ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ LOAN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BÙI KIM ANH
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ LOAN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BÙI KIM ANH
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung
THÁI NGUYÊN, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ NỮ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN
ĐẠI VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ THƠ BÙI KIM ANH ...... 9
1.1. Khái quát về thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại ......................................... 9
1.1.1. Về đội ngũ ............................................................................................... 9
1.1.2. Nét đặc sắc của thơ nữ Việt Nam .......................................................... 12
1.2. Khái quát về quá trình sáng tác của nhà thơ Bùi Kim Anh ..................... 14
CHƢƠNG 2 : NỘI DUNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH THƠ BÙI KIM ANH ........... 24
2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình trong thơ ......................................................... 24
2.2. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh .................................... 30
2.2.1. Cái tôi kín đáo, dịu dàng, sâu sắc, đầy nỗi niềm và lòng trắc ẩn .......... 30
2.2.2. Cái tôi - mạnh mẽ, bản lĩnh đối mặt với nỗi buồn, nỗi bất hạnh trong
cuộc đời ........................................................................................................... 48
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
BÙI KIM ANH ........................................................................................................ 57
3.1. Về thể thơ ................................................................................................. 58
3.1.1. Thơ Bùi Kim Anh thật đắc địa với lục bát (Nguyễn Trọng Tạo) ......... 58
3.1.2. Thơ Bùi Kim Anh - phù hợp với thể thơ tự do ..................................... 68
3.2. Một số hình ảnh mang tính biểu tượng đặc trưng trong thơ Bùi Kim Anh ........ 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.2.1. Hình ảnh "chiều", "đêm", "mưa" - hình ảnh gợi nỗi buồn, sự cô đơn ........ 75
3.2.2. Hình ảnh hoa và cỏ dại - hình ảnh mang tính biểu tượng về thân phận
người phụ nữ ................................................................................................... 87
3.3. Ngôn ngữ thơ ............................................................................................ 92
3.3.1. Thứ ngôn ngữ vừa giản dị, tự nhiên, đậm chất dân gian, vừa trí tuệ sâu
sắc .................................................................................................................... 93
3.3.2. Một số cách tổ chức ngôn ngữ .............................................................. 95
3.4. Giọng điệu ................................................................................................ 99
3.4.1. Giọng điệu khắc khoải, lo âu nhưng cũng đầy mạnh mẽ ...................... 99
3.4.2. Giọng thơ xót xa, oán trách nhưng tế nhị, sâu sắc .............................. 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Bùi Kim Anh là một nhà thơ nữ khá nổi bật trong đội ngũ các nhà thơ
nữ Việt Nam từ những năm 90 thế kỷ trước trở lại đây. Chị là một cây bút có
sức sáng tạo khá dồi dào – trong khoảng 15 năm (1995 – 2011) chị đã cho ra
đời 7 tập thơ (chưa kể tập thứ 8 sắp sửa in). Thơ chị có một giọng điệu riêng
biệt so với các nhà thơ nữ khác cùng thời - bởi sự kín đáo, thâm trầm, u ẩn và
đầy tâm trạng của một người phụ nữ trí thức - luôn có ý thức sâu sắc về mình
và về số phận của những người phụ nữ thời kỳ hiện đại với bao nỗi niềm trước
cuộc đời vốn rất phức tạp, đầy niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng đầy nỗi buồn,
khổ đau và bất hạnh. Hay nói một cách khác, cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi
Kim Anh đã đem đến cho người đọc một tình cảm thẩm mỹ đặc biệt trước vẻ
đẹp của một tâm hồn phụ nữ đầy dịu dàng mà mãnh liệt , đầy yêu thương,
nhân hậu nhưng cũng đầy sự xót xa, đắng đót, đôi khi khiến người đọc quặn
lòng! Chính vì vậy, cái Tôi trữ tình có màu sắc riêng biệt ấy đã góp phần làm
nên “bản sắc” và sự phong phú cho thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại.
- Nhà thơ Bùi Kim Anh là người con của quê hương Thái Bình – vì vậy,
nghiên cứ u, tìm hiểu để ghi nhận những đóng góp của nhà thơ – nhằ m giớ i thiệ u
vớ i đông đả o ngườ i đọ c, đặ c biệ t là nhữ ng ngườ i đọ c tỉ nh Thá i Bì nh – là động lực
để chúng tôi thực hiện luận văn này. Kế t quả nghiên cứ u cũ ng sẽ là mộ t tà i liệ u
tham khả o bổ í ch cho phầ n văn học đị a phương Thá i Bì nh củ a chú ng tôi.
- Do đó, nghiên cứu thơ Bùi Kim Anh cũng chính là nghiên cứu một
trong những nét “bản sắc riêng biệt” của thơ nữ Việt Nam, nghiên cứu một
cáiTôi trữ tình trong thơ nữ thời kỳ hiện đại mà chưa được nhiều người quan
tâm. Qua đó, góp phần vào việc làm rõ hơn những đặc điểm và giá trị của thơ
nữ Việt Nam trong đời sống văn học hiện nay.
2
2. Lịch sử vấn đề
Trước hết, có thể khẳng định rằng chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện về thơ của Bùi Kim Anh. Người đọc có thể gặp đây
đó các bài giới thiệu, phê bình thơ Bùi Kim Anh rải rác trên các báo viết, báo
điện tử. Ngoài ra, ta còn gặp các cuộc phỏng vấn tác giả mà ở đó Bùi Kim
Anh đã ít nhiều “bật mí” cho người đọc những suy nghĩ và nỗi niềm của
chính mình trong quá trình sáng tác.
Trong khoảng hơn chục năm nay thơ Bùi Kim Anh được đông đảo bạn
đọc đón nhận và yêu mến, điều đó được minh chứng qua các bài viết, những
nhận xét, đánh giá, bình luận của độc giả được đăng trên các báo viết và báo
điện tử. Nhìn chung, bạn đọc đã chú ý nhận xét, đánh giá đến thơ của chị trên
cả hai phương diện: nội dung và hình thức.
Về phƣơng diện nội dung: Một số tác giả đã đề cập đến nội dung phản
ánh trong thơ của Bùi Kim Anh như: Phan Thị Thanh Nhàn, Phạm Thanh Cải,
Lâm Xuân Vi… Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn nhận xét “Bùi Kim Anh là một
người đàn bà cam chịu, vị tha”, và thơ của bà “là nỗi niềm của một người bị
nhiều điều phụ bạc mà không oán hận, chỉ tự trách mình. Đó chính là tâm hồn
thật là trong trẻo, thật là cao đẹp, bao dung”. Theo Phan Thị Thanh Nhàn thì ở
nhà thơ Bùi Kim Anh “có một tình yêu thiết tha” của “một người vợ tận tụy và
đầy lo toan”. Cũng có khi thơ bà có những phút “giận dỗi và nghi ngại” của
một tâm hồn yếu đuối, thiếu tự tin". Còn tác giả Phạm Thanh Cải khi đọc bài thơ
Bia vẫn trắng của Bùi Kim Anh cũng đã đặt ra một câu hỏi như một lời khẳng
định: “phải chăng… bà là một nhà thơ mang đậm nữ tính và trái tim rất nhạy
cảm với nỗi đau của cuộc đời”…
Khi đọc bài thơ Trên đường Giảng Võ, tác giả Lâm Xuân Vi đã đánh giá
bài thơ như là “một bức thông điệp giàu ý tưởng” đến với người đọc - bằng
“ngòi bút nhân hậu” khi nhà thơ “nghiêng về chia sẻ, nâng đỡ, cảm thông, tôn
3
trọng với những thân phận thiệt thòi trong xã hội”. Và có lẽ - đối với một nhà
thơ thì đây là sự biểu đạt trách nhiệm công dân cao nhất của mình!
Trên Báo Thể thao văn hóa cuối tuần số 36 ngày 5- 11/9/2008, tác giả
Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “Những câu thơ của chị (Bùi Kim Anh) thường
lắng sâu một nỗi niềm thân phận, thương cho phận mình, thương cho phận
người, ngay cả khi cuộc sống thanh bình và khi cuộc đời bỗng rẽ ngoặt một
biến cố, thơ chị có thêm cung bậc thế thái nhân tình để càng xoáy sâu hơn vào
thân phận con người vốn luôn là mong manh và trắc ẩn trong trái tim nhà thơ.
Thơ Bùi Kim Anh luôn là viết cho mình, viết từ mình. Chị biết đặt mình giữa
chợ người để thấu hiểu mình và đồng cảm với nhân sinh. Điệu lục bát vì thế
đến với chị như một tiếng thở dài, một lời tự than, một khúc ru mình”.
Tác giả Linh Quang cũng nhận thấy rằng: “qua các tập thơ từ tập thơ
Viết cho mình, đến tập Cỏ dại khờ, Lối mưa, Bán không cho gió, Lời
buồn trên đá và tập Lục bát cuối chiều đều thấm đẫm niềm khát khao tình
yêu hạnh phúc, sự dịu dàng, vị tha, vượt lên số phận mình của Bùi Kim
Anh”. Và mặc dù cuộc sống của chị có quá nhiều bất hạnh nhưng “chị vẫn
vượt lên hoàn cảnh, vượt lên số phận để sáng tác, để đạp qua mọi khó khăn,
thử thách trong đời thường”. Nhân vật “Tôi”- nhân vật trữ tình đi suốt 6
tập thơ của chị đã khiến bạn đọc thương cảm và mến phục.
Tác giả Lê Thiếu Nhơn trong mục Diễn đàn văn nghệ trên báo điện tử
đã đánh giá Bùi Kim Anh là “một người phụ nữ từng ngồi lặng trong đau
khổ để viết những câu thơ xót xa” và cũng thật may mắn cho người phụ nữ
này vì dù gì chị cũng còn có thơ! Biết đâu thơ sẽ vỗ về chị, sẽ nâng đỡ chị
bước qua năm tháng trắc trở không ngờ! Lê Thiếu Nhơn đã cho rằng: “thơ
đã dìu chị qua gập ghềnh khi không còn nước mắt để khóc”.
Khi đọc tập thơ Bắc lên ngọn gió mà cân của Bùi Kim Anh (gồm 54
bài thơ vần điệu hoặc thơ tự do) tác giả Chân Phương thấy "toát lên từ sáng
4
tác này tính cách nhân hậu của một phụ nữ Á Đông thời đại, không chỉ làm
tốt bổn phận người con, người mẹ, người bà, còn ôm ấp thêm những ưu tư xã
hội – văn hóa giữa thế sự đất nước ngổn ngang như một sân khấu lớn trên đó
Ông Thiện, Ông Ác là cặp đạo diễn của từng số phận Việt Nam…"
Tác giả Đào Nam Sơn khi đọc “Lục bát cuối chiều” của Bùi Kim Anh
đã viết: “đây là tập tinh tuyển những bài thơ lục bát đã trình làng trong các
tập thơ trước và thêm một đôi bài chị mới làm”. Tác giả đã đánh giá đây là
“một sự cố gắng không mệt mỏi” của nhà thơ. Và cho dù hầu hết thơ Bùi Kim
Anh là những bài buồn, những lời than thở, nhưng các bài thơ này vẫn không
hề bị rơi vào thể “đơn điệu”. Ý thơ, hoàn cảnh của mỗi bài thơ ít khi bị lặp lại.
Tác giả Song Nguyễn khi đọc “Lời buồn trên đá” cho rằng 59 bài
trong tập thơ là “59 nỗi buồn của một phần đời đã qua đi và bây giờ được
nhà thơ kể lại”. Song Nguyễn nhận xét: Những câu thơ biết dính nỗi buồn vô
tình “tạm trú” trong con người nhà thơ đã trở thành “thường trú” trong sự
tồn tại của tâm hồn. Bùi Kim Anh đã hoán vị sự tồn tại đó từ nơi cất giấu mơ
hồ không nhìn thấy đến rõ ràng cụ thể “trên đá”. Bà đã “tự làm mới những
câu thơ khỏi cách nghĩ, cách diễn đạt thông thường” và đem đến cho người
đọc “một cái gì đó” đáng để suy ngẫm"…
Qua những ý kiến nhận xét và đánh giá trên, chúng tôi thấy hầu hết các
tác giả đều khẳng định: Bùi Kim Anh đã viết thơ theo nhu cầu tự thân để nói
về những niềm vui, nỗi buồn, những được, mất của chính mình một cách
chân thành, cảm động. Bên cạnh đó, người phụ nữ trí thức ấy còn rất quan
tâm viết về những vấn đề thế sự, viết về số phận của những con người bất
hạnh khác trong xã hội thời kỳ hiện đại - vốn rất phong phú và phức tạp hôm
nay. Qua đó, ta thấy rất rõ bức chân dung của một người phụ nữ trí thức: nhỏ
bé, dịu dàng, tình cảm, nhưng cũng rất sâu sắc, thâm trầm và nhân hậu!
5
Về phƣơng diện nghệ thuật: Trong các bài nghiên cứu, những lời
nhận xét về thơ Bùi Kim Anh của mình - hầu hết các tác giả cũng đã chú ý
đến việc chỉ ra một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ chị, cụ thể như: Về thể
thơ, các tác giả này đều chung một ý kiến đánh giá rằng: thơ Bùi Kim Anh
đắc địa với thể thơ lục bát. Nguyễn Trọng Tạo đã rất tinh tường khi nhận xét
rằng “Bùi Kim Anh thật đắc địa với lục bát. Những câu thơ lục bát của chị đi
giữa lằn ranh của quê kiểng và thị thành, giữa dân gian và hàn lâm, giữa cổ
xưa và hiện đại. Chính cái lằn ranh ấy khiến thơ lục bát của chị không phá
cách quá, nhưng cũng không bị “cũ” nên dễ nhập vào đương thời”. Lục bát
là một thể thơ truyền thống mà hiện nay các nhà thơ hiện đại thường ít dùng,
nhất là các nhà thơ nữ, thế nhưng Bùi Kim Anh vẫn sử dụng và sử dụng một
cách nhuần nhụy đầy sáng tạo, có tính hiện đại, gây xúc động cho người đọc.
Chị hay viết thể thơ lục bát, trong đó có khá nhiều bài hay, để lại ấn
tượng cho người đọc. Lâm Xuân Vi khi đọc bài thơ Trên đường Giảng Võ của
Bùi Kim Anh đã nhận xét rằng: “Lục bát của Bùi Kim Anh có một sức sống
riêng biệt, chị thường dùng thủ pháp phá cách ở câu sáu “vạ vật tê cả bước
đi”, hay sử dụng điệp ngữ làm cho câu thơ được dồn nén trùng điệp về ý tứ,
hối hả về nhịp điệu mà vẫn nhuyễn, lấp lánh hấp dẫn người đọc. Đó là những
đóng góp đáng kể để lục bát vẫn mới, vẫn hiện đại mang hơi thở thời đại”.
Tác giả Phạm Thanh Cải cũng có những ấn tượng riêng về việc phá
cách thể thơ lục bát của Bùi Kim Anh - khi đọc bài thơ Bia vẫn trắng của
chị. Trong bài thơ lục bát Bia vẫn trắng được mở đầu và kết thúc bằng câu
lục: “Ai biết mộ anh ở đâu?”. "Câu này, tác giả đã sử dụng thủ pháp phá
cách, chữ thứ tư lẽ ra phải dùng thanh trắc, nhưng trong câu thơ này tác giả
sử dụng thanh bằng. Tác giả đã có ý tạo ra cho câu thơ có một tiếng nấc
nghẹn, một nhịp điệu khác với câu lục thông thường".
6
Ở thơ lục bát của Bùi Kim Anh - người đọc thấy ở “ câu lục” có những
câu không “êm xuôi” như thơ lục bát truyền thống. Còn ở “câu bát” là những
câu viết rất khéo bởi bà đã có sáng tạo trong cách dùng từ và lựa chọn hình
ảnh. Đào Nam Sơn viết “có thể nói Bùi Kim Anh đã hình thành một giọng thơ
riêng không thể trộn lẫn với các nhà thơ nữ cùng thời với chị”.
Quả thực như vậy, trong 7 tập thơ của mình, chị đã có riêng một tập thơ
viết bằng thể lục bát. Trong 6 tập còn lại của chị cũng có khá nhiều bài thơ
sáng tác theo thể lục bát.
Bên cạnh thể thơ lục bát chị thường viết theo thể thơ tự do. Thể thơ tự
do trong thơ của Bùi Kim Anh được thể hiện một cách rất linh hoạt - từ
những câu chỉ có 1, 2… đến 7, 8 và đến 40, 50 từ - giúp mở rộng biên độ
của thơ, qua đó chuyển tải các ý nghĩ phức tạp và những cảm xúc tràn đầy
làm cho bài thơ tuôn trào như một dòng chảy tâm trạng không ngưng nghỉ.
Cũng như thể thơ lục bát, thể thơ tự do của chị cũng mang một nét riêng
biệt, nó thể hiện rõ cái Tôi trữ tình trong thơ của chị.
Nhận xét về việc sử dụng thể thơ tự do trong sáng tác của Bùi Kim Anh
- tác giả Song Nguyễn viết: “bỗng thấy khả năng kỳ diệu của con chữ cũng
“co duỗi nhịp nhàng” theo tâm trạng của người tiếp nhận thơ. Những câu thơ
văn xuôi không cố định chữ, không có dấu câu và chỉ được “ngắt” bằng các
chữ viết hoa. Bùi Kim Anh không cần tạo vần cho những bài thơ văn xuôi và
tự do này nhưng lại đem vào trong câu chữ đó những “năng lượng” đặc biệt
để giai điệu ngân lên”.
Như vậy có thể khẳng định rằng: những câu chữ trong thể thơ tự do
của Bùi Kim Anh đã góp phần “tự làm mới những câu thơ khỏi cách nghĩ,
cách diễn đạt thông thường và đem đến cho người đọc “một cái gì đó”
đáng để suy ngẫm. Đây là hành trình đi tìm cái mới của một cây bút không
còn trẻ” Bùi Kim Anh. (Song Nguyễn)
7
Không chỉ có những sáng tạo trong việc sử dụng các thể thơ truyền
thống đến hiện đại, Bùi Kim Anh còn đặc biệt chú ý đến việc tìm tòi, chọn
lọc những từ ngữ có giá trị biểu cảm và mang tính hình tượng cao. Chính từ
những hình ảnh, những từ ngữ trong thơ - vừa chân thực lại sống động ấy đã
góp phần tạo nên được những rung động sâu sa trong lòng người đọc. Khi
đọc bài thơ Bia vẫn trắng của Bùi Kim Anh - tác giả Nguyễn Bá Phiếu đã
nhận xét rằng: “một bài thơ có sức ám ảnh, bút lực mạnh mẽ, nghe da diết,
sâu lắng, xúc động và đầy chất nhân văn”. Chính tác giả này cũng đã khẳng
định: Góp phần làm nên thành công cho bài thơ chính một phần là nhờ vào
việc sử dụng những hình ảnh và từ ngữ có tính chọn lọc của chính nhà
thơ…
Như vậy, qua quá trình khảo sát chúng tôi thấy rằng: thơ Bùi Kim
Anh cũng đã thu hút được sự chú ý của một số cây bút nghiên cứu, phê bình
và người đọc đương thời! Tuy nhiên, tất cả những ý kiến nhận xét đánh giá
trên mới chỉ dừng lại ở dạng là những nhận xét, đánh giá các tập thơ, hoặc
qua từng bài thơ chứ chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện thơ
Bùi Kim Anh nói chung cũng như nghiên cứu về “Cái Tôi trữ tình trong
thơ Bùi Kim Anh” nói riêng. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề này để
tiếp cận thơ của nữ tác giả khá đặc biệt này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứ u đặ c điể m cái Tôi trữ tình ở thơ Bùi Kim Anh nhằm mục
đí ch: chỉ ra những đặc điểm riêng , nhữ ng sá ng tạ o và nhữ ng đó ng gó p riêng
của nhà thơ Bùi Kim Anh đối với thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại.
3.2. Nhiệ m vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm của cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh ở cả
hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
8
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu toàn bộ sáng tác của Bùi Kim Anh, bao gồm 7 tập thơ đã
in: Viết cho mình (1995), Cỏ dại khờ (1996), Lối mưa (1999), Bán không
cho gió (2005), Lời buồn trên đá (2007), Lục bát cuối chiều (2008), Bắc lên
ngọn gió mà cân (2010).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp
5. Đóng góp của luận văn
Tác giả luận văn cố gắng làm nổi bật đặc điểm của cái Tôi trữ tình trong
thơ Bùi Kim Anh - trong cái nhìn toàn diện về cả nội dung và nghệ thuật.
Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hướng tiếp cận nghiên cứu về một hiện
tượng văn học cụ thể trong đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại. Kết quả của
luận văn sẽ góp phần chỉ rõ hơn sự phong phú và nét đặc sắc của thơ nữ Việt
Nam thời kỳ hiện đại và là tài liệu tham khảo có ích cho việc giảng dạy văn
học địa phương của tỉnh Thái Bình.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Khái quát về thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại và quá trình
sáng tác của nhà thơ Bùi Kim Anh
Chương 2: Nội dung cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh
9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THƠ NỮ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ THƠ BÙI KIM ANH
1.1. Khái quát về thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại
Thơ Việt Nam thời kỳ hiện đại được tính từ khi có phong trào Thơ Mới
(1932 - 1945)
1.1.1. Vài nét về đặc điểm đội ngũ
1.1.1.1. Thời kỳ trước năm 1945
Trước phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) trong lịch sử văn học dân tộc,
tiếng nói của người phụ nữ đã để lại một dấu ấn đáng tự hào. Từ thế kỷ thứ X
đến thế kỷ XV trong đời sống văn học nước nhà đã có các nhà thơ nữ như: Lý
Ngọc Kiều, Lê Ỷ Lan, Ngô Chi Lan... Đặc biệt, từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX đã có khá nhiều nhà thơ nữ xuất hiện như: Trịnh Thị Ngọc Thuỳ, Đặng
Tiểu Thư, Trịnh Thị Ngọc Trúc, Đoàn Thị Điểm, Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân
Hương, bà Huyện Thanh Quan...Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện
các nhà thơ nữ ở giai đoạn chuyển giao giữa thời kỳ Trung đại và Hiện đại
gồm các tên tuổi như: Mai Am, Cao Thị Ngọc Anh, Sương Nguyệt Anh, Trần
Ngọc Lầu, Trần Kim Phụng, Phan Thị Bạch Vân, Đạm Phương, Tương Phố,
Sầm Phố...
Những năm 1930 - 1945 là khoảng thời gian nền văn học Việt Nam hoàn
tất quá trình hiện đại hóa. Ở giai đoạn này, hàng loạt các nhà thơ nữ của phong
trào Thơ Mới ra đời. Mở đầu là Nguyễn Thị Manh Manh, sau đó là: Vân Đài,
Anh Thơ, Hằng Phương, Mộng Tuyết, Ngân Giang, Thu Hồng, Cẩm Lai...
Những đóng góp của các nhà thơ nữ trong những thời kỳ khác nhau của
lịch sử văn học dân tộc đã làm phong phú thêm gương mặt thơ ca nước nhà.
10
Thơ nữ Việt Nam thời kỳ trước 1945 góp phần quan trọng làm nên cuộc cách
mạng trong thơ ca dân tộc. Tuy về số lượng - so với các nhà thơ khác giới thì
số lượng các tác giả thơ nữ thời kỳ này còn ở một mức độ rất khiêm tốn, tiếng
nói của họ còn yếu ớt, các tên tuổi nổi tiếng còn đếm trên đầu ngón tay. Tuy
vậy, sự phong phú, sự đa dạng và sự thành công của đội ngũ các nhà thơ nữ
trong thời kỳ Thơ Mới Việt Nam đã góp phần làm nên một nền thơ ca mới
của dân tộc Việt Nam.
1.1.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ
nguyên độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc sống mới đó -
mọi người dân thực sự được làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình.
Nhu cầu về đời sống tinh thần cũng như vật chất, đặc biệt là quyền bình đẳng
của phụ nữ đã được xã hội quan tâm. Chị em phụ nữ đã được tham gia vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật. Đội ngũ các nhà thơ nữ ngày càng đông đảo hơn, họ đã dần khẳng định
được tài năng và vị thế của mình trong đời sống văn học nước nhà. Thơ của
các chị góp phần không nhỏ vào sự nghiệp văn học của dân tộc, vào công
cuộc đấu tranh chống xâm lược và xây dựng đất nước.
Các thế hệ nhà thơ nữ Việt Nam nối tiếp nhau liên tục phát triển đã
khẳng định được tiếng nói của mình trên thi đàn dân tộc. Từ thế hệ các nhà
thơ nữ hiện đại đầu tiên như: Nguyễn Thị Manh Manh (Nguyễn Thị Kiêm),
Mộng Tuyết, Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương, Ngân Giang, Cẩm Lai, Thu
Hồng…; đến các nhà thơ thế hệ sau như: Lý Phương Liên, Thúy Bắc, Phan
Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ...; rồi tiếp theo là:
Đoàn Thị Lan Luyến, Trần Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Mai, Lê Thị Mây,
Nguyễn Thị Hồng Ngát, Nông Thị Ngọc Hoà, Bùi Kim Anh, Trần Thị Vân
Trung... ; và gần đây nhất là các nhà thơ nữ trẻ như: Vi Thuỳ Linh, Ly Hoàng
11
Ly, Phan Huyền Thư, Bình Nguyên Trang, Dạ Phương Thảo, Đường Hải
Yến, Nguyễn Thuý Hằng...Số lượng các nhà thơ nữ Việt Nam ngày càng đông
đảo. Hàng năm họ cho ra đời hàng trăm tập thơ và hàng ngàn bài thơ in đăng
trên các loại báo chí. Tiếng nói của họ trên thi đàn dân tộc ngày càng mạnh
mẽ hơn, có màu sắc riêng biệt và có sức hấp dẫn - hơn bởi "Thiên tính nữ"
luôn được thể hiện một cách rõ nét với đặc sắc riêng của mình.
Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của một số nhà thơ nữ có tên
tuổi nổi bật như: "Theo cánh chim câu" (1964) "Hoa Dứa trắng" (1967), "Mùa
xuân màu xanh" (1974) của nữ sĩ Anh Thơ, "Dòng máu trẻ" (1947), "Tơ tằm"
(1963), "Màu xanh"(1972) của nữ sĩ Cẩm Lai; "Một mùa hoa" (1960) "Mùa
gặt" (1961), "Chim én bay xa" (1962), "Hương Đất Nước" (1974" của thi sĩ
Hằng Phương; "Mùa hái quả" của thi sĩ Vân đài...
Tiếp đến là "Tiếng trầm" (1967) "Nỗi đau không lành" (1990) của Thuý
Bắc; "Hương thầm" (1973" "Chân dung người chiến thắng" (1977) của Phan
Thị Thanh Nhàn; "Hoa dọc chiến hào" (1974) "Tự hát" (1984), "Thơ xuân
Quỳnh" (1982 - 1994) của Xuân Quỳnh; Tặng riêng một người" (1990), "Thơ
Lê Thị Mây" (2003) của Lê Thị Mây; "Đề tặng một giấc mơ" (1999), "Hồn
đầy hoa cúc dại" (2007), "Thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ" (2008) của Lâm Thị Mỹ
Dạ; "Sóng thời gian" (2000), "Quà tặng" (2004), "Hoa trên gai" (2007) của
Phi Tuyết Ba; "Em đi ngang chiều gió" (2001), "Người gánh vô hình" (2005),
"Đứt dải yếm" (2007) của Nguyễn Thị Ngọc Hà; "Một mình khâu những lặng
im" (2005), "Vệt trăng và cánh cửa" (2008) của Hoàng Việt Hằng; "Lối nhỏ"
(1988), "Du nữ ngâm" (2006) của Dư Thị Hoài; "Ngôi nhà sau cơn bão"
(1992), "Thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát" (2003), "Gió thổi tràn qua mặt" (2006)
của Nguyễn Thị Hồng Ngát; "Cô gái và cầu vồng" (1995), "Nửa vòng bông
gạo" (2001) của Đoàn Thị Ký; "Khát" (1999), "Đồng tử" (2005) của Vi Thuỳ
Linh; "Chồng chị chồng em" (1991), "Thơ trữ tình" (2003), "Thơ với tuổi
12
thơ" (2005) của Đoàn Thị Lam Luyến; "Đẹp và buồn trong suốt như gương"
(2005), "Giấc mơ hái từ cơn giông" (2008) của Lê Khánh Mai; "Một khúc
sông trăng" (2001), "Tảo tần gót khuya" (2005) của Nguyễn Thị Mai; "Người
đàn bà ngồi đan" (1985), "Mưa tuyết" (1991), "Ý Nhi Thơ" (2000) của Ý Nhi;
"Khoảng cách cuối cùng" (1999), "Hoa bất tử" (2011) của Trần Thị Vân
Trung; "Giá mà em từ chối" (2002), "Mưa mùa đông" (2004) của Nguyễn
Thuý Quỳnh; "Lục bát cuối chiều" (2008), "Bắc lên ngọn gió mà cân" (2010)
của Bùi Kim Anh…
Tất cả hàng trăm tập thơ, hàng ngàn bài thơ của các nhà thơ nữ Việt
Nam thuộc các thế hệ khác nhau đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của
nền thơ ca dân tộc thời kỳ hiện đại.
1.1.2. Nét đặc sắc của thơ nữ Việt Nam
Có thể thấy, nét đặc sắc chung của các nhà thơ nữ Việt Nam là: giàu nữ
tính, tràn đầy yêu thương và lòng vị tha cùng đức hi sinh cao cả. Các nhà thơ
nữ luôn có ý thức gắn những nỗi niềm tâm sự của cá nhân (thân phận cá nhân)
với vận mệnh dân tộc bằng một giọng thơ dịu dàng, tình cảm, tràn đầy cảm
xúc, đầy chất nhân văn.
Nội dung chính của thơ nữ Việt Nam ở thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX
là: lên án xã hội phong kiến bất công, chà đạp số phận con người nói chung
và người phụ nữ nói riêng; thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc
gia đình. Đặc biệt, những vấn đề về cuộc sống cá nhân của phụ nữ đã được
chính những phụ nữ phản ánh, chính họ đã nói lên bằng những nỗi niềm và
cuộc đời mình, bằng tấm lòng mình và trái tim mình. Vì thế, đã làm nên
những tác phẩm văn học nổi tiếng rất đáng tự hào trong đời sống văn học
nước nhà.
Đa số các nhà thơ nữ thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (thời kì hiện
đại hoá văn học) đã tham gia các hoạt động văn học nghệ thuật một cách khá sôi
13
nổi. Họ hăng hái làm thơ, viết văn, viết báo... ; họ tích cực góp tiếng nói của
mình vào quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà. Nội dung thơ, văn của họ
đã thể hiện nỗi xót xa, đau đớn trước tình cảnh đất nước bị nô lệ, và gửi gắm
nỗi niềm tâm sự cá nhân về tình yêu đôi lứa, về khát vọng tự do trong tình yêu
và trong cuộc sống đời thường.
Đặc điểm nổi bật trong sáng tác của nhà thơ nữ Việt Nam trong phong
trào Thơ Mới (1932 - 1945) là bước đầu đã thể hiện được "cái Tôi cá nhân" với
khát vọng được tự do, được bình đẳng và được khẳng định mình của người phụ
nữ; và bộc lộ tiếng nói sâu sắc của mình với quê hương, đất nước, con người -
với những tình cảm thiết tha, nồng nàn, đậm chất nhân văn, đầy nữ tính.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX đến năm 1945, xã hội Việt Nam có nhiều biến
động lớn. Sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp đã làm nên những thay
đổi căn bản của xã hội Việt Nam thời bấy giờ: từ xã hội phong kiến chuyển
sang xã hội nửa thực dân phong kiến. Sự xuất hiện của "cái Tôi cá nhân" kết
hợp với một không khí khá dân chủ trong văn chương đã tạo nên một nền văn
học mới với sự đổi mới toàn diện về nội dung cũng như của nền văn học nước
nhà. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất hiện đội ngũ các nhà thơ nữ
Việt Nam trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thơ nữ trong phong trào Thơ
Mới đã được khẳng định với sự có mặt của 5 nhà thơ nữ được Hoài Thanh,
Hoài Chân tuyển chọn và giới thiệu vào trong cuốn sách nổi tiếng: "Thi nhân
Việt Nam" họ được xếp ngang hàng với các nam thi sĩ. Đó là một điều hết sức
vinh dự cho các nữ sĩ trong phong trào Thơ Mới nói riêng và cho các tác giả
thơ nữ Việt Nam nói chung thời hiện đại.
Từ sau 1945, thơ nữ Việt Nam thực sự có những bước phát triển mới,
mạnh mẽ hơn và sâu sắc hơn với những giọng điệu riêng, phong phú. Thơ của
các chị đều có chung một đặc điểm: "thể hiện những điều tâm tình nhiều khi
nhỏ nhặt nhưng góp phần nói lên đầy đủ cái phong phú đáng yêu của cuộc
14
sống mới này..." (Lê Mai (1997), "Cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa với các
nhà thơ nữ" Tạp chí văn học (số 2), tr51-64).
Thơ nữ Việt Nam hiện đại cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI tiếp tục khai
thác hướng đề tài truyền thống, nói về thân phận người phụ nữ, về tình yêu,
lòng thuỷ chung son sắt, tình mẹ con, bầu bạn... đồng thời, họ đi sâu khám
phá những đề tài mới trong cuộc sống đầy biến động, với những va đập những
thách thức mới, với niềm khát khao mãnh liệt hướng tới cái mới. Thơ nữ trẻ
thế hệ 8x, 9x cố gắng khẳng định cái "Tôi" trẻ trung, góc cạnh, cái "Tôi" đầy
tính cá thể trước mọi biến động của đời sống xã hội. Thơ họ nói lên tiếng nói
cá nhân và bộc lộ những tư tưởng, những ý niệm của mình về cuộc đời, về xã
hội, về thời đại.
Có thể thấy thơ nữ là sự phản ánh tâm hồn, thế giới nội tâm của người
phụ nữ, là cách nhìn đời thường qua lăng kính và trái tim của người phụ nữ.
Chính vì thế thiên tính nữ với những số phận cụ thể, những khát vọng về hạnh
phúc, tình yêu cũng như những vấn đề muôn thuở của nhân sinh và kiếp
người phụ nữ... chính là những chiều sâu của các giá trị tiêu biểu của thơ nữ
Việt Nam qua các thời kì.
1.2. Khái quát về quá trình sáng tác của nhà thơ Bùi Kim Anh
Bùi Kim Anh sinh năm 1948 (quê Thái Bình) nhưng sinh ra và lớn lên
tại Hà Nội trong một gia đình công chức. Bà học trườ ng Đại học Sư phạm
ngành Ngữ văn và dạy văn từ năm 1968 tại Hà Nội. Bà là một nhà giáo (một
trí thức) yêu thơ và viết thơ, rồi dần trở thành một nhà thơ nữ có giọng điệu
riêng biệt. Hiện bà đang là hội viên Hội nhà văn Việt Nam và đã từng công
tác trong Ban Nhà văn nữ của Hội nhà văn Việt Nam.
Bùi Kim Anh là người yêu văn chương từ nhỏ. Bà tập làm thơ khi mới
học lớp 5. Thơ của bà được in trên báo từ năm 1980 và xuất bản cuốn thơ đầu
tiên "Viết cho mình" (1995) tiếp theo là tập "Cỏ dại khờ" (1996), "Lối mưa"
15
(1999), "Bán không cho gió" (2005), "Lời buồn trên đá" (2007), "Lục bát
cuối chiều" (2008), "Bắc lên gió mà cân" (2010) và sắp xuất bản tập thơ thứ
8. Với tập thơ đầu tay "Viết cho mình" ra đời, Bùi Kim Anh đã được nhận
giải thưởng của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội. Bà cũng đã được
nhận giải của cuộc thi thơ lục bát của Báo Giáo dục và thời đại, ngoài ra bà
còn được một số giải của báo Văn nghệ, báo Hà Nội…
Bùi Kim Anh đã làm thơ như một nhu cầu tự thân nhằm giải tỏa mọi
ẩn ức và gửi gắm mọi nỗi niềm (đặc biệt là nỗi buồn), mọi nỗi suy tư cũng
như những mối quan ngại sâu sắc về cuộc đời, về thế sự, về con người, cuộc
sống… thời kỳ hiện đại. Qua thơ chị, người đọc thấy rõ một cái Tôi Cá Nhân,
cái tôi của một người phụ nữ trí thức luôn đau đáu yêu thương, luôn khát
vọng về một hạnh phúc (tưởng chừng như có thật), luôn đắng đót, xót xa
nhưng đầy sự cảm thương, chia sẻ đối với những con người - đặc biệt là
những con người có số phận bất hạnh, vất vả, khổ đau. Qua thơ chị, người
đọc thấy rõ chân dung một người phụ nữ trí thức thời kỳ hiện đại: dịu dàng,
nhân ái, luôn có ý thức sâu sắc về cái Tôi Cá Nhân của mình với tất cả niềm
vui, nỗi đau, hy vọng và tuyệt vọng… trước cuộc đời đầy sống gió. Tuy vậy
"cái Tôi" đó không bao giờ tách rời và đơn độc mà luôn muốn có một sự
đồng cảm, sự sẻ chia chân thành, tha thiết với mọi người xung quanh, với
cuộc sống vốn rất phong phú, phức tạp thời kì hiện đại này.
Như đã nói ở trên, Bùi Kim Anh hay viết thơ lục bát, nhưng có những
điểm khác với thơ lục bát truyền thống. Thơ lục bát của chị là một thứ thơ lục
bát nhuần nhụy, nhưng không cũ, mang hơi thở cuộc sống, chứa đầy ưu tư và
cảm xúc của con người thời kỳ hiện đại. Bên cạnh đó, chị cũng thường sáng
tác theo thể thơ tự do một thể thơ rất phù hợp trong việc thể hiện sự tuôn trào
của cảm xúc và những suy tư, trăn trở, đớn đau… không giới hạn trước số
phận cá nhân, cũng như trước cuộc đời.
16
Có thể thấy, Bùi Kim Anh trong quá trình sáng tác của mình đã tạo nên
được một giọng điệu thơ khá độc đáo, có màu sắc riêng biệt, thể hiện một
cách rõ nét, sinh động cái Tôi trữ tình trong đời sống thơ ca nữ Việt Nam
thời kì hiện đại.
Tác giả Hiền Nguyễn cho rằng: Bùi Kim Anh làm thơ để tìm giá trị hạnh
phúc, và chính nhà thơ Bùi Kim Anh cũng khẳng định: Tôi làm thơ cho chính
mình. Cảm xúc của tôi được lấy từ chính cuộc sống thường ngày của mình và
"chỉ khi nào có cảm hứng thì tôi mới viết. Có những ngày tôi làm một mạch
được vài bài..." (Báo Điện tử Tổ quốc - Chuyên mục ý kiến - đối thoại
1/6/2009).
Trong khoảng thời gian từ 1995 đến năm 2010, nhà thơ Bùi Kim Anh có
khoảng hơn 400 bài thơ với 7 tập thơ: "Viết cho mình" (1995); "Cỏ dại khờ"
(1996); "Lối mưa" (1999); "Bán không cho gió" (2005); "Lời buồn trên đá"
(2007); "Lục bát cuối chiều" (2008); "Bắc lên ngọn gió mà cân" (2010). Và
chị vẫn tiếp tục sáng tác và sắp cho ra đời tập thơ với cái tên dự định "Nhốt
thời gian".
Có thể chia các tác phẩm thơ của Bùi Kim Anh làm hai giai đoạn: Giai
đoạn đầu: đầy sự trong trẻo, tin yêu, băn khoăn, day dứt, bao dung, hồn hậu...
của một người phụ nữ - một cô giáo yêu người, yêu thơ và làm thơ; Giai đoạn
sau: đau đớn, xót xa, quằn quại, hoài nghi, chua chát, cay đắng, đôi khi là
tuyệt vọng nhưng vẫn toát lên chất vàng mười của lòng nhân hậu, sự hi sinh
của lòng tự trọng, của bản lĩnh người mẹ, người vợ Việt Nam trong những lúc
khó khăn nhất, bất hạnh nhất của cuộc đời. Người đọc đã bắt gặp một thứ tình
cảm trong trẻo đầy sự tin yêu, bao dung và hồn hậu của một người phụ nữ
trong thơ qua hàng loạt bài: Ngập ngừng, Buồn dang dở, Tím lỡ làng, Xa, Cho
em gặp anh, Ngày không anh, Lạc khoảng trời, Nhặt trăng, Chơi vơi... Cũng
như bắt gặp những nỗi đau đớn, xót xa, hoài nghi đôi khi là tuyệt vọng... trong
17
các bài: Đi tìm, Một lần khác mọi lần, Mỗi ngày, Em và anh, Nợ người, Cơn
đau, Ta hỏi ta, Thăng bằng, Long đong một mình, Nợ thời gian, Đêm cuối
năm, Tương lai không định nghĩa, Cạn đáy giọt đời...
* *
*
Nhà thơ Bùi Kim Anh có thơ lẻ in trên báo từ những năm 70, 80 của thế
kỷ trước, nhưng đến năm 1995 chợ mới cho ra đời tập thơ đầu tiên với nhan đề
"Viết cho mình". Đây là tập thơ tình mang dấu ấn rõ nét. Tập thơ bộc lộ những
nỗi niềm, suy ngẫm, day dứt, chứa đầy sự hoài nghi và niềm tin vào tình yêu
của chính mình. Đứng giữa cuộc đời đầy phức tạp, đầy thử thách và sóng gió,
người phụ nữ có biết bao điều lo toan, bao điều phải chống chọi để có một tình
yêu, một gia đình hạnh phúc, một sự nghiệp đầy ý nghĩa đối với bao lớp học trò
yêu quý? Chị đã phải trải qua bao niềm vui, nỗi buồn, bao hi vọng và tuyệt
vọng, may mắn và bất hạnh để dựng xây, để níu kéo hạnh phúc, tình yêu của
chính mình. Tập thơ "Viết cho mình" toát lên một vẻ đẹp kín đáo, trong trẻo
của một tấm lòng đôn hậu, một trái tim đa cảm, của một tâm hồn giàu tình yêu
thương, vị tha - của một người phụ nữ trí thức yêu nghề, yêu trẻ!
Năm 1996, Bùi Kim Anh cho ra đời tập "Cỏ dại khờ". Chị vẫn đi tiếp cái
mạch thơ mà chị đã đi: "đằm thắm, nhẹ nhàng, ân tình, đôi khi bứt phá nhưng
rồi lại trở về với chân nữ tính của riêng mình" (Đào Nam Sơn). Vẫn theo
nhận xét của Đào Nam Sơn thì: "Cỏ dại khờ" là cách nói khiêm nhường của
thi sĩ, còn với những ai tri kỷ, tri âm thì nó là thảo dược quý. Với 40 bài trong
tập thơ này (ít bài dài), ý tưởng trong bài thơ gợi lên thật rõ ràng, bởi nhà thơ
quan niệm viết cho chính mình và mong chia sẻ với cuộc đời bằng suy nghĩ
của mình:
Giá có thể quay về cổ tích
Ước một lần không phải là mình
18
...xếp cuộc đời theo từng bước đặt
Sương - khổ, rủi - may
Chẳng tại số trời
Ước ba lần...
Trong "Cỏ dại khờ" - ta thấy Bùi Kim Anh muốn thể nghiệm những gì chị
đã cảm nhận được trong cuộc đời này. Trong nhiều bài thơ, chị luôn hướng tới
đời, hướng tới con người của hôm nay. Tấm lòng của một người mẹ trong bài
"Thay cho lời ru" của tập thơ này là một ví dụ tiêu biểu:
Hãy ngủ đi non nớt của mẹ ơi
Nụ hôn tình yêu sẽ gắn lành nỗi đau nức nở
Có một chàng trai đến tìm con hẹn mai còn đến nữa
Mẹ đi lau chiếc gương nơi sáng nắng nhà mình
Chị đã hiểu đã sẻ chia, đã an ủi và vực con dậy để tin vào cuộc đời, vào
tình yêu cho dù - chính tình yêu đã gây tổn thương, đau đớn cho con.
Và thật khiêm tốn khi chị viết về mình:
Người ta đi đông đi tây
Còn tôi quanh lại ở ngay xó nhà
Những chỉ lo việc đàn bà
Tứ thơ eo hẹp trong ba chuyện đời.
Nhưng "ba chuyện đời" đó đi vào thơ chị thì đâu có phải là nhỏ, là ít
nữa! Sự khiêm tốn đôi khi chính là niềm kiêu hãnh, tự hào của người phụ nữ.
Tập thơ "Lối mưa" in năm 1999 (sau "Cỏ dại khờ" 3 năm). "Lối mưa"
vẫn khuynh hướng viết cho mình, mình giãi bày cùng bạn đọc, nhưng đã chín
hơn nhiều trong những bài thơ viết cho cuộc đời, cho cõi nhân gian:
Cụ già như bà lão trong cổ tích
Dúm dó góc hồ lần lữa đôi tay cắt gọt
Mụn vải tả tơi gió lật
19
...những con búp bê nhem nhuốc
Như những đứa trẻ bị bỏ rơi
Những con búp bê như tuổi già lay lắt
...Có một cô bé nay trở thành người lớn
Ngàn tuổi thơ vẫn bày con búp bê bù rối
Xếp thành câu chuyện cổ ngày nay.
Phần viết cho mình, chị luôn bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở của mình
bằng những câu thơ đầy chất hiện thực, giản dị và trong trẻo:.
Đời còn gì để nối anh với em
Giữa hai đứa đâu là mơ là thực
Một con đò sang ngang chở đầy trách nhiệm
Các con là cầu nối chặt đôi ta.
Đến năm 2005, tác giả cho ra đời tập thơ "Bán không cho gió". Ta bắt
gặp trong tập thơ sự day dứt về những nỗi buồn của một người vốn có nhiều
ao ước, mộng mơ nhưng chẳng có cơ hội thực hiện. "Việc đàn bà" và "ba
chuyện đời" của chị cũng là cái chuyện muôn đời của một người phụ nữ, một
người yêu, người vợ, một người mẹ, một công dân, một thi sĩ trong những
ngày đất nước nhiều thay đổi (Vũ Nho). Trong thơ Bùi Kim Anh - người đọc
thấy luôn luôn thường trực trong đời sống tình cảm của tác giả là cái trạng
thái tâm lý đối lập: yêu và hoài nghi, chịu đựng và phản ứng, tha thứ và lên
án, thoả mãn và khao khát...Tất cả các mặt đối lập đó đều được giãi bày thành
thực như một nhu cầu để tự giải thoát. Vì thế mà - thơ Bùi Kim Anh hiếm
những câu vui, hiếm những khoảnh khắc bình yên, thanh than. Tập thơ "Bán
không cho gió" chị đã sáng tác khi mà tai ương bỗng ập đến với gia đình chị.
Vậy mà con người làm thơ vẫn cứng cỏi vượt lên số phận để làm thơ, bởi chị
đã lựa chọn và quyết "vịn vào thơ", để sống: "Em và anh gắn với nhau bởi
những bất hạnh/Tai ương kéo đến suốt cuộc đời/Giá ta bỏ nhau lúc trẻ để vạn
20
kiếp chia đôi/ Nhưng số mệnh bắt cùng gánh chịu/ Phải trời hay người cứ đoạ
đầy/ Cho một chút đổ đầy oan nghiệt…"
Thơ viết cho mình, cho con lúc này là nguồn sống cho tác giả vượt lên
tai ương, bất hạnh: "Con trai ơi hãy yên lòng ra đi/ Mỗi sớm/ Mẹ ở bên cha/
Ta còn mãi mái nhà".
Chỉ sau một năm khi "Bán không cho gió" được xuất bản thì năm 2007,
nhà thơ cho in "Lời buồn trên đá". Khi chồng mắc vào vòng lao lý, con mắc
bệnh nan y, chị càng viết thơ nhiều hơn, giọng thơ cứng rắn hơn, khiến người
đọc xúc động:
Những câu thơ không vớt được ý thơ
Những câu thơ không giải thoát được người làm thơ
Những điều tồn tại không có mặt trong thơ
Những điều không tồn tại lại kết thành câu chữ
Tập thơ "Bán không cho gió" được Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà
Nội trao giải hàng năm. Trong tập thơ này chị đã có những bài, những câu
làm nao lòng người:
- Câu thơ em viết cho em
Cởi ra xa xót vò thêm nát nhàu...
Ta làm thơ để tặng mình...
- Tôi là một kẻ quăng chài
Buông câu để kéo một vài ý thơ...
Thơ luôn là chứng liệu lịch sử chính xác nhất cho số phận mỗi nhà thơ.
Người đọc nhận ra được từ thơ chị những đắng cay, chua chát mà chị đã hứng
chịu và những bất hạnh, thử thách mà chị phải trải qua. Đến 2 tập thơ "Bán
không cho gió" và "Lời buồn trên đá" thì không còn một Bùi Kim Anh "lãng
đãng và mê đắm" như ở mấy tập thơ trước nữa mà là một Bùi Kim Anh:
"chông chênh cơn tuyệt vọng và dằn vặt nỗi hệ luỵ" (Lê Thiếu Nhơn). Trong
21
những đêm đau đớn, bất hạnh dồn dập đổ ập vào chị, chị chỉ còn vũ khí cuối
cùng là thơ để tự vệ, để vịn vào, đứng lên:
Ta băm nát đời mình vào những câu thơ
Trang điểm tâm hồn bằng lời bằng chữ
Cho ta vịn vào khi thiên hạ lùi xa
Và đúng là thơ đã "dìu" chị đi qua những chông gai, gập ghềnh khi
không còn nước mắt để khóc. Nhờ thơ, chị đã kiên cường chấp nhận thử thách
để đối mặt với nó:
Bất hạnh không hề mang nhãn mác
Ta không thể lựa chọn
Sự khốn cùng chẳng chung đúc một khuôn
Ta không thể nhấc lên nặng nhẹ chịu đựng mỗi con người
Hai tập thơ "Bán không cho gió" và "Lời buồn trên đá" như những trang
nhật ký đầy sự bàng hoàng. Hành trình thơ tuần tự theo hành trình nguy nan.
Đó là giây phút "ngỡ là" hụt hẫng chia biệt, đó là "ngày giỗ mẹ" ngậm ngùi,
đó là lúc thăm nuôi người ở "Phía ấy"...và đó là niềm khát khao mong mỏi:
Sẽ một ngày bình thường
Không chờ mưa chờ nắng
Có thời gian chững lại
Có không gian hai người
Năm 2008, tác giả cho in "Lục bát cuối chiều". Trong tập thơ này tác giả
tuyển chọn 68 bài. Đây là tập tinh tuyển những bài lục bát đã trình làng trong
các tập trước và thêm vào một số bài mới. Hầu hết trong thơ Bùi Kim Anh là
những bài buồn, những lời than thở. Nhưng ở những bài này mỗi bài có một
hoàn cảnh riêng, có một thứ cảm hứng riêng. Cùng là lục bát nhưng có thể nói
Bùi Kim Anh đã hình thành một giọng thơ riêng không thể trộn lẫn với các
nhà thơ cùng thời với chị. Thể lục bát vốn là thể thơ truyền thống, người viết
22
lục bát mà tách khỏi cách nói truyền thống, cách nói dân dã để tìm đến một sự
cách tân nào đó không phải chuyện dễ. Vậy mà, đây đó người đọc đã bắt gặp
một Bùi Kim Anh vừa truyền thống vừa hiện đại trong "Lục bát cuối chiều".
Nhờ sự cân xứng trong tiết tấu, nhờ hình ảnh chắt lọc, người đọc thấy hiện lên
một thi sĩ trẻ trung, quả quyết và đa tình:
Buồn thì ra ngắm phố đông
Tội gì đóng cửa mà đong cơn sầu
Buồn thì ta lại yêu nhau
Tội gì ủ rũ cho mau cái già
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã từng khẳng định: Bùi Kim Anh "thật đắc
địa với lục bát". Những câu thơ lục bát của chị đi giữa lằn ranh của quê kiểng
và thị thành, giữa dân gian và hàn lâm, giữa cổ xưa và hiện đại.
"Bắc lên ngọn gió mà cân" là tập thơ thứ 7 của Bùi Kim Anh được xuất
bản năm 2010. Tập thơ ra đời khi mọi sóng gió cuộc đời đã tạm lắng dịu, bất
hạnh cũng phải "cất đi" để sống tiếp với bao trách nhiệm nặng nề của một
người vợ, người mẹ, người bà. Toát lên từ tập thơ là tính cách nhân hậu của
một phụ nữ Á Đông thời hiện đại: không chỉ làm tốt bổn phận người con,
người mẹ, người bà mà còn chứa chất những ưu tư về xã hội mang đầy tính
thế sự. Hình như trong nhà thơ có nỗi ám ảnh về tình trạng suy thoái của đạo
lý và nhân cách của con người trong cuộc sống hiện đại với cơ chế thị trường
hôm nay:
Chắc tại tôi không chịu lặng yên
Trời trở gió lại trở mình đau nhức
Nghe thiên hạ thấy lòng buồn bực
Lại ngồi vặn vẹo những vần thơ...
Nhưng cho dù xã hội có bao điều ngang trái, bao điều trăn trở - thì chị
vẫn quyết "vịn vào thơ" để "giải thoát" và "cứu rỗi" tâm hồn mình.
23
Những câu thơ giải thoát một sinh linh
Tôi giải thoát tôi bằng lời thơ ngắn ngủi
Với 54 bài thơ có vần và không vần, thi tập "Bắc lên ngọn gió mà cân"
khẳng định Bùi Kim Anh vẫn luôn là kẻ "mắc nợ" những trang thơ, những
vần thơ. Bởi có thơ, nhờ thơ mà chị muốn có thể tiếp tục chặng đường đời
mình. Trong dự định, chị sẽ có tập thơ thứ 8 với nhan đề "Nhốt thời gian".
Nhìn một cách khái quát quá trình sáng tác của nhà thơ Bùi Kim Anh có
thể thấy chị là một người viết nhiều, viết khoẻ. Chỉ trong một khoảng thời
gian 15 năm (1995 - 2010) chị đã cho ra đời tới 7 tập thơ. Đọc thơ chị, người
đọc nhận thấy một Bùi Kim Anh có một giọng điệu thơ khá độc đáo, thể hiện
một cách rõ nét, sinh động cái Tôi trữ tình mang mầu sắc riêng biệt. Đọc 7 tập
thơ của chị, người đọc cảm nhận như có hai cuộc đời khác nhau trong tác giả
này. Ba tập thơ đầu chị viết giọng thơ khá hiền lành; phần lớn là các bài thơ
ngắn, tứ thơ gọn. Những tập thơ tiếp theo đã thể hiện bao nỗi lo toan, vất vả,
bao nỗi buồn đau, bao mất mát, bao nỗi bất hạnh ập đến cuộc đời. Nhưng
những điều đó đã khiến cho câu thơ, tứ thơ, lời thơ của chị mạnh mẽ hơn, sâu
sắc hơn. Bùi Kim Anh là một nhà thơ nữ điềm tĩnh, đôn hậu và bản lĩnh. Chịu
nhiều đau đớn bất hạnh như vậy mà sức làm thơ của chị không hề suy giảm
mà còn mạnh mẽ lên, càng khoẻ hơn. Đó phải chăng là phẩm chất nhà giáo là
tính nhân văn, nhân bản trong con người phụ nữ làm thơ của chị!
Tác giả Chu Linh Quang nhận xét: "Sau một chặng đường dài gian nan,
vất vả, lầm lũi, gan góc, chống đỡ sự nghiệt ngã thử thách của số phận để
mưu sinh và sáng tác, nhà thơ Bùi Kim Anh thật sự đã đứng vững trên thi đàn
và cuộc sống. Thơ chị ngày càng được đông đảo bạn đọc yêu thích. Đó là một
nhận xét khách quan, có cơ sở thực tiễn!
24
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH THƠ BÙI KIM ANH
2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình trong thơ
Như đã biết vai trò chủ thể của nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt trong thơ trữ
tình. Nhà thơ nói về cuộc sống thông qua những cảm nghĩ chủ quan của mình.
Vì vậy, có thể nói phương thức biểu hiện của thơ trữ tình dựa chủ yếu vào chủ
thể sáng tạo.
Ở thơ trữ tình, tính chất tự biểu hiện là đặc điểm chung, phổ biến. Tuy
nhiên, không thể coi việc tự biểu hiện là mục đích duy nhất và cái Tôi của nhà
thơ bị tách ra khỏi cuộc sống chung. Mặt khác lại cũng không thể phủ nhận
cái Tôi của chủ thể sáng tạo, xem thơ trữ tình như một tiếng nói chung không
có bản sắc, không có điểm tựa tình cảm.
Hêghen trong tác phẩm "Mỹ học" đã xác định vai trò, vị trí quan trọng
của chủ thể sáng tạo trong thơ trữ tình: "Nguồn gốc và điểm tựa của nó là ở
chủ thể và chủ thể là người duy nhất, độc nhất mang nội dung. Chính vì vậy
cho nên cá nhân phải có được một bản tính thi sĩ, phải có một trí tưởng tượng
phong phú, phải có một cảm xúc dồi dào và có thể lĩnh hội được những ý
niệm sâu sắc và lớn lao".
Nhà thơ hiện diện trong thơ mình. Người đọc sẽ tìm thấy cách cảm nghĩ
về cuộc sống có chiều sâu và bản sắc độc đáo với một giọng điệu thi ca riêng
của tác giả. Trong thực tiễn sáng tác thơ ca, cuộc đời nhà thơ và thơ luôn gắn
bó với nhau. Mỗi nhà thơ đều có một quan niệm về mối liên hệ giữa thơ và
cuộc đời mình và một con đường đi riêng để đến với thơ. Sự thống nhất giữa
cuộc đời nhà thơ và thơ là một thực tế trong sáng tác thơ ca ở tất cả mọi thời
đại. Tuy vậy, nếu đem so sánh giữa những sự kiện và quan hệ của cuộc đời
một nhà thơ với những đề tài và mạch cảm nghĩ được biểu hiện trong thơ thì
vẫn có sự chênh lệch và khác biệt nhất định. Từ cuộc đời đến thơ, quy luật
25
điển hình hóa trong nghệ thuật đã tạo nên nhiều phẩm chất, nhiều giá trị mới
do trí tưởng tượng, do những cảm xúc có tính chất phân thân để nhập hòa vào
đối tượng của bản thân tác giả tạo nên. Nhà thơ thường bộc lộ phần bên trong
của tâm trạng với bao cảm xúc, tâm tình, hy vọng.
Theo tác giả Hà Minh Đức, "Điều quan trọng không phải là sự khảo sát
cuộc đời nhà thơ, mà là xác định cho đúng đắn cái tôi trữ tình trong thơ tác
giả".
Vẫn theo tác giả Hà Minh Đức: "Cái tôi trữ tình là cái tôi được nghệ
thuật hóa, là phần bộc lộ rõ nét nhất cái riêng của một tác giả trong thơ. Đây
có thể trước hết là điệu cảm xúc, suy nghĩ độc đáo nhất trên những đề tài
quen thuộc, là những sắc thái phong phú của tâm hồn thơ, là những vui buồn,
mong muốn, yêu thích của tác giả ở trong thơ, là năng lực cảm nhận và biểu
hiện với những phương tiện riêng của các yếu tố hình thức gần gũi với một
tác giả".
Cái Tôi trữ tình là sự tự ý thức của cái tôi trong nghệ thuật, cái tôi của
hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thể hiện thông qua phương tiện
trữ tình. Nếu như trong tác phẩm văn xuôi tự sự cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián
tiếp qua những hình tượng khách quan, trong kịch, cái tôi hoàn toàn không
xuất hiện thì trong tác phẩm trữ tình cái tôi bộc lộ trực tiếp. Hình tượng cái
Tôi trữ tình trong thơ bộc lộ bản sắc tâm hồn, tài năng sáng tạo và khả năng
đồng hóa hiện thực của mỗi nhà thơ.
Cái Tôi trữ tình là sự thể hiện trực tiếp những xúc cảm và suy tư chủ
quan của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước hiện thực cuộc sống. Tìm
hiểu về cái Tôi trữ tình là tìm hiểu một phạm trù mỹ học của thế giới tinh
thần. Cái Tôi trữ tình có một cấu trúc mang tính nghệ thuật với vai trò tổ chức
thế giới hình tượng thành một chỉnh thể thống nhất nhờ các phương tiện ngôn
26
ngữ, khả năng xúc cảm toàn bộ thế giới thực thành thế giới tinh thần bền
vững, thống nhất đầy sáng tạo mang những nét cá tính rất riêng.
Vậy bản chất của cái Tôi trữ tình trong thơ là gì ? Theo các nhà nghiên
cứu lí luận thì nếu hiểu theo nghĩa hẹp, cái Tôi trữ tình là hình tượng cái tôi
cá nhân cụ thể, cái tôi tác giả gắn liền với cuộc đời tác giả với cảm xúc riêng
tư, là một loại nhân vật trữ tình còn hiểu theo nghĩa rộng thì cái Tôi trữ tình là
nội dung thẩm mĩ của tác phẩm trữ tình. Nói cách khác, cái Tôi trữ tình là
biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ tình. Bản chất chủ quan
của chủ thể trữ tình thể hiện ở nguyên tắc tiếp nhận và tái hiện đời sống thông
qua toàn bộ nhân cách của con người trữ tình. Ở đây, cá tính người trữ tình
với phong thái, ấn tượng, sự độc đáo chiếm vị trí chủ đạo. Cuộc sống sẽ được
nhận thức, lý giải thông qua lăng kính cảm xúc của nhân vật trữ tình.
PGS.TS Vũ Tuấn Anh đã từng nói về bản chất của cái Tôi trữ tình theo
cách của mình: cái Tôi trữ tình là sự hội tụ thăng hoa theo quy luật nghệ thuật
của ba phương diện cá nhân - xã hội - thẩm mĩ trong hình thức thể loại trữ
tình. Sự chiêm nghiệm đời sống của một người xuyên qua lăng kính chật hẹp
của mình lại luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất của con người để từ
đó kết tinh những giá trị nhân bản.
Cái Tôi trữ tình có bản chất xã hội tâm lý, bản chất tự ý thức bởi vì nó
tồn tại trong vô vàn mối quan hệ với đời sống, chịu sự chi phối bởi qui luật,
điều kiện xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, lịch sử, triết học, thẩm mĩ.
Như một chỉnh thể toàn vẹn và đa dạng, thế giới tinh thần của cái tôi luôn có
sự đối lập nội tại: không - có, trong - ngoài, quá khứ - hiện tại, hiện tại -
tương lai, mơ - thực… tạo nên những mâu thuẫn và đấu tranh. Điều đó tác
động làm cho cái tôi vận động và phát triển. Cái Tôi có chức năng nội cảm
hóa thế giới, biến thế giới khách quan thành chủ quan, trở thành chủ thể của
giá trị của cái nhìn. Cái Tôi có khả năng tổ chức thế giới hình tượng thành
27
một thể thống nhất. Với bản chất tâm lý xã hội của mình, cái Tôi là cơ sở của
cái Tôi trữ tình trong thơ. Cái Tôi ấy có thể trở thành cái Tôi nghệ thuật khi
nó có nhu cầu tự biểu hiện, nhu cầu được giao tiếp để tìm sự đồng cảm và nó
được bộc lộ bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Thông qua một trạng thái cảm xúc
đích thực của cái Tôi trữ tình, người đọc không chỉ gặp riêng cái tôi nhà thơ
mà cả một thế giới hiện thực với những mảng sáng tối, hạnh phúc và nỗi đau,
niềm tin và sự đổ vỡ… được mở ra một tầm cảm thức mang tính nhân loại.
Nhà thơ, đôi khi là nhân vật, là cái tôi, là hình tượng trọng tâm. Ở đó, ta thấy
thơ và nhà thơ hòa vào làm một. Khi ấy, cái tôi đích thực là cái tôi - nhà thơ.
Lúc khác, ta lại thấy nhân vật trong thơ hóa thân thành cái Tôi trữ tình.
Trong nghệ thuật ngôn từ, cái Tôi trữ tình thể hiện ở hệ thống hình ảnh,
biểu tượng, nhịp điệu, âm thanh, từ ngữ... Đó là thế giới của sự quy ước với
một không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật riêng. Thế giới nghệ thuật
của cái Tôi trữ tình là thế giới mang giá trị thẩm mỹ kết tinh từ cái nhìn nghệ
thuật của nhà thơ và từ giá trị văn hóa truyền thống. Vì thế, thế giới nghệ
thuật của cái Tôi trữ tình không chỉ hiện ra với tư cách là sự khái quát những
phẩm chất chủ yếu mà còn là đại diện cho một tiêu chuẩn thẩm mĩ nhất định.
Nhờ hình tượng cái Tôi trữ tình mà người nghệ sĩ tìm được sự đồng vọng
trong trái tim mọi người, tìm được tiếng nói tri âm để khẳng định bản chất
tinh thần của chính mình. Trong thơ trữ tình, cái tôi bộc lộ thái độ trực tiếp
trước hiện thực, nó vừa là chủ thể vừa là khách thể. Nhà thơ tìm mọi cách để
tạo cho mình một thế giới giá trị thẩm mĩ để nhận thức về lẽ tồn tại, để trả lời
câu hỏi "ta là gì?" trong cuộc đời.
Cái Tôi trữ tình luôn vận động để làm mới mình cùng với sự vận động
của cuộc sống và sự thay đổi của lịch sử để đáp ứng nhu cầu bộc lộ của bản
thân và theo kịp nhu cầu thẩm mĩ của thời đại. Chính vì vậy, ở mỗi thời đại
thi ca có một kiểu cái Tôi trữ tình đóng vai trò chủ đạo, thể hiện sự tập trung
28
cao độ tinh thần của thời đại. Chẳng hạn, trong thơ trữ tình cổ điển, tính chất
của cái Tôi trữ tình là "phi cá thể, siêu cảm giác". Trong Thơ Mới, cái Tôi trữ
tình là một cái tôi lấy tâm hồn làm đối tượng, làm tiêu điểm để khẳng định
quyền sống của mình, lấy tự do làm thước đo chiếm lĩnh thế giới. Ở giai đoạn
văn học cách mạng chống Pháp và chống Mỹ, cái Tôi trữ tình là hình ảnh
những con người mang lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm tin chiến thắng,
những con người mang tầm vóc sử thi và tinh thần lãng mạn. Sang thời kỳ đổi
mới, "cảm hứng ca ngợi đã chuyển dần sang lắng đọng và suy tư". Lúc này
cái tôi có dịp "cởi trói" khỏi những ràng buộc để nói thẳng, nói thật những
trăn trở của mình. Ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, con người đều phải chịu sự
ràng buộc của các mối quan hệ xã hội. Lịch sử phát triển, xã hội thay đổi thì
cái tôi của con người cũng theo đó mà thay đổi. Và tất yếu cái Tôi trữ tình
trong văn thơ sẽ được thể hiện một cách đa năng.
Cái Tôi trữ tình gắn liền với nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình chính là
một phương tiện biểu hiện nghệ thuật cái tôi của tác giả nhưng nhân vật trữ
tình chỉ thống nhất chứ không đồng nhất với tác giả. Thống nhất vì qua tác
phẩm người đọc nhận ra niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, lý tưởng của tác giả
được ẩn chứa nơi cảm xúc, cái nhìn của nhân vật trữ tình. Không đồng nhất vì
nhân vật trữ tình là một hình tượng nghệ thuật do tác giả sáng tạo ra còn tác
giả lại chính là con người có thật ngoài đời. Vì vậy, có thể có nhiều nhân vật
trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật
tự sự và kịch, nhân vật trữ tình tồn tại trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách
cảm, cách nghĩ của người viết. Nhân vật trữ tình được biểu hiện dưới nhiều
dạng thức khác nhau.
Dạng thức thứ nhất, nhân vật trữ tình được biểu hiện dưới dạng trực tiếp
của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn
với một đời riêng của người viết. Thường trong những trường hợp này nhân
29
vật trữ tình rất gần hoặc chính là cái tôi của tác giả và nhà thơ thường sử
dụng cách bộc lộ trực tiếp, có xưng danh rõ ràng: tôi, ta, em, anh,…
Ví dụ:
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến.
(Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương)
Dạng thức thứ hai: Cảnh ngộ, sự việc trong thơ không phải là cảnh ngộ
riêng của tác giả. Lúc này nhân vật trữ tình được nhận biết qua cách bộc lộ
cảm xúc, cách quan sát, nhận xét về những sự kiện được nói đến trực tiếp
xưng danh, lời thơ dễ trở thành tiếng lòng chung của nhiều cá thể trong hoàn
cảnh tương tự.
Ví dụ:
Ao sâu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sáng nước theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
(Tú Xương - Thu Vịnh)
Dạng thức thứ ba: Bài thơ trữ tình viết về một nhân vật nào đó. Lúc này
nhân vật trữ tình không đứng ở vai "tác giả" nữa mà hóa thân vào một nhân
vật khác để bộc lộ cảm xúc ( nhân vật trữ tình nhập vai).
Ví dụ:
Khánh ngồi lại với em thêm chút nữa
Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi !
(Xuân Diệu - Lời kỹ nữ)
30
Nhân vật trữ tình có thể thay đổi các hình thức xuất hiện trong một bài
thơ. Nhân vật trữ tình chính là phương tiện để bộc lộ cái Tôi trữ tình. Có thể
cho rằng, cái Tôi trữ tình là nội dung, đối tượng, bản chất của tác phẩm trữ
tình. Đối với thơ trữ tình, vai trò chủ thể có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Cái Tôi trữ tình là hình tượng trọng tâm trong thơ trữ tình, là chủ thể sáng tạo
của thơ ca. "Thơ ca muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo
trước con người và tạo vật. Mây, gió, cỏ, hoa xinh tươi, kỳ diệu đến đâu hết
thảy cũng đều tự lòng mình nảy ra". (57/9).
Có thể tóm lại như sau: Cái Tôi trữ tình là hình trượng trọng tâm là chủ
thể sáng tạo của người viết. Nó thể hiện rất rõ, rất cụ thể những xúc cảm
những suy tư chủ quan của nhà thơ. Cái Tôi trữ tình được thể hiện ở nội dung
phản ánh (nhân vật trữ tình trong thơ) ở nghệ thuật ngôn từ, ở giọng điệu…
Nghiên cứu Cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh có nghĩa là chỉ ra
những đặc điểm, đặc trưng riêng, chỉ ra nét phong cách nghệ thuật cũng như
tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ.
2.2. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh
2.2.1. Cái Tôi kín đáo, dịu dàng, sâu sắc, đầy nỗi niềm và lòng trắc ẩn
Tác giả Bùi Kim Anh đã từng tâm sự: “Tôi làm thơ từ nhỏ đến thời sinh
viên cũng làm. Nhưng những bài thơ đó tôi chỉ viết ra trong sổ tay như là tâm
sự của riêng mình. Lúc đó tôi còn rụt rè và cảm thấy nó rất riêng tư....Tôi là
người yêu văn chương từ bé. Cũng có thể một phần tại cái duyên hay số
phận...”( Nguồn: Báo Điện tử Tổ quốc/Hiền Nguyễn)
Vốn là một cô giáo dạy văn, một người vợ "rất truyền thống" lại rất giàu tình
cảm (đa cảm) rất dễ xúc động trước mọi niềm vui nỗi buồn của cuộc sống
xung quanh và của chính mình, nên thơ Bùi Kim Anh rất chân thành, giàu
cảm xúc, phản ánh rất rõ những tâm tư tình cảm, những suy nghĩ, băn khoăn,
trăn trở… của chủ thể sáng tạo. Nhân vật trữ tình luôn luôn gắn liền với cái
31
Tôi trữ tình trong thơ chị. Nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh thường
được biểu hiện dưới dạng trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một cảnh ngộ,
một sự việc gắn liền với cuộc đời riêng của tác giả hoặc những điều do chính
tác giả chứng kiến, cảm nhận, rung động… trong cuộc sống.
Thơ Bùi Kim Anh thể hiện cái Tôi kín đáo, dịu dàng sâu sắc. Đây chính
là biểu hiện cái thế giới nội tâm phong phú, nhạy cảm, rất phụ nữ, rất truyền
thống của một phụ nữ trí thức - một người yêu, người vợ nồng nàn, sâu sắc
nhưng kín đáo, dịu dàng mang tính truyền thống rất đáng quý, đáng trân trọng
trong cuộc sống hôm nay!
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc nhận thấy không còn là “có thể” nữa
mà quả thực đã có sự gắn kết giữa cuộc đời với thơ ở Bùi Kim Anh. Thơ chị
toát lên sự dịu dàng, kín đáo của một người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu!
Hình ảnh người con gái trong bài thơ “Khoảng cách” (lần in đầu có tên là
“Đến bao giờ”) dường như xuôi tay, bất lực trước khoảng cách có lẽ không
chỉ là khoảng cách của không gian của thời gian mà đó còn là khoảng cách
của tình cảm, của trái tim khi giữa hai người không có cái duyên gặp gỡ:
Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
Chỉ một lần thôi êm ả
Dẫu đã bao lần vội vã
Anh vẫn là anh xa cách giữa nỗi đời...
Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
Chỉ một lần thôi là tất cả
(Khoảng cách)
Lời thơ đau đớn, tuyệt vọng vì người con gái dù đã chủ động thử vượt
khoảng cách sau “bao lần vội vã” nhưng “khoảng cách” vẫn cứ là “khoảng
cách”. Cái đích mà người con gái mong tha thiết “chỉ một lần thôi” vẫn cứ
cách xa và “sẽ chẳng bao giờ có được”. Lời thơ giản dị, đã thể hiện rõ sự cô
32
đơn - như một định mệnh của người phụ nữ giàu tình cảm, khát khao tình yêu,
hạnh phúc đích thực của đời mình. Khoảng cách đáng sợ ấy là khoảng cách
mong manh của tình cảm luôn bị chi phối bởi muôn vàn nỗi niềm trong cuộc
sống hôm nay.
Người con gái trong thơ Bùi Kim Anh mang đậm tính truyền thống trong
cách biểu hiện tình cảm: "Mai anh đi về phương ấy/Vội vàng là phút chia
tay…/Khuya khoắt thế mình em nỗi nhớ/Anh xa xôi đến cả giấc mơ thầm/Cả
duyên cớ cho em đằm thắm/Để ngại ngần se sắt ước mong" (Dành dụm).
Trong tình yêu, nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh có ý thức rất rõ
về một "ngưỡng cửa" vô hình để chỉ ra một ranh giới trong tưởng tượng:
Bên kia ngưỡng cửa là thiên đường
Bên này ngưỡng cửa là ước vọng
Em dựa vào bên này biển sóng
Nghe tiếng mình đập dồn dập niềm yêu…
Bên kia có anh - em sợ
Thiên đường hay địa ngục
(Ngưỡng cửa)
Trong bài “Duyên xuân” Bùi Kim Anh viết:
Cho em trở lại bên anh
Nhẹ nhàng thôi gió lên cành đẩy đưa
Cho em trở lại ngày xưa
Được yêu anh giữa giấc trưa ngọt ngào
(Duyên xuân)
Cái mơ ước “trở lại ngày xưa” hình như có ở nhiều người chứ không
riêng Bùi Kim Anh. Ước “trở lại ngày xưa” còn trẻ, đẹp, hồn nhiên, mộng
mơ… là niềm mơ ước chung của bao người phụ nữ đã bước sang tuổi trung
niên trong đó có Bùi Kim Anh. Nhưng chị lại mơ ước một cách hiện thực
33
hơn, giản dị hơn - cho dù: “Bây giờ cách mấy đoạn đường/Mưa ngăn lối gió
lạc phương ngại ngần” - thì chỉ còn là “Hai chúng mình chỉ có duyên đợi
chờ” (Duyên xuân).
Trong hòn cảnh “Hai ta biền biệt” chị đã giãi bày một cách thành thực,
cho dù có chút xa xót: "Khi em hiểu về cuộc đời/ Khi em hiểu về anh/ Đầy đủ
ngọn ngành/ Thì tất cả đã là rất muộn/ Cho dù mặt trời dậy buổi sớm mai/
Cho dù những bông hoa tình yêu vẫn nở/ Cho dù những nhịp cầu lao nhanh
nối đôi bờ cách trở/ Và anh nói rằng – anh vẫn yêu em" (Khoảng trống).
Có những lúc cái ngày xưa ấy đã trở lại với chị trong “Ngày mới yêu":
"Em mới yêu nên chưa biết làm thơ…/ Anh mới yêu nên chưa hết ngại
ngần…/ Ngày ấy tình yêu còn rất trẻ/ Anh vin cành em nhặt tím hoa xoan/ Chỉ
biết say mê chẳng biết lỡ làng.../ Ngày ấy...qua bao lâu ngày ấy". Cái ngày ấy
thật đẹp và cũng thật hiếm hoi trong thơ chị!
Đọc thơ Bùi Kim Anh ta thấy sự “cảm nhận” tinh tế của người con gái
đầy nữ tính và hết sức truyền thống mà vẫn có một cái gì đó rất hiện đại:
Chiều nay anh cầm tay em
Ngoài kia cuối mùa đổi gió
Thay cho một lời bày tỏ
Một khoảng không gian chơi vơi
(Cảm nhận)
Chỉ với bốn dòng thơ, tác giả nói được hành động (cầm tay), ý nghĩa của
hành động (thay lời bày tỏ), nói được điều khách quan của hiện thực (cuối
mùa đổi gió) điều chủ quan của lòng người (chơi vơi).
Chúng mình đã ngồi như vậy Uống trà nói chuyện hôm nay Chiếc bàn mỏng manh ngăn cách Giữ lòng em ở bên này.
(Cảm nhận)
34
“Giữ lòng em” chỉ bằng sự “mỏng manh” của chiếc bàn thì đấy chính là
“cái truyền thống” giữ em đấy chứ! Và điều cần nói thì nhà thơ đã nói một
cách giản dị:
Vì sao em đến với anh
Hãy xin âm thầm đón nhận
Khi em chưa kịp hiểu mình
(Cảm nhận)
Người con gái trong bài thơ nói “em chưa kịp hiểu mình” nhưng thực ra
thì cô ấy đã hiểu, rất hiểu thì mới “cảm nhận” như thế. Rồi đến một lúc nhà
thơ viết “Chợt nhớ mình vào tuổi bốn mươi”:
Cái tuổi bốn mươi của người đàn bà
Tóc mau bạc bởi nhỏ nhoi bấu víu
Vùi niềm tin vào bữa quẩn bữa quanh cho tới sập thời gian
Vui dè dặt vào từng trải lo toan...
Tôi bỏ quên tôi tuổi bốn mươi nhàu nát
(Cho tuổi bốn mươi của mình)
“Chợt nhớ” có nghĩa là con người không chú ý gì đến hiện thực xung
quanh, đến thời gian, không gian và quan trọng hơn cả là không chú ý gì đến
bản thân mình trước lúc nhớ. Người thơ đã nói rất thật.
Tôi đã dành dụm gì cho phút của tôi
Thì làm vợ loay xoay gom gọn ngày ngày
Dòng cho thơ tắc nghẹn...
(Cho tuổi bốn mươi của mình)
Chị ý thức rất rõ ràng “người đàn bà không thể dừng bên tách cà phê”
nhưng lại ước muốn “cái phút cho mình và cho những dòng thơ/ tự nhiên
thêm một bất ngờ” “thêm một bất ngờ” có lẽ là “thêm” cho mình và “thêm”
cả cho thơ!
35
Trong “lối về” chị viết: "Tôi lại tìm tôi của ngày xưa/ Thuở con gái mái
tóc dài buông xoã…/ Con phố nhỏ mãi vẫn nhỏ thôi/ Tôi đi qua tuổi thơ.../
Tôi hằng đi trên lối của mình.../Có thể vừa đi vừa hát.../ Có thể vừa đi vừa
nghĩ một ý thơ" (Lối về).
Quả thực là chị đã đi trên cái “lối” mà chị đã lựa chọn cái lối đi giữa
cuộc đời bên cạnh thơ. Có lần chị đã viết:
Muốn thay một kiếp con người
Bực mình muốn bứt cả trời vào thơ
(Viết cho mình)
Cái ý nghĩ táo bạo nhuốm vẻ ngang tàng trong cái tâm trạng “bực mình”
kia có lẽ càng làm cho người đọc thấy được sự gắn bó định mệnh giữa tác giả
với thơ. Thơ như người bạn, như con nợ, khiến cho tác giả luôn phải khắc
khoải, lo toan:
- Ta mắc nợ người lần hò hẹn
Lần ngủ quên mắc nợ bình minh
Sợi tóc vương trắng nợ nỗi niềm
Mãi lo toan nợ con đường đi về bài thơ chưa viết
- Ta mắc nợ người câu thơ chứa chan...
Để một đời yêu vẫn u mê
Câu thơ tình xé vào đêm tối
Là thi nhân đâu mà không trả nổi
Mắc nợ trời sao giấc ngủ đầy
(Nợ nỗi niềm)
Cũng chính bởi cái tâm lý mắc nợ và trả nợ đó mà nhà thơ đã viết lên
những dòng thơ khiến cho bao người đọc phải cảm thông, nức nở:
- Thương người lầm lụi giữa trời
Thân như chiếc lá nằm phơi giữa đường
36
Thương ta dãi gió dầm sương
Sớm một nẻo chiều một phương kiếm tìm
(Nỗi đời)
“Thương người” rồi đến "thương ta” - đó chẳng phải là một tấm lòng
chân thật và giản dị, rất đời thường đó sao!
Nỗi niềm trăn trở của nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh càng bộc lộ rõ
chân dung người thơ giàu tình cảm và dễ xúc động, rung cảm trước mọi điều
xảy ra trong cuộc sống, nhất là những điều bất hạnh, đau đớn, trớ trêu, trước
mọi cảnh ngộ của thế giới con người. Trước cảnh ngộ của những con người
xung quanh có số phận éo le, ngang trái…Bùi Kim Anh đã viết rất nhiều bài
thơ khiến người đọc rưng rưng, xúc động, tràn đầy sự cảm thông, muốn được
sẻ chia đối với những con người đó. Chính điều này khiến cho thơ chị chứa
đựng đầy nổi niềm và lóng trắc ẩn. Đây cũng chính là một nét đặc trưng trong
thơ của người phụ nữ trí thức luôn suy nghĩ, luôn trăn trở trước mọi điều diễn
ra trong cuộc sống, trong xã hội thời kỳ hiện đại đầy thuận lợi, nhưng cũng
đầy thử thách khó khăn này.
Có một bài thơ Bùi Kim Anh lấy tên là "Trên đường Giảng Võ” mà
nhiều người khi đọc bài này đều xúc động, ngậm ngùi. Tính nhân văn cao của
bài thơ được thể hiện qua nỗi niềm xót xa, đau đớn của tác giả trước những
kiếp người vất vả tìm kiếm công ăn việc làm nơi thành phố thời mở cửa:
- Vật vạ tê cả bước đi
Cái lầm lụi cát còn gì để đau
- Chợ người chẳng bán người đâu
Dãi dầu bán cái dãi dầu mà thôi
(Trên đường Giảng Võ)
Bài thơ khép lại mà nỗi ám ảnh về thân phận con người trong mặt trái của cơ
chế thị trường thời hiện đại thì không thể dừng lại trong lòng người đọc!
37
Bùi Kim Anh là một nhà thơ trữ tình mang đậm thiên nữ tính và có một
trái tim rất nhạy cảm với mọi nỗi đau của cuộc đời. Trong thơ chị luôn toát
lên một tấm lòng người mẹ thật bao dung và tràn ngập tình yêu thương. Chính
vì vậy, tác giả đã rất đồng cảm với hoàn cảnh bà mẹ bạc tóc chờ con qua biết
bao ngày tháng! Bài thơ “Bia vẫn trắng” được mở đầu bằng câu thơ “Ai biết
mộ anh ở đâu?”. Câu thơ này nêu ra một vấn đề thời sự mang tính nhân văn
sâu sắc. Đó là việc qui tập mộ các liệt sĩ đã hy sinh cho sự nghiệp kháng chiến
giành và giữ độc lập tự do cho dân tộc trong suốt gần 40 năm qua của Đảng
và Nhà nước. Nhưng vẫn còn bao nhiêu nấm mộ còn chưa được biết tới, chưa
được "về" với cha mẹ, vợ con! Câu hỏi và lòng mong mỏi của người mẹ
khiến cho tất cả chúng ta phải rưng rưng, cảm động:
Ai biết mộ anh ở đâu
Đường mòn heo hút từ lâu vắng người
Núi không nói được thành lời
Rừng không giữ được dấu nơi anh nằm
Chắc chỉ có núi và rừng là có thể biết được nơi các anh nằm xuống, trở về
với đất đai, cây cỏ. Nhưng “dấu nơi anh nằm” rừng không giữ được, núi không
nói được bởi cỏ không ngừng sinh sôi, gió mưa, lũ lụt không ngừng biến động.
Song Đất mẹ - Mẹ Tổ quốc đã đón các anh hùng liệt sĩ vào lòng để vỗ về, ôm ấp
lại là mãi mãi.
Hình ảnh người mẹ của các anh - người đã tiễn anh lên đường đánh giặc
vẫn đêm đêm thắp nhang khấn trời khấn phật phù hộ cho đứa con yêu của mẹ
trở về:
Tuần nhang mẹ thắp đêm rằm
Nỗi đau lằn vết tháng năm đợi chờ
Nỗi đau của lòng mẹ vô bờ bến, nó hằn sâu thêm lên “vết thời gian” - vết
nhăn trên gương mặt già nua của mẹ. Chỉ có “vết thời gian” trên đuôi mắt mẹ,
38
trên gò má mẹ là đo được khoảng thời gian mà mẹ mong ngóng đợi chờ. Ở
nơi đâu đó, trong lòng đất của người Mẹ Tổ quốc có nắm xương của con mẹ.
Nhưng trong lòng mẹ nấm mồ của con mẹ lúc nào cũng “còn xanh”
Trong lòng đất nắm xương khô
Trong lòng mẹ, một nấm mồ còn xanh
“Còn xanh” nói lên một điều là con mẹ mãi mãi vẫn giữ một tuổi xanh -
tuổi xanh khi anh ngã xuống. Trên đất nước này có bao nhiêu nghĩa trang liệt
sĩ, trong nghĩa trang lại có nhiều mộ liệt sĩ chưa có tên. Chính vì thế, ở một
nghĩa trang liệt sĩ nào đó, ở đâu đó, nấm mộ của con mẹ vẫn còn!
Biết bao bà mẹ Việt Nam “Nước mắt một đời giờ đã cạn khô” và giờ đây:
Mẹ đặt lên bàn thờ tấm huân chương
Lẩy bẩy thắp nén nhang
Cho người con liệt sĩ
(Nước mắt tuổi già)
Nhà thơ thấu hiểu nỗi niềm của bà mẹ: "Tiễn con đi/ Mẹ chịu ngày mưa
nắng/ Bợt mái đầu/ Còng cõi níu đôi vai/ Mẹ còn gì cần đâu/ Tuổi già và căn
nhà vắng bóng con trai" (Nước mắt tuổi già).
Bên cạnh đó nhà thơ còn xúc động, sẻ chia với bao số phận không may
mắn trong xã hội.
Cảm thông với cảnh đời bất hạnh, chạnh lòng với “câu hát dài” của
những em bé “kiếm sống” nhờ vào lòng trắc ẩn của người đời, tác giả đã viết
những dòng thơ tràn đầy cảm xúc:
- Non nớt thay tiếng hát của em...
Câu hát dài một kiếp lang thang...
Dây loa lê lết bụi hè đường...
Em có tuổi thơ đâu trong tiếng hát của mình
(Câu hát dài)
39
Hay những hình ảnh, những cảnh ngộ đầy thương tâm trong cuộc sống
hôm nay như:
- Căn nhà tách ra
Mẹ một mình với tuổi già...
Đã ngăn cách tiếng rày la bực bội…
Trong nửa nhà mẹ cho
Con thành kẻ láng giếng...
(Mẹ chỉ còn một nửa)
Chị cảm nhận người mẹ ở đây chỉ còn “thoi thóp một mình còn nửa trái
tim” thôi, bởi ai cũng biết rằng: trẻ cậy cha, già cậy con. Có lẽ đây cũng là
một cách nhà thơ muốn nói đến vấn đề suy thoái về đạo đức ở đời.
Còn trong bài “Mong qua đêm” chị lại nói về nỗi đau, về di họa của
chiến tranh với chất độc da cam hủy hoại bao thế hệ con, cháu của những
người lính đã từng đổ xương máu để bảo vệ và giữ gìn đất nước:
- Những đứa trẻ vàng oặt tật nguyền
- Chiến tranh đã lâu…
Chị lại xót xa, thương cho làng chài nghèo phải đối mặt với bao khắc
nghiệt của thiên nhiên:
- Bão đã cuốn những con thuyền
Cho làng chài thiếu những người đàn ông ra biển
Và chị căm giận khi chứng kiến những kẻ "táng tận lương tâm" tham
nhũng hàng tỷ đồng cứu trợ dân nghèo:
- Lũ lụt cuốn trôi hàng tỉ đồng
Người ta chiếm dụng hàng tỉ đồng
Phải có cái nhìn sâu sắc và nhân văn lắm mới có những dòng thơ như
thế.
40
Còn bao mảnh đời lầm lũi ly hương, liêu xiêu áo cơm thấp thoáng trong
thơ Bùi Kim Anh:
Bát cơm chan với quả cà
Một gian trọ hẹp ép ba bảy người
Bỏ làng lên phố đi thôi
Bán mua chi cũng được mươi đồng tiền
(Bỏ làng lên phố ai ơi)
Và nhiều khi chị cũng cảm thấy bất lực bởi trong tay chị chỉ có lòng cảm
thông và câu thơ chia sẻ:
Chỉ viết theo mình bao cảnh sắc thờ ơ
Khép câu thơ vào khoảng riêng buồn bã
Viết ngàn lời cũng là vô nghĩa
Bệnh tật và áo cơm lăn lộn ở ngoài kia
(Muộn ngày cho thơ)
Chính vì thế, nhiều khi chị đã tìm đến cửa chùa để mong tìm được một
lời giải cho bài toán xã hội còn đầy cảnh buồn thương đó:
- Khi đi vào ông Ác bên trái ông Thiện bên phải
Khi trở ra phải trái đổi thay hay hai ông đổi chỗ
Chắc tại tôi đi đâu cũng thơ thẩn
Bạc tóc rồi phải trái đành ngu ngỡ
(Trước cửa đền)
- Lên chùa để thắp nén nhang
Dòng trong bến đục lỡ làng bước chân
Cần gì sau những lưng trần
Khói hương mờ mịt nửa phần tái tê
(Lên chùa)
41
- Giá có Bụt hiện lên che chở cho chúng sinh
Có quỉ sứ dưới chín tầng địa ngục
Con người rùng mình trước khi gây tội ác
Nén hương này xin thắp mỗi tuần trăng
(Bên kia là đền)
- Nén nhang thắp rũ ưu phiền
Thì xin hương khói ngưỡng thiền tận tâm.
(Thắp đêm rằm)
Và hình như sự tĩnh tâm nơi cửa Phật là một cách để nhà thơ có được
“Khoảng tâm linh” của riêng mình!
Bùi Kim Anh làm thơ và yêu thích văn chương từ nhỏ. Khi là cô giáo,
chị vừa giảng dạy vừa làm thơ. Trong tập “Viết cho mình” có bài "Bục giảng
và những mùa phượng".
Khi tôi đứng ở giữa lớp học...
Tôi đã nói điều mình nghĩ
Và cả điều chưa nghĩ tới...
Tôi như con đò chở đầy lòng mình…
Em bước vào đò qua dòng sông nước lớn…
Lên bến kia thành một con người.
Nghề dạy học coi thước đo thành quả của mình là học trò „thành một con
người”. Chị có bài “Rút từ ký ức” viết về một học trò giỏi văn của chị thật
chân thực:
Những gì đã khiến tôi hiểu em
Và yêu hơn nghề làm cô giáo
Tập bài làm văn em gửi lại
Thành nếp gấp kỷ niệm đời tôi
Cô giáo trong bài thơ nhận được tin của học trò khi trên đường ra trận:
42
Phong bì không in dấu hòm thư quen thuộc
Em đang trên đường ra phía trước...
Thư em đến trước giờ tôi lên lớp…
Sao bỗng hôm nay trong lòng xao động
Tôi nói về môn văn và nói về em
(Rút từ ký ức)
Có thể nói những điều được nói đến qua những dòng thơ này là hiện thực
khá phổ biến trong thời kỳ cả dân tộc vào cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Còn với chính mình, nhà thơ viết:
Ta làm thơ để tặng mình
Có ai mang bán chữ tình đi chơi...
Câu thơ gỡ rối linh binh
Bán không cho gió rập rình thổi đi
(Bán không cho gió)
Với người mình yêu, tác giả bộc lộ hết sức cụ thể, chân thật:
Em yêu anh bằng trái tim người đàn bà tan nát
Em yêu anh bằng trái tim trẻ thơ...
Và khi anh rời xa
Và khi anh không còn yêu em nữa
Trái tim em vỡ oà
(Cảm xúc đi qua)
Người phụ nữ khi yêu mà không được yêu bởi "Anh không nói vì sao
anh xa em/ Anh không nói mặc cho tình dang dở" (Xa). Trong thơ Bùi Kim
Anh đã giãi bày lòng mình:
Em ủ dột xa anh yêu dấu
Nỗi đau tình yêu cào cấu...
Em vu vơ trong đói khát dày vò
(Xa)
43
Yêu thương và chờ đợi, tin tưởng và nghi ngờ khiến cho người con gái
trong thơ băn khoăn tự hỏi rồi vẫn không tìm thấy câu trả lời cho chính mình
bởi không biết là "nắng mong manh" hay tình mong nữa.
Em chẳng biết mình sai hay đúng
Em chẳng biết mình giả hay thật
Em chẳng biết có nên đợi anh
Khi chiều về phố lạnh
Nắng mong manh
(Đợi)
Đôi khi, nhà thơ có cái nhìn hết sức tỉnh táo và cách biểu hiện đầy quyết đoán:
Nếu không thể thật lòng
Xin người đứng nói dối
Chỉ một lời soi lại lòng nhau
Chỉ một ly cạn hỏi tiễn biệt
Để rồi: Kỷ niệm gói vào thơ trao lại
....
Giẻ thời gian lau sạch lệ nhoà
(Chỉ một lời)
Hình ảnh thời gian lau khô dòng lệ thì đã nhiều người nói, nhưng hình
ảnh “giẻ thời gian” thì có lẽ đấy chỉ là cách nói của Bùi Kim Anh! Nhà thơ đã
dùng hình ảnh lạ “giẻ thời gian lau sạch lệ nhoà” để diễn đạt ý tưởng của
mình thì quả là một sự sáng tạo mới.
Tác giả của bài thơ “Tự mình” là một người phụ nữ kín đáo trong cuộc
đời nhưng lại bày tỏ với thơ một cách hết sức cụ thể
Tôi giấu người yêu vào cõi tâm linh
Dại dột bày lên câu chữ
Thiên hạ bởi ngổn ngang mảnh vỡ
44
Tôi dẫm lên nhức những câu hàng...
Tôi mắc nợ mình...
Kín đáo trong tình cảm, tình yêu nhưng không thể không nói ra bằng nỗi nhớ
Em cứ cố xoá đi nỗi nhớ
Mà trong mơ anh lại tới gần...
Em gọi anh trong cơn mơ đêm trong ý nghĩ ngày...
Tình yêu nào có lỗi gì đâu
Nỗi nhớ nào đong trắng giọt sương đầu
(Giọt sương đầu)
“Cứ cố xoá đi nỗi nhớ” nghĩa là không thể nào quên được nên đêm ngày
lúc nào em cũng nhớ đến anh. Đấy chính là trạng thái luôn có ở tình yêu.
Người phụ nữ trong thơ chị nói về nỗi nhớ trong lòng mình một cách
khẳng định: "Anh thông minh anh cũng chẳng biết đâu…/Anh từng trải anh
cũng không biết được/Cái ngày ấy không anh/Nỗi nhớ thì hiền lành…/Chỉ nỗi
nhớ quẩn quanh/Thít chặt lại cả niềm mong ước" (Ngày không anh). Đôi khi,
tác giả bộc lộ "niềm mong ước" không chỉ cho riêng mình. Chị viết: "Cầu cho
ngọn gió se/ Cho hơi thu xuống lạnh che mái đầu/ Cho người lại nhớ thương
nhau/Trong heo may vợi nỗi sầu đơn côi" (Lạc phương).
Tình mẹ con chan chứa yêu thương của người đàn bà trong thơ Bùi Kim
Anh viết trong “Thư gửi con” thật cụ thể, sinh động:
- Giá có thể gửi con
Hoa loa kèn đang nở
Trắng ngần trên lối phố
Hà Nội đang đầy nhớ thương
- Con kiến xíu xiu lượm từng hạt chữ
Chất đầy ước mơ của mẹ cha
- Là tiếng reo vui mỗi ngày quẩn quanh chân mẹ
45
Là khát khao thuở mẹ còn con gái
Và là những gì hôm nay ngày mai
(Thư gửi con)
Đến khi con gái mẹ đi lấy chồng, mặc dù mẹ biết “Con lấy chồng vẫn về
với mẹ thôi” mà vẫn thấy:
Con lấy chồng gần cũng xã mẹ từ đây
Vui buồn cũng từ đây thay đổi
Mẹ không thể cho con những gì chưa biết tới
Hãy yêu quí cuộc đời như mẹ đã yêu con
(Con đi lấy chồng)
Khi chị viết “Dành cho con gái” là lúc chị đang phải “gồng” lên “xoay
vần thơ viết dở” để mà sống, để mà làm chỗ dựa cho con.
Con vượt qua bể cạn, một mình
Cha một mình ngụp trong oan khổ
Mẹ xoay lại vần thơ viết dở
Đêm rất xa và ngày rất xa
(Dành cho con gái)
Tình cảm chị dành cho người mẹ của mình thật sâu sắc và cảm động:
Dẫu ở tuổi nào cũng vậy thôi
Mất mẹ cô đơn đè lên tất cả...
Mẹ ơi lạnh mất rồi
Hơi ấm của con không truyền sang nổi mẹ...
Giờ chỉ còn hương khói đợi con
(Mẹ ơi)
Và chị vẫn cứ tin “Có mẹ theo đỡ bước đoạ đầy” cho cuộc đời mình:
- Lạy mẹ, con đi giải nỗi oan dày
Dẫu vô vọng vẫn cầm lòng cứng cỏi
46
Công lý dẫu xa đường con đi tới
Có mẹ theo đỡ bước đoạ đầy
(Ngày giỗ mẹ)
Mẹ là chỗ dựa của con cả khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa.
Nhưng trong thơ chị đôi khi, dù rất ít, người đọc cũng bắt gặp những
hình ảnh êm ái, đẹp đẽ, nên thơ:
Một đôi trẻ ôm nhau phóng xe qua khung cửa
Chiếc váy của cô gái bay thoáng cả đoạn đường
hay:
Bên hồ lũ trẻ thả diều
Phố thả theo cả nắng chiều lên cao
Sở trường của nhà thơ Bùi Kim Anh là viết về cõi sâu thẳm của tâm hồn.
Chị ít viết về những miền quê nơi chị đã đến và đã đi qua. Hình như chị cũng
cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó trong trang thơ của mình và chị đã viết về
điều đó:
Người ta đi đông đi tây
Còn tôi quanh lại ở ngay xó nhà
Những chỉ lo việc đàn bà
Tứ thơ eo hẹp trong ba chuyện đời…
Tôi đi như trong cơn mơ
Thèm khoảng đất lạ để thơ lạc vào…
(Tôi chỉ là kẻ ước ao)
Tác giả muốn tìm "khoảng đất lạ để thơ lạc vào" cũng chính là muốn
phong phú cái hiện thực được phản ánh trong thơ của mình.
Cũng nói về nỗi cô đơn nhưng ta bắt gặp trong thơ bà Huyện Thanh
Quan một nỗi niềm tâm sự không được chia sẻ (hay không có điều kiện để
47
chia sẻ). Bởi nỗi niềm tâm sự ấy giữa bà và người đời lúc bấy giờ dường như
có một khoảng cách.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
Hoặc cùng thời với Bùi Kim Anh, nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến với những
nỗi đau những thương tổn không dễ gì chữa lành tới mức chai sạn, không biết đớn
đau bởi những trận đòn tình yêu - mà chỉ còn mỗi một nỗi buốt nhói tận đáy sâu
tâm hồn, đơn côi, chua xót:
Lạ kỳ lại chẳng thấy đau
Chỉ nghe buốt một vùng sâu tâm hồn
(No đòn - Đoàn Thị Lam Luyến)
Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến đã giãi bày "cái Tôi cô đơn" của mình
trong nhiều câu thơ, nhiều bài thơ làm tê tái, tan nát lòng người với những
tiếng kêu, tiếng đòi trả lại từ phía người yêu bị phụ bạc:
- Anh đã đem đi cả cõi hồn
Em còn lại xác - xác chưa chôn
Xác không khâm liệm không thành xác
Dập dờ trôi dạt bến cô đơn
(Gọi hồn - Đoàn Thị Lam Luyến)
- Trả cho em linh hồn
Mà anh đang nắm giữ.
Trả em con tim lửa
Đã vì anh khát khao!
Trả cho em tình yêu
48
Để sau đừng đau khổ.
Trả cho em niềm tin
Để thôi đừng đổ vỡ!
(Trả cho em - Đoàn Thị Lam Luyến)
Ở những nhà thơ nữ Việt Nam - từ xưa cho tới nay hình như trong mỗi
tâm hồn thi sĩ ấy luôn hiện hữu một nỗi buồn, một nỗi cô đơn - bởi họ luôn
khát khao một tình yêu đích thực, một tình yêu có thể vì nó mà sống chết! Đó
phải chăng cũng là một dạng bi kịch tâm hồn của những người phụ nữ có tài,
có sắc, đa cảm, dễ xúc động với mọi nỗi đau của thiên hạ và của chính mình !
2.2.2. Cái Tôi - mạnh mẽ, bản lĩnh đối mặt với nỗi buồn, nỗi bất hạnh trong
cuộc đời
Là một người phụ nữ thời kỳ hiện đại - thời kỳ đất nước đang vận động
trên con đường phát triển với cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa
- thời kỳ đầy thuận lợi trong sự vận động, phát triển đi lên nhưng cũng phải đối
mặt với bao điều nguy hiểm, đầy tính phức tạp của mặt trái cơ chế thị trường,
nhà thơ Bùi Kim Anh cho dù là một trí thức, một người vợ chung thuỷ, dịu
dàng, có tâm hồn thánh thiện nhưng vẫn không tránh khỏi những tác động
mạnh mẽ của mặt trái cơ chế thị trường trong thời kỳ này. Là người vợ của một
quan chức, chị được hưởng bao điều tốt lành, bao điều hạnh phúc, nhưng cũng
phải nhận bao nỗi đau đớn, đắng cay, xót xa và cả nối bất hạnh bất ngờ nữa!
Trong xã hội có bao "tai nạn nghề nghiệp" thì có bấy nhiêu bất hạnh dội
vào số phận, con người chị! Từ chỗ ngỡ ngàng, bất ngờ đến chỗ bình tĩnh đón
nhận và bản lĩnh đối mặt với tất cả những nỗi buồn, những điều không may,
những kiếp nạn… tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi - Bùi Kim Anh
đã thể hiện rất rõ tính cách mạnh mẽ, kiên cường, cái bản lĩnh của người phụ
nữ Việt Nam trong cuộc sống thời kỳ hiện đại. Chị đã bình tĩnh đón nhận mọi
nỗi buồn đau, chị đã tự đấu tranh và sống một cách bản lĩnh để làm chỗ dựa
49
tinh thần cho người chồng, cho các con trong những ngày "đen tối" nhất của
cuộc đời. Cái Tôi trữ tình ở đây nổi lên với một diện mạo mới, một tính cách
mới nhưng vẫn thống nhất với Cái Tôi trữ tình ở giai đoạn trước - nó là 2 mặt
của Cái Tôi cá nhân thời kỳ hiện đại.
Bùi Kim Anh từ chỗ bất ngờ với những nỗi buồn đau ập đến, rồi đau
đớn, xót xa, cay đắng trước những điều bất hạnh xảy ra, đến chỗ bình tĩnh,
chủ động đón nhận và đối mặt và đối thoại với nỗi buồn đau như một người
từng trải, chai sạm, bản lĩnh trong cuộc đời. Đấy là một sự trưởng thành, một
sự chín chắn và già dặn và phong sương hơn trong cuộc sống đối với một
người phụ nữ trí thức đa cảm, trong sáng, ít có sự vất vả, lăn lộn trong cuộc
sống vốn rất phong phú, phức tạp ngoài đời.
Thơ Bùi Kim Anh đã phản ánh rất rõ quá trình đó trong tư tưởng tình
cảm của nhà thơ. Nhân vật trữ tình - cái Tôi trữ tình trong thơ của chị đã thể
hiện một cách cụ thể, sinh động tới nao lòng, tới nhức nhối trái tim người đọc
khi tiếp cận thơ của chị.
Trong thơ Bùi Kim Anh, người ta nhận thấy khá rõ nét hình ảnh một phụ
nữ trí thức Á Đông, với vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng và kín đáo. Người phụ
nữ đó luôn có ý thức sâu sắc về bản thân mình (cái tôi cá nhân), về những nỗi
niềm vui sướng, khổ đau, những khát khao, mong muốn, hy vọng cùng nỗi
xót xa, tuyệt vọng... trong cuộc đời mình. Tất cả những tình cảm đó được thể
hiện trong thơ một cách kín đáo, ý nhị nhưng không kém phần mãnh liệt. Có
lúc người đọc bắt gặp một Bùi Kim Anh trẻ trung, mạnh mẽ và quả quyết:
Buồn thì ra ngắm phố đông
Tội gì đóng cửa mà đong cơn sầu
Buồn thì ta lại yêu nhau
Tội gì ủ rũ cho mau cái già...
Yêu đi cho trọn kiếp người
Kẻo mai thác lại tiếc đời buồn tênh
(Lục bát cuối chiều)
50
Ở đây ta bắt gặp một sự "lên gân" để khỏa lấp nỗi buồn. Có người cho
rằng Bùi Kim Anh "đến với thơ như sự mặc định của số phận để làm vơi đi
nỗi buồn". Cuộc đời riêng của nhà thơ nữ này không ít éo le, trắc trở: Từ
chuyện của người cha "nhói nỗi đau năm tháng" đến chuyện riêng của chị
"đứt thôi lại nối những ba bẩy lần". Chị đã từng thổ lộ:
Câu thơ em viết cho anh
Còn ba chữ nữa mới thành lời yêu...
Câu thơ em viết cho em
Cởi ra xa xót vò thêm nát nhàu...
(Cho anh và em)
Có lẽ chính cái nỗi niềm riêng còn thiếu "ba chữ nữa - mới thành tình
yêu kia - rồi khi có tình yêu rồi thì lại đứt nối, chắp vá đã thành một nỗi đau
đớn, khổ tâm, dày vò suốt đời đối với một phụ nữ vốn nhạy cảm, nhiều mơ
mộng nhưng cả nghĩ như Bùi Kim Anh. Tác giả thừa nhận: "Tôi mãi là người
đàn bà tội nghiệp" (Nếu). Tội nghiệp là bởi vì yêu mà lắm khi chẳng được
yêu, đi tìm tri âm tri kỷ thì toàn gặp nhạt nhẽo, hờ hững còn người trong
mộng thì "anh vẫn là anh xa cách giữa đời" (Đến bao giờ). Nhà thơ đã từng
nói lên nỗi đắng cay đó một cách hết sức cụ thể như:
Trụi trần ẩn bóng đêm dày
Tỉnh say một tấm thân gầy chỏng chơ
(Dan díu)
Thơ Bùi Kim Anh bàng bạc những cô đơn, buồn tủi: "Em chẳng bao giờ
thích cô đơn/Thơ chẳng thích buồn..." (Chiếc vỏ). Nỗi buồn trở thành đứa con
tinh thần của nhà thơ: "Em không thể vứt đi nỗi buồn của mình…/Em không
thể xé nỗi buồn ném vào đêm tối/Nó đã lớn lên trong em như một bào thai"
(Không thể). Đã có lần nhà thơ khẳng định: "Thơ là cuộc đời tôi. Mà cuộc đời
tôi thì có quá nhiều nỗi buồn". Nỗi buồn trong thơ chị được bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân:
51
- Tôi cho tôi là người đau khổ nhất trên đời
Và tôi biết là tôi luôn ngộ nhận
Có bất hạnh nào sánh với bất hạnh nào được đâu.
(Lời bóng đêm)
Tính cách của chị hiền hậu, rụt rè, không bao giờ vượt ra khỏi cái
ngưỡng của lễ giáo, dẫu biết bên kia cái ngưỡng cửa ấy có thể là thiên đường
và cũng có thể là địa ngục! Rồi chị tự khẳng định một cách chua chát: "Em
không thể xé nỗi buồn vứt vào đêm tối" (Không thể) để lại tiếp tục đau, tiếp
tục buồn.
Có những lúc đớn đau thấm sâu đến tận cùng kết thành những giọt,
những dòng lệ:
Giọt mắt chảy từ nỗi đau…
Giọt mắt chảy từ thù hận…
Là giọt lệ thời gian tẩm ướp đêm dài
Có có không không vô cùng vô nghĩa
(Giọt đau)
Nhưng rồi chị lại tự an ủi, tự vực mình dậy mà sống, mà tin vào sự bình
yên tốt đẹp của cuộc sống:
Tim ta ơi đừng nên u uất quá
Hãy khóc đi cho vợi đau buồn…
Trái tim ơi dịu nhẹ sớm mai…
Ta bắt mạch mình thấy bình yên trở lại
(Cơn mưa)
Đó là hình ảnh một người đàn bà giãi bày lòng mình với mọi cung bậc của
tình cảm một cách giản dị, ý nhị nhưng không kém phần mãnh liệt. Hình ảnh ấy
chính là hình ảnh của “cái Tôi trữ tình” thường thấy trong thơ Bùi Kim Anh.
Có người nhận xét "Thơ của chị (Bùi Kim Anh) buồn đến xót lòng". Và
nhà thơ cũng đã xác nhận: Xót lòng, bởi có lẽ đó là những nỗi buồn có thực,
đeo bám cuộc sống. Tập thơ "Bán không cho gió" là một phần nhật ký về
52
những ngày hiện tại của tôi. Đó là những ngày cũng là đêm và đêm cũng như
ngày: "Ngày của ta Đêm của hồn/Ngày của hồn Đêm của ta/Hồn ôm cổ ta lảo
đảo/Đứa nào uống/Đứa nào say..." (Ngày đêm).
Nỗi buồn trong thơ Bùi Kim Anh phản ánh những gập ghềnh của con
đường làm người, những "trò đùa của số phận" của chính tác giả. Dường như
con đường bằng phẳng không dành cho nhà thơ. Ở cuộc đời chị, ở thơ chị
luôn luôn có sự cư ngụ của bao gập ghềnh, khổ đau, kiếp nạn tới mức nói
cũng chẳng cạn lời:
Giá như nói được cạn lời
Câu thơ còn lại một hơi thở dài...
(Thắp đêm rằm)
Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh nhiều khi được
nói ra một cách rất cụ thể: "Đi với nỗi buồn của em/Là anh/Là thu/Là ô cửa
chiều nhìn ra góc phố" (Vào thu).
Cô đơn cũng là một thứ tài sản của nhà thơ giúp cho nhà thơ để đi hết
những chặng đường độc hành của mình. Trong thơ Bùi Kim Anh nhân vật trữ
tình có lúc như bị "thừa ra" trên thế gian này nhưng trong thực tế người phụ
nữ ấy lại đang là chỗ dựa vững chắc cho con, cháu, cho người thân. Thơ Bùi
Kim Anh là nỗi niềm của một người bị nhiều điều phụ bạc mà không oán hận,
chỉ tự trách mình, tự trách đời. Đó chính là một tâm hồn trong trẻo, bao dung
và cao đẹp. Đôi khi cũng có thể chỉ là những phút "giận hờn và nghi ngại" của
một tâm hồn yếu đuối, thiếu tự tin, nhưng vốn là một người đàn bà cam chịu,
vị tha, chị vẫn bao dung viết: "Bao người đàn bà qua cuộc đời anh/Em nào có
biết…/Em yêu anh bằng tình yêu mùa thu" (Tình yêu mùa thu) và luôn nhận
hết những lầm nỗi, khuyết điểm của mình:
- Em là người vợ chẳng ra gì
Cứ giận dỗi và suốt đời nghi ngại…
- Cái người vợ guộc gầy hay rắc rối
Đòi hỏi suốt đời tình yêu
(Làm lại)
53
Cũng có những lúc, người phụ nữ ấy đã có thái độ cam chịu xót xa, chấp
nhận sự "nhạt phèo" trong tình yêu, chấp nhận nỗi côi đơn không có người
san sẻ (may chăng chỉ có thơ):
- Nửa câu thơ để bên thềm
Nửa đời yêu để tình duyên nhạt nhèo
- Sự cô đơn chỉ em biết
Với thơ san sẻ mà thôi
- Sự cô đơn chẳng bao giờ anh biết
Em là người đàn bà tự mình tất cả…
Sự cô đơn chỉ em biết
Gậm nhấm mỗi ngày nham nhở
Yên tĩnh và trống vắng xoa dịu co thắt trái tim
(Mỗi ngày)
“Gậm nhấm” nỗi cô đơn trong “yên tĩnh và trống vắng” đã làm cho con
người cảm thấy “nghẹt thở” của tâm trạng muốn được giải toả trong ly cà phê,
trong ly rượu mầu để nhớ, để quên một cách thầm lặng giữa cõi người:
Khi người đàn bà ngồi với tách cà phê trước mặt
Quán đông người chỉ là khoảng trống không
Khi người đàn bà ngồi với ly rượu màu
Quên và nhớ ngâm trong từng ngụm nhỏ
(Một người)
Người đàn bà với tách cà phê, người đàn bà với ly rượu màu là cái hữu
hình nhưng cùng tồn tại với cái hữu hình ấy “quên và nhớ ngâm trong từng
ngụm (rượu) nhỏ” – cái vô hình. Và chắc hẳn “cái vô hình” kia mới là điều
mà nhà thơ muốn bộc lộ.
Nhưng trong sâu thẳm, người phụ nữ đó vẫn khát khao cháy bỏng được
gục vào vai người đàn ông của mình, muốn được xoa dịu, muốn được chở
che, chia sẻ:
54
- Lúc ấy giá như có anh Gục vào khóc ào như trẻ nhỏ Và chỉ cần anh đặt bàn tay lên vết thương đau Tôi lại trở về với bình thường…
(Trở gió)
Nhưng, người phụ nữ ấy cũng rất cứng cỏi, ngang tàng, bướng bỉnh và kiêu hãnh, nên cái điều chị cần nhất, khát khao nhất - chính là tình yêu chân thực, không phải là sự thương hại:
Em cần anh như cô gái muộn mằn cần một người thương Em cần anh như goá phụ cần nơi nương tựa Nhưng em có thể bóp chết đi khao khát của mình Không cần xin tình yêu ngoái lại
(Cần)
Sự cứng cỏi vượt lên nỗi buồn, vượt lên số phận, vượt lên những lời đồn thổi để làm tròn thiên chức một người vợ, một người mẹ, một trụ cột gia đình. Vai trò ấy của chị thể hiện bằng cách nói với con một cách hết sức giản đơn:
“Ta còn mãi mái nhà”
(Sáng tháng 9)
Và lạ thay, thơ Bùi Kim Anh càng cứng cỏi, người đọc càng xúc động
bởi sự dũng cảm của một người yếu đuối:
- Những câu thơ không vớt được ý thơ Những câu thơ không giải thoát được người làm thơ Những điều tồn tại không có mặt trong thơ Những điều tồn tại lại kết thành câu chữ
(Tự hoạ)
- Giẫm lên sự thật như giẫm lên con gián Giẫm lên sự thật như giẫm lên đám cỏ Có một sự thật ngoài sự thật Định vị Anh buông tay em dò dẫm một mình
(Định vị)
55
- Đời còn gì để nối anh với em
Giữa hai đứa đâu là mơ là thực
Một con đò sang ngang chở đầy trách nhiệm
Các con là cầu nối chặt đôi ta
(Khoảng trống)
Và chị vẫn ước mơ, chị vẫn chờ đợi một điều kỳ diệu, tốt lành sẽ đến:
Bao giờ thời lòng bình yên
Thời câu thơ hết ngả nghiêng nỗi đời
(Nỗi đời)
Và người phụ nữ nhỏ bé, lầm lũi đó đã trở thành chỗ dựa cho chồng con
vượt qua những biến cố kinh hoàng của cuộc đời. Lúc đó, thơ đã đến với chị,
là chỗ vịn cho chị, cứu rỗi và dắt chị ra khỏi cuộc đời lẩn thẩn, bức bối, đầy
nghiệt ngã:
- Tôi viết cho mình qua cơn bức bối
Lẩn thẩn cho mình khỏi lẩn thẩn giấc mơ
- Anh trở về với em…
Dẫu chẳng vẹn nguyên
Anh vẫn là tất cả...
Tai nạn bất ngờ
Tạo hoá lại tái sinh…
Như con cáo chết giả để thử lòng người cõi sống
(Một lần khác mọi lần)
Chính vì thế chăng mà cuộc đời lại mỉm cười với chị: qua bĩ cực lại thái
lai! Hạnh phúc lại mỉm cười qua làn nước mắt, qua bao thử thách, khổ đau.
Chị như reo lên, sung sướng và hạnh phúc nghẹn ngào.
- Lại về Hà Nội nhé anh..
Lại về với những vần thơ...
56
Lại về với thuở yêu đầu...
Ta về Hà Nội với ta
Tìm trong phố cũ mái nhà mộng mơ
Nhìn lại các chặng đường đời - chặng đường thơ của Bùi Kim Anh,
người đọc cảm nhận rất rõ hình ảnh nhân vật trữ tình người phụ nữ trong thơ
chị. Người phụ nữ đó đã từ bất ngờ, sợ hãi, trốn tránh... đến chỗ chấp nhận
và đối mặt với bất hạnh, đối thoại với khổ đau và cuối cùng là vượt qua nó để
sống, để yêu thương và để lấp lánh niềm tin vào cuộc sống. Chính điều ấy đã
thể hiện một cái Tôi mạnh mẽ, bản lĩnh, luôn ở tư thế chòng chành trên chiếc
thuyền nan vượt qua dòng thác lũ của cuộc đời. Đó cũng chính là bức chân
dung thứ hai của người phụ nữ trí thức hiện đại - Bùi Kim Anh.
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc nhận thấy rõ "cái Tôi trữ tình" vừa kín
đáo, dịu dàng, sâu sắc, đầy nỗi niềm và lòng trắc ẩn - vừa mạnh mẽ, bản lĩnh
đối mặt với nỗi buồn, nỗi bất hạnh trong cuộc đời. Bên cạnh đó "cái Tôi trữ
tình" ấy đôi khi cũng quá bi luỵ, chìm ngập trong đau thương, xót xa, không
tìm thấy lối thoát khiến người đọc cũng bị nặng nề, bi luỵ theo. Cái Tôi trữ
tình ấy cũng đôi khi thiếu cái nhìn tổng thể về xã hội với những mặt tốt đẹp
của nó, quá đi sâu vào những nỗi bất hạnh cá nhân mà không suy xét tới
nguyên nhân sâu xa của nó (con người vừa là tác nhân vừa là tội nhân của xã
hội với cơ chế thị trường - khi không thể đấu tranh chống lại được những mặt
tiêu cực của nó thì ngược lại đã bị nó lôi cuốn, đưa vào vòng xoáy, vực thẳm
do nó tạo nên). Do đó, đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc luôn cảm thấy xót xa,
trĩu nặng, đôi khi mệt mỏi vì những nỗi niềm ai oán của tác giả đối với cuộc
đời. Đây cũng là một hạn chế đáng nói của tác giả này.
57
CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ BÙI KIM ANH
Để thể hiện một cái Tôi vừa đằm thắm, dịu dàng, kín đáo, đa cảm, đầy
yếu đuối vừa nặng trĩu suy tư, giầu lòng trắc ẩn, vừa mạnh mẽ, bản lĩnh đối
diện với bao nỗi đớn đau, bất hạnh trong cuộc đời để trở thành chỗ dựa vững
chắc cho gia đình, cho con cháu - nhà thơ Bùi Kim Anh đã sử dụng rất nhiều
các thủ pháp nghệ thuật khác nhau và đã có những thành công nhất định, đã
để lại những dấu ấn khiến người đọc khó quên. Trước hết về thể thơ, tác giả
Bùi Kim Anh đã vận dụng một cách thuần thục, có hiệu quả cao ở thể thơ lục
bát. Chị có hẳn một tập thơ có tên "Lục bát cuối chiều" và nhiều bài thơ lục
bát lẻ in trong các tập thơ khác. Nhưng bên cạnh đó, chị cũng tỏ ra rất có
duyên với thể thơ tự do. Có lẽ, với những cảm xúc hết sức phong phú, phức
tạp, với những rung động lúc nhẹ nhàng, khi cuộn sóng, lúc bão giông… thể
thơ tự do đã góp phần chuyển tải kịp thời những dòng tâm sự tuôn chảy
không ngừng trong chị! Thứ hai, về ngôn ngữ, hình ảnh, hệ thống biểu tượng,
giọng điệu trong thơ chị cũng mang những nét đặc trưng riêng rất phù hợp với
việc thể hiện thế giới tâm hồn, cũng như môi trường sống của cái Tôi trữ tình
trong thơ chị.
Với điều kiện và thời gian có hạn, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
xin được điểm qua những đặc điểm về nghệ thuật thể hiện cái Tôi trữ tình
trong thơ Bùi Kim Anh với mục đích chỉ ra những nét riêng, những sáng tạo
riêng cũng như những đóng góp riêng của cây bút thơ nữ trí thức này đối với
thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại.
58
3.1. Về thể thơ
3.1.1. Thơ Bùi Kim Anh thật đắc địa với lục bát (Nguyễn Trọng Tạo)
Là tác giả của 7 tập thơ (khoảng hơn 400 bài), trong đó có nhiều bài thơ,
thậm chí có cả một tập thơ riêng viết theo thể lục bát, Bùi Kim Anh đã chứng
tỏ mình là một nhà thơ còn khá trung thành với thể thơ truyền thống này. Hơn
nữa, những bài thơ hay nhất, thu hút được sự chú ý, lòng mến yêu, sự trân
trọng của độc giả lại cũng chính là những bài thơ lục bát của chị. Thơ lục bát
của Bùi Kim Anh có nét riêng biệt, vẫn có nét nhuần nhuyễn của lục bát
truyền thống, vừa lại có tính hiện đại, mang hơi thở thời đại nên vẫn chinh
phục được người đọc đương thời.
Nhà thơ Bùi Kim Anh có lần tâm sự "Lục bát là thể thơ mà tôi rất thích
nhưng cứ làm kiểu đều đều thì đọc cũng chán. Làm lục bát dễ mà khó, không
cẩn thận nó dễ bị rơi vào thể loại hò vè, bích báo, được vần thi hỏng ý, được
ý thì hỏng vẫn". Bùi Kim Anh nói rõ: cách gieo bằng - trắc trong một số bài
lục bát của chị khác với lục bát truyền thống không phải là chủ đích của chị
mà chị "cứ làm tự nhiên thôi, thấy như thế hợp với thơ mình".
(Nguồn: Hiền Nguyễn - Báo Điện tử tổ quốc)
Ví dụ: Trong bài "Bia vẫn trắng", tác giả viết:
Ai biết mộ anh ở đâu?
Ở câu lục, chữ (tiếng) thứ 2 lẽ ra phải dùng thanh bằng thì tác giả dùng
thanh trắc, chữ thứ 4 lẽ ra phải dùng thanh trắc nhưng trong câu thơ này tác
giả sử dụng thanh bằng. Tác giả đã tạo ra một nhịp điệu khác với câu lục
thông thường. Điều đó có hiệu quả rõ rệt. Bắt đầu bài thơ độc giả đã gặp ngay
câu nấc nghẹn và đến cuối bài vẫn một câu nghẹn nấc, bùi ngùi.
Đọc bài thơ "Bia vẫn trắng" ta thấy: bài thơ có tứ chặt chẽ, hình ảnh, từ
ngữ chân thực, sinh động có sức gợi từ đề tài, cảnh ngộ đến câu, từ. Bài thơ
có sức lay động tâm hồn người đọc và để lại ấn tượng sâu sắc.
59
Mạch thơ của Bùi Kim Anh đằm thắm, nhẹ nhàng, ân tình, đôi khi bứt
phá nhưng về cơ bản vẫn đậm chất nữ tính. Bùi Kim Anh vốn tài hoa với thể
thơ lục bát truyền thống. Thơ lục bát của chị có một sức sống riêng biệt.
Trong bài "Trên đường Giảng Võ" chị kết thúc bằng cặp lục bát.
Chợ người chẳng bán người đâu
Dãi dầu bán cái dãi dầu mà thôi
Cặp lục bát không chỉ để khép lại bài thơ mà nó còn để lại nỗi ám ảnh
sâu sắc trong lòng độc giả từ cách chơi chữ: "người" đối với "dãi dầu" (Dãi
dầu bán cái dãi dầu). Trong nhiều bài thơ lục bát của mình, Bùi Kim Anh
dùng thủ pháp phá cách ở câu lục (câu 6), ví dụ như:
- Vạ vật tê cả bước đi
- Tôi sống quanh quẩn trong tôi
- Ta chỉ có bạn là mình
- Đời chỉ là cuộc vu vơ
- Bên nhẹ buộc gió gánh về
- Lục bát viết lúc cuối chiều
- Ngoài phố những hoa là hoa
- Khi nắng hạ lúc sương sa
- Ai biết mộ anh ở đâu
- Lên xứ lạng một ngày đường
- Vườn chị hẹp một hàng cau
- Ngỡ là chín tầng mây xanh
- Một tôi của niềm say mê
- Câu thơ gửi lên chị Hằng
- Người ta đi đông đi tây
- Bao giờ thời lòng bình yên
- Đá trắng vẫn còn chiêm bao
60
Câu bát ( câu 8) trong nhiều bài lục bát của mình, Bùi Kim Anh thể hiện
rõ sự táo bạo, sáng tạo trong cách dùng từ, lựa chọn hình ảnh thơ như:
Bao giờ mình lại gặp nhau
Thời gian cháy thời gian đau đáu lòng
(Thời gian cháy)
Lên xứ Lạng một ngày đường
Thoắt đi lại chẳng kịp vương vấn gì
(Xưa rồi)
Rũ lời ra kéo lá diều
Nghe lợt lạt nắng nghe liêu phiêu lòng
(Lục bát cho người)
- Với mình gợi cả ước mong
Với mình tẽ mối bòng bong giãi bày
(Cơn mơ một mình)
* *
*
Tuy cách viết như thế này chị không phải là người đầu tiên nhưng chị là
người vận dụng khá thành thục và rất hiệu quả, tạo cho người đọc một cảm
giác mới, lạ và vẫn như thấy quen quen. Các từ láy trong câu bát hiệp vần với
câu lục đứng trước không ở tiếng thứ 2 trong từ một cách thông thường mà
lại ở tiếng thứ nhất (tiếng đứng trước trong từ láy đôi).
Có thể thống kê được rất nhiều câu lục như thế trong các bài thơ lục bát
của Bùi Kim Anh. Cùng với cách viết ấy, Bùi Kim Anh hay sử dụng điệp ngữ
làm cho câu thơ được dồn nén trùng điệp về ý tứ, hối hả về nhịp điệu mà vẫn
lấp lánh, hấp dẫn người đọc.
- Một tôi của niềm say mê
Một tôi của những chiều hè lang thang
(Viết cho mình)
61
- Lối về chiều lại mưa tuôn
Tôi thương hứng lấy giọt buồn cho tôi
Lối về chỉ có một thôi
Lênh lang thế nước biết trôi ngả nào
(Lối mưa)
- Lại về Hà Nội nhé anh
Phố xưa em vẫn để dành lối đi..
Lại về với những vần thơ
Nối dang dở để bây giờ trọn câu
Lại về với thuở yêu đầu
Quên đi anh nhé dãi dầu đã qua
(Tìm trong phố cũ)
Việc lặp từ ngữ trong bài "Vu vơ" cũng đã để lại ấn tượng khá sâu sắc
trong lòng độc giả:
- Đời chỉ là cuộc vu vơ
Câu thơ thì ngắn cơn mơ thì dài
Vu vơ anh đó em đây
Cứ day dứt cứ lắt lay đợi chờ
Vu vơ ra trước cổng chùa
Vọng theo làn khói hương vừa thắp lên
Vu vơ ngó kẻ ưu phiền
Mặt nhăn nhó mặt lòng điên đảo lòng
Vu vơ thay kiếp khốn cùng
Nào hay gió lạnh quá đông lại về
Một thời biết mấy cơn mê
Một đời gió thoảng nặng nề bước đi
Vu vơ là cái chi chi
Mà sao đè nặng cả khi không buồn
(Vu vơ)
62
Có những bài thơ Bùi Kim Anh sử dụng khá nhiều từ láy phối hợp với sự
lặp từ làm cho âm hưởng của bài thơ gần gũi với ca dao dân ca. Ví dụ như:
- Gửi người ở chốn Nghi Tàm
Một câu thơ đã muộn màng với hoa
Biết là người vẫn trách ta
Bởi chưng gió cứ la đà Hồ Tây
- Giá như thâm thấp giậu rào
Cho ta được lả lơi chào với hoa
Biết là người giữa sương sa
Mảnh vườn nhỏ đủ cho ta mặn nồng
- Phải là người đấy hay không
Nghe mênh mông gió có mênh mông lời
Hẹp hòi lối để hoa rơi
Câu thơ đành thả giữa trời vậy thôi
(Lối hoa rơi)
Hàng loạt từ láy, một số từ được lặp đi lặp lại cùng với những hình ảnh
thơ thường gặp trong ca dao làm cho bài thơ trở thành một trong những bài
tiêu biểu của thơ lục bát xét về thi luật và âm hưởng, giai điệu.
Có thể nói Bùi Kim Anh đã hình thành một giọng thơ riêng không thể
trộn lẫn với các nhà thơ nữ cùng thời với chị. Độc giả dễ nhận ra cái thanh
thoát, nhẹ nhàng, ngọt ngào nhưng lại ẩn nỗi xót xa, đắng đót trong thơ chị:
Tơ trời vương ở ngọn chanh
Em như con nhện loanh quanh khép vòng
Trầu xanh têm với vôi nồng
Ăn vào say đến ửng hồng cả môi
63
Thương nhau vạch núi thề bồi
Ngửa tay che ánh mặt trời để yêu.
(Thương nhau)
"Ngọn chanh", "con nhện", "trầu xanh", "vôi nồng" nhờ hình ảnh gần gũi
với ca dao ấy làm cho bài thơ nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhưng sau cái "thề non
hẹn biển" mà phải "ngửa tay che ánh mặt trời để yêu" thì quả thật để "yêu
thật" khó khăn vô vàn.
Hoặc trong bài "Cho anh và em", chị viết:
- Câu thơ em viết cho anh
Còn ba chữ nữa mới thành lời yêu
Phai sương nhợt nắng đã nhiều
Nắn tay vẫn lọt bóng chiều vào đêm
Câu thơ em viết cho em
Cởi ra xa xót vò thêm nét nhàu
Buông tay qua nhịp cơ cầu
Tuột sâu nỗi nhớ một câu không vần
(Cho anh và em)
Nỗi niềm xót xa nhưng lời thơ ngọt ngào với những cặp lục bát gần gũi,
thân quen càng làm đậm thêm nét riêng trong ngòi bút của Bùi Kim Anh.
Cau xanh mấy nắng thì vừa
Vôi nồng mấy độ thì ưa miệng người
(Lại sợ đò vênh)
"Cau xanh", "vôi nồng" hình ảnh quen thuộc "thì vừa", "thì ưa" là một
cách nói rất dân gian nhưng thể hiện ở một cách nói rất có chiều sâu khiến
người đọc cảm thấy nghĩa hàm ẩn chiếm hết vị trí nghĩa tường minh của câu
thơ.
64
Trong thơ Bùi Kim Anh có những câu thể hiện sự quan sát tinh tế, giàu
tính phát hiện làm người đọc rưng rưng xúc động, không thể quên.
Nén nhang thấp xuống/ khói lên mịt mờ
Nén nhang thắp/ lại rụng rời tàn hương
Bia vẫn trắng/ cỏ vẫn tươi
Mẹ còng lưng suốt một đời/ nỗi đau
(Bia vẫn trắng)
Cũng có lúc (dù rất hiếm) thơ lục bát của chị bộc lộ niềm vui. Vui vì
những cái tưởng như rất nhỏ bé nhưng lại đầy ý nghĩa, nó thể hiện được tính
nhân văn, được tình yêu thương con người, cuộc sống của chị:
- Góc phố có hàng hoa tươi
Cho người mua để tặng người lúc yêu
Bên hồ lũ trẻ thả diều
Phố thả theo cả nắng chiều lên cao
(Phố có con hồ)
Hoặc trong câu kết của một bài thơ khi chị đến thăm Huế và viết về Huế:
- Che nghiêng ngọn tháp câu thơ
Cho người yêu mãi đợi chờ người yêu
Có những câu thơ khẳng định niềm tin ở tình yêu con người:
Bắc lên ngọn gió mà cân
Chữ oán thì bổng chữ ân thì chìm
(Bắc lên ngọn gió mà cân)
Bổng - chìm/oán - ân, hai từ ấy tạo ra các kết hợp "oán thì bổng" "ân thì
chìm" đã làm cho người đọc nhẹ lòng hơn, tin ở cuộc đời này hơn bởi dù sao
thì "ân" (ơn) cũng nhiều hơn (nặng hơn) "oán".
Câu thơ gỡ rối linh binh
Bán không cho gió rập rình thổi đi
(Bán không cho gió)
65
"Linh binh" không phải là "linh tinh" mà có lẽ gần với "lênh bênh" bởi
cái trạng thái "rối" - không chỗ dựa chắc chắn của câu thơ. Và vì thế tác giả
mới định bụng sẽ "bán không cho gió" những nỗi niềm tâm sự của mình!
"Bắc lên ngọn gió mà cân", "Bán không cho gió", "Viết cho mình", "Lục
bát cuối chiều" là các cụm từ, hoặc đóng vai trò là một phần của câu thơ hoặc
là một câu thơ và cũng là tên những bài thơ, những tập thơ. Điều đó hoàn toàn
không ngẫu nhiên. Cái không ngẫu nhiên ấy góp phần tạo nên một nét riêng
trong thơ Bùi Kim Anh.
Đáng chú ý là Bùi Kim Anh có một bài thơ được sáng tác với thể thơ lục
bát tân kỳ (Lạc khoảng trời). Các câu lục, câu bát thoát khỏi cái nhịp đôi (2-
2) bình thường để mau, chậm, trôi, nổi theo nhịp nhớ nhung đầy đột biến. Câu
thơ cũng bước sang ngắt dòng tự do kiểu bậc thang. Các sự kiện hiện về trong
bài thơ không nhiều, dâng đầy những cảm xúc, tâm trạng nhung nhớ, bồi hồi,
xót xa... theo tầng, theo bậc, khấp khểnh, không trơn tru, trôi chảy:
Ngày xưa lúc tôi mười lăm
Đâu biết má đỏ/
Môi hồng để yêu
Ngày xưa mơ mộng cũng nhiều
Nào đâu dám ngỏ/
Đôi điều vào thơ
Một thời con gái vẩn vơ
Cứ hình như/
Để bây giờ xót xa
Lá rơi để cây thêm già
Sương ra để tóc trắng xoà như mưa
Ngày xưa lúc tôi mười lăm
Áo đâu trắng/
Đến làm trong nắng trời
66
Làm dáng cũng đơn giản thôi
Nào đâu kiểu cách theo thời/
Mà theo
Con chuồn chuồn đậu cành leo
Hoa bìm bìm tím nhạt phèo giấc trưa
Có ai đi tìm ngày xưa
Cho tôi theo với/
Làm thơ tặng người
Ngày xưa đã ngày xưa rồi
Tôi tìm tôi/
Lạc khoảng trời/
Mênh mang
Bới lên /
Giữa đống lỡ làng
Một con đom đóm/
Mơ màng/
Ngủ quên
(Lạc khoảng trời)
Các câu thơ lục, bát ngả nghiêng ngắt dòng. Nhịp của câu thơ vì thế cũng
thay đổi theo. Nhịp 3-3, 2-4 trong câu lục 3-5, 4-4, 4-2-2 trong câu bát có thể
coi là những biến thể. Bài thơ cho người đọc thấy hình ảnh một thiếu phụ
đang buồn, đang bâng khuâng, mơ màng, thảng thốt nhớ lại một khoảng trời
thơ của mình. Hình ảnh một người con gái trong trắng tuổi 15 hiện về trong
ký ức nhà thơ với "con chuồn chuồn đậu cành leo", "hoa bìm bìm tím nhạt
phèo giấc trưa", "một con đom đóm mơ màng ngủ quên". Kỷ niệm làm cho
đời người thêm giàu có nhưng cũng có những kỷ niệm làm cho cuộc đời nặng
trĩu ưu tư. Từ khoảng trời hiện tại, tác giả "lạc" về ngày xưa "lạc" về thời
67
mộng mơ. Chính vì có sự đan xen giữa thực và mơ mà câu thơ lục, bát trở
nên khác thường:
Ngày xưa đã ngày xưa rồi
Tôi tìm tôi
Lạc khoảng trời
Mênh mang
(Lạc khoảng trời)
Bài thơ lục, bát lạ này của Bùi Kim Anh được nhận giải của Tuần báo Văn
nghệ năm 1995.
Cũng có khi tác giả đã trình bày một bài thơ lục bát không như cách trình
bày truyền thống nhưng đọ c lên ngườ i ta vẫ n cả m nhậ n đượ c “chấ t lụ c bá t”
xưa phả ng phấ t trong từ ng câu chữ :
Tỉnh tình tinh
Cũng cái tình
Cởi ra
Lại cột
Chặt mình với ta
Hết nụ lại nở ra hoa
Đứt thôi lại nối
Những ba bảy lần
(Tình)
Tóm lại , thậ t là có lý khi nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận xét thơ Bùi
Kim Anh là: "thật đắc địa với lục bát". Trong 7 tập thơ đã xuất bản, có một
tập mang tên "Lục bát cuối chiều". "Cuối chiều" vốn là khoảng thời gian rất
ngắn nhưng lại rất nên thơ, nhưng "cuối chiều" cũng là khoảng thời gian rất
dễ gợi tâm trạng buồn. Hầu hết các bài thơ lục bát của Bùi Kim Anh đều là
những bài thơ buồn, những lời tâm sự, thở than, nhưng ở mỗi bài lại có những
68
nét riêng nên vẫn không gây nên một sự đơn điệu. Sự phong phú, mới lạ về tứ
thơ, ý thơ, hình ảnh thơ... đã làm nên một mầu sắc riêng. Qua đó, thể hiện rõ
hơn, sinh động hơn thế giới nội tâm của cái Tôi trữ tình trong thơ chị, góp
phần làm cho thơ lục bát của Bùi Kim Anh có sức sống riêng.
3.1.2. Thơ Bùi Kim Anh - phù hợp với thể thơ tự do
Như đã biết "Thơ tự do là một thể thơ không tuân theo những qui tắc về
vần, nhịp, số chữ trong câu và số câu trong một khổ thơ...Thơ tự do có hai
loại "có vần (hoặc ít vần) và không vần" (30/102)
Chính vì vậy, thể thơ tự do rất phù hợp với việc thể hiện những tâm
trạng, những cảm xúc phức tạp, trào dâng và cuộn chảy của các nhà thơ thời
kỳ hiện đại. Thơ Bùi Kim Anh là một dạng như vậy - trong quá trình thể hiện
cái Tôi trữ tình phong phú, phức tạp của mình.
Khảo sát thơ Bùi Kim Anh ta thấy bên cạnh việc sử dụng một cách "đắc
địa" thể thơ lục bát, Bùi Kim Anh là một người rất hay sử dụng thể thơ tự do
và phần lớn các sáng tác của chị đều viết theo thể thơ tự do. Thơ tự do kết
hợp các câu thơ dài/ngắn chiếm số lượng tương đối cao. Khảo sát 7 tập thơ
của Bùi Kim Anh ta thấy có khoảng trên 50 bài thơ viết theo kiểu tự do. Có
bài rất ngắn (cả bài 4 câu); có câu thơ (dòng thơ) cũng rất ngắn (1 từ). Dạng
thơ ngắn nói chung này có khoảng trên 20 bài. Dạng thơ dài về số câu trong
bài và số từ trong câu thơ (dòng thơ) có khoảng trên 20 bài trên tổng số
khoảng hơn 400 bài thơ. Ở thể thơ tự do, Bùi Kim Anh viết chủ yếu ở dạng
câu thơ ngắn/dài xen kẽ để mạch thơ được thể hiện một cách tự nhiên. Dạng
câu dài bài ngắn (chia thành 3 đoạn: 1, 2, 3) mỗi câu là một đoạn có tới 30-40
từ trong tập "Bắc lên ngọn gió mà cân" có 20 bài.
Thơ tự do của Bùi Kim Anh là một sự mở rộng biên độ câu chữ tới "vô
cùng". Đọc thơ chị, có lúc người đọc bắt gặp những câu thơ chỉ có một hoặc
một vài từ ngược lại có lúc người đọc bắt gặp những câu thơ dài tới 50, 60 từ;
69
có bài thơ chỉ có 5, 6 dòng nhưng có bài dài tới 30, 40 dòng. Những câu thơ
tự do này như một dòng thác chứa chất đầy suy nghĩ, đầy day dứt, như một
dòng tâm sự không bao giờ dứt của một cái Tôi đang triền miên đắm chìm
trong suy nghĩ, trong đau đớn, trong những nỗi niềm thăm thẳm, khôn cùng.
Trong bài "Đêm cuối năm" Bùi Kim Anh đã diễn tả nỗi buồn, nỗi đau về
cả thể xác lẫn tâm hồn, sự cô đơn, trống vắng và cả lòng quyết tâm dứt bỏ,
vượt qua nỗi buồn đau, bất hạnh để sống, để tồn tại:
Năm trở mình đau nhức khắp căn nhà
Không có anh không ai mở cửa đón hoa xuân nở
Ta không thể sống bằng hoài niệm năm xưa cũ
Bao quanh anh
Bao quanh em
Chật những bức tường
(Đêm cuối năm)
Khổ thơ đan xen những câu dài, câu ngắn kết hợp với biện pháp tu từ
nhân hoá "năm trở mình" góp phần làm cho tâm trạng hết sức phức tạp của
tác giả được thể hiện cụ thể hơn.
Cách viết theo thể thơ tự do của Bùi Kim Anh bộc lộ một cách rất tự
nhiên mạch cảm xúc khi thì như "một cuốn phim" với các hình ảnh, sự kiện
lần lượt xuất hiện theo thời gian (“Bục giảng và những mùa phượng”, “Thư
gửi con”, “Mong qua đêm”...), khi thì như "một tia chớp" vụt qua, nhưng cái
bất ngờ, sắc lạnh của nó thì còn đọng lại mãi, cứa đứt lòng người!
Mở đầu tập thơ "Lời buồn trên đá" là bài thơ "Ta hỏi ta". Sau khi nhân vật
trữ tình trong bài thơ hỏi gió, hỏi sóng...để biết "ta là ai" đến lúc kết thúc lại
bằng hai dòng: Ta hỏi ta/Mù loà (Ta hỏi ta). Như vậy, liệu đã có câu trả lời?
70
Đã có những dòng thơ, bài thơ như tuôn trào những mạch nghĩ suy không
dứt với những câu hỏi, câu trả lời trong tâm tưởng của nhà thơ khiến người
đọc phải day dứt theo:
Ta ở phố dòng người xô vào bụi bặm
Mỗi ngày tâm hồn mất đi yên lặng
mỗi ngày vầng trán cày thêm rãnh lo toan
Sự kỳ diệu như hạt thóc nhỏ nhoi như lặng lẽ đêm nay
trăng chiếu giấc ngủ quê êm ả
Sự kỳ diệu cho ta vượt qua bản ngã yếu hèn cho nhịp sống
không tuột xuống con dốc của ghét ghen và thù hận
Những tứ thơ giãy đạp khát con nước sông quê thêm ầu ơ
của ngày xưa xa ngúc ngoắc
Ta là khách trọ ở quê hương trả tiền phòng
Ký ức trở về thả ước mong
(Về với quê hương)
Ít nhất trong bài thơ này, người đọc cũng tìm thấy một lần nhà thơ trả lời
cho câu hỏi "ta là ai", "ta là khách trọ ở quê hương trả tiền phòng". Có lời ru
"à ơi" với những dòng dài ngắn liền mạch kết trọn thành một bài thơ.
Người đàn bà ru con rồi ru cháu
Câu hát ru dài đêm mùa đông
Vắt qua cánh cò bay chấp chới trắng cánh đồng
Vắt qua dòng đời cây cầu nối à ơi cái ngủ tới lời ru
nhịp điệu khúc ca
Có một người đàn bà ru con rồi ru cháu bằng lời ru
của những câu thơ
Vắt ra giọt buồn màu xám và màu lục giọt vui trong và đục
(À ơi)
71
Có những câu thơ dài tới ba, bốn mươi từ diễn tả cùng một lúc nhiều hình
ảnh, sự kiện với nhiều tâm trạng phong phú, phức tạp của cái Tôi đầy ẩn ức,
đầy suy tư. Đọc 7 tập thơ của Bùi Kim Anh ta thấy có khoảng trên 20 bài thơ
viết theo kiểu thơ văn xuôi như các bài:
Tôi không dám nhìn vào mặt người mẹ đang bón cơm cho đứa con oặt èo
trên manh chiếu rách tươm và người cha ngồi xuôi tay trên thềm căn nhà xác
xơ phát trên kênh truyền hình buổi tôi
...
Tôi viết về tôi quả thật tôi chỉ viết về nỗi đau của mình gặm nhấm những
gì thuộc về mình như con chuột lột xột trong xó tôi thơ tôi lợt lạt thiếu nắng
mai và gió trời. Trở trăn câu chữ như đồng tiền bé mọn cho người để an ủi
mình thôi.
...
Tôi không dám đối mặt với cảnh quay người đi phân phát lòng từ thiện
khi mắt họ chiếu vào tôi ngồi trước màn hình một dấu chấm than hay dấu hỏi
(Dấu chấm than)
Lặng im ngạt trái tim em, tê dại đợi chờ khiến cảm xúc trở nên băng giá.
Em thành người đàn bà lạnh lẽo không biết chiều chuộng chồng con.
Thêm một giọt lặng im để chịu đựng vỡ oà, con người đi nhanh hơn đến
bờ bên kia cuộc sống. Em chẳng muốn ra đi khi nợ nần duyên kiếp còn trả
cho nhau, khi con còn cần em làm chỗ dựa.
Mạch của câu thơ khiến cho từ ngữ cứ tiếp nối làm cho câu thơ cứ dài
mãi ra mà cảm xúc thì dường như không dừng lại được.
Bài "Chợp mắt giấc trưa" gồm nhiều câu dài khiến người đọc như thấy
được sự căng thẳng trong tâm trạng người viết đang dồn cả vào những câu,
những chữ trong dòng thơ. Bài thơ không có một chữ nào được viết hoa
không một dấu câu và câu thơ chỉ còn được ngăn cách bởi sự ngắt dòng.
72
Đến bất ngờ và nhanh chóng lặng lẽ xa chưa kịp cảm nhận hơi thở phả
vào thơ trong chợp mắt giấc trưa
Bấu vào tia sáng rớt từ cơn mơ con chữ rớt của niềm thơ biết vẫn quả
tim dại dột còn một làn da gợn khi gió mát thoang thoảng lời chờ mong
Rất ngắn và không định được quãng thời gian phía trước như cái ngáp
ngắn lấy lại sức sau một cơn nén chịu cái ngáp ngắn của một ngày dài mệt mỏi.
Giấc mơ ư đừng tin giấc mơ lừa ta bằng êm ái căng thẳng ta bằng ác
mộng nuối tiếc trong ta khi choàng tỉnh
Và người là một phần không rõ rệt của hình ảnh của thời gian của
không gian mờ mịt cho ta cảm giác lại cướp đi ý tưởng dựng xây
Ta trút vào người đờ đẫn lá cây trưa nắng hạ không bỏ ta khi phờ phạc lạc
mất tứ thơ ta trút vào người nhiều phiền muộn để nặng nề đè nặng niềm yêu.
Hãy đến đi tia nắng rớt từ cơn mơ thêm một tia nắng biết đâu nhiệt độ
ngoài trời trưa nay sao cao thế.
(Chợp mắt giấc trưa)
Tập tục tốt đẹp, truyền thống của dân tộc trong cuộc sống mới với sự có
mặt của cơ chế thị trường trong những ngày Tết có những điều không khỏi
khiến cho người ta phải suy nghĩ. Sự chân thành - sự giả dối, cái hư - cái
thực… trăn trở trong suy nghĩ của tác giả với nỗi buồn, nỗi cô đơn đầy tâm
trạng - nhưng tác giả vẫn rất bình tĩnh chấp nhận sự thực đổi thay này:
Tiễn đưa năm một mâm cỗ đầy
Hương khói ngạt ngào
Giàu và nghèo cùng đốt tiền cúng lễ
...
Một phút để nỗi niềm tự quên để cái ác và cái thiện
cùng chắp tay khấn lạy
Tập tục giống như thói quen lân la theo người đàn bà
đi chợ mua hàng ngày Tết
73
Tập tục được nâng cấp như giá thị trường dồn dập chạy
những vòng đua
Lời chúc tụng mở ra sớm mồng một công thức từ thuở
chưa biết lập trình
Lời chúc tụng thoáng ra trong cơ chế mới
Tiễn và đón bắt tay nhau trước ngưỡng cửa mỗi căn nhà
Ghét và yêu ôm nhau diễn màn đầu vở kịch dài năm đang tới
(Tiếng cuối)
Viết cho mình, viết về đời, Bùi Kim Anh "tự do tung tác với ngôn từ
trong thơ một cách mạnh dạn, tự nói với đời bao ý nghĩ" (Trần Thị Thắng –
“Bùi Kim Anh hai cuộc đời trong 5 tập thơ”)
Giá có thể quay về cổ tích
Ước một lần không phải là mình
...
Xếp cuộc đời theo từng bước đặt
Sướng - khổ, rủi - may
Chẳng tại số trời
Ước ba lần...
(Giá có thể)
Tâm trạng đau đớn, cô đơn khiến cho đôi lúc tác giả nghĩ đến cái chết.
Cái ý nghĩ "tự nhiên đi lặng lẽ" làm cho người viết không quan tâm gì đến cái
gọi là "vần" ở trong thơ. Câu thơ cứ tiếp nối ngắn dài, dài ngắn để bộc lộ cảm
xúc, tâm trạng băn khoăn, trăn trở, bức xúc của nhà thơ:
Ta giam mình vào những câu thơ len lách thơ giữa đời chật hẹp
Ta lạc lõng giữa bao thân thuộc mỗi chiều lại nhức nhối cơn đau
Giá có thể đi tự nhiên đi không kịp nói lời
Chỉ những câu thơ lộn nhào suy nghĩ
Giá có thể đi tự nhiên đi lặng lẽ
74
Và những câu thơ bạc phếch tàn tro
Một sợi dây treo lên thắt niềm vui mỗi ngày
Bước chân lạnh thu ngắn dòng cảm xúc
Lời ngày mai chắt lòng giếng cạn không đủ dành cho thơ
Lời ngày mai có thể nhuộm như mái tóc cằn xơ năm tháng có thể cho nỗi
buồn xẹp dưới ước mơ
Ta ngồi mỗi ngày đo lòng mình con chữ nén lòng mình con chữ cứ bé lại
cho thắt như thân xác mỗi ngày già nua
Với thiên hạ ta và thơ chung một cái nhìn
(Tự nhiên đi lặng lẽ)
Dường như để nói với mình, nói cho riêng mình, tác giả Bùi Kim Anh
hay dùng cách diễn đạt ngắn gọn mà cụ thể: "Ta ngồi/Đếm mình/Qua từng
song cửa/Bẻ thời gian/Tìm lại/Huyền thoại xưa/Rũ trên tay/Rêu phong/Màu
cổ tích/Mở/Khoảng tâm linh/Bầy sẻ cũ/Hom hem soải cánh/Hắt hiu giữa lối
vô thường/Giọt sương vỡ/Một thời son trẻ/Chén đắng nào/Uống trọn đêm
nay/Thả mình/Vỡ vụn/Ta ngồi/Đối diện/Thinh không" (Khoảng tâm linh).
Người đọc thấy trong bài thơ nhiều dòng chỉ có một từ, dòng nhiều nhất có
bốn từ. Các câu thơ ngắn, cực ngắn tạo ra nhịp gấp gáp xen kẽ với một vài nhịp
dài gợi lên ở người đọc cái cảm giác cô đơn, lẻ loi trước thực tại cuộc sống.
Thơ tự do của Bùi Kim Anh có bài nhiều câu nhưng mỗi dòng (câu) ít
từ. Ngược lại có bài chỉ có bốn câu nhưng mỗi dòng thơ (câu thơ) lại nhiều từ.
Đêm nay mưa rồi Đồi Quy Nhơn không trăng
Người chẳng về đâu hồn lai đau máu lại chảy khi trở gió biển
Quy Nhơn đêm mưa không ngủ
Sóng đạp vào vọng hư không
(Đêm Quy Nhơn)
75
"Đồi Quy Nhơn, Biển Quy Nhơn, Trăng, Hồn, Máu...mỗi dòng thơ xuất
hiện một từ phải chăng tâm hồn thi sĩ nay đang nghĩ về thi sĩ xưa.
Bùi Kim Anh khi viết bài "Cần" cũng đã sử dụng cách viết này:
Em cần anh như cô gái muộn mằn cần một người thương
Em cần anh như goá phụ cần nơi nương tựa
Nhưng em có thể bóp chết đi khao khát của mình
Không cầu xin tình yêu ngoái lại
Qua khả o sá t ta c ó thể khẳng định rằng: Thể thơ tự do rất phù hợp với
việc thể hiện một cái tôi trữ tình đầy tâm trạng, đầy tâm sự luôn tuôn trào như
một dòng thác không ngưng nghỉ của tác giả Bùi Kim Anh.
3.2. Một số hình ảnh mang tính biểu tƣợng đặc trƣng trong thơ Bùi Kim Anh
Mỗi tác phẩm thơ văn là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ mà trong đó chứa
những tín hiệu nhỏ là hình ảnh, biểu tượng. Hệ thống biểu tượng không chỉ ẩn
chứa cái hữu hình mà còn biểu đạt cái vô hình của tư tưởng cảm xúc sâu
thẳm trong con người. Mỗi tác giả có một hệ thống biểu tượng trong tác phẩm
của mình vừa "chung" vừa "riêng". "Chung" bởi có những biểu tượng đã trở
thành sản phẩm chung của mọi người; "Riêng" vì có thể xuất hiện biểu tượng
mới hoặc bổ sung các nét nghĩa mới làm giàu xuất hiện biểu tượng mới hoặc
bổ sung các nét nghĩa mới làm giàu thêm cho ý nghĩa của biểu tượng văn hóa
truyền thống, góp phần làm nên "cái Tôi" của một tác giả có vai trò của hệ
thống hình ảnh, biểu tượng trong tác phẩm.
Trong thơ Bùi Kim Anh, những hình ảnh: chiều, đêm, mưa, gió, sao,
trăng,, nước, lửa.. xuất hiện với tần số cao. Các hình ảnh này trở thành đặc
trưng thẩm mỹ giàu giá trị biểu đạt.
3.2.1. Hình ảnh "chiều", "đêm", "mưa" - hình ảnh gợi nỗi buồn, sự cô đơn
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc thấy rất rõ sự xuất hiện với tần số cao
của hình ảnh chiều, đêm, mưa trong thơ chị. Sơ lược về nhan đề các bài thơ
76
có các từ kể trên đã là con số gây ấn tượng: Lời chiều hôm, Cuối chiều dồn lại
một làn mưa, Tắt lạnh cơn chiều, Chiều mưa, Chiều của riêng ai, Lục bát
cuối chiều, Chiều muộn, Bóng chiều…. Lời bóng đêm, Nghe đêm, Nửa đêm,
Ngày đêm, Lời đêm…
Còn số lượng các câu thơ có các từ "chiều", "đêm" thì rất đáng kể. Nó
trở đi trở lại ở trong thơ Bùi Kim Anh như một hình ảnh mang tính biểu tượng
không thể thiếu để nói lên nỗi lòng tác giả, ví dụ như:
Đeo đẳng ngày ngắn ngủi đêm không thực
Cuối chiều dồn lại một làn mưa
(Cuối chiều dồn lại một làn mưa)
Ở bài này, ý thơ, cơn đau và một giấc mơ để tạm quên cái hiện thực
không mong muốn đang hiện hữu trong lòng tác giả.
Trong bài "Chiều nghiêng cửa nhà" có hình ảnh bà cụ già ăn xin "che
vành nón rách", "ngồi đếm tiền trước cửa nhà tôi", có "đứa trẻ bám vào lòng
phố/ miết tuổi thơ bóng nhạy những đôi giày".
Sự trăn trở ở chỗ "không lạc lối mà không tìm được lối". Lối cho thơ hay
lối cho đời hay cả hai?
Trong bài "Tắt lạnh cơn chiều" Bùi Kim Anh viết: "Chia ra phía trước
không thể nào bước tiếp…/Chia ra phía sau không thể nào ngoái lại/Kí ức
cắm cột mốc sặc sụa cáu bẩn/Ghim vào tâm não hiện tại/Vô cảm của người
đàn ông/Giàn giụa của người đàn bà/Tắt lạnh cơn chiều".
Cuộc hôn nhân tan vỡ dưới cái nhìn của nhà thơ Bùi Kim Anh là bữa
cơm chiều "tắt lạnh" kể từ đó.
Có những khi tác giả "không biết mình là ai" trong một "chiều mưa".
Có một chiều sũng cơn mưa
Hết quá khứ trút sau dòng lạnh
(Chiều mưa)
77
Tuy vậy, nhà thơ vẫn thể hiện rõ chân dung của người đàn bà làm thơ -
Bùi Kim Anh, bởi chị vẫn tiếp tục là chị trong "Chiều của riêng ai" thế này đây:
Thẫn thờ ghế đá lạnh
Buông một tiếng thở dài
Nghĩ về đêu không rõ
Chiều đâu của riêng ai
(Chiều của riêng ai)
Rõ ràng là "chiều đâu của riêng ai" nhưng chiều thường gắn với buồn
(tiếng thở dài), cô đơn (thẫn thờ) và tâm trạng khác thường (nghĩ về đâu
không rõ) thì dường như một "lẽ thường".
- Lục bát viết lúc cuối chiều
Nghe trong hơi gió đọng nhiều ưu tư
Lòng câm như bị cầm tù
Hắt hiu dồn lại mỏi dừ ước mong
(Lục bát cuối chiều)
Tâm trạng "ưu tư" với "lòng câm như bị cầm tù" trong biết bao cái "hắt
hiu dồn lại" làm cho câu lục bát càng nhiều "ước mong".
Trong "chiều muộn" tác giả viết:
Chiều muộn anh mới đến tìm
Hoàng hôn rủ tím con thuyền chơ vơ
Chiều đến mà là "chiều muộn" khi đã "ngang trời dính một mảnh trăng"
vẫn thường là lúc mà nỗi niềm của người viết cần được giãi bày.
Và có khi chiề u chỉ đơn giản là để đếm thời gian:
Thêm một chiều để lại bớt một ngày
Nửa đêm
Còn nửa đêm âm của ngày tiếp nối
Sớm mai
78
Một tờ lịch rụng rời
(Bóng chiều)
Trong thơ Bùi Kim Anh, có nhiều câu thơ nói đến "chiều", viết về
"chiều" không nằm trong các bài có tên "chiều".
Câu thơ em viết cho anh
Còn ba chữ nữa mới thành lời yêu
Phai sương nhợt nắng đã nhiều
Nắm tay vẫn lọt bóng chiều vào đêm
(Cho anh và em)
Chỉ mình như buổi chiều quê
Cánh đồng thưa bóng có về rặng tre
Lá đa phe phẩy gió hè
Ngả lòng mình với tay che giấc nồng
(Dan díu)
Xin đừng viết về mùa thu
Đừng nhắc nhớ chiếc lá thu rơi rồi
Đừng giữ trong tay giọt thu chiều vội vã
(Giọt thu)
Góc phố có hàng hoa tươi
Cho người mua để tặng người lúc yêu
Bên hồ lũ trẻ thả diều
Phố thả theo cả nắng chiều lên cao
(Hồ)
Tất cả "bóng chiều", "buổi chiều", "giọt thu chiều", "nắng chiều"… xuất
hiện tạo nên cái không gian quen thuộc trong thơ Bùi Kim Anh. Có thể coi
79
"chiều" là một biểu tượng trong thơ chị. Nó góp phần tạo nên cái Tôi buồn,
cô đơn, đầy tâm trạng của tác giả.
Hình ảnh "đêm" xuất hiện ngay trong nhan đề các bài thơ:"Lời bóng
đêm, Nghe đêm, Nửa đêm, Ngày đêm, Lời đêm, Đêm…".
Mẹ lao xuống cầu thang trong đêm tối
Tiếng con gọi mẹ
Tiếng ú ớ cơn mê
Con đi đâu nửa đêm chưa về
…
Mẹ không còn là người đàn bà của công việc lúc nào cũng vội
Chờ con rối bời
(Đêm)
Đêm ơi sao lạ vậy
Chẳng cho ta giấc ngủ bình thường
Tiếng thở đêm
Khua loãng màu đen
…
Ngày có lỗi gì đâu
Mà đêm dài đến thế
Hay sợ một mình
Bắt ta thức đêm nghe than thở
(Nghe đêm)
Đêm, người đàn bà chờ con với tâm trạng rối bời. Đêm người bàn bà làm
thơ ấy cùng thức với đêm để nghe đêm "thở than".
Hết một ngày
Đêm mở mắt nhìn người đi dưới ánh đèn ánh cây
…
80
Ta quàng vai hồn nhập nhoạng
Ngày của ta Đêm của hồn
Ngày của hồn Đêm của ta
(Ngày đêm)
Trong đêm, "ta" và "hồn" đổi chỗ cho nhau. Phải chăng điều tác giả
muốn nói ở đây là cái hiện thực mà tác giả đang phải đối mặt khiến cho "ta"
không còn là "ta" nữa.
Người đừng nói câu nửa chừng
Để ta tỏ nỗi ngập ngừng với ai
Nửa đêm nở đoá hoa nhài
Nửa đêm trăng khuyết đi sai đoạn đường
(Nửa đêm)
Tôi không biết mất ngủ từ lúc nào đã nhiều đêm không trọn giấc
…
Trời đã định bước ta đi còn chặng cuối ngắn dài không biết nữa
Sót lại vui của những gì vui nhất ru ta nửa giấc chạm ngày
(Lời bóng đêm)
Đêm mất ngủ nghĩ về nỗi đời, tác giả tin vào "trời đã định". Trời định số
phận con người. Dù thế nào thì tác giả cũng còn tìm thấy niềm vui sót lại để
"ru ta nửa giấc chạm rạng ngày".
Ngày khép mình sau cánh cửa đêm
Em ẩn sau ngày khi mất đi thanh thản
Lên đến xanh cao hoá chỉ là mây trắng
Đôi chữ ngu ngơ đôi tiếng thở dài
Nắm tay mình tỉnh giấc đợi sớm mai
(Lời đêm)
Trong nỗi băn khoăn, trăn trở khiến cho "chữ ngu ngơ" kèm với "tiếng
thở dài" thì tâm trạng cô đơn lại càng cô đơn hơn.
81
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc gặp hàng trăm câu thơ có chứa từ
"đêm". Với tần số xuất hiện cao, hình ảnh đêm thực sự trở thành nỗi ám ảnh
trong lòng người đọc. Kèm theo đó là nỗi cô đơn, sự đau đớn của một người
đàn bà đầy tâm trạng:
Đêm cuốn lá rơi lạnh mặt phố phường
(Tình yêu mùa thu)
Ta chỉ có bạn là mình
Hằng đêm dan díu chuyện tình với nhau
Trụi trần ẩn bóng đêm dày
Tỉnh say một tấm thân gầy chỏng chơ
(Dan díu)
Em không thể xé nỗi buồn ném vào đêm tối
(Không thể)
Điều đó khẳng định "nỗi buồn" vẫn tồn tại cùng đêm tối trong con người
tác giả.
Em thao thức lời đêm khép lại
(Nợ)
Tắt mặt trời thắp đêm dày bóng đêm
(Chẳng còn tự nhiên)
Thêm một chiều để lại bớt một ngày
Nửa đêm
Còn nửa đêm âm của ngày tiếp cuối
Mặc ta thức mặc đêm trôi
…
(Bóng chiều)
Mặc ta thức với đêm không thấy bờ
(Tự ru)
Nhốt ý nghĩ
82
Nén ý nghĩ
Để những đêm lặng lẽ
Để câu thơ vật vã đứt vần
(Trở gió)
Lẽ đời bạc bóng đêm dày
Thấu sao bể khổ vơi đầy mà mong
(Gió bay)
Ta khóc cho mình đời khóc cho ai
Là giọt lệ tẩm ướp đêm dài
(Giọt đau)
Trái tim ta qua những đêm trăn trở
Run lên trong nhịp đập thất thường
…
Tim ta u uất đêm dài
(Cơn đau)
Chén đắng nào
Uống trọn đêm nay
(Khoảng tâm linh)
Ta ngồi dậy
Từ thân xác mình
Đi vào đêm
…
Đêm không nói điều chi
Im lặng đến mịt mùng
(Ta tìm mình)
Trong cơn mơ rũ hết ưu phiền
83
Chỉ có ngày xưa và lời xa cách
Đêm người gác vô tình nghiêm ngặt
Cản cơn mơ không kẻ hữu hình
(Về trong mơ)
Vui và buồn là hai phần trái tim
Một viên ngọc ánh trong đêm đen
Một đám mây chì phủ lên tất cả
(Lời chiều hôm)
Lật sấp đêm không về mộng ác
Tan sương không chờ bình minh
(Chấp chới thinh không)
Biết rằng có nhiều nắng mai
Mà sao đêm cứ thức hoài vậy đêm
(Lạy trời về đâu)
Câu thơ nhẹ nhàng bay về thời thiếu mờ
Hạt sương đêm thức nợ nỗi niềm
(Giải thoát ngắn ngủi)
Ngoài kia đêm đã đầy sân
Trời quang mây tạnh biết gần hay xa
(Lục bát lụt)
Đêm nay mưa rồi Đồi Quy Nhơn không trăng
Người chẳng về đâu hồn lại đau máu lại chảy khi trở gió
(Đêm Quy Nhơn)
Có lỗi với thơ ta sợ một ngày nào
Đêm cứ thức và thơ không về nữa
(Sợ một ngày nào)
* *
*
84
Có thể kể ra rất nhiều câu thơ nói về đêm: đêm, đêm nay, đêm đen, đêm
dài, đêm dày, đêm âm, đêm tối, nửa đêm, lời đêm, đêm thức, đêm than thở,
nghe đêm… Trong thơ Bùi Kim Anh, đêm là hình ảnh gây ấn tượng rõ nét
trong lòng người đọc.
Cùng với hình ảnh đêm, hình ảnh mưa trong thơ Bùi Kim Anh cũng luôn
gắn liền với tâm trạng buồn bã, cô đơn của tác giả. Nhà thơ có một tập thơ có
tên "Lối mưa" và nhiều bài có từ mưa (Mưa mùa hạ, Trời mưa, Lối mưa,
Chiều mưa…) và rất nhiều câu thơ chứa từ mưa.
Trong tập "Viết cho mình" có bài "Mưa mùa hạ":
Dễ dàng mưa mùa hạ
Là tình yêu của anh
…
Cô gái trong bài thơ nhờ "hàng hiên" nói hộ lòng mình một cách kín đáo
nhưng cũng rất cụ thể.
Thiên hạ mắc mưa trú lại bên đường
Tôi mặc áo mưa tìm vui ngoài phố
Áo mưa cũ vết thương lỗ chỗ
Giọt mưa buồn lọt lạnh da
(Trời mưa)
"Tôi" không giống mọi người ở chỗ "tôi" đi tìm vui trong mưa. Nhưng
hiện thực lại là "giọt mưa buồn lọt lạnh da".
Có một chiều sũng cơn mưa…
Mưa mang hơi biển xót xa
Mưa mang hình núi dập dồn
Mang hiện tại lót đáy ngôi mồ
Để một làn mưa lén chặt
Để một làn mưa chảy dóc vệt dài
Ta không biết mình còn gì
Ta không biết là ai
Ngày mai
85
(Chiều mưa)
Trong "Chiều mưa" ấy, nhà thơ nhìn về quá khứ, nhìn vào hiện tại và
nhìn tới tương lai với một tâm trạng đầy bi quan, chán nản:
Lối về chiều lại mưa tuôn
Tôi thương hứng lấy giọt buồn cho tôi
Lối về chỉ có một thôi
Lênh láng thế nước biết trôi ngả vào
(Lối mưa)
Mưa, buồn và thơ hình như cứ gắn với nhau trong thơ Bùi Kim Anh
trong mọi nơi, mọi lúc:
- Chờ khi người nhớ đến ta
Thì hạt sương trắng đã nhoà vào mưa
(Bây giờ tìm ai)
- Ước một ngày giữa tự nhiên
Cởi cho gió rũ ưu phiền cuốn đi
Cởi cho mưa xối nước kỳ
Chẳng còn chi nữa cả khi đứng ngồi
(Chẳng còn tự nhiên)
- Ngày xưa để lại ngày xưa
Hôm nay mưa nắng nắng mưa dội vào
Ước gì có một ngọn sào
Trắng đen phơi hết chuyện nào cũng khô
(Ước)
- Ta là con kiến giữa dòng
Bám vào cọng cỏ long đong một mình
Thả cho mưa rập gió rình
Trong cơn xoáy biết nhân tình nổi trôi.
(Long đong một mình)
- Ngó lên trời nắng chang chang
86
Nghĩ mưa chẳng tới mang vàng ra phơi
Rõ là khổ cái thân tôi
Biết dại dột đã ướt rồi còn đâu
Vàng mười đem đổ thanh thau
Tiếc công lặn lội mà đau đớn mình
(Đem vàng ra phơi)
- Lời buồn gửi lại mùa đông
Kiến thơ thẩn thả mênh mông cõi nào
Bước thì bước thấp bước cao
Đi đâu cũng sợ mưa rào ướt thân
(Giấc ngủ hờ)
- Biết tìm đâu cái ngày xưa
Biết tìm đâu gió đâu mưa bây giờ
(Chuông nào đánh chẳng ngân nga)
- Như chiếc lá cuối thu em sẽ dừng lại và nhìn người đàn ông phảng phất
nỗi buồn trong cơn mưa khi chiều chạng vạng.
(Tiếc nối)
- Con bé xíu giữa cuộc đời này
Một gánh chắt chiu giọt mắt
Niềm vui nhỏ chẳng ai cần lượm
Mẹ con mình tát mưa nắng sớm trưa
(Dành cho con gái)
Hình ảnh cơn mưa, mưa, mưa xối, mưa dội, mưa rào, gió mưa, mưa rập
gió rình… trở đi trở lại trong thơ Bùi Kim Anh khi chị nói về nỗi lòng mình.
Ngoài các hình ảnh nói trên, đọc thơ Bùi Kim Anh người đọc còn gặp
khá nhiều các hình ảnh gây ấn tượng khác như: gió, mùa thu, giấc mơ, trái
87
tim,… Các hình ảnh này có trong thơ Bùi Kim Anh nhưng tần số xuất hiện
không cao như các hình ảnh chiều, đêm, mưa đã nói ở trên.
3.2.2. Hình ảnh hoa và cỏ dại - hình ảnh mang tính biểu tượng về thân
phận người phụ nữ
Bùi Kim Anh không có bài thơ nào chỉ viết riêng về hoa nhưng những
hình ảnh về hoa trong thơ chị thường xuất hiện rất đúng chỗ để góp phần thể
hiện cái Tôi của một người phụ nữ tri thức có cái nhìn sâu sắc với cuộc đời.
Hoa là biểu tượng của những yếu tố làm nên cuộc đời người phụ nữ: nhan
sắc, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc…
Thơ Bùi Kim Anh có nói đến nhiều loại hoa: hoa hồng, hoa sữa, hoa
phượng, hoa nhài, hoa mận, hoa cà… nhưng phần lớn trong các lần xuất hiện
thì hoa chỉ được nhắc đến một cách khái quát. Nếu như coi hoa là thứ ngôn
ngữ tinh tế và gần gũi nhất với tâm hồn người phụ nữ thì ngôn ngữ của Bùi
Kim Anh là cách nói ít phô trương, ít nói bằng màu sắc, hương thơm:
- Gửi người ở chốn Nghi Tàm
Một câu thơ đã muộn màng với hoa
…
Bây giờ biệt thự giăng đầy
Yêu hoa tìm lối ai hay lạc đường
…
Giá như thâm thấp giậu rào
Cho ta được lả lơi chào với hoa
…
Hẹp hòi để lối hoa rơi
Câu thơ đành thả giữa trời vậy thôi
(Lối hoa rơi)
88
Ngoài phố những hoa là hoa
Mua về ta cắm chật nhà mới thôi
Yêu đi cho trọn kiếp người
Kẻo mai thác lại tiếc đời buồn tênh
(Lục bát cuối chiều)
Cách nhìn cuộc đời khi phải đối mặt với ưu tư, buồn phiền, hiu hắt của
Bùi Kim Anh là mua hoa về "cắm chật nhà mới thôi" - ở đây, ta thấy có một
sự "lên gân" theo cái cách riêng của tác giả:
- Góc phố có hàng hoa tươi
Cho người mua để tặng người lúc yêu
(Phố có con hồ)
- Con đường đưa em đến anh
Có hương hoa sữa để dành cho đêm
Gió đưa trăng ngả bên thềm
Em đi hết nửa nỗi niềm thì thôi
…
Lời yêu trót đã để dành
Nhặt lên lại sợ khô cành rụng hoa
(Lời yêu)
Tác giả đã thườ ng lấy hình ảnh hoa để bộc lộ nỗi niềm kín đáo của
người phụ nữ:
- Giá như đừng có ngày xưa
Cho người gặp lại khỏi ngơ ngẩn người
Lời nào cột lại với lời
Bông hoa tim tím nhắc thời ấu thơ
(Nhặt nắng)
89
Tác giả không nói rõ loài hoa nào, chỉ nói hoa màu tim tím. Màu hoa tím
gợi lên một khoảng trời thương nhớ thời thơ ấu, gợi lên sự thuỷ chung trong
"lời nào cột lại với lời" của ngày xưa:
Người đừng có ước già đi
Để ta ước lại cái thì còn xuân
Hoa mận mới nở trắng ngần
Tiếng chim líu ríu trước sân sau nhà
Hoa xoan tim tím hoa cà
…
Người đừng nói câu nửa chừng
Để ta tỏ nỗi ngập ngừng với ai
Nửa đêm nở đoá hoa nhài…
(Nửa đêm)
Hoa mận, hoa xoan, hoa cà, hoa nhài - những loài hoa bé bỏng đi ra từ
những câu hát dân gian giàu chất liệu cổ truyền dân tộc.
Sớm mồng một mua hoa hồng
Không gai thời cắm chục bông cũng tàn
(Bắc lên ngọn gió mà cân)
Hoa nào nở rồi cũng phải tàn. Hoa hồng có gai hay không có gai cũng
vậy. Mua hoa hồng ngày đầu tháng để làm lễ là lẽ thường. Hoa tàn cũng là lẽ
thường. Cái khác thường ở chỗ tác giả "thả câu thơ để đi tìm tứ thơ":
- Trách nhau lần nữa làm chi
Hoa tầm xuân có còn gì nữa đâu
…
- Bằng lăng tím ngát nở dày dưới mưa
Lại về với những vần thơ
Nối dang dở để bây giờ trọn câu
90
Lại về với thuở yêu đầu….
(Tìm trong phố cũ)
Hoa tầm xuân - một loài hoa bình thường, gần gũi với loài hoa dại. Màu
tím của hoa bằng lăng gợi nhớ ngày xưa. Cả hai đều làm "cầu nối" để chủ thể
trữ tình được "lại về với thuở yêu đầu", được có "những vần thơ" "trọn câu".
Bùi Kim Anh là nhà thơ đồng thời cũng là nhà giáo. Viết về những năm
tháng đứng trên bục giảng, chị có "Bục giảng và những mùa phượng":
Bao lớp học trò ra đi
Bao lần phượng thắm cành rũ lá
Em mang được bao lời của tôi
…
Tôi cúi xuống nhặt cánh phượng rơi
Chưa lấm bụi
Chưa nát nhàu bước thời gian dẫm đạp
…
Cây phượng già cháy đỏ lần hoa mới.
Cỏ là hình ảnh biểu tượng về thân phận của người phụ nữ nhỏ bé, khiêm
nhường. Bùi Kim Anh có tập thơ "Cỏ dại khờ" và nhiều bài thơ có tên cỏ: Cỏ
trắng, Cỏ dại, Cỏ, Mầm của cỏ…
- Bây giờ chị mới đến em
Thì tuổi thơ đã bỏ quên mất rồi
Mộ cha cỏ trắng như phơi
Chị em ta cũng một đời cằn khô
(Cỏ trắng)
Và dưới con mắt nhà thơ, bản thân tác giả (chị em ta) cũng một "đời cằn
khô" như cỏ dại vậy:
- Dại khờ là dại khờ ơi
91
Ai hay cá chép hoá rồng
Trong em là cả một trời bão dông
Để dòng sông phải rỗng không thế này
Ai hay nước nổi lên mây
Mặc cỏ dại phải đêm ngày khát khao
(Cỏ dại)
Mở đầu bài thơ, tác giả nói đến sự dại khờ. Đó là sự dại khờ của mộ t tâm
hồ n trong trẻ o , sự dại khờ của cỏ mọc nơi chân đê. "Dại khờ" nên mới thẫ n
thờ , chờ đợ i trong vô vọ ng thế nà y:
- Có một loại cỏ dại khờ
Lan trên đất lại thẫn thờ theo gió
Có ai đâu tìm hoa cỏ mà xanh xao đợi chờ
- Có một loài cỏ dại khờ
Cứ nhớ nắng để cong xơ xác lá
Mưa tạt qua đất lạ mặc cỏ thành hoang vu
(Cỏ)
Cỏ cứ "dại khờ" mà "xanh xao đợi chờ" mà "nhớ nắng" đến "xơ xác lá"
rồi trở thành "hoang vu". Có cách nói nào hơn cách nói này để bộc lộ sự trong
trẻo, khiêm nhường, vị tha của chủ thể trữ tình trong bài thơ?
- Hình như có mầm của cỏ
Lách lên từ kẽ đất cằn
Chỉ tỉnh yêu là được thế
Hoang sơ chân tóc nỗi niềm
Tình yêu thuở đất bình yên
Tình yêu thuở trời giông bão
Trong em một triền cỏ dại
Bỏ quên rậm lối đi về
92
Chỉ là tình yêu được thế
Thoả thê lửa dạt nước dào
Cỏ không biết hình dáng cỏ
Chồm mình trong trảng đam mê
(Mầm của cỏ)
Nhưng cứ theo qui luật của tự nhiên "cỏ xanh rồi cỏ lại tàn", nên nhà thơ
vẫ n hy vọng:
- Một ngày có chị có em
Triền đê dốc vạt cỏ mềm bước chân
Gió đi để nắng tần ngần
Bao lần xuân nữa bao lần bãi sông
(Một ngày bãi sông)
Có vẻ như là vô thức khi nhà thơ cứ viết về "cỏ" nhưng dường như nằm
sâu trong ý thức chỉ cần gợi nhẹ là bật lên như "mầm của cỏ". Những vật nhỏ
nhoi, mỏng manh, phiêu dạt ấy phản ánh một tâm trạng cũng yếu ớt, bé bỏng,
cô đơn luôn cầ n sự chở che , nâng niu , chăm chú t . Nhưng ở mộ t khí a cạ nh
khác thì hình ảnh cỏ cũng thể hiện rõ tính kiên trì , dai dẳ ng và bấ t tử củ a sự
tồ n tạ i - loài cây nhỏ bé này trong thiên nhiên dù thuận lợi hay khắc nghiệt .
Cỏ quả giống như hình ảnh người phụ nữ vậy.
3.3. Ngôn ngữ thơ
Như đã biế t ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên xây dựng nên một tác phẩm thơ
ca. Ngôn ngữ thơ thể hiện đầy đủ những mặt mạnh và mặt hạn chế trong cách
viết của từng nhà thơ. Ngôn ngữ thơ là yếu tố động, biến hoá và nhiều màu
sắc. Các cấp độ khác nhau, trong bình diện khác nhau - ngôn ngữ đều góp
phần tạo nên nét độc đáo, hấp dẫn riêng, dễ nhận thấy nhất cho tác phẩm của
mỗi nhà văn, nhà thơ.
93
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng có thể chỉ ra một số
phương diện nổi bật trong ngôn ngữ thơ Bùi Kim Anh góp phần bộc lộ cái
Tôi trữ tình trong thơ chị.
3.3.1. Thứ ngôn ngữ vừa giản dị, tự nhiên, đậm chất dân gian, vừa trí tuệ
sâu sắc
3.3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đậm chất dân gian
Trong thơ Bùi Kim Anh, người đọc nhận thấy cách nói tự nhiên với từ
ngữ giản dị gần gũi với cuộc sống thường ngày. Gắn bó sâu sắc với đời
thường, lấy đời thường làm đề tài chính, nhà thơ mang đến cho người đọc
những bài thơ, câu thơ nghe vừ a nhẹ nhàng, gần gũi vừ a giả n dị , dễ hiể u. Chỉ
điểm qua một số tên bài ta đã cảm nhận dược điều đó: Mưa mùa hạ, Chiều
muộn, Cho anh gặp em, Mùa hè ở biển, Thăm cha, Gửi mẹ, Trời mưa, Lời ru
cho con, Gió trở mùa, Nửa đêm, Dành cho con gái, Viếng ông, Ngày giỗ
mẹ…. Hiệ n thự c c uộc sống hiện lên với tất cả vẻ tự nhiên, chân thật và sinh
động của nó. Đọc thơ Bùi Kim Anh, ta thấy ở chị một tâm hồn rất dễ rung
cảm trước những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, vặt vãnh, những chuyện
như là không đâu cũng được chị góp nhặt đưa vào thơ . Cái mà ở người khác
có khi chỉ là chuyện thoáng qua, thì ở chị nó như dừng lại, lắng sâu và đôi khi
trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Khi tổ ấm gia đình của Bùi Kim Anh đang bị só ng gió là m cho nghiêng
ngả, chị phải đứng ra làm "trụ cột" để chị vẫn bình tĩnh đưa vào thơ những từ
ngữ, nhữ ng hì nh ả nh quen thuộ c, có vẻ bình yên như : ngọn đèn, căn gác cũ,
bếp lửa… Nhưng hì nh như chị đã dùng những từ ngữ đó không phả i như một
sự liệt kê các hình ảnh bình thường - mà là cả một sự cân nhắc, lựa chọn kỹ
càng để nói lên những điều sâu xa hơn: sự hiện thân của những gì gắn bó,
thân thiết - các yếu tố có tính gắn kế t, tạo nên mộ t tổ ấm gia đình giản dị ,
vữ ng bề n.
94
Ngôn ngữ thơ Bùi Kim Anh mang mà u sắ c tự nhiên, gắn với sinh hoạt
hàng ngày. Trong thơ chị, ta bắt gặp rất nhiều từ ngữ, hình ảnh của thiên
nhiên, của cuộc sống đời thường. Ví dụ như các từ , các hình ảnh: mưa, nắng,
ngày, đêm, chiều, tối, trăng, sao, hoa, cỏ… thườ ng xuất hiện với tần số cao
trong cá c bà i thơ củ a chị .
Người đọc cũng thấy rất rõ âm hưởng của ca dao trong thơ Bùi Kim Anh.
Âm hưởng ấy có ở trong cá c hình ảnh thơ, âm hưởng ấy có trong cách: diễn
đạt câu thơ, trong cách tổ chức câu thơ, bài thơ.
3.3.1.2. Ngôn ngữ trí tuệ, sâu sắc
Nhà thơ Bùi Kim Anh là một trí thức, bởi thế cùng với cách sử dụng
ngôn ngữ giản dị, tự nhiên thì thơ chị còn thể hiện rõ một tư duy mang tính trí
tuệ sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của mình. Có thể nói, những bài thơ thể
hiện cái Tôi trữ tì nh trước mộ t hiện thực nghiệt ngã đến với chị, với gia đình
chị - đều là những bài thơ chứa nhiều tầng nghĩa. Cái tầng nghĩa thứ hai (sau
nghĩa hiển ngôn) mới là điều chị muốn mang đến cho độc giả. Cái ý nghĩa
hàm ẩn được suy ra từ những câu chữ được chọn lọc kỹ càng giúp cho người
đọc cảm thông với nỗi niềm của tác giả trong những hoàn cảnh cụ thể. Càng ở
những tập thơ sau, người đọc càng thấy rõ hơn đặc điểm này trong việc sử
dụng ngôn từ của Bùi Kim Anh trong cá c bà i thơ củ a mì nh.
- Trống không một khoảng bàn thờ
Nghĩa trang phần mộ chơ vơ không người
Bia vẫn trắng, cỏ vẫn tươi
Mẹ còng lưng suốt một đời nỗi đau
(Bia vẫn trắng)
- Giọt mắt chảy từ nỗi đau
Giọt mắt chảy từ thù hận
95
Là giọt lệ thời gian tẩm ướp đêm dài
Có có - không không vô cùng vô nghĩa.
(Giọt đau)
Qua khả o sá t cá c hì nh ả nh đó , thể hiệ n rấ t rõ , rấ t sinh độ ng trong nhiề u
bài thơ của chị. Nó đã trở thành một nét phong cách riêng của nhà thơ trí thức
này.
3.3.2. Một số cách tổ chức ngôn ngữ
3.3.2.1. Kiểu câu kể, liệt kê
Bùi Kim Anh cũng giống nhiều nhà thơ nữ khác cùng thời chị ưa thích
những đề tài viế t về cuộc sống đời thường và khám phá hiện thực ở tầm vi
mô,và cũng thường chọn lối viết thiên về tình cảm. Thơ chị là thứ thơ giãi bày
tình cảm, thể hiện nhu cầu tự biểu hiện cái Tôi cá nhân là chính vì thế các câu
kể củ a chị khiế n người đọc không chỉ cảm nhận đó là "kể" mà còn là lờ i tâm
sự chân thậ t , chân thậ t tớ i tậ n đá y lò ng của tác giả nữa. Các bài thơ "Một lần
khác mọi lần", "Căn tủ hẹp", "Mỗi ngày", "Em có gì", "Tình yêu của mình",
"Và một cuộc đời", "Đêm"…của chị hầu như đều viết theo lối kể này:
- Ta bày tình yêu của mình trên lối đi
…
Ta viết tình yêu trên nền giấy trắng
…
Ta ngồi dưới ánh đèn để yêu nhau…
(Tình yêu của mình)
"Ta", "Tôi" đã làm gì, như thế nào được tác giả lần lượt kể ra để bộc lộ
mình theo cái mạch kể tự nhiên, giản dị. Có cách kể tự nhiên như nói chuyện:
- May mà phố có con hồ
Ta ngồi ngắm được trăng phô sắc ngà
…
96
- Góc phố có hàng hoa tươi
Cho người mua để tặng người lúc yêu
Bên hồ lũ trẻ thả diều
Phố thả theo cả nắng chiều lên cao
(Phố có con hồ)
Phố có con hồ, có hàng hoa, có lũ trẻ thả diều… được liệt kê tự nhiên
nhưng sau đó là tâm trạng vui vẻ vớ i hì nh ả nh (rất hiếm có ở thơ Bùi Kim
Anh) "phố thả theo cả nắng chiều lên cao".
Bài thơ "Làm đôi" sử dụng cách kể tự nhiên làm cho người độc giả đọc
xong như được nghe một câu chuyện:
- Căn phòng dọc ra làm đôi
Mỗi nửa có một ô cửa sổ
Đồ đạc giằng ra làm đôi
Nhưng đứa trẻ chỉ một thôi
Và con chó Mini cũng một
Đứa trẻ không muốn ở riêng ra với mẹ
Nó sang nửa bên kia khi cha lụi cụi một mình
Và con chó luýnh quýnh vách ngăn
Cào cào cót bởi chưa quen lối
Hai người lớn sau quãng dài tranh cãi
Nếu không có đứa trẻ và con chó
Hai nửa căn phòng
Hai ngôi mộ
Lặng thinh
(Làm đôi)
Có những câu thơ dài miêu tả hiện thực như một đoạn phim: "Cả ngàn
người tiếp tiếp nhập vào Cổng bệnh viện nứt ra mùi con bệnh ám từng song
sắt Ta ngơ ngác họ ngơ ngác Người đi qua khe người Phòng khám phòng
97
chụp mở đóng mở loang loáng Căn bệnh còng tay cùng thần chết nhập vào hồ
sơ nhập vào dãy dường trắng" (Mẹ bên con).
Các bài thơ "Hơi thở đêm", "Ca dao đau đáu riêng con", "Bên kia là đền",
"Buồn xa", … cùng có chung đặc điểm liệt kê, miêu tả của cách diễn đạt này.
3.3.2.2. Kết cấu đối thoại
Bên cạnh việc sử dụng câu kể, liệt kê, Bùi Kim Anh còn rất khéo léo
trong việc sử dụng lố i kết cấu đối thoại. Trong đối thoại, thơ Bùi Kim Anh
thường xuất hiện cặ p nhân vật ! Đó là cặ p nhân vậ t anh - em, chị - em, mẹ -
con, ta - người… với những hình thức đa dạng hỏi - đáp, kể - nghe:
- Lại về Hà Nội nhé anh
Phố xưa em vẫn để dành lối đi
Trách nhau lần nữa làm chi
Hoa tầm xuân có còn gì nữa đâu
(Tìm trong phố cũ)
Cuộc đối thoại giữa anh và em dưới dạng câu cầu khiến rất cụ thể nêu lên
điều em muốn đừng "trách nhau" nữa, anh hãy "về Hà Nội" với em đi!
Trong bài thơ "Em và Viêng Chăn" tác giả Bùi Kim Anh viết:
- Có phải ta đã đến muộn không
lặng lẽ Mê Kông lặng lẽ xuôi chen chúc xanh đôi bờ rợp bóng
ta cứ nghĩ rằng sông cuồn cuộn cứ nghĩ gió Lào rát sạn làn môi
em và Viêng Chăn và Luang Prabang cho ta trở lại thời son trẻ…
em buộc chỉ may mắn
ta giữ đủ ba ngày…
ta giữ đủ một tuần
có phải ta đã đến muộn không?
(Em và Viêng Chăn)
Cuộc đối thoại trong bài thơ trên là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật "ta"
và "em". Còn ở bài thơ "Đi tìm" thì hai nhân vật đối thoại lại là "anh" và
98
"em": "Anh là gì mà en không xa nổi/ Anh là gì mà khiến em vui buồn/ Anh là
gì giữa bình thường thiêng liêng/ Anh là gì giữa nỗi niềm riêng chung/ Anh là
gì mà lặng im/ Em suốt một đời đi tìm". Còn trong bài "Nghe đêm" thì hai
nhân vật đối thoại lại là "ta" và "đêm": "Đêm ơi sao lạ vậy/ Chẳng cho ta giấc
ngủ bình thường…/Hay đêm sợ một mình/ Bắt ta thức nghe đêm than thở".
Ngoài việc sử dụng kết cấu đối thoại, thơ Bùi Kim Anh còn khá phổ biến
hiện tượng lặp từ ngữ, lặp cấu trúc ngữ pháp:
- Người đừng có ước già đi
Để ta ước lại cái thì còn xuân
Người đừng nói câu nửa chừng
Để ta tỏ nỗi ngập ngừng với ai
(Nửa đêm)
Qua hình thức đối thoại, Bùi Kim Anh muốn giải bày tâm trạng của một
cái Tôi mang trong mình bao sự trăn trở bao nghĩ suy về cuộc sống về tình
yêu, hạnh phúc của con người. Tác giả thường hướng tới mộ t đối tượng cụ thể
bên ngoài nào đó để bộc lộ những điều thầm kín trong cõi lòng, nhưng nhiều
khi ta bắt gặp Bùi Kim Anh đối thoại với cả đối tượng vô hình, và cả đối thoại
với chính mình nữ a! Khi đó, đối thoại không phải là để mong muốn sẻ chia
mà đơn thuần chỉ là để bộc bạch để làm vơi đi nỗi cô đơn, sự trăn trở trong
lòng - đối thoại dưới hình thức độc thoại:
- Ta làm thơ để tặng mình
(Bán không cho gió)
- Ta làm con kiến giữa dòng
Bám vào cọng cỏ long đong một mình
Thả cho mưa rập gió rình
Trong cơn xoáy biết nhân tình nổi trôi
(Long đong một mình)
99
Cách bộc bạch nỗi lòng đầy ắp tâm sự, trăn trở, lo âu, đau khổ bằng hình
thức độc thoại là phương thức mà Bùi Kim Anh hay sử dụng trong các bài thơ
của mình. Chị tìm đến hình thức độc thoại, hoặ c hình thức tự đối thoại để thoả
mãn nhu cầu được, thổ lộ, được giãi bày, san sẻ cho vơi nỗ i lò ng.
Tóm lại, những chất liệu ngôn ngữ trong thơ Bùi Kim Anh thườ ng được
lấy từ vố n ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nó mang lại mầ u sắ c
biểu đạt tự nhiên, khiế n cho những vần thơ của chị trở nên gầ n gũ i hơn , dễ
giao cả m hơn vớ i ngườ i đọ c . Bên cạnh đó, trong thơ Bùi Kim Anh cũng có
một số lượng đáng kể những từ ngữ mang màu sắc phong cách ngôn ngữ gọt
giũa sắ c sả o, tinh tế làm cho thơ chị thể hiện rõ tính trí tuệ sâu sắc. Bùi Kim
Anh đã sử dụng một cách hợp lý và sáng tạo các chất liệu ngôn ngữ các hình
thức biểu đạt góp phần làm rõ cái Tôi trữ tình trong thơ chị.
3.4. Giọng điệu
"Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng "trời phú" của mỗi tác giả
nhưng mang nội dung khái quát, nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể hiện.
Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng có nhiều sắc thái trên
cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo chứ không đơn điệu" (Nguyễn Khắc Phi,
Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học).
Bùi Kim Anh phầ n lớ n đã lấy chính cuộc đời mình ra làm thơ với tất cả
yêu ghét, vui buồn, lo lắng, trăn trở, suy tư. Kín đáo, giản dị nhưng sâu sắc -
chị viết như một sự giải toả với khát vọng có một cuộc sống nữa ở trong thơ.
Chị đã tạo cho mình một giọng thơ vừa khắc khoải, lo âu, vừa xót xa, oán
trách nhưng tế nhị sâu sắc và cũng đầy mạnh mẽ, quyế t liệ t.
3.4.1. Giọng điệu khắc khoải, lo âu nhưng cũng đầy mạnh mẽ
Đọc thơ Bùi Kim Anh người đọc gặp một giọng thơ trầm lắng, nhiều day
dứt, khắc khoải, lo âu nhưng đầy mạnh mẽ. Rơi vào tình huố ng đau đớn bất
ngờ, Bùi Kim Anh luôn luôn có một tâm trạng xót xa, cô đơn, cay đắng. Vì
100
vậy, thơ chị có rất nhiều từ chỉ tâm trạng bất an với những mô tuýp lặp đi lặp
lại gây ám ảnh cho người đọc. Những từ ngữ như: cô đơn, bất hạnh, đớn đau,
ưu phiền, bão giông, nhẫn nại và những hình ảnh chất chứa tâm trạng: chiều,
đêm, mưa, hoa dại, cỏ dại…xuất hiện với tần số cao, tất cả gợi nên một thế
giới nội tâm riêng của tác giả trong thơ Bùi Kim Anh.
Sự nhạy cảm trong người phụ nữ làm thơ về thời gian, sự thay đổi của
lòng người, của nhân tình thế thái khiến cho tâm hồn Bùi Kim Anh không lúc
nào yên. Như một bản năng, chị ra sức chống chọi với cái hiện thực đau đớn
đến tận cùng trong con người chị bằng chính nỗ lực của bản thân, bằng trái
tim yêu thương và bàn tay chăm chút của một người phụ nữ, bằng thiên chức
của một người vợ và một người mẹ trong gia đình khi gặ p phong ba, bão tố.
Ở hai tập thơ đầu (Viết về mình, Cỏ dại khờ), Bùi Kim Anh giãi bày một
tình yêu chân thật, kín đáo và đầy tính truyền thống. Nhưng ở các tập thơ sau
(Lối mưa, Bán không cho gió, Lời buồn trên đá, Lục bát cuối chiều, Bắc lên
ngọn gió mà cân) thì vẫn tình yêu chân thật và kín đáo ấy còn kèm theo sự lo
âu, khắc khoải sự day dứ t, đớ n đau – có lúc đến tột cùng:
- Em không thể vứt đi nỗi buồn của mình
Bởi anh đã gieo và ngày ngày vun xới
Em không thể xé nỗi buồn ném vào đêm tối
Nó đã lớn lên trong em như một bào thai.
(Không thể)
Vậy mà trước đó:
- Dễ dàng mưa mùa hạ
Là tình yêu của anh…
Nơi mà anh trú lại
Là tình yêu của em
(Mưa mùa hạ)
101
Lời thơ của chị khi thì nhẹ nhàng, thủ thỉ, khi lại mạnh mẽ, kiên quyết.
Nỗi lo lắng trở đi trở lại trong thơ chị:
Anh là gì mà em không xa nổi…
Anh là gì mà khiến em vui buồn…
Anh là gì giữa bình thường thiêng liêng
Có lúc tưởng mất nhau phần còn lại
Trong ý nghĩ đã bần thần tê tái
Anh là gì mà lặng im
Em suốt một đời đi tìm
(Đi tìm)
Các bài thơ "Núi một mình", "Dòng sông không phải của mình", "Chơi
vơi", "Ngỡ ngàng gió trở mùa", "Chỉ có mùa đông"…là các ví dụ tiêu biểu về
đặc điểm lặp từ ngữ và lặp cấu trúc ngữ pháp, nhằ m thể hiệ n nhữ ng tâm trạ ng
xót xa, đau đớ n mà bả n lĩ nh ấ y.
Lo âu, khắc khoải thường trực trong thơ Bùi Kim Anh. Nó tạo ra trong
thơ chị nhiều giọng thơ phong phú: khi trăn trở, thở than, khi ngơ ngác, thảng
thốt, khi bình tĩnh, tự tin... Đó là những sắc điệu trong giọng thơ, hồn thơ Bùi
Kim Anh - một giọng thơ đầy nữ tính nhưng cũ ng đầ y sức mạnh.
3.4.2. Giọng thơ xót xa, oán trách nhưng tế nhị, sâu sắc
Âm điệu buồn da diết gợi đến từ sâu xa trong ý thức về thân phận mình,
cảnh ngộ gia đình mình khiến cho giọng thơ trở nên xa xót, oán hờn.
Thơ Bùi Kim Anh là thơ của một tấm lòng giàu yêu thương và chứ a chấ t
bao cả m xú c củ a tấm lòng đầy trắc ẩn rấ t thương người bên cạ nh, thương thân
trước những vất vả, đắng cay của cuộc đời. Những bài thơ, câu thơ viết về
người lao động ở cái chợ người "Trên đường Giảng Võ" viết về hình ảnh
những em bé đánh giày, những người ăn xin… gây ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc.
- Là chợ mà chỉ có người
Phơi phong từng đám giữa trời bơ vơ…
102
Chợ người chẳng bán người đâu
Dãi dầu bán cái dãi dầu mà thôi
(Trên đường Giảng Võ)
- Ta về trong cuộc trầm luân
Thơ thành lời nguyện âm thầm khi đêm
(Rũ thu choàng áo)
- Câu thơ ngồi ở trong nhà
Trước màn hình để xót xa nỗi người
Rằng thương thì thương vậy thôi
Chẳng thay được nạn kiếp đời bằng thơ
(Câu thơ đã cũ vẩn ra vẩn vào)
Những đoạn thơ, câu thơ như thế xuất hiện khá nhiều trong thơ Bùi Kim
Anh nhất là ở những tập thơ sau của chị. Một tâm trạng cô đơn, đau đớn được
viết ra với một giọng thơ xót xa, oán trách là một lẽ tất nhiên. Có điều, đây đó
vẫn có những bài thơ, những câu thơ (thường xuất hiện ở cuối bài) người đọc
vẫn thấy được bên cạnh sự tế nhị, sâu sắc là lấp lánh niềm tin từ sự gắng gỏi
vượt lên số phận của chính mình.
Tóm lại, giọng điệu thơ chủ yếu trong thơ Bùi Kim Anh (đặ c biệ t ở giai
đoạ n sau) là giọng thơ xót xa, oán trách nhưng tế nhị, sâu sắc vớ i mộ t âm điệu
buồn thương da diết.
103
KẾT LUẬN
1. Cái Tôi trữ tình là sự thể hiện trực tiếp những xúc cảm và suy tư chủ
quan của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước hiện thực cuộc sống. Cái
Tôi trữ tình có cấu trúc mang tính nghệ thuật với vai trò tổ chức thế giới hợp
thành một chỉnh thể thống nhất nhờ các phương tiện ngôn ngữ, khả năng xúc
cảm toàn bộ thế giới thực thành thế giới tinh thần bền vững, thống nhất, đầy
sáng tạo mang những nét cá tính riêng biệt. Cái Tôi trữ tình mang giá trị
thẩm mỹ kết tinh từ cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ và từ giá trị văn hoá
truyền thống. Trong nghệ thuật, người nghệ sĩ dựng lên cho mình hình tượng
cái Tôi trữ tình để khẳng định bản chất tinh thần, tìm đến tiếng nói tri âm
trong lòng người đọc. Trong thơ trữ tình cái Tôi bộc lộ trực tiếp trước hiện
thực, nó vừa là chủ thể vừa là khách thể.
Tìm hiểu cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh, người viết mong
muốn góp một tiếng nói, một cách nhìn nhận, đánh giá nói chung về thơ Bùi
Kim Anh. Qua đó, chúng tôi cũng hy vọng phác hoạ được chân dung tinh
thần của tác giả qua 7 tập thơ của chị.
2. Cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh được thể hiện trước hết ở
tình cảm của một người phụ nữ trí thức lúc nào cũng đầy nỗi niềm, tâm trạng.
Một cái Tôi luôn bộc lộ những nỗi niềm riêng tư và tâm trạng ưu phiền của
chính mình. Nhưng không chỉ bộc lộ tình cảm nỗ i niề m của một người phụ
nữ trí thức, thơ Bùi Kim Anh còn mang giá trị nhân văn sâu sắc bởi một cái
Tôi nhân hậu luôn biết cảm thông, chia sẻ và xót xa, đau đớn trước những
cuộc đời, số phận của những con người, những kiếp người bất hạnh trong xã
hội hiện đại.
Từ việc khảo sát, hệ thống, phân tích thơ Bùi Kim Anh một cách toàn
diện cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, luận văn không chỉ nêu ra đặc điểm
104
của cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh mà còn bước đầu chỉ ra ít nhiều
những đóng góp của tác giả trong phong trào thơ nữ Việt Nam đương đại.
Bùi Kim Anh là người viết nhiều, viết khoẻ (từ 1995-2010 chị cho ra
đời 7 tập thơ và hiện nay sắp ra tập thứ 8). Ba tập thơ đầu "Viết cho mình"
(1995), "Cỏ dại khờ" (1996), "Lối mưa" (1999) chị viết hiền lành các bài thơ
ngắn, tứ thơ gọn. Bốn tập thơ sau "Bán không cho gió" (2005), "Lời buồn
trên đá" (2007), "Lục bát cuối chiều" (2008), "Bắc lên ngọn gió mà cân"
(2010), chị viết sắc sảo, mạnh mẽ lên và gần với cuộc đời hơn. Thơ chị bộc
lộ cái Tôi trữ tình mang những đặc điểm riêng khó trộn lẫn với thơ của các
nhà thơ nữ khác cùng thời. Đó là cái Tôi kín đáo, dịu dàng, sâu sắc, đầy nỗi
niềm và lòng trắc ẩn. Đó là cái Tôi mạnh mẽ, bản lĩnh đối mặt với nỗi buồn,
nỗi bất hạnh trong cuộc đời.
3. Để thể hiện cái Tôi trữ tình ấy, tác giả Bùi Kim Anh đã sử dụng
nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau và đã có những thành công nhất định để
lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Bùi Kim Anh không chỉ sử dụng đắc địa thể thơ lục bát mà chị còn có
những sáng tạo riêng của mình. Chính vì vậy mà những sáng tác theo thể thơ
lục bát có thể xem là một thành công lớn của chị. Bên cạnh thể thơ lục bát
truyề n thố ng, Bùi Kim An h cò n là ngườ i sử dụ ng thà nh thạ o , linh hoạ t, đầ y
hiệ u quả củ a thể thơ tự do. Thơ tự do trong cá c sá ng tá c củ a Bù i Kim Anh rấ t
phù hợp với những tâm trạng , nhữ ng cả m xú c phứ c tạ p trà o dâng và cuộ n
chảy của các nhà thơ thờ i kỳ hiệ n đạ i . Hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu thơ
cũng là những đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Bùi Kim Anh. Có thể
thấy Bùi Kim Anh đã có những tìm tòi độc đáo trong việc tìm kiếm, chọn lọc
những hình ảnh và từ ngữ vừa mang tính chân thực lại vừa sinh động có hiệu
ứng thẩm mỹ cao gây rung động mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc.
105
Thơ Bùi Kim Anh là sự thể hiện, ngòi bút của chị chủ yếu đi vào khai
thác tâm trạng của chính bản thân nhà thơ. Có thể nói cái Tôi trữ tình trong
thơ Bùi Kim Anh là mộ t cái Tôi có nét riêng trong cách cảm, cách nghĩ,
trong giọng điệu thơ và trong cả nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong câu thơ.
So với các nhà thơ nữ cùng thời khác, thơ chị có cái riêng không thể
"trộn lẫn" bởi sự kín đáo, thâm trầm, u uẩn, đầy tâm trạng của một phụ nữ trí
thức luôn có ý thức sâu sắc về mình và về số phận của những người phụ nữ
thời kỳ hiện đại với bao nỗi niềm trước cuộc đời vốn rất phức tạp, đầy niềm
vùi, hạnh phúc cũng đầy buồn đau và bất hạnh.
Bên cạ nh đó , cái Tôi trữ tình ấy đ ôi khi cũ ng quá bi lụ y , chìm ngập
trong đau thương , xót xa, không tì m thấ y lố i thoá t khiế n ngườ i đọ c cũ ng bị
nặ ng nề và bị lụ y theo . Cái Tôi trữ tình ấy cũng đôi khi thiếu cái nhìn tổng
thể về xã hộ i vớ i nhữ ng mặ t tố t đ ẹp của nó . Do đó , đọ c thơ Bù i Kim Anh ,
ngườ i đọ c luôn cả m thấ y xó t xa , trĩu nặng , đôi khi mệ t mỏ i vì nhữ ng nỗ i
niề m ai oá n củ a tá c giả đố i vớ i cuộ c đờ i . Đây cũ ng là mộ t hạ n chế đá ng nó i
của tác giả này.
Thông qua sự tìm hiểu "Cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh" chúng
ta có thể thấ y rằng: thơ Bùi Kim Anh đã khẳ ng đị nh đượ c sự có mặ t củ a
mình trên thi đàn văn học dân tộc thời hiện đại. Cái Tôi trữ tình trong thơ Bùi
Kim Anh với những màu sắc riêng biệt đã góp phần làm nên "bản sắc" và sự
phong phú cho thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện đại. Đó cũng chính là những đóng
góp đáng trân trọng của nhà thơ nữ Bùi Kim Anh.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vò TuÊn Anh (1997), Nöa thÕ kû th¬ ViÖt Nam
1945-1955, NXBKHXH
2. L¹i Nguyªn ¢n (biªn so¹n, 2003), 150 thuËt ng÷
v¨n häc, §¹i häc quèc gia Hµ néi
3. Ph¹m Quèc Ca (2003), MÊy vÊn ®Ò th¬ ViÖt Nam
1975-2000 (Chuyªn luËn), NXB Héi nhµ v¨n
4. C¸c nhµ th¬ n÷ Hµ Néi (2004), Hå T©y ®ang ®Ñp
mïa sen (th¬), Héi Liªn hiÖp V¨n häc nghÖ thuËt
Hµ Néi
5. NguyÔn Phan C¶nh (1987), Ng«n ng÷ th¬, NXB
§¹i häc vµ trung häc chuyªn nghiÖp
6. NguyÔn V¨n C¶nh (2011), Ng«n ng÷ th¬ ca, NXB
v¨n ho¸ th«ng tin
7. NguyÔn ViÖt ChiÕn (2008), Th¬ ViÖt Nam 30 n¨m
c¸ch t©n, NXB Qu©n ®éi nh©n d©n
8. H÷u §¹t (1996), Ng«n ng÷ th¬ ViÖt Nam, NXB Gi¸o
dôc Hµ Néi
9. Phan Cù §Ö (Chñ biªn, 2004) V¨n häc ViÖt Nam
thÕ kû XX , NXB Gi¸o dôc
10. NguyÔn §¨ng §iÖp (2002), Giäng ®iÖu th¬ tr÷
t×nh, NXB V¨n ho¸ th«ng tin, Hµ Néi.
11. NguyÔn §¨ng §iÖp (2006), Th¬ ViÖt Nam sau 1975-
tõ c¸i nh×n toµn c¶nh, Nghiªn cøu v¨n häc (11)
107
12. Hµ Minh §øc (1994),Nhµ v¨n nãi vÒ t¸c phÈm, NXB
Gi¸o dôc
13. Hµ Minh §øc (1997) Mét thêi ®¹i trong thi ca,
NXB KHXH.
14. Hµ Minh §øc (1998), Th¬ vµ mÊy vÊn ®Ò trong th¬
ViÖt Nam hiÖn ®¹i, NXB gi¸o dôc
15. Hµ Minh §øc (chñ biªn 1999), Lý luËn v¨n häc,
NXB Khoa häc x· héi
16. Hµ Minh §øc (1999), V¨n häc ViÖt Nam hiÖn ®¹i,
NXB Hµ Néi.
17. Lª B¸ H¸n, TrÇn §×nh Sö, NguyÔn Kh¾c Phi (§ång
chñ biªn,1997) Tõ ®iÓn thuËt ng÷ v¨n häc, NXB §¹i
häc quèc gia Hµ Néi.
18. Bïi C«ng Hïng (1983), Gãp phÇn t×m hiÓu nghÖ
thuËt th¬ ca, NXB KHXH.
19. Bïi C«ng Hïng (1985), Nh÷ng ®Æc ®iÓm cña th¬
ViÖt Nam hiÖn ®¹i (1945-1975), T¹p chÝ v¨n häc,
sè (2)
20. Bïi C«ng Hïng (2000), TiÕp cËn nghÖ thuËt th¬
ca, NXB VHTT
21. Bïi C«ng Hïng (2000), Sù c¸ch t©n th¬ ca ViÖt
Nam hiÖn ®¹i, NXB VHTT
22. §ç §øc HiÓu (2000), Thi ph¸p hiÖn ®¹i, NXB Héi
nhµ v¨n
108
23. §ç §øc HiÓu, NguyÔn HuÖ Chi, Phïng V¨n Töu,
TrÇn H÷u T¸, (chñ biªn, 2003) Tõ ®iÓn thuËt ng÷
v¨n häc (bé míi) NXB ThÕ giíi, Hµ Néi.
24. Tè H÷u (1973), X©y dùng mét nÒn v¨n nghÖ lín
xøng ®¸ng víi nh©n d©n ta, thêi ®¹i ta, NXB V¨n
häc Hµ Néi.
25. Lª §×nh Kþ (1997), Ng«n ng÷ th¬, NXB Thanh niªn
26. TrÇn Hoµng Thiªn Kim, Th¬ n÷ trÎ ® ¬ng ®¹i quan
niÖm, thÓ nghiÖm vµ xu h íng (T¹p chÝ V¨n nghÖ
Qu©n ®éi sè 745, th¸ng 3/2012)
27. M· Giang L©n, Hå ThÕ Hµ (1994) Søc bÒn cña th¬,
NXB Héi nhµ v¨n
28. Mµ Giang L©n, (2001) , TiÕn tr×nh th¬ ViÖt Nam
hiÖn ®¹i NXB Gi¸o dôc
29. M· Giang L©n, (2004), Th¬ h×nh thµnh vµ tiÕp
nhËn, NXB §¹i häc quèc gia Hµ Néi.
30. M· Giang L©n, (2011), Nh÷ng cÊu tróc cña th¬,
NXB Quèc gia Hµ Néi.
31. Phong Lª (1984) Nhµ th¬ ViÖt Nam hiÖn ®¹i, NXB
KHXH Hµ Néi
32. Phong Lª (2001), V¨n häc ViÖt Nam hiÖn ®¹i
nh÷ng ch©n dung tiªu biÓu, NXB §¹i häc quèc gia.
33. Phong Lª,Vò V¨n Sü , BÝch Thu, L u Kh¸nh Th¬
(2001), Th¬ ViÖt Nam hiÖn ®¹i, NXB lao ®éng.
34. Phong Lª (2005), VÒ v¨n häc ViÖt Nam hiÖn ®¹i
nghÜ tiÕp…. NXB §¹i häc quèc gia Hµ Néi.
109
35. Ph ¬ng Lùu (1997), Lý LuËn v¨n häc, NXB Gi¸o
dôc
36. NguyÔn §¨ng M¹nh (2002) Con ® êng ®i vµo thÕ
giíi nghÖ thuËt cña nhµ v¨n, NXB Gi¸o dôc
37. NguyÔn §¨ng M¹nh (2002) LÞch sö v¨n häc ViÖt
Nam – tËp 1, NXB §¹i häc s ph¹m.
38. NguyÔn §¨ng M¹nh (2006) Nhµ v¨n ViÖt Nam hiÖn
®¹i ch©n dung vµ phong c¸ch, NXB v¨n häc.
39. T«n Th¶o Miªn (1999) VÒ kh¸i niÖm phong c¸ch
c¸ nh©n cña nhµ v¨n, T¹p chÝ v¨n häc.
40. NguyÔn Xu©n Nam (1997), Th¬ t×m hiÓu vµ th ëng
thøc, NXB T¸c phÈm míi.
41. Vò Nho (2003) “ Chóng t«i lµm th¬ ghi lÊy cuéc
®êi m×nh ” , T¹p chÝ nhµ v¨n - Héi nhµ v¨n
42. NhiÒu t¸c gi¶ (1984), Nhµ th¬ ViÖt Nam hiÖn
®¹i, NXB Khoa häc x· héi.
43. Bïi V¨n Nguyªn, Hµ Minh §øc (2006) Th¬ ca ViÖt
Nam h×nh thøc vµ thÓ lo¹i, NXB §¹i häc quèc gia
Hµ Néi.
44. Vò Nho (2009), 33 g ¬ng mÆt th¬ n÷, NXB Héi nhµ
v¨n.
45. Lª L u Oanh (1999), Th¬ tr÷ t×nh ViÖt Nam 1975 -
1990, NXB §¹i häc quèc gia.
46. NguyÔn Kh¾c Phi, TrÇn §×nh Sö ( ), Tõ ®iÓn
thuËt ng÷ v¨n häc
110
47 Hoµng Phª (chñ biªn), (1997), Tõ ®iÓn tiÕng
ViÖt, NXB Hµ Néi - §µ N½ng.
48. Ng« V¨n Phó(2000), V¨n ch ¬ng vµ ng êi th ëng
thøc, NXB Héi nhµ v¨n.
49. Phan DiÔm Ph ¬ng (1998), Lôc b¸t vµ song thÊt lôc
b¸t, NXB KHXH, Hµ Néi
50. Vò QuÇn Ph ¬ng (1998), Th¬ víi lêi b×nh, NXB
Gi¸o dôc.
51. TrÇn §×nh Sö (1993), C¸i t«i vµ h×nh t îng tr÷
t×nh , B¸o v¨n nghÖ sè (19)
52. TrÇn §×nh Sö (1997), Nh÷ng thÕ giíi nghÖ thuËt
th¬, NXB Gi¸o dôc.
53. TrÇn §×nh Sö (2000), Lý luËn vµ phª b×nh v¨n
häc, NXB Gi¸o dôc.
54. Chu V¨n S¬n (2007) Th¬, ®iÖu hån vµ cÊu tróc,
NXB Gi¸o dôc.
55. NguyÔn Minh TÊn (1975), Nguån c¶m høng quan
träng bËc nhÊt cña s¸ng t¹o nghÖ thuËt, T¹p chÝ
v¨n häc sè (6).
56. Hoµi Thanh, Hoµi Ch©n (1996), Thi Nh©n ViÖt
Nam, NXB v¨n häc.
57. NguyÔn B¸ Thµnh (1997), T duy th¬ vµ t duy
th¬ hiÖn ®¹i ViÖt Nam, NXB V¨n häc.
58. Lý Hoµi Thu (1998), Th¬ Xu©n DiÖu tr íc c¸ch
m¹ng th¸ng T¸m - 1945, NXB Gi¸o dôc Hµ Néi.
111
59. Th¬ míi 1932-1945, T¸c gi¶ vµ t¸c phÈm, (1998)
NXB Héi nhµ v¨n ViÖt Nam .
60. TrÇn ThÞ V©n Trung (2002), NguyÔn BÝnh – Th¬ vµ
®êi, NXB V¨n häc, Hµ Néi
61. Lª Dôc Tó (2001) Nh÷ng ®ãng gãp cña th¬ n÷
trong phong trµo th¬ míi, T¹p chÝ S«ng H ¬ng (7).
62. (T¹p chÝ V¨n nghÖ Qu©n ®éi sè 745, th¸ng
3/2012), TrÇn Hoµng Thiªn Kim, Th¬ n÷ trÎ ® ¬ng
®¹i quan niÖm, thÓ nghiÖm vµ xu h íng