ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––

BÙI THỊ NGỌC ANH CA DAO, DÂN CA LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––

BÙI THỊ NGỌC ANH CA DAO, DÂN CA LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thu

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long từ

góc nhìn văn hóa là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các số

liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình

khác. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./.

Thái Nguyên, ngày 02 tháng 5 năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Ngọc Anh

i

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo -

PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thu đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn

thành tốt luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các phòng ban chức

năng, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo

điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và các bạn học

viên đã luôn động viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian vừa qua.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 02 tháng 5 năm 2018 Học viên

Bùi Thị Ngọc Anh

ii

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan .................................................................................................................. i

Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 5

5. Phương pháp ............................................................................................................................. 5

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................................ 6

7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................................... 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA ĐỀ TÀI ........................................... 8

1.1. Khái quát về vịnh Hạ Long và cộng đồng ngư dân ở vịnh Hạ Long ............................... 8

1.1.1. Khái quát về vịnh Hạ Long ............................................................................................... 8

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng ngư dân trên vịnh Hạ Long ............ 10

1.2. Khái niệm ca dao, dân ca và khái quát chung về ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long ............................................................................................................................ 12

1.2.1. Khái niệm ca dao, dân ca ................................................................................................ 12

1.2.2. Khái quát chung về ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long ........................................ 14

1.3. Khái niệm văn hóa, mối quan hệ giữa văn học & văn hóa và hướng

nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ........................................................................... 16

1.3.1. Khái niệm văn hóa ........................................................................................................... 16

1.3.2. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa ........................................................................... 18

1.3.3. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, văn hóa biển vùng

vịnh Hạ Long ............................................................................................................................ 20

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................................... 26

iii

Chương 2: NỘI DUNG CÁC BÀI CA DAO, DÂN CA Ở LÀNG CHÀI VỊNH

HẠ LONG NHÌN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ................................................................. 27

2.1. Tình yêu biển, tình yêu nghề biển ..................................................................................... 27

2.1.1. Tình yêu biển .................................................................................................................... 27

2.1.2. Tình yêu nghề đi biển ...................................................................................................... 31

2.2. Tình yêu lứa đôi .................................................................................................................. 35

2.2.1. Làm quen, tỏ tình ............................................................................................................. 35

2.2.2. Tương tư, yêu đương ....................................................................................................... 41

2.2.3. Đôi lứa từ biệt nhau sau những cuộc vui ............................................................... 46

2.2.4. Đôi lứa nên duyên vợ chồng ........................................................................................... 48

2.2.5. Trái duyên, không xứng đôi ............................................................................................ 55

2.3. Những tâm tình đời thường của người dân chài .............................................................. 58

2.3.1. Tâm sự người dân chài bị bắt lính .................................................................................. 58

2.3.3. Tâm sự của người phụ nữ qua khúc hát ru con ............................................................. 61

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................................... 63

Chương 3: NGHỆ THUẬT CỦA CÁC BÀI CA DAO, DÂN CA Ở LÀNG CHÀI

VỊNH HẠ LONG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ................................................................. 64

3.1. Biểu tượng ........................................................................................................................... 64

3.2. Thể thơ ................................................................................................................................. 71

3.2.1. Thể thơ lục bát .................................................................................................................. 72

3.2.2. Thể hỗn hợp ...................................................................................................................... 74

3.3. Kết cấu ................................................................................................................................. 76

3.3.1. Kết cấu đối đáp ................................................................................................................. 76

3.3.2. Kết cấu trần thuật ............................................................................................................. 79

3.4. Ngôn ngữ và biện pháp tu từ .............................................................................................. 81

3.4.1. Ngôn ngữ .......................................................................................................................... 81

3.4.2. Biện pháp tu từ ................................................................................................................. 83

Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................................... 85

KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 89

PHỤ LỤC

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quảng Ninh, nơi có kì quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, từ ngàn đời nay

đã có bao gia đình chuyên sinh sống bằng nghề chài lưới. Được các hòn đảo che

chắn, người dân chài nơi đây, đời nối đời lấy thuyền làm nhà, non xanh nước biếc là

quê hương. Trong cảnh lênh đênh giữa mây trời non nước, họ có một hình thức sinh

hoạt văn hóa tinh thần, một phương thức giao lưu tình cảm độc đáo là tiếng hát. Trai

gái tìm hiểu nhau qua tiếng hát, nên duyên, tổ chức đám cưới cũng bằng tiếng hát…

Những lúc nghiêng buồm chèo lái, ra khơi vào lộng, lời ca cất lên chứa đựng biết bao

đằm thắm, mượt mà, thiết tha, sâu lắng mà vẫn hóm hỉnh, thông minh, đôi khi đáo để

nhưng rất đỗi chân thành, ngân dài vang vọng hòa cùng sóng nước. Những lời ca ngọt

ngào, đằm thắm, tinh tế thấm đẫm nét đẹp của người dân chài Hạ Long, mang đậm

bản sắc vùng biển đảo mà không một nơi nào khác có được. Những câu ơ hò khỏe

khoắn, những làn điệu dân ca da diết rất dễ làm say đắm lòng người, hồn người.

Thăm vịnh Hạ Long trong một đêm trăng thanh, giữa mây trời, chợt đâu đó

vang vọng trên sóng nước câu hát dân ca chắc chắn sẽ để lại trong lòng mỗi du khách

ấn tượng khó phai về nét văn hóa riêng biệt trong lòng di sản thiên nhiên nơi đây.

Văn học dân gian Quảng Ninh rất phong phú về thể loại, gồm: truyền thuyết,

truyện cười, ca dao, dân ca, vè, tục ngữ, câu đố... Đáng chú ý trong văn học dân gian

Quảng Ninh là bộ phận ca dao, dân ca vịnh Hạ Long, hệ thống các bài ca của dân

chài sinh sống trên vịnh được xem là thể loại phản ánh rõ nét đặc điểm lịch sử, địa lý,

văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con người nơi đây.

Với mong muốn góp một phần nhỏ vào chuỗi hoạt động tìm hiểu, giới thiệu,

bảo tồn kho tàng ca dao, dân ca của địa phương, tôi đã chọn đề tài: Ca dao, dân ca ở

làng chài vịnh Hạ Long từ góc nhìn văn hóa làm vấn đề nghiên cứu. Qua đề tài này,

chúng tôi hy vọng có thể đem những câu ca dao, dân ca của người dân chài Vịnh Hạ

Long đến với độc giả, giúp họ nhận diện được vẻ đẹp, giá trị của các làn điệu dân ca

trên biển. Từ đó, khơi dậy tình yêu quê hương đất nước từ các giá trị văn hóa mà cha

ông để lại.

1

2. Lịch sử vấn đề

Ca dao, dân ca Hạ Long nói riêng và Quảng Ninh nói chung được bắt đầu sưu

tầm từ những năm 70 của thế kỉ XX. Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ cũng đã có

tới hàng ngàn bài ca dao, dân ca Quảng Ninh. Hàng chục tác giả đã sưu tầm, có tác

giả đã in xuất bản thành sách. Trong đó, có thể kể đến các công trình sưu tầm tiêu

biểu như: Ca dao - Dân ca vùng biển Quảng Ninh (2007) của Vũ Thị Gái, Ca dao

vùng mỏ (2010) của Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh phối hợp với Tập đoàn than

khoáng sản Việt Nam, Ca dao, dân ca của dân chài trên vịnh Hạ Long (2016) của

Tống Khắc Hài, Một số loại hình ca dao, dân ca ở Quảng Ninh (2016) của Phạm

Văn Học.

Ở công trình Ca dao - dân ca vùng biển Quảng Ninh, nhà sưu tầm Vũ Thị Gái

đã sưu tầm được 220 đơn vị tác phẩm, được phân chia thành 7 loại: Cảnh đánh bắt cá

(địa danh, ngư trường), tình yêu vùng biển, phong tục nghi lễ đám cưới, hát đối đáp

khách đến chơi, thi tài hiểu biết (hát đối vui), tâm tình đôi lứa, phê phán chê trách.

Nhà văn Vũ Thảo Ngọc cho rằng: việc phân chia các loại hình một cách bài bản, khoa

học và công phu giúp cho người đọc dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Bên cạnh việc sưu tầm và

biên soạn hệ thống các bài ca dao, dân ca vùng biển Quảng Ninh, tác giả Vũ Thị Gái

còn tái hiện quá trình đi sưu tầm văn học dân gian Quảng Ninh gắn với địa danh và

con người nơi đây. Cuốn sách được coi là tư liệu quý giá về ca dao, dân ca vùng biển

nói chung và ca dao, dân ca Quảng ninh nói riêng, góp phần bổ sung, làm phong phú

thêm kho tàng ca dao, dân ca Quảng Ninh và ca dao dân ca Việt Nam.

Công trình Ca dao vùng mỏ (2010) của Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh phối

hợp với Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam sưu tầm và tập hợp được chia làm 2 giai

đoạn chính: giai đoạn trước cách mạng và sau cách mạng. Các bài ca trước cách mạng

tháng tám năm 1945 đã miêu tả chân thực cuộc sống của công nhân mỏ dưới thời Pháp

thuộc. Giai đoạn sau cách mạng, công trình ngợi ca ý thức làm chủ lao động, ngợi ca

những người thợ mỏ vừa sản xuất vừa chiến đấu với nhiều chiến công hiển hách.

Với tình yêu quê hương, yêu những làn điệu dân ca của người dân chài Hạ

Long và mong muốn giới thiệu với tất cả bạn đọc một loại hình nghệ thuật biểu diễn

dân gian đặc sắc của cộng đồng thủy cư duy nhất ven biển Việt Nam, nhà sưu tầm

2

Tống Khắc Hài đã biên soạn cuốn Ca dao, dân ca của dân chài trên vịnh Hạ Long

(2016). Bên cạnh việc giới thiệu những điều kiện đặc thù về địa lý, lịch sử và cộng

đồng dân chài thuỷ cư trên vịnh Hạ Long; công trình còn sưu tầm được gần 500 đơn

vị tác phẩm tái hiện khá đầy đủ và toàn diện diện mạo của ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long với ba loại hình cơ bản là ca dao, hát đối và hát cưới trên thuyền. Ca

dao, dân ca của dân chài trên vịnh Hạ Long là một công trình sưu tầm có quy mô và

giá trị về một di sản văn hóa đặc biệt đã hình thành và tồn tại từ hàng ngàn năm ở

đúng đất kỳ quan của thế giới. Tác giả Tống Khắc Hài, trong lời nói đầu của cuốn

sách đã nhận định rằng: “Từ kho tàng văn học dân gian đủ thể loại này, ta không

chỉ thấy cuộc sống lao động và tình yêu nam nữ nơi mênh manh non xanh nước

biếc, nơi đầu sóng ngọn gió mà còn thấy những phẩm chất, những tính cách của

một giai tầng nghèo khổ nhưng cực kỳ hồn nhiên và chân thành” [18, tr. 9]

Dưới góc nhìn của một nhà báo, trong công trình Một số loại hình ca dao dân

ca ở Quảng Ninh (2016), tác giả Phạm Văn Học đã đề cập đến một số loại hình ca

dao, dân ca ở Quảng Ninh, như: Ca dao Vùng mỏ, hát Soóng cọ của người dân tộc

Sán Chỉ, hát giao duyên trên Vịnh Hạ Long của dân chài, hát Đúm ở Hà Nam (TX

Quảng Yên), hát Nhà tơ - Hát múa cửa đình ở các huyện miền Đông, hát Then của

người Tày, hát Sán cô của người Dao ... Ngoài ra, còn có những bài viết đề cập đến

những vấn đề thời sự mang tính báo chí như: Làm thế nào để xây dựng thương hiệu

Văn nghệ dân gian Quảng Ninh, làm thế nào để các loại hình văn nghệ dân gian trở

thành sản phẩm du lịch ...

Trên báo điện tử Quảng Ninh, trang “Văn hóa đất và người Quảng Ninh”, tác giả

Hoàng Long có bài viết “Người đi gom những câu ca trên vịnh Hạ Long” ngày

12/2/2016. Bài báo ghi lại cuộc trò chuyện giữa tác giả với nhà nghiên cứu Tống

Khắc Hài khi ông biết tin công trình nghiên cứu “Ca dao - dân ca của dân chài trên

vịnh Hạ Long” đã được trao giải nhì, giải thưởng văn nghệ dân gian năm 2015. Trong

cuộc trò chuyện, nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài tâm sự: “Kho tàng ca dao, dâm ca

làng chài trên vịnh hạ Long rất lớn, rất đồ sộ. Những gì đã in thành sách còn quá ít,

quá nhỏ nhoi. Vậy mà trong xu thế đô thị hóa hiện nay, nếu không tổ chức sưu tầm,

gom nhặt nhanh thì chẳng còn cơ hội nào nữa. Những câu ca dao, dân ca của người

3

dân ở các làng chài tích lũy từ bao đời, nay sẽ theo người già về với cội nguồn mất

thôi.” [25, tr. 1]

Gần đây nhất, luận văn thạc sỹ “Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao

Quảng Ninh” (2017) của Nguyễn Bích Ngọc là một công trình nghiên cứu tương đối

hệ thống và toàn diện về nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh, góp

phần giúp người đọc hiểu rõ hơn về đời sống, tâm tư, tình cảm, khát vọng và ước

muốn của nhân dân lao động xưa, đặc biệt là những người dân sống ở vùng mỏ và

ven biển. Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về các văn bản ca dao ở Quảng Ninh,

tác giả Nguyễn Bích Ngọc cho rằng “Luận văn sẽ làm sống lại hiện thực khách quan

về cuộc sống và tâm tư tình cảm của ông cha ta ngày trước gửi gắm qua các bài ca

dao. Từ đó, góp phần kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp cho con người thời nay

không quên lịch sử, nguồn cội của quê hương mình, có ý thức giữ gìn, bảo tồn và

phát huy các giá trị văn hóa nói chung và và văn học dân gian nói riêng” [27, tr. 7].

Nhìn chung, các công trình trên chủ yếu đi sâu vào việc sưu tầm các bài ca

dao, dân ca trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh và khai thác ở khía cạnh văn hóa và du

lịch; hiện chưa có công trình nào xem xét hệ thống các bài ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long từ góc nhìn văn hóa, tức là xem xét sự chi phối, dấn ấn của văn hóa

hiện hữu trong các bài ca dao, dân ca. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi tiến

hành khảo sát nội dung và nghệ thuật của các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh

Hạ Long từ góc nhìn văn hóa.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Chọn nghiên cứu Ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long từ góc nhìn văn hóa,

luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa nhằm hệ thống các bài

ca dân gian đã và đang được lưu truyền ở vùng làng chài Hạ Long về nội dung, nghệ

thuật, từ đó khẳng định giá trị, sức sống lâu bền và đặc trưng văn hóa biển được thể

hiện qua ca dao, dân ca làng chài. Qua đó, đóng góp thêm một cách tiếp cận về ca

dao, dân ca dưới góc nhìn văn hóa, giúp cho việc phân tích và giảng dạy các tác phẩm

văn học dân gian trong nhà trường phổ thông có cơ sở và có sức thuyết phục hơn.

Đồng thời, bước đầu đề xuất một số ý kiến góp phần bảo tồn và phát huy những giá

trị truyền thống quý báu ấy.

4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn khái quát những nét cơ bản về vịnh Hạ Long và cộng đồng ngư dân

sinh sống ở nơi đây, đồng thời, làm sáng tỏ các cơ sở lý luận nhằm đi sâu nghiên cứu,

đánh giá nội dung và nghệ thuật của hệ thống các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh

Hạ Long từ góc nhìn văn hóa.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các bài ca dao, dân ca ở làng

chài vịnh Hạ Long. Việc gọi câu hát dân gian, bài hát dân gian, bài ca, lời thơ dân

gian, đơn vị tác phẩm trong luận văn này là một, đều chỉ các bài ca dao - dân ca.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tư liệu khảo sát trong luận văn là hệ thống các bài ca ở hai công trình nghiên

cứu, sưu tầm: Ca dao - dân ca vùng biển Quảng Ninh (2007) của tác giả Vũ Thị Gái;

Ca dao, dân ca của dân chài trên vịnh Hạ Long (2016) của tác giả Tống Khắc Hài và

một số bài ca dao, dân ca còn lưu truyền trong dân gian mà chúng tôi sưu tầm được

trong quá trình điền dã. Về phạm vi vấn đề, luận văn tập trung nghiên cứu nội dung

và nghệ thuật của các bài ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long từ góc nhìn văn hóa.

5. Phương pháp

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó tập trung ở

một số phương pháp sau:

5.1. Phương pháp điền dã

Chúng tôi đi thực tế về các phường, xã thu thập thêm những bài ca dao, dân ca

còn lưu truyền trong nhân dân, tìm hiểu về đời sống văn hóa của người dân chài vịnh

Hạ Long từ cổ truyền đến hiện đại để hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, sức sống của văn

học dân gian, trong đó có ca dao, dân ca đối với người dân nơi đây. Qua quá trình đi

điền dã, có thể thấy rằng, ca dao dân ca của dân chài Hạ Long là sự tích hợp hoàn hảo

về lịch sử văn hóa, xã hội của một cộng đồng trôi nổi với phương thức sống duy nhất

là nghề đánh cá. Vì vậy, dù có sự giao thoa, ca dao, dân ca vùng vịnh vẫn tươi rói

những nét đặc thù không lẫn với sản phẩm nghệ thuật của bất cứ miệt biển nào trên

dải đất hình chữ S.

5.2. Phương pháp thống kê, phân loại

Phương pháp này được sử dụng để thống kê và phân loại hệ thống các bài ca

dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long ở phạm vi nguồn tư liệu khảo sát đã xác định.

5

5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Từ kết quả thống kê, phân loại ở trên, phương pháp phân tích, tổng hợp sẽ giúp

chúng tôi đưa ra những nhận xét, đánh giá; từ đó khẳng định vai trò, vị trí của loại hình

văn học dân gian này trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân vùng biển Hạ Long.

5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Trong quá trình phân tích, tổng hợp, chúng tôi cố gắng so sánh, đối chiếu ca dao,

dân ca làng chài vịnh Hạ Long với các thể loại văn học dân gian khác ở Quảng Ninh

và các vùng miền khác nhằm làm rõ những nét tương đồng hay khác biệt trong những

trường hợp cần thiết.

5.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Dựa trên các tài liệu và văn bản nghiên cứu về ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ

Long nói riêng và ca dao dân ca tỉnh Quảng Ninh hiện có nói chung, chúng tôi kết

hợp một số phương pháp: văn hóa học, sử học, địa lý học, dân tộc học, du lịch... để

nghiên cứu.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đưa ra cách tiếp cận mới trên cơ sở vận dụng kiến thức ngôn ngữ và

văn hóa học vào việc nghiên cứu ca dao, dân ca vùng miền. Thông qua việc sưu tầm,

tìm hiểu và nghiên cứu về hệ thống các bài ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long,

luận văn sẽ làm sống lại hiện thực khách quan về cuộc sống và tâm tư, tình cảm của

người dân chài trong các bài ca. Từ đó, góp phần kết nối giữa quá khứ và hiện tại, góp

phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng.

Bên cạnh đó, từ những kết quả khảo sát của đề tài, luận văn đóng góp thêm một

cách tiếp cận về ca dao, dân ca dưới góc nhìn văn hóa, giúp cho việc phân tích và

giảng dạy các tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường phổ thông có cơ sở và có

sức thuyết phục hơn.

Một trong những mục tiêu nữa mà luận văn muốn hướng tới là dùng kết quả sưu

tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy trong chương trình ngữ văn địa

phương ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Hạ Long nói riêng và tỉnh Quảng

Ninh nói chung.

6

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phụ lục ảnh và thư mục tài liệu tham khảo, nội

dung chính của luận văn được triển khai thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.

Chương 2: Nội dung của các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long từ góc

nhìn văn hóa.

Chương 3: Nghệ thuật của các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long từ

góc nhìn văn hóa.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái quát về vịnh Hạ Long và cộng đồng ngư dân ở vịnh Hạ Long

1.1.1. Khái quát về vịnh Hạ Long

Vịnh Hạ Long là một di sản độc đáo chứa đựng những dấu tích quan trọng trong

quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ;

đồng thời, là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên với sự hiện diện của

hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng, với nhiều hang động kỳ thú quần tụ thành

một thế giới vừa sinh động vừa huyền bí. Bên cạnh đó, vịnh Hạ Long còn là nơi tập

trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình cùng với hàng nghìn loài

động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nơi đây còn gắn liền với những giá trị

văn hóa - lịch sử hào hùng của dân tộc.

Là vùng biển đảo nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, thuộc tỉnh Quảng Ninh,

vịnh Hạ Long có diện tích 1.223km², bao gồm 1.969 hòn đảo. Phía Bắc và Tây Bắc

vịnh Hạ Long kéo dài từ huyện Yên Hưng, qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả

đến hết phần biển đảo huyện đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam giáp bờ

Tây vịnh Bắc Bộ; phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng).

Vịnh Hạ Long có dạng địa hình đảo đất, đảo đá vôi xen lẫn với các trũng biển,

các vùng bãi triều có sú vẹt mọc. Các đảo trên vịnh Hạ Long có độ cao trung bình từ

50m đến 200m.

Vịnh Hạ Long nổi bật với hệ thống đảo đá và hang động tuyệt đẹp. Đảo ở Hạ

Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng

phía đông nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía tây nam vịnh Hạ Long. Đây là hình

ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 - 280 triệu năm, là kết

quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển.

Quá trình Carxto bào mòn, phong hoá gần như hoàn toàn tạo ra một Hạ Long độc

nhất vô nhị trên thế giới.

Đáy biển vịnh Hạ Long tương đối bằng phẳng, phần lớn là bùn, đôi chỗ là vỏ

nhuyễn thể pha cát, có độ sâu trung bình từ 5m đến 10m, chỗ sâu nhất từ 20m đến

25m là các cửa biển hoặc luồng lạch.

8

Khí hậu Hạ Long mang tính nhiệt đới ẩm, bị phân hóa thành hai mùa rõ rệt:

mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều kéo dài, mùa đông lạnh, khô. Tuy nhiên, do tính chất

biển nên khí hậu luôn được điều hòa, nhiệt độ trung bình năm từ 15ºC đến 25ºC.

Về thủy văn, vịnh Hạ Long có chế độ nhật triều điển hình thuần nhất, với biên

độ triều vào loại lớn nhất nước ta từ 0,1 đến 4,6m. Độ mặn của nước biển từ 31 đến

34,5%, dao động của độ mặn giữa các tháng trong mùa không lớn.

Hàng trăm đảo đá, mỗi đảo mang một hình dáng khác nhau hết sức sinh động:

hòn Đầu Người, hòn Rồng, hòn Lã Vọng, hòn Cánh Buồm, hòn Trống Mái, hòn Lư

Hương… Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp gắn với

nhiều truyền thuyết thần kỳ như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt,

hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn

trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là

“kỳ quan đất dựng giữa trời cao”.

Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung

ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam

vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong tổng số 1.969 đảo

của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ cao khoảng 200m. Các

đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven

biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Trong đó có thể kể tên một số hòn

đảo nổi tiếng như: Hòn Con Cóc, Hòn Gà Chọi, Đảo Ngọc Vừng, Đảo Ti Tốp, Đảo

Tuần Châu... Ngoài ra, thiên nhiên cũng ban tặng cho vịnh Hạ Long rất nhiều hang

động tuyệt đẹp với bề dày kiến tạo từ 2 triệu năm đến 11 ngàn năm như: hang Sửng

Sốt, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ…

Vịnh Hạ Long đã được xếp hạng di tích danh thắng quốc gia năm 1962, hai lần

được Unesco công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới (lần thứ nhất năm 1994; lần thứ

2 năm 2000). Khu vực được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới rộng 434km²

gồm 775 hòn đảo, giới hạn bởi ba điểm: đảo Đầu Gỗ phía Tây, đảo Công Tây phía

Đông và đảo Đầu Bê phía Nam. Năm 2009, vịnh Hạ Long được Thủ tướng Chính

phủ Việt Nam quyết định xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt.

Vịnh Hạ Long không chỉ là một tác phẩm điêu khắc hùng vĩ, một trang sử của

thiên nhiên ban tặng cho con người, mà trong đó còn chứa nhiều giá trị, tiềm năng lớn

9

về lịch sử văn hóa, đa dạng sinh học, du lịch, giao thông cảng biển, thủy hải sản...

Trong đó, văn hóa của cộng đồng ngư dân sinh sống trên vịnh là một nét đẹp truyền

thống mang những đặc trưng tiêu biểu của con người nơi đây, tạo nên bản chất con

người Hạ Long với một bản sắc riêng biệt.

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng ngư dân trên vịnh Hạ Long

Địa chí Quảng Ninh có viết: “Vào thời tiền sử (cách nay khoảng 18.000 năm

đến 7.000 năm), khi Hạ Long còn là môi trường lục địa, ở đây đã có bộ phận cư dân

cổ thuộc nền văn hóa Soi Nhụ cư trú, sinh sống trong các hang động trên núi đá vôi

(nay là các đảo đá trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long), với phương thức sinh sống

chính là săn bắn và hái lượm” [34; tr.15].

Bước sang giai đoạn văn hóa Cái Bèo (cách ngày nay từ 7.000 đến 5.000 năm),

khi mực nước biển dâng cao, con người tiền sử đã phải di dời đến khu vực cao hơn và

bắt đầu thích nghi với môi trường biển, mặc dầu còn ở hình thức sơ khai.

Tiếp đến giai đoạn văn hóa Hạ Long (cách ngày nay từ 5.400 đến 3.500 năm)

phương thức sinh sống chủ yếu của cư dân Hạ Long là khai thác nguồn hải sản ven

bờ theo phương thức đánh bắt truyền thống, kết hợp săn bắt, hái lượm tự nhiên

trên các đảo, núi đá. Họ lợi dụng các dòng sông, luồng lạch và con nước đầu

nguồn để thu lượm hải sản; cư dân nơi đây đã biết chế tác các công cụ đá mang

đặc trưng nổi tiếng của nền văn hóa Hạ Long như: rìu, bôn có vai, có nấc độc đáo

để nâng cao năng suất trong việc kiếm sống. Ngoài ra, họ còn biết chế tạo đồ gốm

mang tính chất biển rõ nét với nguyên liệu được pha trộn vỏ nhuyễn thể để phục

vụ đời sống sinh hoạt. Các di vật: xương cá, chì lưới được tìm thấy ở các di chỉ

khảo cổ cũng đã chứng minh rằng cư dân nơi đây còn biết tới nghề trồng trọt,

trồng cây lấy sợi để se sợi đan lưới hoặc dây dâu để bắt cá. Mặt khác, khi nước

biển dâng cao, cả khu vực trở thành biển đảo thì con người đã biết dùng các bộ

công cụ bằng đá độc đáo để chế tạo ra những phương tiện đi biển để có thể di

chuyển phù hợp với môi trường cư trú của mình.

Đầu thế kỉ XIX, cộng đồng ngư dân vạn chài ở vùng Cửa Lục tập trung chủ yếu

tại hai làng thủy cư là Giang Võng (thuộc tổng An Khoái, huyện Hoành Bồ, phủ Hải

10

Đông, trấn An Quảng, nay thuộc phường Hà Khánh, TP. Hạ Long) và Trúc Võng

(thuộc tổng Vạn Yên, huyện Hoành Bồ nay thuộc phường Bãi Cháy, TP. Hạ Long).

Từ năm 1946, phần lớn người dân ở hai làng Giang Võng và Trúc Võng đã di

chuyển ra vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long (nay thuộc huyện Vân Đồn, Quảng Ninh)

để cư trú và sinh sống.

Năm 1948, huyện đảo Cẩm Phả được thành lập (tách ra khỏi thị xã Cẩm Phả).

Cũng thời gian này, các xã Thắng Lợi (thuộc huyện Cẩm Phả, nay thuộc huyện Vân

Đồn), Thành Công (thuộc huyện Hoành Bồ nay thuộc phường Cao Xanh, thành phố

Hạ Long) và Hùng Thắng (thuộc thành phố Hạ Long) ra đời, là nơi tập trung dân chài

phiêu bạt từ nhiều nơi đến cư trú.

Sau khi hòa bình lập lại, năm 1955, phần lớn ngư dân làng chài ở các xã Thành

Công, Hùng Thắng trở về vùng vịnh Hạ Long sinh sống. Chính quyền địa phương đã

lập ra các hợp tác xã để tập hợp dân chài, nhằm tập trung sản xuất, nâng cao đời sống

và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Năm 1959 - 1960, trong cao trào hợp tác hóa để nâng cao tổ chức sản xuất và đời

sống văn hóa xã hội, các làng chài được vận động lên định cư trên đất liền. Thời gian đầu

ở bãi biển Khe Cá thuộc thị trấn Hà Tu, về sau tập trung tại bãi biển Cọc 5. Sau đó tiếp

tục chuyển về xã Hùng Thắng, lập thành hai hợp tác xã Quyết Thắng và Chiến Thắng.

Trong thời gian vào hợp tác xã, họ làm nhà trên bờ nhưng vẫn thường xuyên xuống

thuyền sinh sống. Khi hợp tác xã giải tán, họ chuyển xuống thuyền sống thủy cư.

Năm 1963, xã Hùng Thắng có các thôn Cửa Vạn, Cặp Dè, Cặp La ở giữa vịnh

Hạ Long và các thôn Lán Bè, Cọc Năm ở sát ven bờ.

Đối với các làng chài sống thủy cư trên mặt biển, chủ yếu là cư dân của xã

Hùng Thắng. Ngoài ra còn có các hộ gia đình là cư dân các vùng khác đến đây sinh

sống và làm ăn dựa vào sự phong phú của nguồn lợi thủy hải sản. Những hộ cư dân

nơi đây tập trung chủ yếu ở bãi biển Cọc 5 và thôn Vông Viêng.

Ở xã Hùng Thắng (nay là phường Hùng Thắng) ngoài dân gốc chủ yếu là dân

làng Giang Võng, Trúc Võng xưa, còn có dân ở các vùng khác trong tỉnh và ngoài

tỉnh đến sinh cơ lập nghiệp như: Hà Nam, Thái Bình, Thanh Hóa,...

11

“Hiện nay, trên vịnh Hạ Long có sáu làng chài thủy cư (đều thuộc phường

Hùng Thắng) gồm: Cửa Vạn, Vông Viêng (Vung Viêng), Cống Tàu, Ba Hang, Hoa

Cương và Cống Đầm. Trong đó, Cửa Vạn là làng chài lớn nhất” [5; tr. 1].

1.2. Khái niệm ca dao, dân ca và khái quát chung về ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long

1.2.1. Khái niệm ca dao, dân ca

Ca dao, dân ca, xét về góc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện thực

khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và những phong tục tập quán

riêng. Nghiên cứu về ca dao, dân ca không chỉ cho thấy những nét đẹp văn hóa của

người Việt Nam mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết

tha. Có thể nói, ca dao, dân ca chính là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc, là nét

đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam.

Với cội nguồn lịch sử và chữ viết rất phong phú đa dạng nên ca dao và dân ca

có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, cách chúng ta khoảng trên dưới 2.500 năm. Phó Giáo

sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát

biểu: "Tất cả các dân tộc trên thế giới suốt mấy nghìn năm chỗ nào cũng có dân ca

và ca dao. Vì thế nói về ca dao dân ca của một dân tộc hay ca dao dân ca nói chung

là vấn đề rất lớn. Nó tồn tại rất lâu, từ hàng ngàn năm trước và như các nhà khoa

học nghiên cứu trước đây, các học giả đã nói ca dao ra đời khi trong lòng mình có

những điều muốn thể hiện ra, muốn nói lên. Những điều đó được gọi là ca dao".

Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về ca dao, dân ca; trong đó, có một số cách

hiểu phổ biến như sau:

Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt, "ca dao là thơ ca dân gian được truyền miệng

dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể

thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là thể loại văn vần, thường làm theo thể thơ

lục bát" [32; tr. 132].

Nguyễn Xuân Kính cho rằng: "Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ

biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và

bền vững trong phong cách. Và ca dao đã thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể

thơ dân gian" [23; tr. 56].

12

Từ điển thuật ngữ văn học, (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi)

viết: "Ca dao còn gọi phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng

hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có

khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong

dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với

dân ca". [19; tr.31].

Theo Tục ngữ ca dao, dân ca, (Vũ Ngọc Phan chủ biên): "Ca dao là một loại

thơ dân gian có thể ngâm được như các thể thơ khác và có thể xây dựng thành các

điệu dân ca" [28; tr.42].

Văn học dân gian Việt Nam, (Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang

Nhơn): "Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán - Việt. Theo cách hiểu thông thường thì ca

dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy… hoặc

ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca" [22; tr.436].

Cũng đưa ra định nghĩa về ca dao, dân ca; Cuốn Ngữ văn 7, (Nguyễn Khắc Phi,

chủ biên) còn phân biệt rõ hai thể loại này: "Dân ca là những sáng tác kết hợp lời và

nhạc, tức là những câu hát dân gian trong diễn xướng. Ca dao là lời thơ của dân ca.

Khái niệm ca dao còn được dùng để chỉ một thể thơ dân gian - thể ca dao" [33; tr.35].

Từ những cách hiểu trên, có thể khái quát lại: Ca dao, dân ca là khái niệm dùng

để chỉ những sáng tác trữ tình dân gian, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca

dao là phần lời của dân ca; là những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật

chung với lời thơ dân ca. Dân ca là những sáng tác kết hợp lời và nhạc. Nói đến dân

ca là nói đến môi trường và các hình thức diễn xướng (dân ca quan họ Bắc Ninh; hát

ví, hát dặm Nghệ Tĩnh,...)

Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ ca dao, dân ca đi liền với

nhau vì bản thân ca dao chính là thể loại thơ ca dân gian được truyền miệng dưới

dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục

bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có

chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Bởi

vậy, đôi khi giữa hai thể loại này không có ranh giới và sự phân biệt một cách rành

rọt, rõ ràng. Đặc biệt, ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long là những khúc ca, bài ca

13

được sản sinh trong môi trường lao động ngư nghiệp, trong quá trình diễn xướng sôi

động của đời sống thợ thuyền. Có khi, những câu ca dao vừa sáng tác lập tức được

cất thành lời ca giữa mênh mông sóng nước Hạ Long. Khi ấy, ca dao và dân ca song

trùng với nhau, cùng thể hiện những đặc trưng văn hóa tinh thần của người dân chài

nơi đây.

1.2.2. Khái quát chung về ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long

Nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài từng nhận định: “Mỗi dân tộc, mỗi cộng

đồng người đều có một nền văn hoá dân gian mang giá trị đặc trưng. Riêng ở

Quảng Ninh, có một cộng đồng khá đặc biệt, họ có một đời sống văn hoá hoà

quyện với thiên nhiên, phản chiếu vào ca dao, dân ca, tạo nên giá trị vô giá về

nhiều mặt, rất cần được nghiên cứu, đánh giá, bảo tồn và phát huy. Đó là kho

tàng ca dao, dân ca - giá trị văn hóa đặc hữu của dân chài vùng vịnh Hạ Long -

những cộng đồng thủy cư từng có cả ngàn năm sinh sống ở đây” [18, tr. 9].

Là hậu duệ của 3 nền văn hóa tiền sử (Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long cách nay từ

20.000 đến 4.500 năm), ca dao dân ca của dân chài Hạ Long là sự tích hợp về lịch sử

văn hóa, xã hội của một cộng đồng thủy cư với phương thức sống duy nhất là nghề

đánh cá. Cũng như phương thức sinh hoạt văn hóa duy nhất là ngâm vịnh, diễn

xướng. Ngôn ngữ ca dao trở thành bộ phận không thể tách rời của dân ca. Đó là

những gì tinh túy nhất của nghệ thuật và tinh thần được dân gian sàng lọc và lưu giữ.

Vì vậy, dù có sự giao thoa, ca dao dân ca vùng vịnh vẫn tươi rói những nét đặc thù

không lẫn với sản phẩm nghệ thuật của bất cứ miệt biển nào trên dải đất hình chữ S.

Người dân chài trên vịnh Hạ Long sống trong cảnh nước non kỳ ảo lênh đênh

trôi dạt, mỗi con thuyền là một hộ gia đình, tùy theo sóng gió, tùy theo nghề chài lưới

hay cắm đăng, cắm đọn, hay buông câu thả bóng mà nay đây mai đó. Họ phải phân

tán để làm ăn, mưu sinh nên mỗi dịp gặp nhau, ai cũng muốn cởi lòng mình một cách

chân thành, tha thiết. Họ mượn những lời ca, tiếng hát để giãi bày, tâm sự, để gìn giữ

những phong tục cổ truyền. Ông Tống Khắc Hài - nhà sưu tầm văn hóa dân gian,

người từng đi tiên phong trong việc tìm kiếm, phát hiện ca dao, dân ca làng chài vịnh

Hạ Long bình luận: "Nó trần trụi, bạo liệt, sống động, tình tứ và thênh thang như

chính cuộc sống của những con người sinh ra trong trời nước" [18, tr 8].

14

Khảo sát 720 bài ca ở các công trình nghiên cứu, sưu tầm và một số bài ca còn

lưu truyền trong dân gian qua quá trình điền dã tại vịnh Hạ Long, chúng tôi thấy rằng,

các bài ca dao, dân ca làng chài có nội dung rất phong phú, thể hiện những tâm tình

đời thường của người dân biển, đó là tình yêu đôi lứa, yêu biển, yêu nghề biển, tâm

tình người lính và những khúc hát nghi lễ, đặc biệt là phong tục hát cưới trên thuyền

(bao gồm các màn hát ngõ khách, hát ngõ cheo, hát ngõ hoa; hát đối, hát đố). Về mặt

nghệ thuật, đáng lưu ý ở bộ phận văn học dân gian này là những biểu tượng gắn liền

với văn hóa tinh thần và đời sống lao động của người dân làm nghề chài lưới. Cũng

chính cuộc sống lao động giữa mênh mông sóng nước đã sản sinh ra nghệ thuật diễn

xướng với kết cấu đối đáp, trần thuật để trao gửi tâm tư tình cảm.

Sống giữa một thiên nhiên khoáng đạt và diễm lệ, hiển nhiên ca dao dân ca của

dân chài vùng vịnh luôn xuất hiện vô số những chuỗi ngọc long lanh như sự sống, gợi

cảm một cách tế vi: “Hỡi nàng con mắt lá răm/ Vào trong cheo lưới ta nằm với nhau/

Cheo rách thì để gối đầu/ Cheo lành để đắp, cheo rầu buộc lưng”; “Nhất thơm trà

mạn nước mưa/ Nhất ngon là gái xe tơ mạn thuyền”; “Anh câu vớ được chị chài/

Mỗi đêm một lứa như khoai gậm giường”... Cũng chỉ ở không gian tự do này, người

ta mới có thể hát được với nhau: “Thuyền chật em giải chiếu ngang/ Em thì nằm

giữa, hai chàng hai bên”…

Cùng với ca dao là dân ca với rất nhiều các hình thức diễn xướng: Hát chèo

đường, hát đối, hát giao duyên, hát kể chuyện. Trong hát cưới gồm cả hát ngõ khách,

hát ngõ cheo, hát ngõ hoa; hát đối, hát đố theo phương thức ứng tác hết sức uyển

chuyển, thông minh: “Tương phùng nhắn với tương tri/ Chim gì một cánh bay đi tít

trời?”/ “Tương phùng nhắn với tương tri/ Cánh buồm một lá bay đi tít trời”; “Cái gì

mà cao hơn trời/ Mà sâu hơn bể, mà dài hơn tơ?”/ “Trán người thì cao hơn trời/

Lòng sâu hơn bể, đường dài hơn tơ”... Quả thật là một kho tàng nghệ thuật vô tận.

Có thể thấy rằng, ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long là những bài ca ngọt

ngào, đằm thắm mà chủ nhân của chúng chính là những ngư dân làng chài đời nối đời

sinh ra trên những con thuyền lênh đênh sóng nước, trưởng thành và lập nghiệp gắn

liền với biển và nghề đi biển. Vì thế, có thể thấy phong vị biển đậm đà từ nội dung

phản ánh đến các phương diện nghệ thuật trong các bài ca ấy. Đó là bức tranh đẹp,

15

sinh động về cảnh biển, đời sống sinh hoạt của người dân làng chài, là tình yêu, niềm

tự hào và cả nỗi nhọc nhằn chất chứa của những người làm nghề đi biển. Hình ảnh

con thuyền và các loài sinh vật biển xuất hiện thường xuyên như một dấu ấn, một

điểm nhấn. Thể thơ và kết cấu đa dạng, nhiều vẻ đã góp phần tạo ra nét riêng đặc sắc

thể hiện phong vị của ca dao, dân ca vùng biển. Khám phá vẻ đẹp lấp lánh của những

lời ca ấy chính là góp phần vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống

trong đời sống đương đại.

Tóm lại, có thể hiểu rằng, ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long là khái niệm

dùng để chỉ những sáng tác trữ tình dân gian do người dân làng chài vịnh Hạ Long

sáng tạo ra hoặc được lưu truyền từ các địa phương khác nhưng được người dân chài

sử dụng và biến đổi cho phù hợp với thực tiễn đời sống và lao động sản xuất để diễn

tả đời sống nội tâm của người dân chài nơi sóng nước Hạ Long (do đó, ta thấy xuất

hiện các từ địa phương của các vùng miền khác trong ca dao, dân ca làng chài vịnh

Hạ Long). Ca dao là phần lời của dân ca; là những bài thơ dân gian mang phong cách

nghệ thuật chung với lời thơ dân ca. Dân ca Hạ Long là những sáng tác kết hợp lời và

nhạc (Bao gồm hát đúm, hát chèo đường, hát cưới trên thuyền).

1.3. Khái niệm văn hóa, mối quan hệ giữa văn học & văn hóa và hướng

nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

1.3.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên

quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Từ tương ứng

với văn hóa theo ngôn ngữ của phương Tây có nguồn gốc từ các dạng của động

từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: một là giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng

trong trồng trọt; hai là cầu cúng. Từ văn hóa trong tiếng Việt là từ gốc Nhật, người

Nhật dùng từ này để định nghĩa cách gọi văn hóa theo phương tây. Trong cuộc sống

hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ

thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu

này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm

thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói

một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.

16

Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách

nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại

học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định

nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề

cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học, dân gian

học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,… và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó

định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau.

Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một

nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con

người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất.

Về mặt khoa học, thuật ngữ văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" mà

nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất"

và Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con

người". Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): "Lao động dành cho

đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần".

Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ

bản là "sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa

vật chất và văn hóa tinh thần.

Trong tiếng việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối

sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi

theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho

đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống...

Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam -

Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông

tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con

người sáng tạo ra trong lịch sử" [47; tr.94].

Cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản

Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: "Văn hóa - vô sở bất tại:

Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con

17

người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn

hóa" [6; tr.53].

Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho

rằng: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người

sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con

người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình". [39; tr.67].

Năm 2002, Unesco đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được

đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri

thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,

ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá

trị, truyền thống và đức tin.

Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển

trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào

việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ

thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và

phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là

trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình

thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và

tinh thần mà do con người tạo ra.

1.3.2. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục…

là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan

niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ

những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả quả đó,

văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng

đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã

hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị

đã hình thành. Cũng có thể nói, văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.

Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong

tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của

18

nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu

đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong

truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên, nghệ thuật pha trà, thư pháp…),

là những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn

Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa,

Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…).

Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc

lý giải tấn bi kịch lịch sử trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách

người nông dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong các truyện

ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.

Theo nhà lý luận phê bình văn học Huỳnh Như Phương, văn hoá tác động đến

văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt

động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với

thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ

đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi

trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài,

thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình

sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá

trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho

văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng

định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một xã hội trong một thời

điểm lịch sử nhất định.

Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc tìm

hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng

với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…, cách tiếp

cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật

với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá liên quan

đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận

dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm.

19

Cách tiếp cận văn hoá học như vậy thực chất là đặt văn học trong không gian

văn hoá với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào thế giới sáng

tạo nghệ thuật của nhà văn. Một mặt, những giá trị từ nguồn văn hoá truyền thống rì

rầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của

tác phẩm mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách tự giác. Mặt khác,

những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi,

thách thức, đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp hay gián tiếp, bằng ngôn ngữ nghệ

thuật trong tác phẩm của mình.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển

của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu

trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên

phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ,

họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những

giá trị văn hoá dân tộc, nhân bản và khai phóng. Dù là phản ứng trước những làn sóng

văn hoá tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng tác tinh hoa

bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn

hoá dân tộc.

1.3.3. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, văn hóa biển vùng

vịnh Hạ Long

1.3.3.1. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

Lịch sử nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng, có nhiều con đường, cách thức khác

nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: xã hội học, nghệ thuật học, thi pháp học,

văn hóa học... Trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, mỗi góc nhìn đều có giá trị

bình đẳng, cần thiết, bổ sung cho nhau và không loại trừ nhau. Tính hiệu quả, tính ưu

việt của mỗi cách tiếp cận được quy định bởi cách người nghiên cứu có xác định đúng

đối tượng, phạm vi nghiên cứu thích hợp và vận dụng, xử lý mối quan hệ giữa chúng

với mục tiêu đặt ra. Do vậy, cần có một cái nhìn toàn cảnh về góc nhìn văn hóa xuất

phát từ yêu cầu của thời đại, đáp ứng và thừa nhận tác phẩm văn học như một bộ phận

của văn hóa. Việc xem xét và vận dụng sự đa dạng của nhiều góc nhìn là cần thiết.

20

Góc nhìn văn hóa cho phép người đọc định vị được chỗ đứng của nhà văn trong

dòng chảy lịch sử văn hóa - văn học dân tộc. Bởi suy cho cùng, các tác giả dân gian

và mỗi nhà văn tồn tại như một nhân cách của nền văn học cụ thể. Những sáng tạo

đích thực của họ sẽ có những đóng góp nhất định cho một cộng đồng văn hóa, cao

hơn là cho dân tộc và nhân loại. Văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất.

Sự đan xen văn hoá có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự

kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa chuyển

giao sang cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị

chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngả ba đường

của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh

thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.

Tiếp nữa, góc nhìn văn hóa cho phép ta nhận thức sáng rõ các yếu tố cấu thành

của các hiện tượng văn học trong mối liên hệ đa chiều với các hiện tượng văn hóa

khác. Có một thực tế không thể phủ nhận, tác phẩm văn học không chỉ có mối liên hệ

ý nghĩa giữa các yếu tố nội bộ bên trọng, ở bề mặt mà còn nằm ở mối liên kết liên

văn bản. Thêm nữa, góc nhìn văn hóa không chỉ cần thiết cho việc nghiên cứu văn

học trong nước mà còn vô cùng cần thiết với việc nghiên cứu văn học nước ngoài.

Sau cùng, với góc nhìn văn hóa, chúng ta sẽ có trong tay bộ “công cụ” khai mở

những cấp độ ý nghĩa mới mẻ, như một chìa khóa giải quyết cái khó của người nghiên

cứu văn học trong quá trình lý giải các hiện tượng văn học đặc biệt.

Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ngoài việc đứng vững trên nguyên tắc

chung, mỗi người tiếp cận có thể chọn cho mình một bộ công cụ phù hợp với từng

trường hợp cụ thể. Có người đã vận dụng trường phái văn hóa lịch sử của Hippolit

Taine (1828 - 1895) để cắt nghĩa tác phẩm văn học, có người lại đứng vững trên tinh

thần của tâm lý học, xã hội học văn hóa... Vận dụng các xu hướng nghiên cứu là cần

thiết, nhưng không có nghĩa là sẽ vận dụng một cách máy móc, cơ học theo lối “bắt

vít”. Nghiên cứu ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long, chúng tôi chọn trong tay bộ

công cụ, đó là cách nhìn thể loại văn học dân gian này từ giá trị văn hóa và biểu

tượng văn hóa.

21

1.3.3.2. Văn hóa biển vùng vịnh Hạ Long

Vịnh Hạ Long, nơi không chỉ được thiên nhiên ban cho vẻ đẹp thiên nhiên hùng

vĩ mà còn là mảnh đất ghi dấu những giá trị văn hóa từ thời tiền sử và cho đến nay nét

văn hóa Hạ Long vẫn còn được lưu giữ, bảo tồn trở thành một trong những vẻ đẹp

đặc trưng mà nhiều du khách khi đến với Hạ Long mong muốn được khám phá và tìm

hiểu. Hạ Long có nền văn hóa từ lâu đời, ẩn sâu trong từng di tích, từng phong tục tập

quán, từng lễ hội truyền thống và từng thế hệ con người. Trong số đó, nét đẹp văn hóa

làng chài ở Hạ Long như làng chài Cửa Vạn, làng chài Vung Viêng, làng chài Ba

Hang,… đã để lại ấn tượng sâu sắc cho nhiều du khách, khiến những ai từng có dịp

khám phá nét văn hóa ấy đều nhớ mãi chẳng thể quên.

Văn hóa Hạ Long gắn liền với lịch sử, với thắng cảnh thiên nhiên và với con

người từ thuở sơ khai cách đây vài thiên nhiên kỷ. Những giá trị quý báu của văn hóa

làng chài vẫn được các thế hệ con cháu nối tiếp bảo tồn, lưu giữ đến ngày nay. Khác

với vùng biển khác trên đất nước Việt Nam thường có sóng to gió lớn, vịnh Hạ Long

với hàng ngàn hòn đảo như bức tường thành ngăn sóng và bão lớn. Với điều kiện như

thế, thuyền bè đi lại trên biển nhẹ tựa như trong ao hồ trên đất liền. Ở các vùng biển

khác, tàu và thuyền đánh cá chỉ dành cho đàn ông khỏe mạnh, nhưng ở Hạ Long tàu

thuyền không chỉ là phương tiện đánh cá mà còn là nhà của họ, là nơi ăn ngủ và cả

thờ cúng tổ tiên. Những người dân chài trên vịnh Hạ Long gắn bó cả cuộc đời với

những con thuyền của họ từ khi sinh ra, lớn lên, lấy vợ gả chồng và cho đến cả khi trở

về cõi vĩnh hằng.

Đặt chân đến một trong những làng chài xinh đẹp nhất trong vùng vịnh Hạ

Long, du khách sẽ có cơ hội khám phá vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ và những giá trị văn

hóa quý báu ở nơi đây. Làng chài Cửa Vạn như một kỳ quan độc đáo do chính bàn

tay con người tạo ra, hội tụ vẻ đẹp cổ kính, duyên dáng và lưu giữ nền văn hóa truyền

thống đặc trưng.

Cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy 20km về phía nam Vịnh Hạ Long, Trung tâm

Văn hoá nổi Cửa Vạn nằm ngay trong khu vực làng chài Cửa Vạn. Đây là một trong

những điểm du lịch hấp dẫn, với nhiều nét đẹp văn hoá cũng như phong tục tập quán

mang đậm sắc thái vùng biển của một cộng đồng ngư dân sinh sống trên Vịnh đã và

22

đang được bảo tồn, gìn giữ. Dạo thăm những làng chài Cửa Vạn và những làng chài

khác ở Hạ Long, du khách sẽ thấy được nhịp sống mộc mạc, giản dị và êm đềm của

ngư dân nơi đây. Cuộc sống của họ êm ả, thanh bình và an yên biết nhường nào! Dẫu

cho cuộc sống đó vẫn còn đó những vất vả, khó khăn và thiếu thốn nhưng nét văn hóa

đặc trưng truyền thống của cư dân làng chài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống

thường nhật với đời sống vật chất và phương thức kiếm sống của họ. Bên cạnh đó, vẻ

đẹp văn hóa ấy còn có cả trong tâm linh, cuộc sống tinh thần và cả những khi kết bạn,

dựng vợ gả chồng, tổ chức lễ hội, những trò chơi dân gian của bọn trẻ,…

Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên đặc sắc và sự quần tụ sinh sống của một cộng

đồng dân cư đông đúc, chính họ đã sản sinh ra các giá trị văn hoá tinh thần mang đậm

yếu tố biển của vùng Vịnh Hạ Long. Trung tâm có diện tích 330m2, là nơi trưng bày

những hình ảnh, hiện vật sinh động, thể hiện toàn bộ cuộc sống vật chất, tinh thần của

ngư dân trên Vịnh Hạ Long xưa và nay. Qua các hiện vật sống động, du khách có cái

nhìn bao quát hơn về cuộc sống của ngư dân làng chài trên Vịnh, với những nét đặc

trưng riêng. Từ cuộc sống mưu sinh vất vả, lúc buồn vui, khi giao lưu sớm tối, kết

bạn, lấy vợ gả chồng và cả khi tổ chức lễ Tết, hội hè… chính là nguồn gốc ra đời của

những làn điệu hát giao duyên đằm thắm, những phong tục tập quán mang đậm sắc

thái văn hoá của một vùng biển, góp phần tăng thêm trách nhiệm của cả cộng đồng

trong việc bảo tồn, phát triển bền vững di sản thế giới Vịnh Hạ Long.

Ở nơi đây, nghề đánh cá là nét văn hóa đặc trưng gắn liền với những lễ hội,

những nghi thức mang giá trị truyền thống như tục thờ cá Ông, thờ cúng thủy thần.

Những chiếc thuyền buồm giữa mênh mông sóng nước, với cảnh sắc thiên nhiên và

cá tôm đầy lưới chính là nguồn cảm hứng dồi dào để người ngư dân cất lên những bài

ca về quê hương tươi đẹp, về tình yêu cuộc sống, yêu lao động. Tiếp tục khám phá

văn hóa đặc trưng của ngư dân vùng biển Hạ Long, bạn sẽ được khám phá những

chiếc thuyền buồm trôi lững lờ trên vùng vịnh, vẽ nên bức tranh sơn thủy tình, tô

điểm cho cảnh sắc thêm phần tươi đẹp. Ngoài ra, bạn cũng sẽ được tham quan nhà bè

dập dềnh trên sóng nước vùng vịnh. Ở nơi đây, những người ngư dân luôn giữ cho

riêng mình những cung bậc cảm xúc phong phú, làm đa dạng cuộc sống tinh thần ở

nơi sóng nước mênh mang vùng vịnh Hạ Long. Họ có thể trải lòng mình, thả hồn

23

phiêu lãng theo những làn điệu hát giao duyên, hát đúm, hò biển, hát đám cưới trên

thuyền thể hiện nét đẹp văn hóa làng chài độc đáo. Hòa nhịp theo những giai điệu trữ

tình ấy, bạn cũng sẽ thấy lòng mình yên vui biết mấy, lâng lâng dòng chảy cảm xúc

khó tả, cứ thế nghe hoài nghe mãi mà chẳng thấy chán.

Theo các nhà khảo cổ học thì cư dân trên Vịnh Hạ Long chính là “hậu duệ” của

người Việt cổ cư trú ở đây từ cách hàng ngàn năm trước, từ dấu tích ở các di chỉ Soi

Nhụ (khoảng 7.000 năm cách ngày nay), đến Văn hoá Hạ Long (khoảng trên dưới

4.000 năm), Đầu Rằm (khoảng trên dưới 2.000 năm cách ngày nay). Chính sự kế thừa

này mà ngư dân trên Vịnh Hạ Long đã gìn giữ, tiếp nối được nhiều phong tục, tín

ngưỡng đặc trưng của cư dân thuỷ cư của cha ông để lại. Cuộc sống mưu sinh lênh

đênh trên biển của họ đã tạo ra những nét văn hoá độc đáo, với các phong tục, tập

quán, nghi lễ thờ cúng, cưới hỏi, tang ma, các hình thức hò hát giao duyên trên biển,

tục kiêng kỵ ngày Tết…

Là người Việt, tất yếu ngư dân làng chài trên Vịnh Hạ Long có nhiều phong tục,

tập quán chung của cư dân ven biển Bắc Bộ, đó là dù sinh sống trên nhà bè, không

gian hạn chế, nhưng mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên, thờ ông Công (ông Táo),

ngày giỗ cha, mẹ làm cỗ cúng; quan hệ gia đình, trên dưới cùng một nếp chung. Bên

cạnh đó, do sinh sống trên biển, luôn đối mặt với hiểm hoạ từ thiên nhiên nên ngư

dân các làng chài rất coi trọng chuyện kiêng kỵ, thờ cúng. Vào những ngày rằm,

mồng một hay dịp Tết v.v.. hầu hết các gia đình đều sắm lễ tới các đền thờ trên Vịnh

như đền Bà Men (hồ Ba Hầm), đền Cậu Vàng (Cửa Vạn) hoặc vào các đền, chùa

trong đất liền như chùa Long Tiên, đền Cái Lân, đền Trần Quốc Nghiễn (TP Hạ

Long), đền Cửa Ông (TX Cẩm Phả)... để cầu tài, cầu lộc, mong cho một năm mới đi

biển gặp nhiều may mắn, mọi người trong gia đình mạnh khoẻ, an lành. Xuất phát từ

nhu cầu tín ngưỡng của ngư dân, hiện nay, trên Vịnh Hạ Long có một số đền, miếu.

Trong số đó, lớn nhất là đền Bà Men. Tương truyền, thuở xưa có người đàn bà chết

đuối, xác trôi vào đây, ngư dân làng chài thương cảm bèn vớt xác chôn cất ven đảo.

Khi thuyền đi qua, ai có cầu ước gì thảy đều linh ứng. Dân làng chài bèn lập đền thờ.

Khách đến cầu ở đền vào dịp Tết rất đông, trong đó có cả ngư dân bên Cát Bà (Hải

24

Phòng) sang. Vào ngày rằm tháng giêng hàng năm, ngư dân các làng chài trên Vịnh

lại tổ chức giải đua thuyền trước đền rất sôi nổi.

Ngày Tết, ngư dân Hạ Long kiêng kỵ nhất là chuyến xuất hành đầu năm mới.

Trước Tết, các gia đình đều đã chuẩn bị sẵn lưới, câu cho chuyến đi biển đầu năm.

Ngày xuất hành, mọi gia đình đều tuyệt đối tránh khi nhổ neo mà có thuyền khác đi

qua trước mũi thuyền mình, bởi đó là điềm báo cả năm sẽ làm ăn không may mắn,

thất bát.

Với quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, trong cuộc sống sinh hoạt

hàng ngày, ngư dân Vịnh Hạ Long cũng thường kiêng kỵ. Ở những gia đình ngư dân

cư trú lâu đời trên Vịnh, mỗi đứa trẻ khi sinh ra đều được ông bà buộc một vòng dây

vải đỏ vào cổ tay, coi đây là lá bùa ngăn chặn, xua đuổi tà ma, xui xẻo. Nhiều gia

đình khi sinh con ra đặt tên con là “Nhặt” với ngụ ý là nhặt được để cho dễ nuôi.

Ngày nay, quan niệm này vẫn còn nhưng số người tên là “nhặt” đã ít đi.

Ngày nay, nhiều phong tục, tập quán của ngư dân trên Vịnh Hạ Long đã mai

một, không còn giữ được tính thuần nhất do sự pha trộn dân cư ở các làng chài và

phương thức sống cũng có nhiều thay đổi, từ chuyên đánh bắt cá, phần lớn các gia

đình chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Rồi là tác động của cuộc sống mới đến lớp trẻ

v.v.. Theo Dự án di dời nhà bè trên Vịnh Hạ Long lên bờ mà TP Hạ Long đã và đang

triển khai, các phong tục, tín ngưỡng của ngư dân trên Vịnh Hạ Long tới đây sẽ được

“bảo tàng hoá” để giới thiệu với du khách như tại Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn.

Đồng tình với quan điểm này, nhà nghiên cứu văn hoá Tống Khắc Hài cho rằng nên

có một trung tâm thông tin, nghiên cứu và bảo tồn, trong đó có các phong tục, tín

ngưỡng độc đáo của dân chài để du khách có thể tìm hiểu sâu về các giá trị của Vịnh

Hạ Long...

Có thể thấy rằng, vùng biển Hạ Long không chỉ là một mảnh đất giàu văn hoá

truyền thống mà còn đậm đà hơi thở của văn hoá đương đại; không chỉ là văn hoá

điển hình mà còn là văn hoá đời thường. Đây cũng chính là nơi gắn kết cộng đồng

ngư dân cùng tham gia bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản, kỳ quan thiên

nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.

25

Tiểu kết chương 1

Trong Chương 1, chúng tôi đã trình bày một số vấn đề mang tính lý thuyết và

thực tiễn có liên quan đến đề tài. Các vấn đề được trình bày gồm: các quan niệm, ý

kiến, khái niệm, nghiên cứu về ca dao, dân ca nói chung và ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long nói riêng; khái niệm văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học,

hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa cũng như những đặc điểm khái quát

về vịnh Hạ Long và cộng đồng ngư dân trên vịnh Hạ Long. Việc nghiên cứu những

vấn đề cơ bản về lý luận ở chương 1 chính là cơ sở để nghiên cứu đặc điểm về nội

dung và hình thức nghệ thuật của ca dao dân ca làng chài vịnh Hạ Long ở các chương

sau. Có thể thấy rằng, ca dao, dân ca là khái niệm dùng để chỉ những sáng tác trữ tình

dân gian, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Nếu như ca dao là phần lời thơ dân

gian cấu thành nên dân ca; thì dân ca chính là những sáng tác kết hợp phần lời ca dao

và phần nhạc trong quá trình diễn xướng. Hòa mình vào mạch nguồn văn hóa dân

gian của dân tộc, ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long ẩn chứa những đặc sắc riêng

có được phản ánh trong đời sống tinh thần của những ngư dân đời nối đời sống bằng

nghề chài lưới. Được thiên nhiên ưu ái ban tặng vẻ đẹp núi non hùng vĩ, vịnh Hạ

Long chính là không gian văn hóa tuyệt vời cho hoạt động diễn xướng giao duyên

trên biển. Đó chính là giá trị văn hóa vô giá tiềm ẩn đằng sau những áng ca dao, dân

ca được sản sinh từ làng chài vịnh Hạ Long.

26

Chương 2

NỘI DUNG CÁC BÀI CA DAO, DÂN CA Ở LÀNG CHÀI

VỊNH HẠ LONG NHÌN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Ca dao, dân ca là tấm gương phản chiếu một cách chân thực và sâu sắc đời sống

tinh thần và tình cảm của dân tộc ta. Là một bộ phận của ca dao, dân ca cả nước, hệ

thống các bài ca ở các làng chài sinh sống trên vịnh Hạ Long phản ánh cuộc sống,

sinh hoạt và tập quán của ngư dân nơi đây trong hàng trăm năm. Đó là những suy

nghĩ, mơ ước về những mẻ lưới nặng cá trong mỗi chuyến ra khơi của các làng nghề,

là tình yêu với biển, tình yêu nghề biển; là những suy nghĩ về tình yêu đôi lứa, tình

cảm vợ chồng...

2.1. Tình yêu biển, tình yêu nghề biển

2.1.1. Tình yêu biển

Hạ Long được thiên nhiên ưu ái ban tặng hàng ngàn vịnh lớn nhỏ đẹp như tranh

vẽ và những bãi biển trong xanh tạo nên một vùng trời nước bao la, quyến rũ lòng

người. Tìm đến với văn học dân gian, trong đó có ca dao, dân ca vùng biển Hạ Long

là tìm đến với đời sống của nhân dân lao động miền biển với tất cả sự mộc mạc, chất

phác vốn có trong cuộc sống của họ.

Người dân chài trên vịnh Hạ Long không yêu sao được cảnh “thuyền soi bóng

núi, núi soi bóng thuyền”. Sống giữa nơi được núi non che chở, được biển cả cho

trăm loài tôm cá nên nơi đây đã trở thành cội nguồn cảm hứng để tác giả dân gian

sáng tác ra những bài ca ngợi ca non nước Hạ Long với những sự tích rồng tiên kì ảo:

Cái Rồng đẹp lắm ai ơi

Biển phơi cát trắng, núi phơi dáng rồng [18; tr. 66]

Ai về Trà Cổ mà chơi

Biển phơi nước biếc, bãi phơi cát mềm [18; tr. 66]

Trời sinh ra làng Đồng Chùa

Trên non, dưới nước, bắt cua đầy thuyền

Ai sinh ra đất Tiên Yên

27

Đầm Hà, Hà Cối kế bên Cái Bầu

Bên non bên nước một màu

Núi non xanh lá, nước màu thiên thanh

Rồng chiều chín khúc vòng quanh

Vẽ ra một áng nước xanh Cái Rồng

... Khen trời khéo vẽ làm sao

Vẽ nên non nước biết bao công trình. [18; tr. 76]

(Khen trời khéo vẽ)

“Khen trời khéo vẽ” - đó có lẽ là cách giải thích hợp lý nhất về cảnh sắc thiên

nhiên tươi đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho Hạ Long - mảnh đất được coi là địa linh

gắn liền với sự tích rồng bay xuống. Bởi vậy mà ngư dân chài lưới bao đời gắn bó với

nơi đây vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh sắc mây trời, non nước kì ảo. Đó là

cảnh “Nước trong soi bóng tự tình”, là cảnh “Biển phơi nước biếc, bãi phơi cát

mềm”... làm say đắm lòng người.

Nơi quê hương họ sống cùng người thân và hành nghề thật không có nơi nào

thơ mộng và đẹp đẽ bằng. Người đọc tìm thấy ở những bài ca dao niềm tự hào mãnh

liệt khi ngư dân kể về những hòn đảo, những ngư trường. Thật cảm động khi bắt gặp

hình ảnh người ngư dân quỳ xuống vẽ nên những tấm họa đồ trong tâm tưởng:

Thanh nhàn cầm bút chép tô

Quỳ chân xuống họa địa đồ núi non

Họa từ cái vũng Khe Gon

Ngòi Di, Cái Quýt sóng dồn cồn vui

Vừa chèo, vừa họa ai ơi

Núi Chà, Đá Bãi đất trời đẹp sao

Chèo sang Cái Cổng, Đầu Trâu

Họa đến Soi Sặt ở đầu làng Trên

Họa rồi họa dưới kéo lên

Đầu Giếng, Khe Chẹo ở miền Cây Thai... [18; tr. 70]

(Bài ca họa đồ)

“Bài ca họa đồ” được coi là bài ca tiêu biểu nhất cho tình yêu biển đảo quê

hương, vừa chân thành, vừa hết sức sinh động, cụ thể và sâu sắc. Đó là những nét vẽ

28

tuyệt vời, khắc họa toàn cảnh vùng trời, vùng biển nơi đây với những vẻ đẹp kỳ vĩ.

Nét vẽ bắt đầu từ vũng Khe Von, chạy qua Núi Chà, Đá Bãi, kéo đến Hòn Gội, Hòn

Thồng, rồi về đến Đông Vang, Trà Bản. Tình yêu quê hương đất nước, yêu biển đảo

quê hương thấm đẫm trên từng địa danh mà tác giả dân gian dẫn dắt người đọc đi

qua, để rồi nhắc nhở những người con vùng biển: “Dù ai đi đâu về đâu/ Nhớ về vui

thú một màu nước non”.

Đọc ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long, ta dễ dàng tìm thấy những địa danh quen

thuộc, những tên núi, tên vịnh, nơi đã bao đời gắn bó với ngư dân nơi đây:

“Thuyền em ở dưới Hòn Trồng

Có theo về bến Cái Rồng thì lên” [18; tr. 68]

“Hòn Gai có núi Bài Thơ

Có hang Đầu Gỗ

Có chùa Long Tiên” [18; tr 66]

Hay như:

“Ai về bể Lục mà coi

Thuyền soi bóng núi, núi soi bóng thuyền” [18; tr. 66]

Thấp thoáng trong mỗi lời ca là cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp hòa quyện cùng

trời nước bao la, nơi sinh sống, cư ngụ và cũng là nơi ẩn chứa biết bao giá trị tinh

thần trong đời sống của những người dân chài đời nối đời coi biển cả là quê hương.

Những bến bờ, gò bãi, những non xanh, núi biếc, những hang động, chùa chiền chính

là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân chài. Hạnh phúc thay, sau những

tháng ngày lênh đênh trên biển cả để kiếm tìm những mẻ tôm cá bội thu, người dân

chài lại được gặp gỡ nhau, trò chuyện với nhau sau những chuyến đi xa.

Tình yêu biển cả quê hương còn gắn liền với những phong tục tập quán được tác

giả dân gian khắc họa qua những áng ca dao:

“Hà Nam riêng một phương trời

Hóa công xây đắp biết đời nào đây” [18; tr. 69]

Vào mồng bảy tháng giêng hàng năm, trên đảo Hà Nam có hội ở miếu thờ 17 vị

Tiên Công - những người đầu tiên có công khai canh hòn đảo này. Trong lễ hội có tục

rước các cụ tròn tuổi 80 ra lễ miếu Tiên Công. Sau đó, các cụ đánh vật, đào đất đắp đê

29

mở đầu cho một năm lao động. Phần hội có múa rồng, hát đúm, đua thuyền. Đó là một

nét văn hóa tâm linh vùng biển gắn liền với đời sống tinh thần của người dân chài nơi

đây, cầu cho mưa thuận gió hòa, công việc thuận buồm xuôi gió, tôm cá đầy thuyền.

Đặc biệt, tình yêu quê hương biển đảo còn được thể hiện trong những cuộc hát

đối thử tài, thử tình giữa những nam thanh nữ tú miền biển. Họ thể hiện tình yêu vùng

đất mà mình sinh ra qua những câu đố, những kiến thức rất phong phú, đa dạng từ

trên trời dưới biển, thiên văn địa lý đến sách vở điển tích.

Câu hát đố hỏi:

"Ở đâu có sáu cửa sông?

Ở đâu ngọn nước chảy xuôi một mình

Sông nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt ngang cổ bồng lại có thánh sinh…" [18; tr. 299]

Người hát giảng thưa rằng:

"Lục đầu có sáu cửa sông

Lại có ngọn nước chảy xuôi một dòng

Sông Thương bên đục bên trong

Núi ông Tản Viên thắt cổ bồng lại có thánh sinh…" [18; tr. 300]

Hay như:

"Đến đây hỏi khách tương phùng

Chim chi một cánh bay cùng nước non" [18; tr. 321]

Câu hát giảng là:

"Tương phùng nhắn với tương tri

Con thuyền một canh bay đi tít trời!" [18; tr. 321]

Rồi:

"Cái gì mà cao hơn trời

Gì sâu hơn biển, gì dài hơn tơ" [18; tr. 322]

Câu hát trả lời là:

"Trán người thì cao hơn trời

Lòng sâu hơn biển, đường dài hơn tơ" [18; tr. 322]

30

Bên cạnh những bài hát thử tài về kiến thức địa lý, văn chương, lịch sử, còn có

một số bài hát thử tài về các loài cá, về mùa và thời tiết. Đó có lẽ là do tình yêu biển

và đặc thù lao động nghề biển mang lại cho người dân chài nơi đây. Họ đố nhau về

các loại cá một cách đầy thú vị:

"Cá gì phun nước lên cao?

Cá gì hườm đá tìm vào tựa nương?

Cá gì những thịt không xương?

Cá gì nuôi đủ chín con trong lòng…" [18; tr. 323]

Đáp lại rằng:

"Cá voi phun nước lên cao

Cá song hườm đá tìm vào tựa nương

Cá đuối những thịt không xương

Cá nhám nuôi đủ chín con trong lòng…" [18; tr. 323]

Còn rất nhiều những bài hát đố hay về các loài cá, đó là thế giới loài cá thu nhỏ

với những tên gọi và đặc tính riêng biệt của nó.

Qua ca dao dân ca, có thể thấy người dân miền biển thật chất phác, giản dị mà

vô cùng phóng khoáng, bay bổng. Cuộc sống của họ gắn liền với biển, cũng bởi vậy

mà tình yêu quê hương, biển đảo luôn dạt dào, đằm thắm và thường trực trong tâm

thức của ngư dân nơi đây.

2.1.2. Tình yêu nghề đi biển

Gắn liền với tình yêu vùng non nước kì ảo là tình yêu nghề biển tha thiết.

Không yêu sao được khi đó là nghề mưu sinh nuôi sống con người nơi đây biết bao

đời, không yêu sao được bởi cảnh sắc thiên nhiên, môi trường lao động khắc nghiệt

mà cũng vô cùng trữ tình, nên thơ ấy. Có lẽ bởi vậy, mà người dân chài bám biển,

bám thuyền và tôn sùng cái nghề mà cha anh đã trao truyền một cách đầy trân trọng.

Ở nơi rừng vàng, biển bạc, tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú “Ở đây

gạo trắng, nước trong/ Chim trời cá biển lại đông bạn thuyền” song, lao động nghề

biển luôn vất vả, dãi nắng dầm mưa, thức khuya dậy sớm. Thế nhưng, ta tuyệt nhiên

không nhìn thấy sự mệt mỏi, chán nản hoặc sợ hãi mà chỉ thấy sự khỏe khoắn, sự đẹp

đẽ trong tư thế vượt lên những khó khăn, gian khổ. Ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ

31

Long có nhiều bài miêu tả rất sinh động cảnh lao động nghề biển. Qua những bài ca

dao như thế, ta không chỉ thấy tình yêu nghề mà còn thấy tình người nồng thắm, niềm

vui và tinh thần lạc quan phơi phới của người dân miền biển:

“Chèo cho nó mạnh em ơi

Có đàn cá dích buông trôi giữa dòng” [18; tr.91]

“Gió đông nam đang còn hây hẩy

Gió đông vàng lừng lẫy thuyền lên

Giong buồm từ vũng Cặp Tiên

Hôm nay Cặp Vấn tới miền Gãnh Dong

Xôn xao vợ vợ chồng chồng

Trở trời cá nổi cá dông áp bờ

Vui sao vui đến bất ngờ

Cá vào vỡ lưới phải chờ cá ra” [18; tr. 91]

Đối với ngư dân, sống với sông nước và sóng biển bao quanh, họ luôn phải đối

chọi với tất cả bão tố ập đến bất cứ nào. Ngay từ sáng tinh lúc mơ, khi biển cả còn

đầy ắp sương mù thì từng đoàn ghe mộc đã bừng bừng rẽ sóng ra khơi. Trong điều

kiện kỹ thuật hạn chế, nghề đánh cá còn là một cuộc vật lộn bằng sức người hàng

ngày với biển cả, việc đi làm nghề của nam giới đã trở thành mối lo lớn nhất của

người phụ nữ ở nhà. Đó là nguyên nhân chính cắt nghĩa cho sự ra đời của những

điệu hò khỏe khoắn cùng những bài ca chan chứa yêu thương.

“Anh đi đánh cá cũng nhiều

Con nước lên xuống thủy triều phải theo

Nước ương đánh cá phải mò

Khi nào cạn nước cá xô vào chuồng

Nước rặc anh thả lưới buông

Cầu cho cá cả theo luồng cá xuôi” [16; tr. 76]

“Thuyền anh hai cột mười chằng

Anh đi một gió, một giăng anh về

Anh trục buồm lên được cơn gió thuận

Anh xổng lèo ra cho thuận cánh tiên” [18; tr. 95]

32

“Thương chàng từ lúc chàng đi

Tay thì kéo lưới người thì dầm mưa” [18; tr. 87]

Tình yêu nghề biển của người dân chài còn được thể hiện qua ước muốn được

làm bạn đời với những ngư dân tài hoa của những chàng trai, cô gái miền biển, đó là

ước mong về một cuộc sống đủ đầy với thật nhiều tôm cá:

“Ước gì chàng giỏi đi câu

Sáng đi tối lại được xâu cá dài” [18; tr. 83]

“Ước gì lấy được con gái thuyền chài

Cá ăn cá để cá gài trên mui” [18; tr. 83]

“Ước gì lấy được con gái thuyền te

Ngày ăn cá dích đêm le cá mòi” [18; tr. 83]

Những người dân làng chài tự hào khi kể về các hòn đảo, các ngư trường với

những kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình đi biển, đánh bắt hải sản. Họ kể lại

và trao truyền cho con cháu qua những bài ca dao rất đỗi đời thường, giản dị:

“Tốt gió anh kéo ba buồm

Gió đông chạy ngược, gió nồm chạy xuôi” [18; tr. 86]

“Tháng chín nước rịn chân cơ

Làm ăn chẳng được ngẩn ngơ đầu ghềnh

Phải chờ nước nổi thâu kênh

Em ơi có thấu đến tình anh chăng” [18; tr. 87]

Những kinh nghiệm làm nghề:

“Lạy trời cho chóng tháng ba

Cho đăng cắm lưới cho ta đào mồi

Chắn đăng vui lắm ai ơi

Người chắn bỏ vơ, người hôi bỏ chồng” [18; tr. 88]

“Nước kém thì em đi ngòi

Đi bắt cái phóc, đi mòi còng ra

Lơ lửng thì em bắt ốc, ghè hà

Đến cơ rặc sát em về chắn đăng

33

Cọc thì anh phóng anh đâm

Đăng thì anh rải anh giăng hai hàng

Đôi bên cánh phượng rõ ràng

Ở giữa lại có cái chuồng đan tre

Ơn giời phúc tổ nhiều bề

Được tia cá lớn nhụ thu cũng nhiều

Cả nhà vừa bắt vừa reo

Nhanh tay cho kịp chợ chiều cá tươi” [18; tr. 93]

Quanh năm sinh sống và gắn bó với nghề đi biển, người làng chài luôn chủ

động trang bị cho mình những điều kiện tốt nhất để phục vụ cho cuộc sống lênh đênh

trên biển. Qua ca dao, ta thấy hiện lên rõ ràng cuộc sống đủ đầy và ấm cúng của họ:

“Thuyền anh hai mái chèo liền

Hai cây sào táu anh kèm hai bên

Trong khoang anh lát sạp lim

Chiếu hoa anh rải ở trên thượng tầng

... Thuyền anh có cả mui vòng

Có khoang nấu bếp có phòng nữ nhân

Thuyền anh có cả nồi đồng

Có đôi sanh đúc để phòng nấu ăn

... Thuyền anh có cả đồng hồ

Có đèn bão gió to mặc dầu

... Thuyền anh có cả mâm thau

Đũa sơn bát sứ để cầu khách thân” [18; tr. 96]

Đối với người dân làm nghề chài lưới, việc nắm bắt tình hình thời tiết là điều vô

cùng quan trọng. Trải qua quá trình lao động và gắn bó với biển cả, người dân chài

cũng trang bị cho mình vốn kinh nghiệm nhất định về thời tiết để phục vụ cho công

việc đánh bắt hàng ngày được suôn sẻ, thuận lợi. Đó cũng chính là lý do ra đời của

những khúc hát thử tài về mùa và thời tiết.

"Tháng giêng lập tiết nắng xuân

Tháng hai nắng mái vân vân nửa chừng

Tháng ba ngày nắng tưng bừng

Em về em dặn chàng đừng chớ lo…" [18; tr. 338]

34

"Tình nhân ơi hỡi tình nhân

Lại đây em kể nắng xuân nắng mùa

Nắng xuân rồi lại nắng mùa

Nắng thu rồi lại trở về nắng đông" [18; tr. 345]

Cùng với những mảng màu tươi sáng, khỏe khoắn; ca dao của dân chài cũng

không giấu nỗi cực khổ của những kiếp người cùng cực. Bên cạnh những câu ca ngợi

non xanh nước biếc, ta vẫn gặp những bài ca dao giàu tính hiện thực, một thứ hiện

thực trần trụi, chân thành và cảm động:

“Đang cơn sấm chớp mưa rào

Thì anh vẫn cứ phải lao xuống bùn

Ngày đông gió bấc mưa phùn

Văng mình xuống nước, tay chân rụng rời” [18; tr. 65]

2.2. Tình yêu lứa đôi

Trên vùng biển Hạ Long, có một cộng đồng cư dân hết sức đặc biệt. Đó là

những người dân chuyên sống trên những con thuyền nhỏ lênh đênh làm nghề đánh

bắt hải sản: quăng chài, giăng lưới, buông câu, thả bóng, đánh hà, bắt ốc, đào mồi,

cào ngao, cuốc ngán, mồ cua, chắn đăng,... Họ đời nối đời sinh ra trên thuyền, giỗ tết,

cưới xin tất cả ở trên thuyền, chỉ khi chết mới gửi xác ở một bờ đảo hoang. “Ngôi

nhà” của họ lênh đênh trôi dạt, nay nơi này mai nơi khác, tùy từng nghề, tùy từng vụ

mùa. Hàng nghìn hòn đảo trập trùng che chắn cho con thuyền của họ tránh mọi bão

giông và tránh luôn cả chiến trận trên bờ. Sống riêng lẻ như vậy, họ không những thiếu

thông tin mà còn thiếu thốn tình cảm. Họ rất cần giao lưu, rất cần kết bạn, nhất là ở lứa

tuổi yêu đương. Đó chính là nguồn gốc nảy sinh những câu hát giao duyên mà họ thường

gọi là hát chèo đường, hát ví, hát gái, hát đố, hát giảng, hát cưới,… mà lời hát chính là ca

dao, những bài ca dao được sáng tác liên tục trên sông nước Hạ Long.

2.2.1. Làm quen, tỏ tình

Chẳng biết tự khi nào “thuyền” và “bến” đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho

tình yêu đôi lứa trong ca dao, dân ca Việt Nam:

“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”

35

Đặc biệt, đối với ngư dân vùng biển, hơn bao giờ hết, “thuyền” và “biển” gần

gũi, thân thuộc như chính hơi thở của họ. Đó không chỉ là hình ảnh ẩn dụ cho nhân

vật trữ tình trong ca dao mà còn là những gì thiêng liêng và gần gũi nhất gắn liền với

đời sống của người dân làng chài. Thuyền là phương tiện di chuyển, mưu sinh;

thuyền là quê hương, nhà ở; thuyền là duyên cớ anh và em gặp gỡ, trao duyên... Có lẽ

bởi vậy mà trong ca dao tình yêu của làng chài vịnh Hạ Long, hơi thở của thuyền, của

biển lại đậm đặc đến thế:

“Thuyền ai lơ lửng bên bờ

Chèo nhanh anh đợi còn chờ chi ai” [18; tr. 102]

Hay:

“Thuyền ai đi mãi đằng sau

Đi chóng tôi đợi đi mau tôi chờ

Vừa đi vừa đợi vừa chờ

Sao đi chậm thế bao giờ gặp nhau” [18; tr. 103]

Ở giữa nơi kì ảo của thiên nhiên, tình yêu mới thật thăng hoa, mới thật đủ các

cung bậc. Trai gái dân chài cần kết bạn để tiến tới thành lập các tổ ấm nhỏ bởi con

thuyền nan vốn đã chật chội, nhà lại quá đông người. Cha mẹ cũng rất mong con cái

trưởng thành được ra ở riêng để tự làm nghề nên luôn ủng hộ những tình yêu chân

chính. Hơn ở đâu hết, trai gái dân chài luôn tỏ tình một cách mạnh bạo, hồn nhiên và trong

sáng. Ca dao làng chài có rất nhiều bài ca chào hỏi, làm quen rất tự nhiên, bình dị:

“Thuyền nào có lửa xanh xanh

Có trầu xin miếng hỡi anh lái thuyền

Thuyền nào có lửa vàng vàng

Có trầu xin miếng hỡi nàng trong mui” [18; tr. 101]

Ở những cuộc vui có người lớn tuổi, mở đầu các cuộc hát đối bao giờ cũng là

những lời chào hỏi, lời lẽ khiêm nhường, có phần nhún mình. Sau khi chào một cách

lễ phép từ người cao tuổi trở xuống, từ ông lái đến bạn thuyền, người hát luôn giấu

tài, ra vẻ lúng túng, non kém:

"Trước chào các cụ một nhời

Sau chào tất cả các bác đến chơi chốn này

36

Tôi xin chào tất cả đông tây

Tôi chưa đi hát ở đây bao giờ

Duyên kim cải là ngãi tình cờ

Không hẹn mà gặp, không chờ mà nên

Thế mới biết lòng giời xui lại

Biết lấy gì mà đãi lòng nhau

Không khăn, không túi, không trầu

Lấy nhời nguyền ước làm câu hẹn hò" [18; tr. 275]

Cuộc hát cũng có những ước hẹn, những quy định:

"Thoạt vào em cấm nói chua

Cấm đố cấm hỏi được thua mới tài

Hát từ trong nhị độ mai

Hát sang Kiều lẩy lấy vài bốn câu

Kể Kiều phải kể từ đầu

Ca trù hát được mấy câu mới tài" [18; tr. 260]

Và, có cả những lựa chọn:

"Thoạt tiên anh hát mở hàng

Cô nào tốt đẹp điểm trang thì vào

Thoạt vào anh có nhời giao

Không chồng thì vào có chồng thì ra

Có chồng thì phải tránh xa

Khỏi anh chạm bóng về nhà bạn ghen" [18; tr. 262]

Chàng trai từ từ dẫn dắt câu chuyện làm quen, từ xa lạ để mong muốn được tìm

hiểu, kết thân với cô gái:

"Anh là khách lạ ngoài tàu

Thuận buồn xuôi gió anh vào tới đây

Anh là khách lạ cung mây

Thuận buồm xuôi gió tới đây thăm nàng" [18; tr. 259]

37

Cô gái ngại ngùng đáp trả:

"Bây giờ biết hát làm sao

Thôi em cũng sẽ hát chào một câu

Em chào ông trước, bà sau

Thuyền tình đến bến Trần - Châu đó rồi" [18; tr. 260]

Tiếp đến là những lời dò hỏi, tìm hiểu hoàn cảnh của bạn hát, chủ yếu là tìm

được những người thật lòng mong kết bạn tình, đi hát là chân tình giao duyên, mong

kết bạn lâu dài. Những câu hát dò hòi này muôn màu muôn vẻ, từ xa đến gần, từ gần

đến xa.

Cô gái chẳng ngại ngần mà hỏi thật chàng trai:

"Đến đây em hỏi thật chàng

Còn không hay đã có vàng cầm tay

Có vàng nói thật em hay

Để em chờ đợi lâu ngày luống công" [18; tr. 268]

Chàng trai đáp:

"Nào anh đã có cùng ai

Thì anh đã chẳng trúc mai làm gì" [18; tr. 268]

Từ câu hỏi làm quen, nam thanh nữ tú còn tìm hiểu về nhau từ tên tuổi, họ hàng,

anh em… qua những lời hát:

Cô gái giới thiệu tên mình một cách đầy ấn tượng bằng lối chơi chữ:

"Tên em là Xuân

Em đi chợ Hạ

Mua con cá Thu

Em trở ra về

Chợ hãy còn Đông" [18; tr. 272]

Chàng trai cũng không kém cạnh, liền đáp lại:

"Anh là con giai Hà Nam

Anh đi xứ Bắc gặp nàng xứ Đông

Tiếng đồn em đã có chồng

Vậy nên em dốc một lòng đi Tây" [16; tr. 158]

38

Cô gái lại hỏi:

"Chàng bao nhiêu tuổi trên đầu

Chốn nhân duyên chàng đã bắc cầu đâu chưa?" [18; tr. 273]

Chàng trai đáp trả rất hóm hỉnh, thật thà:

"Anh nay tuổi mới mười lăm

Bố mẹ còn cầm chửa định nơi nao

Chửa định nơi thấp nơi cao

Chửa định nơi nào vừa ý đẹp duyên" [18; tr. 273]

Sau những câu hỏi xin trầu, xin lửa, xin nước để có cớ trò chuyện, làm quen, trai

gái dân chài cũng hết sức ý tứ dò hỏi hoàn cảnh riêng tư rồi bóng gió tỏ tình. Đó là

những lời hát hết sức duyên dáng, gợi cảm, đầu tiên là xin kết bạn rồi đến nhờ tìm

giúp bạn đời, sau nữa khi đã có chiều ưng thuận mới chân thành ngỏ lời kết duyên:

“Thuyền anh cạn ở chương này

Mướn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền

Nhượng thì anh trả bằng tiền

Cho thì ơn chịu nghĩa đền trăm năm” [18; tr. 124]

Ngay trong chào hỏi, gặp gỡ, cũng như ở mọi miền quê, người dân cũng lấy

"Miếng trầu làm đầu câu chuyện" nên cùng với lời chào hỏi là tiếng hát mời trầu:

"Đời xưa cho chí đời nay

Đã cất tiếng hát thì tay mời trầu

Có trầu em hát mấy câu

Không trầu em chẳng hát đâu, em về" [18; tr. 292]

Rồi cô gái nhẹ nhàng bưng đĩa trầu mời khách thưởng thức:

"Miếng giầu nâng ở trên tay

Ở giữa đệm quế thơm cay mời chàng

Trầu này têm lá giầu vàng

Mở ra xanh biếc đặt trong khăn hồng

Giầu này nên nghĩa vợ chồng

Nên duyên cầm sắt nên lòng nhớ nhung" [18; tr. 276]

39

Tay nâng đĩa trầu hát mời, người cầm trầu hát hỏi gốc gác của miếng trầu, hỏi

căn vặn đủ thứ, từ ai trồng ai hái, ai làm ra con dao bổ cau, ai nung ai đốt nên vôi mặn

mà… Tất cả chỉ là lời giao duyên kín đáo để bày tỏ tấm lòng mình và tìm ta sự đồng

cảm, tâm đầu ý hợp.

"Giầu này têm tối hôm qua

Trộm thầy giấu mẹ đem ra mời chàng

Giầu này không phải giầu hàng

Không bùa không thuốc sao chàng không ăn

Có ăn mới nhớ được lâu

Không ăn nhớ trước quên sau lại phiền

Miếng giầu nó thắm nhân duyên

Cho nên ta gặp bạn hiền ai ơi

Cầm giầu lại nhớ đến vôi

Khen ai nung đốt cho vôi mặn mà" [18; tr. 278]

Cũng có khi khách giả vờ quên túi, quên khăn nên chẳng có trầu để thết bạn,

cũng có khi người chủ giãi bày hoàn cảnh trên thuyền.

"Trước kia mình chẳng bảo ta

Để ta mua cái chậu hoa giồng giầu

Bây giờ mình mới hỏi giầu

Thuyền anh nước mặn gồng giầu sao nên" [18; tr. 279]

Hàng trăm nghìn câu hát về trầu cau vẫn chỉ là một tiếng nói của tình yêu:

"Miếng trầu là miếng trầu cay

Trầu không biết nói trầu hay dỗ dành

Không ăn thì dạ không đành

Trầu ăn một miếng nợ thành trăm năm" [18; tr. 290]

Trải qua một quá trình thử tài, thử tình với hàng loạt bài hát đố hát giảng, đôi

bên đã thật sự thấy hiểu và đồng cảm, lúc đó mới xích lại gần nhau và hát những lời

mến thương âu yếm:

"Thôi thôi tay lại cầm tay

Đã yêu vì nết lại say vì tình

40

Cầm tay anh hỏi thực mình

Còn không hay đã có tình với ai

Cầm tay hỏi khách nữ hài

Nỗi niềm ân ái một hai rõ ràng

Tay anh cầm lấy tay nàng

Hai tay tay thiếp tay chàng hai tay" [18; tr. 243]

Lúc ấy, nếu người được cầm tay tâm đầu ý hợp thì sẽ chẳng giấu tình cảm mặn

nộng tha thiết, nhưng nếu chưa đồng cảm cũng sẽ nhẹ nhàng từ chối:

"Xin chàng buông tay em ra

Chàng đừng dan díu làm chi bận lòng

Biết rằng chàng có thương không

Mà chàng cả quyết luống công em chờ" [18; tr. 244]

Khi đã kết bạn, người dân chài không quản giàu nghèo, sang hèn, họ đến với

nhau bằng cái nghĩa, cái tình:

“Yêu nhau chẳng quản giàu nghèo

Nát buồm cũng vượt, gẫy chèo cũng qua

Đôi ta chẳng ngại chi nghèo

Nước khe đổ xuống bọt bèo nổi lên” [18; tr. 264]

2.2.2. Tương tư, yêu đương

Ca dao của dân chài nói rất nhiều về nỗi nhớ nhung khi phải xa cách. Họ rất tôn

trọng những lời thề nguyền, những kỷ niệm của tình yêu, tình bạn:

“Trăm năm một cuộc tình duyên

Phải đâu thăm ván bán thuyền cho qua

Một lời đã nói cùng ta

Phải đâu bãi sú vào ra trăm đường

Đã thương thì một lòng thương

Đững như tép lẫn vãi đường vịt ăn” [18; tr. 123]

Khi phải xa cách, không ai giấu nổi nỗi tương tư, buồn nhớ:

“Ngồi buồn ra biển em trông

Biển thì thấy biển mà không thấy người” [18; tr. 129]

41

Sau bao chờ đợi, nhớ nhung, họ tiến tới hôn nhân một cách chân thành, cảm động:

“Từ ngày anh biết đi ngòi

Anh bắt con bớp em moi cua càng

Đậu thuyền vừa lúc chợ đông

Con cua ba đồng, giỏ bớp bán cân

Tiền này anh tích lại dần

Tiền cua tiền bớp sang xuân cưới mình” [18; tr. 147]

Hai vợ chồng, một con thuyền nhỏ, cuộc sống không thể thiếu đi một người:

“Buồm duyên chạy với thuyền tình

Đi xuôi có mình, đi ngược có ta

Động trời gió táp mưa sa

Anh về bẻ lái em ra xuống buồm” [18; tr. 112]

Tình yêu chung thủy là lẽ sống của người dân chài bởi nó bắt nguồn từ chính

hoàn cảnh lao động không thể thiếu nhau. Công việc chài lưới vô cùng nặng

nhọc và vất vả, cuộc sống lênh đênh giữa biển khơi khiến con người gắn bó với

nhau hơn bao giờ hết. Họ cùng sống, cùng lao động và san sẻ mọi nỗi vất vả

trong cuộc sống hàng ngày:

“Anh chèo đây em nằm đấy sao yên

Em xin thức dậy ngồi bên cọc chèo

Chèo qua cái núi Mom Diều

Anh ơi ngơi nghỉ, em cầm chèo thay” [18; tr. 114]

Chính vì yêu nhau là một nhu cầu để tồn tại nên không chỉ trong lời hát mà trên

thực tế, trong cộng đồng ngư dân rất hiếm có trường hợp ly dị, cũng hiếm khi có

ngoại tình.

Tuy nhiên, do hôn nhân tự do và không hề bị ép buộc cũng không hề bị ràng buộc

bởi những lễ giáo phong kiến nên ngay từ khi mới trưởng thành, trai gái dân chài đã

bạo mồm bạo miệng bởi tìm người kết bạn là lẽ tồn tại. Chính vì vậy, hàng loạt bài ca

dao tỏ tình có bề ngoài suồng sã nhưng đó chỉ là nói cho vui, hát cho vui. Ở những bài

ca này, ta thấy sự mê đắm, tưởng tượng của những mối tình vượt ra ngoài nếp sống êm

42

ấm của gia đình. Thực chất, đây là những bài ca dao nặng tính chất trào lộng với những

ngoa ngữ, phóng đại để tếu táo vui đùa:

“Có chồng thì mặc có chồng

Có con mặc lòng ta nhớ nghĩa nhau

Dù mà đấy có mấy con

Đây dăm bảy đứa vẫn còn nhớ nhau” [18; tr. 127]

Cũng là ngợi ca tình yêu, ca dao của làng chài có một loạt bài khá dài, rất đặc

biệt kể về hành trình đi tìm người yêu. Đó là hành trình vất vả và gian nan, vượt qua

những trở ngại địa lý và tinh thần để tìm đến nhau. Ở đây, bên cạnh nghĩa tình thủy

chung với người yêu còn là tình yêu với non sông đất nước bởi bài hát “tìm” nào

cũng miên man kể về các địa danh xa gần. Có những cuộc tìm tưởng tượng, bất chấp

cả các kiến thức địa lý thông thường mà bàn chân người đi tìm sang cả những mảnh

đất xa xôi. Những bài ca dao này là những câu hát trữ tình, vừa thể hiện tình yêu đôi

lứa, vừa để khoe cái sự hiểu biết để mua vui cùng bạn chài:

“Nhớ em anh phải đi tìm

Tìm em như thể tìm chim dãi dầu

Tìm em Bắc Cạn sông Cầu

Giờ về sông Đuống tới đầu sông Lô

Hết Tần anh lại sang Ngô

Hết Phiên sang Sở hết Ngô sang Lào” [18; tr. 160]

Tình yêu khi đã trải qua những cung bậc cảm xúc tuyệt vời, khi đôi lứa đã trao

trọn cho nhau tình yêu và niềm tin, họ hẹn ước, thề nguyền với nhau, cùng tin tưởng

vào một tình yêu chân thành, son sắc:

“Những lời mình nói với ta

Có sông Nhị Hà có núi Tản Viên

Bao giờ đổ núi Tản Viên

Nhị Hà hết nước mới quên lời thề” [18; tr. 162]

Trong tình yêu, những lá thư gói gửi tâm tình có lẽ là kỷ vật không thể thiếu,

đặc biệt là đối với những người dân chài ngày đêm lênh đênh trên biển. Trong điều

kiện sống và lao động nay đây mai đó, đây là phương tiện để họ trao gửi, thổ lộ tình

43

cảm với người mình thương mến. Vậy nên, trong hệ thống những bài ca dao dân ca

của làng chài, người đọc tìm thấy rất nhiều những bài ca hát gửi thư, nơi chứa đựng

nhiều tâm tình người miền biển:

"Bức thư là bức thư hoa

Gửi con chim nhạn bay ra tìm chàng

Sợi chỉ vàng vắt ngang tờ giấy

Phải lòng nhau không lấy được nhau" [18; tr. 228]

Là cảm xúc vui sướng lâng lâng khi nhận được thư gửi từ nơi xa:

"Hôm qua ngồi tựa mái hiên

Bỗng đâu có bức thư tiên tới nhà

Lòng mừng anh mở thư ra

Trong thư em nói ngẩn ngơ sầu phiền

Ba thu giữ một lời nguyền

Tâm tư em gửi nên thư tới nhà" [18; tr. 229]

Là tình yêu thương, sự nhớ nhung:

"Xa xôi gửi bức thư về

Gửi người má ấp vai kề trăm năm

Anh đi muôn dặm một thân

Bôn ba nhẹ gót phong trần kỳ khu" [18; tr. 232]

Lá thư đôi khi lại trở thành cái cớ để đôi lứa trò chuyện, giãi bày tâm tình:

"Thư này anh gửi cho ai

Gửi người cung Quảng hay người đại dương

Hay là anh gửi chị hằng

Hay là gửi gió gửi trăng trên trời

Hay là gửi cuội mình ơi

Thì chàng cũng nói cho tôi biết cùng" [18; tr. 234]

Cũng có khi, đó là khúc hát của những tình cảm ngoài vợ, ngoài chồng, chẳng

dám nói ra mà chỉ dám bộc bạch qua những cánh thư:

"Đã nên nghi thất nghi gia

Thân em là phận đàn bà làm sao

Chàng là quân tử trí cao

Tình thư một bức em trao cho chàng" [18; tr. 229]

44

Trong các cuộc vui, cùng với hát cầm tay, đôi bên thường trao gửi khăn, nón,

áo, yếm để giữ lại những gì gần gũi, thân thương nhất của người mình yêu thương.

Cũng có khi chẳng cần trao gửi, thường là các chàng trai chủ động giật lấy nón, giằng

lấy khăn. Các cô gái hát xin lại, đôi bên giằng co tình tứ. Cũng có chàng trai sỗ sàng,

thô bạo, lời hát lại của người con gái buộc phải chanh chua, đáo để. Chàng trai hát:

"Hỡi cô đội nón mới mua

Cho anh mượn tạm một mùa đi câu

Thầy mẹ có hỏi nón đâu

Nón đi qua cầu gió đánh xuống sông" [18; tr. 357]

Cô gái hát xin lại:

"Thương nhau thì trả nón đây

Công cha nghĩa mẹ về sau em đền

Công chàng em chẳng có quên

Nghĩa chàng em để một bên dạ này" [18; tr. 355]

Hay như:

"Khen ai khéo xé khăn vuông

Khéo đột chỉ trắng khéo luồn chỉ xanh

Bốn góc bốn chữ rành rành

Ỏ giữa con phượng đậu cành thêu hoa

Khăn này chính thực của ta

Từ khi em lấy xót xa trong lòng

Bao giờ nên đạo vợ chồng

Như cá gặp nước như rồng gặp mây" [18; tr. 351]

Cô gái hát lại xin khăn:

"Khăn này của mẹ của thầy

Cho đi xem hội cầm tay che đầu

Nào ta có tiếc chàng đâu

Mà chàng lột mất dãi giầu sao đang

Hòng khi đi đến giữa đàng

Gặp cơn mưa nắng lòng càng xót xa

Xin chàng đưa khăn cho ta

Để ta nói chuyện chàng đà được hay" [18; tr. 353]

45

Chiếc yếm - một vật gắn liền với thân thể người con gái cũng trở thành cái cớ để

đôi lứa trao gửi yêu thương:

"Lạ lùng em mới đến đây

Chàng mà hỏi yếm em rày xin thưa

Tơ này em rệt cũng vừa

Cổ yếm em thắt nhẫn thùa em khâu

Kim này em mua bên Tàu

Con tằm xe chỉ em khâu yếm này" [18; tr. 352]

Trong tình yêu, một kỷ vật nhỏ bé có giá trị thiêng liêng và to lớn hơn bất cứ

vàng bạc, châu báu nào. Bởi vậy, chàng trai nào đã cầm trong tay kỷ vật mà cô gái

trao tặng đồng nghĩa với việc đã nắm trọn được con tim của người ấy.

"Anh cầm của này nàng chớ có lo

Người ta kết nghĩa còn cho lạng vàng

Dù ai cho bạc cho vàng

Không bằng chiếc nón của nàng hôm nay

Dù ai cho nhẫn đeo tay

Không bằng chiếc nón cầm ngay bây giờ" [18; tr. 361]

2.2.3. Đôi lứa từ biệt nhau sau những cuộc vui

Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn, kết thúc cuộc hát đối là phần hát chia tay,

hát ra về chan chứa yêu thương. Khác với tình yêu đôi lứa của những nam thanh

nữ tú trên đất liền, sự chia tay, nhớ nhung của trai gái miền biển day dứt và mãnh

liệt hơn rất nhiều. Đó có lẽ do khoảng cách địa lý trên biển, đặc thù công việc mưu

sinh hằng ngày mà họ chẳng thể dễ dàng gặp nhau để trao đổi tâm tình. Nỗi buồn

xa cách thấm đẫm vào từng câu chữ:

"Còn hôm nay nữa mai về

Ai có lời thề thì thở thì than

Một mai kẻ bề người ngàn

Thở than than thở dở dang lời thể" [18; tr. 370]

Không ai muốn rời xa nhau:

"Thuyền xuôi cũng bởi bác tài

Nhẽ ra em ở lại mai mới về

ở thì sợ tiếng cười chê

Em trở ra về để nhớ để thương" [18; tr. 364]

46

Người đi thì vậy, người ở cũng lo người đi gặp sóng to gió cả:

"Nhỏ to chưa hết mọi lời

Ở đêm nay nữa mai người hãy xa

Đang cơn mây kéo tứ bề

Nhỡ đêm sóng cả mình đi sao đành" [18; tr. 364]

Điều lo lắng nhất ở cả hai phía là làm sao giữ được lời thề nguyền, giữ được

mối tình son sắt thủy chung:

"Đường xa xa bến xa thuyền

Chàng về đằng ấy để phiền đôi nơi

Nói lời phải giữ lấy lời

Nhổ neo phải nhớ lấy nơi đậu thuyền" [18; tr. 376]

Hơn lúc nào hết, ta lại bắt gặp rất nhiều những câu hát tỏ nỗi lòng chân thành

của một tình yêu mặn nồng tha thiết:

"Ra về em chỉ nhớ chàng

Nhớ chàng thì ít em thương thì nhiều

Ra về em dặn một điều

Một điều chỉ quyết là điều lấy nhau" [18; tr. 372]

Cuộc hát đối có khi kéo dài tới vài đêm nhiều ngày, đôi bên đã có cơ hội ở

bên cạnh, tìm hiểu nhau sâu sắc nên tình yêu ở phút chia tay này trở nên mạnh

mẽ, quyết liệt:

"Chàng về bỏ thiếp sao đành

Chàng về thiếp cũng quanh ghềnh thiếp theo

Non cao thiếp cũng quyết trèo

Bể sâu thiếp cũng quyết theo tận nhà" [18; tr. 375]

Họ nhắn gửi, dặn dò nhau:

"Chàng về dốc một lòng về

Đừng giăng đừng gió mà mê tâm thần

Dù đâu quán sở lầu tần

Xin chàng chớ có dừng chân nơi người

Thuyền xuôi neo nọc cũng xuôi

Còn em ở lại em nuôi mẹ già

Anh về chóng chuyến anh ra

Sóng gió em đợi, mẹ già em thương" [18; tr. 363]

47

Có những cái hẹn chan chứa niềm tin yêu, hi vọng:

"Bây giờ đình đám đã qua

Thương nhau ta hẹn tháng ba ngày mười

Bây giờ đình đám đã rồi

Nhớ nhau ta hẹn ngày mười tháng ba" [18; tr. 362]

Cũng có những cuộc chia tay đầy tiếc nuối bởi vì nhiều lẽ, họ chẳng thể nên vợ

thành chồng:

"Chàng về em đứng cửa ngăn

hai hàng châu lệ lấy khăn mà chùi

Chàng về em đứng cửa mui

Hai hàng châu lệ càng chùi càng ra

Chàng về em đứng cửa nhà

Hai hàng châu lệ chảy ra ròng ròng" [18; tr. 379]

Có thể thấy rằng, hát đối chính là những cuộc giao duyên để đôi lứa nên vợ

thành chồng. Hầu như tất cả các cặp vợ chồng thuyền chài trên vịnh Hạ Long đều nên

duyên từ hát đối. Dù tên gọi của loại hình này là hát đố hát giảng, hát ví hát véo hay

hò biển… thì vẫn là loại hình dân ca giao duyên chủ yếu trên vịnh Hạ Long.

2.2.4. Đôi lứa nên duyên vợ chồng

Trải qua quá trình tìm hiểu nhau, những cặp đôi tâm đầu ý hợp sẽ xích lại gần

nhau, nên duyên vợ chồng. Đám cưới của người dân chài thường được tổ chức vào

những ngày giữa tháng âm lịch trong mùa cưới, từ tháng tám năm trước đến tháng ba

năm sau. Theo những người dân chài, những đêm giữa tháng, trăng sáng, cá đi ăn tãi,

dân chài thường nghỉ đánh bắt cá nhưng lại là những đêm non nước lung linh kỳ ảo,

rất gợi tình. Nhà trai thường đi đón dâu bằng vài ba thuyền lớn. Thuyền nhà gái neo

đậu sát nhau, trong đó có một thuyền lớn có bàn thờ gia tiên ở trong khoang. Bên

ngoài, trên mặt sạp là ba ngõ cách điệu bằng ba dải lụa ba mầu chăng ngang từ cao

xuống thấp. Ở cửa vào trong khoang còn treo một đôi chim đan bằng tre hay bằng

bông. Có đám làm hình chim phượng, có đám làm hình chim câu. Thường sau bữa

cơm chiều, thuyền nhà trai sẽ xuất hành. Dẫn đầu nhà trai là một vị cao niên trong họ

gọi là chánh sứ. Cuộc hát bắt đầu từ hát dậy gánh.

"Bây giờ đã đến giờ thân

Nào trai nào gái nhanh chân xuống thuyền"

48

Hoặc, gia chủ có lời mời:

"Bây giờ đã đến giờ mùi

Xin mời chánh sứ, xin mời bù đa" [18; tr. 382]

Trên đường đi, đội hình nhà trai vui vẻ hát chúc chú rể, nhưng chủ yếu là hát

luyện giọng, sắp xếp đội và dự tính các tình huống để thể hiện trong cuộc hát thi với

nhà gái.

Thấy thuyền nhà trai đến, nhà gái thường chủ động hát hỏi:

"Thuyền nào mà đến bến ta

Mua tơ mua lụa hay là mua duyên?

Thuyền quan thì đậu bến quan

Thuyền buôn thuyền bán đậu sang bến người" [18; tr. 382]

Nhà trai cũng sẽ đáp trả sao cho phải lẽ:

"Không dưng thuyền đến bến này

Vì tình vì nghĩa vì dây tơ hồng" [18; tr. 382]

Cũng có khi nhà gái hát chào xong lại bịa ra rất nhiều lý do để gây khó dễ bắt

nhà trai phải chờ đợi. Nhà trai năn nỉ, kêu mỏi gối chồn chân, ngựa đói người khát.

Nhà gái cảm cảnh thương tình, hát mở ngõ khách, mời các ông già bà cả vào trước.

Mở ngõ khách là tháo bỏ dải lụa treo cao nhất và bắc cầu nối hai thuyền.

"Cầu này cầu trúc cầu mai

Cầu ân cầu ái nối hai họ nhà" [18; tr. 383]

Nhà gái hát mời trầu, mời nước ông Chánh sứ (trưởng đoàn), Bà đa (ông mai, bà

mối) và các vị cao tuổi của nhà trai. Hát mời trầu trong hát cưới sử dụng những câu

hát trong hát đối:

"Miếng giầu nâng ở trên tay

Ở giữa đệm quế thơm cay mời chàng

Giầu này têm lá giầu vàng

Mở ra xanh biếc đặt trong khăn hồng" [18; tr. 323]

Các vị trung niên gồm chú, bác, cô, dì phải chở mở ngõ thứ hai. Đó là ngõ cheo,

hát mở ngõ cheo cũng là hát đối đáp, ý nhị. Chẳng hạn, nhà trai hỏi:

"Đường đi thăm thẳm nẻo thông

Vì cây dây quấn nhọc lòng đến đây

49

Cớ sao chỉ mở ngõ ngoài

Đường quang lại gặp chông gai chắn đường?

Đã là giao kết thông thương

Cớ sao rào giậu chắn đường nhà trai?" [18; tr. 392]

Nhà gái cũng "đáo để" đáp lại:

"Xin đừng ăn nói đơn sai

Nhà quan cửa đóng then cài thâm nghiêm

Phải đâu suống sã buông tuồng

Phải đâu bãi sú trăm đường vào ra" [18; tr. 392]

Hoặc có khi nhà gái không ngại mà mở lời thách thức:

"Có tiền thì mở ngõ ra

Không tiền thì đứng ngoài xa không vào

Có tiền thì mới cho vào

Không tiền thì đứng ngoài rào mà trông" [18; tr. 393]

Nói thế, nhưng cuối cùng thì nhà gái cũng cởi dải lụa thứ hai, mở ngõ cheo.

Cũng có khi chú, bác, cô, dì… phải đưa tiền phong bao thay lời hát, nhất là khi không

đối đáp nổi, khi đưa tiền thường có lời hát cách điệu tượng trưng:

"Ngày vui bác cũng mừng cho

Một trăm nén bạc, mười bồ gạo thơm

Dì cho mười mẫu ruộng liền

Một trăm sải lưới một thuyền gỗ lim" [18; tr. 393]

Đỉnh cao của hát cưới là hát ngõ hoa. Lúc này trăng đã lên cao, rải vàng mặt

vịnh, đôi bên toàn thanh niên hát đối đáp thi tài. Nhà trai là khách mua hoa, nhà gái là

người bán hoa. Ẩn giấu trong những lời hỏi giá mặc cả giằng co là tình yêu đôi lứa

đằm thắm mang đậm tính nhân văn.

Chẳng hạn các chàng trai hát:

"Hỡi nàng thấp thoáng ngõ hoa

Hoa còn tươi tốt hay là hoa ôi

Mua hoa xin hỏi thực thà

Hoa còn phong nhịu hay là ong châm?

50

Mấy cơn gió bấc mưa dầm

Hoa tàn nhị rữa mấy lần hỡi hoa?

Hoa còn tươi tốt trên cây

Hay là hoa đã vào tay ai cầm?

Mua hoa những sợ mua lầm

Tiếc công lại phí tiền trăm người cười" [18; tr. 394]

Bên nhà gái, cô dâu hoặc bạn bè đáp lại, khi khiêm nhường, cũng có khi

cứng rắn:

"Cũng thân cỏ nội hoa đồng

Liệu chàng có kén một bông hoa hèn

Hoa thơm thoang thoảng là bền

Còn hơn xanh đỏ tím vàng mà hôi!

Hoa này ngan ngát chàng ơi!

Hoa bền còn ở tay người cắm hoa!

Cho dù gió táp mưa sa

Che mưa che nắng biết là mấy công

Cho dù ong bướm lượn vòng

Nhụy còn phong kín ở trong hoa này!

Hoa thơm hái tự vườn nhà

Xin đừng chuộng rẻ mua hoa giữa đường." [18; tr. 394]

Trong hát ngõ hoa thường có hát đố, hát giảng. Bắt đầu là hỏi về các loài hoa, cách

trồng hoa rồi miên man đến hỏi nhà, hỏi họ hàng, hỏi về thuyền, về cá, về các nghề trên

cạn, dưới nước, hỏi về các kiến thức thiên văn, địa lý, lịch sử, văn chương…

Say sưa đối đáp đến trắng đêm, cuộc hát lại quay về chuyện mua hoa, bán hoa.

Một cô gái bưng ra một mâm hoa tươi đủ các loại. Một cô gái dùng đôi đũa dài làm

bằng gỗ mun hoặc gỗ kim giao, gỗ mần lái, gắp từng bông bỏ vào vạt áo dài chàng

trai và hát:

"Chàng nâng vạt áo chàng ơi

Hoa rầu hoa dập tủi người bán hoa" [18; tr. 395]

Cũng có đám các cô gái lần lượt bán hoa cho từng người và mỗi bông hoa kèm

một câu hát:

51

"Hoa này đẹp cửa đẹp nhà

Hoa này thơm cả đường ra lối vào

Hoa này chẳng hãm chè Tàu

Hoa này giữ trọn lời thề

Thủy chung chỉ quyết một bề thủy chung

Hoa này nên vợ nên chồng

Nên tình nên nghĩa ở trong hoa này" [18; tr. 395]

Các chàng trai sốt ruột thường hát mua cả vườn hoa, hơn thế mua luôn cả người

trồng hoa, người bán hoa. Đây là những phút giằng co giữa kẻ mua, người bán. Bên

nhà gái nếu đành phải chấp nhận thì đoạn hát cảm động nhất là những lời hát than

hoa. Những người dự hát, trên thuyền bao giờ cũng chú ý đến đoạn than hoa của cô

dâu và phù dâu. Đó là những lời hát muôn vẻ nhưng luôn bắt đầu bằng mô típ "Hoa

hời hoa hỡi là hoa" và sau đó gửi gắm nỗi niềm xót xa phải xa cha mẹ, bước sang

thuyền người lênh đênh, vô định:

"Hoa hời hoa hỡi là hoa

Từ đây hoa có còn là tốt tươi

Hoa thơm trong vạt áo người

Rồi ra héo hắt rã rời cánh hoa

Mai ngày hương sắc phôi pha

Hoa tàn nhị rữa kiếp hoa lìa cành

Phải tay vùi dập phũ phàng

Ong chê bướm chán bẽ bàng đời hoa" [18; tr. 406]

Đương nhiên, trước nỗi đắn đo, day dứt xúc động ấy, chàng rể hay các phù rể

cũng có những lời thề nguyền, hứa hẹn:

"Đã thề thắm thiết với hoa

Bể sâu núi dựng với là trăng soi

Yêu mình lắm lắm mình ơi

Đôi ta ra lộng vào khơi chung tình" [18; tr. 407]

Những lời hát than hoa thực sự là những lời hát lay động bởi nó chạm đến số

phận người phụ nữ vốn đã lắm chuân chuyên.

52

Nhiều đám cưới, ngoài hát mua hoa còn có hát mua chim với ước mong loan

phượng có đôi, mong chim được nuôi nước trong gạo trắng và cuối cùng là than cảnh

cá chậu chim lồng. Nhiều cuộc hát say đắm không phân thắng bại, thực chất là

cuộc hát gia duyên chưa muốn kết thúc mà trời đã sáng, nhà trai đành xin nhà gái

chiếc nón hay tấm khăn về lấy ngày rồi tìm thời để đêm sau hát tiếp. Có đám

cưới hát tròn ba đêm mới đón được dâu sang thuyền. Trước khi bước sang

thuyền nhà trai, bao giờ cô dâu cũng hát lạy ông bà, cha mẹ, từ biệt anh chị em

bằng giọng than sụt sùi nước mắt.

Khi đón dâu, nhà trai sẽ bắc cầu từ thuyền nhà gái sang thuyền nhà trai, lúc này

hai họ vẫn hát đối đáp, gọi là hát đón dâu gay hát lao cầu:

"Giờ này giờ ngọc giờ tiên

Xin mời quý họ bước lên lấy giờ

Giờ này giờ ngọc giờ ngà

Xin mời hai họ bước ra sang thuyền" [18; tr. 409]

Trên đường đón dâu về, hai họ vẫn hát đối đáp, lúc này, lại có khúc hát hỏi đường:

"Lạ lùng em hỏi đường ngay

Đường về lễ tổ nẻo này thông chăng

- Đường đi thăm thẳm nẻo ngay

Đường về lễ tổ nẻo này em ơi" [18; tr. 410]

Về đến nhà trai, đôi vợ chồng trẻ sẽ vào lễ tổ tiên:

"Bước vào lễ tổ lễ tiên

Để tổ phù hộ bách niên thọ tràng" [18; tr. 411]

Sau đó, là lễ tơ hồng:

"Bước vào mà lễ tơ hồng

Ân ái vợ chồng giao kết nhân duyên

Từ rày chăn ấm gối êm

Mặc nơi ong bướm chớ mềm lòng xuân" [18; tr. 411]

Khi mọi thủ tục, nghi lễ đã được thực hiện xong, họ hàng, bạn bè lại tiếp tục hát

chúc mừng cô dâu chú rể. Hát chúc phúc với những lời vàng ý ngọc luôn chứa đựng

sự kính trọng và biết ơn đối với ông bà tổ tiên:

“Trước kính tổ tiên trong nhà

Sau chúc ông bà phúc thọ giàu sang

53

Kim chi ngọc điệp phong ngàn

Lại mừng con cháu phượng hoàng xứng đôi

Nhờ ơn phúc tổ ngàn đời

Bốn bên cha mẹ đắp bồi cho con” [18; tr. 412]

Đó là những khúc hát hân hoan, vui tươi với những lời cầu chúc tốt đẹp nhất

cho đôi vợ chồng trẻ:

"Thuyền đã đến bến thảnh thơi

Từ giờ loan phượng sánh đôi phượng hoàng

Chẳng còn cách trở phương xa

Chẳng còn ngóng đợi giữa ta với mình" [18; tr. 414]

Những khúc hát này chúc đôi vợ chồng trẻ mọi sự tốt tươi, chúc vạn sự thành

công, chúc tiến chức thăng quan, chúc giàu sang phú quý:

“Chúc mừng vạn sự thành công

Bốn bên cha mẹ vun trồng thành danh” [18; tr. 414]

“Một mừng tiến chức thăng quan

Hai mừng cá nhảy một đàn thiên nga

Ba mừng sum họp một nhà

Bốn mừng anh chị thật là xứng đôi” [18; tr. 414]

"Chúc mừng anh chị xứng đôi

Nhà anh phú quý nhà cô sang giầu

Nhà sang kẻ giả công hầu

Đăng khoa Bảng nhãn, đỗ đầu Trạng nguyên" [18; tr. 413]

Có thể thấy rằng, cái đọng lại của hát đám cưới ngoài sự gắn bó sâu nặng nghĩa

tình của hai họ chính là những dấu ấn đặc sắc về những người hát. Đám cưới nào

cũng nổi lên những trai tài gái sắc và cũng là cơ hội để bắt đầu những nhân duyên

mới. Chính vì vậy, đám cưới bao giờ cũng thật sự là ngày hội giao duyên, một sự giao

duyên vô cùng nghệ thuật. Đây là một loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian độc

đáo, đặc sắc đậm yếu tố biển.

54

2.2.5. Trái duyên, không xứng đôi

Cuộc đời vốn nhiều éo le, trắc trở, người dân chài tuy có hôn nhân tự nguyện và

cuộc sống gắn bó giữa các cặp vợ chồng trong lao động nghề biển, song vẫn không

tránh khỏi những đổ vỡ, những ngang trái làm dang dở những số phận con người. Đó

có thể là sự trái duyên:

“Nhọc lòng em lắm con dã tràng ơi

Mình se lên cát sóng vùi lại tan

Tiếc công cuốc đất đào hầm

Thuyền mình không đỗ, đỗ lầm thuyền ai” [18; tr. 166]

Là sự trách cứ đầy chua xót:

“Ai làm cho nước chảy xuôi

Cho thuyền chèo ngược hai người xa nhau” [18; tr. 166]

“Tiếc công chẻ lứa đan lồng

Lồng thưa chim lọt đau lòng người nuôi

Một mình anh khắc chẻ rồi lại khắc đan

Lỗi lầm anh chịu phàn nàn cùng ai” [18; tr. 167]

Cuộc sống lênh đênh trên biển luôn ẩn chứa những tai họa bất ngờ, người chịu

cay đắng phần lớn là phụ nữ, họ chỉ còn biết than thân trách phận. Những loài sinh

vật biển với những đặc tính của nó được vận dụng một cách triệt để để diễn tả tâm

trạng cay đắng của nhân vật trữ tình:

“Ai làm sam hóa thành so

Cho gion hầu vạng cho sò ngán ngao

Phi phi buồn với tầu tầu

Ốc đi bằng miệng khát khao trong lòng” [18; tr. 175]

Cũng có khi, đó là những khúc hát thể hiện sự xót xa khi đôi lứa chẳng thể xứng

đôi, nó thể hiện những nghịch lý trong từng lời ca đầy chua xót:

“Tay em ngắn không với được chèo

Bác mẹ em nghèo không dám sánh đôi

Xin đừng ao ước anh ơi

Ước ao cũng chẳng được người này đâu” [18; tr. 171]

55

Nói về sự không xứng đôi, ca dao làng chài còn có những bài ca mang đậm tính

chất trào lộng, đó là một sự lý giải mang tính chất châm biếm nhưng cũng chứa đựng

những tâm tình, trái ngang trong cuộc sống vợ chồng:

“Chồng em giống hệt con sam

Bám vào lưng vợ, vợ làm cho ăn” [18; tr. 183]

“Thân em như hạt đậu xanh

Nấu cháo cũng mát, nấu canh cũng bùi

Chồng em như con cá ôi

Kho đi kho lại cái mùi còn tanh” [18; tr. 184]

Cùng nói về sự trái duyên, ca dao của dân chài có một loạt bài biến nỗi đau

thành tiếng cười. Đó là những bài tô đậm đến mức cực đoan, có phần chua ngoa, quá

quắt khi nói xấu người bạn đời của mình. Những bài ca dao này phản ánh lối nghĩ

phóng khoáng, tự do của người dân biển nhưng mặt khác cũng là tiếng cười trào lộng

để vơi bớt những khó khăn, vất vả sau những ngày lao động nặng nhọc. Sự diễn tả sắc

sảo và sinh động trong từng câu chữ khiến hình ảnh như được hiện ra rõ nét:

“Vợ anh ướt lắm anh ơi

Như mớ cá nát mà phơi trong nhà

Càng phơi càng chảy nước ra

Thân anh cũng khổ đến già mà thôi” [18; tr. 185]

Nói xấu vợ bạn còn là một cách tỏ tình độc đáo với bạn:

“ Chồng em như con cóc già

Vợ anh ở nhà như cái dơi dơi

Làm tở đánh đổi anh ơi

Để cho chúng nó ở đời với nhau” [18; tr. 184]

Ca dao của dân chài cũng lên án mạnh mẽ thói bạc tình. Đó là cảnh “Ngồi thuyền

này tựa mạn thuyền kia/ Trách ai nói một mà chia đôi lòng”. Hậu quả của sự thiếu thủy

chung tất yếu là “Bắt chim bắt cá hai tay/ Cá thì về biển chim bay về ngàn”.

Hàng loạt bài ca dao lên án kẻ bạc tình với những lời lẽ gay gắt. Cái chua ngoa,

đanh đá được dịp thể hiện sự phẫn nộ, căm ghét kẻ phá hoại hạnh phúc êm ấm của

mỗi gia đình:

56

“Mày mà quyến rũ chồng tao

Chèo ra gặp bão, chèo vào gặp giông

Nếu không Hà Bá trôi sông

Thì đến giữa đồng giời đánh cháy thui

Một mày phải nhảy bể sâu

Hai mày xách điếu đi hầu chồng tao” [18; tr. 207]

Bên cạnh đó, ca dao của những người lao động trên biển cũng rất giàu sắc thái

trào lộng. Có lẽ để thư giãn sau những ngày lao động dân cực nhọc và ở nơi đây

không cần phải khép nép, ý tứ. Người làng chài vốn lạc quan yêu đời đã sáng tạo nên

rất nhiều bài ca dao vui đùa. Tiếng cười thường nảy sinh khi gặp những điều trái

khoáy, ngược đời:

“Con cò mà mổ con tép

Muôn lấy vợ đẹp mà không có tiền

Có cho cưới chịu thì nên

Mai kia có cháu mang tiền giả cho” [18; tr. 207]

Ở nơi rất cần sức vóc lao động của những người khỏe mạnh thì thật buồn thay:

“Cá thì trắng bạch ngoài sông

Hai anh bé tẻo chèo không nổi thuyền

Vì sao chèo chẳng nổi thuyên

Bởi không đủ sức chèo thuyền không đi

Anh thì tuổi đã luống thì

Anh kia ruồi bậu chẳng đi mặc ruồi” [18; tr. 209]

Tiếng cười thật hóm hỉnh và đôi khi có cả tiếng cười ra nước mắt:

“Anh cưới tôi có nửa con gà

Có dăm sợi bún có vài hột xôi

Bây giờ anh đánh anh lôi

Anh kể đến bún đến xôi đến gà

Đành lòng tôi bước chân ra

Tôi lấy người khác, giả xôi, giả bún, giả nửa con gà cho anh” [18; tr. 212]

57

Rất gần với trào lộng, ca dao vùng biển còn có một số ít bài ca có yếu tố tục.

Tục nhưng không dâm. Cái tục trở thành vũ khí sắc bén khi cần hạ bệ những cái xấu

và những thế lực đáng nguyền rủa.

“Có cô vén váy đánh hà

Váy thì cáy cộc để ra một chòm

Mấy anh cắm đọn cùng nhòm

Bảo đấy râu chòm quan huyện Nghiêu Phong” [18; tr. 211]

2.3. Những tâm tình đời thường của người dân chài

Nằm trong hệ thống ca dao, dân ca của làng chài vịnh Hạ Long, những khúc hát

về đời sống tâm tình là một bộ phận chứa đựng rất nhiều yếu tố thời đại, phản ánh

chân thực cuộc sống của người dân nơi đây.

2.3.1. Tâm sự người dân chài bị bắt lính

Vào đầu thế kỷ thứ XIX, khi thực dân Pháp sang đô hộ nước ta, chúng bắt đầu

ra sức vơ vét tài nguyên, của cải về làm giàu cho mẫu quốc. Vùng than Hòn Gai, Cẩm

Phả, Vàng Danh, Mông Dương trở thành miếng mồi béo bở để thực dân Pháp bòn rút.

Quảng Ninh trở thành một trung tâm khai thác than lớn của cả nước, thu hút nhiều lao

động. Hàng nghìn nông dân từ các vùng nông thôn, trong đó có cả những ngư dân

làng chài được chiêu mộ ra mỏ làm cu li khai thác than. Dưới ách đô hộ của thực dân

Pháp, cuộc sống của người dân cực khổ vô cùng. Nhiều tiếng than khóc, xé nát tim

gan, rên xiết thành tiếng lòng ai oán:

“Chả đi chả biết Mông Dương

Đi ra khốn khổ trăm đường hỡi anh

Sớm đi manh áo còn lành

Tối về áo rách tan tành áo ơi” [18; tr. 220]

"Thuyền than lại đậu bến than

Thương anh đi lính cơ hàn nắng mưa

Thuyền than lại đậu bến chì

Anh bỏ đi lính lấy gì nuôi em" [18; tr. 220]

58

Đó còn là tiếng nói chua xót, ai oán:

"Sự đời ngẫm cũng lại hay

Không giữ được nước để Tây đóng đồn

Nghĩ ra trăm khéo nghìn khôn

Thuế đò, thuế bãi lại còn thuế thân

Lại còn thuế giậu, thuế thuyền

Lại còn bắt lính phu phen cả làng" [18; tr. 220]

Thực dân Pháp đã bắt nhân dân ta phải gánh chịu biết bao thứ thuế vô lý, nào là thuế

đò, thuế bãi, thuế giậu, thuế thuyền… Chưa bao giờ, số phận và tính mạng con người lại

nhỏ bé và mong manh đến thế. Người ở nhà thì khốn khổ với trăm thứ thuế, kẻ bị bắt đi

phu, đi lính thì muôn vàn nỗi nhọc nhằn, không biết có ngày trở lại hay không:

"Lính thì đi tít mù sương

Rừng xanh núi đỏ xót thương cũng đành

Phu thì chẳng thể trốn quanh

Lính đồn bắt đến sân đình quất roi

Xôn xao kẻ đứng người ngồi

Tây chọn đủ số rồi lôi xuống thuyền" [18; tr. 222]

Bởi vậy, bị bắt đi lính là nỗi kinh hoàng, là tiếng sét đánh ngang tai với mọi gia

đình làng chài:

"Đang khi vui vẻ gia đình

Bỗng đâu có giấy án binh gửi về

Trong giấy có mấy chữ đề

Tập trung binh sĩ xuống tàu đi ngay" [18; tr. 226]

Đọc ca dao, dân ca làng chài, ta như thấy tái hiện cả một miền kí ức đau thương,

tăm tối về những khổ đau, nhọc nhằn đồng bào ta phải gánh chịu trong cảnh nước mất

nhà tan. Chính trong hoàn cảnh ấy, những khúc hát đi lính được cất lên như một cứu

cánh tinh thần với ngư dân miền biển. Đó là hình ảnh người vợ giàu đức hi sinh, mỏi

mòn chờ đợi chồng đi chinh chiến:

"Trời ở có thấu chăng ta

Lấy chồng đi lính thật là gian truân

59

Mong chồng hết kể xa gần

Trèo non vượt bậc, nhọc nhằn quản bao

Đường cao núi dốc cũng trèo

Nằm sương gối đất mà theo với chồng

Trời ơi tôi không quản công

Mà trời lại phụ tấm lòng tôi nay

Bắt chồng tôi phải sang tây

Lấy ai trò chuyện đêm ngày sớm khuya…" [18; tr. 223]

Thế nhưng, trong những cay đắng, tủi hờn ấy, ta vẫn thấy những khúc hát đi

lính đậm chất nhân văn, nghĩa tình vợ chồng. Người ra đi không quên gửi gắm, dặn

dò người ở lại. Người ở lại một lòng một dạ chờ đợi người ra đi. Có lẽ vì thế mà

những khúc ca này buồn nhưng không thảm, bởi vượt qua tất cả những khó khăn, tai

ương của cuộc sống, tình cảm gia đình, tình nghĩa vợ chồng càng bền chặt, keo sơn.

"Anh đi ra chốn sa trường

Đã đi không chút nhớ thương tình nhà

Dặn em nuôi lấy mẹ già

Điều nặng tiếng nhẹ người ta chê cười" [18; tr. 225]

Hay:

"Vợ chồng đồng tịch đồng sàng

Anh tin ở nàng nuôi mẹ cho anh

Làm trai anh chẳng quản chi

Sống thác vậy thì phải trả ơn vua" [18; tr. 226]

Người vợ ở nhà cũng không quên nhắn gửi người đi xa tình yêu thương và nỗi

nhớ đong đầy:

"Em như cây quế vườn đào

Như loan với phượng xích vào một bên

Ba thu gửi một lời nguyền

Mong chàng thăm thẳm chẳng nên trách trời

Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi

Biết chàng có giữ được lời ấy chăng

… Gần nhau em vợ anh chồng

Đôi ta tựa gối loan bồng bên nhau

Có khi ăn một miếng trầu

Đôi ta trò chuyện bên nhau đêm ngày" [18; tr. 227]

60

2.3.3. Tâm sự của người phụ nữ qua khúc hát ru con

Làn điệu hát ru mỗi miền có khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một phong

thái là êm dịu, ngân nga và tiết tấu khá đơn giản. Nội dung của hát ru rất phong phú

và hầu như đều phù hợp với tâm hồn trẻ thơ: có thể là tâm tình của người bà, người

mẹ, người chị muốn giãi bày, tâm sự với đứa trẻ trong nôi; có thể là lời vỗ về, nâng

niu con trẻ; có thể là những cảnh vật xinh xinh, những con vật gần gũi với xóm làng

thân thuộc...

Cũng giống như dân ca nói chung, nhiều bài hát ru được lấy từ lời của ca dao.

Ngoài ra, những điệu hò, điệu lý đều có thể cất lên thành lời ru trầm bổng, dịu dàng.

Từ tuổi ấu thơ, không ai không thuộc nằm lòng lời ru này của mẹ: "Gió mùa thu mẹ

ru con ngủ/ Năm canh chầy thức đủ vừa năm/ hỡi chàng chàng ơi, hỡi người người

ơi!". Lời bài hát ru là nỗi niềm nhớ chồng da diết của người mẹ khi ru con; đồng thời

người mẹ muốn tâm tình, giãi bày cùng con trẻ. Nội dung bài hát ru có thể rộng hơn nhiều,

song bấy nhiêu tình cảm ấy cũng đủ làm lay động nỗi lòng con người muôn thuở.

Người dân làng chài cũng vậy, họ tiếp nối mạch nguồn ca dao dân ca của dân

tộc để viết lên những khúc hát ru con, ru em đầy cảm xúc nhưng cũng đậm đà văn

hóa vùng biển:

"À ơi…

Ru em em ngủ cho sâu

Mẹ cha chắn đọn còn lâu mới về

Con hồng, con tráp, con trê

Con bống, con bớp, chẳng chê con nào

Con mực vừa luộc vừa xào

Có con ghẹ lột cho vào nồi canh

Chín rồi chị gỡ em ăn

Có con cua gạch để dành bán rao

Cua ngon bán được tiền cao

Xin mẹ một hào mua kẹo em ăn" [18; tr. 238]

Cũng có bài hát ru thể hiện sự vỗ về của người phụ nữ, mong đứa trẻ chóng ngủ để

có thời gian đi làm, đi chợ. Cùng với sự mong mỏi ấy, bao giờ cũng kèm theo lời hứa dịu

dàng, trong sáng của người mẹ, người chị về những phần quà dành tặng con trẻ:

61

"À ơi… con ngủ cho ngoan

Mẹ đi bán cá kiếm quan tiền dài

Quan tiền mẹ xẻ làm hai

Nửa thì mua gạo, mua khoai, mua dầu

Nửa thì mua muối mua rau

Mua thêm dây cước lưỡi câu làm nghề

Còn tiền mua bánh đa kê

Mua kẹo lạc về cho cái ngủ ăn" [18; tr. 234]

Điệp khúc "À ơi…" lặp đi lặp lại đều đặn, da diết trong nhiều khúc ca đưa trẻ từ từ đi

vào giấc ngủ. Mỗi khúc ca là cả một câu chuyện về cuộc sống, cuộc mưu sinh của cha mẹ

chúng. Ở đó, mẹ chúng kể về những công việc thường nhật, kể về những mẻ cá tôm ngon

ngọt dành lại cho con và cả những tính toan, lo lắng cho cuộc sống bộn bề:

"Nửa đêm thức dậy trông trời

Ông sao bên Bắc đã rời sang Đông

Bốn bề lai láng mênh mông

Núi không ngọn gió, bể không bóng thuyền" [18; tr. 236]

"À ơi… Đêm qua sao gọi là đêm

Ruột xót như muối dạ mềm như dưa

Mong trời trời chẳng sáng cho

Mong nước nước cứ lững lờ chẳng lên…" [18; tr. 237]

Lời hát ru của người mẹ giống như dòng sữa mát trong đầu đời của con mình.

Cả tấm lòng người mẹ truyền qua giọng ru, qua nhịp đưa nôi đều đều, lặng lẽ nhưng

chan chứa bao niềm hạnh phúc, và cũng nhờ đó, đứa trẻ đi vào giấc ngủ rất sâu, rất

đỗi hồn nhiên.

Có thể thấy rằng, là một bộ phận nhỏ nhưng những khúc hát ru của ngư dân

miền biển không thể thiếu được trong ca dao dân ca làng chài, ngoài việc thể hiện

tình yêu thương của người mẹ đối với con cái, những khúc ca này còn chứa đựng cả

tình yêu đất nước, yêu biển đảo quê hương. Mỗi khúc hát đều lấp lánh tên núi, tên

sông, tên tôm, tên cá, những sản vật mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vịnh Hạ Long.

62

Tiểu kết chương 2

Ở chương hai, chúng tôi đã trình bày những đặc điểm cơ bản về mặt nội dung

của ca dao dân ca làng chài vịnh Hạ Long. Đó là tình yêu với biển, tình yêu nghề đi

biển; là những suy nghĩ về tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, những tâm tình đời

thường của người dân miền biển. Bên cạnh đó, ca dao dân ca làng chài còn tái hiện

đời sống văn hóa tinh thần mang đậm phong vị biển qua những khúc hát đám cưới

trên thuyền - nét nghệ thuật đặc sắc của thể loại hát giao duyên.

Có thể thấy rằng, hệ thống các bài ca ở các làng chài vịnh Hạ Long đã phản ánh

cuộc sống, sinh hoạt và tập quán của ngư dân nơi đây trong hàng trăm năm. Tìm hiểu

nội dung các bài ca này trên phương diện nội dung giúp chúng ta càng thấy rõ những

đặc trưng vùng miền và nét văn hóa truyền thống quý giá trong đời sống tinh thần của

ngư dân nơi đây. Những đặc trưng này thấm đẫm vào lối cảm, lối nghĩ của họ, khúc

xạ vào ca dao dân ca miền biển. Tìm đến với ca dao dân ca vùng biển Hạ Long chính

là tìm đến với đời sống của nhân dân lao động miền biển với tất cả sự mộc mạc, chất

phác vốn có trong cuộc sống của họ.

63

Chương 3

NGHỆ THUẬT CỦA CÁC BÀI CA DAO, DÂN CA Ở LÀNG CHÀI

VỊNH HẠ LONG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Ca dao, dân ca là nơi bộc lộ rõ nhất tâm hồn người lao động. Ý nghĩa cơ bản của

các bài ca là biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc của người bình dân. Những tư

tưởng, tình cảm và cảm xúc đó được thể hiện qua các phương thức nghệ thuật cụ thể như:

việc sử dụng các hình tượng nghệ thuật, ngôn từ, thể thơ, kết cấu... ở các bài hát dân gian.

Tìm hiểu hệ thống các bài ca ở làng chài vịnh Hạ Long là đi vào tìm hiểu cách thức biểu

đạt chung của các bài ca đó về cả mặt nội dung và nghệ thuật.

3.1. Biểu tượng

Hòa chung vào dòng chảy của văn học dân gian Việt Nam, ngư dân làng chài

vịnh Hạ Long đã tiếp thu và sử dụng những biểu tượng quen thuộc như “khăn”,

“nón”, “yếm”, “áo”... vào ca dao, dân ca. Thế nhưng, với những đặc trưng riêng có

của vùng trời nước Hạ Long, ngư dân nơi đây thổi vào những lời ca ấy phong vị đậm

đà của biển trời quê hương. Bởi vậy, dù viết về tình yêu biển, yêu nghề đi biển hay

tình yêu đôi lứa, ở ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long vẫn ẩn chứa những hình

ảnh thể hiện sự khoáng đạt, rộng mở trong tâm hồn người dân miền biển. Dòng

sông trong vắt lúc trôi nhẹ nhàng như dải lụa, lúc chảy xiết như vó ngựa, mang

theo những con thuyền căng cánh buồm nâu no gió hối hả ra biển cả và từ biển cả trở

về các bến đỗ.

Nối tiếp mạch nguồn của văn học dân gian truyền thống, ca dao, dân ca làng

chài sử dụng những hình ảnh đã trở thành biểu tượng quen thuộc của ca dao, dân ca

Việt Nam, đó là biểu tượng “chiếc nón”:

"Hỡi cô đội nón mới mua

Cho anh mượn tạm một mùa đi câu

Thầy mẹ có hỏi nón đâu

Nón đi qua cầu gió đánh xuống sông" [18; tr. 357]

64

Biểu tượng “chiếc khăn”:

“Khen ai khéo xé khăn vuông

Khéo đột chỉ trắng khéo luồn chỉ xanh

Bốn góc bốn chữ rành rành

Ỏ giữa con phượng đậu cành thêu hoa

Khăn này chính thực của ta

Từ khi em lấy xót xa trong lòng

Bao giờ nên đạo vợ chồng

Như cá gặp nước như rồng gặp mây [18; tr. 358]

Biểu tượng “chiếc yếm”:

"Lạ lùng em mới đến đây

Chàng mà hỏi yếm em rày xin thưa

Tơ này em rệt cũng vừa

Cổ yếm em thắt nhẫn thùa em khâu

Kim này em mua bên Tàu

Con tằm xe chỉ em khâu yếm này" [18; tr. 357]

Bên cạnh đó, ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long còn thể hiện những đặc sắc

riêng của đời sống và văn hóa miền biển thông qua các biểu tượng gắn liền với cuộc

sống mưu sinh và môi trường lao động của họ, đó là biểu tượng “biển”, “con

thuyền”, “cánh buồm”,… Đây là những hình ảnh ẩn dụ, là biểu tượng nhưng cũng rất

gần gũi, tự nhiên và chân thực như chính hơi thở của người dân vùng biển. Trong

khuôn khổ của luận văn, từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi chú trọng khai thác và phân

tích các biểu tượng mang tính đặc trưng làm toát lên đời sống vật chất và tinh thần

của người dân làng chài vịnh Hạ Long.

Phải thấu hiểu rằng, đối với ngư dân miền biển - những người mà cả cuộc đời

của họ, từ khi sinh ra, lớn lên, dựng vợ gả chồng, lao động sinh sống, rồi đến khi chết

đi cũng chính trên con thuyền đó mới có thể thấy được “con thuyền” là một biểu

tượng gần gũi nhưng thiêng liêng đến thế nào đối với ngư dân miền biển. Với họ, con

thuyền không chỉ đơn thuần là nơi trú ngụ, là phương tiện di chuyển và kiếm sống mà

65

đó còn là chốn thiêng liêng - là nơi lưu giữ những giá trị đời sống tinh thần quý báu

của người dân vùng biển.

Khảo sát hơn 700 đơn vị tác phẩm cho thấy, biểu tượng “ con thuyền” xuất hiện

338 lần. Tần suất xuất hiện của biểu tượng “ con thuyền” cho thấy hình ảnh này

dường như thường trực, ăn sâu vào lối cảm, lối nghĩ và gần gũi với người dân miền

biển như hơi thở vậy. Thật dễ dàng để tìm thấy những bài ca chứa đựng biểu tượng

“con thuyền” trong ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long.

Hình ảnh “con thuyền” là một vật thể sống động, biểu trưng cho nhân vật trữ

tình trong ca dao:

"Thuyền nào mà đến bến ta

Mua tơ mua lụa hay là mua duyên?

Thuyền quan thì đậu bến quan

Thuyền buôn thuyền bán đậu sang bến người" [18;r. 104]

“Thuyền ai đi mãi đằng sau

Đi chóng tôi đợi đi mau tôi chờ

Vừa đi vừa đợi vừa chờ

Sao đi chậm thế bao giờ gặp nhau” [18; tr. 103]

Hình ảnh “con thuyền” còn là biểu trưng cho những gì di động, không cố định

trong tình yêu:

“Anh đi thuyền ván không đi

Anh đi thuyền múng có khi lật thuyền

Lộn dầm thuyền phải chèo bơi

Sao anh chẳng quyết một nơi đậu thuyền” [18; tr. 133]

Con thuyền đã trở thành phương tiện để kết nối lứa đôi, để gói gửi tâm tình. Mỗi

con thuyền là một linh hồn, một thực thể sống không thể tách rời với người dân miền

biển. Trong đôi mắt của kẻ si tình, hình ảnh con thuyền lại càng trở nên lung linh

huyền ảo với những màu sắc vui tươi:

66

“Thuyền nào có lửa xanh xanh

Có trầu xin miếng hỡi anh lái thuyền

Thuyền nào có lửa vàng vàng

Có trầu xin miếng hỡi nàng trong mui” [18; tr. 103]

Cũng có khi hình ảnh “con thuyền” được sử dụng như một danh từ thể hiện sự

tôn trọng, ước ao về tình duyên đôi lứa của những chàng trai, cô gái miền biển:

“Ước gì lấy được con gái thuyền chài

Cá ăn cá để cá gài trên mui” [18; tr. 83]

“Ước gì lấy được con gái thuyền te

Ngày ăn cá dích đêm le cá mòi” [18; tr. 83]

Có khi lại là biểu tượng cho một cuộc tình tan vỡ:

“Ai làm cho nước chảy xuôi

Cho thuyền chèo ngược hai người xa nhau” [18; tr. 166]

Có lẽ, cần phải khẳng định lại một lần nữa, do đặc trưng sinh sống và lao động

trên biển cả mà người dân nơi đây có sự gắn bó máu thịt với con thuyền - phương tiện

mưu sinh và cũng là phương tiện kết giao tình cảm của họ. Trên hành trình lao động

của mình, con người vẫn không quên nhu cầu được trò chuyện, tâm sự và kết giao tình

cảm. Có lẽ vì thế mà con thuyền trở thành người bạn, người đồng hành tuyệt vời của họ

trên con đường kiếm tìm hạnh phúc lứa đôi.

Nếu mỗi vùng quê có một hình ảnh để thành biểu tượng của đất quê và hồn

người thì ở làng chài vịnh Hạ Long, bên cạnh biểu tượng “con thuyền”, có lẽ ấy chính

là cánh buồm “giương to như mảnh hồn làng”. Biểu tượng “cánh buồm” đã ăn sâu

vào máu thịt người dân quê. Mỗi con người khi cất tiếng khóc chào đời, lẫm chẫm

bước đi, gặp đất là gặp luôn cả cảnh buồm. Cánh buồm chính là biểu tượng của hồn

quên - nơi chào đón những đứa trẻ làng chài vào đời.

Là vùng sông nước cửa biển, đa số cư dân sống bằng nghề chài lưới. Từ đời nọ

sang đời kia, dòng sông đã nuôi lớn bao thế hệ người dân nơi đây. Cánh buồm và con

thuyền gắn bó vô cùng sâu sắc đối với cư dân. Cứ mỗi sớm mai trước cửa ngôi nhà

nhìn ra dòng sông, đã gặp ngợp ngàn những cánh buồm xuôi ngược. Buồm chạy vát,

67

buồm xoè vạt cánh tiên dạt dào sóng gió khiến con thuyền lao đi như không gì cản

nổi. Dân gian nói “làm ăn như thuyền được gió” là thế! Dưới cánh buồm rộn rã

những tiếng cười sảng khoái, những câu hát đối, những câu hò biển gọi bạn vọng

vang. Khi mất gió thì cánh buồm và con thuyền bỗng lặng lẽ, lững lờ soi bóng xuống

mặt sông, giữa sóng nước lơ thơ ve vuốt tận chân đê…

“Gió đông nam đang còn hây hẩy

Gió đông vàng lừng lẫy thuyền lên

Giong buồm từ vũng Cặp Tiên

Hôm nay Cặp Vấn tới miền Gãnh Dong

Xôn xao vợ vợ chồng chồng

Trở trời cá nổi cá dông áp bờ

Vui sao vui đến bất ngờ

Cá vào vỡ lưới phải chờ cá ra” [18; tr. 91]

Không biết từ bao giờ, cánh buồm và con thuyền đã đi vào tâm tư tình cảm của

những người dân miền biển nhẹ nhàng mà sâu sắc đến thế. Nó như những giấc mơ kỳ

lạ luôn gợi mở và hấp dẫn muốn khám phá những chân trời, những góc biển xa. Có lẽ

bởi vậy mà biểu tượng “cánh buồm” cũng là một hình ảnh quen thuộc, trở đi trở lại

nhiều lần trong ca dao, dân ca làng chài. Cánh buồm là biểu trưng cho sự căng tràn

nhựa sống, cho tâm hồn bay bổng, khoáng đạt của người dân miền biển:

“ Thuyền anh hai cột mười chằng

Anh đi một gió, một giăng anh về

Anh trục buồm lên được cơn gió thuận

Anh xổng lèo ra cho thuận cánh tiên” [18; tr. 96]

Cánh buồm là ruột thịt, là phần hồn của cư dân đi biển. Song hành với con

thuyền, cánh buồm cũng là biểu tượng vô cùng bay bổng và lãng mạn của tình yêu

đôi lứa. Đó là biểu trưng cho khát vọng tình yêu, tuổi trẻ, khát khao chinh phục

những miền đất mới:

“Yêu nhau chẳng quản giàu nghèo

Nát buồm cũng vượt, gẫy chèo cũng qua

Đôi ta chẳng ngại chi nghèo

Nước khe đổ xuống bọt bèo nổi lên” [18; tr. 115]

Cùng với biểu tượng “con thuyền”, “cánh buồm” cũng trở thành một biểu trưng

của tình yêu đôi lứa song hành trên con đường tình ái:

68

“Buồm duyên chạy với thuyền tình

Đi xuôi có mình, đi ngược có ta

Động trời gió táp mưa sa

Anh về bẻ lái em ra xuống buồm” [18; tr. 112]

Tình yêu quê hương đất nước, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên nhiên,

phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao chúng ta thấy

đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có thủy, sơn thủy hài

hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí

và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Đối với

người dân vịnh Hạ Long, môi trường sinh sống và lao động trữ tình nên thơ với bốn

bề biển cả mênh mông sóng nước đã thấm đẫm vào tâm hồn người dân biển.

“Biển” là biểu trưng của đất mẹ quê hương, biển hiện lên trong niềm tự hào của

những người con vùng biển:

“Cái Rồng đẹp lắm ai ơi

Biển phơi cát trắng, núi phơi dáng rồng” [18; tr. 66]

“Ai về Trà Cổ mà chơi

Biển phơi nước biếc, bãi phơi cát mềm” [18; tr. 66]

“Biển” trở thành một chứng nhân cho tình yêu đôi lứa:

“Ngồi buồn ra biển em trông

Biển thì thấy biển mà không thấy người” [18; tr. 129]

Đọc ca dao dân ca làng chài vịnh Hạ Long mới thấy, mỗi khúc ca đều mang đậm hơi

thở của biển cả, biển hiện hữu trong từng mạch nguồn cảm xúc; song không phải khi nào

người dân chài cũng nhắc đến biển, có khi họ gọi đó là “non xanh nước biếc”, có khi là

“một màu nước non”, là “thuyền soi bóng núi, núi soi bóng thuyên”... Dù gọi bằng cách

nào, ấy vẫn là “biển”, là tình yêu ngàn đời của ngư dân nơi đây.

“Đông Vang, Trà Bản mình ơi

Trên rừng dưới biển xanh tươi một màu

Dù ai đi đâu về đâu

Nhớ về vui thú, một màu nước non” [18; tr. 71]

69

Hay như:

“Bên non bên nước một màu

Núi non xanh lá, nước màu thiên thanh

Rồng chầu chín khúc vòng quanh

Vẽ ra một áng nước xanh Cái Rồng” [18; tr. 82]

Là một vịnh nhỏ, bộ phận của vịnh Bắc Bộ, vùng biển Hạ Long chứa đựng

nhiều hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học, trữ lượng hải sản lớn. Vùng Vịnh thích

hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt,

diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải

sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại.

Do đó, nói về biểu tượng về “biển”, không thể không nhắc đến những sản vật

tuyệt vời trong lòng đại dương mà thiên nhiên đã ban tặng cho vịnh Hạ Long, đó là

những loài sinh vật biển cực kì đa dạng và phong phú. Chính những đặc trưng riêng

có của mỗi loại cá tôm đã trở thành hình ảnh ẩn dụ đắt giá cho ca dao làng chài vịnh

Hạ Long khi thể hiện tình yêu biển, yêu nghề biển, khi giãi bày tình yêu đôi lứa và cả

sự sắc sảo tinh tế qua những khúc ca trào lộng...

Người dân chài dùng hình ảnh cá tôm khi nói về chuyện tình cảm, những thề

non hẹn biển:

“Trăm năm một cuộc tình duyên

Phải đâu thăm ván bán thuyền cho qua

Một lời đã nói cùng ta

Phải đâu bãi sú vào ra trăm đường

Đã thương thì một lòng thương

Đừng như tép lẫn vãi đường vịt ăn” [18; tr. 180]

Hình ảnh “Dã tràng” cũng được sử dụng như một biểu tượng cho sự chờ đợi

mỏi mòn và thất vọng trong tình yêu:

“Nhọc lòng em lắm con dã tràng ơi

Mình se lên cát sóng vùi lại tan

Tiếc công cuốc đất đào hầm

Thuyền mình không đỗ, đỗ lầm thuyền ai” [18; tr. 166]

70

Khi nói về những ước mong trong tình duyên, người dân chài cũng khéo léo đưa

cuộc sống lao động của mình với những sản vật của biển cả như một chiếc cầu nối

tình yêu. Một cách diễn đạt vừa chân thật, vừa hóm hỉnh nhưng cũng thật tinh tế:

“Từ ngày anh biết đi ngòi

Anh bắt con bớp em moi cua càng

Đậu thuyền vừa lúc chợ đông

Con cua ba đồng, giỏ bớp bán cân

Tiền này anh tích lại dần

Tiền cua tiền bớp sang xuân cưới mình” [18; tr. 147]

“Năm đồng một chục cá mòi

Bên đấy chẳng hát thì lòi xương ra

Năm đồng một chục cá chua

Bên ấy chẳng hát thì thua bên này” [18; tr. 98]

Bên cạnh những bài ca ca ngợi tình yêu quê hương biển đảo, tình yêu đôi lứa, ca

dao làng chài cũng có không ít những bài ca mang tính trào lộng để vui cười hoặc lên

án những thói hư tật xấu trong cuộc sống. Khi ấy, những đặc trưng của các sinh vật

biển được khai thác và sử dụng hết sức tinh tế và đắt giá:

“Chồng em giống hệt con sam

Bám vào lưng vợ, vợ làm cho ăn” [18; tr. 183]

“Đẹp giai cho gái phải lòng

Xấu như con bạch tuộc, nó chửi cả thằng ông con bà” [18; tr. 185]

Có thể thấy rằng, ở ca dao làng chài còn rất nhiều hình ảnh mang tính biểu

tượng, đó là hình ảnh “non xanh”, “núi biếc”, là “nắng vàng”, “cát trắng”... Song,

chúng tôi chú trọng khai thác những hình ảnh mang tính chất biểu tượng, là đặc trưng

của một nền văn hóa chài lưới ven biển, những hình ảnh này đã gắn bó và có sức

sống lâu bền trong đời sống văn hóa và tinh thần của họ.

3.2. Thể thơ

Trong những tác phẩm thơ ca dân gian, ca dao được sáng tác ở nhiều hình thức

thơ khác nhau: song thất, song thất lục bát, bốn chữ, hỗn hợp, tuy nhiên được vận

71

dụng phổ biến hơn cả là thể lục bát. Điều này thật dễ hiểu vì thơ lục bát là “những lời

nói vần” gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, dễ nhớ, dễ thuộc. Cũng vì ca dao

trữ tình phần lớn làm ra để hát nên nó cần được thể hiện ở những thể thức giàu nhạc

tính. Đó là lý do vì sao ta thường thấy ca dao trữ tình có những hình thức này.

3.2.1. Thể thơ lục bát

Thể thơ truyền thống của các bài ca mà dân chài trên vịnh Hạ Long thường sử

dụng là thể thơ lục bát chính thể. Thể lục bát trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm

tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những

suy nghĩ về cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn

biến tình cảm trữ tình phong phú.

Các tác phẩm ca dao được làm theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt và

nhiều vẻ nhất trong dân ca, trong những giai điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển.

Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Có

thể thấy lục bát mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với những yếu tố đặc

thù về tổ chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu trong hình thức tối thiểu là

một cặp lục bát gồm 2 câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát).

Phương thức gieo vần 6-8 là thao tác đặc biệt tạo nên được vẻ nhịp nhàng trong ngôn

ngữ thơ, là phương tiện tổ chức văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển nhạc tính để

hình thành nên những âm hưởng nhiều mầu sắc vang vọng trong thơ. Nhịp điệu thơ

lục bát về cơ bản là nhịp chẵn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 diễn tả những tình cảm thương

yêu, buồn đau…

“Thuyền nào/ có lửa xanh xanh

Có trầu xin miếng/ hỡi anh lái thuyền” [18; tr. 101]

“Bao giờ/cho bướm/nguôi hoa

Cho tằm/nguôi kén/thì ta nguôi mình” [18; tr. 124]

“Ngồi buồn/ra biển/em trông

Biền thì thấy biển/mà không thấy người” [18; tr. 129]

“Trông chàng/như cá/trông sao

Như mận trông đào/như nắng trông mưa” [18; tr. 123]

72

Đây là cách ngắt nhịp thông thường tạo nhịp điệu cho câu ca dao khiến cho nó

trở nên dễ nghe, dễ nhớ, đặc biệt là dễ diễn xướng.

Nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay

tâm trạng bất thường, bất định thì có thể ngắt dịp khác hoặc chuyển sang những dạng

biến thể của thể thơ lục bát:

“Có chồng/ thì mặc có chồng

Có con mặc lòng/ta nhớ nghĩa nhau” [18; tr. 147]

Có thể hiểu lục bát biến thể là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng

không khít khịt trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết, về vị trí hiệp

vần. Không hẳn lục bát chỉ có tăng số tiếng, câu nói có thể ngắn gọn, xúc tích hơn

cũng có thể nhờ vào câu lục biến thể giảm số tiếng. Loại biến thể này tạo cho lời ca

như những câu châm ngôn, có lời như một câu tục ngữ. Lời thơ xúc tích, hàm nghĩa

mang tính triết lý nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về những vấn đề cuộc sống, sinh

hoạt, tình yêu.

Cũng có khi câu lục lại biến thể để diễn đạt đủ đầy những tâm tình người dân

miền biển:

“Nước trong/ em cũng muốn gánh/ em đổ vào chum

Hoa thơm muốn bẻ một chùm cầm tay

Thuyền còn đi lại bến này

Thế nào rồi cũng có ngày cùng nhau” [18; tr. 135]

“Con tôi đi kiếm về đây

Có cho nó gọi bằng thầy thì cho

Mau mau tôi chạy xuống đò

Mua bánh/ mua trái/ mua chả mua giò/ anh ăn” [18; tr. 211]

Hay:

“Vợ anh là chúa Nam Tào

Mười lần đóng cửa/ em cũng đạp vào/ em chơi” [18; tr. 187]

Mang những đặc trưng chung của kiểu câu lục và câu bát biến thể và có những

đặc điểm như câu suy luận nhiều vế, câu kết hợp nhiều kiểu câu, khuôn lục bát không

rõ ràng, câu nặng tính khẩu ngữ, thường là câu dồn chứa nhiều thông tin, ranh giới

câu lục thường xâm lấn câu bát hoặc ranh giới chức năng của hai câu không rõ ràng

nhằm diễn đạt hết những suy nghĩ, tình cảm của người bình dân.

73

Khảo sát 720 bài ca, có 66 câu thơ lục bát biến thể. Hiện tượng này diễn ra khá

phổ biến trong ca dao làng chài vịnh Hạ Long, đặc biệt là những bài ca diễn tả tâm

trạng nhân vật trữ tình, những bài ca hát đố, hát giảng, thử tài, thử tình. Có lẽ do ảnh

hưởng từ điều kiện thực tế trong quá trình diễn xướng mà khi biển động, sóng dữ dội

nhịp hát, câu hát có thể bị biến đổi khác với lúc mặt nước phẳng lặng, mái chèo nhẹ

buông. Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy, về cơ bản thể thơ lục

bát vẫn là thể thơ chính được tác giả dân gian sử dụng. Tuy vậy cũng có lúc câu lục

tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp

vần… đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm

ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù

phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát về cơ bản vẫn giữ nguyên.

Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.

3.2.2. Thể hỗn hợp

Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục bát rất phổ biến trong ca dao;

thể song thất lục bát được sử dụng không nhiều; thể vãn thường gồm một câu có 4

hoặc 5 chữ, rất đắc dụng trong đồng dao. Ngoài ra, ca dao cũng sử dụng hợp thể là

thể thơ gồm từ 4, 5 chữ thường kết hợp với lục bát biến thể. Do thói quen diễn xướng

mà khi sáng tác thơ ca dân gian, những người dân chài đã sáng tạo ra thể thơ chỉ có

ba dòng, mỗi dòng bốn, năm chữ:

“Dặn nàng nàng chẳng có nghe

Đã chót lời thề đâu đến hoàng thiên

Đã chót lời nguyền đôi ta dan díu

Ơ! Trên mạn hồng

Đố ai lấy được hoa sung

Trên đời lắm kẻ anh hùng thuyền quyên” [18; tr. 211]

Những câu thơ có bốn, năm chữ thường diễn tả những tình cảm trái ngang,

không như ý muốn. Đặc biệt, thường được sử dụng một cách linh hoạt trong hoạt

động diễn xướng của người dân chài.

Có khi, thể thơ này được dùng trong các khúc hát thử tài:

“Bằng cái đòn gánh

Lóng lánh qua sông” [18; tr. 300]

74

Hát đố:

“Cái gì thì chát?

Cái gì thì hồng?

Cái gì đậu ở dưới sông?

Cái gì trên đồng?...” [18; tr. 301]

Hát giảng:

“- Miếng trầu thì chát

Miếng vôi thì nồng

Thuyền bè đậu ở dưới sông

Mạ lúa trên đồng...” [18; tr. 301]

Có khi được ngư dân làng chài vận dụng trong những khúc hát thử tài về mùa,

về thời tiết:

“Đất thấp giời cao

Ngọn đèn sáng tỏ hơn sao trên trời

... Đôi lứa chúng ta

Thế là đôi lứa chúng ta ở đời” [18; tr. 304]

Hay:

“Anh bước ra đi

Bây giờ anh bước ra đi

Giời kia em họa đất thì phần anh” [18; tr. 341]

“ Tứ đức tam tòng

Kể từ tứ đức tam tòng

Họa cây cổ thụ đổ dòng chàng nghe” [18; tr. 342]

Nói tóm lại, đặc trưng thể thơ trong ca dao suy cho cùng là diễn đạt tâm trạng

nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Tùy theo cảm xúc, cung bậc mà chọn lựa một thể

thơ phù hợp. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày

tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể

thơ chủ yếu của ca dao làng chài vẫn là thể lục bát. Vì thể thơ này có khả năng diễn

đạc tất thảy những cung bậc cảm xúc mà những con người thấp cổ bé họng không

biết chia sẻ cùng ai. Tuy nhiên, các tác giả dân gian cũng biết lựa chọn và vận dụng

75

một cách sáng tạo thể thơ này dễ diễn tả một cách chân thực nhất những cung bậc

cảm xúc, những trúc trắc trong tâm trạng con người.

3.3. Kết cấu

3.3.1. Kết cấu đối đáp

Chu Xuân Diên cho rằng đa số các bài ca dao được kết cấu theo lối đối thoại,

chủ yếu là đối thoại một vế, đối thoại hai vế cũng thấy trong một số bài: “Đó là kết

quả của một kiểu cấu tứ đặc biệt của ca dao - dân ca trữ tình…Cách cấu tứ gần như

là chung cho tất cả những câu ca dao, những bài dân ca cổ truyền ấy không phải

ngẫu nhiên mà có, nó phản ánh những điều kiện thực tế trong quan hệ nam nữ ở

nông thôn Việt Nam trước đây” [12; tr. 485, 486]. Theo ông, “dù là lời của một hay

hai người (một vế hay cả hai vế đối đáp), dù bóng gió, xa gần, ví von đến đâu, qua lời

dân ca trữ tình thường thấp thoáng bóng dáng hai nhân vật đang nói chuyện với

nhau” [12, tr.191]. Ông cho rằng mọi thái độ đối thoại đều có trong ca dao và tạo nên

những kiểu cấu tứ đặc biệt: “Kêu gọi thẳng hay bóng gió... Khuyên bảo nhau, răn

nhủ và truyền kinh nghiệm sống cho nhau” [12; tr.192]. Nguồn gốc sinh ra lối đối

đáp từ cuộc sống lao động tập thể, từ cách sinh hoạt thơ ca tập thể, từ yêu cầu trao đổi

tâm tình bằng miệng, bằng một lối nói chuyện và thổ lộ tâm tình thực sự qua thơ ca.

Ca dao trữ tình được sáng tác một phần lớn do nhu cầu hát xướng đối đáp nam

nữ, do đó nhiều bài được làm dưới hình thức đối đáp là điều dễ hiểu. Và hình thức

này đã trở thành thông dụng khiến nhiều bài ca dao dù không được làm ra để hát

xướng đối đáp nhưng vẫn có hình thức đối đáp.

Không gian diễn xướng của cuộc hát rất rộng mở, thường diễn ra trên biển, giữa

các thuyền với nhau, với lối hát mềm mại, chậm rãi pha chút mênh mang, trữ tình.

Thuyền này hát gọi, thuyền kia trả lời. Có khi chỉ cùng một luồng lạch khi đi hành

nghề, vừa chèo vừa hát. Cuộc hát tự phát lúc đầu chỉ là từ hai con thuyền, sau xúm lại

thành từng nhóm thuyền, bên nam, bên nữ hát hỏi thăm, ngỏ lời trao duyên, rồi thử

tài, thử tình, cuộc hát càng về khuya càng tha thiết đắm say. Nhưng không phải chỉ có

vậy, những khi động biển động trời, từng cụm thuyền nép vào bóng núi tránh giông

tránh gió, những khi thủy triều xuống trăng lên, nhất là những đêm trăng sáng, đánh

cá không được, thuyền đành neo lại chờ nước, chờ cái. Rồi những ngày con nước

kém, những khi vào chợ bán cá, mua hàng, những ngày giỗ tết sum họp họ hàng, bè

76

bạn, thuyền bên thuyền, neo lại gần nhau. Thuyền này xin lửa, thuyền kia mời trầu và

tiếng hát lại cất lên. Những cuộc hát đối ấy người ta gọi là hát ví, hát véo hay hát gái,

cũng có khi gọi là hát đố, hát giảng, hát hò biển.

Đối với hát đúm, lời hát phải trong sáng và có hàm lượng tri thức nhất định.

Mỗi người đi hát phải “thủ” cả “một bụng” những câu hát để mong đối lại phía bên

kia. Vì thế, có khi cuộc hát kéo dài rất lâu. Đầu và giữa các canh hát, người ta mời

nhau ăn trầu, cuối canh hát lại tặng nhau những vật phẩm làm tin. Thế nên rốt cuộc

cũng chẳng ai sợ chuyện được thua trong canh hát. Bởi vì, đôi khi thua đấy nhưng

cũng là được: “Thua thì trao lại nón ô/ Được thì ta muốn cả ô lẫn người”. Nhiều

đôi nam thanh nữ tú đã nên vợ thành chồng nhờ những canh hát được - thua ấy.

Hát chèo đường là lời hát giao lưu tìm bạn khi nghỉ ngơi, lao động, hay đang di

chuyển. Những lời hát đối đáp được cất lên hết sức tự nhiên giữa vùng biển trời non

xanh Hạ Long. Hát chèo đường chính là lối hát giao duyên như hát đúm. Mở đầu là

các câu ơ... hò... cao vút, ngân nga, rồi luyến láy liên tiếp, cho ta cảm giác như nhấn

một nhịp chèo trong không gian tĩnh lặng của trời nước.

Người tham dự những cuộc hát đối đáp, ngoài vấn đề phải thuộc lòng nhiều bài

ca truyền thống với đủ thể loại, đủ cách điệu, đủ thuật ngữ... để có vốn văn liệu mà

dùng, còn phải là người có kiến thức phổ thông khá, lại vừa thông minh nhạy cảm,

vừa có tài ứng đối lanh lợi, có thế mới mong đối đáp kịp thời những câu hát đố khó

hay những câu hát xướng mắc mỏ đang sôi nổi diễn ra trong buổi hát. Đặc biệt, kết

cấu đối đáp được thể hiện ở mức độ nghệ thuật cao nhất trong hát cưới trên thuyền.

Cô gái hỏi chàng trai:

"Đến đây em hỏi thật chàng

Còn không hay đã có vàng cầm tay

Có vàng nói thật em hay

Để em chờ đợi lâu ngày luống công" [18; tr. 268]

Chàng trai đáp:

"Nào anh đã có cùng ai

Thì anh đã chẳng trúc mai làm gì" [18; tr. 268]

77

Chàng trai bắt chuyện:

"Anh là khách lạ ngoài tàu

Thuận buồn xuôi gió anh vào tới đây

Anh là khách lạ cung mây

Thuận buồm xuôi gió tới đây thăm nàng" [18; tr. 259]

Cô gái ngại ngùng đáp trả:

"Bây giờ biết hát làm sao

Thôi em cũng sẽ hát chào một câu

Em chào ông trước, bà sau

Thuyền tình đến bến Trần - Châu đó rồi" [18; tr. 260]

Có thể thấy rằng, ca dao dân ca vùng biển thường thiên về lối hát mềm mại,

chậm rãi, pha chút mênh mang, trữ tình như thể trải lòng mình với sóng nước mênh

mông. Lối hát đối đáp được thể hiện một cách mềm mại, duyên dáng:

“Thuyền nào mà véo mà von

Trời còn chưa tối, đầu non trăng mờ

Có lòng thì đợi thì chờ

Có lòng nhớ bến, thương bờ thì neo” [18; tr. 262]

Khi cô gái đã hát mở lời “bật đèn xanh” như vậy thì chàng trai cũng mạnh dạn

đáp lời:

“Thuyền anh đã thả neo rồi

Thương bờ, thương bến, đứng ngồi không yên

Vì tình, vì nghĩa, vì duyên

Ước gì chung một mạn thuyền đêm nay”. [18; tr. 268]

Lý giải về lối đối đáp ân tình, mượt mà này, nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài cho

rằng chính không gian sống đã tạo nên sự mượt mà của dân ca vùng biển.Ở Quảng

Ninh nói chung và Hạ Long nói riêng có nhiều không gian vịnh kín, ít sóng gió. Ngư

dân cứ đời nối đời lênh đênh trên những con thuyền nhỏ, mỗi con thuyền là một ngôi

nhà, là một không gian sống cách biệt. Lời ca tiếng hát là phương cách để họ xích lại

gần nhau.

“Trước kia hai đứa ở nhà

Thuyền em mở rộng, anh đà sang chơi

78

Ngả nghiêng, em nói em cười

Anh hút thuốc lá, anh ngồi tựa lưng

Anh đây là khách trong rừng

Nên chưa được hát ở trong thuyền này

Tiếng chào tay nắm chặt tay

Duyên tơ đôi lứa để say đắm lòng” [18; tr. 274]

Cũng là lối hát đối đáp, nhưng có khi lại chỉ thấy một vế câu hỏi của nhân vật

trữ tình:

"Thuyền nào đốt lửa xanh xanh

Có giầu xin miếng, hỡi anh lái thuyền" [18; tr. 101]

Trong đối thoại trực tiếp, nói thẳng ra nhiều khi rất khó nói, thậm chí có thể

thành vô duyên, sỗ sàng. Đối thoại trực tiếp trong ca dao khiến người hát dùng

cách nói gián tiếp, bóng gió. Hoàn cảnh đối đáp sẽ “nói thay”, sẽ giải thích cụ thể

cách nói đó.

3.3.2. Kết cấu trần thuật

Cùng với kết cấu đối đáp, kết cấu trần thuật được sử dụng phổ biến trong ca dao

làng chài vịnh Hạ Long khi họ giãi bầy những tình cảm, cảm xúc, khi họ kể về hành

trình lao động của mình sau những chuyến đi xã, khi họ trao truyền lại những kinh

nghiệm quý báu cho các thế hệ con cháu...

Đó là sự giãy bày tình cảm của đôi lứa yêu nhau:

“Nhớ nàng từ bữa cơm ăn

Nhớ từ nàng đội cái khăn trên đầu

Nhớ từ cái lược chải đầu

Nhớ từ nàng nhổ nước trầu nàng ơi” [18; tr. 245]

“Thuyền chạy em chẳng vui lòng

Thuyền mà đỗ bến vui trong dạ này” [18; tr. 102]

“Thuyền đã đến bến, bến ơi

Cắm sào cho chặt lên chơi ăn trầu

Thuyền đến bến chẳng lên chơi

Để em vặt ngọn mồng tơi bắc cầu” [18; tr. 102]

79

Là tâm sự khốn cùng của những con người phải sống trong cảnh nước mất

nhà tan:

“Chả đi chả biết Mông Dương

Đi ra khốn khổ trăm đường hỡi anh

Sớm đi manh áo còn lành

Tối về áo rách tan tành áo ơi” [18; tr. 220]

"Trời ở có thấu chăng ta

Lấy chồng đi lính thật là gian truân

Mong chồng hết kể xa gần

Trèo non vượt bậc, nhọc nhằn quản bao

Đường cao núi dốc cũng trèo

Nằm sương gối đất mà theo với chồng” [18; tr. 223]

Kết cấu một vế hay độc thoại trong ca dao là câu chuyện, tâm tình, là ngôn ngữ

của nhân vật trữ tình nói về tình cảm, về cảnh ngộ, số phận, nỗi niềm của mình. Hình

thức độc thoại là hình thức tự nhiên nhất của sự biểu hiện những suy nghĩ, tình cảm

của nhân vật, rất phổ biến trong ca dao. Tất nhiên, trong bài ca độc thoại, ta vẫn thấy

thấp thoáng bóng dáng của nhân vật đối thoại (thiên nhiên, con người) qua lời hô gọi,

lời nhắn gửi. Và do vậy, trong độc thoại đã có đối thoại (với thiên nhiên, với người

khác hay với chính bản thân của nhân vật trữ tình). Kết cấu một vế (độc thoại) thường

xuất hiện nhiều hơn trong bài ca về tình cảm gia đình và bài ca về các mối quan hệ xã

hội. Các biện pháp tu từ đã tạo ra các sắc thái biểu đạt tinh vi, đa dạng trong nội dung

thể hiện.

Cũng có khi, trong những đêm thanh vắng, chèo thuyền một mình, quãng

đường dài... người dân chài buông những lời hò tự sự, vừa là đánh tiếng, vừa cho đỡ

buồn, đỡ đơn độc thậm chí đỡ buồn ngủ. Hò biển thích hợp hơn cả với đặc trưng

dân chài vịnh Hạ Long, khi mỗi gia đình, mỗi người là một chiếc thuyền trên sông

nước mênh mông, tiếng hò vang ngân dài ẩn giấu lời tỏ tình bóng bẩy. Nếu hợp

cảnh, hợp tình thì hát hỏi, hát đáp, thử tài thử tình nhau cho đến trắng đêm. Chính vì

vậy hát giao duyên trên biển bao giờ cũng là điệu hát say đắm nhất. Nó càng say

đắm hơn khi người dân chài chỉ quen nhau, thân thiết với nhau, nên vợ nên chồng

với nhau qua giọng hò câu hát.

80

3.4. Ngôn ngữ và biện pháp tu từ

3.4.1. Ngôn ngữ

Được sản sinh ra từ trong môi trường diễn xướng qua những buổi lao động, sinh

hoạt văn hóa cộng đồng trên đồng ruộng bãi lúa ven sông, những buổi hội làng... tính

ngẫu hứng đầy thẩm mỹ của ca dao thực sự chỉ được thể hiện trọn vẹn khi được đưa

vào môi trường sinh hoạt diễn xướng dân ca. Nếu sinh hoạt diễn xướng dân ca đã

thực sự mang lại cho lời ca dao một dáng vẻ mới sinh động phong phú hơn giá trị

diễn tả nội dung đạt đến độ nghệ thuật cao hơn thì ngôn ngữ ca dao trong sinh hoạt

diễn xướng dân ca với sự cộng hưởng của các yếu tố nghệ thuật dân gian luôn toả

sáng làm cơ sở trực tiếp cho những giai điệu dân ca đậm đà hương đồng gió nội.

Ngôn ngữ của ca dao, dân ca làng chài sử dụng kết hợp cả ngôn ngữ thơ và

ngôn ngữ đời thường, chứa đựng cả tính dân tộc và tính địa phương. Nguồn gốc dân

dã thể hiện bản chất bình dị chất phác hồn nhiên và tâm hồn khoáng đạt, rộng mở của

người dân miền biển quen “Ăn sóng nói gió”.

Ngôn ngữ mộc mạc giản dị khiến những lời thơ trong ca dao dường như trở nên

lung linh đằm thắm hơn thể hiện đậm nét những giá trị nghệ thuật truyền thống. Thể

thơ lục bát được vận dụng linh hoạt và nhiều vẻ nhất trong dân ca trong những giai

điệu ngâm ngợi ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng

biệt về âm luật của thể loại thơ này.

Ca dao, dân ca làng chài với yếu tố biển đậm nét thường sử dụng các từ ngữ

thuần Việt mang tính khẩu ngữ, các từ địa phương xuất hiện trong lời ăn tiếng nói

hàng ngày.

“Một mình một chiếc thuyền te

Chân giậm xuống mấp tay đè đòn cang

Từ ngày anh phải lòng nàng

Mấp thì để đó đòn cang rụng rời” [18, tr. 140].

Có thể thấy, việc sử dụng những từ thuần Việt mang tính khẩu ngữ, tính địa

phương được sản sinh trong quá trình sinh sống, lao động sản xuất thể hiện những

đặc trưng văn hóa và nghề nghiệp riêng của người dân chài lưới. Đồng thời, những

lớp từ ngữ này cũng phần nào tái hiện lại đời sống văn hóa, tinh thần của ngư dân nơi

đây với nét chất phác, giản dị, chan hòa với thiên nhiên.

81

Bên cạnh đó, ca dao, dân ca làng chài cũng vận dụng một cách linh hoạt các từ

ngữ hán việt vào trong các khúc ca nghi lễ, những khúc hát đố, hát giảng, hát thử tài

thử tình để thể hiện sự trang trọng và vốn kiến thức hiểu biết về vạn vật. Đó phần nào

thể hiện sự bác học trong văn hóa bình dân của ngư dân làng chài được phản ánh qua

ca dao dân ca.

“Tiếng đồn anh khóa học tài

Nhất nhân địch vạn nào ai hả chàng?

Ai mà phóng lửa tam giang

Ai mà cầu gió ở đàn thất tinh” [18; tr. 328]

Trong hát giao duyên, ca từ có nội dung phong phú, như một kho tàng về tập

quán và lễ hội của cư dân sông nước. Sắc thái biểu cảm của lời ca cũng đa dạng với

nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, khi kín đáo, e ấp, khi giận hờn, ghen tuông.

Người hát như thể trải lòng mình với sóng nước mênh mông, hát để kết bạn, hát kết

duyên vợ chồng.

Lời ca của hát giao duyên chính là các câu ca dao. Các câu hát giao duyên, hò

biển thường là các câu ca dao theo thể thơ lục bát, tạo vần nhịp cho tiếng hát thêm du

dương. Các câu từ của hát giao duyên cũng rất giản dị, gần gũi với cuộc sống người

dân chài. Lời lẽ của ca dao vùng vịnh là ngôn ngữ dân gian phong phú, uyển chuyển

được vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sắc sảo, tinh tế với đủ các thủ pháp ẩn dụ,

khoa trương, các cách vận dụng âm điệu, tiết tấu. Đó chính là nét đặc điểm quen

thuộc của ca dao, dân ca Việt Nam.

Căn cứ vào giai điệu và bối cảnh diễn xướng, các nhà nghiên cứu văn hóa

dân gian đã chia hát giao duyên thành ba loại: hát đúm, hát chèo đường và hát

cưới trên thuyền.

Đối với hát đúm còn có tên gọi dân dã khác là hát ghẹo, hát giai gái. Giống như

nhiều điệu hát giao duyên khác, hát đúm bắt buộc phải qua các trình tự hát chào, hát hỏi,

hát tìm, hát gặp. Cái hay của hát đúm chủ yếu được thể hiện trong ý tứ, lời ca. Đó chính

là những bài ca dao thể thơ lục bát, chủ đề về tình yêu nam nữ với sự ứng biến nhanh

nhạy để có thể đối đáp, đề hoạ. Tuy nhiên, người hát cũng phải thuộc các bài bản có sẵn

do truyền khẩu và luật chơi, trong khi hát có thể sáng tạo thêm các ca khúc mới.

82

Nếu như hát đúm ưa lối hát chậm rãi song cụ thể, nhiều khi quyết liệt bạn hát

chưa đáp được nhất quyết chưa được về hoặc nếu tan cuộc cũng phải để lại vật làm

tin thì hát hò biển lại thịnh tính mềm mại, sâu lắng. Hò biển còn gọi là hát chèo

thuyền, hát chèo đường, hát ví, hát véo... Về lời ca, hát chèo đường cũng chính là lối

hát giao duyên như hát đúm. Về âm điệu, hò biển có âm điệu của giọng hò miền

Trung, nhưng mềm mại, chậm rãi, trữ tình, sâu lắng hơn. Mở đầu là các câu ơ... hò...

cao vút, ngân nga, rồi luyến láy liên tiếp, cho ta cảm giác như nhấn một nhịp chèo

trong không gian tĩnh lặng của trời nước.

Hát cưới trên thuyền thì lại khác hơn cả, ở đây có chút gì đó mang tính hình

thức, giống như một tục lệ, nghi thức phải có khi rước dâu về nhà. Lời hát chủ yếu là

để dành chúc mừng đôi vợ chồng trẻ và cũng là cơ hội giao lưu kết bạn của hai bên

thông gia trai gái. Lời của hát giao duyên là các câu ca dao theo thể thơ lục bát, tạo

vần nhịp cho tiếng hát thêm du dương. Ngôn từ giản dị, gần gũi với cuộc sống người

dân chài. Lời lẽ của ca dao vùng vịnh là ngôn ngữ dân gian phong phú, uyển chuyển

được vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sắc sảo, tinh tế với đủ các thủ pháp ẩn dụ,

khoa trương, các cách vận dụng âm điệu, tiết tấu.

3.4.2. Biện pháp tu từ

Biện pháp tu từ mà ca dao, dân ca thường xuyên sử dụng là so sánh (còn gọi là

tỉ dụ). Sự đối chiếu sự vật này với sự vật khác dựa trên những đặc điểm giống nhau

nào đó giữa hai sự vật nhằm tạo nên những hình ảnh nghệ thuật mới mẻ tạo những

cảm xúc thẩm mỹ cho người nghe, người đọc. Ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long

sử dụng biện pháp so sánh để bộc lộ những tình cảm trong sáng, cao đẹp hay những

trạng thái cảm xúc của nhân vật trữ tình:

“Đôi ta như gạo mới vo

Như đũa mới vót không so cũng bằng

Đôi ta như đũa đòng đòng

Như đôi đũa ngọc so trong mâm vàng” [18; tr. 254]

Tình cảm lứa đôi khi thì được so sánh với những hình ảnh gần gũi, giản dị, khi

lại được ví von với những hình ảnh quý giá mỹ miều trong đời sống. Có thể thấy, nhờ

có so sánh mà cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình được bộc lộ cụ thể hơn, dễ

hiểu hơn.

83

“Anh đã có vợ có con

Như sông nước chảy, ai còn bạo men

Ngày nào yên trống lắng kèn

Thì em mới dám bạo men tới gần" [18; tr. 270]

Bên cạnh so sánh, nhân hóa cũng là một biện pháp nghệ thuật thường gặp trong

ca dao, dân ca, hình ảnh thuyền và buồm trở thành một cặp đôi song hành đầy sức gợi

cảm khi diễn đạt tình yêu đôi lứa:

“Buồm duyên chạy với thuyền tình

Đi xuôi có mình đi ngược có ta

Lênh đênh một chiếc thuyền hoa

Đi xuôi về ngược có ta có mình” [18; tr. 112]

Nhờ biện pháp nhân hóa, những sự vật vô tri vô giác trở nên có tình có nghĩa. Tình

nghĩa ấy cũng chính là tình nghĩa của con người được giãi bày, bộc lộ trong ca dao.

Cùng với so sánh, nhân hóa, ẩn dụ cũng được sử dụng thường xuyên. Ẩn dụ là

phép so sánh ngầm, so sánh gián tiếp. Biện pháp này làm cho bài ca dao được rút

ngắn và do đó trở nên hàm súc, cô đọng hơn.

Nhiều hình ảnh ẩn dụ được dùng nhiều lần trở thành quen thuộc và dần dần trở

thành những hình tượng mang tính ước lệ, tượng trưng cao như thuyền - bến, mận -

đào, trúc - mai...

“Thuyền đã đến bến anh ơi

Cắm sào cho chặt lên chơi ăn trầu” [18; tr. 102]

“Ra về ước mận với đào

Ước mai với trúc ngày nào hợp duyên” [18; tr.366]

Ngoài những biện pháp tu từ trên, ca dao làng chài còn sử dụng biện pháp lặp,

lặp từ ngữ và lặp cấu trúc. Việc lặp lại một số từ ngữ hay cấu trúc nào đó trong nhiều

bài ca dao đã tô đậm thêm chủ đề và làm tăng thêm sức biểu hiện. Chẳng hạn, trong

bài ca dao sau đây, cấu trúc và các từ ngữ ‘Nhớ... ” được lặp lại nhiều lần:

“Nhớ nàng từ bữa cơm ăn

Nhớ từ nàng đội cái khăn trên đầu

Nhớ từ cái lược chải đầu

Nhớ từ nàng nhổ nước trầu nàng ơi” [18; tr. 245]

84

Việc lặp lại như vậy đã đem lại giá trị biểu hiện đáng kể. Nó đã thể hiện được

nỗi nhớ thường trực, cháy bỏng của chàng trai luôn muốn được gần gũi bên cạnh

người yêu, thỏa nỗi nhớ niềm thương mà chàng dành cho người yêu.

Trên đây chính là những biện pháp nghệ thuật cơ bản được sử dụng trong ca dao

dân ca làng chài vịnh Hạ Long.

Tiểu kết chương 3

Việc phân tích nghệ thuật của các bài ca dao dân ca làng chài vịnh Hạ Long từ

góc nhìn văn hóa không chỉ giúp chúng ta thấy được những nét đặc trưng nghệ thuật

của hệ thống các bài ca này mà còn hiểu rõ hơn về thế giới khách quan được “khúc

xạ” qua cái nhìn chủ quan của tác giả dân gian từ góc nhìn văn hóa. Qua đó, người

đọc thấy được những nét đặc sắc và riêng có của biểu tượng nghệ thuật, thể thơ, kết

cấu cũng như hoạt động diễn xướng, khắc họa rõ nét hơn diện mạo đời sống tinh thần

của ngư dân vạn chài qua mỗi bài ca dao, dân ca.

Đặc biệt, có thể thấy trong ca dao dân ca làng chài vịnh Hạ Long ẩn chứa những

giá trị nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hóa biển, đó là những khúc hát giao duyên được

sản sinh trong đời sống thường nhật, trong lễ hội, cưới hỏi rất có giá trị, cần được gìn

giữ và phát triển. Lời hát của người dân chài có giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật đặc sắc,

tiết tấu chậm rãi, âm vực thấp, ai cũng có thể hát được. Được nghe những lời hát giữa

vịnh Hạ Long, người ta mới thấm thía nét đẹp trong tâm hồn người dân vạn chài. Họ

không chỉ là những con người của biển cả quen “Ăn sóng nói gió” mà còn có đời

sống nội tâm nhẹ nhàng, sâu lắng, ngọt ngào và tình tứ.

85

KẾT LUẬN

Hệ thống các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long được hình thành và

phát triển gắn liền với đời sống vật chất và tình thần của các thế hệ ngư dân nơi đây

suốt mấy thế kỉ qua. Nó là hoa trái tinh thần của vùng đai biển trù phú, là một thể loại

lớn tương đối ổn định, phản ánh trọn vẹn về vùng đất và con người nơi đây. Qua việc

khảo sát, phân tích đặc điểm nội dung và nghệ thuật của ca dao dân ca làng chài vịnh

Hạ Long từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Ở vịnh Hạ Long có một cộng đồng khá đặc biệt, họ có đời sống văn hoá

hoà quyện với thiên nhiên, phản chiếu vào ca dao, dân ca - một giá trị văn hóa đặc

hữu của dân chài nơi đây. Hệ thống các bài ca ở làng chài vịnh Hạ Long là những lời

ca ngọt ngào, đằm thắm, tinh tế thấm đẫm nét đẹp của người dân chài, mang đậm bản

sắc vùng biển đảo mà không một nơi nào khác có được.

2. Về nội dung, các bài ca ở các làng chài vịnh Hạ Long phản ánh cuộc sống,

sinh hoạt và tập quán của ngư dân nơi đây trong hàng trăm năm. Đó là suy nghĩ, mơ

ước về những mẻ lưới nặng cá trong mỗi chuyến ra khơi của các làng nghề, là tình

yêu với biển, tình yêu nghề đi biển; là tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng và những

tâm tình đời thường của họ. Ở mỗi khúc ca, bài ca, tình yêu biển đảo, quê hương vẫn

luôn thấp thoáng, hiện hữu trong tình yêu đôi lứa, trong những tâm tình đời thường.

Đó là chính là niềm vui, niềm tự hào mãnh liệt về cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, về

biển đảo quê hương tươi đẹp. Không chỉ vậy, ca dao, dân ca làng chài còn tái hiện đời

sống văn hóa, tinh thần mang đậm phong vị biển mà đỉnh cao là hát đám cưới trên

thuyền - một loại hình nghệ thuật độc đáo, là nghi lễ văn hóa nhưng cũng chính là

cuộc sống, hơi thở của người miền biển thổi vào đó. Hiện nay, những đặc trưng của

thể loại hát giao duyên này vẫn được thể hiện đậm đặc và rõ nét trong đời sống của

ngư dân làng chài Cửa Vạn (vịnh Hạ Long) - một địa danh đã được quan tâm phục

dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian của ngư dân làng chài nơi đây.

3. Về mặt nghệ thuật, ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long sử dụng hai kiểu

kết cấu nổi bật là kết cấu đối đáp và kết cấu trần thuật với các biện pháp tu từ quen

thuộc của ca dao dân ca như: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp cấu trúc... Ngôn

ngữ đời thường mộc mạc, phóng khoáng, mang đậm đặc trưng miền biển. Thể thơ lục

86

bát truyền thống của dân tộc được sử dụng với mức độ cao, trong đó, đáng chú ý là

những câu ca, bài ca lục bát biến thể được sản sinh trong quá trình diễn xướng trên

biển. Xuất phát từ điều kiện lao động và diễn xướng thực tế, mỗi khi mặt nước phẳng

lặng, yên ả, câu hát dàn trải, mênh mang, lúc biển động, sóng dữ thì câu ca lại ngắn

gọn, dứt khoát. Bởi vậy, có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá

khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần… đã phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường.

Bên cạnh đó, là vùng sông nước cửa biển, ngư dân quanh năm sống bằng nghề chài

lưới. Hình ảnh “biển cả”, “cánh buồm” và “con thuyền” đã đi sâu vào tiềm thức và

trở thành biểu tượng nghệ thuật trở đi trở lại trong nhiều bài ca dao, dân ca làng chài

vịnh Hạ Long. Nếu “biển cả” gắn bó máu thịt với ngư dân như là quê hương, thì

“con thuyền”, “cánh buồm” chính là linh hồn của quê hương - nơi thâu góp những

giá trị văn hóa của đời sống miền biển.

4. Trên cơ sở vận dụng kiến thức ngôn ngữ và văn hóa học vào việc nghiên cứu

ca dao dân ca vùng miền, thông qua việc sưu tầm, tìm hiểu và nghiên cứu về hệ thống

các bài ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long, luận văn đã làm sống lại hiện thực

khách quan về cuộc sống và tâm tư, tình cảm của người dân chài trong các bài ca. Từ

đó góp phần kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng, đóng góp thêm một cách tiếp cận về ca

dao, dân ca dưới góc nhìn văn hóa, giúp cho việc phân tích và giảng dạy các tác phẩm

văn học dân gian trong nhà trường phổ thông có cơ sở và có sức thuyết phục hơn.

Do điều kiện phạm vi, giới hạn nghiên cứu, đề tài mới chỉ khảo sát các bài ca

dao, dân ca làng chài dưới góc nhìn văn hóa. Để có cái nhìn xuyên suốt, tổng thể và

toàn diện về hệ thống các bài ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long, sẽ phải có một

công trình với quy mô lớn hơn.

Góc nhìn văn hóa - xét ở phương diện tiếp cận đề tài mới chỉ là một trong những

cách tiếp cận ca dao, dân ca. Để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về ca dao, dân ca

làng chài vịnh Hạ Long cần tiếp cận đa chiều từ nhiều góc nhìn khác như: xã hội học,

tâm lý học, lịch sử học, địa lý học… Đây là một “mảnh đất” có sức hút lớn đối với

việc nghiên cứu hệ thống các bài ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long - một mảng

đề tài phong phú, hấp dẫn đối với rất nhiều bạn đọc yêu thích thể loại ca dao, dân ca

truyền thống vùng miền.

87

Tìm hiểu đề tài “Ca dao, dân ca ở làng chài vịnh Hạ Long từ góc nhìn văn

hóa” là tìm hiểu cái chung và cái riêng của các bài ca nơi đây so với các bài ca ở các

vùng miền khác của đất nước. Cái chung và cái riêng ấy được quy định bởi những

đặc điểm địa lý, lịch sử, xã hội, văn hóa và con người... Dù có những điểm khác

nhưng về cơ bản, hệ thống các bài ca ở làng chài vịnh Hạ Long vẫn nằm trong dòng

chảy chung của ca dao, dân ca dân tộc. Vì thế, sưu tầm, nghiên cứu các bài ca ở làng

chài vịnh Hạ Long là góp phần trực tiếp vào việc nghiên cứu văn hóa dân gian, đóng

góp vào kho tàng các bài ca dân gian đậm hương sắc vùng biển Quảng Ninh.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (1990), Về một phương diện nghệ thuật của thơ ca tình yêu, Tạp chí

văn học, số 6.

2. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt giản yếu từ điển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (biên soạn), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Ban quản lý vịnh Hạ Long (2010), Làng chài Cửa Vạn - một nét văn hóa vịnh Hạ

Long, Quảng Ninh.

6. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học Văn hóa, Nxb Viện Văn hóa và Nhà xuất bản

Văn hóa - Thông tin

7. Mai Ngọc Chừ (1991), Ngôn ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

8. Mai Ngọc Chừ (Chủ biên) (1998), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Việt Chương (2003), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, quyển Thượng

và quyển Hạ, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai.

10. Lê Văn Chưởng (2004), Dân ca Việt Nam - Những thành tố của chính thể nguyên

hợp, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

11. Chu Xuân Diên (1973), Các thể loại trữ tình dân gian, trong: Đinh Gia Khánh - Chu

Xuân Diên, Văn học dân gian, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

12. Chu Xuân Diên (2008), Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao”, Tạp chí

Ngôn ngữ số 4.

14. Cao Huy Đỉnh (2000), Ca dao Việt Nam và những lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

16. Vũ Thị Gái (2007), Ca dao dân ca vùng biển Quảng Ninh, Sở văn hóa thông tin.

17. Nguyễn Thiện Giáp (2001), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Tống Khắc Hài (2016), Ca dao dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long, Nxb Văn

hóa dân gian, Hà Nội.

19. Lê Bá Hán (Chủ biên), (1999) , Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội.

89

20. Nguyễn Thái Hòa, Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Phạm Văn Học (2016), Một số loại hình ca dao, dân ca ở Quảng Ninh, Nxb Lao

động, Hà Nội.

22. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Xuân Kính (1982), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật Chủ biên (2001), Kho tàng ca dao người

Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

25. Hoàng Long (2016), “Người đi gom những câu ca trên vịnh Hạ Long”, trang Văn

hóa đất và người Quảng Ninh - báo điện tử Quảng Ninh.

26. Đặng Văn Lung (1986), Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Nxb Văn

học, Hà Nội.

27. Nguyễn Bích Ngọc (2017), luận văn thạc sỹ “Nhân vật và đối tượng trữ tình

trong ca dao Quảng Ninh”, Trường ĐHKH Thái Nguyên.

28. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

29. Nhiều tác giả (1991), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

30. Nhiều tác giả (1996), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

32. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

33. Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (2015), Ngữ văn 7, Nxb Giáo dục.

34. Nguyễn Hồng Phong (2001), Địa chí Quảng Ninh, Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ninh, Quảng Ninh.

35. Nguyễn Hằng Phương (2011), “Ca dao cổ truyền người Việt với tính mơ hồ đa

nghĩa”, Tạp chí dạy và học ngày nay, Số 4.

36. Sở văn hóa, thể thao và du lịch Quảng Ninh (2007), “Hát giao duyên của ngư dân

làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long”, dự án: “Phục dựng, bảo tồn và phát huy

một số sinh hoạt VHDG của dân làng chài Cửa Vạn ”.

37. Sở văn hóa, thể thao và du lịch Quảng Ninh (2009), “Hát đám cưới (hát đón dâu)

trên thuyền của ngư dân làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long”, dự án: “Phục

dựng, bảo tồn và phát huy một số sinh hoạt VHDG của dân làng chài Cửa Vạn ”.

90

38. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh

40. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,

Nxb Khoa học.

41. Đỗ Bình Trị (2001), Những đặc điểm thi pháp của thể loại văn học dân gian, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

42. Vũ Ánh Tuyết (2016), đề tài: Nâng cao hiểu biết của học sinh về ca dao, dân ca

dân chài trên vịnh Hạ Long.

43. Hoàng Tiến Tựu (1996), Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam (Tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Viện Văn học (2007), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Trần Quốc Vượng, Chu Xuân Diên, Nguyễn Xuân Kính (2000), Một thế kỉ sưu

tầm, nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội.

47. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

48. Phạm Thu Yến (2000), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

91

PHỤ LỤC:

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DIỄN XƯỚNG CA DAO, DÂN CA

Ở LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG

Ảnh 1: Tài liệu (Video) về hát giao duyên và hát đám cưới do Ban Quản lý vịnh Hạ Long cung cấp

Ảnh 2: Cảnh hát giao duyên trên biển (Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 3: Nam nữ đối đáp trong canh hát giao duyên

(Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 4: Một cảnh lưu luyến phút chia xa (Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 5: Cảnh hát giã bạn trên thuyền (Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 6: Ông bù đa (ông mối) - một nhân vật quan trọng trong đám cưới

(Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 7: Cảnh hát mở ngõ cheo trong hát cưới trên thuyền (Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)

Ảnh 8: Cảnh hát mở ngõ hoa trong hát cưới trên thuyền (Ảnh do Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh cung cấp)