ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
NNGGUUYYỄỄNN TTHHỊỊ HHỢỢPP
BBÙÙII KKỶỶ VVỚỚII SSỰỰ NNGGHHIIỆỆPP VVĂĂNN HHÓÓAA –– GGIIÁÁOO DDỤỤCC
VVÀÀ CCÁÁCCHH MMẠẠNNGG VVIIỆỆTT NNAAMM TTHHẾẾ KKỶỶ XXXX
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Hà Nội –2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
NNGGUUYYỄỄNN TTHHỊỊ HHỢỢPP
BBÙÙII KKỶỶ VVỚỚII SSỰỰ NNGGHHIIỆỆPP VVĂĂNN HHÓÓAA –– GGIIÁÁOO DDỤỤCC
VVÀÀ CCÁÁCCHH MMẠẠNNGG VVIIỆỆTT NNAAMM TTHHẾẾ KKỶỶ XXXX
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. NGND Nguyễn Văn Khánh
Hà Nội –2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên của tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của GS. TS. NGND Nguyễn Văn Khánh.
Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học, thông tin trích dẫn có nguồn gốc rõ
ràng./.
Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hợp
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá
nhân và tập thể.
Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. TS.
NGND Nguyễn Văn Khánh, người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cám ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo Khoa Lịch
sử – Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, cán bộ các trung tâm lưu trữ,
các thư viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành đề tài.
Tôi xin trân trọng cám ơn đại diện gia đình, dòng họ Bùi Châu Cầu – Mễ
Tràng của danh nhân Bùi Kỷ (Hà Nam) đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu hữu ích.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã khích lệ, tạo những điều
kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Trân trọng!
Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hợp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................ 5
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................... 6
7. Bố cục luận văn ...................................................................................................... 6
NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
CHƢƠNG 1. VÀI NÉT VỀ GIA ĐÌNH VÀ THÂN THẾ CỦA BÙI KỶ ............. 8
1.1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX ........................................... 8
1.2. Quê hương, dòng họ và gia thế của Bùi Kỷ ..................................................... 12
1.2.1. Xã Châu Cầu, huyện Kim Bảng - Quê hương của Bùi Kỷ .............................. 12
1.2.2. Khái quát về dòng họ Bùi và gia thế của Bùi Kỷ ............................................ 15
1.3. Quá trình lập thân của Bùi Kỷ ......................................................................... 19
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 21
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG CỦA BÙI KỶ TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA –
GIÁO DỤC .............................................................................................................. 23
2.1. Người thầy tâm huyết với sự nghiệp giáo dục ................................................. 23
2.2. Bùi Kỷ với phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ (1934 - 1945) ............... 30
2.2.1. Bối cảnh xuất hiện phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ đầu thế kỉ XX ......... 30
2.2.2. Vai trò của Bùi Kỷ trong phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ (1934 - 1945) .. 33
2.3. Bùi Kỷ với sự nghiệp văn chương .................................................................... 37
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 50
CHƢƠNG 3. HOẠT ĐỘNG YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA BÙI KỶ .. 51
3.1. Cuộc gặp gỡ với Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành ............................. 51
3.2. Bùi Kỷ với phong trào truyền bá Quốc ngữ (1938 – 1945) ............................. 57
3.3. Bùi Kỷ với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ...................................... 61
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 68
CHƢƠNG 4. ĐÓNG GÓP CỦA BÙI KỶ ĐỐI VỚI QUÊ HƢƠNG, ĐẤT NƢỚC . 69
3.1. Đối với dòng họ Bùi, quê hương Hà Nam ....................................................... 69
3.2. Đối với dân tộc ................................................................................................... 71
Tiểu kết chương 4 ..................................................................................................... 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 87
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp về cơ bản đã hoàn thành công cuộc bình định
Việt Nam, biến Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Ngay sau khi hoàn tất cuộc
xâm lược, thực dân Pháp đã khẩn trương thực hiện Chương trình khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929). Các cuộc khai thác này đã
gây nên những tác động lớn về mọi mặt từ kinh tế đến văn hóa, xã hội Việt Nam.
Điểm đáng lưu ý trong giai đoạn này là chính quyền thực dân đã thực hiện các cuộc
cải cách giáo dục, hướng tới xây dựng một nền giáo dục Pháp - Việt, loại bỏ dần
nền giáo dục Hán học. Mặc dù nhằm phục vụ công cuộc bóc lột và thống trị của
thực dân Pháp nhưng các hoạt động khai thác thuộc địa cũng đã góp phần tạo nên
sự chuyển biến trong tư tưởng, nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội
ngũ trí thức Nho học. Nhiều người cảm thấy chán nản, đau buồn trước nỗi nhục mất
nước, lạc lõng giữa buổi giao thời của hai chế độ, nhưng lựa chọn những cách ứng
xử khác nhau: Có người đỗ đạt ra làm quan phục vụ triều đình, có người từ quan về
quê ở ẩn, gửi gắm những trăn trở thời cuộc qua văn thơ, lại có người tập hợp lực
lượng chuẩn bị cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang. Và cũng có người khước từ làm
quan để rồi suốt đời gắn bó với nền giáo dục, nền văn học nước nhà như một định
mệnh. Bùi Kỷ là một người như thế. Ông là một trong số ít những nhà nho sống,
làm việc dưới cả 3 chế độ: Phong kiến, Pháp thuộc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đó là kết quả của một quá trình chuyển biến sâu sắc về mặt tư tưởng của ông, từ
yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản.
Với các hoạt động giảng dạy, biên khảo, sáng tác thơ văn, cách mạng... Bùi Kỷ
đã có những đóng góp to lớn đối với nền văn hóa - giáo dục và cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, thân thế, sự nghiệp của Bùi Kỷ đã được nhiều nhà nghiên cứu trong
nước quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào
nghiên cứu toàn diện và khách quan về sự nghiệp cũng như những đóng góp của
1
ông.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi lựa chọn đề tài “Bùi Kỷ với sự nghiệp văn hóa -
giáo dục và cách mạng Việt Nam thế kỉ XX” làm đề tài luận văn thạc sĩ với mong
muốn góp phần làm sáng tỏ thêm về thân thế, hoạt động và những cống hiến của
ông đối với quê hương, đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bùi Kỷ là một phó bảng, một nhà sư phạm, một nhà văn, một nhà nghiên cứu
văn hóa có ảnh hưởng, đóng góp lớn vào việc hình thành tri thức về ngữ văn Việt và
Hán Việt, tri thức về lịch sử văn học Việt Nam. Vì vậy, thân thế và hoạt động của
ông đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, giới thiệu.
Tiểu sử, sự nghiệp của Bùi Kỷ đã được một số nhà nghiên cứu biên soạn trong
các bộ từ điển và các bộ sách mang tính chất từ điển về lịch sử, văn học, khoa cử.
Tiêu biểu là cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng và
Nguyễn Bá Thế (Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, 1991). Trong cuốn này, tác giả
giới thiệu khái quát tiểu sử và các tác phẩm chính của Bùi Kỷ, đồng thời khẳng
định: “Bùi Kỷ là một trí thức yêu nước, một học giả uyên thâm, có công với văn học
nước nhà đầu thế kỉ XX, nhất là thời chữ Quốc ngữ có tư thế trên văn đàn”. Bên
cạnh đó, cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 2 của Trần Văn Giáp chủ biên
(Nxb. Khoa học xã hội, 1971), đã giới thiệu qua tiểu sử, hoạt động và một số tác
phẩm của Bùi Kỷ. Ngoài ra, các cuốn như Khoa cử và các nhà khoa bảng triều
Nguyễn do Phạm Đức Thành Dũng - Vĩnh Cao chủ biên (Nxb. Thuận Hóa, 2000),
cuốn Nhân vật lịch sử văn hóa Hà Nam của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam
(2000), Từ điển văn học (bộ mới) của Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Các nhà khoa bảng
Việt Nam 1075 - 1919 của tác giả Ngô Đức Thọ (Nxb. Văn học, 2006)... đã cung
cấp nguồn thông tin khái quát về tiểu sử, hoạt động và một số tác phẩm của danh
nhân Bùi Kỷ. Tuy vậy, một số sự kiện liên quan đến ông vẫn chưa có sự thống nhất
và chưa chính xác, cần phải được nhìn nhận, xem xét lại.
Các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục, có thể kể tới cuốn
Thầy giáo Việt Nam mười thế kỉ của tác giả Vũ Ngọc Khánh (Nxb. Thanh niên,
2000). Trong cuốn này, tác giả đã trình bày về nhân cách, tư tưởng của Bùi Kỷ qua 2
những kỷ niệm hồi tác giả còn học ở Trường tư thục Thăng Long. Bên cạnh đó,
luận án tiến sĩ của Lê Tâm Đắc với đề tài “Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc
Kỳ” năm 2008, khẳng định Bùi Kỷ là một trong số 11 vị có ảnh hưởng và đóng góp
lớn nhất cho hoạt động chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ trước năm 1953. Hoạt động
truyền bá Quốc ngữ của Bùi Kỷ cũng được đề cập trong cuốn Hội Truyền bá Quốc
ngữ trong sự nghiệp chống nạn thất học của Nxb. Giáo dục năm 1988... Ngoài ra là
một số bài viết đăng trên Thông báo Hán Nôm học (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
như: “Bút tích của Phó bảng Bùi Kỷ và bản dịch thơ của nhà văn Nguyễn Tử Siêu
tại nhà thờ Hoàng giáp Lê Huy Trâm” (năm 2004) của hai tác giả Đặng Bằng - Lê
Liêm, “Nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh của nhà biên khảo Bùi Kỷ (1887 - 2007)”
của tác giả Thế Anh (năm 2007).
Không chỉ là một nhà sư phạm, Bùi Kỷ còn là một nhà văn, nhà thơ. Bởi thế,
giới nghiên cứu cũng đặc biệt quan tâm đến việc sưu tầm, giới thiệu, phân tích, phê
bình các công trình biên khảo, hiệu khảo, sáng tác thơ văn của ông. Tiêu biểu là
cuốn Văn thơ của Ưu thiên Bùi Kỷ của Lê Tư Lành xuất bản năm 1982, trong đó,
tác giả đã thu thập, dịch thuật tổng cộng 77 bài của Bùi Kỷ, gồm: 14 bài thơ chữ
Hán, 63 bài thơ Quốc ngữ, và được chia thành 4 nhóm: Thơ tức cảnh, thơ tự sự, các
loại văn, thơ ngắn trong cuốn Quốc văn cụ thể. Tuy nhiên, công trình được đánh giá
là đầy đủ nhất về sự nghiệp văn chương của Bùi Kỷ đến nay là Thơ văn Bùi Kỷ của
Nguyễn Văn Huyền do Nxb. Khoa học xã hội (Hà Nội) ấn hành năm 1994. Trong
cuốn này, tác giả đã nêu khái quát thông tin về tiểu sử Bùi Kỷ, tuyển tập 102 trước
tác của ông trên các lĩnh vực hiệu khảo, dịch, sáng tác; đồng thời, phân tích tư
tưởng của Bùi Kỷ thể hiện qua các trước tác văn học đó. Ngoài ra còn một số công
trình mang tính chất tuyển chọn, giới thiệu thơ văn của Bùi Kỷ như: Tuyển tập thơ
Hà Nam do Nguyễn Thế Vinh chủ biên (Nxb. Hội Nhà văn & Hội Văn học nghệ
thuật Hà Nam, 2000), Tuyển tập văn Hà Nam của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam
(Nxb Hội Nhà văn, 2000), Nhà văn hiện đại, tập 1 của Vũ Ngọc Phan (Nxb. Văn
học, 1994), Danh nhân họ Bùi của Bùi Xuân Ngật (Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,
2013), Phủ Lí thơ của nhóm tác giả Vũ Ngọc Phác - Phạm Vĩnh - Nguyên Xuân
3
Vân (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995)...
Qua những công trình nghiên cứu kể trên, chúng ta thấy việc nghiên cứu về thân
thế, sự nghiệp của Bùi Kỷ trước nay mới chỉ được tiến hành ở mức độ khái lược,
chưa toàn diện. Riêng trong cuốn Thơ văn Bùi Kỷ, tác giả Nguyễn Văn Huyền đã
dành nhiều công sức giới thiệu về tiểu sử, trình bày tư tưởng của Bùi Kỷ qua một số
sáng tác thơ văn của ông. Tuy nhiên, hành trạng và hoạt động của Bùi Kỷ cả trước
và sau năm 1945 chưa được tìm hiểu, phân tích kỹ lưỡng. Vì vậy, thiết nghĩ, việc
nghiên cứu một cách toàn diện về thân thế, hoạt động và đóng góp của Bùi Kỷ dưới
góc độ sử học là điều vô cùng cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm phác họa một cách toàn diện, chân thực về các hoạt động của danh
nhân Bùi Kỷ và những đóng góp của ông trong lịch sử dân tộc thế kỷ XX, đặc biệt
là trên các lĩnh vực văn hóa - giáo dục và cách mạng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Thu thập các nguồn thông tin khác nhau về danh nhân Bùi Kỷ. Trên cơ sở đó,
tiến hành phân loại, sắp xếp, phân tích và xử lý các nguồn tư liệu để có được những
thông tin, dữ liệu đúng đắn về hành trạng, hoạt động của ông. Đồng thời, khái quát
những đóng góp và đánh giá vai trò của Bùi Kỷ đối với quê hương, đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động của Bùi Kỷ trên các lĩnh vực văn hóa -
giáo dục, cách mạng cũng như những đóng góp của ông đối với lịch sử Việt Nam
trong thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của đề tài là những nơi có liên quan đến cuộc đời và
4
hoạt động của Bùi Kỷ, trước hết là Hà Nam, Hà Nội… là những nơi ông sinh sống
và làm việc. Ngoài ra, hoạt động của Bùi Kỷ ở Pháp, Trung Quốc cũng được khảo
cứu.
Về thời gian, đề tài tập trung vào khoảng thời gian sinh sống và làm việc của
ông từ năm 1887 (năm sinh) đến năm 1960 (năm mất).
Phạm vi nội dung của đề tài là hoạt động của Bùi Kỷ trên lĩnh vực văn hóa –
giáo dục (giảng dạy, phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ 1934-1945, văn
chương), hoạt động yêu nước và cách mạng trước và sau năm 1945.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu lưu trữ có liên quan đến Bùi Kỷ và địa danh Hà Nam trước và sau
Cách mạng tháng Tám 1945 hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chúng tôi tìm
hiểu về thân thế, hoạt động của ông.
Nguồn tài liệu sưu tầm thực địa như: Bút tích của Bùi Kỷ và bản dịch thơ của
nhà văn Nguyễn Tử Siêu tại nhà thờ Hoàng giáp Lê Huy Trâm (Hà Nội), bài thơ
“Yết Nhị Trưng từ” được khắc tại Đền Hai Bà Trưng (Phường Đồng Nhân, Hai Bà
Trưng, Hà Nội)... Bên cạnh đó, các các tư liệu về gia phả, dòng họ sẽ giúp chúng tôi
tìm hiểu về thân thế, cuộc đời, quê hương Bùi Kỷ trên cơ sở đối chiếu so sánh với
các nguồn tư liệu khác.
Nguồn tư liệu tham khảo khác như các sách từ điển, sách tổng hợp, sách chuyên
khảo, các bài nghiên cứu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Bùi Kỷ. Có thể kể
đến như cuốn Thơ văn Bùi Kỷ của Nguyễn Văn Huyền, Văn thơ của Ưu Thiên Bùi
Kỷ của Lê Tư Lành, Danh nhân họ Bùi của Bùi Xuân Ngật (cb)…
Nguồn tư liệu internet là website của Họ Bùi Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Cổng thông tin điện tử Hà Nam... cũng giúp chúng tôi trong quá trình nghiên
5
cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
Phương pháp lịch sử cho phép chúng tôi tiến hành nghiên cứu và trình bày sự
hiểu biết về danh nhân Bùi Kỷ theo một quá trình có hệ thống, trong mối liên hệ với
bối cảnh lịch sử chung của đất nước nhằm đạt được những thông tin khách quan,
chính xác.
Do là một đề tài nghiên cứu nhân vật lịch sử nên chúng tôi còn sử dụng phương
pháp phân tích, so sánh. Dựa trên các nguồn tư liệu thu thập được, đề tài sẽ tiến
hành phân tích các yếu tố liên quan đến con người, tư tưởng và hoạt động của danh
nhân Bùi Kỷ. Đồng thời, liên hệ với một số nhân vật lịch sử khác nhằm làm nổi bật
tính cách, phẩm chất, tài năng của ông.
Ngoài ra, đề tài khai thác triệt để phương pháp hồi cố thông qua việc phỏng vấn
những người thuộc thế hệ sau của Bùi Kỷ. Các phương pháp khác như khảo sát thực
địa, logic... cũng được sử dụng nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sang tỏ them hoạt động của Bùi Kỷ trên các lĩnh vực văn
hóa – giáo dục và cách mạng từ năm 1917 đến năm 1960. Đồng thời, phân tích
những đóng góp của Bùi Kỷ đối với dòng họ Bùi, quê hương Hà Nam và đất nước.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam hiện đại; giúp nâng cao hiểu biết về nhân vật
Bùi Kỷ, góp phần làm phong phú thêm truyền thống tốt đẹp của dòng họ Bùi và quê
hương Hà Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 4 chương:
6
Chương 1. Vài nét về gia đình và thân thế của Bùi Kỷ
Trong chương này, luận văn trình bày các đặc điểm nổi bật của bối cảnh lịch sử
dân tộc cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX; truyền thống quê hương Hà Nam, dòng họ
Bùi Châu Cầu – Mễ Tràng và gia đình của Bùi Kỷ - Những chất xúc tác có tác động
đến quá trình học tập và lập thân của ông.
Chương 2. Hoạt động của Bùi Kỷ trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục
Chương 2 của luận văn nêu và phân tích các hoạt động chủ yếu của Bùi Kỷ trên
lĩnh vực văn hóa – giáo dục, bao gồm các hoạt động: Giảng dạy, tham gia phong
trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ 1934-1945, sự nghiệp văn chương.
Chương 3: Hoạt động yêu nước và cách mạng của Bùi Kỷ
Trong chương này, luận văn trình bày rõ ràng hoạt động yêu nước và cách mạng
của Bùi Kỷ trong sự liên hệ với các trí thức cách mạng tiêu biểu và phong trào cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chương 4. Đóng góp của Bùi Kỷ đối với quê hương, đất nước
Đây là phần đánh giá của tác giả luận văn về những đóng góp của danh nhân Bùi
7
Kỷ đối với quê hương, đất nước thông qua những hoạt động sự nghiệp của ông.
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. VÀI NÉT VỀ GIA ĐÌNH VÀ THÂN THẾ CỦA BÙI KỶ
1.1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
Sau những tính toán, thăm dò, ngày 1-9-1858, với những phát súng đầu tiên tại
bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), thực dân Pháp chính thức phát động cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Tuy vậy, phải cho đến năm 1897, về cơ bản, Pháp mới hoàn
thành công cuộc bình định nước ta và bắt đầu tập trung khai thác thuộc địa. Chính
sách, thủ đoạn khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp là toàn diện trên tất
cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Điều này đã có những tác động sâu sắc, làm
thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Về chính trị
Trong suốt gần 40 năm kháng chiến chống Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã lần
lượt ký các hiệp ước mang tính chất nhân nhượng, đầu hàng Pháp. Cho đến năm
1884, bằng Hiệp ước Pa-tơ-nốt, thực dân Pháp đã thành công trong cuộc xâm lược
Việt Nam. Với Hiệp ước này, triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự cai trị của người
Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mặc dù trở thành xứ thuộc địa của Pháp, nhưng về
hình thức thì nước ta bị chia thành 3 miền với các chế độ chính trị khác nhau: Nam
Kỳ là xứ thuộc địa, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ, còn Trung Kỳ là xứ nửa bảo hộ. Vua
Nguyễn vẫn tồn tại nhưng không có thực quyền mà chỉ là bù nhìn, phải tuân theo
mệnh lệnh của Toàn quyền Đông Dương. Dưới quan Toàn quyền có quan người
Pháp trực tiếp cai quản các xứ: Thống sứ (Bắc Kỳ), Khâm sứ (Trung Kỳ) và Thống
đốc (Nam Kỳ).
Như thế, về mặt chính trị, Pháp luôn quán triệt thực hiện chính sách “chia để
trị”; đồng thời, cử nhiều quan lại người Pháp đến làm việc tại Việt Nam cũng như
áp dụng chính sách “Dùng người Việt trị người Việt”. Với các chính sách đó và
bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập bộ máy chính
quyền thực dân tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.
Về kinh tế
Bản chất của chủ nghĩa thực dân là tranh giành thị trường và thuộc địa. Do đó,
mục tiêu tối thượng của Pháp là biến Việt Nam trở thành thuộc địa nhằm độc quyền 8
về thị trường, khai thác tài nguyên và bóc lột sức lao động để thu được nguồn lợi
nhuận tối đa. Ngay sau khi hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, nhà cầm
quyền Pháp đã nhanh chóng tiến hành các chương trình khai thác thuộc địa. Các
chính sách về kinh tế của Pháp được thực hiện với tốc độ nhanh, nguồn vốn lớn và
tăng dần qua các năm. Nếu như trong Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897 - 1914), số tiền tư bản Pháp đầu tư vào Việt Nam là trên 500 triệu Phrăng, thì
nguồn vốn này đã tăng gấp nhiều lần trong Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1919 - 1929). Nguồn vốn của Pháp tập trung trong các ngành khai mỏ, sản xuất
nông nghiệp, kỹ nghệ, giao thông vận tải và thương nghiệp. Đó là điều kiện dẫn tới
sự ra đời của hàng loạt các đồn điền, công ty khai mỏ, cơ sở công nghiệp và thương
nghiệp.
Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, nền kinh tế Việt
Nam có những chuyển biến rõ rệt và ngày càng sâu sắc. Bên cạnh một nền kinh tế
què quặt, phụ thuộc vào chính quốc Pháp là một nền kinh tế mang tính chất tư bản
chủ nghĩa. Sự chuyển biến về cơ cấu và tính chất nền kinh tế đã làm thu hẹp và biến
dạng các quan hệ kinh tế cũ, thúc đẩy nhanh quá trình đưa nền kinh tế Việt Nam
vào quỹ đạo phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng phát triển tự nhiên và tất yếu của
nhân loại.
Cùng với đó, Pháp cũng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Hệ thống đường xá gồm
đường bộ, đường thủy, đường sắt được sửa chữa, xây mới nhằm phục vụ đắc lực
cho việc vận chuyển vũ khí, nhân lực, tài nguyên, hàng hóa. Ngoài ra, hệ thống viễn
thông với khoảng 14.000km đường dây điện thoại, nhiều bến cảng, kho tàng…
được đưa vào hoạt động. Cũng nhờ vậy, quá trình hiện đại hóa của Việt Nam được
thúc đẩy nhanh hơn, bớt dần sự lạc hậu so với thế giới bên ngoài.
Về văn hóa, giáo dục
Sau khi chiếm được 6 tỉnh Nam Kỳ, Pháp đã tìm cách xóa bỏ chế độ thi cử Hán
học ở đây. Kể từ sau khoa Giáp Tý 1864 tại trường thi An Giang, kỳ thi Hương ở
Nam Kỳ không còn được tổ chức nữa. Thay vào đó, Pháp bắt đầu thiết lập hệ thống
giáo dục mới ở Nam Kỳ. Trong khi đó tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thực dân Pháp tỏ ra
9
dè dặt hơn, bên cạnh hệ thống giáo dục mới, họ vẫn tiếp tục duy trì chế độ khoa cử
Hán học thêm một thời gian nữa nhưng có sửa đổi về hình thức cũng như nội dung
thi.
Từ năm 1886 đến năm 1917, chế độ giáo dục nước ta tồn tại song song hai hệ
thống: Giáo dục Pháp - Việt và giáo dục Nho học đang trong thời kỳ quá độ. Năm
1905, Pháp thành lập Hội đồng cải cách giáo dục và Nha học chính Đông Dương.
Chương trình cải cách nhằm duy trì và cải tổ nền giáo dục cũ theo mục đích,
chương trình và phương pháp của các trường Pháp - Việt, trên cơ sở đó, mở rộng
các trường Pháp - Việt thêm một bước. Tất cả các bậc học đều có dạy chữ Hán, chữ
Quốc ngữ và chữ Pháp. Đến năm 1913, chữ Hán bị loại bỏ hẳn khỏi các trường học.
Bên cạnh các trường phổ thông, Pháp đã mở thêm một số trường học mới như
Trường Thông ngôn, Trường Quốc gia học đường, Trường Nữ Trung học Sài Gòn,
Trường Đồng Khánh, Trường Marie Curie... cùng một số trường chuyên nghiệp ở
Sài Gòn, Huế, Hà Nội.
Từ cải tổ chế độ khoa cử, Pháp tiến tới xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Hán học
tại Việt Nam. Khoa thi Hương ở Bắc Kỳ đã bị bãi bỏ vào năm 1915, còn ở Trung
Kỳ là năm 1919. Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut đã ban
hành một văn bản cải cách giáo dục ở Đông Dương, mang tên Quy chế chung về
giáo dục ở Đông Dương (thường được gọi là Học chính tổng quy). Nội dung chủ
yếu của quy chế này là quy định các cấp học và những vấn đề có liên quan như thi
cuối cấp, bộ máy quản lý, tiêu chuẩn giáo viên. Bản quy chế quy định rõ là giáo dục
Đông Dương chủ yếu là giáo dục phổ thông và giáo dục thực nghiệp. Trường học
chia thành 2 loại: Trường Pháp và trường Pháp - Việt. Hệ thống giáo dục phân chia
thành 3 cấp: Đệ nhất cấp (tức Tiểu học), Đệ nhị cấp (Trung học), Đệ tam cấp (Cao
đẳng). Ngoài ra, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, Pháp còn lập ra một số
cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Vi trùng học, Trường Viễn Đông Bác cổ, Nha
Khí tượng, Viện Nghiên cứu nông nghiệp và kỹ nghệ Sài Gòn, Trường Cao đẳng Y
khoa Hà Nội…
Những chính sách về văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp đã làm cho đời sống
xã hội và văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã có những chuyển biến.
10
Nền giáo dục mới không chỉ làm xuất hiện một đội ngũ trí thức Tây học am hiểu
nhiều lĩnh vực chính trị, tư tưởng, triết học, văn học nghệ thuật phương Tây, mà còn
tác động tới cả một bộ phận trí thức phong kiến cũ, biến họ trở thành những trí thức
phong kiến tư sản hóa. Trong điều kiện của một xã hội thuộc địa, chính tầng lớp trí
thức vừa mới vừa cũ này đã trở thành lực lượng quan trọng trong việc tiếp thu và
truyền bá những tư tưởng mới trong nhân dân, chống lại hệ tư tưởng phương Đông
đã lỗi thời, lạc hậu. Tuy vậy, thực dân Pháp vẫn tìm cách tuyên truyền một nền văn
hóa lai căng, mị dân. Thống sứ Bắc Kỳ trong báo cáo ngày 1-3-1899 gửi Toàn
quyền Đông Dương, viết: “Kinh nghiệm của các dân tộc châu Á khác đã chỉ rõ
rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột”
[55, tr. 109].
Về xã hội
Dưới tác động của các chính sách của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội Việt Nam có
sự biến chuyển sâu sắc: những giai cấp cũ bị phân hóa và xuất hiện thêm những giai
cấp mới.
Hai giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất phong kiến là địa chủ và nông
dân đã có sự phân hóa mạnh mẽ. Trong khi giai cấp địa chủ với khuynh hướng tư
sản kiêm địa chủ, đặc biệt là tầng lớp đại địa chủ Nam Kỳ ngày càng giàu có, thì
nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hóa và phá sản hàng loạt bởi chính sách
chiếm đoạt ruộng đất của thực dân và địa chủ cũng như chính sách tô thuế nặng nề
của Pháp.
Sự thay đổi quan trọng nhất trong cơ cấu xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX là sự
xuất hiện của các tầng lớp và giai cấp mới đại diện cho phương thức sản xuất mới tư
bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ trước Chiến tranh thế giới I
đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Trong những năm 1925 -
1930, do những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, giai cấp công nhân đã có sự chuyển mình nhanh
chóng. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu thời kỳ mới trong
lịch sử cách mạng nước ta. Những hoạt động tích cực của Đảng Cộng sản Việt Nam
(sau là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào yêu
11
nước và cách mạng ở Việt Nam từ sau năm 1930.
Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp vào Việt Nam cũng làm xuất hiện giai
cấp tư sản và tiểu tư sản. Tuy nhiên, tư sản Việt Nam bị tư sản nước ngoài chèn ép
nên có nhiều hạn chế về thực lực kinh tế và ý thức chính trị. Tiểu tư sản Việt Nam
bao gồm những nhà tiểu công nghệ (thợ thủ công), tiểu thương, học sinh, sinh
viên… So với công nhân và nông dân, giới trí thức và công chức có thu nhập và đời
sống vật chất dễ chịu hơn, nhưng vẫn bấp bênh và bị khinh rẻ. Cùng với quá trình
phát triển của kinh tế xã hội và quá trình đô thị hóa, tiểu tư sản ngày một đông,
trong đó, giới trí thức chiếm một bộ phận đông đảo. Họ là những người năng động,
nhạy cảm với thời cuộc, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá những tư
tưởng tiến bộ đến nhân dân.
Cũng dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa, ở nước ta đã diễn ra quá
trình đô thị hóa khá mạnh mẽ. Các giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản tập trung
ngày càng đông đảo ở thành thị chính là cơ sở cần thiết cho việc truyền bá những tư
tưởng mới, lối sống mới vào Việt Nam.
1.2. Quê hương, dòng họ và gia thế của Bùi Kỷ
Cuộc sống của mỗi cá nhân luôn chịu sự tác động của môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội. Nói cách khác, quê hương, dòng họ, gia đình chính là nơi nuôi
dưỡng tạo dựng nhân cách mỗi con người. Đó đã là một quy luật không thể phủ
nhận. Bởi vậy, khi tìm hiểu về danh nhân Bùi Kỷ, không thể không xét đến truyền
thống lịch sử của quê hương Châu Cầu, rộng hơn là huyện Kim Bảng rồi tỉnh Hà
Nam cũng như nền giáo dục của gia đình. Những yếu tố đó hẳn có ảnh hưởng nhất
định tới việc hình thành ý thức tự học, tình yêu quê hương, đất nước của Bùi Kỷ.
1.2.1. Xã Châu Cầu, huyện Kim Bảng - Quê hương của Bùi Kỷ
Hà Nam là vùng đồng bằng chiêm trũng với hệ thống sông ngòi dày đặc gồm
các con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Châu Giang, sông Nhuệ… Điều
kiện tự nhiên như vậy đã tạo cho Hà Nam những thuận lợi trong canh tác nông
nghiệp, mà nghề trồng lúa nước là rất phổ biến. Ngoài ra, nhờ gần sông, đất được
bồi đắp phù sa nên người dân còn sớm tìm kiếm các cây trồng, ngành nghề khác để
bổ trợ cho nông nghiệp lúa nước như trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, nghề chài
12
lưới... Mặt khác, Hà Nam còn được xem là cửa ngõ phía nam của kinh thành Thăng
Long xưa, là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Thăng Long và các tỉnh phía
Nam của đồng bằng Bắc Bộ.
Theo các tài liệu lịch sử, Hà Nam là một vùng đất cổ. Tại đây, các nhà nghiên
cứu đã phát hiện được trống đồng cổ, còn nguyên vẹn và có nhiều giá trị nghệ thuật
thuộc văn hóa Đông Sơn. Điều đó chứng tỏ, ngay từ rất sớm, đã có một bộ phận
người Việt cổ từ thượng lưu sông Hồng xuôi về đây sinh sống, hình thành các vùng
dân cư. Trong lịch sử, Hà Nam đã trải qua quá trình biến đổi liên tục về hành chính,
trong đó, vùng đất Châu Cầu của huyện Kim Bảng xưa - quê hương của Bùi Kỷ
cũng có những thay đổi nhất định.
Kim Bảng thời các vua Hùng có tên là Cổ Bàng nằm trong quận Vũ Bình thuộc
bộ Giao Chỉ. Đến đời Trần, Kim Bảng thuộc châu Lỵ Nhân, lộ Đông Đô. Năm
1466, Lê Thánh Tông đổi tên Cổ Bàng là Kim Bảng thuộc phủ Lỵ Nhân của Sơn Nam thừa tuyên1. Cuối thế kỷ 15, Thừa tuyên được đổi thành Xứ, phủ Lỵ Nhân
thuộc xứ Sơn Nam. Đến thế kỉ XVIII, triều đình bỏ Xứ đặt Lộ thì phủ Lỵ Nhân
thuộc lộ Sơn Nam Thượng. Thời Tây Sơn (1788-1802), đổi Lộ thành Trấn, phủ Lỵ
Nhân thuộc trấn Sơn Nam. Dưới thời Gia Long, phủ Lỵ Nhân thuộc trấn Sơn Nam
Thượng. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi cách viết chữ Lỵ thành chữ Lý. Năm
1831, vua Minh Mệnh tiến hành cải cách hành chính, Sơn Nam Thượng đổi làm
tỉnh Hà Nội và Nam Định, phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội [85, tr. 29]. Mãi cho đến năm 1890 (đời vua Thành Thái), tỉnh Hà Nam2 mới được thành lập, bao gồm 5
huyện: Nam Xương (Nam Sang), Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Kim Bảng. Năm 1908, châu Lạc Thủy được sáp nhập vào tỉnh Hà Nam3.
Xã Châu Cầu trước cuộc cải cách của vua Minh Mệnh thuộc tổng Phù Đạm,
huyện Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng. Xã Châu Cầu nằm ở bên bờ
1 Năm 1466, Lê Thánh Tông chia nước ta làm mười hai đạo Thừa tuyên.
2 Về tên gọi Hà Nam, nhiều người cho rằng, vì nằm ở phía Nam của Hà Nội nên được đặt tên là Hà Nam. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, do nằm xen giữa hai tỉnh Hà Đông và Nam Định nên khi tách ra được gọi là Hà Nam.
3 Từ năm 1953, Lạc Thủy được chuyển lại cho tỉnh Hòa Bình.
13
đê Quai Mễ, cạnh sông Châu Giang. Phía đông giáp với xã Mễ Tràng (huyện Thanh
Liêm), phía tây giáp với sông Châu Giang, phía nam giáp xã Hùng Phú và phía bắc
gần giáp với xã Lạc Trường [91, tr. 1]. Sau cải cách hành chính của vua Minh Mệnh
năm 1831, xã Châu Cầu thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh
Hà Nội.
Năm Thành Thái thứ 2 (1890), khi tỉnh Hà Nam được thành lập, xã Châu Cầu
trực thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng. Năm 1913, tỉnh Hà Nam đổi tên là Đại lý Hà Nam, trực thuộc tỉnh Nam Định4. Năm 1923, tỉnh Hà Nam được tái lập và đến
năm 1926, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ đã tiến hành thống kê hành chính, thì xã Châu
Cầu thuộc tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Lúc này, Châu Cầu
gồm ba thôn là Bảo Thị, Quy Lưu và Tân Khai [29, tr. 311]. Năm 1928, Ngô Vi
Liễn khi đó là Tham tá Sở Thư viện và Lưu trữ Trung ương đã cho phát hành cuốn
Danh mục các làng xã Bắc Kỳ, cho rằng làng Châu Cầu thuộc xã Mễ Tràng, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam [56, tr. 55].
Năm 1933, xã Châu Cầu đổi thành Thị xã và 4 thôn cũ lần lượt được đổi thành 4
phố tương ứng là Bảo Thôn, Thi Thôn, Quy Lưu và Tân Khai [109, tr. 2]. Ngày 30-
11-1950, Thủ hiến Bắc Việt ra Nghị định số 6537- THP/NĐ hợp nhất hai xã Châu
Cầu và Hùng Phú thuộc tổng Mễ Tràng thành xã Châu Hùng [65, tr. 859]. Đến năm
1965, xã Châu Cầu thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Nam Hà [65, tr. 859]. Năm 1977, tỉnh Hà Nam Ninh5 được thành lập, xã Châu Cầu thuộc huyện Kim Thanh trên cơ
sở hợp nhất hai huyện Thanh Liêm, Kim Bảng và thị xã Phủ Lý. Năm 1981, khi hai
huyện Thanh Liêm và Kim Bảng được tách về như cũ thì xã Châu Cầu thuộc huyện
Thanh Liêm. Năm 1991, khi tỉnh Hà Nam Ninh được tách thành 2 tỉnh Nam Hà và
Ninh Bình như cũ thì Châu Cầu thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Nam Hà. Đến năm
1997, khi tái lập tỉnh Hà Nam thì xã Châu Cầu thuộc huyện Thanh Liêm. Hiện nay,
Châu Cầu là tên một con phố thuộc phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam [65, tr. 859]. Theo ông Bùi Cộng Hòa, Tổng Thư ký Ban liên lạc dòng
họ Bùi Mễ Tràng - Châu Cầu, người dân sinh sống ở khu vực phố Châu Cầu hiện
5 Tỉnh Hà Nam Ninh được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình.
14
nay chủ yếu là người từ nơi khác đến, còn người dòng họ Bùi đã phiêu tán từ thời 4 Đại lý là một cấp hành chính lớn hơn huyện nhưng nhỏ hơn tỉnh.
kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, phần lớn là đến Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh.
Hà Nam nổi tiếng là quê hương xuất thân của nhiều nhân tài qua các thời kỳ lịch
sử như: Hoàng Thuần đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Dậu năm 1453
đời vua Lê Nhân Tông, Phạm Viết Tuấn đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa
Canh Tuất đời vua Lê Huyền Tông năm 1670, Bạch Đăng Ôn đỗ Hoàng giáp đời
Minh Mệnh năm 1835, Vũ Duy Tuân đỗ Hội nguyên khoa Mậu Thìn đời Tự Đức
năm 1868, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến năm 1871… Đối với tên gọi Kim Bảng, theo tác giả Lại Quang Phục6, có nghĩa là cái bảng mới, cái bảng vàng ở trên
đó ghi tên các sĩ tử đỗ đạt (đăng khoa) trong các kỳ thi do các triều đại phong kiến
tự chủ Đại Việt xưa tổ chức, lựa chọn. Đó là sự khao khát đỗ đạt để tiến thân bằng
con đường khoa bảng (học vấn) [118]. Như vậy, việc thay đổi tên huyện Kim Bảng
đời vua Lê Thánh Tông có lẽ cũng vì dụng ý đó. Tên gọi Kim Bảng với ý nghĩa như
vậy đã tác động, làm thay đổi nếp nghĩ, nhận thức của người dân nơi đây, chú tâm
vào việc rèn luyện, đào taọ nhân tài, mong muốn cho con cháu thông minh, cần cù
ham học, làm lợi cho quê hương, đất nước. Đặc biệt, ngoài dòng họ Bùi, xã Châu
Cầu xưa cũng nổi tiếng với nhiều dòng họ hiếu học như họ Lương, họ Trần…
1.2.2. Khái quát về dòng họ Bùi và gia thế của Bùi Kỷ
Thủy tổ dòng họ Bùi của Bùi Kỷ là Bùi Viết Cung, quê gốc ở xã Triều Đông,
huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay là thôn Triều
Đông, xã Tân Minh, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội). Theo các cụ thuộc hậu duệ họ
Bùi giải thích, “thôn Triều Đông” tức là thôn có đông người làm quan trong triều.
Từ đầu thế kỷ XVIII, cụ Bùi Viết Cung đã về bến Mễ, thôn Thượng, tổng Mễ
Tràng, huyện Thanh Liêm, phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng lập nghiệp. Theo
gia phả của dòng họ, cụ Bùi Viết Cung sắm được thuyền đi buôn muối từ biển về,
mang hàng gốm sứ, lương thực thực phẩm xuống trao đổi giao thương. Khi Tây Sơn
phất cờ khởi nghĩa, cụ đã dùng thuyền của mình chuyên chở lương thực cho nghĩa
6 Lại Quang Phục sinh ngày 22-8-1953 tại xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định.
15
quân nên được triều đình nhà Lê thụ phong hàm: Tướng sĩ lang Ích quang điện trị
sự. Cụ qua đời ngày 18-3-1786 và được con cháu đưa về Triều Đông an táng trên gò
Văn Chỉ phía nam lăng cụ Lý Tử Tấn. Từ bao đời nay, dòng họ Bùi vẫn còn truyền
nhau câu ca dao về gốc tích của mình:
Vốn xưa Tổ ở Triều Đông
Thuận buồm xuôi gió tới dòng sông Châu
Thoạt tiên bến Mễ đỗ đầu
Thái Bình xuôi ngược bấy lâu cùng người
Cơ duyên đâu cũng bởi trời
Sông Châu, bến Mễ định nhời phân cư [4, tr. 2]
Sinh thời cụ Bùi Viết Cung là người thông minh khoáng đạt, có chí tiến thủ nên
cụ đã kết giao với hào mục trong làng, sớm định hướng nghề nghiệp cho hai con
trai. Con trưởng của cụ là Bùi Viết Kính nhập tịch vào thôn Thượng, tổng Mễ
Tràng, huyện Thanh Liêm (nay là thôn Mễ Tràng, xã Liêm Chính, thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam) là tổ chi Giáp của họ Bùi Mễ Tràng. Con trai thứ Bùi Viết Quý
nhập tịch xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng (nay là phố Châu Cầu,
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam) là tổ chi Ất của họ Bùi Châu Cầu.
Dòng họ Bùi Châu Cầu nổi tiếng là dòng họ có truyền thống tự trọng, hiếu học,
yêu nước. Nhiều người thuộc dòng họ Bùi Châu Cầu đã đỗ đạt, làm quan phục vụ
đất nước. Bùi Viết Quý làm một quan nhỏ trong quân đội, cụ sinh được 6 người
con, trưởng nam Bùi Hữu Sỹ làm chức Huyện thừa. Cụ Bùi Hữu Sỹ có 6 người con,
trong đó, rạng danh nhất là con trai thứ tư Bùi Viết Phố, làm Kỳ lại kiêm Hội Lão
văn hội. Bùi Văn Hanh, người con trai thứ tư của Bùi Viết Phố, và cũng là cụ (theo
quan hệ dòng tộc) của danh nhân Bùi Kỷ được triều Nguyễn truy tặng “Hàn lâm
viện, Thị độc học sĩ”. Đặc biệt, ông nội của Bùi Kỷ là Bùi Văn Quế (đời 6) sinh
năm 1837, đỗ Cử nhân năm 1864, đỗ Phó bảng năm 1865 khi mới 29 tuổi. Từ năm
1868 - 1875, Bùi Văn Quế giữ chức Tri huyện, rồi Tri phủ. Tới năm 1876, ông về làm quan ở bộ Hộ7, đến năm 1879 thì được vua Tự Đức ban sắc khen ngợi: “Hỡi
16
người Hồng Lệ Tự khanh... Bùi Văn Quế dáng điệu nho nhã, tướng mạo hiên 7 Bộ Hộ là một trong những cơ quan cao cấp trong Lục Bộ thời phong kiến, chịu trách nhiệm các việc đất đai, hộ khẩu, kho tàng, tiền tệ, lương thực và các việc bổng lộc, thuế khóa, cống nộp, muối mắm, gang sắt trong nước, bình chẩn việc phát ra, thu vào để điều hòa của cải của nhà nước.
ngang... đủ mọi tài văn họa, chính sự, làm việc gì cũng nên, phục chức lâu ngày,
hành sự chặt chẽ...; khen thay tài làm việc của người nên thưởng công, nay đặc
cách thăng thu cho người hàm “Gia Nghi đại phu Hữu thị lang bộ Hộ” [66, tr. 384].
Năm 1880, Bùi Văn Quế là quan Duyệt Quyển chấm thi tiến sĩ. Đến tháng 3-1881,
ông được vua Tự Đức trọng dụng, bổ nhiệm chức Tuần phủ 4 tỉnh Quảng Nam -
Quảng Ngãi - Bình Thuận - Khánh Hòa. Nhờ có Bùi Văn Quế, một vị quan thanh
liêm, cương trực, tài đức nên dân tình 4 xứ đều ổn định. Nhưng khi đất nước bị rơi
vào tay thực dân Pháp, cụ đã dâng sớ xin cáo quan về quê dạy dỗ con cái, mở hiệu
thuốc, sống cuộc sống giản dị, chan hòa. Cụ Bùi Văn Quế mất ngày 9-1-1913, thọ
76 tuổi.
Cùng kỳ thi Đình với cụ Bùi Văn Quế năm 1865 có cụ Bùi Văn Dị8, người anh
con bác trong nội tộc, đỗ Phó bảng. Vì vậy, dân gian đã có câu đối mừng hai cụ:
Bùi thị đồng khoa song Hội bảng
Châu Cầu nhất nhật lưỡng vinh quy
Tạm dịch là:
Họ Bùi hai người cùng đỗ một khoa thi Hội
Làng Châu Cầu, một ngày đón vinh quy hai cuộc [28, tr. 8]
Cụ thân sinh của Bùi Kỷ là Bùi Thức (1859 - 1915), con trưởng của cụ Bùi Văn
Quế. Cụ Bùi Thức từ nhỏ đã nổi tiếng chăm học, đỗ cử nhân năm 27 tuổi (1886) và
đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp năm 1898 lúc 40 tuổi. Theo gương cha, dù hai lần được triều
đình nhà Nguyễn mời ra làm quan nhưng Bùi Thức đều cương quyết từ chối. Cụ ở
nhà phụng dưỡng cha mẹ, dạy dỗ các con, đồng thời mở trường dạy học và viết
sách. Cụ Bùi Thức vốn văn hay, dạy giỏi nên trường của cụ đã thu nạp đông đảo
học trò gần xa. Nhiều người trong số đó đã đỗ đạt như: cử nhân Phan Duy Tiếp
(Sơn Tây), cử nhân Văn Lâm (Thanh Liêm), Kép Trà Hoàng Thụy Phương (Duy
8 Bùi Văn Dị (1832 - 1895) tức Bùi Ân Niên, người xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội. Bùi Văn Dị làm quan đến Nhất phẩm nên được truy tặng Triều liệt đại phu, Hàn lâm viện thị giảng học sỹ, Thụy linh ứng phủ quân.
17
Tiên) ...
Như vậy, họ Bùi Châu Cầu của Bùi Kỷ đã sớm đi theo con đường học hành thi
cử, đỗ đạt làm quan, có tiếng nói tại địa phương. Khen cho truyền thống hiếu học đó
của dòng họ Bùi Châu Cầu, vua Tự Đức đã có chiếu ban rằng:
Thiên hạ đệ nhất Gia
Tam đại đồng đường đạt đại khoa [21, tr. 2]
Cũng theo địa lý địa phương, vùng Hà Nam có hai thế đất: một là thế Khuyên
Ngọa ở Đồng Mễ, hai là thế Ngũ Mã Thành quân ở đồng Châu Cầu. Thế đất ở Châu
Cầu trong sách vở sau này thường ghi là kiểu Giáp Khoa:
Mưa bay ngoài cửa thần đồng hiện
Trăng chiếu bên sông ngọc nữ truyền
Bằng có sóng to vòng trước án
Cha con khoa Giáp nối liền liền... [66, tr. 383]
Cụ Bùi Thức sinh được tất cả 8 người con. Bùi Kỷ là con trai lớn của cụ Bùi
Thức. Bùi Kỷ có 5 người em trai là Bùi Khải, Bùi Lương, Bùi Xâm, Bùi Nam, Bùi
Nhung; chị gái Bùi Thị Dậu và em gái là Bùi Thị Tuất. Bà Bùi Thị Tuất về sau lấy
chồng là nhà chính trị Trần Trọng Kim.
Theo các cuốn như Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quang Thắng
và Nguyễn Bá Thế, Từ điển văn học (bộ mới) của Đỗ Đức Hiểu, Từ điển địa danh
văn hóa lịch sử Việt Nam của Nguyễn Như Ý (cb), Lược truyện các tác gia Việt
Nam (tập 2) của Trần Văn Giáp, Văn thơ của Ưu Thiên Bủi Kỷ của Lê Tư Lành, Thơ
văn Bùi Kỷ của Nguyễn Văn Huyền, Bùi Kỷ sinh năm Đinh Hợi 1887. Tuy nhiên,
cuốn Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn của Phạm Đức Thành Dũng -
Vĩnh Cao (cb) thì lại cho rằng ông sinh năm 1888. Cuốn Quốc triều đăng khoa lục
của Cao Xuân Dục, cuốn Danh nhân họ Bùi của Bùi Xuân Ngật hay các cuốn Nhân
vật lịch sử văn hóa Hà Nam, Tuyển tập thơ Hà Nam, Tuyển tập văn Hà Nam của
Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam theo thuyết này. Như vậy, các tài liệu ghi chép
năm sinh của Bùi Kỷ không thống nhất. Sau khi khảo cứu các nguồn tư liệu, chúng
tôi cho rằng, các tác giả như Trần Văn Giáp, Lê Tư Lành đều là những người có
18
thời gian làm việc gắn bó với Bùi Kỷ nên sự hiểu biết về thân thế của Bùi Kỷ rõ
ràng hơn so với các tác giả khác. Cũng theo gia phả của dòng họ Bùi Mễ Tràng -
Châu Cầu và thân nhân gia đình cho biết, Bùi Kỷ sinh ngày 5-1-1887.
Về quê quán, hầu hết các tài liệu đều ghi Bùi Kỷ sinh tại Châu Cầu, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên, vào thời điểm Bùi Kỷ sinh (tức năm 1887),
xã Châu Cầu thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội.
Năm 1890, tỉnh Hà Nam được thành lập, và xã Châu Cầu mới chỉ được chuyển về
tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm đầu thế kỉ XX.
Dựa vào việc phân tích các nguồn tư liệu trên, có thể khẳng định: Bùi Kỷ tự là
Ưu Thiên, hiệu là Tử Chương, sinh ngày 5-1-1887 tại xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm,
huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội (nay là phố Châu Cầu, phường Lương
Khánh Thiện, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam).
Bùi Kỷ kết hôn với bà Lê Thị Sáu, con gái ông Tri phủ Ngái Trì và sinh được 5
người con là: Bùi Đen (mất sớm), Bùi Viêm (mất sớm), Bùi Anh, Bùi Thị Ngọc
Tiêu và Bùi Diễm. Về sau, Bùi Kỷ còn lấy thêm một vợ nữa tên là Trần Thị Quý
(bà Bảng Hai), người làng Tây Mỗ, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nhưng hai ông
bà không có con chung.
1.3. Quá trình lập thân của Bùi Kỷ
Bối cảnh lịch sử của đất nước, truyền thống của quê hương, dòng họ chính là
chất xúc tác cho quá trình phấn đấu, lập thân của Bùi Kỷ sau này.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Châu Cầu, trong một gia đình có truyền thống
khoa bảng nên từ nhỏ, Bùi Kỷ đã được tiếp nhận vốn kiến thức Nho học sâu rộng từ
ông nội Bùi Văn Quế và người cha là Bùi Thức. Ngoài ra, cũng giống như nhiều trí
thức khác của giai đoạn này, ông đã chịu sự ảnh hưởng của hai nền giáo dục: Giáo
dục Nho học và giáo dục Pháp - Việt, nên ngoài học chữ Nho, Bùi Kỷ còn tích cực
tìm học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Vốn là những người có học thức nên cha cũng
như ông nội của Bùi Kỷ hoàn toàn ủng hộ, tạo điều kiện cho Bùi Kỷ đi theo con
đường học hành thi cử. Hơn nữa, truyền thống hiếu học của quê hương, dòng họ
cũng khuyến khích “cậu ấm” Bùi Kỷ nỗ lực học tập, rèn luyện thành tài.
Ngày 31-5-1906, vua Thành Thái ra Chỉ dụ cải cách thi Hương, thi Hội, đưa vào
19
chương trình một số môn thi mới như địa lý, pháp luật Đông Dương, chính trị, luận
chữ Hán, luận Quốc ngữ, dịch từ tiếng Pháp sang Quốc ngữ. Do có cả vốn kiến thức
Nho học và Tây học nên trong lần đầu dự thi năm 1909, Bùi Kỷ đã vượt qua nhiều
sĩ tử khác để trở thành một trong số 50 Cử nhân của khoa thi tại trường thi Hà Nam. Năm 1910, ông vào Huế thi Hội và thi Đình, và đỗ Phó bảng khi mới 23 tuổi9. Sau đó, Bùi Kỷ được bổ dụng chức Huấn đạo10, nhưng ông từ chối, lấy cớ là phải ở nhà
phụng dưỡng cha và ông nội đều đã già yếu.
Tuy vậy, với trình độ cùng với danh tiếng của gia đình, Bùi Kỷ đã xin được vào
học Trường Thông ngôn và đến tháng 2-1911, ông đã sang Pháp học tại Trường Thuộc địa (Ecole coloniale)11. Nhân dịp này ông đi nhiều nơi trong nước Pháp và
các nước lân cận; ông cũng có dịp tiếp xúc với một số người Việt yêu nước và cách
mạng đang lưu ngụ ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh. Sau khi tốt nghiệp tại
Pháp và được nhận bằng Thành chung (Brevet), ông trở về nước. Dù được Tòa Thống sứ Bắc Kỳ cử giữ chức Tuần phủ12 nhiều lần nhưng ông đều từ chối. Bùi Kỷ
không làm quan mà quyết định kinh doanh thực nghiệp, ông tổ chức cho gia đình
mình sản xuất hàng thủ công xuất khẩu (bông vải, tre đan) nhưng tiếc là không đạt
được kết quả khả quan.
Sau khi ông nội và cha qua đời (vào các năm 1913, 1915), ông sang Quảng Châu
9 Thi Đình năm 1910, quan Duyệt quyền là Lễ bộ Thị lang Mai Dực, Phủ doãn phủ Thừa thiên Từ Thiệp. Kỳ thi này có những thay đổi lớn về đề thi, nội dung đề thi, cách chấm thi so với trước. Theo đó: 20 điểm (Trạng nguyên), 18-19 điểm (Bảng nhãn), 16-17 điểm (Thám hoa), 13-14-15 điểm (Hoàng giáp), 10-11-12 điểm (Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân), 7-9 điểm (Phó bảng). Kết thúc kỳ thi, triều đình nhà Nguyễn lấy đỗ 19 phó bảng và 4 Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.
10 Huấn đạo là viên học quan trông coi việc học hành tại phủ, huyện, châu. Lệ thuộc quan Bản khảo, Khảo hạch các sinh đồ, rèn tập các học sinh. Thời Nguyễn năm Gia Long thứ 2 (1803) bắt đầu đặt chức Huấn đạo ở các huyện, phẩm cấp cho ba hạng: hạng Nhất (Chánh thất phẩm), hạng Nhì (Tòng thất phẩm), hạng Ba (Chánh bát phẩm Văn ban).
11 Trường Thuộc địa do Auguste Pavie thành lập năm 1885 nhằm đào tạo 13 thanh niên Khmer được đưa sang Pháp. Từ năm 1889 trở đi Trường trở thành nơi đào tạo các viên chức Pháp để đưa đi cai trị các thuộc địa và từ năm 1896 trở đi sinh viên phải qua thi tuyển để vào như các trường lớn khác. Do nguồn gốc thành lập, Trường vẫn duy trì một ngạch bản xứ dành cho các thanh niên được Phủ Toàn quyền Đông Dương đặc biệt cấp học bổng gửi sang Pháp.
12 Tuần phủ là chức quan thuộc hàng Đốc phủ các tỉnh thời Nguyễn (quan đầu tỉnh). Tại một số tỉnh, các quan này kiêm lĩnh cả ấn triện Bố chính, Án sát. Thời Gia Long còn đặt chức Lưu thủ, Trấn thủ. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), bỏ các chức này mà đặt Tổng đốc, Tuần phủ.
20
(Trung Quốc) hai năm. Về nước khi đã 30 tuổi, từ năm 1917, ông ra Hà Nội dạy
học. Ông dạy tại các trường Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng Pháp chính theo lối ký
hợp đồng từng năm chứ không vào biên chế viên chức của “nhà nước bảo hộ”.
Ngoài ra từ năm 1932, ông còn dạy cho hai trường tư thục là Văn Lang và Thăng
Long. Bên cạnh đó, ông tích cực biên khảo, sáng tác, cộng tác với một số tờ báo ở
Hà Nội như Nam Phong tạp chí, Khai Trí Tiến Đức tập san, Trung Bắc tân văn...
Ông còn hăng hái tham gia các hoạt động văn hóa xã hội của giới trí thức Hà thành
như: Lễ truy điệu chí sĩ Phan Chu Trinh ở Hà Nội (1926), phong trào truyền bá chữ
Quốc ngữ (1938 – 1945)…
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Bùi Kỷ là một trong số những nhân sĩ trí
thức được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tin tưởng giao nhiều trọng trách.
Năm 1945, ông được Chính phủ mời giảng dạy cho sinh viên của Đại học Văn khoa
mới được thành lập. Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bùi Kỷ làm Ủy viên nhân
dân Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 3, Hội trưởng Chi hội Liên Việt Liên
khu 3, Hội trưởng Hội Văn hóa kháng chiến Liên khu 3. Sau khi hòa bình lập lại,
ông là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy
viên Ủy ban bảo vệ hoà bình thế giới, Hội trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị. Với
những đóng góp to lớn cho cách mạng, Bùi Kỷ đã được chính phủ tặng Huân
chương kháng chiến hạng Nhất. Ông mất ngày 19 tháng 5 năm 1960 tại Hà Nội, thọ
73 tuổi. Mộ của ông được xây cất tại Nghĩa trang Yên Kỳ, xã Phú Sơn, huyện Ba
Vì, Tp. Hà Nội.
Tiểu kết chương 1
Đầu thế kỉ XX, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc về tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh đó, phủ Lý Nhân (từ năm 1890 là tỉnh Hà Nam)
cũng chịu sự thống trị của thực dân Pháp, đứng đầu là Thống sứ Bắc Kỳ. Cho đến
đầu thế kỉ XX, một số thanh thiếu niên ở Hà Nam, ngoài nền giáo dục Nho học còn
được tiếp xúc với nền giáo dục Pháp - Việt.
Trong điều kiện chung đó của đất nước, lại được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
21
Châu Cầu, trong một gia đình có truyền thống hiếu học, nên ngay từ nhỏ, Bùi Kỷ đã
có ý thức học tập. Bùi Kỷ tích cực học chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Nhờ
đó, ông đã đỗ Cử nhân năm 1909, rồi đỗ Phó bảng năm 1910. Mặc dù đỗ đạt nhưng
trước thực tế đất nước đã mất độc lập vào tay thực dân Pháp, lại chịu sự ảnh hưởng
con đường hoạn lộ của ông nội Bùi Văn Quế và cha Bùi Thức, Bùi Kỷ đã mạnh dạn
từ chối làm quan dưới triều Nguyễn cũng như chính quyền thực dân Pháp.
Từ đầu thế kỉ XX, ông đã tham gia vào các hoạt động giáo dục – văn hóa rồi
từng bước dấn thân vào con đường cách mạng, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp
22
văn hóa kháng chiến và kiến quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG CỦA BÙI KỶ TRÊN LĨNH VỰC
VĂN HÓA – GIÁO DỤC
2.1. Người thầy tâm huyết với sự nghiệp giáo dục
Năm 1910, vượt qua nhiều thí sinh khác, Bùi Kỷ đỗ Phó bảng và trở thành một
trong số 23 vị đại khoa của kì thi Đình do nhà Nguyễn tổ chức. Hầu hết các nho sĩ
đỗ đạt cùng đợt với ông đều ra làm quan phục vụ triều đình như: Tiến sĩ Vương
Hữu Phu (người Nghệ An) giữ chức Thừa chỉ trường Hậu bổ, Tiến sĩ Nguyễn Hàm
(người Quảng Trị) giữ chức Thừa chỉ, Tòng sự trường Hậu bổ, Phó bảng Nguyễn
Hồi (người Hà Tĩnh) làm Tri huyện Nam Đàn, Phó bảng Vũ Hành (người Quảng
Nam) làm Tri phủ Hàm Thuận... Còn Phó bảng Bùi Kỷ lại từ chối chức Huấn đạo,
một quyết định trái hắn với lệ thông thường vào thời đó. Lý do trực tiếp đưa đến
quyết định này của Bùi Kỷ chính là vì ông nội và cha đã già yếu, nhưng nguyên
nhân sâu xa là do ông không muốn làm quan trong hoàn cảnh đất nước đã bị thực
dân Pháp đô hộ. Cũng cần thấy rằng, khước từ làm quan đã là “nếp nhà” từ ông nội
Bùi Văn Quế đến cha Bùi Thức, nên quyết định của Bùi Kỷ được gia đình tán
thành.
Sau 2 năm du học ở Pháp, mặc dù đỗ bậc Thành Chung và được Tòa Thống sứ
Bắc Kỳ cử giữ chức Tuần phủ nhiều lần nhưng ông đều từ chối. Điều này một lần
nữa khẳng định tâm nguyện của ông muốn sống một cuộc đời thanh bạch, không
màng tới quyền chức, danh lợi. Có thể nói, việc hai lần từ chối con đường “hoạn lộ”
đã tạo ra ngã rẽ quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của ông. Hòa mình vào
phong trào thực nghiệp đang sôi nổi của trí thức Việt Nam những năm đầu thế kỉ
XX, Bùi Kỷ quyết định bước vào con đường kinh doanh thực nghiệp. Nhưng do
hoạt động sản xuất kinh doanh không đạt được kết quả, lại có những hoài bão riêng,
nên năm 1915, ông đã đi sang Trung Quốc mong tìm một hướng đi phù hợp. Trở về
nước vào năm 1917, với trình độ học vấn sâu rộng, Bùi Kỷ hoàn toàn có thể nghĩ tới
những vị trí nghề nghiệp cao trong xã hội. Tuy nhiên, là người thích phóng khoáng,
ưa hoạt động tự do nên ông đã chọn nghề sư phạm.
Thời gian đầu sau khi từ Trung Quốc trở về, ông đã tổ chức dạy học ngay tại quê
23
nhà. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut thực hiện cải cách giáo
dục, cho phép tăng các trường học cũng như số lượng học sinh, sinh viên theo học.
Trong điều kiện đó, Bùi Kỷ đã quyết định rời quê hương Hà Nam ra Hà Nội dạy học. Ông dạy Hán văn và Việt văn tại Trường Cao đẳng Pháp chính13 và Cao đẳng Sư phạm14. Mặc dù mỗi tuần các trường chỉ tổ chức dạy Việt văn vài giờ học nhưng
các buổi học của thầy Bùi Kỷ vẫn để lại ấn tượng sâu sắc đối với các thế hệ học trò,
đặc biệt là đối với sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Đây là ngôi
trường được thành lập tại Hà Nội năm 1917, chuyên đào tạo giáo viên trong đó có
ngành văn khoa cho bậc trung học. Trong thời gian đầu hoạt động của Trường,
giảng viên phần lớn là người Pháp, Bùi Kỷ lúc đó là giảng viên người Việt duy nhất. GS. Nguyễn Lân15 nhớ lại: Trường “có tất cả 13 giáo sư, mà chỉ có một người
Việt Nam là cụ Phó bảng Bùi Kỷ ”[54, tr. 12].
Ngoài việc giảng dạy tại các trường cao đẳng, từ khoảng năm 1932 trở đi, thầy
Bùi Kỷ còn tham gia giảng dạy ở các trường tư thục, trong đó gắn bó nhất với
Trường tư thục Thăng Long. Năm 1934, Hoàng Minh Giám cùng với một số nhà trí
thức đương thời như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Đặng Vũ Xích, Phạm Hữu Ninh,
Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Dương... thành lập "Hội mở mang nền tư thục". Tên
gọi này không mang tính chính trị nên Hội không bị chính quyền thực dân nghi
ngại. Thực chất, đây là tập hợp một số nhà trí thức có tinh thần yêu nước và có thái
độ phản kháng đối với chế độ thực dân đương thời. Họ quyết định mở trường dạy
học để từ đó truyền bá tư tưởng của mình cho các trí thức trẻ. Vì vậy, nhóm bàn với
Phạm Hữu Ninh khi đó đang là Hiệu trưởng Trường tư thục Thăng Long tiến hành
13 Trường Hậu bổ được thành lập tại Hà Nội từ năm 1903, đến năm 1912 thì đổi tên thành Trường Sĩ hoạn, đến năm 1917 thì được đổi tên lần nữa thành Trường Pháp chính Đông Dương. Mục đích của Trường này là nhằm đào tạo quan lại theo “ngạch Tây”. Người theo học Trường này sau khi tốt nghiệp sẽ được bổ chức Tham biện (tức chuyên viên hành chính cao cấp) làm việc tại tòa Công sứ (tỉnh), tòa Khâm sứ (Trung Kỳ), tòa Thống sứ (Bắc Kỳ) hoặc tại dinh Toàn quyền Đông Dương.
14 Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương được thành lập năm 1917, có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giáo viên giảng dạy các trường trung học.
15 Nguyễn Lân (1906 –2003) là nhà giáo, nhà biên soạn từ điển, nhà văn. Ông là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa Tâm lí học, Giáo dục học của hệ thống các trường sư phạm ở Việt Nam.
24
mở mang hoạt động của Trường, nâng từ bậc Thành chung lên bậc Tú tài. Về sau,
Hoàng Minh Giám lên làm Hiệu trưởng, đã mời nhiều trí thức yêu nước đến tham
gia giảng dạy như Phan Thanh, Nguyễn Bá Húc, Phan Mỹ, Khuất Duy Các, Lâm
Đăng Dụ, Trương Đình Sửu, Vũ Bội Liên, Hoàng Như Tiếp, Vũ Như Trình, Võ
Nguyên Giáp...và có cả Phó bảng Bùi Kỷ. Điều này không có gì khó hiểu bởi Thầy
Bùi Kỷ vốn nổi tiếng là người có kiến thức uyên thâm, chuẩn mực mô phạm, tính
tình cương trực, yêu nước nên được Nhà trường hết sức tin tưởng.
Bùi Kỷ còn nổi tiếng bởi phong cách riêng. Trong lịch sử nền giáo dục Việt
Nam hơn mười thế kỉ, đã chứng kiến nhiều phong cách dạy học rất lạ thường, như
Thầy Sư Lộ có cách dạy học ngoài đường, Thầy Nhữ Phương dạy các môn khoa
học ít phổ biến, còn thầy Bùi Kỷ lại dạy theo lối ký hợp đồng từng năm chứ không
vào biên chế của Nhà nước bảo hộ. Như vậy, trước sau như một, Thầy vẫn muốn
được là người tự do, không muốn dính líu đến chính quyền thực dân Pháp cho dù
công việc dạy hợp đồng có phần bấp bênh hơn so với dạy biên chế.
Trên cương vị là một người thầy, Bùi Kỷ đã đem hết tài sức, trí tuệ của mình để
góp phần vào mục tiêu chung của toàn dân tộc. Ông đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp
trong lòng các thế hệ học sinh, sinh viên, đồng nghiệp. Thầy Hoàng Gia Lịnh, giáo
viên Trường tư thục Thăng Long từ năm 1938-1945 vẫn nhớ người bạn đồng
nghiệp Bùi Kỷ có tính tình hài hước, lại am hiểu nho giáo [75, tr. 74]. Còn đối với Vũ Ngọc Khánh16, Thầy Kỷ là một người lưu tâm giữ gìn nét văn hóa truyền thống
trong cách diện trang phục rất gần gũi, giản dị với “chiếc khăn đen đội đầu, cái áo
dài trắng, giữa bao nhiêu thầy giáo trẻ Âu phục chững chạc, hình ảnh thầy Bùi Kỷ
là hình ảnh con người nho nhã, ung dung, gợi nhớ đến những vị tôn sư thời nho
học...” [32, tr. 529]. Chính sự gần gũi, ân cần của thầy Kỷ đã giúp xóa tan khoảng
cách giữa thầy và trò. Cũng từ đó, ông thường tranh thủ về Hà Nội, đến thăm Thầy
và học Thầy.
Ông Hoàng Văn Môn17 có kể với chúng tôi câu chuyện mà ông được nghe người
16 Vũ Ngọc Khánh (1926 –2012), là một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đặc biệt là văn hóa dân gian.
17 Hoàng Văn Môn (Bắc Môn), Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam, là người có nhiều nghiên cứu về truyền thống lịch sử, văn hóa Hà Nam. Hiện, ông đang sống tại thành phổ Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
25
đời nói về thầy Bùi Kỷ như sau: Hồi thầy Bùi Kỷ còn giảng dạy tại Hà Nội, có tên
Chánh văn phòng phủ Thống sứ Bắc Kỳ tên là Alphonse theo học lớp Việt văn do
ông phụ trách, với ý đồ hòa nhập ngôn ngữ Việt để dễ bề cai trị, bóc lột người bản
xứ. Sắp tới kỳ thi mãn khóa, hắn có đến nói riêng với ông xin được giúp đỡ môn thi
vấn đáp. Thầy Bùi Kỷ nói với anh ta: “Vào kỳ vấn đáp, nếu tôi có hỏi gì, anh cứ
nhắc lại đúng câu tôi hỏi”. Đến khi anh này vào thi, thầy Kỷ đặt câu hỏi: “Em gái
của vợ gọi bằng gì?”. Oái oăm thay, anh này lúng túng không biết trả lời ra sao. Bị
trượt kỳ thi, anh ta mới đến gặp và trách cứ thầy Bùi Kỷ, thì thầy điềm tĩnh nhắc lại
câu mà thầy đã nói cho anh ta từ hôm trước. Từ đó, không ai dám đến xin điểm thầy
Bùi Kỷ nữa.
Theo tác giả, một phần vì nể viên quan Thống sứ, phần vì tình cảm thầy trò nên
Bùi Kỷ nhận lời giúp đỡ và đã đặt một câu hỏi kiểm tra đơn giản cho Alphonse. Tuy
vậy, qua việc đặt một câu hỏi “vừa dễ vừa khó” như vậy đối với một học sinh ngoại
quốc cho thấy sự nghiêm nghị mà cũng rất thâm thúy của thầy Bùi Kỷ, khiến học
trò dù có bị đánh trượt vẫn phải tâm phục khẩu phục.
Điều nổi bật nhất ở Thầy Bùi Kỷ chính là sự uyên thâm về Hán văn và Việt văn, nói như GS. Đặng Thai18 Mai thì thầy là bậc “Hán Pháp tinh thông”. Qua từng bài
giảng của thầy, bao thế hệ học sinh, sinh viên đã được vun đắp tình yêu đối với
tiếng Việt, với nền văn hóa dân tộc. Đó cũng chính là tâm nguyện, trăn trở lớn nhất
của Thầy bởi hơn ai hết, Thầy Kỷ hiểu rất rõ âm mưu nô dịch văn hóa của thực dân
Pháp tại các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam). Trong báo cáo tại Hội nghị
thuộc địa năm 1906 có đoạn viết: “Giáo dục là một công cụ chắc chắn và mạnh
nhất trong tay người đi chinh phục... Chúng ta (tức là người Pháp) phải làm cho họ
(tức là người Đông Dương) tiêm nhiễm tư tưởng của chúng ta, dạy cho họ biết tiếng
nói của chúng ta và, do đó, phải bắt đầu làm việc này từ nhà trường, trước hết là
cho trẻ em” [87, tr. 10]. Do vậy, nếu người Việt Nam không sáng suốt trong việc
đào tạo thế hệ trẻ thì rất dễ làm mất đi nền tảng căn bản, truyền thống cội nguồn của
dân tộc. Đối với Thầy, giảng dạy Việt văn và Hán văn lúc ấy là lựa chọn một
18 ĐặngThai Mai (1902 – 1984), là một nhà giáo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỉ XX.
26
phương tiện giúp cho các học trò sinh trưởng trong chế độ thực dân, đang đi vào
Tây học, có nguy cơ bị cắt đứt liên hệ với các giá trị tinh thần truyền thống của cha
ông, cũng là một cách duy trì, bồi dưỡng ý thức dân tộc cho họ. Có thể thấy, ở mặt
này, Bùi Kỷ có chung tư tưởng, cách nghĩ với Nguyễn Ái Quốc bởi Người từng
nêu: “Thực dân Pháp lại cố tâm hủy bỏ Hán học, vì chúng thấy là nguy hiểm cho sự
thống trị của chúng, vì chúng biết rằng, Hán học có thể đưa vào Việt Nam những tư
tưởng tiến bộ phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản...” [87, tr. 12].
Khi giảng dạy Việt văn, Bùi Kỷ không chỉ dạy cho sinh viên những kiến thức cơ
bản về lịch sử hình thành và quá trình phát triển của tiếng Việt, các phương pháp
nghiên cứu văn học Việt Nam một cách có hệ thống mà còn giáo dục cho họ ý thức
về trách nhiệm của người trí thức đối với việc giữ gìn tiếng mẹ đẻ. Về phần văn học
chữ Hán, trong khi nhiều nhà văn nước ta và một vài nhà nghiên cứu người Pháp
cho rằng, các tác phẩm của bao nhiêu nhà nho Việt Nam ngày xưa đều chỉ là những
thế phẩm của các thể loại văn chương Tàu, thì thầy Bùi Kỷ lại lưu ý các sinh viên
về tính độc đáo của một số nhà văn Việt Nam nổi tiếng hay chữ, nhất là về những
đề tài, những chủ đề có nội dung đặc sắc Việt Nam. Nhờ vậy, sinh viên đã bắt đầu
“chú ý đến văn thơ thời kì đầu của nhà Lý, nhà Trần, thời kỳ mà theo Cụ, nho giáo
chưa chiếm được địa vị độc tôn và học khoa cử chưa phải là “khuôn vàng thước
ngọc” của học thuật nước nhà” [60, tr. 272].
Nhờ sự uyên thâm cộng thêm phương pháp dạy học chủ động với lối dẫn dắt thu
hút mà mỗi giờ giảng của Thầy đều được học trò trông ngóng, yêu thích. Ông Võ Thuần Nho19, người từng học ở Trường tư thục Thăng Long đã viết về người thầy
dạy Việt văn của mình như sau: “Tôi nhớ mãi các bài giảng tiếng Việt như Truyện
Kiều, truyện Trê Cóc của cụ Bùi Kỷ. Tuy mỗi tuần chỉ có một hai giờ với Cụ mà sao
chúng tôi trông chờ giờ đó đến thế và sau mỗi giờ chúng tôi càng yêu mến tiếng
Việt, tiếng mẹ đẻ và càng thấy tính phong phú, trữ tình của tiếng Việt chúng ta…”
[28, tr. 13]. Ông Vũ Ngọc Khánh cũng dành cho thầy Bùi Kỷ sự kính phục: “Tôi
càng nhận ra vốn tri thức của thầy rất uyên bác, cả cổ kim đông tây, chứ không
phải chỉ riêng về nho học mà thôi. Thầy rất hiểu những từ cổ, mỗi lúc hỏi đến chữ
19 Nguyên Thứ trưởng Bộ giáo dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
27
nào là sẵn sàng giảng giải đến hàng giờ, nghe rất lý thú mà hào hứng” [32, tr. 529].
Nguyễn Văn Biên, một học sinh của Trường tư thục Thăng Long (niên khóa 1937-
1941) đã bồi hồi khi nhớ về môn lịch sử của thầy Võ Nguyên Giáp, chủ nghĩa nhân
văn và các quan điểm văn học tiến bộ của thầy Đặng Thai Mai. Đối với mảng tiếng
Việt và chữ nho của thầy Bùi Kỷ, ông nhận xét: “Các bài giảng của Cụ đã giúp tôi
cảm thụ được phần nào cái đẹp của tiếng Việt và thêm yêu mến nền văn học dân
tộc. Cụ đã gây trong tôi lòng hứng thú về các nền chính trị qua các thời đại, về các
ứng xử của người xưa, về cảm khái và tài hoa của các vị tiền bối. Đối với tôi đó là
một mạch kiến thức rất quý, góp phần đem lại trong tôi rất nhiều sự cân bằng giữa
hai miền Đông Tây, giữa cảm thụ văn học dân tộc và văn học nước ngoài” [5, tr.
288].
Không chỉ gây cho học sinh tình yêu nước qua từng bài giảng, Thầy Bùi Kỷ còn
tận dụng mọi cơ hội để truyền cho họ khát vọng đấu tranh và cống hiến. Biết một
học sinh tên là Bình (tức Phạm Duy Bình, học sinh Trường tư thục Thăng Long
niên khóa 1938-1942), Thầy Bùi Kỷ đã ghi vào sổ lưu niệm của học trò 6 chữ nho
“BÌNH THIÊN HẠ KHI BẤT BÌNH”. Đó là một cách gián tiếp thầy nhắc nhở cho
các học trò về trách nhiệm đối với đất nước giữa những ngày ngột ngạt,“một cổ hai
tròng” dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Sau này, Phạm Duy
Bình vẫn thường tự hào mỗi khi nhắc tới kỷ niệm quý báu đó: “Các bạn học trong
lớp được xem lời ghi cho tôi của thầy Bùi Kỷ đều trầm trồ khâm phục thầy: Đến
những ngày cuối khóa học sắp bế giảng mà thầy vẫn không bỏ lỡ dịp giáo dục, nhắc
nhở học sinh của mình” [5, tr. 314]. Cách giáo dục đó của thầy Kỷ tưởng chừng dễ
dàng mà lại rất sâu sắc!
Trong dịp được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, GS. Nguyễn Lân có dịp
bày tỏ lòng tri ân đối với người khai tâm về chữ Hán cho ông khi còn nhỏ là cụ
Dương Quảng Hàm rồi đến cụ Bùi:
Ở trường Cao đẳng dạy văn ta
Cụ Kỷ là gương sáng thứ ba
Phó bảng nhưng khinh vòng hoạn lộ
28
Mong truyền vốn quý của ông cha [28, tr. 12]
Những vần thơ chân thật mà sâu sắc của Nguyễn Lân đã phần nào cho thấy tính
cách, phẩm chất và vị trí đặc biệt của thầy Bùi Kỷ trong sự nghiệp giáo dục nước ta
lúc bấy giờ. Trong những trang hồi ký của mình, Nguyễn Lân không giấu giếm lòng
mến mộ và biết ơn đối với người thầy giáo cũ đã bày tỏ: “Tôi vô cùng cảm ơn cụ
Bùi Kỷ, vì trong 3 năm, cụ đã dạy cho tôi tất cả lịch sử văn học của nước nhà, với
mọi sự nhiệt tình đặc biệt. Đây là một cụ phó bảng không thích làm quan, chỉ chọn
nghề dạy học để trau dồi cho chúng tôi tinh thần yêu tiếng Việt và yêu nền văn học
phong phú của nước nhà” [54, tr. 12]. Đó có lẽ cũng là tâm tình của nhiều học sinh,
sinh viên từng là học trò của thầy Bùi Kỷ trong thế kỉ XX. Đối với họ, được học
thầy Kỷ - một nhà sư phạm mẫu mực là điều may mắn trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, Bùi Kỷ còn tham gia công tác quản lý giáo dục và giảng dạy ở bậc
đại học. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông từng là thành viên của Hội đồng
cải cách giáo dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim. Sau khi đất nước giành được
độc lập, ông tiếp tục được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử làm cán bộ
cao cấp của ngành giáo dục. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày
3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cùng với “giặc đói”, “giặc ngoại xâm”
thì “giặc dốt” là một trong những kẻ thù nguy hiểm trước mắt của dân tộc ta. Vì
vậy, ngay từ những ngày đầu tiên, chính quyền cách mạng đã xác định giáo dục là
quốc sách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 8-10-1945, Đại học
Quốc gia Việt Nam được thành lập. Nhận thấy cần thiết phải đào tạo giáo sư văn
khoa ban trung học và nâng cao nền khoa học nhân văn cho xứng với một nước độc
lập và theo kịp bước các nước tiên tiến trên thế giới, ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 45/SL, thành lập Ðại học Văn khoa, trực thuộc Đại học
Quốc gia Việt Nam.
Ðể chuẩn bị cho năm học mới, năm học đầu tiên dưới chính thể Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, đầu tháng 11-1945, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục đã kí một loạt các
Nghị định công bố chương trình đào tạo đội ngũ giáo sư, quy chế thi cử của Trường
Đại học Văn khoa. Căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ, Bộ trưởng Quốc gia
Giáo dục đã kí Nghị định cử các giáo sư giảng dạy cho Trường Đại học Văn khoa,
29
gồm các ông Cao Xuân Huy, Hồ Hữu Tường, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn
Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên làm giáo sư Đại học Văn khoa và các ông Đào
Duy Anh, Cù Huy Cận, Trần Văn Giáp, Ngô Xuân Diệu, Trần Khánh Giư (Khái
Hưng), Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ, Nguyễn Đình Thi, Đoàn Phú Tứ giảng về những
vấn đề đặc biệt trong chương trình Văn khoa. Chính phủ giao cho ông Giám đốc
Đại học Quốc gia thảo luận với những vị trên về nội dung giảng dạy và về số giờ
mà những vị ấy nhận dạy trong niên khóa 1945 – 1946 [17, tr. 52]. Trong số các vị
có tên kể trên, chỉ có 4 người được Chính phủ đánh giá là có học vị cao: Bùi Kỷ đỗ
Phó bảng; còn Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Duy Khiêm đều đã
bảo vệ xuất sắc luận án ở Pháp những năm 1930. Điều đó không chỉ cho thấy Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc sử dụng và đào tạo nhân tài mà còn một lần
nữa khẳng định năng lực, trình độ học vấn, uy tín của thầy Bùi Kỷ.
Như vậy, sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi ấy đã gần 60 tuổi nhưng thầy
Bùi Kỷ vẫn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao nhiệm vụ giảng dạy Việt
văn cho sinh viên Trường Đại học Văn khoa, tiền thân của Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn. Ngoài ra, ông còn là một thành viên của Hội đồng giáo dục Việt
Nam theo Sắc lệnh số 102/SL ngày 4-9-1949 của Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Có thể nói, trong suốt mấy chục năm cống hiến cho nền giáo dục nước nhà, dù
là một người thầy đứng lớp giảng dạy hai môn Việt văn và Hán văn hay thực thi
chức vụ quản lý thì Bùi Kỷ vẫn mãi mãi là một người thầy đáng kính trong lòng các
thế hệ học sinh, sinh viên! Cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn gắn
bó hết mình với sự nghiệp giáo dục, với nền văn hóa dân tộc.
2.2. Bùi Kỷ với phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ (1934 - 1945)
2.2.1. Bối cảnh xuất hiện phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ đầu thế kỉ
XX
Từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, hầu hết các quốc gia ở châu Á đều rơi vào
hoàn cảnh bị thực dân xâm chiếm, mất chủ quyền và trở thành thuộc địa của các
nước phương Tây. Thực tế đó dẫn đến một hệ quả tất yếu: Các yếu tố chính trị, văn
hóa và tôn giáo (chủ yếu là Công giáo) châu Âu ồ ạt tràn vào các nước châu Á.
30
Bước sang thế kỉ XX, song song với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, tại
các nước châu Á đã xuất hiện những tư tưởng, hoạt động chống lại các yếu tố của
nền văn hóa phương Tây, coi đây như một mặt trận chống thực dân. Sự “đối thoại”
giữa các bộ môn khoa học và tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng được mở rộng
ở tầm mức thế giới. Nằm chung trong cuộc đối thoại học thuật và tư tưởng Đông
Tây, sự cọ xát giữa các tôn giáo và triết thuyết lớn phương Đông (chủ yếu là Phật
giáo) với các tôn giáo và triết thuyết phương Tây (đạo Công giáo, tư tưởng triết học
Ánh Sáng…), đã khiến Phật giáo có điều kiện để hình thành một nền Phật giáo mới
có thể đáp ứng được trước sự biến đổi của xã hội. Cuộc đối thoại về học thuật và tư
tưởng này đã thu hút nhiều nhà lý luận Phật giáo xuất chúng. Bên cạnh đó, sự xuất
hiện của chủ nghĩa xã hội với sự ra đời của nhà nước Xô viết, đã có tác động rất lớn
đến phong trào giải phóng dân tộc cũng như tư tưởng Phật giáo các nước châu Á
đương thời. Từ đó tạo tiền đề cho sự xuất hiện của phong trào chấn hưng Phật giáo
ở các nước châu Á. Trong phong trào đó, nổi bật lên 3 nhân vật tiêu biểu là: Henry
Steel Olcott (Hoa Kỳ), pháp sư Angarika Dharmapala (Sri Lanka) và hòa thượng
Thái Hư (Trung Quốc).
Từ Sri Lanka, Ấn Độ, Trung Quốc với sự hoạt động tích cực của các nhân vật
Phật giáo xuất chúng nêu trên, ngọn gió chấn hưng Phật giáo, bằng nhiều con
đường và nhiều cách thức, đã ảnh hưởng tới các nước châu Á như Nhật Bản,
Mianma, Việt Nam… Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất và trực tiếp từ phong trào chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc, đặc biệt là tư tưởng cải cách Phật giáo của hòa thượng Thái Hư20.
Cùng với bối cảnh chung của thế giới, tình hình trong nước cũng tác động tới sự
ra đời phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Sau các cuộc khởi nghĩa chống Pháp
thất bại, nhiều trí thức yêu nước Việt Nam đi đến nhận thức rằng, muốn đánh đuổi
thực dân xâm lược phải vận động duy tân đất nước theo tư tưởng dân chủ tư sản.
Bên cạnh các tân văn, tân thư của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, các thuyết về
nhân đạo, nhân quyền của Rút-xô, Mông-tes-ki-ơ, Vôn-te... thì nhiều chí sĩ đánh giá
20 Thái Hư (1889 – 1947), họ Lữ, tên húy Duy Tâm, là người có công lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc đầu thế kỉ XX.
31
cao vai trò của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội. Trong các tôn giáo tại Việt
Nam, Phật giáo được đánh giá cao nhất, cho nên, việc chấn hưng Phật giáo được
các nhà cách mạng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi... ủng hộ.
Theo họ, cùng với nỗ lực cải cách văn hóa, xiển dương quốc học… thì chấn hưng
Phật giáo cũng là một hình thức đấu tranh ôn hòa trong khuôn khổ “thỏa hiệp” với
phe thống trị [15, tr. 31]. Tại sao họ lại ưu tiên chọn Phật giáo? Đó là bởi Phật giáo
đã từng đạt được những thành tựu to lớn và có vai trò quan trọng đối với các nhà
nước phong kiến Việt Nam, mà không phải tôn giáo nào cũng làm được. Trong khi
đó, cho đến đầu thế kỉ XX, Nho giáo thực sự rơi vào tình trạng lạc hậu và suy tàn,
còn Công giáo thì lại có sự dính líu đến thực dân Pháp xâm lược. Do vậy, đây là
điều kiện thuận lợi để Phật giáo trỗi dậy như một ưu tiên và lựa chọn hợp lý để duy
trì truyền thống văn hóa dân tộc trước nguy cơ bị văn hóa thực dân làm cho suy yếu.
Mặt khác, sự xuất hiện của nhiều hiện tượng tôn giáo mới, tiêu biểu là đạo Cao
Đài ở Gò Kèn (Tây Ninh) năm 1925 đã thúc đẩy mạnh mẽ sự ra đời của Phong trào
chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Đạo Cao Đài đã thu hút nhiều người theo, trong đó có
nhiều tín đồ Phật giáo. Đạo Cao Đài còn tuyên bố: Các tôn giáo lớn mang tính
truyền thống của Việt Nam đương thời đều đã đến thời kỳ mạt pháp. Do vậy, đạo
Cao Đài được thành lập ra là để cứu độ [15, tr. 33]. Điều này khiến nhiều nhà sư
Phật học phản ứng mạnh mẽ. Vả lại, bản thân Phật giáo cũng đang bộc lộ nhiều hạn
chế, suy thoái như: Xu hướng thần bí hóa biểu tượng cũng như giáo lý Phật giáo, xa
rời pháp giáo ngày càng tăng, suy đồi đạo đức trong giới Tăng già, sự chia rẽ, mất
đoàn kết giữa các môn phái... Vì vậy, họ nhận thấy cần phải nhanh chóng chỉnh đối,
chấn hưng Phật giáo nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển.
Cũng cần nói thêm rằng, phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ phát triển là
nhờ sự “tiếp sức” của chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương. Mặc dù thực dân
Pháp xâm lược Việt Nam là có sự trợ giúp của giáo hội và nhà thờ Công giáo,
nhưng bộ máy quan lại của Pháp tại Đông Dương càng ngày càng có xu hướng
muốn thoát khỏi sự kiểm soát của nhà thờ, của các linh mục. Chính vì vậy, bên
ngoài thì chính quyền thực dân Pháp vẫn ưu ái cho Công giáo phát triển tại Việt
Nam, nhưng thực tế bên trong lại tìm mọi cách hạn chế ảnh hưởng của Giáo hội. Do
32
đó, chính quyền thực dân Pháp không những không có biện pháp cấm đoán đối với
hoạt động chấn hưng Phật giáo, mà ở khía cạnh nào đó còn tạo điều kiện cho phong
trào này phát triển ở cả 3 xứ Bắc, Trung và Nam Kỳ nhằm tạo ra một đối trọng với
Giáo hội Công giáo.
Trước những tiền đề về mặt chính trị, xã hội và tôn giáo đó, nhiều nhà sư và trí
thức Phật học Bắc Kỳ mong muốn chấn hưng Phật giáo, góp phần vào phong trào
chấn hưng văn hóa dân tộc, một sự chấn hưng dựa trên cơ sở của ý thức tự tôn dân
tộc. Phong trào có sự tham gia tích cực của nhiều nhân giới học phật và Phật giáo,
cả phía xuất gia lẫn tại gia (cư sĩ Nguyễn Hữu Kha, nhà sư Tố Liên, nhà sư Trí
Hải…). Cuối năm 1932, Phật học tùng thư đặt tại chùa Mai Xá (Hà Nam) được
thành lập với các thành viên ban đầu, phía xuất gia gồm các nhà sư Thái Hòa, Trí
Hải, Hải Châu và phía tại gia có Lê Toại, Trần Văn Giác và Nguyễn Hữu Kha. Mục
đích của Phật học tùng thư là biên dịch kinh sách Phật giáo Hán ngữ ra Quốc ngữ
để ấn hành và truyền bá sâu rộng trong phật tử và quần chúng nhân dân với mong
muốn sẽ thành lập Hội Phật giáo khi đã được nhiều người hiểu biết tán thành, khi
nhân duyên đầy đủ và cơ hội thuận tiện.
Ngày 8-4-1934, Phật học tùng thư chính thức chuyển về chùa Quán Sứ (Hà
Nội). Đến ngày 6-11-1934, Thống sứ Bắc Kỳ Auguste Tholance đã ký Nghị định số
4283, cho phép thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ. Trên cơ sở pháp lý đó cùng với
quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, ngày 16-11-1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành
lập, gồm 32 người, trong đó có 27 vị là cư sĩ và nhà Phật học. Sự kiện này đánh dấu
một bước phát triển mới của phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ bởi sau 10
năm vận động (1924 - 1934), Phật giáo từ đây đã có sự thống nhất toàn miền về
lãnh đạo, tổ chức, phương hướng nhằm tiến hành công cuộc chấn hưng. Cùng với
đó, Nhà in Đuốc Tuệ và báo Đuốc Tuệ cũng được ra đời để ấn hành kinh sách Phật
giáo chữ Quốc ngữ nhằm phổ biến sâu rộng trong giới Phật tử và quần chúng nhân
dân.
2.2.2. Vai trò của Bùi Kỷ trong phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ (1934 -
1945)
Vốn là một trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc và tâm huyết với nền văn hóa
33
- giáo dục nước nhà nên khi phong trào chấn hưng Phật giáo xuất hiện, Bùi Kỷ đã
nhiệt tình hưởng ứng. Thời gian này, ông vừa giảng dạy tại các trường, vừa sôi nổi
tham gia Phong trào. Ngay từ khi được thành lập tại Hà Nam, Phật học tùng thư đã
thu hút được sự ủng hộ của nhiều nhân sĩ, trong đó có Bùi Kỷ.
Sau khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập theo Nghị định số 4283 của nhà
cầm quyền Bắc Kỳ, ngày 18-11, đại hội đồng họp dưới sự chủ tọa của ông Nguyễn
Năng Quốc đã bầu Ban Quản trị chính thức, ghi tên sáng lập hội viên đều là vĩnh
viễn cố vấn hội viên của Hội. Theo đó, Hội đồng Quản trị gồm: Tổng đốc trí sĩ
Nguyễn Năng Quốc (Chánh Hội trưởng), Đốc học Hà Đông Nguyễn Văn Ngọc và
Tuần phủ trí sĩ Trần Văn Đại (Phó Hội trưởng), Phiên dịch Phủ Toàn quyền Lê Dư
(Quản lý), Phán sư hưu trí Lê Toại (Chánh Thủ quỹ), Phán sự hưu trí Nguyễn Hữu
Lộc (Phó Thủ quỹ), Tham tá Trường Bắc cổ Trần Văn Giáp (Chánh Thư ký), Sư cụ
Tuệ Chiêu và Tham tá Tòa Thượng phẩm Nguyễn Nhún làm Phó Thư ký, Đốc học
Nguyễn Quang Oánh, Phó bảng Bùi Kỷ và Cử nhân Dương Bá Trạc làm Cố vấn
[16, tr. 44-45].
Ngoài chức vụ cố vấn Hội đồng Quản trị Trung ương, Bùi Kỷ còn được bầu làm
thành viên Ban Khảo cứu Phật giáo và Diễn giảng, thành viên Ban Biên tập báo
Đuốc Tuệ. Là một Phó bảng tinh thông cả Hán học và Tây học, Bùi Kỷ tiếp xúc với
giáo lý đạo Phật khá nhanh và trở thành một nhà nghiên cứu Phật học. Tuy viết
không nhiều và chỉ viết vào những năm 1935 - 1937, nhưng những bài viết của Bùi
Kỷ chứng tỏ ông là một người có sự hiểu biết sâu sắc về đạo Phật. Chủ đề Phật giáo
mà ông tập trung giải thích là một số vấn đề căn bản của Phật học và giáo lý Phật
giáo. Các bài viết của ông thường là bài nhiều kỳ đăng trên Đuốc Tuệ.
Bùi Kỷ nhận thấy rằng, muốn chấn hưng Phật giáo trước hết cần phải giúp cho
giới Phật học, nhất là phái tại gia hiểu được căn bản về tôn chỉ chân chính và thiết
thực của đạo Phật. Bởi vậy, ông đã dành nhiều tâm sức để viết bài “Tôn chỉ đạo
Phật” đăng trên báo Đuốc Tuệ từ số 7 đến số 12. Ông cho rằng: “Loài người vì có
lòng dục vọng mà đi vào đường mê, cho nên tôn chỉ đạo Phật cốt là đưa người ở
trong con đường mê ra con đường tỉnh ngộ, tỉnh ngộ tức là giác vậy” [41, tr. 16].
Song ông cũng khẳng định, cắt nghĩa chữ “giác” không khó mà thực hành chữ
34
“giác” mới khó. Vì vậy, song song với việc giải thích chữ “giác”, ông còn chỉ ra các
phương pháp để giác ngộ. Cuối bài viết, ông vừa phê bình hiện thực xã hội, vừa bày
tỏ tầm quan trọng của việc thực hành chữ “giác” trong đời sống: “Than ôi! Những
kẻ tự khi, tự hoại, chìm nổi trên làn sóng đời, là không biết tự giác, những kẻ bám
được một ít học thức, chiếm được một chút địa vị, chỉ biết tự tư tự lợi lấy một mình,
là không biết giác tha, những kẻ chán nản việc đời, tự phụ là độc thanh độc tĩnh,
cũng là không biết giác tha. Vì thế mà nghĩa lý tan nát, đạo đức tối mờ, gia đình
đoàn tụ là giả dối, xã hội giao tế là lừa lọc, chỉ bởi chữ “giác” không ai hiểu, chữ
“tụ” và chữ “tha” chia làm hai thành ra thế gian vốn có cái sống yên vui thành ra
cái sống điêu đứng, chỉ ngày nào là ngày tôn chỉ đạo Phật tuyên dương ra khắp cả
thì ngày ấy là ngày thế gian thái bình vậy” [43, tr. 7].
Vì sao ông lại đề cao và xiển dương Phật giáo như vậy? Ông lập luận rằng: Đạo
Phật là một nền giáo lý quan hệ rất mật thiết với cuộc sinh hoạt của cá nhân, của xã
hội, của cả thế giới, có thể gọi là một giáo khoa gồm từ bậc thấp đến bậc cao, từ chỗ
dễ đến chỗ khó, từ phép tu dưỡng của tâm thân, đến cách đoàn tụ của quần chúng,
từ cuộc sinh hóa của vạn vật đến lẽ biến biện của tạo hóa...
Khi đề cập đến bản chất của Phật giáo, nếu như Vũ Trọng Căn dựa trên quan
điểm Phật học, thì Bùi Kỷ lại xét từ giáo lý của tôn giáo này. Theo đó, đạo Phật là
một môn giác học, có thể đào tạo được những bậc thánh hiền, anh hùng hào kiệt
làm những việc lợi ích cho nhân quyền xã hội, có thể bồi bổ nhân tâm, giữ nền tảng
lương thiện trung hậu. Suy rộng ra, đạo Phật có thể san lấp những tính xấu xa của
con người, đưa thế giới vào con đường tiến hóa, nhân đạo, hòa bình [45, tr. 4]. Mặc
dù quan điểm của ông có những hạn chế nhất định như: Chưa thấy được quá trình
vận động phát triển từ Phật học đến Phật giáo, quá trình tồn tại song song của Phật
học và Phật giáo, tức vừa là tôn giáo vừa là triết học [15, tr. 85], song cũng đã cho
thấy một khía cạnh căn bản của tôn giáo này.
Bài viết đặc sắc nhất của Bùi Kỷ trên Đuốc Tuệ là Nghĩa chữ "Không" trong
Đạo Phật. Ông cho rằng, Đức Phật Tổ lập ra thuyết “Không” chính là để phá tan
Tam giới tức Tam hữu (âm giới, sắc giới, vô sắc giới). Ông đề cập tới nghĩa ngã
không và pháp không trong đạo Phật để đi tới quan niêm giả ngã và giả pháp, từ đó
35
đưa ra kết luận: Đạo lý không có mục đích cởi bỏ những mối chấp trước của con
người chứ không phải là để nói rằng tất cả là không. Theo ông, chỉ khi nào phá
được chấp ngã và pháp chấp mới tìm được lối thoát đích thực cho kiếp người, nếu
không thì dù có hành động mấy đi nữa thì cũng còn là nằm trong vòng kiềm tỏa của
danh lợi. Ông viết: "Đời vốn chuộng đạo đức, mà đạo đức thành ra không có chỗ
dùng, đời vốn chuộng học thuật, mà học thuật lại hóa ra diễn đàn của trò quỷ
quyệt, lợi khí của mối phân tranh có phải đó là cái lưu tệ ghê gớm của ngã chấp và
pháp chấp không?[...] Ai là người đã có lòng sốt sắng, con mắt cao xa mà chẳng
muốn lo tính cho đời. Song cứu đời ở trong ngã chấp và pháp chấp khác nào như
gọi người ở trong hòm kín mà nắp vẫn đóng, thì người vẫn không có lối ra. Phật tổ
biết rõ bệnh căn của đời ở hai chỗ ấy, cho nên mới đem thuyết nhị không để phá tan
hai cái chấp, tức là mở nắp hòm cho người có lối ra vậy" [50, tr. 8]. Bằng những lời
lẽ có sự lập luận chắc chắn, bài báo của ông gây một tiếng vang lớn trong giới học
Phật lúc bấy giờ, sau đó được đăng lại trong Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, từ số
16 đến số 21 năm 1958. Đến nay, những lời bàn của Bùi Kỷ trong bài viết này vẫn
có giá trị nhất định.
Tương tự các thành viên khác của Ban Khảo cứu Phật học và Diễn giảng, Bùi
Kỷ không những nghiên cứu viết sách báo mà còn thường xuyên đi thuyết giảng
Phật học. Bài “Vì lẽ gì mà chúng ta nên tin theo đạo Phật?” thuyết giảng tại chùa
Quán Sứ nhân ngày Phật Đản 16-5-1937 là bài giảng ấn tượng nhất của Bùi Kỷ. Sau
khi phân tích vai trò của Phật giáo đối với đời sống thế tục, ông kết luận: “Theo như
4 lẽ kể trên, tuy cách diễn giải còn sơ lược, song nếu chúng ta lưu tâm mà suy xét
thêm ra thì chúng ta sẽ nhận rõ cái chân tướng của đạo Phật là một đạo gồm cả
triết học, khoa học, lý luận học, chính trị học, xã hội học, không chỉ là một nền tôn
giáo, mà là một nền giáo dục hoàn toàn quán thống từ bậc thấp đến bậc cao, ở vào
thời nào, chỗ nào cũng thích hợp, mà thứ nhất lại cần cho xã hội ta về thời bây giờ”
[15, tr. 72]. Bài này đã được đăng lại trên phụ trương báo Đuốc Tuệ số 66 (tháng 8
năm 1937), sau đó Hội Phật giáo Bắc Kỳ cho in một vạn cuốn để tặng cho chư tôn.
Từ năm 1938 trở đi, Bùi Kỷ không còn viết bài cho báo Đuốc Tuệ hay đi thuyết
giảng nữa, nhưng ông vẫn được Trung ương Hội hết sức tín nhiệm. Năm 1938,
36
trước yêu cầu thực tiễn, để hoàn chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy trung ương,
Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã thành lập thêm Ban Công tác, Ban Giám sát, Ban Cổ
động, Ban Kế toán. Lúc này, Bùi Kỷ cùng với Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng
Thuật và Nguyễn Hữu Tiến được bầu vào Ban Cổ động. Bùi Kỷ tham gia Ban Biên
tập báo Đuốc Tuệ tới cuối năm 1944. Bộ máy trung ương của Hội Phật giáo Bắc Kỳ
được hoàn thiện nhất sau lần đại hội đồng thường niên năm 1945. Trong thời gian
này, Bùi Kỷ cùng với sư cụ chùa Bát Mẫu, sư cụ chùa Ngũ Xã, Nguyễn Quang
Oánh (Giám đốc Nha Học chính Bắc Kỳ), Lê Dư (Trường Viễn Đông Bác cổ), Trần
Văn Giáp được bầu làm cố vấn, thuộc Ban Cố vấn của Hội.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Bùi Kỷ tuy không còn tham gia lãnh đạo
Hội Phật giáo Bắc Kỳ nhưng sự hoạt động tích cực của ông trong hơn 10 năm (1934
- 1945) vẫn có những ảnh hưởng nhất định tới giới Phật học cũng như phong trào
chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ trong giai đoạn sau. Bùi Kỷ cùng với những người
cốt cán của Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã góp phần giúp cho Hội tuy thành lập muộn
hơn so với các tổ chức Phật giáo ở Nam Kỳ và Trung Kỳ nhưng lại phát triển nhanh
chóng và đạt được thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực, được xem như một cuộc
“cách mạng Phật giáo”. Chính bởi vậy, Bùi Kỷ được giới nghiên cứu Phật giáo
đánh giá là một trong số 11 người có vai trò quan trọng nhất trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ từ năm 1934 - 195321.
2.3. Bùi Kỷ với sự nghiệp văn chương
Bùi Kỷ được biết đến là nhà khoa bảng danh tiếng, một tấm gương sáng về tinh
thần hiếu học của đất Hà Nam. Sau nhiều năm rong ruổi đến Pháp, Trung Quốc, ông
trở về Việt Nam và gắn bó với sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Ngoài giảng dạy,
ông còn tham gia biên khảo nhiều công trình có giá trị, hiệu khảo một loạt truyện
thơ nôm, dịch thơ, sáng tác thơ văn. Ngoài các cuốn sách biên khảo được in riêng,
các tác phẩm khác trên lĩnh vực hiệu khảo, dịch thuật, sáng tác của Bùi Kỷ đều đã
được sưu tầm và xuất bản thành sách. Tuy nhiên, ngay cả hai cuốn Văn thơ của Ưu
Thiên Bùi Kỷ của Lê Tư Lành và Thơ văn Bùi Kỷ của Nguyễn Văn Huyền chắc chắn
37
vẫn chưa tổng hợp được đầy đủ các trước tác của ông, bởi công tác sưu tập sáng tác 21 11 người này bao gồm: Hòa thượng Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm), Hòa thượng Thanh Ất (Tổ Trung Hậu), Hòa thượng Doãn Hài (Tổ Tế Cát), Hòa thượng Tố Liên, Hòa thượng Trí Hải, Hội trưởng Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Trọng Thuật, Bùi Kỷ, Lê Dư.
của Bùi Kỷ là do tìm lại từ các sách báo đã đăng, các bản thảo trên giấy nháp và do
người em họ của ông là Bùi Doanh đã yêu cầu đọc lại cho chép vào năm ông gần
mất. Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Bùi Kỷ còn có tập thơ tên Ưu Thiên đồ
mạc nhưng chưa kịp xuất bản. Điều đó cho thấy, có thể nhiều sáng tác của Bùi Kỷ
còn bị thất lạc và cần nhiều thời gian để tiếp tục tìm kiếm, thu thập hơn nữa.
Từ góc nhìn sử học, trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chủ yếu tập trung
giới thiệu nội dung chính cũng như những đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên
cứu về giá trị của một số tác phẩm của nhà văn - nhà thơ Bùi Kỷ trên các lĩnh vực.
Lĩnh vực biên khảo
Nước ta có một lịch sử dịch thuật và biên khảo lâu đời, trên nhiều lĩnh vực như:
Văn học, Sử học, Triết học, Tôn giáo, Tín ngưỡng, Giáo dục, Y học, Địa lý và Tổng
hợp. Bước sang thế kỉ XX, hoạt động biên khảo càng có điều kiện phát triển với sự
ra đời của chữ Quốc ngữ. Riêng trên lĩnh vực văn học, có hàng trăm tác phẩm được
đánh giá cao. Vốn là người thông thảo cả tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp nên
Bùi Kỷ cũng sớm hòa mình vào hoạt động này. Ông cùng với các cộng sự của mình
đã biên khảo các cuốn: Quốc văn cụ thể (1932), Việt Nam văn phạm bậc trung học
(soạn chung với Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm, 1940), Hán văn trích thái diễn
giảng khóa bản (cùng soạn với Trần Văn Giáp, 1942), Tiểu học Việt Nam văn phạm
(soạn chung với Trần Trọng Kim, Nguyễn Quang Oánh, 1945). Các cuốn này
thường gắn với nội dung dạy và học môn ngữ văn Hán - Việt bậc trung học của nhà
trường phổ thông Pháp - Việt ở xứ Đông Dương thuộc Pháp đương thời. Các công
trình biên khảo trên hiện còn được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, duy chỉ
có cuốn Hán văn trích thái diễn giảng khóa bản (cùng soạn với Trần Văn Giáp,
1942) chúng tôi chưa được tiếp xúc.
Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ do Tân Việt Nam thư xã xuất bản năm 1932, là
một quyền giảng rất tường tận về các lối văn và về những cách thức làm các lối văn
ấy. Sách chia làm 4 thiên: Thiên thứ nhất nói về Việt văn, thiên thứ hai nói về Hán
văn, thiên thứ ba nói về Hán - Việt hợp dụng thể và thiên thứ tư nói về Văn pháp.
Đọc cuốn sách này, chúng ta bắt gặp những lời nhận xét tinh tế, đồng thời là
38
những ví dụ minh họa sinh động về từng vấn đề được trình bày. Trong đó, không ít
ví dụ minh họa được lấy từ chính trong các tác phẩm của ông, do khiêm tốn mà
được ghi là vô danh, phần nào thể hiện được tâm huyết và bản lĩnh của tác giả.
Chẳng hạn như khi xét nhận lối gieo vần của Tàu và của ta, soạn giả khẳng định:
“Văn nước nào cũng phát nguyên bởi những bài ca dao, là những bài hát có
vần.
Lối gieo vần của Tàu, bao giờ cũng để chữ có vần xuống cuối cùng câu, thí dụ:
Anh anh điểu minh,
Cầu kỳ hữu thanh.
Minh với thanh là một vần.
Triển chuyển phản trắc,
Cầu chi bất đắc.
Trắc với đắc là một vần.
Vì vần ở cuối cùng câu, nên bài văn có thể gieo được nhiều vần.
Lối riêng của ta gieo vần khác hẳn lối Tàu, câu trên vần ở chữ cuối cùng, còn
câu dưới thì vần không ở chữ cuối cùng.
1 – Vần ở chữ thứ nhất câu dưới:
Khôn cho người ta dái
Dại cho người ta thương.
2 – Vần ở chữ thứ nhì câu dưới:
Cơn đằng đông,
Vừa trông vừa chạy;
Cơn đằng nam,
Vừa làm vừa chơi.
3- Vần ở chữ thứ ba câu dưới:
Đãi cứt sáo lấy hạt đa,
Đãi cứt gà lấy tấm mắn.
4- Vần ở chữ thứ tư câu dưới:
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
39
5- Vần ở chữ thứ năm câu dưới:
Gái không chồng như nhà không nóc
Trai không vợ như cọc long chân.
6- Vần ở chữ thứ sáu câu dưới:
Mồng tám tháng tám không mưa,
Chị em bán cả cày bừa mà ăn [35, tr. 20-21]
Hẳn là Bùi Kỷ phải là một người có vốn kiến thức sâu rộng, uyên thâm thì mới
có thể hiểu tường tận về lối văn của ta cũng như của Tàu. Và cũng nhờ đó, nội dung
cuốn sách được trình bày rõ ràng, ý tứ phân minh, lời lẽ rất lưu loát. Những chương
nói về lục bát, song thất lục bát và những biến thể của lục bát, song thất lục bát như
hát xẩm, hát nói cũng ngắn gọn, giúp người đọc có thể dễ hiểu, dễ nhớ.
Những kiến thức cơ bản liên quan đến thơ văn mà Bùi Kỷ trình bày trong cuốn
Quốc văn cụ thể có ý nghĩa, giá trị thực tiễn cao bởi đây là một công trình biên soạn
theo hình thức sách giáo khoa giảng giải về các lối thơ văn và phương pháp thơ văn
đầu tiên ở nước ta đạt được độ hoàn chỉnh, chính xác. Nhiều thế hệ học sinh, sinh
viên, nhà thơ, nhà văn sau này vẫn thường xuyên đọc và tham khảo cuốn sách này
của ông trong quá trình học tập, làm việc. Nhận xét về công trình biên soạn đầu tiên
của danh nhân Bùi Kỷ, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan viết: “Quốc văn cụ thể
là một quyển xét nhận về các lối thơ văn và phương pháp làm thơ văn rất có giá trị,
vì nó có được cả ba điều hay là vừa gọn gàng, vừa đầy đủ lại vừa sáng suốt nữa”
[76, tr. 213]. Còn tác giả Nguyễn Văn Huyền thì nhận định: “Cuốn Quốc văn cụ thể,
trình bày rất sáng sủa và súc tích về hình thức, thể loại các lối thơ văn truyền
thống mà cho đến nay, một số công trình thuộc loại này vẫn có thể tham khảo hoặc
sử dụng được nhiều điều bổ ích” [28, tr. 18].
Cần thấy rằng, văn chương được xem là cái tinh thần, cái tinh hoa của bất kỳ
quốc gia, dân tộc nào trên thế giới. Tuy nhiên, tiếng nước ta là tiếng độc âm, việc
làm thơ văn ở nước ta có khó riêng bởi văn làm bằng tiếng độc âm phải theo cái
điệu thanh vận và các luật bằng trắc, thì lời nói mới êm ái và câu văn mới rắn rỏi.
Xét trong hoàn cảnh mới của đất nước, khi lối học hành thi cử Nho học đã bị xóa
bỏ, chữ Quốc ngữ lại đang cần cho sự học, thiết nghĩ, sự ra đời của cuốn Quốc văn
40
cụ thể cho thấy sự nhạy bén với thời cuộc của soạn giả, có ích cho quốc gia. Điều
này cũng được học giả Trần Trọng Kim khẳng định trong lời Tựa của cuốn sách:
“Xưa kia ta học làm văn thì có thày dạy. Người đi học phải luyện tập lâu ngày mới
thành tài và mới làm được văn. Nay lối học cũ đã bỏ đi, thầy giỏi ngày một hiếm có.
Nếu không có quyển sách nói rõ ràng về các lối làm văn, và những cách thức làm
các lối văn ấy là thế nào thì những người muốn học làm văn biết sở cứ vào đâu mà
học tập? May sao có Châu Giang Bùi Ưu Thiên, không nỡ để cái nền văn học cũ
mai một đi, chịu khó làm cuốn Quốc văn cụ thể, bàn rõ cái nguyên ủy và các thể tài
những lối văn cũ của ta khi xưa, để sau này ai muốn học làm văn, có chỗ sở cứ mà
học tập. Sự học làm văn bằng quốc âm, nhờ có quyển sách này may ra có cơ lại tiến
hành được”.
Việt Nam văn phạm bậc trung học là công trình biên khảo thứ hai của Bùi
Kỷ. Có thể nói, trong tiến trình ngữ pháp học Việt Nam, cuốn Từ điển Việt - Bồ - La
(1651) của Alexandre de Rhodes đã phác thảo những nét đầu tiên cho bức tranh ngữ
pháp tiếng Việt. Sau đó là cuốn Grammaire de la langue Annamite của học giả
Trương Vĩnh Ký (1883), một cuốn sách viết về ngữ pháp tiếng Việt sớm nhất chính
thức ra đời ở Việt Nam. Và đến đầu thế kỉ XX, chúng ta không thể không nhắc đến
cuốn Việt Nam văn phạm bậc trung học do Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy
Khiêm biên soạn và xuất bản năm 1940. Cuốn sách ra đời trong giai đoạn mà các tài
liệu về ngữ pháp tiếng Việt chủ yếu là do các nhà ngôn ngữ học nước ngoài viết như
M. Grammong, P. G Vallot, R. Bulteau… Mặc dù những hiểu biết chung về cơ sở
lý thuyết ngôn ngữ học có phần hạn chế hơn so với các học giả phương Tây, song
bộ ba tác giả người Việt lại phát huy được lợi thế của mình, đó là những người bản
ngữ, sinh ra đã biết tiếng Việt. Với cố gắng thoát khỏi lối mô phỏng, sao chụp châu
Âu của ngữ pháp truyền thống, nhóm tác giả đã có những nhận xét tinh tế và những
kiến giải độc lập về vấn đề từ loại, đặc biệt là những nghiên cứu khá sâu về danh từ,
phân chia động từ... Các tác giả cũng đã bắt đầu nhận thấy những bất hợp lý trong
việc gò tiếng Việt vào khung ngữ pháp châu Âu. Dù vậy, cuốn sách cũng vấp phải
một số hạn chế như: quan niệm lấy từ làm trung tâm trong nghiên cứu cú pháp (Từ
bản vị), một khuynh hướng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của ngữ pháp Âu châu thời
41
bấy giờ, nhưng lại không phù hợp với tiếng Việt; phân chia từ loại theo kiểu mô
phỏng các ngôn ngữ châu Âu... Vì những hạn chế trên nên quyển Việt Nam văn
phạm bậc trung học chưa thể đem dùng ngay được. Tuy vậy, Vũ Ngọc Phan vẫn
khẳng định: “Đây là một quyển biên tập công phu hơn cả những quyển văn phạm
Việt Nam có từ trước đến giờ” [76, tr. 180]. Trên cơ sở cuốn Việt Nam văn phạm
bậc trung học, năm 1942, Bùi Kỷ cùng với Trần Trọng Kim và Nguyễn Quang
Oánh đã biên soạn và xuất bản cuốn Tiểu học Việt Nam văn phạm.
Nhận xét về các công trình biên khảo của Bùi Kỷ, cũng là các cuốn giáo trình
văn học được sử dụng tại các trường cao đẳng và tiểu học lúc bấy giờ, Đặng Thai
Mai cho rằng, mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ (chẳng hạn như chưa đề cập đến văn
học nước nhà từ nửa thế kỉ XIX về sau này) nhưng “giáo trình của cụ Bùi Kỷ đối
với chúng tôi là những dịp thu hoạch khá phong phú để tiếp tục tìm tòi suy nghĩ sau
ngày ra trường” [60, tr. 272].
Ngoài ra, Bùi Kỷ còn cùng với Phạm Quỳnh (chủ bút), Nguyễn Văn Vĩnh, Trần
Trọng Kim, Nguyễn Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Đôn Phục, Đỗ Thận biên soạn cuốn Việt Nam từ điển. Đây là tác phẩm
công phu, dày 663 trang, được nhà in Trung Bắc Tân Văn xuất bản năm 1931. Cuốn
từ điển này cho phép người đọc tra cứu cả chữ Nho lẫn tiếng Pháp hầu tạo chữ để
diễn tả những tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam, nhất là những danh từ kỹ thuật.
Hơn nữa, nó còn thâu nhận những danh từ thổ ngữ của các địa phương cả ba miền
Bắc, Trung, Nam. Vì vậy, Việt Nam tự điển được xem là thành tựu đáng ghi nhớ
nhất của Hội Khai Trí Tiến Đức, sang thế kỷ XXI vẫn thường được lấy làm mẫu
mực chính tả và từ mục.
Lĩnh vực hiệu khảo
Bên cạnh hoạt động biên khảo, Bùi Kỷ cũng tích cực hiệu khảo các tác phẩm
chữ Hán, chữ Nôm. Trong đó, Truyện Thúy Kiều do ông cùng với Trần Trọng Kim hiệu khảo căn cứ vào bản Phường22 là công trình gây được tiếng vang lớn.
Cho đến nay, Truyện Kiều xuất bản bằng chữ Quốc ngữ có nhiều bản, có thể kể
42
đến như: Kim Vân Kiều (Bản in nhà nước, 1875) do Trương Vĩnh Ký biên khảo; 22 Truyện Kiều in ra chữ Nôm, đến nay đã có rất nhiều sách, nhưng được phân biệt thành 2 bản khác nhau là: bản Phường in tại Hà Nội, do Phạm Quý Thích (hiệu Lập Trai, người làng Hoa Đường, nay là Lương Đường, Hải Dương) đem ra khắc, và bản Kinh do vua Tự Đức sửa chữa lại.
Kim Vân Kiều (in tại Hà Nội, 1913) do Nguyễn Văn Vĩnh chú thích; Kim Vân Kiều
chú thích (biên tập khoảng năm 1902-1903, in tại nhà in Ngô Tử Hạ) của Bùi
Khánh Diễn; Truyện Kiều do Nông Sơn Nguyễn Can Mộng hiệu đính và chú thích
(in tại Imprimerie d’Extrême Orient, Hà Nội, 1936); Vương Thúy Kiều do Nguyễn
Khắc Hiếu chú thích (Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1940) và Truyện Thúy Kiều do Bùi
Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo (in lần đầu năm 1925 do Vĩnh Hưng Long thư
quán Hà Nội xuất bản).
Khi so sánh với các bản hiệu khảo của các tác giả khác, hầu hết các nhà nghiên
cứu đều nhận định rằng, Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu
khảo, có rất nhiều chữ khác nhưng lại có tính hợp lý, sát nghĩa. Tất nhiên, vì là một
trong những công trình hiệu khảo sớm nên quyển Truyện Thúy Kiều của Bùi Kỷ và
Trần Trọng Kim vẫn có một vài chữ cần xét lại, nhưng Vũ Ngọc Phan vẫn cho rằng:
“So với các bản khác bằng quốc ngữ xuất bản gần đây, thì vẫn là một quyển có giá
trị cao hơn cả. Có thể nói: Bây giờ chỉ có hai bản, bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng
Kim chú thích và bản của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú thích là kỹ hơn cả” [76,
tr. 219]. Bởi đó, bản Truyện Thúy Kiều mà Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo
có sự bổ sung in năm 1927 sau đó đã được Nhà xuất bản Tân Việt Sài Gòn đã in lại
đến 8 lần. Đến nay, bản này đã được các nhà xuất bản in đi in lại đến hàng chục lần.
Trên cơ sở bản Truyện Thúy Kiều này, Bùi Kỷ đã chú thích và hiệu đính lại, được
Nxb. Phổ thông cho in vào năm 1958, tái bản 5 lần.
Vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều từ những năm cuối của thế kỷ XX đến nay đã
có nhiều thành tích đáng kể nhờ có phương pháp mới và nhiều văn bản được bổ
sung nhưng bản hiệu khảo của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim vẫn để lại một dấu ấn
quan trọng và có một vị trí nhất định trong vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều vì nó đã
được phổ biến sâu rộng trong nhân dân cũng như trong trường học nhiều năm.
Ngoài Truyện Thúy Kiều, ông còn là người đi đầu hiệu khảo một loạt truyện
thơ nôm khuyết danh như Trê Cóc, Trinh thử, Lục súc tranh công, Hoa điểu tranh
năng. Những truyện ngụ ngôn trên chưa được kể đến trong các mục Kinh tịch chí
hoặc Văn tịch chí của Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú, đó là một thiếu xót. Bùi Kỷ
43
đã sớm nhìn thấy cái hay, vẻ đẹp đặc biệt trong những cốt truyện dân dã, những
ngôn ngữ bình dân, và ông đã dày công hiệu khảo những truyện ngụ ngôn này.
Trong số đó, nổi bật là bài khảo cứu truyện Trê Cóc đăng trên tập san của Hội Khai
Trí Tiến Đức (số 4, tháng 12 - 1941) được đánh giá là rất công phu, tường tận. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền cho rằng: “Đối với những chữ nghĩa, những điển cố
Hán học, dù khó mấy, sớm hoặc muộn người ta cũng có thể tìm ra nhờ những
phương pháp tiện tra cứu phong phú. Nhưng còn với những từ Việt cổ, những
phương ngữ xa xôi nếu không có việc làm của ông cách đây hơn nửa thế kỉ thì sẽ
khó khăn biết mấy cho thế hệ ngày nay, nếu muốn lĩnh hội chính xác các văn phẩm
loại ấy” [28, tr. 19].
Điều đặc biệt là, mỗi công trình biên khảo đều thể hiện thái độ của Bùi Kỷ qua
những lời bình luận ám dụ, liên hệ bóng gió với phong hóa đương thời, và đôi khi
bằng cả những lời thơ đầy tâm huyết. Chẳng hạn như trong lời “lạm đề” cuối bài
khảo cứu về truyện Trinh thử, ông viết:
Thế mới biết:
Thói tà phong nhanh chóng
Mùi chính khí thơm lâu
Người mẫn thế động lòng thương xót
Văn ngụ ngôn dụng ý cao sâu
Trách ai hắc bạch thay lòng, vì nấm lợi mồ danh mà lẩn khuất
Để khách thanh cao ngứa mắt, nghĩ tình đời thói tục lại âu sầu [28, tr. 140].
Những năm cuối đời, ông vẫn miệt mài nghiên cứu. Ông đã tiến hành hiệu khảo
tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, tham gia khảo cứu di sản thơ chữ
Hán của đại thi hào Nguyễn Du, xác định giá trị Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ.... Ngoài ra, Bùi Kỷ còn giúp Trần Trọng Kim trong quá trình soạn cuốn Nho
giáo (xuất bản lần đầu năm 1930). Trong bài tựa cuốn sách này, Trần Trọng Kim
cũng viết: “Trước khi đem xuất bản cuốn sách này, chúng tôi xin có lời cảm tạ hai
ông bạn là ông phó bảng Bùi Kỷ và ông cử nhân Trần Lê Nhân đã giúp đỡ chúng
tôi trong khi khảo cứu thường gặp những chỗ khó hiểu, cùng nhau bàn bạc được rõ
hết mọi ý nghĩa”.
44
Lịch vực dịch thuật
Tác phẩm dịch thuật của Bùi Kỷ tuy không nhiều nhưng đều là những áng văn
đặc sắc, được lưu truyền khá rộng rãi. Bài ký lầu Nhạc Dương (Nhạc Dương lâu ký)
là lời tuyên ngôn cho đạo lý sống cao cả của Phạm Trọng Yêm (Trung Quốc) “lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Bài Trần tình văn của Cao
Bá Nhạ giãi bày nỗi bất hạnh của dòng họ Cao bị tru di do cuộc khởi nghĩa của Cao
Bá Quát chống triều Nguyễn. Qua bản dịch thành công của Bùi Kỷ, người đọc
không biết chữ Hán vẫn cảm nhận được văn tài của Cao Bá Nhạ và cảm thông với
hoàn cảnh của gia đình họ Cao. Đặc biệt bản dịch Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi, đến nay không còn được dùng trong trường học nữa vì sự phát triển khách
quan của ngôn ngữ hiện đại. Song suốt một nửa thế kỉ, bản dịch này đã chuyển tải
được về cơ bản nội dung và âm điệu hào hùng của áng thiên cổ ấy. Đến nay, một số
người còn nhớ những câu dịch hay của Bùi Kỷ:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ
Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay.
Vì đã từng có một vị trí đáng kể trong đời sống văn học Việt Nam nên sau này,
bản dịch Bình Ngôi đại cáo của Bùi Kỷ vẫn được một số nhà nghiên cứu đánh giá
cao. Vũ Ngọc Khánh cho rằng: Nhiều người lấy lý do là bản dịch của Bùi Kỷ không
hợp với ngôn ngữ hiện đại, nhiều chỗ không sát nguyên văn, dịch vế trên vế dưới
xáo trộn… nên đem sửa chữa. Nhưng bao nhiêu bản dịch mới (kể cả bản ký chung
với tên Bùi Kỷ) thì rất kém vẻ hào hùng sảng khoái, kém chất say sưa mà trịnh
trọng của một lời tuyên ngôn đầy tráng khí nhất của Việt Nam. Bùi Kỷ là bậc thầy
trong việc dịch Bình Ngô đại cáo [32, tr. 533].
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền thì Bùi Kỷ còn dịch Truyện Kiều ra
thơ chữ Hán, nhưng đáng tiếc là tác phẩm này đã bị thất lạc.
Phê bình văn học
Xét ở khía cạnh nào đó, Bùi Kỷ cũng có thể được xem là một nhà lý luận phê
45
bình văn học. Ông từng nói: “...những bậc chính nhân quân tử ở nước ta, như các
ông Triều Ân, ông Giới Hiên đời Trần, ông Bạch Văn Am đời Lê, ông Thanh Hiên,
ông Ngộ Trai đời Nguyễn, há chẳng phải là những người suốt đời chỉ vùi đầu ở
trong làng văn, mặc để tiêu ma hết tháng năm, thế mà mỗi khi làm được một câu,
một bài đều có giá trị đặc biệt, thành một văn gia là tại sao? Là vì các vị ấy đã bẩm
thụ được một phần hạo khí rất khinh thanh binh nhật, lại có rất nhiều công hàm
dưỡng, khi nào cảm xúc với cảnh vật thiên nhiên của tạo hóa, như khóc, như cười,
như tỉnh, như say, như bực dọc, như hả hê, như nhớ nhung, như khuây khỏa, tự
nhiên, tả ra thành văn: như mưa gió tuôn đầu ngọn bút, mây ráng bay trên mặt
giấy, lắm lúc chính nhờ viết được một câu đắc ý lại ngờ là không phải của mình làm
ra, vì thế cổ nhân có câu “văn như hóa công” tưởng không phải là nói ngoa vậy”
[66, tr. 396].
Dịp khác, khi vào Thuận Hóa, ông được xem tập văn dịch 120 bài thơ Đường
làm theo lối lục bát và song thất lục bát của ông Trần Lệ Thần. Sau khi xem kỹ, so
với nguyên văn, đo đắn từng chữ, từng nghĩa, ông bảo: “Không hiểu làm sao, khi
đọc văn Đường tôi tưởng là văn Trần quân, khi đọc văn Trần quân tôi lại tưởng là
văn Đường; tôi thực sự nhớ đến một đoạn trong Truyện Kiều:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Những câu ấy như đều dịch ở Đường thi, nhưng nếu bảo là Đường thi dịch từ
những câu ấy ra cũng có nhiều người tin là thực. Có lẽ từ sự cảm xúc đến sự miêu
tả, khi đã vào chân cảnh thi Đường và Việt văn gia cũng là đồng cảm đồng điệu
chăng?... Có lẽ những bài Đường thi chỉ là những mối cảm hứng để khêu gợi tâm
sự của Trần quân, mà Trần quân đối với Đường văn gia lại cùng một khâm hoài; vì
thế mới có tập văn dịch này” [66, tr. 397].
Thậm chí, những hiểu biết uyên thâm, tinh vi mà học giả Bùi Kỷ đã tích lũy,
chiêm nghiệm, phát biểu có khi phải nhiều thế kỉ sau người ta mới thừa nhận là
chân lý. Giáo sư Đặng Thai Mai phát biểu: “Nhớ lại ngày chúng tôi theo học giáo
46
trình văn học Việt Nam của cụ Bùi Kỷ ở Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội vào
những năm 1925-1928. Có hôm Cụ đã nói với chúng tôi quan điểm của cụ về văn
học đời Lý và đầu đời Trần. Cụ cho rằng về một phương diện, thơ Lý, Trần có thể
nói là hay hơn các nhà nho đời sau của nước ta. Lúc bấy giờ chúng tôi không đồng
ý tí nào với vị giáo sư và cũng là nhà khoa bảng lớn trong những năm rốt của nho
học. Quả tình là tôi còn bị ảnh hưởng quá nhiều của lối học từ chương nghề cử tử.
Văn chương Lý, Trần đối với tôi thiếu mất cái hào nhoáng, cái bay bướm. Đó là cả
một sự mù quáng mà mãi đến mấy chục năm sau này tôi mới nhận ra…” [28, tr. 20].
Hoạt động sáng tác
Không chỉ là một nhà biên khảo, nhà nghiên cứu văn hóa có ảnh hưởng mà Bùi
Kỷ còn thể hiện một tâm hồn tinh tế qua một loạt các sáng tác văn học với khá
nhiều thể loại: văn (nghị luận, phú, văn tế, câu đối...), thơ (thơ chữ Hán, thơ tiếng
Việt). Khi kiến giải về nghề văn, ông từng nói: “...Có phải người nào và lúc nào
cũng viết được văn hay? Làm thế nào và điều khiển được tài tử biểu diễn tư tưởng
và tình cảm?...” [66, tr. 397]. Ông đặt ra vấn đề như vậy cũng bởi vì ông muốn dùng
văn thơ để thể hiện thế giới tinh thần, gửi gắm tâm tình thế sự của mình.
Các sáng tác văn thơ của Bùi Kỷ đã tạo nên dấu ấn sâu sắc trong làng văn
chương thời bấy giờ. Hai soạn giả Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú cũng khẳng định:
“Thuở ấy, Hà thành có ba nhân vật thuộc loại khách văn chương của giới ca trù,
mỗi vị có một cái tên tự nhận: Á Nam Trần Tuấn Khải là “bi” (sầu), Bùi Kỷ là
“ưu” (lo lắng cho đời), Tản Đà là “ngông” [67, tr. 38]. Hai soạn giả cũng lấy làm
tiếc vì không thu thập được sáng tác nào của Bùi Kỷ thuộc thể loại ca trù. Tuy
nhiên, đến nay, qua hai cuốn Văn thơ của Ưu Thiên Bùi Kỷ của Lê Tư Lành và Thơ
văn Bùi Kỷ của Nguyễn Văn Huyền, chúng ta đã biết được nhiều bài thơ thuộc thể
loại này của Bùi Kỷ. Ông có tập thơ Ưu Thiên đồ mặc chưa xuất bản, đã bị thất lạc
nhưng một số bài thơ Đường luật và hát nói trong tập thơ đó đã được đăng trên tờ
báo Trung Bắc tân văn, Nam Phong tạp chí. Tâm tư xuyên suốt thể hiện trong các
sáng tác của Bùi Kỷ nổi bật nhất chính là sự ưu tư, lo lắng cho đời, cho người. Theo
điển tích trong sách Liệt Tử và Tả Truyện, nước Kỷ có người suốt ngày lo trời sập.
Do vậy, nhắc đến ưu thiên, nghĩa là lo trời sập, người ta nghĩ ngay đến người nước
47
Kỷ. Bùi Kỷ lấy tên tự Ưu Thiên là vì thế!
Sáng tác thơ văn của Bùi Kỷ còn thể hiện rõ con người và phẩm chất cương
trực của ông. Tiêu biểu như tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày mất của Nguyễn Du năm
1924 do Hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức, khi Kép Trà - nhà thơ trào phúng xuất sắc
lúc bấy giờ ngâm bài Văn chiêu hồn thập loại chúng sinh chế giễu các bậc quan tai
to mặt lớn đang dự lễ kỉ niệm như Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Năng Quốc, Vi Văn
Định, Lê Dư, Nguyễn Hữu Tiệp, Phạm Lê Bồng, tay chân của các vị này xông vào
định đánh Kép Trà thì Bùi Kỷ đứng ra bảo vệ. Không lâu sau sự kiện này, Bùi Kỷ
đã làm bài phú Dương Liên mắng Ngụy Trung Hiền hạn vần “chẳng đánh mà đau”
với lời lẽ đanh thép để đả kích bọn quan liêu vô liêm sỉ định sinh sự với ông Kép
Trà. Câu chuyện này đã trở thành giai thoại loan truyền khắp nơi. Điều đó cho thấy,
Bùi Kỷ tuy rất mến yêu đại thi hào Nguyễn Du và dành nhiều tâm huyết cho tác
phẩm Truyện Thúy Kiều nhưng không vì thế mà ông để mình bị rơi vào những chiêu trò mị dân của thực dân Pháp23.
Đến nay, các nhà nghiên cứu đã thu thập được khoảng 80 sáng tác thuộc đủ các
thể loại như thơ, văn xuôi, phú, câu đối của Bùi Kỷ. Những sáng tác của ông không
chỉ thể hiện một tâm hồn thơ văn phong phú mà còn gắn liền với quá trình đấu tranh
và phát triển của cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta, tiêu biểu như: Phường
chèo với giọng điệu trào phúng chế giễu chính phủ bù nhìn do phát xít Nhật lập ra
tại Việt Nam sau khi tiến hành đảo chính Pháp, Kỷ nguyên mới bày tỏ niềm phấn
khởi trước chiến thắng của cuộc Cách mạng tháng Tám... Nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Huyền đã gọi ông là “một nhà văn, ba chế độ” là vì thế! Có thể nhận thấy, mặc
dù kiêm nhiều hoạt động song qua các công trình, các sáng tác của Bùi Kỷ, nhiều
người thuộc thế hệ sau như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan... đều tỏ một thái độ
kính cẩn đối với ông bởi nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm, không bao giờ cẩu thả.
Ngay cả khi nằm trên giường bệnh những năm cuối đời, ông vẫn không ngừng sáng
23 Thời kỳ này, thực dân Pháp có bày ra nhiều chiêu trò nhằm đánh lạc hướng thanh niên, trí thức trong lúc phong trào yêu nước đang có cơ hội bột phát sau tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méc-lanh ở Quảng Châu (Trung Quốc). Về văn học, gây nên phong trào sùng bái Truyện Kiều, cho Truyện Kiều là quốc hồn, quốc túy, Nguyễn Du là cứu tinh của dân tộc với những bài diễn kịch Kiều, thi vịnh Kiều, kỷ niệm Nguyễn Du...
48
tác, khảo cứu tác phẩm văn học. Vũ Ngọc Khánh cũng từng khẳng định: “Những gì
qua tay nhà học giả Bùi Kỷ, đều là những công trình rất đáng tin cậy. Việc truyền
thụ tri thức, phổ cập văn chương đã được thầy tiến hành một cách thận trọng, đúng
như đức độ và tính gương mẫu của thầy” [32, tr. 532].
Đặc biệt, phẩm cách của Bùi Kỷ thể hiện rõ trong bài Thân thế luận của ông:
“Giàu sang không phải là sướng, nghèo hèn không phải là khổ, thất bại không
phải là nhục, thắng lợi không phải là vinh, cốt tự mình xét mình, tự hỏi mình, trong
không điều gì hổ thẹn, ngoài không điều gì sai lầm, noi theo đạo đức nhân nghĩa để
hàm dưỡng lấy tinh thần, luyện tập nên nhân cách, cho bản lĩnh ngày một thêm bền,
thao chủ ngày một thêm vững, bao giờ đến được bậc “phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thì cái công tu dưỡng mới hoàn toàn. Đến
được bậc ấy thì tự nhiên trong lòng sảng khoái, thung dung, ở vào cảnh nào cũng
vui thích. Sự vui thích này là thuộc về tinh thần, gặp thời mà thi thố được cái chí
nguyện của mình thì chữ “đạt” là vui thích. Không gặp thời thì cố hết sức cán hồi
cho tận nhân lực, đến lúc vạn bất khả nại hà, lấy chữ “minh triết” làm cốt, dẫu đời
không biết mà vẫn có giá thanh cao thì chữ “cùng” lại là vui thích…” [28, tr. 82].
Như vậy, Bùi Kỷ không hề bó khuôn công việc ở những giờ lên lớp, không
những trực tiếp biên khảo các sách phục vụ cho việc giảng dạy, mà còn sáng tác thơ
văn biểu lộ thái độ, hoài vọng của mình đối với thời thế. Bài thơ Mừng tuổi quốc
văn (năm 1920) có thể coi là tuyên ngôn của tác giả với tư cách một nhà sư phạm
đồng thời là người cầm bút có trách nhiệm, đầy tâm huyết:
Văn chương nghĩ lại, một nghề hay
Vía nước hồn dân cũng bởi đây
Ngòi bút vẽ nên tranh vận hội
Ngọn đèn soi tỏ mặt gian ngay
Vần xoay lăng cốc mòn đôi mắt
Điểm xuyết càn khôn được mấy tay
Ướm hỏi Quốc văn lên mấy tuổi
49
Làm sao khỏi phụ với râu mày [28, tr. 58].
Tiểu kết chƣơng 2
Sau nhiều lần từ chối làm quan, từ năm 1917, Bùi Kỷ đã quyết định rời quê
hương Châu Cầu và gia đình ra Hà Nội dạy học. Đây có thể được xem là sự khởi
đầu cho quá trình hoạt động văn hóa - giáo dục của ông. Bằng tất cả sự nhiệt tình,
Bùi Kỷ đã truyền cho các học trò của mình tình yêu đối với tiếng Việt, với nền văn
hóa dân tộc. Ông đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng các thế hệ học sinh, sinh
viên, đồng nghiệp. Ngoài ra, ông cũng là người có nhiều đóng góp cho phong trào
chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ 1934-1945.
Bên cạnh đó, ông còn là một nhà văn, nhà thơ. Tuy khối lượng các tác phẩm
của ông không thật đồ sộ nhưng đã cho thấy tài năng văn chương cũng như tâm tình
của người cầm bút trên các lĩnh vực như biên khảo, hiệu khảo, dịch thuật, sáng tác...
Hầu hết các nhà văn, nhà phê bình văn học đều ghi nhận, trong văn giới Việt Nam,
Bùi Kỷ nổi tiếng là một nhà văn chín chắn, thận trọng. Đặc biệt, tên ông thường đi
kèm với học giả Trần Trọng Kim trên nhiều cuốn sách giá trị, được Vũ Ngọc Phan
liên tưởng đến cái tên Erckmann - Chatrian trong văn giới Pháp, hai cái tên đi cặp
50
kè và cũng nổi tiếng về văn học và sử học.
CHƢƠNG 3. HOẠT ĐỘNG YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA BÙI KỶ
Cần khẳng định, ngay khi đỗ Phó bảng năm 1910, Bùi Kỷ đã bộc lộ là một
người có tư tưởng yêu nước. Vì yêu nước nên ông đã nhiều lần từ chối các chức
tước trong bộ máy chính quyền phong kiến nhà Nguyễn cũng như Nhà nước bảo hộ.
Tinh thần dân tộc của ông không thể hiện bằng tư tưởng bạo động nhưng lại sâu sắc
qua chính những cống hiến của ông trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục. Ở đây, chúng
tôi muốn nhấn mạnh đến những hoạt động yêu nước của Bùi Kỷ trong sự liên hệ với
các trí thức cách mạng tiêu biểu và phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.1. Cuộc gặp gỡ với Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành
Tháng 2-1911, Bùi Kỷ được chính quyền thực dân Pháp cử đi học tại Trường Thuộc địa ở Paris24. Với Bùi Kỷ, đây là cơ hội để ông tiếp xúc với nền văn minh
phương Tây hiện đại, mở rộng tầm mắt, và có lẽ ông cũng có những lý tưởng sâu xa
hơn. Tại đây, ông đã gặp gỡ nhiều trí thức Việt Nam yêu nước, trong đó có Phan
Châu Trinh. Trong lá thư gửi Ngô Đức Kế năm 1927, Bùi Kỷ có viết: “Tôi đến
Pháp tháng 2.1911, ông Phan đến tháng 6.1911, Nguyễn Chuyên cùng sang một
chuyến tàu. Khi mới sang ông Phan sang ở Galucoque, gần Trường Thuộc địa, vì
vậy tôi hay đến gặp [...]. Lúc mới đến ông Phan không biết một tiếng Pháp nào, có
lúc tôi đến phiên dịch giúp ông hay dịch báo cho ông nghe” [34, Q3, C6, tr. 183].
Điều này cho thấy mối quan hệ thân thiết giữa Bùi Kỷ và Phan Châu Trinh. Hẳn là
Bùi Kỷ từ khi còn ở Việt Nam đã nghe danh ông Phan Châu Trinh và có thể đã có
lần tiếp xúc bởi Phan Châu Trinh và thân phụ Bùi Thức của ông không phải là
những người xa lạ. Vì thế, năm 1911, khi Phan Châu Trinh cùng với con trai là
Phan Châu Dật đến Pháp, Bùi Kỷ với vốn tiếng Pháp thông thạo đã nhiệt tình hết
24 Về thời điểm Bùi Kỷ sang Pháp du học, các nguồn tài liệu có sự ghi chép không thống nhất: Cuốn Tuyển tập thơ Hà Nam ghi năm 1909; các cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, Từ điển bách khoa đất nước con người Việt Nam ghi năm 1910; Các cuốn Nhân vật lịch sử văn hóa Hà Nam, Tuyển tập văn Hà Nam, Thơ văn Bùi Kỷ lại ghi năm 1912. Tuy nhiên, theo nguồn tư liệu còn lưu giữ tại Pháp, thì Bùi Kỷ sang Pháp học vào tháng 2-1911. Xem Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh (1872 - 1926) qua những tài liệu mới, Tập 1, Nxb. Đà Nẵng, 2011.
51
sức giúp đỡ, gần gũi với hai cha con ông Phan. Ngoài ra, Bùi Kỷ còn tham gia kèm
cặp giúp cậu Dật học tiếng Pháp. Cậu Dật cũng rất tôn trọng Bùi Kỷ, gọi ông là
“thầy Bảng Kỷ”.
Nhờ sự giúp đỡ của Bùi Kỷ nên Phan Châu Trinh đã bước đầu khắc phục được
những khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa khi mới đến Pháp. Vào thời điểm đó, chính
quyền thuộc địa rất ghét ông Phan, còn một số người Việt tuy quý ông nhưng do
ngại liên lụy đến gia đình ở trong nước nên ít dám đến. Vì thế, việc Bùi Kỷ sớm gần
gũi, thân thiết với cha con Phan Châu Trinh cũng phần nào thể hiện được sự đồng
cảm về chí hướng của ông đối với nhà dân chủ.
Theo sáng kiến của Phan Châu Trinh, Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité)
được thành lập vào ngày 18-2-1912 do luật sư Phan Văn Trường làm Hội trưởng,
Nguyễn Như Chuyên làm Thư ký và Khánh Ký làm Thủ quỹ, ra mắt tại Trường
Parangon. Theo tác giả Thu Trang trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu
Trinh tại Pháp (1911-1925), năm 1912, mới có khoảng 100 người Việt Nam sinh
sống và làm việc ở Pháp (bồi bếp, quan chức nhỏ và 40 học sinh phần lớn theo học
tại trường Parangon). Ngay sau khi thành lập, Hội đã thông qua điều lệ, thu hút sự
quan tâm của nhiều người Việt, kể cả một số trí thức Pháp. Tuy nhiên, do bị chính
quyền thuộc địa ra sức công kích Hội nên Thư ký Hội phải xin thôi việc và Bùi Kỷ
được cử vào thay giữ chức vụ này. Mục đích của Hội theo như công bố rộng rãi là
nhằm tạo điều kiện cho những người nước ta đến học nơi xa được thường xuyên hội
họp, gặp gỡ nhau, quan hệ thân mật và thông cảm với nhau; thăm hỏi và giúp đỡ
lẫn nhau khi có ai gặp khó khăn hay bị ốm đau; bằng một sự phát triển dần dần, tập
hợp nỗ lực của họ nhằm giúp họ quy tập, trau dồi trong tất cả các ngành văn học và
khoa học [34, Q3, C5, tr. 139]. Tuy vậy, ý định của Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường, Bùi Kỷ không dừng lại ở đó, họ muốn xây dựng Hội thành một tổ chức yêu
nước, đoàn kết đấu tranh đòi quyền dân chủ cho người Việt, nhất là đối với các học
sinh đang học tập tại Pháp. Đầu thế kỉ XX, Salles với tư cách là Giám đốc vụ Thuộc
địa và Tổng thư ký ủy ban Paul Bert phụ trách vấn đề giáo dục Đông Dương tại
Pháp, được giao nhiệm vụ quản lý số học sinh Việt Nam được cử sang Pháp học.
Tuy nhiên, vì muốn kìm hãm người Việt tiếp xúc với nền giáo dục hiện đại, Salles
52
đã tập trung tất cả học sinh Việt Nam vào Trường Tiểu học tư thục Parangon, mà
học 7-8 năm mới chỉ đạt đến cao đẳng tiểu học. Do đó, Hội Đồng Bào Thân Ái lập
ra không chỉ tạo điều kiện cho người Việt hội họp mà còn làm nhiệm vụ giải thích
cho học sinh hiểu rõ là muốn học ở Pháp có kết quả thì đừng trông cậy vào ông
Salles. Cùng với đó, Phan Văn Trường có dịp sang Anh để tìm hiểu về nền giáo dục
của nước này, còn Bùi Kỷ cũng được giao nhiệm vụ là khi trở về Bắc Kỳ sẽ tuyên
truyền vận động đưa thanh thiếu niên sang học ở Hồng Kông hay Anh, chứ không
đến Pháp nữa [34, Q3, C5, tr. 53]. Ngoài nhiệm vụ Thư ký, trong thời gian này, Bùi
Kỷ có một lần thuyết trình về đề tài bản năng con người, nhằm phổ biến kiến thức
khoa học cho học sinh.
Với những hoạt động trên, Hội Đồng Bào Thân Ái đã khiến cho thực dân Pháp
phải canh chừng. Trong thư gửi cho Bộ trưởng Thuộc địa ngày 24-4-1912, Toàn
quyền Sarraut viết: “Xem qua nội dung các điều khoản thì không có gì đáng lưu ý.
Nhưng đáng ngại là các thành viên trong các phiên họp sẽ có dịp để bình luận theo
kiểu họ những sự kiện chính trị ở Pháp, ở Viễn Đông và có quan hệ với bạn bè của
họ ở Đông Dương. Từ đó ảnh hưởng xấu đến tư tưởng của đám trí thức trong đó
thường có những kẻ tích cực hoạt động chống Pháp...” [34, Q3, C5, tr. 146]. Vì
vậy, thực dân Pháp thường xuyên để ý, công kích và gây khó khăn cho hoạt động
của Hội. Cuối năm 1914, sau khi Phan Văn Trường cùng với Phan Châu Trinh bị
thực dân Pháp bắt giam thì Hội Đồng Bào Thân Ái cũng bị giải thể.
Như vậy, ngay từ khi mới bắt đầu sang Pháp, Bùi Kỷ đã gặp gỡ, giúp đỡ Phan
Châu Trinh để ông có điều kiện hoạt động ở Pháp. Và hơn thế, Bùi Kỷ còn làm Thư
ký của Hội Đồng Bào Thân Ái. Trong quá trình đó, ông cùng với Phan Châu Trinh
và Phan Văn Trường đã bàn bạc, xây dựng tổ chức Hội và đạt được những kết quả
nhất định. Dù thời gian tồn tại không dài nhưng ý chí, nguyện vọng của tổ chức Hội
Đồng Bào Thân Ái đã phản ánh khá rõ nét tư tưởng yêu nước của người dân Việt xa
xứ. Đây là tổ chức đầu tiên của người Việt yêu nước tại Pháp, là cơ sở cho sự ra đời
của các tổ chức yêu nước của người Việt tại nước ngoài sau này.
Ngoài việc giúp đỡ Phan Châu Trinh học tiếng Pháp, tham gia Hội Đồng Bào
Thân Ái, Bùi Kỷ còn sẵn sàng góp ý với Phan Châu Trinh về tính cách của cụ: “ông
53
Phan tính thẳng quá, nhiều người muốn lấy nguyên lý nhân đạo ra bàn đều bị ông
bác thẳng cánh, thậm chí cự tuyệt không giao thiệp nữa. Tôi thường nói với ông:
“Đến Pháp không phải để làm ngự sử”. Thật ra ông cũng biết ân hận nhưng rất
khó sửa, khó tránh được kiểu chim ưng đuổi chim sẻ, muốn sửa cũng khó” [34, Q3,
C6, tr. 185]. Tuy vậy, ý kiến của Bùi Kỷ cũng giúp Phan Châu Trinh sau này có
những lời khuyên bổ ích cho Nguyễn Tất Thành, tránh được nhược điểm nóng tính
của ông.
Sau thời gian gặp gỡ trên đất Pháp, khoảng đầu năm 1913, Bùi Kỷ về nước, còn
Phan Châu Trinh không lâu sau đó cũng bị thực dân Pháp bắt bớ. Sau nhiều năm
truân chuyên tại nước ngoài, năm 1925 Phan Châu Trinh trở về nước và đến ngày
24-3-1926, ông mất tại Sài Gòn, giữa lúc phong trào đấu tranh công khai đã tới mức
cao độ. Đám tang Phan Châu Trinh ở Sài Gòn đã thu hút 14 vạn người đi đưa và lễ
truy điệu được cử hành long trọng suốt từ Nam chí Bắc. Phong trào để tang chí sĩ
Phan Châu Trinh phát triển rầm rộ, khơi động mạnh mẽ và sâu rộng trở thành một
phong trào yêu nước trong nhân dân. Tại Hà Nội, ngày 4-4-1926, lễ truy điệu cụ
Phan được tổ chức ở Đền Hai Bà Trưng thuộc Đồng Nhân. Tại đây, nhiều nhân sĩ
như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu... đã đọc điếu văn, câu
đối bày tỏ niềm cảm thương của mình dành cho cụ Phan. Bùi Kỷ, với tư cách một
bạn khoa bảng chí thiết, lại cùng ở Paris một thời, đã đọc Bài truy điệu Phan Châu
Trinh vừa thống thiết, xúc động vừa tôn vinh nhà chí sĩ:
“Đoạn kim nhớ bạn, nghĩa cũ băn khoăn
Mai ngọc tiếc người, mối sầu ngơ ngẩn
Truyện giai nhân này phút lâm li
Hội thân ái kìa bài bi phẫn” [28, tr. 101].
Cùng với đồng bào cả nước, Bùi Kỷ đã góp tiếng nói, hành động của mình vào
phong trào truy điệu và để tang Phan Châu Trinh. Đây được xem như một cuộc biểu
dương lực lượng, tạo động lực mạnh mẽ cho cao trào vận động yêu nước có quy mô
toàn quốc nhất là trong giới trí thức và thanh niên, học sinh.
Ngoài Phan Châu Trinh, Bùi Kỷ ngay từ sớm đã có duyên gặp gỡ và có mối
quan hệ thân tình với Nguyễn Tất Thành, một người có ảnh hưởng rất lớn đến
54
phong trào cách mạng Việt Nam sau này. Chúng ta biết, thân sinh của Nguyễn Tất
Thành là Nguyễn Sinh Huy, đỗ Phó bảng năm 1901 cùng với Phan Châu Trinh, còn
thân sinh của Bùi Kỷ là Bùi Thức đỗ Tiến sĩ năm 1898. Cùng là người thi cử đỗ đạt
nên Phan Châu Trinh, Nguyễn Sinh Huy và Bùi Thức chắc hẳn có sự hiểu biết lẫn
nhau. Ông Nguyễn Tất Đạt (anh trai của Nguyễn Tất Thành) sau này có kể lại cho
nhà văn Sơn Tùng: “Để khuây nỗi đau vợ sớm qua đời, sau khi đỗ phó bảng, cụ
Sinh Huy đang đi chơi đây đó, thường cho Tất Thành cùng đi. Chuyến đầu tiên vào
Quảng Nam, cùng đi có Hồ Tá Hiệu và con trai là Hồ Tá Bang, chuyến thứ hai đi
làm nhiều chặng: Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình rồi ra Hà
Nội, khi quay về đến Hà Nam ghé thăm cụ Bùi Thức, thân sinh của cụ Bùi Kỷ” [34,
Q2, C6, tr. 206]. Bên cạnh đó, hồi ức của ông Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác Hồ đã
cung cấp thêm thông tin về sự gặp gỡ giữa Nguyễn Tất Thành và Bùi Kỷ từ thời
niên thiếu: “Xúc động trước việc cụ Bùi Kỷ vừa qua đời, Người kể chuyện: Thân
sinh ông Bùi Kỷ là cụ Bùi Thức đã làm bạn của cụ Sinh Huy từ khoa thi Hội năm
1898, làm quen nhau trong trường thi, lui tới nhau trong khi đợi kết quả. Cụ Bùi
Thức đỗ Tiến sĩ, cụ Sinh Huy bị hỏng. Năm 1901, sau khi thi đỗ Phó bảng, cụ Sinh
Huy có đưa Tất Thành ra Bắc tìm thăm cụ Bùi Thức tại xã Châu Cầu huyện Kim
Bảng tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở
ấy” [34, Q3, C6, tr. 190]. Ngoài ra, khi còn ở Việt Nam, Nguyễn Tất Thành cũng đã
thân thiết với Phan Châu Trinh, bạn của cụ thân sinh Nguyễn Sinh Huy.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) sang Pháp, tàu
cập cảng Marseille vào ngày 6-7-1911 và đến cảng Le Havre ngày 15-7-1911. Tại
Le Havre, Người ở lại 40 ngày trước khi rời đến cảng Dunkerque. Do khoảng cách
giữa Le Havre và Paris chỉ có hơn 100km, đi lại dễ dàng, nên trong dịp này, Người
đã tranh thủ đến Paris gặp Phan Châu Trinh để thăm hỏi, trò chuyện công việc. Và
tại Paris, Nguyễn Tất Thành cũng đã có cơ hội được hội ngộ với Bùi Kỷ. Chi tiết
này cũng được ông Vũ Kỳ nhắc đến: Họ đã vui mừng tại nhà bác Phan trong các
dịp Tất Thành đến thăm bác Phan tại Paris... [34, Q3, C6, tr. 190]. Như thế, vào
năm 1911, bộ ba Bùi Kỷ - Phan Châu Trinh - Nguyễn Tất Thành đã cùng đến Pháp
55
và họ đã gặp gỡ nhau nhiều lần tại Paris.
Thời kỳ này, Nguyễn Tất Thành còn hoàn toàn chịu ảnh hưởng đường lối cải
cách của Phan Châu Trinh. Vì thế, khi đến Pháp, Nguyễn Tất Thành đã gửi cho
Tổng thống Pháp lá đơn xin học bổng học nội trú tại Trường Thuộc địa. Lá đơn này
được gửi đi ngày 15-9-1911 sau khi tàu rời cảng Dunkerque ghé Marseille chuẩn bị
trở qua Đông Dương. Trường Thuộc địa được lập ra năm 1885 chủ yếu để đào tạo
các viên chức Pháp đưa sang cai trị các thuộc địa, có một ngạch bản xứ nhỏ dành
cho các thanh niên được Phủ Toàn quyền Đông Dương đặc biệt cấp học bổng sang
Pháp. Ngày 30-4-1910 có một Nghị định mới nhằm mở rộng ngạch bản xứ nói trên
để đào tạo các nhân viên trung cấp kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan ở Đông
Dương. Học bổng chỉ dành cho con em các gia đình được chính quyền Pháp ưu ái...
Quyết định xin vào học Trường Thuộc địa của Nguyễn Tất Thành nằm trong xu
hướng chung của nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước là mong muốn đạt được một
nền học vấn cao, tiếp thu được các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại là cơ sở tạo
nên sức mạnh của phương Tây. Nhưng điều lạ là không rõ bằng cách nào một thanh
niên mới chân ướt chân ráo đến Pháp như Nguyễn Tất Thành lại phát hiện được tình
hình để xin học bổng vào Trường Thuộc địa, mặc dù sau đó không được đáp ứng.
Cần thấy rằng, việc Nguyễn Tất Thành mới đến Pháp vài tháng đã có các hiểu biết
chính xác về chủ trương mới “mở rộng ngạch bản xứ” và một người mới có trình độ
tiếng Pháp sơ khai lại có thể viết một lá đơn bằng tiếng Pháp khá chuẩn là một điều
khó hiểu. Vậy ai là người đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành? Đến nay, dựa theo các
nguồn tư liệu còn lưu giữ tại Pháp cũng như các tài liệu trong nước đã được khai
thác, tác giả Lê Thị Kinh cho rằng: “Chính Bùi Kỷ, có thể cả Phan Văn Trường, đã
“cố vấn” cho Tất Thành xin vào Trường Thuộc địa, và các vị giỏi tiếng Pháp đã
thảo giúp lá đơn được gửi ngày 15/9/1911 từ cảng Marseille” [34, Q2, C6, tr. 211].
Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi giữa Bùi Kỷ và Nguyễn Tất Thành đã có mối liên
hệ từ trước, Bùi Kỷ khi đó đang học tại Trường Thuộc địa, lại thông thạo tiếng
Pháp.
Phó bảng Bùi Kỷ với tinh thần yêu nước vốn có đã hết sức giúp đỡ Phan Châu
Trinh và Nguyễn Tất Thành khi ở Pháp. Ông cũng tích cực tham gia và là người có
56
đóng góp nhất định trong hoạt động của Hội Đồng Bào Thân Ái, tổ chức đầu tiên
của người Việt yêu nước tại Pháp. Sau khi về nước, ngoài công việc giảng dạy với
tất cả nhiệt huyết đối với nền văn hóa dân tộc, Bùi Kỷ cũng dấn thân vào các hoạt
động yêu nước của giới trí thức cả nước. Ông đã tham gia vào phong trào truy điệu
Phan Châu Trinh năm 1926 với bài truy điệu xúc động.
3.2. Bùi Kỷ với phong trào truyền bá Quốc ngữ (1938 – 1945)
Duyên gặp gỡ với Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc cũng như với nhiều nhân
sĩ cách mạng như Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh... đã có ảnh hưởng rất lớn đến tư
tưởng và hành động của Bùi Kỷ, đưa ông từ yêu nước đến hoạt động cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau là Đảng Cộng sản Đông
Dương). Sau năm 1930, mặc dù chưa đứng vào hàng ngũ của Đảng nhưng Bùi Kỷ
đã tích cực tham gia vào phong trào truyền bá Quốc ngữ, cũng là một mặt trận yêu
nước của Đảng ta.
Thủ đoạn quán triệt của thực dân Pháp trong suốt quá trình nô dịch xứ Đông
Dương là thực hiện chính sách ngu dân, truyền bá một nền giáo dục không đầy đủ
nhằm đào tạo những công chức bản xứ hạ đẳng, những giáo viên sơ cấp, những
thông ngôn và thư ký để làm cho bộ máy cai trị, cho các nhà buôn... Thực hiện mục
tiêu đó, thực dân Pháp, một mặt hạn chế việc phát triển giáo dục, thu hẹp việc mở
trường lớp tới mức tối thiểu và kiểm soát gắt gao; mặt khác, áp dụng một chương
trình giảng dạy mang nội dung nô dịch thấp kém. Mặc dù cho tới đầu thế kỉ XX,
chính quyền thuộc địa đã loại bỏ Hán học và có những chính sách mở rộng nhất
định đối với các trường Pháp - Việt, dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ nhưng vẫn có
khoảng 95% dân số Việt Nam không được học, phải chịu cảnh mù chữ. Trước thực
tế đó, Phan Châu Trinh và giới trí thức Việt đã sớm cổ động phong trào Đông Kinh
nghĩa thục, cổ xúy học tiếng Việt, nâng cao dân trí. Từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc
hoạt động cách mạng ở Pháp, đã gửi “Bản yêu sách” gồm 8 điểm đòi “tự do, dân
chủ” cho nhân dân ta, lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Năm 1925, Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập, mở lớp huấn luyện, giảng về
“Đường cách mệnh”, Người chỉ dẫn: Lập trường học cho công nhân, lập trường học
cho con cháu công nông, lập nơi xem sách báo. Năm 1930, thành lập Đảng Cộng
57
sản Việt Nam, trong Chính cương vắn tắt của Đảng, Người nêu nhiệm vụ “Phổ
thông giáo dục theo công nông hóa”, và trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập
Đảng, Người nêu khẩu hiệu “Thực hiện giáo dục toàn dân”.
Tất cả những sự kiện trên cho thấy, nền giáo dục kìm hãm của thực dân Pháp đã
không thể đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân ta, và hơn thế, càng không thể đáp
ứng được nhiệm vụ cách mạng là giải phóng dân tộc. Hơn ai hết, đội ngũ trí thức
Việt Nam nhận thức rõ, song song với việc phê phán chính sách giáo dục của thực
dân thì cần phải có biện pháp thúc đẩy sự học trong nhân dân, mà trước hết là học
chữ Quốc ngữ. Mô hình học tập này bị đàn áp, mô hình khác lại mau chóng mọc lên
thay thế. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục, từ những năm 1927-1928, nhiều chiến sĩ
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sau khi dự lớp huấn luyện chính trị của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở về nước đã mở được những lớp học Quốc ngữ ở
nhiều nơi. Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh cuối năm 1930, nhiều vùng nông
thôn ở Nghệ An, Hà Tĩnh rầm rộ mở các lớp học Quốc ngữ. Mặc dù những lớp học
như vậy chưa được mở rộng rãi và cũng sớm bị chính quyền thực dân gây khó khăn
cấm đoàn, song đã có những tác dụng nhất định cũng như để lại nhiều bài học kinh
nghiệm về tổ chức cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào dạy học chữ Quốc
ngữ thực tế không bị dập tắt mà vẫn được Đảng và nhân dân ta âm thầm thực hiện,
chờ thời cơ để mở rộng.
Năm 1936, Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động của Đảng ta về nhiều mặt. Mặc dù cho tới tháng 9-1936, Chính phủ
Blum vẫn chưa có cam kết cụ thể nào nhưng ở một số khía cạnh, cũng đã tạo những
thuận lợi nhất định cho sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới, Đảng Cộng sản Đông
Dương cũng kịp thời có những điều chỉnh về mặt chiến lược, sách lược. Đảng hoạt
động một phần công khai, đã ra nhiều sách báo công khai, lập nhiều tổ chức quần
chúng công khai như các Hội Ái hữu, các ngành nghề… Sách, báo ra nhiều mà quần
chúng cách mạng và nhân dân phần nhiều vẫn mù chữ, thì không phát huy được hết
tác dụng. Trong năm 1937, báo chí cũng nhiều lần nêu lên sự cấp thiết phải chống
nạn mù chữ, phải lập Hội chống nạn mù chữ… Trước yêu cầu của cách mạng, lòng
58
mong mỏi thiết tha của quần chúng nhân dân, cộng với thời cơ phong trào dân chủ
đang dâng cao, đầu năm 1938, Đảng quyết tâm đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù
chữ và truyền bá Quốc ngữ trong nhân dân cả nước, nhằm khai sáng và mở mang
dân trí. Đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt cử Phan Thanh đến gặp cụ
Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ, Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp... đều
thống nhất thành lập một tổ chức với tên gọi “Hội chống nạn thất học”. Khi thành
lập lấy tên là Hội Truyền bá Quốc ngữ (không đặt là Hội chống nạn thất học vì có
từ “chống” nhà cầm quyền thực dân khó chấp nhận). Lễ ra mắt được tổ chức vào
ngày 25-5-1938 tại Câu lạc bộ Thể thao An nam, tức Hội quán Cercle Sportif
Annamite, phố Khúc Hạo, Hà Nội. Ban trị sự lâm thời và các ban chuyên môn giúp
việc cũng đã lập xong, theo đó: Nguyễn Văn Tố (Hội trưởng), Bùi Kỷ (Phó Hội
trưởng), Phan Thanh (Thư ký, Trưởng ban Cổ động), Quản Xuân Nam (Phó Thư
ký, Trưởng ban Khánh tiết), Đặng Thai Mai (Thủ quỹ), Võ Nguyên Giáp (Phó thủ
quỹ, Trưởng ban Dạy học), Hoàng Xuân Hãn (Cố vấn, Trưởng ban Tu thư) [71, tr.
6].
Như vậy, Bùi Kỷ, một nhà sư phạm giàu chuyên môn, tận tâm với nền văn hóa -
giáo dục nước nhà đã được Đảng ta tin tưởng bầu chọn làm Phó Hội trưởng Hội
truyền bá Quốc ngữ. Và tất nhiên, Bùi Kỷ không có lý do gì để từ chối nhiệm vụ
quan trọng đó. Công việc cụ thể của Bùi Kỷ trong Hội Truyền bá Quốc ngữ không
được ghi chép nhiều, nhưng có thể khẳng định rằng, ông đã hòa mình vào phong
trào văn hóa quan trọng nhất mà Đảng ta lãnh đạo, cũng là một mặt trận yêu nước
thời kỳ này. Ông cùng với Hội trưởng Nguyễn Văn Tố đã thường xuyên lưu tâm,
lãnh đạo hoạt động của Hội như phân công công việc cho các ban, soạn thảo điều lệ,
tuyên truyền, biên soạn nội dung giảng dạy, xây dững quỹ Hội... nhằm đạt được
mục tiêu mà Đảng đã đề ra. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền có nhắc đến một
chi tiết: Giáp cuộc Tổng khởi nghĩa, Bùi Kỷ có trở về quê Châu Cầu để vận động
nhân dân xóa nạn mù chữ [28, tr. 31]. Hình ảnh một vị Phó bảng sau 35 năm, nay
về làng bắt tận tay, nắn từng nét chữ i-tờ cho bà con thực là đáng quý. Ngoài ra,
chúng ta còn biết được một chi tiết khác: “Lúc phát xít Nhật sang lật Pháp, rồi sau
đó ngay tại Phủ Lý, chúng đã bắt trói cụ (tức Bùi Kỷ) một ngày một đêm tại sân trại
59
lính” [66, tr. 391]. Nhưng sự bắt bớ ấy không hề làm Bùi Kỷ nao núng, sợ hãi.
Chính vì vậy, hoạt động truyền bá Quốc ngữ của ông được đánh giá cao: “sau quá
nửa đời người băn khoăn, trăn trở vẫn giữ được cốt cách cứng cỏi, thanh sạch và
vẫn tìm được cách sống có ích cho phong hóa. Riêng điều đó cũng đáng kể là có ý
nghĩa cho một cuộc đời và dễ dàng chiếm được lòng tin yêu của cách mạng” [28, tr.
31].
Từ Hội Truyền bá Quốc ngữ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ sau đó cũng thành
lập được Hội Truyền bá Quốc ngữ của mình. Tính từ ngày thành lập đến Cách mạng
tháng Tám 1945, Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động được 7 năm, đã gây được một
phong trào rộng ở nhiều nơi trong cả nước và dạy được hơn 5 vạn người biết đọc,
biết viết và những điều thường thức cần thiết. Việc nâng cao dân trí bước đầu ấy đã
đáp ứng nhu cầu thiết tha của quần chúng và có tác động tích cực đến việc tổ chức
và giác ngộ quần chúng, như Xứ ủy Bắc Kỳ đã khẳng định: Đây là “trường học văn
hóa rộng lớn và cũng là trường học yêu nước, yêu dân” [23, tr. 114]. Công cuộc
chống nạn mù chữ thất học đã tiến hành từ nhiều năm trước nhưng rõ ràng là đến
thời kỳ Hội Truyền bá Quốc ngữ mới giành được những thắng lợi đầu tiên đáng kể.
Sự thành công ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự lãnh đạo khéo léo của
Đảng, Ban Trị sự và các ban chuyên môn của Hội hoạt động nghiêm túc, phương
pháp giảng dạy thích hợp..., và một điều quan trọng nữa là nhờ có vai trò của những
người lãnh đạo Hội. Vào thời kỳ đó, Đảng chủ trương mời Nguyễn Văn Tố làm Hội
trưởng và Bùi Kỷ làm Phó Hội trưởng là có những lý lẽ, cơ sở. Nguyễn Văn Tố và
Bùi Kỷ đều là những nhà nho có uy tín, chưa tham gia vào tổ chức Đảng nên để giữ
chức lãnh đạo Hội sẽ phần nào hạn chế được sự bắt bẻ của chính quyền thực dân.
Riêng đối với cá nhân Bùi Kỷ, ông là một người am tường cả cổ kim đông tây, lại là
một nhà sư phạm giảng dạy Việt văn có tiếng, chắc chắn đáp ứng được yêu cầu của
Hội về cả tư chất lẫn chuyên môn. Mặc dù chỉ tham gia ban lãnh đạo Hội trong mấy
năm đầu hoạt động, song cho đến những năm 1944 - 1945, Bùi Kỷ vẫn là một hội
viên hết sức nhiệt tình, năng nổ và có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển
sâu rộng của phong trào truyền bá Quốc ngữ.
Vượt ra khỏi phạm vi ngành giáo dục, Hội Truyền bá Quốc ngữ với tư cách là
60
một tổ chức công khai được Đảng lãnh đạo, đã có đóng góp quan trọng đặc biệt
trong sự nghiệp chống nạn thất học ở nước ta. Những kinh nghiệm phong phú về tổ
chức một phong trào dân tộc sôi nổi có tính quần chúng, về xây dựng chương trình
học và biên soạn sách giáo khoa, về canh tân phương pháp sư phạm xóa mù chữ...
chính là một cơ sở đầy sinh lực cho sự nghiệp Bình dân học vụ sau này. Trong thư
kêu gọi nhân dân học chữ Quốc ngữ năm 1945, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng
định: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như anh chị em trong
sáu, bảy năm nay, đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ giúp đồng bào thất học”
[92, tr. 7].
3.3. Bùi Kỷ với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Với những đóng góp to lớn cho nền văn hóa - giáo dục cũng như sự thành công
của cuộc Cách mạng tháng Tám, sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập, Bùi Kỷ tiếp tục được Chính phủ tin tưởng giao phó cho nhiều chức
vị quan trọng. Mặc dù lúc này, ông tuổi đã cao nhưng vẫn hăng hái, nhiệt tình tham
gia cách mạng, được mọi người hết sức nể trọng. Đó là dấu mốc lớn trong quá trình
chuyển biến tư tưởng của ông, từ yêu nước mà khước từ chức quan với chính quyền
thực dân và chính phủ Nam triều đến thân Đảng và rồi hoàn toàn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng.
Ngay sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chính phủ
đã cử Bùi Kỷ cùng với nhiều trí thức khác đến giảng dạy cho Đại học Văn khoa của
Đại học Quốc gia Việt Nam. Hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai
trò của các tầng lớp trí thức, coi đó là thứ men tốt để xây dựng và phát triển đất
nước. Trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề nghị cử một Ban cố vấn 10 vị cho Chủ tịch nước, Bùi Kỷ là một trong số
đó. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến trường kỳ bắt
đầu, ông lại một lòng muốn góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì vậy, sau
khi hết nhiệm vụ giảng dạy tại Đại học Văn khoa, Bùi Kỷ cùng với Nguyễn Văn
61
Xước đã được Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 135/SL ngày 15-2-1948, cử làm Ủy
viên nhân dân trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 325. Sau đó, Bùi Kỷ
còn được cử đảm nhiệm chức vụ Hội trưởng Chi hội Liên Việt Liên khu 3 (sau là
Chủ tịch Ủy ban Liên Việt Liên khu 3) và Hội trưởng Hội Văn hóa kháng chiến
Liên khu 3 [98, tr. 1-4].
Chúng ta biết rằng, trước năm 1951, phần lớn đất đai của Liên khu 3 như Hà
Nội, Nam Định, Hòa Bình... đã bị địch kiểm soát. Nhiều cán bộ hoạt động (phần lớn
là các thân hào, thân sĩ) tại đơn vị bị bắt bớ, phải ở ẩn hoặc ngừng hoạt động. Bởi
vậy, không phải ai cũng có lòng dũng cảm, sự mưu trí để tham gia hoạt động cách
mạng trong thời kỳ này. Và lại, Bùi Kỷ là một trường hợp khá đặc biệt bởi trong khi
phần đa cán bộ của Liên khu 3 đều là những người trẻ tuổi thì ông lúc này đã hơn
60 tuổi. Trong khói lửa của chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Liên khu 3 đã
phải nhiều lần di tản hàng chục, hàng trăm cây số, đó là chưa kể các cuộc họp bất
thường lúc đêm khuya, giá rét... Khó khăn là thế, lại tuổi cao sức yếu song ông
không bao giờ than thở, nản chí. Đóng góp của Bùi Kỷ đối với phong trào cách
mạng gắn liền với hoạt động của các tổ chức mà ông tham gia lãnh đạo.
Bùi Kỷ được cử làm Ủy viên nhân dân Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên
khu 3 từ năm 1948-1956. Trong khoảng thời gian đó, ông cùng với Nguyễn Văn
Xước đã có những ý kiến đóng góp kịp thời để công tác lãnh đạo Liên khu được
thực hiện có hiệu quả; đồng thời, có những thông tư, thông tri hướng dẫn, phân
công công việc của Liên khu cho các phòng, ban. Trong những năm đầu thành lập,
do cán bộ Liên Việt chuyên trách còn ít nên hoạt động không đạt được hiệu quả cao,
vai trò chỉ đạo của Chi hội Liên Việt Liên khu 3 bị lu mờ. Trong khi đó, đây lại là
vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng như Công giáo chiếm số lượng khá đông nên
các đoàn thể yêu nước phát triển khó, chủ trương, đường lối của Đảng ít được phổ
25 Để đáp ứng yêu cầu cách mạng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 120/SL quy định việc thành lập các liên khu. Liên khu 3 được thành lập trên cơ sở hợp nhất của 3 Khu: 2, 3 và 11. Nguyễn Văn Trân được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính Liên khu 3, Đặng Kim Giang làm Phó Chủ tịch.
62
biến. Trước thực tế đó, với trách nhiệm là Hội trưởng Chi hội Liên Việt, sau là Chủ
tịch Ủy ban Liên Việt26, Bùi Kỷ với tất cả niềm mong mỏi của mình, đã thực hiện
nhiều biện pháp nhằm điều chỉnh lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hoạt động của
Ủy ban. Chẳng hạn như từ khi thành lập đến tháng 5-1952, Ủy ban đã họp được 3
lần: lần 1 họp sau khi thành lập để hoàn thiện bộ máy làm việc; lần 2 họp bất
thường vào 28-12-1951 để đặt kế hoạch phổ biến Nghị quyết của Hội nghị hòa bình
thế giới ở Việt Nam và phát động phong trào thi đua lập công; lần 3 (6 tháng 1 kỳ)
để vận động nhân dân thực hành những nhiệm vụ mới, trọng tâm là sản xuất và lập
công. Không chỉ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban kháng chiến hành chính các Khu,
với các phòng chuyên môn, nhất là địch vận để tuyên truyền, phổ biến chính sách,
đường lối của Đảng, ông còn thường xuyên cử cán bộ đi thăm hỏi đồng báo Công
giáo, đồng bào thiểu số, giải thích đường lối của ta, vạch tội ác của giặc. Bản thân
ông cũng không quản ngại trực tiếp đi xuống cơ sở, kể cả những địa phương xa xôi
để kêu gọi nhân dân đoàn kết kháng chiến. Ngoài ra, với tư cách là lãnh đạo Ủy
ban, Bùi Kỷ đã thể hiện sự nhanh nhạy của mình trước diễn biến tình hình thế giới
và cách mạng trong nước. Ngay sau khi Hội nghị hòa bình ở Á châu được tổ chức,
Ủy ban Liên Việt Liên khu 3 đã tổ chức học tập Nghị quyết gắn liền với nhiệm vụ
đẩy mạnh cuộc thi đua sản xuất lập công; trước cuộc xâm lược của Mỹ ở Triều Tiên
và Trung Hoa, Ủy ban cũng lên tiếng phê phán, phản đối và bày tỏ sự đoàn kết với
nhân dân các nước để bảo vệ nền hòa bình thế giới. Cùng với đó, Ủy ban cũng sớm
đề ra nhiệm vụ nhằm kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh đấu tranh chống Pháp
như: Tích cực phá cản, giữ vững phong trào đấu tranh và chiến tranh du kích trong
địch hậu, củng cố và mở rộng căn cứ du kích; đẩy mạnh thực hiện kế hoạch sản
xuất (và tiết kiệm); tăng cường đoàn kết, củng cố và phát triển cơ sở; phổ biến và
hưởng ứng Nghị quyết Hội nghị hòa bình thế giới lần thứ 2 và Nghị quyết Hội đồng
hòa bình thế giới ở Á châu; chống bắt lính, phá ngụy quyền; vận động đón thương
binh về làng [99, tr. 3]. Với tất cả sự cố gắng đó, Ủy ban Liên Việt Liên khu 3 phối
hợp với các phòng, ban chuyên môn của Liên khu đã từng bước củng cố thêm tinh
63
thần đoàn kết, tương trợ, cứu giúp các nơi bị giặc tàn phá, ủng hộ bộ đội hoặc nuôi 26 Năm 1951, Đảng chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Tháng 10-1951, Hội nghị Liên Việt toàn Khu họp bầu Ủy ban Liên Việt Liên khu 3 gồm 33 vị đủ các thành phần, đảng phái, các tôn giáo, dân tộc, các đoàn thể, các thân sĩ, trí thức, địa chủ, tư sản... phản ánh được khối đoàn kết trong Liên khu.
cán bộ, tham gia thi đua ái quốc của nhân dân lương - giáo, đồng bằng - miền núi:
“Sau các hoạt động mạnh của ta tại địch hậu nói chung và nhất là tại các vùng
Công giáo tập trung đại đa số giáo dân hiểu ta hơn, thấy rõ lực lượng kháng chiến
mạnh, tin tưởng ở chính phủ [...]. Lương và giáo đã gần nhau hơn” [99, tr. 4].
Bên cạnh đó, Bùi Kỷ cũng làm tốt vai trò của Hội trưởng Hội giúp binh sĩ bị nạn
Liên khu 3, Hội trưởng Hội Văn hóa Kháng chiến, phối hợp với Ủy ban Kháng
chiến hành chính khu, với các sở chuyên môn để vận động, tuyên truyền nền văn
hóa mới, văn hóa kiến quốc sâu rộng trong quần chúng. Mỗi nhiệm vụ được giao,
ông đều cố gắng hoàn thành, đem hết tài sức của mình để góp phần vào việc thực
hiện chính sách đoàn kết dân tộc và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Ở
những nơi cơ quan Liên khu 3 tản cư hồi ấy như Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình,
người ta thường gặp một cụ già hiền hậu, dong dỏng cao gầy, có chòm râu thưa, trẻ
em thường reo gọi nhầm là “cụ Hồ”, đi đôi dép lốp, mặc bộ ka ki kiểu Tôn Trung
Sơn bạc màu. Đó chính là Bùi Kỷ, rất giản dị và gần gũi với nhân dân. Đồng chí
Nguyễn Văn Trân, Nguyên Bí thư Liên khu ủy 3, Nguyên chủ tịch Ủy ban Kháng
chiến hành chính Liên khu 3 có nhớ lại: “Cuộc kháng chiến lúc ấy rất gian khổ,
thiếu thốn. Giặc thế mạnh, ta còn yếu, dân chúng rất nghèo. Những người công tác
trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 3 lúc ấy phần đa là thanh niên, cụ
Bùi đã có tuổi phải chịu đựng nhiều thiếu thốn. Nhưng lạ là, lúc nào Cụ cũng lạc
quan, vui vẻ nên ai cũng quý trọng cụ. Nhiều cuộc họp của Ủy ban để bàn các kế
hoạch đánh giặc, giúp dân, thực hiện các chính sách đoàn kết của Chính phủ, Cụ
hăng hái góp nhiều ý kiến. Đôi khi có vấn đề gay go, Cụ cũng rất phục thiện sẵn
sàng theo đa số” [28, tr. 262]. Những đóng góp của Bùi Kỷ cũng được đồng chí Lê
Đình Thám - Đại diện Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Việt
- Trung hữu nghị khẳng định trong tang lễ của ông ngày 20-5-1960: “Trong khói
lửa của chiến tranh, Cụ đã vượt hàng trăm cây số để đi hội họp ở nơi này nơi khác,
Cụ đã cùng với các cán bộ khác có lần len lỏi vào các vùng du kích để động viên
64
nhân dân đánh giặc và sản xuất” [28, tr. 258].
Sau khi hòa bình lập lại, để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của cả nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập27. Đại hội tổ chức từ ngày 5 đến
ngày 10-9-1955 đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ mới. Tại phiên họp cuối, đại hội
đã bầu 87 vị vào Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [3, tr. 171]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch danh dự, Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch. 85
ủy viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hầu hết là các nhân sĩ, trí thức có tiếng nói và ảnh hưởng28. Bùi Kỷ lúc này đã 68 tuổi song vẫn được đại
hội nể trọng bầu làm Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Ông đã đóng góp nhiều ý kiến, tích cực phổ biến đường lối, chính sách
của Đảng như tiếp tục đấu tranh để triệt để thi hành Hiệp định Giơnevơ, mở rộng và
củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất toàn quốc, đòi hiệp thương thống nhất nước
nhà... nhằm giúp cho mục tiêu đoàn kết toàn dân của Đảng và Chính phủ được thực
hiện tốt nhất. Sau đó, ông còn được cử làm Ủy viên Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam29, Phó ban lãnh đạo thanh toán nạn mù chữ. Những kinh nghiệm
từ thời vận động truyền bá Quốc ngữ trước năm 1945 được ông vận dụng linh hoạt,
triệt để trong quá trình công tác với sự nhiệt tình cao nhất. Đồng chí Lê Đình Thám
cho biết: “Cụ thường đi xuống tận cơ sở để vận động nhân dân học tập. Nơi nào
khó khăn là có mặt Cụ và Cụ đã hoạt động ở hầu khắp các tỉnh miền Bắc” [28, tr.
258]. Không những vậy, ông rất chăm nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, các chủ
trương, chính sách của Đảng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đặc biệt coi trọng tình hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu
28 Theo Viện sử học, Việt Nam - Những sự kiện lịch sử (1945-1975), Nxb. Giáo dục, 2004, thì Hội nghị đã bầu ra 98 ủy viên.
29 Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam được thành lập ngày 19-11-1950.
65
là Liên Xô và Trung Quốc. Chính phủ đã tin tưởng cử Bùi Kỷ làm Hội trưởng Hội 27 Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Mặt trận Dân tộc thống nhất đã sớm được đề ra từ sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) với tên là Hội Phản đế đồng minh. Thời kỳ dân chủ 1936-1939, Mặt trận Dân chủ Đông Dương được thành lập. Thời kì chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa và thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp trường kì, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam cùng hoạt động, đến năm 1949 thống nhất thành Mặt trận Việt Minh. Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, Mặt trận lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; còn ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng được thành lập vào ngày 22-12-1960.
Việt - Trung hữu nghị30, có trách nhiệm tổ chức các hoạt động nhằm củng cố, thắt
chặt tình đoàn kết, hữu nghị giữa Đảng và nhân dân hai nước. Hai lần ông được cử
sang nước bạn và cả hai lần ông đã làm tròn nhiệm vụ hữu nghị mà Mặt trận và Hội
đã giao phó. Ngoài ra, ông còn thể hiện tài nghệ văn học, nhất là sự am tường về thơ
chữ Hán trong các chuyến thăm. Năm 1955, khi đến Trung Quốc, đi qua đất Quảng
Châu, Bùi Kỷ cao hứng sáng tác bài thơ chữ Hán Tái phỏng Quảng Châu cảm tác
(Lại thăm Quảng Châu). Rồi năm 1958, trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai, ông được mời tham dự lễ khánh thành ngôi mộ Phạm Hồng Thái31 cũng tại Quảng
Châu. Xúc động và tưởng nhớ người chiến sĩ cách mạng, Bùi Kỷ đã viết bài thơ
“Viếng Phạm Hồng Thái”:
Quyết chí diệt thù khinh tử sinh
Biển trời chấn động, kẻ thù kinh
Khí hùng hòa nhập dòng Châu ấy
Mãi với nhân gian rửa bất bình [28, tr. 250]
Có thể nói, cùng với Dương Bạch Mai – Hội trưởng Hội Việt - Xô hữu nghị, Bùi
Kỷ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần củng cố thêm tình đoàn
kết, tương trợ lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đúng với đường
lối ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phó bảng Bùi Kỷ vì yêu nước, từ chỗ khước từ con đường hoạn lộ đến cống hiến
cả cuộc đời cho sự nghiệp văn hóa - giáo dục của nước nhà. Từ sau cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945, ông đã thực sự đứng vào hàng ngũ của Đảng, chung
một niềm tin, một lý tưởng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều cán bộ, chiến sĩ
cách mạng. Mặc dù sức khỏe đã giảm sút nhưng ông vẫn tham gia kháng chiến
không một chút đắn đo, ngần ngại. Suốt 15 năm, ông đã mang tất cả tâm huyết, trí
30 Hội được thành lập ngày 11-2-1950 với tên gọi là Hội Việt - Hoa hữu nghị, từ tháng 10/1955 được đổi tên thành Việt - Trung hữu nghị, trực thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
31 Phạm Hồng Thái (1896-1924), liệt sĩ cách mạng, quê Nghệ An. Năm 1924, đã đánh bom ám sát Toàn quyền Đông Dương Meclanh tại Quảng Châu (Trung Quốc), gây tiếng vang lớn trong phong trào cách mạng Việt Nam. Việc không thành, ông nhảy xuống sông Châu Giang, hi sinh vào đêm 18/6/1924. Thi hài ông được táng ở Hoàng Hoa cương (Quảng Châu), mộ được xây cất lại vào ngày 16/4/1958.
66
tuệ của mình để phục vụ cách mạng. Thậm chí ông còn tỏ ra nuối tiếc về thời gian
đã qua: “Một đời bao uổng cái xuân” (trong bài Họa thơ tặng của ông Phục Ba).
Ông cũng tỏ ra khiêm tốn với những gì mình đã làm được cho cách mạng:
Kháng chiến gian lao già chẳng ngại
Mảy may báo nước đáng công a? [28, tr. 234]
Bùi Kỷ từng phát biểu: “Tôi đã thấy rõ công cuộc kiến thiết hùng mạnh của
chúng ta và tương lai sán lạn của đất nước” [28, tr. 259]. Có lẽ, nhờ tình yêu cách
mạng đó mà ngay cả khi đang nằm trên giường bệnh những ngày cuối đời tại bệnh
viện Hữu nghị Việt - Xô, ông vẫn đem hết tàn lực để sáng tác. Trong dịp Đoàn đại
biểu Chính phủ Trung Quốc sang thăm nước ta, ông đã gửi Thủ tướng Chu Ân Lai
một bài thơ chữ Hán để chào mừng. Ngoài ra, ông còn cố gắng viết một tập diễn ca
theo thể song thất lục bát gồm 344 câu để kỉ niệm 15 năm xây dựng và bảo vệ Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lòng tin tưởng vô hạn của Bùi Kỷ vào chế độ,
vào Đảng, vào tương lai của dân tộc đã thể hiện rõ trong những câu kết luận bài thơ
đó:
Ngày thống nhất, hoa cười chim hót,
Ngày trúc mai xum họp không xa
Hùng cường là sức chúng ta
Dẫu muôn gian khổ quyết là thành công!
Ta có Đảng tiền phong vững lái,
Có Bác Hồ, từng trải, anh minh,
Bạn ta giúp đỡ tận tình
Đường lên xã hội quang vinh lạ thường [38, tr. 16]
Hai ngày trước khi mất, ông còn làm một bài thơ chúc mừng sinh nhật lần thứ
70 của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Anh hùng dân tộc luyện thân
Tuổi già mà vẫn tinh thần hơn ai
Bốn phương đạo đức sáng ngời
67
Non sông vun đắp đời đời thanh xuân
Bên dưới bài thơ có ghi hàng chữ: “Kỷ tôi sở dĩ có được như ngày nay đều do
công giáo dục của Chủ tịch. Xin có bốn câu vụng về, tạm đề làm lời chúc” [28, tr.
256]. Lời trăng trối đó chính là lời tri ân của ông đối với Đảng và Bác Hồ.
Tiểu kết chương 3
Có thể nói, duyên gặp gỡ với Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành cùng với
thời gian được làm việc cùng với nhiều nhà trí thức cách mạng tại Trường tư thục
Thăng Long đã dần tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức và tư tưởng của Bùi Kỷ:
Từ hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng Mác xít, từ yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản.
Bùi Kỷ đã chứng tỏ rằng, ông không chỉ là một người thầy tâm huyết mà còn là
một nhà hoạt động cách mạng tích cực và sôi nổi. Phong trào truyền bá Quốc ngữ -
phong trào văn hóa quan trọng nhất mà Đảng ta khởi xướng trong giai đoạn trước
năm 1945 cũng ghi nhận dấu ấn của ông. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông tiếp
tục được Đảng và Chính phủ tin tưởng giao phó các chức vụ quan trọng. Mặc dù
tuổi cao sức yếu nhưng ông luôn đem hết tài sức, trí tuệ của mình để cống hiến cho
nhiệm vụ cách mạng chung của quê hương, đất nước. Đồng thời qua đó cũng khẳng
68
định, trình độ và uy tín của ông đối với đội ngũ trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.
CHƢƠNG 4. ĐÓNG GÓP CỦA BÙI KỶ ĐỐI VỚI
QUÊ HƢƠNG, ĐẤT NƢỚC
3.1. Đối với dòng họ Bùi, quê hương Hà Nam
Bùi Kỷ được thừa hưởng truyền thống hiếu học, yêu nước từ gia đình, dòng họ,
quê hương. Đó là chất xúc tác quan trọng cho con đường lập thân, lập nghiệp của
ông. Đến lượt mình, ông cũng trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ sau, góp
phần làm rạng danh thêm những truyền thống tốt đẹp đó.
Từ cụ Bùi Văn Hanh đến ông nội Bùi Văn Quế và cha Bùi Thức, trong dòng họ
của ông đều có những người đỗ đạt cao và tận tâm với đất nước, với sự nghiệp giáo
dục. Hơn ai hết, thuộc thế hệ con cháu, Bùi Kỷ nhận thức rất rõ điều ấy và nỗ lực
học tập. Việc ông đỗ Cử nhân (năm 1909) rồi Phó bảng (năm 1910) là minh chứng
cho sự nỗ lực ấy, để tiếp tục ghi tên vào bảng vàng của dòng họ. Hơn nữa, quyết
định từ chối làm quan cho chính quyền phong kiến và thực dân của Bùi Kỷ cũng là
một hành động để tôn vinh, ghi nhớ người xưa và nhắc nhở con cháu về sau. Từ đó,
Bùi Kỷ bước sang một ngả đường khác, làm một người thầy, một nhà văn, một
người hoạt động cách mạng, cống hiến tài lực cho quê hương, đất nước.
Cho dù Bùi Kỷ có từng giữ chức vị gì cao đi chăng nữa thì trong gia đình, dòng
họ, ông vẫn chỉ là một thành viên như bao người khác. Ông sẽ chẳng được các thế
hệ con cháu kính nể, mến phục nếu không có trách nhiệm với gia đình. Bởi vậy,
tinh thần hiếu học, sự khước từ mọi cám dỗ danh lợi chính là thể hiện trách nhiệm
của một người con có hiếu với cha mẹ. Ngoài ra, với tư cách là con trai trưởng của
tiến sĩ Bùi Thức, Bùi Kỷ đã là tấm gương sáng cho các em của ông học tập, đỗ đạt
(Bùi Khải, Bùi Lương, Bùi Nhung). Đặc biệt, tình cảm đối với gia đình - thứ tình
cảm thiêng liêng, sâu nặng đối với Bùi Kỷ cũng được bộc lộ một cách rất đỗi bình
dị trong các sáng tác của ông như: Nhớ chị, Mừng con trai lấy vợ...
Cũng như các bậc cha ông đi trước, Bùi Kỷ có ảnh hưởng lớn đến các thế hệ sau
trong gia đình, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục. Tính từ đời 5 đến đời thứ
10 của dòng họ Bùi chi Ất Châu Cầu của Bùi Kỷ, đã có 6 đời làm nghề giáo vinh
hiển. Con trai Bùi Anh (1913 - 2003) từng làm Trưởng Ty giáo dục tỉnh Hà Đông;
69
con trai Bùi Diễm sinh năm 1923 là Tiến sĩ Luật, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc; cháu nội Bùi Hoàng
sinh năm 1944 là Nhà giáo ưu tú, Hiệu trưởng Trường THPT Hà Đông; chắt Bùi
Huy sinh năm 1953 là Phó Giáo sư Tiến sĩ Vật lý (Viện Vật lý); chắt Bùi Diệu sinh
năm 1956 là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa - Giám đốc Bệnh viện K Trung ương (Hà
Nội). Như vậy, tính từ đời cụ Bùi Văn Hanh (đời 5) đến đời Bùi Huy và Bùi Diệu
(đời 10), ngành họ Bùi chi Ất Châu Cầu đã có 6 đời làm nghề giáo đều vinh hiển.
Nói rộng ra, dòng họ Bùi Mễ Tràng - Châu Cầu có nhiều người đỗ đạt một phần
nhờ “phúc ấm của tổ tiên” để lại, trong đó có đóng góp của Bùi Kỷ. Đến nay, nhiều
gia đình chi Ất Châu Cầu có bố, con, anh, em đều là giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo ưu tú,
nhà giáo nhân dân; chi Giáp ở Mễ Tràng từ đời 9-10 trở đi cũng có nhiều người trở
thành cán bộ của chính quyền các cấp, giáo sư, tiến sĩ.
Ông Bùi Hoàng, Hiệu trưởng Trường THPT Lê Quý Đôn (Hà Đông, Hà Nội)
chia sẻ: Mặc dù kỉ niệm với ông nội Bùi Kỷ không có nhiều và cũng không còn
được đầy đủ nhưng qua những lời kể của cha Bùi Anh, anh em trong gia đình tôi
luôn biết ơn, tưởng nhớ các thế hệ cha ông, những người đã góp phần quan trọng
vào việc hình thành truyền thống yêu nước, truyền thống sư phạm của gia đình. Vì
vậy, chúng tôi thường xuyên nhắc nhở bản thân mình phải không ngừng phấn đấu;
đồng thời, giáo dục các thế hệ sau phải tiếp tục phát huy tinh thần ấy.
Mặc dù sau khi đỗ đạt, Bùi Kỷ ra Hà Nội hoạt động song ông vẫn là một người
con của mảnh đất Châu Cầu. Vì vậy, với tài năng, uy tín của mình, ông có tiếng nói
tại địa phương, được nhân dân kính trọng. Theo truyền thống của các làng xã vùng
đồng bằng Bắc Bộ xưa, khi làng có việc như lễ đại kỳ phước hay lễ kỳ an, chức chủ
tế phải là người khoa mục hay người có phẩm hàm cao hơn và đủ lệ khao vọng. Bùi
Kỷ vốn là một bậc đại khoa, đã nhiều lần được làng xã mời về làm chủ tế cũng như
tham dự các công việc quan trọng của làng, nhưng vì bận công việc ở Hà Nội nên
ông đã không ít lần phải khước từ. Duy chỉ có một lần, Bùi Kỷ có về xã Liêm Cần
32 Liêm Cần là một xã nằm dọc theo đường 21 đi Nam Định, cách Phủ Lý 7km, nơi có đền Lăng (tức đền Hạ) thờ tứ vị hoàng đế: Đinh Tiên hoàng đế, Đại Hành hoàng đế, Trung Tông hoàng đế và Ngọc Triêu hoàng đế.
70
(huyện Thanh Liêm) vào tháng 3-1943 nhân dịp giữ trách nhiệm truyền lại sắc mà triều Nguyễn phong cho đền Lăng32. Vui mừng và phấn khởi trước sự hiện diện của
vị Phó bảng, nhân dân xã rất hào hứng đem kiệu và võng đào, cờ, lọng, chiêng,
trống lên rước sắc và đón ông về làm lễ bốc bát hương ở đền. Sự kiện này được tác
giả Bắc Môn ghi lại theo lời kể của ông Vũ Đức Quang (người xã Liêm Cần) như
sau: “Họ đều quỳ rạp xuống khi ông Bảng uy nghi trong bộ phẩm phục mới, đứng
tuyên đọc sắc phong, rồi trịnh trọng yểm tờ sắc dưới bát hương thờ” [61, tr. 204].
Nhân chuyến đi này, ông Kỷ đã ghé qua chào hỏi nhà nho Vũ Thượng Đồng. Ông
cũng không quên hỏi thăm về tình hình sinh hoạt, đời sống của nhân dân trong
vùng...
Có thể nói, trải qua lịch sử hàng thế kỉ, dòng họ Bùi Châu Cầu đã khẳng định
được thanh danh bởi những con người tài năng, đức độ. Đến nay, dòng họ Bùi vẫn
là một trong những dòng họ nổi tiếng nhất của đất Hà Nam nói chung và thành phố
Phủ Lý nói riêng, là niềm tự hào của nhân dân địa phương. Ông Phạm Xuân Cấn –
Nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư thị xã Phủ Lý từng khẳng định: “Không chỉ dũng cảm
đánh giặc giữ nước, giữ nhà, người thị xã Hà Nam còn có truyền thống văn học. Cụ
Bùi Văn Dị có thể nói là người “giỏi võ, sành văn”. Ngoài việc cầm quân đánh
giặc, cụ còn để lại cho đời một tập thơ văn có giá trị. Người con thúc bá của cụ Bùi
Văn Dị là Bùi Văn Quế cũng đỗ phó bảng. Cụ Bùi Thức là con của Bùi Văn Quế lại
đỗ tiến sĩ. Còn cụ Bùi Kỷ con của Bùi Thức đỗ phó bảng, sau này tham gia hoạt
động cách mạng đến năm 1960 thì mất. Như vậy, dòng dõi họ Bùi ở làng Châu Cầu
đã ba đời đỗ đại khoa...” [75, tr. 6].
3.2. Đối với dân tộc
Từ chối làm quan cho triều đình nhà Nguyễn và chính quyền thực dân, sau đó
sang Pháp du học năm 1911 và ra Hà Nội dạy học từ năm 1917 là những quyết định
có thể nói đã tạo nên bước ngoặt trong cuộc đời của Bùi Kỷ. Với tài năng, trí tuệ và
những cống hiến to lớn cho sự nghiệp văn hóa - giáo dục và cách mạng nước nhà,
ông xứng đáng là một nhân vật lớn, một nhân cách lớn trong lịch sử Việt Nam thế
kỉ XX.
Trong bối cảnh đất nước đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, dù không ra
làm quan nhưng Bùi Kỷ lựa chọn con đường phục vụ nhân dân, đất nước theo cách
71
riêng. Giảng dạy Việt văn và Hán văn tại các trường cao đẳng và tiểu học tại Hà
Nội đối với ông là một phương thức để bồi đắp tình yêu đối với truyền thống văn
hóa dân tộc. Cùng chung sức với đội ngũ cán bộ và giáo viên các trường, ông đã
kiên nhẫn giáo dục ý thức tự giác học tập, thức tỉnh lòng yêu nước, tu dưỡng nhân
cách, trách nhiệm đối với dân tộc cho các thế hệ sau. Không ít người trong số các
học trò của ông đã để lại ấn tượng khá đẹp trong lịch sử nền giáo dục và cách mạng
Việt Nam. Nhiều sinh viên đã hăng hái tham gia phong trào đòi ân xá cho cụ Phan
Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh vốn là những phong trào ái quốc, có ảnh
hưởng sâu rộng lúc bấy giờ. Về sau, nhiều người trong số họ đã tham gia hoạt động
cách mạng như Nguyễn Lân, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy... Đặc biệt, thời gian
gắn bó với Trường tư thục Thăng Long, thầy Kỷ cùng với các trí thức cách mạng
như Phan Thanh, Nguyễn Bá Húc, Phan Mỹ, Khuất Duy Các, Hoàng Như Tiếp, Võ
Nguyên Giáp... đã không chỉ truyền bá kiến thức cho học sinh mà còn đồng thời
tuyên truyền lòng yêu nước, thương dân và căm thù thực dân Pháp xâm lược. Nhờ
đó, trong khoảng 10 năm tồn tại (1935 - 1945), Trường tư thục Thăng Long đã trở
thành trường tư thục lớn nhất Đông Dương, thu hút số lượng học sinh đông đảo có
tinh thần yêu nước và được xem là cái nôi cách mạng. Sau này, Phạm Duy Bình
cũng tự hào khẳng định: “Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tôi đã nhiệt tình tham gia
vào các hoạt động xã hội, yêu nước của phong trào sinh viên cứu quốc tại Việt Nam
học xá. Rồi đến ngày toàn quốc kháng chiến, tôi cũng như đông đảo anh chị em học
sinh Trường tư thục Thăng Long đã nhiệt tình hăng hái tham gia tự vệ vào quân đội
cùng các hoạt động kháng chiến chống đế quốc Pháp không chút ngần ngừ, đắn đo,
suy nghĩ, đúng như lời thầy Bùi Kỷ đã dặn dò: “Bình thiên hạ khi bất bình”. Đông
đảo học sinh Trường tư thục Thăng Long đã có mặt ngay từ những ngày mở đầu
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hiển nhiên đây là kết quả dạy dỗ, giáo dục
của các thầy giáo yêu nước, cách mạng của “Thăng Long nghĩa thục” [5, tr. 314].
Theo giáo sư Đặng Thai Mai: “Cụ Bùi, hồi này, cùng với Trần Trọng Kim, Phạm
Quỳnh là 3 nhà trí thức cỡ lớn của thủ đô” [60, tr. 270]. Sự tinh thông cả cổ kim
đông tây cùng với sự nhiệt huyết muốn truyền tải những cái hay, cái đẹp của nền
văn hóa, văn học dân tộc của thầy đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bao
72
thế hệ học trò. Điều thú vị là, ngay cả trong các cuốn giáo trình của thầy Bùi Kỷ
soạn và đưa vào giảng dạy cũng làm nổi bật lên “ý nghĩa đấu tranh của nhiều tầng
lớp nhân dân trên trường kỳ lịch sử hơn hai mươi thế kỉ để bảo vệ lấy tiếng nói mẹ
đẻ, để xây dựng một nền văn học tiếng Việt. Quả tình đây cũng là một trận tuyến
khá gian khổ để góp phần vào việc giữ gìn độc lập của dân tộc” [60, tr. 271]. Qua
những trang hồi ký, những lời tâm sự chân tình của các thế hệ sau như Nguyễn Lân,
Đặng Thai Mai..., chúng ta thấy được những đóng góp to lớn của danh nhân Bùi Kỷ
đối với nền văn hóa - giáo dục. Ông Lê Văn Sanh (75 tuổi), con trai của cố nhà văn
Lê Tư Lành (từng là học trò của thầy Bùi Kỷ) cho chúng tôi biết: Khi cha tôi còn
sống, cụ Bùi Kỷ có đôi lần đến chơi. Mặc dù khi đó tôi còn rất nhỏ và chỉ được
đứng hầu chuyện các cụ nhưng trong trí nhớ của tôi, cụ là người rất giản dị, đức độ.
Không chỉ riêng bố mẹ tôi, mà các thế hệ con cháu như chúng tôi cũng rất biết ơn,
kính trọng cụ bởi tài năng, phẩm chất cao quý của cụ, một người am tường Hán học
và Tây học.
Không chỉ là một nhà sư phạm, nhà hoạt động văn hóa có ảnh hưởng, Bùi Kỷ
còn là một nhà văn, nhà thơ hoạt động sôi nổi trên các lĩnh vực: biên khảo, hiệu
khảo, dịch thuật, phê bình, sáng tác. Đối với lĩnh vực biên khảo, ông được nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan xếp vào một trong 8 nhà biên khảo nổi tiếng của nước ta
với hai công trình tiêu biểu là Quốc văn cụ thể và Việt Nam văn phạm bậc trung
học. Những công trình hiệu khảo như Truyện Thúy Kiều, Tam quốc chí... đã từng
gây tiếng vang lớn trong nền văn học nước nhà và được sử dụng rộng rãi trong nhà
trường phổ thông, chuyên nghiệp cũng như giới nghiên cứu. Số lượng các sáng tác
của ông tuy không thuộc loại đồ sộ nhưng đều đạt tính mẫu mực, phản ánh một tâm
hồn văn chương phong phú. Thơ văn của ông ẩn chứa tâm tình thế sự, bao trùm lên
là nỗi buồn, nỗi lo của một trí thức có trách nhiệm trước thời cuộc. Đáng lưu ý là,
sáng tác của ông thường gắn liền với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân ta. Với tổng số trên 100 công trình, sáng tác ở nhiều thể loại, Bùi Kỷ đã
chứng tỏ ông là một nhà văn, nhà thơ đa tài và không phải ai cũng đạt được thành
công như ông.
Bên cạnh đó, quá trình hoạt động của Bùi Kỷ phản ánh sự chuyển biến tư tưởng
73
của ông, từ hệ tư tưởng Nho giáo đến chủ nghĩa Mác, từ yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản. Vẫn là yêu nước nhưng ở mỗi giai đoạn, Bùi Kỷ lại có cách xử thế khác
nhau. Từ những mối liên hệ với nhà dân chủ Phan Châu Trinh và lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, Bùi Kỷ đã sớm tham gia phong trào yêu nước, mong muốn giải phóng dân
tộc. Bùi Kỷ cũng là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự thành công của phong
trào truyền bá Quốc ngữ từ năm 1938 - 1945, một phong trào yêu nước đấu tranh
trên mặt trận văn hóa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Với tư cách là Phó
Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ, Bùi Kỷ cùng với Nguyễn Văn Tố đã dẫn dắt
Hội và phong trào phát triển khá sâu rộng. Cần nhận thấy rằng, trong bối cảnh lịch
sử mà thực dân Pháp phải chuẩn bị đối phó với âm mưu bành trướng của phát xít
Nhật, đang âm mưu cướp thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, phong trào truyền bá
Quốc ngữ ra đời đã góp phần nâng cao dân trí (hơn 5 vạn người biết chữ) và xây
dựng được những hạt nhân, những cơ sở cách mạng trong đồng bào lao động. Đó
được xem là một trong những tiền đề quan trọng đưa đến sự thành công của cuộc
Cách mạng tháng Tám 1945.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông đã hoàn toàn tin tưởng vào Đảng, vào
Chủ tịch Hồ Chí Minh để rồi dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ. Ông đã được Chính phủ tin tưởng giao cho nhiều trọng
trách: Ủy viên nhân dân Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu 3, Chủ tịch Ủy
ban Liên Việt Liên khu 3, Hội trưởng Hội văn hóa kháng chiến Liên khu 3, Hội
trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam... Mặc dù tuổi cao sức yếu nhưng hòa vào sự nghiệp cách
mạng của toàn dân tộc, ở cương vị nào, ông cũng đem hết sự nhiệt tình, trí tuệ của
mình góp phần đắc lực vào sự nghiệp chung. Mỗi việc làm, hành động của Bùi Kỷ
đều xuất phát từ lòng yêu nước, từ một nhân cách thanh bạch của nhà nho. Bởi vậy,
sau khi đứng vào hàng ngũ của Đảng, khi tìm được lý tưởng cách mạng, ông càng
hăng hái, nhiệt tình hơn nữa. Nguyễn Văn Trân khẳng định: “Lập trường và thái độ
rõ ràng dứt khoát của cụ đã tác động rất lớn trong giới trí thức cũ và mới, trong
các nhân sĩ, các giới tôn giáo” [28, tr. 262]. Lúc từ giã cuộc đời, điều ân hận của
ông là không được tận mắt nhìn thấy miền Bắc hoàn thành chủ nghĩa xã hội và cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà giành được thắng lợi. Ông trút hơi thở cuối cùng
74
ngày 19-5-1960, đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 70 của Bác Hồ. Sự ra đi của ông là
“một tổn thất cho Mặt trận, cho Hội Việt - Trung, cho phong trào bảo vệ hòa bình
thế giới ở Việt Nam, cho phong trào bổ túc văn hóa, cho giới trí thức của nước ta”
[28, tr. 261].
Uy tín và danh tiếng của Phó bảng Bùi Kỷ đã lan rộng và được nhiều người biết
đến. Theo một số nguồn tài liệu, trong quá trình công tác, Bùi Kỷ có để lại bút tích
ở nhiều nơi, nhưng không nêu rõ cụ thể. Đến nay, theo khảo sát của chúng tôi, bút
tích của Bùi Kỷ có: Bài thơ Yết Nhị Trưng từ được khắc tại Đền Hai Bà Trưng năm
1956 (Hai Bà Trưng, Hà Nội), Văn bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh được
Bùi Kỷ soạn vào năm 1929 và được hoàn thành khắc bia vào năm 1930 tại trụ sở
của Hội Khai Trí Tiến Đức cũ (nay là số 79 Hàng Trống, Hà Nội). Đặc biệt, trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945, các nhà tư sản dân tộc của dòng họ Lê (thôn Song
Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội) là Hồng Khê, Đức Thành và
Tổng Tư đã mời Bùi Kỷ về thăm quê của mình. Cảm khái trước thanh danh, khoa
hoạn của dòng họ này, ông đã nhận lời. Sau một tuần trà cùng trưởng tộc và các nhân vật có tiếng như nhà văn Nguyễn Tử Siêu33, Bùi Kỷ lật giở những đạo sắc
phong và gia phả của dòng họ. Đến mục “Kỷ Hợi thịnh khoa Đệ nhị giáp Tiến sĩ
xuất thân Lê tướng công” thì ông dừng lại và chăm chú khảo luận. Sau đó, ông xin
phép thắp một tuần hương trước ban thờ tổ tiên, sửa sang lại y phục rồi kính cẩn đề bút ba bài thơ Thuật lữ, Cảm hoài, Tư nụy của Hoàng giáp Lê Huy Trâm34 viết về
chí khí của kẻ làm tôi trước vận mệnh của đất nước lên những cuốn thư gỗ. Những
nét chữ ông viết vừa rắn rỏi vừa mềm mại, thể hiện tính cách của một con người tài
hoa, có nhân cách. Sau khi Phó bảng Bùi Kỷ viết xong, nhà văn Nguyễn Tử Siêu đã
dịch 3 bài thơ trên sang tiếng Việt. Sự kết hợp này được 2 tác giả Đặng Bằng - Lê
Liêm nhận định: “hồn thơ thanh khiết của Hoàng giáp Lê Huy Trâm, nét bút rắn rỏi
của Phó bảng Bùi Kỷ cùng với lời dịch thơ của nhà văn Nguyễn Tử Siêu đã trở
thành một di sản văn hóa quý, đáng được trân trọng, gìn giữ” [7, tr. 28-32].
Đánh giá cao những đóng góp to lớn của Bùi Kỷ cho sự nghiệp cách mạng, sau
33 Nguyễn Tử Siêu (1887-1965), tự là Trọng Khoát, hiệu Hoa Cương, Liên Tâm Lão Nhân, quê ở Hương Ngải, huyện Thạch Thất, Tp. Hà Nội; người có tiếng văn thơ, từng dạy học và nghiên cứu Đông y, chuyên tâm soạn sách, có lúc là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Đông y Việt Nam
34 Lê Huy Trâm (1742-1802), nguyên tên cũ là Tuân, hiệu là Ứng Hiên, là danh sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1780
75
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước đã truy tặng Bùi Kỷ Huân
chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất. Sau khi ông mất (năm 1960), mộ của
ông cũng được xây cất tại Nghĩa trang Yên Kỳ (xã Phú Sơn, huyện Ba Vì, Tp. Hà
Nội) cùng với nhiều cán bộ cao cấp khác. Tên tuổi của ông không chỉ nổi tiếng ở Hà
Nam, Hà Nội mà còn trên phạm vi cả nước. Tại Đà Nẵng, chính quyền địa phương
đã lựa chọn tên của vị danh nhân nổi tiếng để đặt cho một tuyến đường nằm trên địa
bàn huyện Cẩm Lệ vào năm 2007: “Đường nằm trong khu dân cư số 4 Nguyễn Tri
Phương, từ đường 5,5m chưa đặt tên đến giáp đường 5,5m đang thi công, dài
385m, rộng 5,5m, vỉa hè rộng 3m, đặt tên là Bùi Kỷ” [121].
Bùi Kỷ là một trí thức tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam thế kỉ XX. Với bản tính
phóng khoáng, ưa tự do, không đam mê danh lợi nên ngay cả với các sáng tác văn
học của mình, Bùi Kỷ cũng ít khi lưu giữ để xuất bản. Mặc dù vậy, tài năng và danh
tiếng của ông vẫn còn ảnh hưởng đến nhiều thế hệ chứ không phải chỉ trong thời
gian ông sinh sống mà thôi. Những trang hồi ký, những lời tâm sự của các thế hệ
sau về ông, những công trình, sáng tác của ông đã minh chứng rõ điều ấy! Hoạt
động sự nghiệp của Bùi Kỷ cũng để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho các
thế hệ sau, nhất là những người trí thức. Đó là bài học về ý thức học tập, về tình yêu
quê hương, đất nước, trách nhiệm đối với dân tộc…
Tiểu kết chương 4
Với tất cả những hoạt động của mình, Bùi Kỷ thực sự đã trở thành tấm gương
sáng cho các thế hệ con cháu của dòng họ Bùi Châu Cầu – Mễ Tràng học tập, noi
theo. Bên cạnh đó, ông cũng được xếp vào hàng những danh nhân văn hóa lớn của
tỉnh Hà Nam.
Đánh giá về những đóng góp của danh nhân Bùi Kỷ trong lịch sử Việt Nam thế
kỉ XX không phải là chuyện có thể nói qua một vài trang giấy. Tuy thế, có thể
khẳng định, dù là một người thầy, một nhà văn hay một người hoạt động cách
mạng, ông cũng đã mang hết tài lực, trí tuệ của mình để phục vụ đất nước. Người ta
có thể thấy ở ông từng hành động, từng câu chữ, từng bài giảng đều xuất phát từ
lòng yêu nước, từ tinh thần dân tộc. Ông là mẫu hình về một người trí thức có tài,
có chí với lối sống đạo đức mẫu mực, được những người cùng thời và cả hậu thế
kính trọng, cảm kích. Ông không chỉ tạo nên tiếng thơm cho dòng họ Bùi, cho quê
76
hương Hà Nam mà còn cho cả dân tộc ta.
KẾT LUẬN
Bùi Kỷ sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã trở thành thuộc địa của
thực dân Pháp. Từ nhỏ, ông đã chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Nho học từ truyền
thống khoa bảng của gia đình, dòng họ. Ngoài ra, ông còn được tiếp xúc với nền
giáo dục mới - giáo dục Pháp - Việt. Mặc dù đỗ đạt nhưng trước thực tế đất nước đã
mất độc lập, noi theo gương ông nội Bùi Văn Quế và cha Bùi Thức, Bùi Kỷ đã
khước từ làm quan cho triều Nguyễn cũng như chính quyền thực dân Pháp.
Việc từ chối con đường hoạn lộ để rồi sang Pháp năm 1911 và ra Hà Nội dạy
học từ năm 1917 đã tạo nên bước ngoặt trong cuộc đời của Bùi Kỷ. Từ đây, ông gắn
bó với sự nghiệp văn hóa - giáo dục của nước nhà. Đối với ông, giảng dạy Việt văn
và Hán văn cho học sinh, sinh viên tại các trường cao đẳng và tiểu học chính là một
phương thức để bồi dưỡng tình yêu đối với tiếng Việt và văn hóa dân tộc, là một
mặt trận quan trọng để tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Kiến thức
uyên thâm, chuẩn mực mô phạm của ông đã để lại những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp
trong lòng bao thế hệ học trò. Bên cạnh đó, những hoạt động tích cực của ông trong
phong trào chấn hưng Phật giáo, phong trào truyền bá Quốc ngữ, trong cuộc kháng
chiến chống Pháp... không chỉ thể hiện sự nhanh nhạy của vị Phó bảng trước thời
cuộc mà còn góp phần vào mục tiêu chung của cả nước. Ngoài ra, Bùi Kỷ còn là
một nhà văn, nhà thơ với các công trình biên khảo, hiệu khảo, dịch thuật có ảnh
hưởng lớn trong đời sống văn học nước nhà như Quốc văn cụ thể, Truyện Thúy
Kiều, Tam quốc diễn nghĩa, Bình Ngô đại cáo... Những sáng tác của ông tuy không
thuộc loại xuất chúng với số lượng cũng không thật đồ sộ nhưng đều đạt sự mẫu
mực, cho thấy tài năng văn chương cũng như tâm tình thế sự của người cầm bút.
Đặc biệt, sáng tác văn học của Bùi Kỷ còn phản ánh quá trình đấu tranh và phát
triển của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta. Có lẽ chừng đó thôi cũng đủ
để các thế hệ sau ngưỡng mộ, kính nể.
Bùi Kỷ là một trong số ít nhà nho sống và làm việc dưới cả 3 chế độ: Phong
kiến, thực dân và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là kết quả của quá trình chuyển
biến tư tưởng của ông, từ hệ tư tưởng phong kiến đến hệ tư tưởng Mác xit, từ yêu
77
nước đến chủ nghĩa cộng sản. Trước khi tìm thấy con đường đấu tranh đúng đắn
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó bảng Bùi Kỷ cảm thấy đau
buồn, lạc lõng trước thực tế mất nước, mất độc lập. Xuất phát từ lòng yêu nước, ông
đã từ chối mọi sự cám dỗ của chính quyền thực dân và phong kiến để sống một
cuộc đời thanh bạch và lựa chọn con đường đấu tranh thông qua hoạt động giảng
dạy, các phong trào văn hóa - xã hội, sáng tác văn học... Đó cũng là mặt trận vốn
không hề đơn giản như chính giáo sư Đặng Thai Mai đã khẳng định. Cùng với tài
năng, sự chuyển biến trong nhận thức và tư tưởng cũng là một yếu tố quan trọng
giúp Bùi Kỷ dễ dàng hòa nhập với đời, với người mà vẫn giữ được uy tín và phẩm
hạnh. Và có lẽ, uy tín của Bùi Kỷ được khẳng định cao nhất sau cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945, khi ông được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho nhiều trọng
trách.
Là một danh nhân, Bùi Kỷ đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở những khía
cạnh khác nhau. Từ góc độ sử học, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
mong muốn góp phần bổ sung, làm rõ thêm hành trạng, hoạt động và những đóng
góp của Bùi Kỷ đối với quê hương, đất nước nhằm có một cái nhìn khách quan,
toàn diện hơn. Qua quá trình hoạt động và cống hiến cho sự nghiệp văn hóa - giáo
dục và cách mạng của ông, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định: Bùi Kỷ là một
nhân vật lớn, một nhân cách lớn của Việt Nam thế kỉ XX, xứng đáng là “danh
78
nhân” mà hậu thế đã dành tặng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
2. Thế Anh (2007), “Nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh của nhà biên khảo Bùi Kỷ
(1887 - 2007), Thông báo Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang (1988), Bác Tôn (1888 - 1980) - Cuộc
đời và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
4. Ban Liên lạc họ Bùi Mễ Tràng - Châu Cầu - Phủ Lý - Hà Nam (2002), Tộc phả
họ Bùi Mễ Tràng - Châu Cầu, Hà Nội.
5. Ban Liên lạc học sinh Trường THTT Thăng Long (2003), Trường trung học tư
thục Thăng Long (1935 – 1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
6. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb.
Thuận Hóa, Huế.
7. Đặng Bằng - Lê Liêm (2004), “Bút tích của Phó bảng Bùi Kỷ và bản dịch thơ
của nhà văn Nguyễn Tử Siêu tại nhà thờ Hoàng giáp Lê Huy Trâm”, Thông báo
Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
8. Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
9. Nguyễn Công Bình (1963), Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam, Nxb. Khoa học, Hà Nội.
10. Hàm Châu – Hoàng Vĩnh Hạnh (2013), Hoàng Minh Giám con người của thế
hệ vàng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Chiển - Trịnh Tất Đạt (2011), Từ điển bách khoa đất nước con
người Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
12. Cao Xuân Dục (2011), Quốc triều hương khoa lục, Nxb. Lao động, Trung tâm
Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
13. Cao Xuân Dục (1962), Quốc triều đăng khoa lục, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
79
bản.
14. Phạm Đức Thành Dũng - Vĩnh Cao (cb) (2000), Khoa cử và các nhà khoa
bảng triều Nguyễn, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Nxb. Thuận Hóa,
Huế.
15. Lê Tâm Đắc (2008), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, Luận án tiến
sĩ triết học, Viện nghiên cứu Tôn giáo.
16. Nguyễn Đại Đồng (2008), Biên niên sử Phật giáo miền Bắc (1920 - 1953),
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
17. Vũ Minh Giang (cb) (2006), Đại học Quốc gia Hà Nội - Một thế kỉ phát triển
và trưởng thành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến cách mạng tháng Tám, Tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó
trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đỗ Đức Hiểu (cb) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
20. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884 - 1945),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Bùi Cộng Hòa (2014), “Hậu duệ chi họ Bùi Mễ Tràng - Châu Cầu với việc phát
huy truyền thống dòng tộc”, Hội thảo Danh nhân Bùi Văn Dị trong lịch sử - văn
hóa Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX, Viện Chính sách và Quản lý (Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
22. Lê Thị Thanh Hòa (2001), Nhà nước phong kiến Việt Nam với việc sử dụng các
đại khoa học vị tiến sĩ (1075 - 1919), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Thái Nhân Hòa (2007), Nhân vật và sự kiện lịch sử cận - hiện đại, Nxb. Văn
hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
24. Hội Khai Trí Tiến Đức (1931), Việt Nam từ điển, Trung Bắc Tân Văn.
25. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (1981), Văn học yêu nước và cách mạng
Hà Nam Ninh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam (2000), Nhân vật lịch sử văn hóa Hà Nam,
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
27. Hội Việt - Trung hữu nghị (1959), Tình hữu nghị Việt - Trung, in tại xưởng in
80
Tiến Bộ, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Huyền (1994), Thơ văn Bùi Kỷ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Vũ Minh Hương - Nguyễn Văn Nguyên - Philippe papin (2000), Địa danh và
tư liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858 - 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Hội, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Khánh (2013), Ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
thời kỳ cận - hiện đại, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
32. Vũ Ngọc Khánh (2000), Thầy giáo Việt Nam mười thế kỉ, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội.
33. Vũ Ngọc Khánh (2011), Nhà giáo Việt Nam (Tiểu sử và giai thoại), Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
34. Lê Thị Kinh (2011), Phan Châu Trinh (1872 - 1926) qua những tài liệu mới,
Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
35. Bùi Kỷ (1932), Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, Hà Nội.
36. Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim - Phạm Duy Khiêm (1941), Việt Nam văn phạm bậc
trung học, Nxb. Lê Thăng.
37. Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim - Nguyễn Quang Oánh (1942), Tiểu học Việt Nam
văn phạm, Nxb. Lê Thăng.
38. Bùi Kỷ (1960), Kỷ nguyên mới, Nxb. Phổ thông, Hà Nội.
39. Bùi Kỷ (1935), “Giải nghĩa chữ Tuệ ở trong Phật học”, Đuốc Tuệ, số 2.
40. Bùi Kỷ (1936), “Tôn chỉ đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 7.
41. Bùi Kỷ (1936), “Tôn chỉ đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 8.
42. Bùi Kỷ (1936), “Tôn chỉ đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 10.
43. Bùi Kỷ (1936), “Tôn chỉ đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 12.
44. Bùi Kỷ (1936), “Học Tiểu thặng và Đại thặng”, Đuốc Tuệ, số 16.
45. Bùi Kỷ (1936), “Học Tiểu thặng và Đại thặng”, Đuốc Tuệ, số 17.
46. Bùi Kỷ (1936), “Học Tiểu thặng và Đại thặng”, Đuốc Tuệ, số 19.
47. Bùi Kỷ (1936), “Học Tiểu thặng và Đại thặng”, Đuốc Tuệ, số 31.
48. Bùi Kỷ (1937), “Nghĩa chữ Không trong đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 47.
81
49. Bùi Kỷ (1937), “Nghĩa chữ Không trong đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 49.
50. Bùi Kỷ (1937), “Nghĩa chữ Không trong đạo Phật”, Đuốc Tuệ, số 52.
51. Bùi Kỷ (1937), “Bài trướng của Hội Phật giáo viếng cụ Tổ Vĩnh Nghiêm”,
Đuốc Tuệ, số 56.
52. Bùi Kỷ - Phan Võ - Nguyễn Khắc Hanh (1959), Thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
53. Lê Tư Lành (1982), Văn thơ của Ưu Thiên Bùi Kỷ, H. Knxb.
54. Nguyễn Lân (1998), Hồi ký giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
55. Đinh Xuân Lâm (cb) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
56. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
57. Trần Huy Liệu (1959), Hồi ký, Nxb. Văn sử địa, Hà Nội.
58. Trần Huy Liệu (1960), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (Hồi ký), Nxb. Sử học,
Hà Nội.
59. Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời
phong kiến và thời Pháp thuộc, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh.
60. Đặng Thai Mai (2001), Hồi ký, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí
Minh.
61. Bắc Môn (2008), Nét văn hóa dân gian của Phủ Lý xưa, Nxb. Thế giới, Hà
Nội.
62. Nam phong tạp chí, Quyển XXI, số 120, tài liệu số hóa (do Trần Thị Hằng,
K57 Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
cung cấp).
63. Nam Phong tạp chí, Quyển XXI, số 121, tài liệu số hóa (do Trần Thị Hằng,
K57 Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
cung cấp).
64. Nam Phong tạp chí, Quyển XXI, số 123, tài liệu số hóa (do Trần Thị Hằng,
K57 Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
82
cung cấp).
65. Nguyễn Thúy Nga (2010), Địa danh Hà Nội thời Nguyễn: Khảo cứu từ nguồn
tư liệu Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Bùi Xuân Ngật (cb) (2013), Danh nhân họ Bùi, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
67. Ngô Linh Ngọc – Ngô Văn Phú (1987), Tuyển tập thơ ca trù, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Ngọc (2013), Danh nhân Bùi Văn Dị trong lịch sử Việt Nam nửa
cuối thế kỉ XIX, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam,
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc
gia Hà Nội).
69. Trần Thanh Nhàn (2013), Quan hệ giữa các tổ chức yêu nước và cách mạng
Việt Nam với nước ngoài (1904 - 1923), Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh.
70. Lãng Nhân (2002), Giai thoại làng Nho: Toàn tập, Nxb. Văn học, Hà Nội.
71. Nhiều tác giả (1988), Hội Truyền bá Quốc ngữ trong sự nghiệp chống nạn thất
học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
72. Nhiều tác giả (2006), Lễ tang chí sĩ Phan Chu Trinh, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
73. Nhiều tác giả (2011), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học
Sư phạm, Trung tâm Văn hóa Tràng An, Hà Nội.
74. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
75. Vũ Ngọc Phác - Phạm Vĩnh - Nguyên Xuân Vân (1995), Phủ Lí thơ, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
76. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập 1, Nxb. Văn học, Tp. Hồ Chí
Minh.
77. Vũ Ngọc Phan (1987), Những năm tháng ấy (Hồi ký), Nxb. Văn học, Hà Nội.
78. Bùi Phụng - Bùi Vũ Minh (2001), Bùi Ý - Cuộc đời một nhà giáo, Nxb. Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
79. Lê Văn Quán (2013), Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam thời kỳ Lê -
Nguyễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2011), Hệ thống giáo dục và khoa cử nho giáo triều
83
Nguyễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
82. Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế (1991), Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
83. Ngô Đức Thọ (2006), Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Nxb. Văn
học, Hà Nội.
84. Nguyễn Thị Thưởng (1995), Hoàng Minh Giám – Con người và lịch sử, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
85. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2005), Địa chí
Hà Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Lại Văn Toàn - Trần Thị Đăng Thanh (cb) (2004), Thần tích thần sắc Hà Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
87. Vương Kiêm Toàn - Vũ Lân (1980), Hội Truyền bá Quốc ngữ 1938 - 1945:
Một tổ chức công khai của Đảng chống nạn mù chữ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
88. Thu Trang (2000), Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp (1911 -
1925), Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
Tp. Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Văn Trân (2011), Cách mạng và cuộc đời tôi (Hồi ký), Nxb. Hà Nội,
Hà Nội.
90. La Quán Trung (1959), Tam quốc diễn nghĩa, Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu
đính, Nxb. Phổ thông, Hà Nội.
91. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Địa bạ xã Châu Cầu, huyện Kim Bảng, phủ Lỵ
Nhân, Phông Địa bạ Sơn Nam Thượng, Hồ sơ số 4479.
92. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tập các bài viết của Ttg, Nha Bình dân học vụ,
Chống nạn thất học năm 1946-1954, Phông Bộ giáo dục, Quyển 2, Hồ sơ 3455.
93. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tập lưu sắc lệnh năm 1945 của Chủ tịch
nước, Sắc lệnh 45, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, Hồ sơ 01.
94. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tập lưu sắc lệnh từ ngày 01.1.1948 đến
15.4.1948 của Chủ tịch nước, Sắc lệnh 135, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01,
84
Hồ sơ 06.
95. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tập lưu sắc lệnh, quyết định năm 1949 của
Chủ tịch nước, Sắc lệnh 102, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, Hồ sơ 08.
96. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tập lưu sắc lệnh, quyết định năm 1956 của
Chủ tịch nước, Sắc lệnh 262, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, Hồ sơ 16.
97. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Thông tư, quyết định, tờ trình năm 1948 của
UBKCHC Liên khu 3, Phông Uỷ ban hành chính Liên khu 3, Quyển 1, Hồ sơ 2.
98. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Danh sách các vị giám đốc, thân sĩ trí thức
của UBKCHC Liên khu 3 năm 1948, Phông Uỷ ban hành chính Liên khu 3,
Quyển 1, Hồ sơ 185.
99. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Báo cáo 6 tháng đầu năm 1952 của Mặt trận
Liên Việt Liên khu 3, Phông Uỷ ban hành chính Liên khu 3, Quyển 1, Hồ sơ
653.
100. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Thông tri, nghị quyết, báo cáo về hoạt động
của Ủy ban Liên Việt Liên khu 3 năm 1952, Phông Uỷ ban hành chính Liên khu
3, Quyển 1, Hồ sơ 680.
101. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Thông tri, Nghị quyết, Báo cáo về mọi mặt
hoạt động của Ủy ban Liên Việt Liên khu 3 năm 1952, Phông Uỷ ban hành
chính Liên khu 3, Quyển 1, Hồ sơ 680.
102. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Báo cáo 6 tháng đầu năm 1952 của Mặt trận Liên
Việt Liên khu 3, Phông Uỷ ban hành chính Liên khu 3, Quyển 1, Hồ sơ 653.
103. Vũ Tuấn Sán (2007), Hà Nội xưa và nay, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
104. Chu Văn - Đào Đình Tửu - Thái Minh Hải (1982), Danh nhân văn học Hà
Nam Ninh, Nxb. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh.
105. Trọng Văn (1993), Kép Trà - Nhà thơ trào phúng xuất sắc, Nxb. Lao động, Hà Nội.
106. Phan Vịnh (2008), Phan Thanh – Anh là ai?, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2012), Địa danh làng xã Việt Nam thế kỷ XIX,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2012.
108. Viện Sử học (2004), Việt Nam - Những sự kiện lịch sử (1945 - 1975), Nxb.
85
Giáo dục, Hà Nội.
109. Viện Thông tin khoa học xã hội (1942), Hương ước xã Châu Cầu, tổng Châu
Cầu, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
110. Viện Thông tin khoa học xã hội (1938), Thần tích - thần sắc thị xã Châu Cầu,
tổng Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
111. Lê Quốc Việt (2006), Tuyển tập bia văn từ - văn chỉ Hà Nam, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
112. Nguyễn Thế Vinh (cb) (2000), Tuyển tập thơ Hà Nam, Nxb. Hội Nhà văn, Hà
Nội.
113. Thành Thế Vỹ (1959), Lịch sử bình dân học vụ, Thư viện Trung ương.
114. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam - Những hình ảnh lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia.
115. Nguyễn Như Ý (cb) (2013), Từ điển địa danh văn hóa lịch sử Việt Nam, Nxb.
Giáo dục sư phạm.
116. 20 năm thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa (8.9.1945 - 8.9.1965), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
117. http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Theo-dong-lich-
su/2014/05/3A92402A/
118. http://hobuivietnam.com.vn/index.php?nv=News&at=article&sid=877
119. http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1512&Catid=597
120. http://lucbat.com/thanhvien.php?id=24&tab=news&menuid=6
121. http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-61-2007-NQ-HDND-dat-ten-
mot-so-duong-tren-dia-ban-thanh-pho-Da-Nang-vb190968.aspx
86
122. http://www.muong.org/2012/06/chuyen-it-biet-ve-quan-lang-xu-muong.html
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tóm tắt tiểu sử và hành trạng của Bùi Kỷ
Năm 1887: Sinh tại xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý
Nhân, tỉnh Hà Nội.
Năm 1909: Tham dự kỳ thi Hương tại trường thi Hà Nam, đỗ Cử nhân.
Năm 1910: Tham dự kỳ thi Hội và Đình tại Huế, đỗ Phó bảng. Sau đó đi học
Trường Thông ngôn.
Tháng 2-1911: Bắt đầu học tại Trường Thuộc địa (Pháp).
Khoảng đầu năm 1913: Về nước, bắt đầu tổ chức sản xuất và kinh doanh thực
nghiệp.
Năm 1915: Sang Quảng Châu (Trung Quốc) 2 năm.
Năm 1917: Về nước, sau đó ra Hà Nội dạy Việt văn và Hán văn tại Trường Cao
đẳng Sư phạm và Cao đẳng Pháp chính.
Từ năm 1932: Tham gia giảng dạy cho Trường tư thục Văn Lang và Thăng
Long.
Năm 1934-1945: Tham gia Phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ, giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong bộ máy của Trung ương Hội.
Năm 1938-1945: Tham gia Phong trào truyền bá Quốc ngữ do Đảng Cộng Sản
Việt Nam khởi xưởng và lãnh đạo, từng giữ chức Phó Hội trưởng Hội truyền bá
Quốc ngữ.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945: Giảng viên Đại học Văn khoa (Đại học Quốc
gia Việt Nam), Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 3, Chủ tịch Ủy
ban Liên Việt Liên khu 3, Hội trưởng Hội Văn hóa Kháng chiến Liên khu 3, Hội
trưởng Hội giúp binh sĩ bị nạn Liên khu 3.
Sau năm 1954: Ủy viên Chủ tịch đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Ủy viên Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Phó ban lãnh
đạo thanh toán nạn mù chữ, Hội trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị.
Ngày 19-5-1960 (Âm lịch): Mất tại Hà Nội, thọ 73 tuổi.
Phụ lục 2: Các công trình biên khảo, hiệu khảo, dịch thuật, sáng tác văn
chƣơng của Bùi Kỷ (các tác phẩm in thành sách, các tác phẩm được tuyển chọn
trong cuốn Thơ văn Bùi Kỷ của Nguyễn Văn Huyền và Văn thơ của Ưu Thiên Bùi
Kỷ của Lê Tư Lành).
Biên khảo
1. Quốc văn cụ thể
2. Việt Nam văn phạm bậc trung học (soạn chung)
3. Tiểu học Việt Nam văn phạm (soạn chung)
4. Hán văn trích thái diễn giảng khóa bản (soạn chung)
5. Việt Nam tự điển (soạn chung)
Hiệu khảo
6. Truyện Thúy Kiều
7. Trê cóc
8. Trinh thử
9. Lục súc tranh công
10. Hoa điểu tranh năng
11. Tam quốc chí
12. Hồng lâu mộng
13. Truyền kỳ mạn lục
14. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
15. Truyện Phan – Trần
Dịch thuật
16. Bình Ngô đại cáo
17. Nhạc Dương lâu ký
18. Trần tình văn
19. Qua Đèo Ngang
20. Truyện Kiều (trích)
Sáng tác
21. Đền Phù Đổng
22. Mỵ Châu 1
23. Mỵ Châu 2
24. Đền Bà Triệu
25. Đền Hoa Lư
26. Đền Kiếp Bạc
27. Đền Lam Sơn
28. Bến Canh Gà
29. Hang Từ Thức
30. Chùa Hương Tích 1
31. Chùa Hương Tích 2
32. Chùa Hương Tích 3
33. Tây Hồ
34. Đền Ngọc Sơn
35. Quy tiều
36. Tửu hữu
37. Điền Gia Lạc
38. Cảnh tạo hóa
39. Mặt trăng
40. Năm mới
41. Đời người
42. Viếng bạn
43. Tự thán
44. Tu thân
45. Cẩn ngôn
46. Bài tự thán
47. Xuân thiên
48. Thân
49. Thế
50. Lao
51. Nhàn
52. Ưu
53. Lạc
54. Tự thán
55. Tâm sự
56. Tết ở Quảng Châu 1
57. Tết ở Quảng Châu 2
58. Mừng tuổi quốc văn
59. Thúy Kiều
60. Viếng Nguyễn Du
61. Ngâu
62. Nhớ chị
63. Tết
64. Mừng con trai lấy vợ
65. Nhớ bạn
66. Tìm bạn
67. Tiễn bạn về hưu
68. Không đề
69. Viếng ông đồ Thế
70. Cảnh trời u ám
71. Dương Liên mắng Ngụy Trung Hiền
72. Bài truy điệu Phan Châu Trinh
73. Văn chương
74. Không đề
75. Viếng Thân Trọng Huề
76. Viếng Nguyễn Duy Nhạc
77. Viếng Phạm Duy Tốn
78. Tặng em
79. Trung thu nguyệt (Trăng trung thu)
80. Tân xuân cảm tác (Xuân mới, cảm tác)
81. Đề An Sơn (Đề núi An Sơn)
82. Đề Kính Chủ động (Đề động Kính Chủ)
83. Trùng du Kính Chủ động (Lại đi chơi động Kính Chủ)
84. Du Hương Tích sơn (Chơi núi Hương Tích)
85. Yết Nhị Trưng từ (Yết đền Hai Bà Trưng) 1
86. Yết Nhị Trưng từ (Yết đền Hai Bà Trưng) 2
87. Yết Nhị Trưng từ (Yết đền Hai Bà Trưng) 3
88. Đệ nhất niên kháng chiến (Kháng chiến năm thứ nhất)
89. Dân tộc thống nhất đại trận tuyến (Mặt trận dân tộc thống nhất)
90. Họa Phục Ba tiên sinh tặng thi (Họa thơ tặng của ông Phục Ba)
91. Quá Hòa Bình địch chiếm cố lũy (Qua đồn giặc chiếm đóng ở Hòa Bình)
92. Hòa bình hậu cảm tác (Cảm tác sau khi lập lại hòa bình)
93. Phỏng Tử Trầm sơn (Thăm núi Tử Trầm)
94. Đề Minh Thái Tổ lăng (Đề lăng Minh Thái Tổ)
95. Hàng Châu, Vũ Mục Miếu (Miếu Vũ Mục ở Hàng Châu)
96. Đề Nam Ninh công viên (Đề công viên Nam Ninh)
97. Điếu Phạm Hồng Thái (Viếng Phạm Hồng Thái)
98. Tái phỏng Quảng Châu cảm tác (Cảm tác khi lại thăm Quảng Châu)
99. Hoan nghinh kính ái đích Chu Tổng lý (Hoan nghinh Chu Tổng lý kính yêu)
100. Kính thướng Hồ Chủ tịch (Kính dâng Hồ Chủ tịch)
101. Đền Trung Liệt
Phụ lục 3: Các bài viết của Bùi Kỷ đăng trên báo Đuốc Tuệ
STT Tên bài báo Số báo Năm
1 Giải nghĩa chữ “tuệ” ở trong Phật 2 1935
học
7, 8, 10, 11, 12 (thiếu 2 Tôn chỉ đạo Phật 1936
số 11)
16, 17, 19, 22, 27, 31 3 Học Tiểu thặng và Đại thặng 1936
(thiếu số 22, 27)
4 Nghĩa chữ “Không” trong đạo Phật 47, 49, 52 1937
5 Bài trướng của Hội Phật giáo viếng 56 1937
cụ Tổ Vĩnh Nghiêm
6 Vì lẽ gì mà chúng ta nên tin theo 66 (thiếu) 1937
đạo Phật?
Phụ lục 4: Các sáng tác của Bùi Kỷ đăng trên Nam Phong tạp chí
1. Bài truy điệu cụ Tiên Điền (ngày 10/8/1927), số 120
2. Viếng Thúy Kiều, số 121
3. Chữ “Lạc” (Hát nói), số 123
4. Chữ “Nhàn” (Hát nói), số 123
Phụ lục 5: Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ nhiệm Bùi Kỷ đảm nhiệm
các chức vụ
1. Sắc lệnh 135, Hồ sơ 6, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, tờ 38
2. Sắc lệnh 102, Hồ sơ 8, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, tờ 201-202
3. Sắc lệnh 262, Hồ sơ 16, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 01, tờ 10
Phụ lục 6: Điếu văn trong tang lễ cụ Bùi Kỷ ngày 20-5-1960 của đồng chí Lê
Đình Thám, Đại diện Ủy ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
Việt - Trung hữu nghị
Cụ Bùi Kỷ không còn nữa! Tin đó đến giữa lúc toàn dân ta đang ra sức thi đua
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, giữa lúc
Tổ quốc đang cần đến bàn tay, khối óc của mỗi người con thân yêu của đất nước để
hoàn thành kế hoạch ba năm, càng làm cho chúng ta vô cùng thương tiếc người lão
thành đã không nề gian lao cùng chúng ta chiến đấu cho dân tộc trong mười lăm
năm nay.
Là một trí thức được đào tạo trong chế độ cũ, tinh thông cả Nho học lẫn Pháp
học, nhưng với lòng yêu nước sẵn có, cụ đã khước từ không chịu ra làm quan với đế
quốc phong kiến, mà chỉ chăm lo việc dạy dỗ con em và sáng tác văn học. Sau khi
Cách mạng tháng Tám thắng lợi và cuộc kháng chiến trường kỳ bắt đầu, cụ đã nhìn
thấy rõ con đường chính nghĩa, con đường mà những người thực lòng yêu nước
phải đi theo để giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ, con đường mà Đảng của giai
cấp công nhân đã vạch ra.
Cho nên trong kháng chiến mặc dầu tuổi già, sức yếu cụ đã theo Đảng, theo
Chính phủ cùng với toàn dân chống lại bọn thực dân cướp nước. Cụ đã tham gia
vào Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 3, làm Chủ tịch Hội Liên Việt Liên
khu 3, Hội trưởng Hội giúp binh sĩ bị nạn Liên khu 3, đem hết tài sức của mình để
góp phần vào việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc và xây dựng chính quyền
dân chủ nhân dân. Trong khói lửa của chiến tranh, cụ đã vượt hàng trăm cây số để
đi hội họp ở nơi này nơi khác, có lần len lỏi vào các vùng du kích để động viên
nhân dân đánh giặc và sản xuất. Để tưởng lệ công lao của cụ, Chính phủ đã tặng
Huân chương kháng chiến hạng Nhất.
Hòa bình lặp lại, cụ được bầu vào Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, được cử làm Hội trưởng Hội Việt - Trung hữu nghị, ủy viên Uỷ
ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam và Phó ban lãnh đạo thanh toán nạn mù
chữ. Trên mọi cương vị công tác, cụ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân đã
giao phó cho.
Trong Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cụ đã có
nhiều ý kiến để cho chính sách đoàn kết của Đảng và Chính phủ được thực hiện tốt
và bất kỳ ở đâu và lúc nào cụ cũng đã cố gắng phổ biến, giải thích những chủ
trương đường lối của Mặt trận cũng như của Đảng và Chính phủ.
Làm Hội trưởng Hội Việt – Trung hữu nghị, cụ đã tích cực tham gia các hoạt
động nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt – Trung. Hai lần cụ
được cử sang nước bạn va cả hai lần cụ đã làm tròn nhiệm vụ hữu nghị mà Mặt trận
và Hội đã giao phó. Cụ lại còn dùng những hiểu biết, uyên thâm của cụ về văn học
và lịch sử Trung Quốc để góp phần vào việc giới thiệu các tác phẩm của nước bạn
cho nhân dân ta cũng như giới thiệu các tác phẩm của nước ta cho nhân dân nước
bạn. Cụ đã phụ trách việc nhuận san lại các bộ tiểu thuyết cổ nổi danh của Trung
Quốc như Hồng lâu mộng, Tam quốc chí đã dịch ra tiếng Việt và đồng thời cụ đang
tiến hành việc dịch cuốn truyện Kiều ra Hoa văn. Những tác phẩm đó được nhân
dân rất chú ý và hoan nghênh.
Trong phong trào thanh toán nạn mù chữ, cụ đã đóng góp một phần rất xứng
đang. Cụ thường đi xuống tận cơ sở để vận động nhân dân học tập. Nơi nào khó
khăn là có mặt cụ và cụ đã hoạt động ở gần khắp các tỉnh miền Bắc.
Có thể nói trong suốt mười mấy năm qua, từ khi được ánh sáng của cách mạng
soi rõ đường đi, cụ đã làm tròn nhiệm vụ của một người công dân, một người cán
bộ trong chế độ dân chủ cộng hòa.
Đời sống của cụ rất giản dị. Cụ đã cùng với toàn dân chịu đựng những gian khổ
nguy nan trong lúc nước nhà còn đang bị xâm lăng và sau lúc hòa bình trở lại, cụ
vẫn giữ nguyên tác phong xưa.
Cụ là một vị lão thành nho học luôn luôn cầu tiến bộ. Cụ rất chăm nghiên cứu
chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng. Trong các
lớp nghiên cứu, cụ là một trong những người nhiều tuổi mà lại rất hăng hái, tích
cực.
Rất thiết tha với cách mạng, cụ đã từng phát biểu: “Tôi đã thấy rõ công cuộc
kiến thiết hùng mạnh của chúng ta và tương lai sán lạn của đất nước”. Gần đây,
trong những ngày nằm trên giường bệnh, cụ vẫn còn ra công sáng tác. Trong dịp
Đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc sang thăm nước ta vừa rồi, cụ đã gửi Thủ
tướng Chu Ân Lai một bài thơ chữ Hán để chào mừng. Trong dịp mừng sinh nhật
Hồ Chủ tịch 70 tuổi, cụ cũng làm một bài thơ chữ Hán chúc thọ Người. Và, trước
khi nhắm mắt, cụ còn để lại một bài song thất lục bát dài gần 400 câu để chúc mừng
ngày kỉ niệm 15 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lòng tin
tưởng vô hạn của cụ vào chế độ, vào Đảng, vào Hồ Chủ tich, vào tương lai của dân
tộc cũng như của nhân loại, vào bước tiến không ngừng của chủ nghĩa xã hội đã thể
hiện rõ trong những câu kết luận bài thơ đó:
Ta có Đảng khéo ghì tay lái,
Có Bác Hồ tuyệt đối anh minh
Bắc – Nam thành lập hòa bình.
Đấu tranh thống nhất hoàn thành không lâu
Miền Bắc ta thêm giàu thêm có,
Cơ sở ta củng cố vững vàng,
Xã hội chủ nghĩa vinh quang,
Là con đường thẳng ta càng tiến mau.
Khi chúng tôi hỏi cụ có dối dang gì trong những ngày trước lúc lâm chung thì cụ
ngỏ lời cảm tạ Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Hội Việt – Trung hữu nghị, các bác sĩ và
nhân viên ở bệnh viện Việt – Xô đã hết sức chăm nom chữa chạy cho cụ. Cả Hội
Việt – Trung hữu hảo ở Bắc Kinh và các đồng chí Trung Quốc công tác ở Việt Nam
cũng hết sức quan tâm săn sóc cụ. Nếu vì bệnh tình không thể qua khỏi được thì
điều ân hận của cụ chỉ là không được tận mặn nhìn thấy miền Bắc hoàn thành chủ
nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà giành được thắng lợi cuối cùng.
Cụ mất đi là một tổn thất cho Mặt trận, cho Hội Việt – Trung, cho phong trào
bảo vệ hòa bình thế giới ở Việt Nam, cho phong trào bổ túc văn hóa, cho giới trí
thức của nước ta.
Từ giã cụ lần cuối cùng, thay mặt Mặt trận Tổ quốc Trung ương, Hội Việt –
Trung hữu nghị, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ban lãnh đạo bổ
túc văn hóa và bình dân học vụ, chúng tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước mộ cụ
và xin gửi tới tang quyến lời chia buồn chân thành nhất của chúng tôi.
(Nguồn: [28])
Phụ lục 7: Bài Tưởng nhớ cụ Bùi Kỷ của đồng chí Nguyễn Văn Trân,
Nguyên Bí thƣ Liên khu ủy 3, Nguyên chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành
chính Liên khu 3, Xuân Giáp Ngọ 1994
Cụ Bùi Kỷ là một trí thức yêu nước, một học giả lão thành uyên thâm Hán văn
và Pháp văn, đặc biệt là Việt văn.
Cụ là nhà sư phạm số một đã đào tạo hàng ngàn thế hệ trẻ yêu mến truyền thống
văn hóa dân tộc ta.
Cụ có tư tưởng yêu nước, yêu dân ngay từ thời thanh niên, đã từ chối mọi sự
cám dỗ của đế quốc Pháp và phong kiến để sống một cuộc đời thanh bạch.
Khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công là thời cơ phù hợp với chí hướng
của cụ. Tức khắc cụ hòa mình vào quảng đại quần chúng nhân dân, tích cực tham
gia vào mọi hoạt động xã hội để mang lại lợi ích cho dân nghèo.
Từ đó cụ dễ dàng tham gia các hoạt động chính trị. Cụ hoan nghênh các chủ
trương đánh giặc cứu nước của Đảng và Hồ Chí Minh. Cụ tích cực vận động các
tầng lớp nhân dân thực hành các chính sách của chính phủ.
Lập trường và thái độ rõ ràng dứt khoát của cụ đã tác động rất lớn trong giới trí
thức cũ và mới, trong các nhân sĩ, các giới tôn giáo.
Tôi may mắn được cộng tác với cụ trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên
khu 3. Cuộc kháng chiến lúc ấy rất gian khổ, thiếu thốn. Giặc thế mạnh, ta còn yếu,
dân chúng rất nghèo. Cụ Bùi đã có tuổi phải chịu đựng mọi thiếu thốn. Nhưng lạ là,
lúc nào cụ cũng lạc quan, cũng vui vẻ.
Cụ tin tưởng vào chính nghĩa, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng, tin tưởng
vào các chính sách của Đảng và chính phủ, đặc biệt cụ rất tôn kính và tin tưởng Bác
Hồ.
Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 3 lúc ấy gồm những người thanh niên
như chúng tôi. Ai cũng quý trọng cụ. Và cụ cũng rất trọng thị chúng tôi. Nhiều cuộc
họp của ủy ban để bàn các kế hoạch đánh giặc, giúp dân, thực hiện các chính sách
đoàn kết của Chính phủ, Cụ hăng hái góp nhiều ý kiến. Đôi khi có vấn đề gay go, cụ
cũng rất phục thiện sẵn sàng theo đa số.
Có những lần họp gấp, họp khuya, khi nghỉ giai lao, cụ thường đọc thơ ca để
động viên mọi người, có lúc cụ bày ra đánh cờ để có dịp thư giãn tinh thần.
Cụ sống rất giản dị, khoan dung và đặc biệt lúc nào cũng vui vẻ.
Rõ ràng tư tưởng của cụ đã chuyển biến rất nhanh từ yêu nước, yêu dân đến chủ
nghĩa xã hội chỉ là một bước! Thực sự cụ là một nhà nho yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
chủ nghĩa cộng sản!
Ngày nay mỗi khi nghĩ đến cụ, tôi nhớ lại biết bao kỷ niệm tốt đẹp về cụ, một
nhà nho, nhà văn hóa, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội và cách mạng. Một tấm gương
về tinh thần, đạo đức, về phẩm chất mãi mãi cho thế hệ sau này học tập!
(Nguồn: [28])
Phụ lục 8: Sơ đồ gia phả họ Bùi của Bùi Kỷ
Phụ lục 9: Một số hình ảnh liên quan đến danh nhân Bùi Kỷ
Hình 1: Chân dung Bùi Kỷ thời trẻ
(Nguồn: [66])
Hình 2: Chân dung Bùi Kỷ lúc cao tuổi
(Nguồn: Ảnh tư liệu do gia đình cung cấp)
Hình 3: Mộ danh nhân Bùi Kỷ tại Nghĩa trang Yên Kỳ
(xã Phú Sơn, huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội).
(Nguồn: Ảnh tư liệu do gia đình cung cấp)
Hình 4: Trƣờng Tƣ thục Thăng Long trƣớc năm 1945, nơi Bùi Kỷ tham gia
giảng dạy Việt văn, Hán văn.
(Nguồn: Phòng Truyền thống, Trường Tiểu học Thăng Long, số 20 phố Ngõ
Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Hình 5: Trƣờng tiểu học Thăng Long ngày nay,
số 20 phố Ngõ Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
(Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 1-2015)
Hình 6: Ảnh chân dung các nhà giáo tiêu biểu của Trƣờng tƣ thục Thăng
Long. Thầy Bùi Kỷ, hàng dưới, thứ ba từ trái sang.
(Nguồn: Phòng Truyền thống, Trường Tiểu học Thăng Long, số 20 phố Ngõ
Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Hình 7: Các thầy, cô giảng dạy ở Trƣờng tƣ thục Thăng Long họp mặt tại
ngôi trƣờng cũ. Thầy Bùi Kỷ ngồi hàng ghế đầu, thứ tư từ trái sang.
(Nguồn: Phòng Truyền thống, Trường Tiểu học Thăng Long, số 20 phố Ngõ
Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Hình 8: Chùa Quán Sứ, trụ sở của Trung ƣơng Hội Phật giáo Bắc Kỳ. Tại
đây, Bùi Kỷ đã thuyết giảng bài “Vì lẽ gì mà chúng ta nên tin theo đạo Phật?”
năm 1937.
(Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 1-2015)
Hình 9: Ban Sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (ảnh chụp năm 1936).
Bùi Kỷ ngồi hàng đầu, thứ ba từ phải sang.
(Nguồn: [15]).
Hình 10: Hội Truyền bá Quốc ngữ ra mắt tại Hà Nội năm 1938.
Bùi Kỷ được bầu làm Phó Hội trưởng.
(Nguồn: [117])
Hình 11: Bùi Kỷ trong một chuyến công tác lên Hòa Bình năm 1952.
Bùi Kỷ ngồi thứ hai từ phải sang.
(Nguồn: [122])
Hình 12: Trụ sở Hội Việt - Trung hữu nghị những năm 1950.
Bùi Kỷ từng giữ chức Hội trưởng sau năm 1954.
(Nguồn: [27].
Hình 13: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tôn Đức Thắng cùng các Ủy
viên Ủy ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hội nghị Mặt trận
kêu gọi hƣởng ứng Cƣơng lĩnh Mặt trận đấu tranh đòi hiệp thƣơng thống nhất
nƣớc nhà, tháng 12-1955. Bùi Kỷ ngồi hàng đầu, thứ ba từ phải sang.
(Nguồn: [113]).
Hình 14: Trụ sở của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay,
số 46 phố Tràng Thi, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
(Nguồn: Tác giả luận văn chụp, tháng 1-2015)