mẫu với đề tài “An toàn giao thông” đã phần nào

đáp ứng đƣợc yêu cầu luyện tập cho bài học, nhƣng các bài tập tạo lập văn

bản nói của học sinh này cần quan tâm chú ý hơn nữa, giáo viên cần nhanh

chóng phát hiện những biểu hiện, suy nghĩ lệch lạc của học sinh để kịp thời

uốn nắn, sửa chữa.

Nhìn chung, tiết học “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo viên Ngữ

văn 10 đƣợc hƣớng dẫn khá cụ thể, chi tiết, phƣơng phƣơng và tiến trình dạy

học phù hợp với một tiết dạy học Làm văn có sự đan xen giữa lí thuyết và

luyện tập. Tuy nhiên, về lý thuyết học sinh đã có thể nắm đƣợc kiến thức bài

giảng, nhƣng còn yếu về kĩ năng trình bày một vấn đề trƣớc tập thể và năng

lực giao tiếp khẩu ngữ vì các hoạt động cho các em thực hành giao tiếp trong

lớp còn ít, các phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực nhằm nâng cao năng

lực giao tiếp khẩu ngữ chƣa đƣợc khai thác sử dụng.

b) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách “Thiết kế

bài giảng Ngữ Văn 10” Nguyễn Văn Đƣờng (chủ biên)

Về cấu trúc, các giáo án này đã đƣa ra mục tiêu cần đạt của tiết học bao

gồm: kiến thức, kĩ năng, thái độ, trong đó mục tiêu nâng cao năng lực giao

tiếp khẩu ngữ cho học sinh đƣợc chú trọng. Cách thức tiến hành bài học đƣợc

trình bày cụ thể: giáo viên hƣớng dẫn cho học sinh khai thác ngữ liệu, trả lời

câu hỏi, thảo luận nhóm để từ đó rút ra những vấn đề quan trọng của bài học,

trình bày những vấn đề gần gũi trong thực tế đời sống có hiệu quả… đây cũng

là phƣơng pháp dạy học chủ yếu đƣợc sử dụng trong tiết học cung cấp lý

thuyết gắn liền với thực hành. Tiến trình dạy học đƣợc chia thành các hoạt

động cụ thể, giáo án đƣợc chia cột, hoạt động của giáo viên và học sinh bố trí

theo nội dung và phƣơng pháp dạy học. Các ví dụ, bài mẫu đƣợc trích dẫn

phong phú đa dạng. Ngoài ra, có các bài đọc tham khảo sau tiết học.

Về nội dung, các thiết kế đã bám sát chƣơng trình, hệ thống hóa, cụ thể

18

hóa nội dung kiến thức bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa và

sách giáo viên Ngữ văn 10 tập 1. Hệ thống hóa hoạt động dạy học của giáo

viên bằng nhiều hình thức phong phú. Cả học sinh và giáo viên đều hoạt động

liên tục trong suốt 45 phút của giờ học, trong đó giáo viên là ngƣời hƣớng

dẫn, định hƣớng học sinh khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học. Hệ thống

câu hỏi về hình thức khá đa dạng, về nội dung đã bám sát lí thuyết nhằm củng

cố cho học sinh khắc sâu lí thuyết, nâng cao năng lực sử dụng Tiếng Việt cho

học sinh. Tuy nhiên, các hoạt động, hệ thống câu hỏi về nội dung lí thuyết vẫn

chiếm phần lớn thời gian nên thời gian thực hành giao tiếp cho học sinh trên

lớp và thời gian làm bài tập thực hành còn eo hẹp.

Bài học “Trình bày một vấn đề” giúp ngƣời học có đƣợc những kĩ thuật

cần thiết để có thể lập dàn ý và tự tin trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hoặc

ngƣời khác. Bên cạnh đó chúng ta có thể nhận thấy với những gì mà phần

kiến thức này cung cấp đã góp phần rèn giũa cho học sinh biết cách ứng xử

linh hoạt trong quá trình giao tiếp và nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ.

Tuy nhiên, các thiết kế trên còn nặng về hình thành lí thuyết, coi trọng việc

truyền thụ các đơn vị kiến thức: tầm quan trọng của việc trình bày một vấn

đề; những công việc chuẩn bị cho việc trình bày một vấn đề, chƣa chú trọng

đầy đủ đến việc luyện tập, rèn luyện thực hành nâng cao khả năng diễn đạt

cho các em học sinh. Thời gian phần thực hành, luyện tập khả năng giao tiếp

cho học sinh còn eo hẹp. Các giáo án này hoạt động của học sinh đƣợc tiến

hành chủ yếu dƣới dạng thực hiện nhiệm vụ của giáo viên chứ chƣa tự giác

rèn luyện khả năng nói của mình. Do vậy, kĩ năng trình bày một vấn đề của

các em học sinh lớp 10 chƣa đảm bảo độ thành thạo, thuần thục, chƣa có ý

19

thức tự giác nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong cuộc sống.

c) Định hƣớng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong giáo án ở một

số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang

Trong quá trình thực nghiệm, thực hiện luận văn chúng tôi đã sƣu tầm

đƣợc một số giáo án, thiết kế dạy học bài bài “Trình bày một vấn đề” trong

sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1, ở một số trƣờng trung học phổ thông trên

địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

Về ƣu điểm: Các giáo án đã thể hiện đƣợc đúng, đầy đủ tinh thần của

một giáo án bao gồm 5 bƣớc cơ bản trong tiến trình dạy học đó là: Ổn định

lớp, Kiểm tra bài cũ; Bài mới; Củng cố dặn dò; Hƣớng dẫn học bài ở nhà.

Phần mục tiêu bài học của các giáo án đã đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, trong

đó đã đề cao mục tiêu rèn luyện kĩ năng trình bày cho học sinh, giáo án 2 cột

thể hiện cụ thể những công việc mà giáo viên và học sinh phải làm đồng thời

đề ra mục tiêu cần đạt ở mỗi nội dung. Bài học đƣợc chia ra các hoạt động

nhỏ phù hợp với yêu cầu của bài học. Phần dẫn dắt, chuyển ý của từng phần

diễn ra khá chi tiết. Qua sự thể hiện của giáo án, các em học sinh phần nào

lĩnh hội đƣợc kiến thức mới.

Về nhƣợc điểm: Những giáo án chƣa chú trọng vào hoạt động của học

sinh, các em còn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức mới. Những hoạt

động nhằm đa dạng hóa hình thức dạy học còn ít, tập trung vào phƣơng pháp

phát vấn, diễn giảng. Có nhiều giáo án không chia thời gian cụ thể cho từng

hoạt động trong bài dạy. Phần cho học sinh thực hành chƣa đƣợc đầu tƣ quan

tâm sáng tạo, học sinh chƣa đƣợc thực hành nhiều, khả năng các em có thể tự

tin trình bày vấn đề trƣớc đám đông là thấp. Xét theo yêu cầu đổi mới về

phƣơng pháp giảng dạy hƣớng tới phát triển năng lực cho học sinh, thì các

giáo án trên chƣa đáp ứng hoàn toàn các tiêu chí. Nhƣ phần trên đã nêu, đánh

giá năng lực của học sinh là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua

20

làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu.

Và việc vận dụng ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ

năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”.

Bên cạnh đó, thông qua những giáo án này việc hình thành cho học

sinh năng lực Ngữ văn là điều khó khăn. Học sinh cần phải đƣợc hình thành

năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực tạo lập văn bản. Năng lực tiếp nhận

văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt đƣợc các thông tin chủ yếu, những giáo

án trên phần nào đã giúp học sinh lĩnh hội đƣợc kiến thức mới. Tuy nhiên, về

năng lực tạo lập văn thì học sinh chắc chắn sẽ gặp nhiều lúng túng. Đối với

bài học này, cách tạo lập một văn bản nói là điều vô cùng quan trọng, nói phải

rõ ràng, rành mạch, lƣu loát; từ nói đúng, nói hay đến nói hùng biện…

Xét về mục đích bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh

lớp 10 với các tiêu chí: Ngôn ngữ diễn đạt; thái độ biểu cảm; trình bày suy

nghĩ, ý tƣởng; lắng nghe và phản hồi; đồng cảm và chia sẻ các ý kiến; khả

năng ứng xử, tự điều chỉnh thì các giáo án trên chƣa thật sự đáp ứng đƣợc

mục tiêu đề ra.

1.2.2. Thực trạng dạy học bài “Trình bày một vấn đề” tại một số trƣờng

trung học phổ thông tại tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc có tới 70% diện tích là đồi núi,

tỉnh với 29 trƣờng trung học phổ thông, là địa bàn có nhiều học sinh dân tộc

thiểu số (khoảng 64%), việc bồi dƣỡng kĩ năng giao tiếp khẩu ngữ cho học

sinh trung học phổ thông là một việc tƣơng đối khó khăn vì vốn tiếng Việt

của học sinh không đồng đều.

Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu, dự

giờ và khảo sát bằng phiếu điều tra với 16 giáo viên và 100 học sinh về nội

dung dạy học giao tiếp khẩu ngữ trong giờ dạy môn Ngữ văn ở 2 trƣờng trung

học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang:

Trƣờng trung học phổ thông Chuyên Tuyên Quang, thành phố Tuyên

21

Quang: 8 giáo viên và 65 học sinh

Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên

Quang: 8 giáo viên và 35 học sinh

Kết quả và ý nghĩa rút ra từ cuộc điều tra nhƣ sau:

Về phía giáo viên:

Qua khảo sát giảng dạy nội dung giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn

ở một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang, có thể thấy rằng việc

dạy học Ngữ văn theo định hƣớng phát triển năng lực cụ thể là phát triển năng

lực giao tiếp khẩu ngữ đã và đang đƣợc quan tâm chú trọng. Các giáo viên bộ

môn trƣớc hết cho rằng trong sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông,

các bài học về đọc hiểu tác phẩm, tiếng Việt và Làm văn đƣợc sắp xếp đan

xen nhau, hỗ trợ cho nhau. Thông qua tri thức của ba phân môn mà năng lực

đọc văn và làm văn của học sinh đƣợc hình thành và rèn luyện đồng bộ. Đồng

thời qua việc rèn luyện kĩ năng đọc văn, làm văn mà củng cố và phát triển

năng lực giao tiếp khẩu ngữ. Các nội dung đƣợc đƣa vào chƣơng trình dạy

học là những nội dung tiêu biểu cho việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói của

giao tiếp khẩu ngữ. Nhìn chung, giáo viên đã nhận thức rõ những điểm không

phù hợp của phƣơng pháp dạy học truyền thống trong dạy học văn, kết hợp

với việc đƣợc trang bị đầy đủ và khá cơ bản về lý thuyết dạy học theo hƣớng

tích cực, đổi mới… cho nên hầu hết các giáo viên đã tổ chức lớp học khá linh

hoạt, đã tránh đƣợc lối dạy học đọc chép, thuyết giảng một chiều, đã coi trọng

nhu cầu tiếp nhận tri thức của ngƣời học; đã vận dụng linh hoạt các phƣơng

pháp và hình thức dạy học để phát huy năng lực giao tiếp khẩu ngữ ở học

sinh. Ngƣời giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, khơi gợi, nêu vấn đề, học sinh

chủ động lĩnh hội vận dụng tri thức để giao tiếp. Việc dạy học đã có sự đổi

mới khá rõ ràng, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy năng lực

giao tiếp khẩu ngữ cho các em học sinh

Những nội dung giao tiếp khẩu ngữ đƣợc giảng dạy là những nội dung

22

tiêu biểu cho tác dụng mở rộng khả năng giao tiếp khẩu ngữ qua các bài học

về đất nƣớc, con ngƣời, văn hóa, văn học, giúp học sinh có cái nhìn bao quát

hơn đối với những đóng góp và vai trò của giao tiếp khẩu ngữ trong hoạt động

giao tiếp cũng nhƣ trong hoạt động học tập, bồi dƣỡng cho các em kĩ năng và

năng lực giao tiếp khẩu ngữ, góp phần xây dựng khả năng sử dụng ngôn ngữ

khẩu ngữ và phát triển tƣ duy cho các em.

Tuy nhiên, việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ tuy đã đƣợc đề cập tới trong

chƣơng trình và sách giáo khoa nhƣng chƣa đƣợc hƣớng dẫn cụ thể về thiết kế

hoạt động học tập cũng nhƣ sự phổ biến trong các tƣ liệu tham khảo…làm

cho việc dạy học nội dung này trong nhà trƣờng phổ thông gặp một số khó

khăn. Cô giáo Nguyễn Thị Mến là giáo viên dạy Ngữ văn có trên 10 năm kinh

nghiệm giảng dạy tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn

Dƣơng cho rằng, mặc dù chƣơng trình đã giảm tải nhƣng khối lƣợng kiến

thức cần truyền thụ trong mỗi tiết học về giao tiếp còn nhiều (có khi trích dẫn

ngữ liệu dài nhƣ bài 5 phần luyện tập [6, tr. 22]), nên họ gặp rất nhiều khó

khăn khi giảng dạy, nhất là khi yêu cầu đổi mới về phƣơng pháp giảng dạy là

dạy học hƣớng tới phát triển năng lực Ngữ văn cho học sinh, chú ý tới năng

lực giao tiếp khẩu ngữ”. Sở dĩ giáo viên có sự nhìn nhận nhƣ vậy đối với nội

dung dạy học giao tiếp trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông bởi

chƣa có sự trình bày cụ thể về lý thuyết trong chƣơng trình và sách giáo khoa

Ngữ văn nên chƣa có sự nhận thức đầy đủ. Giáo viên vẫn còn thuyết giảng

nhiều, dẫn đến tình trạng học sinh ít đƣợc làm việc, ít có cơ hội đƣợc bày tỏ ý

kiến của mình trong giờ học, có giáo viên sử dụng hình thức trao đổi, thảo

luận…nhƣng hình thức dạy học này chỉ đƣợc vận dụng ở những bài học cụ

thể, những suy nghĩ, cách diễn đạt, trình bày vấn đề của cá nhân học sinh ít

đƣợc giáo viên quan tâm tới. Đồng thời, giáo viên gặp khó khăn hơn khi phải

dành nhiều thời gian cho việc thực hành của học sinh, nội dung giảng dạy

giao tiếp khẩu ngữ đƣợc cho rằng là một trong những nội dung khó truyền tải,

23

nội dung chủ đề luyện nói cho học sinh còn hạn hẹp. Việc này dẫn đến hiệu

quả của dạy học giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học

phổ thông chƣa đạt hiệu quả cao.

Chúng tôi đã quan sát cách thức tiến hành một giờ dạy về bồi dƣỡng

năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh thƣờng đƣợc tiến hành theo hình

thức: giáo viên giới thiệu bài học, nêu mục đích yêu cầu bài học, đọc mẫu

từng văn bản hoặc đoạn văn rồi học sinh đọc theo. Giáo án yêu cầu học sinh

trả lời các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa về nội dung của văn bản hoặc

ngữ liệu và làm một số bài tập ngữ pháp. Vì thế vẫn chƣa hoàn toàn khắc

phục đƣợc tình trạng thầy diễn giảng, còn học sinh nghe và ghi chép theo. Do

vậy, hiện nay, đối với việc dạy học Ngữ văn nhằm phát triển năng lực giao

tiếp cho học sinh, đa phần các giáo viên đang cố gắng truyền tải những nội

dung chủ đề có sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh mà chƣa chủ động tìm

ngữ liệu, dẫn chứng từ thực tế cuộc sống gần gũi cho các em, giáo viên chƣa

có nhiều sáng tạo để bài học đƣợc sinh động, mới mẻ hơn.

Về phía học sinh:

Qua quá trình tìm hiểu và dự giờ, bƣớc đầu chúng tôi nhận thấy đa số

các em tỏ ra khá hào hứng sôi nổi khi học những bài liên quan tới hoạt động

giao tiếp, đặc biệt là với các bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” và bài

“Trình bày một vấn đề” [6, tr. 21]. Các em cho rằng nội dung bài học có nhiều

tình huống thú vị. Hầu hết các em có soạn bài trƣớc khi đến lớp, trong giờ học

có ý thức xây dựng bài.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu kĩ hơn, chúng tôi nhận thấy hạn chế lớn nhất của

học sinh là thói quen thụ động trong quá trình học tập: quen nghe, chép, ghi

nhớ và tái hiện những gì giáo viên nói, gợi ý. Số đông học sinh chƣa có thói

quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu chƣa đƣợc giao nhiệm vụ hoặc

nếu có đƣợc giao nhiệm vụ cụ thể thì còn lúng túng khi độc lập giải quyết vấn

đề. Phần lớn học sinh khi chuẩn bị soạn bài, đều lệ thuộc vào các tài liệu học

tốt, các mẫu có sẵn trên internet hoặc nhờ ngƣời khác làm hộ. Thói quen dựa

vào cách hiểu, cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt… của tài liệu, hay của

24

ngƣời khác đã hạn chế rất nhiều năng lực sáng tạo của học sinh. Vì vậy, trong

giờ học, nhiều em tỏ ra lơ đãng không nghe giảng, nói chuyện với bạn học

hoặc nghịch ngầm, khi giáo viên gọi đứng dậy trả lời câu hỏi thì các em trả

lời theo lời bạn nhắc, có sẵn trong tài liệu, mới thoạt nghe thì các em trả lời

đúng, có hiểu bài nhƣng thật sự các em không chú ý vào bài giảng, không

suy nghĩ trả lời câu hỏi, mà trả lời nhƣ một cái máy đọc những cái có sẵn

trong tài liệu. Đặc biệt, khi lên bảng kiểm tra bài cũ, đối với những câu hỏi

yêu cầu nhắc lại nội dung ghi nhớ của bài học trƣớc thì các em trả lời đƣợc,

nhƣng đến phần yêu cầu trình bày một vấn đề, nói về một chủ đề mà em yêu

thích thì rất nhiều em tỏ ra lúng túng, trả lời sai, hoặc làm theo những khuôn

mẫu có sẵn đã đƣợc cung cấp từ sách giáo khoa, sách tham khảo hoặc bắt

trƣớc theo giáo viên.

Bên cạnh đó hình thức kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn hiện nay

chƣa vận dụng hình thức kiểm tra khách quan, hình thức thi nói vào đánh giá

kết quả học tập môn Ngữ văn. Vì thế, học sinh chƣa có đƣợc những hoạt động

giao tiếp khẩu ngữ một cách cụ thể và sự tự ý thức, tìm tòi, chiếm lĩnh kiến

thức bài học ở các em còn hạn chế.

Kết quả và ý nghĩa rút ra từ cuộc điều tra nhƣ sau:

Bảng 1.2: Nhận thức của giáo viên và học sinh về nội dung dạy học giao

tiếp khẩu ngữ trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông

Mức độ nhận thức Số Tƣơng đối đầy STT ĐTKS ngƣời Đầy đủ Không đầy đủ đủ khảo sát SL TL SL SL TL TL

1 GV 16 5 31,25% 8 3 18,75% 50%

2 HS 100 31 31% 39 30 30% 39%

Từ bảng thống kê ở trên, chúng tôi nhận thấy đa số giáo viên và học sinh

đƣợc điều tra có nhận thức tƣơng đối đầy đủ về nội dung dạy học giao tiếp khẩu

25

ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là: 45/116 chiếm 38,79%.

Số giáo viên và học sinh có nhận thức đầy đủ về nội dung dạy học giao tiếp

khẩu ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là: 36/116 chiếm

31,03%. Số giáo viên và học sinh có nhận thức không đầy đủ về nội dung dạy

học giao tiếp khẩu ngữ trong chƣơng trình Ngữ văn trung học phổ thông là

33/116 chiếm 30,18%.

Bảng 2.2: Các năng lực cơ bản được giáo viên và học sinh quan tâm rèn

luyện trong giờ học môn Ngữ văn.

Năng lực cơ bản

Tạo lập văn Cảm thụ văn STT ĐTKS Đọc hiểu Nghe nói bản chƣơng

SL TL SL TL SL TL SL TL

GV 1 4 25% 3 18,75% 5 31,25% 4 25% (16)

HS 2 40 40 % 15 15% 25 25% 20 21% (100)

Từ bảng thống kê trên cho thấy đa số giáo viên và học sinh đều cho rằng

trong giờ học môn Ngữ văn năng lực đƣợc quan tâm rèn luyện là năng lực đọc

hiểu văn bản: 44/116 chiếm: 37,9%. Năng lực tạo lập văn bản: 30/116 chiếm:

25,86%. Năng lực cảm thụ văn chƣơng: 24/116 chiếm: 20,69% và số giáo viên

26

và học sinh cho rằng năng lực nghe nói: 18/116 chiếm: 15,55%.

Bảng 3.2: Khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học sinh qua bài “Trình bày

một vấn đề” trong sách giáo khoa lớp 10 tập 1 ở một số trường trung học phổ

thông tỉnh Tuyên Quang.

Mức độ

Thƣờng xuyên Hiếm khi Thỉnh thoảng Không bao giờ

(SL) (SL) (SL) (SL)

Tiêu chí

Khó khăn khi diễn 16 10 64 10 đạt ý kiến

Mắc lỗi khi phát âm 8 25 58 9

Tự tin khi phát biểu, 12 40 28 20 thuyết trình

Tích cực tham gia

hoạt động ngoại 10 42 33 15

khóa

Từ bảng thống kê, chúng ta thấy khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học

sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10

đƣợc thể hiện qua các tiêu chí nhƣ sau:

Tiêu chí: Khó khăn khi diễn đạt ý kiến, cao nhất ở mức độ thỉnh thoảng

chiếm 64%.

Tiêu chí: Mắc lỗi khi phát âm, cao nhất ở mức độ thỉnh thoảng chiếm 58%.

Tiêu chí: Tự tin khi phát biểu, thuyết trình, cao nhất ở mức độ hiếm khi

chiếm 40%.

Tiêu chí: Tích cực tham gia hoạt động ngoại khóa, cao nhất ở mức độ

27

hiếm khi chiếm 42%.

Bảng 4.2: Các hoạt động được tổ chức trong giờ học “Trình bày một vấn

đề” nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 10.

Hoạt động cơ bản

Thuyết trình, Hoạt động S Thuật việc, kể ĐTKS Viết đoạn văn luyện nói nhóm, thảo T chuyện theo chủ đề luận T

SL TL SL TL SL TL SL TL

GV 1 6,25% 3 18,75% 9 56,25% 3 18,75% 1 (16)

HS 15 15 % 35 35% 30 30% 20 20% 2 (100)

Hình thức tổ chức các hoạt động trong giờ học “Trình bày một vấn đề” khá

đa dạng và phong phú, giáo viên có thể kết hợp nhiều hoạt động khác nhau nhằm

rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong giờ dạy bao gồm: hoạt

động thuyết trình, luyện nói theo chủ đề có 39/116 chiếm 33,62%; hoạt động viết

đoạn văn: 38/116 chiếm 32,8%; hoạt động nhóm: 23/116 chiếm 19,83% và hoạt

28

động thuật việc kể chuyện 16/116 chiếm 13,75%.

Bảng 5.2: Đánh giá của giáo viên và học sinh về nguyên nhân ảnh hưởng

đến vấn đề rèn luyện giao tiếp khẩu ngữ của học sinh trong giờ học “Trình

bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 tại một số trường trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang.

Thứ Kết quả bậc STT Các nguyên nhân GV (16) HS (100)

SL TL SL TL

Tâm lý ngại giao tiếp, thiếu tự tin 1 9 56,25% 80 80% 1 trong giao tiếp khẩu ngữ

Không có những kiến thức nền

2 tảng về ngôn ngữ giao tiếp và thiếu 4 25% 30 30% 4

tài liệu tham khảo

Bản thân học sinh chƣa tích cực

3 rèn luyện thƣờng xuyên để nâng 8 50% 60 60% 2

cao khả năng giao tiếp khẩu ngữ

Giáo viên chƣa dành nhiều thời

4 gian cho học sinh thực hành giao 5 31,25% 20 20% 7

tiếp khẩu ngữ

Các thành viên trong lớp học chƣa

5 tích cực rèn luyện giao tiếp khẩu 4 25% 25 25% 6

ngữ

Chủ đề, đề tài luyện nói còn hạn 6 2 12,5% 30 30% 5 hẹp

29

Hoạt động ngoại khóa về giao tiếp 7 5 31,25% 30 30% 3 khẩu ngữ chƣa đƣợc chú trọng

Theo số liệu thống kê cho thấy trong số 100 em học sinh đƣợc điều tra

thì 50% học sinh đến từ thành phố, 20% học sinh đến từ vùng đồng bằng nông

thôn và 30% đến từ miền núi, trong đó có 60% học sinh là ngƣời dân tộc thiểu

số. Từ đó rút ra đƣợc kết luận học sinh đến từ những vùng khác nhau trong

cùng một tỉnh sẽ có sự khác biệt nhau về khả năng giao tiếp khẩu ngữ.

Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến vấn đề rèn luyện giao

tiếp khẩu ngữ của học sinh một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên

Quang là do tâm lý ngại giao tiếp, thiếu tự tin trong giao tiếp khẩu ngữ,

nguyên nhân thứ hai là bản thân học sinh chƣa tích cực rèn luyện thƣờng

xuyên để nâng cao khả năng giao tiếp khẩu ngữ, rồi đến lý do hoạt động ngoại

khóa về giao tiếp khẩu ngữ chƣa đƣợc chú trọng và không có những kiến thức

nền tảng về ngôn ngữ giao tiếp và thiếu tài liệu tham khảo. Điều đó chứng tỏ:

nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến vấn đề rèn luyện giao tiếp khẩu ngữ của

học sinh nhìn chung xuất phát từ chính bản thân các em là tâm lý ngại giao

tiếp, chƣa quyết tâm, kiên trì và chƣa quan tâm thực sự đến học tập…

Thông qua hệ thống phiếu điều tra, chúng tôi đã rút ra đƣợc những kết

quả sau:

Một là khả năng giao tiếp khẩu ngữ của học sinh ở một số trƣờng trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang là không cao, điều này thể hiện hầu hết học

sinh có khả năng giao tiếp khẩu ngữ ở mức trung bình.

Hai là hiệu quả của việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách

giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thông chƣa cao.

Ba là có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc dạy học giao tiếp khẩu ngữ

trong môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thông chƣa có hiệu quả cao,

nhƣng nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ chính bản thân các em học sinh và

30

cách thức dạy học của giáo viên.

Chƣơng 2

THIẾT KẾ DẠY HỌC BÀI “TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ” THEO

ĐỊNH HƢỚNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC GIAO TIẾP KHẨU NGỮ

CHO HỌC SINH

Nếu nhƣ chƣơng 1 đã trình bày một số cơ sở lí luận và thực tiễn của việc

bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ, thì chƣơng 2 của luận văn sẽ đề cập

đến việc thiết kế những hoạt động dạy và học trong bài “Trình bày một vấn

đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1), nhằm nâng cao năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh

Tuyên Quang.

2.1. Định hƣớng chung về dạy học theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao

tiếp khẩu ngữ cho học sinh

2.1.1. Phƣơng pháp dạy học tích cực với việc bồi dƣỡng năng lực giao tiếp

khẩu ngữ cho học sinh

Phƣơng pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ đƣợc dùng ở nhiều nƣớc

để chỉ những phƣơng pháp giáo dục, dạy học, theo hƣớng phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của ngƣời học. “Tích cực” trong phƣơng pháp dạy

học tích cực đƣợc dùng với nghĩa hoạt động, chủ động trái nghĩa với không

hoạt động, thụ động. Phƣơng pháp dạy học tích cực hƣớng tới việc hoạt động

hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của ngƣời học, tức là tập trung và phát

huy tính tích cực của ngƣời học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính

tích cực của ngƣời dạy.

Các đặc trƣng cơ bản của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực có

ảnh hƣởng không nhỏ tới việc nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho các

em học sinh. Phƣơng pháp dạy học tích cực nhằm phát huy cao nhất tính tích

cực, chủ động, độc lập, sáng tạo trong học tập của ngƣời học dƣới vai trò tổ

chức, hƣớng dẫn của giáo viên, việc lựa chọn một phƣơng pháp hay hoạt động

31

cụ thể phụ thuộc vào mục tiêu và nội dung bài học cụ thể. Nhằm đa dạng hóa

hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho các em học sinh, giáo viên có thể sử

dụng một cách linh hoạt các đặc trƣng cơ bản của dạy học theo hƣớng tích

cực để nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ.

Bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ

văn rất có ích đối với sự phát triển và trƣởng thành của học sinh, giúp học

sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung quanh. Đồng thời, giúp học sinh

tự tin hơn vào bản thân trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng nhƣ định

hƣớng nghề nghiệp trong tƣơng lai. Điểm mấu chốt để giúp học sinh phát

triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong giờ học Ngữ văn thì ngƣời giáo viên

cần phải có những biện pháp huy động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích

luỹ, rèn tập đƣợc có liên quan đến nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy

có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế chủ động cho học sinh trong việc tiếp thu bài

mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh

nhƣ: thực hành giao tiếp, thảo luận, trần thuật, tranh luận , thuyết trình , quan sát và thực hành theo mẫu , tự tin trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hoặc

trƣớc ngƣời khác để khám phá kiến thức mới, thông qua đó mà rèn luyện

đồng thời bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, chú trọng hơn về kĩ năng nghe, nói

để phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.

Dạy học theo hƣớng tích cực có bốn đặc trƣng:

Thứ nhất, dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Dạy

học theo hƣớng tích cực dựa trên cơ sở của tâm lí học cho rằng nhân cách của

trẻ đƣợc hình thành thông qua các hoạt động chủ động, thông qua các hoạt

động có ý thức. Trí thông minh của trẻ phát triển nhờ vào sự đối thoại giữa

chủ thể hoạt động với đối tƣợng và môi trƣờng. Trong phƣơng pháp dạy học

tích cực, ngƣời học là đối tƣợng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của

32

hoạt động học đƣợc cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức

và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chƣa rõ chứ

không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã đƣợc giáo viên sắp đặt sẵn.

Đƣợc đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, ngƣời học trực tiếp

quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy

nghĩ của mình, từ đó nắm đƣợc kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm đƣợc phƣơng

pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có,

đƣợc bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên

không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hƣớng dẫn hành động. Khả

năng hành động là một yêu cầu đƣợc đặt ra không chỉ đối với từng cá nhân

mà cả ở cấp độ cộng đồng toàn địa phƣơng và toàn xã hội.

Đối với việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa

Ngữ Văn 10, phƣơng pháp dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học

sinh là cách thức tiến hành hoàn toàn phù hợp. Giáo viên đƣa ra các tình

huống, vấn đề buộc học sinh phải tự mình tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội tri

thức mới. Đó là các tình huống gần gũi, trong môi trƣờng học tập và sinh

sống của học sinh. Giáo viên nên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc theo

nhóm để tìm tòi, sƣu tầm các tƣ liệu liên quan tới vấn đề đƣợc giao một cách

chủ động. VD: giáo viên đƣa ra vấn đề “Giới thiệu cho bạn bè quốc tế về

chiếc áo dài Việt Nam”, học sinh sẽ chủ động tìm hiểu thông tin, số liệu để

nói lên suy nghĩ của bản thân, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách riêng của

mình. Cách các em giải quyết vấn đề chính là quá trình các em sáng tạo, tự

bộc lộ bản thân. Tuy nhiên, vai trò của ngƣời giáo viên không chỉ dừng lại ở

đó, giáo viên còn là ngƣời dẫn dắt, định hƣớng cho học sinh biết cách nói ra

suy nghĩ của mình và điều chỉnh uốn nắn học sinh theo hƣớng tích cực.

Thứ hai, dạy học chú trọng phƣơng pháp tự học. Dạy học theo hƣớng

tích cực xem việc rèn luyện phƣơng pháp tự học cho học sinh không chỉ là

33

một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.

Trong các phƣơng pháp học thì cốt lõi là phƣơng pháp tự học. Nếu rèn luyện

cho ngƣời học có đƣợc phƣơng pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ

tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con ngƣời, kết

quả học tập sẽ đƣợc nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay ngƣời ta nhấn mạnh

mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ

học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay

trong trƣờng phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả

trong tiết học có sự hƣớng dẫn của giáo viên. Làm đƣợc nhƣ vậy thì không

những kết quả học tập đƣợc nhân lên mà ngƣời học còn đƣợc chuẩn bị tự học

khi đã vào đời, dễ dàng thích ứng với cuộc sống lao động, công tác xã hội.

Ngày nay, ngƣời ta nhấn mạnh hoạt động trong quá trình dạy học, cố

gắng tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động. Chính

vì vậy, trong dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ

Văn 10 phải chú trọng hơn nữa tới phƣơng pháp tự học. Nên chăng hãy để

chính các em học sinh tự đƣa ra vấn đề mà các em yêu thích, quan tâm trong

giờ học để học sinh độc lập, chủ động giải quyết vấn đề. Từ chỗ học sinh

đƣợc tự đƣa ra vấn đề trình bày, các em sẽ chủ động tự tin trình bày vấn đề

cũng nhƣ vận dụng linh hoạt những điều đã học vào những tình huống mới,

biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.

Thứ ba là tăng cƣờng học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Dạy

học theo hƣớng tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi cá

nhân học sinh trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức mới. Ý chí và năng

lực của học sinh trong một lớp không thể đồng đều tuyệt đối, vì vậy buộc phải

chấp nhận sự phân hóa về cƣờng độ và tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập

nhất là bài học đƣợc thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Việc sử dụng

34

các phƣơng tiện nghe, nhìn, máy tính ngày càng rộng rãi trong nhà trƣờng sẽ

đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và năng lực của

mỗi học sinh.

Tuy nhiên trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều

đƣợc hình thành bằng con đƣờng hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là

một môi trƣờng giao tiếp giữa thầy và trò, trò và trò, tạo nên mối quan hệ hợp

tác giữa các cá nhân trên con đƣờng đi tới chân lí. Trong giáo dục, công việc

hợp tác đƣợc tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trƣờng. Sử dụng phổ biến nhất

là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ, 3 hoặc 5 ngƣời. Hoạt động trong tập thể

nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao

động xã hội. Hiệu quả học tập sẽ tăng lên, nhất là lúc phải giải quyết những

vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để

hoàn thành công việc. Trong hoạt động theo nhóm, tính cách, năng lực của

mỗi cá nhân đƣợc bộc lộ, đƣợc uốn nắn, phát triển nhƣ tình bạn, ý thức tổ

chức kỉ luật, tinh thần tƣơng trợ, ý thức cộng đồng.

Thực ra trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là của toàn nhóm nhƣng

mỗi cá nhân đƣợc phân công nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau để đạt đƣợc

mục tiêu chung. Mô hình hợp tác trong xã hội đƣa vào đời sống học đƣờng có

tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, trong đó mỗi

ngƣời sống và làm việc trong sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng.

Đối với bài “Trình bày một vấn đề” học tập cá thể, phối hợp với học tập

hợp tác là phƣơng pháp học cần thiết đƣợc vận dụng. Học sinh trong lớp đƣợc

chia thành nhiều nhóm nhỏ để phối hợp giải quyết vấn đề. Đây là cách làm

hay, phát huy đƣợc tính tích cực chủ động của mỗi học sinh, đồng thời tạo

cho các em tinh thần đoàn kết, biết làm việc nhóm hạn chế nhƣợc điểm của

nhau, cùng sáng tạo giải quyết vấn đề. Các thành viên trong nhóm đều phải

35

làm việc với khối lƣợng và vai trò nhƣ nhau, ngƣời đứng lên trình bày sẽ là

bất kì ai trong nhóm vì vậy sẽ hạn chế đƣợc tình trạng vô trách nhiệm, ỷ lại

cho nhóm trƣởng.

Thứ tƣ là kết hợp đánh giá của thầy và sự tự đánh giá của trò. Trong dạy

học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và

điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định

thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trƣớc đây giáo viên giữ độc

quyền đánh giá học sinh. Trong phƣơng pháp tích cực, giáo viên phải hƣớng

dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên

quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh đƣợc

tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp

thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trƣờng phải

trang bị cho học sinh. Theo hƣớng phát triển các phƣơng pháp tích cực để đào

tạo những con ngƣời năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc

kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại

các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong

việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ

thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo

viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt

động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Các phƣơng pháp và phƣơng tiện mới sẽ tạo

điều kiện, tăng nhịp độ kiểm tra cho học sinh có thể thƣờng xuyên tự kiểm tra.

Bài học “Trình bày một vấn đề” là tiết dạy học kĩ năng trình bày một vấn

đề trƣớc tập thể hoặc ngƣời khác. Vì vậy các văn bản nói, cách trình bày của

học sinh không những cần sự đánh giá của giáo viên mà sự đánh giá của học

sinh trong lớp hay các thành viên trong nhóm là điều hết sức cần thiết. Sự

tranh luận, đánh giá lẫn nhau của các thành viên trong lớp là động lực để các

nhóm trình bày vấn đề của mình tốt hơn. Đây là cách thức vừa tạo không khí

36

sôi nổi trong giờ học vừa rèn luyện cho học sinh khả năng phản biện, tranh

luận tích cực. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò chỉ đạo và đánh giá của

ngƣời giáo viên giáo viên cần đƣa ra các tiêu chí hƣớng dẫn học sinh cách

đánh giá một cách cụ thể.

Trên đây là các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực, giáo viên

cần vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình dạy học Ngữ văn nói chung

và dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nói riêng để đạt hiệu quả cao trong

việc bồi dƣỡng năng lực Ngữ văn cho học sinh.

2.1.2. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp với việc bồi dƣỡng năng lực giao

tiếp khẩu ngữ cho học sinh

Giao tiếp vừa là mục đích vừa là phƣơng thức dạy học, đây là phƣơng

pháp học sinh dƣới sự chỉ đạo của giáo viên vận dụng các kiến thức đã học để

tiến hành thực hiện các nhiêm vụ giao tiếp khác nhau sao cho phù hợp với các

nhân tố giao tiếp. Phƣơng pháp dạy học giao tiếp trở thành phƣơng pháp chủ

yếu để phát triển lời nói cho học sinh. Để thực hiện thành công phƣơng pháp

này ta cẩn hiểu giao tiếp không chỉ đơn giản là biết cách nói, giao tiếp tốt đòi

hỏi cả hai kĩ năng nói và lắng nghe. Tục ngữ có câu “nói là gieo, nghe là gặt”

đây là câu rất đúng với cuộc sống hàng ngày.

Lắng nghe không chỉ đơn thuần là quá trình sóng âm đập vào màng nhĩ

và chuyển lên não mà lắng nghe còn là quá trình tập trung chú ý để giải mã

sóng âm thanh thành ngữ nghĩa. Lắng nghe không phải là bản năng mà là

nghệ thuật, kỹ năng cần phải rèn luyện lâu dài. Lắng nghe chính là hùng biện

nhất song lại ít ngƣời biết đuợc điều đó. Trong giao tiếp với nhau chúng ta

thƣờng tranh nhau thể hiện mà thật ít ngƣời tranh nhau để lắng nghe. Nghe

một cách hiệu quả giúp chúng ta nắm bắt đƣợc nội dung vấn đề, thu thập đƣợc

nhiều thông tin, đánh giá nội dung thông tin và tƣơng tác qua lại trong quá

37

trình diễn đạt. Điều này vô cùng quan trọng đối với việc học tập của học sinh,

các em biết cách lắng nghe sẽ chọn lọc đƣợc những thông tin cần thiết của bài

học cho bản thân mình.

Học đƣợc cách lắng nghe sẽ tạo sự liên kết giữa ngƣời với ngƣời, đó là

liên kết về cảm xúc. Lúc này, sự lắng nghe lại có thêm những mục đích mới

tích cực về cảm xúc hơn nhƣ: tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với mọi ngƣời; chia

sẻ đồng cảm với ngƣời khác; khám phá ra những tính cách mới mẻ của ngƣời

đã quen biết. Biết cách lắng nghe giúp học sinh cải thiện các mối quan hệ

trong gia đình, nhà trƣờng, xã hội, năng lực giao tiếp khẩu ngữ của các em vì

thế đƣợc nâng lên rõ rệt.

Để trở thành ngƣời giao tiếp tốt, chúng ta không những phải học cách

lắng nghe mà còn phải học cách nói thông minh, nói có văn hóa. Lời nói

không chỉ phản ảnh thái độ mà tác động đến cả hành vi của con ngƣời. Lời

nói tác động đến tình cảm và ý nghĩ, nên có sức mạnh kỳ diệu giúp cải thiện

trạng thái tâm lý của bản thân và những ngƣời khác. Giống nhƣ nghe, nói

không phải là bản năng mà là nghệ thuật cần phải rèn luyện thƣờng xuyên.

Khi nói cần phải nắm vững cần trình bày những gì, sắp xếp vấn đề nào là

chính, vấn đề nào là phụ. Nói có chừng mực, thời lƣợng vừa phải. Ngoài ra,

để bài trình bày có hiệu quả, ngƣời nói phải có giọng nói, trang phục, tƣ thế

sao cho có thể rút ngắn khoảng cách giữa ngƣời nói và ngƣời nghe, tăng thêm

hứng thú cho ngƣời nghe. Học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ mạnh dạn, tự tin hơn

trong giao tiếp và khi trình bày một vấn đề trƣớc tập thể hay đám đông.

Giao tiếp đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi ngƣời.

Giao tiếp tốt giúp chúng ta xây dựng và duy trì những mối quan hệ hữu ích,

thành công trong công việc, xây dựng một hình ảnh cá nhân ấn tƣợng, cũng

nhƣ đạt đƣợc những mục đích trong cuộc sống. Sử dụng phƣơng pháp giao

tiếp để nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh là phƣơng pháp

38

mang lại hiệu quả cao.

Trong dạy học Ngữ văn, để thực hiện tốt các phƣơng pháp giao tiếp cần

phải gắn các nội dung dạy học với các nhân tố giao tiếp.

- Nhân vật giao tiếp là những ngƣời tham gia trong cuộc giao tiếp đƣợc

chia làm hai phía: phát tin và nhận tin. Quan hệ giữa ngƣời phát và ngƣời

nhận có ảnh hƣởng nhiều đến nội dung và hình thức ngôn ngữ đƣợc sử dụng.

Có thể thay đổi vai của ngƣời nhận để học sinh diễn đạt các nội dung giao tiếp

theo các cách khác nhau phù hợp với vai giao tiếp.

- Nội dung giao tiếp là hiện thực khách quan đƣợc phản ánh trong lời của

các nhân vật giao tiếp. Thay đổi nội dung giao tiếp sẽ làm thay đổi hình thức

diễn đạt. Vì thế, cũng có thể dùng cách thay đổi nội dung đƣợc phản ánh để

học sinh diễn đạt sao cho phù hợp.

- Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh diễn ra hoạt động giao tiếp. Ngƣời ta

thƣờng phân biệt hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn

cảnh giao tiếp rộng là tất cả những hoàn cảnh tự nhiên (địa lí, lãnh thổ…),

hoàn cảnh xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa…), hoàn cảnh lịch sử…. Hoàn

cảnh giao tiếp rộng thực chất không tham gia vào cuộc giao tiếp mà tham gia

dƣới dạng hiểu biết, những kinh nghiệm về chúng có trƣớc hoạt động giao

tiếp trong tƣ duy ngƣời phát, ngƣời nhận. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là địa điểm

và thời gian cụ thể diễn ra hoạt động giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp ảnh

hƣởng rất nhiều đến nội dung và hình thức ngôn ngữ. Cùng về một nội dung,

nhƣng nếu hai học sinh nói chuyện với nhau ngoài sân trƣờng sẽ có hình thức

diễn đạt khác với cách diễn đạt trong giờ sinh hoạt lớp. Do vậy, cũng có thể

thay đổi hoàn cảnh giao tiếp để yêu cầu học sinh rèn luyện những cách diễn

đạt khác nhau phù hợp.

- Cách thức giao tiếp là hình thức diễn ra hoạt động giao tiếp: trực tiếp

hay gián tiếp, ở dạng nói hay dạng viết… Cách thức giao tiếp cũng ảnh hƣởng

không nhỏ đến nội dung và hình thức diễn đạt bằng ngôn ngữ: giao tiếp trực

39

tiếp, giao tiếp qua điện thoại và đặc biệt giao tiếp ở dạng nói và dạng viết…Vì

thế, cũng có thể thay đổi cách thức để yêu cầu học sinh có những cách diễn

đạt phù hợp.

- Mục đích giao tiếp là nhân tố giữ vị trí quan trọng trong hoạt động giao

tiếp. Mục đích giao tiếp chi phối tất cả những nhân tố giao tiếp còn lại nhƣ

nhân vật, nội dung, hoàn cảnh và cách thức giao tiếp. Chúng ta cần phải chú ý

thích đáng đến nhân tố giao tiếp này.

Phƣơng pháp giao tiếp là phƣơng pháp chủ yếu để phát triển lời nói cho

học sinh. Phƣơng pháp giao tiếp có thể đƣợc áp dụng để dạy học trong nhiều

nội dung tri thức, kĩ năng của bài “Trình bày một vấn đề” vì bài này sử dụng

ngôn ngữ ở dạng nói là chủ yếu.

VD: Bài “Trình bày một vấn đề” giáo viên có thể tiến hành dạy theo

phƣơng pháp giao tiếp với những hoạt động nhƣ sau:

+ Liên hệ với thực tế để biết mục đích của bài học.

+ Rèn luyện năng lực nói, trình bày một vấn đề trƣớc đám đông.

+ Xác định chủ đề nói và nội dung trình bày liên quan tới việc trình bày

một vấn đề.

+ Xác định mục đích, đối tƣợng, cách nói khi trình bày một vấn đề.

Phƣơng pháp giao tiếp thể hiện qua việc xác định cơ sở để lập dàn ý cho

bài trình bày.

 Xác định: Đề tài trình bày có bao nhiêu vấn đề (chọn vấn đề nào?)

 Am hiểu sâu sắc và sự hứng thú của bản thân về vấn đề muốn trình bày,

có tƣ liệu, số liệu phong phú về vấn đề sẽ trình bày.

 Đối tƣợng nghe (Ai nghe? trình độ, tuổi tác giới tính, nghề

nghiệp,…của ngƣời nghe?)

 Xác định mục đích nói (Nói để tuyên truyền vận động? Nói để giáo dục

40

hoặc giao nhiệm vụ? Nói để tham khảo trong một buổi ngoại khóa?)

 Xác định cách nói (Bƣớc 1: Nói đúng thông tin chính xác, ngôn ngữ

chuẩn mực; Bƣớc 2: Nói hay, thông tin mới mẻ, ngôn ngữ sinh động, có

“khẩu khí” hùng biện).

Với phƣơng pháp thực hành giao tiếp, sau khi học xong bài “Trình bày

một vấn đề” giáo viên nên gợi ý để cho học sinh viết các bài hùng biện trạnh

luận về những vấn đề quen thuộc nhƣ: Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc

áo dài Việt Nam; giới thiệu về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em, hay

giới thiệu về trang phục truyền thống của dân tộc mình…

Việc thực hiện phƣơng pháp giao tiếp, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải

có những điều kiện nhất định: Môi trƣờng, nhân vật, trang phục, trang thiết

bị… phù hợp. Song, ở trong điều kiện nhƣ hiện nay, có thể tiến hành theo các

bƣớc sau:

- Định hƣớng giao tiếp: cho sẵn về chủ đề, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp.

- Học sinh hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm phân tích và sản sinh lời

nói theo định hƣớng của giáo viên.

Phƣơng pháp dạy học giao tiếp là phƣơng pháp quan trọng để phát triển

lời nói cho học sinh, phƣơng pháp này vừa rèn cho các em kĩ năng nghe nói,

kĩ năng trình bày một vấn đề vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp

khẩu ngữ.

Trên đây là phƣơng pháp giao tiếp có thể áp dụng phổ biến để tích cực

hóa hoạt động học tập của học sinh nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu

ngữ trong dạy học Ngữ văn. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên có thể cân

nhắc và áp dụng cho từng loại bài cụ thể. Việc lựa chọn phƣơng pháp phải

41

dựa trên cơ sở xác định rõ mục đích của bài học. Giáo viên cần kết hợp khéo

léo, linh hoạt các phƣơng pháp dạy học để giáo viên và học sinh đạt đƣợc mục

đích học tập nhanh, hiệu quả nhất.

2.2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng

năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 tại một số trƣờng trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang

Dƣới đây là thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nhằm bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10 đƣợc xây dựng dựa

trên cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học đã nêu ở phần trên

Tiết 47

TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ

MỤC TIÊU DẠY HỌC

- Thông qua dạy học giúp học sinh biết rõ khi trình bày một vấn đề cần phải

chuẩn bị một cách kĩ lƣỡng về nội dung, chú ý mục đích và hoàn cảnh giao tiếp,

nói rõ ràng, chính xác, truyền cảm, biết cách giao lƣu với ngƣời nghe qua đó bồi

dƣỡng cho học sinh năng lực nói một vấn đề trƣớc mọi ngƣời.

- Bồi dƣỡng cho học sinh thói quen tốt khi giao tiếp khẩu ngữ, mạnh dạn

tự tin khi trình bày một vấn đề trƣớc đám đông.

CHUẨN BỊ DẠY HỌC

1. Giáo viên sƣu tầm và giới thiệu cho học sinh một số nội dung gần gũi,

thiết thực gắn với địa phƣơng, phù hợp với sở thích, phát huy đƣợc sở trƣờng

của từng cá nhân học sinh. Đồng thời, giáo viên hƣớng dẫn cụ thể học sinh

cách chuẩn bị các nội dung đó.

- Một số nội dung học sinh cần chuẩn bị trƣớc khi dạy học bài “Trình

42

bày một vấn đề” cho học sinh tỉnh Tuyên Quang.

+ Trình bày cảm nhận của em về một tác phẩm văn học, hội họa, âm

nhạc, điêu khắc hay một bộ phim mà em yêu thích.

+ Trình bày cảm nhận của em về một nhân vật văn học mà em yêu thích.

+ Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc áo dài Việt Nam.

+ Giới thiệu về một chuyến thăm quan hoặc một kỉ niệm đáng nhớ của em.

+ Giới thiệu với bạn bè về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em.

+ Giới thiệu về bộ sƣu tập tem, tiền, bút…. mà em có.

+ Giới thiệu về một hoạt động ngoài giờ lên lớp mà em yêu thích.

+Giới thiệu cho mọi ngƣời về văn hóa đặc trƣng của dân tộc mình.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về một lễ hội độc đáo của tỉnh Tuyên Quang.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về nghệ thuật hát then, đàn tính của dân

tộc Tày, Nùng, Thái ở Tuyên Quang.

+ Giới thiệu với bạn bè về một di tích lịch sử hay danh lam thắng cảnh

của tỉnh Tuyên Quang.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về trang phục truyền thống của dân tộc em .

Ngoài các nội dung trên học sinh có thể tự đề xuất chủ đề mà các em yêu

thích và am hiểu sâu sắc .

- Hƣớng dẫn cách chuẩn bị cho học sinh:

+ Các em có thể tự mình chuẩn bị hoặc làm việc theo nhóm 3 hoặc 5 ngƣời.

+ Lựa chọn vấn đề nghiên cứu mà giáo viên giới thiệu hoặc chủ động đề

xuất vấn đề nghiên cứu. Một vấn đề tối đa không quá 02 nhóm lựa chọn.

+ Mỗi nhóm bầu nhóm trƣởng và lập kế hoạch phân công công việc một

43

cách cụ thể cho từng thành viên.

+ Đánh máy vấn đề trình bày và gửi vào hòm thƣ điện tử của giáo viên

trƣớc khi lên lớp.

+ Thời gian trình bày vấn đề ở trên lớp từ 4 đến 6 phút.

+ Nhóm có thể đƣợc cử ngƣời đại diện trình bày hoặc giáo viên lựa chọn

ngẫu nhiên 1 thành viên thay mặt nhóm lên trình bày.

+ Khi trình bày vấn đề, học sinh đƣợc tham khảo văn bản nhƣng không

đƣợc đọc văn bản.

+ Mỗi nhóm tự đánh giá và cho điểm quá trình làm việc của từng thành viên.

2. Học sinh chủ động sƣu tầm tài liệu chuẩn bị các nội dung theo yêu cầu

của giáo viên.

QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

1. Giới thiệu mở đầu (2 phút)

Giáo viên có thể sử dụng một trong 2 phƣơng án sau nhằm kích thích

tính tò mò, khơi dạy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học:

Phƣơng án 1: giáo viên có thể chiếu một số hình ảnh hoặc mang theo

một số tranh ảnh chân dung của Nick Vujicic. “Chắc hẳn các em đã từng

nghe thấy cái tên Nick Vujicic người cụt cả chân tay nhưng đã truyền cảm

hứng sống cho cộng đồng. Anh không thể lao động được bằng chân tay nhưng

qua cách anh nói chuyện anh đã gặt hái được nhiều thành công trong cuộc

sống. Người ta nói đến anh là nói đến ý chí sắt thép và những bài phát biểu

nổi tiếng. Để làm nên thành công ngày hôm nay, anh Nick Vujicic đã phải

luyện tập rất nhiều cho việc trình bày một vấn đề tốt trước nhiều người, anh

nói chuyện, chia sẻ suy nghĩ, nguyện vọng của mình trước đám đông và họ

đồng cảm với anh. Vậy “Trình bày một vấn đề” như thế nào và nó có tầm

quan trọng như thế nào thì chúng ta sẽ bước vào tiết học ngày hôm nay: Tiết

44

47 bài Trình bày một vấn đề.”

Phƣơng án 2:

“Từ xưa, ông cha ta đã dạy phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”,

nghĩa là muốn nên người thì cái gì cũng phải học. Trong đó, việc “học nói”-

học cách giao tiếp bằng lời, nói có văn hóa, thuyết phục được người nghe là

một trong những điều quan trọng nhất để làm người. Bởi ăn ko nên đọi, nói

ko nên lời là một điều đáng hổ thẹn...Vậy làm thế nào để trình bày một vấn đề

trước đám đông có sức thuyết phục? Bài học hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm

hiểu vấn đề đó. Chúng ta bước vào tiết 47 bài “Trình bày một vấn đề”.

2. Hƣớng dẫn học sinh cách đánh giá về trình bày một vấn đề (5 phút)

Giáo viên định hƣớng cho học sinh biết cách đánh giá về trình bày một

vấn đề để học sinh có thể tự nhận xét một cách chính xác.

Các tiêu chí đánh giá bao gồm:

- Nội dung bài trình bày: đúng hƣớng, đủ ý, ngắn gọn, sâu sắc, thuyết phục.

- Ngôn ngữ diễn đạt, cách trình bày: rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, sáng tạo

trong diễn đạt, giọng nói hay, ngữ điệu truyền cảm hấp dẫn ngƣời nghe, tốc

độ nói vừa phải, phù hợp.

- Sử dụng ngôn ngữ cơ thể: tƣ thế, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ

cƣời, biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể kết hợp với lời nói một cách hợp lí, hiệu

quả cao.

- Thái độ, biểu cảm: thƣờng xuyên thể hiện đƣợc thái độ cảm xúc phù

hợp với nội dung trình bày.

- Trình bày suy nghĩ, ý tƣởng: nội dung trao đổi phù hợp và đúng mục

đích, thông tin phong phú, đa dạng, thƣờng xuyên đƣa ra đƣợc nhiều ví dụ để

phát triển và gợi mở hơn, làm sâu sắc hơn chủ đề đang nói.

45

- Trang phục: phù hợp, văn hóa, lịch sự.

- Khả năng ứng xử, tự điều chỉnh: Cách ứng xử, điều chỉnh nội dung,

thời gian, thƣờng xuyên có cách ứng xử phù hợp, sáng tạo trong các tình

huống giao tiếp, tự điều chỉnh hợp lý, kịp thời về nội dung, thời gian và cách

trình bày.

3. Tổ chức cho học sinh trình bày các vấn đề (30 phút)

Các nhóm sẽ có 30 phút để trình bày vấn đề đã chuẩn bị ở nhà. Mỗi

nhóm sẽ có 4 đến 6 phút trình bày. Sau đó có khoảng 5 phút cho các bạn và cô

giáo nhận xét. Vì vậy 3- 4 nhóm trình bày trên lớp, giáo viên linh hoạt điều

chỉnh tùy theo thời gian trình bày và nhận xét của học sinh.

Nhóm 1: Lựa chọn theo hình thức xung phong, tự cử đại diện trình bày.

Nhóm 2: Rút thăm chọn nhóm bất kì, nhóm đƣợc quyền cử đại diện hoặc

nhóm trƣởng trình bày.

Nhóm 3: Lựa chọn theo hình thức bốc thăm, giáo viên chỉ định bất kì

thành viên nào trong nhóm lên trình bày.

Nhóm 4: Ƣu tiên chọn nhóm đã chuẩn bị tốt, có thể cho cử ngƣời trình

bày tốt nhất.

4. Tổng kết (8 phút)

- Gọi một hoặc hai học sinh trong lớp sau khi nghe xem các bạn trình

bày, rút ra bài học gì cho bản thân khi trình bày một vấn đề.

- Giáo viên nhận xét lời phát biểu của học sinh sau đó có thể bổ sung

một số nội dung về các khía cạnh sau đây:

+ Việc chuẩn bị lên lớp để có một bài trình bày một vấn đề tốt trƣớc đám đông.

+ Việc trình bày chú ý tới nội dung bài trình bày, ngôn ngữ, cách giao

46

lƣu với ngƣời nghe…

+ Việc nhận xét đánh giá của học sinh cần phải tích cực chủ động trong

phát ngôn.

- Các em về nhà ghi vào vở những nội dung quan trọng cần phải ghi nhớ

và bài học kinh nghiệm đã rút ra đƣợc sau tiết học.

- Ở buổi học ngoại khóa hoặc trong giờ sinh hoạt lớp các nhóm còn lại sẽ

có cơ hội trình bày bài làm của mình, đồng thời rèn luyện thêm năng lực giao

tiếp khẩu ngữ.

- Ngoài ra, các em có thể tìm hiểu một số bài phát biểu hay của các vị

lãnh đạo, nhà hùng biện sau đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.

- Chuẩn bị các nội dung cụ thể cho việc dạy học bài “Lập kế hoạch cá

nhân”. Ví dụ:

+ Lên kế hoạch cho một buổi đi dã ngoại cùng bạn bè, ngƣời thân.

+ Lên kế hoạch cho một cuộc thi hùng biện do trƣờng, lớp tổ chức.

+ Lên kế hoạch cho một chuyến đi chơi.

+ Lên kế hoạch cho một ngày nghỉ cuối tuần.

+ Lên kế hoạch cho chuyến nghỉ hè cuối năm.

+ Lên kế hoạch cho một buổi đại hội chi đoàn.

+ Lên kế hoạch học tập cho năm học mới.

Các em có thể làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhƣ đã hƣớng dẫn với

các chủ đề ở bài học vừa qua

2.3. Thuyết minh thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo

hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10

Chúng ta đều biết rằng dạy học là một công việc vừa có tính khoa học

47

vừa có tính nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên trong quá trình giảng

dạy. Để làm tốt công việc này thì giáo viên nên tiến hành theo 3 giai đoạn:

chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp để phát

huy đƣợc tốt nhất các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng

pháp dạy học giao tiếp.

Nhƣ vậy, muốn dạy bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa

Ngữ văn 10 (tập 1) nhằm phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh

thì cần phải tiến hành theo 3 giai đoạn trên.

2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị lên lớp

Dạy học là một công việc luôn đòi hỏi sự sáng tạo của ngƣời giáo viên

trong suốt quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, không thể có một sự sáng tạo nào

mà lại thiếu đi sự chuẩn bị chu đáo. Vì vậy, việc chuẩn bị lên lớp không

những là điều cần thiết mà còn là điều bắt buộc không chỉ đối với ngƣời giáo

viên mà cả đối với học sinh. Dạy học bài “Trình bày một vấn đề” nhằm bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10, đặc biệt là năng lực

nói trƣớc đám đông thì khâu chuẩn bị lên lớp của ngƣời giáo viên và học sinh

là rất quan trọng. Các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích

cực đã chỉ rõ trên lớp, học sinh hoạt động là chính, nhƣng trƣớc đó, giáo viên

phải đầu tƣ nhiều công sức và thời gian mới có thể thực hiện bài lên lớp với

vai trò là ngƣời gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt

động học tập của học sinh.

Về phía giáo viên, trong giai đoạn này ngƣời giáo viên cần có sự chuẩn

bị chu đáo về mặt tâm thế, tƣ duy và quan trọng hơn cả là công việc chuẩn bị

trực tiếp cho việc lên lớp bao gồm việc phân tích mục tiêu, nội dung sách giáo

khoa, định hƣớng về cách thức lên lớp, tiến trình tổ chức các hoạt động dạy

48

học và chuẩn bị những vật dụng cần thiết cho việc lên lớp.

Bƣớc đầu tiên là cần chuẩn bị về mặt tâm thế. Ngƣời giáo viên Ngữ văn

cần nắm đƣợc đối tƣợng giảng dạy của bài “Trình bày một vấn đề” là học sinh

lớp 10. Học sinh lớp 10 là lứa tuổi có tâm sinh lý thƣờng có nhiều biến đổi,

vậy nên khi tổ chức dạy học, giáo viên càng phải chú ý hơn tới mặt nhận thức

và tâm lí sao cho các em đƣợc rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ và rèn

luyện kĩ năng nghe, nói một cách hiệu quả nhất.

Bƣớc thứ hai chuẩn bị về tƣ duy, ngƣời giáo viên trƣớc hết cần nắm đƣợc

khối lƣợng công việc của mình. Cụ thể hơn, để dạy bài “Trình bày một vấn đề”

đạt đƣợc mục đích là phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh chúng

ta cần nắm đƣợc nội dung chƣơng trình giao tiếp khẩu ngữ trong môn Ngữ văn

trung học phổ thông. Từ đó đƣa ra đƣợc định hƣớng công việc và sự chuẩn bị

của ngƣời giáo viên để hình hành, phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học

sinh lớp 10 nói riêng và học sinh trung học phổ thông nói chung.

Bƣớc ba, quan trọng hơn cả là việc chuẩn bị trực tiếp lên lớp bao gồm

việc xác định mục tiêu bài học, nội dung sách giáo khoa, định hƣớng về cách

thức lên lớp, xây dựng tiến trình bài học và chuẩn bị những vật dụng cần thiết

cho việc lên lớp.

Bƣớc thứ năm, giáo viên cần chuẩn bị các công việc cụ thể trƣớc khi lên

lớp, dự đoán các tình huống sƣ phạm có thể xảy ra trong giờ học để chủ động

xử lí kịp thời.

Để bài học “Trình bày một vấn đề” diễn ra thuận lợi, đi đúng hƣớng và

đạt đƣợc mục đích đề ra, giáo viên cần soạn các nội dung cụ thể (khoảng 10 -

15 vấn đề), gửi trƣớc cho học sinh nghiên cứu chuẩn bị theo nhóm hoặc cá

nhân theo năng lực và sở thích của các em. Các vấn đề đƣa ra cần chú ý tới

mặt thiết thực, ứng dụng của bài học, các vấn đề phải thật sự gần gũi, cụ thể,

có thể theo sở thích của các em đặc biệt là với các em dân tộc thiểu số đang

49

sinh sống và học tập trên địa bàn Tuyên Quang. Chúng tôi mạnh dạn đƣa ra

một số vấn đề sau trên cơ sở thực tế dạy và học Ngữ văn ở một số trƣờng

trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang cho các em chuẩn bị nhƣ sau:

+ Trình bày cảm nhận của em về một tác phẩm văn học, hội họa, âm

nhạc, điêu khắc… hay một bộ phim mà em yêu thích.

+ Trình bày cảm nhận của em về một nhân vật văn học mà em yêu thích.

+ Giới thiệu với bạn bè quốc tế về chiếc áo dài Việt Nam.

+ Giới thiệu về một chuyến thăm quan hoặc một kỉ niệm đáng nhớ của em.

+ Giới thiệu với bạn bè về một món ăn đặc sản của quê hƣơng em.

+ Giới thiệu về bộ sƣu tập tem, tiền, bút…. mà em có.

+ Giới thiệu về một hoạt động ngoài giờ lên lớp mà em yêu thích.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời về văn hóa đặc trƣng của dân tộc mình.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về một lễ hội độc đáo của tỉnh Tuyên Quang.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về nghệ thuật hát then, đàn tính của dân

tộc Tày, Nùng, Thái ở Tuyên Quang.

+ Giới thiệu với bạn bè về một di tích lịch sử hay danh lam thắng cảnh

của tỉnh Tuyên Quang.

+ Giới thiệu cho mọi ngƣời biết về trang phục truyền thống của dân tộc em .

+ Giới thiệu về vấn đề mà em trăn trở, suy nghĩ và hiểu biết nhất.

Công việc chuẩn bị lên lớp của ngƣời giáo viên không chỉ dừng lại ở

việc giao vấn đề cho học sinh mà còn phải tổ chức, hƣớng dẫn học sinh cách

thức, nguyên tắc làm việc nhóm để học sinh tích cực chủ động làm việc hoàn

thành nhiệm vụ. Nhƣ vậy, vai trò của ngƣời giáo viên giai đoạn chuẩn bị

50

trƣớc khi lên lớp là rất quan trọng.

Về phía học sinh, sự chuẩn bị của học sinh trƣớc khi lên lớp cũng là một

phần không thể thiếu đóng góp vào sự thành công của bài học. Học sinh sẽ

đƣợc tăng cƣờng học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác thông qua cách

thức làm việc nhóm. Học sinh đƣợc trình bày, thảo luận, tranh luận về những

vấn đề do giáo viên đặt ra hoặc học sinh đề xuất đƣợc giáo viên thông qua

nhằm mục đích tự tìm hiểu vấn đề và tự giải đáp trƣớc khi vấn đề đó đƣợc

giải quyết dƣới sự giám sát, điều chỉnh của nhóm và giáo viên. Trong quá

trình tham gia làm việc nhóm, học sinh sẽ học đƣợc tính hòa nhập, chia sẻ để

giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, chủ động. Học sinh biết chia sẻ công

việc một cách bình đẳng, biết cách giao việc cho nhau và có trách nhiệm đối

với công việc của mình cũng nhƣ cả nhóm. Đồng thời, thông qua hoạt động

nhóm sẽ tập cho các em kĩ năng làm việc tập thể, giúp các em tự tin hơn, có

kinh nghiệm trong quản lý tổ chức làm việc, đặc biệt là tính năng động trong

giao tiếp khẩu ngữ. Tất cả các thành viên đều phải làm việc với khối lƣợng

công việc và vai trò nhƣ nhau, ngƣời trình bày sẽ đƣợc chọn ngẫu nhiên trong

nhóm, vì vậy bất kì cá nhân nào cũng phải chuẩn bị trƣớc khi lên lớp. Để

chuẩn bị tốt cho phần trình bày trên lớp các em sẽ phải sƣu tầm tài liệu về vấn

đề phải trình bày của nhóm trƣớc khi lên lớp một thời gian, bài chuẩn bị có

thể viết tay hoặc đánh máy và các thành viên đều phải luyện tập trình bày vấn

đề trƣớc tập thể nhóm. Nhƣ vậy, học sinh sẽ phải đọc sách, tham khảo tài liệu

trên mạng internet và tự học phần lý thuyết của bài học “Trình bày một vấn

đề” trƣớc khi lên lớp.

Thông qua cách thức làm việc nhóm học sinh có thể rèn luyện phƣơng

pháp tự học để rút ra bài học cho bản thân đồng thời học sinh cũng biết cách

làm việc theo nhóm để hoàn thành mục tiêu chung. Phƣơng pháp dạy học tích

cực thể hiện ở chỗ học sinh vừa có thể chủ động tự lựa chọn vấn đề theo sở

51

thích, sở trƣờng, mặt khác các em có thể tự mình đƣa ra chủ đề làm việc tùy

theo vốn hiểu biết cá nhân, từ đó các em có thể tự tin hơn khi trình bày vấn đề

của mình. 2.3.2. Giai đoạn lên lớp

Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện kế hoạch dạy

học đã vạch ra. Đây là lúc ngƣời giáo viên và ngƣời học tiếp xúc giao tiếp với

nhau. Chính trong thời gian đó ngƣời giáo viên mới thể hiện đầy đủ tính khoa

học và tính nghệ thuật trong công tác dạy học và giáo dục của mình, thể hiện

tầm hiểu biết, hứng thú, niềm tin, nói cách khác là thể hiện thế giới tinh thần

của mình.

Việc mở đầu tiết học có ảnh hƣởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết

học. Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy

và trò. Tiết học hiện đại thƣờng bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn

đề, gây hứng thú và thu hút sự chú ý của học sinh vào những vấn đề, vào đề

tài của tiết học. Tiếp đó, tổ chức công tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với

nhau theo từng nhóm để giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu bằng

công tác độc lập chung cho cả nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri thức đã

học và việc giải quyết vấn đề đó có liên quan đến tri thức sắp học. Tiến trình

của tiết học không chỉ phụ thuộc vàp việc mở đầu tiết học mà còn phụ thuộc

cả vào việc thông báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo cho các em

học sinh có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới. Trong

quá trình giảng dạy việc tổ chức hƣớng dẫn tốt các thao tác trong mỗi bƣớc,

kết hợp với sự linh hoạt của các nhà sƣ phạm sẽ giúp học sinh chủ động, tích

cực trong việc lĩnh hội nội dung bài học. Tƣ thế, tác phong của ngƣời giáo

viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng,

truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay

đổi giọng nói.

Dạy học bài “Trình bày một vấn ðề” trong sách giáo khoa Ngữ vãn 10

52

bao gồm việc xác ðịnh thế nào là trình bày một vấn đề, tầm quan trọng của

nó, các bƣớc chuẩn bị để trình bày một vấn đề; cách trình bày. Việc hình

thành nội dung lí thuyết và thời gian thực hành luyện tập cho học sinh đƣợc

thực hiện theo quy trình dạy học dƣới sự tổ chức, hƣớng dẫn của giáo viên,

học sinh làm quen, thực hiện theo yêu cầu và tự chiếm lĩnh tri thức của bài,

đặc biệt là phải tạo lập ra một văn bản nói theo chủ đề nhất định.

Về phía giáo viên, công việc của giáo viên khi lên lớp bài “Trình bày

một vấn đề” là tổ chức các hoạt động cho học sinh đƣợc thực hành trình bày

một vấn đề một cách tối đa và giúp học sinh nắm vững kiến thức lý thuyết.

Học sinh có thể thông qua việc thực hành thành thạo mà nắm vững lý thuyết,

bởi trong quá trình chuẩn bị học sinh đã phải đọc sách, tham khảo tài liệu

trƣớc. Vì vậy chúng tôi sử dụng thuật ngữ “giới thiệu mở đầu” thay cho thuật

ngữ “giới thiệu bài mới” bởi đối với học sinh, sau một quá trình chuẩn bị

trƣớc khi lên lớp bài học này không hẳn còn là bài mới đối với học sinh nữa.

Hoạt động hƣớng dẫn học sinh cách đánh giá về trình bày một vấn đề

đƣợc tiến hành trong 5 phút để giáo viên định hƣớng cho học sinh có thể tự

nhận xét một cách chính xác. Giáo viên có thể phát phiếu hoặc có thể viết lên

bảng hoặc dùng máy chiếu để học sinh có thể thuận tiện quan sát đánh giá.

Cách thức đánh giá dựa vào các tiêu chí cụ thể, giáo viên cần phải cung cấp

cho học sinh để các em có thể tự nhận xét đánh giá lẫn nhau, giúp học sinh

sớm trở thành con ngƣời năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa

nhập và phát triển cộng đồng. Giáo viên còn là trọng tài trong các hoạt động

học tập của học sinh. Bài nói của học sinh có đúng hƣớng, đảm bảo yêu cầu

đặt ra trong bài học hay không, các thành viên trong mỗi nhóm hoạt động thế

nào, tất cả đều phải đƣợc nhận xét đánh giá. Nhận xét của giáo viên cần cụ

thể, rõ ràng. Dạy học bài “Trình bày một vấn đề” với mục đích phát triển

năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10, khâu đánh giá không chỉ

53

nằm trong nội dung bài trình bày của các nhóm mà quan trọng hơn là phải

đánh giá khả năng diễn đạt ngôn ngữ, trình bày suy nghĩ ý tƣởng, thái độ cảm

xúc, lắng nghe và phản hồi, đồng cảm chia sẻ và tự điều chỉnh khi giao tiếp ở

các mức tối thiểu, cơ bản, thƣờng xuyên và trong các tình huống giao tiếp

quen thuộc hoặc trong các tình huống giao tiếp mới đối với học sinh. Đối với

bài “Trình bày một vấn đề” đây là một cách thức hoạt động hiệu quả nhằm

nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh lớp 10.

Trong tiến trình dạy học, giáo viên phải chú ý duy trì đƣợc không khí

tích cực, hào hứng trong học sinh đối với bài học, luôn đặt học sinh ở trong

những tình huống phải tích cực hoá những tri thức, những kinh nghiệm đã có

để giải quyết vấn đề và thông qua đó mà lĩnh hội tri thức mới. Vì thế hoạt

động tổ chức cho học sinh trình bày một vấn đề giáo viên cần phải chú ý tới

việc duy trì không khí học tập trong lớp học và đảm bảo về mặt thời gian. Nên

để 2 đến 3 nhóm trình bày kết quả tránh cho nhiều nhóm trình bày dẫn tới tình

trạng bị rối và loãng kiến thức. Hoạt động tổng kết giáo viên cần linh hoạt khi

gọi học sinh rút ra những điều cần ghi nhớ, nên gọi một số học sinh có cả học

sinh tốt và học sinh yếu nhận xét, nếu các em tổng kết tốt rồi thì giáo viên

không nhất thiết phải tổng kết lại.

Về phía học sinh, trong tiết học này học sinh có cơ hội phát huy tính độc

lập và cá tính riêng trong việc trình bày vấn đề đã chuẩn bị trƣớc của nhóm.

Các nhóm thay phiên nhau trình bày theo nhiều hình thức khác nhau. Học

sinh phải chủ động trong việc cử ngƣời đại diện trình bày kết quả làm việc.

Việc nhận xét phần trình bày của các bạn có tác dụng giúp học sinh phát huy

tính tích cực, chủ động, khả năng tự học và tƣ duy phản biện. Đây là một đặc

trƣng của phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực thầy đánh giá trò, trò tự

đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp

thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà mỗi thầy cô cũng

54

nhƣ nhà trƣờng phải trang bị cho học sinh. Trong môi trƣờng lớp học, giáo

viên và học sinh có cơ hội giao tiếp trực tiếp với nhau, việc xác định các yếu

tố giao tiếp là rất quan trọng trong việc trình bày một vấn đề của học sinh.

Với việc chính xác nội dung giao tiếp, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp học

sinh đã bƣớc đầu thành công trong việc trình bày vấn đề trƣớc đám đông. Ở

trên lớp, với phƣơng pháp tích cực này thì học sinh hoạt động là chính, giáo

viên là ngƣời định hƣớng, gợi mở, điều chỉnh để các em tự tiến bộ.

Giai đoạn lên lớp bài “Trình bày một vấn đề” các hoạt động đƣợc thiết

kế dựa trên các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng pháp

dạy học giao tiếp, nhằm phát huy tinh thần học tập chủ động tích cực, giúp

học sinh trở thành những con ngƣời năng động trong giao tiếp khẩu ngữ. Với

phƣơng pháp này, giáo viên trở thành ngƣời thiết kế, tổ chức, hƣớng dẫn các

hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học

tập, chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của

chƣơng trình. Với phƣơng pháp dạy học mới còn giúp cho các em phát huy

tốt các kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, hợp tác, tự đánh giá lẫn, ngoài ra

giúp các em hiểu biết nhiều hơn, có trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá

trình học tập của mình.

Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì có liên quan trực tiếp, có trách

nhiệm tham gia với nhiều hoạt động và hỗ trợ nhà trƣờng nhiều hơn. Đồng

thời cha mẹ học sinh còn đƣợc tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trƣờng thông

qua học sinh.

2.3.3. Giai đoạn sau khi lên lớp

Về phía học sinh: Học sinh ghi lại các nội dung chính đã học vào vở theo

ngôn ngữ của bản thân, các em có thể xem một số bài phát biểu của các vị

lãnh đạo sau đó rút ra bài học kinh nghiệm. Chuẩn bị một bài thuyết trình và

luyện nói về một vấn đề mà em hiểu sâu và yêu thích. Chuẩn bị các nội dung

55

cho bài học “Lập kế hoạch cá nhân”.

Về phía giáo viên, ngƣời giáo viên phải phân tích sƣ phạm một cách tổng

hợp, cụ thể cần làm sáng tỏ:

- Sau 45 phút dạy học sinh có tự tin để trình bày một vấn đề trƣớc tập thể

hay đám đông hay chƣa?

- Học sinh đã hiểu đƣợc các nội dung chính của bài học

- Bài tập trên lớp và bài tập về nhà học sinh có làm đƣợc hết không?

- Thái độ học tập của các em thế nào?

Từ sự phân tích tiết học đó, những kinh nghiệm thành công và thất bại

rút ra cần ghi lại phía dƣới giáo án để những tiết học lần sau đƣợc tiến hành

với những kết quả cao hơn.

Giai đoạn sau khi lên lớp nhấn mạnh phƣơng pháp tự học của học sinh

tạo cho các em lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của các em.

Tóm lại, việc thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách

giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nhằm bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang đã dựa trên cơ

sở của các đặc trƣng trong phƣơng pháp dạy học tích cực và phƣơng pháp dạy

họcgiao tiếp. Việc áp dụng phƣơng pháp dạy học này đƣợc thể hiện cụ thể

trong ba giai đoạn chính đó là giai đoạn chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn

lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp với các công việc cụ thể của giáo viên và

học sinh. Giáo viên và học sinh phải linh hoạt chủ động trong việc lựa chọn

các hình thức, cách thức tổ chức học tập để đạt hiệu quả cao nhất là bồi dƣỡng

cho học sinh thói quen tốt khi giao tiếp khẩu ngữ, mạnh dạn tự tin khi trình

56

bày một vấn đề trƣớc đám đông.

Chƣơng 3

THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

3.1. Mục đích thực nghiệm

Thực nghiệm sƣ phạm là một phƣơng pháp vô cùng quan trọng. Thông

qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi sẽ kiểm tra, đánh giá tính khả thi của các

phƣơng pháp dạy học nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học

sinh lớp 10 qua bài “Trình bày một vấn đề”. Trên cơ sở đó sửa chữa, bổ sung

để hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” cho phù hợp với

đặc điểm và trình độ của từng đối tƣợng học sinh. Đồng thời đƣa ra những đề

xuất nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học bài “Trình bày một vấn đề” trong

sách giáo khoa Ngữ văn 10 và năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh.

3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, dù rất muốn nhƣng chúng tôi khó có

thể thực hiện việc thực nghiệm rộng rãi trên nhiều địa bàn với nhiều đối tƣợng

học sinh ở các môi trƣờng giao lƣu văn hóa, xã hội khác nhau. Thực nghiệm

của chúng tôi đƣợc tiến hành tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, xã

Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang. Trƣờng có trên 90% học

sinh là dân tộc thiểu số. Bƣớc đầu trƣờng cũng đã có đầy đủ các cơ sở vật chất

cơ bản phục vụ dạy học, giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin và các

thiết bị dạy học hiện đại vào dạy học nhƣng vẫn còn hạn chế. Học sinh trong

trƣờng từ các xã vùng xa đến học tập nên gặp rất nhiều khó khăn ảnh hƣởng

đến học tập và giao lƣu văn hóa xã hội.

Thiết kế dạy học thực nghiệm tại lớp 10A3 với 35 học sinh của

57

Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, tỉnh Tuyên Quang. Giáo viên dạy

thực nghiệm: cô giáo Nguyễn Thị Mến – tổ Văn - Trƣờng trung học phổ

thông Sơn Nam.

Ngoài ra, chúng tôi còn xin ý kiến góp ý của giáo viên dạy môn Ngữ

văn bậc trung học phổ thông trong và ngoài tỉnh Tuyên Quang về thiết kế dạy

học bài “Trình bày một vấn đề”.

3.3. Phƣơng pháp thực nghiệm

Việc thực nghiệm sƣ phạm đƣợc chúng tôi tiến hành lần lƣợt nhƣ sau:

- Soạn thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề”.

- Xin ý kiến góp ý của giáo viên dạy môn Ngữ văn bậc trung học phổ

thông về thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề”.

- Giải thích thiết kế dạy học thực nghiệm cho giáo viên nghiên cứu

trƣớc để giáo viên chuẩn bị lên lớp.

- Trao đổi, rút kinh nghiệm với các giáo viên về những thuận lợi và khó

khăn khi thực hiện bài giảng theo yêu cầu thực nghiệm. Gặp gỡ với các học

sinh sau mỗi tiết học để tìm hiểu mức độ tiếp thu và cảm nhận của các em về

bài học.

3.4. Nội dung thực nghiệm

Chúng tôi biên soạn thiết kế dạy học thực nghiệm bài: “Trình bày một

vấn đề” (sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1).

Nguyên tắc xây dựng thiết kế dạy học thực nghiệm: Mục đích cao nhất là

rèn luyện cho học sinh phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ một cách toàn

58

diện nhất.

- Tiến trình bài giảng sẽ đƣợc xây dựng theo những bƣớc sau:

+ Bƣớc 1: Giáo viên giới thiệu cho học sinh chuẩn bị những vấn đề, chủ

đề trƣớc khi lên lớp.

+ Bƣớc 2: Giáo viên tổ chức, hƣớng dẫn cho học sinh cách đánh giá về

trình bày một vấn đề.

+ Bƣớc 3: Giáo viên tổ chức, hƣớng dẫn cho học sinh trình bày các vấn

đề trƣớc tập thể.

+Bƣớc 4: Củng cố bài học bằng hệ thống câu hỏi có tính chất tổng hợp

nội dung chi tiết của bài học. Kết thúc bài học giáo viên giao bài tập, củng cố

và hƣớng dẫn học sinh học tập ở nhà.

Dựa vào những yêu cầu trên, chúng tôi xây dựng thiết kế dạy học thực

nghiệm bài “Trình bày một vấn đề” (Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1).

Thiết kế dạy học thực nghiệm đã đƣợc trình bày tuần tự theo các hoạt

động (bốn hoạt động) và thời gian cụ thể cho từng hoạt động trong mục 2.2

của luận văn.

3.5. Kết quả thực nghiệm

- Điều kiện thời gian không cho phép nên chúng tôi tiến hành thực nghiệm

tại Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam huyện Sơn Dƣơng tỉnh Tuyên Quang.

Sau khi tiến hành thực nghiệm kết quả chúng tôi thu đƣợc nhƣ sau:

Về phía giáo viên dạy thực nghiệm, cô Nguyễn Thị Mến giáo viên Ngữ

văn Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam tỉnh Tuyên Quang cho biết:

“ Ƣu điểm của thiết kế dạy học thực nghiệm:

1. Thiết kế đã chuẩn bị kĩ, tập trung sâu vào trọng tâm bài học. Hiệu

59

quả bài học tăng lên rõ rệt khi đánh giá mức độ tự tin trình bày vấn đề trước

tập thể lớp của nhiều em học sinh. Nhiều nhóm đã chuẩn bị rất chu đáo về

mặt ngôn ngữ, trang phục, lời nói, nét mặt biểu cảm. Tiết học đã đạt được

mục đích dạy học.

2. Những vấn đề chuẩn bị để trình bày đa dạng, gần với thực tế đời

sống, tâm tư tình cảm của học sinh, đặc biệt là các em học sinh dân tộc thiểu

số trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Những vấn đề giáo viên nêu ra vừa có đề

tài chung có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh, lại có những chủ đề

dành riêng cho học sinh tỉnh Tuyên Quang như chủ đề “Giới thiệu về trang

phục truyền thống của dân tộc em”; “Giới thiệu về một lễ hội độc đáo của

tỉnh Tuyên Quang” được nhiều nhóm lựa chọn.

3. Thiết kế đã nêu cụ thể công việc của giáo viên và học sinh trong quá

trình dạy học. Giáo viên đã hướng dẫn và có sự chuẩn bị chu đáo, tập trung

cho bài học thể hiện qua công việc chuẩn bị dạy học. Giáo viên hướng dẫn

cách chuẩn bị làm việc nhóm cho học sinh chuẩn bị, đưa ra các yêu cần cụ

thể cho từng vấn đề. Học sinh chủ động chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên

4. Thiết kế đã dành thời lượng phù hợp (30 phút) cho việc thực hành để

học sinh biết cách trình bày một vấn đề trên lớp, đảm bảo hiệu quả của giờ

học. Học sinh được thực hành với thời gian tối đa dưới sự tổ chức của giáo

viên. Thông qua việc thực hành học sinh có thể chủ động nắm bắt kiến thức lí

thuyết vì trước khi lên lớp các em đã phải tìm hiểu nội dung bài học trước để

có thể trình bày tốt một vấn đề.

5. Thiết kế đã nhấn mạnh phương pháp tự học của học sinh khi lựa

chọn chủ đề trình bày hoặc tự đưa ra chủ đề yêu thích, chủ động ghi vào

vở những nội dung quan trọng cần phải ghi nhớ và bài học kinh nghiệm rút

60

ra sau giờ học.

6. Tiết học phát huy được sự tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,

học sinh đã mạnh dạn tự tin khi trình bày một vấn đề trước đám đông và có

khả năng giao tiếp linh hoạt trong học tập và cuộc sống.

Nhƣợc điểm của thiết kế dạy học thực nghiệm:

1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị hơi nhiều chủ đề. Cần hạn

chế bớt nội dung các chủ đề nhằm giúp học sinh tập trung để bài trình bày

chất lượng hơn (Cả về cách thức trình bày lẫn nội dung trình bày).

2. Trong giờ học hoạt động của giáo viên còn mờ nhạt, chưa thấy rõ vai

trò định hướng chủ đạo cho học sinh.

3. Giờ học rất có thể không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng

tạo của những học sinh có ý thức kém.”

Về phía học sinh, sau khi tiết dạy thực nghiệm kết thúc các em tự tin,

chủ động khi trình bày trƣớc tập thể, học sinh kiểm soát bản thân trƣớc đám

đông khi trình bày một vần đề. Học sinh đƣợc kích thích khả năng tự học, tự

đánh giá và tự sửa chữa đƣợc những sai sót khi làm bài và trình bày trƣớc

đám đông. Củng cố thêm tinh thần đoàn kết, tình bạn trong lớp khi làm việc

nhóm. Ngoài ra, các em đã biết vận dụng những kiến thức đã học của nhiều

môn học nhƣ lịch sử, địa lí, sinh học, ….vào bài chuẩn bị để trình bày một

vấn đề thực tế. Thông qua tiết học, học sinh học đƣợc nhiều kĩ năng sống cho

bản thân.

- Chúng tôi đã tiến hành xin ý kiến góp ý về thiết kế dạy học thực

nghiệm bài “Trình bày một vấn đề” của 8 giáo viên Ngữ văn trung học phổ

thông trong và ngoài địa bàn tỉnh Tuyên Quang để xác minh tính khả thi của

đề tài. Bƣớc đầu đã thu đƣợc nhiều kết quả tích cực. Giáo viên đều ủng hộ

61

phƣơng pháp dạy học đƣợc đƣa ra trong thiết kế, đồng thời với kinh nghiệm

giảng dạy lâu năm các giáo viên này cũng chỉ ra những ƣu điểm và hạn chế

còn tồn tại trong thiết kế thực nghiệm.

Trên cơ sở phiếu nhận xét, góp ý và kết quả thực nghiệm cụ thể chúng

tôi thành lập bảng tổng hợp ƣu nhƣợc điểm về thiết kế dạy học để sửa chữa,

bổ sung, hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” theo hƣớng

bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh tại một số trƣờng trung

học phổ thông tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:

Giáo viên nhận xét Ƣu điểm Nhƣợc điểm đánh giá

- Thiết kế chuẩn bị kĩ, tập trung - Giáo viên hƣớng dẫn

sâu vào trọng tâm bài học. học sinh chuẩn bị hơi

- Những vấn đề chuẩn bị để trình nhiều chủ đề.

bày đa dạng, gần với thực tế đời - Trong giờ học hoạt động

sống, tâm tƣ tình cảm của học của giáo viên còn mờ

Giáo viên thực sinh, đặc biệt là các em học sinh nhạt, chƣa thấy rõ vai trò

nghiệm dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh định hƣớng chủ đạo cho

Tuyên Quang. học sinh.

- Thiết kế đã dành thời lƣợng phù - Giờ học rất có thể không

hợp (30 phút) cho việc thực hành phát huy đƣợc tính tích

để học sinh biết cách trình bày cực, chủ động, sáng tạo

một vấn đề trên lớp, đảm bảo của những học sinh có ý

hiệu quả của giờ học. thức kém.

- Thiết kế đã nhấn mạnh phƣơng

pháp tự học của học sinh

- Tiết học phát huy đƣợc sự tích

cực, chủ động, sáng tạo của học

62

sinh.

- Thiết kế đảm bảo nội dung theo - Giáo viên sử dụng ít câu

chuẩn kiến thức kĩ năng, khoa hỏi gợi mở hƣớng dẫn học

học, đảm bảo tính hệ thống, làm sinh chiếm lĩnh kiến thức

rõ trọng tâm bài học. lý thuyết.

- Có đổi mới phƣơng pháp dạy - Ứng dụng công nghệ

học, sử dụng linh hoạt các thông tin vào giảng dạy

Giáo viên Ngữ văn phƣơng tiện dạy học nhằm phát còn hạn chế.

tại một số Trƣờng huy tính tích cực và chủ động của - Hoạt động của giáo viên

trung học phổ học sinh trong học tập và chiếm mờ nhạt.

thông trên địa bàn lĩnh tri thức. - Cần bổ sung các hoạt

tỉnh Tuyên Quang - Tích hợp liên môn có tính giáo động thực tế: Thăm di tích

dục đạo đức học sinh đem lại lịch sử "Cây đa Tân Trào"

hiệu quả cao trong hoạt động dạy tại Tỉnh Tuyên Quang để

và học. giáo dục đạo đức và

- Học sinh đƣợc hƣớng dẫn chủ truyền thống "Uống nƣớc

động trong các hoạt động học nhớ nguồn", giáo dục lòng

tập, đƣợc tích cực hóa tƣ duy học yêu nƣớc, từ hào về vẻ

tập, kích thích khả năng tự học. đẹp của non sông gấm

- Tổ chức đƣợc các mối quan hệ vóc....

tƣơng tác trong lớp học. Từ đó - Tổ chức các hoạt động

học sinh biết đánh giá và sửa ngoại khóa, các câu lạc bộ

chữa những sai sót khi học bài. văn học, để đánh giá khả

- Đảm bảo thời gian phân phối năng chọn vấn đề và cách

hợp lí cho các hoạt động. trình bày một vấn đề qua

việc thuyết trình về tác

63

phẩm yêu thích.

- Nội dung đƣợc trình bày rất - Giáo viên sử dụng ít câu

phong phú, đa dạng, gắn liền với hỏi đặc biệt là câu hỏi tạo

thực tế và trải nghiệm, kinh tình huống.

nghiệm của học sinh. Có khả - Có quá nhiều chủ đề

năng liên môn hiệu quả. đƣợc đề cập gây mất tập

- Đặc biệt, các em có thể tự do trung cho học sinh.

chọn một vấn đề gắn liền với - Phần mục tiêu dạy học

thực tế cuộc sống sinh hoạt mà không chia thành mục tiêu

Giáo viên Ngữ văn các em thấy phù hợp, hiểu biết về kiến thức, kĩ năng, thái

tại một số Trƣờng sâu rộng về nó và cảm thấy tự tin độ.

trung học phổ khi trình bày về nó. - Nhiều nhóm không đƣợc

thông ở địa - Cách chia nhóm làm việc khoa trình bày bài làm của

phƣơng khác học. Thiết kế logic đúng trọng mình.

tâm (học sinh đƣợc thực hành

nhiều trên lớp, rèn luyện ý thức

làm vc nhóm)

- Nhiều chủ đề gắn với thực tế

đời sống. Có sử dụng công nghệ

thông tin (học sinh rất thích thú).

Nhiều nhóm trình bày tốt sẽ tạo

ra tính cạnh tranh trong giờ học.

- Học sinh chủ động hoạt động

trong giờ học, học sinh là trung

tâm của mọi hoạt động. Củng cố

thêm tinh thần đoàn kết, tình bạn

64

trong lớp khi hoạt động nhóm.

Với những ý kiến phản hồi về nhƣợc điểm của thiết kế dạy học bài

“Trình bày một vấn đề” theo hƣớng bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ

cho học sinh tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang, chúng

tôi xin tiếp thu và có những giải trình nhƣ sau:

+ Những chủ đề đƣợc đƣa ra trong thiết kế bao gồm những chủ đề

chung cho nhiều đối tƣợng học sinh không chỉ học sinh trên địa bàn tỉnh

Tuyên Quang mà thiết kế còn hƣớng tới bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu

ngữ cho nhiều đối tƣợng học sinh ở các vùng miền khác nhau. Hơn nữa, có

không quá 02 nhóm lựa chọn cùng chủ đề nên phải đƣa ra hệ thống các chủ

đề, đề tài phong phú tạo hứng thú, tinh thần tự học, làm việc nhóm cho các

em học sinh.

+ Đối với giờ học cung cấp lý thuyết gắn với thực hành thì vai trò của

ngƣời giáo viên là ngƣời định hƣớng, gợi mở. Học sinh hoạt động là chủ yếu,

học sinh phải tích cực, chủ động trong quá trình lĩnh hội và vận dụng kiến thức.

+ Ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ vào bài học không chỉ thể

hiện trên lớp, học sinh khi chuẩn bị bài làm của mình trƣớc khi lên lớp các em

đã phải thu thập tài liệu trong sách vở, trên mạng internet, đánh máy bài trình

bày của nhóm và gửi vào email cho giáo viên giảng dạy. Nhƣ vậy, trong quá

trình chuẩn bị học sinh đã ứng dụng công nghệ thông tin vào bài làm của

mình. Ngoài ra, trên lớp các em có thể trình bày bài làm của mình bằng cách

trình chiếu các slides tin học.

+ Nhiều nhóm tiếc nuối vì không đƣợc trình bày bài làm của mình vì

thời gian trên lớp có 45 phút chỉ đủ cho 3 đến 4 nhóm trình bày và nhận xét.

Vậy nên giáo viên cần tổ chức cho các nhóm còn lại trình bày vào giờ sinh

65

hoạt lớp hoặc trong một buổi học ngoại khóa.

Từ những kết quả thực nghiệm trên chúng tôi có thêm cơ sở để khẳng

định tính khả thi của đề tài cũng nhƣ hƣớng đi đúng đắn của luận văn. Trên cơ

sở đó chúng tôi sẽ sửa chữa, bổ sung hoàn thiện thiết kế dạy học bài “Trình

bày một vấn đề” sao cho phù hợp với nhiều đối tƣợng học sinh góp phần bồi

dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho các em học sinh lớp 10.

3.6. KẾT LUẬN CHUNG VỀ THỰC NGHIỆM

Những kết quả rất khả quan ban đầu trên đã giúp chúng tôi xác định

đƣợc hƣớng đi của đề tài là đúng và chúng tôi có cơ sở để đƣa ra những đánh

giá về đề tài. Sau khi tiến hành thực nghiệm, thống kê, tổng hợp kết quả điều

tra thực trạng chúng tôi có những nhận xét nhƣ sau:

- Xét về mặt chuyên môn sƣ phạm: Nội dung thiết kế thực nghiệm đều

đạt đƣợc mục đích đề ra với những nội dung và phƣơng pháp cụ thể, giáo viên

và học sinh dễ dàng thực hiện. Tiết học đã truyền tải đƣợc trọng tâm kiến

thức, hoàn thành kế hoạch bài giảng về khối lƣợng kiến thức cũng nhƣ thời

gian. Việc sử dụng, lựa chọn kết hợp các phƣơng pháp, phƣơng tiện, hình

thức dạy học trong các giờ thực nghiệm nhìn chung đã phát huy đƣợc tính tích

cực, chủ động của học sinh trong lớp. Đa số học sinh hiểu bài, sôi nổi hào

hứng trong những hoạt động tập thể nhƣ: hoạt động nhóm, trình bày bài chuẩn

bị. Song để việc thử nghiệm thiết kế đạt kết quả cao hơn nữa, giáo viên cần có

sự đầu tƣ kĩ lƣỡng trong việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy cho chu đáo và chủ

động; cần sử dụng không gian lớp học một cách sáng tạo để phù hợp với việc

tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm; linh hoạt trong cách đặt câu hỏi,

kích thích hứng thú học tập để tất cả học sinh đều vào cuộc một cách tự nhiên,

hiệu quả nhất.

- Xét về mặt hiệu quả thực nghiệm, việc thực nghiệm ở trƣờng trung học

66

phổ thông Sơn Nam đƣợc diễn ra và đạt kết quả nhƣ mong muốn. Hiệu quả

này thể hiện rõ ở việc giáo viên dạy thực nghiệm linh hoạt và nhạy bén hơn

khi dạy bằng các giáo án thực nghiệm, với các phƣơng tiện dạy học hiện đại;

Học sinh mạnh dạn, hăng hái phát biểu xây dựng bài, chủ động, tự tin khi

trình bày một vấn đề trƣớc tập thể. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng từ điều kiện vật

chất của trƣờng học và phần lớn học sinh là dân tộc ít ngƣời nên hiệu quả của

việc thực nghiệm chƣa đạt mức cao nhất.

Qua thực tế dự giờ, chúng tôi thấy rằng giờ dạy thực nghiệm đã đảm bảo

đƣợc tối đa những yêu cầu của một giờ học hình thành và cung cấp kiến thức

mới cho học sinh: Giáo viên chỉ đóng vai trò hƣớng dẫn tổ chức còn học sinh

tự mình hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng dƣới các

hình thức thảo luận nhóm, trao đổi, tranh luận…Đồng thời tiết dạy thực

nghiệm đã giúp các em học sinh đƣợc luyện tập, thực hành trình bày một vấn

đề trƣớc tập thể một cách tự tin, thuyết phục. Giờ học thực sự sôi nổi và hiệu

quả. Chúng tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng giáo án điện tử hay sự hỗ trợ của

các phƣơng tiện dạy học hiện đại là cần thiết, sẽ giúp giáo viên thuận lợi hơn

khi sử dụng phƣơng pháp dạy học mới (linh hoạt, chủ động và tiết kiệm thời

gian) và tạo hứng thú, gây ấn tƣợng cho học sinh. Song không nên lạm dụng

nó mà đánh mất đi vai trò chính của ngƣời học. Phải sử dụng phù hợp, có hiệu

quả, coi công nghệ thông tin là phƣơng tiện hỗ trợ dạy học.

Từ kết quả và những đánh giá nhƣ trên của quá trình thực nghiệm,

chúng tôi đã gặt hái đƣợc những thành công đáng kể về mặt lí luận cũng nhƣ

thực tiễn. Không có một phƣơng pháp nào là chuẩn mực cho ngƣời giáo viên

để giảng dạy cho mọi đối tƣợng học sinh, tất cả đều cần đƣợc đƣa vào thực tế

và đƣợc thực tế kiểm nghiệm. Qua thực nghiệm chúng tôi xác định đƣợc

những yếu tố cơ bản chi phối quá trình thực nghiệm nói riêng và quá trình dạy

học nói chung (điều kiện vật chất, giao lƣu văn hóa, trình độ chuyên môn của

67

giáo viên và khả năng nhận thức của học sinh…). Thực tế dạy thực nghiệm

cũng cho thấy những yêu cầu đặc biệt của giờ dạy cung cấp lí thuyết gắn liền

với luyện tập thực hành trên lớp. Chỉ có thực nghiệm và thông qua thực

nghiệm, ngƣời nghiên cứu mới có thể nhận thức đúng đắn về giá trị và hƣớng

đi của đề tài mà mình đang nghiên cứu là phù hợp hay chƣa. Từ đó sẽ có

những bổ sung điều chỉnh để đề tài vừa đảm bảo đƣợc tính khoa học, vừa có

68

hiệu quả trong thực tế giảng dạy.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự

phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng

và Nhà nƣớc ta đã luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng

đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nƣớc, đƣợc

ƣu tiên trƣớc nhất, thậm chí đi trƣớc một bƣớc so với các chính sách phát

triển kinh tế - xã hội khác. Với tƣ cách là động lực cho sự phát triển, giáo dục

và đào tạo chuẩn bị cho con ngƣời sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh

vực, cho lợi ích hiện tại và tƣơng lai của đất nƣớc. Đổi mới phƣơng pháp dạy

học là một trong những bƣớc đi quyết định thành công của sự nghiệp giáo dục

nƣớc nhà. Các nhà nghiên cứu phƣơng pháp dạy học đã không ngừng nghiên

cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận của dạy học trong nƣớc và

nƣớc ngoài với hi vọng góp phần đƣa nền giáo dục của nƣớc ta ngày càng

hiện đại hơn, đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.

Môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông với mục tiêu cung cấp cho

học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về

ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu

đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Để đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng

tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, phƣơng pháp học tập tƣ duy,

đặc biệt là phƣơng pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào

cuộc sống thì năng lực giao tiếp khẩu ngữ của học sinh đang ngày đƣợc quan

tâm chú ý hơn. Theo nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục, việc bồi dƣỡng năng

lực giao tiếp khẩu ngữ, đặc biệt là kĩ năng nghe nói cho học sinh là một trong

những yêu cầu cơ bản của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông.

Theo một số điều tra thực tế ở nƣớc ngoài về việc sử dụng ngôn ngữ trong

69

cuộc sống, làm việc hàng ngày phát hiện ra rằng nghe chiếm 45%, nói chiếm

30%, đọc chiếm 16% và viết chỉ chiếm 9%. Nghe và nói chiếm đến 75%, đọc

và viết chiếm 25%. Điều này có nghĩa là thông tin liên lạc giữa con ngƣời chủ

yếu dựa vào nghe và nói.

Hơn nữa, chúng ta đang sống trong một thế giới hội nhập quốc tế và khu

vực ngày càng sâu rộng, chính môi trƣờng đó đòi hỏi con ngƣời ngày càng

phải mở rộng giao tiếp và giao tiếp nhiều hơn. Để tồn tại và phát triển, con

ngƣời phải tham gia vào các mối quan hệ xã hội, khi đó con ngƣời cần đến

giao tiếp, cũng chính trong quá trình giao tiếp tƣ duy của con ngƣời ngày càng

phát triển và hoàn thiện. Giao tiếp khẩu ngữ là một chiến lƣợc giảng dạy và

trong đời sống xã hội, nó đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy và phát

triển trí tuệ của học sinh, có tác dụng quan trọng đối với việc học tập suốt đời,

là nền tảng cho cuộc sống và công việc.

2. Việc vận dụng quan điểm dạy học theo định hƣớng phát triển năng

lực và dạy học phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy

học Ngữ văn là một nhu cầu cấp thiết nhằm đạt chất lƣợng, hiệu quả lớn nhất

trong thực hiện mục tiêu dạy học. Tƣ tƣởng dạy học theo hƣớng phát triển

năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh, đƣợc cụ thể hóa nhờ các phƣơng

pháp, các biện pháp, các hình thức tổ chức hoạt động của thầy và trò trong

quá trình dạy học. Nhờ đó các em nắm kiến thức sâu hơn, vững hơn, đồng

thời vận dụng linh hoạt những tri thức đã tiếp thu vào cuộc sống để tự tin giao

tiếp, trao đổi, thảo luận hay trình bày một vấn đề trƣớc tập thể.

Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài,

chúng tôi xác định luận văn bƣớc đầu đã đạt đƣợc kết quả nhƣ sau:

- Qua việc xác định cơ sở lí thuyết, thực tiễn của đề tài, chúng tôi có

đƣợc những hiểu biết cơ bản, khoa học về dạy học phát triển năng lực giao

70

tiếp khẩu ngữ cho học sinh trong dạy học Ngữ văn; hiểu biết về thực trạng

của việc dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn

10 tập 1 tại một số trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang. Từ cơ sở lí

thuyết cũng nhƣ thực tiễn, chúng tôi đề xuất thiết kế dạy học bài “Trình bày

một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1) theo định hƣớng phát

triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ.

- Vận dụng cơ sở lí thuyết các đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học theo

hƣớng tích cực và phƣơng pháp giao tiếp vào việc cụ thể hóa bằng các hoạt

động trong dạy học bài “Trình bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ văn 10

tập 1 theo định hƣớng phát triển năng lực giao tiếp khẩu ngữ tại một số

trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang. Trên cơ sở đó đƣa ra quy trình

phát hiện, khắc sâu kiến thức, thực hành luyện tập, củng cố qua ba giai đoạn

chính, đó là giai đoạn chuẩn bị trƣớc khi lên lớp, giai đoạn lên lớp và giai

đoạn sau khi lên lớp. Kết hợp xen kẽ phƣơng tiện hỗ trợ dạy học nhƣ ứng

dụng công nghệ thông tin, nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho

học sinh lớp 10, giúp các em chủ động, tự tin, bản lĩnh hơn trong học tập và

giao tiếp xã hội. Qua đó chúng tôi thấy đƣợc mối quan hệ gắn bó giữa các

thành tố của quá trình dạy học bao gồm: Mục tiêu, nội dung chƣơng trình,

sách giáo khoa, phƣơng pháp dạy học, hình thức tổ chức lớp học và phƣơng

tiện hỗ trợ dạy học.

- Vấn đề nghiên cứu của luận văn là vấn đề thiết thực, có tính khả thi.

Ngƣời nghiên cứu đã đƣa ra đƣợc những mục đích, nội dung và phƣơng pháp

nghiên cứu rõ ràng, cụ thể.

- Những vấn đề lí luận đƣa ra trong đề tài có cơ sở khoa học, có nguồn

gốc rõ ràng. Các chủ đề luyện nói bám sát chƣơng trình sách giáo khoa, phù

71

hợp với sở thích, tâm sinh lý của học sinh.

- Kết quả điều tra thực nghiệm đã chứng minh những hiệu quả đạt đƣợc

của các phƣơng pháp và giáo án đã đƣợc thực nghiệm trong luận văn. Lớp

đƣợc thực nghiệm có chất lƣợng học tập cao hơn lớp đối chứng, học sinh ở

lớp thực nghiệm chủ động, tự giác, tích cực phát biểu và tham gia các hoạt

động và vì thế hứng thú học tập, tính tự chủ, tự tin giao tiếp, tranh luận, trình

bày một vấn đề của các em khá hơn một cách rõ rệt. Mặc dù mới tiến hành

thử nghiệm trên địa bàn và quy mô nhỏ nhƣng những kết quả ban đầu cho

phép chúng tôi tin tƣởng và hi vọng vào tính khả thi của đề tài.

3. Mặc dù các phƣơng phƣơng pháp mà chúng tôi đƣa ra đã mang đến

hiệu quả tích cực ở phía học sinh trong dạy học Ngữ văn nói chung và dạy

học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 nói

riêng, nhƣng tất cả song phụ thuộc vào năng lực và khả năng vận dụng của

ngƣời giáo viên. Trƣớc yêu cầu đổi mới về phƣơng pháp giáo dục và để thực

hiện đƣợc mục tiêu của phân môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông,

chúng tôi hi vọng rằng, vấn đề đƣợc đƣa ra trong đề tài này sẽ có những đóng

góp thiết thực và nó trở thành một vấn đề khoa học nhận đƣợc sự quan tâm,

đánh giá, trao đổi và vận dụng của các nhà phƣơng pháp cũng nhƣ các giáo

viên trực tiếp tham gia giảng dạy môn Ngữ văn mà cụ thể là giảng dạy khối

học sinh lớp 10.

4. Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi đƣa ra một số

đề xuất nhằm nâng cao năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh một số

trƣờng trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:

- Cần xây dựng một hoặc một số bài học lý thuyết cụ thể về giao tiếp

khẩu ngữ và xác định rõ mục tiêu bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ

72

trong chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. Biên soạn các bài học

về bồi dƣỡng năng lực giao tiếp khẩu ngữ trong sách giáo khoa Ngữ văn theo

định hƣớng thực hành.

- Kiểm tra, thi đối với học sinh có vai trò rất quan trọng. Đa phần giáo

viên cố gắng dạy những nội dung gần giống với đề thi. Phải đổi mới cách

thức kiểm tra đánh giá năng lực của học sinh, cần đƣa nội dung của giao tiếp

khẩu ngữ vào đề thi với những hình thức phù hợp.

- Nhà trƣờng phổ thông cần nâng cao hơn nữa chất lƣợng dạy học Ngữ

văn bằng các hoạt động nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên cũng

nhƣ khích lệ sự quan tâm đổi mới phƣơng pháp dạy học của họ, ví dụ: Tổ

chức bồi dƣỡng chuyên môn, tổ chức hội thảo chuyên đề bồi dƣỡng năng lực

giao tiếp khẩu ngữ trong dạy học Ngữ văn, tổ chức thi giáo viên dạy giỏi theo

tinh thần đổi mới, tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm dạy học cho giáo viên

văn; giáo viên cần nhiều thời gian đầu tƣ cho giáo án, tìm tòi cách tổ chức giờ

dạy, xây dựng hệ thống câu hỏi, cách dẫn dắt, uốn nắn những sai lệch của học

sinh sao cho phù hợp với nguyên tắc của qui luật sáng tạo cũng nhƣ các qui

tắc trong giao tiếp…

- Trong quá trình dạy học giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức học

tập, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phƣơng pháp dạy học nhằm phát huy

năng lực tự học mới có thể nâng cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh.

Để rèn luyện năng lực giao tiếp khẩu ngữ cho học sinh, cần chú ý tích hợp ba

phân môn: Tiếng việt, Làm văn, Văn học; kết hợp với những buổi phụ đạo,

những buối ngoại khóa, thực tế, sinh hoạt tập thể, những cuộc thi nói, thi kể

chuyện, thi hùng biện…Để tạo ra một môi trƣờng vừa học vừa thực hành,

khơi dạy ở học sinh hứng thú học tập và rèn luyện.

- Để dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách giáo khoa Ngữ văn

73

10 tập 1 nói riêng và dạy học Ngữ văn theo định hƣớng phát triển năng lực

giao tiếp khẩu ngữ nói chung cần phải có sự đổi mới tòa bộ từ mục tiêu, nội

dung chƣơng trình sách giáo khoa, phƣơng pháp, hình thức tổ chức đến

phƣơng tiện dạy học. Tuy nhiên vấn đề cơ bản nhất đó là sự quan tâm đầu tƣ

của ngành, ý thức trách nhiệm và trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ của

ngƣời giáo viên; ý thức và khả năng tích cực trong học tập của học sinh

Trên đây là một số kết luận và đề xuất của chúng tôi sau khi tiến hành

nghiên cứu đề tài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do kinh nghiệm nghiên

cứu khoa học bản thân còn hạn chế, điều kiện thời gian làm luận văn không

cho phép nhƣng với kết quả đã thu đƣợc, chúng tôi hi vọng vấn đề mà chúng

tôi đƣa ra trong luận văn sẽ trở thành vấn đề khoa học và nhận đƣợc sự quan

tâm đánh giá, trao đổi, góp ý của các nhà phƣơng pháp cũng nhƣ các thầy cô

giáo dạy Ngữ văn ở các trƣờng phổ thông và các bạn đọc yêu mến khoa học

74

trên toàn quốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê A, “Dạy Tiếng Việt là một hoạt động và bằng hoạt động”, Tạp chí

ngôn ngữ, số 4/2000.

2. Phạm Thị Anh (2009), Rèn luyện năng lực diễn đạt cho học sinh THCS

trong dạy học kiểu văn bản tự sự, Luận án tiến sĩ Giáo dục học.

3. Nguyễn Thành Ngọc Bảo, Tạp chí khoa học giáo dục, số 56, 2014.

4. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ

văn, Nxb Giáo dục.

5. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện

chương trình, sách giáo khoa lớp 10 Trung học phổ thông môn Ngữ văn,

Nxb Giáo Dục.

6. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb

Giáo dục.

7. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb

Giáo dục.

8. Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục

Việt Nam từ 2011-2020 (Dự thảo lần 26).

9. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Hướng dẫn đánh giá năng lực của học sinh cuối

cấp tiểu học, Nxb Giáo dục, 2014.

10. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Một số vấn đề về mục tiêu và chuẩn trong

chương trình giáo dục phổ thông sau 2015, Nxb Giáo Dục.

11. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt.

12. Nguyễn Viết Chữ (2007), “Về việc bồi dưỡng kĩ năng đọc, nói, nghe, viết

75

cho học sinh trong dạy học Ngữ văn”, Tạp chí Giáo dục, số 172.

13. Trần Trí Dõi, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

14. Trần Trí Dõi (2004), Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền

núi ba tỉnh miền núi phía bắc, những kiến nghị và giải pháp, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Đƣờng (2009), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 (tập 1), Nxb

Hà Nội.

16. Đỗ Thu Hà (2011), “Tầm quan trọng của việc phát triển kĩ năng nói cho

sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo nghiên cứu sinh, Viện KHGDVN.

17. Đỗ Thu Hà (2012), “Đề xuất một số nội dung dạy học nhằm phát triển kĩ

năng nghe - nói cho sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về

Phát triển kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên sƣ phạm, Nxb Giáo dục.

18. Nguyễn Bích Hà (2007), Vấn đề dạy văn trong nhà trường THPT hiện

nay, Văn học và tuổi trẻ số 12, Nxb Giáo dục.

19. Đỗ Thu Hà (2013), “Rèn luyện kĩ năng nghe- nói cho học sinh trong dạy

học Ngữ văn ở bậc THPT”, Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về dạy học Ngữ

văn trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục.

20. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục.

21. Trần Bá Hoành (2001), Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích

cực, Tạp chí Giáo dục số 32.

22. Trần Bá Hoành (2003), Dạy học lấy người học làm trung tâm - Nguồn

gốc, bản chất, đặc điểm Thông tin khoa học Giáo dục số 96.

23. Lê Thị Thu Hằng (2009), “Phát triển hài hòa bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc,

76

viết cho học sinh Trung học phổ thông trong học Ngữ văn”, Kỉ yếu hội

thảo Đổi mới phương pháp dạy học các môn Khoa học Xã hội, Đại học

Sƣ phạm Hà Nội, tháng 12.

24. Phạm Thị Thu Hiền (2010), “Việc rèn luyện kĩ năng nghe và nói cho học

sinh tiểu học ở Cafolia- Mĩ”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 52.

25. Nguyễn Chí Hòa (2009), Khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng giao

tiếp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Trần Bá Hoành (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và

sách giáo khoa, Nxb Đại học sƣ phạm.

27. Nguyễn Thúy Hồng (2004), Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh phổ

thông, Tài liệu Bồi dƣỡng giáo viên chu kì 3, Nxb Giáo dục.

28. Nguyễn Thúy Hồng (2006), Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Trung học

cơ sở, Tạp chí Giáo dục, số 131.

29. Đặng Thành Hƣng (2001), Khái niệm phương pháp dạy học trong điều

kiện đổi mới, Thông tin khoa học giáo dục số 83.

30. Nguyễn Văn Lợi (1999), Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ dân tộc

thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân tộc học, Tạp chí ngôn ngữ (số 3).

31. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2004), Phương pháp dạy học văn tập 1, Nxb

Đại học Sƣ phạm.

32. Trần Thị Hiền Lƣơng (2008), Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ

năng nói cho học sinh tiểu học ở môn tiếng Việt, Đề tài khoa học cấp

Viện, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.

33. Mác, Ăngghen, Lênin bàn về ngôn ngữ (1962), Nxb Sự thật.

34. Lê Đức Mậu (2009), “Môn Văn ở nhà trường dạy nói, dạy viết”, Tạp chí

77

Dạy và học ngày nay, số 11.

35. Ngô Giang Nam (2011), “Những yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp

của học sinh tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc, Tạp chí Giáo dục, tập

2, số 266.

36. Ngô Giang Nam (2011), “Thực trạng giáo dục kĩ năng giao tiếp của học sinh

tiểu học nông thôn miền núi phía Bắc”, Tạp chí giáo dục, số đặc biệt tháng 9.

37. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ văn học, Nxb Đà Nẵng.

38. Phạm Hồng Quang (2002), Một số quan niệm về học tập và vai trò của

người dạy trong dạy học, Tạp chí Giáo dục số 36.

39. Nguyễn Huy Quát (2007), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp

dạy học văn, Nxb Đại học Thái Nguyên.

40. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn đề dạy học văn

trong nhà trường, Nxb Giáo dục.

41. Đặng Thị Lệ Tâm (2011), “Vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để

dạy học nghi thức lời nói cho học sinh tiểu học”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ

học Toàn quốc.

42. Đặng Thị Lệ Tâm (2011), “Dạy học nghi thức lời nói trong môn Tiếng

Việt cho học sinh tiểu học theo nguyên tắc giao tiếp”.Tạp chí giáo dục, số

9, tr 91-93.

43. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ

văn trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.

44. Hoàng Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ

thông Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.

45. Hoàng Ngọc Thống (2011), Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông

theo hướng tiếp cận năng lực, Tạp chí Khoa học giáo dục (số 68).

46. Hoàng Ngọc Thống (2003), Chương trình Ngữ văn THPT và việc hình

78

thành năng lực văn học cho học sinh, Tạp chí Giáo dục.

47. Hoàng Ngọc Thống (2009), Đánh giá năng lực đọc- hiểu cho học sinh

nhìn từ yêu cầu của Pisa, Tạp chí Khoa học giáo dục (số 40).

48. Nguyễn Trí (2006), Một số vấn đề về dạy hội thoại cho học sinh tiểu học,

Nxb Giáo Dục.

79

49. Từ điển bách khoa toàn thƣ Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 2011

PHỤ LỤC

Một số thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” sách giáo khoa Ngữ

văn 10 (tập 1).

1. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” của một giáo viên Ngữ văn

Trƣờng trung học phổ thông Sơn Nam, huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang.

Tiết 47:

Làm văn:

TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ

A. Mục tiêu bài học

Giúp HS:

1. Về kiến thức

- Hoàn thiện kiến thức về văn bản thuyết minh (đặc điểm, yêu cầu và phƣơng

pháp thuyết minh).

2. Về kĩ năng:

- Biết trình bày miệng một vấn đề trƣớc tập thể.

3. Về thái độ:

- Mạnh dạn, bình tĩnh, tự tin khi trình bày một vấn đề.

B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh

- Giáo viên:

+ Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án

+ Tài liệu tham khảo

- Học sinh: sách giáo khoa, vở soạn, vở ghi.

C. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng 6 bài “Ca dao than thân yêu thƣơng tình

nghĩa” và phân tích một bài ca dao mà em tâm đắc.

2. Bài mới:

Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt

* Hoạt động 1: Tìm hiểu tầm quan I. Tầm quan trọng của việc trình bày

trọng của việc trình bày một vấn đề. một vấn đề.

? Tầm quan trọng của việc trình bày - Bày tỏ suy nghĩ, nhận thức, nguyện

một vấn đề? vọng, tình cảm cá nhân.

- Thuyết phục ngƣời nghe, đồng tình,

Giáo viên dùng diễn giảng chứng chia sẻ với mình.

minh tầm quan trọng của việc trình - Tăng cƣờng hiệu quả cho công việc

bày một vấn đề (có thể thông qua kể mà mình mong muốn.

chuyện về các nhà hùng biện)

* Hoạt động 2: Tìm hiểu công việc II. Công việc chuẩn bị

chuẩn bị trình bày một vấn đề * VD: Giả định anh (chị) đã đăng kí

- Giáo viên nêu tình huống giả định trình bày trong buổi sinh hoạt câu lạc

và gợi ý để học sinh chuẩn bị một số bộ do Đoàn trƣờng tổ chức với đề tài

công việc “Thời trang và tuổi trẻ”

- Học sinh nắm đƣợc những công 1, Chọn vấn đề trình bày

việc cần chuẩn bị và thực hiện theo - Tìm xem đề tài “ Thời trang và tuổi

yêu cầu của giáo viên trẻ”có thể bao gồm những vấn đề

- Các học sinh khác theo dõi, nhận nào?

xét và bổ sung - Xác định xem ngƣời nghe là những

ai (tuổi tác, giới tính, trình độ, nghề

nghiệp)

- Xác định nên chọn vấn đề nào (lí

do, thời gian, mức độ trình bày, sự

quan tâm…)

=> Việc lựa chọn vấn đề trình bày

tuỳ thuộc vào đề tài chung, hiểu biết

của bản thân, tính hấp dẫn của khía

cạnh đƣợc lựa chọn, sự quan tâm của

ngƣời nghe..

2, Lập dàn ý cho bài trình bày

- Trình bày bao nhiêu ý, đó những ý

nào?

- Các ý đƣợc xắp xếp ra sao? ý nào là

trọng tâm của bài trình bày

- Chuẩn bị trƣớc những câu chào hỏi,

kết thúc, chuyển ý và dự kiến điều

khỉên giọng điệu, cử chỉ khi nói

- Từ hệ thống ý -> lập đề cƣơng

*Hoạt động 3: Tìm hiểu phần trình III. Trình bày

bày. - Cần bám sát dàn ý đã chuẩn bị sẵn

1. Bắt đầu trình bày

- Bƣớc lên diễn đàn: bình tĩnh, tự tin

- Bắt đầu (chào hỏi khi xuất hiện)

- Tự giới thiệu (nếu cần)

2. Trình bày nội dung chính

- Giới thiệu nội dung chính

- Trình bày từng ý chính, có chuyển ý

từ nội dung này sang nội dung khác.

- Chú ý phản ứng của ngƣời nghe để

điều chỉnh nội dung, cách nói, tƣ thế,

điệu bộ của mình cho phù hợp.

3. Kết thúc và cảm ơn

- Tóm tắt nhấn mạnh một số ý chính.

- Cảm ơn ngƣời nghe.

* Ghi nhớ: sách giáo khoa trang 150

* Hoạt động 4: Hƣớng dẫn học sinh IV. Luyện tập

làm bài tập trong phần luyện tập. Bài 1:

Bài 1: Hƣớng dẫn học sinh làm trên (1) Bắt đầu trình bày

lớp - Chào các bạn . Tôi rất phấn khởi…

- Chào các bạn. Cảm ơn các bạn đã

tới đây

- Trƣớc khi bắt đầu, cho phép tôi

đƣợc nói đôi điều về bản thân…

(2)Trình bày nội dung chính

- Giờ chúng ta hãy đi vào nội dung

chủ yếu của đề tài…

(3) Chuyển qua chủ đề khác

- Đã xem xét tất cả các phƣơng án có

thể…

- Giờ chúng ta chuyển sang vấn đề

môi trƣờng

Bài 2: Hƣớng dẫn học sinh làm ở (4)Tóm tắt và kết thúc nội dung trình

nhà bày

- Tôi muốn kết thúc bài nói….

- Giờ tôi sắp kết thúc bài nói…

3. Củng cố và luyện tập:

- Hệ thống lại kiến thức cơ bản

- Cách thức trình bày một vấn đề

4. Hƣớng dẫn học bài ở nhà:

- Hoàn thiện phần bài tập trong sách giáo khoa.

- Soạn bài “Lập kế hoạch cá nhân”.

2. Thiết kế dạy học bài “Trình bày một vấn đề” trong sách Thiết kế bài giảng

Ngữ văn 10 (tập 1), Nguyễn Văn Đƣờng chủ biên:

Tiết 47

LÀM VĂN

TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ

A. Kết quả cần đạt

1. Nắm đƣợc các yêu cầu cơ bản của việc trình bày một vấn đề trƣớc

nhiều ngƣời, tức là khả năng lập ngôn và thuyết phục ngƣời nghe đồng ý,

đồng tình, đồng cảm với luận điểm của mình.

- Biết cách trình bày một vấn đề theo đề cƣơng đã chuẩn bị.

- Rèn luyện tính tự tin và khả năng điều chỉnh bài nói cho phù hợp với đối

tƣợng và tình huống cụ thể.

2. Tích hợp với Văn, Tiếng Việt với vốn sống thực tế của bản thân.

B. Thiết kế dạy – học

Hoạt động 1

XÁC ĐỊNH TẦM QUAN TRỌNG CỦA

VIỆC TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ

- Giáo viên yêu cầu học sinh trao đổi, thảo luận một số câu hỏi sau:

1. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày thì hình thức giao tiếp nào đƣợc sử

dụng với tần số cao nhất? Tại sao?

2. Trong cuộc sống hàng ngày, có thể gặp những hình thức giao tiếp bằng lời

nói nào?

3. Các hình thức ấy có gì giống và khác nhau?

4. Mỗi ngƣời đều có thể nói đúng, nói hay đƣợc không? Tại sao?

- Giáo viên gợi dẫn học sinh trả lời:

1. Trong hoạt động giao tiếp hằng ngày thì hình thức giao tiếp bằng lời nói

đƣợc sử dụng với tần suất cao nhất, vì:

a) Trong gia tộc, gia đình:

- Con cái thƣờng phải chào hỏi bố mẹ, để đạt đƣợc yêu cầu nguyện vọng…

- Bố mẹ thƣờng phải dặn dò nhắc nhở hoặc giải thích về khả năng đáp ứng

hay không đáp ứng đƣợc các yêu cầu nguyện vọng của con cái…

- Anh chị em trao đổi tâm tƣ tình cảm hoặc trao đổi về công việc…

- Các cuộc gặp mặt nhân dịp giỗ, tết thì các thành viên trong gia tộc, gia đình

thƣờng phải trao đổi bàn bạc công việc chung hoặc hàn huyên tâm sự…

b) Khi đến trƣờng hoặc đến cơ quan:

- Thầy – trò giao tiếp với nhau trong giờ học chính khóa, ngoại khóa, giờ ra

chơi…

- Hoạt động giao tiếp trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn…

- Bạn bè cùng lớp, cùng trƣờng trò chuyện với nhau trong giờ ra chơi, trong

các buổi thăm quan, dã ngoại…

- Thầy – trò, bạn bè gặp gỡ và trò chuyện nhân ngày 20-11 hoặc các ngày kỉ

niệm lớn…

- Ở cơ quan, lãnh đạo và nhân viên giao tiếp trong và ngoài giờ hành chính,

giờ lao động; nhân viên giao tiếp với nhân viên trong quan hệ công việc hoặc

quan hệ cá nhân…

c) Trong xã hội:

- Các hoạt động giao tiếp khi đến cơ quan bạn, đến cửa hàng, đến triển lãm,

đến rạp xem phim, đến sân vận động…

- Các hoạt động giao tiếp trong việc giải quyết các tranh chấp, các va chạm về

quyền lợi vật chất hoặc tinh thần…

Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày cũng nhƣ trong học tập, công tác, chúng

ta thƣờng xuyên gặp tình huống phải trình bày một vấn đề nào đó trƣớc tập

thể hoặc trƣớc ngƣời khác để bày tỏ những suy nghĩ, tình cảm của mình nhằm

mục đích thuyết phục ngƣời nghe đồng ý, đồng tình với mình.

2. Có thể gặp hai hình thức giao tiếp bằng lời nói là:

a) Giao tiếp tự do:

Đây là hình thức thƣờng diễn ra ngoài giờ hành chính, giờ lao động, giờ học

chính khóa… Nó thƣờng là các cuộc trò chuyện, trao đổi tƣ tƣởng tình cảm

mang tính chất của những quan hệ cá nhân, do đó hoàn toàn tự do về nội dung

(muốn nói gì thì nói), về thời gian (nói bao lâu tùy thích), về không gian (nói

ở đâu cũng đƣợc) và về ngôn ngữ (có thể dùng biệt ngữ, tiếng lóng, cử chỉ

điệu bộ…).

b) Giao tiếp quy phạm:

Đây là hình thức diễn ra trong giờ hành chính, giờ lao động, giờ học… Nó là

hoạt động giao tiếp có nội dung quy định, thời gian quy định, không gian quy

định và ngôn ngữ phải đảm bảo tính trong sáng, chuẩn mực.

* Hai hình thức trên khác nhau ở chỗ:

- Giao tiếp tự do là khẩu ngữ thân mật, suồng sã.

- Giao tiếp quy phạm là một trong những hình thức hoạt động văn hóa của

con ngƣời.

3. Từ xƣa, cha ông ta đã dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”, nghĩa là

muốn nên ngƣời thì cái gì cũng phải học; trong đó cái “học nói” là một trong

những điều kiện quan trọng nhất để làm ngƣời bởi “ăn không nên đọi, nói

không nên lời” đƣợc coi là một sự sỉ nhục.

Thế nhƣng nhiều ngƣời cứ tƣởng đã là con ngƣời thì ai mà chẳng nói

đƣợc, việc gì phải học? Đó là một suy nghĩ rất sai lầm. Đúng là con ngƣời ta

sinh ra đã biết khóc cƣời: Con người có miệng có môi- Khi buồn thì khóc khi

vui thì cười, nhƣng khóc cƣời (hiểu theo nghĩa là nói năng, bày tỏ thái độ tình

cảm) cũng có ba bảy loại khác nhau. Chẳng học hành gì cả mà nói thì đó là

nói tự phát, thƣờng không có đầu có đuôi, do đó thƣờng không “truyền” đƣợc

đúng ý nghĩ của mình tới ngƣời nghe và hiển nhiên là ngƣời nghe chẳng hiểu

gì cả, đôi khi còn cảm thấy buồn cƣời. Học hành bài bản, rèn luyện kĩ lƣỡng

thì có thể nói đúng đƣợc điều mình cần nói, giúp cho ngƣời nghe dễ dàng

“hiểu” đƣợc điều cần trao đổi, bàn bạc để tìm ra tiếng nói chung.

Nhƣ vậy, trong lời dạy của cha ông ta, thì:

- Học “ăn” tức là “ăn trông nồi, ngồi trông hƣớng”.

- Học “nói” tức là nói có đầu có đuôi, nói có văn hóa: Chim khôn kêu tiếng

rảnh rang- Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

- Học “gói, mở” tức là học làm một cách có ý thức, có bài bản, có trình tự…

Tóm lại, ai cũng có thể nói đúng, nói hay nếu có quyết tâm học tập, rèn luyện

để trở thành ngƣời “lập ngôn”.

Hoạt động 2

XÁC LẬP THAO TÁC CHUẨN BỊ

- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác: Chọn đề tài:

a) Tên đề tài:

- Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ”.

- Vấn đề “Môi trƣờng và sự sống của con ngƣời”.

- Vấn đề “Hiểm họa ma túy học đƣờng”.

b) Điều kiện để chuẩn bị cho bài nói (thuyết trình)

- Phải am hiểu sâu sắc vấn đề sẽ trình bày.

- Phải có hứng thú chuẩn bị thì mới có hứng thú trình bày.

- Phải có tƣ liệu, số liệu phong phú về vấn đề sẽ trình bày…

c) Xác định đối tƣợng nghe:

- Nói cho ai nghe?

- Trình độ, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp… của ngƣời nghe?

- Ngƣời nghe đang quan tâm tới vấn đề gì?

d) Xác định mục đích nói:

- Nói để tuyên truyền vận động?

- Nói để giáo dục hoặc giao nhiệm vụ?

- Nói để tham khảo trong một buổi ngoại khóa?

e) Xác định cách nói:

- Bƣớc 1: Nói đúng thông tin chính xác, ngôn ngữ chuẩn mực

- Bƣớc 2: Nói hay, thông tin mới mẻ, ngôn ngữ sinh động, có “khẩu khí”

hùng biện.

Hoạt động 3

LẬP DÀN Ý CHO BÀI TRÌNH BÀY

- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác sau:

1. Xác định các ý chính:

Ví dụ:

a) Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ” gồm các ý sau:

+ Trang phục là thứ bắt buộc phải có đối với con ngƣời văn minh, văn hóa,

nhất là đối với phụ nữ.

+ Trang phục phù hợp với cộng đồng, với thời đại, hài hòa với cá nhân…

đƣợc coi là “thời trang”.

+ Trang phục đẹp, hiện đại (thời trang) tức là phải “y phục xứng kì đức”.

b) Vấn đề “Môi trƣờng và sự sống con ngƣời”:

+ Môi trƣờng là các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh ta, nó có vai trò

quyết định sự sống của chúng ta.

+ Có ý thức bảo vệ môi trƣờng tức là có ý thức bảo vệ sự sống của chính mình.

+ Hủy hoại môi trƣờng là hành vi tự sát.

2. Chia tách ý chính thành các ý nhỏ:

Ví dụ: Vấn đề “Thời trang và tuổi trẻ”:

+ Trang phục là thứ bắt buộc phải có:

- Ngƣời Việt ta thƣờng nói “cơm ăn áo mặc” với ý nghĩa “ăn” và “mặc” là hai

trong những nhu cầu thiết yếu của con ngƣời. Lại nói “cơm no áo ấm” với ý

nghĩa là cái đích tối thiểu của lao động.

- Từ “cơm no áo ấm” đến “ăn ngon mặc đẹp” đƣợc coi là một chặng đƣờng

phấn đấu gian khổ của con ngƣời, trong đó cái đích hƣớng tới là “đẹp”.

- Nói nhƣ thế có nghĩa là, ở các mức độ khác nhau, trang phục là một trong

những tiêu chí để đánh giá con ngƣời, nhất là đối với ngƣời phụ nữ.

+ Trang phục phải phù hợp với cộng đồng:

- Ngƣời Việt có các trang phục truyền thống của mình, cho nên dù có cách tân

kiểu gì cũng phải chú ý kế thừa và phát triển cái đẹp truyền thống, chẳng hạn

cái áo dài của ngƣời phụ nữ Việt Nam là một ví dụ điển hình.

- Trong thời đại giao lƣu hội nhập hiện nay, chúng ta có thể chọn lọc các loại

trang phục của các dân tộc bạn và sử dụng có sáng tạo, chẳng hạn bộ com-lê

của nam giới, các kiểu váy của phụ nữ…; nhƣng điều quan trọng nhất là trang

phục phải hài hòa với hình thể, nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.

+ Trang phục phải đúng với tinh thần “y phục xứng kì đức”, nghĩa là cùng với

vẻ đẹp hình thức còn cần phải chăm sóc vẻ đẹp của nhân cách và tâm hồn,

nếu không có cái y phục hình thức sẽ trở nên lòe loẹt, kệch cỡm.

- Chẳng hạn mặc đẹp nhƣng mồm luôn văng tục.

- Mặc đẹp nhƣng lƣời học.

- Mặc đẹp nhƣng phạm tội.

Hoạt động 4

THỰC HIỆN VIỆC TRÌNH BÀY

- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành từng thao tác:

1. Lời dẫn:

(Giả định nói với các bạn đồng trang lứa trong một buổi diễn đàn của chi

đoàn hoặc của lớp với chủ đề “Thời trang và tuổi trẻ”)

* Thƣa các bạn!

Tuổi trẻ của chúng ta có rất nhiều nhu cầu chính đáng, trong đó có nhu cầu

đƣợc mặc đẹp. Tôi rất thích một lời dạy của cha ông ta “ăn cho mình, mặc

cho ngƣời”! Nghĩa là việc ăn mặc thế nào cho đẹp không chỉ là “sở thích tuyệt

đối của mỗi cá nhân” nhƣ một số bạn vừa phát biểu ! Sau đây là những suy

nghĩ của cá nhân tôi, rất mong các bạn vui lòng lắng nghe và cùng nhau trao

đổi, thảo luận. Các bạn có đồng ý nhƣ vậy không ạ?

2. Phần trình bày

+ Có lẽ một trong những bằng chứng quan trọng để phân biệt con ngƣời

với động vật là con ngƣời thì có mặc quần áo, còn con vật thì không. Nói cách

khác, mặc là nhu cầu thiết yếu bậc nhất của con ngƣời văn minh, văn hóa.

+ Từ xa xƣa, con ngƣời đã biết che thân bằng vỏ cây, bằng lá rừng… ngày

nay con ngƣời càng ngày càng chú trọng đến việc ăn mặc hơn bao giờ hết,

nhất là tuổi trẻ chúng ta và đặc biệt là các bạn nam nữ. Trƣớc hết, mặc là một

nhu cầu đƣợc làm đẹp về hình thức, nhƣng mặc thế nào là đẹp lại là một vấn

đề không hề đơn giản chút nào

+ Có bạn cho rằng, mặc nhƣ thế nào là quyền của tôi, là “sở thích cá nhân

tuyệt đối” của tôi, tôi thích gì mặc nấy, xin mọi ngƣời đừng can thiệp. Theo

tôi, bạn nào nói nhƣ vậy chỉ đúng một nửa (sở thích cá nhân), còn một nửa

nữa chƣa đúng, vì:

- Nếu lội xuống đồng, ao mƣơng thoát nƣớc, hoặc vào nhà máy công xƣởng…

mà bạn mặc comle, áo dài, quần bò… thì rõ ràng không chấp nhận đƣợc.

- Ngƣợc lại, nếu đi dự lễ hội, dự đám cƣới… mà quần áo lôi thôi, nhàu nhĩ

cũng khó chấp nhận đƣợc.

- Nếu các bạn gái đi học mà mặc quần áo ngắn ngang bụng, quần bò trễ

dƣới rốn tới cả chục phân liệu có coi là đẹp đƣợc không?

- Có bạn cao ngỏng lại mặc quần áo ngắn cũn cỡn, có bạn thấp tè lại ăn

mặc lòe xòe, bạn da đen mặc màu tối, bạn da trắng mặc màu sáng… liệu có

thật là đẹp hay không?

Vì vậy, theo tôi, cùng với “sở thích cá nhân”, ăn mặc còn phải phù hợp với

hoàn cảnh, với công việc và với cả vóc ngƣời của mỗi cá nhân nữa. Nói ngắn

gọn, cái đẹp là sự hợp lí và sự hài hòa.

3. Phần kết luận:

Thƣa các bạn, dù sao trên đây cũng chỉ là suy nghĩ cá nhân của riêng tôi,

rất mong đƣợc các bạn góp ý, trao đổi để chúng ta đi tới một quan niệm chung

về cái đẹp trong cách ăn mặc theo đúng tinh thần “ Y phục xứng kì đức”!

Xin chân thành cảm ơn các vị đại biểu và các bạn đã chú ý lắng nghe!

- Giáo viên chỉ định 3 học sinh lần lƣợt đọc chậm, rõ Ghi nhớ trong sách

giáo khoa.

Hoạt động 5

HƢỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Bài tập 1

(1) Bắt đầu trình bày:

- Chào các bạn. Tôi rất phấn khởi đƣợc đến đây phục vụ các bạn. Tôi tên là…

- Chào các bạn. Cảm ơn các bạn đã đến đây. Xin tự giới thiệu, tôi tên là…

làm việc ở cơ quan…

- Trƣớc khi bắt đầu, cho phép tôi đƣợc nói đôi điều về bản thân. Tôi đã làm

việc ở công ty… trong…năm…

(2) Trình bày nội dung chính:

- Giờ chúng ta đi vào nội dung chủ yếu của đề tài. Thứ nhất…

- Đã xem xét tất cả các phƣơng án có thể có, chúng ta hãy chuyển sang

phân tích những thuận lợi và khó khăn của từng phƣơng án…

(3) Chuyển qua chủ đề khác:

Giờ chúng ta chuyển sang vấn đề môi trƣờng. Nhƣ các bạn đã biết, chúng

ta đã tận lực để đảm bảo công việc xử lí phế thải…

(4) Tóm tắt và kết thúc nội dung trình bày:

- Tôi muốn kết thúc bài nói bằng cách nhắc lại đôi điều đã nêu lên lúc mở

đầu…

- Giờ tôi sắp kết thúc bài nói, và đến đây, tôi muốn một lần nữa lƣớt qua

những điểm chính đã nêu…

2. Bài tập 2

Ví dụ chọn chủ đề “An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi ngƣời” có

thể nêu các ý sau:

(1) Mất an toàn giao thông là một trong những thực trạng nhức nhối của

đời sống hôm nay:

- Trong cả nƣớc, mỗi ngày có 30 ngƣời chết vì tai nạn giao thông, hơn

1000 ngƣời bị thƣơng vì tai nạn giao thông.

- Đặc biệt nghiêm trọng có những vụ hàng chục ngƣời chết nhƣ tai nạn ở

Kon Tum, ở Đồng Nai…

- Ngoài thiệt hại về ngƣời, thiệt hại về vật chất, phƣơng tiện cũng vô cùng

to lớn…

(2) Nguyên nhân:

- Ý thức chấp hành luật giao thông kém.

- Đƣờng sá, cầu cống chƣa đáp ứng nhu cầu tham gia giao thông.

- Quá tải về phƣơng tiện tham gia giao thông.

(3) Biện pháp:

- Biện pháp trƣớc mắt: Giáo dục, xử phạt nghiêm…

- Biện pháp lâu dài: Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thay thế các

phƣơng tiện hiện đại an toàn…