BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hồ Thị Xuyến
CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hồ Thị Xuyến
CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn :
T.S TRẦN MINH HƯỜNG
Thành Phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình khoa học trên là của riêng tôi. Các kết quả đưa ra trong
luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn
Hồ Thị Xuyến
1
LỜI CẢM ƠN
Để có được những thành quả như ngày hôm nay, tôi thành thật cảm ơn những người
đã tận tình giúp đỡ tôi.
Đặc biệt để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ dạy tận tình của thầy
Trần Minh Hường. Thầy đã giúp tôi định hướng, hướng dẫn cách trình bày cũng như chỉ
dạy thêm nhiều vấn đề khác trong quá trình hoàn thiện luận văn.
Bên cạnh đó, tôi cũng chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã
cung cấp những kiến thức bổ ích để tôi có thể hoàn thành tốt khóa học và bài viết của mình.
Ngoài ra, tôi cũng xin cảm ơn đến Ban Giám Hiệu nhà trường, đến Phòng khoa học
công nghệ và Sau Đại học đã tạo điều kiện tốt nhất để cho tôi có thể hoàn thành luận văn
này.
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014 Hồ Thị Xuyến
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 12
7. Bố cục luận văn ............................................................................................................. 12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .............. 13
1.1. Vài nét về vùng đất và con người Nam Bộ .............................................................. 13
1.1.1. Lược sử vùng đất .................................................................................................. 13
1.1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng đất Nam Bộ ..................................... 15
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản văn hóa Nam Bộ ............................................................ 18
1.2. Khái quát về cá sấu trong văn hóa dân gian ........................................................... 23
1.2.1. Vài nét về cá sấu trong văn hóa thế giới ............................................................... 23
1.2.2. Cá sấu trong văn hóa dân gian Việt Nam ............................................................. 26
1.3. Giới thuyết thêm về tình hình tư liệu ....................................................................... 31
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN NAM BỘ ............................................................................................................................... 33
2.1. Đặc điểm về hình dáng, tên gọi ................................................................................. 33
2.2. Cá sấu – quái vật ăn thịt người ................................................................................ 40
2.3. Cá sấu – đối tượng bị con người chinh phục, tiêu diệt ........................................... 46
2.4. Cá sấu – con vật có nghĩa .......................................................................................... 58
2.5. Cá sấu – con vật vong ơn bội nghĩa .......................................................................... 63
CHƯƠNG 3: NHỮNG MOTIF CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA HÌNH TƯỢNG CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN NAM BỘ ....................................... 69
3.1. Một số motif cơ bản trong truyện kể dân gian về cá sấu ở Nam Bộ ..................... 69
3.1.1. Motif Sấu ăn thịt người và vật nuôi ...................................................................... 69
3.1.2. Motif tiêu diệt cá sấu ............................................................................................ 70
3.1.3. Motif sấu cứu giúp người...................................................................................... 71
3
3.2. Ý nghĩa của truyện kể dân gian về cá sấu ở Nam Bộ ............................................. 73
3.2.1. Truyện dân gian về cá sấu phản ánh vẻ hoang vu của thiên nhiên và quá trình chinh phục của người dân Nam Bộ thời mở cõi ............................................................. 73
3.2.2. Truyện kể dân gian về cá sấu góp phần thể hiện những tính cách đặc trưng của người dân Nam Bộ .......................................................................................................... 82
3.2.3. Truyện kể dân gian về cá sấu góp phần giải thích những địa danh và phản ánh tâm thức văn hóa của người dân Nam Bộ ....................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 96
4
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện kể dân gian là một nguồn tài liệu vô cùng quan trọng trong kho tàng
văn học dân gian Việt Nam, phản ánh nhiều mặt của lịch sử, phong tục tập quán và
tín ngưỡng dân gian người Việt. Truyện kể dân gian đã có một tác động to lớn đến
nhận thức của con người, nó dẫn dắt người đọc bước chân vào cuộc hành trình tìm về
cội nguồn dân tộc, về hiện thực đấu tranh sinh tồn chống lại thiên tai cũng như các
thế lực thù địch để bảo vệ đất nước của cha ông ta thời cổ. Qua truyện kể ta thấy
được khát vọng yêu chuộng hòa bình, muốn chiến thắng ngoại xâm, đồng thời giúp ta
hiểu rõ hơn về những truyền thống văn hóa tốt đẹp của một đất nước ngàn năm văn
hiến.
Trong đó, truyện kể dân gian Nam Bộ là một kho tài liệu vô cùng quý giá, giúp
cho người đọc có thêm những hiểu biết về quá trình khẩn hoang lập ấp của ông cha ta
buổi ban đầu. Có thể thấy, từ buổi khai hoang lập ấp, những người dân Nam Bộ
không chỉ đối mặt với những khó khăn về vật chất mà còn phải đối mặt với thú dữ
tràn đầy. Chính trong điều kiện khó khăn ấy đã hun đúc nên tinh thần dũng cảm, gan
dạ cho con người Nam Bộ và cũng từ đó làm nền tảng cho những câu chuyện li kì về
quá trình chinh phục thiên nhiên xây dựng cuộc sống mới. Những câu chuyện đánh
cọp, đuổi sấu được dân gian ta truyền kể từ thế hệ này sang thế hệ khác như một minh
chứng cho quá trình khẩn hoang của mình. Và cũng từ đó đã để lại một ấn tượng sâu
sắc trong tâm thức của người dân Nam Bộ.
Ở Nam Bộ nói riêng và trên thế giới nói chung, Cá sấu là một con vật thiêng
được con người suy tôn. Có thể nói từ trong sâu thẳm tâm linh của người Việt ta đã
tôn sùng Cá sấu, khiến Cá sấu chi phối một cách mạnh mẽ trong tín ngưỡng dân gian.
Nhưng cho đến nay nhiều công trình mới chỉ nghiên cứu Cá sấu ở một mức độ nhất
định và rải rác trong một vài bài viết lẻ tẻ, tản mạn. Chưa có một công trình nào đi
sâu vào nghiên cứu Cá sấu một cách hệ thống và đầy đủ nhất về những biểu hiện và
giá trị của nó trong đời sống tinh thần của người Nam Bộ nói riêng và người Việt
5
Nam nói chung.
Cư dân Nam Bộ bao đời nay đã phải vất vả, gian lao trong công cuộc chinh
phục thiên nhiên, biến rừng hoang cỏ rậm thành đồng ruộng bao la thẳng cánh cò bay,
với vườn cây trái trĩu quả, tôm cá đầy sông... Đó là những con người dũng cảm, gan
dạ, dám xuống sông hốt trứng sấu, lên rừng xỉa răng cọp, chống lại rắn rít, muỗi
mòng, ma thiêng nước độc... Có thể thấy rõ điều này thông qua những câu chuyện kể
trong truyền thuyết. Truyền thuyết ở Nam Bộ tuy ra đời muộn nhưng phản ánh khá
đầy đủ quá trình chinh phục tự nhiên, đấu tranh xã hội của con người nơi đây. Trong
đó truyền thuyết về các anh hùng thời mở đất là một ví dụ điển hình. Đây là hệ thống
truyện kể đặc sắc nhất trong truyện kể dân gian góp phần biểu dương những nhân vật
anh hùng thời khai phá mà ký ức dân gian đã dành cho họ một tấm lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc.
Để sinh tồn, những lưu dân Nam Bộ ngoài việc phải chống lại thời tiết khắc
nghiệt, còn phải chống lại với rất nhiều ác thú. Trong các loài ác thú mà những lưu
dân thời khẩn hoang phải đương đầu và chống chọi với chúng nhiều nhất có lẽ là cọp
và sấu. Đây là hai loài vật nguy hiểm nhất và được truyền miệng trong dân gian qua
nhiều câu chuyện li ki nhất. Tìm hiểu về truyện kể dân gian Nam Bộ nói chung và
những câu chuyện kể về hình tượng Cá sấu nói riêng, tôi nhận thấy Cá sấu là một đối
tượng khá phổ biến và có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Đây được xem là loài
vật vừa có tính hung bạo vừa rất gần gũi với đời sống vùng sông nước của người dân
Nam Bộ. Cá sấu không chỉ mang những đặc điểm của một hình tượng nghệ thuật
trong tác phẩm văn học mà còn gợi nhắc chúng ta những điều về đời sống văn hóa,
tín ngưỡng về những cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với kẻ thù ngoại xâm của người
dân Nam Bộ trong công cuộc khai hoang lập ấp. Từ những lí do trên chúng tôi chọn
đề tài “Cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ” làm đề tài nghiên cứu của luận
văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như chúng tôi đã nói ở phần trên, cá sấu là một loài vật đã xuất hiện rất sớm
trong nền văn hóa con người. Trong văn hóa người Việt, cá sấu xuất hiện trên thạp
6
đồng Đào Thịnh và các di vật của nền văn hóa Đông Sơn khác.
Liên quan đến hình tượng này, chúng tôi tạm chia lịch sử nghiên cứu liên quan
đến đề tài ra làm hai vấn đề: Nghiên cứu về cá sấu trong văn hóa nói chung và nghiên
cứu về cá sấu trong truyện kể dân gian nói riêng.
2.1 Cá sấu trong văn hóa dân gian
Ở Việt Nam, cá sấu đi vào trong các câu chuyện dân gian mà hằng đêm, bà
thường kể cho cháu nghe. Cá sấu được ví với những kẻ tham lam, độc ác. Câu “nước
mắt cá sấu” - ám chỉ những kẻ vô lương tâm chỉ giỏi giả bộ, bắt nguồn từ đặc tính khi
ăn thịt con vật khác, nước mắt cá sấu lại lã chã rơi khóc cho con mồi.
Trong công trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, phần Tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên tác giả Trần Ngọc Thêm đã nhận định: “Chim, rắn, cá sấu là những loài động
vật phổ biến hơn cả ở vùng sông nước và, do vậy thuộc loại được sùng bái hàng đầu”.
Tác giả cho rằng, huyền thoại rồng tiên thì rồng được trừu tượng hóa từ hai loài bò
sát đó là rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng sông nước Đông Nam Á. Đó cũng là loài
vật biểu hiện của phương Nam và phương Đông trong ngũ hành [56, tr 135-143].
Thống nhất với quan điểm này, sau khi phân tích khá kỹ về sự hình thành của biểu
tượng Tiên – Rồng, tác giả Trần Minh Hường trong luận án của mình đã khẳng định
cơ sở để hình thành rồng Việt Nam là sự kết hợp giữa rắn và cá sấu: “sự kết hợp giữa
rắn và cá sấu để hình thành nên Rồng Việt Nam là phù hợp với điều kiện tự nhiên ẩm
ướt, nhiều sông ngòi (môi trường sinh sống của rắn và cá sấu)” [23, tr 12].
Trong bài viết Khái quát về văn hóa Việt Nam (Trích trên Báo VH – TT và
DL) cũng đã đề cập đến ngưỡng thờ cúng động vật của người Việt Nam ta. Về động
vật, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hóa du mục,
đặc biệt là thờ các loài vật phổ biến vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu.
Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng tên một
loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng là sự
trừu tượng hóa từ rắn và cá sấu). Rồng sinh ra từ nước và bay lên trời là biểu trưng
độc đáo cho ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thơ khi tìm hiểu về nguyên mẫu của rồng cũng cho
7
rằng: “Rồng hình thành từ sự kết hợp đa tài, dù vậy vẫn có thể nhận diện loài vật đặc
trưng nhất. Tiêu biểu có rồng rắn, rồng cá sấu, rồng cá, rồng ngựa, rồng hổ, rồng chó,
rồng chim, rồng thuồng luồng(giao long), rồng kì đà, rồng cáo,…” [58].
Tác giả Nguyễn Thanh Lợi có bài viết Sấu trong tâm thức dân gian của cư
dân Tây Nam Bộ, đăng trên www.vanhochoa.vn. Trong bài viết này tác giả đi sâu vào
tìm hiểu nguồn gốc tên gọi cũng như những ảnh hưởng của chúng trong tâm thức của
người dân Tây Nam Bộ nói riêng và các dân tộc khác trên thế giới nói chung. Với
mỗi một dân tộc, cá sấu có những vai trò riêng biệt trong đời sống tinh thần và trở
thành đối tượng thờ cúng [34].
Còn đối với tác giả Thái Phan với bài viết Huyền thoại về cá sấu vua trên đất
cảng đăng trên Báo Hải Phòng đã nhận định rằng, cá sấu là loài vật của huyền thoại,
truyền thuyết, thi ca và những câu chuyện kinh dị mà kể từ năm này qua năm khác,
đời này qua đời khác cũng chẳng hết.
Tìm hiểu về cá sấu ở Bến Tre, bằng việc trích dẫn các nguồn tư liệu của Trịnh
Hoài Đức (Gia định thành thông chí); Sơn Nam; Địa chí Bến Tre do người Pháp biên
soạn…. tác giả Thu Thảo một lần nữa khẳng định sự xuất hiện phổ biến của loài cá
sấu ở Bến Tre nói riêng và Nam Bộ nói chung. Điều này có lẽ không cần phải chứng
minh thêm nữa bởi điều kiện tự nhiên của Nam Bộ và câu ca dao Dưới sông sấu lội,
trên rừng cọp um đã nói lên tất cả [54].
Nhìn chung, cá sấu là một loài vật đã xuất hiện từ rất sớm và đồng hành với
văn hóa con người. Mỗi quốc gia, mỗi khu vực lãnh thổ, hình tượng cá sấu có thể có
những biểu trưng khác nhau, song điểm tương đồng lớn nhất của hình tượng loài vật
này là biểu trưng cho quái vật dưới nước; cõi âm ty; có mối liên hệ với nguồn nước
và các hiện tượng thời tiết báo mưa. Đây cũng là những nét tương đồng lớn của cá
sấu và rắn trong văn hóa dân gian nói chung.
2.2 Cá sấu trong truyện kể dân gian
Nam Bộ là vùng đất mới với đầy rẫy những khó khăn, thách thức mà những
con người nơi đây phải đối mặt. Trong những khó khăn của buổi đầu lập nghiệp thì
việc ứng phó với thú dữ hại người là một trong những việc làm được ưu tiên hàng
8
đầu. Có thể nói, chính vì những khó khăn ấy mà nguồn truyện dân gian về hai loài ác
thú cọp và sấu chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức dân gian của người Nam
Bộ, đặc biệt là loài cá sấu hung ác.
Có thể thấy một điều, sấu và cọp là hai loài vật hung ác được người dân phản
ánh một cách nhiều nhất, xét về số lượng thì nguồn truyện về cá sấu không phong
phú bằng truyện kể về cọp nhưng nó có một đóng góp quan trọng trong việc phản ánh
những khó khăn của những lưu dân Nam Bộ buổi đầu khai hoang, lập ấp. Qua việc
bắt sấu, diệt sấu cho ta thấy được sức mạnh tinh thần của những con người cần lao
nơi vùng đất mới.
Công trình Nghìn năm bia miệng (gồm có hai tập), do Huỳnh Ngọc Trảng và
Trương Ngọc Tưởng sưu tầm và biên soạn đã dành một sự quan tâm đặc biệt đến
nguồn truyện về cọp và cá sấu, trong đó có sáu truyện kể về cá sấu. Trong đó, tác giả
nhận định: “Truyện kể về thú dữ (cọp, rắn, cá sấu,....) có thể coi là một tập hợp truyện
đặc sắc chiếm giữ một vị trí lớn lao trong kí ức của người dân Nam Bộ” [66, tr 13].
Tác giả nhận định “Thú dữ là những thế lực cản trở công việc khẩn hoang và thường
xuyên gây hại cho con người. Do vậy những người lưu dân đến xứ này muốn tồn tại
và phát triển thì phải tìm cách đối phó (....). Nói chung, việc đấu tranh chống thú dữ
của người khai hoang là còn ở thế chưa ngang sức.....” [66, tr 15]
Tiếp cận đối tượng cá sấu từ góc độ truyện kể dân gian đáng chú ý có công
trình Truyện dân gian về sấu và cọp ở đồng bằng Sông Cửu long, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Cần Thơ, 2009 của Trương Thu Trang. Trong công trình này tác giả tiếp cận
tự đơn vị truyện, phạm vi đề tài cũng khá rộng, tác giả chỉ nhắc đến các truyện kể về
hổ và cá sấu trong mối quan hệ với việc chinh phục tự nhiên của người dân Nam Bộ
trong thời kỳ mở đất. Do vậy mà tính hình tượng sấu chưa được nghiên cứu một cách
chuyên biệt.
Ngoài những công trình trên, cho đến nay, chưa có một công trình nào tập
trung nghiên cứu về hình tượng cá sấu với tư cách là một hình tượng văn học. Trên
cơ sở kế thừa các ý kiến, quan điểm và những thành tựu của các công trình nghiên
cứu của các tác giả đi trước, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu hình tượng cá sấu
9
trong truyện kể dân gian Nam Bộ với những đặc điểm chuyên biệt và những ảnh
hưởng của nó đến cuộc sống của người dân trong quá trình khẩn hoang lập ấp. Từ đó
góp một nét nhìn hoàn thiện hơn về cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chọn Cá sấu và những biểu hiện của Cá sấu trong truyện kể dân gian
Nam Bộ làm đối tượng nghiên cứu.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu các truyện kể dân gian về cá sấu chủ yếu qua các công trình:
1. Nguyễn Trọng Báu - Thạch Xuân Mai (sưu tầm và biên soạn) (2009), Truyện
cổ Khơ me, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. Chu Xuân Diên (CB) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, Nxb Tp.HCM
3. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam Kỳ cố sự (Chuyện kể Nam Bộ), Nxb Đồng
Tháp.
4. Khoa Ngữ Văn, Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb GD.
5. Huỳnh Công Tín (chủ biên) (2006), Văn học dân gian An Giang, phần Truyện
kể dân gian, (tài liệu sưu tầm), Công trình NCKH cấp Tỉnh.
6. Nguyễn Phương Thảo (1994), Huyền thoại miệt vườn, Nxb VH – TT.
7. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khmer Nam Bộ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
8. Huỳnh Ngọc Trảng (1993), Nghìn năm bia miệng, Nxb Tp.HCM.
Ngoài ra, chúng tôi tiến hành sưu tầm, điền dã thêm một số truyện ở các địa
phương và tham khảo thêm những mẫu truyện ở các nguồn báo chí khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ nhằm:
- Thấy được sức ám ảnh của cá sấu trong văn hóa dân gian Nam Bộ, qua đó thấy
10
được lịch sử thời mở đất của những cư dân Nam Bộ trong buổi ban đầu; Nhận thức
một cách sâu sắc về những giá trị văn hóa dân gian của vùng đất Nam Bộ cũng như
hiểu thêm về tính cách, phong tục tập quán của con người nơi đây.
- Làm nổi bật những biểu hiện của hình tượng cá sấu trong các truyện kể dân gian
và sự biến đổi của loài vật này qua các thể loại khác.
- Thấy được sự sáng tạo độc đáo của người dân Nam Bộ trong việc phản ánh
những vấn đề về cuộc sống thông qua việc sử dụng cá sấu với tư cách là một hình
tượng nghệ thuật trong truyện kể.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề hoàn thành bài nghiên cứu này luận văn phải làm giải quyết các nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Khảo sát tất cả các truyện kể dân gian Nam Bộ có liên quan đến cá sấu.
- Tìm hiểu các dạng thức tồn tại và sức ám ảnh của cá sấu trong văn hóa dân gian.
- Phân tích các văn bản văn học (đơn vị truyện) để thấy được đặc điểm về nội
dung và nghệ thuật của cá sấu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng các phương
pháp và thao tác nghiên cứu sau
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Chúng tôi sử dụng phương pháp này với mục đích nhìn nhận đối tượng trong
mối liên hệ giữa văn học dân gian với văn hóa dân gian, lịch sử, dân tộc học nhằm
xem xét đối tượng một cách đa chiều, và trên nhiều phương diện khác nhau.
- Thao tác khảo sát, thống kê
Đây là phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, thống
kê các truyện cổ có chứa cá sấu và các nguồn tài liệu có liên quan.
11
- Thao tác so sánh, phân tích, tổng hợp
Đối chiếu một số truyện cổ của dân tộc Việt với một số dân tộc khác và trên
thế giới. Tiến hành mổ xẻ đối tượng để làm rõ vấn đề, sau đó tổng hợp, lý giải trên cơ
sở kết quả của so sánh phân tích.
6. Đóng góp của luận văn
Khi đi sâu vào nghiên cứu, người viết sẽ cố gắng trình bày một cách hệ thống và
bài bản nhất về những ý nghĩa đặc thù của cá sấu trong truyện cổ dân gian Nam Bộ.
Để từ đó mọi người có cái nhìn sâu sát hơn về cá sấu trong truyện cổ dân gian Nam
Bộ.
Nghiên cứu thành công, luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo tốt cho sinh viên
ngành Ngữ văn và những người yêu thích văn hóa Nam Bộ.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm của cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ
Chương 3: Những motif cơ bản và ý nghĩa của cá sấu trong truyện kể dân
12
gian Nam Bộ
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về vùng đất và con người Nam Bộ
1.1.1. Lược sử vùng đất
Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước lâu dài của dận tộc, lãnh thổ và biên
giới của nước Việt Nam ta ngày càng được củng cố và từ lâu đã trở thành thực thể
thống nhất từ Bắc chí Nam, trong đó có vùng đất Nam Bộ. Với truyền thống kiên
cường, bất khuất và tinh thần lao động cần cù của cả dân tộc, các thế hệ người Việt
Nam đã viết nên những trang sử hào hùng về quá trình dựng nước và giữ nước của
người dân Nam Bộ, góp phần làm nên những thành công rực rỡ cho nước nhà.
Mỗi một khu vực, một quốc gia, vùng miền… đều có lịch sử hình thành và
phát triển riêng. Vùng đất Nam Bộ của Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Tuy là một vùng đất mới, hình thành sau, nhưng với sự phát triển rất nhanh thì Nam
Bộ đã dần khẳng định được vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, khoa
học- kĩ thuật, giáo dục, y tế, cho đến văn hóa. Để hiểu thêm về vùng đất Nam Bộ,
chúng ta hãy cùng tìm hiểu về lịch sử hình thành của nó.
Theo Lược sử vùng đất Nam Bộ của GS. TSKH Vũ Minh Giang (Chủ biên),
từ thế kỉ I đến thế kỉ VII thì địa bàn Nam Bộ ngày nay thuộc Vương quốc Phù Nam
và cư dân Phù Nam – chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo. Phù Nam chịu ảnh hưởng của
văn hóa Ấn Độ và có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Mã Lai - Đa đảo [10, tr.13].
Phù Nam là một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay.
Cư dân của họ chủ yếu là người Mã Lai đa đảo, có truyền thống hàng hải và thương
nghiệp khá phát triển.
Vào thế kỉ V tại vùng nam Lào và Biển Hồ, một nhà nước mới được thành lập
là Chân Lạp. Cư dân là người Môn cổ và Khmer cổ. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề
nông. Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam.
Sau một thời kì phát triển rực rỡ, đến cuối thế kỉ thứ VI thì Vương quốc Phù
Nam bắt đầu quá trình tan rã. Lợi dụng thời cơ hiếm có này, Chân Lạp đã tấn công
13
Phù Nam và chiếm được một phần lãnh thổ - tương đương với vùng đất Nam Bộ
ngày nay. Sau khi chiếm xong, Chân Lạp đã đặt tên cho vùng đất mới này là Thủy
Chân Lạp để phân biệt với Lục Chân Lạp – nơi hình thành nhà nước Chân Lạp sơ
khai. Tuy nhiên việc cai quản vùng đất mới này đối với Chân Lạp là vô vàng khó
khăn bởi lúc bấy giờ dân số người Khmer rất ít mà quá trình khai khẩn lại cần nhiều
thời gian và sức lực. Cuối cùng việc cai quản vùng đất Thủy Chân Lạp được giao lại
cho vua và những người thuộc dòng dõi của Phù Nam đảm trách.
Chân Lạp tiếp thu văn hóa Phù Nam và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
giống như người Phù Nam. Lãnh thổ của Chân Lạp gồm hai phần – Lục Chân Lạp
thuộc địa phận Campuchia và Thủy Chân Lạp thuộc địa phận Nam Bộ ngày nay.
Từ thế kỉ VIII đến thế kỉ XII, vùng đất Thủy Chân Lạp bị bỏ hoang, không có
dấu vết của con người cư trú. Chu Đât Quan, một người Trung Quốc có dịp đến Chân
Lạp vào những năm 1926-1927, đã mô tả vùng đất Nam Bộ như sau: “Từ chỗ vào
Chân Bồ trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm
dặm, cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau trong đó...
Nhìn xa xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. vvv...”. Phải từ khoảng đầu thế kỉ XIII,
một số ít người Khmer đến đây sống theo từng nhóm nhỏ thì nơi này mới bắt đầu có
dấu vết của con người cư trú. Rồi đến thế kỉ XVI, XVII cư dân Việt mới từ Đàng
Trong, sau đó từ miền Trung rồi miền Bắc vào lập nghiệp ngày một đông tại Nam
Bộ. Như vậy, có thể kết luận người Việt đến Nam Bộ sau người Khmer vài thế kỉ [10,
tr.23 – 26].
Có nhiều người cho rằng: “Phù Nam và Chân Lạp thực chất là một”. Đó là một
ý kiến hoàn toàn sai, bởi Chân Lạp và Phù Nam là hai đất khác nhau, hai bộ phận dân
cư khác nhau và hai nền văn hóa khác nhau.
Nhắc đến lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ có hai mốc thời gian đáng nhớ,
đó là:
+ Năm 1698, Chúa Nguyễn cử lễ Thành Hầu là Nguyễn Hữu Cảnh vào nam
lập Phủ Gia Định, mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ
người dân lưu tán, thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt đất ruộng, khai hoang,…
14
[10, tr.31, 32].
+ Năm 1757, Việt Nam hình thành đến Mũi Cà Mau và được xác lập chính
thức chủ quyền. Điều này được công nhận qua nhiều văn bản có giá trị pháp lí quốc
tế như:
• Hiệp ước: 12/1845, 1846, 1862, 1874.
• Hiệp định : Giơ-ne-vơ – 1954 , Paris – 1973.
Và công khai hoang vùng đất Nam Bộ lớn nhất thuộc về người Việt chúng ta…
Nam Bộ đã được người Việt và các dân tộc bao đời khai phá, khẩn hoang, xây
dựng nên bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Đây không chỉ là vùng đất thiêng
liêng của tổ quốc, thuộc chủ quyền của đất nước mà còn là cả một lịch sử hào hùng.
Tác giả Nguyễn Chí Bền đã nhận xét: “Nam Bộ là vùng đất mới, với lịch sử
hơn 300 năm trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc. Các tộc người đang sinh sống ở
đây như Việt, Hoa, Chăm, Khmer v.v…, đều không phải là cư dân bản địa, nghĩa là
tổ tiên họ từng ở một vùng đất khác” [15, tr.28]. Chính vì điều kiện lịch sử hình thành
dân cư khác biệt đã tạo nên những điểm khác nhau về đặc trưng văn hóa giữa người
Việt đồng bằng Bắc bộ và người Việt vùng đồng bằng Nam Bộ. Sự khác biệt đó được
hình từ 2 yếu tố cơ bản: tác động của cảnh quan môi trường sống mới, cộng đồng dân
cư mới hình thành mang tính đa văn hóa. Là một bộ phận người Việt đồng bằng Nam
Bộ, người Việt vùng U Minh có những đặc tính chung và cũng có những đặc điểm
riêng do chịu tác động của môi trường sinh thái nơi sinh sống. Chính vì có sự khác
biệt đó đã hình thành cho những lưu dân Nam Bộ những nét tính cách khác biệt.
Người Nam Bộ có tính hiếu khách, tính bộc trực mạnh mẽ, hào phóng và đôn hậu.
Ngoài ra ở người Nam Bộ còn biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như: tính
nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị
lực. Đặc biệt, phụ nữ miền Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng mà lại khéo tay, chìu chuộng
nhưng đáng quý nhất là sự hy sinh cho chồng con, cho quê hương đất nước. Điều đó
được chứng minh suốt quá trình hơn 300 năm lịch sử của Nam Bộ.
1.1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng đất Nam Bộ
Nam Bộ hiện nay nếu tính theo độ cao của mặt biển thì có hai vùng: vùng cao
15
và vùng thấp. Còn tính theo hai dòng sông lớn chảy tràn vào, lại có khu vực Đông
Nam Bộ - trên sông Đồng Nai và khu vực Tây Nam Bộ gồm toàn bộ lưu vực sông
Cửu Long.
Lưng dựa vào những đồng bằng nhỏ hẹp và vùng núi non cực Nam Trung Bộ,
mặt ngạo nghễ hướng ra biển Đông, mảnh đất này cứ lấn dần ra biển. Vùng đất Nam
Bộ cứ thế mà tồn tại với bao tác động của thời tiết, khí hậu để kiến tạo nên địa hình
vùng đất với những nét đặc trưng riêng biệt của nó.
Trước khi người Việt đặt chân đến đây, vùng đất Nam Bộ hãy còn là một nơi
vô cùng hoang vu, hiểm trở.
Sử Trung Quốc còn ghi lại những ấn tượng của một vị quan đời Nguyên –
Châu Đạt Quan trong “Chân Lạp Phong thổ kí” để hình dung ra Nam Bộ ngày nào.
Từ góc nhìn của những chuyến thuyền rong ruổi ngược Cửu Long Giang, Nam Bộ
hiện ra với “những bụi mây dài, cây to, cát vàng, lau sậy trắng” ở hai bên bờ. Những
chòm cây rậm rạp của những khu rừng thấp làm chổ ấn nấp lí tưởng cho chim chóc
và muông thú. Cảnh tượng hoang dã ấy còn được chấm phá, điểm xuyết thêm hình
ảnh của hàng ngàn con trâu rừng họp thành từng bầy trên những cánh đồng cỏ bạt
ngàn.
Khác với vùng đất cao ráo, dễ làm ăn, nguồn lợi nhiều tôm cá ở biển hồ vùng
thượng lưu, Nam Bộ thưở ấy còn hoang vu lắm. Không mỏ vàng, mỏ bạc, không
nguồn khoáng sản, vùng đất cứ thế phơi ra sự hoang sơ, thâm u, nê địa của mình.
Những giồng đất cao ráo hiếm hoi ở cánh sông Tiền thì phần lớn đất đai vẫn
còn là rừng rậm với đầy thú dữ. Những vùng trũng gần sông Hậu thì quanh năm sình
lầy bùn đọng làm muỗi mòng, rắn rết sanh sôi, nảy nở. Nam Bộ có vùng toàn nước
mặn nước phèn, có vùng thì tràn trề nước ngọt, nơi ngập lụt, sình lầy quanh năm suốt
tháng, nơi cao ráo màu mỡ phì nhiêu, chỗ có thể canh tác ruộng vườn, chỗ thì toàn cỏ
lát, cỏ năn,... Từ đó có thể thấy được sự khắc nghiệt, hoang vu của vùng đất mới qua
câu chuyện kể hằng ngày của những người dân Nam Bộ. Vẻ hoang sơ, khắc nghiệt ấy
cũng được thể hiện khá đậm nét trong những bức tranh sinh động về sấu và cọp trong
16
truyện kể dân gian nơi này.
Khí hậu, thời tiết ở Nam Bộ cũng khác so với vùng Bắc Bộ. Trong Gia Định
thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có ghi chép: cuối mùa xuân mới bắt đầu mưa, đến
hè là mùa mưa, thu hay mưa rào, nhiều khi mưa to như trút nước nhưng chỉ một, hai
giờ thôi, ráo tạnh ngay, cũng có khi mưa dầm một hai ngày mà không có cái khổ liên
miên đến hàng tuần, hàng tháng”. Thiên tai tuy không hay xảy ra thường xuyên
nhưng cũng xảy ra nhiều năm và nhiều vùng làm cho đời sống của những lưu dân nơi
đây vô cùng khốn khổ. Ngập lụt, hạn hán thì đến theo chu kì. Nắng có lúc đổ sao,
mưa có khi thúi đất. Nên đôi khi sau những lúc nắng khô ruộng nẻ thì mưa giông kèm
sấm chớp dữ dội. Thiên nhiên nơi đây tha hồ “giương oai giễu võ”.
Cùng với bước chân khai hoang mở đất, từ nơi vùng cao đến vùng trũng thấp
đều được con người chinh phục. Thế là cùng với vùng đất “sông sâu nước chảy”,
“phù sa trầm trích” lâu năm tạo bùn cao, giồng đất đã mang đến cho Nam Bộ một
diện mạo mới. Những lưu dân xưa với sức mạnh của đôi bàn tay đã cải biến nơi đây
trở thành một vùng đất màu mỡ.
Hai hệ thống sông lớn nhất trong vùng là sông Đồng Nai và sông Cửu Long.
Ngược với dòng Sông Đồng Nai có lượng phù sa thấp, dòng sông Cửu Long có lượng
nước đổ về trung bình khoảng 4.000 tỷ mét khối và hàng năm vận chuyển khoảng
100 triệu tấn phù sa, giữ vai trò trọng đối cho đồng bằng sông Cửu Long có diện tích
39.734 km². Cho đến nay, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng đất thấp,
độ cao trung bình so với mặt biển chỉ vào khoảng 5 mét. Một số khu vực như tứ giác
Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và phía tây sông Hậu đang tồn tại ở mức thấp hơn
mặt biển, chính vì vậy mà hàng năm có tới 1 triệu ha bị ngâp nước mặn trong thời
gian từ 2 đến 4 tháng. Các nhà nghiên cứu lịch sử về vùng đất này cho rằng, cách đây
hàng triệu năm nơi này vốn là một vịnh lớn nhưng đã được bồi đắp dần bởi phù sa
của sông Cửu Long.
Nam Bộ nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và cận xích
đạo, nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và tổng
tích ôn cao. Biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp và ôn hòa. Độ ẩm
17
trung bình hàng năm khoảng từ 80 - 82%. Khí hậu hình thành trên hai mùa chủ yếu
quanh năm là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 tới tháng 4. Về mùa vụ sản xuất có khác với khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.
Xuất phát từ sự khắc nghiệt, hoang sơ nhưng cũng có phần trù phú, màu mỡ,
vùng đất Nam Bộ đã hình thành nên những nét khu biệt trong văn hóa của người Nam
Bộ. Chính điều này đã làm nên những nét khác biệt trong văn hóa ứng xử của người
dân nơi vùng sông nước.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản văn hóa Nam Bộ
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc,
mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Nam Bộ
tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng văn hóa của
nông thôn Nam Bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
có hơn 4000 năm lịch sử.
Nam Bộ từ miền đất hoang vu rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy “muỗi kêu
như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”, trên rừng nhiều thú dữ, rắn độc và động vật
quý, dưới nước tôm cá bạt ngàn, còn có cá sấu, cá mập. Người nông dân Nam Bộ lao
động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng
chống thú dữ trên rừng, dưới nước để sản xuất và bảo vệ sản xuất. Ðể tồn tại và phát
triển giống nòi, sản xuất và bảo vệ sản xuất tất yếu các gia đình nông dân trong họ
tộc, trong xóm làng liên kết lại (hợp tác) lao động đổi công phá rừng làm ruộng rẫy,
đào sông rạch, làm đường giao thông: săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc “thương
nguời như thể thương thân” giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống,
đúng với câu ca truyền miệng gần như nông dân Nam Bộ ai cũng thuộc lòng “một
miếng khi đói bằng cả gói khi no” trong sản xuất và đời sống. Tuy cuộc sống vô cùng
cơ cực ngày ngày lao động trên đồng ruộng, đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo,
chày đôi, chày ba, rồi ca hát hoặc hò đối đáp dưới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc
nhưng thấm đậm nghĩa tình. Những người nông dân có mặt ở vùng đất Nam Bộ này
hơn 300 năm trước đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền
Bắc. Tuy buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bởi rừng
18
thiêng nước độc, thú dữ, người nông dân thiếu cả công cụ, phương tiện lao động…
nhưng mọi người kiên cường bám trụ “đến đây thì ở tại đây, trăm năm bám rễ xanh
cây không về”. Bám rễ xanh cây không chỉ có nghĩa lao động sáng tạo ra của cải vật
chất trên nền nông nghiệp phì nhiêu trù phú, mà sự xanh cây bám rễ còn có nghĩa mối
quan hệ giữa người với người từ bốn phương tụ hội trên mảnh đất Nam Bộ ấm áp
tình người. Tấm lòng người nông dân Nam Bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn
sàng tha thứ cho những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thứ kẻ gian ác,
điêu ngoa. Họ coi trọng nhân-nghĩa-trí-dũng-liêm, lòng thương người bao la vô tận,
nhưng rất ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, những kẻ “tham phú phụ bần”. Nếu
ai là người lương thiện có đạo đức làm người, sống trung thực, nhân nghĩa dẫu từ đâu
đến với xóm làng nào Nam Bộ thì cũng được nông dân đón tiếp thân tình theo đúng
nghĩa “tứ hải giai huynh đệ”, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người đói rét, bệnh tật “anh
em như thể tay chân” hay là “Bầu ơi thương lắy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”. Nền kinh tế Nam Bộ ngày càng phát triển, đường giao thông ngày
càng thuận lợi, sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của nông dân các làng quê ngày
càng mở rộng, các phong tục, tập quán từ việc ăn, ở, giao tiếp, sinh hoạt văn hóa, lễ
hội đến đám cưới, đám tang… của nông dân Nam Bộ cơ bản là giống nhau. Nhưng
nét riêng của miền Ðông, miền Tây và mỗi tỉnh, mỗi làng quê về tính cách, tập quán,
mỹ tục cũng có khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà có câu ca “Cà Mau đi dễ khó
về, trai đi có vợ, gái về có con”. Trai đi có vợ, gái về có con ở đây không chỉ có “đất
quê ta mênh mông” hoặc đường đi cách trở sơn khê mà bởi đất lành chim đậu, sự lưu
luyến về vùng đất phì nhiêu dễ dàng sản xuất tạo ra của cải, xây dựng cuộc sống, hơn
nữa là tình người nhân hậu thủy chung, “trai cũng dễ mến mà gái cũng dễ thương”
Hay như câu ca dao “Cần Thơ gạo trắng nước trong, ai đi đến đó lòng không muốn
về”. Cần Thơ không phải chỉ có gạo trắng nước trong mà còn là sự giao lưu văn hóa,
xã hội hài hòa lịch thiệp, đa cảm đa tình. Người Cần Thơ mến khách nên khách cũng
mến người. Nếu ai đến bến Ninh Kiều từ xa xưa cũng “ngựa xe như nước áo quần
như nêm” và bây giờ càng thêm lộng lẫy, phố phường nhộn nhịp. Ðêm đêm tàu
thuyền san sát bên sông, có cả thuyền văn hóa lưu động, các nhóm tài tử phục vụ đủ
các hạng người tao nhân mặc khách. Chính vì phong cảnh hữu tình, quyến rũ làm
19
chạnh lòng quân tử, thuyền quyên mà “đi không nỡ, ở cũng đành”. Nói về hoạt động
văn hóa, văn nghệ nhất là đờn ca tài tử thì không riêng ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ mà
gần như đều khắp các làng quê Nam Bộ, anh nông dân đi cày chị nông dân đi cấy
cũng có thể hát, hò và ca vọng cổ được. Tinh thần yêu nước là đỉnh cao của văn hóa.
Lúc bình thường trong cuộc sống nông dân có thể có vui, có buồn thậm chí to tiếng
với nhau vì một lý do nào đó, nhưng khi đất nước có giặc ngoại xậm thì người nông
dân đoàn kết lại sẵn sàng đánh giặc cứu nước.
Như vậy, cũng phải ngót gần một thế kỷ Nam Bộ mới bước đầu được định hình
trong thời gian và không gian với tư cách là một vùng văn hóa. Xét về lịch sử, để một
vùng đất trở thành một vùng văn hóa, một thế kỷ là thời gian không dài. Sở dĩ có
được điều này, vì xét từ chủ thể, người Việt khi đến vùng đất mới đang mang theo
hành trang của mình vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc Việt. Đây chính
là nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Khi nghiên cứu về tính cách văn hóa Nam
Bộ, Trần Ngọc Thêm cũng đã xác định tính cách văn hóa Nam Bộ là sản phẩm tổng
hợp của ba yếu tố chính, trong đó truyền thống văn hóa dân tộc Việt được ông xếp ở
hàng đầu tiên, hai yếu tố kia là tiếp biến với văn hóa khu vực và phương Tây và bối
cảnh tự nhiên Nam Bộ [56, tr 141]. Điều dễ thấy là hai yếu tố sau dựa trên cơ sở của
yếu tố đầu tiên với tư cách là hệ giá trị cốt lõi. Mặt khác, nhìn từ chủ thể, điều cũng
dễ thấy là lưu dân Việt vào Nam hầu hết là thuộc tầng lớp dưới, những giá trị họ
mang theo chắc chắn không phải là cả hệ giá trị được vận hành gắn với thiết chế văn
hóa xã hội vốn có từ lâu đời như ở các vùng “đất cũ” thuộc Bắc Bộ, Trung Bộ.
Những giá trị họ mang theo không nhiều tính chất quan phương mà đậm nét truyền
thống dân chủ của văn hóa nông thôn. Những giá trị này trải qua quá trình tương tác
với môi trường tự nhiên và xã hội có tính đặc thù của Nam Bộ đã dần tạo nên những
giá trị mang đậm sắc thái Nam Bộ mà giới nghiên cứu thường nói đến khi đặt trong
mối quan hệ với văn hóa truyền thống như tính thoáng mở, năng động, sáng tạo,
trọng nghĩa, bao dung…
Người dân Nam Bộ, trong quá trình phát triển của mình, không bị ràng buộc
nhiều bởi ý thức trung quân nên trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã quay lưng lại
với triều đình, “chẳng nghe thiên tử chiếu”, và chính họ chứ không ai khác đã là động
20
lực mạnh mẽ thúc đẩy những người ít nhiều vướng bận với triều đình cũng phải “theo
bụng dân để chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” (Văn tế Trương
Định – Nguyễn Đình Chiểu). Sự va chạm về giá trị càng biểu hiện rõ hơn đâu hết
chiều sâu của giá trị văn hóa Việt Nam mang đậm sắc thái Nam Bộ. Nguyễn Đình
Chiểu đã thay mặt nhân dân Nam Bộ thể hiện rõ sự lựa chọn quyết liệt để bảo vệ
những giá trị văn hóa truyền thống trước sự thâm nhập của các yếu tố văn hóa, văn
minh ngoại lai. Khái niệm “đạo nhà” của Nguyễn Đình Chiểu là một sự đúc kết nhận
thức sâu sắc của người dân Nam Bộ về phẩm giá và khí phách. “Đạo nhà” ở đây được
đặt trong thế đối lập với “đạo người”, với “ngoại đạo” và cốt lõi của nó chính là
truyền thống, là đạo lý dân tộc mà người dân Nam Bộ thà hy sinh chứ không chịu
mất. “Đạo nhà”, đạo thờ cúng ông bà tổ tiên trong bối cảnh này đã trở thành biểu
trưng cho truyền thống văn hóa, cho cốt lõi của bản sắc dân tộc. “Đạo nhà” ở đây
cũng là đạo lý của lòng yêu nước. Điều đáng lưu ý là Nam Bộ là vùng đất mới, ít chịu
sự ràng buộc của khuôn khổ đạo lý truyền thống nhưng hạt nhân của những giá trị
văn hóa Việt vẫn hết sức bền vững, chỉ khác là nó được phát biểu, được bộc lộ mang
đậm sắc thái Nam Bộ, vừa dân dã, vừa sâu sắc. Trên nền tảng giá trị cốt lõi đó, Nam
Bộ vẫn thể hiện được rõ nét là vùng đất mở, là sự bao dung và năng động trong tiếp
nhận cái mới. Nam Bộ vẫn là vùng đất đầu tiên ở Việt Nam tiếp nhận nhiều yếu tố
mới mẻ của văn hóa, văn minh phương Tây vận dụng vào thực tiễn văn hóa Nam Bộ
nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung. Sự phát triển đô thị thương nghiệp, sự xã hội
hóa chữ quốc ngữ Latinh, sự xuất hiện báo chí, sự thử nghiệm của nhiều hình thức
sáng tạo nghệ thuật theo hướng học tập có chọn lọc mô hình phương Tây từ những
thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy rõ điều đó.
Có thể thấy nền văn hóa Nam Bộ vừa có nền tảng của truyền thống văn hóa
dân tộc, vừa có những giá trị cốt lõi riêng hình thành nên phong cách văn hóa Nam
Bộ. Tính thoáng mở của một vùng đất mới là cơ sở của việc hình thành nên tính năng
động, nhạy bén, dám nghĩ dám làm của người dân Nam Bộ, và do hoàn cảnh lịch sử
có tính đặc thù của mình, tính thoáng mở đó là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến
thành công nhiều giá trị văn hóa, văn minh hiện đại của thế giới, tiêu biểu là các mô
hình của các nước phương Tây. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ở Việt Nam,
21
Nam Bộ là vùng văn hóa có điều kiện hơn cả trong việc hội nhập văn hóa và do vậy,
lại tiếp tục đóng vai trò tiên phong trong bối cảnh mới. Đó cũng là đóng góp thiết
thực của vùng văn hóa Nam Bộ trong sự phát triển chung của văn hóa dân tộc.
Vùng đất Nam Bộ là kết quả bồi đắp phù sa của hai hệ thống sông Đồng Nai và
sông Cửu Long trong nhiều thế kỷ. Phần lớn là đồng bằng, ít núi đồi, trừ vùng Tây-
Tây Bắc của Đông Nam Bộ và Tây Nam của Tây Nam Bộ có một vài dãy núi, đồi
thấp bị chia cắt bởi nhiều sông ngòi kênh rạch, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu
Long hay còn gọi là Tây Nam Bộ. Người Việt Nam Bộ, vốn là những lưu dân có gốc
từ Bắc Bộ và Trung Bộ. Phần lớn họ là những nông dân, thợ thủ công, dân nghèo
sống không nỗi ở quê nhà đành phải buộc lòng ly hương tìm nơi đất sống mới. Cùng
đến đất Nam Bộ, thành phần của dân người Việt còn khá nhiều các lớp người khác
như các binh lính được phái đi đồn trú, khẩn hoang, những quan lại bị “kỷ luật”, các
nhà nho bất đắc chí, những thương nhân và cả những tội đồ bị đầy biệt xứ, những
phần tử tội phạm của nhà nước phong kiến bị truy nã, trốn tránh phải thay tên đổi
họ… Đến đất Nam Bộ định cư, những lưu dân người Việt đã tập hợp lại thành những
nhóm, những cộng đồng, bắt tay vào công việc khai mở đất đai, lập ấp khẩn hoang.
Vốn là những cư dân của nền văn minh nông nghiệp canh tác lúa nước, họ đã nhanh
chóng thích ứng với vùng đất mới. Thiên nhiên Nam Bộ vừa hào phóng nhưng cũng
không ít những khó khăn thách đố. Người Việt đã đến Nam Bộ với những hành trang,
với chiều dày lịch sử hàng ngàn năm, kinh nghiệm trồng lúa, trồng màu, với cách tổ
chức đời sống cộng đồng là cái vốn quý nhất để họ đối diện và tồn tại trên vùng đất
mới này. Thêm vào đó là sự cộng cư với người Khmer và người Hoa và các dân tộc
bản địa anh em, người Việt đã có thêm những học hỏi văn hóa mới, tao nên sự giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc trên vùng đất Nam Bộ. Hơn ba thế kỷ qua, người Việt
đã đạt được nhiều thành công, thành tựu lớn lao trong công cuộc định cư và khai mở
vùng đất Nam Bộ. Những xóm ấp được lập nên, những cánh đồng trồng lúa, hoa
màu, cây ăn trái… trải dài khắp miền đất phương Nam. Cùng với cuộc sống vật chất,
một nhu cầu tâm linh cũng dần dần đươc đáp ứng đó là những đền, đình, chùa, miếu
cũng được xây cất, một số tín ngưỡng tôn giáo ra đời, và cả phương thức tổ chức đời
sống cộng đồng làng xã quen thuộc được đem từ phía Bắc vào. Hơn ba trăm năm trải
22
nghiệm và thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, người Việt Nam Bộ, đã hình
thành một nét văn hóa riêng của mình trên vùng đất Nam Bộ. Người Việt Nam Bộ
cũng giống như người Việt ở các vùng miền khác của đất nước, có cội nguồn văn hóa
chung từ hàng nghìn năm, từ cái nôi văn minh Sông Hồng, văn minh trồng lúa nước ở
Bắc Bộ. Đó là điều cơ bản. Người Việt Nam Bộ là một bộ phận của người Việt Việt
Nam, đã chuyển dịch không gian sinh tồn vào vùng đất phương Nam. Ở đây, họ đã
tái lập (hoặc tái cấu trúc) văn hóa Việt truyền thống trên một vùng đất mới, trong
không gian văn hóa của vùng đất Nam Bộ. Nơi đó văn hóa Việt truyền thống đã tìm
cách thích ứng và phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội khác với vùng “đất
Tổ” của mình. Chính điều đó đã tạo nên nét riêng của văn hóa của người Việt Nam
Bộ.
1.2. Khái quát về cá sấu trong văn hóa dân gian
1.2.1. Vài nét về cá sấu trong văn hóa thế giới
Trong văn hóa thế giới, Cá sấu (Crocodile) là một con vật thiêng, “xuất hiện từ
nền văn minh này sang nền văn minh khác, từ thời đại này sang thời đại khác, đại
diện cho muôn vàn biểu hiện của chuỗi hình tượng cơ bản biểu trưng cho chuỗi hình
tượng những sức mạnh chi phối sự chết và sự tái sinh”. Chúng được xem là con vật
“khiêng vác vũ trụ, một thần linh của đêm trăng, chủ tể của nước nguyên thủy, háu ăn
như đêm tối nuốt chửng mặt trời mỗi buổi hoàng hôn” [23, tr 119].
Theo Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế giới, ở Trung Hoa, cá sấu đã sáng chế ra
trống và bài hát, nó đóng một vai trò quan nhất định trong sự hòa điệu của vũ trụ.
Những người già Trung Quốc thường kể lại cho con cháu nghe câu chuyện cổ tích về
loài vật sáng tạo ra trống, tạo nhịp điệu cho âm nhạc và thổi hơi thở vào sự sống
trong vũ trụ. Còn với người dân Cam-pu-chia, cá sấu lại là biểu tượng của ánh sáng,
khi dịu dàng, lúc dữ dội. Tại Ấn Độ, cá sấu là vật cưỡi của mantra Vam, hạt giống
ngôn từ của nước. Trên tranh tượng thờ, nó không khác gì makara, vật cưỡi của thần
Varuna là chúa tể của nước. Trong huyền thoại và tín ngưỡng dân gian Campuchia,
chúa tể của đất và nước không phải là con rắn Nagar ở Angkor, mà là con vật có tên
đồng âm và hoàn toàn tương đương, đó chính là Nak (cá sấu). Asura Bali, ở
23
Campuchia là Kron Pâli, chủ đất, tức cá sấu. Cờ cá sấu được dùng trong các tang lễ ở
Campuchia, gắn với truyền thuyết về Kron Pâli, ngự trị ở thế giới âm ty, rất gần với
hình ảnh cá sấu của thần Seth của Ai Cập hay Typhon của Hy Lạp – biểu tượng của
bóng tối và sự chết. Các truyền thuyết ở Cam-pu-chia cũng đặt cá sấu vào sự liên hệ
với ánh sáng của ngọc trai và kim cương. Trong mối liên hệ này, các sấu có quan hệ
với sấm chớp, mưa. Qua công trình Étude sur les rites agraires des
Cambodgiens (Nghiên cứu về các lễ tiết nông nghiệp của người Campuchia) của E.
Porée Maspéro ta có thể thấy được chức năng thần nước của cá sấu, chức năng chúa
đất của nó, vị trí của nó trong các nghi lễ và kiêng kỵ, hình tượng của nó trong cổ tích
và huyền tích.
Với người Thái Lan, cá sấu là biểu tượng của nguồn sống: nước tao nên những
vụ mùa bội thu. Nhiều nhóm cư dân trên một số đảo thuộc Indonesia, Philippin giữ
một thái độ cung kính đặc biệt đối với cá sấu. Trên nhiều đảo thuộc châu Đại Dương
còn lưu truyền những cổ tích và huyền tích nói về việc phụ nữ bị cá sấu phủ. Hệ
truyện này rất gần với hệ truyện lớn của Đông Nam Á lục địa kể chuyện phụ nữ bị
rắn phủ, cá sấu tương đồng với rắn, vì đều là đại diện của thế giới bên dưới.
Đối với người Pueblo – Mixtèque và người Aztèque (Mêhicô cổ), đất được sinh
ra từ cá sấu sống dưới biển nguyên thủy. Trong Codex Borgia, cá sấu được họa hình
như là biểu tượng của đất. Cá sấu trong sách chép tay Chilam Balam là một trong
những tên của con Rồng Trời sẽ phun nước làm nên đại hồng thủy vào ngày tận thế.
Theo dị bản về cuộc sáng thế của người Maya, cá sấu nguyên thủy đã mang
quả đất trên lưng mình trong một vỏ sò.
Như một thần linh âm ty, cá sấu hay xuất hiện như một nhân vật thay thế cho
Jaguar vĩ đại, chúa tể của các thế giới dưới đất, thông qua biểu tượng cây súng.
Những thổ dân Aztec ở Mê-hi-cô coi cá sấu là vị thần sáng tạo ra đất đai, làng
mạc. Họ tôn thờ vị thần dũng cảm rời bỏ biển khơi để đem đến sự sống cho con
người và muôn loài. Với nhiều bộ lạc ở châu Phi, trong những lễ hội gọi đất và mặt
trời, không thể thiếu được vũ điệu cá sấu-dịu dàng uyển chuyển nhưng cũng không
kém phần quyết liệt mạnh mẽ. Trong một số huyền thoại của người dân da đỏ Nam
24
Mỹ, cá sấu cũng xuất hiện với tư cách là một vị thần của âm ty. Ở Mélanésie (một
vùng thuộc phía Tây Nam Thái Bình Dương), cá sấu lại xuất hiện với tư cách “tổ phụ
sáng lập ra đẳng cấp xã hội thứ tư – xuất hiện sau cùng, nó có rắn là con vật thay thế”
[23, tr 120].
Trong thần thoại Ai Cập, cá sấu thường được xem là các quái vật. Cá sấu
Sobek được gọi là Ông Ngấu Nghiến, chuyên chầu chực để nuốt chửng các linh hồn
không biện minh được cho mình. Nhiều đền thờ cá sấu được lập ở các vùng có nhiều
đầm hồ. Có cả một thành phố được mang tên riêng của cá sấu: Crocodilopolis. Nó
được tôn xưng là bò tót trong những bò tót, là con vật đực vĩ đại, là thần phồn thực,
vừa thủy tính, âm ty tính, lại thiên tính, thái dương tính.
Trong Kinh Thánh, cá sấu mang tên Léviathan được miêu tả như một trong
những quái vật của cõi hỗn mang nguyên thủy. Ở phương Tây, cá sấu gần gũi với
rồng về ý nghĩa, nhưng nó mang trong mình một sự sống cổ sơ hơn, vô cảm hơn, có
khả năng tiêu hủy không thương tiếc sự sống của con người. Nó là một biểu tượng
phản diện, bởi vì nó biểu thị một thiên hướng tối tăm và hung bạo của cái vô thức tập
thể.
Cá sấu còn giữ vị trí trung gian giữa hai nguyên tố là đất và nước với những
mâu thuẫn cơ bản. Nó chuyển động trong bùn, làm cho cây cỏ sinh trưởng dồi dào,
nên là biểu tượng của phồn thực. Nhưng nó cũng ăn lấy ăn để và phá hủy, lại xuất
hiện đột ngột từ nước và lau sậy, do đó là quỷ ác dữ, biểu tượng của bản chất tội lỗi.
Phồn thực và tàn bạo, nó là hình ảnh của thần chết, vậy nên đóng vai trò dẫn dắt linh
hồn. Những người chết ở Ai Cập đôi khi được thể hiện dưới hình dạng những con cá
sấu. Nó giống như những con khủng long thời tiền sử và những con rồng trong thần
thoại. Với tư cách ấy, nó là vị chủ của những bí ẩn về sự sống và sự chết, là đấng
truyền phép vĩ đại, là biểu tượng của trí thức huyền bí, là ánh sáng hoặc bị che khuất
đi hoặc biến thành sét đánh.
Nhìn chung, tùy vào mỗi quốc gia, khu vực và lãnh thổ, cá sấu có thể có những
biểu trưng không giống nhau trong văn hóa thế giới. Song về cơ bản, cá sấu là vị thần
25
của âm ty; cõi nước; là quái vật đáng sợ; có mối liên hệ với nguồn nước và các sự
kiện thời tiết liên quan đến mưa. Đây cũng là điểm tương đồng lớn nhất của hình
tượng cá sấu trong văn hóa dân gian thế giới.
1.2.2. Cá sấu trong văn hóa dân gian Việt Nam
Cùng với ý nghĩa của biểu tượng cá sấu trong nền văn hóa thế giới thì cá sấu ở
Việt Nam cũng mang những nét ý nghĩa riêng biệt. Có thể thấy trong nền văn hóa dân
gian Việt Nam cá sấu đóng một vai trò quan trọng trong buổi đầu dựng nước và giữ
nước.
Từ thời xa xưa, người Việt hay sống tại vùng sông nước, cho nên người ta
thường tôn sùng các loài thủy vật bò sát: Thuồng luồng, ba ba, cá sấu … như những
con vật linh thiêng. Theo Nguyễn Cung Thông, cá sấu là con vật được thần thánh hóa
thành con Giao Long. Trên thực tế, người ta lại xem thuồng luồng là một giống rắn
khổng lồ sống ở nước, và hình như con vật này chưa có ai thấy bao giờ. Thật ra con
sấu không thuộc vào loài cá, mà là loài động vật bò sát lớn, có máu lạnh, ăn thịt, vừa
sống dưới nước như cá vừa sống trên bờ như các thú vật. Bảng phân loại khoa học
của con sấu Trung Hoa:
Giới : Animalia.
Ngành : Chordata.
Lớp : Sauropsida.
Bộ : Crocodilia.
Họ : Alligatoridae.
Chi : Alligator [Xem 57. Nguyễn Cung Thông, http://www.viethoc.org]
Mặc dù trong sách chữ Hán của người Việt xưa gọi cá sấu gốc Trung Hoa là
Giao long hay thuồng luồng. Nhưng bây giờ cá sấu và thuồng luồng đã trở thành hai
giống khác nhau. Một con có hình hài và nguồn gốc có thể biết được theo cái nhìn
khoa học. Còn một con dù có thật hay không trong lịch sử sinh vật học, hình ảnh của
nó vẫn tồn tại ở trong tiềm thức của người Việt Nam.
Khi nhắc tới cá sấu người dân Việt Nam ta hay nhớ đến câu “Nước mắt cá sấu”
26
đây là một nét nghĩa tiêu cực khi nhắc tới hình ảnh con vật này. Bởi đây là một loại
bò sát hung bạo, ăn thịt động vật mà nó bắt được. Loài vật này có thể tấn công và bắt
những con vật lớn hơn như trâu, bò và con người cũng trở thành miếng mồi ngon của
chúng. Có một điều đặc biệt là sau khi nuốt chửng con mồi, khóe mắt cá sấu lại chảy
nước tương tự như con người chảy nước mắt khóc thương ai đó. Vì sự tương quan
này người ta nghĩ là cá sấu đã khóc cho nạn nhân của nó, kẻ vừa bị nó cướp đi sinh
mạng. Do vậy, người ta liên tưởng ngay đến những hạng người giả dối trong xã hội.
Một mặt hại người, hại bạn, một mặt thì nói những lời tử tế hiền lành. Như vậy ta
thấy rằng câu thành ngữ “Nước mắt cá sấu” nó đại diện cho sự gian xảo, lọc lừa, điêu
ngoa trong xã hội. Bên cạnh đó cá sấu còn trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm thức
dân gian của người Việt bởi tính hung ác và tàn bạo của nó. Vì đây là một loài bò sát
lớn thích ăn thịt người, chúng không chỉ ăn các loài động vật mà còn tấn công cả con
người. Trong tâm thức dân gian của người Việt thì cọp và cá sấu là hai loài động vật
đáng sợ nhất trong buổi đầu khai hoang lập ấp ở những vùng đất mới, đặc biệt là
vùng đất Nam Bộ. Câu ca dao “Ác như sấu Vũng Gấm” đã phần nào nói lên được tính
hung bạo của loài thủy quái luôn rình rập hại người này. Trong hoàn cảnh thiên nhiên
khắc nghiệt con người không chỉ đối mặt với những khó khăn của cuộc sống mà họ
còn luôn phải đối mặt với những loài thú dữ hại người, đặc biệt là cá sấu. Chính vì
bản tính hung bạo, ăn thịt người nên khi nhắc đến chúng người dân luôn sống trong
tâm trạng nơm nớp lo sợ.
Ngoài những nhận thức trên thì ta thấy rằng cá sấu còn đóng một vai trò quan
trọng trong văn hóa dân gian của người Việt Nam. Người Đông Sơn có tục xăm mình
liên quan đến con giao long dưới nước. Nhiều bộ sử Trung Quốc đã ghi chép: ”Người
Việt vẽ mình, cắt tóc để tránh cái hại giao long” (Hán thư, Địa lý chí hạ). Sách Lĩnh
Nam chích quái cũng đề cập đến chuyện này “dân miền chân núi làm nghề chài cá,
thường bị giao long làm hại, mới kêu với Hùng Vương nói : Loài ở chân núi với loài
thủy tộc khác nhau. Loài kia ưa đồng loại mà ghét dị loại cho nên làm hại. Bèn khiến
người ta lấy mực mà xăm mình thành thủy quái, từ đó không còn cái nạn giao xà làm
hại nữa. Cái tục xăm mình của người Bách Việt bắt đầu từ đó”. Con giao long này có
thể là thuồng luồng, rắn nước mà cũng có thể là cá sấu, đều là các con vật dữ, thường
27
xuyên làm hại cư dân sông nước.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con rồng trong truyền thuyết có nguồn gốc từ
con cá sấu [50]. Trần Kinh Hòa sử dụng ngôn ngữ học để chứng minh chữ “giao”
(long) và “ngạc” (cá sấu) cũng là biến thái của chữ ghi nhận tiếng kêu của con cá sấu.
Hình ảnh con cá sấu thường gắn liền với cuộc sống của những người Việt cổ.
Điều này đã được chứng minh bằng các hoa văn hình cá sấu được trang trí trên nhiều
di vật bằng đồng ở các di chỉ thuộc nền văn hóa Đông Sơn. Đó là cá sấu trên thạp
đồng Đào Thịnh, trên khóa thắt lưng Ninh Bình, trên các rìu đồng ở Đông Sơn, Núi
Sõi, Sơn Phú hoặc trên các rìu, giáo và dao găm bằng đồng khác được Bảo tàng Mỹ
Thuật sưu tầm rải rác ở Thanh Hóa từ di chỉ Đông Sơn. Ngoài thạp đồng Đào Thịnh
và khóa thắt lưng Ninh Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện 4 chiếc rìu, 3 chiếc giáo
và 1 dao găm có trang trí hình cá sấu.
Trên thạp Đào Thịnh I khắc họa hình cá sấu đang giao nhau xen giữa hai chiếc
thuyền. Thân cá sấu dài, đuôi to, mồm nhọn, cả hai được chạm theo lối trắc diện,
quay bụng vào nhau và dính chân dính đuôi, mình được tô điểm bằng nhiều chấm dải.
Hai đôi cá sấu ở hai mặt của rìu xéo Đông Sơn khắc họa có phần cách điệu
hơn. Chúng quay bụng vào nhau nhưng chỉ dính phần chân, còn đuôi đều cuộn tròn
lại, mồm nhọn đang há biểu lộ sự dữ tợn.
Các đôi ở khóa thắt lưng Ninh Bình tính cách điệu càng cao hơn. Bốn đôi cá
sấu ở 4 góc của hiện vật cũng bố cục quay bụng vào nhau nhưng chi tiết mất hết nên
cả 2 trở thành một khối chung và trông như một bông hoa với 2 cánh tròn cuốn lại,
rất khó nhận ra. Ở khóa thắt lưng Bắc Kỳ và Đông Sơn thì hình cá sấu được bố cục
từng đôi quay đầu vào nhau, mắt tròn to, thân chạy dài cho đến đuôi thành cả một
mảng liền. Có người cho đó là hình của giao long trong các truyền thuyết và có thể là
tiền thân của con rồng Việt. Kiểu thuyền và những hình khắc trên thuyền rất giống
những mô típ trang trí trên trống đồng Đông Sơn như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa
[50, tr 359-380].
Tương truyền vào năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), có cá sấu vào sông Phú Lương
28
(sông Hồng), Nguyễn Thuyên được lệnh triều đình lập đàn tế và làm bài văn tế bằng
chữ Nôm ném xuống sông, cá sấu bèn bỏ đi. Vua cho Nguyễn Thuyên đổi thành Hàn
Thuyên giống như tích đuổi cá sấu bên Tàu [20, tr 1190-1191].
Cá sấu ở vùng đất phía Nam được Trịnh Hoài Đức mô tả trong Gia Định thành
thông chí cho biết có đầu vuông, mi mắt có khía, đuôi chẻ, khía răng cưa, răng nanh
lởm chởm, không có mang tai, có 4 chân, không vảy, cái đuôi rất mạnh. Có loại sấu
màu vàng và đen, to bằng chiếc xuồng, đặc biệt rất hung dữ. Những người đi ghe
xuồng trên sông hay bị dùng đuôi đập vào cho rớt xuống sông rồi gặm tha vào bờ để
ăn thịt.
Bên cạnh những ý nghĩa trên thì hình ảnh cá sấu còn mang một ý nghĩa to lớn
trong tín ngưỡng của người dân Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông nước.
Nếu rắn là một “thủy thần” luôn mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người
thì người ta thờ cá sấu để cầu mong sự bình an. Trong tín ngưỡng của người Việt về
thờ động vật thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hoá
du mục. Đặc biệt là thờ các loài vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn,
cá sấu. Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng
là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hoá một giống chim đẻ trứng,
Rồng sự trừu tượng hoá từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là biểu
trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam. Còn ở vùng đồng bằng sông nước
Nam Bộ, cá sấu ở một số nơi được xem như một ác thần cai quản vùng sông nước và
trở thành đối tượng để người dân thờ cúng, họ xem cá sấu như một biến thể của thần
sông.
Đối với văn học dân gian, đặc biệt là những mảng truyện kể về cá sấu ở khu
vực Nam Bộ thì hình tượng cá sấu mang nhiều nét nghĩa phong phú và đa dạng. Cá
sấu trong truyện kể của lưu vực Nam Bộ chủ yếu xuất hiện với hình ảnh thực của nó,
gắn liền với đời sống ở vùng sông nước của những lưu dân vùng Nam Bộ. Nếu như
cá sấu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Tây Nguyên xuất hiện với tư cách là một biểu
tượng trong việc thờ cúng, tôn sùng thì cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ
không mang nhiều màu sắc tâm linh như thế. Hình ảnh cá sấu xuất hiện gắn liền với
29
quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên trong buổi đầu khẩn hoang lập ấp. Thứ
nhất cá sấu xuất hiện với bản chất là một quái vật ăn thịt người. Như trong truyện Sự
tích rạch bỏ lược, truyện kể về câu chuyện hai mẹ con chèo thuyền chở nước ngọt
trên sông, người con chẳng may bị sấu đớp và người mẹ quyết tâm ngày ngày chờ đợi
trên bến sông ấy để tiêu diệt con sấu hung ác trả thù cho đứa con của mình. Cá sấu ăn
thịt người còn xuất hiện trong các truyện như: Cá sấu đớp mà thoát được, truyền
thuyết về Ông Đình Tây và cá sấu năm chèo, Chuyện kể về cá sấu ở trấn Vĩnh Thanh
(hay Cá sấu Vũng Gấm),… Bên cạnh truyện kể về cá sấu như một loài quái vật ăn
thịt thì cá sấu còn xuất hiện gắn liền với công cuộc đánh bắt sấu và giải thích các địa
danh. Đây có thể xem là mảng truyện phong phú nhất kể về cá sấu gắn liền với công
cuộc khai phá vùng đất mới của những người lưu dân Nam Bộ trong buổi đầu khai
hoang lập ấp. Công cuộc đánh cọp bắt sấu góp phần cho ta thấy những khó khăn,
khắc nghiệt mà những người dân vùng đất mới này phải gánh chịu, nhưng qua đó
cũng đã cho ta thấy sự trí dũng của những người dân Nam Bộ trong công cuộc chinh
phục thiên nhiên, khai phá đất nước. Cùng với đó là sự ra đời của hàng loạt những địa
danh, tên gọi gắn liền với hình ảnh cá sấu như: Bàu sấu, Rạch Đầu Sấu, Cầu Sấu, Ấp
Đầu Sấu Đông, ấp Đầu Sấu Tây, Rạch Cái Cấm,…
Trong công cuộc chinh phục vùng đất mới bằng trí tuệ và lòng quả cảm, những
lớp cư dân nơi đây đã đương đầu với những sức mạnh tự nhiên, những loài thú dữ
như cọp beo, sấu, rắn... Vươn lên chế ngự nó, nhằm tạo ra những điều kiện để khai
thác, canh tác, bảo đảm cuộc sống an lành là công việc đòi hỏi sự bền bĩ, lâu dài.
Việc “đánh sấu” trên hết chỉ xuất phát từ việc làm điều thiện, điều nghĩa, phản ảnh
cái tinh thần khí khái của người dân Nam Bộ trong việc diệt trừ thú dữ. Thông qua
hình ảnh con cá sấu, ta dường như hiểu rõ hơn bức tranh hiện thực về văn hóa dân
gian của vùng đất này với những sắc thái hết sức đặc trưng của miền sông nước Nam
Bộ.
Tóm lại, hình ảnh cá sấu trong nền văn hóa thế giới và trong văn hóa của người
dân Việt Nam mang nhiều nét nghĩa đa dạng và phong phú. Hình ảnh cá sấu ở mỗi
khu vực và mỗi giai đoạn lịch sử đều mang đến cho ta những ý nghĩa khác nhau. Nó
30
góp phần làm phong phú thêm những sắc thái văn hóa khác nhau của đất nước.
Trên đây chúng tôi vừa khảo sát hình ảnh cá sấu trong văn hóa thế giới và trong
tâm thức dân gian của người Việt Nam. Có thể thấy hình ảnh cá sấu xuất hiện ở mỗi
nơi đều gắn với những ý nghĩa khác nhau. Ở Việt Nam hình ảnh cá sấu xuất hiện
cũng mang nhiều nét nghĩa phong phú và đa dạng. Ngoài những nét biểu trưng gắn
với nước tương đồng giữa cá sấu trên thế gới thì ở Việt Nam, cá sấu còn có những
tương đồng đặc biệt với rắn. Sấu+Rắn là cơ sở để tạo nên Rồng. Trong phạm vi đề tài
này chúng tôi tập trung làm rõ những nét đặc trưng của cá sấu trong những truyện kể
dân gian Nam Bộ. Từ hình ảnh cá sấu trong những mẫu chuyện kể cho ta một cái
nhìn khái quát về đời sống của những người dân nơi đây khi phải đối đầu với thiên
nhiên khắc nghiệt và những ứng xử của của người dân trong môi trường sông nước.
1.3. Giới thuyết thêm về tình hình tư liệu
Mặc dù là một loài vật xuất hiện từ rất sớm và đi vào đời sống, thậm chí là trở
thành nỗi ám ảnh của những cư dân Nam Bộ buổi đầu mở cõi, song đến nay, truyện
kể về cá sấu ở Nam Bộ vẫn chưa được sưu tầm và biên soạn một cách có hệ thống.
Trong 29 tư liệu truyện kể dân gian về loài vật này mà luận văn có được, ngoài những
truyện đã có kết cấu hoàn chỉnh thì vẫn còn một số còn ở trạng thái “mẫu” hơn là một
đơn vị truyện thực sự. Điều này cũng dễ hiểu khi Nam Bộ vẫn được xem là vùng đất
mới. Hệ thống các thể loại văn học dân gian vùng đất này vẫn đang được tiếp tục
hình thành và hoàn thiện. Đó là những trường hợp chưa phân định thể loại một cách
rạch ròi cũng như chưa có kết cấu hoàn chỉnh. Vì đây là bộ phận truyện hình thành
muộn sau này, nên có những truyện “đang trên đường hình thành thể loại” hoặc là
được giai thoại hóa…
Chúng tôi cũng tiến hành sưu tầm thêm những đơn vị truyện khác. (Có 22
truyện về cá sấu (dạng hoàn chỉnh) được in trong các tập truyện dân gian đã xuất bản
của Nam Bộ, 7 truyện còn lại là ở dạng mẫu chuyện nhỏ về sấu mà chúng tôi tham
khảo trên các sách báo, tạp chí ). Tất nhiên bằng giọng kể của người hiện đại và cách
ghi chép thiếu kinh nghiệm biên soạn cũng như cảm tính của tác giả, chắc chắn
những đơn vị truyện này không tránh khỏi những chủ quan, khiếm khuyết. Tuy vậy
31
điều đó cũng thể hiện cách làm việc nghiêm túc và một điểm rất quan trọng nữa cho
thấy sự ám ảnh của cá sấu trong đời sống văn hóa dân gian Nam Bộ vẫn tiếp tục được
lưu truyền.
Với những lý do về tình hình tư liệu như trên, trong phạm vi và khuôn khổ của
luận văn, chúng tôi sẽ sẽ tập trung phân tích, tìm hiểu về cá sấu và ảnh hưởng của nó
trong đời sống văn hóa dân gian Nam Bộ chứ không đi vào vấn đề thể loại của truyện
32
mà chỉ nghiên cứu trên cơ sở các văn bản đã tiếp cận được.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN
GIAN NAM BỘ
2.1. Đặc điểm về hình dáng, tên gọi
Trong buổi đầu khẩn hoang lập ấp nơi vùng đất mới, những lưu dân nơi vùng
đất Nam Bộ luôn phải đối đầu với vẻ khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây. Nổi bật lên
giữa nền thiên nhiên hoang dã ấy là hình ảnh của loài vật đáng sợ, hung bạo: cá sấu.
Cá sấu (Crocodilia) là loài bò sát có thể sống ở nước và trên cạn. Cơ thể của
chúng dài từ 2-5m, có khi đến 6m. Cá có đầu dẹt, bằng, mõm dài, đuôi rất khỏe dẹt
bên hình bơi chèo, phủ các phiến sừng. Chân cá sấu ngắn, to, mắt nằm cao, lỗ mũi, lỗ
tai có van chắn nước. Da cá dày, da lưng và da bụng có các bản xương dày. Răng
hình chóp nón. Não phát triển, thị giác và thính giác cũng rất phát triển. Con cái đẻ
trứng thành các ổ, giấu trong cát hay bụi lau sậy, trứng có vỏ vôi chắc. Chúng có tập
quán hoạt động về đêm, hung dữ, ăn động vật, đặc biệt là thích tấn công người. Cá
sấu phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, sống ở sông, hồ, ao, đầm, số ít sống ở ven bờ
biển. [70, tr.320]
Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một
diện tích rộng của khu vực nhiệt đới. Sấu có nhiều loại: sấu cá, sấu bưng, sấu mun,
sấu hoa cà, sấu lửa... Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước
chảy chậm, thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú sống hay đã
chết cũng như cá. Những loài cá sấu lớn có thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá
sấu rất nhanh nhẹn khi khoảng cách ngắn, thậm chí ngoài môi trường nước. Chúng có
quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng
nếu nó bị khép chặt, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những
con cá sấu mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Tất cả những con cá
sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe. Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng
chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng.
Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu kéo nạn nhận xuống con sông để
nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người
33
nhiều vòng để dứt thịt ra. Thoạt nhiên, chúng ta có thể cho rằng điều này thật khó
khăn vì không kiếm được điểm tựa, nhưng những con cá sấu thì không phải lo điều
đó: ngay khi đánh hơi được mùi máu, năm sáu chú cá sấu cùng bơi đến tỏ ý muốn
chia sẻ bữa ăn, và thường thì con mồi bị xé ra thành hàng trăm mảnh nhỏ bởi những
bộ hàm to khỏe và cú xoay người mãnh liệt.
Cá sấu là động vật ăn thịt có máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có
thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài
chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của
chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động
vật móng vuốt lớn và thậm chí cả cá mập.
Cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ chủ yếu được gọi bằng các tên đơn
giản như là: Sấu, cá sấu, con sấu lớn, hay chỉ là con sấu kỳ lạ, hay con sấu thành tinh
mà thôi.
Bảng 1: Bảng thống kê các tên gọi của cá sấu
TT Tên gọi Truyện Số lượng
Ông Luồng - Cá sấu trấn Vĩnh Thanh (hay Câu sấu) 2
- Ông Luồng ở sông Tiên Thủy
1 Sự tích thần Ô Ngạc Ngư 1 Ô Ngư Ngạc
2 1 Ngạc
Thần Ngư Long
Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong chức Lang Lai đại tướng quân
3 Những truyện còn lại 25
Cá sấu; con sấu; con sấu lớn; con sấu thành tinh;
Sự mô tả về cá sấu hiện lên với hình dáng thật gớm ghiếc: thân hình sần sùi,
mốc thếch, bám đầy rong rêu, đầu như một bè gỗ súc, mắt thao láo, há miệng đỏ như
máu, tiếng kêu như nghé rống,... Cá sấu trong truyện kể dân gian Nam Bộ không chỉ
là nỗi khiếp sợ của những loài động vật mà nó còn là nỗi khiếp sợ của những người
dân nơi vùng đất mới này. Sấu không chỉ bắt heo, gà, vịt mà còn bắt cả người để ăn
thịt. Cá sấu trong truyện dân gian xuất hiện với bản chất thật hung bạo và điều này
34
được các tác gủa dân gian miêu tả như sau: Trong Sự tích miếu Ông Cù người ta miêu
tả: “Ngày xưa, khi vùng đất Định Thành còn hoang vu, con người sống thưa thớt cây
cối rậm rạp với nhiều thú rừng. Con sông Gành Hào chảy qua vùng đất này trông như
một cái hàm rồng. Dưới sông có một con cá sấu rất lớn thường nổi lên ăn thịt người
nên dân trong vùng ai cũng sợ”. Còn trong câu chuyện Câu sấu: “Năm trước trong
khúc sông Tiên (Sa Đéc) có con cá sấu mình lớn năm vây, dài đến sáu trượng, hàng
ngày đón chận ghe qua, đánh lắc cho văng người xuống, hoặc đánh lật úp ghe rồi
nhảy vọt lên táp nuốt. Người ta gọi tên con sấu ấy là “ông Luồng” và đã dùng hết
cách để trừ nó mà rốt lại cũng chẳng đặng”. Với thân hình to lớn như một chiếc
xuồng ba lá, cá sấu là nỗi khiếp đảm của người dân khi phải lưu thông trên sông rạch.
Trong điều kiện sông nước mênh mông ở vùng đất Nam Bộ lại là nơi trú ngụ lý tưởng
cho loài ngạc ngư này. “Rạch Tiên Thủy, năm trước có một con sấu thật to, mình dài
đến 60 pieds, cái thân của nó năm người ôm mà không giáp”, gọi nó là ông rồng, và
sức nó mạnh đến nỗi nó dùng đuôi quất một cái đủ văng người xuống nước để ăn tươi
nuốt sống, và ghe xuồng gì đều bị nó quất bể tan tành” (trong Sự tích ông Luồng ở
sông Tiên Thủy).
Hay như trong truyện Sự tích thần Ô Ngư Ngạc mà chúng tôi sưu tầm được
thì hai con cá sấu hiện ra “như hai chiếc ghe cà dom có gắn máy cao tốc”.Với thân
hình to lớn như vậy nên trong trận chiến giành lãnh thổ hai con gây ra như một trận
cuồng phong dữ dội “xé nước lao ào ào và đâm vào nhau. Sau một cú chạm mạnh đến
rung rinh mặt đất mấy cây số. Hai con sấu nhảy dựng cao lên tới ngọn bần, rồi rơi
xuống, nước tạt dựng phủ cả mé lá hai bên bờ sông”.
Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tự nhiên con người không ngừng phải
đấu tranh để duy trì sự sống mà còn phải chiến đấu tiêu diệt sấu dữ để bảo toàn tính
mạng của mình và cộng đồng. Sấu dữ không chỉ phá hoại nguồn sống của người dân
(bắt gia súc, gia cầm người dân nuôi để ăn thịt) mà sấu còn bắt người để ăn thịt. Dân
chúng ai cũng oán sấu, coi sấu là hiện thần của cái chết: “Trong tang lễ, để báo tin trong
phum, srok có người chết, người Khmer cũng giống như người Việt dùng cờ có màu trắng
báo hiệu. Cờ đó người Khmer gọi là Tông Prôlưng (cờ hồn), cờ được gắn vào cây sào cắm
phía ngoài gia đình có tang. Ngoài ra, cờ hồn còn có 4 cái nhỏ nữa, có nơi còn gọi là Tông
35
Nee (cờ con rồng) hoặc cờ cá sấu (vì từ xa trông giống như con cá sấu) được đặt xung
quanh xác chết, ở 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc - tượng trưng cho tứ thần. Lí giải vì
sao người Khmer dùng biểu tượng là con cá sấu làm cờ hiệu thì cho đến nay vẫn có
nhiều quan điểm không thống nhất. Có người cho rằng, cá sấu là con vật hung ác, vì
trong một truyện cổ cá sấu hóa thân thành con người (sấu thành tinh, chúng tôi cho
rằng loại truyện này không phải của người Khmer vì sấu hóa thành tinh ăn đoàn hát
bội, mà hát bội không phải loại hình sân khấu của người Khmer) để bắt người ăn thịt.
Theo quan điểm này thì, cá sấu sẽ là biểu tượng cho sự chết chóc, gắn với điềm rủi
(như trong trường hợp này là gia đình có tang). Theo tác giả Tiền Văn Triệu, sự xuất
hiện của cá sấu gắn với sự chết nhiều hơn là sự sống. Phải chăng vì vậy, người
Khmer dùng hình ảnh cá sấu làm cờ hiệu như một biểu tượng gắn với niềm tin của
con người về tín ngưỡng bái vật giáo (trường hợp này cá sấu là một ác thần cai quản
một phần sông nước như nhiều người vẫn nghĩ), mà ngay từ buổi tư duy nguyên thủy,
con vật này đã gây nhiều nỗi kinh hoàng cho cư dân Khmer của vùng đất Nam bộ
ngày nay”.
Chính vì vậy, bên cạnh một số câu chuyện kể lại con người tìm mọi cách tiêu
diệt chúng thì có một số chuyện con người kiêng sợ sấu, sấu được tôn sùng là Ông
Năm Chèo, còn được lập chỗ thờ để tránh đụng chạm, mong được yên ổn, được chở
che (Truyện Ông Đình Tây và con sấu năm chèo). “Dân chúng ai cũng oán sấu,
nhưng nhiều người dầu bị sấu làm hại cũng không dám oán trách lại còn làm thịt gà
vịt để cúng thần sấu” (truyện Sấu đỏ mũi).
Hay như trong truyện Sự tích Ông Luồng ở sông Tiên Thủy miêu tả: “Ở ngoài
vàm sông lớn, ngày xưa, có nhiều cá sấu lớn bằng chiếc ghe, rất hung dữ, người qua
lại đều phải kiêng sợ. Nhân dân trong vùng thường chở gạo đi lại trên mương rạch,
hay dùng nước ấy tưới rửa thì phải trồng cây cọc dày kín để ngăn dòng nước cho khỏi
nạn sấu. Năm nọ, ở sông Tiên Thủy có một con cá sấu lớn kì lạ - có đến năm vây,
mỗi chét tay là một vây dài sáu thước, thường đón ghe thuyền qua lại trên sông dùng
đuôi quật người trên ghe cho sa xuống nước, hoặc làm cho úp thuyền ghe đặng bắt
người nuốt sống. Người ta gọi con sấu hung dữ này là “Ông Luồng”. Dân chúng tìm
đủ cách giết nhưng không sao trừ được”. Từ chỗ sấu là nỗi ám ảnh của người dân thì
36
người ta tìm cách thờ cúng, tôn chúng làm ''thần” để cầu mong sự bình yên.
Trong buổi đầu nơi miền đất Nam Bộ, có thể nói, người mới đến chẳng ai là
chưa tùng trải qua nỗi khiếp sợ về nạn bị sấu đớp ăn thịt. Nhưng nỗi lo sợ kia cũng
dịu dần theo thời gian. Bởi trải qua quá trình sinh sống nơi vùng đất mới, con người
nơi đây đã biết tìm cách ứng phó với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên và bắt thiên
nhiên phục vụ cho mình.
Trong truyện Bồ-piêl diệt sấu khổng lồ, hình ảnh con sấu hiện lên trông thật
gớm ghiếc: “con sấu khổng lồ hiện ra mình mẩy đen ngòm dài hàng chục sải. Miệng
há rộng thở phì phò, nhe hai hàm răng nhọn hoắt. Mắt con vật đỏ như hai quả cầu lửa.
Cá sấu tung hoành ngang dọc quật đuôi, đạp nước làm biển dậy lên những con sóng
lớn. Gặp những lúc ấy thuyền bè đi trên biển bị đánh lật không ít và sấu đón bắt ăn
thịt những ngư dân”.
“Năm trước trong khúc sông Tiền (Sa Đéc) có con cá sấu mình lớn năm vây,
dài đến sáu trượng, hàng ngày đòn chận ghe qua, đánh lắc cho văng người xuống,
hoặc đánh lật úp ghe rồi nhảy vọt lên táp nuốt.... Người thợ câu lành nghề kia biết sấu
không có mang tai, không tài nào hả họng trong nước đặng; còn cái đuôi sấu dẫu có
cựa quậy cũng chẳng có hại gì. Như vậy mới trêu đùa với sấu và đợi đến lúc nó tấn
gần sát lại bên mình, cất lên mặt nước toan táp, anh mới thừa cơ ném vịt tới miệng
nó” (Ông Luồng ở sông Tiên Thủy).
Trong Đá cá sấu, hình dáng con sấu hiện lên trông thật gớm ghiếc: “Thân hình
con vật sần sùi, mốc thếch, rong rêu bám đầy, nổi lờ đờ to và dài như bè gỗ súc”. Mặc
dầu với hình thù đáng sợ như thế nhưng những người dân nơi đây cũng có cách đối
phó với chúng. Bởi đối phó với sấu dễ hơn với cọp nhiều vì chỉ cần tìm ra điểm yếu
của chúng là có thể thu phục được vị thần hung hãn dưới nước này.
Trong nhiều lần chạm trán với cá sấu, con người dần rút ra được nhiều kinh
nghiệm. Chẳng hạn như con người biết rằng sấu chỉ bắt được con mồi khi ở tư thế
nằm ngang. Bởi vậy, người chồng trong Đá cá sấu khi đối mặt với cá sấu đã đổi tư
thế đứng để sấu không gắp được. Nhưng sấu cũng là con vật tinh ranh không kém, nó
37
thở phì phì, phun vào miếng mồi một tia nước mạnh như búa bổ. Người chồng bị lật
ngang. Sấu trườn tới ngoạm vào miệng, đoạn quẫy đuôi thông thả lội ra khơi. Người
chồng còn cố ngoắc tay kêu cứu đầy tuyệt vọng.
Một đặc điểm nữa là cá sấu không có mang nên chúng không thể há miệng
dưới nước. Đó cũng là một điểm yếu mà dựa vào đó con người có thể tìm cách tấn
công thoát khỏi quai hàm cá sấu. Người thợ câu lành nghề trong truyện Ông Luồng ở
sông Tiên Thủy biết được điều đó nên anh “dùng lưỡi câu bằng sắt, bắt một con vịt
rồi lấy dây mây lớn xỏ buuộc sau lưỡi câu thật chặt, rồi tay không ôm con vịt nhảy
xuống sông nhử sấu... đợi cá sấu bơi đến gần, trồi đầu lên khỏi mặt nước há miệng
táp thì thừa cơ ném con vịt vào miệng cho sấu nuốt. Liền sau đó, anh bơi vào bờ mà
kêu dân chúng kéo dây mây lôi sấu vào bờ và xúm lại đâm chết”. Nhờ vào cách đó
mà anh trở thành một tay thiện nghệ trong nghề bắt sấu.
Trong truyện Bị sấu đớp mà thoát được, ông Sáu Kiều nhờ bình tĩnh, gan dạ
“rút cây lông nhím đâm mạnh vào mắt con ác thú. Sấu co thân quẫy mạnh, há miệng
rộng vì đau đớn, làm rơi con mồi và lặn xuống nước. Thừa cơ, ông Sáu cố lấy hết sức
bình sinh trườn lên bờ rạch”. Ông Sáu Kiều thoát chết trong đường tơ tóc nhờ vào sự
bình tĩnh và dũng cảm của mình.
Sấu gắn liền với hình ảnh quái vật ăn thịt người cho nên trong dân gian để
“kiêng cữ” người ta không gọi thẳng tên mà gọi chúng là Ngạc ngư, là Thần sấu,....
Điều này có thể thấy rõ trong cách gọi tên sấu ở những vùng sông nước, nơi mà môi
trường sống của con người có nhiều cá sấu quấy nhiễu. Người ta tin rằng, khi không
gọi tên “tục” của chúng thì sẽ không bị quấy nhiễu. Cũng như đối với những người
dân sống bằng nghề sông nước thì tục vẽ mắt thuyền là nhằm tránh sự quấy nhiễu của
các loài thủy quái dưới sông, trong đó có cá sấu. Quan niệm của nhân dân “có kiêng
có lành” chính vì thế mà để tránh thú dữ làm hại nhân dân ta không bao giờ dám gọi
tên chúng khi phải đi lại hoặc sinh sống trong môi trường của chúng. Và để tránh sự
quấy nhiễu của thú dữ con người còn tôn chúng làm “thần”. Điều này được thể hiện
rõ trong truyện Cá sấu trấn Vĩnh Thanh: Con cá sấu mình lớn năm vây, dài đến sáu
38
trượng, hàng ngày đón chận ghe qua, đánh lắc cho văng người xuống, hoặc đánh lật
úp ghe rồi nhảy vọt lên táp nuốt. Người ta gọi tên con sấu ấy là “ông Luồng” và đã
dùng hết cách để trừ nó mà rốt lại cũng chẳng đặng.
Hay như trong truyện Sự tích thần Ô Ngạc ngư người ta gọi con vật có nghĩa
này là thần Ô Ngạc ngư, để tỏ lòng biết ơn con vật có nghĩa đã ra tay tiêu diệt con sấu
hung ác “Xích Ngạc ngư” để bảo vệ cuộc sống của người dân. Và trong truyện
Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong chức Lang Lai đại tướng quân
để ghi ân con vật đã cứu mình thoát khỏi hoạn nạn, chúa Nguyễn đã phong chức cho
con sấu là Lang đại tướng quân. Đây là một cách đền ơn đáp nghĩa đối với loài vật đã
có công cứu giúp khi con người lâm nguy.
Mặt khác, trong tâm thức của người dân Nam Bộ, sấu gắn liền với sự chết
chóc, gặp sấu là coi như cầm chắc cái chết trong tay và hình ảnh cá sấu mang nhiều
nét hiện thực gắn liền với đời sống của người dân nên cá sấu hiện lên trong truyện
dân gian cũng mang nét gần gũi với cuộc sống đời thường. Cá sấu xuất hiện với hình
ảnh đậm nét hiện thực và tên gọi của chúng cũng thể hiện rất rõ bản chất của loài
thủy quái này. Chính vì vậy, bên cạnh những cách gọi tên khác thì khi nói về loài vật
này người ta thường gọi thẳng tên của chúng. Phần lớn trong truyện dân gian về sấu ở
Nam Bộ khi miêu tả sự xuất hiện của chúng người ta thường miêu tả như sau: Ngày
xưa, dãy Thất Sơn chỉ là những hòn đảo nhỏ được bao bọc bằng biển cả bao la. Có vợ
chồng người Miên sống trong một hốc đá to trên một trong những hòn đảo ấy.... Một
hôm, lúc người chồng hụp xuống mé nước mò ốc, bỗng một đợt sóng to ồ ập xô vào
bờ, người chồng bất ngờ bị sóng cuốn ra khơi. Vợ kinh hoàng định phóng theo tiếp
sức. Thình lình, từ dưới nước một cái mõm dài bằng gian nhà thò lên định ngoạm lấy
người chồng. Anh chỉ còn kịp la lên:Cá sấu đó, mình đừng lội xuống (Truyện Đá cá
sấu); Hay như trong truyện Truyền thuyết về Đầu Sấu, Cái Răng :”Ngày xưa, ở Vàm
sông Cần Thơ, nơi giáp giới giữa hai làng Thường Thạnh và Tân An, tương truyền
rằng có một con sấu rất lớn và hung dữ”......
Nhìn chung, qua các gọi tên và mô tả về hình dáng của cá sấu trong truyện kể
dân gian, có thể nhận thấy: không có nhiều sự thiêng hóa, lạ hóa trong cách gọi tên
hình tượng. Trong truyện kể dân gian nói chung, hình thức lạ hóa tên gọi của hình
39
tượng các nhân vật, đặc biệt là loài vật diễn ra khá phổ biến. Đặc biệt sự thiêng hóa
bằng các tên gọi như ngài, ông, thần…xuất hiện khá nhiều trong truyền thuyết.
Trường hợp duy nhất loài vật được phong thần là gắn với truyền thuyết về cuộc chạy
nạn của Nguyễn Ánh. (Điều này một lần nữa minh chứng về quá trình lịch sử hóa,
thiêng hóa các địa danh, nhân vật, nhiên thần trong truyện cổ dân gian có sự chi phối
quyết định của chế độ vương quyền). Về điều này, có thể lý giải rằng, do người Nam
Bộ chinh phục vùng đất mới trong một giai đoạn lịch sử muộn, họ nhận thức khá rõ
bản chất của con vật mình phản ánh, hơn nữa cách gọi tên nói trên. Hơn nữa, cách gọi
tên này cũng phần nào phản ánh tính cách đơn giản của người dân Nam Bộ. Thông
thường, khi con người ta sợ mới phải cầu thân, mới thiêng hóa, song quá trình chinh
phục vùng đất mới của các cư dân Nam Bộ gắn liền với quá trình chống lại thú dữ mà
sấu là một trong các đối tượng như vậy. Đây là lý do vì sao quá trình thiêng hóa
không diễn ra.
2.2. Cá sấu – quái vật ăn thịt người
Nguyễn Phương Thảo trong Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác thảo đã
ghi nhận: “Buổi ban đầu khi người Việt đặt chân lên vùng này, thiên nhiên nơi đây
còn hoang sơ, thậm chí còn hiểm trở, với cảnh những rừng rậm, trâu rừng tụ họp
thành bầy, như Châu Đạt Quan đã ghi chép trong Chân Lạp phong thổ ký của ông,
với cảnh: dưới sông sấu lội, trên giồng cọp đua, hay như lời một bài ca dao Nam Bộ:
xứ đâu có xứ lạ lùng, con chim kêu tôi cũng sợ con cá vùng tôi cũng ghê” [52, tr
236].
Phủ biên tạp lục, sách thế kỷ XVIII đã ghi nhận: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng
Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng ngàn
dặm”… Hiện thực đã được khái quát hóa trong những sáng tác văn học dân gian. Ca
dao Nam Bộ đã ghi lại những xúc cảm đầu tiên của con người khi đặt chân đến vùng
đất còn âm u, nê địa:
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn, Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma”;
“U Minh khốn khổ quá chừng, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua”.
Ở truyện dân gian, sự nhận thức về thực tại được thể hiện với những nhân vật
40
và sự kiện cụ thể, trong đó nổi bật dấu ấn về thời kỳ khai phá và hình ảnh những con
người tiên phong trong công cuộc chinh phục, cải tạo thiên nhiên. Tác giả Nguyễn
Phương Thảo cho biết thêm: “Hiện ra trong các tác phẩm folklore ở mọi thể loại là
một thiên nhiên của thời kỳ khai phá, dấu vết của một thời gian lao có thể mờ nhạt
khi màu xanh cây cỏ, sự trù phú của những cánh đồng xuất hiện nhưng trong kí ức
con người, thiên nhiên ấy lại hoang vu, gợi ra sự hoang vắng khi con người mới đặt
chân tới”. Thực tế, không gian hoang sơ đã xuất hiện trong truyện dân gian Nam Bộ,
nơi khởi nguồn của tiến trình khai phá vùng đất mới, với hình ảnh rừng rậm và thú
dữ. Qua đây cho thấy không gian hoang sơ chính là không gian thực tại, là hình ảnh
rất đặc trưng của vùng đất, trở thành một không gian nghệ thuật đặc thù, nó đánh dấu
quá trình con người chinh phục, thích ứng với thiên nhiên hoang dã, tạo lập nên địa
bàn sinh thái nhân văn nơi đây.
Theo Kiến Hòa (Bến Tre xưa) thì thuở mới khai hoang, ở vùng Bến Tre ngoài
khí hậu độc địa, còn có vô số loài thú dữ như rắn rít, cọp, cá sấu,.... “Sấu ở dưới
nước, rình rập những người đi ghe xuồng. Nếu làm ruộng rẫy ở trên đất cao ráo,
chúng ta chẳng bao giờ bị sấu hại”.
Theo Aubaret trong Gia Định thông chí thì: “Rạch Tiên Thủy, năm trước có
một con sấu thật to, mình dài đến 60 pieds, cái thân của nó năm người ôm mà không
giáp, gọi nó là ông rồng, và sức nó mạnh đến nỗi nó dùng đuôi quất một cái đủ văng
người xuống nước để ăn tươi nuốt sống, và ghe xuồng gì đều bị nó quất bể tan tành”.
Cá sấu trong các truyện kể dân gian đều có mở đầu rất giống nhau: Ngày xưa,
cả vùng đất quanh núi Bồ-piêl, một ngọn núi thuộc bảy núi tỉnh An Giang ngày nay,
còn là một hòn đảo nằm giữa biển nước mênh mông.... Bỗng nhiên có một con cá sấu
khổng lồ, hung dữ xuất hiện. Nó thường quậy nước biển thành sóng lớn đánh chìm
ghe, đón bắt người ăn thịt” (Bồ - piêl diệt cá sấu khổng lồ); “Chuyện xảy ra đã lâu
lắm, hồi ấy vùng Cà Mau còn nhiều trăn, rắn, kỳ đà… và nhất là cá sấu” (Cá sấu đớp
mà thoát được); “Ngày ấy ở khúc sông Tiên (Sa Đéc) có một con cá sấu mình lớn
năm vây, dài đến sáu trượng, hằng ngày đón chận ghe xuồng hất văng người xuống
goặc đánh lật úp ghe rồi nhảy vọt lên táp nuốt” (Chuyện kể về cá sấu ở Trấn Vĩnh
41
Thanh); “Ngày xưa ở Vàm sông Cần Thơ có một con sấu rất lớn và hung dữ, ai nấy
khi đi ghe ngang đây đều sợ sấu ăn thịt” (Truyền thuyết về Đầu Sấu, Cái Răng);
“Truyện kể rằng: Thuở nọ ở Vũng Gấm có một con sấu rất to. Nó thường làm hại
nhiều người qua lại trên sông này” (Cá sấu Vũng Gấm);....
Kinh sợ là điều tất yếu, bởi nơi đây nổi tiếng là rừng thiêng nước độc, “cọp tha,
sấu bắt”, ao đầm nhung nhúc cá sấu,... Như vậy, cá sấu xuất hiện không chỉ cản bước
con đường mưu sinh của con người nơi đây mà còn là mối nguy hiểm cho tính mạng
của họ. Không chỉ gà, vịt, chó, heo bị sấu bắt thịt hàng ngày mà món “thịt người”
cũng trở thành món khoái khẩu của chúng. Trong điều kiện sông nước, con người
muốn di chuyển thì tất yếu phải dùng xuồng ghe đi lại trên sông. Sấu biết được điều
đó nên chúng thường “đón chận ghe xuồng hất văng người xuống hoặc đánh lật úp
ghe rồi nhảy vọt lên táp nuốt” (Chuyện kể về cá sấu ở Trấn Vĩnh Thanh).
“Hồi ấy, sông Đồng Nai có rất nhiều sấu đến nỗi muốn tắm giặt phải tốn công
phu rào bến thành cái “bến chuồng” nhỏ hẹp, không được bơi lội tự do. Gà, vịt, chó,
heo bị sấu bắt thịt hàng ngày. Dân chúng ai cũng oán sấu, nhưng nhiều người dầu bị
sấu làm hại cũng không dám oán trách lại còn làm thịt gà vịt để cúng thần sấu” (Sấu
đỏ mũi). Ở làng nọ, nơi khúc sông đầu làng bổng xuất hiện một con cá sấu đến từ đâu
không ai biết. Con cá sấu thành tinh đang thèm ăn thịt người sau bao ngày đói khát.
Một hôm, nhân có một đám cưới đông đủ họ hàng hai bên đang hướng ra bến sông.
Con sấu biến thành một chiếc thuyền rồng lộng lẫy đậu sẵn dưới bến. Mọi người thấy
thuyền đẹp không ngần ngại rủ nhau bước xuống. Chờ mọi người bước xuống đông
đủ, con cá sấu hiện nguyên hình và nuốt chửng cả đoàn người vào bụng (Diệt cá sấu).
Trong tổng số 29 truyện mà chúng tôi khảo sát được, có đến 19/29 (chiếm tỷ lệ
75.9%) truyện miêu tả cá sấu xuất hiện gắn liến với hình ảnh sấu ác. Nó trở thành nỗi
khiếp đảm cho những con người nơi đây khi phải sống trong cảnh rừng thiêng nước
độc và đối mặt với loài sấu dữ.
Cách săn mồi phổ biến của cá sấu là thường đón chặn ghe xuồng của người
dân và dùng đuôi đánh lật úp để bắt người ăn thịt. Và biết lợi dụng điểm mạnh của
mình là cái đuôi để làm phương tiện săn mồi của chúng. Với những con có thân hình
42
to lớn thì chiếc đuôi trở thành một vũ khí lợi hại trong chiến dịch săn mồi. Trong
truyện Sự tích Ông Luồng ở sông Tiên Thủy kể lại rằng: “có một con cá sấu lớn kì lạ -
có đến năm vây, mỗi chét tay là một vây dài sáu thước, thường đón ghe thuyền qua
lại trên sông dùng đuôi quật người trên ghe cho sa xuống nước, hoặc làm cho úp
thuyền ghe đặng bắt người nuốt sống. Một lúc sau, nghe tiếng sóng nước dạt mạnh
vào mạn thuyền, bỗng một cái đuôi con cá sấu quật lên (trong Sự tích miếu Ông Cù).
Hàng ngày đón chận ghe qua, đánh lắc cho văng người xuống, hoặc đánh lật úp ghe
rồi nhảy vọt lên táp nuốt (trong Câu sấu). Khi đám rước đi ngang khúc sông nọ, bất
thần con sấu nổi lên, nó quật đuôi thật mạnh làm chìm 3 - 4 chiếc xuồng, ghe. Những
người đi trong đám rước ném bỏ lễ vật, cố chèo chống, bơi lội thoát thân (Con sấu mê
hát bội). Chính vì thế mà khi đi lại trên sông người dân vô cùng hoảng sợ khi thấy
bóng dáng chúng xuất hiện, bởi như “cầm chắc cái chết trong tay”. Nhưng vì cuộc
mưu sinh nên con người phải mạo hiểm tính mạng của mình.
Bên cạnh đó, sấu không chỉ tìm bắt người khi họ di chuyển trên sông rạch mà
còn tấn công con người khi họ ở trên bờ. Với cách bắt mồi này chúng tôi khảo sát
được 3/29 truyện (chiếm tỷ lệ 10%). Đó là truyện Bưng sấu hì, Cá sấu đớp mà thoát
được, Sấu đỏ mũi.
Dù cách thức đón chặn xuồng ghe dưới nước hay nằm ẩn mình trên cạn chờ
con mồi đi qua để tấn công thì tính chất của sấu cũng rất tinh ranh và đáng sợ. Cách
thức nó dìm chết nạn nhân trước khi ăn thịt vừa thể hiện sức mạnh trong môi trường
nước của sấu vừa cho thấy tính chất thủy quái của loài vật này. Trong Bưng sấu hì
người ta kể lại rằng: Năm nọ, đã qua tới tháng năm mà trời vẫn chưa mưa, nước ở
trong bưng, đìa,... khô kiệt. Đàn cá sấu mắc cạn trong một cái hà lãng giữa rừng. Một
hôm đứa con trai của đôi vợ chồng nghèo vào rừng lấy mật ong, nhưng đến quá
khuya vẫn chưa thấy về. Cha mẹ đứa bé vô cùng lo lắng và cùng với xóm làng vào
rừng tìm. Khi đến hà lãng, họ phát hiện đàn cá sấu đã ăn thịt đứa bé nọ. Người cha vô
cùng đau đớn, quyết tâm tiêu diệt bầy sấu để trả thù.
Hay như trong truyện Sấu đỏ mũi kể lại: Hôm nọ, người vợ mới cưới của
Năm Hải vừa mới về nhà chồng thì bị sấu bắt trong lúc chị đang ngồi trên cầu rửa
43
bát.
Đến như nhân vật Ông Sáu Kiều ở ấp Cây Me, xã An Viên Tây, theo đạo Cao
Đài, để tóc dài, búi cái trâm, vốn là tay thợ săn dày dạn ở vùng rừng đước Năm Căn
cũng không thoát khỏi quai hàm của loài sấu dữ. “Một hôm, ông Sáu dẫn chó săn đi
vào vùng rạch Ông Đôi, ấp Ông Trang để săn kỳ đà. Sau khi bắt được một con kỳ đà,
ông đốn một nhánh cây cắm cạnh mép nước, treo con kỳ đà, rồi ngồi trên một thân
cây ngã ngang lòng rạch, hai chân buông xuống nước, móc thuốc ra hút, nghỉ mệt.
Bỗng nhanh như chớp, một con sấu lớn bằng chiếc xuồng ba lá, ngoi lên mặt nước
đớp gọn bắp vế ông Sáu, nó ngoạm chặt và lôi ông xuống lòng rạch” (Sấu đớp mà
thoát được).
Như vậy, nạn sấu bắt ăn thịt không chỉ là nỗi khiếp sợ của người dân khi di
chuyển trên sông rạch mà ngay cả khi ở trên cạn con người cũng trở thành miếng mồi
ngon của chúng. Qua đây cho ta thấy sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi vùng đất mới
này là vô cùng lớn lao. Con người dù tìm mọi cách thích ứng với thiên nhiên nhưng
dường như tai ương vẫn chưa buông tha họ.
Theo thói quen của loài sấu khi bắt được mồi, chúng thường quật lên quật
xuống nhiều lần cho con mồi chết hẳn, rồi mới nuốt cho dễ. Với kiểu tấn công chớp
nhoáng, con mồi không kịp trở tay là cách săn mồi vô cùng hiệu quả của cá sấu. Với
điều kiện sống trong vùng ao hồ chằng chịt thì nạn sấu bắt, cọp tha luôn xảy ra hằng
ngày. Nó trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức của người dân nơi đây. Con người luôn
sống trong cảnh nơm nớp lo sợ khi vùng đầm lầy là thánh địa của chúng mà con
người vì cuộc mưu sinh của mình phải dấn thân vào trong ấy. Có thể nói, vùng đất
Nam Bộ trù phú, đất đai màu mỡ, cây trái sum suê cung cấp cho con người một cuộc
sống sung túc, đủ đầy. Nhưng nơi vùng đất này cũng mang lại sự hiểm nguy cho tính
mạng con người khi phải đối đầu với thú dữ. Không cọp thì sấu luôn thay phiên nhau
hoành hành cuộc sống của họ.
Với cách thức săn mồi như trên, sấu hiện lên là một con vật hung bạo luôn đe
dọa tính mạng con người. Trong môi trường sông nước, sấu tha hồ tác oai tác quái mà
con người không thể làm gì được chúng, đành bất lực để sấu ăn thịt. Nhưng trải qua
44
nhiều lần đụng độ với sấu dữ con người dần tìm ra những điểm yếu của chúng để
phản công. Nếu như chiếc đuôi là vũ khí lợi hại thì Ông lái buôn trong truyện Sự tích
miếu Ông Cù đã dùng phản chặt đứt đuôi con sấu. Kể từ đó nó không còn ăn thịt nữa.
Như vậy, chiếc đuôi là điểm mạnh nhưng đồng thời cũng là điểm yếu của cá sấu. Nhờ
và đó mà nhiều nạn nhân của sấu đã thoát khỏi tử nạn trong gang tấc. Trong Sấu đớp
mà thoát được, ông Sáu Kiều bình tĩnh rút cây trâm cài bằng lông nhím đâm mạnh
vào mắt con sấu, nhớ thế mà ông thoát nạn. Hay như người chồng trong Đá cá sấu
biết trở thế đứng khi con sấu tiến lại gần,... Chính sự hiểu biết trong cách thức săn
mồi của cá sấu nên anh chàng thợ câu thiện nghệ trong truyện Ông Luồng ở sông
Tiên Thủy chẳng những không hề khiếp sợ mà anh ta còn giỡn với sấu: “tay không
ôm con vịt nhảy xuống sông nhử sấu”. Anh ta đợi cá sấu bơi đến gần, trồi đầu lên
khỏi mặt nước há miệng táp thì thừa cơ ném con vịt vào miệng cho sấu nuốt. Liền sau
đó, anh bơi vào bờ mà kêu dân chúng kéo dây mây lôi sấu vào bờ và xúm lại đâm
chết. Như vậy, sấu dữ trong truyện dân gian hiện lên là một quái vật ăn thịt người
nhưng những con người gan dạ nơi đây đã biết cách thuần phục chúng, biến vùng đất
đầy lau sậy sình lầy này trở thành một vùng đất màu mỡ. Đó chính là thành quả của
sự kiên cường, bám trụ, không ngại khó, ngại khổ của ông cha ta thời mở đất.
Những câu chuyện kể dân gian không chỉ ghi lại thực tế gian khổ mà con
người phải đối mặt trong cuộc mưu sinh mà còn cho thấy thái độ ứng xử của họ trước
sức mạnh của tự nhiên. Từ chỗ cá sấu hoành hành hại người, con người nảy sinh tâm
lí e sợ và tìm mọi cách tiêu diệt loài thủy quái này.
Như vậy, vào thời ấy ở khắp Nam Bộ đâu đâu cũng có loài cá sấu hung ác
chuyên bắt người ăn thịt, chúng trở thành nỗi khiếp đảm cho những người dân nơi
đây. Nếu như cọp là thủ lĩnh của vùng rừng rậm hoang vu thì cá sấu là con vật thống
trị dưới nước. Dưới nước cá sấu lội lềnh khênh, nhe những chiếc răng nhọn hoắt,
chơm chởm trong đôi hàm rộng hoang hoác chỉ chực chờ nuốt chửng người trên ghe,
xuồng.
Qua những câu chuyện kể trên ta thấy rằng cá sấu không chỉ làm hại đến cuộc
sống của người dân mà chúng còn được xem là một ác thần vùng sông nước, là nỗi
45
ám ảnh trong tâm thức của con người nơi đây. Chúng là hiện thân của loài thủy quái
hung tợn chuyên ăn thịt người. Trong cuộc chiến với cảnh rừng thiêng nước độc, con
người không chỉ chiến đấu với thiên nhiên khắc nghiệt mà còn phải đối đầu với loài
thú dữ. Trong cuộc chiến cam go không cân sức này cuối cùng phần thắng thiên về
phía những con người nhỏ bé. Họ không chỉ chinh phục được thiên nhiên mà còn bắt
thiên nhiên phục vụ cho mình.
Giới thiệu hoàn cảnh Sấu xuất hiện
Sấu phục chờ mồi
Dùng đuôi tạo sóng làm lật thuyền
Dìm nạn nhân bằng đôi hàm to khỏe
Ăn thịt nạn nhân : xé xác, nuốt.
Như vậy, ta thấy rằng trong truyện kể dân gian Nam Bộ, cá sấu nổi lên là một
hình tượng quái vật ăn thịt ghê ghớm; là nỗi ám ảnh mà người dân buổi đầu khai phá
phải nơm nớp lo sợ. Từ chỗ lo sợ, bị tấn công, con người sẽ dẫn đến tâm lý chống lại.
Đó là cơ sở của những người diệt sấu trong công cuộc khai phá nơi vùng đất mới này.
2.3. Cá sấu – đối tượng bị con người chinh phục, tiêu diệt
Ở vùng đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi này không phải chỉ có thuận lợi tất
cả, mà con người còn phải đương đầu với những khó khăn về thời tiết như mưa gió,
lụt, bão, hạn hán, về sự uy hiếp của thú dữ như cọp, cá sấu, thuồng luồng,...
Trong quá trình khẩn hoang lập ấp nơi vùng đất mới này những con người nơi
đây luôn phải đối đầu với những hiểm nguy từ các con vật hung ác như cọp, sấu, rắn
rết,.... và việc tiêu diệt chúng đã trở thành một nhiệm vụ cần thiết. Một trong những
46
sức mạnh của tự nhiên mà cư dân buổi đầu phải đối mặt đó là cá sấu. Quả thực, vào
lúc này sấu nhan nhản khắp nơi, ra sức tác oai tác oái, tạo ra sự khiếp đảm cho dân
chúng. Chúng có mặt khắp nơi, từ những cánh rừng già của miền Đông cho đến
những cánh rừng sác ven biển miền Tây, ngang nhiên qua lại những xóm làng còn
hẻo lánh cũng như xông thẳng vào chốn phố phường đô hội như chỗ không người.
Đúng như Trịnh Hoài Đức đã nhận xét: “Xứ này có nhiều cá sấu và cọp dữ”. Hay nói
như nhà văn Sơn Nam ở nơi mà: “Cọp sấu rống và nghé sát vách chòi”. Hoặc như
trong dân gian: “Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um”. Đây là hai loài ác thú hung
tợn mà con người luôn e sợ khi gặp phải chúng. Trong đó sấu là mối nguy hiểm cho
những con người sống trong vùng sông nước.
Vùng đất Nam Bộ với vô số ao hồ chằng chịt đã trở thành nơi trú ngụ lý tưởng
của loài thủy quái hung tợn này. Có lẽ tài liệu xưa nhất ghi chép về cá sấu ở Nam Bộ
là Gia Định thành thông chí: “Sông Tiên Thủy (tục gọi Sóc Sãi Hạ) ở về phía đông
sông Hàm Luông, cách trấn về phía đông 96 dặm. Sông rộng 4 tầm, sâu 1 tầm, làng
xóm chợ búa rất đông đúc, ghe thuyền tụ tập... Ngoài cửa sông có nhiều cá sấu, có
con to bằng chiếc xuồng, tính rất hung dữ, người đi qua phải coi chừng. Dân trong
vùng phàm có những ngòi nhỏ, dùng chở gạo củi, hay tưới rửa, thì ở miệng ngòi phải
trồng cọc dày kín, để ngăn dòng nước cho khỏi nạn cá sấu”.
Vùng bưng Ca Am (kênh Vĩnh Tế, An Giang) là nơi có nhiều cá sấu lửa. Sông
Vàm Nao (nối sông Tiền và sông Hậu), dài khoảng 7km nhưng lại là một trong
những nơi có mật độ sấu đậm đặc nhất. Các loại cỏ như nghể, đế, lục bình từ miệt
trên trôi xuống kẹt lại. Dân đi đào kênh Vĩnh Tế trốn về lội ngang sông này đa phần
đều bị sấu ăn thịt.
Trong 2 tháng của năm 1880, người dân ở Cổ Cò (Sóc Trăng) đã bắt được 189
con cá sấu để lãnh thưởng, diệt trừ mối hiểm họa. Khoảng những năm 1900-1910,
cọp, sấu còn hoành hành ở miền quê Bến Tre, Gò Công, An Hóa chứ không riêng
vùng sình lầy phía Cà Mau.
Ở cù lao Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy, Tiền Giang) mãi đến năm 1915, cá sấu vẫn
còn rất dạn dĩ, phá phách dữ dằn, khiến Đốc phủ Mầu, dữ khét tiếng, đã phải bỏ kế
47
hoạch ngăn rạch nuôi cá trên vùng đất này.
Sấu có nhiều loại: sấu cá, sấu bưng, sấu mun, sấu hoa cà... Sấu bắt được người
ta trói hai bên bờ ghe, thả dưới nước, chèo ghe bán dọc đường từ Nam Vang xuống
Cần Thơ (nay còn chỗ gọi rạch Đầu Sấu) hoặc bán lên Sài Gòn.
Đã vậy cảnh “rừng thiêng nước độc thú bầy” không phải một sớm một chiều có
thể chấm dứt được. Sử sách còn ghi lại, cho đến cuối thế kỉ XIX mà cọp, sấu vẫn còn
hoành hành cuộc sống của người dân. Khoảng năm 1900 – 1910, chúng còn tung
hoành ở miệt Bến Tre, Gò Công, An Hóa, Phong Điền,.... Như vậy, ta thấy rằng ở
đâu không cọp thì sấu là thú dữ cản trở cuộc khẩn hoang và gây tai hại cho con
người, cho cuộc sống.
Vậy là cùng với rừng thiêng nước độc, cùng với nhiều loài thú hung dữ khác,
cá sấu đã trở thành nỗi ám ảnh cho con người. Chúng không chỉ cướp đi những con
vật nuôi trong nhà mà còn cướp đi tính mạng của những con người nhỏ bé nơi đây.
Thậm chí thịt người còn là món khoái khẩu của chúng, chỉ cần một chút sơ hở là con
người trở thành miếng mồi ngon cho chúng. Và biết bao con người đã không thể
thoát khỏi nạn sấu bắt ăn thịt. Cá sấu xuất hiện trong truyện kể không chỉ là kẻ gian
ngoa, dối trá mà còn là một quái vật ăn thịt người. Chúng không chỉ phá hoại cuộc
sống của người dân mà còn là nỗi đe dọa cho tính mạng của con người. Bên cạnh
việc sùng bái tự nhiên, coi tự nhiên như một vị thần thì giờ đây con người lại cảm
thấy bất ổn khi họ nhận ra rằng dường như thiên nhiên nơi đây chưa thật sự hào
phóng với họ. Dù họ đã thuận theo tự nhiên nhưng thiên nhiên vẫn cứ hà khắc với họ.
Chính vì lẽ đó mà trong tâm thức của người dân tồn tại hai dòng ý nghĩa song song
nhau. Thứ nhất là sợ sệt, sùng bái tự nhiên. Thứ hai lại muốn thống trị, chinh phục
thiên nhiên. Cũng chính vì thế mà bên cạnh những câu chuyện kể cá sấu có nghĩa
(Trong truyện Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong chức Lang Lai
đại tướng quân) thì cũng xuất hiện hình ảnh cá sấu hại người. Và loại truyện này
chiếm tỷ số áp đảo trong tông số 29 truyện chúng tôi khảo sát được về cá sấu.
Cá sấu không chỉ tác oai tác quái, quấy nhiễu cuộc sống của nhân dân mà mỗi
48
lần nó xuất hiện đều hại người. Trước sự gian ác của loài ngạc ngư này mà con người
quyết tâm tiêu diệt chúng cho bằng được. Cho dù trong cuộc chiến không cân sức này
có khi con người phải hy sinh tính mạng của mình.
Trong nhóm truyện có nội dung trên, trong quá trình khảo sát dựa trên nguồn
tài liệu của các tác giả thì chúng tôi cũng đã tham khảo những bài viết đăng trên các
báo, các tạp chí và đã tổng hợp được tất cả 22/29 truyện có nội dung như trên. Đó là
các truyện: Truyền thuyết về thác nước L’iêng Hur, Truyền thuyết về Thác Trị An,
Sự tích Rạch bỏ lược, Chau Sanh – Chau Thông, Bồ - piêl diệt cá sấu khổng lồ, Cá
sấu đớp mà thoát được, Câu sấu, Sự tích miếu ông Cù, Bưng sấu hì, Ông Luồng ở
sông Tiên Thủy,...
Trong Sự tích Rạch bỏ lược người ta kể lại rằng: Thuở trước, vùng đất Cà Mau
nói chung, khu vực rừng Viên An nói riêng vẫn còn hoang vu lắm, chỉ có rừng rậm
và đầm bãi. Xung quanh đầy rẫy muỗi mòng, rắn rết và các loài thú dữ. Rừng Viên
An lại còn hoang vu hơn, người dân ở đây phải cất nhà sàn cao bằng cây đước để ở,
đường đi lại cũng làm bằng gỗ như cầu treo để tránh thú dữ, đặc biệt là cá sấu. Nạn
nhân của nó là một đứa bé con của người góa phụ nghèo. Đau đớn trước cái chết của
đứa con nhỏ, người mẹ nghèo này quyết tâm tiêu diệt con quái vệt để trả thù cho con.
Trong Sấu đỏ mũi kể lại rằng: Thuở ấy, ở làng Bình Hóa, huyện Thủ Đồn Sứ
(tức Tân Uyên - xưa thuộc Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương), sông Đồng Nai có
rất nhiều sấu đến nỗi muốn tắm giặt phải tốn công phu rào bến thành cái “bến
chuồng” nhỏ hẹp, không được bơi lội tự do. Gà, vịt, chó, heo bị sấu bắt thịt hàng
ngày. Dân chúng ai cũng oán sấu, nhưng nhiều người dầu bị sấu làm hại cũng không
dám oán trách lại còn làm thịt gà vịt để cúng thần sấu. Một trong những nạn nhân của
nó là người vợ của chàng thanh niên tên Năm Hải. Người vợ mới cưới của Năm Hải
vừa mới về nhà chồng thì bị sấu bắt trong lúc chị đang ngồi trên cầu rửa bát. Năm
Hải hận sấu khôn cùng nên thề là quyết giết cho bằng được con sấu ăn thịt vợ mình
mới thôi.
Hay như trong Sự tích miếu ông Cù người ta kể lại rằng: Ngày xưa, khi vùng
đất Định Thành còn hoang vu, con người sống thưa thớt cây cối rậm rạp với nhiều
49
thú rừng. Con sông Gành Hào chảy qua vùng đất này trông như một cái hàm rồng.
Dưới sông có một con cá sấu rất lớn thường nổi lên ăn thịt người nên dân trong vùng
ai cũng sợ. để đối phó với con sấu hung ác này người ta đành phải cấu cứu tới một
ông lái buôn đến từ Cần Thơ.
Điều đáng chú ý nhóm truyện này chúng tôi nhận thấy bên cạnh hình ảnh cá
sấu ăn thịt người là hình ảnh người nông dân đứng lên tiêu diệt loài thủy quái. Hình
ảnh của những người nông dân trong cuộc chiến chống lại thú dữ để bảo vệ sự bình
yên cho cuộc sống nơi vùng đất mới này hiện lên như một vị anh hùng. Họ không
phải là những người anh hùng được tô vẽ, được thần thánh hóa mà họ là những người
nông dân yếu ớt, đối lập với sức mạnh của cá sấu hung bạo. Họ thường là nạn nhân,
là những người thân của những người bị hại, đau xót trước cái chết của người thân,
của đồng loại mà ra tay tiêu diệt sấu để bảo vệ cuộc sống của cộng đồng. Họ lấy lòng
căm thù cộng với lòng dũng cảm để làm động lực trong cuộc chiến với kẻ thù.
Trong Sự tích Ông Luồng ở sông Tiên Thủy người nông dân anh hùng là một
anh thợ câu lành nghề, trong Đá cá sấu thì người nông dân anh hùng là người chồng
nghèo, trong Bưng sấu hì thì là hình ảnh người cha. Đôi khi người nông dân anh hùng
trong cuộc chiến với sấu lại là những người lớn tuổi như ông Sáu Kiều trong Bị sấu
đớp mà thoát được, là ông lái buôn trong Sự tích miếu Ông Cù. Vùng núi non An
Giang hiểm trở nhiều thú dữ nhưng cũng là nơi xuất hiện nhiều nhân vật kì tài đánh
sấu, diệt sấu, ông Bảy Thới ở vàm Linh Quỳnh,...
Nếu như người anh hùng trong các truyện cổ thường xuất hiện trong sứ mệnh
cao cả là đánh giặc hoặc tham gia đánh giặc giúp vua để bảo vệ giang sơn đất nước
thì những người anh hùng nông dân trong công cuộc đánh sấu, diệt sấu xuất phát từ ý
chí tiêu diệt cá sấu để trả thù cho những nỗi đau mất mát xảy ra đột ngột với bản thân
hay với cộng đồng. Trong số họ có người chiến đấu xuất phát từ nỗi đau của bản thân
như: Anh Năm Hải (trong Sấu đỏ mũi), trước cái chết đau đớn của người vợ trẻ, anh
quyết tâm giết chết con sấu hung ác để trả thù cho vợ mình. Là anh lực điền (truyện
Con sấu mê hát bội), vô cùng đau khổ trước cái chết của vợ trong ngày đám cưới.
Anh ta về rắp tâm giết cho bằng được con sấu, trả mối hận mất vợ. Anh gom góp hết
50
vốn liếng, gia sản đi mời cho bằng được 3 gánh hát bội nổi tiếng trong vùng và vận
động trai tráng ở các làng hợp sức với anh. Hay những người tình nguyện diệt sấu để
bảo vệ dân làng như ông lái buôn già cả (trong truyện Sự tích miếu Ông Cù),...
Trong công cuộc đánh cọp diệt sấu để bảo vệ sự sống cho mình không chỉ là
nhiệm vụ của những người đàn ông khỏe mạnh mà đó còn là nhiệm vụ của những
người phụ nữ chân yếu tay mềm. Trong nguồn truyện dân gian về cá sấu ta bắt gặp
hình ảnh người phụ nữ đánh sấu như: Sự tích rạch bỏ lược
Trong truyện Sự tích rạch bỏ lược, người mẹ khi chứng kiến cảnh người con
mình bị sấu cắp đi “đứa nhỏ chưa kịp buông tàu lá”, người mẹ vẫn còn nhìn thấy tàu
lá chạy vụt ra giữa sông, rút xuống dần, sau cùng chỉ còn cái chót lá rồi mất hút. Sau
khi tỉnh dậy, bà mẹ quyết tâm đi tìm xác con và giết chết con cá sấu để rửa mối thù.
Bà bơi xuồng vào bờ, lấy một cây mác vót và lặng lẽ ngồi mài lưỡi mác ngay tại đầu
vàm với ý định chờ con cá sấu xuất hiện giết nó để trả thù cho con. Suốt ba ngày
đêm, bà bắc bếp nấu cơm ăn tại chỗ đó, không ngừng chong mắt theo dõi khắp bờ
rạch, chờ con cá sấu quay trở về chỗ ẩn núp. Và cuối cùng lòng quả cảm của người
mẹ đã chiến thắng “một hôm có người đi chài gặp xác bà và xác con cá sấu nổi lềnh
bềnh trên mặt sông xuôi dòng nước trôi ra biển. Cán của cây mác vót vẫn còn cầm
chặt trong tay bà, lưỡi lút sâu vào hầu con cá sấu, hai chân con vật bám chặt vào lưng
bà”. Người mẹ dũng cảm ấy đã trả thù cho con bằng chính tính mạng của mình.
Chẳng ai biết tên tuổi người mẹ dũng cảm ấy. Người ta chỉ biết đó là một
người mẹ gan dạ, quyết chí trả thù cho con bằng được, dù phải đánh đổi bằng cái chết
của mình. Dân làng cảm thương và vớt xác bà lên, an táng tử tế như chôn cất người
thân. Sau đó, dân làng cất một ngôi miễu nhỏ bằng tre lá để thờ bà ngay tại vàm rạch
với di vật còn lại duy nhất là cái lược, được đặt trang trọng trên án thờ.
Họ mang dáng dấp của những người phụ nữ oai hùng, chẳng kém những nữ
tướng ngày xưa. Không thấy nơi đâu mà những người phụ nữ gan dạ gặp sấu mà
không hề e sợ, chẳng những dám đối mặt với chúng mà còn tiêu diệt được loài ác thú
hung tợn. Các bà các chị đã viết tiếp nên trang sử hào hùng trong công cuộc chinh
phục thiên nhiên ở vùng đất trẻ này. Vì vậy, những người dân hôm nay đã không
51
quên ơn những người đi mở đất, và đã tạc tượng các bà các chị bằng những trang kể
hào hùng về chiến tích xưa. Có lẽ các bà các chị đã khởi xướng nên truyền thống anh
hùng của những người phụ nữ đất phương Nam.Có thể nói, người phụ nữ phương
Nam nói chung, kẻ mở đất, người giữ đất đã không ngừng lập nên những chiến tích
hào hùng trong công cuộc bảo vệ non sông, đất nước. Những công trạng của họ phần
nào đã làm cho bức tranh xây dựng và bảo vệ đất nước thêm đẹp hơn.
Qua những cuộc chiến chống lại loài ngạc ngư hung ác ấy cho ta thấy một
điều rằng tự nhiên không phải lúc nào cũng “sóng yên biển lặng”, “xuôi chèo mát
máy” mà tự nhiên lúc nào cũng hung dữ như một loài quái vật. Và trong cuộc chiến
gian nan để giành quyền sống ấy con người phải chiến đấu tiêu diệt loài sấu hung dữ
để bảo đảm sự bình yên cho cuộc sống con người nơi vùng sông nước. Trong trận
chiến cam go không cân sức ấy phần thắng sẽ nghiêng về ai? Điểm chung mà chúng
tôi nhận thấy được trong những câu chuyện đánh sấu của người xưa là kết cục bao
giờ phần thắng cũng nghiêng về phía những người nông dân chân chất. Cá sấu bị
khuất phục trước sự mưu trí, gan dạ, dũng cảm của những người nông dân anh hùng.
Kết quả của cuộc chiến giữa người và sấu dữ đã cho ta thấy rằng bên cạnh cuộc chiến
chống lại nạn ngoại xâm thì cuộc chiến chống lại sự khắc nghiệt của tự nhiên cũng
không hề kém phần khó khăn, khốc liệt. Hình ảnh người dân Nam Bộ diệt sấu làm
chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của những người anh hùng (văn hóa) trong
truyền thuyết.
Tóm lại trong nhóm truyện này đã cho ta thấy hình ảnh của những người nông
dân anh hùng trong công cuộc đánh sấu. Cá sấu hung bạo tượng trưng cho sự khắc
nghiệt của thiên nhiên cuối cùng cũng bị khuất phục. Từ đó cho ta thấy rằng trong
cuộc sống nơi vùng đất mới Nam Bộ dầu có khó khăn, vất vả đến mấy chỉ cần con
người có lòng quyết tâm thì cuối cùng cũng vượt qua được. Đây cũng là một bài học
vô cùng quý báu mà ông cha ta muốn truyền lại cho con cháu ngày nay bằng những
câu chuyện kể dân gian.
Để tiêu diệt sấu thì ngoài việc dùng sức mạnh của bản thân, những người nông
52
dân anh hùng nơi đây còn biết sử dụng những công cụ vô cùng đơn sơ nhưng hiệu
quả như: lưỡi câu sắt, dao, mác vót hay thả xuống sông những trái bí rợ, trái mốp xác
nóng rực… để tiêu diệt sấu.
Trong sự thiếu thốn nơi vùng đất mới này, con người đã phải tận dụng tất cả
những công cụ có thể để đánh đuổi loài sấu hung dữ. Trong hoàn cảnh thiếu thốn
trăm bề nhưng những lưu dân nơi đây quyết tâm vượt lên trên tất cả để dựng xây một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bởi một điều, những người dân nơi vùng đất mới này
phần lớn là những con người tha hương từ miền ngoài vào. Như lời một tác giả nào
đó từng nói, dù thú dữ nơi này có hung bạo thì cũng không bằng bọn cường hào ác bá
chốn quê nhà. Hơn nữa, nơi này thiên nhiên hào phóng, tôm cá bạt ngàn, gỗ quý vạn
dặm, muông thú sinh sôi nảy nở,... đã cho họ một cuộc sống ấm no. Bên cạnh đó,
vùng đất này lúc bấy giờ chưa có ai cai quản nên họ mặc sức vẫy vùng dọc ngang trời
đất. Bởi vậy, dù thú dữ có hoành hành thì họ vẫn kiên cường bám trụ, không ai bỏ
đất, bỏ làng. Và họ quyết lòng tìm mọi cách để chiến thắng thiên nhiên hoang dã nơi
đây. Dần dần họ đã nắm được quy luật của tự nhiên, học hỏi được nhiều kinh nghiệm
trong những cuộc đụng độ với sấu dữ. Sống trong vùng đồng bằng sông nước họ biết
làm nhà cao để ở để tránh thú dữ, đi lại trên sông thì dùng thuyền bè. Cá sấu háu ăn
thì nấu những trái bí rợ nóng rồi quăng vào miệng chúng, con nào háu ăn táp nhanh
thì bị nóng giãy giụa kinh hoàng khiến những con khác cũng phải tránh xa.
Các truyện kể cho thấy bản lĩnh mạnh mẽ, phẩm chất nghĩa cử của con người
trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Để có thể tiêu dệt được loài sấu dữ con người nơi
đây không chỉ cần có sức mạnh phi thường mà cần có một bản lĩnh, một tài năng thật
sự. Và con người nơi đây đã hội tụ được tất cả những đặc điểm tốt đẹp ấy.
Một anh chàng có nghề câu sấu rất thiện nghệ (trong Sự tích Ông Luồng ở sông
Tiên Thủy) đã giúp dân làng câu được một con sấu dữ - một con sấu ác ôn mà bấy lâu
nay mọi người đều kinh sợ. Nó “có đến năm vây, mỗi chét tay là một vây dài sáu
thước, thường đón chặn những ghe xuồng đi lại trên sông quật đươi cho người trên
ghe sa xuống nước, hoặc làm cho úp chìm ghe đặng bắt người nuốt sống”. Bằng kinh
nghiệm của mình, anh đã tự mình ôm con vịt nhảy xuống nước dụ cá sấu. Đợi đến khi
53
sấu há miệng táo, anh liền ném con vịt vào cho sấu táp. Thế là anh chỉ việc lôi nó vào
bờ để mọi người chém chết con sấu hung ác. Câu chuyện đã mô tả cách bắt sấu của
người xưa. Nó thể hiện được sự thông minh, tài trí và sự dũng cảm của cha ông ta
thuở khai hoang mở cõi.
Trong Truyền thuyết về Đầu sấu Cái Răng kể lại rằng vì người vợ mới cưới
của Năm Hải vừa mới về nhà chồng thì bị sấu bắt trong lúc chị đang ngồi trên cầu rửa
bát. Nên Năm Hải hận sấu khôn cùng nên thề là quyết giết cho bằng được con sấu ăn
thịt vợ mình mới thôi. Anh đi rèn lưỡi câu, lao, búa để đánh nhau với sấu và anh nghĩ
ra cách dùng vịt để câu sấu. Bằng cách ấy, Năm Hải đã giết hàng trăm con sấu, nhưng
chưa diệt được con sấu đã ăn thịt vợ mình nên chưa hả dạ...
Bỗng một hôm, Năm Hải gặp được con sấu đỏ mũi rất to. Nó vừa mắc câu thì
lôi xuồng anh chạy như thuyền buồm gặp gió to. Anh càng phóng lao vào nó thì nó
càng vùng vẫy như điên làm cho cả khúc sông nổi sóng. Anh cố sức ghì sấu lại gần
để dùng búa mà chém. Sấu bị đau điếng, vừa giẫy chết, vừa dùng đuôi quật đắm
xuồng và bứt đứt dây câu mà chạy. Năm Hải liều chết phóng theo, một tay nắm lấy
đuôi nó, một tay dùng ngọn lao cuối cùng của anh mà đâm sâu vào tim sấu. Máu sấu
trào ra đỏ sông.
Hay như nhân vật chàng trai trong truyện Diệt cá sấu: Chứng kiến cảnh mọi
người trong đó có cha mẹ mình bị sát hại, chàng trai trở về tìm thầy học võ chờ ngày
trả thù. Ít lâu sau, chàng trai trở thành một đạo sĩ giỏi. Một hôm, chàng ra bến sông
giả làm khách qua sông chờ đò. Con cá sấu thấy vậy liền biến thành một khúc gỗ lớn
trôi tới chỗ anh. Chàng trai bước lên khúc gỗ, con cá sấu lập tức hiện hình định nuốt
chửng chàng trai. Nhờ có phép thuật biết trước sự việc nên chàng trai nhanh tay tuốt
kiếm đâm thẳng vào họng cá sấu. Sau một hồi vật vã, con cá sấu lăn ra chết dưới mũi
kiếm của chàng trai cắm trong họng. Từ đó, mọi người trong làng không còn sợ mỗi
khi đi thuyền qua sông.
Trong truyện Bưng sấu hì, vì oán hận trước cái chết của người con trai, nhân
vật người cha quyết tâm tìm cách trả thù cho đứa con tội nghiệp của mình. Nhờ vào
trí thông minh, sự bình tĩnh và hiểu biết về loài cá sấu, ông cho “đào một cái ao nhỏ
54
về phía ngược chiều gió, rồi vào rừng tìm cây mớp xác đốt lên”. Khói cây mốp xác
làm lũ sấu cay mắt, sặc sụa, tìm đường bò lung tung không sao ra khỏi hà lãng được
vì chung quanh đều không có nước. Để tránh cay mắt và không bị sặt chúng phải bò
về phía ngược gió và như vậy là từng con một bò vào cái rãnh được đào. Những
người hàng xóm cứ việc đè bắt tùng con, lấy dây mây xỏ mũi như xỏ mũi trâu và
dùng mác vót cắt rút lấy gân đuôi nên chúng không còn quẫy đạp làm gì được ai. Nhờ
vào cách làm này mà cả đàn sấu đều bị tóm sạch và người cha đã trả được thù cho
người con của mình.
Tuy nhiên, trong cuộc chiến với loài ác thú, con người không phải lúc nào cũng
ca khúc khải hoàn, mà tang thương, chết chóc lúc nào cũng có thể xảy ra. Mặc dầu
biết trước được điều đó, ta cũng không bắt gặp ở họ một chút do dự hay sợ hãi. Thay
vào đó là sự đương đầu với thử thách, là những cuộc chiến cam go để bảo toàn sanh
mạng cho mình. Đó là hình ảnh của bác sáu Kiều trong cuộc chiến với con sấu hung
tợn. Trong phút giây sinh tử “bỗng nhiên, ông Sáu bừng tỉnh, nhớ trên búi tóc có cây
lông nhím. Lấy chút sức lực còn lại, ông bình tĩnh rút cây lông nhím đâm mạnh vào
mắt con ác thú. Sấu co thân quẫy mạnh, há miệng rộng vì đau đớn, làm rơi con mồi
và lặn xuống nước”. Bác sáu Kiều đã chiến đấu với lòng quả cảm, gan dạ của những
người con đất Việt. Chính tinh thần ấy đã giúp bác vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống thường ngày nơi miền sông nước.
Trong nhóm truyện mà chúng tôi khảo sát được thì cách thức diệt sấu tiêu biểu
nhất là dùng vịt làm mồi câu câu sấu. Đối mặt với loài sấu, người thợ câu lành nghề
chỉ dùng một lưỡi câu sắt mắc vào đó con vịt làm mồi nhử là có thể bắt được cả bầy
sấu dữ. Nhờ vào sự hiểu biết về đặc điểm sấu không bao giờ nuốt mồi dưới nước nên
anh chàng thợ câu trong Sự tích Ông Luồng ở sông Tiên Thủy thị thường đợi cá sấu
bơi đến gần, trồi đầu lên khỏi mặt nước há miệng táp thì thừa cơ ném con vịt vào
miệng cho sấu nuốt. Trong truyện Câu sấu người ta kể lại rằng: Bấy giờ có người thợ
câu nhà nghề dùng một lưỡi câu sắt thật to, móc chặt một con vịt sống, rồi dùng dây
mây cũng to, xỏ qua lỗ hậu lưỡi câu dính liền với thân con vịt, đoạn anh nhảy ùm
xuống nước, bơi lội nhử mồi. Sấu nghe hơi liền nổi lên rượt đuổi. Người thợ câu lành
nghề kia biết sấu không có mang tai, không tài nào hả họng trong nước đặng; còn cái
55
đuôi sấu dẫu có cựa quậy cũng chẳng có hại gì. Như vậy mới trêu đùa với sấu và đợi
đến lúc nó tiến gần sát lại bên mình, cất lên mặt nước toan táp, anh mới thừa cơ ném
vịt tới miệng nó. Trong lúc sấu lo nuốt vịt thời anh thợ câu hụp xuống nước, lặn
ngắm vào bờ, hô nhau kéo riết dây câu vô rồi cùng với dân làng áp lại, đâm chết tươi
con sấu.
Đây là một trong những cách thức bắt sấu khá phổ biến và được nhiều người
áp dụng trong cuộc chiến với loài ngạc ngư này. Cách thức này đòi hỏi người bắt sấu
phải có sự bình tĩnh, gan dạ mới có thể làm được. Từ đó ta thấy được bản lĩnh của
ông cha ta trong buổi đầu khai hoang lập ấp nơi vùng đất Nam Bộ nhiều khó khăn,
cách trở.
Hay một cách bắt sấu khác được nhiều tác giả nhắc đến trong công cuộc chiến
đấu với loài thủy quái này là dùng trái mớp xác hoặc trái bí rợ đốt lên. Trái mớp xác
khi đốt sẽ cho ra khói mù mịt và sấu sẽ bị cay mắt không còn thấy đường, bò lung
tung. Người dân chỉ chờ có thế là bắt từng con một mà không sợ nguy hiểm (Bưng
sấu hì). Rõ ràng những chi tiết như đào ao, đốt mớp xác làm sấu cay mắt, dùng vịt
làm mồi câu đã thể hiện trí thông minh, sáng tạo và lòng dũng của những người dân
diệt sấu.
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh với sấu, không phải bao giờ cũng có cái kết
một mất một còn. Có những cuộc đấu tranh, dù rất khốc liệt và nguy hiểm, song cuối
cùng, bằng sự gan dạ, dũng cảm và thông minh của con người đã khuất phục được
sấu. Sấu chấp nhận bị khuất phục, từ bỏ việc ăn thịt người và tu tâm dưỡng tính.
Cũng cần nói thêm rằng, trong 29 truyện mà chúng tôi khảo sát, các tính chất
của sấu đan xen nhau. Trong một đơn vị truyện, sấu có thể là kẻ ăn thịt và là đối
tượng bị con người thu phục và tiêu diệt. Đây là các tính chất có quan hệ với nhau
hoặc ở nguyên nhân, kết quả, hoặc ở hoàn cảnh tính chất.
Có thể khái quát các tình tiết truyện kể về nhân vật Sấu với tư cách là đối
56
tượng bị con người tiêu diệt như sau :
Nhân vật tìm cách thu phục Sấu
Sấu ăn thịt người thân của nhân vật
Đối đầu
Sấu chết
Trong bước đường mưu sinh con người luôn phải đối diện với hiểm nguy luôn
chực chờ, nhất là nạn hùm tha sấu bắt, nhưng vì cuộc sống nên con người phải đánh
liều để đổi lấy miếng cơm manh áo. Tự mình vật lộn với chốn hoang sơ, tự mình đối
đầu với những thủ thách nơi vùng đất mới, những khi gặp nguy khốn con người phải
tự cầu mình hoặc cầu người tài giúp đỡ chứ chẳng có một quan binh nào có thể giúp
họ. Bởi vậy “thời thế tạo anh hùng”, ở đây dần dần nam phụ lão ấu, đàn bà, phụ nữ
đều có thể đánh sấu, diệt sấu. Những ông Sáu Kiều, người mẹ, anh Năm Hải, anh thợ
câu,... đều có thể đánh diệt sấu là chuyện bình thường.
Có thể nói, sức sống mãnh liệt đã làm nên khát vọng chiến thắng những thử
thách do thiên nhiên mang lại. Cuối cùng, thú dữ dù ương ngạnh đến đâu cũng bị con
người dùng trí tuệ và sức mạnh tiêu diệt.
Mặc dù có chung cội nguồn với văn hóa truyền thống, nhưng văn hóa Nam Bộ
lại chịu sự quy định của điều kiện môi trường địa lý nên văn hóa ở đây vẫn có những
nét khu biệt cao so với văn hóa cội nguồn. Cơ chế làng ở Nam Bộ là cơ chế mở chứ
không khép kín nên những khó khăn vất vả hiểm nguy về con người thời khai hoang
mở cõi, vật lộn với muỗi mòng, rắn rít, đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ… đã
57
được thể hiện bằng các truyền thuyết anh hùng.
Truyện kể dân gian Nam Bộ phản ánh nhiều mặt sinh động và phong phú của
cuộc sống. Các mẫu chuyện truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn,... về công
cuộc đánh sấu, diệt sấu đã phản ánh cuộc sống đầy gian khổ, khó khăn trong buổi đầu
lịch sử. Đọc truyện kể dân gian Nam Bộ về cá sấu ta thấy nổi bật lên tinh thần cần cù,
dũng cảm trong lao động và trong chiến đấu, đức thông minh và tài trí quyện chặt với
lòng lạc quan yêu đời, yêu lẽ phải và yêu tự do của một dân tộc.
2.4. Cá sấu – con vật có nghĩa
Nhắc đến sấu, người ta luôn nghĩ sấu là loài vật hung ác, chuyên ăn thịt người
và luôn là kẻ thù đe dọa cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát
về loài vật này chúng tôi nhận thấy rằng cá sấu không chỉ hại người mà còn cứu giúp
người trong lúc hoạn nạn. Đó là lí do chúng tôi mạnh dạn xếp chúng vào nhóm truyện
sấu có nghĩa. Do số lượng truyện hạn chế nên chúng tôi chỉ tìm được 4 truyện có nội
dung miêu tả sấu có nội dung như trên. Đó là những truyện: Bồ-piêl diệt sấu khổng
lồ, Sự tích thần Ô Ngạc Ngư, Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong
chức Lang Lai đại tướng quân, Trâu khôn sấu linh.
Những câu chuyện này đều xảy ra hết sức ly kì và hấp dẫn. Cá sấu hiện lên
trước mắt người đọc không còn là con vật hung tợn nữa mà còn là một trong những
nhân vật quan trọng đã nhiều lần cứu con người thoát khỏi hiểm nguy. Tiêu biểu nhất
là hai truyền thuyết về thời kì tẩu quốc của vua Gia Long. Có thể thấy được trong tâm
thức của những lưu dân Nam Bộ, hình ảnh cá sấu còn là một trong những con vật linh
thiêng, có tính linh.
Bản kể của tác giả Huỳnh Minh, mục “Những chuyện tích xưa ở Bạc Liêu”
trong Bạc Liêu xưa ghi: “Đoàn chiến thuyền đang dong ruỗi trên sông Ông Đốc thì
bỗng có một đàn cá sấu nổi lên đặc nghẹt cản đường. Thuyền chúa Nguyễn không
làm sao vượt qua được. Thấy sự lạ cho là điềm xấu, Nguyễn vương đứng trước mũi
soái thuyền lâm râm khấn vái: - Tôi là Nguyễn Ánh (…)”. Khấn vái xong, đàn cá sấu
lặn đi rồi nổi lên ba lần như lời khấn nguyện. Nhờ sự báo điềm này mà đoàn chuyến
thuyền của quân Nguyễn Ánh thoát khỏi sự mai phục của quân Tây Sơn. Về sau phục
58
được cơ nghiệp, Gia Long không quên ơn những giống vật đã cứu mình trong lúc
hiểm nghèo, phong cho đàn cá sấu mỹ danh là Tân Ngạc Ngư Long”. Về ý nghĩa cụ
thể, đây là tình tiết kể về sự tri ân, báo đáp của nhân vật bằng cách đặt tên con vật để
ghi nhớ hoặc sắc phong, ban lệnh thờ cúng hoặc qua sự việc người dân ghi nhớ đặt
tên, lập nơi thờ tự, tạo nên những địa danh, chứng tích văn hóa ở địa phương. Việc
đặt tên, phong tước hiệu, cho thờ phụng loài cá linh thiêng hay sắc tứ các chùa
chiền… cũng đưa đến ý nghĩa văn hóa ở các truyện kể.
Hay như trong truyện Trâu khôn sấu linh, lể lại rằng: Năm Quý mão (Năm
Quý mão âm lịch, 1783 dương lịch, năm thứ sáu đời vua Thái Đức (Tây Sơn) và năm
thứ tư đời vua Quang Trung) chúa Nguyễn đang đánh nhau với Tây Sơn, đặng lo
phục quốc. Tháng tư, chúa tôi ở tại Bến Lức. Giặc Tây Sơn do Nguyễn Văn Huệ,
Nguyễn Văn Lữ nghe chúa ở tại Bến Lức, liền đem binh tới đánh. Binh chúa thua
chạy tản bậy, giặc rượt chúa chạy tới Rạch Chanh, ý chúa muốn chạy sang bên kia
sông cho khỏi giặc, mà lại Rạch Chanh có nhiều sấu dữ nên chúa không dám sang.
May thay, chúa liền thấy một con trâu nằm dựa mé sông, chúa liền lên lưng trâu biểu
nó chở ngang qua sông. Trâu liền chở chúa lội ra xa, nước chảy mạnh quá, trâu hụt
chơn bơi không nổi, liền chìm xuống mà trôi, tức thì có một con sấu lớn trừng lên,
chúa nghĩ sấu trừng lên đặng gắp mình, ai ngờ là sấu kề lưng lại rước, chúa liền leo
lên lưng sấu lội qua sông. Giặc rượt theo tới mé sông, mắc sông giặc không có ghe
mà chèo theo. Con sấu nó lội riết qua sông, đến mé sông thì cặp vào bờ cho chúa
bước lên. Sau đó chúa đáp bộ chạy về Mỹ Tho, kiếm ghe chở mẹ và vợ ra Hòn Phú
Quốc.
Từ đó, ta thấy một điều, loài vật tuy không có nhận thức như con người nhưng
cũng có trí khôn, sấu tuy hung ác nhưng cũng biết hiện lên cứu người.
Trong truyện Bồ-piêl diệt sấu khổng lồ kể lại rằng: Sấu rất thích ăn thịt người.
Đó là mối đe dọa với người dân trên đảo. Nhưng vì kế sinh nhai nên họ đành đánh
bạo ra biển mò tôm, bắt cá về sống qua ngày. Mỗi khi nghe sóng động hay thấy bóng
dáng cá sấu thì ai nấy đều khiếp đảm và cầm chắc cái chết trong tay. Càng ngày con
sấu lại càng tỏ ra lì lợm hơn, vào tận cửa sông để bắt người ăn thịt.
Bồ-piêl thấy con sấu do chính người em mình nuôi ngày trước đã trở nên hung
59
hãn nên tìm cách tiêu diệt cá sấu. Một hôm Bồ-piêl giả làm chú tiểu, xuôi theo sông
Hậu, ra đến biển gặp cá sấu chàng bèn hóa thành một con cá sấu lớn, nổi vây năm
sắc xanh, đỏ, tím, nâu, vàng xé nước nhắm thẳng con sấu hung dữ mà lao tới. Hai bên
chiến đấu bảy ngày bảy đêm, và diễn ra trên một đoạn sông lớn từ “biêm Ra – rạch”
đến tận cửa biển. Sóng dâng cao từng đợt như những mái nhà, nước sông và biển đục
ngầu như vừa trải qua một trận cuồng phong.
Có thể thấy được trong trận chiến với con sấu ác hại người này, Bồ-piêl đã hóa
thân thành một con sấu nổi vây năm sắc để chống trả lại. Tại sao Bồ-piêl không biến
hóa thành một con vật khác mà lại là cá sấu? Phải chăng trong nhận thức của người
dân Nam Bộ để chống lại loài sấu ăn thịt người thì phải dùng chính sức mạnh của
chúng để chống lại chúng. Đó là lí do tại sao Bồ-piêl lại hóa thân thành cá sấu. Điều
này cũng chứng minh rằng bên cạnh hình ảnh sấu ác thì sấu có nghĩa cũng trở thành
hình ảnh quen thuộc đối với người dân nơi vùng đất mới này. Như chúng tôi đã nói ở
trên, đây chính là tính lưỡng nguyên trong con vật. Không con vật nào ác hoàn toàn.
Nếu như con hổ có tánh linh, biết ân đền hoán trả thì cá sấu trong truyện kể của
những người dân Nam Bộ cũng là những con vật có nghĩa, có tình. Chi tiết này thể
hiện khát vọng sống hòa mình với thiên nhiên của người dân nơi vùng đất mới.
Thú dữ tuy là đối tượng cản trở trên bước đường sinh cơ lập nghiệp của những
người dân “tứ chiếng”, nhưng bên cạnh đó thú dữ cũng là một lực lượng đối trọng
trong việc phù trợ con người đối đầu với những khó khăn khổ ải trong quá trình khẩn
hoang lập ấp của mình.
Trong truyện Sự tích thần Ô Ngư Ngạc, người ta kể lại như sau: Xích Ngư
Ngạc làm mưa làm gió địa phận của mình quen thói, một hôm rề vào lãnh địa của Ô
Ngư Ngạc đến vàm rạch Cái Bần. Thế là một trận quyết chiến xảy ra. Mặc dù thân
thể đã cụt đuôi, nhưng sấu mun cũng cương quyết vì bảo vệ dòng họ, nổi lên chạm
trán một còn một mất với sấu đỏ. Mọi người còn truyền nhau: Ban đầu nhìn thấy như
hai chiếc ghe cà dom có gắn máy cao tốc, một đen từ trong Ngã Ba Tàu, một đỏ từ
Cái Nước xé nước lao ào ào và đâm vào nhau. Sau một cú chạm mạnh đến rung rinh
mặt đất mấy cây số. Hai con sấu nhảy dựng cao lên tới ngọn bần, rồi rơi xuống, nước
tạt dựng phủ cả mé lá hai bên bờ sông. Trận đánh nhau của Ô Ngư Ngạc bảo vệ lãnh
60
địa với Xích Ngư Ngạc kéo dài đến 3 ngày đêm. Khúc sông từ Ngã Ba Tàu đến Vàm
Thầy Quơn sóng nước cứ nổi dậy ầm ầm, không một xuồng ghe nào dám qua lại.
Cuối cùng, sau một trận mưa to, con sông Cái Lớn lại êm. Mấy ngày sau, người ta
thấy xác con cá sấu đỏ xình lên, trôi tấp vào rượng đáy chỗ vàm rạch Cái Nước. Còn
sấu mun thì biến đâu biệt tích. Bà con vùng Ngã Ba Tàu cảm thương con sấu “thần”
biết quên mình chiến đấu dũng cảm, mặc dù tàn tật nhưng vẫn gan dạ chiến đấu
chống ngoại xâm, chia nhau tìm xác sấu mun. Thế nhưng tìm mãi chẳng thấy đâu, họ
đinh ninh là sấu đã chết, nên lập miếu thờ sấu tại mõm doi vàm xép. Mấy ông cụ thì
cho rằng: sấu mun không chết, mà trầm tích tại Ngã Ba Tàu, nằm cấn về phía doi đất
vàm xép mà tu hành. Rồi một ngày nào đó sấu sẽ “đắc đạo” hóa rồng mà bay lên
mây.
Như vậy, cùng với những người dân anh hùng trong cuộc chiến chống lại loài
thú dữ hại người thì những con sấu có nghĩa cũng là một lực lượng quan trọng giúp
đỡ những người dân Nam Bộ định cư trên vùng đất mới. Nếu như con người lập được
chiến công được mọi người ngợi ca, sùng bái thì những con vật có nghĩa cũng được
mọi mọi người ghi ân, tạc dạ. Họ tin rằng một ngày nào đó những con sấu có nghĩa sẽ
được tu hành đắc đạo, sẽ “hóa rồng” mà bay lên mây. Ngoài việc ban chức tước,
phong tước hiệu thì việc lập đền miếu cũng là một cách tri ân những con vật có nghĩa
đã có công cứu giúp con người. Từ những nhận định trên chúng tôi đưa ra mô hình
Con người gặp nguy hiểm
Cá sấu giúp đỡ (trực tiếp/ báo tin)
Con người thoát nạn và mang ơn sấu
Được phong chức tước, thờ cúng
61
hóa tình tiết của nhóm truyện về cá sấu có nghĩa như sau:
Việc phong chức tước và lập đền thờ cúng thần sấu không chỉ ở Nam Bộ mà
còn xuất hiện ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Có thể thấy một điều, việc lập đền thờ cúng
thần sấu ở vùng đất Nam Bộ không nhiều, chỉ rải rác ở một số nơi và vùng đất của
người Khmer Nam Bộ. Điều này khác với hình ảnh cá sấu trong truyện kể của khu
vực Bắc và Trung Bộ. Ở hai vùng đất này, cá sấu trở thành một biểu tượng và được
nhân dân thờ cúng, còn cá sấu trong truyện kể Nam Bộ mang tính chất hiện thực hơn,
nó gần gũi với đời sống của người dân nơi vùng đất mới này. Đây chính là nét sáng
tạo trong tư duy văn hóa của người dân Nam Bộ, ngoài tính chất kế thừa văn hóa
truyền thống thì sự sáng tạo cũng là một sự phát hiện mới trong nhận thức của người
dân Nam Bộ.
Với hình thức và nội dung khá ngắn gọn và hầu như không được ghi lại một
cách khoa học trong những tập truyện dân gian nhưng những mẫu chuyện về cá sấu
có nghĩa ở Nam Bộ vẫn đang tồn tại như một kiểu truyện về sấu đặc trưng của vùng
đất mới này. Và hơn hết nó vẫn đang sống âm ỉ trong tâm thức của người dân nơi đây
như một minh chứng cho tinh thần bao dung, vị tha và hào sảng của người dân vùng
đất phía Nam của Tổ quốc.
Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu và phân tích, chúng ta cũng thấy rằng những
câu chuyện kể về cá sấu ở Nam Bộ cũng thể hiện rất rõ tính đặc trưng của văn hóa
vùng miền. Trong cuộc sống hòa thuận của nhiều dân tộc cùng định cư trên một
mảnh đất. Truyện kể về cá sấu phần nào đã phản ánh được những nét vắn hóa rất đặc
trưng của con người nơi vùng đất Nam Bộ. Ngoài tính kế thừa nét văn hóa từ mảnh
đất tổ thì những con người nơi đây cũng đã sản sinh ra những nét văn hóa của riêng
mình. Đó là bên cạnh hình ảnh sấu hung ác thì vẫn tồn tại những con sấu có nghĩa,
sẵn sàng cứu giúp người khi con người lâm nguy. Đây có thể xem là một nét mới
trong tư duy của con người về loài thủy quái này. Trên mảnh đất mới đầy huyền bí,
62
đã và đang tồn tại nhiều câu chuyện về sấu mà không một nơi nào khác có thể có.
2.5. Cá sấu – con vật vong ơn bội nghĩa
Như vậy, ngoài đặc trưng là loài vật hung tợn, ăn thịt người và cũng là con vật
có nghĩa thì cá sấu trong truyện kể dân gian cũng xuất hiện với tính chất là một loài
vật vong ơn bội nghĩa. Ca dao Việt Nam có câu: “Nước mắt cá sấu” dùng để chỉ
những người xảo trá, lọc lừa và vong ân bội nghĩa. Và bản chất ấy được người dân
đúc kết từ những biểu hiện của loài cá sấu. Xuất phát từ tính chất nhân vật chức năng
của truyện cổ, nhân vật con cá sấu cũng là một kiểu nhân vật thuộc đặc trưng này.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi sưu tầm được 5 truyện có nội dung miêu tả như trên: Con Dukhi Dukhia (Trà Vinh), Chú thỏ thông minh, Con sấu bội ơn, Chuyện thỏ
và cá sấu, Cá sấu, Quạ và ông bà lão chở củi. Đây là hệ thống 5 truyện thuộc thể loại
truyện ngụ ngôn về con vật tinh ranh.
Với 5 truyện trên đủ để thấy rõ những đặc điểm của loại hình nhân vật chức
năng của truyện kể về nhân vật sấu. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta gắn cho con
sấu những phẩm chất có ý nghĩa âm tính như: bội ơn, phản trắc, lọc lừa và hung ác.
Trong truyện “Con sấu bội ơn” những phẩm chất của sấu đã thể hiện rõ những biểu
hiện trên kia. Khi được ông lão và cô cháu gái cứu khỏi cơn mắc cạn, cá sấu sau khi
được đưa ra sông thì đòi ăn thịt cô cháu gái. Đang lúc cần phân xử đúng - sai, Thỏ
xuất hiện. Diễn tiến câu chuyện và kết thúc sấu bị Thỏ chơi khăm nên chỉ cho ông lão
đập cho bẹp đầu, đến nay loài sấu có loài dẹp lép và khúc bụng thót lại. Và một hệ
lụy sau đó nữa, sấu phải đón nhận là thỏ lừa sấu để thoát khỏi cái miệng hung ác của
nhân vật này. Tiếp tục câu chuyện cho đến kết thúc sấu luôn lộ rõ phẩm chất là con
vật luôn luôn độc ác, nham hiểm, lừa bịp và cũng vì thế, sấu bị quạ trả đũa sau khi
sấu lừa cướp mồi ngon của quạ. Bi thảm hơn nữa là sấu bị người chồng của cô gái đã
từng cùng ông lão cứu sấu trong khi mắc cạn kết liễu mạng sống. Đây là một kết thúc
quen thuộc của truyện cổ nói chung, cái ác bị trừng trị.
Hay như trong truyện Cá sấu, Quạ và ông bà lão chở củi kể rằng: Trời năng
như thiêu đốt. Xung quanh không có một giọt nước. Cái khát càng đốt cháy cổ họng
sấu. Cuối cùng sấu không lê được nữa, đầu gục xuống, nước bọt sủi ra hai bên mép,
63
nằm thở dốc chờ chết.
May sao, lúc ấy có hai vợ chồng bà lão đi lấy củi về, đi ngang qua chỗ sấu
nằm. Sấu nài nĩ hai ông bà lão cứu giúp chở về bến sông và hứa sẽ tìm cách trả ơn.
Hai ông bà lão bèn lấy dây thừng buộc cổ sấu lôi về. Về tới bến sông, khi ông bà lão
tháo dây buộc ra, sấu bèn uống một bụng nước no nê. Lấy lại sức xong sấu bèn giở
giọng trở mặt ngay, sấu đòi ăn thịt hai ông bà lão vì cho rằng hai ông bà đã buộc cổ
mình quá chặt.
Như vậy, qua hai truyện trên ta thấy sấu hiện lên là một kẻ gian ngoa, xảo trá,
là kẻ vong ân bội nghĩa. Sấu không những không mang ơn người đã cứu giúp mình
mà còn trở mặt đòi ăn thịt chính những người đã cứu nó. Với dụng ý của tác gia,
truyện ngụ ngôn chủ yếu dùng loài vật làm phương tiện để nhận thức và lí giải những
vấn đề của con người và xã hội loài người và đưa ra những bài học kinh nghiệm. Đó
là phải biết ghi ân những người đã có công cứu giúp mình nếu không sẽ phải chịu
một kết cục thảm hại như nhân vật cá sấu trong truyện.
Ta thấy có một kiểu kết cấu trong hệ truyện ngụ ngôn, đó là khi con người bị
lừa (sấu trở mặt đòi ăn thịt) thì đúng lúc đó nhân vật thỏ hiện ra bày kế cứu giúp và
trừng trị con vật hung ác: Vừa lúc đó, thỏ đi ngang qua, thấy ông bà lão đang khóc
lóc, bèn bước đến bên. Sau khi tỏ rõ đầu đuôi sự việc, biết được tâm địa sấu xa của
con sấu, thỏ rất phẫn nộ, nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh.....Thỏ giúp ông cụ già ra sức siết
chặt dây thừng xung quanh cổ sấu căng hơn, rồi căng hơn nữa đến nỗi sấu ta bắt đầu
vùng vẫy, chới với hai chân trước.
Lúc ấy, thỏ mới ôn tồn bảo ông bà lão:
- Bây giờ, hai bác có thể yên trí dùng thanh củi mà đánh chết nó đi. Cái loài
vong ân bội nghĩa như thế để nó sống làm gì cho chật đất.
Một cách nhìn nhận khác, truyện ngụ ngôn khi xây dựng kiểu nhân vật thông
minh thường được xây dựng trên môtip là “mẹo lừa” và tài ”xử kiện” . Những con vật
thông minh bao giờ cũng là những con vật nhỏ bé, hiền lành, không có sức mạnh về
thể chất, nhưng khi gặp những tình huống cấp bách, nguy hiểm thì con vật nhỏ bé
biết dùng những mẹo lừa để lừa những con vật lớn và độc ác hơn. Bằng những mẹo
64
lừa đó con vật có thể tự cứu được mình hoặc có khi cứu được những con vật khác
đang gặp nguy hiểm, đồng thời dạy cho con vật to lớn hơn hung hăng, hống hách
những bài học đích đáng. Còn đối với những con vật ngu ngốc được xây dựng trên
môtip luôn luôn bị lừa và luôn luôn bị thua. Những con vật ngu ngốc này thường là
những con vật có ngoại hình lớn, có sức mạnh nhưng lại bị lừa bằng trí thông minh,
sự khéo léo và lanh lợi của những con vật bé hơn. Từ hệ thống đó, tác giả muốn phản
ánh một vấn đề nào đó trong xã hội hoặc nêu lên những bài học triết lí hay đạo đức
mà tác giả dân gian muốn thể hiện qua từng nhân vật con vật trong truyện.
Nhìn một cách tổng thể, nhân vật sấu nhận kết thúc cuộc đời bi kịch bởi tính
cách độc ác (sấu đòi ăn thịt cô gái), lừa bịp và gian xảo, sấu hiện thân là kẻ dối trá,
lọc lừa (sấu giả chết), có lúc theo tình huống truyện (sấu cướp mồi của quạ) sấu hiện
nguyên hình là một kẻ cướp. Từ tình huống truyện, đến diễn tiến, kết thúc truyện, tác giả dân gian «gắn» cho sấu những phẩm chất mang ý nghĩa tiêu cực và chức năng của
sấu trong loại truyện này không ngoài ý nghĩa biểu tượng cho cái ác mà trong tâm
thức người dân trong sinh hoạt hằng ngày, trong cách đối nhân xử thế cần lưu ý nhiều
hơn.
Từ những nhận định trên chúng tôi đưa ra mô hình hóa về các tình tiết của
Sấu mắc nạn
Van xin người giúp đỡ
Trở mặt đòi ăn thịt ân nhân
Thỏ xuất hiện, bày kế trả thù sấu
Sấu bị trừng trị đích đáng
65
truyện sấu vong ơn bội nghĩa như sau:
Qua câu chuyện ngụ ngôn về sấu vong ơn bội nghĩa tác giả dân gian muốn nêu
lên bài học cảnh báo cho những kẻ gian ngoa, xảo trá trong xã hội, phải biết sống thật
thà và không quên công cứu giúp của những người đã giúp đỡ mình lúc hoạn nạn.
Ngoài ra, trong truyện Con sấu bội ơn không chỉ khẳng định phẩm chất của sấu
mà còn có ý nghĩa giải thích tục khắc đầu sấu trên thành xe bò, giải thích hình dáng
sấu. Những chức năng này được phản ánh và nhận diện là nhờ vào phẩm chất tiêu
cực của sấu.
Qua truyện trên ta thấy rõ tính cách của người dân Nam Bộ là yêu - ghét rất rõ
ràng, sự phân biệt trái - phải, đúng - sai, tích cực - tiêu cực luôn luôn nằm ở thế đối
lập nhau. Sự xuất hiện của nhân vật lừa bịp, độc ác trong truyện sẽ có một nhân vật
khác đứng ra dành lại công lý như trường hợp của sấu - thỏ. Cặp đôi nhân vật này
xuất hiện cùng lúc sẽ góp phần làm rõ hơn tính cách của sấu qua từng tình tiết, tình
huống và cách kết thúc truyện.
Như vậy, ngoài bản chất là một kẻ hung tợn, hại người thì trong tâm thức dân
gian cá sấu còn hiện lên là một kẻ gian ngoa, xảo trá, vong ơn bội nghĩa. Điều này đã
được các tác giả dân gian ghi nhận lại qua những câu chuyện ngụ ngôn. Tác giả dân
gian muốn lấy chuyện loài vật để nói chuyện người, đây chính là những bài học quý
báu mà ông cha ta muốn răn dạy con cháu mai sau. Sống phải biết có trước có sau, có
nghĩa có tình nếu không sẽ nhận một kết cục thảm hại.
Tiểu kết chương 2
Tóm lại, ở chương hai, xét về số lượng truyện khảo sát được thì sấu xuất hiện
trong hai phương diện, vừa là quái vật ăn thịt người nhưng đồng thời cũng là đối
tượng để con người tiêu diệt. Chúng tôi thấy rằng ở cả hai phương diện sấu đều xuất
hiện với tần số dày đặc. Điều này phản ảnh những khó khăn vất vả mà con người phải
đương đầu nơi vùng đất mới này. Điều đó cho ta thấy bên cạnh xu hướng khuất phục
thiên nhiên trong đời sống thì xu hướng chinh phục, cải tạo thiên nhiên cũng không
kém phần quan trọng. Hai xu hướng này đã thể hiện cho chúng ta thấy được tính cách
66
của con người Nam Bộ là luôn muốn hòa mình với thiên nhiên. Đúng như tác giả Chu
Xuân Diên từng nhận xét: Trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, người Việt
phụ thuộc vào tự nhiên, nương nhờ vào tự nhiên hơn là chiếm lĩnh, làm chủ tự nhiên.
Từ đó cho ta thấy khuynh hướng này thể hiện thành sự tôn trọng, sùng bái tự nhiên,
trong hành động thể hiện những sự lựa chọn thích nghi với tự nhiên, tận dụng sức
mạnh của tự nhiên, trong sinh hoạt thể hiện lối sống hòa hợp cùng với thiên nhiên,
gắn bó với môi trường tự nhiên.
Bên cạnh hình ảnh sấu ác và là đối tượng để con người tiêu diệt thì cá sấu có
nghĩa cũng là một đề tài khá thú vị được chúng tôi khảo sát và phân tích. Từ những
nhận định của mình chúng tôi cho rằng cá sấu trong tâm thức dân gian của người dân
Nam Bộ không chỉ là quái vật ăn thịt người mà còn là những con vật có ân có nghĩa,
biết cứu giúp con người khi con người gặp nguy khó. Chúng tôi cho rằng, một số
cách kiểu kết thúc của truyện bằng việc thu phục nhân tâm; sấu tu tâm dưỡng tính trở
thành nhân vật tốt… phản ảnh tư duy của người Việt đồng thời cho thấy đã có sự ảnh
hưởng của phật giáo trong tư duy truyện cổ dân gian Nam Bộ.
Truyện về sấu trong dân gian Nam Bộ không chỉ ghi lại bằng những câu
chuyện truyền thuyết mà còn được tác giả dân gian để lại thông qua những câu
chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa. Nếu ở trên sấu hại người thì ở đây sấu còn là một con
vật vong ơn bội tín. Điều này được tác giả dân gian đúc kết dựa trên bản chất của loài
thủy quái này. Qua đây, tác giả dân gian muốn khẳng định rằng: con người có mưu trí
dù nhỏ bé, yếu đuối cũng có thể thắng được kẻ có sức mạnh mà không có mưu trí.
Đồng thời qua đó để rút ra những ”bài học triết lí hay đạo đức, hoặc một kinh
nghiệm sống mà tác giả dân gian của nó đã tổng kết và muốn nói ra được bằng lời
một lối nói kín đáo”.
Như vậy, bằng tài đức của mình, người dân mới đến đã làm cho cồn đất âm u,
chốn chốn quạnh quẽ trở nên đông vui, màu mỡ. Người đến càng đông, rắn rít không
còn, thú dữ dần dần tìm về những miệt rừng tận miền trên. Đầu cồn cuối bãi bây giờ
san sát ruộng lúa nương khoai. Người dân đào mương dẫn nước vào cồn, xây cồn, lập
vườn cây ăn quả. Nhà cửa mọc lên san sát, người dân đi lại trên sông dập dìu. Sức
67
sống mãnh liệt đã làm nên khát vọng chiến thắng những tai ương do thiên nhiên
mang lại. Cuối cùng, thú dữ dầu có ương ngạnh tới đâu cũng phải dần khuất phục
68
trước sức mạnh và trí tuệ của những người đi mở cõi.
CHƯƠNG 3: NHỮNG MOTIF CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA HÌNH
TƯỢNG CÁ SẤU TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN NAM BỘ
3.1. Một số motif cơ bản trong truyện kể dân gian về cá sấu ở Nam Bộ
Motype là thuật ngữ vay mượn tiếng Pháp (motif), thuật ngữ này đã được
nhiều nhà khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến. Theo
định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học, thì motif là mẫu đề, “nhằm chỉ những
nhân tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được
sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật
dân gian”.
Trong 29 truyện kể dân gian về sấu ở khu vực Nam Bộ thu thập được; qua quá
trình phân tích đặc điểm như ở chương 2, chúng tôi nhận thấy một số motif tiêu biểu
như sau:
3.1.1. Motif Sấu ăn thịt người và vật nuôi
Motif này xuất hiện với tần số khá lớn, 22/29 truyện. Dù truyện kể có liên quan
đến địa danh hay lịch sử văn hóa, thì đều cũng phản ánh một thực tế khắc nghiệt của
buổi đầu mở đất mà ở chương 2 tôi đã nhắc tới nhiều lần. Đó là nạn sấu hoành hành
cản trở bước đường lập nghiệp của ông cha ta. Bởi thế, trong hệ thống những truyện
dân gian về vùng đất mới này không thể thiếu những truyện về nạn sấu dữ gây hại
cho con người.
Vì cuộc mưu sinh nên ông cha ta mới tìm đất còn nhiều hoang vu này để sinh
cơ lập nghiệp. Trong cuộc mưu sinh này ông cha ta phải phá rừng làm rẫy, làm
ruộng. Mà như vậy nghĩa là đã lấn chiếm đến nơi sinh sống của loài sấu dữ. Và lẽ dĩ
nhiên là một khi môi trường sinh sống bị đe dọa thì chúng phải cản phá để bảo tồn
địa bàn sinh sống. Hơn nữa trong mắt chúng, con người lại là một miếng mồi ngon
không thể bỏ qua được. Vậy là cuộc đọ sức giữa người và thú dữ diễn ra một cách
khốc liệt, dai dẳng.
Cuộc chiến diễn ra dữ dội giữa cá sấu hung tợn với những nhân vật có sức
69
mạnh phi thường, tài nghệ biến hóa như Bồ Piêl; Chau Thanh; thông minh, dũng
cảm, am hiểu về loài sấu như nhân vật anh chàng đi câu trong Chuyện kể về cá sấu
trấn Vĩnh Thanh; hay những người dân bình thường như vợ chồng người nông dân
trong Bưng Sấu Hì; người đàn bà tay yếu chân mềm nhưng can trường trong Sự tích
rạch Bỏ lược, v v... Tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về công cuộc khai hoang
đầy vất vả, gian lao của cha ông đi trước.
Truyện có xảy ra với nhiều sự việc, tình tiết hoàn toàn khác nhau, nhân vật,
cách thức thực hiện cũng khác nhau, nhưng đều mang cái chung nhất vẫn là cuộc
chiến đấu quyết liệt giữa người và sấu. Dù kết thúc cuộc chiến với loài sấu dữ con
người có chiến thắng hay thất bại, điều thể hiện ý chí sắc bén, tinh thần hỏa cảm và
nghị lực phi thường. Nó góp thêm vào bức tranh hào hùng thời kì mở cõi của người
xưa qua nhiều thăng trầm của lịch sử một nét nhìn toàn diện và cao đẹp.
Nhìn chung, motif sấu ăn thịt là một trong những motif chính trong các truyện
kể dân gian về sấu ở Nam Bộ. Motif này vừa thể hiện bản chất tiêu biểu của hình
tượng sấu là quái vật ăn thịt, đồng thời làm tiền đề cho motif diệt sấu về sau.
3.1.2. Motif tiêu diệt cá sấu
Motif này xuất hiện 22 lần trong 29 truyện. Như một hệ quả tất yếu của việc
sấu ăn thịt người, vật nuôi, quấy phá cuộc sống con người, người dân đã đứng lên tìm
cách diệt sấu. Như chúng tôi đã trình bày ở chương 2, cách thức tiêu diệt ác thú cũng
rất đa dạng. Người dân dùng câu, dùng mác, dùng cả gậy thậm chí là những công cụ
lao động thô sơ để đánh sấu. Bên cạnh những người tài giỏi như những dũng sĩ thì đa
số người tiêu diệt sấu là những người nông dân bình thường, thậm chí cả phụ nữ, vì
căm phẫn trước hành vi ăn thịt người của sấu mà dũng cảm đứng lên đánh đuổi. Đôi
khi sức mạnh tập thể cũng được phát huy trong các cuộc đánh đuổi, tiêu diệt thế lực
thù địch đến từ sông nước. Rõ ràng, ngay từ buổi đầu khai hoang lập ấp, những người
dân Nam Bộ đã biết đồng sức đồng lòng, sử dụng trí thông minh, lòng dũng cảm của
mình để vượt qua những trở lực đến từ tự nhiên. Đặc điểm này là cơ sở quan trọng để
70
hình thành nên tính cách Nam Bộ sau này.
3.1.3. Motif sấu cứu giúp người
Motif này xuất hiện 4 trong tổng số 29 truyện mà chúng tôi khảo sát, bao gồm:
Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong chức Lang Lai đại tướng quân;
Bồ-piêl diệt cá sấu khổng lồ; Sự tích thần Ô Ngạc ngư; Trâu khôn sấu linh.
Nếu như trong tâm thức dân gian của người dân Nam Bộ, hổ dữ tuy hại người
nhưng cũng có tính linh, biết ân đền oán trả thì sấu lại là loài quỷ quyệt, chỉ biết hại
người. Motif này cho thấy, trong tâm thức dân gian, cá sấu đôi khi vẫn hiện lên với tư
cách là một nhân vật tốt, có tình nghĩa, biết phải trái phân minh. Xét cho cùng, đây là
một sự sáng tạo trong tư duy truyện cổ, đồng thời phản ánh tư tưởng lưỡng nguyên
trong cách nhìn nhận sự vật hiện tượng.
Người Khơ Me có tục thờ cúng cá sấu như một vị thần đại diện cho vùng nước,
gọi là thần sông thì không có gì ngạc nhiên khi nhân vật Bồ Piêl biến thành con cá
sấu để chiến đấu với con cá sấu hung tợn, gây hại cho loài người. “Bồ-piêl thấy con
sấu do chính người em mình nuôi ngày trước đã trở nên hung hãn nên tìm cách tiêu
diệt cá sấu. Một hôm Bồ-piêl giả làm chú tiểu, xuôi theo sông Hậu, ra đến biển gặp cá
sấu chàng bèn hóa thành một con cá sấu lớn, nổi vây năm sắc xanh, đỏ, tím, nâu,
vàng xé nước nhắm thẳng con sấu hung dữ mà lao tới. Hai bên chiến đấu bảy ngày
bảy đêm, và diễn ra trên một đoạn sông lớn từ “biêm Ra – rạch” đến tận của biển.
Sóng dâng cao từng đợt như những mái nhà, nước sông và biển đục ngầu như vừa trải
qua một trận cuồng phong”. Ở đây, tại sao Bồ-Piêl không biến thành một loài động
vật nào khác như: cá voi, cá mập, cá heo, ... mà lại là cá sấu? Có lẽ, chính vì lối tư
duy vốn có của người dân nơi đây: phải có sự cân tài cân sức mới mang tính thuyết
phục cao cho chiến thắng Bồ Piêl; bên cạnh đó, cá sấu cũng là đối tượng trợ giúp cho
con người, cứu giúp con người. Đấy như một cách lí giải về cốt truyện của truyện Bồ
Piêl diệt sấu khổng lồ.
Hay như trong truyện Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong
chức Lang Lai đại tướng quân kể lại rằng khi chúa Nguyễn Ánh đang trên đường tẩu
quốc, trước sự truy đuổi sát sao của quân Tây Sơn, đoàn chiến thuyền của chúa
71
Nguyễn Ánh dung ruỗi trên sông Ông Đốc. Bỗng lúc ấy có một đàn cá sấu đặt nghẹt
nổi lên chặn đường. Chúa Nguyễn thấy điềm lạ bèn khấn vái rằng: “Tôi là Nguyễn
Ánh, đông cung thừa nghiệp của tiên vương, bị quân Tây Sơn đuổi đánh phải bôn
đáo, đang ở vào lúc thế cùng vận bĩ. Nay tôi định lánh xa cường tặc, chiêu binh mãi
để khôi phục cơ đồ, đàn cá sấu kia sao dám chặn đường ta? Phải chăng lòng trời còn
nương tựa nhà Nguyễn, xui khiến đàn sấu chỉ điểm cho tôi biết nguy hiểm đang đón
chờ, ỏ đầu sông kia là tử lộ? Nếu phải vậy thì đàn sấu kia hãy dang ra đi rồi tái hiện
ba lần. Bằng không hãy để tôi tiếp tục hành trình, vì thời gian rất quí báu”. Nguyễn
chúa khấn vái xong đàn sấu bỗng lặn đi mất. Nhưng một lát sau lại nổi lên cản đường
nữa, và làm như vậy đúng ba lần. Nguyễn Ánh tin điềm, liền ra lệnh cho chiến thuyền
quay trở lại, đồng thời phái thám tử đi dò xét thử. Vài hôm sau thám tử trở về, báo
cho biết rằng quả có lực lượng Tây Sơn rất hùng hậu phục kích ở cuối sông Ông Đốc.
Bằng cách hiện thân ba lần, cá sấu đã giúp chúa Nguyễn Ánh thoát khỏi hiểm nguy
trên bước đường loạn lạc của mình.Và để ghi ơn bầy sấu có nghĩa trên, Nguyễn Ánh
đã phong chức tước cho sấu là “thần Ngạc Ngư Long”. Đây là một cách trả ơn cho
loài vật có nghĩa đã ra tay giúp đỡ khi con người gặp hoạn nạn.
Hay như trong câu chuyện Sư tích thần Ô Ngư Ngạc kể lại rằng: Thời mới lập
làng, sông Cái Lớn, từ cửa sông vào độ 30km tới ngã ba đầu tiên, đó là Ngã Ba Tàu
thuộc địa phận xã Vĩnh Phước A, có một con sấu cụt đuôi thường nổi lên, nhưng rất
hiền lành, người ta gọi là Ô Ngạc Ngư. Một hôm có con sấu hung dữ Xích Ngạc Ngư
rề vào lãnh địa của Ô Ngư Ngạc đến vàm rạch Cái Bần. Thế là một trận quyết chiến
xảy ra. Mặc dù thân thể đã cụt đuôi, nhưng sấu mun cũng cương quyết vì bảo vệ dòng
họ, nổi lên chạm trán một còn một mất với sấu đỏ. Mọi người còn truyền nhau: Ban
đầu nhìn thấy như hai chiếc ghe cà dom có gắn máy cao tốc, một đen từ trong Ngã Ba
Tàu, một đỏ từ Cái Nước xé nước lao ào ào và đâm vào nhau. Sau một cú chạm mạnh
đến rung rinh mặt đất mấy cây số. Hai con sấu nhảy dựng cao lên tới ngọn bần, rồi
rơi xuống, nước tạt dựng phủ cả mé lá hai bên bờ sông. Trận đánh nhau của Ô Ngư
Ngạc bảo vệ lãnh địa với Xích Ngư Ngạc kéo dài đến 3 ngày đêm. Khúc sông từ Ngã
Ba Tàu đến Vàm Thầy Quơn sóng nước cứ nổi dậy ầm ầm, không một xuồng ghe nào
dám qua lại. Cuối cùng, sau một trận mưa to, con sông Cái Lớn lại êm. Mấy ngày
72
sau, người ta thấy xác con cá sấu đỏ sình lên, trôi tấp vào rượng đáy chỗ vàm rạch
Cái Nước. Còn sấu mun thì biến đâu biệt tích. Bà con vùng Ngã Ba Tàu cảm thương
con sấu “thần” biết quên mình chiến đấu dũng cảm, mặc dù tàn tật nhưng vẫn gan dạ
chiến đấu chống ngoại xâm, chia nhau tìm xác sấu mun. Thế nhưng tìm mãi chẳng
thấy đâu, họ đinh ninh là sấu đã chết, nên lập miếu thờ sấu tại mõm doi vàm xép.
Qua những truyện trên ta thấy rằng cá sấu không chỉ xuất hiện là loài thủy quái
chuyên ăn thịt người mà còn là một con vật nghĩa tình đã ra tay giúp đỡ những người
khốn khó trên bước đường lâm nguy. Tuy mẫu chuyện này không nhiều nhưng nó
góp cho ta một nét nhìn mới về loài thủy quái hung tợn này. Phải chăng xuất phát từ
tinh thần vị tha, từ bi bác ái của đạo phật đã thâm nhập vào trong tư tưởng của người
dân, để từ đó con người ta có cái nhìn vị tha hơn về cuộc sống xung quanh?
Nội dung mô hình cốt truyện trên cũng nhằm góp phần thể hiện nỗi mong
muốn hòa nhập với thiên nhiên, sống hòa bình với thú dữ. Tư duy của người Nam Bộ
cũng là lối suy nghĩ vốn có của người Việt Nam từ ngàn xưa: sống hòa nhập, chang
hòa với thiên nhiên, không có sự mâu thuẫn nào giữa con người và môi trường sống
tự nhiên.
3.2. Ý nghĩa của truyện kể dân gian về cá sấu ở Nam Bộ
3.2.1. Truyện dân gian về cá sấu phản ánh vẻ hoang vu của thiên nhiên và quá
trình chinh phục của người dân Nam Bộ thời mở cõi
3.2.1.1 Vẻ hoang vu của thiên nhiên vùng đất Nam Bộ xưa
Nam Bộ được biết đến như một vùng đất mới vì quá trình khai hoang, lập làng
muộn hơn so với những vùng đất khác. Trước khi người Việt, người Hoa, người
Chăm,... vào thì nơi đây là vùng đất hoang sơ, ẩm thấp, cây cối rậm rạp, ... Trong Phủ
Biên tạp lục của Lê Quý Đôn ở thế kỉ XVIII đã có ghi chép như sau: Ở Phủ Gia Định,
đất Đồng Nai từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu, toàn là rừng rậm
hàng ngàn dặm”. Trong Địa chí Đồng Tháp Mười có ghi chép lại: “Cách đây 50 đến
60 năm, vùng Mộc Hóa còn có cá sấu ăn thịt người. Tại Vàm Ba Thắng Hiệp, còn có
thời kỳ chống Mỹ, thậm chí đến năm 1960 vẫn còn loại cá sấu to. Trong chống Pháp,
73
ở Chùa Nổi vẫn còn cá sấu, có truyền ngôn là ghe trễ (tức ghe bên cạnh có dàn lưới)
nếu gặp cá sấu thì phải giải nghệ. Năm 1974, có người còn gặp cá sấu to trong vịnh
xuống Nồi Gọ” [24, tr.79]
Và trong tâm thức của rất nhiều thế hệ cha anh, miền đất mới này vô cùng giàu
có, trù phú. Ca dao Nam Bộ đã ghi lại những cảm xúc đầu tiên khi con người mới
bước chân vào:
“Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua.”
Hay:
“Ai về Gia Định thì về
Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn.” ...
Nhưng nơi giàu có, trù phú ấy cũng ẩn chứa biết bao điều sợ hãi, ghê rợn,
thách thức con người khi đến đây: “Muỗi kêu như sáo thổi/ Đỉa lội như bánh canh/
Cỏ mọc thành tinh/ Rắn đồng biết gáy”.
Nghe qua những câu ca dao - dân ca trên, chúng ta tưởng chừng như các tác giả
dân gian đang cường điệu để gây thêm phần hấp dẫn. Tuy nhiên, dù có pha chút
phóng đại nhưng vốn dĩ đất Nam Bộ xưa qua nhiều thư tịch cổ, những nhân chứng
sống, không ai có thể chối bỏ sự um tùm của lau sậy, bạt ngàn của rừng rậm, vắng vẻ
ít bóng dáng con người, ... Chính đây là điều kiện thuận lợi để các loài vật như: muỗi,
đỉa, chim chóc, cọp, sấu, ... sinh sống và phát triển. Vì vậy, những hiện thực cuộc
sống ấy được phản ánh khá rõ nét trong văn học dân gian Nam Bộ.
Ngày nay, trước mắt chúng ta là một vùng đất Nam Bộ giàu có về kinh tế,
thông thoáng về giao thông, trù phú về khoáng sản, ... khó mà có thể hình dung ra
được vẻ hoang sơ của thiên nhiên trong buổi đầu khai phá. Chính những câu chuyện
truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ca dao, dân ca, hò vè, ... đã ghi lại hình ảnh ban đầu
ấy của Nam Bộ xưa. Trong đó, truyện kể về sấu cũng góp một mảng nhỏ vào việc thể
hiện sự trù phú về sản vật nhưng cũng đầy hiểm trở của vùng đất Nam Bộ xưa.
Câu chuyện Bị sấu đớp mà thoát được vừa thể hiện cuộc sống của những lưu
dân “tứ chiếng” trong buổi đầu đến đất Nam Bộ, cũng vừa vẽ nên bức tranh hoang vu
74
của thiên nhiên nơi đây. Truyện kể: “Chuyện này xảy ra đã lâu lắm, hồi ấy vùng Cà
Mau còn nhiều trăn, rắn, kỳ đà,... và nhất là cá sấu” [17, tr 298]. Ông Sáu Kiều ở ấp
Cây Me, xã An Viên Tây, theo đạo Cao Đài và là tay thợ săn dày dạn các loại heo
rừng, trăn, kỳ đà, ... Ở vùng rừng đước Năm Căn. Một hôm ông đi vào vùng rạch Ông
Đôi, ấp Ông Trang để săn kỳ đà. Tại đây, ông Sáu Kiền bị một con sấu “bằng chiếc
xuồng ba lá” [17, tr 298] nhanh như chớp đớp gọn bắp chân ông. Nhờ sự dũng cảm
và bình tĩnh trong việc ứng phó với con sấu, ông Sáu Kiền đã thoát chết trong gan tất.
Ở đây Rạch Ông Đôi được giới thiệu là: “rộng chừng bốn chục thước, sâu sáu bảy
thước, hai bên bờ cây cối rậm rạp, hoang vắng, yên tĩnh” [17, tr 298]. Trước vẻ
hoang vu ấy, con người sinh sống nơi đây phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, gian
khổ, nguy hiểm để có thể tồn tại.
Tương tự như truyện kể trên, một số câu chuyện khác miêu tả về cá sấu với số
lượng rất lớn làm người nghe phải rợn người như: “Thuở xưa ở sông Bến Nghé có rất
nhiều sấu. Chúng thường bơi lội trên sông và kêu như nghé rống. Do vậy sông này có
tên là sông Bến Nghé” (Sự tích sông Bến Nghé). Hay “Thuở ấy, U Minh còn hoang
vắng lắm. Thú rừng đi lại thị thường ngày cũng đêm. Dưới sông sấu lội lềnh khênh.
Trên bờ cọp gầm rống kinh hồn. Chẳng mấy ai dám léo hánh đến”... Không gian
trong truyện hiện lên đầy vẻ hoang sơ, âm u làm người ta phải e dè và khiếp sợ: “Tới
đây xứ sở lạ lùng/ Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh”.
Có thể thấy rằng, vào thời đầu cuộc khai hoang mở cõi, ở Nam Bộ đâu cũng là
rừng rậm, sông sâu thì có cá sấu, trên rừng có cọp - những loài thú dữ. Chúng sống
thành bầy đàn, rất đông và là mối nguy hiểm đối với những người mới di cư vào vùng
đất này.
Những truyện kể trên đã làm nổi bật dấu ấn về thời kỳ khai phá và hình ảnh
của những con người trong cuộc chinh phục, cải tạo thiên nhiên ở Nam Bộ xưa. Như
tác giả Nguyễn Phương Thảo nhận xét: “Hiện ra trong các tác phẩm Folklore ở mọi
thể loại là một thiên nhiên của thời kỳ khai phá, dấu vết của một thời gian lao có thể
mờ nhạt khi màu xanh cây cỏ, sự trù phú của những cánh đồng xuất hiện nhưng trong
75
kí ức con người, thiên nhiên ấy lại hoang vu, gợi ra sự hoang vắng khi con người mới
đặt chân tới” [52, 1997]. Và những câu chuyện kể về cá sấu ở Nam Bộ đã tái hiện lại
cảnh tượng hoang vu một thời.
Tuy là một mảng nhỏ trong loại truyện kể dân gian về đề tài động vật ở Nam
Bộ, cũng như là truyện cổ Nam Bộ nhưng những câu chuyện trên góp phần không
nhỏ khi nhấn mạnh thêm vẻ hoang sơ, nê địa, âm u. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng
không gian hoang sơ trong truyện kể chính là không gian thực tại, đặc trưng của vùng
đất Nam Bộ. Nó đánh dấu quá trình con người đến đây khai hoang, lập làng, mở cõi.
3.2.1.2 Phản ánh quá trình chinh phục thiên nhiên của người dân Nam Bộ
Nói đến Nam Bộ là nói đến một thời kì khai phá vùng đất mới đầy khó khăn,
gian khổ. Đến vùng đất này, những lưu dân đã gặp phải không ít những thách thức
khi đối mặt với cảnh tượng hoang vu, rừng cây rậm rạp, đầm, bưng đầy lau sậy chằng
chịt, ... Môi trường sống mới đã gây không ít bất lợi cho những con người li hương.
Họ đã vật lộn với bao nhiêu thử thách khắc nghiệt như: dịch bệnh, thú dữ, hạn hán, lũ
lụt, ... để có thể trụ vững trên vùng đất mới nhiều màu mỡ nhưng cũng lắm tai ương
này. Thực tế đó được phản ánh khá sinh động trong nhiều câu chuyện dân gian.
Trong hệ thống truyện kể về một thời kì khẩn hoang của ông cha ở Nam Bộ,
những câu chuyện kể về cá sấu hấp dẫn rất nhiều thế hệ. Chúng thể hiện sinh động
cuộc sống của những lưu dân ở vùng đất “rừng thiêng nước độc”.
Ở một số truyện được thống kê khi tìm hiểu về hình tượng cá sấu trong truyện
kể dân gian Nam Bộ, người viết nhận thấy có hai nội dung chính được thể hiện nhằm
phản ánh quá trình chinh phục thiên nhiên: thứ nhất là những câu chuyện tiêu diệt cá
sấu nhằm ca ngợi chiến công của những “bậc tiền nhân” mở cõi khi đi khai hoang;
thứ hai là những câu chuyện thể hiện sự mất mát to lớn mà con người phải gánh chịu
trong cuộc chiến với môi trường sống mới. Cả hai nội dung này đều được thể hiện
khá đặc sắc qua những truyện kể dân gian ở vùng đất Nam Bộ.
+ Ngợi ca những chiến công của người dân lao động
Những truyện kể nhằm ngợi ca chiến công oanh liệt của lưu dân trong thời kì
khai khẩn vùng đất Nam Bộ chiếm số lượng khá đồ sộ. Ở đây, tác giả luận văn đi vào
76
tìm hiểu riêng những truyện kể có sự xuất hiện của hình tượng cá sấu.
Từ ngàn xưa, trong tâm thức của người bình dân cọp và sấu là hai hình tượng
đại diện cho sức mạnh hoang dã, luôn luôn đe dọa con người. Riêng hình tượng cá
sấu, con người luôn xem nó như một loài thủy quái đáng kinh sợ. Nhất là đối với
vùng đất mới như Nam Bộ, việc lưu thông, đi lại chủ yếu bằng thuyền, bè, xuồng ba
lá, ... thì cá sấu càng là mối lo ngại rất lớn. Nhưng đối mặt với chúng, con người ít
nhiều e ngại. Bởi, Nam Bộ vùng đất trũng, nhiều đầm lầy là nơi sinh sống thuận lợi
của loài sấu. Cho nên, số lượng cá sấu sống ở đây nhiều và theo từng bầy, đàn đông
đúc. Một phần cũng do là lưu dân từ nhiều miền khác nhau đến đây với những vũ khí
thô sơ, sống theo từng cụm nhỏ, lẻ, ... Chính những lí do trên, việc chiến đấu chống
lại loài thủy quái như cá sấu là niềm mong ước lớn của lưu dân để việc đi lại, sinh
sống trở nên thuận tiện và tốt hơn.
Xuất phát từ những thực tế cuộc sống và suy nghĩ của những di dân ở vùng đất
mới đối với loài cá sấu nên khi một cá nhân, một tập thể nào diệt được sấu đều được
“phong” thành “anh hùng”. Điều này thể hiện trong nhiều truyện kể ở Nam Bộ, cụ thể
như truyện Bồ Piêl diệt cá sấu khổng lồ. Truyện kể về người anh hùng Bồ Piêl (nay là
tên của một ngọn núi ở vùng Bảy Núi của An Giang) có công trừ cá sấu hung ác, bảo
vệ cuộc sống của người dân trong vùng. Ở câu chuyện kể này, cá sấu là một loài rất
hung dữ. “Những lúc trời đất giận dữ nổi sấm chớp, bão bùng, con sấu khổng lồ hiện
ra, mình mẩy đen ngòm, dài hàng chục sải. Mồm sấu há rộng thổi phì phò, nhe hai
hàm răng nhọn hoắt. Mắt con vật đỏ như hai quả cầu lửa. Cá sấu tung hoành ngang
dọc, quật đuôi, đạp nước làm biển dậy thành những cơn sóng lớn. Gặp những lúc ấy,
thuyền bè đi biển bị sóng đánh chìm không ít, và sấu tha hồ đón bắt và ăn thịt những
ngư dân. Người dân trên đảo kẻ mất cha, người mất chồng tiếng oán thán và nỗi sợ
hãi trùm lên khắp đảo” [1, tr.91]. Rõ ràng, cá sấu ở đây là mối hiểm họa đe dọa rất
lớn đến cuộc sống của người dân. Chính vì vậy, niềm mơ ước về một dũng sĩ diệt loài
sấu mang lại yên bình cho con người là nỗi niềm đau đáu. Và cũng chính vì thế Bồ
Piêl và cuộc chiến với loài sấu dữ, hung tợn luôn nằm lòng trong mỗi thế hệ người
dân, không chỉ riêng gì người Khơ me ở Nam Bộ. Chiến công của Bồ Piêl được miêu
tả khá sinh động trong truyện kể: “Bồ Piêl nhảy xuống nước, hóa thành một con cá
77
sấu to lớn, nổi vảy năm sắc xanh, đỏ, tím, nâu, vàng, xé nước nhắm thẳng con sấu dữ
lao tới. Con sấu dữ thấy cá sấu lạ bèn chống lại kịch liệt. Trận chiến kéo dài bảy
ngày, bảy đêm liên tiếp và diễn ra trên một đoạn sông lớn đến mãi tận cửa biển. Sóng
dâng cao từng đợt to như những mái nhà, nước sông và biển đục ngầu như vừa trải
qua một trận cuồng phong” [1, tr.92]. Truyện kể mang nhiều yếu tố thần thoại nhằm
ca ngợi sự gan dạ, dũng cảm của nhân vật Bồ Piêl. Truyện còn thể hiện sự đóng góp
to lớn của những cư dân Khơ me sinh sống trên đất Nam Bộ trong những ngày đầu.
Ngày nay, câu chuyện kể Bồ Piêl diệt cá sấu khổng lồ vẫn được nhiều người dân trên
vùng đất An Giang nói riêng, Nam Bộ nói chung truyền tai nhau kể cho con cháu đời
sau nghe với sự khâm phục, niềm tự hào về một thời khai khẩn.
Tương tự như câu chuyện trên, Diệt cá sấu cũng là một truyện thể hiện khá
sinh động cuộc chiến đấu của người anh hùng với loài sấu dữ. Qua đó, dân gian nhằm
ngợi ca tinh thần dũng cảm, gan dạ, ... của con người. Truyện còn thể hiện ước mơ
của những người lao động trong việc tiêu diệt loài sấu hại, chinh phục và chiến thắng
thiên nhiên nơi đây.
Hay ở truyện Chau Sanh - Chau Thông đã miêu tả: “Một hôm, ông lão cùng
Chau Sanh ra bưng sâu bắt cá. Hai cha con đang bắt cá thì bỗng có một con sấu lớn,
thân nó dài hàng chục sải tay xé nước lao vút đến toan vồ người cha. Liền lúc ấy,
Chau Sanh quay lại ôm chặt cổ sấu ghì lại. Con sấu rất hung dữ vùng vẫy làm nước
bưng cuộn lên những đợt sóng dữ tung tóe mịt mờ cả một vùng. Ông lão thoát chết
vội vã chạy về nhà khóc kể với vợ rằng Chau Sanh đã bị sấu ăn thịt. Nhưng đến quá
trưa Chau Sanh đã giết được sấu và chàng vác sấu về nhà” [65, tr.71].
Chau Sanh đã mang sức mạnh vốn có và trí thông minh, nhanh nhẹn của bản
thân để cứu cha và giúp sóc diệt loài thú dữ. Từ ấy, Chau Sanh trở thành người anh
hùng bảo vệ sự yên bình cho phum, sóc.
Không chỉ vậy, những câu chuyện kể dân gian về chủ đề ngợi ca chiến công
diệt sấu mà “những người anh hùng” được nói đến còn là một tập thể người, như
truyện Bưng Sấu Hì. Truyện kể rằng: Ngày xưa, lúc Đồng Tháp Mười còn hoang vu,
có một gia đình nông dân đến lập nghiệp. Họ sống ở bìa rừng tràm, chồng phá rừng
78
khai hoang làm ruộng, vợ lo chăn nuôi heo gà, lo cơm nước. Hai vợ chồng có cậu con
trai mười tuổi, hằng ngày thường vào rừng bẫy chim, bắt cá, ăn ong, ... Năm nọ, đã
qua tháng năm âm lịch mà trời vẫn chưa đổ mưa, nước trong bưng, đìa, bàu, ....đều
khô kiệt hết. Một hôm, cũng như thướng ngày, cậu con trai vào rừng nhưng mãi đến
trưa, xế chiều vẫn chưa về. Đến đêm, hai vợ chồng đi tìm con và lần theo tiếng hì ẩn
sâu trong rừng tràm. Họ đã tìm thấy một bưng cá sấu đang “mắc cạn”. “Sau một hồi
trấn tĩnh, người chồng hướng dẫn hàng xóm dùng xuồng đào một cái rãnh nhỏ ngược
với hướng gió, rồi vào rừng tìm cây mốp xác đốt lên. Khói cây mốp làm lũ cá sấu cay
mắt, sặc sụa tìm đường bò lung tung, nhưng không sao thoát ra khỏi hà lãng, vì chung
quanh không có nước. Để tránh cay mắt và không bị sặc, chúng bò lên hướng ngược
gió và như vậy là từng con lần lượt nối đuôi nhau bò vào cái rãnh vừa đào. Những
người hàng xóm cứ đè bắt từng con, lấy mây rừng xỏ mũi như xỏ vàm trâu và dùng
mác vót cắt rút gân đuôi, nên chúng không cồn quẫy đạp làm gì được nữa” [19,
tr.389].
Với sức mạnh của cộng đồng người, tinh thần đùm bọc lẫn nhau cùng với ước
muốn tiêu diệt loài sấu hung tợn, mọi người đã cùng nhau bắt cả đàn cá sấu. Qua đó,
truyện như một biểu tượng đẹp về tình đoàn kết vốn có của người Việt Nam. Bưng
Sấu Hì còn thể hiện sự thông minh, am hiểu thiên nhiên, quyết tâm chinh phục vùng
đất mới, ... của những cư dân nơi đây.
Cùng một nhóm truyện kể về chiến công của những “anh hùng diệt sấu” còn
có: Truyền thuyết về Đầu sấu, Cái Răng; Chuyện kể về cá sấu ở trấn Vĩnh Thanh;
Truyền thuyết về thác Trị An, ... Những câu chuyện như những huyền thoại về con
người trong buổi đầu chinh phục vùng đất phía Nam này. Truyện mang ý nghĩa ngợi
ca những chiến công trong việc tiêu diệt sấu thể hiện rất sâu sắc thực tế chiến đấu của
con người ở nơi đây. Từ đó, góp phần nhấn mạnh sự gian lao, khổ cực nhưng đầy oai
hùng của cộng đồng “tứ chiếng” ở Nam Bộ xưa.
Hầu hết, những truyện kể ngợi ca những chiến công được khảo sát đều mang
yếu tố thần thoại, truyền thuyết. Bởi chúng nhằm thể hiện ước mơ chinh phục thiên
79
nhiên, vừa kể về những sự kiện có thật được dân gian ghi chép lại, ...
Nói tóm lại, truyện kể về cá sấu có chủ đề ngợi ca sự chinh phục thiên nhiên,
mà ở đây là cá sấu, một nhóm truyện kể khá thu hút người nghe và lưu truyền rất
rộng rãi trong dân gian, đặc biệt ở Nam Bộ.
+ Thể hiện sự mất mát mà sấu gây ra cho người dân Nam Bộ
Bên cạnh những chiến công oanh liệt của con người trước loài sấu dữ thì cá sấu
luôn là một mối hiểm họa lớn gây ra nhiều mất mát cho những lưu dân đến Nam Bộ.
Sấu là một loài thủy quái, theo quan niệm xưa nay vẫn thế. Cá sấu xuất hiện
trong đa phần các câu chuyện kể đều là con vật đầy gớm ghiếc, hung tợn. Nó luôn
gây rắc rối và lúc nào cũng trực chờ vồ, giết con người. Nó là hiểm họa cho những cư
dân phải sinh sống trên sông nước.
Cuộc đối đầu giữa con người và cá sấu trong quá trình chinh phục thiên nhiên
ở Nam Bộ luôn là cuộc chiến dữ dội mà cả hai bên phải có những thiệt hại nhất định.
Con người tuy có sự mưu trí, thông minh, am hiểu môi trường sống nhưng cũng chịu
nhiều mất mát do sấu gây ra. Đó là những nỗi niềm đau đáu của lưu dân.
Có những con người đã chôn mình vào bụng sấu, rũ xương, bỏ thân dưới lòng
sông bởi bị sấu đớp. Nước mắt người thân giàn giụa nhưng vẫn không thể làm gì
khác hơn, như trong truyện Bưng Sấu Hì, người con của hai vợ chồng nông dân đã bị
sấu ăn mất xác. Niềm đau đớn trước cái chết của người con khiến “người vợ gào lên
thảm thiết, người chồng im lặng, nước mắt chảy quanh” [19, tr.389] đứng chết lặng.
Trong cuộc mưu sinh, sự mất mát lớn nhất là về con người. Nhưng điều đó không
khiến lưu dân co mình lại, thụt lùi trước những kì vọng lớn lao. Hơn thế nữa, chính
sự mất mát đau thương ấy đã làm tăng thêm ý chí, quyết tâm và nghị lực để họ có thể
khai phá thêm nhiều hơn nữa để ổn định và phát triển cuộc sống ở vùng đất mới ...
Đặc biệt là kinh nghiệm để chống chọi lại những thế lực đe dọa của thiên nhiên.
Chính vì thế, người cha trong Bưng Sấu Hì đã trấn tĩnh và cùng dân làng diệt hết bầy
sấu.
Truyện Sự tích Rạch bỏ lược cũng có thể hiện về sự mất mát về con người của
lưu dân ở vùng đất mới. “Thuở nọ có hai mẹ con chèo xuồng chở nước ngọt trên
80
sông, một hôm đứa bé ghé vào bờ chặt tàu lá dừa chẳng may bị sấu đớp. Người mẹ
ngày ngày ở trên bờ chờ đợi con sấu hung ác quay lại để trả thù cho đứa con của
mình. Một hôm người ta thấy xác của người đàn bà xấu số và con cá sấu trôi lềnh
bềnh trên sông xuôi ra biển”. Câu chuyện làm cho người nghe càng thương cảm trước
những tổn thất mà người lưu dân phải gánh chịu ở vùng đất phương Nam này. Qua
đó, nó cũng nhằm tô đậm thêm tinh thần phản kháng quyết liệt trước sự tàn sát của
loài sấu hung tợn, cũng như những thử thách khắt nghiệt của thiên nhiên hoang sơ nơi
đây.
Hay trong truyện Đá cá sấu, mặc dù con người đã tích lũy được rất nhiều kinh
nghiệm qua những cuộc đụng độ, đối đầu với cá sấu. Dù đã nắm những đặc điểm, đặc
tính cơ bản của loài sấu là không gắp được người khi người ở tư thế đứng thẳng. Tuy
nhiên, nhân vật trong truyện vẫn không thể thoát khỏi bởi con sấu không phải “tay
vừa”: “Nó thổi phì phì phun vào miếng mồi của nó một tia nước mạnh như búa bổ.
Người chồng bị lật ngang. Sấu trườn tới gắp vào miệng rồi thon thả lội ra khơi” [60,
tr.188].
Những câu chuyện về sấu, cuộc chiến giữa chúng và con người luôn lắng lại
trong người nghe lòng những nỗi buồn về sự mất mát quá lớn của những lưu dân. Để
có những cánh đồng vàng óng “chim bay mỏi cánh”, vườn tược xanh rờn, nhà cửa
san sát hôm nay ở vùng đất Nam Bộ là cả một quá trình. Những lưu dân đã đổ biết
bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và xương máu. Qua mảng truyện kể về sự mất mát do cá
sấu, cũng như thiên nhiên Nam Bộ lúc sơ khai gây ra, mỗi chúng ta càng thấy yêu
quí, trân trọng, biết ơn những con người đã hi sinh cho một phương Nam giàu, đẹp
như hôm nay. Những câu chuyện như thế mang tính giáo dục cao, giúp những thế hệ
mai sau đời đời ghi nhớ công lao của người đi khai hoang, mở cõi.
Nhìn chung, truyện kể về sấu gợi lên rất nhiều vấn đề liên quan đến quá trình
sinh sống, chinh phục, thích ứng và chiến đấu với môi trường sống mới của những
lưu dân. Bên cạnh đó, chúng còn khắc họa rất rõ nét một thiên nhiên hoang sơ, kì bí
81
của buổi đầu sơ khai của đất Nam Bộ.
3.2.2. Truyện kể dân gian về cá sấu góp phần thể hiện những tính cách đặc trưng
của người dân Nam Bộ
Từ những truyện kể nói đến quá trình chinh phục thiên nhiên cũng như phản
ánh môi trường sống mới của lưu dân ở vùng đất phía Nam, người nghe nhận ra rất rõ
những nét tính cách được hình thành buổi đầu của người dân Nam Bộ. Từ buổi sơ
khai, vùng đất Nam Bộ là nơi hội tụ của những con người “tứ chiếng”, nghèo khổ từ
nhiều địa phương khác nhau đến đây sinh sống. Họ đến đây vì nhiều lí do khác nhau.
Tuy nhiên, đích cuối cùng hướng tới vẫn là tìm một nơi an cư, lập nghiệp. Nam Bộ đã
hội tụ đủ những điều kiện cần cho những con người ấy. Trong môi trường mới, lưu
dân cần phải thích nghi. Từ đấy, họ cải biến những lề lói, nếp sống, lối ứng xử, ... vốn
có và hình thành nên những tính cách mới phù hợp hơn với cuộc sống ở vùng đất mới
này. Dần dần, những đặc điểm và sự trù phú của thiên nhiên nơi đây đã góp phần
hình thành nên tính cách, và phát triển thành những đặc trưng rất riêng người dân
Nam Bộ. Đó là cách sống trọng nghĩa tình, phóng khoáng, hào hiệp, trượng nghĩa,
giản dị, và cùng hòa mình vào thiên nhiên, ...
Trong những câu chuyện kể về cuộc mưu sinh của lưu dân ở phương Nam với
nhiều chủ đề khác nhau, thì truyện về sấu đã góp phần lí giải thêm đặc điểm tính cách
của người Nam Bộ. Qua đó khắc họa rõ nét hơn vai trò, vị trí của truyện kể trong việc
lưu giữ dấu ấn của con người Nam Bộ ở buổi đầu khẩn hoang, lập ấp.
Với những câu chuyện kể về sấu được sưu tầm, thống kê, khảo sát, người viết
nhận thấy: tính cách người Nam Bộ xưa được thể hiện qua lối ứng xử với thiên nhiên
và cách ứng xử với con người.
+ Tính cách trọng nghĩa, khinh tài
Trọng nghĩa, khinh tài là một trong những nét tính cách nổi bật nhất của người
Nam Bộ. Ở đây, con người luôn đặt chữ nghĩa lên hàng đầu, coi thường hai chữ “tiền
tài”. Nét tính cách này đi vào trong văn học viết như một sản vật đặc trưng ở Nam
Bộ. Chúng ta đã bắt gặp những nét tính cách ấy rất rõ qua những nhân vật như: Lục
82
Vân Tiên, Hớn Minh trong tác phẩm Lục Vân Tiên của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Chắc hẳn ai khi đọc qua tác phẩm đều cảm nhận và khắc sâu trong lòng trước cung
cách đậm ân tình, cùng cách ứng xử mang nét rất đặc trưng của người Nam Bộ:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Và cũng như nhà nghiên cứu Huỳnh Lứa nhận định: “Họ rất chuộng nghĩa khí,
quí trọng tình bạn bè, tình huynh đệ giang hồ nghĩa hiệp, coi khinh tiền tài như cỏ
rác, sẵn sàng xả thân vì nghĩa” [Xem Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thuận
Hóa, 1997, tr.123].
“Lao xao sóng búa dưới lùm
Thò tay vớt bạn chết chùm cũng ưng.”
Tác giả ca dao Nam Bộ thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó.
Trọng nghĩa là thái độ ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của
người Việt ở Nam Bộ. Có điều, đây được xem là một nét trội hơn trong tính cách của
người dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong muôn ngàn
cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn tương cứu,
sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng nghĩa gắn
với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng “nén bạc đâm toạc tờ giấy”
hoặc chua chát “có tiền mua tiên cũng được” thì tác giả ca dao Nam Bộ khẳng định:
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.
Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa
biểu trưng. Sự đối lập của hai hình ảnh này chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và
cái cao quí. Nếu có cái gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là
bên khinh.
Tất cả những ai tiếp xúc với người dân ở Nam Bộ đều yêu mến rất nhiều bởi
83
tính cách đôn hầu, hiền hòa, đầy nghĩa tình. Nét tính cách trên một phần là sự kế thừa
truyền thống vốn có của dân tộc; một phần từ quá trình thích nghi với môi trường
sống mới đã tạo nên.
Thiết nghĩ, trước một môi trường sống đầy thuận lợi “rừng vàng, bể bạc”, cá
tôm đầy sông, ruộng đất mênh mông, đất rộng người thưa, con người không cần vật
lộn tranh giành từng miếng ăn, tấc đất. Như một sự mặc định ngay từ buổi đầu Nam
tiến, chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn, sức ai khai phá được bao nhiêu thì hưởng
bấy nhiêu. Chính sự hào sảng của thiên nhiên nơi đây là chiếc nôi hình thành nên lối
nghĩ: tiền tài là vật ngoài thân. Bên cạnh đó, những lưu dân vào Nam một thời là
những con người mang dòng máu hiệp nghĩa, không chịu khuất phục trước uy quyền,
không chịu cúi đầu bị đài đọa đến bước đường cùng và đã phiêu bạc vào đây. Đến nơi
rừng thiêng nước độc này, họ phải đối mặt với bao thứ thách của môi trường mới,
cảnh sắc heo hút, lại thêm tứ cố vô thân, ... Thương cảm trước số phận những con
người đồng cảnh ngộ, họ yêu thương, đùm bọc lẫn nhau nhằm chống chọi lại những
thử thách trong cuộc mưu sinh. Vì thế, chữ “nghĩa” luôn được họ trân trọng: “nghĩa”
ấy có cả nghĩa khí và nghĩa tình trong đó. Những điều trên tạm xem như một cách lí
giải về sự hình thành nét tính cách trọng nghĩa khinh tài của những con người ở Nam
Bộ.
Trong truyện kể về cá sấu, nét tính cách này được thể hiện trong rất nhiều
truyện. Chẳng hạn như truyện Bị sấu đớp mà thoát được ngoài việc tái hiện lại cuộc
sống của người dân trong buổi đầu khai khẩn, nó còn đọng lại trong lòng người nghe,
người đọc những dư vị ngọt ngào của cái tình, cái nghĩa. Nếu không có sự đùm bọc,
tương trợ lẫn nhau giữa những người tha phương cầu thực thì ông Sáu Kiều dù có
thoát khỏi miệng sấu ông cũng sẽ chết vì đuối sức. Chi tiết “Chừng nửa giờ sau, có
một chiếc xuồng đi ngang qua thấy dòng máu đỏ loang trên mặt nước và con kỳ đà
treo trên cây, biết có chuyện chẳng lành tri hô lên” [17, tr 199]. Qua đó, truyện nói
lên phần nào tinh thần vị nghĩa của người Nam Bộ từ ngàn xưa. Mặc dù nhân vật trên
chiếc xuồng là người thân quen hay xa lạ với ông Sáu Kiều, nhưng thấy người đang
gặp nguy nan liền ra tay cứu giúp. Tinh thần vị nghĩa ấy là sự kế thừa và phát triển từ
84
tấm lòng thương người - vốn là nét đẹp tinh thần lâu đời của người Việt Nam.
Hay truyện Truyền thuyết thác Trị An có đoạn kể: “Năm kia, trời hạn hán. Các
con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ xô ra sông tìm nước uống, Một
hôm trời chuyển dông, mây đen chao đảo trên vòm trời. Một chiếc xuồng độc mộc
chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng một con cá sấu từ dưới nước nổi lên
và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ Điểu Du phóng nhanh về phía con
cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy lồng lộn, há miệng định nuốt chuẩn cả chiếc
xuồng và người con gái. Trong cơn nguy hiểm, may sao thuyền của Xơra Đina vừa
kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy
được một đoạn thì chìm nghỉm” [17, tr.90]. Bất chấp hiểm nguy, Xơra Đina đã
“nhanh như chớp” cứu nàng Điểu Du mà không cần suy nghĩ điều gì.
Với tinh thần trọng nghĩa khinh tài được thể hiện trong những truyện kể có
xuất hiện hình tượng cá sấu ở Nam Bộ càng tô đậm hơn nét tính cách đặc trưng của
người Nam Bộ. Qua đó, những câu chuyện kể này là những bài học quí báu về tình
người, tình đời cho bao thế hệ cháu con sau này sống ở Nam Bộ nói riêng và mọi
người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
+ Tinh thần dũng cảm, gan góc, bản lĩnh
Cũng từ những truyện kể được khảo sát có hình tượng cá sấu đã thể hiện một
phương diện tính cách nữa của người Nam Bộ, đó là tính gan góc và bản lĩnh.
Nói về qua trình khai hoang, lập ấp của những lưu dân ở vùng đất Nam Bộ,
không ai không khâm phục trước họ bởi nghị lực và bản lĩnh phi thường. Từ một
vùng đất hoang vu, âm u, đầy hiểm trở, họ đã lập nên những đồn điền đầy hoa quả
trĩu cành. Nhà cửa mọc lên san sát nhau, người đến cư ngụ đông đúc dần.
Để có được cuộc sống bình yên nơi “rừng thiêng nước độc”, để có thể chiến
thắng những loài thú dữ, ... Đòi hỏi con người phải thật gan dạ, dũng cảm, can trường
trước những thách thức của môi trường sống gây ra. Còn hơn thế nữa, những lưu dân
đến vùng đất Nam Bộ này có mang sẵn trong người sự gan góc. Có lẽ, tất cả cũng
xuất phát từ tâm tính ban đầu của những người đi mở cõi: không chịu cúi đầu, không
85
khuất phục.
Họ đến từ nhiều vùng miền khác nhau, với nhiều lí do khác nhau nhưng mang
chung trong mình lòng kiên cường, dũng cảm, bất khuất, ngang tàng,... Và sau những
chiến vượt đèo băng suối đến vùng đất mới, họ lại càng mạnh mẽ hơn để chinh phục
môi trường sống mới. Họ không khuất phục trước uy quyền của con người, họ lại
càng không khuất phục trước những thách thức do thiên nhiên gây ra. Đã đến nơi
này, họ càng quyết chí ở lại đây, sinh sống lại đây, và xem đây như quê hương thứ
hai của mình. Nên từ già đến bé, ai cũng bền gan, chặt chí bám trụ trên mảnh đất này
dù thiên nhiên có thách thức dữ dội như thế nào.
Tất cả những đặc điểm trên đều được thể hiện trong nhiều thể loại văn học dân
gian ở Nam Bộ. Truyện kể về cá sấu là một mảng nhỏ nói lên đặc điểm tính cách
người ở phương Nam. Chẳng hạn như truyện Chuyện kể về cá sấu trấn Vĩnh Thanh
nói về một anh chàng có tài câu thiện nghệ, đã giúp người dân tiêu diệt con sấu hung
tợn mà bấy lâu nay quấy phá. Nó “mình lớn năm vây, dài đến sáu trượng, hằng ngày
đón chặng ghe, xuồng, hất văng người xuống hoặc đánh lật úp ghe rồi nhảy vọt lên
táp nuốt”. Bằng những kinh nghiệm của bản thân, anh chàng dùng một móc câu thật
to móc vào một con vịt rồi anh nhảy ùm xuống nước dụ sấu. Anh đợi khi sấu đang
định nuốt con vịt thì liền lặn vào bờ hô nhau kéo dây và dâm chết con sấu.
Hay trong Sự tích Rạch bỏ lược, người mẹ đã biến nỗi đau tột cùng của bản
thân vì mất con thành sức mạnh. Bên cạnh đó là sự mạnh mẽ, gan góc, bà tìm cá sấu
để trả thù. Trước sức mạnh và sự hung bạo của loài sấu, làm sao bà không nghĩ đến
kết cuộc là cái chết. Nhưng bà vẫn quyết diệt con sấu dữ. Điều bà làm không chỉ
mang ý nghĩa trả thù mà còn giúp dân làng giết loài thú dữ. Sự gan dạ, dũng cảm của
một người phụ nữ dám đối mặt với loài cá sấu, chỉ điều ấy thôi cũng đủ nhận thấy
rằng bà rất bản lĩnh. Trước cái chết đầy khí phách, gan góc của bà, cũng như bao thế
hệ người đã ra đi như thế, dân gian đã viết nên những bài văn tế cô hồn nhằm thể hiện
sự tri ân sâu sắc, như:
“ ...Hồn ở đâu?
Hồn ơi! Hỡi hồn?
86
Sa cây, sa cối,
Sa cột, sa cành.
Cuối bãi, đầu gành,
Cọp tha, sấu bắt
Hoặc vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm,
Hoặc vì ngậm hờn
Bỏ quê phiêu bạt,
Tràm xanh bát ngát,
Nước chum đỏ ngầu.
Hồn ở sông sâu,
Hồn nương cành biếc,
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan.”
(Sơn Nam sưu tầm)
Với tinh thần bình sinh không khuất phục trước bất cứ thế lực nào, cùng với
lòng gan dạ, ý chí sắc bén, tinh thần mạo hiểm họ đã đi qua lịch sử với những chiến
thắng vẻ vang trước muôn ngàn thử thách của đất rừng phương Nam tạo ra.
Có thể thấy rằng, những truyện kể có chứa hình tượng cá sấu nhằm tô đậm
thêm tính gan góc, bản lĩnh của con người phương Nam. Nó cũng đã góp phần làm
trọn vẹn và sinh động hơn bức tranh toàn cảnh về chiến công đánh cọp - giết sấu, giữ
cuộc sống yên lành cho bao thế hệ người. Đây chính là nét chính hình thành nhóm
truyện đánh cọp, diệt sấu có dấu ấn độc đáo ở vùng Nam Bộ, như nhà nghiên cứu
Huỳnh Ngọc Trảng nhận định: “chuyện đánh cọp, giết sấu là một thể tài nổi bật nhất
của loại hình tự sự dân gian trong buổi đầu khai phá vùng đất mới Gia Định”.
87
+ Lối sống hòa mình với thiên nhiên
Trong những truyện kể có hình tượng cá sấu được khảo sát, người viết nhận
thấy ngoài việc thể hiện tính cách trọng nghĩa, khinh tài; gan góc, bản lĩnh còn thể
hiện lối ứng xử mang tính hòa hợp, linh hoạt với môi trường tự nhiên của người Nam
Bộ. Ở đó, môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành môi
trường sống của con người, mà chủ yếu là ở môi trường nước. Bởi:
Thứ nhất, Nam Bộ được biết đến là một vùng trũng, thường xuyên chịu ngập
lụt. Bên cạnh đó, trên vùng đất này sông ngòi chằng chịt. Thuở xưa, thời khai hoang,
lập ấp ở Nam Bộ, nền nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa nước. Vì vậy, nước và hình
ảnh sông ngòi đi vào tâm thức của mỗi con người sống nơi đây. Chúng vừa là người
bạn tri âm, tri kỉ của con người. Chúng cũng vừa là thế lực thiên nhiên tai ác, gây hại
cho cuộc sống của những lưu dân. Chính điều đó, khi nhắc đến thiên nhiên Nam Bộ,
người ta thường nghĩ ngay đến nước và sông ngòi. Và những đặc trưng tính cách của
người Nam Bộ nay cũng xuất phát từ cách ứng xử với môi trường nước.
Thứ hai, cá sấu được xem như một loài thủy quái. Vì chúng thể hiện sức mạnh,
vẻ hung tợn trong môi trường nước là chủ yếu. Còn nếu lấy chúng ra khỏi môi trường
nước, chúng sẽ ít đi khả năng gây hại cho các loài vật khác, cho con người. Nhắc đến
sự hung tợn của cá sấu, người ta không thể tách rời với môi trường nước.
Vì thế, những truyện kể thường gắn liền với những biểu hiện về cách ứng xử
với môi trường nước của lưu dân khi vào Nam Bộ.
Lối ứng xử với môi trường nước của người dân Nam Bộ thể hiện cách sống
giản dị, hòa mình vào thiên nhiên, cây cỏ nơi đây. Từ buổi đầu đến vùng đất nê địa
này, lưu dân đã dựa vào sự giàu có về sản vật của Nam Bộ để sinh sống. Họ bắt cá có
sẵn dưới sông để ăn, lên rừng chặt cây làm nhà để ở, ... Cuộc sống giữa môi trường
như thế cũng đã hình thành trong mỗi con người nơi đây lòng yêu mến, gắn bó với
chim muông, cây cỏ; ... Cùng kiểu tư duy vốn có của người Việt Nam, người phương
Nam luôn mang trong mình tâm thức hòa hợp với thiên nhiên hơn là chống cự lại.
Với những truyện kể trên thể hiện khá rõ nét tính linh hoạt và mong muốn
được hòa vào thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên chứ không còn là phá hủy, tiêu diệt.
88
Đây cũng là một nội dung cần được tìm hiểu rộng hơn, sâu sắc hơn trong các thể loại
truyện kể. Những nét nổi bật về tính cách đặc trưng trên là một phần trong vẻ đẹp về
tâm hồn của người dân Nam Bộ. Tuy là một mảng đề tài nhỏ trong hệ thống khối
lượng rất lớn những truyện kể ở Nam Bộ, về Nam Bộ nhưng đã soi rọi được những
khía cạnh cần thiết, đặc trưng của con người nơi đây.
3.2.3. Truyện kể dân gian về cá sấu góp phần giải thích những địa danh và phản
ánh tâm thức văn hóa của người dân Nam Bộ
Ngoài hai nội dung trên, xét trong một loạt các truyện kể đã khảo sát còn góp
phần lí giải sự hình thành các địa danh và phản ánh tâm thức văn hóa của người dân
Nam Bộ. Đây là nội dung phổ biến trong truyện kể của nhiều vùng miền khác nhau.
Tuy nhiên, vùng văn hóa Nam Bộ vẫn có những nét riêng biệt khi chúng ta đi vào chi
tiết cụ thể.
3.2.3.1 Góp phần giải thích tên gọi của những địa danh ở Nam Bộ
Nam Bộ với hệ thống địa danh về tỉnh lỵ, kênh, rạch, cầu đường khá lớn.
Chúng được lí giải theo nhiều góc độ khác nhau, từ tên gọi hành chính đến tên gọi
theo tư duy văn học nghệ thuật, ... Để qua đó thể hiện mặt đặc trưng rõ nét, chính
thống hơn văn hóa vùng Nam Bộ.
Những câu chuyện kể về sấu mang đậm dấu vết của “ngạc ngư” thể hiện trong
các địa danh ở Nam Bộ lại hết sức da dạng, phong phú, như:
Đìa Sấu (Cai Lậy, Tiền Giang), nơi tập trung nhiều cá sấu.
Rạch Đầu Sấu ở xã Vĩnh Đại, huyện Vĩnh Hưng (Long An).
Cầu Đầu Sấu ở quận Cái Răng (Cần Thơ) là “đầu con cá sấu” vì người Việt
xưa rất sợ cá sấu nên thường thờ đầu cá sấu bên sông (theo Sơn Nam). Khoảng năm
1940, nơi đây vẫn còn cảnh làm thịt sấu tại đầu vàm. Sấu thịt được chở về từ Nam
Vang và An Giang bằng xuồng, ghe. Buôn bán rất sung, người mua khá đông giống
như một lò mổ. Lúc đó vàm này đã có tên là vàm Đầu Sấu. Tại khu vực một, phường
An Bình (Cần Thơ) hiện nay vẫn còn một ngôi chùa cổ kính mang tên là chùa
89
Ông Vàm Đầu Sấu.
Ấp Đầu Sấu Đông, ấp Đầu Sấu Tây (xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, Bạc
Liêu). Đầu Sấu trong tiếng Khmer là Khal Kropơ. Trong truyền thuyết Núi
Thuyền (Phnom Sampâu) của người Khmer, ngọn đồi nổi lên ngay chỗ con sấu chết
gọi là Đồi Sấu (Phnom Krapư), hai cái đầm chỗ sấu quậy đầu và đuôi gọi là Bưng
Mũi (Bâng Chromoc) và Bưng Đuôi (Bâng Kantuôi).
Rạch Bỏ Lược (Cà Mau). Truyền thuyết kể về một người mẹ có con bị cá sấu
ăn thịt. Để trả thù, bà lấy mác đâm con cá sấu và cả hai cùng chết, chỉ để lại một cái
lược bà đang chải tóc.
Rạch Cái Cá ở xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú (Bến Tre), gọi là “rạch cá” vì
dưới rạch này trước đây có nhiều cá sấu.
Rạch Cái Cấm bao quanh cù lao Thanh Tân, nay thuộc xã Tân Thanh Bình,
huyện Mỏ Cày (Bến Tre). Cái Cấm là “rạch cấm”, vì ngày xưa rạch này có nhiều cá
sấu nên quan cấm dân đi qua rạch một mình.
Rạch Cái Khế chảy từ Cầu Đôi đến Đầu Sấu (thành phố Cần Thơ), dài 5km.
Rạch Đường Chừa (Vĩnh Long), vì con đường có một khúc phải chừa lại do
không đắp được vì sợ cá sấu ăn thịt những người đắp đường.
Bưng Sấu Hì (vũng nước lớn giữa đồng) ở giữa đồng Tháp Mười, (Đồng
Tháp). Một cặp vợ chồng kia có đứa con 10 tuổi bị sấu ăn thịt. Khi chồng gọi kiếm
con, chỉ nghe tiếng sấu kêu hì. Sau đó, người địa phương giết được bầy sấu và đặt tên
trên.
Ngã ba Tàu ở Kiên Giang. Một trong giả thuyết để giải thích nguồn gốc địa
danh này là do có một con cá sấu bị người đi đốn dừa nước chặt đứt khúc đuôi nên
trông như một chiếc tàu.
Hang Sấu thuộc xã Viên An, huyện Ngọc Hiển (Cà Mau), xưa có rất nhiều cá
sấu. Đặc biệt nơi đây có một cái hang cá sấu rất lớn, người dân qua lại khu vực này
thường bị cá sấu tấn công.
Việc đặt tên địa danh kết thúc với một số dạng thức như: “Do đó, sau này
90
những người chặt cây vào đây thường gọi chỗ này là “Bai xau” tức là “cơm sống”,
dần dần thành quen vào đọc trại thành Bãi Xàu” (Sự tích địa danh Bãi Xàu) [17, tr
140]; “và cũng từ đó, cái bưng này có tên là bưng Sấu Hì” vì phát hiện đàn sấu nằm
trong bưng kêu hì hì. (Bưng Sấu Hì) [19, tr 389]; “Do vậy sông này có tên là sông
Bến Nghé” (Truyền thuyết về Bến Nghé); ...
Những truyện kể cùng với địa danh nhằm ghi dấu ấn một thời khẩn hoang của
ông cha ta từ thời mở cõi. Cái tên mộc mạc, câu chuyện vừa thực vừa hư nhưng đã
thể hiện những tư tưởng, tình cảm, lối tư duy chân chất như những con người ở Nam
Bộ này.
Nhìn chung, những câu chuyện kể về sấu đã góp phần không nhỏ trong việc lí
giải những địa danh vốn quen thuộc ở vùng Nam Bộ nay. Qua đó, một phần phản ánh
tâm thức người Nam Bộ về hình tượng cá sấu.
3.2.3.2 Phản ánh tâm thức văn hóa của người dân
“Truyện kể dân gian không phải là sáng tạo nghệ thuật thuần tuý tách khỏi các
mục đích thực dụng. Nó gắn với tín ngưỡng, phong tục và là một hình thức nhận thức
cuộc sống của những tập thể, phản ánh trình độ tập thể. Cái thực dụng được hoàn
thiện sẽ mang ý nghĩa nghệ thuật, ý nghĩa đó được phản ánh ngay trong nội dung của
mối quan hệ hiện thực - thẩm mỹ có tính nguyên hợp, tạo thành sức sống lâu bền và
bản sắc độc đáo tộc người” [43, tr 25].
Truyện kể mang hình tượng sấu cũng không nằm ngoài nội dung ấy, thể hiện
tâm thức một thời của những cư dân ở Nam Bộ nói riêng.
Nam Bộ cũng là một trong những vùng văn hóa mang tính đa dạng vào bậc
nhất. Bởi ở đây đa dạng về cộng đồng người, giàu có về những tín ngưỡng tôn giáo.
Vùng đất này dù hình thành muộn hơn những vùng khác nhưng có một bề dày về văn
hóa. Một điều cần khẳng định rằng, những trầm tích văn hóa của nhiều cộng đồng
người từ nhiều miền khác nhau về đây tụ hội. Chính những điều trên đã một lần nữa
lí giải về sự đa sắc màu trong vùng văn hóa phương Nam.
Trong tâm thức của mỗi người, loài cá sấu luôn là vật hung tợn, gian ác, cần
phải tránh xa. Bởi chúng có thể gây hại với bất kì sinh vật, con người, ... Vì thế, nó đi
91
vào những câu chuyện dân gian chiếm đa phần là mang tính hung hãn, chuyên gây
hại cho muôn loài. Như những câu chuyện kể: Lai lịch trường án Cấn Lố, Truyền
thuyết về thác nước L’iêng Hur, Truyền thuyết về Đầu Sấu, Cái Răng, ... Vì thế con
người luôn tìm cách tiêu diệt cá sấu.
Sự hung hãn, dữ tợn của loài cá sấu khi đi vào những câu chuyện cổ loài vật
hay truyện ngụ ngôn đều được giữ nguyên vẹn. Bên cạnh đó, chúng còn được xây
dựng thành những nhân vật luôn đối mặt với cái đói và luôn tỏ ra tham ăn, tham
lam,... Mặc dù xuất hiện những truyện về con sấu có nghĩa song rất hạn chế. Tình
cảm yêu mến dành cho cá sấu được thể hiện có phần khá ít ỏi nhưng cũng đã thể hiện
tính hai mặt của một vấn đề. Rõ ràng, hình tượng cá sấu đã được lưu giữ vào bề dày
văn hóa với những nhìn nhận và phản ánh khác nhau.
Nói tóm lại, cá sấu trong tâm thức của dân gian mang hai ý nghĩa thể hiện thái
độ của con người trước hình tượng này. Trong lối tư duy dân gian, cá sấu vừa là đối
tượng thiên nhiên đáng sợ, muốn tiêu diệt; nhưng mặt khác con người lại tôn thờ,
kính trọng nó như một thần linh.
Tiểu kết chương 3
Từ những biểu hiện của hình tượng cá sấu trong truyện kể dân gian Nam bộ,
chúng tôi đã khái quát lại trên những nội dung cụ thể được trình bày ở chương 3 này.
Đó là vẻ hoang sơ của vùng đất Nam bộ và hành trình khai phá, chinh phục thiên
nhiên của những lưu dân; tìm hiểu về nét tính cách đặc trưng; đặc điểm văn hóa được
lưu giữ trong tâm thức cũng như biết được giá trị của những câu chuyện kể về sấu
trong việc lí giải những địa danh quen thuộc ở vùng đất Nam bộ.
Từ đó, chúng tôi nhận thấy rằng: Truyện kể về sấu như là những thước phim
có giá trị cho công cuộc tìm hiểu về vẻ hoang sơ, âm u, rậm rạp của Nam bộ xưa.
Chúng cũng góp phần nhắc nhở bao thế hệ mai sau về công lao của những lưu dân
tha phương, mở cõi: để có được những vùng đất màu mỡ phù sa cho cây trái sum suê
trĩu quả như hôm nay, ông cha ta đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt, và xương máu
92
xuống mảnh đất này.
Bên cạnh đó, những câu chuyện kể có hình tượng cá sấu cũng giúp chúng ta
hiểu thêm về những đặc điểm tính cách, lối sống, cách sinh hoạt thuở đầu của cha ông
đi khai hoang mở cõi. Đó cũng là cơ sở hình thành nên những nét phẩm chất rất đặc
trưng và đáng tự hào của người Nam bộ.
Truyện kể về sấu góp phần không nhỏ trong việc phản ánh tâm thức một thời
của người Việt Nam không chỉ riêng gì cá sấu. Chúng là những viên ngọc sáng, có
sức lan tỏa và được lưu truyền qua tư duy, truyền thống văn hóa của nhiều thế hệ
người Việt Nam ta.
Những câu chuyện kể ấy còn thể hiện cách lí giải khá hồn nhiên nhưng đầy
chất lí lẽ của dân gian trong việc đặt tên làng, tên đất, tên cầu, kênh, rạch, ...ở Nam bộ
từ xưa đến nay.
So với mảng truyện kể về cọp, hình tượng cá sấu được thể hiện ít hơn. Song,
không vì thế mà các tác giả dân gian bỏ quên nó đi. Những cuộc chiến giữa người và
sấu cũng không kém phần hấp dẫn; những trang viết đầy chất nghĩa tình cũng chan
93
đầy nước mắt giữa người với người, người với sấu.
KẾT LUẬN
Cá sấu là biểu tượng văn hóa lâu đời có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở
mỗi thời đại, mỗi một quốc gia, mỗi một nền văn hóa, cá sấu trở thành một biểu
tượng mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Chính sự phong phú về ý nghĩa biểu đạt đã làm
cho cá sấu trở thành một biểu tượng vừa thiêng liêng vừa gần gũi nhưng cũng rất
đáng sợ trong đời sống cộng động. Từ việc khảo sát hình tượng cá sấu trong truyện
kể dân gian Nam Bộ, luận văn rút ra một số kết luận như sau:
1. Trong truyện kể dân gian Nam Bộ, hình ảnh cá sấu và những truyện kể dân
gian về sấu gắn liền với công cuộc khẩn hoang của những con người nơi vùng đất
mới. Qua đó, góp phần cho ta thấy những khó khăn, vất vả khi con người phải đương
đầu với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng vượt lên trên hết những khó khăn ấy,
con người đã làm nên chiến thắng, chinh phục thiên nhiên và bắt thiên nhiên phục vụ
cho mình. Trong truyện kể dân gian Nam Bộ, hình ảnh cá sấu cũng mang nhiều nét
biểu trưng, tính chất và ý nghĩa đôi khi đối lập nhau. Sấu có thể là một quái vật ăn thịt
đầy hung ác và cũng là một nhân vật biết lẽ phải, thiệt hơn. Qua cuộc đấu tranh với
sấu, truyện dân gian về cá sấu ca ngợi những con người chấp nhận hy sinh để đổi lấy
sự bình yên cho cộng đồng. Chính những ân tình đã giúp nâng đỡ tinh thần người lao
động vượt qua bao cực nhọc của công cuộc xây dựng và bảo vệ xóm làng. Đó là nét
đẹp trong văn hóa ứng xử của buồi ban đầu khẩn hoang nơi vùng đất mới này.
2. Đối với người Khmer Nam Bộ, cá sấu gắn liền với tín ngưỡng thờ thủy thần,
trong truyện kể dân gian về cá sấu của có chức năng của thần nước, của chúa đất
(Kron Pâli), vị trí của nó trong các nghi lễ và kiêng kỵ, hình tượng của nó trong cổ
tích và huyền tích. Trong đó nổi bật lến ý nghĩa cá sấu tượng trưng cho thủy thần và
được con người thờ cúng. Thêm một điều vô cùng đáng quý ở những con người cần
lao là tinh thần quả cảm, bản lĩnh phi thường. Dù ở trong hoàn cảnh khó khăn, khắc
nghiệt của thiên nhiên nhưng con người luôn biết đấu tranh để duy trì sự sống của
mình. Họ biết đối mặt với khó khăn và tìm ra những biện pháp giải quyết hiệu quả để
94
cải thiện nó. Chính tinh thần quả cảm và sức mạnh phi thường ấy đã giúp cho những
lưu dân nơi đây tiêu diệt được những loài ác thú hung tợn mang lại cuộc sống bình
yên nơi thôn ấp.
3. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy ở những con người nơi đây là tinh thần trọng
nghĩa. Nhân vật trong các câu chuyện là những người sống nghĩa tình, biết hy sinh vì
người khác, thể hiện lối sống cộng đồng “tối lửa tắt đèn”. Trong truyện “Bưng Sấu
Hì” miêu tả: Khi gặp nạn người dân chỉ cần đánh mõ cầu cứu, ngay lập tức: “Hàng
xóm chạy đến, rồi kẻ đuốc, người chĩa ba, mác vót chạy vào rừng, về phía phát ra
tiếng kêu”. Những cư dân mới đến đều cùng khổ, đoàn kết để có cuộc sống tốt đẹp
vừa là bản tính, vừa là yêu cầu ở vùng đất này.
4. Nhìn chung, truyện kể dân gian về các sấu ở Nam Bộ có cốt truyện đơn giản,
ít tình tiết, nhưng không kém phần hấp dẫn. Bởi tác giả dân gian đã dùng toàn tâm trí
đểmiêu tả cuộc chiến quyết liệt giữa hai tuyến nhân vật chính, một bên là người một
bên là thú dữ. Và họ đã thành công. Người đọc người nghe luôn cảm thấy say mê,
hào hứng khi nghe kể lại, hoặc trực tiếp đọc những trận chiến ấy. Dù đôi khi đôi bên
chưa ngang tài ngang sức, có khi con người phải hy sinh tính mạng của mình nhưng
họ đã làm nên những chiến công vang dội trong công cuộc khẩn hoang nơi vùng đất
mới. Họ tuy vô danh, không bảng vàng đề danh nhưng hình ảnh của những on người
anh hùng luôn được khắc ghi trong tâm thức cửa những thế hệ mai sau như một cách
tri ân những bậc tiên hiền khai khẩn.
Vùng đất Nam Bộ đang phát triển từng ngày. Khung cảnh hoang sơ, lau sậy,
rừng rậm của thuở đầu khai phá giờ đã là những ruộng lúa trĩu bông, những mảnh
vườn sum suê trái chín. Tìm hiểu mảng truyện dân gian về cá sấu như một cách “ôn
cố tri tân”, ghi nhớ công lao tiền nhân thời mở đất, giúp thế hệ hôm nay biết trân quý
những gì ông cha đã cố công gầy dựng. Những câu chuyện về cá sấu trong truyện kể
dân gian như mạch nước ngầm vẫn âm thầm chảy suốt chiều dài lịch sử của vùng đất
95
này, góp phần khơi dậy những nét đẹp văn hoá, đậm đà bản sắc dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trọng Báu - Thạch Xuân Mai (sưu tầm và biên soạn) (2009), Truyện cổ
Khơ me, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.91
2. Nguyễn Công Bình (1995), Đồng bằng sông Cửu Long – Nghiên cứu và phát triển,
Nxb KHXH.
3. Huệ Dân, “Rồng Việt Nam và tâm thức tâm linh người Việt”,
http://tongiaovadantoc.com'
4. Chu Xuân Diên (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, Nxb TP.HCM.
5. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Tp.
HCM
6. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng Type và motif, Nxb KHXH.
7. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
KHXH.
8. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb KHXH, HN.
9. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
10. Vũ Minh Giang (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Nxb TG, HN.
11. Nguyễn Bích Hà (1986), Bước đầu tìm hiểu nguồn truyện kể địa danh, Tạp chí
Văn học (2).
12. Lê Thị Diệu Hà (2006), “Truyện dân gian An Giang – một góc nhìn”, Tạp chí
Nguồn sáng dân gian (4).
13. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn
học,Nxb Giáo Dục, tr.197
14. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ(1, 2), Nxb Trẻ,
TPHCM.
15. Nguyễn Văn Hầu (2000), Nửa tháng trong miền thất sơn, Nxb Trẻ.
16. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam Kỳ cố sự (Chuyện kể Nam Bộ), Nxb Đồng Tháp.
17. Nguyễn Hữu Hiếu (1987), Truyện kể dân gian Nam Bộ, Nxb Tp HCM.
18. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Trẻ Tp HCM.
19. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười, Nxb Dân
96
Trí, Hà Nội, tr.389
20. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển
văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, tr.1190-1191
21. Trần Kinh Hòa (1960), ”Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ”, Tạp chí Đại học
(Huế), (15), tr.175-217; (16), tr.130-153.
22. Hồ Quốc Hùng (1998), “Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất
mới”, Tạp chí Văn học (4).
23. Trần Minh Hường (2011), Hình tượng rắn trong truyện cổ dân gian Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ, Học viện KHXH.
24. Hội đồng Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh (1996), Địa chí Đồng Tháp
Mười, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996, tr.79
25. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (2002), Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng, trang 119-121
26. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua
truyện Tấm Cám, Nxb Văn học, HN.
27. Đinh Gia Khánh (2000), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Nxb GD.
28. Vũ Ngọc Khánh (2000), Chuyện kể địa danh Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN.
29. Phạm Tiết Khánh (2007 Khảo sát truyện kể dân gian Khơ Me Nam Bộ (qua Thần
thoại, Truyền Thuyết, Truyện cổ tích), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội
30. Nguyễn Xuân Kính (2003), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Nhận định và
tra cứu(19), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Nguyễn Xuân Kính (1991), “Thi pháp học và việc nghiên cứu thi pháp học nghệ
thuật dân gian”, Tạp chí văn hóa dân gian (3).
32. Khoa Ngữ Văn, Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu
Long, Nxb GD.
33. Nguyễn Thanh Lợi (2010), “Cọp trong văn hóa dân gian Đông Nam Bộ”, Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1.
34. Nguyễn Thanh Lợi (2010), “Sấu trong tâm thức dân gian của cư dân Tây Nam
Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hoá phi vật thể người Việt miền Tây Nam
97
bộ,
35. Huỳnh Lứa (1997), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thuận Hóa, tr 123
36. Sơn Nam (1997), Đất Gia Định Xưa, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
37. Sơn Nam (1997), Đồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa, Nxb Trẻ, Tp.
HCM.
38. Bùi Mạnh Nhị (2000), Văn học Việt Nam: Văn học dân gian, những công trình
nghiên cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
39. Nguyễn Diệp Mai (2007), Sắc thái văn hóa sông nước vùng U Minh, Hội văn
nghệ dân gian Việt Nam, tr.78 - 79
40. Nhiều tác giả (2008), Văn hóa văn nghệ dân gian Cần Thơ, Nxb Văn nghệ, TP.
Hồ Chí Minh.
41. Nhiều tác giả (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH,
Hà Nội.
42. Nhiều tác giả (1984), Các dân tộc ít người ở phía Nam, Nxb KHXH, HN.
43. Nhiều tác giả (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, tr.25
44. Thái Phan, “Huyền thoại về cá sấu vua trên đất cảng”,
http://nmphuongqueen.com
45. Thạch Phương (1993), “Mấy đặc điểm sinh hoạt lễ hội cổ truyền của người Việt ở
Nam Bộ”, Tạp chí văn hóa dân gian (2).
46. Thạch Phương – Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb KHXH HN.
47. Lê Chí Quế (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
48. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Tp. HCM.
49. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb HN.
50. Hà Văn Tấn (chủ biên) (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, tr.359, 380
51. Nguyễn Văn Tâm, “Tín ngưỡng thờ nước”, http://www.chinhphu.vn
52. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Phương Thảo (1994), Huyền thoại miệt vườn, Nxb VH – TT.
98
54. Thu Thảo (2013), “Vài nét về cá sấu ở Bến Tre”, Nguồn sáng dân gian số 3.
55. Huỳnh Quốc Thắng (2003), Lễ hội dân gian Nam Bộ, Nxb Viện VH&NXB VH –
TT.
56. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD, HN.
57. Nguyễn Cung Thông, “Tản mạn về danh từ ‘cá sấu’ Vết tích phương Nam trong
tiếng Hán “ (phần 1), http://www.viethoc.org
58. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), Rồng trong văn hóa Việt Nam, Đặc san Khoa học Xã
hội số 42.
59. Lê Ngọc Thuý (2010), “Phật giáo và văn học Phật giáo trên vùng đất mới Nam
Bộ”, trong Kỷ yếu Hội thảo Văn học Phật giáo với 1.000 năm Thăng Long Hà
Nội.
60. Huỳnh Công Tín (chủ biên) (2006), Văn học dân gian An Giang, phần Truyện kể
dân gian, (tài liệu sưu tầm), Công trình NCKH cấp Tỉnh, tr.188
61. Lê Anh Trà (1984), Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện văn
hóa xuất bản.
62. Trương Thu Trang (2009), Truyện dân gian về sấu và cọp ở đồng bằng sông Cửu
long, Luận văn thạc sĩ, Đại học Cần Thơ.
63. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Liệu, Văn Đình Hy (1983), Truyện cổ Khơ Me Nam
Bộ, Nxb Văn Hóa.
64. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện dân gian Khmer, Nxb Đồng Nai.
65. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khmer Nam Bộ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
66. Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường (1993), Nghìn năm bia miệng, Nxb
TP.HCM.
67. Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường – Nguyễn Đại Phúc – Đỗ Văn Anh –
Phạm Thiếu Hương (1977), Sài Gòn - Gia Định xưa, Nxb Tp HCM.
68. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng
đồng bằng Sông Cửu long, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb GD.
70. Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt
99
Nam, Hà Nội, 1995, tr.320
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
BẢNG DANH MỤC TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VỀ CÁ SẤU Ở NAM BỘ
TT Tên truyện Tác giả Nxb Ghi chú
Truyền thuyết về Thác Trị An Nguyễn Hữu Hiếu Truyện kể dân gian Nam Bộ,Nxb 1 TP.HCM
Sự tích Rạch Bỏ lược Nguyễn Hữu Hiếu Huyền thoại miệt vườn, Nxb VH-TN 2
Chau Sanh – Chau Thông Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ Khơme Nam Bộ, Nxb Văn 3 hóa
Bị sấu đớp mà thoát được Nguyễn Hữu Hiếu Truyện kể dân gian Nam Bộ,Nxb 4 TP.HCM
Truyền thuyết về Ông Đình Tây và Huỳnh Ngọc Trảng Nghìn năm bia miệng, Nxb Tp.HCM 5 con sấu năm chèo
Cá sấu ở Trấn Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Hầu Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, 6 Nxb Trẻ
Sự tích miếu Ông Cù Chu Xuân Diên Văn hhọc dân gian Bạc Liêu, Nxb Văn 7 nghệ Tp.HCM
Bưng sấu hì Huỳnh Ngọc Trảng Nghìn năm bia miệng, Nxb Tp.HCM 8
100
Sự tích Ông Luồng ở sông Tiên Huỳnh Ngọc Trảng Nghìn năm bia miệng, Nxb Tp.HCM 9 Thủy
Câu cá sấu Trần Hoàng-Triều Văn học dân gian Việt Nam, Nxb 10 Nguyên Thuận Hóa, 2002
Diệt cá sấu Chu Xuân Diên Văn hhọc dân gian Bạc Liêu, Nxb Văn 11 nghệ Tp.HCM
Trần Ngu Lạc Nguồn Báo điện tử cần thơ Sưu tầm 12 Con sấu mê hát bội
Hương Lam Trích trên Báo Mới. http://baomoi.com Sưu tầm 13 Cá sấu Vũng Gấm
Cá sấu rừng Sác Nguyễn Lợi, ở xã Sưu tầm
Long Hòa, Cần Giờ, 14
Tp.HCM
Truyền thuyết về Đầu sấu Cái Răng Trần Ngu Lạc Nguồn Báo điện tử cần thơ Sưu tầm 15
Sấu đỏ mũi Huỳnh Văn Nghệ http://dongnai.vncgarden.com/ Sưu tầm 16
Huỳnh Ngọc Trảng Nghìn năm bia miệng, Nxb Tp.HCM 17 Đá cá sấu
Sự tích thần Ô Ngư Ngạc Lời kể của ông Tám Trích trên Báo Mới. Sưu tầm
Nam, Gò Quao, 18
Kiên Giang
Bồ - piêl diệt cá sấu khổng lồ Nguyễn Phương Huyền thoại miệt vườn, Nxb VH-TN 19 Thảo
Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Huỳnh Minh Bạc Liêu Xưa, Nxb Thanh Niên, 2002
Ánh được phong chức Lang Lai đại 20
tướng quân
101
Trâu khôn sấu linh Vương Hồng Sển Chuyện cười cố nhân, Nxb văn nghệ 21
Tp.HCM, 1971
Con sấu bội ơn Huỳnh Ngọc Trảng Truyện dân gian Khơme,Nxb Đồng 22 Nai
Chuyện thỏ và ca sấu Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ khơme Nam Bộ, Nxb Văn 23 hóa, Hà Nội
Cá sấu, Quạ và ông bà lão chở củi Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ Khơme Nam Bộ, Nxb Văn Sưu tầm 24
hóa
Con Dukhi Dukhia Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ khơme Nam Bộ, Nxb Văn Sưu tầm.
hóa, Hà Nội Theo lời kể
của Kiên
Khlum kể, 67 25 tuổi, xã Hòa
Thuận, huyện
Châu Thành,
Sóc Trăng)
Chú thỏ thông minh Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ khơme Nam Bộ, Nxb Văn 26 hóa, Hà Nội
Truyền thuyết về thác nước L’iêng Nguyễn Phương Huyền thoại miệt vườn, Nxb VH-TN 27 Hur Thảo
102
Tích sự Ngã ba Đầu sấu Huỳnh Ngọc Trảng Truyện cổ khơme Nam Bộ, Nxb Văn 28 hóa, Hà Nội
Trần Hoàng-Triều Văn học dân gian Việt Nam, Nxb 29 Câu cá sấu
103
Nguyên Thuận Hóa, 2002
PHỤ LỤC 2
NHÓM TRUYỆN VỀ SẤU ÁC VÀ NGƯỜI TIÊU DIỆT SẤU
1. Truyền thuyết về Thác Trị An
Ngày xưa, ở vùng Đồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ
chuyên sinh sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Đứng đầu bộ tộc này là
tù trưởng Xơra Đin, tuy râu tóc bạc phơ, nhưng ông còn rất khỏe mạnh.
Xơra Đina là con trai lớn của tù trưởng Xơra Đin, được cha truyền nghề cung
ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày Xơra Đina có thể hạ dễ
dàng hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời gây
khủng khiếp vùng giáp sông Bé và sông Đồng Nai.
Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Đồng Nai có nàng Tiểu Du là trưởng nữ của
tù trưởng Điểu Lôi, người Châu Ro. Điểu Du say mê tập tành phóng lao với chí
hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung bạo ở vùng Đạt
Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện nghệ của Xơra Đina gây nên được sự cảm mến
trong lòng của Tiểu Du.Và Xơra Đina cũng muốn gặp mặt người con gái nổi tiếng về
tài phóng lao ở miền thượng du con sông...
Năm kia, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ
xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển giông, mây đen chao đảo trên vòm
trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một người thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng
một con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ
tay Điểu Du phóng nhanh về phía con sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy, lồng
lộn, há miệng định nuốt chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy
hiểm may sao thuyền của Xơra Đina vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn
liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm.
Xơra Đina và Điểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng
sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xơra Đin và Điểu Lôi chấp
thuận. Theo phong tục hồi đó, ngày cưới, Xơra Đina phải về ở rể bên đàng gái. Xơra
Đin cho con trai mình chiếc tù và, đồng thời căn dặn thêm:
104
- Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp.
Xơra Đina lên ngựa trắng tiến về miền thượng du. Đi một đoạn đường, gặp con
suối cạn, Xơra Đina phải dìu ngựa qua các gộp đá lởm chởm. Đột nhiên từ trên cậy
cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xơra Đina.
Đó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xơra Đina vừa hăm
dọa:
- Thần hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội...
Xơra Đina nào phải tay vừa. "Thần hổ" bị đánh ngã, bèn xông tớ toan cướp
ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh. Chồm lên dữ dội, "Thần hổ" bị ngựa đá, phóng
nhanh vào rừng.
Đi thêm được một đoạn ngắn, Xơra Đina đã thấy Điểu Du đón chàng ở bìa
rừng. Đàng xa Điểu Lôi cũng vừa tới. Nhân lúc ngồi nghỉ, Xơra Đina đã hỏi Điểu Du:
- Vùng này có hổ không em?
Điểu Du cười đáp:
- Thằng thầy mo Sang Mô đấy. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì
em không ưng nó.
Thấy bóng sang Mô loáng thoáng gần đấy, Xơra Đina lên tiếng:
- Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi.
Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xơra Đina:
- Anh là kẻ xa lạ, đến đây làm gì?
Một lát, hắn nhìn Xơra Đina cười nham hiểm:
- Nghe nói anh nổi tiếng thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng cái lá
chót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Điểu Du cho anh.
Hắn bẻ một nhánh lá quýt rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay
khiến nhánh lá quýt run rẩy như gặp gió:
- Nào bắn đi!
Dừng một phút, Xơra Đina quát lớn:
- Thần hổ, coi đây!
Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xơra Đina bắn mũi tên xuyên qua chiếc là chót.
105
Mọi người reo hò hoan hỉ.
Lễ cưới diễn ra trọng thể. Đâm trâu, rượu ngon, múa hát,... dân làng ca ngợi
đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy.
Riêng Sang Mô tức tối, kiếm cách trả thù.
Năm sau Điểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm tã,
sang Mô nhân đó tung tin: "Điểu Du sanh ra quỉ, rồi sẽ có nạn mất mùa, đói kém!"
Do đồn nhảm Sang Mô bị Điểu Lôi quở phạt. Hắn càng oán giận. Năm sau
nữa, trong một chuyến đi săn chung với Điểu Lôi, Sang Mô đã sát hại tù trưởng bằng
một mũi tên bắn lén vào sau lưng. Rồi hắn cùng mười tên phản loạn khác kéo về suối
Đạt Bo để giết luôn vợ chồng Xơra Đina.
Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xơra Đina bỗng dưng bốc cháy. Xơra
Đina chỉ kịp thét lớn: "Có kẻ đốt nhà!" rồi ẵm con cùng Điểu Du thoát khỏi vùng lửa.
Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mải lo che chở cho con, Xơra Đina bị thất thế. Còn
Điểu Du sau một lúc chống cự bọ bọn Sang Mô bắt. Xơra Đina xông tới cứu vợ. Đứa
con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất.
Bỗng một cái bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé chạy thoát vào
rừng. Sang Mô gào thét lên:
- Đuổi theo, trừ cho tiệt nòi!
Nhưng bóng con ngựa trắng của Xơra Đina chở Sang My trên lưng đã biến mất
trong rừng.
- "Cho dù là em gái ta, cũng cứ bắn!", tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy
rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt
vợ chồng
- "Cho dù là em gái ta, cũng cứ bắn!", tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy
rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt
vợ chồng Xơra Đina quăng xuống một chiếc xuồng có chất lẫn một thứ nhựa cây dễ
cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo xuồng rượt theo
và cứ nhắm vào xuồng của Xơra Đina mà buông những phát tên lửa. Đến một bậc đá
xuống bị cản lại. Xơra Đina đã kịp tháo dây trói hai tay và rút tù và ra thổi một hồi
106
dài.
Hàng trăm người ở miền hạ du nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy qua
những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm ngùi
trước cái chết đau đớn của Xơra Đina và Điểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng chở
Sang Mỵ có hai mũi tên cắm sâu. Nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xơra Đin rồi
ngã gục xuống ngựa Xơra Đin vuốt mắt Sang Mỵ.
- Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta.
Còn con ngựa trắng thì ngược đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy. Không
thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác xoáy.
Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho
Xơra Đin. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xơra Đin xá tội.
Còn Sang Mô thì bị trói chặt vào chỗ nó đã gây ra tội ác. Tù trưởng Xơra Đin giương
ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Bỗng ông hạ
ná và hô mọi một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng cái ná xuống dòng thác. Ông muốn
cho đời sau hiểu rằng: mối hận thù phải được lấp bằng. Mọi người nên sống với nhau
trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang Mỵ ông tha chết cho Sang Mô.
Sang Mô rạp đầu lạy Xơra Đin rồi ôm xác Sang Mỵ bước xuống xuồng, nước mắt lã
chã.
Từ đó người trong vùng gọi thác này là thác Trị Ân, sau đọc trại thành Trị An.
(Theo Nguyễn Hữu Hiếu, Truyện kể dân gian Nam Bộ)
2. Sự tích Rạch Bỏ lược
Thuở trước, vùng đất Cà Mau nói chung, khu vực rừng Viên An nói riêng vẫn
còn hoang vu lắm, chỉ có rừng rậm và đầm bãi. Xung quanh đầy rẫy muỗi mòng, rắn
rết và các loài thú dữ. Rừng Viên An lại còn hoang vu hơn, người dân ở đây phải cất
nhà sàn cao bằng cây đước để ở, đường đi lại cũng làm bằng gỗ như cầu treo để tránh
thú dữ, đặc biệt là cá sấu. Tại một nơi hẻo lánh ở rừng Viên An vào xế một ngày nắng
ráo, có hai mẹ con nọ bơi xuồng chở nước ngọt trên sông. Khi đi ngang một vàm rạch
nhỏ, người mẹ cho xuồng cặp sát mé rạch để đứa con chặt một tàu lá dừa nước làm
buồm. Không ngờ khi đứa nhỏ vừa chặt xong tàu lá thì bị một con cá sấu nằm phục
107
sẵn trong đám dừa nước, trườn tới quật nhào xuống sông.
Đứa nhỏ chỉ kịp kêu lên hai tiếng “má ơi” thì đã bị con cá sấu táp vào lặn
xuống nước. Khi bị cá sấu gắp mang đi, đứa nhỏ chưa kịp buông tàu lá, người mẹ vẫn
còn nhìn thấy tàu lá chạy vụt ra giữa sông, rút xuống dần, sau cùng chỉ còn cái chót lá
rồi mất hút. Quá bàng hoàng, người mẹ ngã xuống xuồng rồi ngất xỉu. Sau khi tỉnh
dậy, bà mẹ quyết tâm đi tìm xác con và giết chết con cá sấu để rửa mối thù. Bà bơi
xuồng vào bờ, lấy một cây mác vót và lặng lẽ ngồi mài lưỡi mác ngay tại đầu vàm
với ý định chờ con cá sấu xuất hiện giết nó để trả thù cho con.
Suốt ba ngày đêm, bà bắc bếp nấu cơm ăn tại chỗ đó, không ngừng chong mắt
theo dõi khắp bờ rạch, chờ con cá sấu quay trở về chỗ ẩn núp. Người qua kẻ lại, khi
biết chuyện đều khuyên bà nên bỏ ý định trả thù: “Nó ở dưới nước, sông rạch lại
mênh mông, biết nó ở đâu mà chờ”. Nhưng bà mẹ vẫn ngồi chờ.
Mấy ngày sau đó, người ta không thấy bà đâu nữa. Chỗ bà ngồi nấu cơm mấy
bữa trước, bên cạnh lưng nồi cơm còn bắc lên bếp đã tắt, còn cái lược thưa vương lại
mấy sợi tóc dài.
Một hôm có người đi chài gặp xác bà và xác con cá sấu nổi lềnh bềnh trên mặt
sông xuôi dòng nước trôi ra biển. Cán của cây mác vót vẫn còn cầm chặt trong tay bà,
lưỡi lút sâu vào hầu con cá sấu, hai chân con vật bám chặt vào lưng bà…
Chẳng ai biết tên tuổi người mẹ dũng cảm ấy. Người ta chỉ biết đó là một
người mẹ gan dạ, quyết chí trả thù cho con bằng được, dù phải đánh đổi bằng cái chết
của mình. Dân làng cảm thương và vớt xác bà lên, an táng tử tế như chôn cất người
thân. Sau đó, dân làng cất một ngôi miễu nhỏ bằng tre lá để thờ bà ngay tại vàm rạch
với di vật còn lại duy nhất là cái lược, được đặt trang trọng trên án thờ.
Từ ấy, con rạch vô danh này được gọi là rạch Bỏ Lược, để ghi nhớ câu chuyện
thương tâm về một bà mẹ dũng cảm đã liều mình trả thù cho con và trừ hại cho dân
làng.
108
(Nguyễn Phương Thảo, Huyền thoại miệt vườn)
3. Chau Sanh – Chau Thông
Ngày xưa, bên một khu rừng, cách xa kinh thành của vua Pờ rum-mơ tót, có
hai vợ chồng tuổi đã già, mà chưa có con. Hai vợ chồng rất nghèo, hằng ngày phải
lên rừng đốn củi hoặc xuống bưng mò cua bắt ốc về nhà đổi gạo. Nhưng lại rất tốt
bụng hay giúp đỡ những người nghèo khổ, đỡ đần những kẻ già và những ai đường
xa lỡ bước ghé vào nhà trọ qua đêm.
Một hôm ông lão vác búa vào rừng thì nghe tiếng khóc ở mé bưng. Ông vội vã
băng rừng chạy đến. Thấy một bé trai bụ bẫm nằm trong một chiếc loa sen giữa bưng.
Ông liền mang bé về nhà và đặt tên là Chau Sanh. Chau Sanh càng lớn càng ăn khỏe,
ông lão không đủ sức nuôi liền mang vào rừng để dưới gốc cây cho cây đè chết.
Nhưng khi ông vừa về tới nhà thì thấy Chau Sanh vác một cây dầu to về đến cổng.
Ông lão vô cùng ngạc nhiên. Từ đó, ngày nào ông lão cũng cùng Chau Sanh vào rừng
đốn củi đổi lấy gạo sống qua ngày.
Một hôm, ông lão cùng Chau Sanh ra bưng sâu bắt cá. Hai cha con đang bắt thì
bỗng một con sấu lớn, mình dài hàng chục sải lao vun vút tới toan vồ lấy người cha.
Liền lúc ấy, Chau Sanh quay lại ôm chặt cổ sấu ghì lại. Con sấu rất hung dữ, vùng
vẫy làm nước bưng cuộn lên những đợt sóng dữ tung tóe mịt mờ cả một vùng.
Ông lão thoát chết chạy về nhà kể lại với vợ rằng Chau Sanh bị sấu ăn thịt.
Nhưng đến quá trưa Chau sanh đã giết được con sấu và chàng vác sấu về nhà. Hai vợ
chồng ông lão thấy Chau Sanh còn sống vui mừng khôn xiết. Dân sóc nghe tin Chau
Sanh giết được sấu bèn kéo nhau đến xem, ai cũng phục chàng. Từ đó, trong phum
sóc hễ có thú dữ hoành hành hay có việc gì nặng nhọc, đều nhờ đến Chau Sanh giúp
đỡ. Các thú dữ trong rừng đều rất nể sợ chàng, không một con thú nào dám rình rập
hại chàng.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Truyện cổ Khơme Nam Bộ)
4. Cá sấu đớp mà thoát được
Chuyện xảy ra đã lâu lắm, hồi ấy vùng Cà Mau còn nhiều trăn, rắn, kỳ đà… và
109
nhất là cá sấu.
Ông Sáu Kiều ở ấp Cây Me, xã An Viên Tây, theo đạo Cao Đài, để tóc dài, búi
cái trâm, vốn là tay thợ săn dày dạn các loại heo rừng, trăn, kỳ đà… ở vùng rừng
đước Năm Căn. Một hôm, ông Sáu dẫn chó săn đi vòa vùng rạch Ông Đôi, ấp Ông
Trang để săn kỳ đà. Sau khi bắt được một con kỳ đà, ông đốn một nhánh cây cắm
cạnh mép nước, treo con kỳ đà, rồi ngồi trên một thân cây ngã ngang lòng rạch, hai
chân buông xuống nước, móc thuốc ra hút, nghỉ mệt.
Rạch Ông Đôi rộng chừng bốn chục mét, sau sáu bảy thước, hai bên bờ cây cối
rậm rạp hoang vắng, yên tĩnh. Bỗng nhanh như chớp, một con sấu lớn bằng chiếc
xuồng ba lá, ngoi lên mặt nước đớp gọn bắp vế ông Sáu, nó ngoạm chặt và lôi ông
xuống lòng rạch. Theo thói quen của loài sấu khi bắt được mồi, chúng thường quật
lên quật xuống nhiều lần cho con mồi chết hẳn, rồi mới nuốt cho dễ. Cây mác đi săn,
vũ khí duy nhứt đang cắm trên bờ, con chó thấy mất chủ sủa vang như kêu cứu. Bị
đòn tấn công bất ngờ, ông Sáu hết phương chống đỡ, đành xuôi tay chờ chết. Thấy
con mồi bất động, sấu quắp ông Sáu đưa lên mép nước để nuốt (sấu ít khi nuốt mồi
dưới nước).
Bỗng nhiên, ông Sáu bừng tỉnh, nhớ trên búi tóc có cây lông nhím. Lấy chút
sức lực còn lại, ông bình tĩnh rút cây lông nhím đâm mạnh vào mắt con ác thú. Sấu
co thân quẫy mạnh, há miệng rộng vì đau đớn, làm rơi con mồi và lặn xuống nước.
Chừng nửa giờ sau, có một chiếc xuồng đi ngang qua thấy dòng máu đỏ loang trên
mặt nước và con kỳ đà treo trên cây, biết có chuyện chẳng lành, tri hô lên.
Ông Sáu Kiều thoát chết trong đường tơ tóc nhờ vào sự bình tĩnh và dũng cảm
của mình.
(Theo Nguyễn Hữu Hiếu, Truyện kể dân gian Nam Bộ)
5. Truyền thuyết về Ông Đình Tây và sấu năm chèo ở An Giang
Truyền thuyết kể lại rằng: Vâng lời Đức Phật Thầy, ông Đình Tây chuẩn bị
chuyến đi hành thiện. Khi ông tới vùng láng (Láng Linh), biết được trong căn chòi
lụp xụp kia có một phụ nữ chuyển bụng sắp sinh con, gia cảnh đáng thương. Người
chồng hàng ngày lặn lội bắt cua, rùa, rắn đổi gạo, thường khi anh về sớm nhưng hôm
đó anh không về kịp. Ông Đình Tây xông xáo cùng mọi người làm vách che, lợp lại
110
mái dột ngăn mưa gió. Người phụ nữ sắp sinh nhưng chiếc giường mới kê được ba
chân, ông không ngại kề vai làm chân giường giúp bà mụ đỡ đẻ nhanh chóng. Mọi
việc xong xuôi thì anh Xinh, chồng người phụ nữ về tới, rất cảm kích về sự giúp đỡ
của mọi người. Anh khoe với ông Đình Tây hai giỏ cá vừa bắt được để lo cho vợ
vượt cạn, rồi móc từ túi bên hông ra một con vật nhỏ. Đó là con sấu rất kỳ lạ, da nó
trơn bóng chứ không sần sùi, chót mũi có màu đỏ rực, đặc biệt con sấu có thêm bàn
chân mọc ra từ chân bình thường (móng đeo). Ông Đình thấy hình dạng con sấu kỳ lạ
nên thích thú, anh Xinh liền tặng con sấu này. Ông về trình với Đức Phật Thầy những
việc hành thiện và cho ngài xem con sấu lạ. Vừa nhìn thấy, ngài thở dài và bảo ông
Đình không nên nuôi con ngặc ngư này, nó là loài nghiệt thú sẽ làm điều hại bá tánh.
Nhưng ông Đình thương xót không nỡ, sau đó lui về đình Thới Sơn, lén nuôi sấu nhỏ
ở góc hồ sen trước sân đình. Thấy sấu lớn nhanh, ông lấy dây cột chân nó lại. Càng
lớn con sấu càng có tính khí hung bạo, ông liền thay bằng sợi dây xích bằng sắt để nó
không thoát được.
Một đêm trời đổ mưa to, gió quất mạnh, cây cối ngả nghiêng, sấm chớp liên
hồi. Rạng sáng ông Đình giật mình phát hiện: con sấu bỏ đi! Ông lội xung quanh
nhưng không tìm thấy, trở lại kiểm tra sợi xích, thấy vẫn còn nguyên. Ông lần theo
sợi dây xuống hồ, bất ngờ nhìn thấy một bàn chân sấu bỏ lại cùng với sợi xích. Nó
cắn bỏ một bàn chân để thoát thân. Ông Đình lập tức bẩm báo Đức Phật Thầy. Ngài
điềm nhiên như tiên đoán trước điều gì, không quở trách mà còn trao cho ông Đình
năm món bảo bối gồm hai cây lao, một cây mun cổ phụng, một lưỡi câu và một
đường dây băng. Đồng thời, ông Đình còn được truyền “khẩu quyết biệt truyền” để
thu phục ngặc ngư. Rồi một ngày tin dữ lan truyền, con sấu mũi đỏ khổng lồ xuất
hiện nơi anh Xinh đã bắt nó khi xưa. Nó to như một chiếc ghe lớn, nổi lên tạo những
cơn sóng lớn nhấn chìm xuồng ghe của những người xuôi ngược trên sông. Có lúc nó
lên bờ bắt heo, gà nuôi trong chuồng của dân, lúc sát hại người, gây biết bao nỗi kinh
hoàng. Ông Đình vội vã gặp Đức Phật Thầy xin thu phục con nghiệt thú, nhưng khi
ông đến nơi là sấu lặn mất. Cứ thế nhiều lần, hễ ông về thì sấu lại nổi lên quấy phá
làm kinh hồn dân làng. Có người thấy sấu nổi lên liền gọi thất thanh tên ông Đình thì
sấu tháo chạy. Một lần, ông Đình quyết tâm ở lại chờ bắt sấu cho bằng được nhưng
111
ngày qua vẫn không thấy sấu xuất hiện. Ông đứng giữa vùng láng kêu lớn: “Hỡi loài
ngặc ngư, nếu thiên cơ được định, ngươi nên nằm yên sám hối tu hành, còn nếu số
ngươi đã tận thì mau nổi lên theo ta về”. Ông Đình chờ đến ba ngày vẫn không thấy
bóng dáng con sấu đâu, nhưng mãi từ đó về sau, không nghe ai kể sấu nổi lên quấy
phá dân làng nữa. 58 năm sau, đến ngày ông Đình viên tịch (1914), năm món bảo bối
vẫn chưa được sử dụng. Đến nay, trải qua 96 lần lễ giỗ ông Đình, những bảo bối ấy
vẫn còn cất giữ.
(Theo Huỳnh Ngọc Trảng, Nghìn năm bia miệng)
6. Cá sấu trấn Vĩnh Thanh (hay Câu sấu)
Trấn Vĩnh Thanh ấy lại có nhiều sấu và cọp dữ. Dân địa phương sống quen nên
chẳng hề sợ. Đờn bà con nít có khi cầm dao cắt cỏ hay cầm cái đòn xóc gánh mạ
cũng có thể đánh cọp và bắt đặng cọp.
Năm trước trong khúc sông Tiên (Sa Đéc) có con cá sấu mình lớn năm vây, dài
đến sáu trượng, hàng ngày đón chận ghe qua, đánh lắc cho văng người xuống, hoặc
đánh lật úp ghe rồi nhảy vọt lên táp nuốt. Người ta gọi tên con sấu ấy là "ông Luồng"
và đã dùng hết cách để trừ nó mà rốt lại cũng chẳng đặng.
Bấy giờ có người thợ câu nhà nghề dùng một lưỡi câu sắt thật to, móc chặt một
con vịt sống, rồi dùng dây mây cũng to, xỏ qua lỗ hậu lưỡi câu dính liền với thân con
vịt, đoạn anh nhảy ùm xuống nước, bơi lội nhử mồi.
Sấu nghe hơi liền nổi lên rượt đuổi.
Người thợ câu lành nghề kia biết sấu không có mang tai, không tài nào hả họng
trong nước đặng; còn cái đuôi sấu dẫu có cựa quậy cũng chẳng có hại gì. Như vậy
mới trêu đùa với sấu và đợi đến lúc nó tiến gần sát lại bên mình, cất lên mặt nước
toan táp, anh mới thừa cơ ném vịt tới miệng nó.
Trong lúc sấu lo nuốt vịt thời anh thợ câu hụp xuống nước, lặn ngắm vào bờ,
hô nhau kéo riết dây câu vô rồi cùng với dân làng áp lại, đâm chết tươi con sấu.
Mối hại từ đó mới được diệt trừ. Tài năng của anh thợ câu nhà nghề ấy chẳng
những người trong nước mà cả đến người các nước nghe đến cũng phải giựt mình,
lấy làm lạ lùng.
112
(Nguyễn Văn Hầu, Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ)
7. Sự tích miếu ông Cù
Ngày xưa, khi vùng đất Định Thành còn hoang vu, con người sống thưa thớt
cây cối rậm rạp với nhiều thú rừng. Con sông Gành Hào chảy qua vùng đất này trông
như một cái hàm rồng. Dưới sông có một con cá sấu rất lớn thường nổi lên ăn thịt
người nên dân trong vùng ai cũng sợ.
Một hôm, có ông lái buôn từ Cần Thơ chèo ghe đến đây thì trời đã tối. Ông hỏi
han tình hình bà con và quyết tâm nằm phục xem con cá sấu lớn cỡ nào. Một lúc sau,
nghe tiếng sóng nước dạt mạnh vào mạn thuyền, bỗng một cái đuôi con cá sấu quật
lên. Ông liền nhanh tay lấy cái phản chặt đứt đuôi con cá sấu. Kể từ đó sấu không còn
ăn thịt người nữa.
Thời gian sau, có một con cá sấu từ nơi khác tìm đến. Nó cũng ăn thịt người.
Hai con cá sấu đánh nhau, quần nát cả một khúc sông.
Con cá sấu trước đó bỏ đi không dám trở lại Gành Hào nữa, con đến sau sống
quanh quẩn bên gốc đa và rất hiền lành. Nó tu ở đây và chết ở đây. Sau đó người dân
tìm thấy bộ xương cá sấu và lập một miều thờ ngay khúc sông ấy và gọi là miếu Ông
Cù.
Ngày nay, tuy bộ xương cá sấu không còn nữa, nhưng người dân địa
phươngvẫn còn thờ cúng ông Cù, nhất là khi làm nhà hay có việc gì quan trọng.
(Chu Xuân Diên, Văn học dân gian Bạc Liêu)
8. Bưng sấu hì
Ngày xưa, lúc đồng Tháp Mười còn hoang vu, có một gia đình tới lập nghiệp.
Họ cất chòi ở bìa rừng tràm, chồng phá rừng làm ruộng, vợ lo cơm nước, chăn nuôi
heo, gà,... như những người khai hoang lúc bấy giờ. Hai vợ chồng có đứa con trai
khoảng 10 tuổi, nó thường vào rừng tìm lấy mật ong.
Năm nọ, đã qua tới tháng năm mà trời vẫn chưa mưa, nước ở trong bưng, đìa,...
khô kiệt. Như mọi khi, thằng nhỏ quẩy gùi đi lấy mật đến trưa hoặc xế chiều là về,
nhưng một hôm, đến tối mịt, nó vẫn chưa về. Hai vợ chồng trông lắm và lấy làm lo
113
lắng.
Hai vợ chồng không ngủ, suốt đêm trông về phía rừng ngóng con. Người
chồng lấy tay bắt làm loa "hú hì" gọi con. Hú xong rồi lắng nghe, họ nghe như cũng
có tiếng trả lời từ xa vọng lại. Người chồng tiếp tục hú và lắng nghe. Họ cũng nghe
tiếng hú hì vang nho nhỏ từ xa. Họ phân vân chưa biết có phải là tiếng con mình trả
lời hay không. Họ không gọi nữa nhưng vẫn nghe tiếng hì. Hai vợ chồng kinh ngạc,
không biết phải làm gì chỉ còn biết đánh trống kêu cứu. Hàng xóm chạy đến, rồi kẻ
cuốc, người đinh ba, mác vót chạy vào rừng về phía phát ra tiếng kêu. Một lúc khá
lâu, sau khi vượt qua cụm tràm dày bịt, một cái hà lãng thật lớn hiện ra trước mắt,
chính từ nới đó phát ra tiếng hì. Dưới ánh đuốc chập chờn, hà lãng loang loáng hiện
ra những con vật như những khúc tràm lớn đang ngo ngoe thở phì phò.
Đến sáng thiệt mặt, thì ra đây là một cái bưng giữa rừng tràm dày, ít người lui
tới, nay nước đã kiệt, bùn đặc quánh lại, cá sấu tụ về và mắc kẹt nơi đây, tiếng hì
chính là tiếng thở của nó.
Họ tìm thấy cạnh một gốc cây có một cái gùi mật ong, như vậy là thằng nhỏ đã
rớt xuống hà lãng và bị sấu ăn thịt rồi. Người vợ gào lên thảm thiết, người chồng im
lặng. Một lát sau, theo hướng dẫn của người chồng, hàng xóm đào một cái ao nhỏ về
phía ngược chiều gió, rồi vào rừng tìm cây mớp xác đốt lên. Khói cây mớp xác làm lũ
sấu cay mắt, sặt sụa, tìm đường bò lung tung không sao ra khỏi hà lãng được vì chung
quanh đều không có nước. Để tránh cay mắt và không bị sặt chúng phải bò về phía
ngược gió và như vậy là từng con một bò vào cái rãnh được đào. Những người hàng
xóm cứ việc đè bắt tùng con, lấy dây mây xỏ mũi như xỏ mũi trâu và dùng mác vót
cắt rút lấy gân đuôi nên chúng không còn quẫy đạp làm gì được ai.
Gần đến trưa cả bầy sấu bị bắt sạch và xỏ mũi dẫn về xóm. Từ đó cái bưng này
có tên là bưng sấu hì.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Nghìn năm bia miệng)
9 Ông Luồng ở sông Tiên Thủy
Sông Tiên Thủy ở phía Đông đầu nguồn Hàm Luông (đó là đoạn rạch Sóc sãi
chảy qua xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre ngày nay). Sông sâu và
rộng. Từ xưa làng chợ bên sông đã rất trù mật, ghe thuyền đi lại tụ tập đông đúc.
114
Nước sông chia làm hai lạch: lạch phía Nam nước trong, lạch phía Bắc nhiều phù sa,
nước đục ngầu. Nhưng vị nước đều có vị ngọt tốt, pha trà có mùi thơm, tắm gội sạch
sẽ nên gọi là sông Tiên Thủy (nước tiên).
Ở ngoài vàm sông lớn, ngày xưa, có nhiều cá sấu lớn bằng chiếc ghe, rất hung
dữ, người qua lại đều phải kiêng sợ. Nhân dân trong vùng thường chở gạo đi lại trên
mương rạch, hay dùng nước ấy tưới rửa thì phải trồng cây cọc dày kín để ngăn dòng
nước cho khỏi nạn sấu. Năm nọ, ở sông Tiên Thủy có một con cá sấu lớn kì lạ - có
đến năm vây, mỗi chét tay là một vây dài sáu thước, thường đón ghe thuyền qua lại
trên sông dùng đuôi quật người trên ghe cho sa xuống nước, hoặc làm cho úp thuyền
ghe đặng bắt người nuốt sống. Người ta gọi con sấu hung dữ này là "Ông Luồng".
Dân chúng tìm đủ cách giết nhưng không sao trừ được.
Về sau, có một người thiện nghệ dùng lưỡi câu bằng sắt, bắt một con vịt rồi lấy
dây mây lớn xỏ buộc sau lưỡi câu thật chặt, rồi tay không ôm con vịt nhảy xuống
sông nhử sấu. Cá sấu đến đuổi theo, nhưng vốn không có mang dưới nước nên nó
không dám há miệng. Vả lại, sấu muốn quẫy đuôi cũng không có tác dụng gì. Người
cấu cá đã biết vậy nên thị thường đợi cá sấu bơi đến gần, trồi đầu lên khỏi mặt nước
há miệng táp thì thừa cơ ném con vịt vào miệng cho sấu nuốt. Liền sau đó, anh bơi
vào bờ mà kêu dân chúng kéo dây mây lôi sấu vào bờ và xúm lại đâm chết. Tài nghệ
của người câu sấu ấy ai nghe cũng đều thán phục.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Nghìn năm bia miệng)
10. Câu cá sấu
Ngày xưa, dãy Thất Sơn chỉ là những hòn đảo nhỏ được bao bọc bằng biển cả
bao la. Có vợ chồng người Miên sống trong một hốc đá to trên một trong những hòn
đảo ấy. Họ là ngư dân của vùng đất liền gần đấy, trong một chuyến đi đánh cá bị sóng
đánh ập vào đây. Hằng ngày, vợ chồng dắt nhau ven biển mò cua, bắt ốc, câu cá sinh
sống. Chồng vác cần câu, vợ mang om chứa nước ngọt, tay xách chiếc gàu đựng cá.
Một hôm, lúc người chồng hụp xuống mé nước mò ốc, bỗng một đợt sóng to ồ
115
ập xô vào bờ, người chồng bất ngờ bị sóng cuốn ra khơi. Vợ kinh hoàng định phóng
theo tiếp sức. Thình lình, từ dưới nước một cái mõm dài bằng gian nhà thò lên định
ngoạm lấy người chồng. Anh chỉ còn kịp la lên:
- Cá sấu đó, mình đừng lội xuống.
Người vợ đứng run rẫy, trố mắt nhìn. Cái đầu con vật với đôi mắt thao láo đảo
qua, đảo lại về phía ngưới chồng đang ra sức bơi ra xa khỏi nó. Thân hình con vật sần
sùi, mốc thếch, rong rêu bám đầy, nổi lờ đờ to và dài như bè gỗ súc. Người chồng
biết nguy, đổi thế đứng. Cá sấu dùng mõm gắp không được người. Nó thở phì phì,
phun vào miếng mồi một tia nước mạnh như búa bổ. Người chồng bị lật ngang. Sấu
trườn tới ngoạm vào miệng, đoạn quẫy đuôi thông thả lội ra khơi. Người chồng còn
cố ngoắc tay kêu cứu đầy tuyệt vọng. Vợ đứng trên bờ giậm chân khóc lóc thảm thiết,
nhưng không biết làm sao cứu được chồng mình. Sấu được mồi càng lúc càng ra khơi
xa. Người vợ trên bờ đứng nhìn chỉ biết đưa tay lên trời kêu cứu. Bỗng một cơn gió lạ
thổi đến, một cụ già hiện ra. Ông cụ hỏi:
- Vì sao con khóc? Ta là Sơn thần đây.
- Thưa cụ, cá sấu vừa gắp chồng con đi rồi. Xin cụ hãy cứu giúp chồng con.
- Được! Con hãy chờ ở đây. Ta sẽ đi cứu chồng con...
Sơn thần biến thành làn gió mạnh đi theo dấu cá sấu mang mồi về tổ. Cá sấu đã
về tới hang ở của nó. Đó là một cụm đá nhỏ lởm chởm, chen chúc sam đeo. Nó rống
lên một tiếng âm vang. Cả đàn con cháu chui ra khỏi hang, táo tác giành mồi. Lúc đó,
Sơn thần cũng kịp đến, hét lớn:
- Đồ nghiệt súc, không được hại người.
Cá sấu quay đầu, giương đôi mắt thao láo, há miệng đỏ như máu táp vào Sơn
thần, rồi nó dùng đuôi quật đá quăng lên vun vút. Sơn thần hóa lửa hung đá thành tro
bụi, sấu nhe răng chồm tới. Sơn thần rút bên lưng một thanh gươm sáng lóa như ánh
mặt trời, xông vào chém cá sấu túi bụi. Hai bên đánh nhau rất hăng suốt ba ngày liền.
Dần dần, sấu kiệt sức, bị gươm chặt làm bốn khúc. Sơn thần tìm người câu cá nhưng
không ngờ anh bị đàn sấu con ăn thịt mất rồi.
Chờ mãi bên chân núi, người vợ không thấy chồng mình quay về. Chị buồn rầu
leo lên đỉnh núi trông xuống biển, đầu vẫn đội cà om. Dưới nắng mưa dãy dầu, ngày
116
qua ngày người vợ hóa đá. Núi đá ngày nay người ta gọi là núi Bà Om. Còn thân hình
cá sấu bị Sơn thần chặt làm mấy khúc, bỏ nằm rải rác trên đỉnh núi Sam. Ngày nay,
nhân dân gọi nơi này là "Đá cá sấu".
(Huỳnh Ngọc Trảng, Nghìn năm bia miệng)
11. Diệt cá sấu
Ở làng nọ, nơi khúc sông đầu làng bỗng xuất hiện một con cá sấu đến từ đâu
không ai biết. Con cá sấu thành tinh đang thèm ăn thịt người sau bao ngày đói khát.
Một hôm, nhân có một đám cưới đông đủ họ hàng hai bên đang hướng ra bến sông.
Con sấu biến thành một chiếc thuyền rồng lộng lẫy đậu sẵn dưới bến. Mọi người thấy
thuyền đẹp không ngần ngại rủ nhau bước xuống. Chờ mọi người bước xuống đông
đủ, con cá sấu hiện nguyên hình và nuốt chửng cả đoàn người vào bụng. Lúc này,
trên bờ chỉ còn một chàng trai vì nhường bước cho mọi người lên trước nên khi thấy
cá sấu hiện nguyên hình thì kịp đứng lại. Chứng kiến cảnh mọi người trong đó có cha
mẹ mình bị sát hại, chàng trai trở về tìm thầy học võ chờ ngày trả thù. Ít lâu sau,
chàng trai trở thành một đạo sĩ giỏi. Một hôm, chàng ra bến sông giả làm khách qua
sông chờ đò. Con cá sấu thấy vậy liền biến thành một khúc gỗ lớn trôi tới chỗ anh.
Chàng trai bước lên khúc gỗ, con cá sấu lập tức hiện hình định nuốt chửng chàng trai.
Nhờ có phép thuật biết trước sự việc nên chàng trai nhanh tay tuốt kiếm đâm thẳng
vào họng cá sấu. Sau một hồi vật vã, con cá sấu lăn ra chết dưới mũi kiếm của chàng
trai cắm trong họng. Từ đó, mọi người trong làng không còn sợ mỗi khi đi thuyền qua
sông.
(Chu Xuân Diên, Văn học dân gian Bạc Liêu)
12. Con sấu mê hát bội
Năm đó, trong làng có một người lực điền yêu và làm đám cưới với một cô
thôn nữ ở làng bên. Đám rước dâu có hàng chục xuồng, ghe, có dàn nhạc lễ, trống
kèn… vui như ngày hội. Khi đám rước đi ngang khúc sông nọ, bất thần con sấu nổi
lên, nó quật đuôi thật mạnh làm chìm 3-4 chiếc xuồng, ghe. Những người đi trong
đám rước ném bỏ lễ vật, cố chèo chống, bơi lội thoát thân. Khi đã lên được trên bờ,
117
điểm mặt từng người lại thì thấy mất tích cô dâu. Chú rể đau đớn, vật vã…
Anh ta về rắp tâm giết cho bằng được con sấu, trả mối hận mất vợ. Anh gom
góp hết vốn liếng, gia sản đi mời cho bằng được 3 gánh hát bội nổi tiếng trong vùng
và vận động trai tráng ở các làng hợp sức với anh.
Đêm đó, gánh hát bội đầu tiên dựng rạp hát phía trong vàm rạch từ rất sớm.
Con sấu nghe tiếng trống, tiếng đàn, nổi lên bơi vào xem. Khi gánh hát đầu tiên hạ
màn, thì cách đó không xa, đi sâu vào con rạch, gánh hát bội thứ hai bắt đầu khai
diễn. Trong khi đó, hàng trăm trai làng lặng lẽ, thay phiên nhau đốn gỗ, xóc trụ, đào
đất đắp một con đập to ngoài đầu vàm. Khi con sấu xem xong gánh hát bội thứ ba ở
sâu trong ngọn rạch thì trời cũng vừa ửng sáng, nước đang ròng chỉ còn khoảng một
phần ba sông, con đập cũng vừa hoàn thành.
Con sấu uể oải bơi ra sông cái sau một đêm trắng xem hát. Nhưng không còn
kịp nữa, nó bị chặn lại bằng con đập khi ra đến đầu vàm. Từ trên bờ, hàng ngàn mũi
lao bằng gốc tầm vông già vạt nhọn, những mũi chĩa đinh ba… nhắm ngay con sấu
phóng tới. Tiếng hò hét vang động… Chàng lực điền giành phần phanh da, xả thịt
con sấu.
(Theo Trần Ngu Lạc, Nguồn Báo điện tử Cần Thơ)
13. Cá sấu Vũng Gấm
Truyện kể rằng: Thuở nọ ở Vũng Gấm có một con sấu rất to. Nó thường làm
hại nhiều người qua lại trên sông này. Nó ăn thịt một ông Tri bộ nọ và từ đó nó trở
thành con “ma trành” rất hung dữ. Có một người thợ câu bắt vịt làm mồi móc vào
lưỡi câu, bơi ra sông nhử sấu. Sấu táp bị mắc câu, dân chúng cùng nhau kéo sấu vào
bờ đập chết.
(Truyện kể này có nét gần gũi với tài nghệ của người giết được con sấu, gọi là
ông Luông, ở sông Tiên Thủy (trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre) được chép trong Gia Định thành thông chí.
118
(Theo Hương Lam, Trích trên Báo Mới. http://baomoi.com)
14. Cá sấu rừng Sác
Trong câu chuyện với các bậc cao niên và những cựu binh từng một thời sống
và chiến đấu trên vùng đất mưa bom lửa đạn năm nào, câu chuyện về sấu dữ Rừng
Sác chừng như vẫn còn đậm tính thời sự.
Sấu rất thích ăn thịt người. Cái sở thích ấy của chúng rộ lên sau Tết Mậu Thân
năm 1968, khi giặc Mỹ điên cuồng xua hàng trăm tàu chiến cùng máy bay B52 tổ
chức san bằng chiến khu rừng Sác, nuôi dã tâm xóa sổ Sở chỉ huy Đoàn 10. Trong
một trận đánh ác liệt kéo dài 20 ngày ở sông Ông Kèo (nay thuộc địa phận xã Thạnh
An), Lữ đoàn 199 của địch bị Đoàn 10 đánh cho tan tác với hàng trăm lính Mỹ phơi
xác trên sông, làm mồi cho đàn sấu. Cũng từ đấy sấu bén mùi thịt sống, hễ nghe súng
nổ, nghe mùi người là chúng lao đến rình mồi. Và cũng từ đây, đàn sấu trở thành
hung thần sát hại nhiều người dân, chiến sỹ đặc công rừng Sác. Trước sự lộng hành
của những con sấu tinh, bà con phải hùn tiền mời "thầy" chuyên câu sấu ở miệt Cà
Mau về Cần Giờ lùng bắt sấu. "Khi bắt được sấu, ông thầy chỉ lấy bao tử con vật, còn
lại giao hết cho người làng. Nghe nói trong bao tử của những con sấu từng ăn thịt
người có rất nhiều vòng vàng của những người mà nó ăn thịt. Khi lấy những món ấy
ra khỏi bao tử, người câu sấu phải làm mâm cơm cúng tạ vong hồn chủ nhân của
những vòng vàng ấy rồi mới dám bán buôn, sử dụng".
(Lời kể của ông Nguyễn Lợi, xã Long Hòa, Cần Giờ, Tp. HCM)
15. Truyền thuyết về Đầu Sấu, Cái Răng
Ngày xưa, ở Vàm sông Cần Thơ, nơi giáp giới giữa hai làng Thường Thạnh và
Tân An, tương truyền rằng có một con sấu rất lớn và hung dữ. Khi sấu nổi lên nó to
bằng chiếc xuồng ba lá, dài 5-6 thước, có hai hàng đèn sáng rực trên lưng. Nhiều
người đi qua khúc sông này bằng xuồng, ghe đã bị con sấu nổi lên quật chìm và cắp
đi mất xác.
Điều lạ là con sấu rất mê xem hát bội. Những lần đình làng tổ chức cúng lễ
thượng điền, hạ điền có mời gánh hát bội về diễn, con sấu đều trườn lên bãi nằm xem.
119
Đám đông đang xem hát trên sân đình hoảng loạn, bỏ chạy tứ phía. Nhưng thấy con
sấu chẳng làm hại ai, chỉ nổi lên xem hát bội nên người ta quay lại, chẳng còn sợ hãi
nữa. Ông xã trưởng còn sai người làng ném đồ cúng xuống cho sấu ăn. Dân làng
quen dần với việc sấu xem hát bội cúng đình hàng năm.
(Theo Trần Ngu Lạc, Nguồn Báo điện tử cần thơ)
16. Sấu đỏ mũi
Thuở ấy, ở làng Bình Hóa, huyện Thủ Đồn Sứ (tức Tân Uyên - xưa thuộc Biên
Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương) có một thanh niên tên là Năm Hải. Hồi ấy, sông
Đồng Nai có rất nhiều sấu đến nỗi muốn tắm giặt phải tốn công phu rào bến thành cái
"bến chuồng” nhỏ hẹp, không được bơi lội tự do. Gà, vịt, chó, heo bị sấu bắt thịt hàng
ngày. Dân chúng ai cũng oán sấu, nhưng nhiều người dầu bị sấu làm hại cũng không
dám oán trách lại còn làm thịt gà vịt để cúng thần sấu.
Hôm nọ, người vợ mới cưới của Năm Hải vừa mới về nhà chồng thì bị sấu bắt
trong lúc chị đang ngồi trên cầu rửa bát. Năm Hải hận sấu khôn cùng nên thề là quyết
giết cho bằng được con sấu ăn thịt vợ mình mới thôi. Anh đi rèn lưỡi câu, lao, búa để
đánh nhau với sấu và anh nghĩ ra cách dùng vịt để câu sấu. Bằng cách ấy, Năm Hải
đã giết hàng trăm con sấu, nhưng chưa diệt được con sấu đã ăn thịt vợ mình nên chưa
hả dạ...
Bỗng một hôm, Năm Hải gặp được con sấu đỏ mũi rất to. Nó vừa mắc câu thì
lôi xuồng anh chạy như thuyền buồm gặp gió to. Anh càng phóng lao vào nó thì nó
càng vùng vẫy như điên làm cho cả khúc sông nổi sóng. Anh cố sức ghì sấu lại gần
để dùng búa mà chém. Sấu bị đau điếng, vừa giẫy chết, vừa dùng đuôi quật đắm
xuồng và bứt đứt dây câu mà chạy. Năm Hải liều chết phóng theo, một tay nắm lấy
đuôi nó, một tay dùng ngọn lao cuối cùng của anh mà đâm sâu vào tim sấu. Máu sấu
trào ra đỏ sông. Mấy lần nó cố dìm anh xuống tận đáy sông thì mấy lần anh cố kéo nó
trồi lên mặt nước. Anh vừa đuối hơi kiệt sức thì đồng bào từ hai bờ sông đã bơi
120
xuồng ra tiếp cứu kịp thời, kéo được con sấu lên bờ...
Mổ bụng con sấu ra, anh Năm Hải bỗng thấy đôi vòng và đôi hoa tai đám cưới
của vợ anh còn nguyên trong ấy. Anh khóc kể rất thảm thiết, rồi tổ chức một đám
tang, đem chôn những di tích ấy thành một nấm mồ cho vợ anh.
(Theo Huỳnh Văn Nghệ, Trích Báo Đồng Nai, http://dongnai.vncgarden.com/)
17. Đá cá sấu
Ngày xưa, dãy Thất Sơn chỉ là những hòn đảo nhỏ được bao bọc bằng biển cả
bao la. Có vợ chồng người Miên sống trong một hốc đá to trên một trong những hòn
đảo ấy. Họ là ngư dân của vùng đất liền gần đấy, trong một chuyến đi đánh cá bị sóng
đánh ập vào đây. Hằng ngày, vợ chồng dắt nhau ven biển mò cua, bắt ốc, câu cá sinh
sống. Chồng vác cần câu, vợ mang om chứa nước ngọt, tay xách chiếc gàu đựng cá.
Một hôm, lúc người chồng hụp xuống mé nước mò ốc, bỗng một đợt sóng to ồ
ập xô vào bờ, người chồng bất ngờ bị sóng cuốn ra khơi. Vợ kinh hoàng định phóng
theo tiếp sức. Thình lình, từ dưới nước một cái mõm dài bằng gian nhà thò lên định
ngoạm lấy người chồng. Anh chỉ còn kịp la lên:
- Cá sấu đó, mình đừng lội xuống.
Người vợ đứng run rẫy, trố mắt nhìn. Cái đầu con vật với đôi mắt thao láo đảo
qua, đảo lại về phía ngưới chồng đang ra sức bơi ra xa khỏi nó. Thân hình con vật sần
sùi, mốc thếch, rong rêu bám đầy, nổi lờ đờ to và dài như bè gỗ súc. Người chồng
biết nguy, đổi thế đứng. Cá sấu dùng mõm gắp không được người. Nó thở phì phì,
phun vào miếng mồi một tia nước mạnh như búa bổ. Người chồng bị lật ngang. Sấu
trườn tới ngoạm vào miệng, đoạn quẫy đuôi thông thả lội ra khơi. Người chồng còn
cố ngoắc tay kêu cứu đầy tuyệt vọng. Vợ đứng trên bờ giậm chân khóc lóc thảm thiết,
nhưng không biết làm sao cứu được chồng mình. Sấu được mồi càng lúc càng ra khơi
xa. Người vợ trên bờ đứng nhìn chỉ biết đưa tay lên trời kêu cứu. Bỗng một cơn gió lạ
thổi đến, một cụ già hiện ra. Ông cụ hỏi:
- Vì sao con khóc? Ta là Sơn thần đây.
- Thưa cụ, cá sấu vừa gắp chồng con đi rồi. Xin cụ hãy cứu giúp chồng con.
121
- Được! Con hãy chờ ở đây. Ta sẽ đi cứu chồng con...
Sơn thần biến thành làn gió mạnh đi theo dấu cá sấu mang mồi về tổ. Cá sấu đã
về tới hang ở của nó. Đó là một cụm đá nhỏ lởm chởm, chen chúc sam đeo. Nó rống
lên một tiếng âm vang. Cả đàn con cháu chui ra khỏi hang, táo tác giành mồi. Lúc đó,
Sơn thần cũng kịp đến, hét lớn:
- Đồ nghiệt súc, không được hại người.
Cá sấu quay đầu, giương đôi mắt thao láo, há miệng đỏ như máu táp vào Sơn
thần, rồi nó dùng đuôi quật đá quăng lên vun vút. Sơn thần hóa lửa hung đá thành tro
bụi, sấu nhe răng chồm tới. Sơn thần rút bên lưng một thanh gươm sáng lóa như ánh
mặt trời, xông vào chém cá sấu túi bụi. Hai bên đánh nhau rất hăng suốt ba ngày liền.
Dần dần, sấu kiệt sức, bị gươm chặt làm bốn khúc. Sơn thần tìm người câu cá nhưng
không ngờ anh bị đàn sấu con ăn thịt mất rồi.
Chờ mãi bên chân núi, người vợ không thấy chồng mình quay về. Chị buồn rầu
leo lên đỉnh núi trông xuống biển, đầu vẫn đội cà om. Dưới nắng mưa dãy dầu, ngày
qua ngày người vợ hóa đá. Núi đá ngày nay người ta gọi là núi Bà Om. Còn thân hình
cá sấu bị Sơn thần chặt làm mấy khúc, bỏ nằm rải rác trên đỉnh núi Sam. Ngày nay,
nhân dân gọi nơi này là "Đá cá sấu".
NHÓM TRUYỆN VỀ CÁ SẤU CÓ NGHĨA
18. Sự tích thần Ô Ngạc Ngư
Thời mới lập làng, sông Cái Lớn, từ cửa sông vào độ 30km tới ngã ba đầu tiên,
đó là Ngã Ba Tàu thuộc địa phận xã Vĩnh Phước A, cái tên này đã có từ xưa. Người
xưa ở đây gọi con sấu mun này là Ô Ngư Ngạc để khỏi lầm lẫn với con sấu đuôi có
sắc ửng đỏ ngoài vịnh Cái Nước ở bên vùng U Minh Thượng mà mấy cụ gọi là Xích
Ngư Ngạc. Con sấu đó quá đổi hung hăng. Chính nó đã gây ra những vụ đập chìm
xuồng, bắt người ta ăn thịt. Nó làm bá chủ một khúc sông và hang ổ thì ở tại vàm
rạch Cái Nước. Xích Ngư Ngạc làm mưa làm gió địa phận của mình quen thói, một
hôm rề vào lãnh địa của Ô Ngư Ngạc đến vàm rạch Cái Bần. Thế là một trận quyết
chiến xảy ra. Mặc dù thân thể đã cụt đuôi, nhưng sấu mun cũng cương quyết vì bảo
vệ dòng họ, nổi lên chạm trán một còn một mất với sấu đỏ. Mọi người còn truyền
nhau: Ban đầu nhìn thấy như hai chiếc ghe cà dom có gắn máy cao tốc, một đen từ
122
trong Ngã Ba Tàu, một đỏ từ Cái Nước xé nước lao ào ào và đâm vào nhau. Sau một
cú chạm mạnh đến rung rinh mặt đất mấy cây số. Hai con sấu nhảy dựng cao lên tới
ngọn bần, rồi rơi xuống, nước tạt dựng phủ cả mé lá hai bên bờ sông. Trận đánh nhau
của Ô Ngư Ngạc bảo vệ lãnh địa với Xích Ngư Ngạc kéo dài đến 3 ngày đêm. Khúc
sông từ Ngã Ba Tàu đến Vàm Thầy Quơn sóng nước cứ nổi dậy ầm ầm, không một
xuồng ghe nào dám qua lại. Cuối cùng, sau một trận mưa to, con sông Cái Lớn lại
êm. Mấy ngày sau, người ta thấy xác con cá sấu đỏ xình lên, trôi tấp vào rượng đáy
chỗ vàm rạch Cái Nước. Còn sấu mun thì biến đâu biệt tích. Bà con vùng Ngã Ba Tàu
cảm thương con sấu “thần” biết quên mình chiến đấu dũng cảm, mặc dù tàn tật nhưng
vẫn gan dạ chiến đấu chống ngoại xâm, chia nhau tìm xác sấu mun. Thế nhưng tìm
mãi chẳng thấy đâu, họ đinh ninh là sấu đã chết, nên lập miếu thờ sấu tại mõm doi
vàm xép. Mấy ông cụ thì cho rằng: sấu mun không chết, mà trầm tích tại Ngã Ba Tàu,
nằm cấn về phía doi đất vàm xép mà tu hành. Rồi một ngày nào đó sấu sẽ “đắc đạo”
hóa rồng mà bay lên mây. Nhưng chuyện cũng lạ lùng thay, sấu mun đã bị thương
nặng rồi về nằm chỗ doi đất vàm xép mà chết. Xác sấu bị gài vào bậc đất sâu nên nổi
lên không được. Ngày qua ngày cái doi đất ở vàm xép được ngọn nước mang phù sa
bồi đắp trở thành một bãi cồn mỗi lúc một cao thêm. Nhân địa lý thiên nhiên thay đổi
như vậy, chuyện sấu tu hành của các cụ xưa ngày một đậm thêm. Các cụ già tin rằng,
một ngày nào đó thần Ô Ngư Ngạc của các cụ sẽ hóa rồng mà bay về trời.
(Lời kể của ông Tám Nam, Gò Quao, Kiên Giang)
19. Bồ - piêl diệt cá sấu khổng lồ
Ngày xưa, cả vùng đất quanh núi Bồ-piêl, một ngọn núi thuộc bảy núi tỉnh An
Giang ngày nay, còn là một hòn đảo nằm giữa biển nước mênh mông.
Dân chúng trong vùng ngày ngày xuống biển mò tôm bắt cá, nhặt sò về làm
thức ăn. Họ nhặt những cây to khoét làm thuyền, ra biển đánh cá. Cuộc sống được
thiên nhiên ưu đãi nến rất yên lành, no đủ. Bỗng nhiên có một con cá sấu khổng lồ,
hung dữ xuất hiện. Nó thường quậy nước biển thành sóng lớn đánh chìm ghe, đón bắt
người ăn thịt.
Những lúc trời đất giận dữ nổi sấm chớp đì đùng, con sấu khổng lồ hiện ra
123
mình mẩy đen ngòm dài hàng chục sải. Miệng há rộng thở phì phò, nhe hai hàm răng
nhọn hoắt. Mắt con vật đỏ như hai quả cầu lửa. Cá sấu tung hoành ngang dọc quật
đuôi, đạp nước làm biển dậy lên những con sóng lớn. Gặp những lúc ấy thuyền bè đi
trên biển bị đánh lật không ít và sấu đón bắt ăn thịt những ngư dân. Người dân trên
đảo kẻ mất cha người mất chồng, tiếng oán than bao trùm khắp trên đảo.
Nguyên trước kia, một người em của Bồ-piêl nhặt được một trứng cá sấu ngoài
biển và mang về nhà. Hôm sau, trứng nở ra một con ca sấu bằng ngón tay. Anh ta
đem cá sấu bỏ vào gáo dừa để nuôi và sáng hôm sau sấu lớn chật cả gáo dừa, anh lại
đem sấu nuôi trong lu nước và cũng chỉ một ngày sau sấu lớn chật cả lu. Do vậy, anh
phải đem sấu ra ngoài ao. Nhưng chỉ được một ngày sấu lớn chật cả ao. Cuối cùng
anh quyết định mang sấu ra biển.
Từ khi ở biển sấu lớn nhanh một cách lạ thường. Thân sấu dài hàng chục sãi.
Đuôi sấu khỏe đến nỗi có thể quẫy biến thành con sóng lớn và các chân sấu to bằng
ba, bốn cây thốt nốt già gộp lại. Sấu bơi dưới nước nhanh nhẹn vô cùng. Miệng sấu
rộng có thể nuốt cả một chiếc thuyền độc mộc, và nuốt một lượt bốn, năm người.
Sấu rất thích ăn thịt người. Đó là mối đe dọa với người dân trên đảo. Nhưng vì
kế sinh nhai nên họ đành đánh bạo ra biển mò tôm, bắt cá về sống qua ngày. Mỗi khi
nghe sóng động hay thấy bóng dáng cá sấu thì ai nấy đều khiếp đảm và cầm chắc cái
chết trong tay. Càng ngày con sấu lại càng tỏ ra lì lợm hơn, vào tận cửa sông để bắt
người ăn thịt.
Bồ-piêl thấy con sấu do chính người em mình nuôi ngày trước đã trở nên hung
hãn nên tìm cách tiêu diệt cá sấu. Một hôm Bồ-piêl giả làm chú tiểu, xuôi theo sông
Hậu, ra đến biển gặp cá sấu chàng bèn hóa thành một con cá sấu lớn, nổi vây năm sắc
xanh, đỏ, tím, nâu, vàng xé nước nhắm thẳng con sấu hung dữ mà lao tới. Hai bên
chiến đấu bảy ngày bảy đêm, và diễn ra trên một đoạn sông lớn từ "biêm Ra – rạch"
đến tận cửa biển. Sóng dâng cao từng đợt như những mái nhà, nước sông và biển đục
ngầu như vừa trải qua một trận cuồng phong.
Con sấu lúc đầu hung hãn nhưng đến cuối thì kiệt sức, toan mở đường chạy ra
biển. Cuối cùng chàng cũng tiêu diệt được con cá sấu hung dữ. Diệt sấu xong, Bồ-
piêl chặt đầu kéo về tận cửa sông. Tương truyền nơi bêu đầu sấu lúc bấy giờ là trước
124
chợ Long Xuyên ngày nay.
Dân chúng nghe tin bèn kéo đến xem và tôn Bồ-piêl làm chúa đảo.
Về sau khi Bồ-piêl qua đời, dân chúng lên núi chọn một hòn đá to tạc tượng để
thờ người dũng sĩ có công diệt được con sấu hung ác hại người. Dân chúng trên đảo
tôn Bồ-piêl làm "niếc – tà", một vị thần bảo vệ phum sóc, và gọi bằng một cái tên
trân trọng Pờ - rặc Kao – lôn.
(Nguyễn Phương Thảo, Huyền thoại miệt vườn)
20. Chuyện cá sấu cứu chúa tôi Nguyễn Ánh được phong chức Lang Lai
đại tướng quân
Ngoài lề lịch sử, trong dân gian từ trước đến nay người mình đã truyền khẩu
lắm truyện tích ly kỳ xảy ra trong thời Nguyễn Ánh (tức Gia Long) tẩu quốc.
Về những chuyện xưa tích cũ ở Bạc Liêu, người ta thuật lại rằng: Hoàng đế
Nguyễn Ánh đang nổi trôi trên đường tẩu quốc, trước sự truy nã ráo riết của quân
địch Tây Sơn. Một hôm cùng tướng tá và binh sĩ xuống thuyền định chạy ra ngoại
quốc. Đoàn chiến đang dung ruỗi trên sông Ông Đốc, thì bỗng có một đàn cá sấu nổi
lên đặc nghẹt cản đường. Thuyền chúa Nguyễn không làm sao vượt qua được. Thấy
sự lạ cho là điềm xấu, Nguyễn Vương đứng trước soái thuyền lâm râm khấn vái nói:
- Tôi là Nguyễn Ánh, đông cung thừa nghiệp của tiên vương, bị quân Tây Sơn
đánh đuổi phải bôn đáo, đang ở vào lúc thế cùng vận bĩ. Nay tôi định lánh xa cường
tặc, chiêu binh mãi để khôi phục cơ đồ, đàn cá sấu kia sao dám cản đường ta? Phải
chăng lòng trời còn nương tựa nhà Nguyễn, xui khiến đàn sấu chỉ điểm cho tôi biết
nguy hiểm đang đón chờ, ở đầu sông kia là tử lộ? Nếu phải vậy thì đàn sấu kia hãy
dang ra đi rồi tái hiện ba lần. Bằng không hãy để tôi tiếp tục hành trình, vì thời gian
rất quí báu.
Nguyễn chúa khấn vái xong đàn sấu bỗng lặn đi mất. Nhưng một lát sau lại
xuất hiện cản đường nữa, và làm như vậy đúng ba lần. Nguyễn Ánh tin điềm, liền ra
lệnh cho chiến thuyền quay trở lại, đồng thời phái thám tử đi dò xét thử. Vài hôm sau
thám tử trở về, báo cho biết rằng quả có lực lượng Tây Sơn rất hùng hậu phục kích ở
cuối sông Ông Đốc.
Một lần khác, thuyền của chúa Nguyễn từ trong rạch sắp vượt qua vịnh Xiêm
125
La, có hai con rái cá lội ngang qua rạch đón trước cửa thuyền như muốn cản đường
cho đó là triệu chứng bất thường, chúa Nguyễn muốn lui quân, nhưng đã trễ, đành
cho thuyền tiến tới. Qủa nhiên gặp một đội chiến thuyền địch trận đánh, đoàn thủy
binh của chúa Nguyễn sắp bại đến nơi, thì may sao, tròi giông gió bão dữ dội làm
đắm các chiến thuyền Tây Sơn, Nguyễn quân nhờ đó mà thoát nạn.
Về sau phục được cơ nghiệp, Gia Long Hoàng đế không quên ơn những giống
vật đi cứu mình trong lúc hiểm nghèo, phong cho đoàn cá sấu danh hiệu mỹ miều là
"thần Ngạc Ngư Long" và phong cho hai chú rái cá chức "Lang lại nhị đại tướng
quân".
Lúc đó từ Phú Quốc trở về, do ngả Cửa Lớn và sông Bãi Hâp, Nguyễn chúa trở
lại Cà Mau, ra lệnh cho quân xây cất "Miếu công thần" để tưởng niệm những công
binh đã có công hộ giá mà tử trận, hoặc vì nước độc rừng thiêng, chịu không nổi gió
sương chướng khí, phải bỏ mình trên đường dong ruỗi.
Nơi rừng Cà Mau, từ U Minh thượng tới U Minh hạ còn để lại rất nhiều di tích
lịch sử của chúa Nguyễn trong lúc ngài bôn Nam tẩu Bắc lẫn tránh Tây Sơn, có lúc
ngài vượt thuyền ra hòn Đá Bạc và hòn Chuối, xây đồn đắp lũy, ngăn giặc và cũng là
nơi làm yếu điểm liên lạc tại đây.
Rất thương cho những vị công thần đã theo ngài góp công khai hoang lập ấp,
tuổi già sức yếu đành gửi nắm xương nơi tận khách địa. Nhà vua lấy làm thương tiếc,
cho lập miếu công thần để thờ tại đất Cà Mau, ngôi miếu dựng trên một khoảnh đất
rộng rãi có những cây cổ thụ, chung quanh có đặt người coi giữ lo việc lửa hương
cúng tế, hiện nay là cơ sở hiến binh, sau này miếu được dời về kế cận đình làng. Trên
đường bôn tẩu của nhà vua khắp trong miền Nam nước Việt, từ vùng núi xa xôi hẻo
lánh đều có những di tích do ngài xây dựng.
(Theo Huỳnh Minh, Bạc Liêu Xưa)
21. Trâu khôn sấu linh
Xưa nay, tai thường nghe nói rằng: "Loài thú vật thì là vô tâm vô trí, không
biết nghĩa sanh thành tạo hóa, không biết gì hết thảy". Có lời ông Hàn Văn Công, nói
rằng: "Nhơn bất thông cố kim, ngưu mã nhi cấm cư" (Người mà như không biết việc
126
xưa nay thì như trâu ngựa bận quần áo). Như lời thánh nhơn nói vậy, thì e lầm chăng?
Nói rằng trâu ngựa là loài không biết gì hết. Con trâu nó có trí khôn, đi đâu xa, ban
đêm trở bề nó biết ngõ mà vào. Con ngựa cũng có trí khôn, cũng biết nghĩa mẹ con,
chẳng hạn khi nào mà thấy con ngựa con nó nhảy con ngựa mẹ.
Năm Quý mão (Năm Quý mão âm lịch, 1783 dương lịch, năm thứ sáu đời vua
Thái Đức (Tây Sơn) và năm thứ tư đời vua Quang Trung) chúa Nguyễn đang đánh
nhau với Tây Sơn, đặng lo phục quốc. Tháng tư, chúa tôi ở tại Bến Lức. Giặc Tây
Sơn do Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Văn Lữ nghe chúa ở tại Bến Lức, liền đem binh
tới đánh. Binh chúa thua chạy tản bậy, giặc rượt chúa chạy tới Rạch Chanh, ý chúa
muốn chạy sang bên kia sông cho khỏi giặc, mà lại Rạch Chanh có nhiều sấu dữ nên
chúa không dám sang. May thay, chúa liền thấy một con trâu nằm dựa mé sông, chúa
liền lên lưng trâu biểu nó chở ngang qua sông. Trâu liền chở chúa lội ra xa, nước
chảy mạnh quá, trâu hụt chơn bơi không nổi, liền chìm xuống mà trôi, tức thì có một
con sấu lớn trừng lên, chúa nghĩ sấu trừng lên đặng gắp mình, ai ngờ là sấu kề lưng
lại rước, chúa liền leo lên lưng sấu lội qua sông. Giặc rượt theo tới mé sông, mắc
sông giặc không có ghe mà chèo theo. Con sấu nó lội riết qua sông, đến mé sông thì
cặp vào bờ cho chúa bước lên. Sau đó chúa đáp bộ chạy về Mỹ Tho, kiếm ghe chở
mẹ và vợ ra Hòn Phú Quốc.
Ấy đó trong sử ghi chép rành rành. Thật là con trâu tuy là loài thú, song cũng
có trí khôn, sấu tuy hung ác nhưng cũng biết cứu người.
Đó là việc nay, còn như việc xưa, ngựa cũng biết cứu chủ như con ngựa của
Lưu Bị tên là Bích Thố nơi Đàn Khê. Khi binh của Thái Mạo rượt, Lưu Bị chạy tới
mé bưng thì cùng đường. Lưu Bị sợ giặc, giục ngựa nhảy xuống bưng mắc lầy đứng
sững. Bị ngó ngoái lại thì thấy giặc rượt theo đã gần thì nói: "Ngựa này hại ta". Lưu
Bị giơ roi mà hô. Nói vừa dứt lời, con ngựa nhảy một nhảy bay khỏi bưng. Lưu Bị
nhờ thế mà thoát nạn.
(Theo Vương Hồng Sển, Chuyện cười cố nhân)
NHÓM TRUYỆN VỀ CÁ SẤU LÀ KẺ VONG ƠN BỘI NGHĨA
127
22. Con sấu bội ơn
Chiều hôm đó, có đôi vợ chồng trẻ đánh xe bò chở củi đi ngang qua chỗ sấu
nằm. Tiếng xe bò cọc cạch làm sấu mở to mắt và hi vọng. Thấy đôi vợ chồng đến
gần, sấu chửi quạ thậm tệ để phân bua, rồi xuống giọng ngọt ngào nhờ đôi vợ chồng
đánh xe bò đưa giúp mình trở lại sông. Nhưng chẳng may cho sấu, hai vợ chồng nọ,
chính là chàng rể và cô cháu gái đã khiêng giúp sấu về sông dạo nọ.
Cô gái nhìn thấy chiếc khăn cũ của ông mình còn cột ở bụng sấu, thì nhận ra
con sấu đã vong ơn bội nghĩa, liền bảo ngay với chồng. Anh chồng sẵn rìu trong tay
chém ngay một nhát đứt phăng đầu sấu ra khỏi cổ. Đoạn anh ta bứt dây treo đầu sấu
trước xe, vác mình sấu bỏ lên xe, đánh xe về nhà.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Truyện dân gian Khơme)
23. Chuyện Thỏ và Cá Sấu
Có một lần Thỏ đến bên bờ sông bứt ngọn cỏ non nhai ngốn ngấu. Cá sấu ở
gần đó, nằm im giả vờ như không nhìn thấy. Thỏ nhìn quanh rồi yên trí ăn ngon lành.
Cá sấu liền giả bộ hiền lành từ từ bò đến bên Thỏ... rồi đột nhiên đớp gọn Thỏ vào
mồm ! Cá sấu kêu lên: Hu ! Hu ! ở trong bụng cốt làm cho Thỏ sợ. Thỏ đã nằm gọn
trong hàm Cá Sấu, tuy rất sợ hãi nhưng vẫn bình tĩnh tìm kế thoát thân.Thỏ liền nghĩ
ra một kế nói :
- Bác cá Sấu ơi ! bác kêu hu ! hu ! tôi chẳng sợ đâu. Bác mà kêu ha ! ha ! thì tôi
sẽ sợ chết khiếp đi mất ! Nghe Thỏ nói thế, Cá Sấu liền há mồm lớn ra mà kêu lên:Ha
! Ha . Chỉ chờ có thế, Thỏ liền nhảy phóc ra khỏi miệng Cá Sấu, quay lại cười nhạo
Cá Sấu:
- He! he ! đã quá ! Ai bảo ngu há mồm ra làm chi !
Nói xong Thỏ chạy biến vào rừng, nhập cả bầy Thỏ lại nhảy múa tung tăng vui
mừng...vì vừa thoát nạn.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Truyện cổ Khơme Nam Bộ)
24. Cá sấu, Quạ và ông bà lão chở củi
Một buổi sáng, quạ bay vào xóm đánh cắp một thỏi đường, mang đến ngọn cây
ven sông để ăn. Loay hoay thế nào, quạ làm rơi thỏi đường xuống đất. Thỏi đường rơi
128
tỏm vào mồm cá sấu đang há miệng. Quạ liền bay xuống tìm thỏi đường thì thấy
miệng cá sấu đang nhai vật gì trong mồm. Lòng sinh nghi, quạ đảo mắt quanh một
lượt chỗ sấu nằm, bèn hỏi:
- Anh sấu có thấy thỏi đường của tôi vừa rơi từ ngọn cây trên kia xuống không?
Cá sấu từ nào giờ đâu biết đường là gi, bèn ngơ ngác hỏi lại:
- Đường à? Mùi vị nó như thế nào? Có phải cái vật ngọt ngọt, tao vừa đang thiu thiu
ngủ thì nó nhảy tọt vào mồm tao vừa mới tức thì đây chứ gì? Chà! Nó ngon thật !
Của mày đấy à? Mày tìm đâu ra cái món quý đặc biệt ấy vậy? Hãy mách cho tao với.
- Quạ bị mất mồi quý, vừa mất của vừa tức sấu. quạ bèn nghĩ ra Vốn biết sấu có tính
gian ngoa lại có tính tham ăn, quạ nghĩ ra cách trừng trị sấu.
Trời năng như thiêu đốt. Xung quanh không có một giọt nước. Cái khát càng
đốt cháy cổ họng sấu. Cuối cùng sấu không lê được nữa, đầu gục xuống, nước bọt sủi
ra hai bên mép, nằm thở dốc chờ chết.
May sao, lúc ấy có hai vợ chồng bà lão đi lấy củi về, đi ngang qua chỗ sấu
nằm. Sấu nài nĩ hai ông bà lão cứu giúp chở về bến sông và hứa sẽ tìm cách trả ơn.
Hai ông bà lão bèn lấy dây thừng buộc cổ sấu lôi về. Về tới bến sông, khi ông bà lão
tháo dây buộc ra, sấu bèn uống một bụng nước no nê. Lấy lại sức xong sấu bèn giở
giọng trở mặt ngay, sấu đòi ăn thịt hai ông bà lão vì cho rằng hai ông bà đã buộc cổ
sấu quá chặt.
Vừa lúc đó, thỏ đi ngang qua, thấy ông bà lão đang khóc lóc, bèn bước đến
bên. Sau khi tỏ rõ đầu đuôi sự việc, biết được tâm địa sấu xa của con sấu, thỏ rất phẫn
nộ, nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh. Thỏ hỏi sấu:
- Cụ ông cụ bà đã buộc cổ anh chặt lắm phải không?
- Sấu gật đầu, ngẩng cố chỉ vết lằn còn ăn sâu quanh cổ, nói thêm:
- Hai người buộc cổ tôi chặt lắm, làm tôi gần chết. Họ định giết tôi. Tôi biết…
nhưng cũng may là số tôi chưa chết.
Thỏ quay lại phía ông già:
- Có đúng như vậy không? Xin ông bà vui lòng làm lại cho tôi xem tận mắt mới
biết ai phải ai quấy.
Sấu bằng lòng để ông già lấy dây thừng buộc lại cổ mình như cũ.
129
- Ông già buộc chặt cổ anh như vậy phải không? - Thỏ hỏi sấu.
Sấu cố chịu đau, nói với thỏ:
- Còn chặt hơn thế này nhiều.
Thỏ giúp ông cụ già ra sức siết chặt dây thừng xung quanh cổ sấu căng hơn, rồi
căng hơn nữa đến nỗi sấu ta bắt đầu vùng vẫy, chới với hai chân trước.
Lúc ấy, thỏ mới ôn tồn bảo ông bà lão:
- Bây giờ, hai bác có thể yên trí dùng thanh củi mà đánh chết nó đi. Cái loài
vong ân bội nghĩa như thế để nó sống làm gì cho chật đất.
Theo lời kể của bác Cao Sô
(xã Trường Khánh, huyện Long Phú, Hậu Giang)
25. Con Dukhi Dukhia
Ngày xưa có hai anh em nhà kia rất nghèo sinh sống bằng nghề đốn củi. Một
hôm hai anh em đi sâu vào rừng đốn củi, mãi mê làm việc không hay trời sắp tối, lúc
này không thể quay về được. Hai anh em bàn tính ngủ lại trong rừng, vì sợ cọp ăn thịt
nên hai anh em nghĩ ra cách ngủ rất an toàn đó là ngủ chỏi dò vào nhau và lấy hai
chiếc khăn trắng bịt lên đầu mỗi người một cái.
Đến nửa đêm, cọp ta đi tìm mồi ngang qua thấy con vật rất lạ, hai đầu trắng
tươi ở giữa thì nhỏ, sợ hãi cọp chạy thoát thân. Tin có con vật lạ chẳng mấy chốc lan
rộng khắp cả rừng già, Cọp, Voi và tất cả các muôn thú trong rừng đến xem đông đủ.
Muôn thú trong rừng đến đông đủ nhưng không có loài thú nào biết con vật này là
con gì và cũng không ai dám đến gần, chúng liền bàn với nhau rằng “Thỏ là người
thông thái nhất có thể thỏ sẽ biết con vật này, vậy ai sẽ là người đi gặp thỏ”.
Cuối cùng voi là người được cử đi tìm thỏ. Voi đi đến bìa rừng gặp thỏ đang
ung dung ngồi gặm từng cây lúa non. Voi lại gần và nói: “Này anh thỏ, ở trong rừng
có một con vật rất lạ nó có hai đầu đều trắng tươi, chúng tôi không ai dám lại gần”,
thỏ đón là người nên ung dung nói “Ôi! Tôi biết con vật ấy rồi”. Thỏ gặm ngọn lúa và
tiếp “Ông chở tôi đi tôi sẽ đến đó xem”. Khi đến nơi Thỏ nhảy xuống đất và đi tìm
130
một chiếc lá bị sâu ăn lưng lỗ thật nhiều và quằn quện, sau đó Thỏ tìm mõm đất cao
tay cầm chiếc lá, thỏ dõng dạc đọc “Muôn thú hãy nghe đây, đây là chiếu chỉ của nhà
trời gởi xuống, con vật đang nằm dưới kia có tên là Dukhi Dukhia, thừa lệnh trời
xuống bắt muôn thú, con nào lớn chặt khúc lớn, con nào nhỏ chặt khúc nhỏ để về làm
đám cưới cho con gái của Ngọc Hoàng”. Muôn thú trong rừng nghe nói thế sợ hãi
dẫm cả lên nhau mà chạy, chết la liệt. Hai anh em tiều phu được Thỏ cứu sống vô
cùng cảm ơn Thỏ.
Về sau muôn thú trong rừng biết mình bị thỏ gạt nên tức lắm. Cọp quyết rình
rập để ăn thịt Thỏ. Một hôm, Thỏ đang tung tăng tìm cỏ non trong rừng liền bị Cọp
rượt đuổi, Thỏ chạy thục mạng nhưng vẫn trốn không kịp liền chui tuốt lên bụi tre.
Cọp đứng phía dưới gầm gừ chờ sẵn, Thỏ không làm sao xuống được, buồn quá Thỏ
liền dùng hai cây tre cọ sát vào nhau phát ra tiếng “cót két” và nói với Cọp: “Anh hổ
ơi! Anh hổ lên đây nghe nhạc nè”, Cọp ta nghe vậy cố trèo lên tận ngọn tre, lúc này
Thỏ lại nói: “Nhạc từ cây tre nghe không hay đâu, anh đút đuôi của anh vào giữa hai
cây tre nhạc sẽ hay hơn”. Cọp làm theo đến lúc gió thổi mạnh, đuôi Cọp bị dính vào
giữa hai cây tre, cọp đau điếng, còn Thỏ thừa cơ hội biến mất.
Đi đến bờ sông, Thỏ mon men ăn cỏ bên bờ sông liền gặp Cá Sấu. Cá sấu đang
rình rập để ăn thịt Thỏ vì chuyện hôm trước. Thỏ liền nói với Cá Sấu: “Tôi chưa bao
giờ thấy ai mà bị lác như anh cả, lác trên người anh tôi chữa khỏi, nhưng với điều
kiện anh phải đưa tôi qua bờ sông bên kia trước”. Cá Sấu nghe thế mừng lắm đồng ý
chở thỏ trên lưng qua bờ bên kia. Khi trèo lên lưng Cá Sấu, Thỏ gớm cái lưng sù sì
của hắn bèn bẻ lá cây lót để ngồi. Cá sấu liền hỏi: “Tại sao phải lót lá?”. Thỏ nói:
“Nếu tôi ngồi trên lưng anh, anh sẽ nợ ơn tôi nhiều lắm, ngồi thế này sẽ ít ơn hơn”.
Cá Sấu không nói gì nữa mà chở Thỏ qua bờ bên kia. Khi qua tới bờ bên kia Thỏ
nhảy xuống đất và nói với Cá Sấu: “Ghẻ của anh là ghẻ từ đời ông bà đã có sẵn làm
sao ai mà chữa cho khỏi”. Nói xong Thỏ chạy biến. Cá Sấu giận lắm định bụng sẽ ăn
thịt thỏ cho bằng được.
Mấy ngày sau Thỏ lại ra bờ sông ăn cỏ, Cá Sấu liền giả vờ chết, trôi theo dòng
nước đến gần. Lúc này Thỏ liền nói: “Ơi! Cá Sấu nếu có chết đâu có con nào mà trôi
131
xuôi theo dòng nước, Cá sấu chết thì trôi ngược nước”. Cá Sấu nghe thế liền trôi
ngược nước, Thỏ nói “Thấy chưa, giả chết để ăn thịt tôi chứ gì”. Lại một lần thất bại
nữa.
Ngày hôm sau, Cá Sấu giả chết nằm chờ sẵn trên bờ. Thỏ tưởng Cá Sấu chết
thật, liền lại gần ngồi đếm răng cá, Thỏ ta còn định là mỗi cái răng sẽ làm thành một
con dao. Đang đếm đếm, Cá Sấu hả miệng táp một cái nuốt chửng Thỏ vào bụng. Thỏ
liền tính kế thoát thân, nó nói “Anh Cá Sấu anh mau hả miệng ra không thôi tôi móc
cả ruột gan anh ra ngoài”. Trong bụng Cá Sấu, Thỏ cứ lấy móc móng của mình vào
nhau nghe coc..coc... Cá Sấu nghe thế tưởng thật liền hả miệng ra, Thỏ phóng khỏi
miệng Cá Sấu chạy mất.
(Kiên Khlum kể, 67 tuổi, xã Hòa Thuận, huyện Châu Thành, Sóc Trăng)
26. Chú Thỏ thông minh
Từ ngày xửa ngày xưa đồng bào người Việt gốc Khơ Me ở đồng bằng sông
Cửu Long vẫn thường kể chuyện về một chú thỏ tinh khôn. Chuyện của chú nhiều và
dài lắm, vì trí khôn của chú lớn và chiến công của chú kể hết năm này qua năm khác
không thể hết được.
Một hôm thỏ đang nằm ngủ dưới một gốc cây sung. Bỗng một quả sung chín
rụng rơi đánh bốp một cái giữa đầu thỏ. Vốn nhát, thỏ giật bắn mình chồm dậy và
chạy. Chạy như gió cuốn, chạy như bay. Hổ thấy thỏ chạy thì cản đường hỏi tại sao
thỏ chạy. Thỏ trợn mắt nói:
- Không chạy thì chết ngáp mất. Đất đang sụt dưới chân ầm ầm kia kìa… Chạy
đi thôi…
Hổ nghe hoảng hồn, cũng cắm đầu chạy đứt hơi đuổi theo thỏ. Nhưng hổ làm
sao mà đuổi kịp.
Thỏ chạy trước còn hổ thì vừa chạy vừa thở phì phò như kéo bễ. Thần Gió
Giêvata cười phì bảo:
- Hổ ơi sao mày to xác thế mà để thằng thỏ nhãi ranh nó lừa mày. Đất có bao
132
giờ sụt đâu mà cần phải chạy.
Nghe thần gió, hổ tin ngay liền tìm thỏ để trừng phạt cho bõ tức. Nhưng thỏ
bình tĩnh hỏi:
- Bác hổ ạ, bác ăn thịt cháu cũng được thôi, nhưng phiền một nỗi là toàn thể
loài vật vừa bầu cháu làm vua rồi. Bác từ nay cũng phải coi cháu là vua. Nếu bác
không tin bác cứ thử đi với cháu mà xem. Chắc hơn hết bác cứ để cháu ngồi lên lưng,
ta đi dạo một vòng, nếu không đúng là các loài sợ oai vua của cháu thì bác cứ việc ăn
thịt.
Hổ ngờ ngệch bằng lòng cõng thỏ đi một vòng rừng, đi đến đâu trăm loài đều
sợ sệt bỏ chạy. Họ chạy vì hổ mà hổ cứ tưởng họ sợ oai thỏ thật. Lúc ấy thỏ mới ra
oai quát hổ rằng:
- Nhà ngươi thấy chưa! Trăm loài trong rừng đều sợ ta. Thế mà nhà ngươi còn
dám láo với ta. Lần này thì ta tha, vì nhà ngươi chưa biết oai của ta là vua của núi
rừng, lần sau ta sẽ trị tội nghe không!…
Hổ sợ quá đành vâng lời.
Lừa hổ xong, thỏ cũng bỏ trốn luôn, nhưng vì bụng đói, thỏ muốn trở lại bãi cỏ
xanh non bên bờ suối. Thỏ đã định phóng mình chạy ra đấy nhưng chợt nhớ lần trước
mình đã lừa cá sấu nếu ra cá sấu có thể giết chết mình mất. Thỏ sợ đành gậm cỏ trong
rừng vừa già vừa khô. Ăn mãi chán quá, thỏ tự nhủ có thể cá sấu quên chuyện cũ rồi
chăng. Ra đến nơi thấy cá sấu bận ngủ không để ý gì đến thỏ, thỏ càng tin là cá sấu
đã quên chuyện cũ thật. Ai ngờ cá sấu cũng rất cao tay, lừa thỏ đến gần bèn chẳng nói
chẳng rằng há mồm ra đớp gọn, chỉ còn chờ nuốt vào trong bụng nữa là hết đời con
thỏ tinh khôn. Thỏ sợ quá, rụt rè hỏi:
- Này bác cá sấu, bác có định ăn thịt cháu thì ăn nhanh lên cứ ngậm mãi làm gì,
cháu sợ lắm.
Cá sấu cười mím miệng:
- Hút… hút… hút… tao sẽ làm cho mày sợ chết khiếp… chết khiếp… chết
133
khiếp… trước khi nuốt mày vào bụng… hút… hút… hút…
Thỏ nhận ngay ra rằng muốn giữ mồm, mõm cá sấu dài phải mím chặt nên chỉ
cười hút… hút được mà thôi… Thế là thỏ ta cười vang:
- A ha, buồn cười quá… buồn cười quá… cá sấu ngọng nên cứ phải kêu hút…
hút… làm sao ta sợ được… Muốn ta sợ mày phải cười ha… ha… cơ… chứ thế này
thì buồn cười đến đứt ruột mất thôi.
Cá sấu tức quá quát:
- Tao mà ngọng à… thằng thỏ ranh… nghe đây… dỏng tai mà nghe ta cười
đây… ha… ha… ha…
Để cười ha ha cá sấu phải ngoác miệng ra, thế là lập tức thỏ nhảy tót ra khỏi
mệng cá sấu và quay lại dạy cá sấu rằng:
- Này thằng cá sấu ngu ngốc kia… Nghe đây… Từ nay trong miệng đang ngậm
mồi thì chớ có cười ha ha nghe không…
Dứt lời thỏ chạy vào rừng.
(Huỳnh Ngọc Trảng, Truyện cổ Khơme Nam Bộ)
MỘT SỐ MẪU TRUYỆN VỀ SẤU Ở NAM BỘ
27. Truyền thuyết về thác nước L’iêng Hur
Vùng đất người Stiêng có ba con thác lớn. Một hôm con gái của thần cai quản
thác L’iêng Hur cai quản chẳng may bị cá sấu ăn thịt khi đang trên đường qua nhà hai
người cô của mình. Từ đó hận thù của hai bên ngày càng chồng chất. Hai người em
thất bại, từ đó uy quyền nằm trong tay vị thần cai quản thác L’iêng Hur.
(Nguyễn Phương Thảo, Huyền thoại miệt vườn)
28. Tích sự Ngã ba Đầu sấu
Vào năm 1770 đến 1775, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ nắm quyền, đem quân
tiến đánh Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh thất bại, đem quân chạy về phía Nam, ông đi
đến đâu cũng để lại một số địa danh như Tắc Sậy, Tắc Vân, trong đó có ngã ba Đầu
Sấu, nay thuộc xã Tác Vân, tỉnh Cà Mau.
Khi Nguyễn Ánh chạy đến ngã ba Đầu Sấu, ông định vượt sông ra biển đển ra
134
nước ngoài chờ ngày phục thù Nguyễn Huệ nhưng ở ngã ba sông này có rất nhiều cá
sấu, chúng nổi lên khắp nơi trên sông. Nguyễn Ánh không thể nào qua được sông,
mặc dầu ông đã đốt nhang khấn vái nhưng đàn cá sấu cũng không lặn đi, ông van nài
cũng vô ích. Vì không thể đi được nên ông đành cho quân đóng ở trê bờ theo ven
sông.
Cho đến ngày nay người ta vẫn gọi ngã ba trên sông này là Ngã ba Đầu Sấu.
29. Câu cá sấu
- Xứ mình đây có nhiều cá sấu không, bác Ba Phi?
- Ôi! Sấu ở đây nó lên bờ nằm như củi lụt.
- Vậy làm thế nào bắt nó?
Bác Ba Phi cười rồi kể:
- Câu bắt nó thôi. Hôm ấy, tôi làm một cái đõi đi câu con sấu.
Hai vợ chồng chèo thuyền đi. Gặp con sấu lớn ở sông Quảng Phú. Hai sợi đõi
nổi lên khúc eo sông. Tôi kéo sợi đõi lên. Cha! Con sấu lớn quá! Tôi quấn sợi đõi
trước mũi thuyền. Thế là sấu chạy kéo luôn cả thuyền. Con sấu kéo thuyền chạy đến
15 cây số, từ Quảng Phú đến Cái Đôi Vàm. Lúc đó mới bắt được nó đấy!
- Ủa, làm sao qua đập được hả bác?
- Ờ! ờ! Nó qua đập kéo ghe qua luôn mà!
135
(Theo Trương Chính, Phong Châu)