BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------------/--------------- ------/------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ LÂM SƠN
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MỤC LỤC T.P HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
TRANG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------------/--------------- -------/-------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ LÂM SƠN
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HUỲNH VĂN THỚI
T.P HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể các thầy cô giáo Học
viện Hành chính Quốc Gia đã dành nhiều thời gian tận tình truyền đạt cho tôi
những kiến thức khoa học về Quản lý công và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình học cao học trong suốt hai năm qua. Đặc biệt tôi xin bày
tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và chân thành tới thầy PGS.TS. Huỳnh Văn Thới -
Học viện Hành chính Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã dành rất nhiều
thời gian trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tôi hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Khoa sau Đại học Học viện
Hành chính Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi về tất cả các thủ tục để tôi được Hội đồng chấm điểm luận văn chấp
thuận cho tôi bảo vệ đề tài nghiên cứu. Cám ơn các đồng chí trong Tổ Hành
chính tư pháp Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã cung cấp số liệu và văn
bản pháp lý để tôi có điều kiện tiếp cận nghiên cứu đề tài tôi đã chọn. Xin
chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp là những người đã tạo điều
kiện về vật chất và tinh thần, luôn động viên, chia sẽ và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 7 năm 2017.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 01
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................... 01
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................. 02
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................. 04
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn................................ 04
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ........ 05
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ......................................... 06
7. Kết cấu của luận văn .......................................................................... 06
CHƢƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH ……………………………………………………………………………… 07
1.1. Khái quát về cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh ............................................................................................ 07
1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân ..... 07
1.1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh ................................................................ 9
1.1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ của cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh ................................................................... 11
1.2. Nội dung cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh.................................................................................................... 14
1.2.1. Công tác tiếp dân ..................................................................... 15
1.2.2. Công tác nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, tố cáo.......... 15
1.2.3. Công tác phân công giải quyết án............................................. 20
1.2.4. Công tác cấp, trích lục, sao y, giao, gửi bản án, quyết định của Tòa án ................................................................................................ 22
1.2.5. Công tác quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra và án tồn .......... 23
1.3. Điều kiện bảo đảm cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh .................................................................................. 24
1.3.1. Chủ trương, chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân ................................................................... 24
1.3.2. Cơ sở pháp lý thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân................................................................................. 25
1.3.3. Tổ chức bộ máy thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân ........................................................................... 27
1.3.4. Nguồn nhân lực thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân ........................................................................... 29
1.3.5. Cơ sở vật chất thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân................................................................................. 29
1.4. Kinh nghiệm cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh ............................................................................................ 31
1.4.1. Kinh nghiệm từ kết quả thực hiện mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp ở một số Tòa án nhân dân ............................................ 31
1.4.2. Kinh nghiệm từ kết quả thực hiện mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp ở một số nước trên thế giới .......................................... 32
1.4.3. Tiếp thu kinh nghiệm thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ......................................... 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG ......................... 38
2.1. Tổng quan tình hình thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang trƣớc cải cách....................................................... 38 4611
2.2. Các phƣơng diện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ...................................................................... 40
2.2.1. Công tác tiếp dân ..................................................................... 41
2.2.2. Công tác nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, tố cáo.......... 44
2.2.3. Công tác phân công giải quyết án............................................. 46
2.2.4. Công tác cấp, trích lục, sao y, giao, gửi bản án, quyết định của Tòa án ................................................................................................ 46
2.2.5. Công tác quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra và án tồn ......... 47
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ......................................................... 47
2.3.1. Những kết quả đạt được ............................................................ 47
2.3.2. Những hạn chế, bất cập từ thực tiễn triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ...... 52
2.3.3. Kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ...... 59
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG ............................................................................................. 59
3.1. Định hƣớng cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ............................................................................... 59
3.2 Các giải pháp hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ......................................................... 61
3.2.1 Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới thủ tục hành chính tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ........... 61
3.2.2 Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân ............................................ 63
3.2.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy thực hiện đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang .................. 64
3.2.4 Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân, đặc biệt là độ ngũ Thẩm phán Tòa án ................................................ 66
3.2.5. Đảm bảo cấp đủ ngân sách và thu nhập lương riêng đặc thù cho cán bộ, công chức Tòa án ................................................................... 67
3.2.6. Nghiên cứu, xây dựng đề án tăng cường và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án và tiến tới xây dựng Tòa án điện tử vào năm 2020 ...............................................71
3.2.7. Tập trung, ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc tại Tổ hành chính tư pháp“một cửa” ................ 72
3.2.8. Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong cải cách hành chính tư pháp ..................................................................................... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- Bộ luật Tố tụng dân sự
- Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTDS
- Bộ luật Tố tụng hành chính
BLTTHS
- Tòa án nhân dân tối cao
BLTTHC
- Tòa án nhân dân
TANDTC
- Viện kiểm sát nhân dân
TAND
- Hội đồng nhân dân
VKSND
- Ủy ban nhân dân
HĐND
- Cải cách tư pháp
UBND
- Hành chính tư pháp
CCTP
- Thủ tục hành chính
HCTP
- Thủ tục hành chính tư pháp
TTHC
- Cải cách thủ tục hành chính tư pháp
TTHCTP
- Công nghệ thông tin
CCTTHCTP
CNTT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân các cấp đã triển khai nhiều giải pháp để đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án như phân công, phân nhiệm cán bộ hoặc bộ phận chuyên trách để tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân; công khai các quy trình, quy định có liên quan đến hoạt động tiếp dân, giải quyết các yêu cầu về tố tụng của đương sự và trật tự phiên tòa tại trụ sở Tòa án; tăng cường hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính tư pháp của Tòa án, xây dựng các phần mềm về thống kê, quản lý quá trình thụ lý và kết quả xét xử các loại vụ án, phần mềm quản lý cán bộ, xây dựng và phát triển cổng thông tin điện tử ngành Tòa án nhân dân và trang thông tin điện tử tại một số Tòa án địa phương giúp cho công dân nắm bắt các hoạt động của Tòa án và tìm kiếm các tổ chức bổ trợ về mặt pháp lý khi tiếp cận với Tòa án, phân công cán bộ chuyên trách thực hiện công tác hành chính tư pháp như thụ lý hồ sơ vụ án, tiếp công dân… Đặc biệt đối với các Tòa án địa phương, được sự giúp đỡ của Dự án “Phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở” của Canada, Tòa án nhân dân tối cao đã lựa chọn Tòa án nhân dân các tỉnh Hưng Yên, Vĩnh Long, Thừa Thiên Huế để triển khai thực hiện thí điểm mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa”. Trên cơ sở tổng kết và nhân rộng các mô hình này, hiện nay đã có nhiều Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố triển khai áp dụng mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa”, trong đó có Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Bước đầu áp dụng mô hình hành chính tư pháp “một cửa” trong hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã cho thấy việc áp dụng cải cách thủ tục hành chính tư pháp đã giải quyết kịp thời, nhanh chóng các yêu cầu của công dân, tổ chức trước và sau phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp. Từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai trong các hoạt động của Tòa án, bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và tiếp cận công lý của người dân và tạo điều kiện về mặt pháp lý để công dân, tổ chức các nước tiếp cận Tòa án Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động hành chính tư pháp “một cửa” của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang còn bộc lộ những hạn chế như một số thủ tục hành chính tư pháp trong quan hệ với cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án và
1
việc phân công, phân định trách nhiệm giữa các bộ phận, cá nhân trong hoạt động tố tụng và hoạt động hành chính tư pháp của Tòa án chưa được rõ ràng; trang thiết bị và môi trường làm việc để tiến hành các hoạt động hành chính tư pháp tại Tòa án chưa hiện đại, đồng bộ và khoa học, nguồn nhân lực còn “thiếu thốn”, phần lớn là cán bộ thư ký kiêm nhiệm nên chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc cũng như nhiệm vụ chuyên môn của của Tổ hành chính tư pháp. Điều này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân như: việc áp dụng mô hình hành chính tư pháp “một cửa” tại Tòa án nhân dân mới chỉ mang tính chất thử nghiệm, chưa trở thành quy định chung mang tính bắt buộc đối với hệ thống Tòa án nhân dân các cấp; việc tổ chức bộ máy và quy trình thực hiện hoạt động của Tổ hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân các cấp chưa có sự thống nhất, có nơi giao cho tổ hành chính tư pháp, có nơi giao cho Văn phòng Tòa án thực hiện, có nơi thì giao trực tiếp cho các Tòa chuyên trách thực hiện; đội ngũ cán bộ, công chức được giao thực hiện các hoạt động hành chính tư pháp còn hạn chế về số lượng, một số hạn chế về trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm với công việc; các nguồn lực về tài chính để đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức… Đây là những nguyên nhân cơ bản làm giảm chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tổ hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Do đó, với việc lựa chọn đề tài “Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang” để nghiên cứu trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả sẽ lý giải nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án cấp tỉnh nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang nói riêng, qua đó hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tố tụng tại Tòa án và đảm bảo hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp được thông suốt, trôi chảy, tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất cho người dân, tổ chức trong mối quan hệ với Tòa án nhân dân các cấp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài, thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu
trong đó có các công trình tiêu biểu sau:
- Trần Đình Thắng, Đảng cộng sản Việt Nam với việc cải cách nền hành chính Nhà nước, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011. Cuốn sách nêu lên một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước qua các thời kỳ và trong công cuộc
2
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đánh giá kết quả và một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước.
- Đoàn Trọng Truyến, Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2006. Sách tổng hợp những kiến thức cơ bản về nhà nước pháp quyền, về nền hành chính trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra những đánh giá có hệ thống và sâu sắc về nền hành chính nước ta qua các thời kỳ.
- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền, Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách này giới thiệu chế độ, chính sách của một số nước trên thế giới nhằm cải cách nền công vụ hiện hữu hơn như cải cách chế độ tuyển chọn, thi tuyển, đánh giá, đề bạt, bãi nhiệm, lương bổng, phụ cấp, chế độ luân chuyển công chức, sử dụng nhân tài, tăng cường công tác giám sát và ngăn ngừa tình trạng thoái hóa biến chất của một bộ phận công chức.
Ở phạm vi đề tài hẹp hơn, có một số công trình nghiên cứu về cải cách
hành chính tư pháp đáng chú ý như:
- Luận án tiến sĩ luật học năm 2003 của tác giả Trần Huy Liệu về Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, trường Đại học Luật Hà Nội, tập trung đánh giá thực trạng hoạt động và tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan tư pháp ở nước ta, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận văn thạc sỹ luật học năm 2014 của tác giả Hà Tiến Dũng về Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thiết lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực cũng như tính ưu việt của mô hình này, trên cơ sở đó đưa ra một số phương hướng, giải pháp để xây dựng mô hình này.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, thời gian qua Tòa án nhân dân Tối cao còn tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm về cải cách tư pháp nói chung và cải cách hoạt động của hệ thống Tòa án nói riêng, giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về hệ thống tư pháp cũng như nền hành chính – tư pháp ở
3
các nước, từ đó tìm hướng đi phù hợp để thực hiện cải cách hoạt động của hệ thống Tòa án Việt Nam.
Những công trình khoa học trên là nguồn tài liệu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cải cách nền hành chính, một số khía cạnh trong cải cách hành chính tư pháp, mà chưa tập trung nghiên cứu về cải cách thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân. Mặc dù, trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước, cơ quan báo chí uy tín như Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Tạp chí Cộng sản, báo Công lý… có một số bài viết, diễn đàn đề cập trực tiếp đến mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân các cấp nhưng chỉ mang ý nghĩa thời sự, nắm bắt thông tin, mà chưa có tính nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, trong luận văn này tác giả sẽ đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng cải cách thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, từ đó có thể làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề từ lý luận đến thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nói chung và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm từ kết quả thực hiện cải cách hành chính tư pháp ở một số nước và kết quả thực hiện mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp ở một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh của Việt Nam; từ đó, kiến nghị các giải pháp đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích làm sáng tỏ được tất cả các giá trị của cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang cả về vấn đề lý luận và thực tiển, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác cải cách thủ tục hành chính
tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về cơ sở lý luận và thực tiển về cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, tập trung đi sâu vào nghiên cứu cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Về thời gian, các nguồn tài liệu được sử dụng để nghiên cứu cho đến
thời điểm hoàn thành luận văn từ năm 2014 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; các quan điểm của Đảng về từng bước hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luận văn cũng được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác, văn bản của TANDTC về tổ chức và hoạt động của Tòa án, về cải cách thủ tục hành chính tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật, nội dung về cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân, đây là phương pháp tác giả sử dụng xuyên suốt luận văn để lý giải và đánh giá các nội dung cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Phương pháp so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp so sánh lịch sử, cụ thể so sánh nội dung cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang với Tòa án nhân dân các tỉnh Vĩnh Long, Hưng Yên và Thừa Thiên Huế; so sánh với một số nội dung cải cách thủ tục hành chính tư pháp của một số nước trên thế giới; đồng thời so sánh thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang trước và sau cải cách. Phương pháp này tác giả sử dụng chủ yếu trong chương 2 của luận văn để rút ra những bài học và đánh giá những điểm giống và khác nhau về những vấn đề vừa nêu.
5
- Phương pháp nghiên cứu đa ngành, cụ thể tác giả phân tích các khía cạnh khác nhau về kinh tế, pháp luật, xã hội để đánh giá những lợi ích về kinh tế, chính trị, xã hội của việc xây dựng mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân.
- Phương pháp thống kê và khảo sát thực tế: Đề tại có nghiên cứu thực tế thủ tục hành chính tư pháp tại TAND tỉnh Kiên Giang và thống kê kết quả thực hiện thủ tục hành chính tư pháp từ năm 2014 đến nay để đánh giá hiệu quả việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống các luận cứ khoa học về bối cảnh, quan điểm, nội dung cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân nói chung và của Tòa án nhân dân tỉn Kiên Giang nói riêng, xác định cơ sở thiết lập và tính ưu việc của mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa”. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học phù hợp với điều kiện thực tiễn để xây dựng mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa” đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nếu kết quả nghiên cứu được công nhận, luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, học tập cho người dạy, người học và những người muốn nghiên cứu về lĩnh vực hành chính tư pháp nói chung và cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân nói riêng, giúp cho các tổ chức, cá nhân và các cơ quan chức năng quan tâm đến lĩnh vực này có cái nhìn tổng quan về thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân, từ đó lựa chọn phương hướng, mô hình cải cách hành chính tư pháp phù hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương với bố cục như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về cải cách thủ tục hành chính tư
pháp tại Tòa án nhân dân.
- Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện cải cách thủ tục hành
chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
6
CHƢƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1 Khái quát về cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án
nhân dân cấp tỉnh
1.1.1 Khái niệm cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân
dân
Trong tiến trình phát triển và hội nhập vào thế giới và khu vực, nhiều vấn đề mang tầm chiến lược đã và đang được đặt ra đối với nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Trong rất nhiều vấn đề cần giải quyết, vấn đề đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội trở thành vấn đề cấp thiết nhất hiện nay.
Đối với hệ thống Tòa án nhân dân, một trong những yêu cầu mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra là: “…đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn”. Quán triệt tinh thần trên, trong những năm qua, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC đã có nhiều văn bản chỉ đạo các Tòa án tập trung thực hiện CCTTHCTP theo hướng công khai, đơn giản các thủ tực hành chính tư pháp tại Tòa án, bảo đảm tính công khai, minh bạch nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, tổ chức thực hiện các quyền được pháp luật quy định tại Tòa án và coi đây là một trong những giải pháp đột phá để nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND.
Để thực hiện tốt công tác CCTTHCTP, trước hết phải hiểu
CCTTHCTP là gì.
Theo cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Theo cách hiểu này, cải cách được phân biệt với những hoạt động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi, theo đó làm cho đối tượng có sự biến đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển, làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. Còn thủ tục là những điều kiện, quy định phải làm theo để tiến hành một công việc nào đó có liên quan với chính quyền.
7
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thủ tục hành chính. Dưới góc độ quản lý nhà nước nói chung, TTHC được hiểu là công cụ, phương tiện quan trọng để các cơ quan hành chính thực hiện việc quản lý đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Còn dưới góc độ xã hội, TTHC được xác định là cầu nối để chuyển tải các quy định cụ thể về chính sách của Nhà nước vào cuộc sống, đảm bảo cho người dân, tổ chức tiếp cận và thực hiện tốt các chính sách, trong đó, cơ bản và chủ yếu là thực hiện các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức. Dưới góc độ pháp luật, thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân. Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về kiểm soát thủ tục hành chính thì: Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.
Từ các phân tích trên, có thể hiểu thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án là cách thức, trình tự thực hiện các hoạt động mang tính chất hành chính nhằm hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu cầu của người dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp. Hoạt động này bao gồm việc tiếp dân; tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, công văn; phân công giải quyết vụ án; cấp sao lục bản án, quyết định của Tòa án; quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra, án tồn; bố trí hội trường xét xử và thủ tục quản lý, trao đổi thông tin phục vụ cho sự chỉ đạo, quản lý các lĩnh vực công tác của lãnh đạo Tòa án các cấp.
Như vậy, các thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án khác với thủ tục hành chính thông thường là nó nằm trong hoạt động chung của Tòa án và có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho các hoạt động tố tụng xét xử tại Tòa án và hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp thông suốt, thuận tiện và hiệu quả.
Từ khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của thủ tục hành
chính tư pháp tại Tòa án nhân dân như sau:
- TTHCTP tại Tòa án nhân dân được quy định chủ yếu trong các quy
phạm pháp luật tố tụng.
8
- Chủ thể thực hiện thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân là không phải là chủ thể có tư cách tố tụng (người tiến hành tố tụng với tư cách Thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên).
- TTHCTP tại Tòa án nhân dân gắn liền và hỗ trợ tích cực cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu cầu của công dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Toà án nhân dân các cấp. Đồng thời điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan Toà án với các cơ quan bổ trợ tư pháp như: giám định, luật sư, công chứng, thi hành án, thừa phát lại, giám định tư pháp, định giá, đấu giá, phiên dịch, Đoàn Hội thẩm nhân dân.
Như vậy, Cải cách TTHCTP tại Tòa án nhân dân là một sự thay đổi thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định được xác định bởi cơ quan Tòa án nhân dân tối cao nhằm hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu cầu của người dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp.
1.1.2 Sự cần thiết và ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính tư pháp
tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh
- Sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân
dân cấp tỉnh:
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng và Ban Lãnh đạo TTANDTC, TAND các cấp đã triển khai nhiều giải pháp để tiến hành cải cách TTHCTP tại Tòa án như phân công, phân nhiệm cán bộ hoặc bộ phận chuyên trách để tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân; công khai các quy trình, quy định có liên quan đến hoạt động tiếp dân, giải quyết các yêu cầu về tố tụng của đương sự và trật tự phiên tòa tại trụ sở Tòa án; tăng cường hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động HCTP của Tòa án với việc xây dựng và triển khai áp dụng trong toàn hệ thống các phần mềm về thống kê, quản lý quá trình thụ lý và kết quả xét xử các loại vụ án, phần mềm quản lý cán bộ, xây dựng và phát triển cổng thông tin điện tử của TAND và trang thông tin điện tử tại Tòa án cấp tỉnh giúp cho công dân nắm bắt kịp thời các hoạt động của Tòa án và tìm kiếm các trợ giúp về mặt pháp lý khi tiếp cận với Tòa án, phân công cán bộ chuyên trách thực hiện công tác hành chính tư pháp như nhận đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án, tiếp công dân. Một số Tòa án địa phương được Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn là các Tòa án thí điểm thực hiện CCHCTP như TAND tỉnh Vĩnh Long,
9
TAND tỉnh Thừa Thiên- Huế và TAND tỉnh Hưng Yên. Đề án Tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống TAND giai đoạn 2011-2015 đã được triển khai tích cực trong đó có hai dự án được tiến đó là dự án xây dựng hệ thống giao ban trực tuyến và dự án xây dựng trung tâm dữ liệu và hệ thống phần mềm quản lý các loại vụ án.
Tuy nhiên, các kết quả đạt được của các Tòa án trong công tác CCHCTP chưa đồng đều và còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Cụ thể: Các Tòa án mới chỉ chú trọng đến công tác xét xử, còn các hoạt động thuộc lĩnh vực HCTP chưa được chú trọng đúng mức; một số thủ tục HCTP trong quan hệ với cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động tố tụng thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án và việc phân công, phân định trách nhiệm giữa các bộ phận, cá nhân trong hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP của Tòa án chưa được rõ ràng; mô hình tổ chức bộ máy và quy trình thực hiện hoạt động HCTP tại các Tòa án không thống nhất, có nơi giao cho Văn phòng Tòa án thực hiện, có nơi giao trực tiếp cho các đơn vị trực thuộc thực hiện; đội ngũ cán bộ được giao thực hiện các hoạt động HCTP còn hạn chế về số lượng, một số hạn chế về trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm với công việc và còn có biểu hiện gây phiền hà, nhũng nhiễu với người dân. Trang thiết bị và môi trường làm việc để tiến hành các hoạt động HCTP tại Tòa án các cấp chưa hiện đại, khoa học, thậm chí một số nơi, đặc biệt là trang thiết bị làm việc của hầu hết các TAND cấp huyện còn thiếu thốn, lạc hậu.
Do đó, để hoạt động HCTP tại Tòa án thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho các hoạt động tố tụng tại Tòa án và hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án thông suốt, trôi chảy, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, tổ chức trong mối quan hệ với Tòa án thì cải cách TTHCTP là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
- Ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân
cấp tỉnh:
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả xử lý công việc và công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án, tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình, thủ tục hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu cầu của công dân trước và sau phiên tòa xét xử. Các cải cách tập trung vào việc tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện; hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến; đơn khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, đơn đề nghị
10
giám đốc thẩm, tái thẩm; cấp sao lục bản án, quyết định của Tòa án; quản lý số lượng án thụ lý, giải quyết; tiếp công dân,…, đảm bảo các vụ việc của công dân, tổ chức yêu cầu phải được thụ lý và xét xử, giải quyết nhanh chóng theo đúng quy định của pháp luật tố tụng về thời gian nhận đơn, nhận hồ sơ, thụ lý, xét xử, giải quyết được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hành chính, loại bỏ những thủ tục rườm rà; ứng dụng quy trình một cửa liên thông, xác định rõ thời gian giải quyết của từng khâu. Qua đó xây dựng hình ảnh Tòa án thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, là chỗ dựa của nhân dân và là nơi bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.3 Yêu cầu, nhiệm vụ của của cải cách thủ tục hành chính tư pháp
tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh
-
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đặt ra một số mục tiêu cho hoạt động của ngành Toà án nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp như:
-
“…đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”;
“…phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình…”.
Bên cạnh đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Cải cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: Cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính”.
Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm và phương hướng nhiệm vụ công tác các năm tiếp theo, giai đoạn 2009-2010 và 2010-2011 của TANDTC đều nhấn mạnh: Đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính – tư pháp theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả và hiệu lực”.
11
Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân mang tính cấp thiết. Mục tiêu tổng quá của hoạt động này bao gồm: (1) xây dựng các Tòa án dễ tiếp cận (tiêu chí “tiếp cận công lý”) và hướng tới dịch vụ hành chính công (tiêu chí „tăng cường chất lượng phục vụ nhân dân”); (2) tăng cường hiệu lực và hiệu quả của Tòa án; và (3) cải thiện chất lượng xét xử. Điểm nhấn của toàn bộ quá trình là việc chú trọng vào việc phục vụ nhân dân và nếu làm được điều này, thì niềm tin của nhân dân vào hệ thống Tòa án sẽ được đẩy mạnh.
Với phạm vi trách nhiệm được giao trong công tác cải cách tư pháp, TAND các cấp cần quán triệt và triển khai việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp trên các mặt công tác và hoạt động của mình, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài như sau:
- Nhóm các nhiệm vụ trước mắt
Qua thực tiễn công tác cải cách thủ tục hành chính tư pháp, nhóm nhiệm vụ trước mắt đã và đang được triển khai thực hiện trong hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay gồm:
Một là, xây dựng và thực hiện quy chế một cửa liên thông và đơn giản hóa việc tiếp nhận, hướng dẫn giải quyết các yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, công dân trước và sau các phiên tòa xét xử bao gồm việc tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và các tài liệu kèm theo (nếu có) của đương sự; đơn khiếu nại, tố cáo của công dân có liên quan đến hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án; cấp giấy chứng nhận người bào chữa; cấp bản án, quyết định và các bản trích lục, trích sao bản án, quyết định của Tòa án theo hướng mỗi đơn vị Tòa án thành lập một bộ phận chuyên trách thực hiện với quy trình tiếp nhận và trả hoặc thông báo kết quả giải quyết theo thủ tục đơn giản, thuận tiện nhất cho các cơ quan, tổ chức và công dân;
Hai là, thiết lập và công khai đường dây nóng tại tất cả các Tòa án để tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp thông tin, kiến nghị, phản ánh hoặc yêu cầu giải quyết công việc của họ có liên quan đến hoạt động của Tòa án;
Ba là, xây dựng và thực hiện quy chế tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư, người bào chữa tiếp cận và nghiên cứu các hồ sơ vụ án khi có yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật;
Bốn là, xây dựng, vận hành và quản lý có hiệu quả cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao và Trang thông tin điện tử của Tòa án nhân
12
dân cấp tỉnh, trong đó bắt buộc phải có chuyên mục tra cứu thông tin để công khai hóa các thủ tục, mẫu đơn, mẫu văn bản tố tụng và hành chính tư pháp đang áp dụng tại Tòa án, các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hiện hành có liên quan đến hoạt động tố tụng và hành chính tư pháp của Tòa án. Thiết kế và vận hành bảng thông báo điện tử tại trụ sở Tòa án các cấp (nơi có điều kiện và có nhiều vụ, việc) để công khai các lịch xét xử, lịch tiếp công dân và lịch làm việc của Lãnh đạo đơn vị; quản lý và khai thác có hiệu quả hệ thống thư điện tử, hệ thống sổ sách nghiệp vụ và phần mềm thống kê việc giải quyết, xét xử các loại vụ án; nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng rộng rãi trong toàn ngành phần mềm quản lý quá trình giải quyết, xét xử các loại vụ án, có quy chế công khai hóa để người dân tiếp cận thuận lợi phần mềm quản lý cán bộ, phần mềm quản lý, xử lý công văn giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của Tòa án, phần mềm quản lý kinh phí và công sản, phục vụ có hiệu quả việc chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Tòa án và cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong nội bộ đơn vị và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp.
Năm là, xây dựng, quản lý và vận hành có hiệu quả hệ thống giao ban trực tuyến giữa TANDTC và các Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo khu vực, giữa TAND cấp tỉnh với TAND cấp huyện để xử lý các vấn đề thường xuyên và cấp bách cần giải quyết ngay trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới hoặc báo cáo của Tòa án cấp dưới với Tòa án cấp trên;
Sáu là, xây dựng và thực hiện thống nhất mô hình về tổ chức bộ máy, hệ thống chức danh và tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thực hiện hoạt động hành chính tư pháp tại các Tòa án.
- Nhóm các nhiệm vụ lâu dài
Đây là nhóm nhiệm vụ triển khai thực hiện đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 nhằm hướng tới xây dựng Tòa án điện tử, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho cơ quan, tổ chức, công dân trong việc tiếp cận, giải quyết các yêu cầu theo trình tự tố tụng tư pháp tại Tòa án và tạo cơ chế nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí vật chất trong hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của cơ quan Tòa án. Cụ thể:
Một là, nghiên cứu, xây dựng cơ sở pháp lý, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan để thực hiện việc tin học hóa trong hoạt động tố tụng và HCTP tại Tòa án như việc tiếp nhận các loại đơn, tài liệu, thụ lý vụ án, tổ chức giải quyết một số khâu trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu, thông báo
13
lịch xét xử, triệu tập đương sự bằng hình thức trực tuyến (online); công nhận giá trị phiên bản điện tử các bản án, quyết định của Tòa án để cung cấp cho đương sự;
Hai là, xây dựng các phòng xét xử điện tử để thực hiện việc tự động ghi âm, ghi hình, chụp chiếu các tài liệu, chứng cứ trực tiếp tại phiên tòa; nghiên cứu việc tổ chức các phiên tòa xét xử trực tuyến.
Ba là, số hóa và thực hiện việc quản lý, lưu trữ, khai thác, tiếp cận các hồ sơ, tài liệu có trong hồ sơ các vụ án và trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án và thực hiện việc chuyển các hồ sơ, tài liệu chủ yếu được thực hiện bằng phiên bản điện tử giữa các Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa các Tòa án cùng cấp với nhau;
Bốn là, xây dựng hệ thống quản lý, chỉ đạo điều hành trong các hoạt động của Tòa án theo hướng tăng cường trao đổi, cung cấp thông tin, văn bản, báo cáo, tổ chức hội nghị, hội thảo bằng phương thức trực tuyến;
Năm là, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu các hoạt động của TANDTC liên thông với hệ thống tương ứng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và Quốc hội để kịp thời cung cấp, trao đổi thông tin, văn bản cần thiết giữa các cơ quan.
1.2 Nội dung cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân
dân cấp tỉnh
Hiện nay, những vấn đề chủ yếu của TTHCTP tại Tòa án nhân dân như quy trình tiếp nhận đơn trong các vụ án dân sự, hành chính; tiếp nhận hồ sơ các vụ án hình sự, các biểu mẫu văn bản giấy tờ, mẫu sổ sách… đã được quy định trong BLTTHS năm 2015, BLTTDS năm 2015, BLTTHC năm 2015 và một số nghị quyết hướng dẫn của HĐTP TANDTC. Tuy nhiên, các văn bản này chưa quy định thống nhất về quy trình tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, phân công giải quyết vụ án, công tác cấp, trích lục, sao y bản án, quyết định của Tòa án,… tại TAND các cấp. Thủ tục tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn khiếu nại, công văn, giấy tờ của cơ quan Toà án cũng khác với các thủ tục tiếp nhận, xử lý đơn, công văn, giấy tờ của các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC, các TAND cấp tỉnh trong cả nước đã quan tâm cải cách quy trình xử lý công việc tại đơn vị mình nhằm giảm bớt những thủ tục rườm rà, nâng cao hiệu quả công tác HCTP tại Tòa án.
Qua thực tiễn hoạt động CCTTHCTP tại TAND các cấp có thể khái
14
quát nội dung CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh như sau:
1.2.1. Công tác tiếp dân
Trước khi có Luật Tiếp công dân năm 2013, các văn bản pháp luật của nước ta chưa có văn bản nào quy định thế nào là “tiếp công dân” mà chỉ có các khái niệm về trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân, trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân... Đến Luật Tiếp công dân năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 07/01/2014), khái niệm “tiếp công dân” được quy định tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này tiếp đón để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật. Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định kỳ và tiếp công dân đột xuất”. Theo đó, TAND cũng thuộc đối tượng cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp công dân.
1.2.2 Công tác nhận và xử lý đơn khởi kiện, khiếu kiện, hồ sơ kháng
cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, tố cáo
- Tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, khiếu kiện:
Trước BLTTDS năm 2015 và Luật TTHC 2015 Tòa án không có quy định bắt buộc khi nhận đơn khởi kiện, khiếu kiện hành chính, Tòa án phải cấp giấy biên nhận, giấy hẹn hay bất kỳ một chứng từ nào để xác nhận cho việc nộp đơn. Nếu đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án cấp giấy báo tạm ứng án phí. HĐTP TANDTC chỉ có Nghị quyết hướng dẫn các Toà án phải cấp Giấy báo nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Lý giải nguyên nhân Tòa án không cấp giấy hẹn hay biên nhận hồ sơ trước khi BLTTDS năm 2015 được ban hành là do Thẩm phán không muốn bị áp lực về thời gian phải trả lời đơn khởi kiện trong vòng 05 ngày theo quy định của pháp luật. Việc không cấp giấy hẹn, giấy biên nhận hồ sơ dẫn đến tình trạng người dân phải đến Tòa án nhiều lần mới biết được đơn khởi kiện của mình có được chấp nhận thụ lý hay không. Người dân không có bất kỳ chứng cứ nào để khiếu nại nếu trong quá trình xem xét đơn khởi kiện, cán bộ Toà án làm mất đơn, chứng cứ hay hồ sơ khởi kiện. Đây cũng là một “kẽ hở” có thể dẫn đến hành vi nhũng nhiễu của người có thẩm quyền để hồ sơ được chấp thuận cho thụ lý hoặc kéo dài thời gian thụ lý, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Các công việc chính và kỹ năng thực hiện việc nhận đơn khởi kiện
vụ án dân sự được tóm tắt như sau:
15
Tòa án chỉ chấp nhận khi đơn khởi kiện được làm bằng văn bản theo đúng quy định của pháp luật. Toà án phải có sổ nhận đơn để ghi ngày tháng năm nhận đơn của đương sự làm căn cứ xác định ngày khởi kiện và thời hiệu khởi kiện.
Sau khi nhận đơn khởi kiện, Toà án phải cấp giấy nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu Toà án nhận đơn khởi kiện gửi qua đường bưu điện thì Toà án gửi giấy báo nhận đơn khởi kiện để thông báo cho người khởi kiện biết. Nếu thấy đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện phải có một trong các quyết định sau đây:
- Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định thì Thẩm phán tiếp tục việc thụ lý vụ án. Nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
- Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án và thông báo về việc thụ lý vụ án.
- Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo bằng
văn bản cho người khởi kiện biết.
- Trả lại đơn khởi kiện.
Quy trình nêu trên chưa được rõ ràng về đối tượng thực hiện và mô hình thực hiện. Vai trò của Thẩm phán chỉ được quy định sau khi Toà án đã nhận được đơn khởi kiện. Quy định về chủ thể “Tòa án” trong văn bản trên không xác định rõ cá nhân nào trong Tòa án có thẩm quyền thực hiện công tác trên? Đó là Chánh án, Thẩm phán hay Thư ký Tòa án? Qua khảo sát thực địa tại 6 Toà án tỉnh và 12 Toà án huyện của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” trong khuôn khổ của Dự án 00058492 về “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” của Chính phủ Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc thì hiện nay có 3 mô hình tiếp nhận đơn khởi kiện như sau:
Mô hình thứ nhất: Thẩm phán được phân công trực tiếp nhận đơn và tiếp người nộp đơn theo tuần. Đối với Toà án cấp tỉnh, thì Chánh toà chuyên trách có thể phân công Thẩm phán của toà mình lần lượt tiếp nhận đơn kiện,
16
quyết định việc thụ lý và báo cáo Chánh án hoặc Phó Chánh án phụ trách khối để được phân công giải quyết vụ án. Có một số Toà án tỉnh, việc tiếp nhận đơn và quyết định thụ lý sẽ do Chánh toà đảm trách. Nếu thụ lý, Chánh toà sẽ báo cáo Chánh án hoặc Phó Chánh án phụ trách khối phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc tiếp nhận đơn khởi kiện của công dân do Thẩm phán thực hiện ngay từ ban đầu. Thẩm phán xem xét đơn và hồ sơ khởi kiện, nếu đủ điều kiện thì tiếp nhận đơn và hẹn người dân ngày thông báo đơn có đủ điều kiện thụ lý hay không? Sau khi tiếp nhận đơn, Thẩm phán sẽ xem xét vụ án và quyết định việc thụ lý vụ án. Có nơi, Thẩm phán sẽ báo cáo với lãnh đạo Toà án (Chánh án hoặc Phó Chánh án phụ trách khối) về việc thụ lý vụ án. Nhưng cũng có Toà án, Thẩm phán tự mình quyết định việc thụ lý hay từ chối thụ lý vụ án. Lãnh đạo Toà án chỉ biết đến vụ án sau khi đã được thụ lý.
Mô hình thứ hai: Một thư ký hoặc một nhóm thư ký được phân công tiếp nhận đơn khởi kiện và tiếp người nộp đơn. Thư ký xem xét đơn và hồ sơ khởi kiện sơ bộ, nếu đủ điều kiện thì tiếp nhận đơn và hẹn người dân ngày thông báo đơn có đủ điều kiện thụ lý hay không. Sau khi đơn khởi kiện được tiếp nhận thì thư ký chuyển đơn cho lãnh đạo Toà án hoặc Thẩm phán được phân công. Tương tự như ở mô hình thứ nhất, ở một số Toà án tỉnh thư ký hoặc nhóm thư ký tiếp nhận đơn là nhân sự của toà chuyên trách. Việc quyết định thụ lý sẽ do Thẩm phán được phân công hoặc lãnh đạo Toà án quyết định, thông báo lại cho thư ký tiếp nhận đơn để báo cho đương sự.
Mô hình thứ ba: Toà án có bộ phận chuyên tiếp nhận đơn, tương tự như bộ phận “một cửa” tại các cơ quan hành chính có hoạt động tiếp dân như UBND xã, phường, quận, huyện... Bộ phận này tiếp nhận đơn và hướng dẫn người dân về hồ sơ khởi kiện, nội dung đơn kiện, thủ tục tố tụng…, viết phiếu tiếp nhận và hẹn ngày trả lời về đơn có đủ điều kiện thụ lý hay không. Phiếu tiếp nhận chỉ ghi những hồ sơ được nộp tại thời điểm đó. Bộ phận tiếp nhận đơn có Thẩm phán chuyên trách việc tiếp nhận và xem xét việc thụ lý. Trong quá trình xem xét, nếu hồ sơ còn thiếu, bộ phận “một cửa”sẽ thông báo bằng văn bản cho đương sự biết để nộp bổ sung. Nếu đơn kiện và hồ sơ đủ điều kiện khởi kiện thì bộ phận “một cửa” báo cáo Chánh án bằng văn bản để quyết định thụ lý.
Qua khảo sát, mô hình thứ nhất và mô hình thứ hai là những mô hình tiếp nhận đơn phổ biến hiện nay tại Việt Nam. Ở hai mô hình này, các Thẩm phán không cấp giấy hẹn, thậm chí không có cả giấy biên nhận hồ sơ cho người dân. Có Toà án, việc tiếp nhận đơn được ghi trong sổ nhận đơn. Toàn
17
bộ quy trình nội bộ về báo cáo việc tiếp nhận đơn, hồ sơ khởi kiện sau khi nhận đơn không được lập thành văn bản. Các Thẩm phán sau khi tiếp nhận vụ án sẽ phải chịu trách nhiệm đối với vụ án. Một số đơn vị, Chánh án yêu cầu các Thẩm phán phải báo cáo về hồ sơ khởi kiện và quan điểm của Thẩm phán về thụ lý hồ sơ cho lãnh đạo Tòa án được phân công. Nhưng do mô hình tiếp nhận và báo cáo nội bộ không được văn bản hóa nên đã tạo “khoảng hở” trong quản lý các vụ án tiếp nhận. Dẫn đến có tình trạng, Thẩm phán lựa chọn vụ án để thụ lý, nếu vụ án đó dễ giải quyết thì nhận, còn không dễ giải quyết thì hẹn đương sự quay lại để Thẩm phán khác tiếp nhận, hoặc vì có Thẩm phán chưa muốn bị sức ép phải nghiên cứu hồ sơ và báo cáo cho Chánh án nên tiếp nhận không ghi vào Sổ Nhận đơn. Có ý kiến cho rằng mô hình tiếp nhận đơn thứ nhất đã tạo điều kiện để Thẩm phán tiếp nhận vụ án trên cơ sở có quan hệ với nguyên đơn để trực tiếp giải quyết.
Ở mô hình thứ hai, Tòa án áp dụng việc văn bản hóa toàn bộ công tác nhận đơn và thụ lý đơn khởi kiện. Việc tiếp nhận đơn, công tác nhận đơn và xử lý đơn được công khai cho công dân trên hệ thống Sổ Nhận đơn của các Tòa chuyên trách và hệ thống máy tính chung của Toà án. Kết quả xử lý đơn khởi kiện được hiển thị trên màn hình ở bên ngoài cho công dân. Việc chuyển hồ sơ cho Thẩm phán xem xét trả lời đương sự trong nội bộ Tòa án cũng được ghi nhận bằng các phiếu tiếp nhận và ghi nhận trên hệ thống máy tính. Ngoài ra, trong quá trình khảo sát, Nhóm Nghiên cứu có được thông tin TAND tỉnh Bình Dương áp dụng cơ chế quản lý chất lượng theo ISO 9001:2000 đối với các hoạt động hành chính của Toà án dựa trên các quy định của pháp luật tố tụng. Toàn bộ quy trình tiếp nhận đơn và phân công án ở Bình Dương cũng được tài liệu hoá.
Mô hình thứ ba hiện nay mới chỉ được triển khai áp dụng thí điểm tại một số TAND tỉnh trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ tư pháp từ cơ sở (Dự án JUDGE). Mô hình này có áp dụng “cơ chế một cửa”, theo đó “gom” toàn bộ việc tiếp nhận đơn khởi kiện, đơn thư, công văn, giấy tờ gửi tới Tòa án về một đầu mối tiếp nhận và xử lý. Biểu phí về án phí được công bố công khai tại khu vực tiếp dân. Thư ký Tòa án hay Thẩm phán tại bộ phận tiếp nhận đơn cũng thực hiện công tác hướng dẫn về nội dung đơn, thủ tục tố tụng… Tuy nhiên, với mô hình thứ ba TANDTC mới chỉ phê duyệt thí điểm tại ba TAND cấp tỉnh là TAND tỉnh Vĩnh Long, TAND tỉnh Thừa Thiên – Huế và TAND tỉnh Hưng Yên. Ðiều đáng lưu ý là trong cơ cấu tổ chức của bộ máy giúp việc của TAND các cấp do Chánh án TANDTC quy định thì lại không có bộ phận
18
HCTP hay không có quy định điều kiện để thành lập bộ phận HCTP hay bộ phận “một cửa” chuyên trách công tác tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ của đương sự, các bên có liên hệ với Tòa án.
Khắc phục hạn chế nêu trên, quy trình tiếp nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015 và Luật TTHC năm 2015, theo đó việc tiếp nhận đơn khởi kiện được xây dựng theo thẩm quyền xét xử (bao gồm thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm) mà không quy định theo TAND cấp tỉnh hay cấp huyện. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 và Luật TTHC năm 2015, việc nhận tiếp đơn khởi kiện, khiếu kiện hành chính do cá nhân, tổ chức nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi đơn được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Trường hợp nhận đơn trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người nộp đơn. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời gian hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện, khiếu kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Quy trình nhận, xử lý hồ sơ kháng cáo, hồ sơ kháng nghị và hồ sơ án
hình sự do Viện Kiểm sát nhân dân chuyển đến:
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định, thì sau khi nhận đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật, nếu chưa đúng thì Tòa án yêu cầu người kháng cáo làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rỏ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ ( nếu có ) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn.
- Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, đơn tố cáo:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay sau khi nhận được đơn khiếu nại của đương sự về việc trả lại đơn khởi kiện. Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại.
19
Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chánh án Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Trường hợp người bị tố cáo là Chánh án, Phó Chánh án, thì Chánh án Tòa án cấp trên một cấp trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.
Hiện nay, việc áp dụng các thủ tục trong công tác tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, đơn tố cáo ở mỗi Tòa án có sự khác nhau. Có Tòa án công bố lịch Lãnh đạo Tòa án trực tiếp tiếp công dân để tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân đang bức xúc. Người khiếu nại, người tố cáo có thể trực tiếp trao đổi với cán bộ có thẩm quyền tiếp công dân (các lãnh đạo Tòa án), trong trường hợp cần thiết thì người tiếp công dân sẽ đề nghị người khiếu nại, tố cáo làm đơn trình bày cụ thể. Có Tòa án yêu cầu người dân phải làm đơn nếu muốn khiếu nại. Văn phòng TAND sẽ tiếp nhận các đơn khiếu nại và chuyển cho Lãnh đạo của Tòa án đó giải quyết. Riêng tại Vĩnh Long, việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo cũng được thực hiện thông qua Phòng HCTP (mô hình một cửa).
1.2.3 Công tác phân công giải quyết vụ án
Phân công giải quyết án là một công việc quan trọng trong hoạt động của Toà án bởi công việc này ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập xét xử, tính công bằng, linh hoạt và hiệu quả của bộ máy. Việc phân công án không hợp lý có thể làm giảm niềm tin của công chúng đối với Toà án, có thể kéo dài thời gian xét xử và tác động tới chất lượng xét xử.
Qua báo cáo hàng năm của ngành TAND, điều dễ thấy khối lượng vụ án được các Tòa án trên toàn quốc thụ lý và giải quyết hàng năm n gày một tăng trong khi số lượng thẩm phán lại phụ thuộc vào tổng số biên chế của TAND do Quốc hội phê duyệt theo từng giai đoạn.
Các quy định tố tụng và hướng dẫn của HĐTP TANDTC về phân công án hiện nay chỉ xác định thẩm quyền phân công án và trách nhiệm của Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án mà không quy định về quy trình phân công án.
20
Qua khảo sát thực địa, Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” nhận thấy hiện nay việc phân công án dựa trên ba hình thức: (i) phân công án theo quy trình phân công án tuần tự và rõ ràng; (ii) phân công án theo quyết định riêng, chủ động của lãnh đạo Toà án; (iii) phân công án do chính Thẩm phán đề xuất. Việc phân công có sự chủ động của lãnh đạo Tòa án cũng có hai hình thức nhất định: (i) phân công án dựa trên các tiêu chí do mỗi Toà án tự xây dựng; hoặc (ii) phân công án dựa hoàn toàn vào quyết định riêng của lãnh đạo Toà án. Các lãnh đạo Tòa án phân công công tác cho Thẩm phán dựa trên hai tiêu chí chủ yếu bao gồm: (i) “khối lượng công việc” mà Thẩm phán đó đang giải quyết, bao gồm cả công tác xét xử lẫn những việc chuyên môn khác của cơ quan; và (ii), “chuyên môn hoặc kinh nghiệm” của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ việc. Các Chánh án có thể dựa trên một hoặc cả hai tiêu chí. Ngoài hai tiêu chí trên thì một số các yếu tố khác cũng được các lãnh đạo Toà án cân nhắc khi phân công án như:
Kinh nghiệm của Thẩm phán:
- Phân công phù hợp với vị trí và thâm niên công tác của Thẩm phán;
- Phân công theo địa bàn để tiện cho việc giải quyết vụ án;
- Theo tính chất vụ án mà quyết định Thẩm phán giải quyết, án có tính
phức tạp, “án điểm” thì sẽ do lãnh đạo trực tiếp giải quyết;
- Phân công theo lĩnh vực mà Thẩm phán có nhiều kinh nghiệm xét xử;
- Phân công án đồng đều cho các Thẩm phán mà không phụ thuộc vào
chuyên môn;
- Dựa theo dân tộc, Thẩm phán là người dân tộc sẽ giải quyết vụ án của người dân tộc, Thẩm phán người Kinh sẽ giải quyết những vụ án của người Kinh.
Áp lực công việc của Thẩm phán:
- Phân công xen kẽ giữa một vụ phức tạp và một vụ không phức tạp;
- Phân công Thẩm phán ở Toà án cấp tỉnh không phân bổ theo cơ cấu
nhân sự của Tòa chuyên trách. Các Thẩm phán phải xử hết các loại án.
Theo đề xuất của Thẩm phán: Tiêu chí này được nhiều Thẩm phán lựa chọn do quy trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết vụ án của một số Toà án là giao toàn bộ trách nhiệm cho Thẩm phán. Sau khi Thẩm phán tiếp nhận vụ án và đề xuất với lãnh đạo Tòa án về việc thụ lý vụ án, Thẩm phán đó sẽ được
21
phân công xét xử. Trên thực tiễn, yếu tố này được một số Thẩm phán xác nhận là có tồn tại.
Theo quy định của pháp luật tố tụng, trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án. Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.
Tại một số Toà án, Chánh án phân công trực tiếp cho một Thẩm phán thụ lý, giải quyết vụ án và chủ tọa phiên tòa. Ở một số Tòa án khác, Chánh án và Phó Chánh án phân công công việc, phạm vi quản lý, theo đó Phó Chánh án có thể thực hiện công tác phân công án. Mô hình Chánh án phân công án cho Thẩm phán được coi là nhằm mục đích giảm các yếu tố tác động vào tính độc lập của Thẩm phán, theo như ghi nhận tại Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp: “Việc giao vụ án cho Thẩm phán xét xử là vấn đề thuộc quản lý tư pháp và người chịu trách nhiệm giám sát cuối cùng là Chánh án của Toà án đó”.
1.2.4 Công tác cấp, trích lục, sao y, giao, gửi bản án, quyết định của
Tòa án
Theo quy định tại Điều 70 BLTTDS năm 2015 thì khi tham gia tố tụng đương sự có quyền, nghĩa vụ được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án. Đồng thời, tại Điều 269 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa, các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện được Tòa án cấp trích lục bản án; 2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.” Theo đó, để thực hiện yêu cầu của đương sự về việc trích lục, sao y bản án, quyết định của Tòa án, theo một quy trình chung thường được áp dụng trước đây đó là người dân phải làm đơn xin trích lục, sao y bản án, quyết định gửi lên Chánh án ký duyệt, sau đó đơn được chuyển xuống Văn phòng, Văn phòng chuyển đến cán bộ lưu trữ, cán bộ lưu trữ đến kho lưu trữ tìm hồ sơ vụ án, trích lục hoặc phô tô bản án, quyết định và trình Chánh án ký trích lục, sao y. Trình tự như thế phải qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian, đôi khi phải mất một tuần mới cấp trích lục, sao y bản án, quyết định cho người dân.
Thực hiện CCTTHCTP, TAND các cấp đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đưa vào sử dụng phần mềm lưu trữ bản án giúp cho việc cấp, trích lục, sao y bản án, quyết định của Tòa án được nhanh chóng, giảm bớt công đọan, thủ tục hành chính, theo đó chỉ cần một vài thông tin của người
22
yêu cầu, Tòa án có thể nhanh chóng tìm ra bản án, quyết định và trình lãnh đạo ký trích lục, sao y bản án, quyết định, toàn bộ công đoạn này chỉ mất khoảng 10 đến 15 phút, tiết kiệm được thời gian, công sức của người dân.
1.2.5 Công tác quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra và án tồn
Trong những năm gần đây, số lượng án thụ lý và giải quyết ngày càng tăng khiến cho công tác quản lý án ngày càng phức tạp, nhiều nơi lãnh đạo Tòa án nhân dân không nắm được số lượng án đầu vào, đầu ra và lượng án tồn của đơn vị, gây khó khăn cho công tác chỉ đạo, điều hành cũng như kiểm tra, đôn đốc Thẩm phán, thư ký trong công tác giải quyết án. Trước tình hình đó, các Tòa án đã thực hiện cải cách theo phương pháp tin học hóa, đẩy mạnh các phần mềm ứng dụng vào công tác quản lý án giúp cho hoạt động quản lý hồ sơ án từ khi tiếp nhận đơn cho đến khi kết thúc quá trình tố tụng được nhanh chóng, khoa học, rút ngắn thời gian và không để người dân phải chờ đợi lâu. Được sự hỗ trợ tích cực của TANDTC trong khuôn khổ Dự án Jugde, một số Tòa án được thí điểm trong đó có TAND tỉnh Vĩnh Long đã được hỗ trợ nâng cấp 01 phòng máy chủ Sever hiện đại, kết nối hệ thống mạng LAN cùng máy vi tính để bàn, qua đó các Thẩm phán, thư ký có thể chia sẻ các dữ liệu qua mạng (như các báo cáo, văn bản pháp luật mới…), sử dụng tiện ích Excel nhập và theo dõi dữ liệu về lượng án thụ lý, án giải quyết, án tồn, án quá hạn luật định, án tạm đình chỉ của đơn vị. Hàng tuần họp giao ban số liệu này luôn được cập nhật và báo cáo cho lãnh đạo để theo dõi, nhắc nhở các Thẩm phán. Việc số hóa, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý án một mặt tạo điều kiện cho cán bộ, công chức Tòa án tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, mặt khác giúp cho lãnh đạo nắm bắt kịp thời số liệu án giải quyết đối với từng Thẩm phán, theo dõi việc lên lịch xét xử án của đơn vị bằng tiện ích Outlook Express... Từ việc theo dõi này, các lãnh đạo thường xuyên đốc thúc, nhắc nhở các Thẩm phán đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, hạn chế được tối đa lượng án tồn, án quá hạn luật định, bảo đảm hoạt động tố tụng được diễn ra theo đúng thời hạn luật định.
Qua các nội dung phân tích nêu trên có thể thấy, CCTTHCTP tại TAND trong những năm qua tập trung vào việc đổi mới các quy trình, thủ tục mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại Tòa án, giải quyết các yêu cầu của công dân trước và sau các phiên tòa xét xử và các hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp, thủ tục tiếp nhận và xử lý công văn, đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện Kiểm
23
sát chuyển đến, đơn khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phân công giải quyết vụ án; cấp sao lục bản án, quyết định của Toà án; quản lý số lượng án thụ lý, giải quyết; tiếp công dân... Bên cạnh đó, các Toà án đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động; công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án; đồng thời luôn chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, tác phong công vụ của cán bộ công chức để tạo điều kiện và phục vụ tốt nhất cho người dân khi đến làm việc tại Tòa án.
1.3 Điều kiện bảo đảm cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
1.3.1 Chủ trương, chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư
pháp tại Tòa án nhân dân
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong những năm qua, ngành TAND không ngừng đổi mới đổi mới các TTHCTP tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Tuy bước đầu việc thực hiện đổi mới TTHCTP trong hoạt động của Tòa án đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra. Mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa” tại các TAND cấp tỉnh và cấp huyện mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng vẫn mang tính chất thử nghiệm, chưa trở thành quy định chung mang tính bắt buộc đối với các Toà án. Quy trình thực hiện hoạt động hành chính tư pháp tại Toà án các cấp không thống nhất. Trang thiết bị và môi trường làm việc để tiến hành các hoạt động hành chính tư pháp tại Toà án chưa hiện đại, khoa học. Đội ngũ cán bộ thực hiện các hoạt động hành chính tư pháp còn thiếu về số lượng, một số hạn chế về trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm với công việc và cá biệt còn có biểu hiện gây phiền hà, nhũng nhiễu với người dân.
Do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả xử lý công việc và công khai, minh bạch các hoạt động của Toà án; xây dựng hình ảnh Toà án thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, là chỗ dựa của nhân dân và là nơi bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Chánh án TANDTC yêu cầu Lãnh đạo các Toà án cần xác định việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ CCTTHCTP là một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất
24
lượng công tác Tòa án nói chung và chất lượng phục vụ người dân khi có việc yêu cầu Toà án giải quyết nói riêng. Đảm bảo các vụ việc phải được thụ lý và giải quyết nhanh chóng, loại bỏ những thủ tục rườm rà; ứng dụng quy trình một cửa liên thông, xác định rõ thời gian giải quyết của từng khâu.
Theo chỉ đạo của Chánh án TANDTC, CCTTHCTP tại Tòa án nhân
dân cần tập trung thực hiện tốt một số việc sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các mô hình CCTTHCTP đã được tổng kết, khẩn trương xây dựng mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của bộ phận HCTP tại từng cấp Tòa án và trình lãnh đạo TANDTC xem xét, quyết định.
Thứ hai, TAND các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng từng quy trình xử lý công việc đảm bảo đơn giản, tiện ích, khâu trước phải là tiền đề chuẩn bị cho khâu sau, đồng thời rút ngắn, đơn giản hóa các bước, thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có việc liên hệ với Toà án. Trước mắt, cần rà soát các thủ tục HCTP hiện hành để hủy bỏ các thủ tục không còn phù hợp và tiến tới xây dựng Bộ tiêu chí về CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân.
Thứ ba, trên cơ sở các mô hình tổ chức bộ phận HCTP và quy trình xử lý công việc đã được xác định cần tiến hành sắp xếp cán bộ cho phù hợp, đồng thời xây dựng các phần mềm ứng dụng để thực hiện thống nhất trong các Toà án, nhằm nâng cao hiệu quả của từng khâu, từng hoạt động.
Thứ tư, tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan để học hỏi kinh nghiệm về CCTTHCTP; làm tốt công tác hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước trong CCHCTP.
Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và phổ biến, nhân rộng các bài học kinh nghiệm tốt trong thực hiện CCTTHCTP; việc đánh giá hiệu quả CCHCTP phải thông qua việc lượng hoá các quy trình, thủ tục giải quyết từng loại công việc. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện CCTTHCTP; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này tại các Tòa án.
1.3.2 Cơ sở pháp lý thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại
Tòa án nhân dân
CCHCTP tại Tòa án nhân dân là một bộ phận của cải cách hành chính công trong tổng thể hệ thống bộ máy nhà nước. Do đó, thực hiện CCHCTP tại Tòa án nhân dân cũng phải phù hợp với chủ trương cải cách hành chính công của Đảng và Nhà nước.
25
Từ rất sớm, Chính phủ nước ta đã đặt ra một chương trình tổng thể để xây dựng một nền hành chính dân chủ, minh bạch, hiệu quả, theo mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có một số nội dung quan trọng như: Tiếp tục CCTTHC nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân; Mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Cơ quan hành chính các cấp có trách nhiệm giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình tự, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc”.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp tiếp tục được ghi nhận và quy định tại Khoản 4 Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, theo đó Chính phủ “Thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư, giám định tư pháp, công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi hành án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch”.
Trong giai đoạn hiện nay, để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động tư pháp, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, Luật Tổ chức TAND năm 2014 được Quốc hội thông là cơ sở pháp lý quan trọng để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của TAND, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người. Theo đó bộ máy HCTP trong TAND độc lập với hệ thống tổ chức các Tòa án theo thẩm quyền xét xử. Nhiệm vụ công tác quản lý hành chính tư pháp trong TAND là bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, trang bị và các điều kiện khác phục vụ cho hoạt động xét xử; nghiêm cấm công chức hành chính tư pháp trong TAND các cấp can thiệp hoặc tác động vào hoạt động xét xử.
Qua những quy định trên, có thể thấy cải cách hành chính nói chung và cải cách hành chính tư pháp nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo thực hiện ngay từ khi bắt đầu công cuộc “đổi mới” đất nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, rà soát văn bản pháp luật, hiện nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào liệt kê các lĩnh vực hay hoạt động HCTP cụ thể, cũng như chưa có văn bản nào phân biệt rõ ràng giữa hoạt động hành chính tư
26
pháp với hoạt động tố tụng, để từ đó xác định đúng và đầy đủ nội dung CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân hiện nay.
Các yêu cầu, nhiệm vụ và nội dung CCTTHCTP hiện nay tại Tòa án mới chỉ được quy định trong các Chỉ thị, Quyết định của TANDTC như Chỉ thị số 10/2016/CT-CA, Quyết định số 345/2016/QĐ-CA… Điều này đã làm giảm hiệu quả thực hiện CCTTHCTP tại TAND vì đó chỉ là những văn bản mang tính hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện trong Tòa án nhân dân các cấp mà không có giá trị pháp lý cao.
1.3.3 Tổ chức bộ máy thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp
tại Tòa án nhân dân
Có thể thấy việc thực hiện cải cách TTHCTP tại Tòa án nhân dân hiện nay chưa có một mô hình thống nhất nào về tổ chức bộ máy và quy trình thực hiện hoạt động HCTP tại Toà án. Chỉ từ sau năm 2010, trên cơ sở tổng kết và nhân rộng mô hình CCTTHCTP của 03 TAND cấp tỉnh được TANDTC lựa chọn thí điểm thực hiện CCHCTP thì mô hình cải cách hành chính tư pháp “một cửa” hay mô hình Tổ HCTP mới được triển khai áp dụng trong hệ thống TAND các cấp. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 và căn cứ vào tình hình thực tiễn thực hiện CCTTHCTP trong hoạt động của TAND cấp tỉnh hiện nay, TANDTC đã ban hành Chỉ thị số 345/2016/QĐ- CA ngày 07/4/2016 về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong đó thể hiện những nội dung quan trọng đảm bảo về tổ chức bộ máy để thực hiện CCTTHCTP trong hoạt động của TAND cấp tỉnh. Cụ thể Điều 2 quy định về cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng TAND cấp tỉnh như sau:
“1. Cơ cấu tổ chức:
Văn phòng Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh văn phòng, không quá
02 Phó Chánh Văn phòng và các công chức, người lao động khác.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh;
b) Thực hiện công tác hành chính quản trị, kế toán tài chính của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh;
c) Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân
27
cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý theo phân cấp của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
d) Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; phối hợp với các đơn vị chức năng khác của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện công tác tiếp công dân theo quy định của pháp luật;
đ) Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc phân
công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền;
e) Tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng;
g) Thực hiện công tác tổng hợp, thống kê tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý;
h) Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý để báo cáo Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan hữu quan khác;
i) Làm đầu mối thực hiện việc rà soát, tra cứu, xác minh, cung cấp
thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp;
k) Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh quản lý, tổ chức áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Tham mưu giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng, khai thác, duy trì và phát triển Trang thông tin điện tử;
l) Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa
án nhân dân cấp tỉnh.”
Như vậy, với quy định trên thì các hoạt động HCTP tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh được tập trung về “đầu mối” là Văn phòng TAND cấp tỉnh. Theo đó, Văn phòng giúp việc cho Chánh án trong việc tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn khiếu nại và thụ lý các loại án thuộc thẩm quyền; tham mưu lập danh sách các loại vụ án trình Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết. Hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín (một cửa), người dân, cơ quan, tổ chức đến liên hệ công tác, bộ phận HCTP của Văn phòng sẽ có cán bộ hướng dẫn mọi thủ tục liên quan đến hoạt động của Tòa án. Đồng thời với quy định giao trách nhiệm cho bộ phận chuyên trách của Văn phòng thực hiện việc phân công Thẩm phán giải quyết án đã bảo đảm được tính khách quan, công tâm trong việc điều phối phân công án giữa các Thẩm phán, cũng như đảm bảo
28
tính độc lập giữa quy trình thụ lý án với quy trình giải quyết án.
1.3.4 Nguồn nhân lực thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp
tại Tòa án nhân dân
Trong những năm qua, một trong những vấn đề quan trọng được Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC quan tâm chỉ đạo thực hiện đó là việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CCHCTP trong điều kiện tình hình mới.
Trên cơ sở quy định về “Quy tắc ứng xử của cán bộ công chức Tòa án nhân dân” và thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Toà án nhân dân các cấp”, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, TAND các cấp rất quan tâm đến việc giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công vụ và tinh thần phục vụ nhân dân cho các cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý. Nhìn chung, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân đã thực hiện nghiêm túc các quy định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Tòa án; luôn thể hiện trách nhiệm cao trong quá trình giải quyết các yêu cầu của công dân. Khi tiếp xúc với nhân dân luôn thể hiện thái độ tôn trọng, lắng nghe ý kiến và tận tình hướng dẫn cho người dân về các thủ tục theo quy định, cũng như giải thích, hướng dẫn cho người dân về các quy định của pháp luật.
Bên cạnh nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, TANDTC còn quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực làm việc của đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án, trong đó chú trọng các đợt tập huấn về văn bản pháp luật mới, về kiến thức tin học văn phòng, kỹ năng sử dụng máy tính và tra cứu tài liệu, văn bản pháp luật trên công thông tin điện tử của TANDTC và các Bộ, ngành liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CCHCTP trong giai đoạn hiện nay.
1.3.5 Cơ sở vật chất thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại
Tòa án nhân dân:
Trong những năm gần đây, ngân sách được dự tính cấp cho hoạt động của hệ thống Toà án và hệ thống Viện kiểm sát hiện nay đã được tăng phù hợp với số lượng vụ án và số lượng Thẩm phán tăng lên qua từng năm, từng thời kỳ. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Quốc hội sẽ phê duyệt dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương. Nguồn ngân sách của Tòa án được xây dựng trên cơ sở “chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành
29
chính”. Phương thức này nhằm tiết kiệm nguồn kinh phí hoạt động của TAND, đồng thời thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc của các cơ quan, đơn vị hành chính.
Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện Đề án “Tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong Tòa án nhân dân giai đoạn 2011-2015” đã đem lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng và tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin; đào tạo, nâng cao kỹ năng của cán bộ, công chức TAND trong việc ứng dụng CNTT phục vụ cho hoạt động của TAND; bước đầu triển khai một số hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu dùng chung cho các TAND. Từ năm 2010 đến nay, Cổng thông tin điện tử TANDTC đã được xây dựng và đi vào hoạt động, bên cạnh chức năng là phương tiện thông tin chính thức của TAND trên internet để thông tin tới độc giả về các hoạt động của Tòa án, thì trong những năm gần đây, các chuyên trang, chuyên mục trên Cổng thông tin điện tử cũng được nghiên cứu, mở rộng theo hướng phục vụ yêu cầu của nhân dân trong việc tìm hiểu pháp luật cũng như các quy trình, quy định liên quan tới việc giải quyết công việc của công dân tại Tòa án. Cổng đã phát triển các chuyên mục như tìm hiểu pháp luật, án lệ, cung cấp các mẫu văn bản phục vụ người dân khi có yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc của mình. Bên cạnh Cổng thông tin điện tử của TANDTC, nhiều Tòa án cấp tỉnh cũng đã được đầu tư xây dựng các Trang thông tin điện tử để cung cấp các thông tin liên quan tới hoạt động của đơn vị.
Để phục vụ cho công tác chuyên môn và hoạt động quản lý điều hành, TANDTC đã triển khai xây dựng nhiều phần mềm ứng dụng như: phần mềm thống kê, phần mềm quản lý các loại vụ án, phần mềm thi đua khen thưởng, phần mềm tổ chức cán bộ, phần mềm kế toán, quản lý công sản, phần mềm số hóa vụ án... Năm 2014, TANDTC đã thực hiện dự án trang cấp hệ thống máy chủ và mạng LAN cho tất cả các TAND cấp tỉnh nhằm tăng cường hạ tầng công nghệ thông tin để các TAND cấp tỉnh triển khai các phần mềm nội bộ phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành tại đơn vị. Cho tới nay, mỗi TAND cấp tỉnh đều có hộp thư điện tử để gửi, nhận văn bản nhanh chóng, kịp thời. Ngoài ra, từ năm 2013 đến nay, TANDTC đã đưa vào vận hành, khai thác thành công hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến với 68 điểm cầu để phục vụ cho các phiên họp, hội nghị, hội thảo của các Tòa án.
Với việc tăng cường ứng dụng CNTT trong hoạt động của Tòa án đã đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý, nắm bắt tình hình các mặt hoạt động, giúp cho quá trình giải quyết công việc nhanh, kịp thời, chính xác.
30
1.4 Kinh nghiệm cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án
nhân dân cấp tỉnh
1.4.1 Kinh nghiệm từ kết quả thực hiện mô hình cải cách thủ tục hành
chính tư pháp ở một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Từ sau năm 2010, trên cơ sở tổng kết và nhân rộng mô hình Cải cách thủ tục hành chính tư pháp của 03 TAND cấp tỉnh được Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn thí điểm thực hiện CCHCTP là TAND các tỉnh Vĩnh Long, Thừa Thiên Huế và Hưng Yên, hiện nay có nhiều TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương áp dụng mô hình tạm gọi là mô hình CCHCTP „một cửa” hoặc mô hình Tổ HCTP.
Đặc điểm chung nhất của mô hình này có thể khái quát là:
Tổ HCTP được thành lập trực thuộc Văn phòng TAND tỉnh, gồm 01 Thẩm phán làm tổ trưởng và các thư ký. Tổ HCTP giúp việc cho Chánh án trong việc tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn khiếu nại và thụ lý các loại án thuộc thẩm quyền; tham mưu lập danh sách các loại vụ án trình Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết. Hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín (một cửa), người dân, cơ quan, tổ chức đến liên hệ công tác qua Tổ Hành chính tư pháp sẽ có cán bộ hướng dẫn mọi thủ tục liên quan đến hoạt động của Tòa án.
Tổ HCTP trực tiếp nhận đơn khởi kiện qua công tác tiếp dân hoặc từ cán bộ văn thư, vào sổ nhận đơn, cấp giấy báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trong thời hạn luật định, Tổ HCTP sẽ ra thông báo thụ lý đơn nếu hồ sơ đầy đủ, chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác, trả lại đơn khởi kiện hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành phân loại đơn khiếu nại, tố cáo, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị nào sẽ chuyển trực tiếp đơn vị đó; tiếp nhận vào sổ thụ lý hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị do Tòa án cấp huyện chuyển (trường hợp chưa đủ điều kiện thì trực tiếp trả lại hoặc trình Chánh án ký trả lại hồ sơ để Tòa án cấp huyện hoàn thiện thủ tục); đối với công tác tiếp dân, Tổ HCTP trực tiếp thực hiện.
Tổ HCTP xây dựng bảng thống kê theo dõi để tham mưu cho Chánh án về việc phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc. Sau khi Chánh án phân công và ký vào danh sách phân công án, Tổ HCTP sẽ chuyển hồ sơ vụ án đến Thẩm phán được phân công giải quyết. Hoạt động lên lịch xét xử sẽ do Phó Chánh án phụ trách từng bộ phận chỉ đạo và tổng hợp lên lịch xét xử trên cơ sở đề xuất của các Thẩm phán.
Việc phân công giải quyết án tại một số đơn vị được tiến hành một cách
31
ngẫu nhiên theo hình thức quay vòng dựa trên số thụ lý vụ án và số thứ tự của các Thẩm phán được xếp theo vần (a,b,c…), có tính đến số lượng án hiện đang giải quyết của từng Thẩm phán. Đối với các vụ án phức tạp, án trọng điểm, án đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các vụ án đã bị Tòa án cấp trên hủy, sửa giao xét xử lại, được xếp loại phân bổ theo các yếu tố: tính chuyên sâu, khối lượng án đang giải quyết, năng lực, điều kiện pháp lý (thuộc trường hợp phải từ chối hoặc đã tiến hành tố tụng)... để Chánh án quyết định. Trong đó, đối với các vụ án bị Tòa án cấp trên hủy án và giao xét xử lại thì Tổ HCTP có bản đề xuất phân công kèm theo Bản báo cáo những người đã tiến hành tố tụng trong vụ án này để Chánh án xem xét quyết định.
Với quy trình phân công giải quyết các vụ án như trên cho thấy, việc phân công các Thẩm phán giải quyết án bảo đảm được tính khách quan và ngẫu nhiên vì đã tách bạch hai quá trình thụ lý vụ án và giải quyết vụ án thành hai giai đoạn độc lập. Công tác thụ lý vụ án do Tổ HCTP thực hiện theo quy trình tương đối độc lập với các Tòa chuyên trách. Hoạt động lên lịch xét xử tập trung theo khối đã tránh được tình trạng trùng lịch, nên các Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ động được kế hoạch công tác trong tháng. Hệ thống theo dõi, quản lý án trên phần mềm kết hợp với việc theo dõi qua hệ thống sổ sách theo cơ chế một cửa luôn đảm bảo chặt chẽ, tránh tình trạng mất cân đối, không đồng đều, vi phạm tố tụng do trùng lặp người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
1.4.2 Kinh nghiệm từ kết quả thực hiện mô hình cải cách thủ tục hành
chính tư pháp ở một số nước trên thế giới
Nhằm tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh, kinh nghiệm về CCTP của một số nước trên thế giới dưới đây sẽ là nguồn thông tin tham khảo quý báu cho Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện CCTP nói chung và CCTTHCTP trong hoạt động của Tòa án nói riêng.
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp quốc gia, có vị trí độc lập với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức khác. Hệ thống cơ quan cảnh sát và công tố quốc gia do Bộ Tư pháp quản lý. Trước năm 1999, việc quản lý các Tòa án về tổ chức thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Từ năm 1999 đến nay, việc quản lý các Tòa án do Cơ quan quản lý Tòa án quốc gia đảm nhiệm. Cơ quan này do Chính phủ thành lập. Cơ quan quản lý Tòa án quốc gia là cơ quan độc lập có nhiệm vụ quản lý hành chính và bảo đảm cơ sở
32
vật chất, kinh phí hoạt động, tuyển dụng nguồn nhân lực cho Tòa án các cấp. Kinh phí hoạt động của các Tòa án nằm trong Tổng ngân sách quốc gia do Quốc hội thông qua. Cơ quan quản lý Tòa án quốc gia phân bổ kinh phí hoạt đông cho từng Tòa án dựa trên các điều kiện thực tế của từng đơn vị như số lượng Thẩm phán, số lượng nhân viên Tòa án, số lượng các vụ án và các chi phí cần thiết khác.
Ở Thụy Điển, việc quản lý các Tòa án cũng được thực hiện giống như ở Đan Mạch. Cơ quan quản lý Tòa án chịu trách nhiệm bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động và nguồn nhân lực cho Tòa án các cấp nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử của các Tòa án.
Các cơ quan công tố, cơ quan điều tra và phòng, chống tội phạm (gồm cơ quan cảnh sát quốc gia, cơ quan phòng, chống tội phạm kinh tế) và cơ quan bồi thường cho người bị hại, cơ quan trợ giúp pháp lý, cơ quan cải tạo và nhà tù, bộ phận quản lý di cư - nhập cư Thụy Điển… cũng được coi là những hợp phần của hệ thống tư pháp, thuộc sự quản lý chung của Bộ Tư pháp. Cải cách tư pháp chủ yếu tập trung vào Cơ quan điều tra, công tố. Về tổ chức, đơn vị điều tra trinh sát tách biệt và độc lập với đơn vị điều tra theo tố tụng. Cơ quan công tố Thụy Điển được giao thẩm quyền xử lý những vụ việc phạm tội đơn giản để san sẻ bớt công việc cho Tòa án, đồng thời giải quyết vụ việc theo hướng có lợi cho đương sự. Việc phạm tội đơn giản có mức hình phạt là phạt tiền hoặc tù treo dưới 2 năm thì công tố viên có thể quyết định áp dụng hình phạt ngay mà không cần truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Nếu người phạm tội thừa nhận hành vi phạm tội và đồng ý để công tố viên ra quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt của công tố viên có giá trị pháp lý như bản án của Tòa án, người phạm tội bị công tố viên xử phạt vẫn bị coi là đã can án.
Ở Braxin, cải cách tư pháp được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Hội đồng tư pháp quốc gia. Hội đồng này có nhiệm vụ xúc tiến, điều phối và tổng hợp các đề xuất liên quan đến cải cách tư pháp; có vai trò là cơ quan liên kết giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Bộ Công cộng, chính quyền các bang, các tổ chức dân sự và các tổ chức quốc tế. Giúp việc cho Hội đồng tư pháp là Vụ cải cách tư pháp có nhiệm vụ đề xuất và phổ biến các kế hoạch, chương trình hành động; đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về tư pháp, tăng cường sự liên kết, thực hiện các giải pháp trong việc quản lý, điều hành các công việc của nhánh tư pháp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp, bảo đảm các quyền và lợi ích của người dân.
33
Việc thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia và Vụ CCTP nhằm ưu tiên, hoàn thiện cơ chế hoạt động của nhánh quyền lực tư pháp, để các cơ quan này hoạt động nhanh chóng, có hiệu quả, gần gũi với người dân. Hoạt động của Hội đồng tư pháp quốc gia và Vụ CCTP được đồng bộ hóa với Chương trình An ninh quốc gia với mong muốn đưa hàng triệu người Braxin tiếp cận với hệ thống tư pháp. Quá trình CCTP của Braxin rất quan tâm đến việc công khai, minh bạch hoạt động của Tòa án và việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải đáp thắc mắc của người dân. Tòa án tối cao có một hãng truyền hình riêng, quy mô khá lớn và hiện đại, phát sóng thường xuyên, hàng ngày về hoạt động xét xử. Đây là mô hình có nhiều điểm tiến bộ cần được tiếp tục nghiên cứu kỹ để tham khảo trong quá trình CCTP ở Việt Nam thời gian tới.
Ở Cộng hòa Pháp, Tòa án được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Có hai hệ thống tòa án: (1) Tòa án tư pháp (xét xử các vụ hình sự và dân sự) được tổ chức theo cấp xét xử gồm: Tòa giản lược, Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm, Tòa đại hình và Tòa án tối cao có thẩm quyền phá án; (2) Tòa hành chính giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân với Nhà nước, chính quyền địa phương hoặc một tổ chức, cá nhân được ủy quyền thực hiện dịch vụ công, Tòa hành chính hoạt động dưới sự giám sát của Tham chính viện và gắn với hoạt động hành pháp. Tòa án sơ thẩm của Cộng hòa Pháp trước đây tuy hoạt động độc lập nhưng được tổ chức theo đơn vị hành chính. Việc tổ chức lại hệ thống Tòa án được bắt đầu từ việc bố trí lại các tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng và tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp; giải thể, sáp nhập các tòa có ít vụ việc, ít thẩm phán. Việc giảm đầu mối đã tiết kiệm được chi phí do không còn duy trì các Tòa án nhỏ, tập trung đội ngũ thẩm phán và công chức, tạo điều kiện thuận lợi để chuyên môn hóa cho Thẩm phán, giúp họ có cơ hội cọ sát thực tiễn, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao chất lượng giải quyết án. Việc đầu tư trang thiết bị hiện đại hóa hệ thống tòa án có nhiều thuận lợi…
Việc đào tạo thẩm phán và công tố viên do Trường đào tạo thẩm phán quốc gia Cộng hòa Pháp thực hiện. Trường là một cơ sở công lập, tài chính độc lập, do Bộ Tư pháp quản lý.
Như vậy, có thể thấy ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có chế độ chính trị đa đảng, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập, tư pháp được coi là một nhánh quyền lực độc lập của Nhà nước, là biểu tượng công lý, không bị phụ thuộc hoặc bị chi phối bởi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Các đảng cầm quyền và Nhà nước đều sử dụng hệ thống
34
tư pháp như là một công cụ để xây dựng, duy trì và bảo vệ nền tảng công lý do Đảng cầm quyền và Nhà nước đó đặt ra. Các Đảng cầm quyền và Nhà nước muốn tranh thủ được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, các nhóm lợi ích trong xã hội đều phải đưa vấn đề tự do, bình đẳng của công dân và việc tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho người dân vào Cương lĩnh chính trị và các chương trình hoạch định chính sách của mình. Đồng thời, tác động vào các cơ quan nhà nước để các cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở Cương lĩnh, chính sách của mình để tiến hành các hoạt động cải cách tư pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận công lý của người dân và khả năng bảo vệ công lý của các cơ quan tư pháp. Kết quả của CCTP sẽ tác động trở lại, góp phần làm tăng uy tín của Đảng cầm quyền, tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là một bài học rất quan trọng cần được quan tâm nghiên cứu để có những đề xuất, kiến nghị phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
1.4.3 Tiếp thu kinh nghiệm thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư
pháp ở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Từ thực tiễn CCTP ở các quốc gia trên cho thấy, hoạt động CCTP ở các nước đều xuất phát từ những yêu cầu khách quan của xã hội và những đòi hỏi bức xúc của người dân về sự cần thiết phải khắc phục những vấn đề bất cập, những khó khăn vướng mắc trong hoạt động tư pháp, tăng cường khả năng tiếp cận công lý của người dân; bảo vệ quyền con người và sự thượng tôn pháp luật. Để đạt được mục tiêu trên, CCTP phải bám sát và đạt được yêu cầu cơ bản là: xây dựng nền tư pháp độc lập, có hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn thiện, minh bạch, Thẩm phán có uy tín, công tố giàu kinh nghiệm, điều tra viên khách quan và luật sư có đạo đức. Mọi hoạt động tư pháp phải được tiến hành công khai, minh bạch, có trách nhiệm cao của Tòa án, cơ quan công tố, cơ quan điều tra và toàn bộ các cơ quan, tổ chức có liên quan. Việc thực hiện CCTP phải theo một chương trình kế hoạch hợp lý, khoa học, do một cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước chỉ đạo, điều phối chung và phải có quyết tâm chính trị cao trong việc tổ chức thực hiện. Việc cải cách cũng được tiến hành toàn diện trên các lĩnh vực: Xây dựng hoàn thiện chính sách pháp luật; đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ và việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động tư pháp.
Ở Việt Nam, việc thực hiện CCTP nói chung và CCTTHCTP nói riêng cũng cần bám sát mục tiêu xây dựng cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; đồng thời, áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm các điều
35
kiện thuận lợi để người dân và các tổ chức xã hội tham gia giám sát tư pháp. Việc công khai xét xử và công khai các bản án đã có hiệu lực pháp luật trên cổng thông tin điện tử của Tòa án cần được đẩy mạnh, pháp điển hóa các bản án, tiệp tục hoàn thiện án lệ. Điều này giúp cho cơ quan giám sát Tòa án và người dân có thể giám sát hoạt động xét xử của Tòa án qua so sánh việc xét xử của các Thẩm phán trong các vụ án tương tự. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án, một mặt nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND các cấp, mặt khác giúp cho việc giám sát từ “bên trong” lẫn “bên ngoài” được dễ dàng và hiệu quả hơn.
Việc xây dựng mô hình Tổ HCTP trong CCTTHCTP hiện nay tại Tòa án là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với xu thế “Chuyên môn hóa cao kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại”; nâng cao trách nhiệm chấp hành pháp luật, tăng cường tính minh bạch, công khai trong công tác giải quyết án của Tòa án đồng thời bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và tiếp cận công lý của người dân.
Thứ nhất, về phía người dân và các cá nhân, tổ chức có liên quan:
- Đảm bảo thuận lợi cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi có nhu cầu đến Tòa án làm việc hoặc liên hệ công tác chỉ liên hệ với Tổ HCTP, không phải đi lại nhiều lần, đến nhiều bộ phận để liên hệ giải quyết công việc của mình. Việc phối hợp giải quyết công việc giữa các bộ phận trong đơn vị được phối hợp chặt chẽ, thống nhất. Các thủ tục, quy trình trong hoạt động của Tòa án được công khai minh bạch hóa, qua đó đã giảm phiền hà cho người dân, cơ quan, tổ chức khi có yêu cầu giải quyết công việc tại Tòa án, ngăn chặn tệ nạn nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong hoạt động HCTP của Tòa án.
- Các đương sự khi có vướng mắc được giải thích pháp luật, được hướng dẫn các thủ tục, điều kiện khởi kiện, bổ sung tài liệu giấy tờ cần thiết mà không phải tự mình tìm hiểu như trước, qua đó số lượt người phải đến liên hệ nhiều lần để giải quyết một vụ việc giảm hơn trước, khắc phục được tình trạng nộp đơn tràn lan, không có căn cứ; số lượng thông báo bổ sung đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ giảm; các trường hợp khiếu nại về thái độ, hành vi, cách ứng xử của cán bộ, công chức Tòa án cũng giảm rõ rệt. Với việc giải đáp và hướng dẫn trực tiếp cho người dân của Tổ HCTP đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần phổ biến, tuyên truyền pháp luật đến tận người dân, đồng thời từng bước thay đổi tích cực về nhận thức của họ trong việc chấp hành pháp luật khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Thứ hai, về phía Tòa án:
36
- Hoạt động tiếp dân, tiếp nhận và thụ lý đơn khởi kiện được tập trung vào một đầu mối chuyên trách nên hạn chế tình trạng thụ lý án khi chưa đủ điều kiện, thụ lý tràn lan. Giúp cho việc kiểm tra, thống kê án kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời gian. Các hoạt động tố tụng như tống đạt, gửi giấy báo, thông báo, ghi lời khai, tiến hành hòa giải và các hoạt động của Tổ HCTP được sắp xếp, bố trí làm việc tập trung tại một khu vực, đảm bảo vừa thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động tố tụng, vừa phục vụ tốt nhất yêu cầu của các cơ quan, tổ chức và công dân.
- Giúp lãnh đạo TAND các cấp quản lý hiệu quả công tác giải quyết, xét xử các loại án và công tác quản lý nghiệp vụ. Qua đó, Chánh án nắm rõ được tiến độ và chất lượng giải quyết án của từng Thẩm phán để phân công công tác hợp lý, đồng thời thuận lợi trong chỉ đạo, điều hành công việc của đơn vị. Mặt khác, do có sự tách bạch các thủ tục HCTP với công tác xét xử nên các tòa chuyên trách, Thẩm phán không phải thực hiện các thủ tục tiền tố tụng (thủ tục hành chính) mà chỉ tập trung vào công tác chuyên môn, khắc phục được tình trạng để các vụ án quá hạn luật định, nâng cao chất lượng giải quyết các loại án.
- Việc thiết lập cơ chế HCTP “một cửa” là điều kiện để cán bộ công chức tạo cho mình một phong cách làm việc thân thiện, gần gũi, cầu thị, tăng thêm sự tin tưởng của người dân, tổ chức đối với hệ thống cơ quan Tòa án, góp phần phòng chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ công dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
Tóm lại, CCTTHCTP được thực hiện trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng mà cụ thể nhất là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra là: “…đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn”. Từ đó, TANDTC đã từng bước định hướng và thí điểm mô hình CCTTHCTP tại một số TAND địa phương trên cơ sở tiếp thu, chọn lọc kinh nghiệm một số nước, qua tổng kết rút kinh nghiệm đã mở rộng đến TAND các cấp và TAND tỉnh Kiên Giang đã thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất cho người dân, tổ chức tiếp cận Tòa án, đảm bảo công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án các cấp tại Việt Nam.
37
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
2.1 Tổng quan tình hình thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang trƣớc cải cách
Kiên Giang có tổng diện tích: 6.346,27km2, nằm ở phía tây nam của Việt Nam, thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh có địa điểm thuận lợi kết nối với các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia và Thái Lan bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không; phía bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 56,8km, phía nam giáp tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu, phía đông và đông nam giáp tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang, phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
Kiên Giang có địa hình đa dạng, bờ biển dài, nhiều sông núi và hải đảo, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo cho tỉnh nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế phong phú, đa dạng như: kinh tế nông - lâm nghiệp, kinh tế biển, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông - thủy sản và du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu. Ngoài ra, với vị thế là cửa ngõ ở phía tây nam thông ra Vịnh Thái Lan, Kiên Giang còn có tiềm năng lớn về kinh tế cửa khẩu, hàng hải và mậu dịch quốc tế.
Tình hình kinh tế khởi sắc cũng là nguyên nhân làm nảy sinh nhiều tranh chấp phức tạp trong cộng đồng dân cư. Số lượng án TAND tỉnh Kiên Giang thụ lý, giải quyết hàng năm đều tăng, nhất là các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính liên quan đến quyền sử dụng đất và tranh chấp hôn nhân - gia đình.
Về cơ cấu tổ chức, TAND tỉnh Kiên Giang có 5 tòa chuyên trách và 3 bộ phận giúp việc. Tổng biên chế của TAND tỉnh là 74 biên chế, trong đó: 14 Thẩm phán, 8 Thẩm tra viên, 37 Thư ký và 15 cán bộ khác. So với biên chế phân bổ TAND tỉnh Kiên Giang còn thiếu 11 biên chế, hiện đang chờ xin chủ trương của TANDTC để thi tuyển công chức nhằm bổ sung kịp thời số biên chế còn thiếu. Ban cán sự Đảng TAND tỉnh Kiên Giang hiện có 04 đồng chí, toàn Đảng bộ có 4 chi bộ với 52 đảng viên. Quá trình hoạt động, thực hiện quy định của Đảng, sự phối hợp giữa Đảng ủy, Chi ủy với chính quyền, Ban cán sự Đảng trong tổ chức và thực hiện nhiệm vụ được giao luôn có sự gắn bó chặt chẽ trên cơ sở thực hiện Quy chế phối hợp giữa Đảng với Chính quyền. Trong thời gian qua, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh đã đặc biệt
38
quan tâm và chỉ đạo thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm CCHC, đặc biệt là công tác đổi mới các TTHCTP với yêu cầu hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận công lý, qua đó nâng cao vị thế của Tòa án, xác định Tòa án là vị trí trung tâm của CCTP và hoạt động xét xử là trọng tâm trong hoạt động tư pháp.
Trước khi thực hiện CCTTHCTP, hồ sơ đầu vào, đơn thư các loại nếu được gửi trực tiếp thì hồ sơ, đơn thư thuộc lĩnh vực nào (hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động) thì giao cho Tòa chuyên trách đó. Trường hợp hồ sơ, đơn thư gửi qua bưu điện thì bộ phận văn phòng TAND tỉnh tiếp nhận, sau đó chuyển cho các Tòa chuyên trách xem xét, hướng dẫn đương sự. Trường hợp đơn khởi kiện cần sửa đổi, bổ sung thì Tòa chuyên trách sẽ yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn, bổ sung chứng cứ, sau đó quyết định thụ lý, hoặc không thụ lý hoặc chuyển vụ, việc theo quy định… Như vậy, quy trình xử lý đơn từ khi tiếp nhận đến khi thụ lý, giải quyết đơn phải qua nhiều công đoạn, mất rất nhiều thời gian, chưa kể đến khâu yêu cầu cung cấp chứng cứ, sửa chữa, bổ sung đơn đương sự phải đi lại nhiều lần, mất nhiều thời gian, công sức của người dân, gây khó khăn, phiền hà cho họ khi đến liện hệ làm việc tại Tòa án. Đối với bộ phận văn phòng tuy được giao tiếp nhận hồ sơ đầu vào, đơn thư các loại, nhưng do cán bộ phụ trách văn phòng phần lớn là cán bộ được đào tạo chuyên ngành khác, không trực tiếp tham gia giải quyết án nên nghiệp vụ chuyên môn không sâu, do đó bộ phận văn phòng chỉ là nơi trung chuyển đơn mà không xử lý được một số đơn thư có tính cấp thiết, cần giải quyết nhanh trong phạm vi thẩm quyền của mình để giảm áp lực công việc cho các Tòa chuyên trách. Bên cạnh đó, việc giao cho Tòa chuyên trách tiếp dân, nhận và thụ lý đơn dễ xảy ra tình trạng không được khách quan trong hoạt động thụ lý vụ án, Chánh án cũng không thể quản lý được công tác thụ lý án của các Tòa chuyên trách. Nhiều trường hợp Tòa chuyên trách phân công một thư ký tiếp nhận, thụ lý đơn khi chưa đủ điều kiện khởi kiện, thụ lý sai, dẫn đến thụ lý tràn lan các vụ án và từ đó xảy ra tình trạng khi phân công án cho Thẩm phán, Thẩm phán thụ lý phải yêu cầu đương sự bổ sung nội dung đơn, yêu cầu cụ thể, chứng cứ, làm cho án tồn đọng quá hạn luật định về thời hạn xét xử, do đương sự chưa thu thập đầy đủ chứng cứ mà vẫn thụ lý. Mặt khác, do không có kế hoạch cụ thể, khoa học trong tiếp nhận, xử lý đơn thư đầu vào, lãnh đạo TAND tỉnh rất khó khăn
39
trong việc quản lý công tác thụ lý, giải quyết, xét xử án của các Tòa chuyên trách.
Trước những khó khăn, bất cập trong công tác nhận và xử lý hồ sơ, đơn thư đầu vào, Chánh án TAND tỉnh cùng tập thể Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh thống nhất tiến hành thực hiện CCTTHC theo cơ chế “một cửa” với tên gọi Tổ Hành chính tư pháp trên cơ sở chuyển đổi một phần nhiệm vụ từ Văn phòng TAND tỉnh. Việc thành lập Tổ HCTP trực thuộc Văn phòng TAND tỉnh Kiên Giang và đưa vào hoạt động được TANDTC thống nhất và cho phép triển khai thực hiện kể từ ngày 03/8/2016.
2.2 Các phƣơng diện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa
án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Căn cứ Quyết định số 06/2016/QĐ-TAT ngày 03/8/2016 của Chánh án TAND tỉnh Kiên Giang về việc thành lập Tổ HCTP và căn cứ Quy chế làm việc của Tổ HCTP thuộc TAND tỉnh Kiên Giang được ban hành kèm theo Quyết định, TAND tỉnh Kiên Giang thành lập Tổ HCTP trực thuộc Văn phòng TAND tỉnh có nhiệm vụ: “Thực hiện việc tiếp nhận, xử lý các đơn khởi kiện, thụ lý vụ án và tham mưu cho lãnh đạo Tòa án tỉnh phân công thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền; tham mưu cho lãnh đạo Tòa án tỉnh và phối hợp với các đơn vị chức năng khác của Tòa án tỉnh trong việc tiếp dân, giải quyết các yêu cầu, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng; Làm đầu mối thực hiện việc rà soát, tra cứu, xác minh và cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo quy định của Luật lý lịch tư pháp.”
Như vậy, sau khi đưa vào hoạt động, Tổ HCTP thuộc Văn phòng
TAND tỉnh Kiên Giang sẽ thực hiện các công việc sau:
- Tiếp công dân hàng ngày và đăng ký lịch tiếp công dân định kỳ của
lãnh đạo;
- Tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện các loại vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính; tiếp nhận các hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến;
- Thụ lý các loại án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm;
- Tham mưu cho Chánh án phân công thẩm phán xét xử, giải quyết các
loại vụ án;
- Tham mưu cho Lãnh đạo giải quyết và xử lý các loại đơn thư, công
văn;
- Thống kê, báo cáo các loại vụ việc thụ lý và theo dõi án quá hạn;
40
- Cấp sao bản án, quyết định; Rà soát, tra cứu, xác minh và cung cấp
thông tin lý lịch tư pháp;
- Cập nhật theo dõi và quản lý các phần mềm dữ liệu, sử dụng công
nghệ thông tin (Quản lý án và Lưu trữ).
Thông qua chức năng, nhiệm vụ của Tổ HCTP và thực tiễn hoạt động của Tổ HCTP thuộc TAND tỉnh Kiên Giang kể từ ngày 01/8/2016 đến nay, có thể nhận thấy sự chuyển biến rõ nét trên các phương diện CCTTHCTP tại Tòa án tỉnh như sau:
2.2.1 Công tác tiếp dân
Trước khi thành lập Tổ HCTP thì công tác tiếp dân được giao cho cán bộ phụ trách tiếp dân và có phân lãnh đạo TAND tỉnh tiếp công dân theo lịch làm việc do Văn phòng TAND tỉnh ban hành. Quy trình xử lý chung như sau: Nếu nội dung phản ánh thuộc phạm vi, trách nhiệm của cá nhân hay Tòa chuyên trách nào thì cán bộ tiếp dân trực tiếp liên hệ với cá nhân, Tòa chuyên trách đó để trả lời cho người dân. Đối với vụ việc phức tạp và không xác định được cá nhân nào có thẩm quyền giải quyết (theo đánh giá chủ quan của cán bộ tiếp dân) thì cán bộ tiếp dân mới liên hệ với lãnh đạo Tòa án xem xét, giải quyết. Điều này sẽ gây khó khăn, phiền hà cho người dân vì phải mất rất nhiều công đoạn người dân mới liên hệ được với người có thẩm quyền giải quyết yêu cầu, phản ánh của mình. Do đó, sau khi Tổ HCTP thành lập, công tác tiếp dân được giao cho bộ phận này trực tiếp giải quyết. Yêu cầu, phản ánh của người dân được thực hiện theo một quy trình khép kín từ khi tiếp nhận yêu cầu cho đến khi yêu cầu được giải quyết, theo đó công tác tiếp dân được thực hiện bài bản hơn trước. Tổ HCTP được giao nhiệm vụ trực tiếp tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức gửi đến có thể qua đường bưu chính hoặc người dân, đại diện tổ chức trực tiếp liên hệ và họ đều có giấy hẹn giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong thời hạn do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định.
Thực hiện CCTTHCTP, TAND tỉnh Kiên Giang đã thành lập Tổ HCTP, là bộ phận trực thuộc Văn phòng hoạt động giúp việc cho Chánh án trong việc tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn trước và sau phiên tòa. Hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín từ khi tiếp nhận yêu cầu cho đến khi kết thúc vụ việc bằng một bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo yêu cầu của người dân được giải quyết sớm nhất và trong thời hạn quy định của pháp luật tố tụng. So với giai đoạn trước, công tác tiếp dân được thực hiện bài bản hơn, có bố trí nơi tiếp dân một cách thuận lợi, tại nơi làm việc của Tổ
41
HCTP có niêm yết lịch tiếp dân và nội quy tiếp công dân. Hàng tuần, Ban lãnh đạo cơ quan có lịch phân công Chánh án, Phó Chánh án trực tiếp tiếp công dân khiếu nại theo đúng quy định tại Điều 76 của Luật Khiếu nại, Tố cáo. Đối với cán bộ tiếp dân luôn thể hiện thái độ lịch sự, lắng nghe và thực hiện theo đúng quy chế tiếp dân, không tạo áp lực cho người dân đến liên hệ làm việc. Việc tiếp công dân có ghi chép sổ sách, theo dõi theo trình tự, thủ tục quy định. Hàng ngày báo cáo tình hình tiếp công dân cho Chánh án nhằm kịp thời giải quyết những yêu cầu bức xúc của người dân, tạo lòng tin của người dân đối với các cơ quan pháp luật nói chung và đối với hệ thống TAND nói riêng.
Việc tiếp công dân của cán bộ Tổ HCTP phải tuân theo quy định của Luật tiếp công dân, Quyết định 1253/2008/QĐ-TANDTC và Quy chế tiếp công dân của TAND tỉnh Kiên Giang. Cán bộ tiếp dân phải có kỹ năng giao tiếp, thái độ lịch sự, lắng nghe, hướng dẫn tận tình chu đáo, đúng quy tắc ứng xử, đeo huy hiệu, bảng tên và mặc trang phục trong giờ làm việc theo đúng quy định của TAND; hướng dẫn trực tiếp các nội dung cần thiết cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khi đến liên hệ Toà án; hướng dẫn thủ tục khởi kiện hoặc thực hiện khiếu nại, tố cáo theo quy định pháp luật; không tiếp công dân ở nhà riêng và ở ngoài nơi quy định tiếp công dân của cơ quan; không tiếp người có nồng độ cồn, bia rượu.
Việc tiếp công dân phải vào sổ ghi chép, theo dõi tiếp công dân, có ban hành nội quy tiếp dân, bố trí nơi tiếp dân tại nơi làm việc của Tổ HCTP, có phòng riêng biệt, đồng thời tại đây có niêm yết lịch tiếp dân và nội quy tiếp công dân. Hàng tuần có phân công lịch cho Chánh án, Phó Chánh án tiếp dân và hàng ngày đều báo cáo tình hình tiếp công dân cho ban lãnh đạo nhằm kịp thời giải quyết những yêu cầu bức xúc của người dân, cũng như xử lý kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình tiếp công dân.
Cụ thể, vụ án tranh chấp hợp đồng dịch vụ đổi thưởng tờ vé số giữa bà Nguyễn Thị Tuyết và đại lý vé số Triều Phát. Vụ án kéo dài gần 6 năm, qua hai cấp xét xử, gây xôn xao dư luận bởi những tình tiết phức tạp của vụ việc. Từ một tranh chấp hợp đồng dân sự, qua tố cáo của bà Tuyết, Cơ quan Điều tra Công an tỉnh Kiên Giang đã từng khởi tố vụ án hình sự để điều tra hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng sau đó vụ án được đình chỉ điều tra do không xác định được hành vi đánh tráo tờ vé số trúng thưởng độc đắc 1,5 tỷ đồng của ông Ngô Xương Phúc, chủ đại lý vé số Triều Phát. Trong thời gian chờ giải quyết tranh chấp, bà Tuyết do tâm lý bức xúc vì không được trả
42
thưởng đã cùng một số đối tượng nhiều lần đến đại lý vé số Triều Phát và TAND thành phố Rạch Giá gây rối. Do hành vi này đã cấu thành tội gây rối trật tự công cộng, ngày 25/12/2013, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sau đó, bà Tuyết bị phạt 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo; Nguyễn Lệ Hằng (con ruột Tuyết) bị phạt 01 năm tù cũng được hưởng án treo; Nguyễn Thị Hận (em ruột bà Tuyết) và Đào Thị Liên bị phạt 07 tháng 06 ngày tù về hành vi gây rối trật tự công cộng. Đến tháng 4/2016, TAND thành phố Rạch Giá tuyên bà Tuyết thắng kiện nhưng bản án bị TAND tỉnh Kiên Giang hủy vào tháng 10/2016. Sau đó, vụ án được TAND thành phố Rạch Giá thụ lý giải quyết lại và trong lần xử này (ngày 31/5/2017), bà Tuyết tiếp tục thắng kiện, theo đó Hội đồng xét xử tuyên buộc đại lý vé số Triều Phát bồi thường cho bà Tuyết số tiền 1,5 tỉ đồng.
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay một số đơn khiếu nại của công dân khiếu nại việc chậm giải quyết của tòa án cấp huyện, mặc dù Tòa án tỉnh đã gửi văn bản đề nghị đơn vị trả lời cho đương sự và báo cáo kết quả giải quyết khiếu nại, nhưng đương sự và Tòa án tỉnh không nhận được kết quả giải quyết khiếu nại, dẫn đến đương sự gửi đơn khiếu nại nhiều lần, bức xúc. Mặt khác, theo quy định của các luật tố tụng, nếu người giải quyết khiếu nại lần đầu không giải quyết khiếu nại trong thời hạn luật định hoặc người khiếu nại không thống nhất với kết quả giải quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền gởi đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai để yêu cầu giải quyết. Để khắc phục hạn chế nêu trên, Tổ hành chính tư pháp Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã đề xuất đối với trường hợp đương sự khiếu nại đến lần thứ hai mà lãnh đạo Tòa án cấp huyện không giải quyết khiếu nại cho cá nhân, tổ chức thì Tổ hành chính tư pháp báo cáo Ban lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh xem xét, chỉ đạo và làm cơ sở xét thi đua cuối năm của đơn vị.
Đối với trường hợp khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nếu việc khiếu nại của đương sự liên quan đến nội dung vụ án, đến hành vi tố tụng của thẩm phán mà chỉ thẩm phán phụ trách hồ sơ mới nắm được nội dung thì đề nghị thẩm phán phụ trách hồ sơ làm văn bản giải trình theo quy định tại khoản 2 Điều 501 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 329 Luật tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 327 Bộ luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở báo cáo giải trình của thẩm phán, Tổ hành chính tư pháp làm văn bản tham mưu cho lãnh đạo để giải quyết khiếu nại. Trường hợp Thẩm phán chậm giải trình thì Tổ hành chính tư pháp đôn đốc và báo cáo Ban lãnh đạo cơ
43
quan để chỉ đạo Thẩm phán sớm có văn bản giải trình, làm cơ sở trả lời đơn khiếu nại cho đương sự, tổ chức.
2.2.2 Công tác nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng
nghị, hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển đến, đơn khiếu nại, tố cáo
Tổ HCTP của TAND tỉnh nhận đơn tổng hợp và xử lý như sau:
- Đối với quy trình nhận, xử lý đơn khởi kiện vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính: Khi nhận được đơn khởi kiện, Thư ký Tổ HCTP tiến hành kiểm tra tư cách người khởi kiện; tư cách người nộp đơn; thẩm quyền; hình thức và nội dung đơn khởi kiện; tài liệu chứng cứ kèm theo đơn... Nếu đủ điều kiện thì thông báo để đương sự nộp tạm ứng án phí và khi đủ thủ tục thì tiến hành thụ lý vụ án. Nếu chưa đủ thủ tục thì Thư ký Tổ HCTP hướng dẫn cho đương sự bổ sung, hoàn thiện. Sau khi hoàn thành thủ tục tố tụng cần thiết cho một vụ kiện, Tổ HCTP sẽ chuyển cho Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền phân công Thẩm phán thuộc các tòa chuyên trách giải quyết án.
- Đối với hồ sơ vụ án hình sự do VKSND chuyển đến, thư ký Tổ Hành chính tư pháp sẽ tiến hành kiểm đếm các bút lục trong hồ sơ và đối chiếu với bản kê bút lục; kiểm tra các thủ tục tố tụng, nếu đã đủ thủ tục thì tiến hành thụ lý ngay trong ngày, nếu chưa đủ thủ tục phải trả lại cho cơ quan chuyển hồ sơ. Khi thụ lý hồ sơ án hình sự, nếu thấy cần thiết phải ra lệnh tạm giam đối với bị cáo thì phải đề xuất cho Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó xử lý ngay.
- Đối với hồ sơ kháng cáo quá hạn, Tổ HCTP nhận hồ sơ kháng cáo quá hạn, nếu đúng thủ tục thì tham mưu Ban lãnh đạo phân công Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán để mở phiên họp xem xét lý do kháng cáo quá hạn của đương sự có hợp lệ hay không?.
- Riêng đối với hồ sơ kháng nghị do VKSND chuyển đến và hồ sơ vụ án hình sự do TAND tỉnh thụ lý, giải quyết sơ thẩm hiện nay vẫn giao cho Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ việc đó nhận và xử lý theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo tính liên tục và hiệu quả xử lý công việc vì Thẩm phán, Thư ký trực tiếp giải quyết vụ án đó là người nắm rõ nội dung vụ việc.
- Đối với đơn khiếu nại: Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ phận nào thì trình Chánh án chuyển đến bộ phận có thẩm quyền đó tham mưu giải quyết. Trường hợp Chánh án bận công tác sẽ ủy quyền cho Phó Chánh án xử lý thay. Do vậy, hoạt động tiếp nhận và xử lý đơn ở Tòa án đảm bảo đúng quy trình, thủ tục tố tụng; hạn chế tối đa tình trạng giải quyết chậm, hay giải quyết quá hạn các đơn được Tòa án tiếp nhận. Toàn bộ quy trình xử lý đơn cũng
44
như trình tự thủ tục tố tụng được công khai, minh bạch bằng các bảng quy định mức án phí, lệ phí, các mẫu đơn dán trước cửa phòng Tổ HCTP; đồng thời trước cửa cơ quan cũng có bảng chỉ dẫn đường cho đương sự đến từng phòng có số phòng và tên công chức cụ thể để người dân tiện liên hệ, qua đó tạo niềm tin, sự đồng tình ủng hộ của người dân đến liên hệ làm việc.
Từ khi thành lập Tổ HCTP, TAND cấp tỉnh luôn có cán bộ trực tiếp dân, tiếp nhận đơn, giải quyết hoặc hướng dẫn ngay yêu cầu của người dân, không phải tốn thời gian, công sức đi lại. Khắc phục được những hạn chế khi giao cho Tòa chuyên trách tiếp công dân như trước đây. Bên cạnh đó, việc giao cho Tổ HCTP xử lý đơn cũng khắc phục được tình trạng thụ lý sai, thụ lý khi chưa đủ điều kiện, thụ lý tràn lan như trước đây, hạn chế được lượng án tồn đọng của Tòa án. Việc Tổ HCTP thụ lý và trình Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết cũng hạn chế được tình trạng vừa thụ lý vừa giải quyết, không được khách quan như trước đây của các Tòa chuyên trách.
Trong 6 tháng đầu năm 2017 (số liệu tính từ ngày 01/10/2016 đến ngày 31/3/2017), TAND hai cấp tỉnh Kiên Giang đã thụ lý 6.849 vụ án các loại, giải quyết 3.585 vụ, đạt tỷ lệ 52,34%, so với cùng kỳ năm ngoái án thụ lý tăng 849 vụ (14,15%), giải quyết nhiều hơn 399 vụ (12,52%), trong đó TAND tỉnh thụ lý 628 vụ, giải quyết 330 vụ, đạt tỷ lệ 52,54%, so cùng kỳ năm ngoái thụ lý tăng 74 vụ, giải quyết nhiều hơn 21 vụ. Bình quân mỗi Thẩm phán TAND tỉnh phải giải quyết 3,93 vụ/tháng, so với cùng kỳ năm ngoái tỷ lệ bình quân mỗi thẩm phán phải giải quyết tăng 1,22 vụ/tháng (14,3%). TAND tỉnh bị hủy 2,5 vụ theo trình tự phúc thẩm, chiếm tỷ lệ 0,76%, so với cùng kỳ án bị hủy không tăng, riêng công tác giám đốc thẩm chưa có vụ án nào bị hủy. Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành tỉnh đã nghiên cứu 1.963 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện chuyển đến, so cùng kỳ năm ngoái kiểm tra tăng 101 bản án, quyết định (tăng 5,42%), đảm bảo 15/15 đơn vị cấp huyện được kiểm tra. Qua công tác kết quả kiểm tra đã phát hiện một số sai sót về thủ tục tố tụng nhưng không có vi phạm nghiêm trọng. Ủy ban Thẩm phán đã kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo TAND tỉnh giải đáp, tháo gỡ 28 trường hợp án khó, án phức tạp của TAND hai cấp nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật.
Về công tác thi hành án hình sự, trong 6 tháng đầu năm 2017 TAND tỉnh đã ban hành 857 quyết định thi hành án đối với 857 bị án (tù có thời hạn và cho hưởng án treo), đạt tỷ lệ 100%. Toàn tỉnh hiện còn 71 trường hợp được hoãn thi hành án, 08 trường hợp được tạm đình chỉ thi hành án và13 trường
45
hợp bỏ trốn đã có lệnh truy nã. Sáu tháng đầu năm 2017, TAND tỉnh Kiên Giang không tổ chức thi hành án tử hình bị án nào, hiện còn 02 bị án bị kết án tử hình đang chờ thi hành án. Năm 2016, lần đầu tiên, công tác xét Đặc xá được giao cho phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án tham mưu, từ kế hoạch thực hiện đến quy trình xét và lập hồ sơ xét đề nghị đặc xá đều được đảm bảo yếu tố mật, chính xác và nhanh chóng, kết quả 12/13 hồ sơ đề nghị xét đặc xá được Hội đồng xét đặc xá chấp nhận. Việc ra quyết định thi hành án hình sự và ủy thác thi hành án hình sự được thực hiện đúng theo quy định của BLTTHS và Luật Thi hành án hình sự.
2.2.3 Công tác phân công giải quyết vụ án
Sau khi vụ án được thụ lý, Tổ HCTP căn cứ vào số thụ lý của hồ sơ vụ án và lượng án phân công cho từng Thẩm phán để phối hợp với các Tòa chuyên trách tham mưu, đề xuất với Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền phân công giải quyết án ra Quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc. Việc phân công án cho Thẩm phán trên cơ sở vụ, việc, chứ không xem xét nội dung, hồ sơ vụ án và bảo đảm nguyên tắc vô tư, ngẫu nhiên. Đối với các vụ án đã bị Tòa án cấp trên hủy giao xét xử lại thì Tổ HCTP phải có bản báo cáo những người đã tiến hành tố tụng trong vụ án này để Chánh án xem xét quyết định phân công Thẩm phán khác giải quyết. Sau khi có quyết định của Chánh án về phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thì Tổ HCTP chuyển ngay hồ sơ cho Thẩm phán và vào sổ theo dõi.
2.2.4 Công tác cấp, trích lục, sao y, giao, gửi bản án, quyết định của
Tòa án
Hiện nay tại TAND tỉnh Kiên Giang, việc tống đạt các văn bản tố tụng và cấp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án vẫn do Thẩm phán, Thư ký được phân công giải quyết vụ án đó tống đạt cho đương sự theo thời hạn pháp luật tố tụng quy định. Đối với hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị thì Thẩm phán ra thông báo kháng cáo, kháng nghị và trực tiếp giao thư ký chuyển hồ sơ kháng cáo, kháng nghị theo quy định.
Đối với hồ sơ án có hiệu lực pháp luật đã chuyển cho Tổ HCTP lưu giữ thì việc cấp, trích lục, sao y bản án, quyết định của Tòa án được giao cho Tổ HCTP thực hiện và các yêu cầu này luôn được giải quyết trong ngày; công tác phát hành bản án đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; trước đây theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự phải được Tòa án cấp giấy chứng nhận, các luật sư luôn được tạo điều kiện khi làm thủ
46
tục cấp giấy chứng nhận và nghiên cứu hồ sơ, tham gia phiên tòa, nhưng thực tế vẫn gây phiền hà, mặc cảm cho Luật sư, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Nay theo quy định của BLTTDS năm 2015, Luật TTHC năm 2015, thì người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự không còn phải xin và được Tòa án cấp giấy chứng nhận như trước đây, mà thay vào đó bằng hình thức ghi vào sổ đăng ký của các Tòa chuyên trách và xác nhận vào đơn yêu cầu người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của dương sự do Thẩm phán thụ lý vụ việc xác nhận.
2.2.5 Công tác quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra và án tồn
Hiện nay, TAND tỉnh Kiên Giang đang triển khai số hóa và thực hiện việc quản lý, lưu trữ hồ sơ các vụ án cũng như trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án vào các phần mềm quản lý của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, công việc này vẫn đang trong quá trình thực hiện, chưa cập nhật đầy đủ và còn gián đoạn thời gian. Hiện nay, vẫn còn phải tiếp tục tập huấn phần mềm quản lý án bằng hình thức trực tuyến giữa Tòa án các cấp.
Đối với hồ sơ lưu trữ hiện nay, một quy trình chung được thực hiện là: Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị thì sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Thẩm phán phân công Thư ký bàn giao hồ sơ cho Tổ HCTP để lưu trữ theo quy định. Đối với hồ sơ án phúc thẩm, chậm nhất 30 ngày kể từ ngày xét xử phúc thẩm, Thẩm phán phải bàn giao hồ sơ cho Tổ HCTP lưu trữ theo quy định. Nếu kết quả xét xử phúc thẩm huỷ án để điều tra bổ sung hoặc xét xử lại thì theo phân công của Thẩm phán giải quyết vụ án, Thư ký giao hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền và báo kết quả cho Tổ HCTP biết để vào sổ theo dõi.
Như vậy, Tổ HCTP thuộc TAND tỉnh Kiên Giang giúp việc cho Chánh án trong việc tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn khiếu nại và thụ lý các loại án thuộc thẩm quyền; tham mưu lập danh sách các loại vụ án trình lãnh đạo phân công Thẩm phán giải quyết. Hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín (một cửa), người dân, cơ quan, tổ chức đến liên hệ công tác qua Tổ HCTP sẽ có cán bộ hướng dẫn mọi thủ tục liên quan đến hoạt động của Tòa án.
2.3 Đánh giá kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp
tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
2.3.1 Những kết quả đạt được
Kết quả thực hiện CCTTHCTP trong hoạt động của TAND tỉnh Kiên Giang thời gian qua đã giúp cho Lãnh đạo đơn vị phát huy vai trò lãnh đạo
47
trên tất cả các mặt công tác, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ công chức TAND tỉnh. TAND tỉnh đã chỉ đạo các chi bộ trực thuộc, tăng cường lãnh đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW; phân công các đồng chí lãnh đạo Tòa chuyên trách trực tiếp nắm bắt tình hình giải quyết từng loại án, thống kê số lượng giải quyết án; giao nhiệm vụ cho phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án nắm số liệu án hủy, sửa từng tháng, quý và tổng hợp báo cáo Lãnh đạo, qua đó đánh giá nguyên nhân và rút kinh nghiệm đối với án hủy, sửa, án khó và phức tạp. Đồng thời, Lãnh đạo TAND tỉnh trực tiếp dự các phiên tòa điểm của các thẩm phán để đánh giá chất lượng xét xử và rút kinh nghiệm chung trong công tác xét xử của toàn đơn vị, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu thi đua hàng năm.
Qua so sánh tình hình thụ lý giải quyết các loại án, biên chế Thẩm phán hiện có và chất lượng xét xử các loại án từ năm 2012 đến năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, thể hiện qua các bảng sau đây:
BIÊN CHẾ
ÁN
ÁN
ÁN HỦY
ÁN SỬA
THẨM
NĂM
THỤ LÝ
GIẢI QUYẾT
PHÁN
2012
BẢNG 1: Tình hình giải quyết án từ năm 2012 – 2017 ( Theo các báo cáo tổng kết năm 2012 – 2016 và báo cáo 06 tháng đầu năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang )
827
03
11
17
897
2013
881
02
11
20
947
2014
946
06
06
20
972
2015
896
06
0
20
914
2016
902
08
02
20
934
6 THÁNG
ĐẦU
330
2,5
0
14
628
NĂM 2017
48
NĂM
TỶ LỆ ÁN GIẢI QUYẾT (%)
TỶ LỆ ÁN HỦY (%)
TỶ LỆ ÁN SỬA (%)
BẢNG 2: Chất lượng giải quyết án từ năm 2012-2017 ( Theo các báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và báo cáo 06 tháng đầu năm 2017 )
92,19 93,03 97,32 98,00 96,57
0,36 0,22 0,63 0,67 0,88
1,33 1,24 0,63 0 0,22
BÌNH QUÂN THẨM PHÁN GIẢI QUYẾT (Vụ/tháng/ người) 4,05 3,67 3,94 3,73 3,76
52,54
0,76
0
3,93
2012 2013 2014 2015 2016 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017
Có thể thấy, từ khi thực hiện CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, qua kết quả giải quyết án 6 tháng đầu năm 2017 của TAND tỉnh Kiên Giang cho thấy chất lượng công tác xét xử từng bước được nâng lên, đã khắc phục triệt để tình trạng xử oan sai, tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Tính dân chủ trong hoạt động xét xử được bảo đảm, công tác xét xử thực sự đã góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ công lý, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của TAND tỉnh Kiên Giang. Những kết quả đạt được thể hiện ở những mặt sau:
Một là, về công tác tiếp dân, TAND tỉnh đã tổ chức thực hiện nghiêm nội
quy tiếp dân, giải quyết kịp thời đơn, thư liên quan đến hoạt động xét xử.
Kể từ sau khi triển khai thực hiện CCTTHCTP, TAND hai cấp tỉnh Kiên Giang đã tiếp nhận 100 đơn khiếu nại, trong đó 36 đơn thuộc thẩm quyền, đã giải quyết xong 34 đơn. So với cùng kỳ năm ngoái giảm 12 đơn. Riêng 6 tháng đầu năm 2017, TAND tỉnh Kiên Giang chưa nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo nào. Tại TAND tỉnh có bố trí phòng tiếp công dân và cử cán bộ tiếp công dân thường xuyên, trong đó thành viên Ban Lãnh đạo TAND tỉnh trực tiếp tiếp công dân mỗi tuần 01 lần tại phòng tiếp công dân, tất cả các khiếu nại, kiến nghị của công dân đều được giải quyết dứt điểm, không để tồn đọng, gây bức xúc cho nhân dân.
Hai là, những kết quả thực hiện CCTTHCTP được nhận diện thông qua các kết quả đạt được trong việc nâng cao chất lượng và hoạt động của công tác xét xử, giải quyết các loại vụ việc của Tòa án.
49
Công tác xét xử án đã mang lại hiệu quả thiết thực, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, không xử oan sai người không có tội, không bỏ lọt tội phạm, giải quyết án dân hành chính, kinh doanh thương mại đúng pháp luật, phát huy vai trò tranh tụng của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của đương sự, phối hợp kịp thời với các tổ chức bổ trợ tư pháp, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của cá nhân, tổ chức, được dư luận đánh giá tích cực, được người dân đồng tình.
Ba là, việc thành lập Tổ HCTP trực thuộc Văn phòng TAND tỉnh Kiên Giang với chức năng thực hiện các thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án không vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, đồng thời phù hợp với xu thế “chuyên môn hóa cao kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong các hoạt động tại Tòa án”.
Việc triển khai ứng dụng Công nghệ thông tin tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang từng bước đồng bộ hóa và triển khai đến hệ thống Tòa án nhân dân cấp huyện. Công tác quản lý, điều hành hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp được thực hiện bằng phương pháp trực tuyến, đảm bảo tiết kiệm thời gian, con người và chi phí dự hội nghị. Đáp ứng yêu cầu kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin về lĩnh vực hoạt động của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp, hỗ trợ hoạt động tác nghiệp cho mỗi cán bộ công chức nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công tác xét xử và quản lý điều hành nhằm từng bước xây dựng Tòa án điện tử”.
Về phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, TAND tỉnh Kiên Giang đã có các phần mềm dùng chung của TAND phục vụ cho công tác quản lý, giám sát và thống kê, đồng thời phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, Sở Thông tin và truyền thông tỉnh để kết nối camera từ phòng xét xử đến phòng làm việc của Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện Kiểm sát, đồng thời đang xin kinh phí Tòa án nhân dân tối cao để mở Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang để công bố bản án, chia sẻ thông tin, phổ biến kiến thức pháp luật,…. Tin học hóa các hoạt động hành chính quản lý nhà nước của Tòa án nhân dân tỉnh. Đẩy mạnh việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác chung của Tòa án nhân dân tỉnh theo kịp các cơ quan, ban, ngành khác trong tỉnh.
Công tác thụ lý vụ án hiện nay do Tổ HCTP thực hiện theo quy trình tương đối độc lập với các Tòa chuyên trách; hệ thống theo dõi, quản lý án trên phần mềm vi tính kết hợp với việc theo dõi qua hệ thống sổ sách theo cơ chế “một cửa” luôn đảm bảo việc quản lý tài liệu, hồ sơ án chặt chẽ. Từ công tác
50
tổ chức sắp xếp, công tác tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị... cho đến việc phân công giải quyết các loại vụ việc, thống kê tổng hợp, quản lý số lượng, tình hình thụ lý, giải quyết các loại vụ việc đã được tập trung vào một đầu mối do Tổ HCTP đảm trách, đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo tính khoa học, hiệu quả trong bố trí công việc, tiếp nhận, xử lý đơn, hồ sơ, lưu trữ, cấp phát bản án, quyết định cho các cơ quan tố tụng và đương sự. Khi có nhu cầu thông tin, tổng hợp, người dân chỉ cần liên hệ với bộ phận nghiệp vụ của Tổ HCTP là được giải đáp và có kết quả trả lời. Các loại biểu mẫu, trình tự, thủ tục đều được công khai, hướng dẫn trực tiếp cho người dân khi đến làm việc tại Tòa án, nhờ đó số lượt người phải đến liên hệ nhiều lần để giải quyết một vụ việc giảm hơn trước, khắc phục việc nộp đơn tràn lan, không có căn cứ, đồng thời tránh được tình trạng công chức lợi dụng để nhũng nhiễu người dân khi họ thực hiện các quyền được pháp luật quy định trước Tòa án.
Bốn là, việc cấp, trích lục, sao y bản án, quyết định của Tòa án cho
người dân được tiến hành nhanh chóng, kịp thời.
Đối với những trường hợp có đầy đủ thông tin thì kết quả theo yêu cầu sẽ được đáp ứng trong thời gian từ 15 đến 30 phút. Điều này khắc phục được tình trạng mất thời gian nhiều như trước đây khi phải trải qua nhiều giai đoạn từ tiếp nhận đơn, chuyển Thẩm phán xét xử có ý kiến, chuyển lưu trữ tìm bản gốc cho Thẩm phán sao y rồi mới cấp cho đương sự.
Năm là, qua công tác tiếp dân, TAND tỉnh đã làm tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật, không để xảy ra trường hợp khiếu nại kéo dài bức xúc.
Việc thiết lập cơ chế hành chính tư pháp “một cửa” cũng là điều kiện để cán bộ, công chức tạo cho mình một phong cách làm việc thân thiện, gân gũi, cầu thị, tăng thêm sự tin tưởng của người dân đối với hệ thống Tòa án. Trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, cán bộ, công chức Tòa án khi làm việc với người dân đều có thái độ đúng mực, chu đáo, tận tình hướng dẫn người dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Kể từ khi Tổ HCTP đi vào hoạt động đến nay chưa có đơn thư phản ánh về phong cách làm việc, thời gian chờ đợi của công dân đối với cán bộ của Tổ HCTP. Công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành các hoạt động của Tòa án cũng được tập trung và nhanh gọn, giải quyết kịp thời các công việc cần thiết, góp phần nâng cao trách nhiệm chấp hành pháp luật, tăng cường tính minh bạch, công khai
51
trong công tác giải quyết án của Tòa án, đồng thời bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và tiếp cận công lý của người dân.
2.3.2 Những hạn chế, bất cập từ thực tiễn triển khai thực hiện cải cách
thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Việc triển khai thực hiện mô hình CCTTHCTP “một cửa” tại TAND tỉnh Kiên Giang đã góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Tòa án được giao, đáp ứng được yêu cầu về thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, tăng cường tính minh bạch, công khai trong các hoạt động của Tòa án, bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và tiếp cận công lý của người dân. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện mô hình Tổ HCTP của TAND tỉnh còn tồn tại một số mặt hạn chế, bất cập cần được nhìn nhận và khắc phục, sửa chữa.
Một là, công tác tiếp dân còn một số vấn đề chưa được chuẩn bị và tiến
hành thật chất lượng.
Mặc dù 6 tháng đầu năm 2017, TAND tỉnh Kiên Giang chưa nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo nào, nhưng qua diễn biến thực tế và qua tiếp nhận thông tin phản ánh từ các phương tiện thông tin đại chúng thì một số phần tử cực đoan đã lợi dụng ảnh hưởng của dư luận xã hội hô hào, cổ súy, kích động người dân, đương sự tụ tập, gây rối, cản trở hoạt động giao thông, gây mất trật tự, an toàn xã hội, do đó, công tác tiếp dân còn tồn tại những hạn chế, đó là: chưa gắn nhiệm vụ tiếp dân với việc giải quyết các kiến nghị, thắc mắc của công dân; chưa chủ động nắm bắt thông tin, lắng nghe ý kiến của người dân trong quá trình giải quyết án; phương pháp tiếp công dân, giải thích pháp luật chưa thuyết phục khiến người dân bức xúc, dễ bị kích động, các mâu thuẫn trở nên gay gắt, làm phức tạp tình hình, từ đó làm chậm tiến độ giải quyết án.
Hai là, công tác nhận và xử lý đơn khởi kiện chưa được thực hiện thống
nhất theo quy định chung tại BLTTDS năm 2015 và BLTTHC năm 2015.
Công tác tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện vụ án dân sự nói chung và vụ án hành chính tại TAND tỉnh Kiên Giang được thực hiện theo quy định chung tại BLTTDS năm 2015 và BLTTHC năm 2015, theo đó việc tiếp nhận đơn khởi kiện được xây dựng theo thẩm quyền xét xử (bao gồm thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm) mà không quy định theo TAND cấp tỉnh hay cấp huyện.
Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã quy định khi nhận đơn khởi kiện, Toà án phải có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện (trường hợp nộp đơn trực tiếp) hoặc gửi thông báo nhận đơn cho người
52
khởi kiện (trường hợp đơn gửi qua đường bưu điện, gửi trực tuyến). Tuy nhiên, trên thực tế TANDTC không có một quy định cụ thể nào về quy trình TTHCTP hay quy trình công tác hành chính của cơ quan Tòa án. Mặt khác, BLTTDS quy định việc tiếp nhận đơn là do Tòa án nhưng xem xét để thụ lý vụ án lại là do Thẩm phán, trong khi không có quy định cụ thể trách nhiệm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án và cán bộ Tòa án khác tham gia vào quá trình nhận đơn và xử lý đơn. Đó là chưa kể những trường hợp người tiếp nhận cố tình không cấp “giấy hẹn”, “giấy nhận đơn khởi kiện” và không ghi nhận việc nộp đơn vào Sổ nhận đơn. Không những thế, việc phần lớn các Tòa án phân công Thẩm phán xem xét hồ sơ có đủ điều kiện thụ lý hay không đồng thời sẽ là Thẩm phán giải quyết vụ kiện sau này theo kiểu “khép kín”, dường như tạo cơ hội cho tiêu cực nảy sinh trong hoạt động tư pháp.
Quy trình chưa rõ ràng như trên cũng đã gây nhiều tốn kém cho công tác HCTP cho bản thân các Tòa án và người dân. Báo cáo đánh giá độc lập của Luật sư Nguyễn Hưng Quang cho biết, khái quát quyết toán chi phí tuân thủ cho công tác HCTP cho mỗi đơn khởi kiện được nộp tới Tòa của Tòa án là hơn 486.000 đồng; của người dân hơn 295.000 đồng. Tính chung chi phí tuân thủ cho công tác HCTP với 208.466 vụ việc dân sự năm 2011 của Tòa án (như tiền điện, nước, giấy in, khấu hao trang thiết bị) lên tới trên 101 tỷ đồng; của người dân (không bao gồm chi phí luật sư, án phí…) thì xấp xỉ 62 tỷ đồng.
Ba là, công tác phân công giải quyết vụ án chưa được tiến hành trên cơ
sở tổng hợp các tiêu chí một cách toàn diện, khách quan.
Các quy định tố tụng và hướng dẫn của HĐTP TANDTC về phân công án hiện nay chỉ xác định thẩm quyền phân công án và trách nhiệm của Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án mà không quy định về quy trình phân công án.
Theo nguyên tắc tố tụng việc phân công giải quyết án phải dựa trên ba nguyên tắc: “khách quan, công bằng, ngẫu nhiên”. Thực tế hiện nay, Tổ hành chính tư pháp Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đang thực hiện việc tham mưu phân công án trên cơ sở ý kiến tham mưu của Tòa chuyên trách dân sự, hành chính, kinh tế, lao động sau đó trình lãnh đạo ký duyệt phân công. Vừa qua, Tổ cũng nhận được một số phản ảnh của một số thẩm phán về việc phân công giao án chưa đồng đều, chưa khách quan. Riêng án hình sự thì Tổ hành chính tư pháp không tham mưu phân công án mà việc phân công án vẫn do Tòa hình sự phụ trách.
53
Qua nghiên cứu thực địa, TAND Thành phố Hồ Chí Minh và TAND tỉnh Vĩnh Long có khác biệt so với các Tòa án được khảo sát khác, đó là lãnh đạo của các Tòa án này sử dụng hệ thống thống kê và quản lý vụ án để nắm bắt được khối lượng và tiến độ giải quyết các vụ án một cách nhanh nhất. Trên cơ sở nắm bắt rõ thông tin về tình trạng giải quyết vụ án, lãnh đạo của các Tòa án này đã phân công vụ án theo tiêu chí “khối lượng công việc”. Ngoài ra, hệ thống phần mềm còn giúp lãnh đạo Tòa án phân công không bị trùng Thẩm phán, trùng lịch xét xử và điều động Thẩm phán giữa các Tòa chuyên trách... Đặc biệt, hệ thống quản lý vụ án của TAND Thành phố Hồ Chí Minh cũng giúp Chánh án phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ để thụ lý một cách nhanh chóng.
Hiện nay, TANDTC đang triển khai áp dụng phần mềm quản lý vụ án. 50% Thẩm phán huyện và 57,8% Thẩm phán tỉnh cho biết phần mềm này có áp dụng tại Tòa án của mình. Thực tiễn này rất thuận lợi cho công tác ứng dụng tin học vào hoạt động của ngành Tòa án. Qua khảo sát trực tiếp 18 Tòa án (cấp tỉnh và cấp huyện), 17 Tòa án cho biết là họ có sử dụng phần mềm thống kê vụ án của TANDTC cung cấp và có cán bộ thực hiện công tác báo cáo cập nhật thông tin vào phần mềm. Tuy nhiên, Lãnh đạo của những Tòa án có phần mềm thống kê này cho biết họ không sử dụng phần mềm này trong việc phân công vụ án.
Qua đối chiếu với thực tiễn thực hiện quy trình CCTTHCTP tại TAND tỉnh Kiên Giang cho thấy, một số thủ tục HCTP trong quan hệ với cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động tố tụng thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án và việc phân công, phân định trách nhiệm giữa các bộ phận, cá nhân trong hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP của đơn vị hiện nay chưa được rõ ràng. Việc phân công các hồ sơ án cho Thẩm phán tại TAND tỉnh chưa thể hiện được tính ngẫu nhiên theo yêu cầu, việc phân công các nhiệm vụ chỉ đơn thuần mang tính hành chính, chưa tính đến yếu tố chất lượng giải quyết, năng lực của từng Thẩm phán. Do đó, sự lựa chọn tối ưu nhằm hạn chế tiêu cực, nâng cao được tính độc lập của Thẩm phán trong công tác giải quyết án chính là việc thực hiện phân công án theo một quy trình rõ ràng trong nội bộ Tòa án, bởi lẽ các Thẩm phán thụ lý và giải quyết án sẽ không liên quan đến các quyền lợi tài chính và cá nhân, đồng thời nâng cao được khả năng quản lý của Lãnh đạo đối với hoạt động của Tòa án.
Bốn là, công tác quản lý số lượng án đầu vào, đầu ra và án tồn chưa
thật sự khoa học, hiện đại.
54
Mặc dù, Quy chế làm việc của Tổ HCTP có quy định phối hợp với các đơn vị chức năng khác của Tòa án tỉnh trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng; giải quyết các yêu cầu của đương sự, cơ quan, tổ chức (xin trích lục bản án, tài liệu lưu trữ...), nhưng tại đơn vị vẫn chưa xây dựng được Quy chế phối hợp giữa Tổ HCTP, Văn phòng TAND tỉnh với Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án và các Tòa chuyên trách trong quá trình theo dõi giải quyết các vụ việc nên chất lượng tham mưu cho Lãnh đạo đối với một số vụ việc có tính chất phức tạp chưa cao.
Các phần mềm ứng dụng thiếu tính kết nối, còn rời rạc nên chưa phát huy hết được các ưu điểm của CNTT vào hoạt động HCTP của Tòa án. Hiện nay, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tại Tòa án còn hay nghẽn mạng gây khó khăn trong truy cập thông tin. Đơn vị chưa thiết lập được trang thông tin điện tử để người dân liên hệ, truy cập tìm hiểu thông tin về quá trình giải quyết công việc của mình tại Tòa án, việc thiết lập hộp thư điện tử của TAND tỉnh Kiên Giang chỉ nhằm phục vụ yêu cầu công tác và nội bộ quản lý ngành mà chưa đáp ứng được yêu cầu là kênh thông tin, liên lạc giữa Tòa án với người dân. Thực tế, người dân vẫn sử dụng kênh “phổ biến”, “truyền thống” là liên hệ làm việc trực tiếp với Tòa án hoặc gửi đơn, thư, hồ sơ qua các phương tiện chuyển phát. Điều này không chỉ làm giảm tiện ích cho người dân mà còn tăng chi phí do chuyển phát, in ấn văn bản… Trang thiết bị và môi trường làm việc để tiến hành các hoạt động HCTP tại Tòa án chưa hiện đại, khoa học, còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu CCTTHCTP, dẫn đến người dân còn e ngại khi nộp đơn, chứng cứ hoặc bị gây phiền hà phải đi lại nhiều lần tốn kém thời gian, tiền bạc.
Các hạn chế, bất cập nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về hoạt động HCTP trong hoạt động của Tòa án. Điều này dẫn đến chưa xác định đúng các khâu thuộc HCTP để từ đó có các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, một số đơn vị còn nhầm lẫn giữa hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP của Tòa án.
Thứ hai, Lãnh đạo một số Tòa án chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động HCTP nên chưa có kế hoạch, giải pháp cụ thể chỉ đạo, lãnh đạo đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động HCTP thuộc phạm vi trách nhiệm của cơ quan, đơn vị mình. Chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động HCTP nên chưa chú trọng đầu tư cho lĩnh vực này.
55
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác HCTP của đơn vị còn thiếu và trình độ, năng lực trong công tác HCTP còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin nên việc triển khai các phần mềm ứng dụng để nâng cao hiệu quả công tác này rất khó khăn. Một số cán bộ làm việc tại Tổ HCTP phải kiêm nhiệm công tác tố tụng và công tác HCTP nên tần suất, khối lượng công việc phải giải quyết nhiều, dẫn đến tiến độ giải quyết một số công việc, yêu cầu của người dân còn chậm, gây phiền hà cho nhân dân.
Thứ tư, hạn chế về nguồn vật lực, tài lực. Các nguồn lực về tài chính để đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc hiện đại, khoa học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác HCTP cho các Tòa án nói chung và đối với từng cơ quan, đơn vị nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ năm, việc giám sát, kiểm tra của Ban lãnh đạo Tòa án chưa thường xuyên, cũng như các cơ quan được pháp luật giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của Tòa án như Viện Kiểm sát, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân, ….chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của mình, từ đó, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức.
2.3.3 Kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn triển khai thực hiện cải cách thủ
tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đối với những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong công tác CCTTHCTP tại đơn vị TAND tỉnh Kiên Giang, kinh nghiệm được đúc kết là:
Thứ nhất, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC, các cấp ủy Đảng và Lãnh đạo Tòa án các cấp cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Thường xuyên quán triệt và xác định việc đổi mới TTHCTP là một yêu cầu bắt buộc, khách quan và là nhiệm vụ thường xuyên của Tòa án các cấp. Cần xây dựng kế hoạch và chỉ đạo điều hành việc thực hiện kế hoạch đổi mới TTHCTP theo chương trình đề ra, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án, để hạn chế việc chậm đưa vụ án ra xét xử do lỗi chủ quan của Thẩm phán, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, tổ chức.
Thứ hai, nâng cao nhận thức, khắc phục tình trạng chỉ chú trọng đến công tác xét xử, còn các hoạt động thuộc lĩnh vực HCTP chưa được chú trọng đúng mức. Mô hình cải cách HCTP “một cửa” trong hoạt động của TAND hiện nay chưa trở thành quy định chung mang tính bắt buộc đối với các Tòa
56
án. Do đó, trong nhận thức của một bộ phận cán bộ Thẩm phán, Thư ký chỉ chú trọng đến công tác xét xử, còn các hoạt động thuộc lĩnh vực HCTP chưa được chú trọng đúng mức. Điều này làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động HCTP tại Tòa án vì thái độ phục vụ, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách chưa được nhận thức đầy đủ. Do đó, TANDTC cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về TTHCTP tại Tòa án, tạo sự thống nhất về hoạt động, quy trình của từng hoạt động, về bộ máy, bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp, tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thực hiện hoạt động HCTP tại Tòa án. Từ đó, việc thực hiện CCTTHCTP mới triệt để, đồng bộ trên các lĩnh vực và mọi hoạt động của Tòa án, đồng thời triển khai công tác CCTTHCTP một cách đồng bộ giữa Tòa án các cấp và áp dụng thống nhất quy trình một cửa liên thông đối với TTHCTP tại Tòa án.
Thứ ba, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án và tiến tới xây dựng Tòa án điện tử công khai các hoạt động của Tòa án trên cổng thông tin điện tử, trước mắt là công khai bản án. Tổ chức kịp thời các cuộc họp rút kinh nghiệm xét xử,… bằng hệ thống truyền hình trực tuyến giữa Tòa án các cấp, triển khai thực hiện nghiêm túc các phần mềm ứng dụng đã được xây dựng, đặc biệt là phần mềm quản lý các loại vụ án;
Thứ tư, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tư tưởng và tinh thần phục vụ nhân dân cho đội ngũ, cán bộ công chức Tòa án; từng bước nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, công chức, trong đó quan tâm việc đào tạo trình độ về tin học, thường xuyên tập huấn việc sử dụng các phần mềm và sử dụng, vận hành thành thạo các phương tiện điện tử trong hoạt động tác nghiệp nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực để thực hiện chủ trương tin học hóa và vận hành có hiệu quả mô hình Tòa án điện tử trong tương lai, qua đó tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi giải quyết công việc tại Tòa án, xây dựng TAND thân thiện, gần dân, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho người dân, tổ chức tiếp cận công lý.
Tóm lại, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bước đầu thực hiện CCTTHCTP bằng mô hình Tổ HCTP đã mang lại hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện cho Thẩm phán tập trung xét xử án và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, tổ chức đến liên hệ với Tòa án thông qua mô hình một cửa liên thông, hạn chế việc gây phiền hà, tốn kém thời gian, tiền bạc khi người dân, tổ chức tiếp cận Tòa án. Phục vụ kịp thời cho lãnh đạo cơ quan trong quản lý, chỉ đạo, điều hành Tòa án hai cấp và không để xảy ra tình trạng người dân
57
khiếu nại đông người, khiếu nại vượt cấp. Tuy nhiên, với biên chế con người thiếu và cơ sở vật chất còn hạn chế, nên hiệu quả của Tổ HCTP tại TAND tỉnh Kiên Giang chưa cao. Hướng tới, TAND tỉnh Kiên Giang cần có thùng thư tiếp thu ý kiến của công dân, tổ chức, đồng thời sơ, tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình Tổ HCTP tại Tòa án nhân dân cấp huyện.
58
CHƢƠNG 3
ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
3.1 Định hƣớng cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang
Với phạm vi trách nhiệm được giao trong công tác cải cách tư pháp TAND các cấp, trong đó có TAND tỉnh Kiên Giang, hướng tới cần quán triệt và triển khai việc cải cách TTHCTP trên các mặt công tác và hoạt động của mình theo các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp nói chung và cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan nhà nước nói riêng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách TTHCTP. Đặc biệt là thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước”.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải căn cứ vào các quy
định của pháp luật tố tụng và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Tòa án
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải phù hợp pháp luật và phục vụ có hiệu quả với hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành công tác của Tòa án theo nguyên tắc không được trái với các quy định của pháp luật và cần phân định giữa hoạt động tố tụng với hoạt động HCTP. Đồng thời, phân công, phân cấp rành mạch, hợp lý giữa các cá nhân, bộ phận được giao thực hiện hoạt động HCTP tại Tòa án với những người tiến hành tố tụng khi được lãnh đạo Tòa án phân công xét xử các loại vụ án.
Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải theo hướng công
khai, minh bạch các hoạt động tố tụng tại Tòa án
59
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, tổ chức khi quyền con người, quyền công dân và quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm, nay yêu cầu để được Tòa án xét xử, giải quyết nhanh, gọn; bảo đảm hoạt động của Tòa án có hiệu quả, hiệu lực; tổ chức thực hiện tốt Quy tắc ứng xử của cán bộ, Thẩm phán ngành TAND, thể hiện Tòa án là cán cân công lý.
Công khai hoạt động của Toà án là tăng cường khả năng bảo đảm tính giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử, nâng cao trách nhiệm giải trình của Thẩm phán nói riêng và của hệ thống Toà án nói chung và để ngành Toà án “gần dân” Một số ý kiến Thẩm phán đề xuất các thông tin về thủ tục tố tụng, mẫu đơn khởi kiện… nên được niêm yết đâu đó bên ngoài khuôn viên của trụ sở Toà án để người dân có thể tiếp cận được bất kỳ lúc nào, thay đổi này mới chỉ có một số Toà án áp dụng.
Tại Vĩnh Long, TAND tỉnh đã biên soạn cẩm nang hướng dẫn thủ tục hành chính tư pháp, thủ tục tố tụng tại Toà án và có kèm thêm địa chỉ các Toà án, trụ sở Đoàn luật sư, Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý… Cuốn cẩm nang được phát hành cho tất các cả cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh tới UBND xã. Chánh án TAND tỉnh Vĩnh Long cho biết việc phát hành rộng rãi thông tin này nhằm giúp cho nhân dân địa phương biết được các loại thủ tục để không mất công sức tìm hiểu, như phải di chuyển xa xôi, khó khăn. Cuốn cẩm nang của TAND tỉnh Vĩnh Long cũng được đại diện của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và VKSND tỉnh đánh giá tốt. Một số UBND xã đã cho đọc cuốn cẩm nang này trên loa truyền thanh nhằm giúp cho đồng bào không biết chữ có thể nắm bắt được nội dung. Cách làm này cũng chỉ duy nhất được thực hiện tại Vĩnh Long, các địa phương được khảo sát thực địa khác không có những cách làm tương tự Đồng thời tới đây sẽ đưa lên trang web của Uy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Đài truyền hình Vĩnh Long các trình tự thủ tục này phổ biến cho người dân khi có nhu cầu tìm hiểu. Kết hợp với Đài truyền hình Vĩnh Long đưa nội dung các vụ án trọng điểm, mang tính chất giáo dục, đưa ra xét xử lưu động lên chương trình “Những điều trông thấy” để tuyên truyền, phổ biến.
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang trên cơ sở tổ chức thực hiện công khai minh bạch hóa tất cả các thủ tục tố tụng trong hoạt động của Tòa án nhằm giảm phiền hà cho người dân, ngăn chặn tệ nạn nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong hoạt động HCTP của Tòa án; tăng cường các
60
hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Tòa án nói chung và hoạt động HCTP của Tòa án nói riêng.
Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm các nước
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải trên cơ sở nghiên cứu, học tập, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp của các nước có nền tư pháp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội và truyền thống văn hóa của Việt Nam, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất không chỉ cho công dân Việt Nam mà còn cho cả công dân các nước có quan hệ song phương với Việt Nam.
Thứ năm, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải rút kinh nghiệm,
từng bước hoàn thiện
CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải có sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thiện từng bước mô hình “ một cửa ” tại Tòa án, phải theo lộ trình, đi từ thí điểm đến chính thức và mở rộng xuống Tòa án cấp huyện thuộc địa phương quản lý. Phát huy những hoạt động có hiệu quả, rút kinh nghiệm, sửa đổi những hoạt động chưa hiệu quả, tiến tới người dân, tổ chức không còn khiếu nại, tố cáo liên quan đến thủ tục hành chính tư pháp và hoạt động tố tụng tại Tòa án.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp
tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
3.2.1 Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Nhận thức rõ việc CCTTHCTP là một yêu cầu bắt buộc, khách quan, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh Kiên Giang luôn xác định công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc CCTTHCTP tại Tòa án là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Theo đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc CCTTHCTP được đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC và Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh Kiên Giang, trong đó Ban lãnh đạo TAND tỉnh cần phân công 01 đồng chí trực tiếp chỉ đạo, điều hành công tác CCTTHCTP. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Lãnh đạo sử dụng phương pháp quản lý Tòa án nào để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động CCTTHCTP cũng như các hoạt động khác của Tòa án?
61
Qua khảo sát, hiện nay các lãnh đạo Toà án địa phương (TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện) phần lớn áp dụng phương pháp quản lý theo “quy chế” thay vì “phương pháp thủ trưởng”. Quản lý tổ chức trên cơ sở quy chế được coi là một hình thức quản lý tốt. Quy chế sẽ thúc đẩy tổ chức hoạt động theo đúng mục tiêu, chức năng, nguyên tắc làm việc và trách nhiệm cá nhân. Các quy chế cần phải được xây dựng phù hợp với mục tiêu phát triển của của tổ chức, niêm yết công khai và phổ biến tới từng người làm việc trong tổ chức. Đối với hoạt động của Toà án, nội dung của các quy chế phải khuyến khích tính độc lập và chuyên môn của Toà án.
Khi phỏng vấn sâu, tất cả các Chánh án, Thẩm phán và Thư ký Tòa án đều khẳng định Toà án có quy chế làm việc nội bộ cùng với những quy định pháp luật đối với cán bộ, công chức Tòa án và các quy định của Đảng viên. Ngoài ra, một số quy chế nội bộ phổ biến khác trong các cơ quan Toà án hiện nay là quy chế về tiếp công dân; quy chế quản lý và sử dụng công sản; nội quy phiên tòa. Cá biệt một số quy chế được hình thành từ kết luận của các cuộc họp và được áp dụng trực tiếp như: quy chế báo cáo án; quy chế phân công án.
Qua khảo sát thực địa, Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” nhận thấy có sự hiện hữu của các quy chế nội bộ bằng văn bản tại một Toà án. Còn ở các Tòa án còn lại thì mọi người chỉ biết có quy chế hoặc đã từng đọc và e ngại khi đề cập tới quy chế nội bộ. Do đó, những quy chế nội bộ tại một số Tòa án cần phải khắc phục những vấn đề có thể tác động tới “Nguyên tắc độc lập xét xử” như quy định Thẩm phán phải báo cáo án. Thậm chí có Tòa án còn xử lý kỷ luật Thẩm phán vì đã xét xử mà không báo cáo án vì coi là Thẩm phán đã vi phạm nội quy.
Ở một tỉnh ở phía Nam, Chánh án Tòa án tỉnh cùng với các Thẩm phán đã xây dựng rất nhiều quy chế để thiết lập một quy trình làm việc mới. Khi được luân chuyển từ một cơ quan nhà nước ở trong tỉnh về Tòa án, Chánh án nhận thấy cơ quan Tòa án làm việc không hiệu quả, tình trạng nhiều bản án bị huỷ, bị sửa do vi phạm thủ tục tố tụng phổ biến, đặc biệt là tình trạng các Thẩm phán giải quyết vụ án kéo dài, quá thời hạn luật định. Chánh án đã xây dựng nhiều quy chế, như: quy chế tiếp nhận đơn khởi kiện - hồ sơ vụ án hình sự, quy chế tiếp công dân và thái độ phục vụ, quy chế làm việc của Tòa chuyên trách, quy chế làm việc của Văn phòng Tòa án… Nhờ những quy chế đó, Chánh án đã thay đổi được lề lối làm việc trước đây. Theo Chánh án này,
62
các cơ quan nhà nước khác áp dụng quy chế làm việc, áp dụng quy trình ISO đều hoạt động có hiệu quả thì cơ quan Tòa án cũng có thể thay đổi được. Đặc biệt, toàn bộ các quy chế đã xây dựng được làm thành văn bản, đóng quyển và phổ biến cho tất cả các cán bộ của Tòa án. Các quy chế của Tòa án này đều được gửi tới Ban chỉ đạo cải cách tư pháp của tỉnh để các thành viên khác có thể phối hợp công tác hoặc giám sát hoạt động của TAND tỉnh.
3.2.2 Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý thực hiện cải cách thủ tục
hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân
Để công tác CCTTHCTP tại các Tòa án ngày càng hiệu quả, TANDTC cần thiết phải nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về các TTHCTP tại Tòa án. Trong đó, quy định rõ những hoạt động cụ thể, công việc cụ thể phải làm của từng hoạt động nhằm tạo ra một quy trình xử lý thống nhất tại các Tòa án. Trên cơ sở đó, các Tòa án thiết kế bộ máy và bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp, đồng thời xây dựng các phần mềm ứng dụng để nâng cao hiệu quả của từng khâu, từng hoạt động. Cụ thể là việc tiếp nhận các loại đơn, tài liệu, thụ lý vụ án, tổ chức giải quyết một số khâu trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu, thông báo lịch xét xử, triệu tập đương sự bằng hình thức trực tuyến (online); công nhận giá trị phiên bản điện tử các bản án, quyết định của Tòa án để cung cấp cho đương sự; xây dựng các phòng xét xử điện tử để thực hiện việc tự động ghi âm, ghi hình, chụp chiếu các tài liệu, chứng cứ trực tiếp tại phiên tòa; nghiên cứu việc tổ chức các phiên tòa xét xử trực tuyến.
Xây dựng quy định về công khai hóa các hoạt động của Tòa án và niêm yết công khai các quy định, thủ tục tố tụng, giấy tờ, chứng cứ liên quan đối với thẩm quyền từng Tòa chuyên trách; mức thu phí, lệ phí và thời gian thụ lý, xét xử, giải quyết các loại vụ án (được treo ở vị trí người dân, tổ chức dễ nhận biết nhất), kể cả những trường hợp khách quan phải kéo dài thời gian xét xử, giải quyết trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ của Thẩm phán. Đặc biệt là các bản án, quyết định của Tòa án cần công khai hóa, minh bạch trên cổng thông tin điện tử của Tòa án nơi tổ chức xét xử, để cơ quan, tổ chức, người dân dễ tiếp cận, giám sát, nắm bắt được các quy định của pháp luật liên quan đến các quan hệ pháp luật tranh chấp, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán.
Tập trung nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng, sửa đổi các quy định, quy chế hiện hành trong hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP tại Tòa án để đơn giản hóa các thủ tục và tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cho việc từng bước tin
63
học hóa các hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP tại Tòa án. Hiện nay, việc ghi sổ kết quả giải quyết các loại án do thư ký phụ trách vụ án tự ghi sau khi xóa sổ thụ lý. Tuy nhiên việc ghi của các thư ký không đầy đủ hoặc không ghi, không đảm bảo về mặt sổ sách. Mặt khác, Tổ hành chính đang thực hiện việc cấp trích lục bản án, cấp sao y. Do đó, hướng tới Tổ hành chính tư pháp ngoài việc lưu tập án còn được phép lưu file mềm bản án để tổ thực hiện việc ghi chép sổ kết quả cũng như thực hiện việc cấp trích lục bản án theo quy định của tố tụng. (hình thức lưu file mềm được thực hiện trên mục dùng chung, sau khi giải quyết xong một vụ án, thẩm phán hoặc thư ký đưa bản án, quyết định vào mục dùng chung vào thư mục lưu bản án của Tổ hành chính tư pháp).
Ngoài ra, Tổ hành chính tư pháp đang thực hiện việc phụ trách sổ thụ lý kết quả, sổ lấy số tạm đình chỉ và tiếp tục giải quyết vụ án và thực hiện báo cáo thống kê số liệu giải quyết án của các Tòa chuyên trách. Để phục vụ tốt cho việc thống kê số liệu án, đặc biệt là án tạm đình chỉ, án quá hạn hoặc tiến độ giải quyết án cũng như phục vụ công tác báo cáo thống kê của Phòng, tòa chuyên trách, Tổ hành chính tư pháp đã mở các sổ sau đây tại Tổ hành chính tư pháp bắt đầu từ ngày 01/10/2017 (qua khảo sát các tòa chuyên trách thì việc mở sổ không đồng đều, có tòa không mở nên không theo dõi được số liệu):
- Sổ đăng ký luật sư
- Sổ theo dõi án kháng cáo kháng nghị hoặc hồ sơ do cơ quan, tổ chức
khác mượn.
- Sổ lấy số áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Sổ lấy số quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nhằm triển khai thực hiện tốt đề án vị trí việc làm phục vụ cho công tác CCTTHCTP, TANDTC cần hoàn thiện các quy định về tuyển dụng công chức Tòa án và việc thi tuyển các chức danh Thẩm phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp, đồng thời từng bước thí điểm việc tổ chức thi vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong Tòa án các cấp, để thực sự tuyển chọn được người tài, có năng lực, phẩm chất vào nền công vụ. Đồng thời, TANDTC cần sớm thông qua Quy định xử lý vi phạm đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các Tòa án nhân dân để ngăn chặn những hành vi tiêu cực, làm trong sạch bộ máy TAND các cấp, góp phần đảm bảo hoạt động CCTTHCTP tại Tòa án được thông suốt.
64
3.2.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy thực hiện cải cách thủ tục
hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
- Cần tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc triển khai các nhiệm vụ cải cách TTHCTP và học hỏi kinh nghiệm CCTTHCTP của các cơ quan, tổ chức
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa Tổ HCTP với các Tòa chuyên trách, Thẩm phán được phân công giải quyết án, với Kiểm sát viên được phân công giải quyết án tiến hành các hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử và phiên họp theo quy định của BLTTHS, BLTTDS và BLTTHC. Qua đó đảm bảo việc phân công số lượng án phù hợp với trình độ từng Thẩm phán, thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc xét xử án, tránh trường hợp để án quá hạn do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của Tổ HCTP, bao gồm: (i) kiểm tra Tổ HCTP về việc thực hiện quy định về trình tự, thủ tục, thời gian nhận, giải quyết hồ sơ khởi kiện, hồ sơ kháng cáo; (ii) kiểm tra trách nhiệm cán bộ, công chức thuộc Tổ HCTP trong việc chấp hành chính sách, pháp luật và các quy định liên quan đến giải quyết TTHCTP tại Tòa án; và (iii) kiểm tra việc thực hiện các quy định về nghĩa vụ, những việc không được làm, quy tắc ứng xử, văn hoá công sở của cán bộ, công chức Tòa án. Qua đó kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai sót trong thực hiện TTHCTP tại T a án và nêu gương điển hình đối với các cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Cần tổ chức tiếp công dân thường xuyên và lịch tiếp định kỳ của lãnh đạo cơ quan hoặc bố trí hộp thư, để nghe phản ảnh trực tiếp của người dân về thái độ tiếp công dân, tổ chức và ứng xử của Thẩm phán, thư ký trong thực thi công vụ.
- Bố trí đủ những đồng chí có trình độ cử nhân Luật trở lên, có kinh nghiệm nhiều năm làm việc tại các Tòa chuyên trách, sử dụng thành thạo máy vi tính và có trình độ ngoại ngữ để có thể ứng xử nhanh các tình huống khó, đương sự bất hợp tác hoặc khi tiếp xúc, trao đổi với người nước ngoài đến liên hệ công việc.
- Cần tập trung nghiên cứu đổi mới tổ chức, bổ sung biên chế, cán bộ có kinh nghiệm cho các đơn vị có trách nhiệm liên quan trực tiếp tới việc thụ lý, giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức và công dân tại Tòa án nhân dân.
65
- Thường xuyên nghiên cứu và học hòi kinh nghiệm mới từ các đề tài khoa học về đổi mới TTHCTP trong hoạt động Tòa án để tiến hành ứng dụng các kết quả các nghiên cứu vào thực tiễn cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
3.2.4 Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân,
đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán Tòa án
Thứ nhất, thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị, nêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc và ý thức tận tụy phục vụ nhân dân đối với từng cán bộ, công, người lao động trong đơn vị, trong đó cần quan tâm đặc biệt việc quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quyết định của Chánh án TANDTC về Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức TAND; cụ thể là:
- Luôn vui vẻ, cởi mở, hòa nhã, nhiệt tình, trung thực, thận trọng, công tâm, khách quan, đảm bảo tính công khai, dân chủ trong quá trình tiếp xúc với người dân, khi thi hành công vụ và kể cả khi tiếp dân trên điện thoại; lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân.
- Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định trong Luật Khiếu nại, Tố cáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Đối với các trường hợp khiếu nại hoặc yêu cầu xem xét giám đốc thẩm, tái thẩm gay gắt, bức xúc cần báo cáo ngay cho Lãnh đạo đơn vị giải quyết kịp thời;
- Tận tình giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân để họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, chú trọng đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án nói chung và Thẩm phán, Thư ký làm việc tại Tổ HCTP nói riêng. Theo đó, các Thẩm phán, Thư ký này phải được thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng xét xử, kỹ năng xử lý các tình huống trong thực hiện thủ tục tố tụng, thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới và nắm kiến thức khác về chuyên môn để tự tin khi đưa ra các quyết định của mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với các quyết định đó, đảm bảo quyền độc lập của Thẩm phán khi tham gia giải quyết án.
Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho Thẩm phán, Thư ký không chỉ đơn thuần là đào tạo thông qua khóa đào tạo nghiệp vụ thư ký khi mới được tuyển dụng hay đào tạo nghiệp vụ xét xử trước khi bắt đầu được bổ nhiệm (chương trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, Học viện Tòa án), mà còn là
66
công tác bồi dưỡng kiến thức liên tục hàng năm, trong đó hình thức tập huấn bồi dưỡng kiến thức chủ yếu thông qua việc rút kinh nghiệm công tác xét xử tại các cuộc họp giữa Chánh án, Thẩm phán TAND tỉnh với các Chánh án TAND, Thẩm phán TAND cấp huyện hoặc một số Thẩm phán được cử đi tập huấn. Sau đó, các Chánh án TAND huyện về phổ biến lại cho các Thẩm phán, Thư ký trong đơn vị của mình. Khi TANDTC tổ chức một số buổi tập huấn chuyên đề tại từng cụm, khu vực thì các Thẩm phán có cơ hội tham dự. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh phí, ngân sách nên không thể tổ chức tập huấn liên tục. Việc tổ chức tập huấn chuyên đề cũng cần phải có sự hỗ trợ về người giảng dạy là những Thẩm phán cao cấp tại TANDTC hoặc báo cáo viên cao cấp về chính trị, pháp luật.
Qua phỏng vấn trực tiếp của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, các Thẩm phán đều mong muốn việc tập huấn nên được tiến hành ngay khi có văn bản pháp luật mới được ban hành. Đối với các Thẩm phán được phân công công tác tiếp dân, công tác tiếp nhận và xử lý đơn, thư các loại tại Tổ HCTP thì việc tập huấn văn bản pháp luật mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ việc trang bị kiến thức pháp luật là cần thiết để họ có thể giải quyết tốt các yêu cầu của công dân khi đến liên hệ công việc tại Tòa án. Do đó, TANDTC cần tập huấn, đào tạo thường xuyên cho các Thẩm phán với những chương trình, nội dung đào tạo được công bố rộng rãi. Các Thẩm phán xem xét các chương trình, nội dung được công bố và có thể lựa chọn những vấn đề mình quan tâm để đề nghị TAND tỉnh hỗ trợ cho việc đi học.
Hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán cũng đòi hỏi người Thẩm phán phải có kinh nghiệm sống, kiến thức xã hội, mối quan hệ xã hội. Không giống như các nghề khác có tính trí tuệ và đòi hỏi trách nhiệm cá nhân như bác sĩ, luật sư, giáo viên, cộng đồng, Thẩm phán ở Việt Nam chưa hình thành tổ chức hiệp hội nghề nghiệp để có thể đại diện cho hoạt động nghề nghiệp Thẩm phán và để bảo vệ uy tín của nghề Thẩm phán. Hiện nay, ngoài tổ chức Đảng Cộng sản, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Công đoàn, Hội Phụ nữ, nhiều Tòa án còn có chi hội Luật gia, nhưng các hoạt động của chi hội Luật gia này không mang tính thường xuyên và không có chương trình hoạt động cụ thể liên quan đến việc phát triển chuyên môn hay đạo đức của Thẩm phán. Vì vậy, các Thẩm phán đều mong muốn có một tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình.
67
3.2.5 Đảm bảo cấp đủ ngân sách và thu nhập lương riêng đặc thù cho
cán bộ, công chức Tòa án
- Thứ nhất, đảm bảo cấp đủ ngân sách cho hoạt động của Tòa án:
Trong những năm gần đây, ngân sách được dự tính cấp cho hoạt động của hệ thống Toà án và hệ thống Viện kiểm sát hiện nay đã tưng bước được tăng lên, phù hợp với số lượng vụ án và số lượng Thẩm phán tăng lên qua từng năm, từng thời kỳ.
Phương thức phân bổ ngân sách hiện nay của TANDTC căn cứ vào đặc thù của từng địa phương để cấp kinh phí, đáp ứng yêu cầu công tác (địa phương cần chủ động đề xuất), có nghĩa là kinh phí của các địa phương không đồng đều nhau. Nguồn ngân sách của Tòa án được xây dựng trên cơ sở chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Phương thức phân bổ này còn được gọi là “khoán chi” hay “khoán chi ngân sách”. Điều này cho thấy, nguồn ngân sách của Tòa án phụ thuộc chặt chẽ vào số lượng cán bộ công chức, người lao động của Tòa án.
Cơ chế “khoán chi” đối với các hoạt động hành chính của Tòa án là một vấn đề cần được nghiên cứu thấu đáo. Cơ chế “khoán chi phí” có thể giúp cho việc quản lý chặt chẽ việc chi tiêu nhưng lại giới hạn nguồn kinh phí trong trường hợp nhu cầu thực tiễn ngày một gia tăng. Trên thực tế, cơ chế này chỉ có thể phù hợp với hoạt động hành chính khi mà các hoạt động đó có thể dự liệu trước vì chúng có tính chất đơn giản và lặp đi lặp lại. Ngược lại, các hoạt động xét xử phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phức tạp, tính chất của từng loại vụ án nên khó có thể áp dụng “khoán”. Thậm chí nếu áp dụng có thể sẽ gây nên hậu quả như: Toà án sẽ thiếu ngân sách để hoạt động; Toà án sẽ cắt giảm “chất lượng” hoạt động của Toà án để giảm chi phí; hoặc cắt giảm khối lượng công việc của Luật sư chỉ định do Tòa án mời. Đó là chưa kể, việc phân bổ ngân sách theo phương thức khoán chi hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Các Tòa án phải cố gắng hoạt động trong khoản ngân sách được phân bổ. Một số Tòa án nhận được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương cho một số hoạt động cụ thể như: mua sắm trang thiết bị, chi phí xét xử lưu động, tổ chức sự kiện của Toà án…, nhưng nhiên phần lớn các khoản hỗ trợ cho Tòa án không mang tính thường xuyên, cố định. Bởi lẽ ngân sách dành cho hoạt động của Tòa án địa phương không nằm trong danh mục dự toán chi của ngân sách địa phương. Vì vậy, trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân, HĐND không phê duyệt một khoản mục nào dành cho Toà án nếu tỉnh không có khoản vượt thu ngân sách địa phương. Việc một số Ủy ban nhân dân hỗ trợ
68
kinh phí cho hoạt động của Toà án phải dựa trên khoản tiết kiệm kinh phí dành cho một số hoạt động. Qua khảo sát của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895 cho thấy, các Tòa án nhận được hỗ trợ chủ yếu ở các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những thành phố có khoản vượt thu ngân sách của địa phương. UBND của mỗi thành phố đã cho phép trích “một tỷ lệ nhỏ” để hỗ trợ cho các Tòa án của địa phương. Các khoản hỗ trợ này chỉ được cấp trên cơ sở đề nghị của Tòa án mà không phải là hỗ trợ thường xuyên. Tuy nhiên, việc hỗ trợ ngân sách của UBND cho Tòa án cũng phải phù hợp với các quy định về sử dụng ngân sách nhà nước. Hàng năm, các khoản chi ngân sách nhà nước của địa phương đều được kiểm toán, khoản chi nào không phù hợp sẽ phải thu hồi.
Do đó, Toà án phải được cung cấp đủ tài chính thông qua cơ chế cấp ngân sách hoạt động minh bạch, rõ ràng và không bị phụ thuộc, ảnh hưởng vào cơ quan phê duyệt ngân sách để bảo đảm được tính độc lập của mình. Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước…. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tư pháp trung ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương”. Phương thức này hạn chế những tác động từ các nguồn cung cấp ngân sách khác ngoài hệ thống Tòa án như chính quyền địa phương, đồng thời giúp cho TAND các cấp được chủ động hơn về ngân sách hoạt động của mình, theo đó tính độc lập của Tòa án sẽ tốt hơn, hay nói cách khác là sẽ bảo đảm được vị trí nhất định của quyền lực tư pháp, hạn chế được những tiêu cực trong công tác tự quản về ngân sách của Toà án. Các kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các Chánh án và Thẩm phán đều “hoàn toàn đồng ý” hoặc “đồng ý” với ý kiến “Quốc hội phân bổ trực tiếp ngân sách cho Tòa án các cấp”. Số lượng Chánh án và Thẩm phán lựa chọn “cả TANDTC và chính quyền địa phương cùng cấp ngân sách cho TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện” chiếm số đông thứ hai. Tất cả các Chánh án được phỏng vấn sâu đều “không muốn Toà án mình lệ thuộc nhiều vào ngân sách địa phương”, cho rằng “địa phương nên cấp ngân sách mang tính hỗ trợ hoạt động của Toà án” vì “Toà án phục vụ nhân dân và chính
69
quyền địa phương”.
- Thứ hai, nhà nước phải có bảng lương riêng đặc thù cho các chức
danh trong cơ quan Tòa án, đảm bảo thu nhập của cán bộ, công chức Tòa án:
Khi bảo đảm nguồn tài chính cho hoạt động xét xử cũng cần phải chú trọng tới chế độ lương của Thẩm phán, Thư ký và các cán bộ Tòa án khác. Thẩm phán, Thư ký Tòa án phải được hưởng sự ưu đãi thỏa đáng và điều kiện làm việc thích hợp. Thẩm phán phải được hưởng các chế độ làm việc nghỉ ngơi cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Thu nhập của Thẩm phán, Thư ký cần được cải thiện để bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án, thu hút được những người có năng lực trở thành Thẩm phán và hạn chế tham nhũng, đáp ứng đòi hỏi duy trì pháp quyền và bảo vệ quyền con người.
Qua khảo sát, phần lớn Thẩm phán được phỏng vấn sâu cho rằng mức lương hiện nay “chưa phù hợp”, “còn thấp” và “đề nghị các cấp có thẩm quyền quan tâm tới đời sống và thu nhập của Thẩm phán”. Theo quy định của pháp luật, lương và hệ số lương của ngạch Thẩm phán tương đương với lương của cán bộ, công chức khác, nhưng hệ số lương của Thẩm phán do Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn còn hệ số lương của cán bộ, công chức, viên chức thì do Chính phủ ban hành.
Theo quy định hiện hành, ngoài tiền lương cơ bản Thẩm phán còn được hưởng thêm các loại phụ cấp như: Phụ cấp thâm niên nghề tùy thuộc vào thời gian thời gian làm việc tại Tòa án; Phụ cấp trách nhiệm bằng 30% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); Phụ cấp công vụ bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); Các Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án, Phó Chánh án được cộng thêm phụ cấp chức vụ; Thẩm phán còn được hưởng chế độ bồi dưỡng phiên tòa đối với chủ tọa là 90.000đồng/ngày và đối với Thẩm phán tham gia phiên xử nhưng không chủ toạ là 50.000đồng/ngày. Theo kết quả của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, tổng thu nhập của Thẩm phán hiện nay mặc dù không cao nhưng so với mức lương của Thẩm phán năm 2006 đã tăng lên và cao hơn so với bình quân thu nhập của cả nước.
Mức lương thấp, không phù hợp sẽ tạo nên áp lực về thu nhập cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án và làm gia tăng vấn nạn tham nhũng. Ở một số quốc gia, pháp luật ngăn chặn việc giảm lương của Thẩm phán vì coi đó là
70
điều kiện có thể tạo nên khả năng tham nhũng đối với Thẩm phán và tác động tới tính độc lập của Thẩm phán. Vì vậy, cải cách cơ bản tiền lương và thu nhập của công chức Tòa án nói chung và đội ngũ Thăm phán, Thư ký Tòa án là vấn đề có tính đột phá, là động lực của công chức trong thực thi công vụ một cách tận tụy, trung thành với ý thức trách nhiệm phục vụ cao, thực sự là “công bộc” của dân.
3.2.6 Nghiên cứu, xây dựng đề án tăng cường và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án và tiến tới xây dựng Tòa án điện tử vào năm 2020.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của CNTT. Theo đó tất cả các dữ liệu thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh đều có thể đưa về dạng kỹ thuật số để bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo phương thức hoàn toàn mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí cả cách nhìn các giá trị trong cuộc sống. Do đó, ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nắm bắt xu thế đó, TAND trong những gần đây đã tăng cường kết nối mạng internet cho hệ thống máy tính của từng đơn vị Tòa án hoặc cho ít nhất một máy tính của đơn vị. Việc kết nối internet đem lại rất nhiều thuận tiện cho các Tòa án, như nhận và gửi email, tra cứu thông tin, tìm kiếm văn bản pháp luật trên mạng. Ngoài ra, rất nhiều đơn vị TAND cấp tỉnh hiện nay đang thực hiện kết nối mạng nội bộ (LAN) cho các Tòa chuyên trách và các bộ phận giúp việc. Một số Tòa án đã kết nối với hệ thống Cổng thông tin điện tử của TANDTC. Tại TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã có phần mềm quản lý án chạy trên nền mạng nội bộ (LAN). TAND tỉnh Vĩnh Long cũng đã đưa váo sử dụng phần mềm quản lý vụ án, công việc xét xử và phần mềm quản lý bản án. TAND thành phố Đà Nẵng đang có kế hoạch phát triển phần mềm quản lý vụ án, công việc xét xử.
Tại TAND tỉnh Kiên Giang đã thực hiện việc kết nối mạng internet và
71
mạng nội bộ cho toàn bộ hệ thống máy tính của đơn vị, nhờ vậy đã giúp cho các Thẩm phán, Thư ký Tòa và các cán bộ khác cập nhật thông tin, tìm kiếm tài liệu và văn bản pháp luật được thuận lợi và nhanh chóng. Vì vậy, CCTTHCTP cần thiết phải tập trung, ưu tiên tập huấn việc sử dụng các phần mềm và sử dụng, vận hành các phương tiện điện tử trong hoạt động tác nghiệp, đặc biệt quan tâm đào tạo nâng cao trình độ về tin học cho cán bộ, công chức làm việc tại Tổ HCTP nhằm chuẩn bị tốt nhất nguồn nhân lực để thực hiện chủ trương tin học hóa và vận hành có hiệu quả mô hình Tòa án điện tử trong tương lai theo yêu cầu CCTTHCTP của hệ thống Tòa án.
3.2.7 Tập trung, ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cải thiện
môi trường làm việc tại Tổ hành chính tư pháp“một cửa”
Qua khảo sát trực tiếp của Nhóm Nghiên cứu về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, thì các Thẩm phán tại một số thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện tốt hơn về máy tính, đồ dùng văn phòng, máy điều hoà, internet, nước sạch, sách báo so với các Thẩm phán ở các địa phương khác, nhưng phần lớn trụ sở của các Toà án ở các thành phố lớn lại nhỏ hơn so với trụ sở tại các tỉnh, huyện ở nông thôn hay miền núi. Tình trạng các Thẩm phán hoặc thư ký Tòa phải ngồi chung phòng làm việc từ 3-4 người là phổ biến ở thành phố trong khi tại các Tòa án ở khu vực nông thôn, miền núi thì các Thẩm phán thường có phòng riêng hoặc ngồi chung với Thư ký của mình. Tuy nhiên, các Toà án ở nông thôn, miền núi lại kém hơn về trang thiết bị.
Tại TAND tỉnh Kiên Giang, Tổ HCTP hiện có 06 biên chế gồm 01 Thẩm phán và 05 Thư ký, trong đó có 03 Thư ký kiêm nhiệm vừa làm việc tại Tòa chuyên trách, vừa làm việc tại Tổ HCTP. So với khối lượng công việc hiện nay của Tổ HCTP thì số biên chế trên không đủ đáp ứng yêu cầu công việc, đó là chưa kể đơn vị chỉ bố trí một Thẩm phán duy nhất làm việc tại Tổ HCTP kiêm giữ chức vụ Tổ trưởng, dẫn đến áp lục công việc rất lớn, trong khi họ không được hưởng bất kỳ chế độ ưu đãi nào khác, thậm chí còn bị “cắt giảm” thu nhập vì Thẩm phán, Thư ký làm việc tại bộ phận “một cửa” không tham gia giải quyết án nên không có thu nhập từ “ngồi phiên tòa”. Mặt khác, hiện nay TAND tỉnh Kiên Giang vẫn chưa triển khai áp dụng được phần mềm quản lý án và công việc xét xử nên các công đoạn quản lý phần lớn vẫn là trên sổ sách, việc nhập số liệu án hiện nay chỉ mang tính chất lưu trữ và phục vụ cho yêu cầu báo cáo của đơn vị mà chưa kết nối thông tin cho tất cả cán bộ,
72
công chức trong đơn vị cũng như chưa đáp ứng yêu cầu thông tin của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Ngoài ra, điều kiện về phòng làm việc, trang thiết bị của Thẩm phán, Thư ký Tổ HCTP còn rất hạn chế so với các tòa, phòng khác. Tổ HCTP là bộ phận thường xuyên phải tiếp công dân và các tổ chức, cá nhân khác đến liên hệ làm việc nhưng bộ phận này chỉ có duy nhất 01phòng làm việc với 03 máy tính bàn, điều này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công việc và hiệu quả hoạt động của Tổ HCTP.
Từ những khó khăn trên, việc tập trung, ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc tại Tổ HCTP là việc làm rất cần thiết, cần được Ban lãnh đạo TAND tỉnh quan tâm. Theo đó, các nhu cầu này cần được đáp ứng theo nhu cầu thực tiễn và nguồn tài chính của đơn vị. Hiên nay, do những tiện ích của máy tính nên nhu cầu của các Thẩm phán, Thư ký về máy tính vẫn là cao nhất, tiếp đến là nhu cầu về phương tiện đi lại, đồ dùng văn phòng và cuối cùng, cần tạo môi trường làm việc thoải mái hơn cho cán bộ, công chức làm việc tại Tổ HCTP.
3.2.8 Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong cải cách hành chính tư pháp
Trong những năm qua, với mục đích tăng cường nhân lực trong lĩnh vực pháp luật để hỗ trợ quản lý nhà nước minh bạch và có trách nhiệm hơn; hỗ trợ xây dựng năng lực của các cơ sở đào tạo nghề luật và các thiết chế pháp luật có liên quan để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam được tôn trọng, đẩy mạnh và bảo vệ một cách hiệu quả hơn, hữu hiệu hơn và công bằng hơn, TANDTC đã tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong cải cách hành chính tư pháp, trong đó phải kể đến:
Dự án JUDGE là dự án hợp tác giữa Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Bộ tư pháp Việt Nam và Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA).Tại Hội nghị, các đại biểu đã báo cáo và đánh giá tiến độ thực hiện dự án năm 2009 dựa trên 3 hợp phần: dự án JUDGE đã phối hợp với Học viện tư pháp và Trường cán bộ Tòa án để nâng cao kỹ năng giảng dạy cho giảng viên và hỗ trợ xây dựng tư liệu giảng dạy cho giảng viên phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng tư pháp, …
Hội nghị Chánh án TATC các nước ASEAN do Tòa án Việt Nam đăng cai tổ chức ngày 31/3/ và ngày 1/4/2016 đã thành công tốt đẹp. Đây là Hội nghị thường niên, được Tòa án các nước thành viên ASEAN luân phiên đăng
73
cai tổ chức, là diễn đàn để Tòa án các nước thảo luận trực tiếp, chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất các mục tiêu ưu tiên mà các nước quan tâm; đóng góp chung vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước thành viên ASEA. Với cương vị nước chủ nhà đăng cai tổ chức Hội nghị, TANDTC Việt Nam đề xuất 6 Chủ đề gồm: Thể chế hóa Hội nghị Chánh án ASEAN; Hội nhập và hài hòa hóa tư pháp các nước ASEAN; Xây dựng Cổng Thông tin điện tử ASEAN; Đào tạo tư pháp; Quản lý vụ án và công nghệ Tòa án; - Tranh chấp Hôn nhân, gia đình xuyên biên giới. Với 6 Chủ đề trên đã được bàn thảo dân chủ, thẳng thắn tại Hội nghị và được Chánh án các nước ASEAN đồng thuận, nhất trí cao và đã cùng nhau ký Tuyên bố chung Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, thống nhất đổi tên gọi Hội nghị thành Hội đồng Chánh án ASEAN, thành lập Nhóm nghiên cứu để triển khai các công việc của Hội đồng, trình Tổng thư ký ASEAN công nhận Hội đồng và thực hiện các nhiệm vụ theo 6 chủ đề đã được thông qua.
Thực hiện Biên bản ký kết ngày 20/12/2013 giữa TAND tỉnh Kiên Giang, Việt Nam với Tòa án sơ thẩm tỉnh Kam Pốt và Tòa án sơ thẩm tỉnh Preah Sihanouk, Vương quốc Campuchia, trong những năm qua TAND tỉnh Kiên Giang đã tổ chức thành công các Hội nghị hợp tác quốc tế trong khuôn khổ hợp tác, trao đổi công tác xét xử và phòng chống tội phạm qua biên giới, xét xử án hôn nhân và gia đình giữa công dân hai nước sống sát biên giới với Tòa án sơ thẩm tỉnh Kam Pốt và Tòa án sơ thẩm tỉnh Preah Sihanouk. Dự kiến trong những năm tiếp theo, chương trình hợp tác quốc tế sẽ được triển khai trên tất cả các mặt hoạt động của Tòa án, trong đó có hợp tác, trao đổi kinh nghiệm thực hiện CCTTHCTP trong hoạt động của TAND.
74
KẾT LUẬN
CCTTHCTP có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của Tòa án các cấp thông suốt, trôi chảy. Để các thủ tục hành chính tư pháp thực sự phát huy vai trò của mình, đồng thời góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì mục tiêu đổi mới thủ tục hành chính tư pháp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, một loạt các nhiệm vụ và giải pháp đặt ra cho ngành Tòa án trong thời gian tới và để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp này, không chỉ đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC, các cấp ủy đảng và lãnh đạo TAND tỉnh trong việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo điều hành việc thực hiện kế hoạch đổi mới TTHCTP từng năm và dài hạn theo các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra, mà còn cần có sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp, sự hưởng ứng nhiệt tình của các cá nhân, các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Có như vậy, mục tiêu xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị mới thành công và đạt hiệu quả cao.
Với đề tài nghiên cứu “Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang”, tác giả dự kiến công trình khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, qua đó bổ trợ tích cực cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và hoạt động của Tòa án nhân dân các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở nhân rộng mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp của Tòa án nhân dân tỉnh, với mục đích cuối cùng là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, từng bước hiện đại hóa mọi hoạt động của Tòa án, tiến tới thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp theo mô hình một cửa liên thông phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.
75
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN KIỆN ĐẢNG:
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội, 2002
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, 2005.
3. Bộ Chính trị, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề án đổi mới tỏ chức hoạt động của Tòa án, viện Kiểm sát và cơ quan Điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội,2010.
4. Bộ Chính trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội,2014.
B. VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
5. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2013.
6. Hiến pháp năm 2013.
7. Luật Khiếu nại năm 2011
8. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
9. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
10. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
11. Nghị quyết số 38/NQ-CP của Chính phủ ngày 04/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức.
C. VĂN BẢN KHÁC:
12. Báo cáo tổng quan về hoạt động thí điểm cải cách hành chính tư pháp tại
tòa án của vụ Hơp tác quốc tế- Tòa án nhân dân tối cao.
13. Báo cáo cải cách hành chính tư pháp thí điểm xây dựng “Tổ hành chính tư
pháp” tại ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Huế, 2012.
14. Báo cáo kết quả đạt được trong công tác cải cách hành chính tại Tòa án
nhân dân huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long, 2012.
15. Báo cáo ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác cải cách hành chính
tư pháp tại các Tòa án thí điểm, Hưng Yên, 2012.
16. Báo cáo khảo sát “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” trong khuôn khổ của Dự án 00058492 về “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” của Chính phủ Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, tldd 20, tr.23-24; tlđd 14, tr.53-57.
17. Báo cáo số 01/2017/BC/TĐKT-TAT ngày 17/4/2017 về sơ kết phong trào thi đua 6 tháng đầu năm 2017 Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Kiên Giang
18. Chỉ thị số 03/2016/CT-TA ngày 04/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Toà án nhân dân, tlđd 13
19. Dự án Phát triển tư pháp và tăng cường sự tham gia từ cơ sở do Chính phủ Canada tài trợ cho TANDTC và Bộ Tư pháp Việt Nam thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA)
20. Hà Tiến Dũng ( 2014 ), Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Hồng Hải ( 2013 ), Quản lý thực thi công vụ theo định hướng
kết quả, NXB. Lao động, Hà Nội.
22. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên) ( 2001 ), Các giải pháp thúc đẩy cải cách
hành chính Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Trần Quang Huy ( 2016 ), Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại TAND các cấp: Góp phần công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án, truy cập ngày 06/10/2016.
24. Hoàng Thế Liên (chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992), đề tài cấp bộ.
25. Trần Huy Liệu ( 2003 ), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
26. Thang Văn Phúc (chủ biên) ( 2001 ), Cải cách hành chính nhà nước - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Thang Văn Phúc ( 2004 ), Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền, Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Quy chế làm việc của tổ hành chính tư pháp thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang (ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TAT ngày 03/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang).
29. Quy chế đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các Tòa án nhân dân (ban hành kèm Quyết định số 851/QĐ- TCCB của Tòa án nhân dân tối cao).
30. Quyết định số 345/2016/QĐ-TA ngày 07/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
31. Quyết định số 1253/2008/QĐ-TANDTC ngày 18/9/2008 của Chánh án TANDTC về Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân.
32. Quyết định số 06/QĐ-TAT ngày 03/8/2016 của Chánh án TAND tỉnh kiên
Giang về việc thành lập Tổ Hành chính tư pháp.
33. Tham luận cải cách hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố Huế và sự cần thiết áp dụng trong hoạt động của ngành Tòa án cả nước, Huế, 2012.
34. Tham luận “Hoạt động cải cách hành chính tư pháp tại các Tòa án thí
điểm” của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Hà Nội, 2012.
35. Tham luận về công tác cải cách thủ tục hành chính tư pháp của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, những bài học kinh nghiệm và kiến nghị, Hà Nội, 2012.
36. Tham luận về một số kết quả bước đầu trong cải cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên, 2012.
37. Trần Đình Thắng ( 2011 ), Đảng cộng sản Việt Nam với việc cải cách nền
hành chính Nhà nước, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
38. Tuyên bố Bắc Kinh về các Nguyên tắc độc lập tư pháp, Tạp chí Toà án
nhân dân, số 8/2006, tr.46-48.
39. Đoàn Trọng Truyến ( 2006 ), Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội.
40. Vụ Hợp tác quốc tế- TANDTC, Báo cáo tổng quan về hoạt động thí điểm
cải cách HCTP tại Tòa án.
D. CÁC TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THAM KHẢO:
41. Trương Hòa Bình, Một số nội dung về đổi mới thủ tục Hành chính tư
pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, xem:
http://quangngai.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_ id=&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=23072374, truy cập ngày 06/10/2016
42. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tư pháp nhằm giúp người dân dễ dàng tiếp cận công lý, xem http://congly.vn/hoat-dong-toa-an/tieu- diem/day-manh-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-tu-phap-nham-giup-nguoi- dan-de-dang-tiep-can-cong-ly-106892.html, truy cập ngày 15/02/2017.
43. Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, http://baochinhphu.vn/Cai-cach-Thu-tuc-Hanh-chinh/Doi-moi-thu-tuc- hanh-chinh-tu-phap-trong-hoat-dong-cua-Toa-an-Nhan- dan/166164.vgp%C4%90%E1%BB%95i%20m%E1%BB%9Bi%20th%E 1%BB%A7%20t%E1%BB%A5c%20h%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh% 20t%C6%B0%20ph%C3%A1p%20trong%20ho%E1%BA%A1t%20%C4 %91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%B2a%20%C3% A1n%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n, truy cập ngày 06/10/2016.
44. Nguyễn Thị Thu Hằng, Bước đột phá trong quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, http://toaanhanam.gov.vn/hoat-dong-chung/buoc-dot-pha-trong-qua-trinh- thuc-hien-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-tu-phap-tai-toa-an-nhan-dan-tinh- ha-nam-57180.html, truy cập ngày 06/10/2016.
45. Thu Hằng, Đẩy mạnh đổi mới, cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án, http://dangcongsan.vn/phap-luat/day-manh-doi-moi-cai-cach-thu-tuc- hanh-chinh-tu-phap-tai-toa-an-377786.html.
46. Chu Linh, Định hướng công tác tư pháp nhiệm kỳ 2016-2020, http://noichinh.vn/ho-so-tu-lieu/201602/dinh-huong-cong-tac-tu-phap- nhiem-ky-2016-2020-300053/, truy cập ngày 06/10/2016.
47. Một số nét về công tác cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại các Tòa án
nhân dân, xem:
http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/ttsktand/43713043?per s_id=1751942&folder_id=&item_id=147066818&p_details=1, truy cập ngày 07/10/2016 ,tlđd 23
48. Nhân rộng mô hình “một cửa” tại Tòa án để tăng khả năng tiếp cận công
lý cho người dân, xem:
http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/5020/0/5430/Nhan_rong_mo_hinh _mot_cua_tai_Toa_an_de_tang_kha_nang_tiep_can_cong_ly_cho_nguoi_ dan, truy cập ngày 02/4/2017.
49. Thái Xuân Sang, Cải cách thủ tục hành chính trong tiến trình phát triển
và hội nhập, xem:
truy
http://truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=47, cập ngày 28/3/2017.
50. Trương Thu Trang, Cải cách tư pháp ở một số nước châu Á: Kinh nghiệm
cho Việt Nam, xem:
http://vncite.com/an-pham/cai-cach-tu-phap-o-mot-so-nuoc-chau-a-mot- vai-kinh-nghiem-cho-viet-nam.html, truy cập ngày 02/4/2017.
51. Thái Trung, Họp ban chỉ đạo dự án “Phát triển tư pháp và sự tham gia từ
cơ sở” JUDGE Canad, xem:
http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/299083?p_page_id=1 753011&pers_id=3391632&folder_id=&item_id=2892010&p_details=1 truy cập ngày 03/4/2017.
52. Xem: http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/tin-trong-nuoc/thanh-tuu- truy cập
cai-cach-tu-phap-noi-bat-cua-toa-an-nhan-dan-a140069.html, ngày 27/02/2017.
53. Thái Vân, Cải cách tư pháp một số nước trên thế giới - Một số gợi mở cho
quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, xem:
http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201311/cai-cach-tu-phap-mot-so- nuoc-tren-the-gioi-mot-so-goi-mo-cho-qua-trinh-cai-cach-tu-phap-o-viet- nam-293052/, truy cập ngày 01/4/2017.
truy cập ngày
54. Nguyễn Tất Viễn, Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay, http://www.ipd.org.vn/doi-moi-mo- hinh-to-chuc-bo-may-va-hoat-dong-cua-he-thong-tu-phap-o-viet-nam- hien-nay-tac-gia:-pgs-.-ts-.-nguyen-tat-vien-a285.html, 06/10/2016.