ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------

ĐỚI THỊ HỒNG

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN,

ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, NĂM 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------

ĐỚI THỊ HỒNG

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN,

ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. LƯU KHÁNH THƠ

HÀ NỘI, NĂM 2013

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 4

1.Lý do chọn đề tài. ........................................................................................... 4

2. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................... 5

2.1. Tác giả Dư Thị Hoàn. ................................................................................... 5

2.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến. ..................................................................... 8

2.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng ....................................................................... 10

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 12

3.1. Đối tượng nghiên cứu. .............................................................................. 12

3.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến luận văn khảo sát tập trung ở ba tập thơ:

......................................................................................................................... 12

3.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng chúng tôi tập trung khảo sát qua hai tập thơ:

......................................................................................................................... 12

3.2. Phạm vi nghiên cứu. ................................................................................. 12

4.Mục đích nghiên cứu. .................................................................................... 12

5.Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................. 13

6.Bố cục của luận văn. ..................................................................................... 13

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 14

CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH – SỰ HÌNH THÀNH

CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN,

HOÀNG VIỆT HẰNG. ........................................................................................ 14

1.1.Khái niệm về “cái tôi”, “cái tôi trữ tình” và biểu hiện của cái tôi trữ tình

trong thơ ca truyền thống. ............................................................................. 14

1.1.1.Cái tôi ..................................................................................................... 14

1.1.2.Cái tôi trữ tình. ...................................................................................... 16

1.1.3.Các hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong văn học. ................ 18

1.1.3.1.Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian. .............................................. 19

1.1.3.2.Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển. ................................................ 19

1.1.3.3.Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn .................................................... 20

1.1.3.4.Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng. ................................................. 21

1.2.Sự hình thành cá tính sáng tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam

Luyến, Hoàng Việt Hằng. ................................................................................ 21

1.2.1.Đặc điểm chung của thơ nữ Việt Nam sau năm 1986 ......................... 21

1.2.2.Cá tính sáng tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng

Việt Hằng. ....................................................................................................... 26

1.2.2.1.Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà “dại yêu” và khát vọng sống

mãnh liệt. ........................................................................................................ 26

1.2.2.2.Dư Thị Hoàn – một “lối nhỏ” độc đáo trên hành trình sáng tạo thi ca. . 27

1.2.2.3.Hoàng Việt Hằng – “một mình khâu những lặng im” và âm thầm tỏa

sáng. ................................................................................................................ 33

CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM

LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG. .............. 36

2.1. Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn.................................................. 36

2.1.1. Cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống. .......... 36

2.2.2. Cái tôi trữ tình triết lý, chiêm cảm. ...................................................... 47

2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến ...................................... 54

2.2.1. Cái tôi – người tình đam mê, mãnh liệt .............................................. 55

2.2.2. Cái tôi cô đơn, khắc khoải .................................................................... 67

2.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ Hoàng Việt Hằng ........................................ 72

2.2.3.1. Cái tôi – cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân – đàn bà ............. 72

2.2.3.2. Cái tôi tìm đến thiên nhiên để đồng cảm, chia sẻ............................ 83

2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 89

CHƯƠNG 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM

LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ........... 90

3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 90

3.1.1. Thể thơ tự do ........................................................................................ 90

3.1.2. Thể thơ lục bát...................................................................................... 97

3.1.3. Thể thơ 5 chữ ...................................................................................... 101

3.1.3.1.Thể thơ 5 chữ ...................................... Error! Bookmark not defined.

3.1.3.2. Thơ ngắn ............................................ Error! Bookmark not defined.

3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................... 103

3.2.1.Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. ...................................................... 104

3.2.2. Ngôn ngữ giản dị đời thường. .......................................................... 106

3.3. Giọng điệu .............................................................................................. 111

3.3.1. Giọng điệu lo âu, hoài niệm, trăn trở. ............................................... 111

3.3.2. Giọng điệu trữ tình suy tư, trầm lắng. .............................................. 118

3.3.3. Giọng điệu nồng nàn, ấm áp. ............................................................ 123

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 127

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 130

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Cùng với dòng chảy của thời gian, những gì của ngày hôm nay rồi sẽ dần trở

thành quá khứ của ngày sau. Cuộc sống vĩnh hằng vẫn lưu chuyển trong từng

khoảnh khắc của không gian và thời gian. Còn con người luôn mong ước được sống

hết mình cho từng giây, từng phút của đời người. Trọn vẹn với những ước mơ,

những yêu thương nồng nhiệt và cả những hờn tủi, đau đớn hay hạnh phúc đời

mình,Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã trải lòng qua các

trang thơ và lưu dấu ấn trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Cái tôi trữ tình là một trong những khái niệm triết học cổ nhất, đánh dấu ý

thức đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là một

con người khác với tự nhiên, một cá thể độc lập khác với người khác. Cái tôi trữ

tình thể hiện một cách nhận thức, cảm xúc đối với thế giới, con người thông qua

lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ

tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo mang tính thẩm mỹ, nhằm

truyền đạt đến người đọc. Cái tôi trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn

bản trữ tình. Chính vì vậy, nghiên cứu cái tôi trữ tình là để thấy cái tôi nhà thơ đã

được nghệ thuật hóa trở thành một yếu tố nghệ thuật phổ quát trong thơ, một thành

tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm.

Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại

làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn nghệ,

trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều

sự thật đau lòng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng được giải phóng triệt để

hơn. Trong bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến cho

nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với

những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu

sắc về tư duy nghệ thuật thơ giai đoạn này qua ba điểm đáng chú ý sau đây: Ý thức

nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn

không ngừng về đời sống; Nỗ lực khám phá sự phong phú trong “cái tôi ẩn giấu”,

dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để

đi tìm những giá trị mới; Thơ như một ngôn ngữ”. Có thể nói tinh thần của Đại hội

VI đã làm chuyển hướng văn học, văn học đang trở về với đời thường, với số phận

riêng. Cùng với điều kiện đổi mới trên, thơ ca còn chịu tác động mạnh mẽ của cơ chế

thị trường. Trong nền thơ hiện đại đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều thể

nghiệm, tìm tòi với những hình thức mới lạ, có màu sắc hiện đại. Nội dung thơ cũng

muôn màu, muôn vẻ, với những cách khai thác, tiếp cận khác nhau. Có thể nói, bước

chuyển quan trọng nhất của thời kỳ này là thơ đã đến với con người trong mọi biểu

hiện phong phú của nó. Đối với thơ, giờ đây không còn có vùng cấm, vùng trắng mà

“Ở đâu có sự sống ở đó có thơ ca”. Thơ đã trở về với hiện thực của nhân tình thế thái,

trở về với cái tôi cá nhân, bên cạnh dòng thơ trữ tình công dân.

Hòa vào dòng chảy chung của thi ca thời kỳ đổi mới, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị

Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng là những cây bút được sống và sáng tác trong môi

trường ấy. Chính nó đã tạo điều kiện cho ba nhà thơ nữ được phát huy khả năng sáng

tạo, cất lên những tiếng thơ tràn ngập cảm xúc.

Chọn đề tài nghiên cứu, Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị

Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng chúng tôi muốn vận dụng những lý thuyết truyền

thống kết hợp với lý thuyết hiện đại để đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp trong

thơ của các chị, mong tìm ra những mạch ngầm nội tại làm nên sức sống bền vững

của nó.

2. Lịch sử vấn đề.

Trong nền văn học dân tộc thơ nữ luôn có bước tiến song hành , nó không

tách rời xu hướng phát triển của thơ ca dân tộc. Sự đóng góp của các nhà thơ nữ

thời kỳ đổi mới đã tạo nên những tiếng nói mới mẻ cho nền thơ ca hiện đại của dân

tộc. Nó trở thành đối tượng nghiên cứu của giới phê bình văn học. Qua khảo sát ,

thống kế chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài viết liên quan tới đề tài. Nhìn vào những bài

viết này chúng tôi có thể khẳng định là cho đến nay những công trình, nghiên cứu,

tìm hiểu về các nhà thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng… đều

thống nhất, đánh giá, thơ các chị là tiếng nói chân thành tha thiết của trái tim phụ nữ,

những trăn trở suy tư của một kiếp người.

2.1. Tác giả Dư Thị Hoàn.

Dư Thị Hoàn là một trong những cây bút nữ tiêu biểu trong giai đoạn đổi mới

của văn học. Người ta viết khá nhiều về chị, nhưng chủ yếu dưới dạng những nhận

xét khái quát những đặc điểm cơ bản hoặc có tính giới thiệu, bình phẩm chứ chưa

nghiên cứu một cách có hệ thổng. Vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập

đến cái tôi trữ tình đầy triết lý, chiêm cảm cùng đời tư thế sự phức tạp của thơ chị.

Tuy nhiên phải kế đến phải kể đến những công trình, những bài nghiên cứu có tính

chất khái lược về thơ chị. Tiêu biểu là các tác giả:Bùi Công Hùng, Hồ Thế Hà, Lưu

Khánh Thơ, Nguyễn Thụy Kha, Lê Lưu Oanh, Phong Lê, Bích Thu, Nguyễn Đằng

Điệp….

Nhìn chung, các tác giả đều thống nhất ở quan điểm thơ thời kỳ đổi mới

hướng vào cái tôi cá nhân, khẳng định con người cá nhân, cá tính thể hiện rõ trong

thơ Dư Thị Hoàn. Nhiều tác giả có những nhận xét, đánh giá chung về vị trí và đặc

điểm thơ Dư Thị Hoàn. Theo Bùi Công Hùng, “Dư Thị Hoàn thể hiện tâm tình của

một người phụ nữ người Việt gốc Hoa trong Lối nhỏ” [11, tr.294]. Với Lưu Khánh

Thơ, “Bài Tan vỡ của Dư Thị Hoàn cũng đã hơn một lần bị lên án nhắc nhở. Đến

nay, khía cạnh này được nhìn nhận đúng mức hơn. Có lẽ một phần do cách biểu hiện

của từng nhà thơ, phần nữa là do tâm lý và thị hiếu của người đọc ngày càng đa

dạng và hiện đại hơn” [29, tr.20]. Còn Hồ Thế Hà cho rằng, “Với tấm lòng bao dung,

nhân ái, Dư Thị Hoàn đã gây được thiện cảm ở người đọc. Thơ chị không cầu kỳ,

kênh kiệu hoặc làm dáng trong câu chữ một cách trống rỗng mà đó là sự lựa chọn

nghệ thuật xuất phát từ thực tế, suy tư của chính mình và những người thân một cách

chân tình. Và vì vậy, nó giản dị, gần gũi với đời thường. Chính sức mạnh của ý tứ,

của vẻ đẹp tâm hồn đã giúp cho thơ chị bỏ qua một số quan hệ: vần điệu, tiết tấu để

đến thẳng với độc giả bằng một chiều sâu suy nghĩ, liên tưởng mới mẻ” [11, tr.78]. Lê

Lưu Oanh, Bích Thu, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Bạch Mai,… đều cho rằng ý thức giải

phóng cái tôi cá nhân, giải phóng cá tính đã tạo cho các nhà thơ nữ một giọng điệu

riêng, mỗi người mỗi kiểu không ai giống ai, đặc biệt là giọng điệu thơ của Dư Thị

Hoàn.

Đánh giá về tập thơ Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, Văn Tâm đã nhận định: “Với nội

dung khá đặc thù, thơ Lối nhỏ va đập mạnh tâm thức độc giả chủ yếu do chữ chứ

không phải vì từ. Nhiều lúc tác giả cũng đã hy sinh từ (kể cả vần và nhạc tính)” [37].

Cũng bàn về vấn đề này, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã nói cụ thể hơn: “Đọc

thơ Dư Thị Hoàn ai cũng thấy một hình thức là lạ, toàn những bài ngắn, câu ngắn.

Khước từ thể cách và rất nhiều vần điệu. Không nệ cả những tiết điệu của nhạc tính

thông thường. Y như những lời – nói – thơ, hiểu theo nghĩa: những lời nói thường có

chất thơ, thế thôi” [27].

Mặt khác, ở những công trình, bài viết nghiên cứu, các tác giả cũng đã có

những cảm nhận đánh giá về thơ Dư Thị Hoàn.

Công trình khoa học Chân dung nữ văn nghệ sĩ do Lê Minh chủ biên, tác giả

đã nêu lên những đóng góp của nữ văn nghệ sĩ trong các lĩnh vực nghệ thuật. Đồng

thời, tác giả cũng điểm qua một vài nét về những đóng góp và phong cách sáng tác

của họ, trong đó có nữ sĩ Dư Thị Hoàn.

Hồ Thế Hà trong bài viết Sức quyến rũ từLối nhỏ có nhận xét: “Đọc thơ Dư

Thị Hoàn một vài lần quả là không có gì đáng chú ý, bởi nó không có vẻ đẹp rực rỡ

của câu chữ, không có sự độc đáo của nhạc điệu, tiết tấu. Nhưng đọc nhiều lần,

những vấn đề hấp dẫn bề sâu của chất thơ chị lại hiện ra: hiền dịu mà không dễ dãi,

lặng lẽ mà dữ dội ngầm, đau buồn mà đầy tin yêu, hy vọng… Giữa những đối lập ấy

là tấm lòng nhân ái, một ước mơ hướng thiện, sống có văn hóa. Chị không chạy theo

những cảm xúc dễ dãi vay mượn ở người khác một cách giả tạo. Thơ chị là tiếng lòng

của chị được thể hiện một cách nghệ thuật” [11, tr.74].

Luận văn thạc sĩ Tình yêu trong thơ nữ Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ cá

tính sáng tạo mang đặc điểm giới của tác giả Trần Thị Thu Hằng (năm 2006) có nhận

xét: “Dư Thị Hoàn đến với tình yêu bằng một giọng thơ mạnh mẽ, đầy cá tính. Xuất

hiện trên thi đàn chưa nhiều nhưng chị đã sớm khẳng định được chỗ đứng trong lòng

độc giả bằng những khám phá sáng tạo của mình. Chị đã tạo cho mình một lối đi riêng

dẫu không mấy bằng phẳng, dễ dàng. Thơ chị viết về tình yêu và những biến thái thăng

trầm của cuộc đời. Trong trang viết của chị có rất ít niềm vui mà thấm đẫm những nỗi

buồn trước nhân tình thế thái. Đó là nỗi đau mà chỉ trái tim nhạy cảm mới cảm nhận

được. Thơ chị là tiếng nói sẻ chia trước những nghịch lý, những bi kịch tình yêu của

người phụ nữ. Vẻ đẹp tâm hồn, lòng nhân ái của chị đã thổi vào những vần thơ rất gần

gũi, rất đời thường nhưng dễ được độc giả tiếp nhận” [13, tr.57].

Luận văn thạc sĩ Đặc trưng nghệ thuật thơ tự do của Lê Thị Mây, Dư Thị

Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên của tác giả Văn Thị Kiều Vương (năm 2010) cũng khẳng

định: “Thơ Dư Thị Hoàn là nỗi ám ảnh không nguôi về thận phận của những kiếp

người trong cõi nhân sinh. Đó là thân phận long đong của chính mình, của người phụ

nữ bạc mệnh, số phận bất hạnh, hẩm hiu, thiệt thòi của những kiếp người nhỏ bé trong

xã hội thông qua một loạt những hình ảnh thơ có tính biểu tượng cao” [31, tr.83].

Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến nhà thơ Dư Thị

Hoàn, chúng tôi thấy rằng các tài liệu này đã chỉ ra nhiều điều lý thú và mới mẻ về Dư

Thị Hoàn, đặc biệt là về mảng thơ tình yêu. Các ý kiến tuy diễn đạt khác nhau nhưng

không đối lập nhau mà khá thống nhất trong xu hướng khẳng định vẻ đẹp và tài năng

của thơ Dư Thị Hoàn. Đó là những ý kiến vô cùng quý giá mà người viết có được để

làm tiền đề và mở đường trong việc triển khai các nội dung của đề tài luận văn này.

2.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến.

Với Đoàn Thị Lam Luyến - chị đã khẳng định được một thế đứng trên thi đàn

văn học hiện đại. Với hàng loạt các tập thơ được xuất bản và đạt giải thưởng uy tín

của hội nhà văn. Thơ chị được độc giả đón nhận một cách khá nồng nhiệt, thế nên,

không hề quá lời khi ta nói rằng người đàn bà “dại yêu” là một hình tượng nổi bật

trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến – đó là một cách để nhà thơ tự ý thức về chính cuộc

đời mình, và rộng ra là về cuộc đời và số phận của người phụ nữ hiện đại. Đã có

khoảng hơn 30 bài viết in trên các tạp chí, báo và mạng internet về thơ của Đoàn Thị

Lam Luyến. Nhìn chung các bài viết mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá, nhận xét về

một vài bài thơ tiêu biểu trong các tập thơ, hoặc bàn bạc về một tập thơ cụ thể mà

chưa có cái nhìn bao quát về toàn bộ thế giới nghệ thuật trong thơ Đoàn Thị Lam

Luyến cũng như cái tôi trữ tình được biểu hiện xuyên suốt và đặc sắc trong toàn bộ

các sáng tác của chị.

Đoàn Thị Lam Luyến là một tác giả nữ có bản bản sắc thơ khá rõ nét. Thơ

chị trăn trở sới lật câu chuyện muôn thuở của thân phận đàn bà (Xuân Cang).

“Trong thơ chị người ta thấy nó không cao sang, không lên giọng, không làm điệu.

Nó bật lên từ ngôn ngữ đời thường, có thế nào nói thế”(Ánh Xuân). Chính chị đã

tâm sự trong phần Mấy lời tự bạch ở cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại (nxb Hội nhà

văn Việt Nam - 1997) : Làm thơ với tôi như là một nhu cầu tự thân. Cuộc sống vất

vả từ nhỏ, vào đời không mấy suôn sẻ và đời tư lại éo le, trắc trở, vì vậy có nhiều

điều muốn nói, muốn được giãi bày. Ngoài thơ ra không biết lấy ai để bộc bạch gửi

gắm lòng mình. Thơ tôi “Thật” và “đời thường” là vì thế.

Tác giả Lê Thị Mây, trong bài viết “Nhen lại lửa lòng” in trên báo Văn nghệ

(Số tháng 12 - 1996) nhìn thơ Lam Luyến dưới góc độ giọng điệu. Lê Thị Mây thấy

giọng thơ Lam Luyến mạnh tiết tấu, nhạc điệu các thể thơ truyền thống. Không chỉ

có thế, tác giả còn nhận thấy trong thơ Lam Luyến có một người đàn bà yêu không

mệt mỏi và yêu như một bản tính hồn nhiên, nhẹ dạ như bất kỳ ai trong phái đẹp.

Cái trữ tình nồng hậu ở trong thơ Lam Luyến ẩn chứa một cái “Tâm: cho, tặng và

dâng hiến” của chị. Trong bài viết này chúng tôi thấy Lê Thị Mây khá ưu ái và cảm

nhận rất sâu sắc thơ Lam Luyến như có sự đồng cảm tri âm, tri kỷ vậy. Tác giả đã

có một cái nhìn khá bao quát và thấy một Lam Luyến khác hơn ở Châm khói so

với Lỡ một thì con gái và Chồng chị chồng em.

Cũng nhân đọc Châm khói, tác giả Ánh Xuân lại có cảm nhận khác trong bài

viết ngắn “Hương nồng đắng một hồn thơ”. Ở đó Ánh Xuân nhận định Chất hương

của Đoàn Thị Lam Luyến không chỉ đắng đót, nó còn có vị ấm nóng nồng nàn của

một trái tim thương yêu trong một đời sống pha tạp còn đầy những bất trắc. Tác giả

Ánh Xuân cũng giống như Lê Thị Mây nhận thấy rằng : Nếu như ở “Chồng chị

chồng em” là tâm trạng muôn thuở của thân phận người đàn bà, nhưng là một người

đàn bà hiện đại thản nhiên nhặt bã trầu về têm thì ở “Châm khói” là tâm trạng và

nỗi niềm của thân phận người đàn bà dở dang, nhỡ nhàng với những cung bậc khác

nhau: Cô đơn đến tận cùng, nuối tiếc, một cái cười diễu cợt… Và ở đó là lời ca của

một trái tim cháy bỏng yêu thương.

Đọc những dòng thơ tình yêu của Đoàn Thị Lam Luyến, tác giả Vũ Nho trên

báo Văn nghệ số tháng 5 – 2003 ở bài viết ngắn với tiêu đề “Đoàn Thị Lam Luyến -

Người yêu đến nát cuộc đời cho thơ” lại cảm nhận về thơ Lam Luyến: Với Lam

Luyến tình yêu như là cội nguồn, lại cũng là động lực nuôi dưỡng thúc đẩy cảm

hứng sáng tạo, và cũng là sông lớn, là biển cả, là ốc đảo, là miền đất hứa cho trái

tim hạn hán của Lam Luyến hướng về. Theo Vũ Nho thì dường như thơ của Lam

luyến trào dâng từ một tình yêu mãnh liệt của một trái tim cuồng nhiệt hiếm thấy ở

những cây bút nữ vốn thiên về ngọt ngào, duyên dáng và dịu dàng e ấp. Cô gái họ

Đoàn đòi hỏi yêu là cuồng nhiệt, yêu là phải cháy bùng ngọn lửa mê say, yêu là

phải hết mình.

Lam Luyến đã góp một tiếng nói quan trọng vào khát vọng yêu, khát vọng

hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Cùng bàn về vấn đề này, Phan Thị Thanh Nhàn

trong bài viết “Lam Luyến càng yêu càng gặp tình hờ” (Vnexpress – ngày

26/11/2008) khẳng định: Lam Luyến dám bộc bạch mọi nỗi niềm riêng tư của chị.

Những dòng thơ của chị làm người đọc nao lòng. Theo tác giả Thái Doãn Hiểu (Tạp

chí Sông Hương số 205 tháng 3 /2006) Lam Luyến là nhân vật độc đáo nổi lọan

tình yêu trong thơ. Lam Luyến lận đận nên khát yêu, vồ vập yêu, dại yêu, xây hạnh

phúc như “làm nhà trên lưng cá voi”, nàng dữ dằn châm khói, tuyên chiến với tình

yêu. Đúng là đọc thơ Lam Luyến chúng tôi thấy thơ chị luôn hướng về một thế giới

hoàn mỹ. Và chất thơ của chị lặng lẽ nhả hương trong bóng tối đời mình.

Tuy các bài viết chưa bao quát hết sự nghiệp thơ Đoàn Thị Lam Luyến,

nhưng ý kiến của những người đi trước đã là những gợi ý quý báu và định hướng

cho chúng tôi trong khi thực hiện bản luận văn của mình.

2.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng

Hoàng Việt Hằng xuất hiện trên văn đàn cách đây vài chục năm , trước hết là

văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn), nhưng hình như thơ mới là dòng chảy tâm hồn tha

thiết của chị. Chị từng tâm sự : “Tôi trở thành một người làm thơ, viết báo, thế chấp

một đời cho văn chương. Tôi như người chạy chợ thức khuya dậy sớm trên ruộng chữ

nghĩa của mình”. Bởi vậy có thể nói, Hoàng Việt Hằng có một năng lực sáng tạo khá

dồi dào, cùng một cá tính không mấy ồn ào – tạo nên một vẻ đẹp riêng của thơ chị.

Người ta ít biết thơ chị và hầu như không viết về chị, đó có lẽ là một mảnh đất mầu

mỡ cho người viết tự do khám phá một kiếp thi nhân – đàn bà. Một số bài viết của

các tác giả tiểu biểu như: Phạm Hồ Thu, Vũ Nho, Lê Thiếu Nhơn, Việt Quỳnh…

Cũng như người, thơ Hoàng Việt Hằng ít khi vui, luôn mang sự cô đơn quạnh

quẽ lạnh vắng của người quen sống một mình, và bao nhiêu chuyến đi xa, lang thang

khắp các vùng miền đất nước cũng lại một mình. Tác giả Việt Quỳnh nhân đọc tập

thơ “Xóa đi và không xóa” đã chia sẻ “Lời thơ của Hoàng Việt Hằng đơn giản như

thủ thỉ, thấy gì, cảm gì thì ghi chép lại. Câu thơ không phức tạp chữ nghĩa, không hoa

lệ ngôn từ, cứ như một khoảnh tự mình trò chuyện với mình, dọc đường những lúc

nghỉ chân đỡ phần mỏi mệt”. Có lẽ những trải nghiệm trong từng chuyến đi đã khiến

chị thấu hiểu tâm sự của mọi kiếp người trong cuộc mưu sinh đầy cơ cực. Đúng như

Vũ Nho đã nhận định trong cuốn 33 gương mặt thơ nữ: “ Thơ Hoàng Việt Hằng

khiến người đọc nhìn vào cuộc mưu sinh đầy khó khăn gian khổ, thấy những phận

người lầm lũi, những gắng gỏi, an nhiên của họ để biết rằng cuộc sống của mình là

hạnh phúc, cần phải quý trọng, nâng niu…”. Phải chăng vì hướng đến những người

lam lũ mà thơ Hoàng Việt Hằng thường nhạy bén chạm vào những góc khuất, những

bất thường của cảnh vật làm bật ra những trăn trở, băn khăn, day dứt.

Đồng quan điểm trên Lê Thiếu Nhơn trong bài viết “Hoàng Việt Hằng cầu

cạnh bút nghiên run rẩy viết” đã nhận định “Thơ Hoàng Việt Hằng không thuộc diện

tài hoa, nhưng nhiều câu lấp lánh nước mắt khiến người đọc nao dạ!”. Hoàng Việt

Hằng là người Hà Nội chính gốc nhưng chị lại chọn cho mình lối sống và cách viết

hướng về nhà quê. Nói như Lê Thiếu Nhơn quả không quá “ Hoàng Việt Hằng đã

nếm trải nhiều lao đao để những sóng gió bất trắc lặn vào trang giấy trắng thành

những câu thơ vỗ về kiếp người nổi nênh”.

Hoàng Việt Hằng xuất hiện trên văn đàn cách đây vài chục năm, trước hết

bằng văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn). Tuy Hòa sau đọc tản văn của Hoàng Việt

Hằng đã viết “ Văn xuôi của Hoàng Việt Hằng có gì lạ? Thứ nhất, chị có bề dày hoạt

động văn học để tạm đủ tư liệu viết về chân dung nghệ sĩ. Thứ hai, lối cảm lối nghĩ

của một nhà thơ mang lại vẻ đẹp riêng cho thể loại tùy bút hoặc tản mạn”. Chị đã có

4 tập văn xuôi xuất bản, nhưng hình như thơ mới là dòng chảy da diết nhất từ tâm

hồn chị. Đặc biệt với tập “Vệt trăng và cánh cửa” của chị đã đạt giải thưởng Hội nhà

văn Hà Nội. Phạm Hồ Thu đã chia sẻ sau khi tập thơ đạt giải thưởng “Vệt trăng và

cánh cửa là tập thơ thứ 5 của chị, cho biết một năng lực sáng tạo khá dồi dào, dẫu

bạn bè biết Hoàng Việt Hằng là một cá tính, không mấy ồn ào. Và điều này cũng làm

nên nét đẹp riêng của thơ chị”. Đó quả là một thành công đối với một người đàn bà

mang nghiệp cầm bút.

Những ý kiến trên tuy chưa trực tiếp đi sâu tìm hiểu, phân tích đánh giá về nghệ

thuật của thơ Hoàng Việt Hằng nhưng phần nào đã chỉ ra được tầm quan trọng và ý

nghĩa của thế giới nghệ thuật trong thơ của chị. Nhạy cảm với những vất vả,lam lũ,

nghèo khó của những phận người, nên Hoàng Việt Hằng đã có những vệt thơ riêng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

3.1. Đối tượng nghiên cứu.

Do luận văn nghiên cứu về ba tác giả nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát một

vài tập thơ tiêu biểu thể hiện rõ cái tôi trữ tình của từng tác giả. Cụ thể như sau:

3.1.1.Tác giả Dư Thị Hoàn luận văn khảo sát ở hai tập thơ tiêu biểu:

1. Lối nhỏ (Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng xuất bản, 1988)

2. Du nữ ngâm (Tập thơ đăng mạng Internet)

3.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến luận văn khảo sát tập trung ở ba tập thơ:

1. Lỡ một thì con gái (1989)

2. Chồng chị chồng em (1991).

3. Dại yêu (2000).

3.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng chúng tôi tập trung khảo sát qua hai tập thơ:

1. Một mình khâu những lặng im

2. Vệt trăng và cánh cửa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Cái tôi trữ tình trong thơ Dƣ Thị

Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng được triển khai theo các phương

diện nội dung và hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ…Điều

quan trọng là muốn đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà thơ, chúng tôi luôn phải

đối sánh với nội dung thơ, đời sống và tư tưởng của từng nhà thơ.

4. Mục đích nghiên cứu.

Luận văn nhằm làm sáng tỏ vấn đề sau:

- Tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng qua những nguồn cảm hứng tiêu biểu và nghệ thuật thể hiện

nó để thấy được sự đóng góp của các nhà thơ nữ trong nền thơ ca Việt Nam

hiện đại

- Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng .

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu

chủ yếu sau đây:

Phương pháp phân tích – tổng hợp.

Phương pháp thống kê, phân loại

Phương pháp so sánh – đối chiếu

Phương pháp cấu trúc – hệ thống

Phương pháp tiểu sử

6. Bố cục của luận văn.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính

của luận văn được triển khai gồm ba chương:

Chương 1: Nhận thức chung về cái tôi trữ tình – Sự hình thành cá tính sáng

tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng

Chương 2: Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng nhìn từ phương diện nội dung

Chương 3: Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng nhìn từ phương diện nghệ thuật.

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH – SỰ HÌNH

THÀNH CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ DƢ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ

LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG.

1.1. Khái niệm về “cái tôi”, “cái tôi trữ tình” và biểu hiện của cái tôi trữ tình

trong thơ ca truyền thống.

1.1.1. Cái tôi

Chúng ta thường có xu hướng tự nhiên muốn tìm hiểu, khám phá bản chất

của các sự vật, hiện tượng trong thế giới bên ngoài, thuộc về tự nhiên và xã hội. Tuy

nhiên, chúng ta cũng thường quên mất rằng, ngay chính mỗi con người chúng ta

mới là một cái gì đó không thể lý giải, thậm chí là một thế giới hoàn toàn bí hiểm.

Tôi là gì, là thể xác hay linh hồn, là phần cảm tính, phần lý tính, hay phần ý chí?

Câu hỏi về bản chất, về cấu trúc của cái tôi đã và đang là nỗi trăn trở của mỗi con

người khát khao tìm hiểu và tìm kiếm sự tồn tại đích thực của mình, thoát khỏi sự

trần tục, thế tục của cuộc sống hàng ngày.

Cái tôi hay bản ngã là một trong những khái niệm triết học cổ đại nhất đánh

dấu ý thức đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là

một con người khác với tự nhiên, là một cá thể độc lập khác với người khác.

Khái niệm cái tôi là một khái niệm có nội hàm rộng, có rất nhiều các khái

niệm khác nhau như trong triết học, trong phân tâm học, trong triết lý Phật

Giáo…nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin dừng lại ở một số quan niệm của triết học về

cái tôi vì nó có liên quan trực tiếp và gần gũi với việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.

Nhiều nhà triết học đã cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này và đưa ra các cách lý

giải rất khác nhau từ cách tiếp cận của mình qua việc tiếp thu và phát triển các quan

niệm của các nhà tư tưởng trước đó.

Theo Đề Các (1596 – 1650), cái tôi thể hiện ra như một cái thuộc về thực thể

biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lí và do đó, cái tôi thể hiện tính độc

lập của mình với định nghĩa nổi tiếng: “tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.

Theo Kant (1724 – 1804), cái tôi bao gồm hai phương diện: cái tôi với tư

cách chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tư cách là khách thể

của chính nhận thức. Đồng thời Kant cũng nhấn mạnh tuyệt đối khả năng nhận thức

của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó

mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”.

Heghen (1770 – 1831) một mặt xem cái tôi như là sự tha hóa của “ý thức

tuyết đối”, một mặt nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của cái tôi: cái tôi như là trung tâm

tồn tại, cái tôi có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong hiện

thực.

Becxong (1858 – 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi nhấn

mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, trong con người có hai cái tôi: đó

là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Trong đó, cái tôi bề mặt là các quan hệ của con

người đối với xã hội. Cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức. Đó mới chính là

đối tượng của nghệ thuật.

Các quan điểm duy tâm về cái tôi khẳng định: cái tôi là phương diện trung

tâm tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối hoạt động và là

sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới. Tuy nhiên, các quan điểm trên đã

tách cái tôi khỏi con người xã hội sinh động, chưa nhìn thấy cơ sở lịch sử cụ thể và

tính tích cực của cái tôi.

Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác đã xác định giá trị con người cá

nhân từ bản thân con người với tư cách là chủ thể và khách thể của các mối quan hệ

xã hội. Theo Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa như là một bộ mặt xã hội của con người,

như là kết quả của việc xã hội hóa cá thể con người và cá nhân cũng tìm thấy mình

trong xã hội. Lý tưởng giải phóng cá nhân của triết học Mác là tự do cho mỗi cái tôi

cá nhân trong tự do của tất cả mọi người. Đồng thời vai trò của cái tôi cũng được

khẳng định: “cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của cá tính con người có

quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình”.

Như vậy, quan niệm cái tôi trong triết học đã đóng một vai trò rất quan trọng

trong việc nhận thức bản thể của con người, đồng thời nó cũng có mối liên hệ chi

phối, quen thuộc với cái tôi trữ tình trong thơ ca các thời đại.

1.1.2. Cái tôi trữ tình.

Lermôntôp có lần nói về tác phẩm của mình, một bài thơ trữ tình rằng:

“Chuyện của tôi chỉ toàn là những tuyệt vọng. Tôi đã lục lọi lại toàn bộ tâm hồn và

dốc lộn xộn ra giấy”. Còn L.Tônstôi thì nói “Nhà văn chỉ quý giá và cần thiết đối

với chúng ta trong chừng mực nhà văn thổ lộ với chúng ta cái hoạt động bên trong

của tâm hồn mình…, và trong tác phẩm của nhà văn, điều quý giá đối với chúng ta

chỉ là cái hoạt động bên trong của tâm hồn nhà văn”. Có lẽ vì thế mà ClôtBeena đã

phân biệt rõ ràng: “Nghệ thuật là tôi, còn khoa học là chúng ta”. Mọi người vẫn

thường nói thơ trữ tình là “những bản tốc ký nội tâm” nghĩa là sự tuôn trào của hình

ảnh và từ ngữ trong một trạng thái cảm xúc mạnh mẽ của người sáng tạo. Chính vì

vậy, về bản chất, mọi nhân vật trữ tình trong thơ chỉ là những biểu hiện đa dạng của

cái tôi trữ tình. Vậy cái tôi trữ tình là gì?

Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới

và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các

phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt độc đáo mang

tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt tinh thần đến người đọc.

Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố hội tụ

theo quy luật nghệ thuật, bao gồm cả ba phương diện cụ thể: bản chất chủ quan cá

nhân (đây là mối quan hệ giữa tác giả và cái tôi trữ tình được thể hiện trong tác

phẩm); bản chất xã hội của cái tôi trữ tình (đó là mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình và

cái ta cộng đồng); bản chất thẩm mỹ của cái tôi trữ tình (nó là trung tâm sáng tạo và

tổ chức văn bản). Cả ba phương diện biểu hiện của cái tôi trữ tình đều nằm trong

hình thức của thể loại trữ tình.

Cái tôi trữ tình không chỉ là cái tôi nhà thơ, nó còn là cái tôi thứ hai hoặc cái

tôi được khách thể hóa, được thăng hoa trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật. Cái tôi

trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình. Nếu quan niệm một

tác phẩm trữ tình là một hệ thống với các cấp độ, các yếu tó thì có thể nói mọi thành

tố tạo nên bài thơ, từ các biện pháp tu từ cho đến thể thơ, nhịp và vần điệu…đều

nằm trong ảnh hưởng của một trung tâm quy chiếu là cái tôi trữ tình.

Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân dung tinh

thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra những giá trị tinh

thần mà còn là đối tượng miêu tả biểu hiện, chủ thể không chỉ được xem như là một

yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem như là một phương tiện bộc lộ

nội dung của tác phẩm,là một yếu tố của thế giới nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở

những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo, dấu ấn của chủ thể còn in đậm trong

từng từ, từng hình ảnh, từng dòng thơ, bài thơ…

Mối quan hệ giữa chủ thể với hình tượng nhân vật trữ tình, là những hình

thức biểu hiện của chủ thể với tư cách là hình tượng trung tâm của tác phẩm thơ trữ

tình. Mối quan hệ này được biểu hiện thông qua các yếu tố: chủ thể và cái tôi, cá tôi

của nhà thơ và cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Chủ thể là một phạm trù được xem

xét trong mối quan hệ với khách thể, là phạm trù đối lập với khách thể ở tính tích

cực, thể hiện ở ý thức, ý chí và khả năng nhận thức, chiếm lĩnh hiện thực khách

quan. Cái tôi là yếu tố của chủ thể làm cho chủ thể ý thức được chính mình, là chức

năng tự nhận thức của chủ thế.

Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tiếp và thống nhất với cái tôi trữ tình

trong thơ. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi bao quát

trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động, tâm tình và ký ức trong cuộc đời

riêng cũng in đậm nét trong thơ. Cái tôi của nhà thơ có lúc thể hiện trực tiếp qua

những cảnh ngộ riêng, trực tiếp giãi bày những nỗi niềm thầm kín. Cái tôi của nhà

thơ còn hiện diện qua các cách nhìn, cách nghĩ, qua tình cảm thái độ trước thế giới.

Tuy nhiên, cái tôi trữ tình trong thơ và cái tôi của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái

tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm trù xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ

thuộc phạm trù nghệ thuật. Cái tôi trữ tình là cái cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật

hóa và trở thành một yếu tố nghệ thuật phổ quát trong thơ trữ tình, là một thành tố

trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm.

Như vậy, trong mối quan hệ với nội dung và hình thức trữ tình thì cái tôi trữ

tình được quan niệm như hệ quy chiếu chủ quan, góp phần quy định các yếu tố

trong cấu trúc thể loại. Vì vậy cần xác định: cơ sở chủ quan của nội dung và hình

thức trữ tình với những biểu hiện của nó để từ đó khái quát được chức năng của cái

tôi trữ tình như một yếu tố trung tâm của thể loại. Theo Lê Lưu Oanh thì “cái tôi trữ

tình có thể được nghiên cứu ở ba cấp độ: tác phẩm, tác giả, thời đại. Mỗi cấp độ là

một giới hạn về lượng và chất của cái tôi trữ tình”

1.1.3. Các hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong văn học.

Như ta đã biết đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự biểu hiện của

cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Và cái tôi trữ tình trong thơ

được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ

tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân

vật số một trong mọi bài thơ. Tuy nhiên do sự chi phối của quan niệm thơ và

phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi

nhất định. Nói như Nguyễn Bá Thành: “Lịch sử phát triển của thơ ca Việt Nam là

lịch sử phát triển của thơ trữ tình”. Và lịch sử đó được biểu hiện như sau:

1.1.3.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian.

Trong văn loại hình văn học sơ khai thì cái tôi trữ tình biểu hiện cụ thể và rõ

ràng nhất là thể loại ca dao – dân ca. Cái tôi được tìm thấy trong tiếng nói chung

của tập thể, nó không bộc lộ như một cá nhân riêng biệt mà có thể chìm lằng và

biểu hiện qua cái tôi xã hội, cộng đồng. Cảm hứng của các tác giả dân gian bắt

nguồn từ nhu cầu được chia sẻ, giao hưởng và đồng vọng trong những cảnh ngộ

tương đồng. Nhân vật trữ tình trong văn học dân gian chủ yếu là người lao động, họ

có thể là những người giãi nắng dầm mưa, quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng

cho trời”, “trên đồng cạn dưới đồng sâu”, là kẻ đang nhọc nhằn lên đồng xuống

truông…và không gian xuất hiện của họ cũng gắn liền với không gian lao động sản

xuất như: bến nước con đò, bãi dâu đồng cỏ, vườn chè áo cá…

Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian là cái tôi phi cá thể hóa, bởi hình thức

của loại hình văn học dân gian là diễn xướng và truyền miệng. Thời gian và không

gian mang tính ước lệ, làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả mờ nhạt hẳn

đi. Không gian có thể thay đổi, chẳng hạn từ địa danh này sang địa danh khác vì thế

làm mất đi cá tính cụ thể của một hoàn cảnh cụ thể. Và diện mạo duy nhất của cái

tôi dân gian là cái chung, cái cá thể bị xòa nhòa.

1.1.3.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển.

Trong văn học cổ nói chung, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng

đồng, giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể, vì thế văn học chủ yếu phát ngôn trên

tư cách siêu cá nhân, với những vấn đề của gia đình, dòng họ, giai cấp và của dân

tộc. Chính yếu tố đó đã hình thành nên kiểu nhà thơ cổ điển “phi ngã”.

Trong văn học Trung đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhưng tồn tại

trong những quy tắc luật lệ khuôn mẫu mà ta gọi đó là tính quy phạm. Cái tôi trữ

tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ, cái tôi cá tính đã khách thể hóa vũ trụ. Mỗi sự việc,

mỗi khung cảnh đều mang một ý nghĩa triết lý về quan hệ giữa con người và vũ trụ.

Do không tách mình khỏi vũ trụ, để từ những bí ẩn của vũ trụ gián tiếp bộc lộ

những bí ẩn của tâm hồn, vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là gián tiếp, kín đáo. Cái

nhà thơ luôn đi tìm là sự hài hòa giữa cái hữu hạn và cái vô cùng, giữa nhất thời và

vĩnh cửu, giữa quá khứ và thực tại, giữa cái thực và cái hư, giữa cái động và cái

tĩnh.

Nhưng đã là thơ trữ tình thì không thể gọi là hoàn toàn “phi ngã”, cho dù

trong thơ chỉ có “mây, gió, trăng, hoa” Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,

Tản Đà …đều đã tự xưng tên mình trong một số bài thơ. Nhưng do quan niệm về

cái cá nhân và ý thức về cái bản ngã chưa mạnh mẽ nên cái tôi trữ tình còn ẩn khuất

sau những nhân vật trữ tình khác. Các nhà thơ thời kỳ phong kiến không trực tiếp

viết về cái tôi như thời kỳ thơ lãng mạn.

1.1.3.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn

Thơ Mới ra đời, cái tôi trữ tình giành lấy vị trí trung tâm trong mọi bài thơ,

bản chất của thơ lãng mạn là tiếng nói cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn song hành

với sự tự ý thức của cá nhân như là một cá thể độc đáo, riêng biệt, nó không chống

lại cái nhìn duy lý của chủ nghĩ cổ điển. Cái tôi cũng có khi là cái tôi cá nhân tự

biểu hiện, khép kín và cô đơn. Cách cảm, cách nghĩ, sự biểu hiện của thế giới và

con người đều là những yếu tố đặc thù tạo nên chất thơ của văn chương lãng mạn.

Các tác giả đã lấy cái tôi làm vị trí trung tâm để cảm nhận, và làm nguyên tắc cho

thế giới quan.

Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, đưa nó thoát ra khỏi tính quy phạm và để

nó bộc lộ hết mình, “tâm hồn tiếp xúc trực tiếp với ngoại giới”. Tâm hồn đã trở

thành trung tâm phản ánh và có lẽ thế nên nó không ưa cõi thực tầm thường mà

thích những cái gì cá biệt khác thường, cái phi thường. Cái tôi trữ tình vượt lên trên

hoàn cảnh bằng những tưởng tượng khác thường, bằng mộng ảo, hoài niệm, tôn

giáo, lịch sử… chỉ với mục đích duy nhất là khẳng định mình, khẳng định tự do của

mình.

Tuy nhiên cả thơ bác học thời phong kiến và thời kỳ thơ Mới, tư duy thơ đều

thiên về hướng nội, nghĩa là mục đích nhận thức và phản ảnh của thơ không phải cái

khách thể, cái hoàn cảnh tự nhiên và xã hội có tính lịch sử cụ thể mà nhà thơ đang

sống. Và cái tôi trữ tình luôn luôn được biểu hiện dưới dạng trực tiếp. Nghĩa là đối

tượng thẩm mĩ là những trạng thái tình cảm khác nhau của chủ thể. Tôi vui, tôi

buồn, tôi cô đơn, tôi yêu, tôi nhớ…Cái tôi ấy giãi bày, đối thoại trực tiếp với độc

giả.

1.1.3.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng.

Gắn liền với hoàn cảnh và yêu cầu của lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề

dân tộc lên trên tất cả. Vì thế trong thơ cách mạng, cái tôi bộc lộ chủ yếu trên các

vấn đề dân tộc, lịch sử.

Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất nước, với

tư thế dân tộc, thời đại, giai cấp. Họ hiện hữu với trách nhiệm trước cuộc đời hiện

tại khẳng định niềm tin và tương lai của dân tộc. Cái tôi lúc này mang một sinh khí

mới rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ từ bỏ cái tôi cá nhân,

để cái riêng tư hòa vào cái chung dân tộc.

Thơ cách mạng là thơ của cái tôi mới, cái tôi cộng đồng. Chủ thể không còn

là cái tôi riêng mà là một phạm trù đa thức. Đó là một cá nhân không lặp lại hoặc là

một nhóm người cùng chung ý chí, nguyện vọng có thể là toàn bộ xã hội nói chung.

Trong cái tôi mỗi người có cả một hệ thống cái tôi khác nhau, trong quá trình tự

nhận thức trước cuộc sống, cái tôi nào đó được lựa chọn, vượt lên tự khẳng định.

Cái tôi lúc này là cái tôi công dân xã hội, hướng về tình cảm chung của cộng đồng,

cái tôi hòa hợp với cái ta trong cộng đồng mà khi giao tiếp thường được xưng là ta,

chúng ta. Nó khác với cái tôi cá nhân phân biệt người này với người khác. Cái tôi

khẳng định sự chung sức chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.

1.2. Sự hình thành cá tính sáng tạo trong thơ Dƣ Thị Hoàn, Đoàn Thị

Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng.

1.2.1. Đặc điểm chung của thơ nữ Việt Nam sau năm 1986

Tiếp nối dòng chảy của lịch sử văn học, văn học Việt Nam sau thời kỳ Đổi

mới (1986) đến nay có những đổi thay đáng kể. Có thể thấy rất rõ là sự thay đổi

trong quan niệm nghệ thuật, thay đổi trong quan niệm về chức năng, nhiệm vụ và

phương pháp sáng tác văn học. Đó là sự thay đổi từ chức năng phản ánh tuyên

truyền trong văn học Cách mạng giai đoạn trước đó chuyển sang phản ánh con

người đời thường, con người cá nhân. Cái tôi cá nhân được tôn trọng và có vị trí

bình đẳng với cái ta. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong tư duy sáng tác cũng là điều

đáng lưu ý, tư duy sáng tác từ hướng ngoại bắt đầu chú ý đến hướng nội. Văn học

thời kỳ này đề cập mạnh mẽ đến quan niệm về sự cách tân, hiện đại hóa. Lúc này,

văn học nói chung và thơ nói riêng được thể hiện dưới nhiều hình thức biểu hiện.

Có thể thấy rằng, chưa bao giờ thơ được “cởi trói” và có dịp thể hiện con người cá

nhân rầm rộ như bây giờ. Vì vậy, để hiểu hơn về quan niệm của các nhà thơ nữ nói

chung và Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng nói riêng, chúng ta

phải đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm của thơ họ.

Thơ là tiếng nói tâm hồn, tình cảm. Thơ là tiếng lòng và cùng với văn hóa

của nhà thơ làm nên giọng hay phong cách riêng. Đặc biệt với người phụ nữ, trái

tim của họ luôn nhạy cảm trước những vấn đề của cuộc sống, nên những nỗi buồn

vui, trăn trở, suy tư của họ đều được thể hiện qua thơ. Thời kỳ đổi mới, quan điểm

“cởi trói” trong văn học nghệ thuật đã tác động đến tư duy, ý thức sáng tạo của các

nhà thơ, trong đó có các nhà thơ nữ.

Trong bầu không khí dân chủ của đời sống văn học từ sau 1986, thơ nhanh

chóng nhập cuộc với cuộc sống đa diện, đa chiều và phong phú của thời đại mới. Để

phù hợp với yêu cầu của đời sống, cảm hứng thơ không bị bó hẹp trong một phạm vi

đề tài nào mà ngược lại biên độ phản ánh của thơ ngày càng được mở ra theo nhiều

chiều kích mới, đa dạng và phong phú hơn. Thơ đi vào ngõ ngách của đời sống, cả

những vấn đề trước đây chưa được thơ quan tâm hoặc cấm kỵ, nay đã được khai thác.

Như vậy, có thể từ sau 1975, đề tài thơ đã được mở rộng trên nhiều bình diện, đặc

biệt từ sau 1986 khi vấn đề con người đã được quan tâm một cách chính đáng thì thơ

càng đi sâu vào khai thác đề tài đời tư, thế sự, trong đó có thơ của các nhà thơ nữ.

Nhận xét về các cây bút nữ, Bích Thu cho rằng: “Văn chương của phái đẹp hôm nay

đã không thi vị hóa những chuyến đi, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong giọt lệ

khóc chống hay giấc mộng phù dung mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác

đề tài thế sự, đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt,

riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những kiếp người quanh mình”.

Ở lĩnh vực thơ nữ, với sự tinh tế và nhạy cảm của tâm hồn phụ nữ, các chị đã

trở về với đề tài đời tư , thế sự để thông cảm, sẻ chia với những con người và cuộc

sống quanh mình. Trong thơ nữ hôm nay ta bắt gặp một thế giới thật bình thường.

Đó là những hình ảnh của một cụ già bán thuốc, một người đạp xích lô ế khách

trong Ánh sáng nhờ nhờ của Nguyễn Thị Hồng; là nỗi cô đơn tội nghiệp của bà lão

ăn xin trong Mẹ của Lê Hồ Lan; bà lão bán trầu trong Bà lão bán trầu cau của

Hoàng Kim Dung; nỗi đau của những em bé phải chịu thiệt thòi bởi cảnh ly hôn của

cha mẹ chúng trong Đồ chơi của Đoàn Ngọc Thu; tình cảnh của những con người

tội nghiệp, kém may mắn qua Người ăn mày, Hòn vọng phu sau mùa bão của

Phạm Thu Yến… Tất cả đều thể hiện qua cái nhìn cảm thông, yêu thương, trìu mến

của các nhà thơ nữ. Trong thơ nữ ta cũng bắt gặp những nỗi niềm, tình cảm, những

lo âu, khắc khoải, đau đáu yêu thương người thân, gia đình trong Những vần thơ về

mẹ, Nước mắt một đời, Thay cho lời ru, Cho ngày cuối, Cỏ trắng của Bùi Anh

Kim; trong Chỉ còn ảnh cha, Ngày của bà ngoại của Hoàng Kim Dung; trong Thời

tuổi trẻ bà đâu của Lâm Thị Mỹ Dạ…Nguyễn Thị Mai cũng có những câu thơ xót

xa về người mẹ đã quá cố của mình: “Mẹ ơi/ Thơm cay một miếng trầu xưa/ Mà con

phải bớt tiền mua vì nghèo/ Bây giờ đã bớt gieo neo/ Lại không còn mẹ mà chiều.

Khổ không?” (Qua hàng trầu nhớ mẹ).

Thơ của các nhà thơ nữ đôi lúc là tiếng nói đối thoại, điều trần với xã hội,

báo động sự xuống cấp của đạo đức, thói thờ ơ vô trách nhiệm của người đời:

“Những con lừa đã giấu đi bản chất/ Râu xanh/ Khoác trên vai mùi thơm những

vòng nguyệt quế”(Ốc đảo – Đoàn Thị Lam Luyến). Thơ bộc lộ nỗi đau thế thái nhân

tình trước sự thay đổi của lòng người, những tiêu cực trong xã hội (Nghịch lý –

Nguyễn Thị Hồng Ngát, Bài ca thời gian – Lê Thị Mây, Kết thúc một tác quyền –

Phạm Thị Ngọc Liên). Các chị đau đớn vì linh cảm được sự đổi thay của lòng người

trong thời buổi kinh tế thị trường, những điều cao quý thiêng liêng như tình yêu

cũng được đem bán mua, đổi chác, trái tim cũng trở nên cằn khô, cạn kiệt: “Thật

khủng khiếp khi lời yêu thương cạn kiệt/ Khi người ta cứ vô cảm sự đời/ Trước vẻ

đẹp của ánh trăng, ngọn cỏ/ Trước nỗi buồn da diết cũng dửng dưng” (Khoảng

cách – Hoàng Kim Dung).

Tình yêu luôn đồng hành với đau khổ và “những vết thương do tình yêu gây ra

dù không làm cho người ta chết, cũng không bao giờ chữa khỏi được” (Bairon). Vì

thế, thơ tình của các nhà thơ nữ hôm nay còn là nơi để họ giãi bày những nỗi đau của

mình. Đó là nỗi đau về cuộc đời, thân phận bị phụ bạc (Nhiều khi, Dalida của Lâm

Thị Mỹ Dạ); đau vì dang dở trong tình yêu (Vết xước, Vết thương của Nguyễn Thị

Hồng); đau khi đánh mất tình yêu (Chơi vơi, Tự mình của Bùi Kim Anh);…Dù là bị

người tình phụ bạc hay do lầm lỡ đánh mất tình yêu, trái tim phụ nữ đều rung lên

những nhịp đập xót xa đến tê dại, và đó là lúc: “Lặng im ngạt trái tim em/Tê dại đợi

chờ/ Khiến cảm xúc trở nên băng giá/ Thêm một giọt lặng im/ Để chịu đựng vỡ òa/

Con người đi nhanh hơn đến bờ bên kia cuộc sống” (Giọt lặng im – Bùi Kim Anh).

Khi phải chia tay, trong tình yêu người phụ nữ luôn nhận về mình những sự

thua thiệt, mất mát: “Khi chia tay/ Ta đã mất nhau rồi/ Đâu có nghĩ lại còn lần mất

nữa/ Lần mất sau nỗi đau hơn dao cứa/ Em đánh mất mình/ Anh vĩnh viễn mất em”

(Đánh mất – Nguyễn Thị Kim Quy). Và dù có cố gắng vùng vẫy thoát khỏi nỗi

đau, nhưng như một hệ lụy tất yếu của cuộc đời, của tình yêu, họ vẫn rơi vào thất

vọng ê chề. Tình yêu lúc ấy chỉ còn là “con đường hun hút” của những bi kịch. “Em

gọi mãi vừng ơi/ Câu thần chú đã không còn linh ứng/ Trước cánh cửa là em/ Sau

cánh cửa là con đường hun hút” (Không là cổ tích – Đinh Thị Như Thúy).

Cuối cùng, họ đành ngậm ngùi chấp nhận “sự dối lừa” như một liệu pháp tự

kỷ của tâm hồn “Thuốc đắng bao ngày dã tật thành quen” (Trƣớc mùa đông –

Đoàn Thị Lam Luyến). Khi tình yêu qua đi, trái tim người phụ nữ hằn lên bao tiếc

nuối. Đoàn Ngọc Thu trước sự tan vỡ của tình yêu, đã nghẹn ngào “tìm trong ký ức”

của ngôi nhà tình yêu: “Giã biệt những giấc mơ dang dở, “Giã biệt niềm khao khát

vẹn nguyên” để đi về “Nơi biển không có dã tràng”, để phải “đau từng bước chân

xa” khi đi qua ngôi nhà ký ức, nơi “có một phần tình yêu ở lại sau bậc cửa” (Ký ức

nhà cũ – Đoàn Ngọc Thu). Còn Bùi Kim Anh lại nuối tiếc vì dại dột “Cái thuở ban

đầu bối rối/ Dại dột tin màu hoa thủy chung”(Tím lỡ làng). Riêng Lâm Thị Mỹ Dạ

thì xót xa vô ý đánh mất những gì quý giá nhất của đời người con gái: “Làm sao xin

lại được/ Xin lại một lần hoa” (Hoa quỳnh).

Đặc biệt là Ý Nhi, người đàn bà có trái tim luôn “khắc khoải về những miền

ký ức”, thơ của chị là sự trăn trở, day dứt, hoài niệm về kỷ niệm của cuộc tình đau

khổ. Và khi đi qua những năm tháng đắng cay, hạnh phúc, cảm xúc của chị như

được dồn nén, ngưng kết lại trong tập thờ Vườn. Những câu thơ sau đây là tiêu biểu

cho mạch thơ ấy: “Em lặng lẽ nói cười/ lặng lẽ nát tan/ em thành lá, thành sương,

thành lửa/ em lặng lẽ kêu gọi, lặng lẽ cầu xin/ lặng lẽ chờ mong/ lặng lẽ vỡ òa

thành lệ/ ôi thời khắc huy hoàng” (Năm lời cho bài hát).

Còn bao nhiêu hoài vọng nuối tiếc, xót xa trở đi trờ lại trong thơ của các cây

bút nữ như Giấc mơ giữa những tầng ký ức, Lượm từ cổ tích…(Đoàn Ngọc Thu);

Giọt cuối (Bảo Chân); Giấc mơ xanh, Gọi thu (Nguyễn Thị Hồng), Tình tự ca (Vi

Thùy Linh), Ngày anh trở lại (Đinh Thị Thu Vân)… Yêu thương, nhớ nhung, đau

khổ, nuối tiếc…tất cả đã làm nên phẩm chất thơ tình yêu của họ. Đi sâu tìm hiểu các

sắc thái, cung bậc trong thơ tình của các cây bút nữ, ta càng hiểu,trân trọng và nâng

niu những giai điệu tình yêu của họ mang đến cho đời. Mỗi chị đều có một cách nói

rất riêng về tình yêu, đồng thời cũng bày tỏ những quan niệm, nhận thức của mình

về tình yêu vừa có tính kế thừa truyền thống nhưng cũng có những điều rất mới mẻ,

khác lạ mang màu sắc tiến bộ, nhân bản.

Nhìn chung, mọi biến động của cuộc đời đều được các nhà thơ nữ để ý và

phản ánh. Họ nói bằng những cảm xúc của “trái tim đàn bà”, bằng sự thành

thực,không né tránh những mặt trái đầy đau xót của xã hội. Họ luôn ý thức về trách

nhiệm công dân của mình, đồng thời khẳng định cái tôi đầy cá tính. Song các nhà

thơ nữ luôn chú ý đến những nỗi đau của đồng loại, đến thân phận con người, đặc

biệt là người phụ nữ với những khát vọng bản năng rất người. Đó là khát vọng hạnh

phúc, đươc làm mẹ, làm vợ, được sống bình yên trong mái ấm gia đình, được yêu

hết mình với cõi lòng rộng mở, vị tha, bao dung nhưng cũng đòi hỏi sự đáp lại bằng

tình yêu chân thành, tuyệt đích. Các nhà thơ nữ có đóng góp rất lớn trong việc thể

hiện đề tài muôn thuở của nhân loại, đó là đề tài tình yêu. Thơ tình của các chị là

tiếng nói của những người trong cuộc, không phải là những lời lẽ than vãn buồn đau

của người “chinh phụ” hay của người “cung phi” bất hạnh; không phải là nỗi bi lụy,

sướt mướt, úa tàn của người phụ nữ trong “Thơ Mới”, mà ở các chị, tình yêu luôn là

tiếng nói sòng phẳng, tư thế của con người là tư thế chủ động đáng trân trọng. Thơ

họ còn là một bức thông điệp gửi đến mọi người nhằm giải minh cho những cái

nhìn định kiến, những quan điểm không đúng về người phụ nữ, mong muốn thay

đổi về quan niệm “mẹ chồng nàng dâu”, “dì ghẻ con chồng”, sự lỡ thì, sự có con

ngoài giá thú, sự kết hợp muộn màng với tư cách là kẻ đến sau…Với những đóng

góp ấy, các nhà thơ nữ đã tạo nên một hương sắc riêng trong vườn thơ của dân tộc.

1.2.2. Cá tính sáng tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng.

1.2.2.1. Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà “dại yêu” và khát vọng sống

mãnh liệt.

“Lam Luyến yêu ghét không bao giờ lưng chừng, mạnh bạo, cả quyết đến

liều lĩnh bản năng. Với nàng, chưa yêu là chưa sống. “Con tim em hạn hán – Tình

anh là mưa bay”. Cứ thế Lam Luyến lặng lẽ nhả hương trong bóng tối đời mình.

(Thái Doãn Hiểu- Rút trong bộ Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại). Và có hẳn một tập

thơ của Đoàn Thị Lam Luyến có tên là… “Dại yêu”, có cả một tập hợp chân dung

những người đàn bà “dại yêu” trong thơ chị: xưa là Mỵ Châu, Xúy Vân, Thị Mầu,

Thúy Kiều, Hồ Xuân Hương…nay là người đàn bà “lỡ chồng” với đứa con mang họ

mẹ, một người bạn thơ “càng say càng gặp tình vờ”, một người em gái với đời riêng

lấy “cái thất tình làm vui”…Bởi thế mà trong thơ chị nhắc đến rất nhiều những cả

tin, dại khờ, nông nổi… của chủ thể trữ tình, một người đàn bà vốn “đa tình liền với

đa đoan/ Tơ duyên đã nối lại càng nối thêm”… Thế nên, không hề quá lời khi người

ta nói rằng người đàn bà dại yêu là một hình tượng nổi bật trong thơ Đoàn Thị Lam

Luyến. Đấy là một cách khái quát mộc mạc, dân giã, pha chút trào lộng nhưng xác

đáng về những người phụ nữ có bản năng yêu đương sôi nổi, bất chấp mọi ràng

buộc cũng như thói tục thông thường, và như một tất yếu, thường có số phận lỡ

làng, bi đát…Vô tình hay cố ý, những nét “đặc tả” hình tượng này khiến những ai

từng biết Đoàn Thị Lam Luyến không khỏi liên tưởng tới tiểu sử của chính tác giả.

Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, cuộc sống của Đoàn Thị Lam

Luyến vất vả từ nhỏ, khi bước vào đời lại gặp nhiều éo le ngang trái. Đoàn Thị Lam

Luyến sinh ngày 14 – 06 – 1951 (Tân Mão), quê quán tại xã Anh Dũng, Phù Tiên,

Hưng Yên. Hiện sống tại Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học (Văn học

và Mỹ thuật) là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996). Chị theo học khoa Mỹ

thuật nhưng lại có đam mê với thơ. Thơ với chị không phải nghề mà là nghiệp!

1976 - 1982: Học Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Từ 1983 đến 2003: biên tập viên

mỹ thuật tại Nhà xuất bản Thanh niên. Hiện chị làm giám đốc Trung tâm Quyền tác

giả văn học Việt Nam .

Tác phẩm đã xuất bản:

1. Mái nhà dưới bóng cây (In chung - 1985).

2. Lỡ một thì con gái (1989).

3. Cánh của nhớ bà (1990).

4. Chồng chị chồng em (1991).

5. Châm khói (1995).

6. Dại yêu (2000).

7. Sao dẫn lối (2005)

Nhà thơ đã được nhận: Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1989 - 1990.

Tặng thưởng thơ của Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1995 (tập thơ Châm khói). và 2005

(tập thơ Sao dẫn lối).

1.2.2.2. Dư Thị Hoàn – một “lối nhỏ” độc đáo trên hành trình sáng tạo thi ca.

Bốn mươi mốt tuổi mới bước vào làng thơ bằng “Lối nhỏ”, Dư Thị Hoàn

dường như không có ý định làm thơ như một sự lựa chọn sinh tồn, mà thơ đến với

chị như sự bù đắp những nghiêng ngả mệnh kiếp long đong. Chính chị từng tâm sự

rằng “Chính là thơ, cái mà chị căm giận nhất, lại đến và cứu vớt chị”. Qua thơ chị,

người đọc nhận ra chân dung một người phụ nữ đầy tình thương, bao dung và độ

lượng. Có lẽ đấy còn là chân dung về người phụ nữ của một thời, của hôm qua và

hôm nay mà chị ghi lại cho cuộc đời này.

Dư Thị Hoàn tên thật là Vương Oanh Nhi, sinh ngày 01 – 08 – 1947, quê

quán Quảng Tây – Trung Quốc. Chị sống ở Hải Phòng, làm thơ, dịch Hán học và

viết phê bình văn học. Bố và mẹ chị đều là người Hoa Kiều, bố chị làm chủ bút cho

một tờ báo lớn của cộng đồng người Hoa tại Hà Nội. Cuộc sống của chị trải qua

những bước thăng trầm cùng lịch sử.

Dư Thị Hoàn là người Trung Quốc thuần chủng, nhưng mang gia phả bảy

đời sống ở đất Việt. Chị học hết phổ thông chính quy và tương đối hệ thống trong

các trường Trung văn có tiếng cả thời Tây lẫn thời Ta. Tám tuổi chị mới học đánh

vần Việt ngữ, chị say mê môn tiếng Việt bắt đầu từ một lần nghe thầy giáo Việt

Nam giảng Truyện Kiều hồi lớp bảy. Từ đó, chị đắm chìm trong một thế giới tiếng

Việt dung dị và diệu kỳ. Rồi sau này không chút do dự, chị trao thân gửi phận cho

người thầy giáo dạy Việt văn. Chị là người Hoa nhưng lại lấy chồng Việt, chị yêu

và kết hôn với thầy giáo dạy văn trong trường của người Hoa lúc chị 21 tuổi. Chồng

chị là anh giáo Trọng hơn chị 9 tuổi, người đen gầy, tướng mạo xấu xí, anh mắc

bệnh ho lao nhưng giảng Truyện Kiều thì hút hồn, nhờ anh mà Dư Thị Hoàn biết có

một nền văn học Việt Nam.

Vào thời chiến, hiểm nguy kèm theo những khó khăn, anh giáo Trọng đổi

nghề thành nhà thơ Trịnh Hoài Giang, làm việc ở Hội văn nghệ thành phố cảng Hải

Phòng. Bao nhiêu khó khăn dồn dập đến với chị. Chị làm đủ nghề sau khi giấc

mộng đại học không thành như: công nhân lọc dầu nhà máy cá hộp, thợ tiện nhà

máy đóng tàu, chị còn là đội phó đội văn nghệ nhà máy, hay ca hát, dựng tiết mục

phục vụ công nhân, tự vệ, bộ đội ở các trận địa, ụ pháo, ụ súng trong thành phố. Sau

khi bị tai nạn lao động, chị phải nghỉ việc, ra buôn hàng ở chợ Sắt để nuôi sống gia

đình. Chị bán từ đồ sắt, đồ kim loại cho đến hoa quả, thuốc tây, vải vóc, quần áo…

Có một thời gian chị phải vào bệnh viện để điều trị tâm thần.

Công việc sinh nhai của chị cũng được hồi sinh nhờ thời đổi mới. Chị lao

vào làm kinh tế. Sẵn có vốn tiếng Trung chị làm phiên dịch, làm chức phó văn

phòng, đại diện cho Công ty Mee Wah Hồng Kông tại Hải Phòng. Sau đó vào năm

1995 chị thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Huệ Hoa tại Hải Phòng và giữ

chức giám đốc cho đến năm 1999 thì từ giã thương trường.

Dư Thị Hoàn nghẹn ngào khi bày tỏ nỗi lòng của mình “tôi có một gia đình

êm ấm, hạnh phúc như thế đấy…Giá như không có cuộc chiến 1979, giá như không

xảy ra biến cố người Hoa”. Dẫu chị có một gia đình êm ấm, hạnh phúc nhưng chị

không bao giờ quên được những biến cố, mất mát về người thân của chị. Chị đã viết

những bài thơ đầu tay trong đau đớn, mất mát đó (Mười năm tiếng khóc, Bức thư

người Hoa, Tổ quốc – trong tập “Lối nhỏ”) và bất đắc dĩ trở thành nhà thơ.

Cuộc đời chị đã trải qua bao nhiêu biến cố thăng trầm, bao lênh đênh chìm

nổi. Chị tìm đến thơ như là một niềm an ủi để giải tỏa mọi bức xúc của mình. Hiện

tại chị là nhà văn người Hoa duy nhất trong Hội nhà văn Việt Nam.

Ngay từ tập thơ đầu tay Lối nhỏ (Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng xuất

bản, năm 1988), Dư Thị Hoàn đã khẳng định được tài năng của mình. Một trái tim

nhạy cảm và thâm thúy đã giúp chị cảm nhận những vấn đề đời tư, thế sự một cách

đầy trách nhiệm. Với Lối nhỏ, nhà thơ Dư Thị Hoàn đã đánh dấu bước chuyển biến

của thơ Việt đổi mới cùng nhiều hiện tượng thơ nữ khác như Giáng Vân, Lâm Thị

Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Lê Thị Mây, Phạm Thị Ngọc Liên…Chị đại diện

cho “lối thơ” trở về với cá nhân. Dư Thị Hoàn đã đi vào thơ bằng con đường riêng,

bằng cách riêng không giống ai. Đó là một “Lối nhỏ” với tâm trạng phức tạp pha lẫn

yêu thương, chán chường, giận dỗi, dữ dằn cùng với lo âu. Tập thơ Lối nhỏ, mỏng

manh với 43 bài thơ, gây được sự chú ý của bạn đọc vì sự mới lạ của cảm xúc và

cách phô diễn của nó. Người ta bắt gặp không ít những giọt nước mắt trong thơ,

nhưng cũng chưa thấy mấy ai khóc thảm thiết như Dư Thị Hoàn: “Khóc cho hết hơi/

Khóc cho trời sập/ Khóc cho cột điện đổ/ Khóc cho tà – vẹt trôi/ Khóc cho còi tài

câm bặt/ Khóc cho tay lái rời vô lăng/ Khóc cho đoàn tàu không dám lăn

bánh…”(Mười năm tiếng khóc). Đấy là tiếng khóc cho cuộc “sinh li” vĩnh viễn với

người mẹ của chị.

Một thời gian sau, chị cho ra đời tập thơ tiếp theo Bài mẫu giáo sáng thế

(NXB Hội Nhà Văn, 1993) khi cuộc sống của chị khá giả. Vẫn trên nền tảng giọng

thơ rất riêng ấy, ta cảm nhận được rằng, tập thơ trước chị nói nhiều về những cung

bậc, sắc thái của tình yêu đôi lứa, đến tập thơ này chị thể hiện nỗi lòng mình với

nhiều số phận khác nhau trong cuộc đời, thông qua tình thương: thương người,

thương thân và suy ngẫm về cuộc đời. Thơ chị đi sâu vào nỗi đau âm ỉ trong lòng

con người, đồng thời bộc lộ khát vọng vươn tới một lý tưởng đẹp đẽ và cao thượng,

khơi dậy bản chất tốt đẹp, hướng thiện của con người.

Tập thơ thứ ba Du nữ ngâm dù đã có giấy phép xuất bản nhưng chị chưa cho

xuất bản. Nó chưa được lưu hành rộng rãi đến tất cả mọi người nhưng hầu hết

những bài thơ trong đó đã được đăng tải rải rác trên các báo, tạp chí. Ý thức đổi mới

của chị thể hiện trong Du nữ ngâm hết sức rõ rệt. Những nhan đề đã mang màu sắc

tôn giáo, hình ảnh thơ hơi quái dị: cuồng nhân, du nữ, đám lửa nhảy nhót cười trên

bãi tha ma…

Thơ “cứu vớt cuộc đời” của Dư Thị Hoàn, chị sống với thơ bằng một trái tim

đầy tổn thương. Nói cách khác, từng nhịp đập của trái tim, từng hơi thở của cuộc

sống đã trở thành âm hưởng chính trong thơ chị “Nhịp tim chạm phải ngày đông

cứng/ Trí não va vào đêm sạt lở/ Không gian chật chội quá/ Muốn chan tất cả vào

thơ” (Thi sĩ). Trái tim tổn thương, đầy trải nghiệm ấy đã cho Dư Thị Hoàn sự nhạy

cảm, tiếng nói sẻ chia trước nỗi đau thân phận những người phụ nữ bất hạnh trong

tình yêu và đắng cay của đời mình. Từ đó, tạo nên trực cảm lâu bền của thơ chị. Dư

Thị Hoàn luôn trân trọng, chăm chút từng biểu hiện nhỏ của cuộc sống, luôn quan

tâm chia sẻ một cách chân thành với bạn bè và những người xung quanh. Bởi thế,

chị là người phụ nữ của tấm lòng bao dung và độ lượng. Nhờ những trực cảm mạnh

mẽ mà thơ của Dư Thị Hoàn trở thành “tiếng thốt” của trái tim chứ không phải

“chuyện lựa đời mà viết” như nhiều người khác, nên thơ ấy luôn chân thật, mới mẻ

và xúc động lòng người. Cái “trực cảm thơ” ấy là do số phận và sự từng trải của

từng nhà thơ tạo nên, không học hỏi ở bất cứ sách vở hay trường lớp nào. Có lần Dư

Thị Hoàn đã bộc bạch “Hồi bán cá ở chợ, cả vỉa hè nữa, tôi buôn vải vóc quần áo,

ca cốc, thuốc men, hoa quả, ngao ốc…thượng vàng hạ cám, không thiếu thứ gì,

xông xáo và tháo vát. Nhưng lại sượng sùng khi phải đi bán thơ!”. Thế mới biết cá

tính Dư Thị Hoàn là vậy, quyết liệt, rõ ràng, và kiêu hãnh.

 Quan niệm nghệ thuật của Dư Thị Hoàn.

Thơ là gì? Thật khó gọi đích danh, nhưng tham vọng của con người lại đi tìm

cái không thể nắm bắt được nó. Thơ ca xuất phát từ trái tim tài năng và trong sạch,

từ trí tuệ minh mẫn và sự lao động kiên nhẫn bền lòng. Thơ ca không chỉ là nguồn

an ủi mà là sự gột rửa tâm hồn, nó giúp cho con người vượt qua được những bi kịch

nội tâm, nó đánh thức lương tri thánh thiện của mỗi con người. Bởi thế mỗi bài thơ

hay là một định nghĩa cho thơ.

Với thi sĩ Dư Thị Hoàn thì thơ ca chính là sự cứu vớt cuộc đời chị. Bởi thế

hơn ai hết chị ý thức rõ về công việc lao động nghệ thuật, đề cao giá trị và thiên

chức của người cầm bút. Khi được hỏi về quan niệm sáng tác thơ, Dư Thị Hoàn đã

trả lời: “Nếu độc giả chịu khó bóc tách từng phần ẩn dụ trong bài thơ thì quan niệm

của tác giả sẽ được biểu lộ trên mặt chữ”. Tính triết lý trong thơ chị không nằm ở

phần bề mặt của ngôn ngữ mà nằm ở phần ngôn ngữ được bóc tách ấy. Thơ là sự

kết tinh những gì tinh túy nhất ẩn giấu đằng sau bề mặt nỗi của ngôn từ. Thơ phải

tìm được tiếng nói đồng cảm, sự sẻ chia chân thành từ tâm thế người đọc. Nữ thi sĩ

luôn chắt lọc để đem đến cho thơ một diện mạo mới. “Đứa con ta sinh ra/ Đâu hồn

đâu phách/ Diện mạo như nước chảy/ Tính tình tựa gió mây/ Ta nhận ra con/ bởi

vòng hào quang ai oán/ Một đêm với cõi/ động mùa/ sao rụng/ rơi trăng” (Nghiệp

chướng thi ca).

Thơ đến với chị cùng lúc với bệnh tật đang hành hạ tinh thần và thể xác.

Chính những ngày ở trong bệnh viện tâm thần lại giúp cho Dư Thị Hoàn có được

những suy nghĩ chín chắn hơn, đồng thời cũng khởi nguồn trong dòng chảy của tâm

thức nhà thơ. Đối với Dư Thị Hoàn, khi điên cũng là lúc sáng suốt nhất bởi đó là

hành trình đi tìm bản ngã của mình: “Tôi sẽ khỏi bệnh/ Lại dịu dàng hát bên chiếc

khung thêu ngày ấy/ Không cần bác sĩ/ Không cần những viên thuốc đắt tiền/ Chỉ

cần đôi bàn tay nào run rẩy mang đến/ Một nhành hoa dại thôi” (Trong bệnh viên

tâm thần).

Mỗi người có một quan niệm khác nhau về thơ, tùy thuộc vào thiên hướng tư

duy, nhận thức và cảm xúc của họ. Với Dư Thị Hoàn, thơ còn như một cái nghiệp “

Thơ đến với tôi cùng lúc với những hoạn nạn mới mẻ và sâu sắc thì đúng hơn. Nó

chấn động cuộc sống của tôi đến mức quá tải. Tôi còn chịu đựng được có nghĩa là

tôi còn cơ hội để tìm hiểu tôi, giống và khác một con người ở chỗ nào? Tôi muốn

mã hóa những cuộc tìm kiếm ấy. Rút cuộc, tìm kiếm lại dẫn tôi đến với những bất

ngờ liên tiếp chứ không phải đáp số. Khi nào tôi gặp được đáp số thì có lẽ thoát

được nghiệp chướng văn thơ”. Bởi vậy, quan niệm của Dư Thị Doàn về thơ cũng

hết sức độc lập, bản lĩnh. Với chị thơ – là nơi ký thác tâm hồn với những niềm vui,

nỗi buồn, đau khổ yêu thương của cái tôi cô đơn và cả những ngẫm ngợi, suy tư

nhân tình thế thái. Chị viết bằng trái tim đầy mẫn cảm, ưu tư với một tâm hồn nóng

bỏng, bồi hồi. Thơ Dư Thị Hoàn là tiếng nói vang lên từ tâm thức. Nhà thơ khẳng

định được “cái tôi” trong thơ và sự kiếm tìm mệt mỏi trên con đường đi đến “thiên

đường thơ”.

Dư Thị Hoàn đã phả hồn mình vào trong rất nhiều bài thơ của chị. Nó nặng

trĩu nỗi lo, day dứt, trăn trở. Từng tiếng thơ vang lên nhẹ nhàng, man mác như tiếng

thơ buồn trong đêm. Đằng sau vẻ đẹp tuyệt diệu của hoa quỳnh, trái tim đa cảm của

chị chợt dâng lên niềm xót xa cho kiếp đời ngắn ngủi của nó. Đến khi trở lại chính

mình mới thấy đơn độc biết nhường nào: “Hỡi ơi! Người đến muộn sao,/ Chỉ còn

tịch mịch canh thâu đêm thừa…”(Khóc hoa quỳnh).

Nữ thi sĩ cũng dành một phần rất sâu kín trong tâm hồn để lăn lóc thân phận,

sẻ chia, chua xót với nỗi đau của những cảnh đời không mấy bình yên: “Em lăn lóc

kiệt sức dưới bàn chân chiến thắng/ Họ đá bật em từ phía này sang phía nọ để lưu

danh” (Tâm sự quả bóng đá).

Qua thời gian chiêm nghiệm, tinh lọc đã phát tiết ra những bài thơ mang “hơi

thở, máu thịt mình” (Dư Thị Hoàn). Bởi thế thơ của chị bàng bạc cái tôi trữ tình

triết lý, chiêm cảm là vậy. “Nếu anh cũng như em/ Đòi nhau sự viên mãn/ Thì điểm

gặp nhau của chúng ta/ Còn thảm hại hơn hai hòn bi” (Viên mãn). Thế mới biết

con đường tìm đến với thơ thật nan giải, chứ không hề đơn giản, chị đã phải nếm

trải tất cả những buồn vui, cực nhọc của cuộc đời không mấy bình yên. “Đường vào

mộ địa gập ghềnh con chữ/ cỗ xe tang câm lặng chở ham muốn/ hỷ, nộ, ai, lạc, ái,

ố/ lăn bánh nhọc nhằn…” (Thi sĩ).

Để sáng tạo và làm nên dấu ấn riêng thật không hề dễ dàng, Dư Thị Hoàn đã

phải sử dụng hàng loạt những động tác và giác quan của mình một cách tinh tế để

cảm nhận sự trôi chảy của thơ “Tôi nấp/ Tôi nghe/ Tôi nín thở/ Rồi tất cả trong tôi

vụn vỡ ra/ Sức cộng hưởng đang tàn phá/ Tôi bắt gặp thi ca” (Viết tặng một nhà

thơ già). Và đặc biệt trong thơ thì vấn đề xúc cảm là một yếu tố quyết định nên cái

hồn của bài thơ, Dư Thị Hoàn đặc biệt chú ý đến vấn đề này, nếu không có xúc cảm

mãnh liệt, dồi dào trong sáng thì nhà thơ không thể thăng hoa nghệ thuật, và sáng

tạo nên những hình tượng đẹp, những thi tứ hay.

Quan niệm thơ của Dư Thị Hoàn có gốc rễ sâu xa từ một tài năng và khát

vọng hoàn thiện thi ca. Nó được soi rọi từ nhiều góc độ và bằng những điểm nhìn

khác nhau. Đó còn là sự kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc, lại vừa tìm tòi, cách

tân để tạo ra một thế độc lập. Dư Thị Hoàn vừa cái nhìn chủ quan nhưng lại được

chắt lọc từ hiện thực khách quan. Vì vậy, nhà thơ luôn tự chủ động vươn lên nhưng

thành trì kiên cố với sự học hỏi không ngừng trong việc đổi mới phong cách thơ của

mình.

1.2.2.3 .Hoàng Việt Hằng – “một mình khâu những lặng im” và âm thầm tỏa

sáng.

Trong lịch sử văn học Việt Nam không có nhiều người đàn bà theo nghề viết

mà có được hạnh phúc viên mãn. Đàn ông sống bằng nghề viết đã cực nhọc, mà đàn

bà sống bằng nghề viết còn cực nhọc gấp bội. Và Hoàng Việt Hằng là minh chứng

tiêu biểu cho số phận truân chuyên của người đàn bà trót đa mang nghiệp cầm bút

để bươn chải với cuộc sống.

Hoàng Việt Hằng tên thật là Hoàng Thị Hằng sinh ngày 29 tháng 12 năm

1953 tại Vân Hồ, Hà Nội. Hội viên nhà văn Việt Nam. Các tác phẩm chính: Những

dấu lặng (1990), Tự tay nhóm lửa (1996), Chuông vọng (2000), Một mình khâu

những lặng im (2005), Vệt trăng và cánh cửa (2008)…Giải thưởng Hội nhà văn

Hà Nội năm 2008 cho tập thơ Vệt trăng và cánh cửa, giải thưởng 5 năm của Tổng

liên đoàn lao động Việt Nam (1990 – 1995) cho tập Những dấu lặng, giải thưởng

của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội văn học – nghệ thuật Việt Nam cho các tập

thơ: Một mình khâu những lặng im, Tự tay nhóm lửa…

Là người Hà Nội gốc, yêu thơ, đến với thơ ca từ năm 17 tuổi, Hoàng Việt

Hằng tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du khóa 7. Khác với bạn bè, chị là người

lận đận trên con đường công danh và duyên phận. Chị gặp và yêu nhà văn Triệu

Bôn khi ông đã nổi tiếng với “Mầm sống” và những tập truyện ngắn, truyện dài của

một người lính đã kinh qua chiến tranh bom đạn. Mối tình éo le của cô gái mới lớn

và nhà văn lớn tuổi trải qua biết bao nhiêu ghềnh thác, kéo dài bao nhiêu năm rồi

mới có một đám cưới.

Là người cầm bút sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng Hoàng Việt Hằng

thường viết về những phận người nhỏ bé, thua thiệt nhiều lẽ ở đời. Đọc thơ chị

nhiều, day dứt cùng chị những hình ảnh người đàn bà bán rau, những phụ nữ nghèo

“rắc ngô và rắc lúa” trên núi cao, một chị Thứ nông dân nào đó ở đồng bằng Bắc

Bộ mà chỉ cần nhà thơ không ngủ ở khách sạn 5 sao một đêm là đã có thể đỡ cho

chị một năm không phải ra đồng…Hoàng Việt Hằng lúc nào cũng cúi xuống những

số phận có phần lấm lem như vậy, dường như hơi “âm lịch” so với cuộc sống đang

rầm rập hào nhoáng ngoài kia. Chị rất thích những chuyến đi xa, với chiếc túi trên

đôi vai vững chãi, cây bút và trái tim nồng ấm trong ngực, để được chia sẻ, được

đến gần những con người thiếu may mắn. Với chị, họ chính là tri âm, là người vực

chị dậy sau những đau buồn, an ủi chị và trở thành lý do để chị tiếp tục cuộc sống.

Nhẫn nại, hi sinh, luôn nhận về mình mọi thua thiệt, lúc nào cũng cố gắng

làm tròn đầy mọi hao khuyết, nhưng rồi cuộc sống vẫn không cho chị bình yên.

Bình yên thực sự với Hoàng Việt Hằng có lẽ là khi chị nhận ra rằng, làm người đàn

bà nhiều khi phải học cách dựa vào chính mình, làm chủ đời mình, như một cái cây

đứng giữa trời mà reo…Dựa vào chính mình, cái ý nghĩ ấy ít nhiều mệt mỏi, ít

nhiều “cực chẳng đã” nhưng biết làm sao, khi người đàn bà đã trót cầm bút, chấp

nhận những đọa đày chữ nghĩa. Nhất là khi người đàn bà ấy lại chấp nhận gắn bó số

phận mình với một người chồng, một người lính, một nhà văn đang phải chịu không

chỉ đọa đầy chữ nghĩa mà còn là biết bao chằng víu cuộc đời riêng… Trong sự gắn

bó định mệnh ấy, người đàn bà yêu chồng biết làm gì hơn ngoài sự im lặng. Hãy

nhìn sự im lặng chất chứa thân phận trong thơ Hoàng Việt Hằng:

“Em khâu tóc trắng thay lời

Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau

Con chồng, vợ cũ đồng sâu

Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng.”

Viết về đời riêng, cho chân thực, cho sòng phẳng với chính mình đúng là

không dễ. Chị từng tâm sự: “Khi chồng tôi còn sống, những lúc rượu say anh

thường bảo tôi, giá như em đừng thật như vậy thì em không khổ, và anh cũng không

làm em đau đớn. Nhưng tôi nghĩ, dưới ánh sáng mặt trời, mọi sự cần minh bạch và

ta nên minh bạch. Có nhiều người thích tô son, trát phấn, đắp điếm cho đời sống của

mình, còn tôi thì không. Giời cho thế nào thì tôi nhận thế đấy, tôi không chối bỏ

điều gì.”. Không chối bỏ điều gì, cho dù đó là ngọt ngào hay cay đắng, sung sướng

hay khổ đau, bất hạnh, đó là một thái độ sống mà phải trải qua rất nhiều chặng gian

nan của cuộc đời Hoàng Việt Hằng mới chiêm nghiệm thấy. Bởi thế thơ chị rất giản

dị và gần gũi, người đọc có thể soi thấu mình trong những thân phận, những cuộc

đời lam lũ nhỏ bé để thấy mình cần sống xứng đáng hơn.

Còn lại một mình với con trai, với những ký ức không nguôi thổn thức, chị

Hoàng Việt Hằng lại lao vào cuộc vật lộn để sống, để cặm cụi viết. Những chuyến

đi đơn độc, nhọc nhằn nhưng lại cho chị niềm vui, niềm hứng khởi. Một nhà thơ,

người bạn của chị đã nói rằng, chị là người đàn bà luôn phải bôn ba qua nhiều ngả

phố, miền đất, chân bước nhanh nhưng trái tim cứ ngoảnh lại, xuyên vào những

buồn thương nhân thế. Và trong một nửa là thơ. Một nửa là cuộc đời kiếp lạc đà ấy

là vời vợi mênh mông nỗi buồn. Chị cũng ngộ ra rằng, cái kiếp viết, dù có nhọc

nhằn, có bạc bẽo thì cùng:

Xin cảm ơn câu thơ

Cho tôi tựa vào người

Mỗi khi đơn độc…Tôi tựa vào Người

Để thở

Để sống

Và để chết….

CHƢƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƢ

THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT

HẰNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG.

Với mong muốn góp cho đời những vần thơ hay, thi sĩ đã phải đi hết cái tôi

của mình để hiểu được cái ta của mọi người. Làm được điều này, cái tôi của nhà thơ

đã phân thân, biến báo thành nhiều người để thấu suốt và bộc lộ được các sắc thái

tình cảm, niềm vui, nỗi buồn của nhiều số phận. Mỗi con người ấy hiện diện trong

thơ là một cái tôi trữ tình, là nơi chốn để nhà thơ gửi gắm một phần diện mạo của

cái tôi trong mình. Xây dựng lên trong thơ một thế giới những hình tượng cái tôi trữ

tình khá đa dạng và nhiều tầng bậc cảm xúc khác nhau. Mỗi một nhà thơ một cá

tính sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân riêng biệt tạo nên sự phong phú,đa dạng

trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

2.1. Cái tôi trữ tình trong thơ Dƣ Thị Hoàn.

Thơ thường nói về cái tôi của chính chủ thể sáng tạo. Nói cách khác, thơ là

phương tiện để người nghệ sĩ gửi gắm những ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình

đối với thế giới nhân sinh. Dư Thị Hoàn đã xây dựng lên trong thơ một thế giới hình

tượng cái tôi trữ tình khá đa dạng với cái tôi băn khoăn day dứt trước thực tại đời

sống, cái tôi trữ tình triết lý, chiêm cảm. Bên cạnh hình tượng không gian nghệ

thuật và thời gian nghệ thuật, Dư Thị Hoàn đã tìm thấy cho mình những vần thơ

chứa đựng chiều sâu của cảm thức văn hóa rất riêng trong tình yêu và trong cuộc

sống.

2.1.1. Cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống.

Bước vào làng thơ với Lối nhỏ đã gây ấn tượng mạnh với công chúng yêu

thơ đương thời. Bài thơ Lối nhỏ mở đầu tập thơ là một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn

thơ chưa rõ ràng song hết sức quyết liệt. Người phụ nữ ấy chấp nhận tất cả những

“lối nhỏ”, lối đi gập ghềnh sỏi đá, lối đi rung động xốn xang…với niềm tin mãnh

liệt: “Chính lối này đưa em đến anh”. “Anh” là hiện thân cho lý tưởng sống, lý

tưởng nghệ thuật người phụ nữ ấy đeo đuổi. Một bài thơ nhỏ tiết lộ một thái độ

sống, thái độ nghệ thuật hết sức thành khẩn mà điều đó được hiện thực hóa bằng

toàn bộ tập thơ. Dư Thị Hoàn lặng lẽ đi vào “lối nhỏ” thơ ca: trên hành trình đó, chị

được hoài nghi, từ khước, tìm kiếm và tự vấn. Cái mới của chị là tinh thần hoài nghi

(về lịch sử, quá khứ, hiện tại, dân tộc, văn hóa, thơ ca…), là nhu cầu mạnh mẽ

khẳng định bản sắc cái tôi và niềm tin cá nhân.

Bước vào thế giới thơ Dư Thị Hoàn, người ta bất ngờ khi gặp diện mạo một cái

tôi trữ tình khiêm nhường mà cá tính: chối bỏ đám đông, sự ồn ào, những đại ngôn, để

nói tiếng nói của mình. Thế giới với chị thật giản dị đó là thế giới của “em”- cái tôi trữ

tình nhập thân, và cái “tôi”- trữ tình tự bộc lộ. So với Thơ mới (1930 -1945), tiếng nói

cá nhân thành thực này không có gì mới mẻ. Nhưng so với quãng im lặng của cá nhân

trong bản hùng ca thơ cách mạng 1945 – 1975, tiếng thơ Dư Thị Hoàn đã trở thành

những tiếng gọi cá – nhân đã mất, là sự thật đã bị vùi giấu đòi lộ diện. Bởi thế, cái tôi

trữ tình trong thơ chị luôn băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống, chị luôn tự vấn,

luôn đi tìm sự thật, bản chất của nhân sinh, cuộc sống, tình yêu…

Cái tôi Dư Thị Hoàn luôn băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống, và

luôn khát tìm những chân lý sống, vì thế luôn có xu hướng đối thoại. Nhà thơ đặt

câu hỏi: đâu là sự thật trong cuộc sống này? Chị nhận thức lại những vấn đề từ lớn

lao đến nhỏ bé, từ cuộc sống chung đến con người cá thể. Cái tôi của chị đối diện

với tổ quốc để đối thoại về giá trị của nó:

Tôi quỳ sụp trước hai tiếng hư vô

Người là ai?

Uy nghiêm trên ngai vàng tín ngưỡng

Có giây phút nào người ái ngại

Đất đai đóng khung vì người

Tình yêu chật hẹp vì người

Đường viền của người thắt quặn trái tim tôi

(Tổ quốc)

Chị nhận thức lại về lịch sử dân tộc từ điểm nhìn của con người mang dòng

máu Trung Hoa nhưng gắn bó với mảnh đất Việt:

Dải đất này chao đảo

Chẳng riêng mình chị cơi đốm lửa nhọc nhằn

Nếu bài thơ được viết

Từ ngôn ngữ của một dân tộc đau khổ

(Bức thư người Hoa)

Chẳng dễ dàng gì với một người như chị sống trên mảnh đất chịu quá nhiều

đau khổ, nhưng với chị nó lại là ngọn nguồn nuôi dưỡng tâm hồn và cho chị những

khoảnh khắc bình yên. Những vần thơ như chính tâm hồn chị lan tỏa và hòa quyện

với lòng yêu nước nồng nàn mới tạo nên những tứ thơ lay động hồn người như thế.

Chị còn cảm nhận được nỗi nhọc nhằn trong sự sống thường nhật của mỗi cá thể

qua một chuyến tàu:

Mỗi ngày ngần ấy chuyến

Đoàn tàu chở bao nhiêu nỗi lo âu lên dốc

(Qua đèo Hải Vân)

Nhịp điệu của cuộc sống cứ hiển hiện qua từng chuyến tàu qua lại, số phận

của con người cũng vậy, bộn bề lo toan của cuộc sống có khi nào hết với những

người lao động nghèo khổ. Và chị dường như mắc nợ với những tiếng kêu thương

muôn kiếp từ cuộc đời ấy:

Khối óc tôi tàn tật

Bởi tiếng kêu cứu dai dẳng

Từ những số phận đang thoi thóp sống

Từ những số phận đang đợi chờ.

(Trước ban thờ)

Nhận thức về những vấn đề của cuộc sống, Dư Thị Hoàn đi thêm một bước

xa hơn là nhận thức lại về con người trên phương diện cá thể, tất nhiên trong đó có

nhận thức về bản thân mình, trong đó nhiều nhất là những bài thơ viết về đề tài tình

yêu. Tình yêu là ngọn lửa tạo nên sức sống trong tâm hồn con người và nguồn cảm

hứng bất tận của thi ca. Macxim Gorki nói: “Tình yêu đó là thơ ca cuộc đời, cuộc

sống thiếu tình yêu không phải là sống mà là tồn tại. Biết rằng mình đang yêu và

đang được yêu làm cho cuộc sống có ý nghĩa, ấm áp và giàu có – điều mà ngoài

tình yêu ra không gì có thể làm được”. Bởi thế mà từ xưa đến nay thơ ca viết về tình

yêu rất phong phú. Mỗi người đều có số phận riêng và tình yêu của họ cũng gắn liền

với số phận của cuộc đời họ. Có thứ tình đẹp, tròn đầy viên mãn, nhưng cũng có thứ

tình dang dở, để lại cho người trong cuộc sự nuối tiếc, lỡ làng. Bởi khi đau khổ nhất

cũng là khi con tim cất thành lời, và những áng thơ tình cũng xuất hiện từ đó.

Tiếng nói thơ tình hôm nay thực hơn, đời hơn, phức tạp hơn và cũng đau đớn

hơn. Cái tôi trong thơ Dư Thị Hoàn thể hiện nhiều trạng thái, cung bậc khác nhau:

Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi

Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng

Nếu không có một lần…

Một lần như đêm nay

Sau phút giây

Êm đềm trên ghế đá

Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

(Tan vỡ)

Cuộc tình tan vỡ một cách rất đáng tiếc chỉ vì một việc nhỏ. Chỉ vì cái tội “lơ

đãng” mà anh – nhân vật trữ tình của chị - “mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ/ Bút viết

xong không đậy nắp bao giờ”. Chị không hề trách cứ, không lời phàn nàn…bởi có

thể là anh mải nghĩ, mải làm rồi quên đấy thôi. Ai mà chẳng có lúc lơ đãng. Hơn

nữa chính sự lơ đãng nhiều khi đem lại cho cuộc sống thêm một chút lãng mạn. Và

anh cũng đáng yêu hơn. Dưới mắt nhìn của chị, anh như “con nai rừng ngơ ngác”

trong thơ Lưu Trọng Lư giữa đêm vàng hư ảo:

Ôi anh yêu, lơ đãng đến là

Con nai rừng của em…

Hai câu thơ của chị Dư Thị Hoàn đẹp trong cái nhìn thi vị và thật dễ thương

bởi tình yêu chân thật. Chị là con người ý tứ và cẩn trọng trong hình thức, thế mà,

chị vẫn dành cho anh – nhân vật hay “lơ đãng” được nói đến trong bài thơ – một sự

bao dung. Cứ ngỡ “tất cả rồi sẽ dễ qua đi, qua đi”, hai con người yêu nhau kia “sẽ

thành vợ thành chồng”. Câu chuyện thơ khép lại. Nào ngờ…cái điều chị muốn trao

gửi đến bạn đọc lại không chỉ là sự “lơ đãng” thường tình mà lại là một vấn đề lớn

hơn không thể tha thứ trong tình yêu. Những câu thơ đổ gãy như dự báo một tình

yêu tan vỡ. Anh có thể quên đóng ngăn kéo, không đậy nắp bút và gì gì đi chăng

nữa nhưng đừng bao giờ “lơ đãng” kiểu đó. Dư Thị Hoàn không đòi hỏi sự viên

mãn trong tình yêu thế nhưng khó chấp nhận một sự thật phũ phàng đến thế. Vẫn

biết, ai cũng có lúc thiếu cẩn trọng trong việc làm, nhưng tình yêu lại không cho

phép điều đó vì nó vốn mong manh, dễ vỡ.

Cũng giống như Lê Thị Mây, Đoàn Thị Lam Luyến, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm

Thị Ngọc Liên khi nói về tình yêu họ cũng nói đến những chia ly, mất mát, những

giây phút chạnh lòng, có éo le nghịch lý, có cuồng nhiệt, đam mê. Nhưng, ở những

nhà thơ nữ khác thì đằm thắm, dịu dàng, mang đậm chất nữ tính. Còn Dư Thị Hoàn

lại khác, chị mạnh mẽ và quyết liệt, không né tránh đến sự tan vỡ trong tình yêu. Và

khi tình yêu không còn:

Khi tình yêu bị đẩy vào trận

Chỉ còn cách

Mượn họng súng để ngắm nhau

(Không đề)

Không có một tiếng khóc, một lời than, không có sự buồn chán hay khổ đau.

“Mượn họng súng để ngắm nhau” là một cách bày tỏ thái độ rất độc đáo, trước và

nay chỉ thấy ở Dư Thị Hoàn. Không phải chị không thấy đau đớn, nhưng cách thế

hiện và quan niệm về tình yêu của mỗi người một khác. Chị đã nhận thức được

nghịch cảnh ngang trái trong cuộc chiến tình yêu, cũng là cuộc chiến của mỗi người

với bản thân mình.

Thơ tình yêu của nữ giới sau năm 1975 là tiếng nói của cuộc sống thường

nhật. Nó luôn chứa hơi thở ấm nóng của cuộc đời nên nó đời hơn và thực hơn thơ

tình thuở trước. Và một điều nữa “họ nhạy cảm hơn trước những gì dễ xúc động trái

tim, dễ gây ra tình thương, dễ gợi nên cảm thông, trìu mến. Họ đánh giá các hiện

tượng đời sống theo một tiêu chuẩn riêng.. Thơ ca của các nhà thơ nữ có đươc điều

mà một nhà văn đã nói: sự thông minh của trái tim” (Đỗ Bạch Mai).

Dư Thị Hoàn cũng vậy, chị yêu hết mình nhưng trong tình yêu chị cũng rất

giàu lý trí. Bởi thế mà chị nhận lấy khổ đau về mình dù người đàn ông kia yêu chị

thật say đắm: “Anh đến thăm em”, “Anh ngắm nhìn em”, “Anh ca tụng em”, lẽ ra em

thật hạnh phúc vì điều đó nhưng em lại thấy “ớn lạnh”. Vì sao vậy? Vì chị nghĩ đến

người phụ nữ của anh, người vợ đáng thương đang “thẫn thờ đợi cửa”, đang “ôm

gối thở dài” và nước mắt tuôn rơi vì đau khổ. Chị cũng là phụ nữ nên chị hiểu nỗi

khổ đau của người cùng giới khi bị phụ tình, và nhận ra rằng:

Lẽ ra trên thế gian này

Đừng nên có em.

(Chị ấy)

Em không thể vì tình yêu của mình mà lấy đi hạnh phúc của người khác. Chị

ấy đâu có tội tình gì. Phải là người có bản lĩnh, tỉnh táo và có một tấm lòng vị tha

“thương người như thể thương thân” mới có thể nói với người đàn ông mến thương

của mình như vậy, để không làm tổn thương người phụ nữ khác.

Trong thơ Dư Thị Hoàn, cái tôi trữ tình luôn tự vấn, luôn đi tìm sự thật, bản

chất của tình yêu. Ta gặp rất nhiều cuộc đối thoại giữa anh và em, những đối thoại

ngầm đầy khẩn thiết để người này qua người kia có thể hiểu mình, biết được khuôn

mặt thật của mình:

Hãy buông xuống

Đừng giơ bàn tay che ngọn đèn dầu

Đừng khám phá em

Bằng đôi mắt nấp sau bóng đen

Hỡi bàn tay nhân từ khôn khéo

Xin hãy buông xuống

Giữa chúng ta

Hãy để ánh lửa bập bùng sáng

Dù đang lúc đôi mắt anh

Phóng ra mũi tên tẩm thuốc

Nhằm rơi rụng trái tim em

(Ánh lửa)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ yêu say đắm, và trong khi đắm say nhất, chị

vẫn không để tình cảm lấn át lý trí, vẫn đưa ra những lời đề nghị, vẫn mong muốn

một sự thành thực bởi tình yêu vốn rất thiêng liêng. Nó đòi hỏi cả hai bên sự chân

tình. Chị muốn có một sự đàng hoàng, sòng phẳng, công khai của tình cảm. Phải là

“ánh lửa bập bùng sáng” chứ không thể là “bóng đen”. Nếu có được điều ấy, chắc

chắn tình yêu sẽ bền vững. Chúng ta đừng nhầm tưởng rằng chị là người hay đòi

hỏi, bởi lẽ chị hiểu rằng:

Nếu anh cũng như em

Đòi nhau sự viên mãn

Thì điểm gặp nhau của chúng ta

Còn thảm hại hơn hai hòn bi

(Viên mãn)

Trong tình yêu, sự viên mãn chính là điểm kết thúc, điểm chệch nhau. Nếu

đòi hỏi điều ấy thì chắc chắn tình yêu sẽ có một kết thúc thảm hại vì Dư Thị Hoàn

hiểu rằng, sự viên mãn của tình cảm là điều không thể có. Và chỉ có sự thành thực

mới làm nên điều tốt đẹp mà thôi.

Dư Thị Hoàn là một người phụ nữ đa cảm nhưng cũng rất thẳng thắn và

mạnh mẽ. Chị dám nghĩ và dám nói to lên bằng thơ những điều mà các nhà thơ khác

có thể sẽ rụt rè, né tránh. Chẳng hạn:

Nụ cười em lãnh đạm

Đôi mắt em lơ đãng

Đâu phải cho anh

Mà để tự hành hình

Chớ dừng chân

Khi vô tình gặp em anh nhé

Em mang bản án chung thân

Gái đã có chồng

(Tình lặng)

Người Việt Nam có câu “Gái có chồng như gông đeo cổ”. Còn Dư Thị Hoàn

thì lại cao hơn một bậc. Chị đã cụ thể hóa việc có chồng bằng bản “án chung thân”

và cuộc “tự hành hình”. Vì thế, nhân vật phải tự nén lòng mình với “đôi mắt lơ

đãng”, “nụ cười lãnh đạm”. Nếu người được gọi bằng anh kia có quyết tâm cao thì

chắc gì đã hủy được cuộc tự hành hình và cả bản án?

Tình yêu muôn đời vẫn thế. Nó là món quà quý giá nhất mà thượng đế dâng

tặng cho loài người. Nó không có thời gian, không già đi, không mất đi nhưng ở

những giai đoạn khác trước, ở những nhà thơ khác nhau thì tình yêu sẽ có những

sắc thái riêng, có những cách thể hiện riêng. Dư Thị Hoàn không nói đến những đơn

côi của những trái tim con gái đã lỡ hẹn cùng hạnh phúc sau chiến tranh như Lê Thị

Mây, không có sự hờn ghen, mong nhớ đến diết da cũng như không trực tiếp bày tỏ

khát khao yêu đến tột cùng. Đọng lại trong thơ tình của chị là sự thẳng thắn, bạo

liệt, là những khát vọng bình dị, những triết luận sắc sảo của người trong cuộc mà ít

có một nhà thơ nữ nào thể hiện được điều đó.

Với Dư Thị Hoàn tình yêu cần phải tự biết những giới hạn của nó,

nhất là đối với phụ nữ:

Cho anh tiễn em tới gốc cây đa

- Thôi, xin cảm ơn

- Cho anh tiễn em qua chân cầu gỗ

- Thôi. Em cảm ơn lần nữa

- Anh chỉ tiễn em đến ngôi chùa đổ

- Thôi mà…khi khác…em xin

- Thế thì cho anh địa chỉ

- Kia kìa, đằng sau cơn mưa

(Thôn quả phụ)

Nhân vật nữ trong bài thơ là một phụ nữ đã góa chồng. Và người con trai

lạ đem lòng yêu mến cô đã đề nghị được tiễn đưa nhưng người con gái lần lượt từ

chối. Cô đã góa chồng làm sao có thể để một người đàn ông xa lạ đưa tiễn được

chứ? Phải chăng cô sợ những lời dị nghị, đàm tiếu. Hay là do tình yêu trong cô

không đủ để cô có thể chấp nhận những lời đề nghị ấy? Mặc cảm về thân phận “góa

chồng” đã vô tình khép chặt trái tim yêu, hạnh phúc mà đáng lẽ cô được nhận. Cách

cô gái trả lời rất khôn khéo “Kia kìa, đằng sau cơn mưa” đó là lời từ chối tế nhị. Địa

chỉ ấy vừa xác định lại vừa rất mơ hồ. Phụ nữ thời nào cũng vậy, không vượt qua

được định kiến của xã hội để kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đó phải chăng là

số kiếp của những người phụ nữ bất hạnh phảng phất trong văn chương từ kim cổ

đến nay.

Chiến tranh đã chìm sâu vào quá khứ, một cuộc sống khác trở về làm

thay đổi diện mạo của toàn đất nước và số phận của mỗi con người. Dư Thị Hoàn

đã từng sống trong cuộc chiến và chứng kiến sự thay đổi của thời cuộc sau ngày đất

nước lặng im tiếng súng. Thế nhưng, thơ chị lại ít đề cập đến thực trạng thời hậu

chiến như một số nhà thơ đương thời mà lại nói nhiều về thân phận con người, nhất

là thân phận của người phụ nữ. Từ thân phận của mình, chị nghĩ về thân phận của

những người phụ nữ khác trong xã hội:

Đừng bắt tôi lên diễn đàn

Đừng buộc tôi ra sân khấu

Hãy để tôi ngồi yên trong góc tối

Như cái triện đen

Giáng xuống

Tờ khai sinh của tôi

Thời cuộc sắp đặt tôi

Gần hết một đời rồi

Tôi đã quen chỗ ngồi

Góc tối

(Số phận)

Đó là một số phận khổ đau, đen tối mà khi sinh ra tôi đã mang sẵn trong

mình, nó đã giáng xuống “tờ khai sinh của tôi”. Vì thế người phụ nữ này mới có đề

nghị: “đừng bắt tôi”, “đừng buộc tôi”. Bài thơ là sự cay đắng, chua xót về nỗi đau

thân phận của những người phụ nữ bất hạnh.

Dẫu chế độ phong kiến không còn nhưng tư tưởng nặng nề của nó thì vẫn lưu

lại trong lòng xã hội hiện đại. Vì thế, việc không chồng mà chửa vẫn bị lên án, rẻ

rung. Thực tế cho thấy, đã có một số người phụ nữ hoang thai và những đứa con

hoang không tìm được chỗ đứng của mình trong xã hội. Ngày xưa, nữ sĩ Hồ Xuân

Hương thật dũng cảm lên tiếng bênh vực cho những con người này: “Không

có…nhưng mà có…mới ngoan” (Không chồng mà chửa), và ngày nay Dư Thị

Hoàn lại tiếp tục lên tiếng. Chị đã gọi họ là “người sáng tạo” đã được “niềm vui

hoang thai” từ khuôn mặt xanh xao của người mẹ khi nhìn thấy đứa con “vì sao”

nhỏ của mình chào đời (Người sáng tạo).

Thơ chị nói đến thân phận của những người phụ nữ có cuộc đời đen bạc,

không phải vì nghèo đói, lam lũ, vì phải ôm một số phận chưa ra đời đã bị ruồng bỏ

mà nỗi đau ấy:

Bắt đầu từ một chiều mưa, chiến tranh

Tuổi hai mươi

Tôi thành bà góa sống

Không còn biết khóc

Quen rồi chỉ mím chặt môi.

(Gửi một nhà thơ mặc áo lính)

Người phụ nữ ấy trở thành bà góa khi tuổi đời mới “hai mươi”, cái tuổi đẹp

nhất của một đời người. Nỗi đau ấy lớn biết nhường nào. Chị chỉ biết nuốt nước mắt

ngược vào trong, sống chung với nó cho đến trọn đời. Đây không chỉ là sự đau đớn

của một mình chị mà đó còn là hoàn cảnh chung của rất nhiều người phụ nữ Việt

Nam trong thời chiến.

Là một người phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm, chị luôn thông cảm và đồng

cảm trước nỗi đau của những “kiếp đoạn trường”:

Lang thang cuối đất cùng trời

Tiếng tỳ bà gõ cửa

Tiếng tỳ bà đòi nợ

Cho nàng Kiều

Cho những nàng Kiều

Kiếp đoạn trường muôn thuở

(Hồn tỳ bà)

Với thái độ nâng niu, bênh vực, che chở, Dư Thị Hoàn đã nói lên được tâm

sự của người đàn bà ngồi đan (Tặng người đàn bà ngồi đan). Người phụ nữ này

chấp nhận mọi nhọc nhằn, khó khăn mà không hề lên tiếng kêu than vì trên tay

mình đang hiện dần lên chiếc mũ len cho thiên thần nhỏ sắp chào đời. Và chị hiểu

đằng sau cái vẻ lơ đãng của người phụ nữ (Tình lặng) là một tiếng nói câm lặng,

một sự “tự hành hình” mình.

Cái tôi trong thơ chị đan xen nỗi niềm trắc trở giữa cuộc đời và nỗi đau nhân

thế nhưng không phải là tâm trạng bi quan, chán nản, buông xuôi trước cuộc đời.

Thơ chị toát lên từng cung bậc buồn vui với cuộc đời theo từng ngõ nghách mỗi số

phận, đồng thời có trách nhiệm với đời, chứa đựng những suy nghĩ chín chắn và sâu

sắc:

- Vâng

Em có thể ngồi hàng giờ bất động như cây cảnh

- Vâng

Em có thể ngồi không một sợi che thân

Đôi mắt kia tha hồ bòn rút

Thuốc nước màu dần tha hồ vét vơ

Mảnh hình hài

Và những đường cong…

(Người mẫu)

Có lúc Dư Thị Hoàn rơi vào tâm trạng cô đơn, cái tôi trở về với chính mình

vì thế trong thơ chị thường xuất hiện hình ảnh của đêm (Chớ vội vàng hỡi con trai

yêu, Mười năm tiếng khóc, Khóc hoa quỳnh, Thi sĩ…).

Đi với cái tôi riêng, từng tiếng nói nhạy cảm của trái tim, Dư Thị Hoàn đã

thể hiện rõ một cái tôi ý thức bản ngã và khẳng định cá tính. Giới nữ vốn mang bản

tính dịu dàng nên cái tôi trữ tình trong thơ của chị thường được thể hiện qua lời nói

mềm mại. Dẫu có lúc thơ của chị bứt phá mạnh mẽ, đầy bản lĩnh, phá bỏ những rào

cản, những gì giả tạo để khẳng định mình, nhưng ẩn đằng sau cái vẻ dữ dội đó vẫn

là trái tim yêu thương đầy nhân ái, bao dung.

Nhìn chung, cái tôi băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống trong thơ

Dư Thị Hoàn thế hiện một cách đậm nét hơn, từ cái tôi hòa nhập vào cái ta, ấm áp,

chan hòa giữa vui buồn… Có thể nói qua thơ, Dư Thị Hoàn đã bộc lộ cái tôi của

mình với những ý tưởng chân thành, những cách nói thẳng thắn. Bằng sự khám phá

của cái tôi nội cảm, khám phá những biểu hiện sâu kín trong tâm hồn mình, chị đã

sáng tạo nên những bài thơ độc đáo. Cái tôi trong thơ chị đã kế thừa và phát huy

những nét đẹp của thơ ca trước đây, đồng thời gắn với những nét mới. Cái tôi vừa

mang những yếu tố bền vững, muôn thuở, vừa mang yếu tố biến đổi, sinh thành phù

hợp với đời thường để thể hiện và khẳng định, cái tôi trữ tình trong thơ chị được thể

hiện dưới nhiều dạng vẻ, nhiều cung bậc, nhiều sắc thái phong phú và đa dạng như

chính sự phong phú trong tâm hồn với tình yêu của chị.

2.2.2. Cái tôi trữ tình triết lý, chiêm cảm.

Chất triết lý, trí tuệ đem đến cho thơ một đời sống thứ hai trong lòng người

đọc, khi những hứng khởi của cảm xúc bất ngờ đã lắng đọng dần. Nhà thơ nào có

vốn văn hóa, vốn sống và vốn triết học cao, mang dấu ấn cá nhân độc đáo trong việc

thẩm định, xét đoán cuộc sống thì sẽ được xem là nhà thơ có trí tuệ, triết lý. Nói đến

chất trí tuệ và triết lý trong thơ là nói đến “Sức mạnh của lý trí trong nhận thức của

nghệ thuật thi ca, đến năng lực khái quát hóa, đến tầm cao và chiều sâu của tư

tưởng, đến ý nghĩa triết học của vấn đề”. [9,tr.145].

Thơ bắt nguồn từ cuộc sống, là sự rung động của trái tim nhà thơ trước mọi

nỗi buồn vui của cuộc đời. Nhưng thơ cũng rất cần sự gắn kết giữa cảm xúc và suy

tư, cần sự chiêm nghiệm, đúc kết. Nhà thơ đi từ những băn khoăn, trăn trở trước

cuộc đời, nâng lên thành những triết luận vượt lên cái tầm thường, hữu hạn để

hướng tới cái vô hạn, vĩnh cửu. Đối với cuộc sống hôm nay, phẩm chất ấy cần cho

thơ. Chính nhờ tính triết lý, thơ mới đạt đến độ hòa quyện của tư duy và cảm xúc

mang một sức sống mãnh liệt. Tình yêu, tiếng nói của trái tim đa phức lại càng cần

tính triết lý. Chất triết lý như cái lõi bền vững, như chất nhựa âm thầm, nguồn sống

vô tận cho thơ. Chất triết lý làm cho thơ thêm sống động, mới mẻ và đầy sức cuốn

hút. Dư Thị Hoàn không chỉ thể hiện trong thơ cái tôi của tâm trạng, của cảm xúc,

mà hơn thế từ những trải nghiệm qua đắng cay, hạnh phúc chị đã đúc kết thành

những câu thơ mang tính khái quát cao, xoáy cuộn vào lòng người:

Có lối nhỏ chia đôi thảm cỏ

Em thả bước chán chường

Có lối nhỏ gập ghềnh sỏi đá

Gót chân em nện xuống dữ dằn

Có lối nhỏ vương cây xấu hổ

Em sợ nó khép cánh

Biết làm sao bây giờ

Chính lối này đưa em tới anh…

(Lối nhỏ)

Trong tình yêu thường có những cái cớ, đôi khi cái cớ ấy rất nhỏ, rất vô

tình nhưng lại tạo thêm hương vị cho tình yêu. Không biết “lối nhỏ” ấy là nguyên

nhân ngăn cách sự chung đôi hay do lòng người đang có sự ngăn cách? Nguyễn Du

đã từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, bởi vậy nhân vật trữ tình đang

mang tâm trạng trong lòng thì nhìn đâu cũng thấy nhuốm một nỗi buồn trĩu nặng.

Trong tình yêu có những điều thật khó lý giải, tuy đơn giản mà lại phức tạp. Em

buồn. Nỗi buồn hiện lên rõ ràng “Em thả bước chán chường”. Bước chân của nhân

vật trữ tình có gì đó xót xa, hờn dỗi. Vẫn là cái lối nhỏ ấy nhưng không còn là chia

cách đôi bờ mà là “gập ghềnh sỏi đá”. Con đường gập ghềnh sỏi đá hay trái tim em

đang có những nỗi buồn? Thật khó lý giải được những điều mà trái tim muốn nói.

Em đang có những ngổn ngang, lo toan. Em cũng bình thường như những người

con gái khác cũng giận hờn, dằn dỗi…và có lúc em cũng sợ, sợ một điều gì đó rất

mơ hồ không gọi thành tên.

Có lối nhỏ vương cây xấu hổ

Em sợ nó khép cánh

Lá khép cánh hay lòng em khép lại sau những đau buồn? Con gái là vậy

yêu tha thiết hết mình nhưng sau những vấp ngã giống như con chim sợ cành cây

cong, sợ nỗi đau lại chất chồng. Em là vậy. Con người tính cách luôn hiện hữu,

được giãi bày…em cũng biết yêu và khao khát được yêu. Dư Thị Hoàn đã rất khéo

léo khi lấy cái “Lối nhỏ” để diễn tả trạng thái cảm xúc của mình. Khi đau đớn tột

cùng nhất cũng là lúc em gặp được hạnh phúc ngay trong đau khổ đó. Chẳng phải là

như thế sao? Em đang tuyệt vọng vì sự cách ngăn, chia lìa thì ngay trong sự cách

ngăn ấy em đã tìm được hạnh phúc. Dù là hạnh phúc mỏng manh, mơ hồ nhưng nó

cũng là cái cớ để níu giữ trái tim đang yêu đa cảm vượt qua khó khăn.

Biết làm sao bây giờ

Chính lối này đưa em tới anh…

Phải rồi chính lối này đã cho em được gặp lại anh, đã mang lại hạnh phúc

cho em. Tình yêu thật nhiều cung bậc, thật khó có thể nói được khi nào người ta

hạnh phúc, khi nào thì đau khổ. Bởi chính ngay khi khổ đau nhất lại là lúc ta gặp

được hạnh phúc riêng của mình.

Theo mạch cảm xúc này, ta tìm thấy trong thơ Lệ Thu từ những khởi đầu,

mất mát của cuộc tình dang dở, để lại trong con tim nỗi đau nhức buốt “Lời nói cứa

vào tim cũng thành vết xước/ Vết xước nhiều khi cho ngọc cho trầm/ Nhiều khi biến

trái tim dịu dàng nhân hậu/ Thành phiến đá vô hồn/ Thớ gỗ lặng câm” (Vết xước).

Hay Nguyễn Thị Kim cũng rút ra kinh nghiệm sống từ những trải nghiệm cay đắng

của đời mình: “Đắng cay là mật cuộc đời/ Ngọt là cái bẫy như người cả tin/ Mặn

cay chắp mối tơ duyên/ Chát chua đợi khách truân chuyên má hồng” (Vị cuộc đời).

Khánh Chi triết lý về hạnh phúc, khổ đau: “Vì tất cả bước qua/ Tôi cuộn vào lòng

mình năm tháng/ Hạnh phúc và bất hạnh như cát/ Xưa trong lòng trai biển/ Vắt

lòng mình bao chặt những nỗi đau” (Hạt cát). Với Lê Thị Mây, người suốt đời trăn

trở về tình yêu, hạnh phúc, hạnh phúc như giấc mơ không có thật, một ảo ảnh trong

đời thường để con người mãi kiếm tìm. Cái tôi trong thơ chị đã cất lên tiếng nói triết

lý: “Sâu tận đáy cuộc đời/ Ngọc kia là nước mắt” (Sông Hiếu). Còn Đinh Thị Như

Thúy, người có trái tim nhạy cảm, tinh tế, luôn xúc động bởi những biến đổi xung

quanh mình. Tất cả những cái gì diễn ra qua cái nhìn của chị đều được chị khái quát

thành những câu thơ mang tính triết lý về nỗi buồn, nỗi đau thân phận: “Nỗi buồn là

một phần không thể thiếu” (Khoảnh khắc); “Giá như em làm vỡ được/ Nỗi đau thập

ác trong ngực mình/ Để có thể bắt đầu cuộc đời/ Bằng màu mắt khác” (Valse tháng

tám); “Những viên đá trong ly cà phê đang tan ra/ Nuối tiếc lanh canh/ Nhưng tan

ra là số phận” (Quán vắng); về sự thay đổi xa cách của lòng người: “Phút giây thổi

nến vụt qua/ Sinh nhật đã thuộc về người khác” (Sinh nhật); “Cách biệt không là

núi/ Cách biệt không là sông/ Ngoảnh mặt về bóng tối/ Ưu miền gió giông” (Mưa

yêu).

Trong thơ Dư Thị Hoàn, có cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy hô hứng

với nhau, xoắn xuýt lấy nhau. Trong đó, cái tôi triết lý và chiêm cảm mang đến cho

người đọc không ít những ý niệm, liên tưởng bất ngờ, kỳ thú. Thường thì không

mấy nhà thơ nữ đi sâu vào thể hiện cái tôi mang tính triết lý và số người thành công

lại càng khó gặp. Bởi vì, thiên hướng của phụ nữ là thể hiện cảm xúc, là sự mềm

mại, uyển chuyển của những vận động nội tâm. Còn Dư Thị Hoàn, chị đã tìm thấy

trong thiên hướng một lợi thế cho mình. Chị kết hợp tư duy phân tích sắc bén và

năng lực tổng hợp với những rung cảm bất ngờ của tâm hồn để làm mềm dịu những

triết luận mang tính khô khan, lý thuyết.

Điều đặc biệt, Dư Thị Hoàn khám phá nỗi đau âm ỉ khuất lấp đằng sau

cuộc sống hối hả của con người bằng những khái niệm triết học Chu Trình:

Mượn xác càn khôn

Vi hành trên cõi

Gieo xuống trần gian

Sinh sự

Mà thản nhiên

Đến nỗi

Chỉ loài người đổ lỗi cho nhau

(Hóa công)

Dư Thị Hoàn nhỏ nhẹ, thâm trầm với một lối thơ đậm chất phương Đông,

giàu tính triết lý, chị viết không nhiều song đã khẳng định một cá tính sáng tạo độc

đáo. Ở bài thơ Đi lễ chùa, nhà thơ đã gói nỗi đau nhân tình vào cái nhìn có tính

phóng chiếu của phái nữ - những người bao giờ cũng sôi nổi nhất trước hạnh phúc

và cũng sâu sắc nhất trước thương đau. Bài thơ kể về năm người đàn bà trên chuyến

xe ngựa cùng đi lễ chùa để cầu sự thanh thản vì cuộc đời họ đã có quá nhiều đau

khổ. Người thứ nhất không chồng nên rơi vào sự cô đơn, suốt đời mang gánh dở

dang. Người thứ hai không con nên không có gì để tiếp nối về sau. Người thứ ba

không khóc được trước mặt chồng, người chồng không phải là điểm tựa để mình

nương tựa, chia sẻ những lúc khổ đau. Người thứ tư không cười được khi thấy con.

Bốn người phụ nữ, ai cũng cho nỗi đau khổ của mình là nhất. Chỉ có người thứ năm

không hề ca than mà chỉ lặng lẽ “Mô Phật”, chị đã thấy viên mãn khi đi trọn vẹn

con đường giác ngộ, tìm được cho mình sự thanh thản trước nỗi đời. Vậy đó, không

ai giải thoát cho ta cả, chỉ có ta mới tự giải thoát cho chính mình. Khi thấu hiểu là

khi ta đã giải thoát. “Lão xà ích giật dây cương/ Roi quất/tung bụi đường”. Tác giả

đã tung ra một lớp hồng trần, đặt năm người đàn bà vào dòng chảy luân hồi của

cuộc đời. Giải thoát chỉ là nhất thời, luân hồi mới là mãi mãi. Bụi đời đau khổ sẽ

luôn tồn tại trong cuộc sống này. Từ đó, nhà thơ đưa ra một triết lý: hạnh phúc và

khổ đau chỉ là vô thường, hiểu được điều đó người ta sẽ có được sự thăng bằng

trong kiếp sống. Phái giác ngộ được lẽ vô thường trong cuộc đời thì Dư Thị Hoàn

mới có được những bài thơ sâu sắc và thâm thúy như vậy.

Cái tôi trong thơ Dư Thị Hoàn còn bộc lộ ở cách cảm thụ và đánh giá thế

giới của thi nhân. Chị nhận ra nguồn gốc loài người bắt nguồn từ một sai lầm: “A-

Đam không đi học/ E-Vơ không đi học/ Bàn tay không vâng lời/ Bàn tay lọ lem vặt

trái cấm/ Loài người sinh ra” (Bài mẫu giáo sáng thế). Đấy là do A-Đam và E-Vơ

“không đi học”, “bắt đầu từ tuổi véo von”. Dù em đã được giáo dục để “có đôi bàn

tay trắng tinh” nhưng bàn tay ấy đã không vâng lời mà “vặt trái cấm”. Nhờ sai lầm

này mà “loài người sinh ra”. Hóa ra trong cuộc sống này, có những sự bất thường

sẽ trở thành sáng tạo. Bài thơ đã thể hiện được cách cảm, cách nghĩ riêng của nữ sĩ.

Cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống đem lại cho

người đọc cái nhìn cảm thông, chia sẻ với nỗi niềm riêng của chị, đồng thời ngẫm

ngợi, xót xa trước nhân tình thế thái. Với cái tôi triết lý, chiêm cảm giúp cho người

đọc thẩm thấu một cách trọn vẹn hơn về thơ Dư Thị Hoàn, nó mang dáng dấp của

nỗi niềm riêng và tâm sự chung.

Quan sát và suy ngẫm để tìm ra bẩn chất và mối liên hệ nội tại giữa các

sự vật, hiện tượng, nhà thơ mãi là người rong ruổi trên con đường đuổi bắt những tứ

thơ mới lạ. “Cấu tứ là ý tưởng bao quát của toàn bài thơ biểu hiện trong sự liên kết

những suy nghĩ, cảm xúc và hình ảnh, trong dạng cấu tạo và phát triển của hình

tượng thơ. Chiều sâu của sự suy nghĩ, tính chất sáng tạo của bài thơ bộc lộ một phần

quan trọng ở cấu tứ”. Tứ thơ hay là kết quả của một quá trình lao động nghệ thuật

nghiêm túc và suy tưởng lâu dài đã bắt quyện với phút xuất thần của cảm xúc thăng

hoa. Dư Thị Hoàn đã có được những tứ thơ thú vị, hấp dẫn trong nhiều bài thơ như:

Một giọt nước mắt, Xa dần kỷ niệm, Bức tranh chưa vẽ…chị bắt được mạch suy

tưởng ngay trong những sự vật, hiện tượng bình dị, đời thường rồi khái quát lên

thành những tứ thơ có sức gợi mở lớn

“Căn phòng hẹp không chỗ kê bàn ghế

Mâm cơm dọn sẵn đặt lên sàn xi măng

Bồn chồn đôi chân đợi ngoài ngõ

Trở vào nâng nhẹ chiếc lồng bàn

Canh cua bể nấu miến đã trương sình

Đĩa mực xào không còn bốc khói

Hai cái bát hai đôi đũa chờ nhau

Nhận lời rồi sao anh không tới.

(Xa dần kỷ niệm)

Từ một “căn phòng hẹp” không đủ “chỗ kê bàn ghế”, Dư Thị Hoàn liên

tưởng đến những vật phẩm thật bình dị “mâm cơm”, “canh cua bể”, “đĩa mực xào”,

“hai cái bát”…Nhân vật trữ tình em trong bài thơ đang bồn chồn đợi chờ một

người con trai đến dùng cơm, cuối cùng ước mơ đó không thành hiện thực, chàng

trai “không tới”. Dường như cô gái trong bài thơ đang có tình ý với chàng trai, cô

nghĩ đến một mái ấm gia đình, nhưng rồi phút chốc hình bóng của chàng trai chỉ

còn lại những trách cứ, những kỷ niệm trong ký ức của cô gái.

Dư Thị Hoàn thật tài tình đặt nỗi buồn vào một không gian cao rộng, nhân

vật trữ tình bị chìm lấp giữa khung cảnh rộng lớn. Vì thế, những tâm sự riêng tư của

con người hòa cùng cảm giác lẻ loi, nhỏ bé, hữu hạn trước vũ trụ vô cùng (Nơi dĩ

vãng). Chị nhận thức lại về lịch sử dân tộc từ điểm nhìn của con người mang dòng

máu Trung Hoa nhưng gắn bó với mảnh đất Việt:

Dải đất này chao đảo

Chẳng riêng mình chị cơi đốm lửa nhọc nhằn

Nếu bài thơ viết bằng ngôn ngữ

Của một dân tộc đau khổ”

(Bức thư người Hoa)

Chị cảm nhận được nỗi nhọc nhằn của cuộc sống thường nhật của mỗi cá

nhân qua một chuyến tàu:

Mỗi ngày, ngần ấy chuyến

Đoàn tàu chở bao nhiêu nỗi lo âu lên dốc

(Qua đèo Hải Vân)

Và chị dường như mắc nợ những tiếng kêu thương muôn kiếp từ cuộc đời:

Khối óc tôi tàn tật

Bởi tiếng kêu cứu dai dẳng

Từ những số phận đang đợi chờ

(Trước cửa ban thờ)

Cái tôi tự xác định bằng nhận thức về chính mình qua các tình huống yêu:

khi gồng mình lên

Nụ cười em lãnh đạm

Đôi mắt em lơ đãng

Đâu phải cho anh

Mà để tự hành hình

(Tình lặng)

Khi thu mình như biến mất:

Lẽ ra trên thế gian này

Đừng nên có em

(Chị ấy)

Về những quy luật của tình yêu: sự viên mãn chính là điểm kết thúc, điểm

chệch nhau của tình yêu:

Nếu anh cũng như em

Đòi nhau sự viên mãn

Thì điểm gặp nhau của chúng ta

Còn thảm hại hơn hai hòn bi

(Viên mãn)

Các dẫn chứng ở trên cũng cho thấy chị đã lồng vào tứ thơ những lời tâm

tình, những câu chuyện tình yêu để cho cảm xúc len lỏi vào từng ngõ ngách của tư

duy triết luận, làm mềm dịu đi phần gân guốc, khô cứng của lý trí, tránh đi cảm giác

nặng nề cho người đọc. Bằng cách đó, chị dẫn dắt người ta đến với “Sự thâm nhập

say mê và sự ham thích một tư tưởng nào đó” (V.G.Belinski) trong thơ của mình.

Thơ không chỉ là bữa tiệc của cảm xúc hồn người mà còn là “ngày hội của lý

trí” theo như cách nói của Valéry. Còn Chế Lan Viên thì thâm trầm nhận xét: “Cái

kết tinh của một vần thơ là muối bể/ Muối lắng ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu”. Cái bề

sâu trong thơ Dư Thị Hoàn qua triết lý và chiêm cảm của chủ thể trữ tình là những

giá trị, những tư tưởng khái quát được trừu xuất lên từ những gì rất đỗi bình dị, giản

đơn giữa đời sống thường ngày. Nhẹ nhàng, uyển chuyển mà tinh tế sắc sảo, những

suy luận của thơ chị lấp lánh tươi nguyên chất đời bởi đã được thấm quyện với

mạch nguồn tình cảm, và khơi nên từ hiện thực đời sống phong phú.

2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến

Trong số những cây bút nữ tài hoa trong lĩnh vực thơ tình như: Xuân Quỳnh,

Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Đoàn Thị Lam Luyến…thì Đoàn Thị Lam

Luyến có một kiểu tình yêu mạnh mẽ, bạo dạn không giống ai. Chị là người đơn

phương phát động cuộc “chiến tranh tình ái”, và tình yêu của Đoàn Thị Lam Luyến

có cái khao khát bản năng phóng túng, mãnh liệt và sôi nổi. Ít người có được cá tính

như chị: phân cực tình cảm, yêu ghét, rạch ròi. Chị yêu “đến nơi đến chốn” và yêu

ai cũng yêu một cách tận cùng. Lam Luyến đã từng nếm trải nỗi đau khổ tột độ trên

bước đường kiếm tìm hạnh phúc – bến đỗ của tình yêu. Tình yêu là chủ đề lớn và

chiếm đa số trong sáng tác của Đoàn Thị Lam Luyến, thơ chị bộc lộ hầu hết những

cung bậc, với những nỗi khát khao về một tình yêu trọn vẹn, đủ đầy. Với chị tình

yêu không chỉ đơn giản chỉ là tình yêu mà nó còn là những cái cao đẹp, thánh thiện

của con người. Bởi tình yêu là sự sống. Nơi nào có tình yêu, nơi ấy còn sinh sôi,

nảy nở. “Chất thơ” trong cuộc sống bắt nguồn từ tình yêu. Cơn khát tình yêu không

thỏa nên thi sĩ luôn khao khát tìm kiếm: “Sống mà không có tình yêu/ Thà cùng chết

để sớm chiều bên nhau” (Người xưa).Chính vì thế nên cái tôi trữ tình trong thơ

Đoàn Thị Lam Luyến cũng gắn liền mới mảng thơ tình – nỗi niềm khao khát suốt

đời của một trái tim đa cảm. Cái tôi – người tình đam mê, mãnh liệt hay cái tôi – cô

đơn, khắc khoải đều xuất phát từ cái tôi của chính nhà thơ. Đó chính là khát khao

cháy bỏng trong tình yêu với một cái tôi cá tính đặc biệt của Đoàn Thị Lam Luyến.

2.2.1. Cái tôi – người tình đam mê, mãnh liệt

Tình yêu là chủ đề lớn gần như bao trùm toàn bộ sáng tác của Đoàn Thị

Lam Luyến, tình yêu như là cội nguồn, lại cũng là động lực nuôi dưỡng, thúc đẩy

cảm hứng sáng tạo và cũng là sông lớn, là biển cả, là ốc đảo, là miền đất hứa cho

trái tim hạn hán của chị hướng vế. Bốn tập thơ đã in thì có tới 3 tập có nhan đề liên

quan trực tiếp đến tình yêu: Lỡ một thì con gái, Chồng chị chồng em, Dại yêu.

Lam Luyến yêu ghét không bao giờ là nửa vời, mạnh bạo cả quyết đến liều lĩnh bản

năng. Với chị, chưa yêu là chưa sống: “Con tim em hạn hán – Tình anh là mưa

bay”. Cứ thế, yêu thơ tạo nên lời. Yêu mà viết, viết để thêm yêu. Yêu thành một giá

trị, thành lý tưởng để sống chết vì nó: “Suốt cuộc đời tôi tìm kiếm tình yêu”

Chàng trai Xuân Diệu ngày xưa hăm hở yêu, giục giã yêu, nhưng thấy

“yêu là chết ở trong lòng một ít”. Với Lam Luyến, yêu là để giàu có, để phồn thực,

để sinh sôi với sức mạnh kỳ diệu “Tình yêu hôm nay là hạt. Sớm mai đã hóa thành

rừng” (Tình yêu). Yêu đồng nghĩa với dâng hiến, một sự dâng hiến thiêng liêng

không phải chỉ cho bạn tình, mà còn cho đời mình, cho nghệ thuật, cho thơ ca: “Yêu

đến nát cuộc đời cho thơ” (Yêu để cho thơ).

Tình yêu bắt đầu từ nỗi nhớ, những rung động của đôi tim yêu khiến nhà

thơ không ngần ngại mà bộc lộ lòng mình với bạn tình:

Cứ mong anh đến nhà

Dù một lần ít ỏi

Chẳng cần nghe anh nói

Chỉ nhìn nhau nhìn nhau…

(Mong anh)

Nỗi nhớ mong khắc khoải ấy dệt từ niềm tin, tình yêu và chỉ bấy nhiêu đó

thôi đủ cho một trái tim yêu thấy “Chỉ được nhìn nhau thôi/ Đủ làm ta no ấm”. Yêu

và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu càng say đắm thì nỗi nhớ càng da diết. Lam

Luyến cũng thừa nhận thế, nhưng nỗi nhớ của Lam Luyến không phải là nỗi nhớ

thường trực được gửi vào những cảm nhận đời thường như của Ý Nhi.

Thành phố nào bây giờ tháng ba

Mà nỗi nhớ chói lòng như lửa

Những con đường hàng cây

Những dòng người xe cộ

Nào có gì không nhắc nhớ về anh?

(Tháng 3 -1977, Ý Nhi)

Cũng chẳng giống nỗi nhớ mà Xuân Quỳnh gửi vào con Sóng với đầy đủ

mọi cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ, rất mạnh liệt nhưng cũng đầy tinh tế của một

trái tim rao rực khao khát yêu đương.

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Cũng chẳng phải nỗi nhớ giống Lâm Thị Mỹ Dạ in trên muôn lá trong

một thoáng sững sờ khi chị đứng dưới vòm cây xanh lá – nơi thủa nào họ hẹn hò để

gửi một nụ hôn lên trời cao.

Tôi đi giữa mùa lá non

Sững sờ bao dáng lá

Nhớ ai

Tôi gửi nụ hôn lên trời…

(Như lá – Lâm Thị Mỹ Dạ)

Với Lam Luyến thì tình yêu phải gắn liền với những cảm xúc cồn cào của

nỗi nhớ, và nỗi nhớ của chị rất bạo liệt nhưng cũng đầy nét khác lạ:

Một ngày xa anh

Bằng một năm thương thương nhớ

Ba ngày qua

Bốn ngày qua

Xâu lại thời gian

Thành chuỗi ngày đáng sợ

(Châm nỗi nhớ)

Thời gian là kẻ thù không đội trời chung với tình yêu, nhất là những kẻ

đang sống và chờ đợi tình yêu. Ở đây thời gian đã được siêu hình hóa bằng nỗi nhớ

của người đang yêu. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ của Lam Luyến được cộng dồn lại

trong một ngày mà bằng nỗi nhớ một năm. Chủ thể trữ tình đã xâu lại thành chuỗi

ngày mong nhớ - hữu hình hóa cái vô hình. Nỗi nhớ mong ấy bộc lộ một trái tim

yêu nồng nàn, mãnh liệt, đầy sắt son chung thủy của chị. Nỗi nhớ ấy nó khiến cho

“em” phải thức suốt năm canh:

Mở cửa

Chờ anh

Châm nỗi nhớ

Em thắp vàng suốt cả năm canh

(Giận chị mà giận mãi)

Nó giống như tàn than được thổi bùng bởi cơn gió tình yêu:

Than vùi từ ấy trong gió

Cháy lên một nỗi mong chờ khôn nguôi

(Cơn mưa tình yêu)

Tình yêu là nỗi nhớ mong da diết, đếm từng ngày, đếm từng đêm, đếm

từng khoảnh khắc để mong chờ. Nỗi nhớ ấy được châm bởi tình yêu cháy bỏng và

đầy bản năng của người đàn bà “dại yêu”. Đã mấy ai dám bộc lộ ra như Lam

Luyến?

Ba ngày rồi anh ơi

Bốn ngày rồi anh ơi

Tim em thắt lại

Ruột em rối bời

Vui đâu?

Ở đâu?

Hãy về với em một chốc…

(Châm nỗi nhớ)

Phải chăng với chị phép đếm thời gian trong tình yêu quả là quá khó khăn

với nỗi nhớ cứ chất đầy theo nhịp đếm. Mong ước chỉ mong manh và giản dị “hãy

về với em một chốc” cũng sẽ phần nào khỏa lấp những yêu thương đang chất đầy

trong tim. Và dù có phải chờ đợi thì nó cũng là một hạnh phúc rất đáng trân trọng:

Em vẫn đợi

Vẫn chờ

Dẫu chỉ là một huyền thoại trong tình yêu

(Huyền thoại)

Bằng một trái tim yêu như điên, như dại, cùng một con tim yêu nhạy cảm,

một hồn yêu mê dại và một trái tim từng trải qua những đắng đót, ngọt ngào của ái

tình, chị đã bộc lộ cho độc giả thấy những sắc thái yêu đặc sắc:

Nếu hạnh phúc không thể là vĩnh viễn

Điên – cũng cần cho xứng với đam mê

(Gọi Thúy Kiều)

Chỉ có thể là điên điên chẳng thể một lần

Điên để thế gian này không bắt chước

Điên để trắng và đen không hiểu được

Để muôn đời cười trách Xúy Vân tôi

(Vân dại)

Chẳng mấy ai như Lam Luyến, để lột tả các sắc thái yêu của mình điên

cuồng đến như thế, chị đã dùng từđiên để thể hiện những cuồng si, mạnh liệt của kẻ

đang si mê với tình yêu. Cũng chẳng ai như chị tự nhận mình điên khi yêu cả, bởi

điên là một trạng thái không bình thường, hay là bất thường của những người không

có khả năng kiểm soát được cảm xúc cá nhân. Phải điên cuồng yêu đến độ si mê,

điên cuồng mới dám bộc lộ ra thành sắc thái không bình thường ấy. Có lẽ khi trái

tim thật lòng yêu ai đó thì điên một chút âu cũng là lẽ thường của những kẻ đang

được sống trong tình yêu. Và bởi ai cũng biết điên là trạng thái cao nhất của tình

yêu, yêu đến si mê ngây dại, yêu đến quên mọi thứ quanh mình, yêu đến độ trắng

đen cũng không hiểu nổi. Đó là khao khát, là đam mê của một con người đang

muốn kiếm tìm hạnh phúc:

Tôi đang khao khát đi tìm

Một tình yêu chỉ riêng của mình

(Đi tìm)

Chỉ vì tin và yêu đến độ cháy bỏng mà nửa đời người rồi vẫn cả tin, dại

khờ, nông nổi tin vào những lời yêu thương, vẫn hài lòng bởi những lời yêu thương

ngọt ngào ấy:

Nửa đời rồi em vẫn cứ mộng mơ

Nên rất chi hài lòng với lời yêu được ví von như thế

(Đừng hứa sẽ cho nhau)

Quả đúng không sai khi người ta nói con gái yêu bằng tai, và chị cũng thế

chị tin và yêu người đàn ông của đời mình cũng chỉ vì những “lời yêu” ngọt ngào

như thế mà thôi.

Lam Luyến đã lỡ mang trong mình trái tim đa đoan mang tên đàn bà, nên

việc cháy hết mình khi yêu là một lẽ thường tình:

Lỡ thì tim cô gái

Càng dữ dội tình yêu

(Tre già)

Bên anh em cháy hết rồi

(Sao đổi ngôi)

Và để có được tình yêu cháy bỏng và khao khát như thế quả là không dễ

dàng gì, nó được đánh đổi bằng một cuộc chiến dữ dội và đầy thương tích:

Em đã đoạt anh từ tay người đàn bà kia

Như người đàn bà kia đoạt anh từ tay người đàn bà khác

(Chiến tranh)

Cuộc chiến tranh tình ái giữa nhừng người đàn bà cũng không kém phần

khốc liệt và dữ dội, sức công phá của nó vẫn luôn dai dẳng và ẩm ỉ trong những trái

tim đàn bà vốn đầy ngờ vực và đa cảm. Niềm vui sẽ dễ khiến con người ta quên

nhanh hơn là nỗi buồn, và bản chất của người đàn bà khi yêu thường ích kỷ và hẳn

những nỗi đau do chiến tranh tình yêu mang lại thường không dễ quên. Hạnh phúc

không dễ dàng đến đối với những người đàn bà đi đấu tranh để giành giật đàn ông,

cuộc chiến giành lại tình yêu của đàn ông không hề dễ dàng. Và hẳn người đàn bà

ấy cũng ý thức được rằng hạnh phúc mà mình vừa giành giật được cũng rất mong

manh, dễ vỡ. Bởi thế không bao giờ được ngủ quên trên chiến thắng mà họ phải

luôn tự nhắc nhở mình phải thật mạnh mẽ và tỉnh táo trong cuộc chiến tranh này. Và

hẳn nhiên ông trời luôn thiên phú cho người đàn bà thêm giác quan nhạy cảm trước

những biến động khó lường trong tình yêu, chính Lam Luyến cũng đã thừa nhận

điều ấy:

Anh vốn yếu mềm và biếng nhác

Miếng mồi của chiến tranh man rợ diệu kỳ

Em sửng sốt nghĩ tới một ngày anh lại bỏ ra đi

(Chiến tranh)

Bởi thế cho nên hạnh phúc tình yêu với Lam Luyến phải được xây dựng

trên một cơ sở vững chắc chứ không phải là thứ tranh giành hay vay mượn. Hạnh

phúc đâu phải cứ đi giành giật mới có được, đôi khi cũng chỉ đơn giản như cái cách

anh và em trao gửi yêu thương. Dù có phải chịu mất mát, thiệt thòi đi chăng nữa thì

yêu với Lam Luyến không bao giờ là đủ đầy: “Lại yêu, yêu đến kiếp sau với hồn”

(Yêu đến kiếp sau). Do đó mà Lam Luyến chẳng bao giờ phải giấu diếm lòng mình

với ai cả, chị táo bạo và thẳng thắn bộc lộ cách yêu của mình qua những vần thơ.

Trong thơ chị, những đôi lứa yêu nhau phải là một cá thể không thể tách rời được,

mà phải hòa quyện vào nhau:

Khi yêu nhau hai ta như là một

Ta với mình đâu dễ xẻ làm đôi

(Hai nửa)

Mấy ai dám yêu và thổ lộ mạnh bạo như Lam Luyến:

Em yêu thương một người

Với cồn cào bão tuyết

(Vầng trăng bỏ quên)

“Cồn cào” là một động từ thể hiện một trạng thái tâm lý con người khi

đam mê một điều gì đó. Và với chị thì đam mê ấy chính là “yêu thương một người”.

Bởi vì đam mê ấy mà đã có lúc không đủ minh mẫn và tỉnh táo để nhận ra những

đắng đót trong tình yêu và cái “ngộ nhận” của em chính là sự mù quáng khi yêu:

Em đầy ngộ nhận như tôi

Cũng yêu chí chết cái người mình yêu

(Em gái)

Đâu phải riêng mình “em” mà có cả một Lam Luyến cũng có lúc phải rơi

vào trạng thái không tỉnh táo trong tình yêu, đôi khi lý trí cũng chẳng còn có ý nghĩa

một khi trái tim đã si mê, cuồng dại vì tình yêu. Và bao giờ cũng vậy, khi yêu người

ta luôn mong muốn có một tình yêu lý tưởng, hoàn hảo đó phải là một tình yêu ấm

áp: “Anh đằm thắm, anh bao dung/ Anh là đốm lửa cuối cùng đời em”; một tình yêu

khiến trái tim phải thao thức: “Anh chênh chếch mảnh trăng tà/ Để em xao xác tiếng

gà thâu đêm”; nhưng đôi lúc tình yêu ấy cũng mang triết lý:

Em không muốn như Xúy Vân cả một đời trót dại

Thề làm chi phải giữ câu thề

Nếu hạnh phúc không thể là vĩnh viễn

Điên cũng cần cho xứng với đam mê

(Gọi Thúy Kiếu)

Nhưng mà mấy khi yêu mà tỉnh táo và sắc lạnh như thế đâu. Đàn bà

thường cả tin và mềm yếu, bởi thế hậu lụy của tình yêu mù quáng đó là “lỡ một thì

con gái”, “lỡ cả mười phương lấy chồng”, “dại yêu” nên mới thế. Như Thị Mầu

thuở xưa mà thôi:

Cha thường mắng em dại dột

Có bao cột nhà cũng đem đi

(Hát theo Thị Mầu)

Lam Luyến yêu đến mù quáng, yêu đến độ lúc nào cũng tôn thờ và đề cao

người tình – người làm cho mình say mê, đắm đuối. Trong con mắt nhà thơ – người

đang yêu bằng một tình yêu cháy bỏng – người ấy luôn được lý tưởng hóa đến hoàn

mỹ với những đức tính tuyệt vời và cả những quyền hành cao nhất:

Anh có trong tay tất cả

Tài danh, sức lực, quyền hành

Em là kẻ ăn mày sang trọng

Một chiều bén ngõ qua nhà anh

(Khách mời)

Khao khát tình yêu, đắm đuối trong những ảo tưởng tự tô vẽ, ở Lam

Luyến hình ảnh người tình luôn được “thiêng liêng hóa”:

Anh như trời sai đến

Em không giữ nổi phép màu

Như có bàn tay định mệnh

Bàng hoàng ánh mắt giao nhau…

(Lời anh trên biển)

Nồng nhiệt và tự tin đến ngây thơ, bất chấp những cảnh ngộ thực tế,

người đàn bà ấy sẵn sàng cao giọng “thách thức” với mọi thử thách khắc nghiệt của

đời sống:

Gian khổ hay cách trở

Thương nhau thêm bội phần

Và với em khi đó

Tình yêu là phép nhân

(Phép nhân)

Và Lam Luyến với tất cả sự đa cảm và vụng dại của đàn bà, chị “thế

chấp” tất cả niềm tin vào tình yêu, cho dù đó chỉ là tình cảm từ một phía và không

hề được đền đáp:

Dẫu chẳng được hẹn hò

Em cứ đợi, cứ say

Ngâu có xa nhau, Ngâu có ngày gặp lại

Kim – Kiều lỡ duyên nhau

Chẳng thể là mãi mãi

Em vẫn đợi

vẫn chờ

Dẫu chỉ là huyền thoại một tình yêu

(Huyền thoại)

Dù có thản nhiên, mạnh mẽ và bạo liệt đến đâu thì cũng không tránh khỏi

những ngậm ngùi xót xa cho chính mình khi cam chịu là phận đến sau, với nhiều

thiệt thòi và đau khổ:

Xưa thì chị, nay thì em

Phải duyên chồng vợ, nối thêm tơ hồng

Chị thản nhiên mối tình đầu

Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm

(Chồng chị, chồng em)

Khao khát sống và yêu đương đến vậy, mà may mắn đâu có mỉm cười với

chị, khi hai lần lỡ dở trong tình duyên. Dường như số phận đa đoan luôn gắn với

người đàn bà khát yêu này. Thái độ thản nhiên sao mà đau xót biết bao, tận cùng nỗi

đau ấy là thế sao? Miếng trầu mà nước cốt của nó, cái vị thơm cay, cái say mê của

nó đã thuộc về người đàn bà trước đó rồi còn đâu. Anh chỉ còn là bã trầu mà thôi.

Một sự so sánh chua xót biết bao, cũng là thân phận người phụ nữ, cũng có quyền

được sống và yêu, sao lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi hờn đến thế? Phải chăng đó

là duyên số, là định mệnh của chị? Dù sao thì thái độ thản nhiên của Lam Luyến là

sẵn sàng chấp nhận? Vui và buồn, buâng khuâng và tỉnh táo chấp nhận. Dẫu muộn

màng nhưng nó là duyên nợ của chị, phận của chị đã xong, giờ đến duyên của em –

dẫu không bằng người khác nhưng đó là cách em chọn lựa. Đó phải chăng là cái

nhìn rất mới, hiện đại về cuộc sống hôn nhân sao? Với Lam Luyến thơ cũng là một

cách để chị “tự nghiệm” về cuộc đời không ít xót xa. Người phụ nữ hiện đại này đã

dám đạp lên truyền thống mà “lẳng lơ” theo kiểu mặc kệ đời “cứ” như thế đấy –

một thái độ bất cần và quyết liệt “Em cứ lẳng lơ Thị Mầu” (Hát theo Thị Mầu).

Những ảo tưởng có thể đem lại ít nhiều thi vị, ngọt ngào trong cảm xúc

nhưng chính nó lại là nguyên nhân dễ đến sự đổ vỡ tất yếu khi con người buộc phải

đối diện với thực tế. Việc thể hiện các cung bậc cảm xúc của tình yêu được biểu

hiện rõ trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến, bởi tình yêu vốn dĩ luôn phức tạp và rất khó

lý giải đó có thể là niềm tin mãnh liệt, có nhung nhớ mãnh liệt, hờn giận ghen

tuông, trách móc, cưng nựng, khát khao đến cháy lòng….nó đều được thể hiện rõ

ràng và sắc nét ở cái tôi trữ tình trong thơ của Lam Luyến – nó như là một nỗi khao

khát cho một tình yêu viên mãn.

Đầu tiên là cảm xúc hờn ghen trong tình yêu. Có yêu mới có ghen, bởi

ghen là một cảm xúc hết sức tự nhiên, ghen để giữ gìn và bảo vệ cái thuộc về mình.

Cũng giống như Nguyễn Bính (Ghen) Lam Luyến đã ghen đến tột cùng dù biết là

ghen tuông chứa nhiều sự tự ái hơn là tình ái:

Ghen như sôi và giận như điên

Người đàn bà với trái chín trên tay vừa bị lăn xuống đất

Ghen như sôi và giận như điên

Người đàn bà với ước mơ chưa thành sự thật

(Chiến tranh)

Nguyễn Bính chỉ muốn “cô nhân tình bé nhỏ” của mình chỉ được phép

cười với mình mà thôi, không được cười trước mặt người khác, nhưng với Lam

Luyến thì hoàn toàn khác, chị táo bạo và quyết liệt khi thể hiện cảm xúc bằng cách

dùng ngôn từ mạnh “sôi” và “điên” để chứng minh tình yêu của người đàn bà. Yêu

mãnh liệt và ghen cũng phải mãnh liệt. Đó mới là cá tính của Lam Luyến.

Đã ghen như “sôi” như “điên” rồi đấy, yêu thì mới ghen, ghen xong rồi

thì giận dỗi, đôi khi đó là chỉ là những giận dỗi hết sức vu vơ, trẻ con nhưng đằng

sau những giận hờn ấy là tình yêu cháy bỏng của chị dành cho người yêu, giận mà

chỉ mong ai là người sẽ làm lành trước:

Mới giận nhau một ngày

Xem ai làm lành trước?

Mặt chưa kịp quay đi

Dạ đã thầm đếm bước

(Nào thì giận nhau)

Đó chỉ là những cái cớ hờn giận vu vơ, và sau những phút giây đó mới

chợt ngộ rằng “hạnh phúc có dễ đâu”, bởi hạnh phúc vốn mong manh và rất khó

nắm bắt nên biết giận hờn vừa đủ để nêm nếm thêm gia vị cho tình yêu chứ đừng

khiến nó thành sự xa cách dẫn đến những đổ vỡ không đáng có. Và khi đã thành vợ

thành chồng thì tình yêu chuyển sang một giai đoạn khác. Cuộc sống vợ chồng

không hề đơn giản nên phải biết chín bỏ làm mười thì tình yêu mới bền vững được.

Biết đủ để giữ gìn và vun đắp nhưng mấy ai làm được như thế, vốn dĩ cuộc sống có

quá nhiều phức tạp rồi.Nếu đã là vợ chồng – như là một lời nhắc nhở, một bài học

cho đôi lứa khi tiến tới hôn nhân. Ngoài tình yêu, sự tôn trọng với nhau thì phải có

niềm tin ở nhau thì hôn nhân mới bền vững được:

Nếu đã là vợ chồng

Xin chín bỏ làm mười

Dẫu không lại duyên trời

Âu cũng là ý mẹ

Đừng một lần lầm lỡ

Đừng một ngộ hai tin…

Không hề tính toán, chị dành tặng tất cả cho người mình yêu. Đến khi

mất mát chị thấy mình gần như trắng tay, chị quay ra oán hận đối với người tình

phụ bạc:

Em như con tầu lạc bến

Có đi mà chẳng tới bờ

Em như cây cầu bắc trượt

Một mình bên đá chơ vơ

(Chuyện về anh)

Với chị tình yêu phải trọn vẹn, không có sự chia sẻ nào ở đây, anh đã phụ

bạc, anh lưu luyến một bóng hình không còn trước mắt mà lỡ quên em – người vợ

trẻ ngay trước mắt – như thế có phải anh vô tình lắm chăng? Lam Luyến hờn trách

đấy nhưng không như cái cách mà chị ghen, chị nhẹ nhàng hờn trách, trách mà như

lời tâm tình, thủ thỉ, trách mà đầy lòng vị tha bởi “Em chấp nhận lời nói dối”.

Đôi lúc nhìn lại cuộc đời mình, nhìn lại những thăng trầm, đau khổ và

mất mát mà mình đã trải qua, Lam Luyến đã có sự liên hệ, so sánh số phận mình

với những nhận vật tiêu biểu của các tác phẩm văn học giai đoạn trước. Sự so sánh

ấy dù tương đồng hay khác biệt thì đó cũng là tiếng than cho những gì chị trải qua,

là lời trách nhẹ nhàng, tinh tế tới ông trời, tới số mệnh mà chị phải chịu. Đó là sự so

sánh với Hồ Xuân Hương, với Kiều, với Xúy Vân, Thị Mầu, Tố Tâm…

Em đứng giữa Đông, Tây, Kim, Cổ

Sao vẫn cứ là Kiều dang dở tình anh

(Kiều có ở trong em)

Em không muốn như Xúy Vân cả một đời trót dại

Em không muốn như Thúy Kiều biết tình yêu

là vật báu mà nỡ lấy hiếu làm trinh

Em không muốn

Sao cứ là tất cả?

(Gọi Thúy Kiều)

Anh không một lần quyết đoán

Lỡ để em là Tố Tâm

(Cây hồng)

Thậm chí chị chẳng cần phải nói bóng nói gió nữa, mọi thứ rõ ràng như

tự nó vốn thế. Lời trách nghe cay đắng, xót xa đau đớn đến tột cùng. Nó như một

tiếng nấc nghẹn ngào:

Em ở hiền

Em có ác chi đâu

Mà trời lại xui anh bắt đầu tình yêu

với người con gái khác?

(Huyền thoại)

Và rồi sau tất cả những yêu, ghen, giận hờn và trách móc ấy Lam Luyến

đã tỏ ra mạnh mẽ hơn. Chị đòi trả tất cả, trả lại tình yêu, trả lại con tim, trả lại ánh

mắt…bởi nhận thấy tủi hờn khi tình yêu mình trao quá nhiều còn anh dành lại cho

mình là quá ít. Đó cũng là một cách chị phản kháng lại cho dù sự phản kháng ấy có

hơi muộn màng nhưng chưa hẳn là vô nghĩa mà trái tim yêu vẫn còn nhận ra sự thật

đắng đót:

Trả lại cho em linh hồn

Mà anh đang nắm giữ

Trả em con tim lửa

Đã vì anh khát khao?

Trả lại cho em tình yêu

Để sau đừng đau khổ

Trả cho em niềm tin

Để thôi đừng đổ vỡ!

(Trả cho em)

Lam Luyến đã yêu bằng cả trái tim, linh hồn chị hoàn toàn thuộc về

người mình yêu, tình yêu đó nồng nàn và rực lửa bởi mọi niềm tin đều gửi cả ở đó:

Ta trao cả cho anh

Một tình yêu cháy bỏng

Ta gửi cho anh

Một con tim dào dạt

(Gửi tình yêu)

Thế nhưng cuộc đời ai biết trước được chữ “ngờ”, tình duyên đổ vỡ, mọi

cảm xúc nhòa tan trong cay đắng, từ ánh mắt thủa nào trao nhau tình tứ, từ giọng

nói ngọt ngào thủa mặn nồng, từ niềm tin, khát vọng ái ân… tất cả giờ đã nhuốm

màu điêu tàn và xót xa cay đắng.

Và anh trả cho ta

Nỗi buồn đau tan nát!

Khát vọng to lớn vượt quá sức của một con người bình thường đã khiến

em cay đắng nhận ra:

Ta muốn ôm cả đất

Ta muốn ôm cả trời

Mà sao không yêu trọn

Trái tim một con người?

(Gửi tình yêu)

Tình yêu không còn níu kéo chỉ làm con tim tan nát thêm mà thôi.

2.2.2. Cái tôi cô đơn, khắc khoải

Sinh thời nhà thơ Thúy Bắc đã từng nói về Đoàn Thị Lam Luyến: “Sao

em tự đặt cho mình cái tên lạ thế: Đã Đoàn Thị lại còn Lam Luyến nữa. Yêu thì

đắm đuối hết mình nhưng toàn gặp những mối tình ngang trái, sống thì thật với mọi

người đến ngây thơ, dại dột…”. Có lẽ thế mà những vần thơ đau đớn, xót xa về thân

phận người đàn bà nhỏ bé, yếu đuối hay gặp trắc trở trong tình yêu lại xuất hiện với

một tần số dày đặc bao phủ hết trong toàn bộ các sáng tác của Lam Luyến. Hằng số

chung trong thơ của Lam Luyến là một trái tim đau đáu đi tìm kiếm tình yêu, dù cho

đó chỉ là những mối tình không trọn vẹn, chị luôn hướng về một tình yêu hoàn mỹ,

khước từ mọi sự lưng chừng. Nhưng ở đời mấy ai được may mắn có được sự hoàn

mỹ đó, ngoài niềm vui, hạnh phúc còn có khổ đau và bất hạnh. Chị hiểu hơn ai hết

những nỗi niềm đó, vì thế mà trong thơ chị không chỉ xuất hiện hạnh phúc viên mãn

mà còn chan chứa những mất mát, cô đơn của tình yêu. Đặc biệt là người phụ nữ -

bao giờ cũng chịu nhiều thiệt thòi và đau đớn hơn cả.

Tình yêu là thế, khi không viên mãn đủ đầy nó sẽ khiến cho tâm trạng của

kẻ trong cuộc tan nát và đau đớn, tận cùng nỗi đau ấy là cảm giác cô đơn, lạc lõng

bởi không tìm thấy sự đồng điệu, không tìm thấy hạnh phúc thực sự trong tình yêu .

Với Lam Luyến cô đơn – chính là cái xác không hồn:

Anh đã đem đi cả cõi hồn

Em còn lại cái xác – xác chưa chôn

Xác không khâm liệm không thành xác

Dật dờ trôi dạt bến cô đơn…

(Gọi hồn)

Càng yêu nhiều thì khi xa cách, khi đổ vỡ khi trống trải đối diện với thực

tế thì càng cảm thấy cô đơn, trống vắng. Lam Luyến cũng vậy, cuộc đời chị nếm

trải bao đau đớn, xót xa nhiều hơn là nếm trải hạnh phúc thế nên nỗi cô đơn như

thấm vào hồn thơ của chị. Chị rơi vào khoảng trống cô đơn khủng khiếp, cô đơn

nằm kẹt giữa âm ty cõi người:

Khi thôi yêu tự chia ra thành bóng

Sống vật vờ hai nửa ở hai nơi

Bóng từ mình, một mảnh vỡ ra thôi

Nhưng từ bóng không trở về ta nữa

Và đơn côi chiếc bóng mãi trên đời

Sự cô đơn như ăn mòn sức sống của chị khiến chị mệt mỏi, chán nản. Và

bật lên thành những tiếng thốt nghẹn ngào:

Ta nào phải người mau nước mắt

Trước éo le cay đắng cuộc đời

Cũng không thể là gang là sắt

Hỡi những hồn đồng điệu của ta ơi!

Đôi khi chị thèm khát cảm giác bình yên, hạnh phúc giản đơn như thủa ấu

thơ thế nhưng chị vẫn cô đơn giữa bể đời:

Giữa bể người ta vẫn đơn côi

Hẫng hụt nhân duyên ta gửi vào nơi bạn

(Bạn mình ơi)

Giãi bày và chia sẻ là một nhu cầu tất yếu của một trái tim nặng trĩu

những nỗi niềm và nó biến thành nỗi sầu khó lòng xóa bỏ. Chị rơi vào trạng thái sầu

khổ và không thể chia sẻ cùng ai:

Chia ly nào chẳng đớn đau

Đa mang một chốc để sầu vạn niên

Vạn lần thao thiết gọi tên

Vạn ngày chí dị, vạn đêm khứ hồi

(Đa mang)

Lam Luyến tự dằn vặt bản thân mình, có một chút nỗi niềm xót xa và hối

tiếc. Giá như mình biết trước sẽ đau, sẽ buồn, sẽ cô đơn thì sẽ không lao vào tình

yêu dại khờ ấy:

Nếu biết trước tình yêu là bánh vẽ

Ăn không no, chẳng thỏa mắt say nhìn

(Nếu biết trước)

Cuộc sống cũng như tình yêu đâu ai có thể biết trước được để mà lựa

chọn và tránh né, âu đó như là duyên phận. Có lẽ bởi “Chẳng dễ gì gây dựng được

niềm tin/ Ở hai kẻ cô đơn – hai trái tim mệt mỏi/ Quá khứ sình lầy những lời nói

dối/Hạnh phúc ngỡ trôi vào lãng quên” (Hai người cô đơn). Bởi thế mà Lam

Luyến “chấp nhận lời nói dối”, phải chăng có những lời khi nói thật không đủ niềm

tin, và lời nói dối trở thành vĩ đại:

Có những lời nói thật chẳng ai tin

Câu nói dối lên ngôi mà vĩ đại

(Em chấp nhận lời nói dối)

Em dễ dàng chấp nhận những lời nói dối như là một đòn đánh lừa tâm lý

tạm thời để bấu víu và đứng lên sau những vấp ngã đổ vỡ. Nhưng không có nghĩa là

Lam Luyến quên những vết thương lòng mà sự dối lừa ấy gây ra:

Thời gian không ta vẫn cháy

Cuộc đời không ta vẫn vui

Còn đây vết thương rỉ máu

Lành da, vẫn sẹo muôn đời

(Vết thương)

Liệu pháp thời gian chỉ là tạm thời để chữa lành những vết thương đang rỉ

máu chứ nó không thể làm mờ những vết sẹo đã hằn sâu vào trong tiềm thức và trái

tim bị dối lừa. Bởi em đâu phải là “thánh thần”, em chỉ là em yếu đuối và mong

manh – như bản tính vốn có của đàn bà mà thôi.

Em không là thánh thần

Mới nhiều phen nông nổi

Khi đã dấn thân yêu

Biết đâu mà lọc lõi!

(Em không là thánh thần)

Bởi vì em “khao khát một tình yêu’ nên có những lúc thấy cô đơn đến tột

cùng thì sự nhớ nhung trào lên trong tiềm thức. Lam Luyến nhớ về một thời yêu say

đắm, nồng nàn với lời hứa “yêu em nhất”:

Anh yêu em như yêu gió, yêu mây, yêu trời, yêu đất

Như yêu ruộng, yêu đồng, yêu nhạc, yêu thơ…

Với một loạt sự ví von về một tình yêu mãnh liệt và điên cuồng như thế để

đến lúc rơi vào chia lìa thì nỗi cô đơn khắc khoải cứ bám víu lấy Lam Luyến. Bằng câu

chuyện về sự tích hòn núi Vọng Phu, chị đã khéo léo lồng mình vào câu chuyện thủa

nào để diễn tả hoàn cảnh của mình, diễn tả tâm trạng và nỗi nhớ của mình. Thời gian

cứ lặng lẽ trôi đi, con người vẫn tồn tại nhưng thời gian kéo theo cả tuổi già, sức sống

và nhiệt huyết con tim như lá trên cây từ khi xanh đến khi héo úa, nhưng mọi sự mong

đợi đều chưa có kết quả, nó làm cho chị kiệt sức, làm mòn mỏi con tim yêu:

Mấy hôm nay rồi anh

Chiều nào cũng thế

Trông ra cửa bể

Để em kiệt sức

Mòn mỏi trông anh

Dẫu ngắt lá xanh

Rồi lại ngắt lá héo

(Lá xanh)

Chị đã sống hết mình, yêu hết mình nên mọi đắng cay đều thuộc về mình

hết. Mặc dù đã phải chờ đợi tình yêu với đủ cả hương vị của hạnh phúc và buồn đau

của chính mình và cả người trong cuộc với những nỗi khó nhọc tưởng chừng như

hóa đá từ rất lâu:

Có thể nào thành đá

Có thể nào thành lá

Có thể nào thành cây

Miếng trầu tôi thật cay

(Đợi)

Dù mong ước và khát khao thật nhiều nhưng khi đã đi đến gần với mùa

thu của cuộc đời mà duyên phận đôi lứa hình như cũng không mỉm cười cùng chị.

Và đằng sau con người tưởng chừng mạnh mẽ ấy vẫn là sự cô đơn, mong manh và

những phút yếu đuối rất đàn bà:

Mà sung sướng mà khổ đau

Mà từng nhuộm trắng mái đầu đương xanh

Chị là vậy, phải tự an ủi, xoa dịu vết thương lòng mình:

Giá được một chén say mà ngủ suốt triệu năm

Khi tỉnh dậy, anh đã chia tay với người con gái ấy

Em sẽ chờ như thể một tình yêu…

Như lúa đợi sấm tháng ba

Như hạt cải đơm hoa, đợi ngày chia cánh bướm

Như cô Tấm thương chồng từ kiếp trước

Lộn lại kiếp này từ quả thị nhận ra nhau

(Huyền thoại)

Nhưng đó có lẽ là số mệnh của một người đàn bà tài hoa, đa đoan:

Đa tình cùng với đa đoan

Tơ duyên cứ nối lại càng đứt thêm

(Gọi Thúy Kiều)

2.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ Hoàng Việt Hằng

2.2.3.1. Cái tôi – cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân – đàn bà

Tâm hồn nhà thơ là một nam châm thu hút tất cả những rung động của

cuộc đời, của số phận riêng mình làm nên chất mật vừa đắng đót vừa dịu dàng. Đọc

thơ ta như quên đi câu chữ nghệ thuật, chỉ thấy tâm hồn đa cảm, nhân ái. A.Musset

nhà thơ lớn nước Pháp đã từng chia sẻ: “Nghệ thuật chỉ làm ra được những câu thơ.

Chính tâm hồn mới là thi sĩ”. Hoàng Việt Hằng – người đàn bà biết “khâu những

lặng im” để cất giữ như một thứ men rượu đời sống và chỉ để nó tỏa hương lên

những trang viết của mình. Những trang viết làm ta rưng rưng nước mắt:

Một mình khâu những lặng im

Áo không vá cũng không kim chỉ điều

Em khâu lá rụng như thêu

Khâu cay đắng với trớ trêu mỉm cười

Em khâu tóc trắng thay lời

Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau

(Một mình khâu những lặng im)

Nếu nói rằng những nỗi đau, cô đơn là tài sản quý nhất của các thi nhân

thì có thể nói rằng Hoàng Việt Hằng đã có tài sản đó và chị đã biết “khai thác” nó

một cách triệt để, đầy ma thuật để người ta biết đến một người đàn bà đã sống hết

lòng cho chồng con, tình yêu, hết lòng cho những câu thơ. Trong làng văn hầu như

ai cũng biết mối tình nhiều thăng hoa và lắm đắng cay giữa Hoàng Việt Hằng và

nhà văn Triệu Bôn. Sức khỏe của người chồng thương binh bị tai biến mạch máu

não di chứng liệt nửa người và gánh nặng của cơm áo gia đình đã đè xuống đôi vai

người đàn bà làm thơ nhọc nhằn. Phải chăng, đó là những “ẩn ức” để chị nương tựa

vào trang giấy trắng lạnh lùng và bao dung:

Ngay cả đi bộ

Câu thơ lẽo đẽo theo sau

Ngay cả lên tàu

Câu thơ chập chờn mưa tuyết

Ngay cả khi bay nghiêng, ẩn ức, chập chờn

như ánh sao, chập chờn như ánh đèn

Tôi cầu cạnh bút nghiên

Run rẩy viết

(Ẩn ức)

Với chị viết như là một lẽ sống, để giải tỏa những “ẩn ức”trong lòng

không biết chia sẻ cùng ai. Và thơ là người bạn cứu cánh chị trong những lúc tâm

hồn cảm thấy cô đơn và lạc lõng nhất:

Tôi tựa vào câu thơ

Đứng vững trên đất đá

Tôi tựa vào dịu dàng

Để vượt qua những gì tưởng như không thể vượt qua

(Những dấu lặng)

Dẫu cho chị chạy đôn chạy đáo viết báo để kiếm từng thang thuốc cho

chồng thoát cơn bạo bệnh nhưng Hoàng Viêt Hằng vẫn không thể dành được nhà

văn Triệu Bôn khỏi lưỡi hái định mệnh nghiệt ngã. Tóc chị bạc dần, mỗi sợi bạc hắt

lên nỗi đau dằng dặc, hắt lên thi ca lênh đênh. Có lúc chị ngỡ mình chìm mãi vào

bóng tối cô đơn và bất hạnh:

Tôi sụp lạy đơn côi

Bà lão với ngọn đèn lẻ bóng

Nếu kiếp này yêu thương chưa đủ rộng

Tôi đổ dầu đong

Một cuộc đời…

(Đèn lẻ bóng)

Bởi một lẽ đa đoan, si mê với “anh” – người đàn ông của đời chị, và với

Hoàng Việt Hằng thì người đàn ông đó được ví như hơi thở, như sự sống của tâm

hồn chị:

Anh – của mỗi hơi thở của tôi

Của nhiều nỗi vui và mất mát

Trên khoang thuyền một người trai đang hát

Nước mắt tôi nhòa nhạt phía chân trời

(Buổi sớm ở Bến Đoan)

Dù cho anh có mang lại những nước mắt, những nỗi đau, những mất mát

không thể tránh khỏi nhưng đã lỡ tin, lỡ yêu rồi thì chị biết làm thế nào được:

Những ngày thơ dại tin yêu

Những ngày chỉ ước được nhìn nhau thôi

(Thơ viết ở tuổi hai mươi)

Trái tim người con gái là thế, bởi tin, bởi yêu nên mới mang số kiếp long

đong. Dẫu vậy chưa lần nào thấy Hoàng Việt Hằng hối hận và oán trách vì điều đó

cả, chị hiên ngang chấp nhận, dũng cảm đối mặt với số phận. Bởi với chị - anh luôn

luôn là một nguồn động lực to lớn giúp chị vượt qua những khó khăn, trắc trở trong

cuộc sống:

Em chẳng có thứ gì

Ngoài anh và lối đi

Và cuộc đời cụ thể

Để em còn đam mê

Để em còn tốt nữa

(Cây me lá vàng)

Có những lúc chị cảm thấy chạnh lòng và xót xa cho mình khi anh lỡ có

những phút giây hoài niệm về quá khứ, về những ràng buộc với người xưa. Vẫn biết

“Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng” đấy, nhưng chị cũng chỉ là một con người

bình thường mang theo những cảm xúc rất bình thường ấy thôi, vậy mà vẫn xót xa

đến cùng cực khi nghĩ về cuộc đời trước của anh, để rồi chính nó đã làm tổn thương

đến chị:

Ngỡ trái tim lâu ngày ngủ quên

Trước nỗi đau như vết thương khép kín

Ngày ấy

Em không biết anh nhớ con riêng và ngôi nhà cũ

Anh đau xót

Và ghi thành chữ

Bây giờ những dòng di cảo

Chỉ mình em đau xót

Trái tim em co ro…

(Tiếng vỡ của thủy tinh)

Ngày ấy chị đến với anh bằng mối tình đầu ngây thơ và trong trắng, còn

anh đã từng có một bến đỗ với những đứa con riêng, vẫn biết sẽ chịu thua thiệt khi

là người đến sau nhưng khi yêu có mấy ai tính toán được hơn thua ấy. Chị bất chấp

tất cả để đến với anh bằng một tình yêu ở tuổi hai mươi trong sáng và đầy vụng dại.

Mối tình éo le của cô gái mới lớn với nhà văn lớn tuổi đã trải qua biết bao ghềnh

thác, kéo dài bao nhiêu năm rồi mới có một đám cưới. Hoàng Việt Hằng – người

đàn bà yêu chồng hết lòng hết dạ, thương chồng một cách quyết liệt và tôn thờ

chồng một cách cực đoan là thế mà cũng có lúc gánh nặng dồn hết lên đôi vai nhỏ

bé ấy cũng có lúc phải thốt lên chua xót:

Con chồng vợ cũ đồng sâu

Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng

Văn chương bảy sắc cầu vồng

Chuyện tình anh cũ em không biết gì?

Tình yêu: gây đọa đầy mà nhiều mật ngọt, lắm ngọt ngào mà cũng chứa

bao chua cay. Chẳng những thế mà nó còn đòi hỏi quá nhiều hy sinh, quá nhiều bao

dung “Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng”. Câu thơ buông nhẹ tênh mà sao ám

ảnh mãi thế. Tình yêu là thế, hy sinh âm thầm mà bền bỉ. Cái góc dĩ vãng kia của

người, mình nào đâu hay biết. Niềm hạnh phúc rồi như mây viễn du. Mây viễn du

bay đi xa và hạnh phúc không trở về nữa. Một đời đơn lẻ được một thoáng sum vầy

rồi lại sống tiếp một kiếp lẻ loi. Sự cợt trêu của số phận đấy ư?

Buồn phiền cũng thành có tuổi

Lớn theo số phận mỗi người

(Phút giây)

Chị tự nhận mình thua trước số phận của chính mình:

Nhưng số phận ơi

Người chiến thắng tôi rồi

Tôi là kẻ thua trận duy nhất mỉm cười

Trước tỉ số một đèn một bóng

(Hồ Bảy Mẫu)

Có lẽ chẳng ai như chị, thua mà còn “mỉm cười” không có tiếng kêu la

khóc lóc thảm thiết, mà chỉ có thái độ dửng dưng chấp nhận và vượt lên nó. Và chị

thua khi mọi sự cực nhọc, đắng cay chị đều dành hết, thế nhưng chị không giành

được sự sống cho anh trước số phận nghiệt ngã ấy:

Nhưng dù em có sợ

Và em không sợ

Thì anh vẫn ra đi

(Dấu chấm than viết ngược)

Anh ra đi là một sự mất mát quá lớn không chỉ riêng với chị mà cả con

trai chị nữa. Quanh đây là con, là cháu, là bạn bè, mà chỉ riêng em cô độc trong ồn

ào. Em mất anh:

Một mai con gió se se

Buông xuôi anh nỡ vội về chốn quê

Thấy đông con cháu bạn bè

Mà em đơn lẻ, mà em thu vàng

Buông xuôi anh có mơ màng

Mà trăng gió với vỡ vàng đất đai

Buông anh em đọc ban mai

Tung vần thơ với vắt vai chuyện đời

Sao trong âm ba của mấy câu thơ nghe như có gì trách móc? Thực tại đời

sống đòi con người phải chui khỏi vỏ kén nỗi buồn. Để mà sống nữa chứ? Dù sao

thì cuộc sống vẫn tiếp diễn, dù rằng: “Tung vần thơ với vắt vai chuyện đời”. Một

nửa là thơ. Một nửa là đời. Còn sâu thẳm là nỗi buồn không chịu đi vắng. Vắng một

người,vắng tất cả niềm vui và hạnh phúc trong cuộc đời. Thế nên, cuộc sống của

một mai là:

Một mai góc biển chân trời

Viết nuôi con lớn nên người mới xong

Một mai trăng sáng thong dong

Mình em khâu những mùa đông đời mình

Chiều buồn, lặng trong sự hồi nhớ của người thiếu phụ. Khâu những mùa

đông đời mình là tiếng thơ đẹp. Đẹp và buồn, và khắc khoải, có tiếng thở dài của ai

vang đâu đây khi đếm những mùa đông, những mùa đông của nỗi buồn dằng dặc

trong đời. Những câu thơ trên như một trang đời của Hoàng Việt Hằng mở ra trước

mắt người đọc. Chiến đấu và giành giật với số phận để cố níu giữ hạnh phúc của

chồng bên cạnh con và mình không được, đã có lúc chị rơi vào trạng thái cô đơn,

tuyệt vọng đến cùng cực:

Một ngày

Chỉ có một ngày thôi

Em nhìn thấy kim đồng hồ chết

sao lại chết

kim đồng hồ

sao lại chết

Hay là em đã chết đi một phút

Trong một ngày mệt mỏi chẳng ước ao…

Em chỉ muốn ngồi một mình vậy thôi

Với nỗi buồn khi chết rồi vẫn nhớ…

(Đối mặt với cánh cửa)

Những vần thơ viết bởi phụ nữ lao lực và lao tâm, một người chỉ có thì

giờ thảng thốt lặng đi trong một phút thấm tận cùng mọi nông nỗi dồn lên vai mình.

Đôi vai mà ở bài Lục bát cho mình mượn lời nói với mẹ chị đã nảy sinh một so

sánh bất ngờ đầy cứng cỏi:

Trời cao cao đất dầy dầy

Vai con ngang một đường cày thế gian

(Lục bát cho mình)

Bởi đôi vai ấy còn phải là chỗ dựa cho đứa con – kết quả tình yêu mà chị

dành cho anh. Chị không thể gục ngã trước số phận được, anh đi rồi, chị còn con –

chỗ dựa tinh thần duy nhất mà chị có kể từ những mất mát và đau đớn tưởng chừng

chết đi được:

Tiếng con gọi chạm vào dây cót

Và thời gian – phút chết – lăn đi

(Đối mặt với cánh cửa)

Hình ảnh thiên thần nhỏ cứ chập chờn, ẩn hiện – như là một nghị lực

sống khiến chị không thể gục ngã được:

Phút giây trống trải cô đơn

Có một thiên thần nhỏ tuổi

Tay cầm nắm bỏng là vui

(Phút giây)

Trên những hành trình đi đến những miền đất xa lạ chỉ có một mình cô

độc, nếu không bám víu vào những niềm an ủi tinh thần là cuộc sống của con chắc

chị đã buông tay, rệu rã trước sự dồn nén của cuộc đời của số phận lâu rồi. Đúng

như chị đã tự tổng kết:

Hành trình đi và viết nuôi con

Mẹ chẳng dễ dàng gì

(Nhớ con ngoài vùng phủ sóng)

Không có người đàn ông làm trụ cột cho gia đình, một mình chị vừa lao

động vất vả kiếm tiền nuôi con, vừa là cha – là mẹ của con quả không dễ dàng gì

với người đàn bà trót mang nghiệp viết này. Có những lúc nhớ con giống như cơn

khát, cồn cào và mãnh liệt “Có nỗi nhớ con còn hơn khát nước” (Nhớ con ngoài

vùng phủ sóng), chỉ mong nhanh chóng được trở về bên con sau những chuyến đi

và viết:

Nhưng về nhà rồi

Gọi con trai ơi

để mẹ và con nhìn nhau không chớp mắt

(Chớp mắt)

Và vô tình khi thấy con trẻ nhớ cha khi ngồi chơi cờ một mình:

Chủ nhật này

Con vẫn ngồi chơi cờ một mình

Nước xe đi

Chiếu tướng

Không có bố ngồi trước

Không có bố quét lá vàng trong vườn

(Con chơi cờ một mình)

Có nỗi mất mát nào lớn hơn thế không? Con mất cha, vợ mất chồng, cô

đơn và lạc lõng, nỗi đau như xé lòng. Hình ảnh con trẻ ngây thơ chưa hiểu hết

những mất mát mà mình trải qua, vẫn cứ chờ, cứ tin là sự ra đi đó chỉ là tạm thời.

Và những câu thơ chị viết thì hình ảnh con trai luôn chan chứa tình yêu thương và là

ngọn nguồn của sự sống:

Con như cây

Mẹ tựa khi giông bão

(Viết cho con)

Đó là cả một quá trình tự cố gắng và vươn lên của Hoàng Việt Hằng:

Đi viết nuôi con

như người mẹ đi nương

rắc ngô và rắc lúa

Ta cày trên đồng chữ

Đợi ngày con

như cây lúa trổ đòng…

(Dốc Cun)

Đó là nơi nương tựa duy nhất sau sự ra đi của nhà văn Triệu Bôn, chị

viết, chị nuôi con trưởng thành theo đúng nguyện vọng của anh. Có những lúc chị

mệt mỏi trên hành trình đi và viết, chị đã phải ước:

Tôi cầu tôi bớt đa đoan

Barie có chắn ngang đường đời

Chỉ xin một bình yên thôi

Để đi để viết để đời câu thơ

(Chùa Một Mái)

Dù có mạnh mẽ, quyết đoán, cứng rắn đến đâu thì Hoàng Việt Hằng cũng

chỉ là một người đàn bà, cũng cần lắm những lời động viên, một bờ vai để dựa dẫm

hay đơn giản chỉ là một người để bày tỏ nỗi lòng. Những lúc như thế chị chỉ biết

thốt lên đầy xót xa:

Những phận đàn bà trời ơi khổ quá…

chưa đi khỏi nhà

Những câu hỏi

nỗi xót xa

Góc nhà những củ khoai bật mầm

Em đã vịn vào xanh non

Tĩnh lặng nhìn sự sống

(Ước)

Chất riêng thơ Hoàng Việt Hằng dồn hết vào những bài thơ dành cho

thân phận mình, cho chồng con, nhất là khi viết về người chồng đã mất. Tình cảm

vợ chồng âm dương cách trở là một tình cảm mạnh mẽ, đau đớn thương tâm. Muôn

thuở vẫn thế. Và là nguồn đề tài đắc địa của thơ.Nhiều tác phẩm của các nữ sĩ xưa

nay được người đời nhắc đến ghi rõ dấu ấn cá nhân và nỗi niềm riêng tư cảm động.

Gần với chúng ta, nữ sĩ Tương Phố khóc chồng mỗi độ thu về, tiếng thơ của bà

thương nhớ, não nề. Tiếng thơ của nhà thơ nữ hôm nay buồn da diết và cố gắng

khuây khỏa. Dù sao cũng còn nhiều việc phải làm: nghề nghiệp, nuôi con ăn học,

công tác xã hội…nhưng không vì thế mà nó bớt đi sự thương nhớ:

Em đã gói kỷ niệm

Gói giọt sương trên lá sen

Gói cả anh và tình yêu hai ta xưa

Nhưng gói mãi đến mùa xuân phải mở

Cho nỗi buồn không héo khô

(Dù em có dụi mắt)

Vậy là cố quên nhưng không thể quên và nỗi buồn với nhà thơ lại là tài

sản quý giá. Có thể nỗi buồn làm cho con người dễ nhận ra bản thể mình, dễ cảm

thông chia sẻ với mọi cảnh ngộ và nhạy cảm với những biến thái của cuộc đời.

Những câu thơ mà chị vin vào đứng dậy “Buông anh em đọc ban mai/ Tung vần thơ

với vắt vai chuyện đời” (Một mình khâu những lặng im). Và cũng qua thơ ta biết

được chị từng “Bước qua dèm pha, thị phi/ Để đến với anh”, biết chị “Cúi mặt thấy

trăng đẫm nước mắt” rồi “Đi mãi trên cây cầu người đời gọi là hạnh phúc” (Cánh

cửa) – những câu thơ nặng trĩu nỗi người.

Ngoài việc thể hiện sự cô đơn, đau khổ của kiếp thi nhân – đàn bà Hoàng

Việt Hằng từ số phận của mình, nỗi đau của mình, hướng tới cảm thông với những

số phận cô đơn, lam lũ khác. Những người ấy bao giờ cũng là con người bé nhỏ

khiêm nhường. Họ thường khuất lấp trong những ngõ nghèo thành phố, trong góc

khuất tam quan một ngôi chùa, trong một túp lều liêu xiêu vách núi, một túp lều

chăn vịt ngoài đồng, một khe sâu ven rừng… Trong tấm lòng và ngòi bút đồng cảm

của Hoàng Việt Hằng, họ hiện ra rưng rưng như một niềm day dứt, như một đối

sánh để mọi người suy ngẫm về phận người, về đau khổ, hạnh phúc.

Đó là những phận người làm những việc bình thường, chẳng mấy quan

trọng, vẻ vang nhưng cần thiết trong cuộc sống. Đó là ông già làm nghề liệm xác:

Có một ông già làm nghề liệm xác

Ông lặng lẽ nghe nhiều tiếng khóc

Khi vuốt mắt cho người già ở tuổi hai mươi

Khi bế ẵm đứa trẻ chỉ vài ba tháng tuổi

Những ông già gặp chẳng trối trăng gì

Ông sống một mình với chai rượu trắng

(Day dứt)

Một loạt người trong số họ, những người già ven biển một đời làm lụng

không biết nghỉ ngơi:

Người già cả vẫn còn dọn dẹp

Bàn tay gầy phơi cá đuối cá chim

(Mắt những con chim biển)

Họ là con người cụ thể gần gũi với nhà thơ, là cậu Nghẹo sống một cuộc

đời buồn phiền cô đơn với rượu:

Một mình một rượu tái tê nỗi buồn

Chiều chiều xin chị mấy đồng

Cơm rau thì ít rượu suông thì nhiều

(Thơ viết cho cậu Nghẹo)

Họ là một phụ nữ khuyết tật, nghèo trong ngõ phố với ước mơ đau đáu

không phải cho mình:

…Bà Tư gù bán riêu cua bánh đúc

Chỉ ước mơ con vào đại học nấu ăn

(Ngõ xuân)

Họ còn là người đạp xích lô vô danh, nhà họa sĩ nghèo nhưng không chịu

bán tranh, là mẹ Trần, là chị Thứ ở lều chăn vịt, là người đàn bà góa trong khe sâu,

là chị Sẹo Mây địu con chơi với ở Mũi Lèng, chị KlungLang trong chiều quét lá…

Họ là người đàn bà Tày nghèo trong phiên chợ Rã ngày mưa…

Thơ Hoàng Việt Hằng khiến người đọc nhìn vào cuộc mưu sinh đầy khó

khăn gian khổ, thấy những phận người lầm lũi, những gắng gỏi, an nhiên của họ để

biết rằng cuộc sống của mình là hạnh phúc, cần phải quý trọng, nâng niu…Hoàng

Việt Hằng viết về họ cũng như là nhu cầu đôi khi viết về chính mình. Vì con người

nhỏ bé và lầm lũi là con người không xa lạ, không phải tìm. Có khi chẳng phải vượt

ngàn cây số mà chỉ cần nhìn vào cuộc đời mình, viết về cuộc đời mình cũng đã là

viết về họ. Người phụ nữ làm thơ đã phải gánh nỗi buồn duyên phận, đã coi mình

như là một người vất vả và khổ đau tột bậc:

Tôi sống cuộc đời vất vả

Có đau khổ lớn hơn cả đau khổ

(Những dấu lặng)

Khổ đau như là số phận, như là định mệnh đã buộc cuộc đời chị với cuộc

đời người lính – nhà văn “Như dấu chấm than viết ngược”. Và trong một nửa là thơ,

một nửa là kiếp lạc đà ấy là vời vợi mênh mông nỗi buồn. Một người đàn bà cúi

xuống những hạnh phúc và niềm đau của đời mình để rồi thốt lên “ Mình em khâu

những mùa đông đời mình”. Đó là những thành công của Hoàng Việt Hằng khi thể

hiện cái tôi cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân – đàn bà.

2.2.3.2. Cái tôi tìm đến thiên nhiên để đồng cảm, chia sẻ

Hoàng Việt Hằng từng chia sẻ rằng, ham muốn lớn nhất của chị là được

rong ruổi, ngược xuôi, có chút tiền gom được từ nhuận bút những bài viết in trên

báo, là chị lại lên đường. Tiền ít thì dọc ngang Trung – Nam – Bắc với xe máy, xe

khách, xe đạp, xe thồ…giản đơn nữa là đi bộ. Tiền nhiều thì ra nước ngoài, ngắm

nhìn tận hưởng những khung trời lạ của miền đất lạ. Theo ghi chép hành trình thì

điểm muốn đến của chị cũng như tâm lý một bà mẹ Phương Đông là thích tìm

đường đến chùa chiền, thiên nhiên để đồng cảm và chia sẻ.

Thiên nhiên là môi trường tự nhiên của xã hội. Mối quan hệ với thiên

nhiên của con người không những mang tính hợp lý hết sức thực tiễn mà mang tính

xúc cảm đạo đức thẩm mỹ sâu sắc. Thiên nhiên vừa biến hóa không ngừng vừa tuần

hoàn vĩnh cửu, mang mọi dáng vẻ của quá trình lưu chuyển đời sống con người:

vừa vận động, biến suy, vừa bất biến vô hạn. Vì vậy, coi thiên nhiên như một phân

thân của con người là một cảm quan mang tính nhân loại. Trong thơ trữ tình phương

Đông, thiên nhiên được coi là một vũ trụ lớn, cõi tâm linh con người là một tiểu vũ

trụ, vì vậy, cách thống nhất cái hữu hạn và bản thân mình với cái vô hạn của trời đất

là một cách xác định phong thái tồn tại trong vũ trụ, hiện diện của cảm quan của con

người in dấu trên trời đất. Tiếp nối quan niệm truyền thống đó, con người hiện đại

vẫn tìm thấy mình trong dòng chảy của tự nhiên, diễn tả thiên nhiên nhưng thực

chất là diễn tả sự vận động và dáng vẻ tâm hồn. Thiên nhiên trong Hoàng Việt Hằng

rất đẹp có gió, có trăng, cát, biển, có buổi chiều đông, gió mùa, có mùa hoa cải vàng

trên triền sông…nhưng không đơn giản là thiên nhiên khách quan, cái vĩnh cửu của

nó là chỗ dựa cho sự bình yên, là sự chở che, là điểm tựa của tâm hồn, là nguồn thôi

thúc khát vọng của cảm xúc về cái đẹp, về hạnh phúc, về tình yêu. Thiên nhiên ấy

như thực, như mơ nhưng sức sống của nó, sự tuần hoàn vĩnh cửu trẻ trung và tinh

khôi của nó như nói hộ bản chất nữ tính muôn đời của người phụ nữ ấy dù đã trải

qua bao niềm đau đớn nhưng tâm hồn chị không trở nên chai sạn, tàn nhẫn, khắc

nghiệt mà vẫn là con người dịu dàng, nhân hậu, sống hết mình, yêu hết mình.

Từ nỗi đau, nỗi mất mát của chính số phận mình, chị hướng tới cảm

thông với những số phận khác, sâu sắc hơn chị hòa cùng nỗi buồn nhân thế, hòa

cùng với cỏ cây hoa lá để bộc lộ những nỗi niềm sâu kín trong lòng của kiếp thi

nhân – đàn bà ấy. Dưới con mắt nhạy cảm của thi sĩ, cây cũng có một sức sống tiềm

ẩn như con người, biết vượt qua giông bão đế đứng vững và vươn lên:

Em mới biết đến cây còn giông gió

Cây cũng lựa giông lựa bão đến bất ngờ

Em chưa học cây nên tóc bạc

Thời khắc của bao người

Cây vẫn tươi

(Một ngày sau đông chí)

Sức sống của cây thật mãnh liệt và khả năng chống trọi với thiên tai bất

ngờ thật đáng để con người học hỏi. Đến cây còn biết lựa chọn cho mình một cuộc

sống tốt đẹp huống chi là “em” – một người đàn bà bản lĩnh đã vượt qua bao nhiêu

giông gió trong cuộc đời đau khổ của đời người cũng như những cơn “giông bão”

đến bất ngờ nhưng cũng sẽ nhanh tan. Ý chí của “cây” trước giông bão là một tấm

gương cho con người hỏi học, hình ảnh “Cây vẫn tươi” là biểu tượng cho một sức

sống tiềm ẩn và mãnh liệt của sự sống của con người biết vượt qua gian nan thử

thách để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời. Và Hoàng Việt Hằng là một tấm

gương như thế, có những lúc chị rơi vào hoàn cảnh trắng tay khi anh – người đàn

ông của đời chị, là lẽ sống của chị bị số phận cướp mất, một mình vừa nuôi con vừa

lo toan cuộc sống nhưng chị vẫn lạc quan vẫn nén những nỗi đau, những cô đơn để

đi trọn hành trình mà chị lựa chọn: đi và viết nuôi con. Và với chị thì cây và gió là

những người bạn tâm giao,luôn bên cạnh và an ủi chị trước giông gió của cuộc đời:

Cũng nghiêng ngả cùng cây và gió

Gió sẽ lau nước mắt của ta khô

Gió sẽ lau bao tủi hờn thiếu nữ

Cho ta vững chãi phận đàn bà

(Dưới gốc cây sưa đỏ)

Và với chị “cây sưa đỏ” ấy cũng giống như anh – hiểu và biết chia sẻ

cùng chị trước những cực nhọc của cuộc sống:

Cây sưa đỏ hiểu ta như anh vậy

Rụng vô hồi lá xuống bờ vai

Vịn vào cây sưa và đứng dậy

Mưa xuân ủ ấm bàn tay gầy

Gán cho cây một tâm hồn để cùng tâm sự và chia sẻ - đó phải chăng là

một cách để Hoàng Việt Hằng có nghị lực sống và vượt lên số phận nghiệt ngã của

chính mình.

Cũng có lúc chị tự ví mình như cây “lầm lũi” sống và vươn lên:

Bắt đầu từ mùa đông hoa cúc quỳ vàng

Thương đá núi nở vàng vách núi

Sang xuân

Tôi và cây lầm lũi …đi

(Sìn Hồ ở cây số không)

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng chị lại chọn cho mình lối sống và cách

viết hướng về nhà quê. Hình ảnh những vạt hoa cải nở vàng ven sông, hay hoa dã

quỳ bình dị ở những nẻo đường mà chị đi qua rợp ngợp trong thơ chị, đó là chất nền

nã của con người Thăng Long đã ngấm vào tâm hồn của Hoàng Việt Hằng. Hãy

xem chị viết về thứ hoa dân dã ở những làng quê nghèo:

Hoa cải vàng

Rực rỡ

Hoa cải vàng

Nở bên sông trong

(Hoa cải mùa đông)

Thứ hoa của rau chẳng bao giờ đem cắm vào bình, những vẫn hiện lên

rực rỡ vẻ đẹp riêng của nó. Để từ đó thốt lên những niềm hoài niệm riêng khi nhìn

những luống cải với màu vàng rực rỡ một nỗi buồn man mác cứ ẩn hiện theo những

vạt cải vàng ven sông ấy:

Mới biết năm nào

Mùa đông hoa cải cũng nở hoa

Mà thương nhớ của con người

Không dễ dàng trở lại

(Hoa cải mùa đông)

Phải là người có trải nghiệm sâu sắc mới có những câu thơ triết lý về

niềm thương nhớ của con người như thế, có những thứ qua rồi mới tiếc nuối và con

người là thế đâu dễ dàng nhận ra những điều đang mất đi chỉ khi vụt khỏi tầm tay

với mới thấy tầm quan trọng của nó. Và thương nhớ của con người cũng thế, có

mấy ai đi qua thương nhớ mà quên được nhau, chỉ là tạm quên để lo toan cho cuộc

sống mà thôi. Hoàng Việt Hằng cũng thế chị tạm gác nỗi đau mất chồng để sống

cho con, cho thơ và cho những chuyến đi dài khi trót mắc nợ những số phận, những

miền đất đã qua.

Trong thơ chị, nhiều lần từ “lữ khách” được nhắc đến. Thiên nhiên như

người bạn đồng hành của chị, hình như ở đó chị tìm được sự chia sẻ, sự ký thác tâm

hồn mình khi ta thấy chị:

Với bút nghiên

Ngược sông Chu

Độc hành cũng giá rét

(Lam Kinh)

Khi ta lại thấy chị có mặt ở một vùng thảo nguyên nước Trung Hoa với

một tâm trạng “rời rợi” khi nghe tiếng hát của người chăn cừu trên vùng đất thảo

nguyên bao la:

Một chiều đồng cỏ lặng im

Lạc đà nhòa cát đổ nghiêng cuối trời

Người chăn cừu hát cho tôi

Rời rợi cỏ thảo nguyên trôi trong người

(Thảo nguyên)

Có khi chị lại tìm đến biển để cùng bày tỏ nỗi niềm:

Chị nhìn biển – biển như thêu

Ở nơi biển lặng bao nhiêu cát vàng

Phận mình chẳng mới, cũ càng

Chị đem ra biển và chan nỗi niềm

(Biển)

Khác với Xuân Quỳnh nhìn biển để gán với tâm hồn của người con gái

đang yêu với đầy đủ những cung bậc khác nhau: dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng

lẽ…Còn với Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình đã nói lên cảm xúc yêu đương

nồng nàn từ vọng tưởng về con sóng quê hương thấm đẫm hồn thơ từ thời hoa niên.

Một tình yêu mới mẻ, không còn cảm giác mong manh vì lo sợ “Tình yêu đến tình

yêu đi ai biết”; “Anh không xứng là biển xanh/ Nhưng anh muốn em là bờ cát

trắng”. Hoàng Việt Hằng đến với biển với một tâm thế khác, trái tim người thi sĩ bị

thương tổn và cần được chia sẻ, cũng là yêu đương đấy nhưng không có hạnh phúc

viên mãn vẹn toàn mà là cần được xoa dịu, được đồng cảm với những nỗi niềm mà

chỉ khi đứng trước biển chị mới thấy thanh thản và nhẹ nhõm. Chị “chan” cùng biển

cả mênh mông những “nỗi niềm” không biết tỏ cùng ai. Những câu thơ thể hiện sự

triết lý, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả: “Hoàng hôn nhuộm một đàn bà/ Tóc

sương dầu dãi một tà áo nâu”.

Cũng có khi chỉ là cơn gió mùa cũng khiến chị rưng rưng nỗi niềm:

Bỗng dưng trời đổ gió mùa

Gió vừa gõ cửa, gió lùa sau vai

Ngỡ lòng mình đã nguôi ngoai

Ngỡ anh đi vắng hạn dài hơn thôi

Ngỡ mưa rắc bụi trắng trời

Chứ không chán nhớ tơi bời vào tôi

(Gió mùa)

Có lẽ sự ra đi của người chồng mà Hoàng Việt Hằng hết mực yêu thương

đã lại cho tâm hồn chị những tổn thương quá lớn. Để rồi mỗi khi có cơn gió mùa

tràn về như là cái cớ để thổi bùng “nỗi nhớ” tưởng như đã chôn sâu trong lòng, cứ

“ngỡ” mọi chuyện theo thời gian sẽ bị chôn vùi, lãng quên, vết thương nào cũng sẽ

lành, nhưng đó chỉ là giải pháp tạm thời cho tâm hồn bởi mỗi khi “gió mùa” về thì

bao nhiêu “nỗi nhớ” lại tràn về nhức nhối, khôn nguôi. Chỉ một cơn gió tràn về bất

chợt cũng gợi lên cho Hoàng Việt Hằng biết bao nhiêu nỗi niềm tưởng chừng như

bị lãng quên. Đồng cảm và chia sẻ với thiên nhiên sẽ giúp cho chị có thêm nghị lực

để sống và viết.

Hay đơn giản chỉ vào “một chiều cuối đông”, “em” tựa vào cây cỏ để

được thỏa sức thể hiện nỗi niềm chất chứa trong lòng:

Em tựa vào nỗi cỏ cây

Tựa vào sông núi mây bay lưng đèo

Tựa vào biển sóng liu riu

Em nâng ly cạn chén chiều mùa đông

(Một chiều cuối đông)

Thật ra, tìm đến thiên nhiên để đồng cảm và chia sẻ chẳng phải là mới,

các thi nhân Đông – Tây – kim – cổ muôn đời vẫn tìm về thiên nhiên mà gửi gắm

tâm hồn mình, mà trú ngụ. Có hơi lạ ở chỗ lữ khách này là một người đàn bà –

người đàn bà đã nhìn ra “Nụ cười nàng Bayon/ Đem theo bí ẩn giấu vào rêu phong”

rồi trăn trở cùng “Một bầy sếu gọi nhau ở Phía Bắc” (Cánh cửa) khi leo Vạn Lý

Trường Thành, nhớ về người đàn ông của mình, cảm thấy sự cô đơn được sẻ chia.

Chị đi gặp núi non, sông biển, đếm cát, ngó trăng, tìm được sự bình yên cho chính

mình, thấy ảnh mình trong đó. Đó là một cách đi, một cách sống, một cách ẩn dụ.

Nhưng người ta thường nhỏ bé trước thiên nhiên, trước nỗi đau lớn của thế gian, dù

ta có đau đớn đến đâu, yêu thương đến đâu. Con người trở về thiên nhiên như một

phút lặng, phút hồi tưởng, phút lãng quên mọi ưu tư trong nhịp sống ồn ào, vội vã

của dòng chảy cuộc đời, để hướng tới cái cao đẹp, cái thanh khiết, cái chất thơ của

đời sống. Đây không phải là sự thoát ly, chạy trốn mà là sự trở về với những giá trị

vĩnh cửu, thân quen của thiên nhiên. Hoàng Việt Hằng là một minh chứng tiêu biểu

cho điều đó.

2.4. Tiểu kết

Ý thức được sự chuyển mình mạnh mẽ của nên văn học Việt Nam sau

thời kỳ đổi mới, khi mà ý thức hệ cá nhân không phải chịu nhiều sự ràng buộc khắt

khe của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, và xu hướng chung của thời đại. Việc dám lên

tiếng khẳng định cái tôi cá nhân dường như không còn xa lạ mà nó đã trở thành một

xu hướng cho các tâm hồn nghệ sĩ thỏa sức bộc lộ và sáng tạo để tạo nên những dấu

ấn riêng của chính mình. Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng là

những nhà thơ tiêu biểu trong việc thể hiện cái tôi cá thể trong thơ và tạo được

những thành công không thể phủ nhận.

Dẫu vậy, ba tác giả là ba cá thể riêng biệt, tạo nên ba cá tính sáng tạo khác

nhau. Dư Thị Hoàn suy tư, trầm mặc, đầy tính triết lý, chiêm cảm. Đoàn Thị Lam

Luyến mạnh mẽ, quyết liệt, đầy khao khát, đam mê nhưng cũng đầy khờ dại, cả tin.

Hoàng Việt Hằng ý nhị, sắc xảo, giản dị, mộc mạc và giàu lòng trắc ẩn. Làm nên

những vệt riêng trong nền văn học thi ca muôn màu sắc.

CHƢƠNG 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƢ

THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT

HẰNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Cái tôi trữ tình được quy định trong ngôn ngữ, kiểu tư duy và cách diễn đạt.

Vậy nên, để kiếm tìm và bắt được hình dong của nó, chúng ta không có sự lựa chọn

nào khác hơn là đến gõ cửa địa hạt của những phương thức trữ tình, điển hình là

giọng điệu, thể thơ và ngôn ngữ.

3.1. Thể thơ

3.1.1. Thể thơ tự do

Thơ tự do là loại thơ không có quy định bắt buộc về số câu, số chữ trong câu,

về vần, bằng trắc và nhịp điệu. Tất cả các yếu tố hình thức này đều có thể thay đổi

tùy thuộc vào cảm xúc. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thơ tự do là “hình thức cơ

bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ không bị ràng buộc vào các quy tắc

nhất định về số câu, số chữ, niêm đối… Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ

văn bản có phần dài dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể,

phối xen các đoạn thơ làm theo các thể thơ khác nhau, hoặc hoàn toàn tự

do”[24,tr.318]. Thơ tự do xuất hiện từ nhu cầu đòi hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản

ánh được những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể hiện cách nhìn nghệ

thuật mới của nhà thơ.

Sau 1975, ít người làm thơ thuần khiết theo một thể loại nào mà phần lớn

đều có xu hướng làm thơ tự do. Chúng ta thấy, các thể thơ truyền thống đã giảm dần

tần số xuất hiện và thơ tự do trở nên chiếm ưu thế. Có thể nói, đến nay thơ tự do đã

có một vị trí quan trọng, là một thể thơ quen thuộc và gần gũi với mọi người. Đã có

rất nhiều nhà thơ thành công ở thể loại này như Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam

Luyến, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Việt Hằng, Lê Thị Mây…là “những người đã từng

đi qua tháng năm” đến với thơ tự do và nói về tình yêu bằng những nỗi đau mất

mát, những tổn thương hay những phút giây chạnh lòng… Họ buồn và vui ở nhiều

cung bậc khác nhau, có êm ái, có thơ mộng… nhưng nhiều hơn hết là những éo le,

nghịch lý cùng những đam mê cuồng nhiệt. Thơ họ không ồn ào, sáng chói mà bình

dị, thâm trầm. Những vần thơ như bật lên từ chính trong cuộc sống.

Dư Thị Hoàn viết về tình yêu với vẻ đẹp nồng nàn của người con gái đang

yêu với sức sống tràn trề mê đắm như muốn lẫn hòa vào thiên nhiên bằng sức sống

thiên nhiên: “Đêm mười sáu/ Gối lên vệ cỏ/ Em nằm/ Đợi trăng/ Trăng muộn/ Dạt

dào/ Em vô tình/ Để lọt vào cổ áo/ Ngờ đâu/ Chị Hằng núp ở trên cao (Tự tình).

Bài thơ này dồn dập những câu ngắn, đó là cảm xúc bồn chồn, hồi hộp của cô gái

chờ đón vẻ đẹp tròn đầy, trinh nguyên của một đêm trăng viên mãn. Tiếng thơ như

tiếng lòng cô gái thổn thức, trái tim đập rộn ràng của nỗi lòng khao khát được tận

hưởng cái đẹp. Thơ tự do ra đời như một tất yếu hiển nhiên bởi cuộc sống hiện đại

và yêu cầu, thị hiếu của người tiếp nhận.

Thống kê và khảo sát số lượng thơ tự do trong hai tập thơ Lối nhỏ và Du nữ

ngâm, chúng tôi nhận thấy Dư Thị Hoàn sáng tác gần như hoàn toàn bằng thể thơ tự

do. Phần lớn là thơ ngắn, bài thơ ngắn, câu thơ cũng ngắn nên trong một bài thơ chị

thường kết hợp các dòng thơ ngắn với nhau. Số chữ trong một dòng thơ dao động từ

1 đến 10 âm tiết. Thơ tự do của Dư Thị Hoàn so với thơ mới phong phú và rộng rãi

hơn với hình thức, cách sử dụng táo bạo, nhiều hình ảnh và tiết tấu mới lạ. Thơ chị

ít bị ràng buộc về mặt vần điệu, sự hạn định của câu, số chữ của câu, để phục vụ đắc

lực cho cảm xúc biểu hiện. Đặc biệt, thơ tự do của Dư Thị Hoàn có khuynh hướng

tìm tới địa hạt của thơ không vần. Thơ không vần là nét tiêu biểu trong thơ Dư Thị

Hoàn. Ngay từ sáng tác đầu tay, như là thử nghiệm, thơ tự do của Dư Thị Hoàn

phóng khoáng tự nhiên, tôn trọng cảm xúc của tâm hồn. Thơ giàu hình ảnh, giàu

chất triết lý từ bên trong câu thơ. Câu thơ là những cảm xúc thiết tha được tuôn

chảy tự nhiên không gò ép, gượng gạo. Dư Thị Hoàn đan xen nhiều thể thơ lại với

nhau. Sự hợp thể trong thơ Dư Thị Hoàn có khi lại diễn ra ở một thể thơ cụ thể: nền

thơ 5 chữ (Một giọt nước mắt), nền thơ 2 chữ và 3 chữ (Trước bức chân dung), 5

chữ và 7 chữ (Lối nhỏ). Khổ thơ thì có lúc tạo nên bởi hai câu (Thôn quả phụ); ba

câu, bốn câu (Đêm tân hôn, Tặng người đàn bà ngồi đan, Anh đấy ư?...); có đoạn

kéo dài lên đến mười câu (Bức thư người hoa). Và lối ngắt nhịp trong câu mới lạ.

Hình thức nhả chữ cũng xuất hiện nhiều trong thơ tự do của Dư Thị Hoàn để

diễn tả cảm xúc thiết tha, sâu lắng trong tâm hồn nhà thơ.

Ta nhận ra con

bởi vòng hào quang

ai oán

một đêm với cõi

động mùa

sao rụng

rơi trăng

(Nghiệp chướng thi ca)

Đặc biệt trong thơ Dư Thị Hoàn có những bài thơ được xây dựng trên sự lắp

ghép các đoạn hội thoại với nhau. Đây là hình thức sử dụng khá phổ biến trong thơ

tự do từ 1986 đến nay, đó là hệ quả của sự dung hợp chất tự sự trong thơ. Nó tạo

nên một không khí giao tiếp gần gũi, từ đó giúp tác giả đưa ra những triết lý về nhân

sinh, thế sự. Đối thoại đã đem đến cho thơ tự do một hình thức mới lạ.Tiêu biểu cho

hình thức này là những bài thơ: Thôn quả phụ, Đi lễ chùa…

- Cho anh tiễn em tới gốc cây đa

- Thôi xin cảm ơn

- Cho anh tiễn em qua chân cầu gỗ

- Thôi. Em cám ơn lần nữa

(Thôn quả phụ)

Đoàn Thị Lam Luyến là nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn sau đổi mới,

bởi vậy mà chị luôn chọn cho mình thể thơ tự do để thể hiện ý tưởng sáng tạo – đó

như là một sở trường của nhà thơ. Thông qua khảo sát ba tập thơ tiểu biểu: Lỡ một

thì con gái, Chồng chị chồng em, Dại yêu…của Đoàn Thị Lam Luyến chúng tôi

nhận thấy tần suất sử dụng thể thơ tự do trong thơ chị cũng khá dày đặc, và phong

phú. Hầu hết chị chú trọng sử dụng cả hai hình thức của thơ tự do đó là: loại thơ tự

do không giới hạn về số câu, số chữ; và loại thơ tự do giới hạn về số chữ, số câu.

Đối với loại thơ tự do không giới hạn về số chữ, số câu: Hầu hết những bài

viết theo thể thơ này rất linh hoạt, phóng khoáng, dài ngắn bất ngờ, kết hợp khá

nhịp nhàng và có thể kết hợp những cung bậc tình cảm đến mức tối đa những cảm

xúc trong tâm hồn. Thơ tự do về mặt câu chữ giúp cho Lam Luyến thể hiện chân

thật, tinh tế nỗi buồn, nỗi cô đơn, sự ngóng trông, chờ đợi, nỗi nhớ nhung triền miên

tháng ngày. Những câu thơ dài liên tiếp thường thể hiện sự dữ dội, ngây ngất trong

hạnh phúc hoặc là tột cùng của đau khổ chán nản. Cũng có khi là để thể hiện những

khát vọng bình dị mà ý nghĩa, đó là nhu cầu của một người đang yêu:

Giá được một chén say, mà ngủ suốt triệu năm

Khi tỉnh dậy, anh đã chia tay với người con gái ấy?

(Huyền thoại)

Cũng có khi là nỗi cô đơn, xót xa, cay đắng của người đàn bà bị lừa tình. Đôi

lúc còn bắt gặp sự chống cự quyết liệt trong cuộc chiến tranh tình ái để dành lấy

tình yêu, hạnh phúc và cả sự đam mê.

Em đã đoạt anh từ tay người đàn bà kia

Như người đàn bà kia đoạt anh từ tay người đàn bà khác

(Chiến tranh)

Những câu thơ ngắn hơn có cách ngắt nhịp chậm rãi thì lại thể hiện những

bước đi chậm chạp của thời gian, của khoảnh khắc tình yêu đáng nhớ.

Đối với thể loại thơ tự do giới hạn về số chữ, số câu: Hầu hết các sáng tác

của Lam Luyến viết theo thể loại này, nó tạo sự mượt mà trong cảm xúc của chị.Tất

cả như dệt nên bởi sự êm ái, du dương, gần gũi đến thân quen. Chị bộc lộ trên

những dòng thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ tất cả những da diết, những sâu

lắng, những khổ đau, cô đơn.

Lam Luyến viết theo thể thơ 4 chữ không nhiều lắm chủ yếu là các bài thơ

dành cho thiếu nhi, câu thơ ngắn gọn dễ nhớ, dễ thuộc, và dùng tư duy của trẻ con

để nhìn nhận nên dễ đi vào tâm thức những đứa trẻ. Đó là hình ảnh người mẹ thân

thương chăm lo cho con từng khoảnh khắc trong cuộc đời, là bầu trời em yêu, là sao

trên trời còn đang ngủ (“Sao còn đang ngủ/ Đêm đã sang ngày” – Sao còn đang

ngủ); là nắng, là mưa (“Mưa ở ngoài đồng/ Trưa hè nắng cháy” – Trưa nắng); là

con gà con vịt thích họp mỗi buổi sáng ra (Vịt gà thích họp); là con bò ngờ nghệch

đến chữ o cũng đọc sai (Đuôi thì ngoáy tít/ Thành ra chữ O/ Miệng lại đọc chệch/ Ò

ò ò ò!)….Đó giống như là những lời giải đáp cho những thắc mắc thơ ngây của trẻ

nhỏ. Bởi vậy mà những hình ảnh trong thơ rất gần gũi và thân thiết. Sau này trong

một số bài thơ ở tập Dại yêu thơ 4 chữ của Lam Luyến lại chất chứa những nỗi

niềm riêng khác, mang đậm tính triết lý nhưng vẫn dễ đi vào lòng người (“Tình ta

có thật/Hay là hư không/ Anh ơi có biết/ Em đang mủi lòng…” - Tình ta có thật).

Bên cạnh đó thể thơ 6 chữ cũng được Lam Luyến sử dụng tạo nên những

cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu. Đó có thể là một Thiên tình cuối với

những khao khát hạnh phúc mộc mạc với một đám cưới không cầu kỳ, với những

đứa con chung và con riêng hòa hợp với sinh hoạt bình thường, với những lo toan

vụn vặt của cuộc sống… nhưng trên hết đó là “Anh ơi bởi thiên tình cuối/ Cho mình

biết cách thương nhau” (Thiên tình cuối). Có khi nhận ra thân phận mình “phận

bé” đầy tủi hờn “Lúc ấm chẳng thà được ấm/ Khi êm chẳng thà được êm/ Cái ngọt

hòa trong cái đắng/ Nỗi nhớ lẫn vào niềm quên/ Ai cho rạch ròi phận bé…” (Phận

bé). Cũng có khi rơi vào tột cùng đau khổ, và tuyệt vọng mà chị muốn mình thoát

khỏi “cái xác” để bớt khổ đau “Tôi muốn giã từ cái xác/ Đề hồn đừng lẵng nhẵng

theo” (Tôi muốn giã từ cái xác). Bởi trót mang cái phận đa đoan, “giời đầy” mà

hẳn những vết thương do chiến tranh tình ái gây ra không thể lành lặn dù thời gian

có hàn gắn thành sẹo nhưng nỗi đau thì còn đến muôn đời “Còn đây vết thương rỉ

máu/ Lành da, sẹo vẫn muôn đời” (Vết thương). Thế nhưng cũng có khi chị lại tỏ ra

mạnh mẽ, quyết đoán và có một thái độ đầy thách thức với số phận, với cuộc đời để

bảo vệ cho cái sự khờ dại của chính mình. “Em phải vu oan Thị Kính/ Em cứ lẳng

lơ Thị Mầu” (Hát theo Thị Mầu). Đó mới là cá tính của thơ Đoàn Thị Lam Luyến .

Dù viết theo thể thơ nào, Lam Luyến đã khắc họa nên chân dung của chính

mình: một người đàn bà đa đoan, sắc sảo và đáo để nhưng lại đầy đa cảm, yếu đuối

và dễ thương tổn…

Cũng như người, thơ Hoàng Việt Hằng ít khi vui, luôn mang sự cô đơn

quạnh quẽ lạnh vắng của người quen sống một mình, và bao nhiêu chuyến đi xa,

lang thang khắp các vùng miền đất nước, cũng lại một mình. Chính vì thế lời thơ

của Hoàng Việt Hằng đơn giản, thủ thỉ như lời giãy bày, tâm sự theo những mạch

nguồn cảm xúc, những nơi chị đã đi qua. Chính vì thế thể thơ tự do không giới hạn

về số câu số chữ được chị sử dụng hầu hết trong các sáng tác của mình. Độ dài ngắn

của câu thơ, dòng thơ dường như không được chú ý, những câu thơ cứ tuôn trào

theo cảm xúc của chị, đan xen vào đó là những câu chuyện, những tâm sự của nhân

vật trữ tình.

Khảo sát qua hai tập thơVệt trăng và cánh cửa, Một mình khâu những lặng

im chúng tôi nhận thấy thể thơ tự do được chị đặc biệt sử dụng trải dài trong cả hai

tập thơ. Những câu thơ hàm súc, ngắn gọn nhưng vẫn chất chứa biết bao nhiêu nỗi

niềm và tâm sự của nhân vật trữ tình cũng như người viết.

Hoàng Việt Hằng thường sử dụng thể thơ 6 chữ, 7 chữ với những vùng cảm

xúc riêng biệt. Trong một phút giây mệt mỏi và yếu mềm tưởng chừng nỗi buồn,

nỗi cô đơn bủa vây lấy Việt Hằng thì hình ảnh đứa trẻ với những nét hồn nhiên đã

níu kéo chị trở về với thực tại “ Bỗng nghe tiếng trẻ vòi vĩnh/ Cho con một nắm

bỏng thôi…/Có một thiên thần nhỏ tuổi/ Tay cầm nắm bỏng là vui” (Phút giây).

Hẳn nhiên là chị rất yêu thương con nên đứng giữa nơi sự sống và cái chết cách

nhau gang tấc chị vẫn chập chờn không nguôi khi con chưa trưởng thành để chịu

những giông bão cuộc đời “Thấy con bơ vơ chất ngất/ Mẹ đi mẹ ở sao đành” (Bên

hành lang bệnh viện). Đó cũng là những phút giây bình dị và yên ả khi thả hồn về

với làng quê trong buổi sương sớm “Chân trần giẫm lên sương ẩm/ Chốn quê đầy

trời khói lam” (Làng quê trong sương sớm). Bao nhiêu mệt nhọc lo toan cùng gánh

nặng cơm áo, nỗi đau nào cũng dần nguôi ngoai, người đi đã yên phận, người sống

phải tiếp tục sống, tiếp tục lao động và cống hiến. Và cần lắm những phút giây nhìn

lại mình và chiêm nghiệm “Làng quê yên ả phận người/ Bao năm tìm về chốn cũ/

Để nhìn lại mình mờ tỏ/ Trong cái giếng thơi cuộc đời”. (Làng quê trong sương

sớm).

Đặc biệt trong thơ Hoàng Việt Hằng sử dụng rất nhiều hình thức đan xen

những câu thơ dài ngắn khác nhau trong cùng một bài thơ. Cách ngắt nhịp đột ngột

tạo nên những hiệu ứng mới mẻ trong hình thức thể hiện của bài thơ, truyền tải

được những thông điệp mà tác giả gửi gắm. Mạch cảm xúc cứ thế tuôn trào không

bị gò bó hay theo khuôn mẫu nào cả, cứ tự nhiên chảy vào trong tâm trí bạn đọc khi

tiếp xúc với thơ của Hoàng Việt Hằng. Theo như khảo sát của chúng tôi trong cả hai

tập thơ có tổng số 96 bài, thì có tới 50 bài thơ sử dụng hình thức đan xen số câu, số

chữ với những độ dài ngắn khác nhau của câu thơ. Những tứ thơ bật lên từ cuộc đời

thực, sự sống thực, cảnh ngộ thực. Hoàng Việt Hằng không làm thơ về những gì cao

vời huyễn hoặc. Cuộc đời hàng ngày, hàng giờ từng phút từng giây vây lấy chị. Chị

chiến đấu cật lực, và ở những khoảnh khắc trầm xuống, cảm xúc và tư duy dội lên,

chị làm thơ. Phải trải qua những căng thẳng tột độ của đời sống mới bật ra chiêm

nghiệm ấy:

Một ngày

Chỉ có một ngày thôi

Em nhìn thấy kim đồng hồ chết

Sao lại chết

Kim đồng hồ

Sao lại chết?

Hay là em đã chết đi một phút

Trong một ngày mệt mỏi chẳng ước ao…

…Em chỉ muốn ngồi một mình vậy thôi

Với nỗi buồn khi chết rồi vẫn nhớ…

(Đối mặt với cánh cửa)

Phải là một người phụ nữ lao lực và lao tâm, một người chỉ có thì giờ thảng

thốt đi trong một phút thấm tận cùng mọi nông nỗi dồn lên vai mình mới sáng tạo ra

những tứ thơ hay như thế. Những cay đắng lặng đi sau những lời (Những dấu

lặng), những day dứt không nguôi về số phận lam lũ, nghèo khổ (Day dứt, Chợ

Hốc, Tính, Những dây phơi, Chị Klung Lang…) đều được hiển hiện trong thơ chị.

Người đàn bà mạnh mẽ, bất khuất, người không sợ hao tổn hy sinh cho con, cho

chồng, cho người thân (Dấu chấm than viết ngược, Ước, Con chơi cờ một mình,

Bên nhau và lẻ nhau, Những vết thương không nhìn thấy, Tấm dù xanh, Thơ

viết cho con, Những mùa xuân ám ảnh, Một nửa của dấu hỏi, Đi chợ quê với chị,

Nhớ con ngoài vùng phủ sóng…) vẫn âm thầm “khâu cay đắng” để tỏa sáng.

Tôi cầu cạnh bút nghiên

run rẩy viết

Câu thơ như tia chớp

chợt lóe lên chợt tắt

với hơi thở của người leo dốc

tựa vào mây trắng

tựa vào đá xám

tựa vào cây

mà đi

(Ẩn ức)

Nhìn chung dù viết theo thể thơ nào, Hoàng Việt Hằng cũng thể hiện quan

niệm sống bằng cả lòng tin yêu, dù cho người đàn bà ấy luôn phải bôn ba qua nhiều

ngả phố, miền đất, chân bước đi nhưng trái tim cứ ngoảnh lại, xuyên vào những nỗi

buồn thương nhân thế. Đó là những giá trị mà thơ chị đem lại khiến người đọc

không dễ dàng lãng quên.

Nhìn chung, thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng là

loại thơ trữ tình nội tâm, thơ phản ánh hiện thực, nắm bắt đời thường sôi động đang

cuộn chảy. Những câu thơ theo thể thơ tự do đã tạo điều kiện cho các chị bộc bạch

tấm lòng của mình theo một mạch nguồn tuôn trào, tạo cho hình thức câu thơ linh

hoạt, phóng khoáng. Không phải thơ tự do đem lại cái tùy tiện, cẩu thả mà luôn có

vẻ đẹp xác định, có tính cân đối và cấu tạo chặt chẽ của tổ chức kết cấu, tính hàm

súc của ngôn ngữ thi ca. Cho đến nay, thể thơ tự do vẫn là thể thơ có sức sống diệu

kỳ nhất, gần gũi cuộc sống hơn bất cứ thể thơ nào. Như vậy, với thể thơ tự do, Dư

Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã diễn tả được tất cả những nỗi

niềm, những tâm tư, những mạch nguồn cảm xúc trong lòng. Tất nhiên mỗi nhà thơ,

một cá tính sáng tạo đã mang lại cho thể thơ tự do nhiều sắc thái biểu cảm khác

nhau, tạo nên dấu ấn nhất định trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

3.1.2. Thể thơ lục bát

Lục bát là thể thơ truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, được hình thành

từ văn học dân gian với mảng ca dao giàu chất trữ tình. Thơ lục bát có nhịp điệu

uyển chuyển, nhịp nhàng, thanh điệu của câu thơ nghiêng về bằng hơn trắc, hơi thơ

cần liên tục ngắt quãng [17, tr.89]. Đã có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng với thể loại thơ

truyền thống này như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nguyễn

Duy, Đồng Đức Bốn, Tố Hữu… mỗi nhà thơ một phong cách, một dấu ấn khác

nhau đã tạo nên những thành công nhất định ở thể loại thơ này. Hướng về những giá

trị truyền thống các cây bút nữ trong giai đoạn văn học đổi mới cũng đã lựa chọn

thể thơ lục bát để sáng tạo và tạo nên những cá tính riêng không dễ lẫn. Dư Thị

Hoàn ít sử dụng thể loại thơ này để sáng tác, các sáng tác của chị hầu hết được viết

theo lối thơ tự do, phóng khoáng và dễ biểu cảm. Riêng với Đoàn Thị Lam Luyến

và Hoàng Việt Hằng ngoài việc sử dụng các thể thơ tự do, các chị còn tìm được sự

đồng điệu của cảm xúc khi sử dụng thể thơ truyền thống này, và đã tạo được những

thành công nhất định.

Với Lam Luyến thì “viết theo thể lục bát với tôi như là bản năng” bởi thế

có thể nói những bài thơ hay và dễ đi vào lòng người nhất hầu như được viết theo

thể thơ lục bát. Chị đã thổi vào trang thơ của mình hơi thở mới, âm điệu mới về tình

yêu, góp thêm vào thơ những âm điệu ngọt ngào, trìu mến, sâu lắng dễ đi vào lòng

người. Bằng ý thức lao động, sáng tạo nghệ thuật của mình Lam Luyến đã sử dụng

thể lục bát linh hoạt, hiệu quả và tinh tế. Chỉ bằng cách gieo vần kết hợp với nhịp

bằng – trắc mà chị đã đem lại cho người đọc những trải nghiệm thú vị về cuộc sống.

Đến với thơ tình, bằng âm điệu thiết tha, ngọt ngào, sâu lắng, tinh tế, xúc

động, Lam Luyến đã bộc lộ những cung bậc khác nhau trong tình yêu. Khi thì là sự

ngóng đợi “Giờ này anh đã đến chưa/ Mà em vẫn cứ đợi chờ mãi thôi?” (Không

đề). Khi thì thấy hờn ghen với bóng người phía trước, chỉ là sự hờn ghen vu vơ

nhưng cũng chất chứa nhiều nỗi xót xa: “ Bóng người thầm kín trong ta/ Ái ân bên

những xót xa nghẹn ngào/ Chiếc hôn vừa nhận vừa trao/ Thoảng như có vệt son nào

của ai?” (Bóng người phía trước). Đó là khi tình yêu muộn mằn đến dẫu lắm nỗi

tủi hờn cay đắng của kẻ đến sau, nhưng vẫn cố tỏ ra “thản nhiên” đón nhận với trái

tim đầy bao dung; dám yêu, dám sống thì hẳn nhiên phải chấp nhận đó là lẽ thường

tình của người đàn bà đầy cá tính như Lam Luyến “ Xưa thì chị, nay thì em/ Phải

duyên chồng vợ nối thêm tơ hồng/…/ Chị thản nhiên mối tình đầu/ Thản nhiên em

nhặt bã trầu về têm” (Chồng chị, chồng em). Cũng bởi đa đoan, tin yêu nên mạo

hiểm đi tìm hạnh phúc dù cho nó chênh vênh lành ít dữ nhiều “Tôi mơ tát cạn biển

này/ Để tìm cho được “tháng ngày đôi ta”/ Nhưng rồi biển quá bao la/ Ai – bảo –

làm – nhà – trên – lưng – cá – voi” (Trên lưng cá voi). Lam Luyến là thế dám sống,

dám yêu và dám mạo hiểm để đạt được điều mà chị khao khát, không phải người

phụ nữ hiện đại nào cũng dám sống như chị. Cứ ngỡ với người phụ nữ, có được tình

yêu, được yêu là điều hiển nhiên, nhưng không phải thế, nó đến và đi cũng như sao

đổi ngôi mà thôi “Tình yêu đến tự bao giờ/ Như hai sao sáng bất ngờ đổi ngôi”

(Sao đổi ngôi). Dẫu biết yêu là khổ nhưng Lam Luyến vẫn mở lòng để đón nhận lấy

nó “Nghe tim vạch chớp ngang trời/ Để cơn mưa hát những lời tình yêu” (Cơn mưa

tình yêu). Sau những đau đớn, Lam Luyến lại ước trở về với ngày xưa “Ước sao

được thế hả trời/ Ước gì ta lại thành người tự do/ Trắng trong như những ngày xưa/

Hồn thơm nắng mới như tờ giấy nguyên” (Ước). Để lý giải cho nguồn cơn của

những bất hạnh của người đàn bà khát yêu, mà không bao giờ được yêu trọn vẹn ấy

là bởi số phận, duyên phận, số trời, mệnh trời…và chị phải thốt lên rằng “Mẹ sinh

em đêm hay ngày/ Mà sao như số trời đầy thế gian?” (Tích tịch tình tang). Đó là

cách chị đồng cảm với số phận của những người em cũng đắm đuối yêu và tin “Em

đầy ngộ nhận như tôi/ Cũng yêu chí chết cái người mình yêu” (Em gái) để rồi cũng

nhận lấy những kết cục đáng thương “Rồi mai em giống chị mình/ Lấy bấy nhiêu cái

thất tình làm vui!”. Hay là cách chị đứng ra bênh vực những đứa con sinh ra không

được thừa nhận “Họ mẹ khác gì họ cha?/ Khác chăng, miệng tiếng gần xa chê cười/

Con là họa bố đánh rơi/ Là phúc của mẹ quãng đời mai sau” (Đứa con mang họ

mẹ). Từ xưa đến nay có mấy ai cảm thông với những người con gái trót mang lầm

lỡ như Lam Luyến, chị dám bênh vực đề đòi công bằng lại cho họ. Đó là nét mới và

hiện đại trong thơ chị.

Bằng lối viết tự nhiên và mộc mạc của thể thơ lục bát Lam Luyến đã chạm

vào những vùng mỹ cảm tinh tế và sâu sắc của người đọc. Nói chị thành công nhất

với những bài thơ lục bát quả không sai. Hiện lên trong thơ chị là hình ảnh người

phụ nữ một tấm lòng trung hậu, cởi mở với cuộc đời, dẫu trải qua nhiều đắng cay,

đau khổ.

Với Hoàng Việt Hằng dường như cái chất nền nã Thăng Long được ký gửi

ít nhiều qua những dòng thơ lục bát sâu lắng và đằm thắm như chính con người ấy.

Giai đoạn đầu sáng tác những dòng lục bát của chị nhẹ nhàng, bay bổng, say đắm

lòng người. Thiên nhiên hiện ra thật nền nã, hòa lẫn vào trong không gian thơ mộng

đó là “nỗi nhớ” được vắt ngược qua lưng đèo, hẳn là nỗi nhớ người yêu mới có

những cung bậc cảm xúc khác lạ như thế “ Đám mây như chiếc khăn màu/ Bay

hồng cả nỗi nhớ nhau lưng đèo” (Qua đèo Nai). Càng về sau, lục bát của Hoàng

Việt Hằng không còn phiêu lãng nữa, mà dùng dằng âu lo trống trải, dẫu ở Thảo

nguyên mênh mông: “Người chăn cừu hát cho tôi/ Rời rợi cỏ thảo nguyên trôi trong

lòng” (Thảo nguyên), dẫu ở miền “Một mình khâu những lặng im” quạnh quẽ:

“Em khâu tóc trắng thay lời/ Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau/ Con chồng, vợ cũ,

đồng sâu/ Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng”. Tình yêu bất hạnh mà nhiều mật

ngọt, lắm ngọt ngào mà cũng chứa bao chua cay. Chẳng những thế mà nó còn đòi

hỏi nhiều hy sinh và bao dung. Câu thơ 8 chữ buông nhẹ mà thật ám ảnh. Tình yêu

cần nhiều hy sinh. Tình yêu là thế, hy sinh âm thầm, mà tự nguyện, bền bỉ. Cái góc

dĩ vãng kia của người, mình đâu hay biết. Bởi thế cho nên “lấy chồng lấy cả nỗi đau

của chồng” là vì thế.

Lục bát của chị còn hướng đến những người lam lũ, bất hạnh. Đó là hình

ảnh cậu Nghẹo, dặt dẹo, buồn phiền, cô đơn chỉ biết tìm đến rượu để an ủi: “Một

mình một rượu tái tê nỗi buồn/ Chiều chiều xin chị mấy đồng/ Cơm rau thì ít rượu

suông thì nhiều” (Thơ viết cho cậu Nghẹo), đó là người bán lịch rong mong kiếm

chút tiền để về quê ăn tết được tươm tất “Thế là ế ẩm nỗi niềm/ Chỉ mong hết lịch về

miền quê xa/ Kiếm vài trăm bạc gọi là/ Có tiền mua sắm cả nhà chờ mong” (Người

gánh lịch bán rong)…Ngòi bút của chị còn nhạy bén chạm vào những góc khuất,

những bất thường của cảnh vật làm bật ra những trăn trở, băn khoăn, day dứt. Cát

Bà hòn đảo du lịch nổi tiếng với cát vàng, biển xanh, với rừng quốc gia, với các

khách sạn, nhà hàng …sang trọng nhưng Việt Hằng chỉ chú ý đến những người

gánh củi, các đảo nhỏ và những ngôi nhà đất thó : “Những người gánh củi lẫn mây

rập rờn/ Cát Bà lắm đảo con con/ Nhiều nhà đất thó vẫn còn liêu xiêu” (Một ngày).

Người phụ nữ làm thơ đã phải gánh nỗi buồn duyên phận, đã coi mình là một người

vất vả và khổ đau tột bậc. Bởi vậy, nếu xét riêng dòng lục bát của Hoàng Việt Hằng

thì thấy thơ chị phơi bày những vần điệu được khơi nguồn từ sự tha thứ và cam

chịu: “Mẹ ơi, khóc được là mừng/ Tủi hờn bỡn nhẹ lát gừng đỡ cay/ Buổi trưa nắng

chiếu chốn này/ Mình con theo gót quan tài mình con” (Lục bát cho mình). Không

hiểu sao hình ảnh đôi vai của chị cứ ảm ảnh trong tâm thức của tôi, đôi vai ngang,

rộng đã gánh vác nhiều nhiệm vụ hệ trọng trên đời. Chính chị cũng đã từng thốt lên

rằng “Vai con ngang một đường cày thế gian”, đôi vai của người thức khuya dậy

sớm, lam lũ với đủ mọi bận bịu của một người đàn bà lo làm tròn bổn phận, thiên

chức trong nhà và lăn lộn ngoài xã hội. Sau những lo toan bộn bề của cuộc sống,

cùng những chuyến đi mưu sinh, lúc tĩnh tâm chị lại ao ước “Ước gì xuống núi

thảnh thơi/ Nỗi buồn núi giữ niềm vui đem về” (Lên núi Thạch Lâm ước). Hẳn

nhiên đó chỉ là liệu pháp tâm lý tạm thời mỗi khi tâm hồn chị cảm thấy mệt mỏi và

rệu rã. Ta vẫn thấy một Hoàng Việt Hằng lạc quan với hành trình đi và viết không

mệt mỏi.

Đối với Đoàn Thị Lam Luyến và Hoàng Việt Hằng thể thơ lục bát là mạch

nguồn sáng tạo của cảm xúc. Lam Luyến thì bình dị, mộc mạc, tự nhiên nhưng

không kém phần tinh tế, nhạy cảm; Việt Hằng thì đằm thắm, dịu nhẹ và sâu lắng;

các chị đã góp thêm thành công trong thể loại thơ truyền thống của dân tộc, giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa lâu đời.

3.1.3. Thể thơ 5 chữ

Thơ năm chữ là thể thơ mỗi dòng năm chữ (còn gọi là thơ ngũ ngôn), có

nhịp 3/2 hoặc 2/3. Vần thơ thay đổi không nhất thiết là vần liên tiếp, số câu không

hạn định. Bài thơ thường chia khổ, mỗi khổ thường bốn câu, có khi hai câu hoặc

không chia khổ. Không gò bó theo một khuôn mẫu nhất định, thể thơ 5 chữ phóng

túng trong cách biểu đạt, nhịp điệu phóng khoáng nên rất phù hợp với nhu cầu của

nhịp sống hiện đại.

Với thể thơ 5 chữ, Dư Thị Hoàn nói lên bao điều trong nỗi lòng của con

người, đồng thời mang tính triết lý cao. Nhịp điệu thơ ngắn gọn, có lúc chầm chậm

trôi, có lúc hối hả. Dù tính triết lý đậm đặc trong bài thơ, song nó cũng nhẹ nhàng đi

vào lòng người. “Ông vội đi thật ư?/ Cầu mong ông nán lại/ Từ xứ sở Liêu Trai/

Nơi thập loại chúng sinh/ Hiển linh và khắc khoải/ Có một người con gái/ Ông chưa

hề biết mặt/ Bởi trùng trùng ngăn cách” (Một giọt nước mắt).

Các sáng tác về sau này của Lam Luyến chủ yếu sử dụng thể thơ 5 chữ với

tần suất khá lớn, loại thơ này rất phù hợp với lối sống của con người hiện đại vì lời

thơ ngắn, ngôn từ hàm súc, hình ảnh thơ chắt lọc, không kể lể dài dòng, có nhiều

yếu tố bất ngờ và nhanh chóng đi đến kết luận. Nhất là những bài thơ diễn tả những

cung bậc khác nhau của tình yêu, thể thơ 5 chữ dễ chạm vào mạch cảm xúc yêu

đương với đầy đủ những xúc cảm khác nhau. Đó là sự nhớ mong, chờ đợi (Đợi bạn

từ hoa sữa/ Bây giờ thơm hoa cau – Đợi) trăn trở với những yêu thương, hờn giận

(Đã hai hôm nay rồi/ Không được nhìn nhau nữa/ Có bao nhiêu ngày đêm/ Trong

nỗi niềm nhớ mong – Trăn trở); để khi nhìn thấy khuôn mặt người yêu với những

nụ cười thì dường như mọi nỗi phiền muộn tan biến (Trên khuôn mặt người yêu/

Thấy nụ cười nở vội/ Ấy là lúc gặp nhau/ Sau những ngày mong đợi – Trên khuôn

mặt người yêu); khắc họa chân dung của một “chiến binh” tình ái (Anh đã về đấy ư/

Dửng dưng và đói khát/ Khi đã ở bên em/ Sao vẫn còn biếng nhác … - Chiến binh);

để thấy cả những nỗi niềm tủi hờn, xót xa khi trao gửi mà không được đáp lại (Ta

đã gửi cho anh/ Cả con tim dào dạt/ Và anh trả cho ta/ Nỗi buồn đau tan nát – Gửi

tình yêu); bởi trót đa mang, dại khờ, dại yêu không nghe theo lời cha để chuốc lại

những nỗi đắng đót (Lại được nghe cha mắng/ Và trách con thật nhiều/ Như khi bé

dại của/ Lớn rồi thì dại yêu – Dại yêu); để lại những hoài nghi và những vết thương

lành sẹo nhưng không thể thôi nhức nhối khi niềm tin yêu đổ vỡ (Cứ dở dang dang

dở/ Rồi ra biết thế nào – Miếng da lừa)… Phải chăng là bởi tình yêu trong cõi thực

khác cõi mơ nên con người ta bị rơi vào tuyệt vọng khi nhận ra thực tế ấy? Lam

Luyến thậm chí còn muốn vứt bỏ cả cõi thực để đến cõi mơ cốt là để tận hưởng

phút giây hoan lạc của ái tình. (Em giã từ cõi thực/ Để đi vào cõi mơ/ Tình bằng là

con nhện/ Lại cuống cuồng vương tơ – Cõi mơ, cõi thực). Giản dị và tự nhiên

những mạch thơ cứ dồn tụ những nỗi niềm chất chứa lan tỏa đến tâm thức của

người đọc, tự nhiên thuộc, tự nhiên nhớ và lẩm nhẩm theo những nỗi niềm ấy. Đó là

một thành công của Lam Luyến khi sử dụng thể thơ 5 chữ đắc địa này.

Đối với Hoàng Việt Hằng thì thể thơ 5 chữ với những câu thơ lạ, ngắn, súc

tích, sức biểu cảm cao luôn được sử dụng trong thơ của chị. Hình ảnh mế già trong

phiên chợ Rã hiện lên bằng những nét phác họa mộc mạc, giản dị nhưng có sức gợi

cảm cao “Đi rã chân đến chợ/ Chợ Rã chỉ rã chân/ Mế già ngồi đốt củi/ Hong áo

chàm mưa rơi…/Áo mế già chưa khô?” (Đi chợ Rã). Trên cái nền không gian ảm

đạm và hiu hắt đó, nhân vật trung tâm của bài thơ hiện ra: bà mế già người dân tộc,

cũng như cái chợ nghèo kia, mế cũng rất nghèo. Đường xa, trời mưa, đến chợ người

ướt nên phải đốt củi hong áo. Không dài lời, chỉ vài chi tiết tiêu biểu, với những nét

phác họa bằng ngôn từ với thể thơ 5 chữ nhà thơ đã dựng lên thật sinh động chân

dung người mế già trong một phiên chợ nghèo gây xúc cảm trong lòng người đọc.

Hay hình ảnh người lính trở về sau cuộc chiến cứ ám ảnh bằng những kỷ vật còn sót

lại của những người bạn đã hi sinh thân mình bảo vệ sự yên bình cho Tổ quốc “ Và

anh ngồi nhẩm tính/ Có người bạn tên “Mình”/ Tặng anh chiếc cúc xinh/ Một đế

giày của lính/ Rồi đến lúc hi sinh/ Chẳng còn ai thân thích” (Đế giầy và cúc xinh).

Em bao dung và nhân hậu biết bao khi cùng anh cất giữ những kỷ vật, những tháng

ngày không thể quên của anh, của người lính hậu chiến “Em từ từ ôm lấy/ Người

lính hậu chiến tranh”. Bởi thế mà anh không hẳn ngạc nhiên về sự trẻ trung hay già

đi của em, “Có phút giây anh ước/ Giá em đừng già đi/ Giá em đừng trẻ thế/ Cuộc

sống như trời bể/ Vượt qua không dễ dàng” (Ngạc nhiên). Và với chị anh là tất cả

những gì chị có “Em chẳng có thứ gì/ Ngoài anh và lối đi/Và cuộc đời cụ thể/ Để

em còn đam mê/ Để em còn tốt nữa” (Cây me lá vàng). Thể thơ 5 chữ đã góp phần

nói lên những nỗi niềm mà Việt Hằng cần chia sẻ và giãi bày.

Nhìn chung với thể thơ 5 chữ, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng

Việt Hằng đã khẳng định được tài năng và dấu ấn riêng của mình trong phương thức

biểu đạt.

3.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ có một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ ca. Ngôn ngữ là công

cụ,là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật

ngôn từ. M.Gorki đã khẳng định “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Qua

ngôn ngữ thơ, người đọc có thể hiểu được cảm xúc và phong cách của người nghệ

sĩ. Bởi mọi cung bậc của tình cảm, mọi rung động của tâm hồn đều được thể hiện

qua phương diện ngôn ngữ. Đến với ngôn ngữ trong thi ca, đó vừa là tiếng nói chân

thật, giàu có của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói bay bổng của lý trí, trí tưởng

tượng diệu kỳ, lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động, chiều sâu

của sự suy nghĩ, tính mẫn cảm, tinh tế của sức sống lâu bền, những trạng thái rung

động của tâm hồn… Tất cả chỉ có thể đến được với người đọc thông qua vai trò của

ngôn ngữ. Trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng ta bắt

gặp các kiểu ngôn ngữ sau:

3.2.1.Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm.

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của cảm xúc. Thơ là tiếng lòng và cùng với văn

hóa của nhà thơ làm nên giọng hay phong cách riêng. “Tiếng lòng đó giống như

những sợ tơ lóng lánh sẽ theo ngòi bút chảy xuống trang giấy hòa quyện thành các

con chữ. Chữ viết là hình thức vật chất hóa ý nghĩ, tư tưởng. Ngôn ngữ thơ “photo”

lại “tiếng lòng của nhà thơ” (Đào Duy Hiệp). Ngôn ngữ trong thơ của Dư Thị

Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng là một thứ ngôn ngữ giàu sắc thái

biểu cảm. Trong “Tình lặng” ta bắt gặp sự hồi hộp xen lẫn lo âu của người phụ nữ

đã có gia đình, đó giống như là một bản án chung thân của những người phụ nữ:

“Nụ cười em lãnh đạm/ Đôi mắt em lơ đãng/ Đâu phải cho anh/ Mà để tự hành

hình/ Chớ dừng chân/ Khi vô tình gặp em, anh nhé/ Em mang bản án chung thân

gái đã có chồng”. Dẫu nhiều cay đắng xót xa, nhưng không thể thay đổi được, cảm

xúc con tim bị dồn nén vào trong và không được phép biểu hiện chỉ bởi một rào cản

vô hình nhưng không thể vượt qua “thân gái có chồng”. Các cụ ngày xưa đã từng

nói “lấy chồng như đeo gông vào cổ” là vì thế. Hay như trong bài “Chị ấy” sự nôn

nao xen lẫn ái ngại, bóng dáng của người xưa vẫn vương vất quanh đây, nó khiến

cho em bị ám ảnh và không thể đón nhận tình cảm, và một sự nhún nhường bao

dung đến lạ kỳ của người đàn bà “Đừng có em” khi đã có chị ấy. Ngôn ngữ đã thể

hiện sắc thái cảm xúc của con người. Cũng giống như Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam

Luyến có những biểu hiện sắc thái cảm xúc của tình yêu rât đa dạng và phong phú.

Yêu, tin, ghen tuông hờn giận, hạnh phúc và khổ đau, cay đắng và ngọt ngào…đều

được thể hiện qua một giọng thơ đầy biểu cảm. Hãy xem chị diễn tả cảm giác mong

ngóng người yêu “Cứ mong anh đến nhà/ Dủ một lần ít ỏi/ Chẳng cần nghe anh

nói/ Chỉ nhìn nhau, nhìn nhau…” nỗi nhớ thương cứ dài dần theo năm tháng, ước

ao giản dị “mong anh đến nhà” để được nhìn, được ngắm, được cười, được nghe

anh nói… chỉ bấy nhiêu thôi cũng làm nên hạnh phúc tròn đầy của người con gái

khát khao yêu đương cháy bỏng như Lam Luyến. Để rồi nỗi nhớ thương cứ da diết

và mãnh liệt “ Nhớ - thành cây cho đất/ Thương- thành hoa cho đời”và biến thành

ngọn nguồn của sự sống. Hay là cảm giác ghen tuông đến tột cùng của những kẻ

đang say đắm trong tình yêu “ Ghen như sôi và giận như điên/ Người đàn bà với

trái chín trên tay/ vừa bị lăn xuống đất/ Ghen như sôi và yêu như điên/ Người đàn

bà với ước mơ chưa thành sự thật”(Chiến tranh). Đó còn là cảm nhận được cái hữu

hạn, và vô hạn của tình yêu, của cuộc sống con người, bởi ước vọng thì lớn lao

nhưng sức mạnh của con người lại quá nhỏ bé: “Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn ôm

cả trời/ Mà sao không yêu trọn/ Trái tim một con người” (Gửi tình yêu). Trong thơ

chị giãi bày hết, tận cùng sâu thẳm tâm hồn mình.

Hoàng Việt Hằng cũng thế, đọc thơ chị cảm xúc cứ tự nhiên tuôn chảy theo

những mạch, những ý mà ngôn ngữ giàu tính biểu cảm đã mang lại. Hãy xem cách

chị cảm nhận và chia sẻ gần gũi xung quanh đô thị nhộn nhịp mà bồn chồn: “Ôi

những ngõ của người nghèo Hà Nội/ Tôi thương yêu bạc tóc lúc nào/ Người đời

bảo: nhuộm tóc lại cho xanh/ Tóc có thể nhuộm xanh? Nhưng vui buồn ngõ xuân/

Sao nhuộm lại?”(Ngõ Xuân).Phải là người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến

cháy bỏng mới cảm nhận được những điều tưởng chừng như nhỏ bé giữa đô thị ồn

ào xe cộ ấy, vẫn có những nỗi niềm cần được trao gửi. Đó còn là tấm lòng thương

cảm với bà mế già trong phiên chợ Rã vùng cao, với mảnh áo tơi hong ướt nhẹm vì

mưa gió. Bàng bạc những nỗi niềm cần được trao gửi và cảm thông.

Ngôn ngữ biểu cảm ở đây giúp chúng ta cảm nhận được tâm hồn tinh tế và

bay bổng của người thi sĩ. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gắn liền với những hình ảnh

có sức gợi đã cho thấy một sự chân thành mà xúc động của các tâm hồn nhà thơ. “

Đến dây phơi cũng phải phơi sào/ Cây sào trong nhà thay tủ áo” (Ngưỡng dây

phơi). Dọc Miền Trung,nơi những cơn bão tàn phá, Hoàng Việt Hằng nhói lòng bởi

những chiếc dây phơi bất bình thường. Nhiều khi chính sự biểu cảm của ngôn ngữ

đã gợi lên được những điều chân thực sinh động bằng một thứ ngôn ngữ mộc mạc

đến nao lòng mà chẳng có ngôn từ hoa mỹ nào có thể thay thế được. Bởi những câu

thơ đó được viết ra rất thực từ cảm xúc của người cầm bút.

Từ việt sử dụng một lớp ngôn từ giàu sắc thái biểu cảm mà Dư Thị Hoàn,

Đoàn Thị Lam Luyến,Hoàng Việt Hằng đã trải hết nỗi lòng của mình trên trang

giấy. Nó góp phần thể hiện cái tôi trữ tình của các nhà thơ, góp phần làm nên phong

cách riêng của các nhà thơ không thể trộn lẫn được.

3.2.2. Ngôn ngữ giản dị đời thường.

Thơ bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm. Qua thơ, chúng ta biết được

nỗi niềm tâm trạng của người nghệ sĩ. Nỗi niềm,tâm trạng ấy được diễn tả sâu sắc,

lắng đọng hay nhạt nhẽo, hững hờ…Tất cả phụ thuộc phần lớn vào phương thức

xây dựng thơ. Trong đó,ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng, giúp cho

người nghệ sĩ sáng tạo những bài thơ hay. Bởi thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Thông

qua đó, nhà thơ diễn tả mọi sắc thái tâm hồn, gắn liền với cuộc đời, từng hình ảnh

khác nhau của nhà thơ. Với ba tác giả nữ mà chúng tôi khảo sát thì ngôn ngữ giản dị

đời thường được sử dụng một cách rộng rãi, xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp

sáng tác của cả ba tác giả. Nhìn chung thì với ngôn ngữ giản dị đời thường được cả

ba nhà thơ tập trung khai thác ở khía cạnh kiệm lời khơi ý, ngôn ngữ tuy giản dị

mộc mạc gần gũi với đời thường những không vì thế mà thiếu đi sự trau chuốt, tinh

tế. Dư Thị Hoàn với lời thơ kiệm lời nhưng ý nhị, sâu sắc; Đoàn Thị Lam Luyến

mộc mạc, chân chất nhưng tinh tế, gần gũi; Hoàng Việt Hằng với lối thơ khơi gợi

những mạch nguồn cảm xúc từ chính tâm hồn nên lời thơ chất chứa nhiều nỗi băn

khoăn, day dứt, dễ hiểu, dễ đồng cảm. Tuy vậy mỗi tác giả lại có cách sáng tạo

riêng của mình, tạo được những dấu ấn riêng trong lòng độc giả yêu thơ.

Trong thơ Dư Thị Hoàn chúng tôi nhận thấy rằng, với lối thơ kiệm lời khơi

ý, chị đã chú ý hướng vào thao tác kết hợp hơn là thao tác lựa chọn trong hoạt động

ngôn ngữ. Với thao tác lựa chọn, thì từ ngữ được trau chuốt, được ướm thử sao cho

năng lực liên tưởng của người đọc được vận động, được dẫn nhập đến một lý thú

bất ngờ gần như hòa nhất với những liên tưởng của tác giả. Trở về cuộc sống đời

thường, thơ của chị trở nên tự nhiên, gần gũi như chính sự biểu hiện của những tâm

hồn nhạy cảm, tinh tế. Chị biết nắm bắt những hình ảnh, ngôn ngữ đời thường mộc

mạc, thô ráp : giẻ lau, quả bóng…từ những hình ảnh bình thường, giản dị và thân

quen ấy, chị đã gửi gắm những nỗi niềm tâm sự, những suy nghĩ về cuộc đời và triết

lý nhân bản. “Em lăn lóc kệt sức dưới bàn chân hiếu thắng/ Họ đá bật em từ phía

này sang phía nọ để lưu danh/ Chỉ có mình anh thương em thôi/ Sao anh không làm

thủ thành/ Cho họ biết tay/ Đợi cú sút làm bàn/ Em sẽ bay đến/ Ngọt lịm trong vòng

tay anh…”(Tâm sự quả bóng đá).

Con người tồn tại trong rất nhiều mối quan hệ xã hội, đặc biệt con người

tình yêu trong thơ Dư Thị Hoàn mang nhiều mâu thuẫn, vừa có sự lựa chọn quyết

liệt, vừa có những giọt nước mắt tủi thân mặc cảm, vừa có cái kiêu hãnh tự tin, vừa

rụt rẻ lặng lẽ, vừa có cái nồng nàn táo bạo lại vừa có cái lạnh tanh của người từng

trải. Ngôn ngữ trong thơ Dư Thị Hoàn chẳng bóng bẩy cầu kỳ, chẳng phải “mài câu

giũa chữ” mà câu chữ như được trút ra từ tâm hồn phơi bày lên trang giấy. Đó là

những sợi tơ ngôn ngữ vàng óng được rút từ ruột tằm tạo nên những dải lụa thơ vừa

ngọt ngào, lại vừa thâm trầm sâu sắc. Một tâm hồn tinh tế, chân thật và rất dễ nhạy

cảm được gói gọn trong những lời thơ dung dị. chân thật, tự nhiên đi vào lòng

người và tạo nên một sức sống mãnh liệt: “Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ/ Bút viết

xong không đậy nắp bao giờ/ Ôi anh yêu, lơ đãng đến là/ Con nai rừng của em…”

(Tan vỡ). Ngôn ngữ không có gì là bóng bẩy, trau chuốt hay hoa mỹ, trái lại, nó như

lời trách yêu đầy âu yếm, yêu chiều. Trách anh nhưng lại không hề yêu cầu anh phải

thay đổi. Đó là cái dễ thương của người con gái, cô biến cái khiếm khuyết của

người mình yêu thành cái lơ đãng thật dễ thương. Ngôn từ của tác giả tạo nên một

hình tượng đẹp, ngôn ngữ gần gũi với con người, gần với đời thường nhưng lại

không khô khan, dung tục, trần trụi. Chính điều đó đã làm nên một nét riêng trong

thơ chị, tạo nên tính hình tượng cho thơ.

Thể thơ ngắn, kiệm lời nhưng mở ra bao điều mới mẻ, hấp dẫn, cuốn hút sự

khám phá của người đọc. “Cũng may cho mẹ/ Không có lấy một mụn con gái/ Để

rồi đến lúc phải cắt nghĩa ba chữ này” (Của hồi môn). Không có con gái sao lại

may? Tác giả cũng đã có sự giải thích nhưng đọc lên ta vẫn thấy có sự bất ổn, bất

bình thường. Đó chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả để nói lên cái mỉa mai, chua

chat của một kiếp người cơ cực, đến cái ước mơ rất người của mình cũng không thể

có được. Họ phải đánh lừa mình rằng như thế là may mắn, hạnh phúc. Một sự bất

thường, dùng từ ngữ của vui vẻ, hạnh phúc để nói về cái bất hạnh đã tạo nên sự lay

động lớn trong lòng người đọc. Thơ Dư Thị Hoàn không rơi vào khuynh hướng

hình thức chủ nghĩa, tạo ra sự ghép chữ vô nghĩa. Chị đã dùng ngôn ngữ để thể hiện

khát vọng cao quý của người nghệ sĩ giàu tâm huyết muốn đem lại cho cuộc sống tẻ

nhạt, đau buồn này một luồng gió mới, giúp cho người với người xích lại gần nhau

hơn. Ngôn ngữ có một sức lay động lớn để con người hòa đồng nhân ái.

Những bài thơ của Dư Thị Hoàn đều được thể hiện bằng ngôn ngữ thơ tự

do gắn với hiện thực cuộc sống, biểu đạt được những góc cạnh phong phú của cuộc

sống cũng như tâm hồn một cách giàu hình ảnh, mang đầy chất khỏe khoắn và đa

dạng của tiếng nói đời sống. “Thiên sứ ơi/ Có đi tuần giờ này/ Xin cúi xuống đây/

Lượm cho hết tiếng thở dài của mẹ…” (Cầu nguyện). Khi muốn che đậy một cảm

xúc “Đừng bắt tôi kể về một đêm trăng”, tác giả đã dùng hình ảnh âm thanh khác để

khuấy động cảm xúc khác “Đàn ơi rung lên đi/ Khèn ơi cứ réo rắt/Ở nơi xa rất xa/

Có giấc ngủ nóng ran/ Tình yêu tháng ba ngày tám…”(Trăng sáng quá). Nhịp điệu

sống tạo sự cộng hưởng với phần bên trong của tâm hồn. Chính vì thế ngôn ngữ

trong thơ chị trầm lắng, thiết tha làm cho nhịp điệu thơ như ẩn vào trong âm hưởng

bên trong sâu lắng, dào dạt của bài thơ; một nhịp điệu riêng độc đáo và đằm thắm

làm nên sự xúc động nội tâm. Ngôn ngữ đời thường mang tính chất văn xuôi là kiểu

ngôn ngữ thô ráp, gần gũi với đời sống hàng ngày, dễ đi vào đời sống hơn. Nói

chung, ngôn ngữ trong thơ Dư Thị Hoàn cụ thể, gần gũi với đời thường song thật

sinh động, giàu nhịp điệu,hình ảnh tạo nên một chất thơ lắng đọng, sâu sắc. Những

hình ảnh bình dị, gần gũi trong cuộc sống cũng như trong tình yêu đã đi vào thơ chị

một cách tự nhiên tưởng như dễ dàng, lại chính là thể hiện tâm hồn nhạy cảm, tinh

tế, biết nắm bắt những khoảnh khắc giá trị giữa dòng đời đang cuộn trôi.

Cũng chọn cho mình ngôn ngữ giản dị đời thường để biểu cảm những sắc

thái của trái tim, Lam Luyến đã tạo cho mình một địa hạt riêng biệt và khá thành

công khi sử dụng nó. Đọc thơ của Lam Luyến chúng tôi nhận thấy thơ chị có xu

hướng đưa ngôn ngữ đời thường gần gũi vào thơ để đối thoại, để độc thoại. Nó

được thể hiện ở cách lựa chọn ngôn từ, cách tổ chức câu thơ, dòng thơ, các phương

thức diễn đạt, nhịp điệu …trong thơ của Lam Luyến. Bởi thế nên Lam Luyến đã

từng nói “Làm thơ với tôi như là một nhu cầu tự thân”. Thơ chị thực hiện nhu cầu

tự bộc lộ, dù sử dụng thể thơ nào đi chăng nữa thì những mạch thơ nhẹ nhàng như

đang tự trôi theo một nguồn cảm xúc từ trái tim của chính chị. Nhất là mảng thơ

tình, với những lời bộc bạch, tâm sự chất chứa khao khát yêu thương của người đàn

bà “dại yêu”. Mang nhiều yếu tố đời thường, thơ Lam Luyến bộc bạch lòng mình,

cũng trải lòng mình với trời đất, với con người, với anh và với tất cả chúng ta. Ở thơ

Lam Luyến ta bắt gặp cả những biểu hiện rất đỗi thân quen, quen đến độ có khi

người đọc quên mất đó là thơ, cứ nghĩ nó là lời nói thường ngày. Bởi nhiều khi

nghe chanh chua như thể thách thức. Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần trong câu

thơ càng khiến câu thơ gần hơn với đời thường. Lại cộng thêm hai động từ mạnh

“phải” và “cứ” đầy thách thức càng làm tăng tính hiệu quả trong cách dùng từ của

Lam Luyến: “ Ai bảo mẹ sinh em đẹp/ Ai xui cha muốn con giầu? … Em phải vu

oan Thị Kính/ Em cứ lẳng lơ Thị Mầu” (Hát theo Thị Mầu).

Cũng có khi nó mộc mạc như lời kể chuyện tâm tình, lời tâm sự về hoàn

cảnh sống, về tình cảm mẹ con, về sự vất vả của cuộc sống và những chăm sóc mẹ

dành cho chị. Cũng có khi chị coi mình như Nô lệ - một kiểu nói rất hiện đại gần

gũi mà vẫn làm chất thơ Lam Luyến độc đáo (Có một ngày). Rồi cũng có khi là cái

nhìn rất thật về cuộc sống, một góc nhìn với kiểu nhìn mà bấy lâu nay các nhà văn

nhà thơ vẫn nhìn (Chảy dở). Đó còn là khát vọng rất đỗi bình dị, đơn sơ của cuộc

sống hàng ngày, là khát vọng làm vợ, làm mẹ với những hạnh phúc tròn đầy của

người phụ nữ. “Gái trai cũng thèm một đứa/ Cho anh bế bế bồng bồng” (Thiên tình

cuối). Và cũng có khi cơn giận dữ lên đến tột cùng của sự ghen tuông, ích kỷ của

một tình yêu không cho phép sự san sẻ. (Chiến tranh). Để rồi đầy chua xót, và cay

đắng khi chợt nhận ra đó chỉ là những ước mơ không có thật, huyễn hoặc giống như

giấc mơ “làm nhà trên lưng cá voi” vậy. Cũng bởi cả tin nghe, cả tin nói, cả tin yêu

đến khờ dại đã khiến cho người đàn bà chuộc đầy những đau khổ, và vẫn mãi cô

đơn (Châm khói). Tất cả đều được Lam Luyến diễn tả bằng thứ ngôn ngữ hết sức

đơn giản, bình dị pha chút nỗi niềm đau đớn, chua xót của số phận.

Khác với Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng cũng sử

dụng ngôn ngữ mộc mạc,giản dị đời thường để phản ánh những thân phận con

người lam lũ trong xã hội, nhưng ngôn ngữ trong thơ Hoàng Việt Hằng thấm đẫm

những cảm xúc thương mình, thương người với một tình thương vô bờ bến của trái

tim nữ nhi lấy nghiệp viết để kiếm sống như chị. Cũng viết về tình yêu với những

cung bậc cảm xúc hết sức khác nhau, lúc e ấp dịu dàng của cô gái mới tuổi đôi mươi

lần đầu chập chững yêu đương; lúc thì dữ dội, cồn cào, chua xót nhưng luôn luôn

thủy chung son sắt của người đàn bà từng trải qua nhiều mất mát lớn lao trong cuộc

đời. Hoàng Việt Hằng là người thành phố, nhưng chị lại chọn cho mình, cho lối

sống và cách viết của mình hơi hướng nhà quê: “Bạn từ tỉnh lị/học làm người thành

phố/Tôi người thành phố/học làm nhà quê” (Đối thoại). Chính vì thế mà ngôn ngữ

thơ của chị rất mộc mạc, bình dị gần gũi với những người lao động nghèo khổ.

Ngay khi viết về thành phố chị cũng chọn cho mình cách nhìn, cách cảm nhận hết

sức bình dị và dân dã. Đó là hình ảnh vạt cải vàng ven sông, là cây sưa Đỏ, là cái

ngõ Xuân nho nhỏ giữa lòng Hà Nội chen chúc (Hoa cải mùa đông, Cây sưa đỏ,

Ngõ Xuân…) tất cả hiện lên trong thơ chị thật gần gũi và quá đỗi thân thương. Đó

còn là thân phận những người dân lao động nghèo lam lũ lần lượt xuất hiện đầy “ẩn

ức” trong mỗi chuyến đi xa của chị: là chị Thứ với túp lều vịt nghèo,là bà mế già ở

phiên chợ vùng cao, là người đàn bà góa trong khe sâu, là chị Seo Mây địu con chơi

với ở Mũi Lèng, là chị Klung Lang trong chập chiều quét lá…tất cả làm nên những

điệu buồn man mác cứ chập chờn ẩn hiện trong tâm trí người đọc. Đó còn là tình

mẫu tử thiêng liêng, cao cả của chị dành cho đứa con trai thiếu thốn sự dạy bảo của

người cha, là những nỗi nhớ con dài dặc theo những chuyến đi, là những phút chạnh

lòng khi nhớ về người chồng đã khuất… Tất cả đã được Hoàng Việt Hằng gửi gắm

qua ngôn từ hết sức giản dị, gần gũi nhưng không quá thô sơ, cẩu thả. Khiến cho

người đọc day dứt và không quên. Đó là một thành công trong việc sử dụng biện

pháp nghệ thuật ngôn ngữ của Hoàng Việt Hằng.

Như vậy, nhịp điệu ngoài đời sống tạo sự cộng hưởng với phần bên trong

của tâm hồn, tạo nên những vần thơ mang âm hưởng và dấu ấn của đời thường.

Ngôn ngữ đời thường man tính chất văn xuôi thô ráp, gần gũi với đời sống hàng

ngày, dễ đi vào đời sống hơn. Chính vì thế nó được sử dụng hầu khắp trong những

sáng tác của cả ba tác giả. Đó một thứ ngôn ngữ trầm lắng, thiết tha làm cho nhịp

điệu thơ như ẩn vào trong âm hưởng bên trong sâu lắng, dào dạt của mỗi bài thơ;

một nhịp điệu riêng độc đáo và đằm thắm làm nên sự xúc động nội tâm. Mục đích

cuối cùng của thơ là tính trữ tình làm lay động lòng người, tạo nên sự đồng cảm với

người đọc. Và cả ba nhà thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng

đã làm rất thành công điều đó. Những hình ảnh bình dị, gần gũi trong cuộc sống

cũng như trong tính yêu đã đi vào thơ các chị một cách tự nhiên, đó chính là cách

thể hiện tâm hồn nhạy cảm tinh tế, biết nắm bắt những khoảnh khắc giá trị giữa

dòng đời đang cuộn trôi.

3.3. Giọng điệu

Giọng điệu là một trong những yếu tố nghệ thuật của thi pháp cũng như

phong cách nhà văn. Giọng điệu văn chương vừa cho phép người đọc nhận ra vẻ

đẹp của người nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định tài năng nhà văn.

Người nghệ sĩ có tài năng phải tạo ra được một giọng điệu đặc trưng trong sáng tạo

nghệ thuật của họ.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Giọng điệu là thái độ, tình cảm lập

trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dung từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm

thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”

[24,tr.134].

Đối với thơ ca, nhất là thơ trữ tình, giọng điệu là một phần không nhỏ tạo

nên nét riêng biệt cá tính của từng tác giả. Không phải thi sĩ nào cũng giống nhau về

giọng điệu bởi mỗi người có một cách cảm thụ về con người và thế giới xung quanh

khác nhau. Trong văn học Việt Nam ta thấy có vô vàn những giọng thơ khác nhau

như: Giọng châm biếm đả kích của Tú Xương, giọng trữ tình cách mạng của Tố

Hữu, giọng u sầu ảo não của Huy Cận….Thơ nữ là sự phản ánh tâm hồn, thế giới

nội tâm của người phụ nữ, là cách nhìn đời thông qua lăng kính và trái tim người

đàn bà. Bởi vậy, giọng điệu trong thơ của các chị cũng in đậm bản tính kín đáo, nhẹ

nhàng ấy. Đó có thể là giọng điệu lo âu, hoài niệm, trăn trở, thương xót; cũng có khi

là giọng điệu suy tư, trầm lắng; nồng nàn, ấm áp nhưng cũng rất cá tính.

3.3.1. Giọng điệu lo âu, hoài niệm, trăn trở.

Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng với ba cá tính nữ,

ba cuộc đời, ba số phận khác nhau đều chất chứa những nỗi niềm mà chỉ khi tìm

đến thơ các chị mới được giãy bày và chia sẻ.

Dư Thị Hoàn không phải là nhà thơ nổi tiếng như Xuân Quỳnh, Ý Nhi,

Lâm Thị Mỹ Dạ… song nếu ai đã đến với thơ chị thấy ở đó ít nhiều nỗi lòng của

mình. Sự đồng cảm ấy cứ âm thầm ngấm vào ta như một mạch nước ngầm tinh

khiết mát lạnh. Chị cần mẫn như con ong, cái kiến làm nên mật ngọt cho đời. Thơ

chị xuất hiện chưa nhiều nhưng đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên thi đàn.

Ta tìm được ở thơ chị nỗi lòng của mình, nỗi niềm nhân tình thế thái. Thơ chị

không ồn ào, mạnh mẽ, “đao to búa lớn” mà chỉ là những lời thủ thỉ - tâm tình từ

những chiêm nghiệm cuộc đời và tự nhiên đi vào lòng người, chiếm cảm tình của

độc giả yêu thơ. Giọng trữ tình hoài niệm thương xót, trở thành âm hưởng chủ đạo

trong thơ Dư Thị Hoàn. Chị sử dụng giọng điệu này để đưa tâm tưởng ngược về quá

khứ, để thương xót, day dứt, ám ảnh không nguôi về thân phận, về kiếp người trong

cõi nhân sinh.

Dư Thị Hoàn có một tuổi thơ không mấy bình yên, tuổi trẻ đầy vất vả, côi

cút, bởi thế, trong thơ chị phảng phất nỗi buồn thân phận ám ảnh không nguôi. Vì

vậy, giọng thơ chị hòa quyện hương vị của nỗi buồn, sự cô đơn và sự từng trải.

Cuộc chiến Trung – Việt 1979 đem đến khổ đau, mất mát cho nhiều người dân,

trong đó có thân phận của chị. Cha chị ra trận hồi chị còn nhỏ, mẹ một mình tần tảo

chăm sóc, nuôi dưỡng chị và các em. Chị chỉ kịp nghe lại từ lời mẹ kể.

Ngày tôi cất tiếng

Chào đời

Cha tôi ra trận

Người chỉ kịp nhìn tôi giẫy giụa khóc

Từ đấy bặt tin

Mẹ tôi kể…

(Cầu nguyện)

Dư Thị Hoàn không quên được khoảnh khắc li biệt với người mẹ già của

mình. Hình ảnh chuyến tàu “đêm” cứ hiện lên trong tâm trí của chị, bởi vì “chuyến

tàu đêm ấy” đã chia cách chị và mẹ mãi mãi. Giọng thơ của chị trở nên trách móc,

chì chiết.

Mẹ ơi

Sao mẹ giấu con không nói thật

Rằng chuyến tàu đêm ấy là chuyến cuối

Chở bà con qua biên giới Việt – Trung

Rằng lần ấy là lần cuối

Mẹ ơi, nỡ lòng nào nói dối

Mẹ ơi!

(Mười năm tiếng khóc)

Dẫu chia lìa, cách xa nhưng trái tim nhỏ bé của chị vẫn luôn thổn thức,

luôn hướng về những người thân của mình. Chia sẻ những vui buồn trong cay đắng,

đau khổ, day dứt, chị thốt lên tiếng nói tận đáy lòng của chính mình.

Hỡi các em

Đang quây tụ bên bánh kem hình cây tháp

Nhân ngày vui, dâng cây nến

lựa lời thay chị

Xin mẹ bớt âu lo

Cho giọt máu xẻ chia miền đất xa tít tắp…

(Bức thư người Hoa)

Cảm nhận được nỗi buồn của chính mình, chị mới thấu hiểu được quy luật

của thời gian đáng quý và trân trọng biết nhường nào. Nỗi buồn đó chính là tấm

lòng vị tha, gắn bó thân thiết với đời, yêu đời và yêu cái đẹp. Ở bài thơ Khóc hoa

quỳnh, chị gửi gắm thông điệp, làm người chúng ta phải sống sao cho xứng đáng,

để không phải nuối tiếc quá khứ, hổ thẹn với hiện tại mà phải biết vươn lên cho một

tương lai tốt đẹp.

Nhã hoa thoắt bỗng hiện hình

Dấu che sứ mệnh trời dành tang thương

Hương cô độc giận ngát thơm

Chống đỡ đáy thẳm tâm can yếu rồi

Phút giây tự diệt giờ đây

Dâng lên hết vẻ đẹp tươi tót vời

Thề rằng chào vĩnh biệt rồi

Vẫn lưu lắng áng hương trời thanh cao

Nỗi buồn cứ tiếp nối dần trôi theo tháng ngày. Trở về quá khứ, chị tìm đến

tha nhân, với thế giới bên kia, sẻ chia nỗi đau của con người, trò chuyện với “xác

chết” để cứu rỗi tâm hồn, thương xót cho những kiếp người lầm than, bất hạnh

trong cuộc đời.

Tôi tha thẩn với thế giới không người

Trò chuyện với xác chết không thôi

Ở đây

Bia mọc dầy như cỏ

Không tạc tên họ

Chẳng mang chữ số…

(Ngược chiều thời gian)

Dư Thị Hoàn viết nhiều về người phụ nữ, nói đúng hơn, chị viết nhiều về

thân phận đàn bà. Ngay cả trong những bài thơ tình, hình ảnh người phụ nữ hiện lên

bao giờ cũng phảng phất tiềng nói của thân phận. Bài thơ Đi lễ chùa như một câu

chuyện được kể tự nhiên và hàm súc: “Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/

Tay khư khư ôm đầy vật lễ”. Đi lễ chùa là một tín ngưỡng đã có từ rất lâu trong tâm

linh người Việt, người đi lễ chùa muốn tìm đến cõi Phật để cầu mong có được hạnh

phúc, có được sự thanh thản trong tâm hồn. Và trên con đường hành hương về cõi

Phật ấy, người ta mang theo những “vật tế lễ”, mang theo những nỗi niềm và những

nỗi đau. Có nỗi đau được nói ra bằng lời và có cả những nỗi đau không lời lẽ nào

diễn tả nổi. Đó là nỗi đau của kiếp đàn bà. Bằng giọng điệu trăn trở, thương xót Dư

Thị Hoàn đã cắt nghĩa những nỗi bất hạnh, những nỗi đau của thân phận đàn bà, nỗi

đau trong cuộc sống nhân sinh. Qua đó chị cảm thông, sẻ chia với nỗi bất hạnh của

kiếp người, của mỗi thân phận.

Cùng viết về thân phận người phụ nữ, nữ thi sĩ họ Đoàn lại thiên về tình

yêu lứa đôi với những khao khát hạnh phúc hết đỗi bình dị của người phụ nữ. Hạnh

phúc và khổ đau là hai cung bậc hoàn toàn trái ngược nhau nhưng cả hai cung bậc

ấy đều được thể hiện đậm nét trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến. Có khi là hạnh phúc

vô biên bởi tưởng đó là bên bờ hạnh phúc, bởi nghĩ dù là duyên muộn vẫn còn hơn

không, bởi có duyên tơ hồng nối thêm vợ chồng. Nhưng cũng có khi trăn trở, xót

xa, cay đắng khôn nguôi. Xót xa tột cùng khi người bạn đời thay lòng đổi dạ:

Chợt đến với anh

Cô gái tóc dài, cặp mắt long lanh

Cập tai anh những lời nhỏ nhẹ

Và phút chốc anh quên người vợ trẻ

(Châm nỗi nhớ)

Người phụ nữ nào mà chẳng mong một tình yêu trọn vẹn? Người phụ

nữ nào chẳng ước mơ về một gia đình hạnh phúc? Người phụ nữ nào chẳng

muốn vị hôn phu của mình một lòng một dạ với mình? Đau đớn thay, tình

yêu giờ đây bị san sẻ, không chỉ thế mà nó khiến anh – người chồng đa tình

quên người vợ trẻ. Thậm chí có lúc anh ta còn lưu luyến cả những hình bóng

đã là quá khứ khi nhà thơ chứng kiến anh nâng niu trân trọng những kỷ niệm

xưa cũ.

Ghế người ta ngồi đấy

Anh choàng để dành hơi

Bàn người ta viết đấy

Đêm đêm ủ lấy hơi người.

(Chuyện về anh)

Đâu có phải ai cũng có được tình yêu êm đềm, trọn vẹn. Lam Luyến khổ

hơn khi chị gặp nhiều đau đớn, mất mát trong tình yêu ngay từ mối tình đầu. Trải

qua bao thăng trầm, bể dâu con đường của Lam Luyến cũng chưa thấy bến đỗ bình

yên, vẫn miệt mài trong nỗi đau, nỗi cô đơn bởi những bi kịch tình yêu đến với cuộc

đời chị. Giọng thơ của Lam Luyến cũng bởi thể mà lo âu, trăn trở, thương xót và

cay đắng. Bao nhiêu yêu thương chị đều đã dệt thành chiếc áo tình yêu, ấy vậy mà:

Người bỏ áo đi đâu

Lỡ một thì con gái

(Lỡ một thì con gái)

Bao nhiêu tình yêu chị trao cả cho anh, nhưng kết quả là chị nhận lại một

nỗi buồn đau tan nát. Để rồi ngậm ngùi, thương xót cho chính cái hữu hạn của

mình:

Ta muốn ôm cả đất

Ta muốn ôm cả trời

Mà sao không yêu trọn

Trái tim một con người?

(Gửi tình yêu)

Khao khát tình yêu, đắm đuối trong những ảo tưởng tự tô vẽ, ở người đàn

bà này, hình ảnh người tình luôn được “thiêng hóa”: “Anh đến như trời sai đến/ Em

không giữ nổi phép màu/ Như có bàn tay định mệnh/ Bàng hoàng ánh mắt giao

nhau (Lời anh trên biển)”. Nồng nhiệt và tự tin đến ngây thơ, bất chấp những cảnh

ngộ thực tế, người đàn bà ấy sẵn sàng cao giọng “thách thức” với mọi thử thách

khắc nghiệt nhất của đời sống: “Gian khổ hay cách trở/ Thương nhau thêm bội

phần/ Và với em khi đó/ Tình yêu là phép nhân (Phép nhân)”. Và với tất cả sự đa

cảm và vụng dại, chị sẵn sàng “thế chấp” tất cả niềm tin vào tình yêu, cho dù đó chỉ

là tình cảm từ một phía và không hề được đền đáp. “ Dẫu chẳng được hẹn hò/ Em

cứ đợi, cứ say/ Ngâu có xa nhau, Ngâu có ngày gặp lại/ Kim – Kiều lỡ duyên nhau/

Chẳng thể là mãi mãi/ Em cứ vẫn đợi/ Vẫn chờ/ Dẫu chỉ là huyền thoại một tình

yêu! (Huyền thoại)”. Để từ đó bộc lộ nên giọng điệu thương xót và hoài niệm

phảng phất một nụ cười giễu cợt của chị với chính mình, tạo nên một sắc thái rất

riêng trong những câu thơ tình của Lam Luyến.

Thực tế đầy những bất trắc, hạnh phúc là điều khó nắm giữ và trong cuộc

chiến giành giật ái tình dẫu người chiến thắng là chị, nhưng không hẳn những nỗi lo

âu mơ hồ vì thế mà mất đi, bởi “Em đã đoạt anh từ tay người đàn bà kia” nên cái

dự cảm về sự mất mát luôn luôn tồn tại:

Em đã đón anh về

Nhưng chắc gì giữ được anh lâu hơn

Rồi sẽ có một người đàn bà khác

Anh vốn yếu mềm và biếng nhác

Miếng mồi của chiến tranh man rợ diệu kỳ

Em sửng sốt nghĩ đến một ngày anh lại bỏ ra đi…

(Chiến tranh)

Bởi vậy mà giọng điệu lo âu và trăn trở luôn song hành cùng người đàn bà

có trái tim khát yêu khát sống này.

Còn với Hoàng Việt Hằng những nỗi niềm và đau đớn mà chị trải qua cũng

dồn nén lại và ném vào những trang thơ ngân ngấn nước mắt trước cuộc mưu sinh

đầy cực nhọc của người đàn bà trót mang nghiệp cầm bút. Cũng khát yêu, tin yêu,

dại yêu như Lam Luyến nhưng chí ít Việt Hằng cũng có được một người đàn ông

trọn vẹn để trao gửi yêu thương, dù yêu thương đó phải đánh đổi bằng những cực

nhọc nỗi lo cơm áo gạo tiền đè nèn lên đôi vai vốn mong manh và yếu đuối của

phận nhi nữ. Số phận của chị giống như một trận đấu bóng, dũng cảm đấu tranh và

giành giật với số phận nhưng rốt cuộc chị vẫn thua và mọi đắng cay, đau khổ, cực

nhọc đều dồn lại phía chị. Người đàn ông là lẽ sống của chị cũng bị số phận cướp

mất, chị trắng tay nhưng những hồi ức về anh, những hoài niệm về năm tháng hạnh

phúc gian nan của chị luôn chập chờn hiện về bên chị, là động lực để chị vươn lên

và tiếp tục hành trình đi, viết, nuôi con khôn lớn thành người. Bao trùm lên toàn bộ

sáng tác của chị là giọng điệu hoài niệm những ký ức về anh – người đàn ông của

chị, về những năm tháng của anh, của đồng đội anh – những người đã đi qua cuộc

chiến tranh khốc liệt và oai hùng. Đó có thể là cái “đế giày và cúc xinh” còn sót lại

sau cuộc chiến của anh; hay cái bàn cờ mà anh đánh cùng con những ngày còn

sống, là cây sưa đỏ - nơi gắn liền kỷ niệm của anh chị, là cái ngày ba mươi tháng tư

hào hùng….hay cái dáng ngồi của anh như dấu chấm than viết ngược ẩn hiện trong

suốt cuộc đời chị… tất cả là một nghị lực sống để chị tựa vào sống và “run rẩy”

viết.

Từ những mất mát riêng tư, Hoàng Việt Hằng dễ dàng đồng cảm với những

thân phận thua thiệt. Chị thảng thốt chia sẻ gần gũi xung quanh đô thị nhộn nhịp mà

bồn chồn: “Ôi những ngõ của người nghèo Hà Nội/ Tôi thương yêu bạc tóc lúc nào/

Người đời bảo: nhuộm tóc cho xanh lại/ Tóc có thể nhuộm xanh/ Nhưng vui buồn

ngõ xuân/ Sao nhuộm lại?” và dằn vặt thương xót bà lão lầm lũi ở túp lều liêu xiêu

vách núi vắng vẻ: “Một đời người bao lần trông đợi/ Nay tóc hắt sương thì chẳng

đợi gì/ Chỉ mong trời đừng bắt tội ốm đau chi/ Để trồng lá trồng rau đủ sống/ Chốn

tam quan, sân chùa, sông nước/ Chốn mùa đông lặng một phận người”. Chị xao xác

tính giùm người phụ nữ nông thôn tên Thứ một phép toán đầy ái ngại giữa kẻ ăn

không hết người lần không ra thời kinh tế thị trường: “Nếu tôi không ngủ ở khách

sạn năm sao một đêm/ Đỡ cho chị Thứ một năm không ra làm đồng”. Giọng điệu lo

âu, trăn trở, thương xót cứ trải dài trong thơ Hoàng Việt Hằng như thế, rất khó phân

biệt chị đang viết cho thiên hạ hay khóc cho bản thân. Phải chăng với giọng điệu lo

âu, trăn trở, băn khoăn, thương xót đã làm cho thơ Hoàng Việt Hằng đến gần hơn

với công chúng và những người cần lao.

Như vậy, với mỗi một nhà văn, một đối tượng được nhà văn hướng tới lại

mang những sắc thái giọng điệu riêng biệt, đó có thể là những tiếng than thở thương

xót đối với những thân phận nhỏ bé lam lũ trong xã hội, hay là những trăn trở, lo âu

trước sự mong manh dễ vỡ của tình yêu đôi lứa; cũng có khi là những hoài niệm về

một bóng hình đã khuất… tất cả đều được dồn nén và làm nên thành công của Dư

Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng. Người đọc đồng cảm và chia sẽ

cùng các chị tạo nên những sức sống bền bỉ trong thơ. Nó tạo thành những vạt thơ

riêng hòa chung cùng dòng chảy của nền thơ Việt Nam hiện đại.

3.3.2. Giọng điệu trữ tình suy tư, trầm lắng.

Xu hướng trở về cái tôi cá nhân, là xu hướng nổi bật hơn cả trong thời kỳ

đổi mới, nó gắn với cảm hứng nói thật, nói một cách riết róng những cảm xúc chủ

quan của người viết. Giọng thơ Dư Thị Hoàn có khi mạnh mẽ gấp gáp, có lúc nồng

nàn quyết liệt hay suy tư trầm lắng. Vì thế khi đọc thơ Dư Thị Hoàn ta cảm nhận

được sự nhẹ nhàng, tha thiết ở giọng thơ khẳng định chỗ đứng nhất định trong lòng

độc giả. Thơ chị viết về tình yêu với những biến thái và góc cạnh của cuộc sống. Đó

là nỗi đau chỉ trái tim nhạy cảm mới cảm nhận được. Chị quan niệm tình yêu là một

quá trình tìm hiểu cho nên mỗi một con người phải biết vun đắp, tha thứ cho nhau,

phát hiện và hoàn thiện bản thân mình. Không thể ngồi chờ một tình yêu viên mãn

hão huyền. Tưởng đó là điều cũ xưa nhưng mấy ai ý thức đầy đủ, nhất là trong hoàn

cảnh hiện nay (Viên mãn). Để có được “niềm vui hoang thai” trong khát vọng làm

mẹ, đôi lúc người phụ nữ phải nếm trải những đắng cay, hạnh phúc của đời mình,

đồng thời chính bản thân họ phải thật sự vượt qua để có được niềm vui trọn vẹn

(Người sáng tạo). Xuất phát từ bản thân mình, chị đề cập đến nhiều về phái nữ, với

cái nhìn nhân ái bao dung, nhưng không dễ dãi. Chị phát hiện ở họ những đức tính

tốt đẹp còn tiềm ẩn (Người mẫu).

Nều tập thơ đầu tay chị nói nhiều về tình yêu đôi lứa, chú trọng đến tình

yêu thì tập sau có vẻ “lý trí” hơn, giọng thơ trầm lắng hơn. Chị nói về cuộc đời với

nhiều biến động, góc cạnh của nó, nhất là trong đề tài tình yêu. Và đề tài tình yêu

cũng không còn háo hức, sôi nổi đam mê như trước đây. Giờ đây, tình yêu đã lắng

lại, mang tính triết lý sâu sắc. Tình yêu không chỉ xuất phát từ tình yêu một phía mà

là sự hòa hợp của hai trái tim cùng chung nhịp đập, tình yêu còn lớn lên từ tình

thương, từ sự chia sẻ, cảm thông.

Ngồi bên em

Cái bóng héo úa

Phủ kín tuổi hoa niên

Hàng mi ghìm lại giọt cay lăn xuống má

Cổ họng tắc nghẹn những ngày qua…

(Nói đi em)

Đó là tiếng nói được chắt lọc từ con tim bật lên thành thơ. Cùng có tâm hồn

nhạy cảm nhưng không phải tất cả đều trở thành nhà thơ. Bên cạnh một tâm hồn

bộc lộ chiều sâu của tình cảm, bộc lộ khát vọng vươn tới lý tưởng cao đẹp còn đòi

hỏi người đó phải có tài năng văn chương thực thụ.

Cái tôi Dư Thị Hoàn luôn khát tìm chân lý cuộc sống, vì thế xuyên suốt

trong những sáng tác của chị là hành trình đi tìm sự thật trong cuộc sống từ những

vấn đề lớn lao đến nhỏ bé, từ cuộc sống chung đến con người cá thể. Và bao trùm

lên hành trình đó là giọng điệu suy tư. Đó có thể là hành trình nhận thức lại về lịch

sử dân tộc từ điểm nhìn của con người mang dòng máu Trung Hoa nhưng gắn bó

với mảnh đất Việt: “Dải đất này chao đảo/ Chẳng riêng mình chị cơi đốm lửa nhọc

nhằn/…/Nếu bài thơ được viết/ Từ ngôn ngữ của một dân tộc đau khổ” (Bức thư

người Hoa); cũng có thể là hành trình nhận thức lại về con người trên phương diện

cá thể với cái tôi khát tìm mình – một gương mặt không thể lẫn với những kẻ khác.

Thơ Dư Thị Hoàn là vậy, không lấp lánh vẻ đẹp của câu chữ mà lung linh vẻ đẹp

của tâm hồn, của giọng điệu thể hiện một tâm hồn đam mê cuồng nhiệt và cảm xúc

dồi dào. Bằng giọng thơ trữ tình suy tư, trầm lắng Dư Thị Hoàn đã bộc lộ một cái

tôi trữ tình đầy tính nhân văn và sâu sắc.

Với Đoàn Thị Lam Luyến thì giọng điệu suy tư, trầm lắng là giọng điệu

bao trùm lên khá nhiều trong những bài thơ tình của chị, nó tha thiết, nồng nàn, say

đắm, nó nồng nhiệt đền độ cuồng say.

Ta trao cả cho anh

Một tình yêu bỏng cháy

Như một cánh buồm xinh

Nghiêng mình ra biển rộng

(Gửi tình yêu)

Với thủ pháp so sánh độc đáo và cách dùng tính từ “bỏng cháy” Lam

Luyến đã diễn tả sâu sắc niềm khao khát dâng hiến hết mình cho tình yêu giống như

cánh buồm kia được sinh ra là để nghiêng mình ra biển rộng.

Cũng bằng thủ pháp so sánh và điệp từ “yêu” được lặp lại liên tục trên dòng

thơ Lam Luyến còn cho độc giả thấy cái sâu lắng của hồn thơ cháy rực tin yêu.

Chưa thấy có ai định nghĩa về tình yêu, ví von về tình yêu đa dạng, đa chiều và độc

đáo như chị so sánh. Tình yêu mà anh dành cho chị như tình yêu cho thiên nhiên đất

trời, và tình yêu mà chị dành cho anh cũng chẳng kém gì…thế mà kết thúc thì thật

buồn, đau đến tột cùng. Chị chỉ xin anh “Hãy trao nhau chính trái tim chân thật/

Với con người và cuộc sống của ta thôi”.

Anh yêu em như yêu gió, yêu mây, yêu trời, yêu đất

Như yêu ruộng, yêu đồng, yêu nhạc, yêu thơ

Em cũng yêu anh như yêu sông, yêu bể

Như ánh mặt trời, như thể vầng trăng

Đôi ta yêu nhau trời đất chẳng sánh bằng!

Đã yêu phải khát khao và nồng nhiệt như thế mới đáng để cho chị “dại”,

“tin” chứ? Nhưng số phận lại là sợi dây oan nghiệt dẫn đến những đổ vỡ và đau khổ

của người đàn bà “dại yêu” Lam Luyến. Trong thơ của mình, chị nhắc nhiều đến

“số phận”, duyên phận”, “số trời”, “mệnh trời”, “phận trời”…Ngẫm lại phần đời

đã trải với bao cay đắng, tác giả đã phải thốt lên:

Cái phận trước, cái duyên sau

Nào ai tính được dài lâu với trời?

(Chồng chị chồng em)

Mẹ sinh em đêm hay ngày

Mà sao như số trời đày thế gian?

(Tích tịch tình tang)

Là số phận, cho nên không “có số được vàng” là số phận cho nên “duyên

thiên cách trở muộn màng nhau”, cho nên “tơ duyên đã nối lại càng nối thêm”…Số

phận, trong triết lý dân gian như một sợi dây trói buộc vô hình mà con người khó

lòng vượt ra được. Với Đoàn Thị Lam Luyến, một người đàn bà hiện đại, số phận

còn mang ý nghĩa như một thử thách để qua đó con người bộc lộ được bản lĩnh và

nhân cách sống của mình. Dẫu không hề muốn nhưng đứng trước những éo le của

cảnh ngộ, những éo le mang tên “số phận”, người đàn bà ấy không trốn tránh, hay

chỉ biết than thân trách phận, mà còn biết can đảm đối diện và vượt lên bằng một

thái độ ứng xử đầy mạnh mẽ và chủ động. Phải là người đàn bà từng trải qua những

đắng đót trong cuộc đời mới nhận thức được những triết lý sâu sắc về cuộc đời và

số phận như thế. Cùng với giọng điệu suy tư, trầm lắng mới có thể bật lên những tứ

thơ ngân ngấn lệ về chính cuộc đời và số phận mình.

Không sôi nổi, nồng nhiệt đến độ có lúc ước được “tan” thành “trăm con

sóng” đề ngàn năm vùng vẫy với biển tình mênh mông như Xuân Quỳnh. Hay cái

dịu dàng nhưng vẫn toát lên cái nồng nàn say đắm của Lâm Thị Mỹ Dạ khi bộc

bạch khát khao được cùng người yêu chia sẻ những vần thơ tình lãng mạn. Không

đắm đuối, khát yêu đến độ dại khờ như Đoàn Thị Lam Luyến. Hoàng Việt Hằng

thâm trầm, tinh tế và lặng lẽ thể hiện tình yêu tha thiết và chung thủy qua những nẻo

ngược xuôi trên khắp mọi miền đất nước qua những chuyến đi không ngừng nghỉ.

Phải là một người phụ nữ đa cảm, nhiều khổ đau, bất hạnh và lầm lụi mà

thơ Hoàng Việt Hằng rất hay đề cập đến những phận người cô đơn, lam lũ bằng một

giọng điệu trữ tình suy tư, trầm lắng. Khổ đau như là số phận, như là định mệnh đã

buộc cuộc đời chị với cuộc đời một người lính – nhà văn “như dấu chấm than viết

ngược” lặng lẽ viết những trang bản thảo ố vàng…Và vì thế chăng, vì những nỗi

nhọc nhằn, lo nghĩ khác mà thiếu nữ tóc xanh thành thiếu phụ đầu bạc. Tóc bạc là

hình ảnh hơn một lần ám ảnh trong thơ chị:

Em khâu tóc trắng thay lời

Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau

Con chồng, vợ cũ đồng sâu

Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng

(Một mình khâu những lặng im)

Chị suy tư về chính cuộc đời vất vả và khổ đau tột bậc bằng những câu thơ

ngân ngấn lệ:

Tôi sống cuộc đời vất vả

Có đau khổ lớn hơn cả đau khổ

(Những dấu lặng)

Hay một mình độc hành trên hành trình đi, viết và nuôi con:

…lữ thứ tha phương

Đi viết nuôi con

Như người mẹ đi nương

Rắc ngô và rắc lúa

Ta cày trên đồng chữ

(Dốc Cun)

Cũng có khi sâu lắng, ý vị khi bắt gặp vạt cải vàng ven sông, không sang

trọng và rực rỡ như những loại hoa cắm bình, nhưng vẫn hiện lên với những vẻ đẹp

riêng: “Hoa cải vàng/ rực rỡ/ Hoa cải vàng/ Nở bên nước sông trong”. Vẫn hiu hắt

những nỗi niềm riêng: “ Mùa đông hoa cải cũng nở hoa/ Mà thương nhớ của con

người/ Không dễ dàng trở lại”. Phải có những trải nghiệm sâu sắc mới phát hiện ra

được những triết lý bình dị nhưng không phải ai cũng làm được.

Nhìn chung, với giọng điệu trữ tình suy tư, trầm lắng Dư Thị Hoàn, Đoàn

Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã tạo cho mình một địa hạt riêng để thể hiện cá

tính sáng tạo và tỏa sáng cùng những câu thơ lấp lánh, để lại trong lòng độc giả

những niềm riêng không thể trộn lẫn.

3.3.3. Giọng điệu nồng nàn, ấm áp.

Bên cạnh giọng điệu lo âu, hoài niệm, trăn trở, thương xót; giọng điệu trữ tình

suy tư, trầm lắng; còn xuất hiện giọng điệu nồng nàn, ấm áp khi các nhà thơ thể hiện

những tình cảm cá nhân. Đó là tình cảm dành cho con, cho chồng, cho người tình.

Khi viết về con, giọng thơ Dư Thị Hoàn lại dịu ngọt, nồng ấm và đậm chất

thiên tính nữ. Ngày con còn bé, tình mẹ là sự vun vén, chăm sóc, dõi theo từng

bước đi con, giọng thơ ấy ngọt ngào như trải dài tình thương yêu:

Bao nhiêu tháng năm mẹ rong ruổi

Theo nét mặt nhỏ xíu buồn vui

Theo những cơn mưa bóng mây

Chỉ mong mỏi một ngày như buổi chiều nay

Con mê mải với bầu trời xanh thẳm

Như cánh diều cao vút khỏi vòng tay

Lần đầu tiên mẹ ngỡ đời thanh thản

Nhìn con thả diều với lũ trẻ triền sông…

(Mẹ có lỗi)

Một người mẹ trải qua bao nhiêu sự vất vả, đớn đau của cuộc đời hẳn chất

chứa rất nhiều nỗi niềm, nên khi con lớn, chị xem con như một người bạn để sẻ chia

tâm tư và những vui buồn, nhưng rồi chị lại lo hạnh phúc cho các con.

Nhưng con ơi

Mẹ lại thấy yên lòng

Trong con, tình yêu thương đang tiếp nối

Như đàn chim xây tổ xà cừ ngoài ngõ

Tiếng ríu rít vang đầy khung cửa

Hạnh phúc các con – Một tia sáng cuối đời mẹ

Mẹ chỉ lo rồi vụt tắt đi

Một mai con lại thành xa lạ

Với người đàn bà non nớt kia

(Chớ vội vàng hỡi con trai yêu)

Với một người mẹ, con là hy vọng, là hạnh phúc, là tương lai, mẹ có thể hy

sinh tất cả vì con. Bởi vậy, những vần thơ viết về con là những vần thơ ấm áp và

chan hòa yêu thương nhất đặc biệt là đối với Hoàng Việt Hằng, hành trình đi với

những ẩn ức chập chờn về đứa con thơ ngây luôn ám ảnh trong thơ chị.

Con giúp mẹ đi hết đường văn chương

không bờ bến

Mùa xuân

Mẹ neo thuyền nơi con

(Thơ viết cho con)

Ngày nhỏ mẹ là chỗ dựa cho con đi qua giông bão của cuộc đời, đến lúc

con trưởng thành thì mẹ lại neo lại bên con, dựa vào con để đứng vững và tiếp tục

hành trình. Hình ảnh đứa con thơ dại chưa cảm nhận được hết nỗi đau về sự ra đi

của người cha, vẫn hàng ngày ngồi chờ cha về đánh cờhẳn sẽ làm nhiều người đọc

rớt nước mắt thương cảm:

Chủ nhật này

Con vẫn ngồi chơi cờ một mình

Nước xe đi

Chiếu tướng

Không có bố ngồi trước

Không có bố quét lá vàng trong vườn

(Con chơi cờ một mình)

Hoàng Việt Hằng hay đi nên trong mỗi chuyến đi chị phải xa đứa con yêu

dấu, và có những lúc nỗi nhớ con da diết và cháy bỏng:

Hành trình đi và viết nuôi con

Mẹ chẳng dễ dàng gì

Có nỗi nhớ con còn hơn khát nước

(Nhớ con ngoài vùng phủ sóng)

Bởi thế mà có những cơn bão lòng của con chị không thể cùng con chống

đỡ và sẻ chia “Bão lòng/ mẹ không chống đỡ được cho con”. Với giọng điệu nồng

nàn, ấm áp người đọc dễ dàng nhận thấy tình yêu thương vô bờ bến của những

người mẹ dành cho những đứa con của mình. Hẳn thế mà tình mẫu tử luôn thành

một đề tài hấp dẫn với các thi sĩ từ xưa đến nay.

Không chỉ viết về những đứa con mới có sự cưng nụng và yêu thương, khi

viết về người tình, người chồng thì giọng điệu nồng nàn ấm áp lại được thể hiện rất

sâu sắc trong thơ của các chị. Nhất là trong những trang thơ của Lam Luyến người

đọc sẽ dễ dàng nhận thấy giọng điệu nồng nàn, ấm áp, thủ thỉ, yêu thương bằng

cách sử dụng ngôn từ giàu tình biểu cảm như lời gọi: ơi, ạ… Chỉ một tiếng gọi “anh

ơi”, “anh à” mà ta thấy ở đó biết bao nhiêu những thiết tha, bao nhiêu những nồng

nàn, say đắm…dành cho nhân vật trữ tình:

Cầm tay anh xiết chặt:

“Em thương anh nhất đời!”

Những lời đó anh ơi

Cũng là lời hoa lá

Chỉ lúc này anh ạ

Lúc ta thương nhau rồi

Lúc đợi chín chờ mười

….

Dù em nói rằng không

Anh cứ tin là có!

(Nói với anh)

Cuộc sống vợ chồng cũng có lúc nảy sinh xích mích, giận nhau âu cũng là

chuyện bình thường cũng phải chín bỏ làm mười mới mong giữ được hạnh phúc

bền lâu. Thế nên chị lại gọi chồng hai tiếng “mình ơi’’ ngọt ngào, ấm áp: “Hãy xích

lại mình ơi/ Giận chi mà giận mãi!” (Giận chi mà giận mãi). Thế thì làm sao mà

không yêu, mà không thương được chứ. Đó phải chăng là sự khéo léo, tinh tế của

Lam Luyến khi yêu.

Nhìn chung, giọng điệu trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng thấm đẫm cảm xúc của người phụ nữ Á Đông đậm chất truyền

thống. Mỗi người, mỗi phong cách, mỗi giọng điệu khác nhau, muôn màu muôn vẻ

đã làm nên vườn hoa văn học ngát hương và rực rỡ sắc màu, làm phong phú và độc

đáo cho dòng văn học đương đại Việt Nam. Cùng với cái tôi trữ tình đa dạng và độc

đáo đi từ hiện thực cuộc sống và cảm hứng sáng tác, từ việc xây dựng cho mình một

tư duy thơ, hình tượng thơ cho đến sự thống nhất và đa dạng của giọng điệu thơ –

các chị đã tạo cho mình một hồn thơ rất riêng và mang lại những hiệu quả thẩm mỹ

cho người đọc mỗi khi đến với thơ các chị.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong dòng chảy thi ca Việt Nam sau năm 1975 cũng như trong nền thi ca

đương đại, sự xuất hiện của các cây bút nữ đã đóng góp cho nền văn chương nước

nhà sự phong phú đa dạng, nhiều mầu sắc, với những cá tính sáng tạo độc đáo. Thơ

của họ đã gây ấn tượng cho người đọc, được dư luận khẳng định và tạo nên những

sức hút đối với các nhà nghiên cứu và phê bình trong thời gian gần đây. Chịu ảnh

hưởng của nền thơ ca truyền thống, có những nét phá cách và có nhiều thể nghiệm

mới mẻ; Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã tạo được dấu ấn

sâu đậm trong nỗ lực đổi mới thi ca. Các chị luôn luôn có khát vọng bung phá, tìm

tòi cho mình một hướng sáng tạo mới mẻ để làm phong phú, đa dạng hơn cho thơ ca

truyền thống. Việc nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị

Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng, chúng tôi muốn góp một tiếng nói, một cách nhìn

nhận, đánh giá về thơ các chị để từ đó có cái nhìn bao quát hơn về những đóng góp

của các nhà thơ nữ vào trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam đương đại.

Thơ nữ thời kỳ đổi mới vẫn tiếp tục khai thác hướng đề tài nói về thân

phận người đàn bà, về tình yêu và lòng thủy chung son sắt, tình mẹ con, bầu bạn và

những người lao động nghèo khổ,lam lũ. Những nhà thơ nữ còn đi sâu khai phá

những đề tài mới đầy biến động của đời sống, những va đập của đời thường, niềm

khát khao mãnh liệt hướng tới những cái mới, những chân trời khác lạ .

Về nội dung trữ tình, thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt

Hằng đã mở rộng biên độ phản ánh đến mức tối đa, hòa cùng với quy luật chung

của quá trình đổi mới thơ ca trong môi trường, hoàn cảnh khác trước. Các chị đã mở

rộng đề tài, đề cập đến nhiều vấn đề phức tạp và mới mẻ của xã hội, nhưng trái tim

nhạy cảm của các chị thường tập trung vào những nỗi đau của con người, đặc biệt

quan tâm tới số phận của người phụ nữ. Xót xa và đồng cảm cho những bất hạnh

mà họ phải gánh chịu. Nói về họ cũng chính là đang nói về chính mình. Đó là

những khát vọng yêu đương, làm vợ, làm mẹ với những đòi hỏi chính đáng của

người phụ nữ. Các chị quan tâm tới đề tài tình yêu, thể hiện nó bằng tất cả tư duy và

cảm xúc rất thật của chính mình. Tiếng nói của các chị trong thơ tình yêu mang đầy

đủ những sắc màu của nó với những biến thái rất tinh vi của trái tim: có ngọt ngào,

đớn đau, có hạnh phúc và tan vỡ, có đam mê và thất vọng, có tin yêu và lừa dối, có

nồng ấm vui tươi và cũng có cô đơn lạnh lẽo, có nhu cầu về hạnh phúc đời thường

và tình yêu trần thế… Các chị đã thể hiện chân thực những nhu cầu, ước muốn của

người đàn bà về cuộc sống, về hạnh phúc, về tình yêu – đó là những tiếng nói sòng

phẳng, thẳng thắn, dũng cảm phơi bày những bi kịch, nỗi đau và có những quan hệ

ứng xử rất rạch ròi, rất văn hóa trong tình yêu và trong cuộc sống.

Sự ràng buộc khắt khe của tư tưởng cổ hủ, lỗi thời trước đây đã được phá

bỏ, vì thế tạo điều kiện cho thơ ca hiện nay có cơ hội phát triển. “Cái tôi” trong thơ

không còn xem là “ích kỷ cá nhân” mà “cái tôi” đã phát huy tác dụng của nó, gần

gũi với đời sống con người hơn. Thơ ca không chấp nhận cái riêng cá nhân chủ

nghĩa, cái riêng lạc lõng tăm tối, bí ẩn trong cảm xúc và suy nghĩ. Từ cái riêng của

mình phải hướng đến cái chung, cái cộng đồng. Cái tôi trữ tình phong phú làm giàu

bản sắc, bộc lộ năng lực cảm thụ, suy nghĩ và cảm xúc dạt dào của từng thi sĩ đã tạo

nên những nét cá tính mang đậm dấu ấn cá nhân của họ.

Đối với Dư Thị Hoàn – chị đã đặt vị thế của mình vào người khác để cảm

thông, chia sẻ. Chị luôn khát khao được bộc bạch, được giãi bày cái tôi bản thể

trong sự đón nhận những tâm hồn đồng điệu. Cái tôi trong thơ chị đa dạng, nhiều

màu sắc, có khi là cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực cuộc sống, có

lúc lại là cái tôi triết lý, chiêm cảm. Còn với Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà

“dại yêu” cũng bộc lộ hết mình bằng những cái tôi người tình đam mê, mãnh liệt; và

cái tôi cô đơn, khắc khoải cùng những cung bậc khó lường trong tình yêu và cuộc

sống. Hoàng Việt Hằng – người đàn bà sống và mưu sinh bằng thơ lại thể hiện tâm

hồn mình thông qua những cái tôi cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân đàn bà. Đề

rồi từ đó chị tìm đến thiên nhiên – người bạn tâm giao để đồng cảm và chia sẻ

những nỗi niềm chất chứa trong lòng.

Mặc dù cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng thể hiện một cách đa dạng, phong phú song cái tôi trong thơ các

chị luôn khao khát tìm được sự chia sẻ chân thành, cùng hướng đến tình người, tình

đời tươi đẹp. Sức nặng trong thơ các chị không chỉ được thể hiện trên bề mặt câu

chữ mà đó còn là những khoảng lặng để con người suy ngẫm.

Ở phương thức biểu hiện thơ, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng

Việt Hằng đã chủ động đổi mới giọng điệu, thể thơ, ngôn ngữ…đó thực chất là khát

vọng đổi mới thi ca, đổi mới chính mình của người cầm bút. Các chị đã sống hết

mình cho cuộc đời, dám dũng cảm đi vào mõi ngõ ngách của tâm hồn mình để làm

nên sức nặng trong thơ, để thơ không còn là “cái ao đời phẳng lặng” hay ngọn gió

đơn điệu chỉ thổi một chiều.

Vẻ đẹp trí tuệ cùng tình cảm trong sáng, giàu tình người, tình đời, giàu chất

nhân văn trong thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã ánh

lên vẻ đẹp sâu sắc, một vẻ đẹp của những tấm lòng nhân hậu đi từ trái tim đến trái tim.

Lấy con người làm trung tâm thông qua những biện pháp nghệ thuật riêng độc đáo của

mình, các thi sĩ đã cho ra đời những đứa con tinh thần quý giá, đáng được nâng niu,

trân trọng. Một Dư Thị Hoàn không nỡ hưởng hạnh phúc khi biết rằng mình hạnh phúc

thì sẽ có một người đau khổ (Chị ấy). Một Đoàn Thị Lam Luyến khát khao yêu đến

ngây ngô, khờ dại và cũng đầy chua xót, cay đắng khi trót “làm nhà trên lưng cá voi”

(Trên lưng cá voi) nhưng cũng đầy cảm thông với những người trót lầm lỡ (Đứa con

mang họ mẹ). Một Hoàng Việt Hằng phải tự khâu những lặng im để khoan dung, độ

lượng chấp nhận những “nỗi đau của chồng” (Một mình khâu những lặng im).

Những trái tim ấy đã làm nên những giá trị cao đẹp cho thơ, tạo nên những sức hấp dẫn

khó cưỡng của những nhà thơ mang thiên tính nữ.

Mỗi một nhà thơ một sở trường thiên về một miền cảm xúc trữ tình riêng,

về cuộc sống, về tình đời, tình người. Đó là những đóng góp quan trọng của các hồn

thơ nữ vừa mềm mại, ngọt ngào lại thâm trầm, sâu sắc.

Luận văn nghiên cứu về ba tác giả nữ tiêu biểu trong thời kỳ đổi mới chắc

chắn sẽ còn có mặt hạn chế và những vấn đề cần được đi sâu khai thác,khám phá kỹ

hơn nữa. Song với tấm lòng yêu mến thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,

Hoàng Việt Hằng và với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình trong thơ

của các chị, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ trong việc đánh giá, khẳng

định, những cá tính thơ vừa trữ tình vừa đằm thắm, có đóng góp trong tiến trình đổi

mới thi ca Việt Nam hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1975, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

2. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội.

3. Phạm Quốc Ca (1999), “Thơ trữ tình công dân trong nền thơ Việt Nam đổi

mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03), tr.98 -101.

4. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 – 2005

(Tuyển chọn và giới thiệu), NXB Hội nhà văn.

5. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà

Nội.

8. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Những chuyển động của thơ Việt đương đại”,

Tạp chí Văn học (số 05), tr.43 - 48.

9. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

10. Hồ Thế Hà (1997), Thơ và thơ Việt Nam hiện đại (Chuyên đề), Trường đại

học Khoa học, Huế.

11. Hồ Thế Hà (1997), Tìm trong trang viết, NXB Thuận Hóa, Huế.

12. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

13. Trần Thị Thu Hằng (2006), Tình yêu trong thơ nữ Việt Nam 1986 đến nay

nhìn từ cá tính sáng taọ mang điểm giới, Luận văn thạc sĩ Văn Học Việt

Nam, Trường Đại học Sư phạm, Đại Học Huế.

14. Hoàng Việt Hằng, Một mình khâu những lặng im, NXB Phụ nữ.

15. Hoàng Việt Hằng (1998), Vệt trăng và cánh cửa, NXB Phụ nữ.

16. Dư Thị Hoàn (1988), Lối nhỏ, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng xuất bản.

17. Lưu Hiệp (1997) Tinh hoa lý luận cổ điển Trung Hoa, NXB Văn Hóa Thông

Tin

18. Yên Khương (2009), “Đoàn Thị Lam Luyến đặt tình yêu trong tương quan

đắt”, Báo Tiền Phong.

19. Nguyễn Thụy Kha (1992), “Đôi điều về thơ Dư Thị Hoàn”, Tạp chí Văn

Nghệ (số 02), tr. 14.

20. Mã Giang Lân (2002), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

21. Mã Giang Lân (2007), “Nhịp điệu thơ hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn

học (số 03), tr.21 – 33.

22. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện

đại, NXB Lao Động, Hà Nội.

23. Đoàn Thị Lam Luyến (1989), Lỡ một thì con gái, NXB Hội nhà văn.

24. Đoàn Thị Lam Luyến (1991), Chồng chị chồng em, NXB Hội nhà văn.

25. Đoàn Thị Lam Luyến (2000), Dại yêu, NXB Hội nhà văn.

26. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, NXB ĐH Sư

Phạm.

27. Vũ Nho (2009), 33 gương mặt thơ nữ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

28. Chu Văn Sơn (2001), “Thơ Dư Thị Hoàn, 15 năm nhìn lại”, Tham luận trong

cuốn kỷ yếu Hội thảo Thơ Hải Phòng 15 năm đổi mới và phát triển, Hội Văn

học nghệ thuật Hải Phòng.

29. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB

Văn học, Hà Nội.

30. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Lưu Khánh Thơ (2003), “Thơ năm 1992”, Tạp chí Văn học (số 2), tr.17 –

20.

32. Văn Thị Kiều Vương (2010), Đặc trưng nghệ thuật thơ tự do của Lê Thị

Mây, Dư Thị Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên, Luận văn thạc sĩ Văn Học Việt

Nam, Trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học Huế.

Tƣ liệu mạng.

33. Hà Anh (2006), “Dư Thị Hoàn sượng sùng khi phải đi bán thơ”,

http://evan.vnexpress.net/news (09/3).

34. Dư Thị Hoàn, Du nữ ngâm, bản thảo, Mạng internet.

35. Ngô Văn Phú (1997), Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà yêu thơ không

chịu bỏ cuộc.

36. Mãng Nguyên (2005), “Dư Thị Hoàn, người khát tìm sự thật và sáng tạo”,

http://www.bichkhe.org/home (05/07).

37. Phạm Hồ Thu (2008), Hoàng Việt Hằng với “Vệt trăng và cánh cửa”, Báo

Văn nghệ trẻ.

38. Phan Thị Thanh Nhàn (2008), “Lam Luyến càng yêu càng gặp tình hờ”,

http://www.vnexpress.net (26/11)

39. Văn Tâm (1990), “Bạn đã đọc chưa, thơ Dư Thị Hoàn?”,

http://www.Bichkhe.Org/home (05/07).