i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
NGUYỄN THÁI DŨNG
CẢM QUAN ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2017
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
NGUYỄN THÁI DŨNG
CẢM QUAN ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hải Ninh
Thái Nguyên – 2017
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thái Dũng
iv
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,
Khoa sau đại học, Khoa Văn - X ã h ộ i , T rường Đại học Khoa học - Đại học
Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá
trình học tập. đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Hải Ninh
- người đã tận tình hướng dẫn, tin tưởng và giúp đỡ trong suốt quá trình tác giả
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
khích lệ để tác giả hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thái Dũng
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC .............................................................................................................. i
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2
2.1. Những đánh giá về văn học đô thị trong văn học Việt Nam đương đại . 2
2.2. Những đánh giá về tác phẩm của Phong Điệp ........................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 9
4.1. Phương pháp hệ thống. ............................................................................ 9
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu. ............................................................. 9
4.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp. ......................................................... 9
4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội. ................................................................. 9
4.5. Phương pháp thống kê - khảo sát. ........................................................... 9
4.6. Phương pháp thi pháp học ..................................................................... 10
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................. 10
5.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 10
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 10
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 10
7. Đóng góp của luận văn. ............................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CẢM QUAN ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT PHONG ĐIỆP ........................................................... 12
1.1. Giới thuyết về cảm quan đô thị trong văn học ......................................... 12
1.1.1. Văn học đô thị .................................................................................... 12
1.1.2. Cảm quan đô thị ................................................................................. 14
vi
1.2. Sơ lược về cảm quan đô thị trong văn học Việt Nam............................... 17
1.2.1. Giai đoạn trước thế kỷ XX ................................................................. 17
1.2.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến 1945 ...................................................... 19
1.2.3. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ............................................................... 25
1.2.4. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay ................... 26
1.3. Sự hình thành cảm quan đô thị trong sáng tác Phong Điệp ...................... 29
TIỂU KẾT ........................................................................................................ 33
CHƯƠNG 2: CẢM QUAN VỀ ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP ................................................................ 35
2.1. Cảm quan về đời sống đô thị .................................................................... 35
2.1.1. Quá trình đô thị hóa và góc nhìn đô thị .............................................. 35
2.1.2. Những xung đột giá trị văn hóa, đạo đức trong đời sống đô thị ........ 40
2.2. Cảm quan về con người đô thị .................................................................. 47
2.2.1. Con người trong cuộc mưu sinh và lập nghiệp .................................. 47
2.2.2. Con người với ký ức về quá khứ và quê nhà ..................................... 54
2.2.3. Con người tha hóa. ............................................................................. 57
TIỂU KẾT ........................................................................................................ 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM
QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP ...................... 62
3.1. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................... 62
3.1.1. Ngôn ngữ mang màu sắc thị dân đời thường ..................................... 62
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu và tốc độ. ................................................... 67
3.2. Ngôi kể và điểm nhìn ................................................................................ 71
3.2.1 Ngôi kể ................................................................................................ 71
3.2.2. Điểm nhìn ........................................................................................... 74
3.2.2.1. Điểm nhìn bên trong .................................................................... 75
3.2.2.2. Sự di động điểm nhìn ................................................................... 78
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật ......................................................... 84
vii
3. 3.1 Không gian nghệ thuật. ...................................................................... 84
3.3.1.1. Không gian thành thị đầy bất trắc. ............................................... 85
3.3.1.2. Không gian đô thị ảo. ................................................................... 92
3.3.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 93
3.3.2.1. Độ căng và sức nén của thời gian ................................................ 97
3.3.2.2 Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian ..................................... 101
TIỂU KẾT ...................................................................................................... 104
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 108
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp năm 1858 đã làm thay đổi rõ
rệt mọi mặt của xã hội Việt Nam và tác động lớn tới đời sống văn hóa cũng như
văn học Việt Nam. Tuy chưa hình thành một dòng văn học đô thị nhưng ngay từ
nửa đầu thế kỷ XX, cảm quan đô thị đã xuất hiện khá nhiều trong văn học đặc biệt
là văn học giai đoạn 1930-1945. Các nhà văn như Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng, Nam Cao…, những người sống trong bầu khí của quá trình đô thị
hóa thời kỳ này đã bộc lộ những cảm xúc, thái độ và cái nhìn riêng về đời sống
đô thị qua hàng loạt các tiểu thuyết, truyện ngắn tiêu biểu của mình.
Phong Điệp thuộc thế hệ nhà văn sinh ra sau chiến tranh, trưởng thành trong
thời kì hội nhập mạnh mẽ. Tác giả này được đông đảo độc giả biết đến qua truyện
ngắn Ma mèo, truyện ngắn được giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn
trên báo Văn nghệ Trẻ 1996 – 1997, khi chị vẫn còn là sinh viên đại học. Sau này,
tên tuổi của chị đã có một vị trí vững chắc trong lòng độc giả qua hàng loạt các
tiểu thuyết như Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức, Vực gió và các tập truyện
ngắn tiêu biểu như Khi ta hai mươi, Ma mèo, Người phía bên kia đường, Phòng
trọ, Vườn hoang, Kẻ dự phần..., tản văn Bay trên mái nhà thành phố...
Sinh ra ở thành Nam, học tập, sinh sống và làm việc ở Hà Nội, tuy nhận
mình là dân “ngụ cư” nơi Hà thành nhưng Phong Điệp luôn nặng trĩu suy tư về
đô thị nơi chị đang sống. Có thể nói rằng, Phong Điệp viết nhiều truyện ngắn và
tiểu thuyết về đề tài đô thị. Qua các tác phẩm của mình, Phong Điệp đã có những
kiến giải riêng về đời sống đô thị theo cách nhìn của một nhà văn nữ sắc sảo và
tinh tế
Trong thời gian qua, các tác phẩm của Phong Điệp đã được đông đảo các
nhà văn, giới phê bình, nghiên cứu và bạn đọc nhiệt thành đón nhận. Đã có những
cuộc hội thảo, bài viết, luận văn nghiên cứu về cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật tự
2
sự của tiểu thuyết Phong Điệp. Nhiều bài báo đã đề cập vấn đề đô thị trong tiểu
huyết của Phong Điệp, song chưa có công trình nghiên cứu nào lấy cảm quan đô
thị làm đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Luận văn lựa chọn “Cảm
quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp” làm đề tài nghiên cứu nhằm tìm
hiểu và lý giải những nét mới và riêng khác trong cảm quan đô thị của một cây
bút đáng chú ý hiện nay, góp phần nhận diện sự đa dạng, phong phú của bức tranh
văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những đánh giá về văn học đô thị trong văn học Việt Nam đương đại
Có thể nói, trong những năm gần đây, văn học đô thị thu hút được sự quan
tâm của đông đảo các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình, học viên, sinh viên
và cả bạn đọc. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều luận văn thạc sĩ, đã lấy văn học đô thị
làm đối tượng nghiên cứu. Trong cuộc tọa đàm “Văn học đô thị hôm nay” do tạp
chí Người đô thị tổ chức, nhà báo Trần Trung Chính cho rằng: “Trong các thuộc
tính của văn học đô thị đã được nêu: cuộc sống người viết, khung cảnh và con
người thị dân, tính hiện đại (cũng là tính đô thị) có thể là các cơ sở để nhận biết
một tác phẩm văn học đô thị. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp cụ thể nào,
một tác phẩm cụ thể nào cũng hội đủ các yếu tố đó. Có thể nói rằng văn học đô
thị Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành, như hình hài các đô thị Việt
Nam.” [47].
Cũng trong tọa đàm về văn học đô thị này, Đỗ Lai Thúy cho rằng “tiểu
thuyết đô thị Việt Nam còn ít về đề tài đô thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được
nhìn bằng sự hoài niệm nông thôn. Bởi vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện
ở phương diện thể loại”[47].
Đại diện cho các nhà văn trẻ tham gia buổi tọa đàm, Hà Thủy Nguyên chia
sẻ: “Thế hệ những người được sinh ra ở đô thị (8x, 9x) thì sự ám ảnh về đô thị
hóa như là sự thoái hóa về nhân cách con người không phải vấn đề lớn. Đề tài
mà họ quan tâm là viết về bản thân mình, những chiêm nghiệm, suy nghĩ, suy
3
tưởng bản thân. Họ chui vào đó (bản thân) và câu chuyện văn chương của họ,
viết về chính thế giới ấy”[47]. Chị tin tưởng: “khi chúng ta hoàn toàn ở trong đô
thị rồi, chúng ta thấm nhuần tính đô thị, họ sẽ viết về những điều khác”.
Là người luôn bám sát mảng văn xuôi Việt Nam đương đại, Đỗ Hải Ninh
nhấn mạnh đến cảm thức về đô thị: “Trong văn học đương đại đã có những tác
giả thành công khi viết về đô thị, thể hiện được nét đặc sắc cuộc sống và con
người đô thị như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh
Lam, Trần Nhã Thụy, Phong Điệp,... Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu khuất
của con người và đời sống đô thị: nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống đơn điệu,
thiếu vắng. Cuộc sống đô thị vừa là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh
công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ẩn chứa những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và
nỗi mặc cảm…”[47].
Với cái nhìn khá lạc quan về văn học đô thị, Nguyễn Mạnh Tiến cũng có
nhận xét: “nếu như văn học đô thị ở phương Tây là một dòng phát triển lớn, có
nhiều thành tựu đáng kể thì văn học đô thị ở Việt Nam, dù là một vấn đề thú vị,
vẫn chưa phải là dòng chủ lưu. Đó là, đô thị Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thực
sự là đô thị theo đúng nghĩa của nó. Đô thị Việt Nam là sự chắp vá, chỉ là “cái
siêu làng” trương nở ra mà thôi. Vì thế, người sống ở đô thị Việt Nam, trong đó
có cả các nhà văn, vẫn mang nặng tâm tính, nếp nghĩ, nếp cảm của nông dân, cho
dù họ có tuyên bố là đã “đô thị hóa” hoàn toàn. Chính bởi thế, văn học đô thị dù
hình thành nhưng không phát triển mạnh mẽ và chưa được giới nghiên cứu đi sâu
tìm hiểu. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của các đô thị, sự mở rộng các đô thị
xâm lấn vùng nông thôn, có thể nhìn thấy trước văn học đô thị sẽ là một chủ đề
nổi trội.”[47].
Cũng có những kiến giải riêng về văn học đô thị, Mai Anh Tuấn khẳng định
“sự vắng mặt hoặc bị lép vế khá lâu của tầng lớp trung lưu đô thị và tư sản nội
địa trong xã hội miền Bắc từ sau 1945 khiến cho văn học giai đoạn này ít đề cập
đến đô thị. Phải từ Đổi mới, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
4
Hoài thì đô thị mới tái xuất với tư cách là nơi chốn của các yếu tố thị trường và
nhân cách, đạo đức mới/khác có khả năng phá vỡ các giá trị mặc định và đối
kháng với nông thôn. Muộn hơn, trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà và gần đây
là của các nhà văn trẻ, đô thị được nhìn ở khía cạnh lịch sử, thế tục của nó, nơi
cần đến thái độ chấp nhận hơn là chối từ, dù về cơ bản, nó luôn khía vào nỗi cô
đơn, lạc lõng, sự phân rã của con người. Cảm thức đô thị đương đại, vì thế, đòi
hỏi những nỗ lực làm mới bút pháp và thể loại để vừa lòng độc giả ngày một sành
sỏi”[47].
Dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng các ý kiến đều khẳng định văn học
đô thị Việt Nam tuy chưa phát triển mạnh mẽ và chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức nhưng mảng văn học này đã có những đóng góp không nhỏ đối với văn
học Việt Nam và trong tương lai sẽ là một mảng đề tài nổi trội.
2.2. Những đánh giá về tác phẩm của Phong Điệp
Nhà văn Phong Điệp thành công khá sớm và có sức viết khá bền bỉ, các tập
truyện ngắn và sau này là tiểu thuyết của chị liên tục xuất hiện với tần suất khá
dày và đều, một số tập truyện ngắn đã được giải thưởng cao trong các cuộc thi.
Đọc truyện ngắn của Phong Điệp ta có thể nhận thấy “cái hay trước hết là ở nội
dung câu chuyện, thấm đẫm sự cảm thông, chia sẻ, bao dung và độ lượng với từng
số phận, hoàn cảnh (khốn khổ, khốn nạn, nhếch nhác) của các nhân vật Chị chưa
hề lên án những nhân vật mà ở những cây bút khác rất dễ "xây dựng" thành "kẻ
xấu", để đối lập với người tốt mà nhiều khi còn "bênh"họ, "bào chữa" cho họ với
những luận lý không có trong sách luật nhưng lại tìm thấy trong trái tim nhân
hậu” [62]. Nói về nghệ thuật trong văn xuôi của nhà văn Phong Điệp, nhà văn
Hoàng Quảng Uyên nhận xét: “truyện của Phong Điệp hầu như không có cốt
truyện (lớp trẻ bây giờ hay viết thế, văn học hiện đại, hậu hiện đại hay viết thế?)
- Truyện chỉ là những mảnh ghép số phận và hoàn cảnh bằng một chất keo dính
chặt bởi bàn tay khéo léo, xâu chuỗi bởi sợi chỉ đỏ. Những mảnh ghép tưởng bình
thường, không có gì, đôi khi còn "vớ vẩn" nữa bỗng trở nên có vấn đề, có tư tưởng.
5
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói (đại ý): “Văn người ta (ý nói văn nước
ngoài) toàn viết những truyện nhỏ nhặt, "vớ vẩn" mà ra cái to lớn, mà có tư tưởng
. Văn ta viết toàn những vấn đề, đề tài lớn mà lại thành ra "vụn vặt", "vớ vẩn"”
Đúng vậy,năng lực quan trọng nhất của nhà văn là ở chỗ nhìn ra được những cái
to lớn, vĩ đại trong những cái (tưởng như) nhỏ bé, tầm thường. "Anh hùng đoán
giữa trần ai mới tài". Đọc truyện ngắn Phong Điệp tôi như hiểu thêm ra những
điều này.” [62]
Trong bài viết Đôi nét về Phong Điệp và tập truyện Phòng trọ nhà thơ
Trần Đăng Khoa nhận xét: “Thông thường khi viết truyện ngắn, các nhà văn
thường “thủ” sẵn một vấn đề nào đó làm thông điệp gửi đến độc giả. Rồi từ vấn
đề đó mà tạo dựng truyện và các nhân vật. Cốt truyện dựng sao cho hấp dẫn và
các nhân vật cũng phải thật sinh động. Có khi chỉ một vài câu đối thoại ngắn gọn
là lột tả được hết tính cách và tâm địa của nhân vật. Phong Điệp dường như không
quan tâm lắm đến những thao tác quen thuộc ấy của nghề văn. Chị viết tự nhiên.
Mỗi truyện là một khoảnh khắc, một mảnh đời. Khoảnh khắc không có gì đặc biệt
và mảnh đời cũng rất bình dị, lại được kể bằng một giọng nhỏ nhẹ, dửng dưng,
dửng dưng đến lạnh lùng. Dường như truyện nào của chị cũng là những nét chấm
phá bàng bạc, cốt để gợi chứ không tả, cũng không nói hết, nghĩa là không đi đến
tận cùng của mọi vấn đề. Đây có lẽ là một ý thức, một dụng công của tác giả”[35].
Trong bài viết Phong Điệp – một sức viết đáng nể, một cách viết đã đi vào độ
thành thục, tác giả Nguyên An đánh giá: “Phong Điệp với các trang viết của
mình, với sự có mặt trên diễn đàn sáng tác đương đại đã là một hiện tượng mà
khi ta nghiên cứu, phân tích, bình luận thì không chỉ có ích cho Phong Điệp mà
còn có ích cho rất nhiều người sáng tác khác, bất kể họ mới cầm bút hay đã in ấn
một số tác phẩm rồi”.[1]
Sau thành công của tập truyện ngắn Ma mèo và hàng loạt tập truyện ngắn
khác, Phong Điệp đã thử sức với loại hình tiểu thuyết bằng tác phẩm Lạc chốn
thị thành. Khi cuốn sách ra đời nhà văn Nguyễn Đông Thức đã đánh giá: “Cả
6
một thực trạng giới trẻ vất vả chen chân vào đời ở các thành phố lớn hiện ra khá
đầy đủ trong Lạc chốn thị thành. Đẹp nhất trong truyện là một tình bạn thủy
chung, thứ tình cảm quý hiếm hiện nay. Một tình bạn dựa vào đó, người ta dẫu có
đi lạc vẫn có thể quay về. Đọc và thấy lòng nhẹ hẳn đi với thứ tình bạn thuần khiết
ấy, sau bao nhiêu bạo liệt của cuộc sống đã được tác giả thỏa tay."[16]. Ông
khẳng định cuốn Lạc chốn thị thành: “hoàn toàn có thể thể xây dựng thành một
bộ phim dài nhiều tập dành cho giới trẻ”[16]. Tuy nhiên, nói theo nhà văn Đông
Thức thì Phong Điệp viết có phần hơi vội vì là một nhà báo trẻ ở thủ đô, Phong
Điệp có quá đủ tư liệu và vốn sống để có thể viết sâu và hay hơn nữa với đề tài và
cốt truyện này.
Từ Lạc chốn thị thành đến Blogger đã đánh dấu một thay đổi lớn trong
văn phong của tác giả Phong Điệp. Nhiều đánh giá, nhận xét về những đổi mới
trong cuốn tiểu thuyết Blogger đã được đưa ra. Đoàn Minh Tâm trong bài viết
Vài cảm nhận về tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp đã nhận định: “thoạt nhìn
vào nhan đề tiểu thuyết, không ít người lầm tưởng Blogger sẽ chỉ đề cập thuần
túy đến cuộc sống của những cư dân mạng. Nhưng Blogger không chỉ giới hạn ở
đề tài đang là một trong những đề tài “hot” thu hút sự quan tâm của nhiều người
mà còn mở rộng biên độ sang chuyện thân phận, cuộc đời của người phụ nữ, sang
chuyện gia đình… Nói một cách chính xác, blog và cuộc sống của cư dân mạng
là điểm tựa cho Phong Điệp mô tả và lí giải về cuộc sống hiện tại của những
người phụ nữ trẻ tuổi… Có một thế giới phụ nữ trong Blogger. Họ đa dạng về
tuổi đời: bà già, trẻ em, phụ nữ, trung niên, thanh niên, phong phú về xuất thân:
nông dân, trí thức, doanh nhân, nhà văn, nhân viên văn phòng, lao công, thợ gội
đầu”[50]. Về ngôn ngữ của tác phẩm, Đoàn Minh Tâm cũng nhận xét: “Ngôn ngữ
“mạng” trong Blogger thu hút sự chú ý của tôi vì đây là một trong những thành
tố quyết định sự thành công của tác phẩm. Ngôn ngữ mạng muôn hình vạn trạng
ngoài đời thường được Phong Điệp dụng công trau chuốt, chọn lựa để đưa vào
tác phẩm. Đó là thứ ngôn ngữ “mạng” vừa có tính khách quan, nhiều màu sắc cá
7
nhân vừa giảm đi hỗn tạp, xô bồ và có phần “tục tĩu” vốn có của đời
thường.”[50]. Bài Blogger - những lát cắt cuộc sống đăng trên báo Người lao
động của tác giả H.Dung viết: “Mỗi lát cắt trong Blogger là entry trong blog. Mỗi
entry là mỗi thước phim sống động đến nghẹt thở. Ở đây là cuộc sống nham nhở
chốn thị thành, một cuộc sống vụ lợi với những góc u mê bị bóc trần ra những gì
hiện thực nhất có thể.”[7].
Là người theo dõi sát quá trình sáng tác của Phong Điệp từ những năm 1996
-1997, tự nhận là khắt khe khi để tập truyện ngắn Ma mèo chỉ đạt giải nhì (không
có giải nhất) nhà văn Bảo Ninh luôn hi vọng vào hành trình mai sau của Phong
Điệp. Sự ra đời của tiểu thuyết Ga kí ức năm 2015 đã hiện thực hóa sự kì vọng
đó. Trong bài viết Sống động và ám ảnh thay cho lời tựa cho cuốn Ga kí ức, nhà
văn Bảo Ninh đã đánh giá: “Ga kí ức là bức tranh sống động và ám ảnh thể hiện
được sâu sắc những chuyển biến của thời cuộc từ bao cấp sang kinh tế thị trường.
Song, không chỉ hay ở nội dung và văn phong, Ga kí ức còn độc đáo mới lạ trong
cấu trúc. Ba chứ không phải một câu chuyện trong cùng một tiểu thuyết mà mạch
truyện vẫn xuyên suốt và mạch lạc. Ba nhân vật, ba số phận riêng rẽ nhưng không
biệt lập, tương phản nhưng lại soi rọi nhau, và nhờ vào sự liên tưởng của độc giả
mà ba nhân vật ấy có thể gặp gỡ nhau ở sân ga kí ức.” [22]. Cùng quan điểm với
Bảo Ninh, nhà văn Lê Phương Liên cho rằng, Phong Điệp đã lựa chọn cách thể
hiện hoàn toàn đổi mới và tiểu thuyết Ga kí ức được đánh giá là tác phẩm vượt
trội cả bút pháp và câu chuyện: “Cũng là sự hồi tưởng kí ức nhưng tác giả viết
theo lối tương đối nhanh, đưa ra 3 nhân vật khác nhau, 3 tuyến đi khác nhau và
cuối cùng hội tụ lại ở một điểm "sân ga kí ức". Nó không bày sẵn sàng trên câu
chữ hay ở cái kết mà nó đòi hỏi người đọc phải nhận ra được những điều mới,
những điều cần phải suy ngẫm" [55]. Trân trọng cách nhìn và đánh giá cao cách
khai thác, thể hiện của nhà văn Phong Điệp, nhà phê bình Nguyễn Hòa cho rằng:
“Đọc tới trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, có thể xác định thời gian tuyến
tính của một chuyện kể, nhưng sẽ khó kể lại một cách rành mạch, vì từ đầu tới
8
cuối, Phong Điệp kể - tả khá tỉ mỉ, cụ thể nhưng hiệu quả của những gì được kể -
tả lại sự ám ảnh ở “Phía sau con chữ” chứ không hiển hiện như các sự kiện, chi
tiết để từ đó hình thành một cốt truyện. Dấu hiệu của lối viết này từng manh nha
xuất hiện trong hai tiểu thuyết "Lạc chốn thị thành" và "Blogger", nhưng đến
"Ga ký ức" thì Phong Điệp tỏ ra thuần thục, nên có thể nói chị đã có một bước
tiến khá dài. Và nếu coi ba cuốn tiểu thuyết có mối liên hệ nhất định thì dường
như với "Ga ký ức", Phong Điệp đã tìm ra đáp án cho các câu hỏi: Tại sao người
ta lại “lạc chốn thị thành”? Tại sao người ta lại sống với thế giới ảo để trở thành
một “blogger”?”[32]. Bên cạnh một số bài phê bình giới thiệu, khóa luận tốt
nghiệp một số luận văn thạc sĩ đã chọn tác phẩm của chị làm đề tài nghiên cứu
như: Những tìm tòi nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Phong Điệp
của Đặng Thị Lan và Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết “Blogger’’ và “Ga
kí ức” của Phong Điệp của Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên.
Qua phần lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của Phong Điệp đã
được quan tâm chú ý và dành cho những đánh giá cao về ý thức nghệ thuật, những
nỗ lực cách tân trong lối viết của nhà văn. Tuy nhiên, chưa có nhiều những nghiên
cứu đánh giá về cảm quan đô thị trong tác phẩm của nhà văn. Có chăng chỉ là
những ý kiến riêng lẻ được đưa ra trong các bài viết, trong các bài giới thiệu. Vì
vậy, việc tìm hiểu cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp là
một việc làm cần thiết để thấy rõ hơn những giá trị cả về mặt nội dung và nghệ
thuật, cũng như những đóng góp của nhà văn trong bức tranh tổng thể văn học
Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung tìm hiểu cảm quan về đô thị trong các tiểu thuyết Phong
Điệp
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát ba cuốn tiểu thuyết: Lạc
chốn thị thành, Blogger và Ga kí ức. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo và một
9
số truyện ngắn, tản văn của Phong Điệp, cũng như một số tiểu thuyết viết về đô
thị đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số
phương pháp sau:
4.1. Phương pháp hệ thống.
Đây là một phương pháp quan trọng giúp người thực hiện luận văn xâu
chuỗi được các hiện tượng văn học đơn lẻ, đặt chúng trong mối quan hệ biện
chứng để từ đó nhận diện được cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp.
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Để làm nổi bật những đặc sắc và sự độc đáo trong cảm quan đô thị của
Phong Điệp, chúng tôi đã đối chiếu, so sánh với những tác giả khác có tác phẩm
viết về đề tài đô thị. Với phương pháp này, chúng tôi có thể thấy được những điểm
khá tương đồng và những điểm riêng trong cảm quan đô thị của Phong Điệp.
4.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này
giúp chúng tôi có thể đi sâu khám phá từng khía cạnh của vấn đề rồi từ đó tổng
hợp, khái quát làm rõ đặc điểm cảm quan đô thị của Phong Điệp.
4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội.
Trong luận văn, chúng tôi sự dụng phương pháp này để tìm hiểu sự phát
triển đô thị trong văn học của mỗi thời kỳ đồng thời nhận ra sự kế thừa và nét
riêng trong cảm quan đô thị của Phong Điệp.
4.5. Phương pháp thống kê - khảo sát.
Để làm rõ cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Phong Điệp, chúng tôi đã tiến
hành thống kê, khảo sát những biểu hiện cụ thể trên phương diện nội dung và nghệ
10
thuật của các tiểu thuyết nhằm nhận diện cảm quan riêng của Phong Điệp về đô
thị.
4.6. Phương pháp thi pháp học
Trong luận văn chúng tôi sử dụng phương pháp thi pháp học qua việc phân
tích hình thức nghệ thuật của tác phẩm để làm rõ cảm quan đô thị trong tiểu thuyết
của Phong Điệp.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sẽ nhận diện và làm nổi bật cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của
Phong Điệp trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Thể hiện rõ nét riêng khác trong cảm quan đô thị và những đóng góp của
Phong Điệp với thể loại tiểu thuyết trong bộ phận văn học đô thị nói riêng và trong
bức tranh văn học Việt Nam đương đại nói chung.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu tìm hiểu:
- Cảm quan đô thị chi phối việc lựa chọn nội dung và phương thức nghệ
thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp.
- Thế giới quan và thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống đô thị.
- Những phương thức nghệ thuật thể hiện cảm quan đô thị của Phong Điệp
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính được cấu trúc thành ba chương chính.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của cảm quan đô thị trong tiểu thuyết
Phong Điệp.
11
Chương 2: Cảm quan về đời sống và con người đô thị trong tiểu thuyết
của Phong Điệp.
Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật thể hiện cảm quan đô thị trong
tiểu thuyết của Phong Điệp.
7. Đóng góp của luận văn.
Với đề tài “Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp”, luận văn
là công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về cách quan niệm, thái độ, cái nhìn
của nhà văn về xã hội, con người và lối sống đô thị.
Khẳng định một hướng tiếp cận có hiệu quả về chiều sâu tư tưởng, quan
niệm và tài năng qua nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. Góp phần
nghiên cứu những nét mới trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn đương đại, qua
tiểu thuyết của một cây bút đáng chú ý. Qua đó, góp phần tìm hiểu, đánh giá những
đóng góp của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT PHONG ĐIỆP
1.1. Giới thuyết về cảm quan đô thị trong văn học
1.1.1. Văn học đô thị
“Văn học đô thị” (hay văn học thành thị) là một cụm từ khá quen thuộc
trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học sử. “Văn học đô thị” được hiểu là
văn học phản ánh cuộc sống ở các đô thị từ mọi góc độ. Nhưng có hay không một
khái niệm “văn học đô thị” với đối tượng nghiên cứu thống nhất và phương pháp
sáng tác đặc thù? Có phải mọi sáng tác ra đời ở đô thị, trong bối cảnh văn hoá đô
thị và viết về đô thị đều được gọi là văn học đô thị hay không? Là những câu hỏi
không dễ có lời giải đáp. Ở Việt Nam, cụm từ “văn học đô thị” cũng đã từng tồn
tại với tư cách định danh cho một bộ phận văn học trong một thời kỳ nhất định.
Khi nói về “văn học đô thị”, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng đã viết: “Văn
học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính
phủ Sài Gòn tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam
trước đây”[26]. Tuy nhiên, đây là cách gọi một thời của các nhà phê bình miền
Bắc dành cho văn học ở thành thị miền Nam. Cách định danh này mang nhiều nội
dung chính trị hơn là văn học. Nếu như văn học viết về nông thôn phổ biến và
được khẳng định bằng tên gọi hẳn hoi thì văn học viết về đô thị có vẻ vẫn còn
chưa được định danh và thừa nhận. Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn băn
khoăn liệu đã bao giờ tồn tại một dòng văn học đô thị theo đúng nghĩa của từ này
ở Việt Nam chưa. Nhà nghiên cứu Văn Giá khẳng định: “Bây giờ đặt vấn đề ở ta
đã có văn học đô thị hay chưa, tôi xin trả lời rằng vẫn chưa có văn học đô thị của
hôm nay, rằng văn học vẫn đang chuyển động cùng sự chuyển động của đô thị
13
(…) Vả lại, đất nước chúng ta có nhiều nghìn năm lịch sử là nông thôn, nông
nghiệp, nông dân - cái gen trội trong tâm hồn máu huyết người Việt, nên viết về
nông thôn thấy thuận tay hơn. Nó có tâm thức văn hoá xóm làng nâng sức, chắp
cánh. Chứ viết về đô thị đâu có được cái đà đi, sức bút như thế. Tập làm người
đô thị cho ra người đô thị chân chính đã khó, huống chi là viết cho đô thị và về
đô thị.”[25].
Tuy còn nhiều ý kiến trái chiều nhau về khái niệm văn học đô thị nhưng
các nhà nghiên cứu đều dễ nhận thấy sự ra đời của các thành thị và văn hoá thị
dân vào giai đoạn hậu kỳ trung đại, kéo theo sự ra đời của dòng văn học thị dân
đối lập với văn học cung đình vốn được xem là chính thống. Như vậy, khái niệm
văn học đô thị ở đây là sự đối lập với văn học cung đình khuôn phép, lý trí và đầy
đạo đức. Nó hướng vào những cảm xúc riêng tư, những nhu cầu trần thế, và khát
vọng khẳng định cái tôi cá nhân trong một xã hội coi trọng tập thể. Đô thị giải
phóng cho văn học khỏi cái rọ đạo đức, mang đến cho văn học đặc tính giải trí,
cũng là một trong những đặc tính chung của nghệ thuật muôn đời.
Không chỉ đối lập với văn học cung đình, nếu đem so sánh với văn học
nông thôn thì ta cũng sẽ nhân thấy những đặc trưng cơ bản của bộ phận văn học
này: “Văn học đô thị đối lập với văn học nông thôn được xác định dựa trên căn
cứ định nghĩa đô thị và nông thôn về mặt xã hội học. Đô thị và nông thôn phân
biệt với nhau dựa trên các hoạt động sống của xã hội như công nghiệp, nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, dịch vụ… hoặc dựa
trên các thiết chế chủ yếu của xã hội như thiết chế kinh tế, văn hoá, giáo dục,
chính trị, gia đình… hoặc theo các nhóm, các giai tầng xã hội. Về mặt xã hội, đó
là sự khác biệt trong lối sống, giao tiếp, ứng xử gia đình, mật độ dân số, vai trò
của thiên nhiên trong đời sống. Xét theo nghĩa này, văn học đô thị được định
nghĩa từ đối tượng phản ánh của nó, tức là đời sống đô thị trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, văn hoá, với những xô bồ, chật chội, phiền muộn, trống rỗng và
cả những niềm vui ngắn ngủi. Nó phản ánh lối sống và cách tư duy của con người
14
đô thị trong sự đối lập với cách nghĩ, cách cảm của người nông thôn...Văn học đô
thị và văn học nông thôn không chỉ đối lập nhau trên nền tảng kinh tế, chính trị,
xã hội mà còn đối lập trong tư duy sáng tạo. Nếu văn học nông thôn sử dụng
phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực, dùng nhãn quan hiện thực để
phản ánh và tái hiện đời sống, thì văn học đô thị có khuynh hướng tư duy của chủ
nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Do đó, văn học nông thôn thể hiện rõ ràng lập
trường quan điểm của nhà văn, có thể là quan điểm dân chủ, dân tộc, hoặc giai
cấp. Văn học nông thôn luôn có một đối tượng để tấn công: sự trì trệ bảo thủ của
nông thôn hoặc sự lạnh lùng vô tình của tiến trình đô thị hoá, sự lỗi thời của chế
độ cũ hoặc sự xâm lược của thực dân. Văn học đô thị không chống lại nông thôn,
nó bao gồm hết tất cả những sáng tạo dành cho mọi lớp người trong đô thị.”[54].
Nói như PGS.TS Đỗ Lai Thúy trong cuộc tọa đàm “Văn học đô thị hôm
nay” do tạp chí Người đô thị tổ chức thì: “trải gần một thế kỷ, tiểu thuyết đô thị
Việt Nam nói riêng và văn học đô thị Việt Nam nói chung phát triển qua từng giai
đoạn khác nhau và đặt ra những vấn đề khác nhau. Nhưng, tựu trung, nó chưa
phải là một nhịp mạnh của văn học Việt Nam.”[47]. Tuy nhiên, những đóng góp
của bộ phận văn học này đối với nền văn học Việt Nam thì không ai có thể phủ
nhận. Chắc hẳn trong một tương lai không xa, cùng với sự phát triển của các đô
thị, văn học đô thị sẽ có bước phát mới. Công chúng có quyền chờ đợi vào sự ra
đời của các tác phẩm lớn, có giá trị của bộ phận văn học này.
1.1.2. Cảm quan đô thị
Về phương diện ngôn ngữ học, nhiều nhà nghiên cứu thông thạo Hán học
như Phương Lựu, Trần Đình Sử, Phạm Tú Châu cho biết trong ngôn ngữ Trung
Quốc không có từ “Cảm quan”, nhưng từ ấy lại không xa lạ với tiếng Việt, và nội
hàm của nó biến đổi nghĩa cùng với thời gian. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng
Phê viết rất ngắn gọn, “Cảm quan: (1) cơ quan cảm giác; giác quan. (2) Nhận thức
trực tiếp bằng cảm quan [45, tr.106]. Như vậy, về mặt từ ngữ, cảm quan là một từ
15
Hán Việt chỉ những cảm nhận, cái nhìn của nhà văn mang tính phát hiện, cho thấy
sự nhạy cảm trong nắm bắt vấn đề đời sống trên cơ sở quan sát và trải nghiệm.
Trong tiếng Anh, từ tương đương với từ “cảm quan” là “feeling”. Theo
Bách khoa toàn thư Britannica ( Encyclopedia Britannica): “Feeling: trong tâm
lí học là sự thu nhận các sự kiện bên trong cơ thể, liên quan gần gũi đến cảm xúc.
Thuật ngữ ấy (Feeling) nhanh chóng mang nghĩa, khái quát hơn, là thu nhận qua
những giác quan chẳng quy chiếu vào bất cứ giác quan đặc biệt nào...”
Gần với “cảm quan” là khái niệm “cảm thức”. Theo Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê), “Cảm thức: ( điều ) nhận thức được bằng cảm quan, nhận thức cảm
giác”[45, tr.107]. Tuy nhiên, ranh giới của hai khái niệm này không rõ ràng: cảm
quan nghiêng nhiều hơn về những trải nghiệm của người nghệ sĩ trước hiện thực
cuộc sống; cảm thức nghiêng nhiều hơn về chiều sâu nhận thức của người nghệ
sĩ. “Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, từ “cảm quan” cũng đã được
dùng khá phổ biến theo nghĩa tương tự, đó là loại nhận thức đặc biệt, nhận thức
không phải bằng suy lý, lôgic, bằng khái niệm mà bằng cảm giác, cảm tính hiểu
theo nghĩa rất rộng, có tính trực cảm, trực giác, được phát tiết từ vô thức. Như
Phạm Vĩnh Cư chuyển ngữ cụm từ tiếng Pháp “sens esthétique” thành “cảm quan
thẩm mỹ” trong bài nghiên cứu dài về biểu tượng của Jean Chevalier mở đầu
công trình đồ sộ Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới; Nguyễn Thị Lệ Hà cách đây
hai mươi năm bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Cảm quan tương ứng
trong Những bông hoa ác của Baudelaire” (1995); Phan Thị Thu Hiền viết bài
“Cảm quan Phật giáo trong thế giới nghệ thuật của Cánh đồng bất tận”; Nhà
văn Chu Lai có bài “Viết bằng cảm quan người lính”; “Nguyễn Du và Thăng
Long xem xét từ cảm quan thẩm mỹ” là bài nghiên cứu của Nguyễn Huệ Chi v.v.”
[61]
Từ phương diện nghệ thuật, “Cảm quan” như một thuật ngữ mỹ học được
hình thành trên các cơ sở ngôn ngữ học, triết học và tâm lý học trên đây. Trong Từ
điển các thuật ngữ văn học (The Routledge Dictionary of Literary Terms),
16
“Feeling được hiểu là bằng cách nào một tác phẩm nghệ thuật (văn học) được
tạo ra và nó ảnh hưởng đến người đọc như thế nào, bằng cách nào”. Nghệ thuật
là lĩnh vực hoạt động sáng tạo trong đó cảm quan hữu cơ đóng vai kiểm soát mạnh,
hay nói cách khác, mỗi tác phẩm nghệ thuật như một kiểu biểu tượng hóa ý tưởng
về cảm quan...Nếu trong cuộc sống thường nhật, cảm quan in dấu ấn cá nhân trong
cách nhìn nhận, cách nhận thức sự vật, hiện tượng thì trong nghệ thuật, cảm quan
như là thuộc tính đặc trưng của hình ảnh nội dung được ẩn giấu (và vén mở) trong
ẩn dụ, biểu tượng, huyền thoại.
Như vậy, cảm quan được hiểu là hệ thống những cảm xúc, cảm nhận, nhận
định của cá nhân trước thế giới xung quanh. Nó bộc lộ thế giới quan riêng của cá
nhân và cảm thức riêng của mỗi người.
Trước hiện thực cuộc sống, mỗi người có một cảm quan riêng. Nhưng xét
riêng trong văn chương nghệ thuật thì cảm quan được hiểu là cảm quan của người
nghệ sĩ. Với nghệ sĩ cảm quan càng tinh tế, bén nhạy càng khiến cho tác phẩm có
giá trị lớn.
Cảm quan của cá nhân người nghệ sĩ có sự hòa hợp với cảm quan thời đại.
Tìm hiểu cảm quan của nhà văn sẽ giúp người đọc hình dung được những nền
tảng tư tưởng sâu xa chi phối đến quá trình sáng tác và những nhận định, đánh giá
về hiện thực, con người mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.
Đô thị hiện đại Việt Nam bắt đầu được hình thành và mở rộng từ đầu thế
kỷ XX khi thực dân Pháp tiến hành mạnh mẽ quá trình khai thác thuộc địa. Với
đa số cư dân Việt quen với không gian sinh tồn là dòng sông, mảnh ruộng, khu
vườn, cây đa giếng nước thì đô thị hiện đại là không gian khá lạ lẫm. Có người
nhìn nhận đô thị là nơi phồn hoa đô hội với sự hào nhoáng của phố phường tấp
nập, đông vui. Nhưng dưới góc nhìn khác, đô thị lại hiện ra với sự xô bồ, chen
lấn, ganh đua ngột ngạt. Đô thị vừa là nơi năng động, đầy ắp những cơ hội, những
mơ ước đổi đời, những khát vọng làm giàu, thành danh nhưng cũng chứa đầy cạm
bẫy, những mưu toan thủ đoạn hèn hạ, khiến người ta sợ hãi trốn chạy. Như vậy,
17
“cảm quan đô thị ” được hiểu như một cách tiếp nhận trực tiếp về đô thị, là cách
người nghệ sĩ quan sát, thể hiện cảm xúc, cảm nhận, quan niệm của mình về cuộc
sống đô thị. Từ đó đô thị gắn liền với lối sống, tâm trạng của cá nhân người nghệ
sĩ. Qua văn học đô thị đã tạo nên trường thẩm mỹ riêng, khuynh hướng thẩm mỹ
riêng của người nghệ sĩ. Nó tạo nên nhân sinh quan của người nghệ sĩ. Theo chúng
tôi cảm quan đô thị thực chất là cái nhìn, là thái độ, cách đánh giá và ý thức về
con người thị dân, về hiện thực xã hội trong môi trường đô thị. Cảm quan đô thị
có vai trò quan trọng trong hệ thống các cảm quan của văn học. Bởi lẽ, khi xã hội
có sự chuyển biến từ làng lên phố thì cuộc sống con người có nhiều thay đổi. Văn
chương luôn phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của người
nghệ sĩ. Vì thế để cảm nhận môi trường đô thị cũng cần có cảm quan riêng: Cảm
quan đô thị. Chỉ có cảm quan ấy mới phản ánh được chân thực, sâu sắc bức tranh
đô thị Việt Nam.
Có thể thấy rằng, văn học đô thị và cảm quan đô thị là hai vấn đề khác nhau
nhưng lại có quan hệ chặt chẽ. Nếu văn học đô thị lựa chọn phạm vi hiện thực là
đô thị để phản ánh, thì cảm quan đô thị là cái nhìn, thái độ đánh giá của nhà văn.
Cùng một phạm vi hiện thực, cùng một đối tượng nhưng mỗi nhà văn lại có cái
nhìn và sự đánh giá khác nhau. Chính điều này tạo ra đặc điểm và phong cách
riêng cho từng nhà văn và tạo ra sự đa dạng cho bức tranh văn học đô thị nói riêng
và bức tranh văn học Việt Nam nói chung.
1.2. Sơ lược về cảm quan đô thị trong văn học Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước thế kỷ XX
Do văn hóa Việt Nam là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, cư dân ưa sự
tĩnh tại, ổn định, gắn bó với sản xuất nông nghiệp trồng lúa nên sự thay đổi ồn ào
của đô thị không phải là mối quan tâm hàng đầu. Vậy nên trong văn chương không
gian lí tưởng là không gian điền viên, đề tài lí tưởng cũng không phải là đề tài
thành thị và tầng lớp thị dân. Tuy không phải là cảm quan chủ đạo của văn học
trung đại nhưng ta có thể nhận thấy bóng dáng đô thị được thể hiện khá sớm trong
18
bài thơ Đề Báo Thiên tháp của Phạm Sư Mạnh ( Khoảng 1300-1360) khi ông ca
ngợi kinh thành Thăng Long với niềm tự hào mãnh liệt. Đến Nguyễn Du hình ảnh
đô thành Thăng Long được phản ánh gián tiếp qua số phận đáng thương của một
kỹ nữ Hà Thành tài năng nhưng bị người đời coi thường khinh miệt. Lê Hữu trác
đã ghi lại cảnh đô thị sầm uất trong Thượng kinh kí sự với đình, đài, miếu mạo
nguy nga nơi cung vua phủ chúa không phải để ca ngợi chốn ăn chơi xa hoa, mà
để bộc lộ thái độ phê phán thói hưởng lạc của giới quyền quý là nguyên nhân gây
ra bao đau khổ cho dân lành.
Cùng có nỗi niềm hoài cổ trước sự biến thiên của cuộc đời, nhưng nếu Bà
Huyện Thanh Quan trong Thăng Long thành hoài cổ nối tiếc đến đớn đau những
cảnh hoa lệ, phồn thịnh của phố xá với những con đường tấp nập ngựa xe, với lâu
đài nguy nga, tráng lệ bị phá hủy điêu tàn bởi binh lửa cuộc đời thì Tú Xương-
nhà thơ gắn bó máu thịt với thành Nam, trước sự đổi thay của phố phường Nam
Định:
“Trời kia xui khiến nên sông bãi
Ai khéo xoay ra phố nửa làng.”
( Sông lấp)
Không gian làng quê đã thay đổi dẫn đến sự thay đổi cả con người lẫn lối
sống. Lối sống dân quê nặng tình cảm, lễ nghi, khuôn phép không còn, sự bát
nháo mang nặng hơi hám đồng tiền của đời sống đô thị đã len lỏi vào từng gia
đình khiến Tú Xương ngao ngán thốt lên:
“ Có đất nào như đất tớ không
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng...”
( Đất Vị Hoàng)
Bằng cảm quan nhạy bén, Tú Xương đã sớm nhận ra những bát nháo trong
19
đời sống đô thị trong buổi đầu của sự giao thời văn hóa và kinh tế Âu - Á. Với
giọng điệu giễu nhại, trào lộng đầy chua xót, Tú Xương không giấu giếm sự chán
ngán cuộc sống nhố nhăng nơi thành Nam.
Như vậy, có thể khẳng định, tuy không phải là cảm quan chủ đạo nhưng đô
thị và cảm quan đô thị manh nha xuất hiện trong nền văn học giai đoạn này sẽ là
tiền đề quan trọng để đô thị trở thành đề tài quen thuộc trong các sáng tác của các
nhà thơ, nhà văn giai đoạn sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến 1945
Đầu thế kỷ XX, sự ra đời và phát triển mạnh của các đô thị nhằm phục vụ
cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã có tác động
lớn đến đời sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần của đa số dân chúng đặc biệt
là bộ phận dân chúng sống ở các thành thị. Chữ quốc ngữ ra đời thay cho chữ Hán
và chữ Nôm. Nền văn học cùng đội ngũ sáng tác dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của
văn học Trung Hoa và hội nhập với nền văn học phương tây mà cụ thể là nền văn
học nước Pháp. Nghề báo in xuất bản ra đời và phát triển khiến cho đời sống văn
hóa trở nên sôi nổi. Tất cả những điều kiện xã hội thời điểm này thuận lợi cho đời
sống văn học đô thị của tầng lớp thị dân ra đời và phát triển.
Người được coi là tác giả mở đầu cho văn học thị dân giai đoạn này chính
là Trần Chánh Chiếu. Qua tác phẩm Hoàng Tố Oanh hàm oan, các bài báo và
các truyện ngắn khác, người đọc dễ dàng nhận ra tác phẩm của ông tuy còn ảnh
hưởng về hình thức theo kết cấu chương hồi của tiểu thuyết Trung Quốc nhưng
nội dung đã mang hơi thở của thời đại. Qua các tác phẩm của mình, Trần Chánh
Chiếu đã hé mở phần nào cái hiện thực phồn tạp của cuộc sống đô thị đang thay
đổi.
Phạm Duy Tốn lại mang đến cho người người đọc cái nhìn về góc khuất,
mặt tối của cuộc sống đô thị. Đọc tác phẩm Nước đời lắm nỗi, ta thấy rõ một bộ
phận thanh niên Việt Nam ở các đô thị bị chính quyền thực dân đầu độc bằng rượu
20
cồn và thuốc phiện để họ quên đi hiện thực, quên đi tinh thần yêu nước, khát vọng
giải phóng dân tộc.
Đô thị càng phát triển thì đời sống đô thị, nhất là đời sống tâm hồn của con
người đô thị càng được các nhà văn quan tâm thể hiện. Tác phẩm viết về tình yêu
của lớp thanh niên đô thị chịu ảnh hưởng của lối sống phương Tây có sức lay động
lớn đến người đọc. Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một minh
chứng điển hình. Đóng góp cho văn học đô thị giai đoạn này ta còn có thể kể đến
nhà văn Hồ Biểu Chánh, tác giả khá nổi tiếng của văn học Nam Bộ. Ông viết khá
nhiều tác phẩm như: Cay đắng mùi đời, Tiền bạc - bạc tiền, Thầy thông ngôn,
Kẻ làm người chịu... Phản ánh cuộc sống nơi thị tứ, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
đã ghi lại bức tranh đô thị ở nhiều địa điểm, với đủ hạng người ở các tầng lớp
khác nhau, từ giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga đến giới trí thức tân học hoặc có
chí khí, có lòng với dân với nước.
Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 -
1945 đã mau lẹ hoàn tất quá trình hiện đại hóa từ quan điểm nghệ thật đến vấn đề
cách tân thể loại. Sự ra đời của Thơ mới đã đem đến cho văn học thời kì này diện
mạo của một nền văn học mới. Một trong những thành tựu đặc sắc của thơ ca thời
kì này là sự phong phú về đề tài. Đây là giai đoạn các nhà thơ đã tiến hành công
cuộc cách mạng đề tài. Trong đó, đô thị là mảng hiện thực luôn đem đến nhiều
cảm hứng cho các nhà văn và để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Trong số các nhà
Thơ mới, có thể nói đến Thế Lữ là người có nhiều gắn bó với chốn thị thành. Ông
đã từng hăm hở ra đi mang theo một hoài bão, một niềm tin mãnh liệt vào tương
lai:
“ Bỗng một hôm từ phương ngoài xa cách
Cơn gió phồn hoa thổi qua đời tịch mịch
Đem tới cho lòng ham muốn tung hoành
21
Giữa vinh hoa lồng lộng của văn minh.”
(Trả lời )
Không chỉ Thế Lữ mà ngay cả Nguyễn Bính, người thôn dân được coi là
thi sỹ của hồn quê đất Việt cũng không cưỡng nổi sức hút của đô thành. Trong
cuộc đời phong trần của mình ông đã không ít lần từ biệt chốn bờ lau gốc chuối
để dấn bước vào chốn phồn hoa:
“ Bỏ vườn cam, bỏ mái gianh
Tôi đi dan díu với kinh thành ”
(Hoa với rượu )
Sức hấp dẫn của chốn phồn hoa là một ma lực khó cưỡng. Có lúc, nó đủ
sức để đánh bật những ràng buộc, níu giữ của truyền thống xưa đã ăn sâu vào tiềm
thức của một con người được coi là “con nhà nho cũ gắn với thôn quê” như
Nguyễn Bính. Vậy mà không ít lần dấn bước vào phồn hoa đô hội.
“Phồn hoa rộn rã áo xiêm,
Muôn bao hình ảnh có tìm như không.”
(Mười hai bến nước )
Cùng viết về đề tài thành thị, bên cạnh những đặc điểm chung, mỗi nhà thơ
lại tạo nên một bức tranh về đô thị theo cảm nhận riêng của mình. Trong đó có
bức tranh đô thị rực rỡ ánh đèn, là tiếng gọi của công danh, vinh hoa, nhưng cũng
là nơi bon chen lừa lọc, sự tha hóa, ngột ngạt, nỗi “sầu đô thị”. Háo hức với đô
thị là thế mà rồi Nguyễn Bính cũng phải thở than:
“Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang
Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng
Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị”
( Sao chẳng về đây )
22
Còn Thế Lữ, sự tiên phong, hăm hở, thiết tha gắn bó với đô thị giúp ông nhận
ra đằng sau sự hào nhoáng, phồn hoa là sự giả dối, tầm thường khiến ông chán
ghét:
“... Ghét những cảnh sửa sang tầm thường giả dối
Hoa chăm cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suốt chẳng thông dòng
Len dưới lách những mô gò thấp kém...”
( Nhớ rừng )
Có thể thấy, Thơ mới đã góp một phần không nhỏ trong việc phản ánh sâu
rộng cuộc sống ở thành thị và bao chứa nhiều đề tài khác nhau trong đó đề tài về
đô thị là mảng đề tài được nhà thơ chú ý đến. Từ hiện thực cuộc sống, các nhà thơ
sáng tạo nên những bức tranh nghệ thuật về đô thị đầy sức sống. Việc đi sâu, khám
phá bức tranh đô thị trên bình diện rộng với những vấn đề ngoại cảnh, nội tâm,
các cây bút đã có cách nhìn mới về con người và xã hội mang chiều sâu tư tưởng
và nghệ thuật. Trong các bức tranh hiện thực sinh động về đô thị, mỗi nhà thơ lại
lựa chọn từng điểm nhìn để sáng tạo. Do vậy, cùng viết về đô thị, mỗi nhà thơ đã
tạo cho mình một bức tranh riêng để tạo ra một bức tranh đô thị nhiều chiều, đa
sắc, đa xúc cảm.
Song hành cùng các nhà thơ mới, sự ra đời của nhóm văn chương Tự lực văn
đoàn năm 1932 đã cổ súy không chỉ cho Thơ mới mà cho cả nền văn xuôi hiện
đại phát triển. Họ tiếp nhận và cổ súy cho nền văn minh phương Tây với cuộc
sống Âu hóa. Họ nhiệt thành với lối sống thành thị bởi nó đã giải phóng con người
khỏi những hủ tục của xã hội phong kiến. Đồng thời cho ra đời những con người
mới mang đậm cái “tôi” của đô thị hiện đại. Các nhà văn của Tự lực văn đoàn mà
tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đã thể hiện rõ sự xung đột giữa
“cái cũ” và “cái mới”, đề cao quyền được sống, quyền được yêu của con người.
Họ coi trọng vẻ đẹp hình thể, của sự trẻ trung, của tự do, dân chủ. Văn chương
23
của Tự lực văn đoàn vì thế mà thoát khỏi tư tưởng cũ. Họ ca ngợi và có những
quan niệm mới về hôn nhân. Những cô gái tân thời, những chàng trai tiến bộ vượt
qua lễ giáo phong kiến đến với nhau trong tình yêu. Đô thị trong cảm quan các
nhà văn lãng mạn không chỉ là chốn hoa lệ, tấp nập đông vui mà ở đó còn là chốn
ăn chơi trụy lạc. Thanh niên ngập tràn trong rượu, thuốc phiện, cô đầu hay gái
làng chơi.
Cũng là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng trong tác phẩm của
Thạch Lam đô thị lại hiện ra với những không gian hoàn toàn khác. Có lẽ, Thạch
Lam là người hoài cổ nên bóng dáng đô thị trong tác phẩm của mình là bóng dáng
hình ảnh phố huyện nhỏ bé, tiêu điều, tối tăm, nơi ông đã từng sống. Ở đó không
có sự đông đúc, huyên náo với nhà cao cửa rộng mà chỉ hiện lên với những ga
xép, những phiên chợ tàn. Con người đô thị cũng vì thế hiện lên cũng tù túng,
quẩn quanh với cuộc sống mỏi mòn.
Khác với các nhà văn theo xu hướng lãng mạn, các nhà văn theo xu hướng
hiện thực lại nhìn cuộc sống đô thị bằng những cảm quan riêng. Tiêu biểu cho xu
hướng này ta phải kể đến Vũ Trọng Phụng. Khi đáp lời các nhà văn lãng mạn trên
báo Ngày nay ông đã tuyên bố: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi
và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Các
nhà văn hiện thực phê phán nhìn đô thị bằng con mắt chân thực, cảm nhận cuộc
sống đô thị phồn tạp như chính nó đang tồn tại. Cuộc sống Âu hóa đã tạo ra sự
hợm hĩnh, đua đòi, a dua. Đô thị vì thế gắn liền với những tệ nạn xã hội như nghiện
hút, cờ bạc, trai gái. Các nhà văn hiện thực đã vạch trần cuộc sống đô thị đen tối
ẩn chứa đằng sau sự hào nhoáng kia. Với các tiểu thuyết: Giọt lệ sông Hương,
Đời Hoàng Oanh và các tập phóng sự: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương,
Người...Ngợm, tác giả Tam Lang đã vẽ lên bức tranh về đô thị tạp nham, cuộc
sống khốn khó, cùng cực. Con người bị bóc lột, bị xô đẩy đến bước đường cùng.
Với các tập phóng sự: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy tây, Làm đĩ, Cơm thầy cơm
cô...Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy cuộc sống bẩn thỉu, nhếch nhác, tối tăm của xã hội
24
đương thời. Ông phơi bầy mặt trái đầy ung nhọt của xã hội với cờ bạc bịp, bọn
ma cô, đĩ điếm. Ông chỉ thẳng và gọi tên đó là một “xã hội chó đểu”. Cái “xã hội
chó đểu” ấy Vũ Trọng Phụng đã tái hiện vô cùng sinh động trong tiểu thuyết Số
đỏ. Qua tác phẩm, tác giả đã dựng lên một xã hội Âu hóa lố lăng, kệch cỡm. Chính
cái xã hội được những kẻ hãnh tiến, vênh váo ngợi ca đã đẻ ra Xuân tóc đỏ, từ
một kẻ không cha, không mẹ lang thang đầu đường xó chợ, từ một thằng nhặt
bóng được bà Phó Đoan thương xót, cưu mang vì nó có hành vi nhìn trộm một cô
đầm thay váy bị bắt quả tang. Được ra nhập xã hội thượng lưu với sự ma cô cộng
với may mắn, Xuân tóc đỏ dần trở nên danh giá và cuối cùng đã trở thành vĩ nhân
- anh hùng cứu quốc.
Cũng là nhà văn xuất phát từ cuộc sống cơ cực nhưng Nguyên Hồng lại cảm
nhận đời sống đô thị ở một góc độ khác. Tác giả đã đi sâu thể hiện quá trình tha
hóa của con người nơi đô thị khi họ bị xô đẩy khỏi lũy tre làng bởi những định
kiến khắc nghiệt của xã hội cũ. Tám Bính trong tiểu thuyết Bỉ vỏ là một cô gái
quê mùa, trót trao thân cho kẻ bội tình để rồi phải sống tủi cực khi sinh nở một
mình. Những hủ tục của xã hội phong kiến đã làm cô phải trốn chạy lên thành
phố. Từ đây, đô thị là nơi chứa đầy cạm bẫy với một cô gái quê như Tám Bính.
Đi tìm lại người yêu cô bị lừa gạt, cưỡng ép và trở thành một gái điếm. Cuộc đời
xô đẩy đã khiến số phận cô gắn chặt với tên trùm lưu manh Năm Sài Gòn để cuộc
đời cuối cùng gắn chặt với lao tù và niềm đau đớn, ân hận về đứa con do chính
Năm Sài Gòn hại chết.
Dưới con mắt trào phúng và tài viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan,
đô thị là nơi đầy dẫy những điều nhố nhăng và bỉ ổi. Ở đó, bọn nhà giàu đểu cáng,
khốn nạn thì sống phè phỡn, còn người nghèo thì bị ức hiếp cùng khổ.
Nhà văn hiện thực cuối cùng tiêu biểu cho văn học giai đoạn này chính là
Nam Cao. Ông không trực diện phản ánh đời sống thành thị với những cảnh bất
công, ngang trái mà đi sâu vào thể hiện cuộc sống tù túng, bế tắc của tầng lớp trí
thức. Họ luôn phải đối diện cơm, áo, gạo, tiền. Gánh nặng vật chất đã đè bẹp giấc
25
mơ hoài bão, khát vọng. Từng trang văn trong Sống mòn, Đời thừa,Giăng sáng...
ta thấy hiển hiện điều đó.
Có thể nói giai đoạn này, cảm quan đô thị đã trở thành cảm quan chủ đạo
khi phản ánh xã hội và cuộc sống của con người. Dù văn học theo xu hướng thẩm
mỹ nào thì đô thị cũng hiện lên khá rõ nét. Nếu như các nhà văn lãng mạn muốn
thoát ly thực tại để cổ súy cho cuộc sống mới thì các nhà văn hiện thực phê phán
lại phơi bầy tất cả sự nhố nhăng, bát nháo, đảo điên của xã hội. Chính điều này
tạo nên bức tranh toàn diện về đô thị hiện đại Việt Nam trong buổi giao thời.
1.2.3. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Con người trong văn học thời kì này thường xuất hiện với tư cách con
người cộng đồng, con người dân tộc. Đề tài đô thị cũng tập trung phản ánh chân
dung những công dân - chiến sĩ, những nhân vật thị dân hiện lên phần ít thiện
cảm. Đôi mắt của Nam Cao khắc họa nhân vật trí thức tiểu tư sản - nhà văn
Hoàng, về nông thôn tản cư vẫn giữ những tư tưởng, nếp sống của người thành
thị. Vào thời điểm đó, lối sống đô thị trở nên lạc lõng và không phù hợp với đời
sống của quần chúng lao động.
Khác với Nam Cao, Tô Hoài viết Những ngõ phố phản ánh sự đổi đời của
những người dân nghèo nơi đô thị. Họ thoát khỏi cuộc sống đói khổ để đến với
cuộc sống mới vui vẻ, tự do, ấm áp tình người. Họ hăng hái xây dựng lại cuộc
sống, làm lại từ đầu, trở về với chính mình.
Hà Minh Tuân đề cập đến cuộc sống đô thị ở Trong lòng Hà Nội và
Hai trận tuyến. Hai tiểu thuyết này viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Hà Nội. Đến tiểu thuyết Vào đời, tác giả này tiếp tục khai thác đề tài
xây dựng xã hội mới, không né tránh hay bóp méo hiện thực mà phản ánh trung
thực cuộc sống thực tại.
26
Tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết Sống mãi với thủ đô. Trong đó, thủ đô
Hà Nội được chọn làm bối cảnh cho các nhân vật với một hình ảnh anh dũng,
kiên cường. Không khí kháng chiến len lỏi vào từng ngõ phố.
Nguyễn Tuân viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Hà Nội hiện lên trong tập
ký của ông với hình ảnh hiên ngang và hào hoa, đi qua công cuộc kháng chiến
chống Mỹ anh hùng. Mảnh đất thủ đô được khắc họa như hương đất, hồn
người của dân Việt qua những đêm trăng, những nhành hoa, vườn quất.
Ngoài ra, có một bộ phận các nhà văn sáng tác trong miền Nam những năm
1954 - 1975. Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới hiện thực
cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá linh hoạt nhu
cầu của người đọc tại các vùng đô thị. Các tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954
không chỉ giới hạn trong những đề tài cổ điển như nói về cuộc sống của người
thành thị, trí thức, tình cảm lãng mạn, phiêu lưu hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của
những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất cả mọi vấn đề từ cao cả đến thấp
hèn, hướng đến mọi đối tượng từ người lớn đến trẻ em, từ giới trí thức đến người
lao động, nhưng tập trung nhất vẫn là đề tài tình yêu với đủ mọi cung bậc, biến
thái khác nhau.
Nói chung, ở giai đoạn này, đặc biệt ở miền Bắc, con người và xã hội đô
thị ít được chú ý trong văn học. Văn học chủ yếu khai thác đề tài từ hai cuộc kháng
chiến của dân tộc. Vậy nên, cảm quan đô thị cũng trở nên mờ nhạt. Còn ở Miền
Nam, đời sống xã hội đã tiệm cận với đô thị phương Tây nên cảm quan đô thị
trong văn học miền Nam có bước tiến sớm hơn văn học miền Bắc.
1.2.4. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay
Đề tài đô thị sau 1975 gắn liền với cuộc sống thị dân nhiều thay đổi.
Nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của văn hóa - xã hội.
Nhiều tác giả viết về đề tài đô thị như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Phong Điệp,
27
Nguyễn Danh Lam, Đỗ Tiến Thụy, Kiều Bích Hậu, Nguyễn Trương Quý, Thụy
Anh, Đỗ Bích Thúy…
Nhà văn Ma Văn Kháng cũng có những tác phẩm hay về đô thị như tiểu
thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Tác phẩm báo động lối sống của xã hội buổi
giao thời, không ít cá nhân sống ích kỷ, vụ lợi, đầy dục vọng. Tác giả cũng nhấn
mạnh vai trò của gia đình truyền thống trong cuộc sống mới, dù nó cũng đang rạn
nứt.
Nguyễn Khải đã có nhiều truyện ngắn viết về cuộc sống và con người Hà
Nội, được tập hợp trong hai tập truyện: Một người Hà Nội (1990) và Hà Nội
trong mắt tôi (1995). Ông viết văn để trải tấm lòng mình với mảnh đất từng gắn
bó, nhiều duyên nợ, và phản ánh vùng đất kinh đô chứa đựng nhiều điều hấp
dẫn, bí ẩn, nhất là trong tầng sâu văn hoá, lối sống, các giá trị tinh thần của người
Hà Nội luôn mời gọi và là một dư địa cho ngòi bút ưa tìm tòi, triết lí. Truyện
ngắn Một người Hà Nội kể những chuyện về bà Hiền và gia đình bà trong một
khoảng thời gian dài suốt mấy chục năm, chủ yếu từ sau cuộc kháng chiến chống
Pháp, Hà Nội được giải phóng cho đến những năm đầu đổi mới. Thông qua nhân
vật bà Hiền – một “hạt bụi vàng” cặm cụi, lưu giữ những nét văn hóa của thủ
đô ngàn năm, tác giả thể hiện niềm tin vào những giá trị tốt đẹp đã được hình
thành và xây đắp từ bao đời sẽ được đặt lại đúng với vị trí của nó. Cũng như mọi
thứ xô bồ, hỗn tạp của Hà Nội hiện thời chỉ là những rác nổi trên bề mặt của đời
sống, rồi đến lúc nó sẽ bị cuốn đi, để một Thủ đô với 1000 năm văn hiến, sự
thanh lịch của người Tràng An sẽ trở lại.
Nguyễn Huy Thiệp có cái nhìn sâu sắc và đa chiều hơn về đề tài đô thị.
Ông nhìn cuộc sống và con người đô thị bằng thái độ lạnh lùng, sắc lẹm. Ở đó,
con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi, ích kỷ (Tướng về
hưu, truyện Huyền thoại phố phường). Đó là cuộc sống xô bồ tạp nham trong
Không có vua, khắc họa một đô thị thiếu vắng tình người, đầy rẫy những
28
giả trá. Nó cũng thể hiện sự hoài nghi về lối sống, tương lai của tầng lớp thị
dân.
Một tác giả khác cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của con
người nơi phố thị là Hồ Anh Thái. Ông cho ra mắt tập truyện Tự sự 265 ngày -
câu chuyện tự kể của anh công chức Nhà nước về thời gian 265 ngày làm việc ở
cơ quan. Nhà văn phản ánh quá trình một công chức bằng mọi giá ngoi lên từng
nấc thang danh vọng qua bức chân dung méo mó, hài hước, xấu xí và có phần
cay nghiệt. Ở đô thị vẫn còn vương lại thói tủn mủn của thời bao cấp, và thói
học đòi thời mở cửa.
Trong khi đó, Nguyễn Việt Hà là nhà văn viết về đô thị với cái nhìn từ bên
trong. Ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nên nặng lòng với thủ đô là điều không hề
khó hiểu. Trước tình trạng dân cư ở thủ đô mỗi lúc một nhiều, ông càng xót xa và
quý mến những con người Hà Nội thực sự. Với ông, có những kẻ ba đời ở thủ đô
vẫn không thể là người Hà Nội được vì những quá khứ bất hảo của chính ông cha
họ vẫn còn để lại theo cái gien tiểu thị dân lưu manh. Nguyễn Việt Hà cho Hà Nội
là “vùng trũng” văn hóa, nơi tiếp nhận, giao thoa văn hóa của mọi miền. Hà Nội
vừa lắng đọng cái tinh hoa, trong trẻo lại vừa chứa cái cặn bã, ô hợp. Hà Nội như
bức tranh nhiều mảng màu, bên ngoài cái đông vui náo nhiệt là dòng chảy âm
thầm của sự tù túng, xấu xa. Ông viết một loạt các tác phẩm như: tập truyện ngắn
Của rơi, các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, tạp văn Con giai
phố cổ.
Cũng là một tác giả trẻ, Nguyễn Trương Quý có tới sáu cuốn sách viết về
đề tài đô thị (bối cảnh Hà Nội). Anh viết tản văn Tự nhiên như người Hà Nội
(2004), Ăn phở rất khó thấy ngon (2008), Hà Nội là Hà Nội (2010), Xe máy tiếu
ngạo (2012), Còn ai hát về Hà Nội (2013). Năm 2014, tác giả ra mắt tập truyện
Dưới cột đèn rót một ấm trà. Đó là cái nhìn đầy yêu thương, trăn trở, tự hào về
một không gian văn hóa – kiến trúc của thị thành.
29
Cũng viết về đề tài đô thị, ta không thể không kể đến hàng loạt sáng tác
của họa sĩ – nhà văn Đỗ Phấn. Ông đã dùng con mắt hội họa, những cảm nhận
tinh tế của một họa sĩ và rung động của người yêu văn viết nên hàng loạt tác phẩm
về cuộc sống, con người đô thị - thủ đô Hà Nội như tiểu thuyết Vắng mặt,
Rừng người, Chảy qua bóng tối, Con mắt rỗng, Ruồi là Ruồi, Gần như là
sống… Không kể hàng loạt tập truyện ngắn, tản văn của ông đã được xuất bản
và đăng rải rác trên các trang web.
Trong dòng mạch đó, Phong Điệp với hàng loạt các tiểu thuyết viết về đề
tài đô thị như: Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức đã mang đến cho người đọc
cái nhìn về đô thị từ góc độ của những người từ ngoại vi đến với thị thành với
nhiều suy tư và âu lo.
1.3. Sự hình thành cảm quan đô thị trong sáng tác Phong Điệp
Nhà văn Phong Điệp sinh ngày: 6 - 6 - 1976 tại thành phố Nam Định. Phong
Điệp là cây bút nổi danh khá sớm. Năm 17 tuổi, Phong Điệp đã đạt giải nhất cuộc
thi sáng tác văn học do Hội văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định tổ chức năm 1993
cho truyện ngắn Huyền thoại đêm. Phong Điệp gây bất ngờ cho thầy cô, bạn bè,
và những ai kì vọng vào tài năng văn chương của chị khi quyết định theo học tại
trường đại học Luật để trở thành một luật sư chứ không phải thành một nhà văn.
Thế nhưng, có lẽ mối duyên với văn chương của Phong Điệp vẫn còn sâu đậm,
bằng tinh thần làm việc miệt mài, bền bỉ và chuyên nghiệp, từ năm 1996 đến nay
Phong Điệp thử nghiệm trên nhiều thể loại và thu được nhiều thành quả đáng nể.
Chị viết đều đặn và cho ra mắt độc giả nhiều tác phẩm hấp dẫn và đạt giải trong
các cuộc thi văn nghệ như: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn trên
báo Văn nghệ Trẻ năm 1996- 1997 với truyện ngắn Ma mèo. Giải thưởng “Văn
học tuổi xanh” 1996 do Tạp chí Tuổi xanh tổ chức năm 1996 với truyện ngắn Hoạ
sĩ. Giải khuyến khích cuộc thi sáng tác Văn học cho tuổi trẻ do NXB Thanh niên
phối hợp với Tuần báo Văn nghệ tổ chức với tập truyện ngắn Vườn hoang. Giải
Tư cuộc thi sáng tác Văn học tuổi 20 lần II và III do do NXB Trẻ, Báo Tuổi Trẻ
30
và Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức với tập truyện ngắn
Người phía bên kia đường và truyện dài Lạc chốn thị thành. Rời khỏi giảng
đường đại học, chị không gắn bó với ngành luật mà theo đuổi đam mê từ thời niên
thiếu của mình bằng sự gắn bó với Báo Văn nghệ Trẻ. Phong Điệp đã cho ra mắt
độc giả 10 tập truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 3 truyện dài dành cho thiếu nhi, 1 tập
tản văn với các đề tài tình yêu, thành thị, phụ nữ, thiếu nhi. Đề tài được Phong
Điệp quan tâm nhiều nhất chính là thành thị. Trong số 18 tác phẩm thì có tới 12
tác phẩm Phong Điệp viết về cuộc sống và con người nơi đô thị với đủ thể loại từ
truyện ngắn, tản văn đến tiểu thuyết. Có thể thấy, đề tài đô thị đã thành một vệt
đậm liên tục trong những sáng tác của Phong Điệp.
Sự gắn bó với đề tài đô thị có lẽ bắt nguồn từ chính cuộc sống của chị. Sinh
ra và lớn lên ở thành Nam, đã từng sống khổ, sống sở trong những căn nhà chật
chội, nóng bức, hôi thối trong khu tập thể nhà máy sợi, trong khu lò mổ, cạnh
nghĩa địa, cống rãnh nên dấu ấn của một đô thị đã in hằn trong tâm trí của chị.
Đến khi đi học đại học rồi “đi làm báo, vật lộn với những con chữ, nhận mức
lương 500.000 đồng, sống tằn tiện trong căn phòng trọ tồi tàn 9m2. Mùa hè nắng
như thiêu đốt, đổ một chậu nước ra sàn nhà, chỉ mấy phút sau cái nóng đã nuốt
chửng nó. Những giấc ngủ chập chờn mộng mị vì bất an, vì nóng, vì cô đơn không
bè bạn, không tình yêu.”[36]. Không chỉ phải sống với những khó khăn thiếu thốn
về vật chất chị còn trải qua bao đau đớn về tinh thần. Nhưng, sau thất vọng, và cả
tuyệt vọng là đứng dậy, bò ra viết báo để kiếm tiền, để bám trụ với đời sống đô
thị. Gắn bó với đô thị, thế nên, việc lựa chọn đề tài đô thị để viết là sự lựa chọn tự
nhiên như chính hơi thở của chị vậy.
Trong phần lớn các trang viết của mình Phong Điệp quan tâm đến đề tài
người trẻ sống ở đô thị. Đọc các tác phẩm Blogger, Lạc chốn thị thành, Phòng
trọ. Ma mèo... chúng ta đều thấy rõ điều đó. Phong Điệp đang cố gắng khắc họa
chân dung những người trẻ từ tỉnh lẻ về lập nghiệp và mưu sinh ở thành phố, và
31
họ phải đối mặt với những cuộc vật lộn, những niềm vui, nỗi buồn và cả bi kịch
để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mình là ai, mình đang đi về đâu? Viết về những
người trẻ, cũng là viết về chính mình.
Phong Điệp chia sẻ: “Viết về tuổi trẻ đô thị mình có nhiều trải nghiệm.
Trong văn chương quá nhiều tác phẩm về đề tài này, nhưng mình thấy hình như
vẫn chưa có ai đào sâu đến tận cùng những vật lộn, những bi kịch mà những
người trẻ tỉnh lẻ về đô thị mưu sinh đang phải trải qua. Mặc dù đã viết về đề tài
này nhiều lần, nhưng mình luôn có cảm giác mắc nợ, và mình sẽ còn viết tiếp”[58].
Một trong những lý giải cho sự thiết tha với đề tài đô thị, Phong Điệp cho
biết: “Vì mỗi buổi sáng mở mắt ra, âm thanh dội vào tai tôi đầu tiên không phải
là tiếng gà gọi sáng mà là tiếng còi xe inh ỏi. Ám ảnh những giấc ngủ của các con
tôi là tắc đường, kẹt xe. Ám ảnh đồng nghiệp tôi hàng ngày là ô nhiễm, dịch bệnh,
cháy xe, sập nhà...”. Tất cả những điều đó đã khiến chị không ngớt nghĩ về đời
sống nơi đây, với những thân phận người đang cố neo vào đô thị này để tồn tại
bằng mọi cách. Nơi ấy những người bạn chung trường đại học Luật với chị, đã
gần mười lăm năm chia tay nhau kể từ ngày tốt nghiệp, dù sống trong cùng một
thành phố vẫn chưa thể gặp nhau vì bao nỗi ngổn ngang. Chị bày tỏ: “đô thị
mang trong mình quá nhiều câu chuyện, và chúng thúc giục tôi viết ra.”[57].
Phong Điệp viết về đô thị bằng sự ám ảnh, thúc giục bởi trái tim của một
người nghệ sĩ, sự lo lắng của một người mẹ, sự nhạy cảm một người phụ nữ đầy
yêu thương. Chia sẻ với nhà văn Đỗ Bích Thúy trên Văn nghệ Quân đội, Phong
Điệp đã không giấu được cảm xúc lo âu về đời sống đô thị: “Tôi luôn có cảm giác
bấp bênh và âu lo về đời sống đô thị này. Những rủi ro bất trắc quá nhiều. Cũng
có thể tôi cả nghĩ quá chăng. Hôm qua, chứng kiến một chiếc xe bốc cháy ngùn
ngụt trên đường, ám ảnh không dứt trong tôi là, nếu tôi là người ngồi trên chiếc
xe ấy thì sao? Ai sẽ đón các con, sẽ lo bữa cơm chiều? Mỗi buổi chiều đón con
ngoài cổng trường, tôi luôn phấp phỏng đoán định cảm xúc của con qua từng biểu
hiện trên nét mặt.Người lớn đã dễ tổn thương. Trẻ con càng mong manh vô cùng.
32
Hình như cuộc sống này, càng ngày con người càng ít chú ý đến cảm xúc sống
của mình và của những người xung quanh. Chúng ta luôn vội vã mà không hiểu
vì sao mình lại phải vội vã đến thế.” [21]. Phong Điệp không chỉ âu lo về nơi mình
đang sinh sống mà trong sâu thẳm trái tim mình, chị luôn đau đáu về phố thị nơi
thành Nam mà chị đã gắn bó cả tuổi thơ. Chị hiểu rất rõ: “Trong tâm hồn những
người dân nhập cư tại các đô thị lớn, luôn có một vùng đất để trở về. Chỉ có điều,
cuộc sống hàng ngày không cho phép họ làm điều đó. Và tôi cũng vậy thôi. Luôn
có một cõi riêng để tôi trở về, dù cõi riêng đó - đôi khi chỉ còn là ký ức”[21]. Thế
nên, sống ở Hà Nội gần hai mươi năm nhưng Phong Điệp vẫn canh cánh tâm thế
của một người “ở trọ” dù chị đã có nhà riêng, đã có một tổ ấm mà chị biết cách
chăm lo gìn giữ để nó được yên bình, có những đứa con xinh xắn. Trong một góc
nhỏ cuộc sống của Phong Điệp vẫn có những cơn mơ về một vùng ký ức mờ xa,
để rồi khi tỉnh lại giữa những tiếng còi xe báo hiệu một ngày mới, chị lại tất bật
với những lo toan thường ngày, tất bật với công việc làm báo. Và đêm về, khi các
con đã ngủ yên, chị lại ngồi bên bàn viết, tiếp tục những cơn mơ dang dở…
Sống bằng đầy ắp cảm xúc và sự thúc giục phải viết về hiện thực đô thị nên
viết văn hay làm báo - Phong Điệp đều đề cao vốn sống, kinh nghiệm sống. Không
ít chuyện của Phong Điệp được triển khai trên nền của một bối cảnh có thực, nhân
vật thực, sự kiện thực với một đời sống có nhiều điểm nhấn sâu sắc. Phong Điệp
viết để giải thoát sự ám ảnh hoặc để đồng cảm, cảnh tỉnh...Nếp nghĩ của Phong
Điệp nghiêng hẳn về những câu chuyện, những số phận, những sự kiện mà cá
nhân chị từng được sống, từng được chứng kiến trong đời sống của mình. Phong
Điệp không phải tạng người ưa ứng dụng sức mạnh của hư cấu tưởng tượng vào
những sự kiện, những tình thế mà chị trải nghiệm. Phong Điệp thuộc về hiện thực,
một hiện thực có tính thời sự của các đô thị. Tính hiện thực đã làm tác phẩm Phong
Điệp ngồn ngộn hơi thở cuộc sống thành thị đương đại. Nếu Nguyễn Ngọc Tư là
nhà văn nữ chiếm được cảm tình của độc giả bắt đầu bằng những câu chuyện chân
thực về miền đất mũi Cà Mau, vùng nông thôn. Đỗ Bích Thúy lại đưa người đọc
33
đến vùng cao Tây Bắc bằng giọng văn trong trẻo và đong đầy tình cảm, thì Phong
Điệp lại là nhà văn dành được sự quan tâm bởi những câu chuyện đời thường nơi
đô thị.
Có thể nói cảm quan đô thị của Phong Điệp được khơi nguồn từ chính cuộc
sống đô thị mà chị gắn bó, lo lắng và yêu thương. Chính sự trân quý hiện thực
cuộc sống nơi đô thị trong tác phẩm của mình đã tạo cho Phong Điệp có góc nhìn
riêng về cuộc sống và con người đô thị.
TIỂU KẾT
Đô thị ở Việt Nam xuất hiện khá sớm nhưng văn học lấy đô thị làm đề tài
sáng tác thì chưa có nhiều và chưa tạo thành dòng văn học đô thị riêng biệt. Trong
suốt thời kì phong kiến, đô thị Việt Nam chỉ giữ vai trò là trung tâm hành chính là
chủ yếu. Văn học thời kì này tuy đã có những tác phẩm lấy đô thị làm đề tài sáng
tác nhưng đô thị vẫn chưa phải là cảm quan chủ yếu chủ đạo. Bước sang thế kỉ
XX, cùng với những thăng trầm của lịch sử, sự phát triển của đô thị có lúc mạnh
mẽ, có lúc trầm lắng và phát triển nhanh chóng sau khi đất nước bước vào thời kì
đổi mới. Tuy chưa phát triển thành nhịp mạnh để mang đầy đủ nội hàm của một
nền văn học đô thị như của phương Tây nhưng văn học đô thị Việt Nam đã để lại
những dấu ấn sâu đậm với các tên tuổi lớn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Việt Hà...cùng các tác phẩm có giá trị làm phong phú cho nền văn
học Việt Nam. Là một nhà văn trẻ, tiếp nối truyền thống văn học viết về đô thị,
34
Phong Điệp với cảm quan nghệ thuật của một cây bút nữ trẻ đương đại đã dần hình
thành một lối viết riêng thể hiện cảm quan đô thị đáng chú ý.
35
CHƯƠNG 2
CẢM QUAN VỀ ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP
2.1. Cảm quan về đời sống đô thị
2.1.1. Quá trình đô thị hóa và góc nhìn đô thị
Các nhà văn viết về đô thị luôn chọn quá trình đô thị hóa là tâm điểm của
sự chú ý và coi đây như một vấn đề nổi bật của của quá trình sáng tác. Vấn đề này
vừa thể hiện được bộ mặt đô thị trong quá trình đổi thay, phát triển đồng thời cũng
thể hiện được thế giới quan của nhà văn trước hiện thực đô thị. Nguyễn Việt Hà
chú ý bước chuyển mình của đô thị thời điểm nền kinh tế bắt đầu mở cửa hội
nhập. Đô thị hóa của Nguyễn Việt Hà là những thay đổi trong sinh hoạt và lối
sống của cư dân phố cổ khi nền kinh tế đô thị phát triển mạnh mẽ. Đỗ Phấn, với
con mắt của một họa sĩ viết văn lại chú ý đến màu sắc, kiến trúc của đô thị trong
quá trình mở rộng và phát triển với nhiều không gian khác nhau. Phong Điệp cũng
viết về đô thị hóa nhưng chị lại chọn cho mình một không gian tương đối hẹp,
một địa danh cụ thể, ở khu vực giáp ranh. Đó là xóm Chùa Cuối trong cảnh làng
lên phố.
Quá trình đô thị hóa được Phong Điệp khắc họa qua sự quan sát và cảm
nhận của nhân vật cô bác sĩ tâm lí trong tiểu thuyết Ga kí ức. Không gian đó là
nơi cô gắn bó trong cả tuổi thơ nghèo khó cùng mẹ và chị gái. Cũng nơi đó, sự ra
đi bí ẩn của bố luôn ám ảnh và đeo bám cô không dứt khiến cô chưa bao giờ ngừng
tìm kiếm câu trả lời cho sự ra đi ấy. Quá trình đô thị hóa đến với một làng quê đã
làm thay đổi hẳn không gian yên bình: “Làng lên phố. Máy ủi, máy xúc công
nghiệp rầm rập kéo về. Điện công trường rừng rực sáng suốt đêm... Cả xóm thành
một đại công trường với máy ủi máy xúc ầm ào suốt 24 giờ.” [22, tr. 8, 158]. Làng
quê chuyển mình hối hả, dồn dập và ồn ã. Phong Điệp không miêu tả nhiều, nhưng
chị lại mang đến cho người đọc cái cảm giác được chứng kiến trực tiếp quá trình
thay đổi ấy. Việc chị lựa chọn miêu tả quá trình làng lên phố từ những vệt ủi, gầu
36
xúc đầu tiên là có dụng ý nghệ thuật. Đô thị hóa trong cái nhìn của Phong Điệp
không phải đơn giản là quá trình thay đổi nhẹ nhàng, mang lại niềm vui và hạnh
phúc cho mọi người mà là sự xáo trộn tận gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước.
Làng lên phố không chỉ là một sự thay đổi cảnh quang mang tính chất cơ
học, dưới con mắt nhà văn sự thay đổi cơ học ấy là một sự lột xác đầy đầy đau
đớn, mất mát: “Nhà cửa, đất vườn bị đốn phẳng. Toàn bộ khu nghĩa địa mọc lên
giữa cánh đồng cũng bị san bằng. Không còn dấu vết nào để cô có thể tìm kiếm
được nấm mộ của con bé. Cái bờ rào nơi hai chị em vẫn hẹn nhau ngày trước
cũng tuyệt nhiên không còn sót lại gì - dù chỉ là một cọng cỏ xơ xác. Tất cả đã nát
nhừ dưới đất sâu. Bầm máu.” [22, tr. 8]. Với cô bác sĩ, mỗi nóc nhà, mỗi mô đất,
mỗi cái cây, mỗi kỉ niệm với cô đều là những sinh thể sống có linh hồn riêng. Vậy
mà những sinh thể ấy đang bị nghiền nát, bấy máu và biến mất dưới sức mạnh và
sự tàn phá của máy móc trong quá trình làng lên phố. Cô không chỉ quan sát sự
thay đổi của khung cảnh xóm Chùa Cuối bên ngoài mà còn cảm nhận sự thay đổi
đó ở bên trong để rồi đau đớn đến thảng thốt với: “một câu hỏi: vì sao đất ở nơi
này đỏ đến thế. Đỏ như máu ứa. Đỏ như ráng chiều tàn, rực cháy lên trên cánh
đồng sau vụ gặp rồi tắt lụi. Đỏ như sầu thảm.”[22, tr.8]. Một màu đỏ ám ảnh.
Màu đỏ ấy có thể là máu của những sinh thể nát vụn, có thể là ánh mắt hoe đỏ
nhìn đâu cũng thấy mầu tang thương. Ám ảnh bởi sự đau đớn, ám ảnh bởi sự mất
mát mà Phong Điệp đã làm cho người đọc dù ngoài cuộc cũng có thể cảm nhận
rõ rệt cảm giác đau đớn, mất mát của cư dân xóm Chùa Cuối và cả cô bác sĩ.
Đô thị hóa đã phá vỡ không gian làng quê, những ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ,
nằm ẩn mình trong những khu vườn xanh mát đã không còn, thay vào đó là
“những tòa cao ốc đua nhau mọc lên, cao đến chóng mặt”[22, tr. 158]. Những
xóm nhỏ đêm khuya đom đóm lập lòe đã biến mất, không còn thấy đêm trăng
thanh bình thả ánh vàng lấp loáng, xóm Chùa Cuối “giờ cũng lên phường, và
chuyển đổi thành khu đô thị mới. Điện sáng nhưng nhức suốt đêm.”[22, tr. 158].
Màu xanh mát của cây cối được thay thế bằng những khối bê tông xám xịt, nặng
nề. Đô thị nơi xóm Chùa Cuối trở nên khô cứng và nặng nề. Sự tiện nghi của đô
37
thị đã làm con người dễ thô bạo với tự nhiên và xa rời cây cỏ. Đô thị hóa không
đơn thuần đã phá vỡ không gian làng quê mà phá vỡ cả sự cân bằng môi trường
sinh thái, làm mất đi sự hiện hiện quen thuộc của màu xanh cây cỏ trong đời sống
hiện thực. Con người càng xa rời thiên nhiên càng trở nên thiếu thân thiện. Phong
Điệp không chỉ nuối tiếc không gian làng quê biến mất mà còn lo lắng cho chính
con người đô thị đang dần vô cảm trước thiên nhiên, và vô cảm với chính xã hội
đang sống.
Đô thị hóa mang đến cho xóm Chùa Cuối những ngôi nhà cao tầng, những
con đường trải nhựa phẳng lì, nhưng cái giá mà cư dân xóm Chùa Cuối phải trả
giá thì lại quá đắt. Phong Điệp chỉ rõ hậu quả trước tiên là tình trạng ô nhiễm môi
trường. Sự trong lành vốn có của làng quê cũng không còn: “Khu đô thị mới đang
mọc lên nham nhở. Máy xúc hì hụi ngoạm phế liệu, chất đầy khoang chứa, rồi cứ
thế nhông nhênh chạy đi, chẳng buồn dùng bạt che. Gạch vữa rơi đầy trên đường.
Bụi tốc mù mịt từ sáng đến tối. Phế liệu đi thì cát sỏi vào. Mùi dầu xe khét lẹt.”
[22, tr. 10]. Để có được viễn cảnh về một đô thị hào nhoáng người ta sẵn sàng
đánh đổi mọi thứ. Sự quản lí lỏng lẻo, sự thiếu ý thức bảo vệ môi trường sống
đang khiến cho cư dân làng ven đô chưa kịp thụ hưởng thành quả của quá trình
đô thị hóa thì đã phải trả giá cho chính quá trình ấy. Đằng sau ngôn ngữ miêu tả
chân thực, khách quan về quá trình đô thị hóa Phong Điệp không khỏi xót xa cho
tình cảnh sống của người dân đô thị.
Đô thị hóa nhanh chóng, ồ ạt không chỉ làm thay đổi cảnh quan mà thay
đổi cả nếp sống của làng quê bình làng quê. Xóm Chùa Cuối giờ đây: “khu công
nghiệp đã ngoạm hết đất làng. Thanh niên làng nhuộm tóc đỏ chót, phóng SH như
rồ. Ba bữa tiêu hết tiền đền bù đất, thì đã thành con nghiện nặng mất rồi. Nhà hở
cái gì ra là mất cái ấy. Không trộm cắp thì xin đểu.” [22, tr. 168]. Có tiền bán
ruộng, cư dân xóm Chùa Cuối những tưởng họ sẽ đổi đời, gốc gác nông dân sẽ
biến mất, họ sẽ trở thành cư dân phố thị, áo quần bảnh bảo, đời sống nhàn hạ.
Giấc mơ xa vời chưa đến. Họ nhận ra đô thị hóa mang đến cho họ nỗi buồn hơn
niềm vui, khổ đau hơn hạnh phúc. Bản tính chăm chỉ, cần cù dần bị thay thế cho
38
lối sống hưởng thụ, đua đòi đã làm hỏng không chỉ một thế hệ của cư dân Chùa
Cuối. Phong Điệp không cổ vũ, cũng không phê phán quá trình đô thị hóa. Nhà
văn hiểu đó là một quá trình tất yếu của đất nước đang trong đà phát triển mạnh
mẽ. Với thiên chức của một nhà văn, với tình cảm luôn đau đáu với làng quê,
Phong Điệp không chỉ tổng kết mang tính dự báo về những mặt trái, những tác
hại của quá trình đô thị cho mọi làng quê, mà còn cảnh tỉnh những ảo tưởng đơn
giản về những điều tốt đẹp của quá trình làng lên phố.
Có thể nói, Phong Điệp đã nhìn sâu hơn vào vấn đề đô thị hóa để nhận ra
những góc khuất của nó. Nếu chỉ là người đứng ngoài quan sát sẽ thấy đô thị hóa
làm cho nhà cửa khang trang, đẹp đẽ, phố xá đông đúc, tấp nập. Nhưng Phong
Điệp viết về đô thị hóa với tâm thức của người trong cuộc để nhận ra những đớn
đau và mất mát được che đậy bằng những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Phong Điệp
nhận thức về quá trình đó và miêu tả của chị gắn với hoài niệm về không gian
làng quê thanh bình đã mất như một sự đánh thức con người về không gian sống
của họ, những gì diễn ra xung quanh họ để trân trọng, giữ gìn hiện thực tốt đẹp
đang có.
Để bức tranh đô thị trong tác phẩm của mình hiện lên một cách đầy đủ, rõ
rệt không ít lần Phong Điệp để cho các nhân vật của chị phát ngôn về đô thị với
những góc nhìn khác nhau, từ những lứa tuổi khác nhau. Trước tiên là góc nhìn
của những người già. Với bố mẹ Nhung trong Lạc chốn thị thành, những người
ở quê có con đi học đại học, nhất là con gái thì: “Hà Nội rặt cạm bẫy thôi”. Bố
mẹ Nhung không phải không tin tưởng cô mà không thể yên tâm để cô ở bên ngoài
trước bao những rình rập, cạm bẫy của cuộc sống nơi đô thị. Vậy nên, Nhung
được “ở nhà người quen, dẫu người ta có không ưa thì vẫn còn an toàn”. Quan
niệm của bố mẹ Nhung phản ánh cái nhìn thiếu thiện cảm của những người dân
quê sống xa đô thị vốn quen với tình làng nghĩa xóm và sự bao bọc bình yên của
lũy tre làng. Sự thiếu thiện cảm đó cao hơn là sự cảnh giác và tâm lí bất an với đô
thị. Qua góc nhìn của bố mẹ Nhung đô thị đã thành một môi trường thiếu an toàn,
cần phải đề phòng và cảnh giác. Khác với bố mẹ Nhung, mẹ của Quân, người yêu
39
của Hạ trong Blogger lại trực tiếp cảm nhận về đô thị. Vì hoàn cảnh sống thay
đổi, mặc dù chả thích thú gì nhưng bà buộc phải lên phố với chồng với con. Trong
mắt bà: “Thành phố thì có gì hay ho? Nhà cao cao là, nhìn xuống chỉ chực buồn
nôn.” Với bà, đô thị là nơi không đáng sống. Mọi thứ đều chật chội, ngột ngạt
khiến bà như bị cầm tù. Lối sống trọng tình, quan tâm của người nhà quê khiến
bà không thích nghi nổi với thói quen tôn trọng sự riêng tư đến vô cảm của người
thành phố. Mẹ Phùng trong Ga kí ức cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. Cái làng
Bình Yên dù đã làm mẹ con bà sống khổ, sống nhục nhưng phải rời đi để sống ở
phố thì bà không muốn. Sống nơi thành phố, dù được Phùng chăm sóc với những
điều kiện tốt nhất nhưng sự ngột ngạt của đô thị khiến bà mòn mỏi, sự nhàn hạ
khiến bà thấy mình vô dụng, sự vắng vẻ trong ngôi nhà nơi phố xá ôn ào khiến bà
trầm cảm. Bà đã phải thốt lên với Phùng: “sống thế này tao cũng chết sớm thôi
con ạ”. Câu nói của mẹ Phùng là minh chứng rõ nhất cho sự chán ngán về đô thị,
đô thị đang lấy mất dần sự sống của bao con người như mẹ Phùng, mẹ Quân,
những người vì bất đắc dĩ phải đến với đô thị. Phong Điệp thật xót xa cho những
hoàn cảnh sống như thế. Có thể nói các nhân vật của Phong Điệp đến với thành
phố hầu như không được chuẩn bị tâm thế. Họ bị sốc, vì quá bất ngờ trước khung
cảnh phố phường, xa lạ với lối sống thờ ơ, lạnh lùng của cư dân phố thị. Đến với
đô là một điều bất hạnh.
Không chỉ người già thiếu thiện cảm với đô thị mà ngay với người trẻ cũng
không thể tìm thấy sự bình yên, hạnh phúc nơi đô thị. Việc rời khỏi “mảnh đất bị
yểm bùa” với y trong Ga kí ức là một bất ngờ. Chưa bao giờ mẹ y có ý định rời
khỏi làng. Y thì cũng không được chuẩn bị gì cho sự ra đi. Sự ra đi chỉ được quyết
định sau cái chết của hai chị và của bố y để cứu chính sự sống của y. Đến với phố
phường mẹ y “nhanh chóng thích nghi với môi trường mới”. Với y, thành phố
khác hẳn cái làng vắng vẻ và lạnh lẽo mà y từng sống: “Mở mắt ra là đường xá,
xe cộ. Mở mắt ra là tiếng rao bán hàng. Mở mắt ra là người với người. Đông quá,
ồn ào quá.” [22, tr. 126]. Rồi y rút ra kết luận: “Thành phố khác hẳn với vùng đất
bị nguyền rủa trước kia của y. Ở đây mọi thứ rạch ròi, sòng phẳng. Mọi thứ không
40
ngừng chuyển động với tốc độ chóng mặt.” [22, tr. 147]. Ngôi làng y sống trầm
lắng bao nhiêu thì thành phố y đến ồn ào bấy nhiêu, ngôi làng y mọi thứ chậm rãi
bao nhiêu thì thành phố y sống hối hả bấy nhiêu. Thành phố không có sự bình yên
để y có thể tìm thấy chút nhẹ nhõm của tâm hồn. Ngoài y còn có cô bác sĩ. Sống
ở đô thị nhưng chưa bao giờ cô, một bác sĩ tâm lí cảm thấy gắn bó với đô thị. Tâm
trí cô hướng về quá khứ, tình cảm cô hướng về xóm Chùa Cuối. Tâm trí ấy, tình
cảm ấy khiến cho luôn cảm thấy đô thị như nơi sống tạm, ở nhờ: “Nếu tính thời
gian ở phố, thì thời gian ấy dài hơn hẳn những ngày tháng sống ở làng, vậy mà
lạ thay những ngày tháng nơi phố xá trôi tuột đi mỗi ngày. Như nước rơi vô duyên
xuống lá. Ngày này sang ngày khác. Bao nhiêu nước đã rơi? Sao không đọng lại
chút gì nhung nhớ trong cô.” [22, tr. 152].
Có thể nói, Phong Điệp không dành nhiều trang viết về quá trình đô thị
hóa, cũng không ham đi phân tích, mổ xẻ bộ mặt đô thị như những nhà văn khác.
Qua trang viết thấm đẫm sự trải nghiệm của chính bản thân nhà văn, cộng với
nhạy cảm của một nhà văn nữ ta thấy rõ quá trình đô thị hóa là quá trình đau đớn
và mất mát. Một cuộc lột xác mà con người phải chấp nhận cả những điều tệ hại
và đến với thành phố con người thật khó tìm được sự bình yên trong cuộc sống
cũng như trong tâm hồn.
2.1.2. Những xung đột giá trị văn hóa, đạo đức trong đời sống đô thị
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia xung đột có thể hiểu là sự đối lập
về những nhu cầu, giá trị và lợi ích. Xung đột văn hóa có thể hiểu là những khác
biệt, những mâu thuẫn là sự đối lập về những nhu cầu, giá trị và lợi ích trên phương
diện văn hóa.Từ khái niệm soi chiếu vào những tiểu thuyết viết về đô thị của
Phong Điệp, người đọc nhận thấy nhà văn tập trung chủ yếu vào những xung đột
giữa văn hóa truyền thống nông thôn với văn hóa đô thị hiện đại hoặc những xung
đột quan niệm đạo đức do tác động của quá trình đô thị hóa hay bị nhiễm cuộc
sống đô thị.
41
Trước tiên, để làm nổi bật sự xung đột giữa văn hóa truyền thống (nông
thôn) với văn hóa đô thị, Phong Điệp không lựa chọn bối cảnh rộng với các thành
phần xã hội khác nhau mà lựa chọn bối cảnh hẹp gia đình trong mối qua hệ mẹ
con giữa Phùng, một doanh nhân thành đạt với mẹ trong tiểu thuyết Ga kí ức để
thể làm minh chứng tiêu biểu. Mẹ Phùng, một cô gái thanh niên xung phong quá
lứa nhỡ thì trở về làng sau khi cuộc kháng chiến kết thúc. Chẳng thể lập gia đình
riêng, mẹ Phùng chấp nhận bao tủi nhục nơi làng quê để sinh ra Phùng. Mẹ phùng
được coi là hình ảnh tiêu biểu cho con người và văn hóa truyền thống nơi làng
quên. Còn Phùng, tuổi thơ ở làng Bình Yên là những năm tháng nhục nhã. Nhờ
học giỏi Phùng được đi du học. Trải qua bao khốn khó nơi xứ người, Phùng đã
trở thành một doanh nhân thành đạt. Phùng là hiện thân của con người mang đầy
đủ những giá trị văn hóa của đô thị.
Sự xung đột giữa Phùng với mẹ như hiện thân của sự xung đột giữa văn
hóa truyền thống với văn hóa đô thị. Sự xung đột ấy được Phong Điệp khắc họa
bằng việc Phùng quyết định chuyển mẹ lên thành phố. Phùng với đầu óc thực tế
của một doanh nhân, một con người sống quen ở đô thị thì quá khứ không quá
quan trọng, nếu quá khứ ấy chẳng tốt đẹp gì thì càng đáng phải quên đi, hiện tại
và tương lai mới quan trọng. Mọi thứ có thể thay đổi nếu sự thay đổi ấy là tốt đẹp.
Sự thay đổi không gian sống là chuyện bình thường. Thế nên, khi trở về nước và
quyết định đưa mẹ rời khỏi làng Bình Yên lên thành phố sống với anh là việc nên
làm mà chẳng cần phải nghĩ ngợi gì. Bởi vì, với Phùng, cái làng Bình Yên chỉ là
nơi ghi dấu sự tủi hổ của hai mẹ con, tuy giờ chẳng có kẻ nào dám khinh mẹ con
Phùng nhưng Phùng cũng chẳng nuối tiếc. Làng Bình Yên nghèo đói và bất an đã
không còn phù hợp để mẹ con Phùng sống. Mẹ Phùng thì ngược lại. Quá khứ dù
đói khổ, dù tủi nhục vẫn đáng nhớ, đáng trân trọng. Ngôi làng Bình Yên đã làm
mẹ con bà mang vết thương lòng khó có thể lành được. Nhưng gắn bó cả đời nên
bà không muốn rời xa. Khi phải rời xa thì bà “tiếc làng tiếc nước. Tiếc từng hàng
rau ngót mới dâm, giờ bắt đầu đâm chồi” [22, tr . 180]. Đó là tâm lí ưa ổn định,
42
ngại di chuyển và đổi thay của những người nông dân ngàn đời quẩn quanh sau
lũy tre làng. Tâm lí ấy đối lập hẳn với tâm lí của Phùng.
Không chỉ dừng lại ở việc rời làng, Phong Điệp khai thác sự xung đột giữa
văn hóa truyền thống với văn hóa đô thị chính ở quan niệm về hạnh phúc. Đưa
mẹ lên phố, Phùng muốn mẹ hạnh phúc, Phùng muốn bù đắp cho mẹ những ngày
tháng thiếu thốn, tủi nhục bằng những tiện nghi tốt nhất. Mọi thứ Phùng đều có
sẵn để phục vụ mẹ: “máy đo huyết áp tại nhà. Thuốc men tại nhà. Bác sĩ phục vụ
tại nhà. Của ngon vật lạ gì Phùng cũng mua cho mẹ thử. Nơi nào đẹp, Phùng dẫn
mẹ đi thăm quan. Nghe nói vở chèo nào hay Phùng đều mua vé mời mẹ đi xem.
Vậy mà mẹ vẫn rầu rĩ sinh bệnh. Bà thẫn thờ như một cái bóng ra vào.”[22, tr.
181]. Phong Điệp đã tỏ ra am hiểu tâm lí cư dân đô thị khi để Phùng luôn coi giá
trị vật chất là giá trị tối thượng trong đời sống đô thị. Phùng luôn nghĩ giàu có thì
sẽ khiến con người ta hạnh phúc. Và Phùng muốn mẹ hạnh phúc bằng chính sự
giàu có của mình. Phùng không thể hiểu được tại sao khi có tất cả mọi thứ, được
nhàn hạ, được sung sướng đủ đầy mẹ Phùng lại héo úa, tàn tạ. Phong Điệp không
chỉ am hiểu tâm lí cư dân đô thị, chị càng hiểu tâm lí của những người phụ nữ
nông thôn như mẹ Phùng khi sống trong hoàn cảnh đủ đầy ở nơi đô thị. Với mẹ
Phùng, bà không đòi hỏi quá nhiều về mặt vật chất, thứ bà cần không phải là tiện
nghi đầy đủ, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người hạ. Bà cần có Phùng bên cạnh,
giàu hay nghèo đều có mẹ có con. Phùng là niềm vui, là hạnh phúc của bà. Vậy
mà Phùng không thực hiện được hay Phùng không hiểu điều đó có ý nghĩa như
thế nào với mẹ ở nơi thành phố xa lạ này. Một sự xung đột không dễ nói thành
lời. Người ta mong như bà còn chẳng được. Nói ra bà sợ làm Phùng buồn. Chính
sự âm thầm chịu đựng khiến khoảng cách giữa bà và Phùng ngày một xa. Khoảng
cách của sự khác biệt đã khiến bà lâm vào tình trạng trầm cảm, đáng thương.
Một vấn đề khác mà phải tinh tế và am hiểu những người dân quê Phong
Điệp mới phát hiện ra đó là nếp nghĩ nếp cảm khác biệt quá lớn giữa các thế hệ
đối với cuộc sống đô thị. Phùng không muốn mẹ vất vả. Bà đã khổ cực cả đời,
nay phải được nghỉ ngơi. Chính Phùng không hiểu chính sự nghỉ ngơi, nhàn hạ
43
nơi đô thị cũng đang làm bà héo úa. Vốn quen lao động chân tay bà cảm thấy
mình trở nên vô dụng khi không phải đụng chân đụng tay vào việc gì. Lao động
với những người nông dân không chỉ là thói quen, nó còn là niềm vui, mà còn
khiến bà thấy mình có ích.
Đi sâu vào hoàn cảnh sống của mẹ Phùng, Phong Điệp chỉ cho độc giả thấy
sự xung đột chính yếu giữa văn hóa truyền thống với văn hóa đô thị chính là sự
khác biệt giữa không gian sống rộng rãi, thoáng đãng, gần gũi và giao hòa với tự
nhiên ở nông thôn với không gian sống chật hẹp, ngột ngạt và xa rời, cách biệt
với thiên nhiên nơi đô thị khiến con người như mẹ Phùng khó có thể thích nghi
nổi. Có lẽ chính Phong Điệp đã trải qua hoàn cảnh này nên chị viết không chỉ
bằng sự trải nghiệm của bản thân và bằng cả sự cảm thông, thấu hiểu sâu sắc với
nhân vật. Sự thay đổi môi trường sống một cách đột ngột khiến bà “không quen
được cái nhà trên phố”. Bởi vì, nhà phố “mang tiếng là nhà có vườn nhưng vườn
chỉ bé bằng manh chiếu, may ra thì trổ được ít hành húng.”[22, tr. 178]. Cả cuộc
đời bà “bước chân ra ngoài ngoài nhà là gặp luống rau xanh mướt mát, là vườn
cây ăn quả mùa nào thức ấy xum xuê, là đàn gà ao cá tíu ta tíu tít, là đồng ruộng
bời bời nắng gió” [22, tr. 178]. Cuộc sống nơi đô thị khiến bà ngột ngạt, bức bối:
“Tự nhiên phải sống kiểu nhà cao cửa kín không có cả không khí mà thở, toilet
liền kề với bếp ăn, bà thấy hãi hãi. Thời gian đầu mẹ ngồi ăn, con giật nước bên
trong, tí nữa thì bà nôn.”[22, tr. 178]. Vậy nên, “không bao giờ bà dám đóng cửa
sổ, trừ khi mưa bão. Vì đóng cửa sổ thì cũng bịt hết không khí bên ngoài vào.
Sống kiểu ấy có khi chết vì ngạt trước khi chết vì bệnh tật.” [22, tr. 178]. Ở với
Phùng nơi đô thị, bà có tất cả những điều kiện vật chất tốt, nhưng càng tiện nghi
bao nhiêu bà càng cảm thấy mệt mỏi bấy nhiêu. Bà đã cố gắng kiên nhẫn để hòa
nhập với đô thị, bà đã thỏa hiệp nhưng: “dù đã cố gắng thỏa hiệp bà vẫn không
tài nào quen được tòa nhà cao ngất ngưởng, tầng dưới tầng trên cũng phải đi
bằng thang máy, bước chân vào chỉ tổ chóng mặt. Điện thoại chốc chốc lại đổ
chuông khiến bà giật mình thon thót.” [22, tr. 178]. Sự vất vả, cơ cực trong suốt
những tháng năm tuổi trẻ chưa bao giờ làm bà gục ngã. Bà luôn kiên cường vừa
44
làm mẹ vừa làm cha. Là chỗ dựa, cũng là hầm trú ẩn an toàn cho Phùng sau tất cả
những ghẻ lạnh, những khinh bỉ của người đời. Khi đó bà được sống, được hít thở
bầu không khí thoáng đãng, cao rộng của làng quê. Vậy mà giờ cái sự sống mạnh
mẽ ấy cứ bị bào mòn bởi những tiện nghi vật chất mà Phùng lầm tưởng mang lại
sự sung sướng cho bà. Bà là cái cây chịu phong ba bão táp mới trở nên cứng cỏi.
Bây giờ, cái cây ấy đang cớm nắng, cớm gió đang héo úa dần. Chính sự xung đột
về văn hóa, nếp cảm nếp nghĩ đã tạo ra những bất hạnh cho cư dân đô thị đến từ
vùng ngoại vi.
Viết về sự xung đột văn hóa nông thôn với văn hóa đô thị Phong Điệp tỏ ra
tinh tế từ những chi tiết nhỏ như mẹ Phùng cảm thấy buồn nôn khi đang ngồi ăn
bên ngoài mà con xả nước nhà vệ sinh bên trong đã cho thấy khả năng quan sát
và biết lựa chọn chi tiết để làm nổi bật sự xung đột văn hóa. Với nông thôn nhà
vệ sinh bao giờ cũng là không gian tế nhị, riêng tư luôn được bố trí ở những vị trí
xa khuất, còn thành phố sự tiện lợi và tiết kiệm không gian lại được đề cao. Chính
sự am tường về văn hóa cả nông thôn lẫn đô thị nên trang viết của Phong Điệp
không chỉ chân thực mà lôi cuốn người đọc.
Không chỉ tập trung thể hiện sự xung đột văn hóa truyền thống mà Phong
Điệp còn thể hiện sự xung đột quan niệm đạo đức do bị nhiễm cuộc sống đô thị.
Sự xung đột diễn ra giữa những con người cùng đến từ ngoại vi, hoặc giữa những
con người đến từ ngoại vi với con người gốc gác đô thị.
Ở những con người ngoại vi thì việc đến đô thị trước hay sau đã có sự nhìn
nhận khác nhau về sự đứng đắn hay tử tế của một con người. Đó là sự xung đột
quan niệm đạo đức. Ta có thể thấy rõ điều này trong hai nhân vật Hạ và mẹ Quân
trong tiểu thuyết Blogger. Hạ là một cô gái tỉnh lẻ tìm đến đô thị. Tốt nghiệp đại
học và xin vào làm ở một Viện nghiên cứu nơi thành phố. Hạ yêu Quân từ khi còn
là sinh viên. Ra trường có việc làm, cô muốn lập gia đình với Quân. Nhưng bà mẹ
Quân từ quê ra không chấp nhận cuộc hôn nhân này. Theo bà, Hạ không phù hợp
để làm vợ Quân. Ngoài những khác biệt về tính cách, điều bà không thể chấp nhận
45
Hạ làm con dâu còn xuất phát từ quan niệm đạo đức. Việc Hạ ở thành phố, thuê
trọ, sống một mình và nửa đêm nhắn tin cho người yêu là hoàn toàn bình thường
và bất kì cô gái đứng đắn nào cũng có thể làm. Nhưng với mẹ Quân thì điều này
không bình thường. Trong mắt bà Hạ là một “con nặc nô”, một đứa “con gái mặt
dạn mày dày”, cái đồ “lăng loàn”, hư hỏng. Sự xung đột trong quan niệm đạo
đức xuất phát từ việc mẹ Quân nhìn Hạ với con mắt của một người nông dân sống
trong môi trường bị ràng buộc bởi những tư tưởng đã lạc hậu và không còn thích
hợp với đô thị. Sự xung đột này gián tiếp gây ra những bi kịch cho Hạ, và nếu cứ
giữ nguyên cái quan niệm này thì chính mẹ Quân cũng rơi vào bi kịch nơi phố thị
này. Phong Điệp đã nhìn thấy những nguyên nhân sâu xa khiến những người nông
dẫn chất phác, đôn hậu như bà trở nên mất đi sự bao dung và độ lượng của người
phụ nữ dẫn tới cái nhìn phiến diện về đạo đức của con người.
Với nhãn quan đô thị sắc sảo, Phong Điệp tiếp tục khám phá sự xung đột
trong quan niệm đạo đức giữa một bên coi nhân phẩm của bản thân như một giá
trị cần giữ gìn còn một bên coi nhân phẩm như một phương tiện để thực hiện mục
đích. Sự xung đột này Phong Điệp tập trung thể hiện ở bốn nhân vật Nhung, Kiều,
Oanh, Phương trong Lạc chốn thị thành. Xuất phát điểm của các cô giống nhau.
Cả bốn cô đều giàu mơ ước, khát vọng nhưng sự lựa chọn đường đi cho riêng
mình đã khiến các cô nảy sinh xung đột về quan niệm đạo đức và dần cách biệt
nhau. Ở Phương có khát vọng được ở lại Hà Nội, có nhà, có hộ khẩu, có tiền bạc,
có cuộc sống nhàn hạ. Oanh dù không có tấm bằng đại học nhưng cô có khát vọng
làm giầu ở chính nơi mà cô vấp ngã, cô muốn khẳng định giá trị của bản thân với
gia đình và bạn bè bằng cách buôn bán. Cô muốn chứng minh cho mọi người thấy
cô có thể thành công trong cuộc sống mà không nhất thiết phải có tấm bằng đại
học. Khát vọng của Phương, của Oanh đều chính đáng, và là động lực để họ vươn
lên. Khát vọng ấy chắc hẳn cả Kiều và Nhung đều đồng tình. Thế nhưng, cách mà
Phương và Oanh thực hiện để đạt mục tiêu của mình lại khiến cho hai cô bạn còn
lại và chắc hẳn xã hội khó đồng tình. Họ xung đột rồi dần xa nhau. Trong khi cả
Nhung và Kiều đều thất nghiệp, hai cô chấp nhận làm đủ nghề để tồn tại, các cô
46
chấp nhận mọi gian khổ nhưng không chấp nhận đánh đổi bản thân để lấy những
đồng tiền nhơ bẩn. Thậm chí khi Kiều có cơ hội được làm việc theo đúng chuyên
ngành mình đã học khi thử việc tại văn phòng luật Chính Nghĩa, nhưng cô đã sẵn
sàng từ bỏ, chấp nhận thất nghiệp để không phải thay đổi mình theo chiều hướng
xấu, bán rẻ lương tâm, và lý tưởng của mình để lấy những đồng tiền không chính
đáng và một chỗ ngồi trong xã hội. Còn Nhung sau những vất vả cô cũng có việc
làm và cô đã cống hiến cho xã hội bằng chính tài năng và lương tâm của mình.
Xung đột với quan điểm đạo đức này, để đạt mục đích của mình, Phương lấy chính
mình là vốn tự có. Không quan tâm đến danh dự, đạo đức của cá nhân, Phương
chấp nhận làm gái bao của một người đàn ông đáng tuổi bố mình với vỏ bọc bên
ngoài là ông bố nuôi. Khi Kiều phát hiện bí mật của Phương, Phương đã lạnh lùng
tuyên bố xa rời nhóm bạn, cắt đứt mọi liên hệ tình cảm, nhất quyết đi theo con
đường mình đã lựa chọn. Oanh khởi nghiệp bằng việc buôn bán nhỏ lẻ quanh các
trường đại học, lợi nhuận chẳng đáng là bao mà phải tranh cướp, chụp giật Oanh
chuyển sang buôn bán lớn hơn với khát vọng làm giầu nhanh chóng. Oanh đã
dùng thân mình như một tài sản để góp vốn, Oanh sẵn sàng cặp với một lão già
người Hàn Quốc để thuận lợi cho việc buôn bán và hi vọng kiếm được một số tiền
lớn nếu sinh được đứa con trai, sự việc không thành Oanh tiếp tục lao vào cặp với
những người đàn ông khác để cuối cùng nhận kết thúc đau đớn, tủi nhục cho bản
thân. Hành động của Phương và Oanh không chỉ đi trái thuần phong mỹ tục của
người Việt Nam mà còn thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức trong giới trẻ, vì
những giá trị vật chất mà sẵn sàng bán rẻ cả bản thân mình. Sự xung đột trong
quan điểm đạo đức đã khiến Phương và Oanh không đủ can đảm để quay trở lại
với Nhung, Kiều sau những vấp ngã. Chỉ có lòng vị tha và tình bạn chân thành
mới giúp Nhung, Kiều vượt qua những định kiến và cả những nỗi sợ hãi để giang
rộng vòng tay đón họ trở lại. Phong Điệp không trực tiếp lên án đạo đức lối sống
của Phương, Oanh hay ca ngợi Nhung, Kiều, dù giữ thái độ khách quan nhưng
người đọc cảm nhận được tình cảm trân trọng của Phong Điệp với những những
cô gái giàu bản lĩnh như Nhung, Kiều trước đô thị đầy cạm bẫy, đồng thời thể
47
hiện nỗi xót thương cho những cô gái lầm lạc như Phương, Oanh. So với các nhà
văn viết về đô thị khác Phong Điệp ít tạo dựng những xung đột trực diện, gay gắt
về văn hóa, đạo đức. Tuy nhẹ nhàng nhưng những xung đột mà chị tạo dựng đã
giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về đời sống văn hóa của cư dân đô thị nhất
là bộ phận đến từ ngoại vi. Qua những xung đột, Phong Điệp thể hiện rõ sự am
hiểu đời sống văn hóa của cư dân đô thị đồng thời kín đáo bộc lộ thái độ tình cảm
của mình trước những vấn đề văn hóa đạo đức của con người trong cuộc sống
đương đại.
2.2. Cảm quan về con người đô thị
2.2.1. Con người trong cuộc mưu sinh và lập nghiệp
Khi cuốn Lạc chốn thị thành ra đời, Phong Điệp đã tâm sự: “Tôi luôn
muốn viết về cuộc sống của những người trẻ tuổi, trước ngưỡng của cuộc đời,
trong đó có tôi và rất nhiều bạn bè. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng thật
khó để kiếm tìm cho mình một chỗ đứng trong cuộc đời. Con đường mưu sinh,
lập nghiệp ấy có lúc thật khốc liệt...”[16]. Không chỉ có trong Lạc chốn thị thành,
ở Blogger, Ga kí ức những trang viết của chị thấm đẫm sự đồng hành và cảm
thông ấy ta luôn bắt gặp hình ảnh những sinh viên tốt nghiệp, những nhân viên
văn phòng, những người lao động đủ loại, đủ nghề nhất là những sinh viên nữ
ngoại tỉnh về thành phố lập nghiệp đều vật vã trong cuộc mưu sinh nơi phồn hoa
đô hội.
Ám ảnh bởi sự mưu sinh lập nghiệp nên trang của Phong Điệp hầu như
thiếu vắng sự thụ hưởng. Đọc Đỗ Phấn ta dễ dàng nhận ra hầu hết các nhân vật
thị dân lâu đời trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn đều có một vốn kiến thức ẩm thực
dày dặn. Tất cả các món ăn từ đơn giản đến phức tạp đều được họ chế biến,
thưởng thức như một môn nghệ thuật. Thế giới nhân vật của Phong Điệp chủ
yếu là những nhân vật xuất thân từ tỉnh lẻ. Vậy nên, “ Tứ cô nương” Kiều, Oanh,
Nhung, Phương trong Lạc chốn thị thành của Phong Điệp thì chế biến và thưởng
thức những món ăn như vậy là một sự xa xỉ. Họ chẳng dám, mà có dám họ cũng
48
chẳng thể. Bệnh viêm màng túi mãn tính của những sinh viên tỉnh lẻ xa nhà, đối
diện với thực tế thất nghiệp, thường trực với sự nghiệp ăn bám kéo dài thì có cái
để cho no cái dạ dày đã là điều may mắn. Họ thèm thuồng trước món quà nghèo,
và coi là thú vui không dễ mấy ai có được khi được ăn món “quẩy nóng”. Phong
Điệp tạo ra cái cảm giác hạnh phúc cho nhân vật của mình thật giản đơn nhưng
cũng thật hiếm hoi trong cuộc mưu sinh lập nghiệp. Hạnh phúc với họ chỉ là “buổi
tối mùa đông căm căm rét, mấy đứa chúng tôi được xì xụp ngồi quanh chảo quẩy
nóng, chờ cho những cục bột bé tí xíu trong chớp mắt biến thành những thanh
quẩy vàng bóng, giòn tan, làm thỏa những miệng háu ăn. Thêm chút nước chấm
có vị thơm của tỏi đập dập, vị tê tê cay cay của tương ớt, và hơi bếp ấm cúng lan
tỏa quanh mình thì thật chẳng có thú vui nào bằng.”[16, tr. 11]. Trong cuộc mưu
sinh, đôi khi kiếm được chỗ làm, có một nơi để ngủ, có cơm để ăn dù thu nhập
chỉ là 300.000 ngàn đồng một tháng cũng khiến những người thất nghiệp như
Kiều trong Lạc chốn thị thành mừng đến rơi nước mắt. Ngay cả đến Phùng trong
Ga kí ức, một doanh nhân thành đạt, hắn không thiếu tiền, hắn sẵn sàng bỏ ba
triệu đồng để mua cả một tiệm tạp hóa toàn bim bim, bỏng ngô, bánh kẹo cho trẻ
con làng Bình Yên, hắn đón mẹ lên thành phố sống với đầy đủ tiện nghi và chăm
sóc mẹ với những điều kiện vật chất tốt nhất. Thế nhưng, với bản thân thì hắn
chẳng sống xa hoa để bù đắp cho tuổi thơ thiếu thốn tủi nhục, cũng chẳng vung
tiền ăn chơi trác táng để trả thù đời. Hắn vùi đầu vào công việc, hắn không thở ra
được lúc nào rảnh rỗi nên việc hưởng thụ lại càng không có trong dự định thiết kế
tương lai của hắn. Có lẽ, sự tằn tiện của một phụ nữ đã trải qua nhiều nỗi vất vả
cơ cực để tồn tại nơi đô thị đã giúp chị hiểu sâu sắc những niềm vui bé nhỏ của
bốn cô gái trong Lạc chốn thị thành và sự tằn tiện với chính mình của Phùng
trong Ga kí ức.
Vắng bóng những trang viết về ăn mà ngay cả uống và vui chơi thì Phong
Điệp cũng đề cập hết sức mờ nhạt. Với Cơ hội của chúa Nguyễn Việt Hà để cho
các nhân vật hay xuất hiện ở những khách sạn sang trọng, gặp nhau ở sân quần
vợt, hay giải trí ở những quầy bar, hộp đêm, cửa hàng Karaoke. Nhan nhản những
49
mác rượu Tây: Johny Walker, Remy Martel, Gordon, Martini. Còn trong văn Đỗ
Phấn thói quen ăn sáng uống cà phê tồn tại như một điều thiết yếu của cuộc sống
thị thành. Nhân vật của Phong Điệp không phải đám quan chức tai to mặt lớn
được xài tiền chùa vô tội vạ, hiếm những doanh nhân thành đạt tiêu tiền như
nước, cũng chẳng có đám thị dân trung lưu, quanh quẩn chỉ là những lao động
bình dân nên không gian giải trí của họ đa phần là không gian công cộng miễn
phí hoặc rẻ tiền. Nam trong Lạc chốn thị thành dù đã đi làm nhưng anh cũng chỉ
đủ khả năng rủ Kiều đi xem ca nhạc, đến khi u uất muốn trút bầu tâm sự với Kiều
thì Nam cũng chỉ đề nghị cô đến quán trà Đài Loan, rồi nuốt bao đau đớn tủi hổ
không nói được thành lời cùng với chai rượu và một đĩa lạc rang trước mặt Kiều.
Sự gắn bó của cặp Quân và Hạ trong Blogger cũng ít xuất hiện những địa điểm
giải trí như vũ trường, nhà hàng thậm trí cả nhà nghỉ, ngay đến cả việc làm tình
của họ cũng diễn ra chẳng mấy thi vị, lúc ở gốc cây, khi ở bãi cỏ và đa phần là ở
nhà trọ vừa rẻ tiền vừa tiện lợi, vừa sẵn có.
Để bám trụ nơi thành phố, tiếp tục nuôi những hi vọng về một tương lai tốt
đẹp, nhân nhân vật của chị chấp nhận vất vả, làm đủ nghề khác nhau để sống.
Đồng hành và thấm đẫm sự cảm thông của người trong cuộc, Phong Điệp để
người đọc thấy được vị mặn chát trong cuộc mưu sinh của mỗi nhân vật. Kiều và
Nhung trong Lạc chốn thị thành là nhân vật tiêu biểu. Tốt nghiệp đại học, dù
không xin được việc nhưng cả hai đều không muốn về quê. Dù nhiều lúc cảm
thấy hoang mang, chán chường khi phải quăng quật ròng rã mấy tháng trời kiếm
tìm việc làm nơi Hà thành nhưng ý định bám trụ lại, tiếp tục tìm kiếm cơ hội lập
nghiệp nơi đô thị của các cô chưa khi nào từ bỏ. Nhung đã từng tuyên bố khi lâm
vào hoàn cảnh bi đát của sự thất nghiệp: “Nói thì nói vậy thôi, chứ tao quyết ở
lại. Đây mới chính là đất sống của tụi mình. Chứ về quê, lại ngồi nhẵn đít bên
bàn giấy cho người khác sai vặt, lương ba cọc ba đồng, đầu óc mỗi ngày lại mụ
đi. Sống thế tao chẳng chơi” [16, tr. 57]. Phong Điệp tỏ ra đồng tình với phát
ngôn của Nhung. Các cô tìm mọi cách để ở lại thành phố không đơn thuần để tìm
kiếm một cuộc sống đủ đầy hơn về mặt vật chất, cao hơn thế là khát vọng sống
50
sôi nổi, say mê, cống hiến để trưởng thành trong môi trường đầy mới mẻ của
những tháng năm tuổi trẻ. Vậy nên Phong Điệp để hai cô làm đủ thứ việc:“bán
hàng trong hội chợ, phát hàng khuyến mại, tiếp thị bia, phát tờ bướm quảng cáo,
làm phiếu thăm dò khách hàng...” [16, tr. 41], mạo hiểm làm nhân viên thử việc
trong quán rượu, chấp nhận làm gia sư tạm thời, làm nhân viên bán hàng tại hiệu
kính thuốc, thử việc trong văn phòng luật trước khi có một công việc tử tế. Ngoài
hai nhân vật Nhung và Kiều trong Lạc chốn thị thành, Phong Điệp tiếp tục xây
dựng hình ảnh những người trẻ nhất là nhân vật nữ vất vả trong cuộc mưu sinh
lập nghiệp nơi đô thị thông qua nhân vật Oanh trong Lạc chốn thị thành. Không
bằng cấp, Oanh khó có cơ hội chen chân vào các công sở. Cô buôn bán đủ thứ để
sống từ giày dép, đồ lưu niệm, quần áo, mỹ phẩm cao cấp, sau bao thăng trầm cô
tiếp tục buôn bán đồ lưu niệm bằng chất liệu gốm sứ. Có thể thấy rằng, bóng
dáng các nhân vật với sự vất vả cơ cực nơi thành thị thật thân thuộc với Phong
Điệp. Hình ảnh Nhung, Kiều, Oanh có thể chính là hình ảnh bạn bè của chị hay
chính chị hóa thân trên trang viết. Phong Điệp quan sát cuộc sống của con người
đô thị từ chính trải nghiệm của một người xuất thân từ tỉnh lẻ. Vậy nên, trang viết
của chị thấm đẫm sự đồng cảm và sẻ chia khi nhìn sâu vào số phận của từng nhân
vật.
Không dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài những vất vả, cơ cực của những
con người đến từ tỉnh lẻ, Phong Điệp còn đi sâu phản ánh những góc khuất, những
nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần, những vết thương không khi nào lành được,
những khó khăn bế tắc, những dồn đẩy của xã hội khiến nhân vật phải trốn chạy
hoặc không ít lần tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Phong Điệp xót xa cho
cái giá quá đắt mà họ phải chịu cho cuộc sống đô thị. Trong Lạc chốn thị thành,
so với Phương và Oanh thì sự lo lắng miếng cơm manh áo, và nỗi ám ảnh về sự
thất nghiệp của Nhung và Kiều vẫn còn hạnh phúc. Với Phương với cái vẻ bên
ngoài đủ đầy, những lọ nước hoa đắt tiền, những chuyến du lịch dài ngày với ông
bố nuôi cũng không giấu được nỗi nhục nhã, ê chề khi chấp nhận làm gái bao
một kẻ đáng tuổi cha mình, khi bị con gái của ông bố nuôi cùng đám bạn hành
51
hạ và biến thành trò mua vui thì Phương nhận ra tình trạng thê thảm của bản thân,
cô lặng lẽ biến mất khỏi người thân và bạn bè để không phải đối diện với quá
khứ ô nhục của mình. Oanh còn thê thảm hơn. Cô biến thân xác mình làm vốn tự
có để kiếm lời, phải phá thai, cuối cùng nhiễm HIV. Cô đã chọn cái chết nhiều
lần để giải thoát cho chính mình nhưng không thành. Tuy được che chở trong
tình yêu thương của Nhung, Kiều nhưng nỗi đau của thân xác, nỗi nhục nhã của
tinh thần vẫn luôn đeo đẳng cô. Ngoài nhân vật trong Lạc chốn thị thành, Phong
Điệp còn xây dựng nhân vật Hạ trong Blogger cũng trở thành nhân vật chịu nhiều
đau khổ cho cuộc mưu sinh của mình. Hạ là một cô gái tỉnh lẻ, ra trường cô cũng
không thể tự mình xin được một công việc tử tế. Nhờ những mối quan hệ của
Quân, cô được vào làm tại một viên nghiên cứu với chân nhân viên thư viện. Để
giữ chân cho một công việc nhàm chán trong khi khối người thất nghiệp, Hạ chấp
nhận trở thành kẻ yếu thế trong cơ quan, bị biến thành con mồi cho lão sếp đê
tiện săn đuổi trong trò chơi “săn gái”, là vật hi sinh cho các cuộc đấu đá nội bộ,
là người cam chịu trước mọi oan ức, cô đã cố tìm việc khác, nhưng sự sĩ diện với
tấm bằng đại học, và cũng muốn đẹp mặt với xóm làng khi làm cho một cơ quan
nhà nước nên Hạ chấp nhận mọi sự buồn tẻ, nhàm chán, uất ức, tủi nhục, bế tắc.
Có lẽ miếng cơm manh áo làm cho con người ta hèn mọn đi. Hay cũng vì những
lí do mưu sinh khác mà người ta chấp nhận làm những việc người ta ghê tởm.
Nam trong Lạc chốn thị thành lâm vào hoàn cảnh thật trớ trêu và cũng oái oăm.
Vì món nợ ân tình với Vân, chủ văn phòng luật Chính Nghĩa, với tấm bằng đỏ
trong tay, vậy mà, Nam phải chấp nhận “làm cái công việc bẩn thỉu, mạt hạng”
mà anh cảm thấy “nhục nhã” là kiếm gái cho khách hàng, rồi “trong lúc họ làm
những chuyện nhớp nhúa ấy thì anh ngồi ngoài, chầu chực như một con chó canh
cổng bảo vệ chủ.” [16, tr. 225-226]. Nỗi nhục đến đỉnh điểm khi chính anh bị tên
khách hàng người Úc đè anh ra cưỡng hiếp. Cái giá cho sự mưu sinh thật quá sức
chịu đựng với anh. Ơn đã trả, Nam không đủ can đảm để đối diện với những nỗi
nhục nhã, anh đã nghỉ việc ở văn phòng luật Chính Nghĩa. Có thể thấy rõ, viết về
những cơ cực trong cuộc mưu sinh của những người trẻ ngoại tỉnh nơi đô thị,
52
Phong Điệp không hề hư cấu, chị viết một cách chân thực khách quan như chính
cuộc sống vốn thế. Tạo dựng hàng loạt những khó khăn, những biến cố cho từng
nhân vật đối diện để vượt quan hay thể hiện mình là cách chị giúp người đọc có
cái nhìn đa chiều và thực tế với những người trẻ nơi đô thị. Mỗi khó khăn, mỗi
thử thách là một trải nghiệm sống đáng quý. Mỗi vấp ngã là một bài học để người
trẻ trưởng thành. Chắc hẳn, mỗi bước đường đời nơi đô thị của người trẻ, nhất là
người trẻ đến từ ngoại tỉnh sẽ không bao giờ đơn độc. Sự đồng hành của Phong
Điệp sẽ giúp họ có thêm niềm tin để bước tiếp.
Kiểu mẫu nhân vật lập nghiệp là lựa chọn của nhiều nhà văn khi viết về đô
thị hay viết về người trẻ. Viết về nhân vật lập nghiệp, mỗi tác giả sẽ thấy được
số phận nhân vật trong một môi trường đầy hấp dẫn, cám dỗ và đầy cạm bẫy.
Môi trường ấy có thể giúp con người đổi đời nhưng cũng có thể kéo con người
xuống vực thẳm. Phong Điệp đến Hà Nội với hai bàn tay trắng và hành trang để
bước vào đời làm tấm bằng đại học, Phong Điệp không chỉ muốn bám trụ được
ở nơi Hà Thành, mà chị còn muốn lập nghiệp cho mình tại đây dù cho phải trải
qua bao thăng trầm vất vả. Ta không lạ khi các tiểu thuyết của chị hầu như vắng
bóng những cậu ấm, cô chiêu ăn chơi trác táng, hay những nhân vật mà đường
đời trải sẵn hoa hồng, hoạn lộ hanh thông. Nhân vật chính của chị chủ yếu là
người trẻ, ngụp lặn trong cuộc mưu sinh, lăn lộn trên đường đời, tìm cho mình
một chỗ đứng trong xã hội không chỉ để kiếm miếng ăn mà còn để khẳng định
giá trị của bản thân. Khó khăn có thể làm họ gục ngã nhưng sự khát khao, đam
mê, nhiệt huyết của tuổi trẻ giúp họ đứng dậy đi tiếp và vững vàng trên đôi chân
của mình. Với ánh mắt nhìn chứa nhiều thiện cảm nên hầu hết nhân vật lập nghiệp
của chị đều giàu nghị lực sống. Kiều và Nhung trong Lạc chốn thị thành dù trải
qua nhiều sóng gió nhưng với nỗ lực vươn lên mạnh mẽ và niềm tin vào những
điều tốt đẹp cả hai cô cuối cùng đã tìm được việc làm có ý nghĩa cho bản thân và
xã hội. Phương và Oanh sau những sai lầm của tuổi trẻ, các cô đã phải trả cái giá
quá đắt cho những toan tính thực dụng của mình. Dù nhiều lần tự tử không thành
và lại mang trong mình căn bệnh thế kỉ, nhưng Oanh đã không gục ngã, khát
53
vọng sống, khát vọng lập nghiệp vẫn chảy trong huyết quản đã giúp cô tiếp tục
mơ ước kinh doanh của mình bắt đầu lại với việc mở cửa hàng bán đồ lưu niệm.
Còn Phương sau biến cố cuộc đời cô không trượt dài trong sự tha hóa, lần đầu
tiên trong đời cô sống bằng chính sức lao động của mình khi cô có việc làm tại
Sài Gòn. Ngoài các nhân vật trong Lạc chốn thị thành, nhân vật Phùng trong Ga
kí ức được coi là hình mẫu tiêu biểu của kiểu nhân vật lập nghiệp. Tất nhiên,
Phong Điệp không có chủ ý xây dựng hình ảnh lí tưởng cho giới trẻ, với chị mọi
hình ảnh lí tưởng có lẽ sẽ mang nhiều hư cấu. Điều chị mong muốn mang lại cho
người đọc nhất là các bạn trẻ một động lực để sống tốt đẹp, động lực ấy phải bắt
nguồn từ hiện thực mới có sức thuyết phục cao. Nhân vật Phùng với tuổi thơ đầy
tủi nhục đã biết vươn lên để khẳng định giá trị của bản thân mình bằng chính nỗ
lực cá nhân, đi du học trong hoàn cảnh không còn viện trợ, trong lúc mọi người
buông xuôi, mất hi vọng, Phùng đã xoay sở đủ cách để không chỉ có tiền tồn tại,
tiền gửi về cho mẹ, mà anh còn lập xưởng may mang lại cuộc sống tốt đẹp cho
mình, cho mọi người nơi đất khách. Khát vọng vươn lên, vượt qua mọi khó khăn
cơ cực để khẳng định mình, để xây dựng sự nghiệp cho mình, cống hiến cho xã
hội là khát vọng cao đẹp của tuổi trẻ. Phong Điệp không hô hào, nhưng sự chân
thực trong các tác phẩm của chị lại có sức thuyết phục lớn cho những lí tưởng
không hề xa vời đó.
Trong tiểu thuyết viết về đô thị của Đỗ Phấn hình ảnh con người được
khắc họa có nhiều cám cảnh, tàn lụi, xót xa. Họ là những thực thể cô đơn, trống
rỗng, tẻ nhạt, ơ hờ, bất lực và tuyệt vọng. Còn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà
có nhân vật tuổi trẻ nhưng luôn hoang hoải, thiếu khát vọng sống, tồn tại không
mục đích, không lí tưởng. Phong Điệp đã tạo cho mình dấu ấn riêng khi viết về
con người đô thị. Nhân vật trong tiểu thuyết của chị dù là nam hay nữ, dù hoàn
cảnh sống cơ cực hay bất hạnh, nhưng khát khao vươn lên, khát khao thay đổi
hoàn cảnh và số phận để có cuộc sống tốt đẹp hơn luôn cháy bỏng trong họ. Dù
bế tắc hay tuyệt vọng nhân vật của chị cũng tìm được ánh sáng cuối đường hầm.
Đó chính là niềm tin vào cuộc sống và niềm tin vào những người trẻ, nhất là
54
những người trẻ đến từ tỉnh lẻ. Niềm tin đó chỉ có được khi Phong Điệp luôn tin
yêu, sẻ chia và đồng hành với những người trẻ.
Có thể nói, những trang viết về con người trong cuộc mưu sinh lập nghiệp
của giới trẻ đã làm cho Phong Điệp có một chỗ đứng vững chắc trong lòng độc
giả. Phong Điệp không chỉ viết bằng chính trải nghiệm chân thực của bản thân
mà còn viết bằng sự cảm thông và trân trọng những bạn trẻ. Bóng dáng các nhân
vật với giọt mồ hôi nhọc nhằn, với nước mắt của đau đớn, tủi hổ thất vọng khiến
lòng ta quặn thắt. Khát vọng được khẳng định mình, được tìm cho mình một lối
đi riêng, được đứng vững trên đôi chân mình khiến ta vui mừng và tin tưởng vào
các bạn trẻ. Đọc Phong Điệp ta thấy như lạc quan hơn. Hãy cứ đi, đường đời dù
chông gai, dù gian khổ nhưng nếu vượt lên chính bản thân mình, không gục ngã
trước hoàn cảnh, ta sẽ về tới đích.
2.2.2. Con người với ký ức về quá khứ và quê nhà
Cư dân đô thị trong các tiểu thuyết của Phong Điệp đa phần là dân nhập cư
ngoại tỉnh. Họ coi đô thị như một vùng đất hứa, và đến đô thị với khát vọng đổi
đời hoặc để rũ bỏ quá khứ gắn với cuộc sống đau buồn nơi làng quê. Nhung, Kiều
sau bốn năm học đại học ở Hà Nội, ra trường, để chờ đợi một công việc tử tế, tuy
phải sống những tháng ngày lay lắt, khốn khổ, chán chường, mệt mỏi, rồi có lúc
tuyệt vọng nhưng chưa bao giờ bao giờ họ có ý định quay lại quê nhà. Ngay cả
trong lúc hoang mang với cuộc sống đô thị Nhung cũng quyết bám trụ. Kiều cũng
không muốn về quê, cô không muốn tiếp tục phải đối diện với ánh mắt luôn soi
mói thiếu thiện cảm và giọng điệu đay nghiến suốt ngày của bà mợ, càng không
muốn cậu tiếp tục buồn và phải lo lắng quá nhiều cho mình. Dù tương lai có thế
nào Kiều cũng không muốn quay lại nơi “chỉ cất toàn những kỉ niệm buồn của
cuộc đời mình.”. Oanh dù không đỗ đại học cô cũng không muốn trở về quê. Khát
vọng làm giầu bằng con đường kinh doanh đã níu chân cô lại với phố phường.
Còn Phương, khát vọng có hộ khẩu, có nhà, có tiền ở Hà Nội đã khiến cô chấp
55
nhận làm gái bao. Với Phương về quê, đồng nghĩa với thất bại, là lạc hậu, là đói
nghèo, là tăm tối. Hạ trong Blogger cũng mang theo khát vọng như Nhung, Kiều,
Oanh, Phương. Tốt nghiệp đại học cô cũng muốn ở lại thành phố. Chỉ là nhân viên
thư viện quèn cho một Viện nghiên cứu, có một anh người yêu đẹp trai, hiền lành
ở thành phố đã khiến cho mẹ cô luôn tự hào với làng xóm. Cô là niềm mơ ước
của bao cô gái ở miền quê nghèo. Sự tự hào và kì vọng của mẹ đã vô tình chắn
lối, khiến cô chưa bao giờ có ý định quay lại quê nhà khi gục ngã nơi đô thị.
Hối hả với vòng quay cơm áo những tưởng miền kí ức, hình bóng quê nhà
sẽ chìm lắng, lãng quên. Thế nhưng, trong tâm hồn những người dân nhập cư luôn
có một vùng đất để trở về, quá khứ luôn ám ảnh hiện hữu. Nhân vật kết nối những
hành khách còn lại trong chuyến tàu trên Ga kí ức chính là cô, một bác sĩ tâm
thần, sống ở thành phố nhưng luôn mang theo hình ảnh xóm Chùa Cuối cùng
những câu hỏi day dứt về sự ra đi bí ẩn của người cha sau nhiều năm không có lời
giải đáp. Xóm Chùa Cuối đã lên phố, dấu vết của làng cũ không còn, những con
người cũ cũng không còn. Mỗi lần trở lại, trong cô là những câu hỏi đau đáu:
“Ông Sì nuôi cá giống - giờ ở đâu? Cô Thu làm nhang - giờ ở đâu?. Bác Cương
xuất khẩu lao động - giờ ở đâu?... Thằng Tùng đen như cơm cháy giờ ở đâu? Ở
đâu?.”[22, tr. 8-9]. Cô lần tìm từng dấu vết rồi, hình dung rõ rệt khung cảnh xóm
Chùa Cuối xưa: “Chỗ này là cái máy nước công cộng. Ngày xưa cả xóm chỉ có
mỗi cái máy nước bao cấp”. “Chỗ này trước là cây cầu”. “Trận lũ ấy.”, “Ngày
ấy ”. Nào là: “Chỗ này đây này... Ngày xưa chỗ này là nhà cô... Ngày xưa, cả
nhà cả cửa trông vào đàn lợn mà sống.”[22, tr. 11, 13]. Quá khứ về xóm Chùa
Cuối gắn liền với mẹ cô, đặc biệt luôn gợi ra kỉ niệm buồn về sự ra đi bí ẩn của
cha. Cô chưa khi nào thôi day dứt rồi tự hỏi: “Vì sao bố bỏ đi? Không ai giải đáp
cho cô. Bao nhiêu năm qua câu hỏi ấy cứ bám diết lấy cô, không cho cô yên,
chừng nào chưa có lời giải.” [22, tr. 73]. Sau nhiều năm, cô vẫn liên tục đặt đặt
ra hàng loạt những giả thuyết để trả lời cho việc bố cô bỏ đi trong quá khứ: “Có
phải bố tiếp tục nhận một nhiệm vụ quan trọng hơn nên phải ra đi? Có phải bố
có một nơi chốn mới? Có phải bố bị thương đúng chỗ hiểm nên bị bất lực. Không
56
muốn vợ con phải khổ vì mình nên ông đã lẳng lặng bỏ ra đi? Có phải sau chiến
tranh, bố bị bệnh mộng du, nên đã bỏ nhà ra đi vào lúc cơn bệnh phát tác? Có
phải...???.” [22, tr.153]. Cô nhận ra: “Sự biến mất đột ngột của bố, dù muốn hay
không đã khiến phần đời sau này của cô trở nên trống trải và vô nghĩa. Cô tự hiểu
rằng, chỉ khi nào có được lời giải đáp thấu đáo ngọn ngành cho sự ra đi ấy thì cô
mới trở lại trạng thái cân bằng.” [22, tr.154]. Trong trạng thái chông chênh khi
vẫn chưa tìm ra lời giải đáp cho quá khứ, cô lại rơi vào tình trạng hoài nghi chính
mình: “Cô là ai? Là ai đây?”, “Thành phố của cô đâu? Cô đã sai ư?”, “Tại sao
mẹ lại lẩn tránh ký ức?”, “Bà phải chăng chính là cô của ba mươi năm nữa?”,
“Cô có đủ can đảm để tiếp tục hành trình sống ấy không?”[22]. Quá khứ ám ảnh
khiến cô thấy sợ tình yêu: “Lâu nay cô thờ ơ với những người đàn ông đi qua đời
mình. Vì cô chưa bao giờ yêu. Cô sợ yêu, rồi những người đàn ông lại bỏ đi,
không kèm theo một lí do nào hết. Cô sợ sẽ như mẹ, một lúc nào đó, đứng câm
lặng trên ban công tầng thứ 24, nuôi duy nhất một ý nghĩ trong đầu là buông bỏ
mọi thứ cho gió cuốn đi.” [22, tr.198]. Cùng ở Ga kí ức, nhân vật y cũng luôn bị
ám ảnh bởi quá khứ và vùng đất quê hương y. Y là bệnh nhân của cô, y chạy trốn
khỏi “mảnh đất bị yểm bùa”, những tưởng y sẽ thoát, những tưởng ồn ào đô thị
sẽ làm y quên đi những lạnh lẽo, chết chóc của làng cũ, và căn bệnh truyền kiếp
sẽ không bám theo y. Nhưng quá khứ không buông tha y, ám ảnh y cả lúc tỉnh lẫn
lúc mơ: “Trong những giấc ngủ, y cố chống cự với kí ức xâm lấn vào các cơn mơ
ngày một dày hơn. Nó khiến y mòn mỏi. Tinh thần rệu rã. Y không tài nào thoát
ra khỏi phòng sách mốc xỉn của bố. Đám mèo hoang chạy huỳnh huỵch trên mái
nhà. Tất cả bủa vây lấy y, chi phối từng nhịp thở của y, y càng không muốn nhớ
thì kí ức ấy càng giày vò y. Và những cơn đau đầu bắt đầu giày vò y.” [22, tr.138].
Làng cũ ám ảnh y, hai chị cũng luôn đến với y trong từng giấc chập chờn: “Trong
những cơn mơ day dứt về làng cũ, y vẫn gặp hai chị. Mắt mở to. Nhìn y không
chớp mắt. Và không cười.” [22, tr.138]. Quá khứ không chỉ ám ảnh mà còn dằn
vặt y, thúc giục y trở về: “Chẳng phải nhiều đêm y đã nhung nhớ, đã vật vã mãi
về nơi chốn cũ hay sao? Y dằn vặt mình về việc đã bỏ đi. Dù có viện lí do gì chăng
57
nữa thì việc bỏ đi cũng để lại trong lòng y sự ăn năn, hối hận. Từng có lúc y muốn
quay trở về. Khi thấy không chịu nổi tâm thế cô đơn lạc loài nơi phố xá. Nếu vậy
thì thành phố không níu giữ y làm gì nữa. lòng dạ y ở đâu, thì y hãy tìm về nơi đó.
Y hãy đi đi. Về tiếp tục hàn gắn những kí ức mà sống. Để khỏi phải ăn năn.”[22,
tr.148]. Với y quá khứ đã chảy trong huyết quản, theo từng nhịp thở, ám ảnh, thúc
bách, khiến y đau đớn, vật vã. Càng trốn chạy y càng bị ám ảnh, càng xa lánh y
càng đau khổ. Có lẽ, Phùng là nhân vật duy nhất tỉnh táo, thực tế trong Ga kí ức.
Dù đã tuyên bố : “Phải đi thôi. Dứt bỏ ký ức mà đi thôi” [22, tr. 187], “Ký ức là
ký ức. Cái gì có phận sự của cái ấy. Không thể đắm chìm mãi với ký ức. Cái cuộc
sống phía trước mới thực sự là cuộc sống của mình” [22, tr. 227] thì vẫn không
thể lẩn tránh ký ức, khi phải đối diện, phải giải quyết điều xảy ra với người mẹ
yêu quý vì bà không thể thích nghi với cuộc sống hiện đại do Phùng tạo dựng, mà
trong thâm tâm Phùng ngỡ là tất cả. Bà là sản phẩm của quá khứ, bà là người sống
với ký ức. Nếu Phùng không chấp nhận ký ức ấy, không biết chia sẻ với ký ức ấy,
mẹ con anh chỉ còn là hai sinh thể sống được kết nối bằng mối dây của tình mẫu
tử đang dần dà có xu hướng lỏng lẻo. Có thể thấy mỗi nhân vật trong Ga kí ức của
Phong Điệp đều gắn bó với một miền quê. Ám ảnh, day dứt với ký ức về quê
hương như là một cách để chối bỏ đô thị và thanh lọc tâm hồn con người đô thị.
2.2.3. Con người tha hóa.
Trong cái ngổn ngang, bề bộn, đầy biến động, quay đảo hỗn tạp của đô thị
con người rất dễ bị tha hoá, biến chất, sống một đời sống bất ổn. Sự tha hoá trong
các nhân vật của Phong Điệp xảy ra dưới nhiều cấp độ và biểu hiện vô cùng đa
dạng: kẻ thì chớm hư hỏng, còn có khả năng thức tỉnh, kẻ thì bị nhuộm đen hoàn
toàn và chỉ là con thú đội lốt người. Có sự tha hoá do tình thế đưa lại, do hám vật
chất, tiền bạc, có sự tha hoá về nhân cách lối sống. Trước tiên, Phong Điệp phát
hiện sự tha hóa của một bộ phận người trẻ, những con người luôn ham muốn có
được có được sự giầu có, đủ đầy nhưng không phải bằng đôi bàn tay và khối óc
mà bằng chính thân xác của mình. Phương và Oanh trong Lạc chốn thị thành là
những nhân vật điển hình cho sự tha hóa do hám vật chất, tiền bạc. Đến với đô
58
thị, Phương cũng như Kiều, Nhung và Oanh, Họ đều là những cô gái đến từ tỉnh
lẻ, ngây thơ trong sáng. Môi trường sống của đô thị với biết bao cám dỗ vật chất
không làm Nhung và Kiều thay đổi lối sống nhưng lại làm Phương và Oanh thay
đổi rất nhiều. Phương không muốn mình sống lay lắt trong những ngôi nhà trọ tồi
tàn như Kiều, cũng không muốn bươn chải vất vả như Oanh, càng không muốn
phụ thuộc vào người quen như Nhung. Phương không muốn chịu cảnh ra trường
lại mòn mỏi để chờ xin được việc làm với đủ thứ cạnh tranh ở nơi đô thị. Cô muốn
có nhà, có hộ khẩu, có xe, có tiền, có việc làm, những chuyến du lịch nước ngoài.
Với hai bàn tay trắng, thân cô thế cô nơi thành thị, để có được những thứ đó
Phương sẵn sàng lấy chính cái vốn tự có để đánh đổi. Phương chấp nhận cái vỏ
bọc là làm “con nuôi” mà thực chất là làm gái bao cho một lão già giầu có. Bị
Kiều phát hiện ra mối quan hệ của mình, Phương cũng chẳng cần thanh minh,
cũng chẳng tỏ ra tội lỗi hay ân hận. Đó là con đường Phương chọn để có được
những thứ Phương muốn. Phương chấp nhận hi sinh cả tình bạn gắn bó suốt thời
đại học chứ không thể từ bỏ mục tiêu mà Phương đã đề ra và quyết tâm thực hiện.
Sự hào nhoáng của vật chất nơi đô thành đã làm Phương thay đổi, biến chất, tha
hóa. Nếu Phương dùng chính tấm thân mình là một món hàng để trao đổi thì Oanh
lại “sử dụng tình ái, xác thịt để làm ăn, để lên xe xuống ngựa, để qua mặt kẻ khác,
để không bị chèn ép”[16, tr. 270]. Oanh sử dụng tình ái, thân xác như một phương
tiện để kinh doanh, coi tấm thân mình như một thứ tài sản để góp vốn, để làm lợi
thế cạnh tranh. Oanh sẵn sàng cặp bồ với một lão già người Hàn Quốc để được
ưu ái trong việc nhập hàng lậu với giá rẻ để phân phối cho các cửa hàng khác kiếm
lời. Oanh chấp nhận mang thai cho lão già ấy với hi vọng mình sẽ được một số
tiền lớn nếu đứa bé là con trai. Đôi lúc Oanh đã phải thú nhận: “đã lao theo đồng
tiền một cách điên cuồng”. Trong quá trình tha hóa của mình: “Cũng từng có lúc
nó muốn dứt mình khỏi cơn lốc xoáy chết người ấy nhưng vì lý do này, lý do nọ,
nó cứ nấn ná để kết cục vẫn nguyên vẹn là một con thiêu thân”[16, tr. 267]. Sự
tha hóa của Phương và Oanh khiến người đọc không khỏi đau đớn, xót xa cho sự
lệch lạc trong lối sống của một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay.
59
Nếu ở Phương và Oanh sự tha hóa chính là ham muốn chạy theo tiền bạc,
vật chất, vì tiền bạc, vật chất sẵn sàng chấp nhận đánh đổi bằng chính thân thể
mình thì Sếp của Hạ trong Blogger là kẻ bị tha hóa cả về nhân cách và lối sống.
Đứng đầu một viện nghiên cứu, thế nhưng, những khe hở trắng nõn nơi cổ áo rộng
khiến hắn khát khao đến mê mẩn hơn bất cứ công trình nghiên cứu nào: “Hắn
nhìn chăm chăm vào khoảng hõm trắng xanh, rõ lớp lông tơ mịn màng giữa hai
bầu vú của con bé… hai đầu ti như hai viên kẹo hồng. Thơm mùi quả vừa chín
tới. Làm hắn thèm thuồng” [18, tr. 24]. Tâm trí và sức lực của hắn tập trung hết
cho việc tìm ra cách sập bẫy con mồi trong trò chơi săn gái bệnh hoạn của hắn.
Hắn lão luyện trong việc nhử mồi. Với những nhân viên như An, như Hòa hám
lợi hắn dùng miếng mồi là tiền bạc và địa vị ở cơ quan để các con mồi tự động
chui vào bẫy, thậm chí tranh nhau chui vào bẫy của hắn. Còn với Hạ, một cô gái
tỉnh lẻ cần việc làm, hắn lại dùng quyền sa thải để gây áp lực khiến cô phải sập
bẫy. Câu nói của hắn với Hạ trong nhà nghỉ: “Chú cháu chó gì. Vứt mẹ kính trọng
ấy đi”[18, tr. 63] khiến người đọc ghê tởm. Phong Điệp đã nhìn thấu bản chất đê
tiện của hắn, chị đã lột mặt lạ để hắn hiện hình. Đằng sau vẻ bệ vệ, oai phong, trí
thức của một viện trưởng là bản chất của một kẻ thiếu văn hóa với lời nói của một
kẻ đầu đường xó chợ. Một kẻ không cần liêm sỉ, không cần kính trọng mà chỉ cần
thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn thú tính. Không dừng lại ở đó, với giọng văn lạnh
lùng Phong Điệp đã phơi bầy bản chất thú vật khi hắn hả hê thưởng thức con mồi
trong cuộc săn gái: “Hắn thích thú với mọi phản ứng từ phía con mồi. Giống như
những gia vị của một bữa tiệc, thậm chí đại tiệc. Sẽ phải có đầy đủ: cay xóc óc
kiểu mù tạt. Cay ran lưỡi kiểu ớt chỉ thiên. Cay rực họng kiểu tiêu sọ... và hắn
làm chủ bàn tiệc ấy” [18, tr. 25]. Hành động của hắn, suy nghĩ của hắn, lối sống
của hắn là sự tha hóa về nhân tính, sự tha hóa ấy trở nên thật nguy hiểm khi có sự
tiếp tay của quyền lực, địa vị, tiền bạc.
Không chỉ là kẻ sống theo bản năng, theo đuổi là dục vọng, khi bị anh hưởng
đến địa vị và quyền lực hắn trở thành kẻ vô nhân tính. Bị Hạ và ông bảo vệ già
bắt quả tang khi đang “hành sự” với chị tạp vụ, hắn tìm cách đối phó. Ông bảo
vệ thì chết đột ngột. Còn Hạ, hắn không muốn đe dọa trực tiếp sợ mọi chuyện um
60
xùm nhưng hắn vẫn có cách khiến cô phải im lặng. Hình ảnh cô vào nhà nghỉ với
hắn đã được chụp ảnh lại. Chỉ cần, cô hé răng, những tấm ảnh ấy sẽ được gửi cho
mẹ cô, cho người yêu cô. Như vậy, mọi thủ đoạn đối phó với mọi nhân viện trong
các tình huống bất lợi đều đã được hắn tính toán trước. Xây dựng nhân vật tha hóa
như sếp của Hạ, Phong Điệp không đi sâu miêu tả ngoại hình, chị tập trung làm
nổi bật nhân cách tha hóa thông qua lời nói, cử chỉ, hành động. Phong Điệp không
muốn miêu tả một nhân vật cụ thể, chị muốn khái quát về sự tha hóa về một kiểu
người không hề hiếm đang hiện hữu sống động ở nhiều công sở. Sự tha hóa của
kẻ có tiền, có quyền không chỉ làm băng hoại đạo đức xã hội, mà còn tạo ra môi
trường làm việc đầy bất an với những người lao động chân chính.
Có thể thấy rằng, Phong Điệp đã lí giải lối sống tha hóa bắt nguồn từ chính
cuộc sống vật chất hào nhoáng nơi đô thị. Sự nghèo khó, thiếu thốn dễ khiến con
người vì đồng tiền mà chấp nhận hành động thực dụng, nhơ bẩn trái với đạo lí,
văn hóa. Hoặc ngược lại do dư thừa vật chất con người dễ biến chất, sa đọa, trụy
lạc khiến người tha hóa mang tâm hồn của con thú. Tất nhiên, đô thị không có lỗi
mà chính cách ứng xử của con người trong môi trường ấy mới chính là nguyên
nhân tạo ra sự tha hóa.
TIỂU KẾT
Bức tranh đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp ít không gian thiên nhiên
mơ mộng. Đó là bức tranh đời sống với bao suy tư, trăn trở và bộn bề lo lắng.
Cũng viết về đô thị hóa nhưng Phong Điệp không quan tâm nhiều đến vùng trung
tâm mà chị chú ý đến quá trình đô thị hóa ở những không gian ngoại vi như một
hệ quả tất yếu của sự phát triển đô thị. Là người trong cuộc, chị thấu hiểu quá
trình ấy tuy đem đến cho đô thị vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng lại xáo trộn tận
gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước của những vùng ven đô. Đô thị hóa là một
sự lột xác đầy đau đớn và mất mát. Trong tiểu thuyết của mình Phong Điệp đã thể
hiện cái nhìn đa chiều về đời sống đô thị và phát hiện những xung đột về văn hóa,
về quan niệm đạo đức do tác động của quá trình đô thị hóa đem lại. Sự xung đột
61
ấy là sự va đập của văn hóa nông thôn truyền thống với văn hóa đô thị hiện đại
khi con người thay đổi không gian sống một cách thụ động.
Trong cảm quan đô thị của Phong Điệp, con người đô thị hiện lên khá đa
dạng. Đó là những người trẻ từ tỉnh lẻ đến đô thị, vật vã trong cuộc mưu sinh và
lập nghiệp. Hay những con người rời xa quê hương, hối hả với vòng quay cơm áo
nơi đô thị nhưng trong sâu thẳm trái tim luôn đau đáu hình ảnh thân thuộc với
khát vọng trở về. Phong Điệp bày tỏ sự cảm thông đến những người trẻ vì lối sống
thực dụng với những ham muốn vật chất đã đánh mất mình. Đồng thời, nhà văn
bầy tỏ sự ghê tởm sự tha hóa về đạo đức và lối sống của những kẻ có tiền, có
quyền, biến người phụ nữ trở thành con mồi trong cuộc săn đuổi nhằm thỏa mãn
ham muốn bệnh hoạn. Viết về con người đô thị với sự đồng hành, chia sẻ, Phong
Điệp luôn tin tưởng dù trải qua nhiều sóng gió, nhưng với khát vọng sống mãnh
liệt, cuối cùng họ sẽ tìm thấy niềm vui, hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
62
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP
Phong Điệp là một trong những cây bút tiểu thuyết trẻ giàu khát vọng cách
tân. Tiểu thuyết của chị thường không dễ đọc bởi tính trò chơi và dấu ấn của chủ
nghĩa hậu hiện đại in đậm trong lối viết. Với thủ pháp nghệ thuật như cắt dán văn
bản, kiểu nhân vật phân thân, lồng ghép và di chuyển điểm nhìn trần thuật... tiểu
thuyết của chị là những thể nghiệm mới lạ và thách thức sự đọc của độc giả. Trong
phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát những phương diện nghệ thuật cơ
bản nhất liên quan đến sự thể hiện cảm quan đô thị của tác giả Phong Điệp như
ngôn ngữ nhân vật, điểm nhìn và không gian, thời gian nghệ thuật
3.1. Ngôn ngữ nhân vật
3.1.1. Ngôn ngữ mang màu sắc thị dân đời thường
Trước 1975 ngôn ngữ trong tiểu thuyết mang đậm tính văn chương, ngôn
ngữ sử thi với sự thi vị hóa đã tạo khoảng cách nhất định với ngôn ngữ đời thường.
Đến văn tiểu thuyết hiện đại, ngôn ngữ đời thường tràn vào ồ ạt, không màu mè
mà thông tục, suồng sã. Các tiểu thuyết gia đương đại không còn coi tiểu thuyết
là miền thánh địa cao sang mà đưa tiểu thuyết về vùng đất thô ráp đời thường.
Ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại dần bớt đi vẻ trang trọng, thi vị, du
dương mà tăng thêm chất thô mộc gai góc, sống động của cuộc sống. Việc đưa
ngôn ngữ thị dân đời thường, nhất là dạng ngôn ngữ bị xem là thô tục vào văn
chương không phải là việc chưa từng có nhưng chưa bao giờ ngôn ngữ thị dân đời
thường ùa vào tiểu thuyết với một mức độ bạo liệt như trong các tiểu thuyết đương
đại mang cảm quan đô thị. Ở các tác phẩm viết về đô thị của Phong Điệp, ta có
thể dễ dàng nhận ra ngôn ngữ đài các, sang trọng, quyền uy được thay thế bằng
thứ ngôn ngữ hiện thực thị dân đời thường dung nạp nhiều từ khẩu ngữ làm cho
độc giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm.
63
Khẩu ngữ (từ hội thoại) là những từ được dùng ở lời nói miệng trong sinh
hoạt hàng ngày, nhất là trong đối thoại. Lớp khẩu ngữ được Phong Điệp sử dụng
thường xuyên có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Mỗi kiểu nhân vật
đều có ngôn ngữ đặc trưng của nhân vật đó, gắn với ngữ cảnh nhất định. Nhờ sử
dụng khẩu ngữ mà những giả dối, sự băng hoại đạo đức, sự nhẫn tâm của con
người đô thị được nhìn nhận một cách thẳng thắn.
Bước vào thế giới tiểu thuyết Phong Điệp, người đọc như được tiếp xúc với
những con người thật, sự việc thật bởi một phần do ngôn ngữ của tác phẩm gần
gũi với ngôn ngữ thị dân đời thường. Cách xưng hô, lối nói chuyện bình thường
được đưa vào tác phẩm kéo độc giả xích lại gần hơn tác phẩm. Qua đó, cá tính
nhân vật cũng được bộc lộ rõ nét.
Có thể bắt gặp trong tiểu thuyết của chị những câu thành ngữ hay cách nói
quen thuộc như: “ba cọc ba đồng, thần nanh đỏ mỏ, chậm như rùa, mặt hoa da
phấn, kén cá chọn canh, mặt dạn mày dày, con sâu cái kiến, canh mặn cơm nhão,
tim đập chân run, ăn cho qua ngày đoạn tháng, ngồi mát ăn bát vàng, không dưng
ai dễ đem phần đến cho, trút thêm dầu vào chảo, vắt mũi chưa sạch, ở trong chăn
mới biết chăn có rận, nam vô tửu như cờ vô phong, trúng số độc đắc, tẩn ngẩm
tầm ngầm, lơ ngơ như bò lên phố, ông chẳng bà chuộc, giãy đành đạch, rón ra
rón rén, chả nói chả rằng, ấp a ấp úng, vớ va vớ vẩn, mật ít ruồi nhiều, nhục như
con chó, trời sinh voi sinh cỏ…”[18] được mọi đối tượng thuộc các tầng lớp khác
nhau sử dụng cũng là cách thức tạo ra màu sắc dân dã, thị dân đời thường. Những
câu thành ngữ, mượn cách nói của thành ngữ và những câu nói quen thuộc này
mang lại giá trị biểu đạt cao.
Ngôn ngữ thị dân đời thường được thể hiện ngay trong cách xưng hô.
Những nhân vật là đối tượng lao chân tay nơi đô thị ưa sử dụng kiểu xưng hô
suồng sã “con này - tao”, cùng những tiếng đèo xíu, những văng tục. Đoạn đối
thoại của Kiều và ông chủ cửa hàng photocopy khi cô đến có ý định xin việc cho
ta thấy rõ điều đó:
64
“ Tôi mổ tay xuống bàn phím:
- Như c... thế này mà dám bảo là biết gõ.
Có tiếng cười khẩy đâu đó. Người tôi nóng ran.
- Thôi cháu xin phép - Tôi nén cơn nghẹn trong lồng ngực và đứng lên.
- Mẹ con này - người đàn ông cục cằn quát...
- Sao?
- Cháu...
- Vứt mẹ cái bằng đại học đi con ạ. Đại với chả học. Làm thì như con cục
c....” [16, tr. 240].
Không chỉ tầng lớp lao động phổ thông sử dụng ngôn ngữ vỉa hè, thông tục.
Phong Điệp còn để tầng lớp trí thức cũng sử dụng ngôn ngữ vỉa hề thông tục để
bộc lộ bản chất. Phong Điệp giỏi đặt những câu chửi thề “mang nguyên tính chất
vỉa hè” vào miệng lão sếp của Hạ dùng để bóc trần bản chất đê hèn của những kẻ
được ngụy trang với vỏ bọc bên ngoài bằng vẻ trí thức:
“ - Tôi là con người trọng tình cảm. Ai có tình cảm với tôi thì tôi quý trọng,
tôi nâng đỡ. Em hiểu chưa?
- Nhưng cháu vẫn luôn quý trọng chú mà.
- Chú cháu chó gì. Vứt mẹ cái kính trọng ấy đi.
Ông ta phun phì phì như một con rắn bị chọc tức” [18, tr. 62-63]...
“Ông ta nhìn nhanh xuống đũng quần ố đỏ của Hạ. Sự vồn vã đã tắt hẳn:
- Mẹ kiếp! Sao không nói sớm!
- Chú… chú làm ơn… gọi… lễ tân cho cháu với…
- Lễ tân cái chó gì. Thế này thì giải tán cho sớm chợ. Mẹ kiếp! Lấy tạm giấy
vệ sinh mà chịn vào. Nom kinh quá. Thôi, về! Về” [18, tr. 69].
65
Bằng một vài vỉa hè, cộng với những tiếng chửi thề, Phong Điệp đã gỡ mặt
nạ của lão sếp để hắn hiện nguyên hình trước mắt độc giả. Sự tử tế ban đầu đã
thay bằng thói vô văn hóa khi hắn không đạt được mục đích.
Có lẽ, chửi thề không phải là đặc quyền của đàn ông, chửi thề cũng không
chỉ dừng lại ở vỉa hè, góc chợ. Nó len lỏi cả vào công sở, được dùng với cả những
người có học, được dùng với cả phụ nữ. Để làm nổi bật sự đánh đá chua ngoa, và
sự giành giật miếng ăn trong chốn công sở Phong Điệp đã không ít lần cho nhân
vật An trong Blogger chửi thề:
“Chị An xồng xộc bước vào phòng:
- Mẹ cha nhà nó! Phòng Điều hành Dự án hôm trước bảo nhận em sang,
đến sáng nay thì kêu các sếp họp đã thay người khác, sẽ thông báo sau.
Trưởng phòng cười khì khì:
- Đào kép cũ hết thời thì có đào kép mới.
- Em thì em không để yên đâu!
- Cô thì làm được gì?
- Để rồi xem.” [18, tr. 79] hay ở entry 45: Nhân viên mới:
“Chị An chạy lên chạy xuống, nghe ngóng việc điều chuyển cán bộ, mặt
mũi đỏ gay…
Chị An nhìn xối vào ngực Hòa, chửi đổng:
- Mẹ kiếp, mật ít ruồi nhiều” [18, tr. 144]. Đó là một người phụ nữ tỏ ra
bất cần khi vị trí của mình có nguy cơ bị người khác cướp mất:
“- Bằng cấp gì cũng không bằng nằm ngửa. - Chị An dề môi. Trưởng phòng
lấm lét:
- Sao cô dám nói thế. Điên quá hóa liều hả. Cứ liệu hồn.
Chị An dẩu môi lên:
- Bà thì bà cứ nói toẹt ra đấy. Ai dám làm gì bà nào”[18, tr. 146]. Ngôn
ngữ của Hòa là ngôn ngữ của một con buôn bị lỗ vốn, nên phải dùng những từ
66
ngữ chợ búa mới hả được đau, được tức. Qua ngôn ngữ của Hòa, sự bi hài của
một viện nghiên cứu dần được phơi bày.
Cũng giống như Nguyễn Việt Hà, Phong Điệp không dẫn dắt rườm rà mà
để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ thứ ngôn ngữ thị dân suồng sã, đời thường, không
màu mè chau chuốt, mới thể hiện đúng hơi thở cuộc sống.
Bên cạnh từ ngữ thông tục, Phong Điệp còn sử dụng các từ ngữ mang nét
nghĩa mới của đời sống đô thị, thứ ngôn ngữ mang màu sắc hiện đại của vỉa hè để
làm nổi bật sự phẫn uất của nhân vật Hạ trước cách đối xử thô bạo của người yêu:
“ Quân gầm lên : “ Hoặc hôm nay, hoặc không bao giờ cô có cơ hội
nữa!”.Cô sững sờ nhìn Quân. Chết điếng: “ Tôi không phải là con cave.”[18, tr.
207].
Viết về đô thị trong bối cảnh internet bùng nổ toàn cầu, Phong Điệp đã khéo
léo sử dụng ngôn ngữ mạng như một đặc trưng cho văn phong của mình. Ở
Blogger khi viết về người trẻ, vốn là một hotblogger Phong Điệp sử dụng khá
dày đặc lớp từ ngữ chuyên dụng của mạng internet: “chat (trò chuyện), chatroom
(phòng chat), comment (bình luận), nickname (biệt danh), forum (diễn đàn), reply
(trả lời), online (trực tuyến), about me (về tôi), blogger (người viết blog), friendlist
(danh sách bạn bè), delete (xóa), quick comment (bình luận nhanh chóng), icon
(biểu tượng), is not available to chat (không có sẵn để trò chuyện)…” [22]. Đây
là những từ ngữ được sử dụng phổ biến và khá quen thuộc với độc giả, đặc biệt là
giới trẻ. Với việc sử dụng lớp từ ngữ này, tác giả đã tạo ra được một không gian
mạng trong Blogger như tên gọi của tác phẩm.
Ngôn ngữ mạng trong Blogger không chỉ dừng lại ở việc sử dụng lớp từ ngữ
chuyên dụng mà còn sử dụng những từ ngữ, cách nói riêng. Hiện nay, chúng được
giới trẻ sử dụng khá phổ biến. Đó là những từ đọc chệch hay được sáng tạo theo
lối “iếc hóa”: túm lại (tóm lại), vớ vỉn (vớ vẩn), nét niếc (net), chát chiếc hay chát
chít đều chỉ chat, nhắn tin nhắn tiếc (nhắn tin)… hay một số cách nói như: bình
thường như ăn cơm uống nước, cứ từ từ khoai sẽ dừ, đen như con mèo hen…một
67
số hiện tượng đời sống vào trong ngôn ngữ mạng được nói, gọi tên riêng: xì căng
đan (gây chấn động trong dư luận), nhân vật hot (người gây được sự chú ý, quan
tâm của nhiều người), xăng pha nhớt (người đồng tính), lăn cu đơ (ngã), chảy
nước (khóc), để mốc (bỏ quên, bỏ rơi), giám đốc thông tấn xã vỉa hè (chỉ người
hay buôn chuyện), mấy chú Khoai Tây (chỉ người Tây), phê (thỏa mãn, thích thú),
phắn (bỏ đi), lúa ngắn ngày (một việc diễn ra nhanh hơn mức bình thường), vãi
linh hồn (sợ), cho leo cây (bị lừa), chỗ làm có màu và thơm (chỗ làm tốt). Với
việc sử dụng phổ biến ngôn ngữ mạng màu sắc cá nhân được thể hiện khá rõ nét
đồng thời mang lại nhiều cách nói thú vị, có giá trị biểu đạt cao. Lớp ngôn ngữ
mạng trong Blogger kết hợp với ngôn ngữ hiện thực đời thường làm cho tác phẩm
làm cho tác phẩm gần gũi người đọc hơn bao giờ hết.
Có thể nói rằng, các thể loại lời nói vỉa hè, ngôn ngữ thị dân đời thường với
khẩu ngữ, với tiếng nói tục, hay ngôn ngữ mạng trước nay vẫn được hiểu như
những “tiếng ồn”, là “ tội đồ” phá vỡ sự thuần khiết, trong sáng của văn bản văn
học giờ công nhiên phơi bầy trên các trang văn. Phong Điệp dường như đã cố ý
xóa nhòa ranh giới giữa cái nghệ thuật và cái thông tục thường ngày. Ngôn ngữ
thị dân đời thường xuất hiện trong mọi mối quan hệ: Công việc, tình yêu; ở mọi
tầng lớp: dân lao động, trí thức. Đó là ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống, mang hơi
thở của cuộc sống đô thị. Đằng sau lớp ngôn ngữ thị dân đời thường ấy chính là
sự ái ngại đầy trắc ẩn của Phong Điệp trước những chuyển biến của con người
trước nhịp sống đô thị đầy bất trắc.
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu và tốc độ.
Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với
ngôn ngữ tự sự. Tuy nhiên, đến với ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phong Điệp,
chúng ta lại thấy đó là thứ ngôn ngữ tự sự giàu nhịp điệu. Nhịp điệu đó dựa vào
phép lặp: lặp lại một từ, một câu, một lời nói. Nhịp điệu đó dựa vào những đặc
tính của tiếng Việt: đa nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do, thời gian lỏng lẻo.
68
Trong ba cuốn tiểu thuyết viết về đô thị thì yếu tố nhịp điệu ở cuốn Lạc
chốn thị thành hầu như vắng bóng. Trong Ga kí ức, Phong Điệp tạo dấu ấn về
nhịp điệu trong ngôn ngữ tiểu thuyết của mình bằng việc lặp đi lặp lại thứ âm
thanh phát ra từng chiếc máy khâu cũ của mẹ cô bác sĩ tâm lí:
“ Xoèn xoẹt.
Xoèn xoẹt.
Xoèn xoẹt.
Cứ thế mà làm. Có làm thì mới có ăn...
Xoèn xoẹt.
Xoèn xoẹt.
Xoèn xoẹt.
Hết vụ len me mua cho cái áo mới...” [22, tr. 35].
Không phải ngẫu nhiên trong 9 trang của Ga kí ức, Phong Điệp đã dùng
đến 32 lần từ “xoèn xoẹt”. Việc lặp lại nhiều lần từ “xoèn xoẹt”, Phong Điệp đã
tạo ấn tượng mạnh về một âm thanh quen, và ám ảnh với cô bác sĩ tâm lí. Chỉ cần
thứ âm thanh ấy cất lên ở bất cứ nơi đâu và khi nào thì quá khứ về xóm Chùa Cuối
và tuổi thơ khốn khó với bao kỉ niệm đau buồn lại ùa về ngập tràn tâm hồn cô.
Đến Blogger, ngôn ngữ giàu nhịp độ được Phong Điệp thể hiện trên nhiều
cấp độ khác nhau và đậm đặc trong suốt tác phẩm. Có khi là một từ được lặp lại
nhiều lần: “Thứ Bảy” được lặp lại tới 17 lần trong ba trang. Có khi là một cụm
từ: “Hai tháng mười bảy ngày trước đó.” được lặp lại 8 lần trong ba trang. Có khi
là một câu được lặp lại:
“ Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!
Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!
Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!
Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!” [18, tr. 191].
69
Cũng khi là cả cấu trúc câu được lặp lại:
“ Sau Công đoàn là Hội phụ nữ...
Sau Hội phụ nữ là Đoàn Thanh niên.
Sau Đoàn Thanh niên là Trưởng phòng mắt lé.
Sau Trưởng phòng mắt lé là chị tạp vụ nhiều chuyện.
Sau chị tạp vụ nhiều chuyện là ...
Sau ... sau ... là...” [18, tr. 153].
Việc lặp từ ngữ ở nhiều cấp độ, Phong Điệp đã tạo được những điểm nhấn
đặc biệt về hình ảnh và tâm trạng nhân vật. Mỗi từ “Thứ Bảy” được lặp lại như
một bước đi của thời gian, nhàm chán và uể oải đồng thời gợi lên hình ảnh nhân
vật quẩn quanh bế tắc trong không gian hai chục mét vuông phòng trọ tồi tàn của
mình. Mỗi lặp lại của một “Thứ Bảy”, Phong Điệp khiến người đọc cảm thấy thời
gian của đời sống đô thị luôn thừa sự buồn tẻ, nhàm chán, quanh quẩn mà thiếu
đi niềm vui, hạnh phúc. Cái điệp khúc “Sau... là...” gợi ra cái dồn dập của những
mối quan tâm bề ngoài mà thực chất chỉ là sự vô cảm của tình thương và lòng sẻ
chia bên trong. Điệp khúc ấy gợi ra những con sóng, lớp sóng này gối lên lớp sóng
kia dồn dập xô đẩy những cá nhân khốn khổ như Hạ hay những con người đáng
thương như Hạ ở nơi công sở của đô thị.
Không dừng ở việc lặp từ ngữ để tạo ra những hiệu ứng tâm lí đặc biệt,
Phong Điệp còn làm phong phú cho nhịp điệu ngôn ngữ tiểu thuyết của chị bằng
cách cắt nhịp, gieo vần, ngắt dòng câu văn như một bài thơ:
“ Trong hoang mang
hỗn độn
u mê
đau đớn
70
tê điếng... ”
Mỗi cảm xúc của nhân vật được in đậm, ngắt quãng, và kéo dài tạo nên cái
lê thê của sự buồn chán, sợ hãi đến tuyệt vọng của nhân vật hay cái thê lê buồn
chán của đời sống đô thị mà phải đi sâu khám phá Phong Điệp mới nhận ra.
Không chỉ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phong Điệp còn
giàu tốc độ. Vòng quay hối hả của cuộc sống đô thị không cho phép con người ta
có nhiều thời gian để giải trí, hay nghiền ngẫm. Thông tin đến với người đọc đòi
hỏi tính cập nhật, ngắn gọn. Lối đọc và cảm thụ tác phẩm đã có nhiều thay đổi.
Hiểu được bối cảnh xã hội, đặc biệt tác phẩm của Phong Điệp lại hướng đến người
trẻ, đặc biệt là người trẻ ở chốn thị thành nên chị đã gọt rũa tối đa về hình thức
câu chữ, để tăng thông tin đến với người đọc. Đoạn đối thoại giữa Hạ và Quyên
trong Blogger là trường hợp điển hình:
“ Hỏi:
- Gội đầu à?
Trả lời:
- Em không gội đầu.
Hỏi:
- Làm móng à?
Trả lời:
- Em không làm móng...” [18, tr. 177-178].
Trong đoạn hội thoại, Phong Điệp đã tước bỏ mọi hình thức rườm rà của
câu văn. Hai từ “Hỏi” và “Trả lời” được lặp lại 4 lần tuy có phần đơn điệu nhưng
khiến cho tốc độ đoạn hội thoại diễn ra nhanh hơn và vì thế người nghe cũng nắm
được nhiều thông tin hơn trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đồng thời việc
tiếc kiệm tối đa việc sử dụng từ ngữ cho việc hỏi và trả lời, với cấu trúc câu được
71
lặp đi lặp lại cũng giúp người đọc thấy rõ sự mệt mỏi, chán chường của cư dân đô
thị, chán chả buồn giao tiếp .
Trong cả ba cuốn tiểu thuyết, Phong Điệp thường sử dụng lối viết lạnh, khá
hiện đại. Cấu trúc câu đơn giản, ngôn ngữ đơn nghĩa, giàu thông tin và tốc độ. Chỉ
một vài câu văn ngắn mà quá trình phòng thủ của Hạ với lão sếp dê già đã được
Phong Điệp tái hiện đầy đủ: “Điện thoại bật. Máy ghi âm đã lắp băng. Máy ảnh
đã nạp pin. Và thêm một con dao tỉa hoa quả, đủ sắc, đủ nhọn. Cho tình huống
xấu nhất. Có thể xảy ra.”[18, tr. 68]. Đôi khi, chị lược bỏ đến tối đa những từ ngữ
miêu tả hay diễn đạt mà gọi đích danh cảm xúc. Đoạn văn đầy ắp thông tin khiến
người đọc có cảm giác chị đang dùng thao tác “nén file” để tiếc kiệm tối đa
khoảng không gian của trang viết nhưng lại mang cho độc giả nhiều thông tin với
tốc độ nhanh nhất: “Giá có thể xóa trắng những nỗi đau khổ. Làm thế nào để hết
ưu tư - phiền muộn - hoang mang - khủng hoảng - giả dối - độc ác - toan tính -
lừa lọc - cạm bẫy - hèn nhát - tự ti - rầu rĩ - bế tắc -tuyệt vọng...” [18, tr. 210]
Một điều dễ nhận thấy, khi viết về nông thôn hay viết cho thiếu nhi, Phong
Điệp ít sử dụng kiểu câu ngắn đến cộc lốc, ít sử dụng thủ pháp “nén file” để tăng
tốc độ và tạo nhịp điệu cho ngôn ngữ. Giọng điệu trong các tác phẩm viết về nông
thôn hay viết cho thiếu nhi khá mềm mại, giàu cảm xúc. Sắc thái lạnh trong ngôn
ngữ ít được sử dụng, khác hẳn với các tác phẩm viết về đô thị. Sự đa giọng điệu
và phong phú trong việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ mang lại thành công Phong
Điệp mà còn giúp chị ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng văn học.
3.2. Ngôi kể và điểm nhìn
3.2.1 Ngôi kể
Ngôi kể là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong tổ chức trần thuật
của tiểu thuyết, cũng là nhân tố mấu chốt thực hiện ý thức cách tân thể loại của
nhà văn. Ngôi kể là vị trí của người kể chuyện khi thực hiện quá trình trần thuật
72
câu chuyện. Ngôi kể gắn bó chặt chẽ với điểm nhìn, và là một trong những tiêu
điểm để nhà văn bộc lộ quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.
Về ngôi kể, tiểu thuyết của Phong Điệp sử dụng hài hòa cả hai ngôi kể. Tùy
dụng ý nghệ thuật của nhà văn mà các ngôi kể được sử dụng khá linh hoạt. Ở cuốn
Lạc chốn thị thành tác giả sử dụng chủ yếu ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện
xưng tôi hoặc chúng tôi. Toàn bộ câu chuyện được kể bởi nhân vật Kiều, một cô
sinh viên tỉnh lẻ tìm cách bám trụ lại Hà Nội. Kiều không chỉ kể chuyện về mình,
những chuyện về gia đình, về các cô bạn học cùng đại học, mà chuyện về các đồng
nghiệp nơi công sở, chuyện những con người Kiều gặp nơi thành phố. Đến cuốn
Blogger, Phong Điệp kết hợp cả hai ngôi kể số một và ngôi kể số ba. Ngôi kể số
một chiếm dung lượng nhỏ, Phong Điệp để một số nhân vật tham gia vào việc kể
chuyện của mình, kể chuyện về nhân vật Hạ. Phần lớn nội dung còn lại của câu
chuyện được kể bằng ngôi kể số ba. Ngôi kể số ba được Phong Điệp lựa chọn có
khi là tác giả là người kể chuyện, có khi nhân vật là người kể chuyện. Chuyện của
Hạ, chuyện của Quân, chuyện mẹ Quân, chuyện của Phong, của Diệp, của Quyên,
của Nó, của Bé con, của lão sếp Hạ lần lượt được kể đan cài nhau diễn ra một cách
hợp lí. Đến Ga kí ức Phong Điệp chỉ sử dụng ngôi kể số ba, người kể có khi là
cô, một bác sĩ tâm lí luôn ám ảnh bởi quá khứ, có khi là y, một bệnh nhân hoang
tưởng của cô, hay là Phùng một người đàn ông thành đạt nhưng lại có bà mẹ mắc
bệnh trầm cảm muốn cô chữa trị. Cũng có khi là chính tác giả. Việc sử dụng ngôi
kể phù hợp đã mang lại những thành công nhất định cho Phong Điệp khi tái hiện
về bức tranh đời sống về đô thị và con người đô thị.
Trước hết, ngôi kể thứ nhất trong tiểu thuyết Lạc chốn thị thành của
Phong Điệp tạo cho độc giả một lối vào tìm hiểu tác phẩm với sự đưa đường của
người trong cuộc. Tất cả những gì hiện ra, từ không gian đô thị, thời gian đô thị,
thậm chí cảm xúc của con người sống trong đô thị đều được “tôi” mang tới
cho độc giả. Đó là lối kể của người trong cuộc, người chứng kiến tất cả sự biến
chuyển trong lối sống của các bạn trẻ trong cuộc mưu sinh vật vã ở nơi đô thị.
73
Không bàn tới việc người đọc có tin đó là những câu chuyện có thật hay không,
nhưng cách kể của nhân vật “tôi” khiến mọi người thấm được những cảm xúc
chân thành về tình cảnh của con người trong xã hội đô thị hiện đại. Đó là
những cảm xúc mà ngôi kể thứ ba khó diễn đạt hiệu quả và lưu loát. Người đọc
có thể nhầm lẫn “tôi” với chính tác giả. Nhưng họ đủ sáng suốt để nhận ra cái
“tôi” trong tiểu thuyết dù sao vẫn là một hư cấu, dẫu nó có mang gương mặt quen
thuộc phố phường của mọi thị dân trong thành phố. Đến Blogger việc sử dụng
ngôi kể số một được Phong Điệp sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để người
đọc hiểu được những góc khuất trong đời sống nội tâm của nhân vật, mang lại cái
nhìn đa chiều khi đánh giá nhân vật. Với cách kể chuyện ngôi thứ nhất, tác giả có
thể hoàn toàn hóa thân vào nhân vật. Và lúc này ngôn ngữ của tác giả chính là
ngôn ngữ nhân vật, khiến cho khoảng cách giữa tác giả và nhân vật không còn.
Ranh giới giữa nhà văn và nhân vật được rút ngắn lại đến mức gần nhất. Chính sự
hóa thân đó đã khiến cho nhà văn vừa khám phá được chiều sâu bí ẩn trong tâm
hồn của những cư dân đô thị để từ đó phác họa hình ảnh các nhân vật một cách
hiện thực và sống động với những biến thái tinh vi của tâm trạng con người, vừa
thể hiện được những tư tưởng, tình cảm, những quan niệm của mình về cuộc sống
đô thị. Một sự bổ sung mà ngôi kể số ba không thể làm trọn vẹn được.
Việc sử dụng ngôi kể số ba đã mang lại lợi thế cho Phong Điệp khi tạo
dựng lên một bức tranh đô thị khá rộng với nhiều không gian khác nhau. Đó là
không gian của nhà trọ tồi tàn, không gian bề thế của những căn biệt thự, không
gian công sở, bệnh viện ngột ngạt, của nhà nghỉ, phòng khám bất an. Hay không
gian đô thị hóa của một làng quê yên bình. Hoặc những không gian hoài niệm,
không gian ảo. Ngôi kể thứ ba giúp nhà văn có mặt khắp nơi và linh hoạt khi
miêu tả nhiều hạng người và đủ cảnh đời khác nhau từ sinh viên đại học, đến
nhân viên văn phòng, từ những người lao động chân tay đến kĩ sư, bác sĩ, hay
những kẻ có tiền bạc và địa vị xã hội. Những cảnh đời, những chiều sâu tâm trạng,
những mưu mô thủ đoạn, những toan tính thấp hèn, những thủ đoạn dơ bẩn lúc
74
được quay cận cảnh, lúc lại lùi xa đã mang đến cho người đọc cái nhìn bao quát
nhất về bức tranh sinh hoạt đô thị mà ngôi kể số một khó có thể thực hiện được.
Việc sử dụng linh hoạt đa dạng trong ngôi kể đã mang lại hiệu ứng thẩm
mỹ rõ rệt cho tiểu thuyết của Phong Điệp. Nếu như người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật một cách chân thực sống động thì
ngôn ngữ của người kể chuyện ở ngôi thứ ba mang đến cái nhìn khách quan về
con người và cuộc sống đô thị mà Phong Điệp khắc họa trong tác phẩm. Thấp
thoáng đằng sau lời của những người kể chuyện chính là tình cảm tốt đẹp hay xót
xa, đau đớn, ghê tởm mà tác giả dành cho nhân vật của mình, và nhiều khi nhân
vật cũng chính là bóng dáng của tác giả.
3.2.2. Điểm nhìn
Điểm nhìn và người kể chuyện là hai phương diện không thể tách rời trong
trần thuật của văn bản tự sự. Điểm nhìn chính là yếu tố thể hiện được quan điểm
của tác giả cũng như thái độ của người kể chuyện. Trong văn học, điểm nhìn
trần thuật được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh
giá đối tượng.
Theo lí thuyết tự sự học, có ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn) phổ
biến ở người kể chuyện: Nhìn “từ đằng sau” (gắn với điểm nhìn toàn tri)
khi người kể chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả. Nhìn “từ
bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể chuyện là nhân vật. Điểm
nhìn bên trong thường thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật. Nhìn “từ bên
ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài): Đây là điểm nhìn của người kể
chuyện khi anh ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ không hiểu rõ tâm lí nhân
vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác. Điểm nhìn nghệ thuật (the point
of view) là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Trong tác phẩm tự sự, tương
quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật
với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được
75
xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên
cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn
tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm
nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật,
sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo
ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
Soi chiếu lí thuyết tự sự học vào tiểu thuyết của Phong Điệp, ta dễ nhận ra
nhà văn đã sử dụng đa dạng các điểm nhìn trong các sáng tác của mình. Ngoài
việc sử dụng điểm nhìn truyền thống, nhìn “từ đằng sau, Phong Điệp còn sử dụng
các điểm nhìn “từ bên trong”, nhìn “từ bên ngoài” không chỉ đáp ứng nhu cầu
đổi mới của tiểu thuyết mà còn thể hiện cảm quan đô thị của các nhà văn hiện đại.
Xã hội đô thị càng phức tạp, nhiều chiều bao nhiêu càng cần có những góc nhìn
đa dạng bấy nhiêu để thấu thị bản chất của nó. Xã hội càng phát triển con người
càng bị chi phối bởi những mối quan hệ chồng chéo. Trong mỗi quan hệ đó, con
người hiện lên với một vai nhất định. Vì vậy, muốn thể hiện đúng bản chất của
con người và xã hội đô thị hiện đại, cần có những góc nhìn đa dạng, khi khách
quan, khi chủ quan. Việc sử dụng đa dạng các điểm nhìn, Phong Điệp muốn người
đọc khám phá những điều chân thực, bản chất nhất của đời sống đô thị hiện đại.
3.2.2.1. Điểm nhìn bên trong
Điểm nhìn bên trong thể hiện quá trình tư duy và cảm xúc. Khác với điểm
nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong chỉ xuất hiện khi người trần thuật nhập vào
cuộc sống nội tâm, phân tích, mổ xẻ cảm xúc hoặc để nhân vật tự bộc lộ. Như
vậy, điểm nhìn bên trong là cái cảm thấy, biểu hiện bằng tự quan sát, tự thú nhận
hoặc người trần thuật dựa vào giác quan, tâm hồn nhân vật để biểu hiện và cảm
nhận thế giới. Ở Phong Điệp, tuy vẫn còn ảnh hưởng của văn học truyền thống
trong việc xây dựng mạch truyện được triển khai từ cái nhìn tương đối ổn định,
đó là cái nhìn “biết trước tất cả” của người kể chuyện ngôi thứ ba. Nhưng với sự
76
đổi mới của văn học nhất là tiểu thuyết đương đại viết về đô thị, Phong Điệp đã
có ý thức trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật, tạo dựng điểm nhìn và tái hiện
điểm nhìn để khám phá đời sống. Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật đã được
nhà văn khai thác có chủ ý đã trở thành phương thức trần thuật quen thuộc, đồng
thời thể hiện được sự sáng tạo và chủ ý kí thác quan niệm, tư tưởng của nhà văn.
Trong ba tiểu thuyết Phong Điệp sử dụng điểm nhìn bên trong - phương thức trần
thuật ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” ở hai dạng thức: dạng thức thứ
nhất, một người kể chuyện xưng “tôi” kể tất cả mọi chuyện; dạng thức thứ hai
nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể các câu chuyện khác nhau.
Ở dạng thức thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” kể tất cả mọi chuyện
được Phong Điệp sử dụng triệt để ở tác phẩm Lạc chốn thị thành. Ở tác phẩm
này Phong Điệp muốn mang đến cho người đọc một bức tranh đô thị từ một góc
nhìn khác, góc nhìn của những người trẻ, đặc biệt là góc nhìn của những người
trẻ từ tỉnh lẻ chen chân đến các đô thị, coi đô thị như một miền đất hứa, tìm mọi
cách để bám trụ lại. Toàn bộ câu chuyện được kể qua góc nhìn của Kiều, một cô
sinh viên trường luật, sau khi tốt nghiệp đã tìm mọi cách để tồn tại, mưu sinh và
lập nghiệp nơi đô thị. Lạc chốn thị thành được tạo dựng từ chính cảm nhận, phân
tích, lý giải về cuộc sống đô thị của Kiều. Qua góc nhìn của Kiều đô thị hiện ra
không có bóng dáng của một miền đất hứa. Cuộc sống đô thị chẳng dễ dàng gì.
Để tồn tại và mưu sinh những con người ấy phải làm đủ nghề, chịu đủ thứ áp lực,
phải cạnh tranh, phải giành giật thậm chí hãm hại lẫn nhau để tồn tại. Đằng sau
vẻ hào nhoáng, xa hoa của đô thị là đầy rẫy những cạm bẫy không ít những người
trẻ như Oanh, như Phương vướng vào để phải nhận hậu quả cay đắng. Ở môi
trường đô thị con người phải thay đổi để thích nghi, có sự thay đổi để sống tốt
hơn như Kiều, Nhung, nhưng cũng có sự thay đổi làm con người ta tha hóa cả lối
sống lẫn nhân phẩm như Oanh, Phương, Ân, Vân. Như vậy tác phẩm Lạc chốn
thị thành điểm nhìn tập trung bên trong được tổ chức xoay quanh điểm nhìn của
một nhân vật là chủ yếu. Vì vậy, mức độ bao quát hiện thực của tác phẩm chỉ
77
thông qua điểm nhìn, cách suy nghĩ của một nhân vật. Qua cách trần thuật như
thế, nhà văn muốn làm nổi bật thế giới nội tâm cũng những suy nghĩ cá nhân của
nhân vật về đời sống đô thị. Chính từ điểm nhìn bên trong của một cô gái giàu
nghị lực như Kiều, chấp nhận dấn thân, chấp nhận cơ cực nhưng không chấp nhận
đánh mất mình trước những cám dỗ vật chất, không chấp nhận bán rẻ cả tâm lẫn
thân để có cuộc sống đủ đầy về mặt vật chất Phong Điệp đã thể hiện được niềm
tin vào những người trẻ, niềm tin về những con người như Kiều, như Nhung, như
Nam, hay thậm chí là Oanh và Phương. Dù có khó khăn cơ cực nhưng chính sự
kiên cường của tuổi trẻ, sự hướng thiện của những con người dù đã lầm lạc chắc
chắn họ sẽ tìm được lối đi đúng đắn, tìm được cho mình chỗ đứng vững chắc nơi
đô thị nhiều gian truân, vất vả.
Ở dạng thức thứ hai, nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể các câu chuyện
khác nhau. Những nhân vật xưng tôi này, chỉ kể những câu chuyện họ biết và họ
không hề biết chuyện của những cái “tôi” khác. Ở tiểu thuyết Blogger, Phong
Điệp đã để nhiều cái tôi tham gia kể chuyện. Cái “tôi” ấy có thể là Phong một
“blogger” nổi tiếng kể chuyện về mình, kể chuyện về nhân vật do mình sáng tạo
ra, hay những chuyện về những người bạn của Phong, cái “tôi” đó có thể là mẹ
Quân người yêu Hạ, một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết do Phong tạo ra. Ngoài
những cái tôi cụ thể, trong Blogger có hàng loạt cái tôi không xác định được cụ
thể tham gia kể chuyện, cái “tôi” ấy có thể là một bạn của Phong, trong nhóm
Hội những người thích tự do mà cô quen qua sự giới thiệu của Diệp, cái “tôi”
không xác định có thể là một người qua đường kể về Hạ, một trong số những
khách mời chứng kiến sự có mặt của Hạ trong đám cưới của Quân, hay đó là lời
kể của những nhân vật đến viếng đám ma của Phong, của Hạ. Trong Blogger,
Phong Điệp còn tạo ra những cái “tôi” là bạn đọc kể chuyện của mình khi tương
tác với Phong một “blogger” nổi tiếng. Việc để nhiều nhân vật kể chuyện về mình
và kể chuyện về người khác tạo nên những mạch truyện bộn bề, lồng ghép vào
nhau như những bộn bề của cuộc sống đô thị. Có thể thấy rằng việc đặt điểm nhìn
vào bên trong các nhân vật, người trần thuật đã nhập vào cuộc sống nội tâm, phân
78
tích mổ xẻ cảm xúc của nhân vật. Thông qua điểm nhìn bên trong khi người kể
chuyện là nhân vật trong tác phẩm, Phong Điệp đã tái hiện lại những suy nghĩ,
những trạng thái xúc cảm của họ: tâm trạng chán nản, hoài nghi, sự xót thương,
sự giận dữ, những nỗi đau khổ của cư dân đô thị được hiện nên một cách trung
thực và sống động trước mắt người đọc.
Tóm lại, điểm nhìn trần thuật bên trong của nhân vật có vai trò rất lớn trong
việc thể hiện con người bên trong, bởi đó là điểm nhìn của nhân vật, nhà văn để
cho nhân vật của mình tự biểu hiện. Từ điểm nhìn bên trong, tác phẩm đã rất thành
công trong việc tái tạo và khám phá thế giới nội tâm nhân vật, một thế giới với
nhiều cung bậc, phong phú mà không kém phần phức tạp của đời sống cư dân đô
thị.
3.2.2.2. Sự di động điểm nhìn
Trong tác phẩm tự sự, khi trần thuật lại câu chuyện, một nhà văn tài năng
không bao giờ sử dụng điểm nhìn trần thuật một cách cứng nhắc bởi như thế sẽ
tạo cho tác phẩm một sự đơn điệu, xơ cứng và nhàm chán mà luôn có sự di chuyển
điểm nhìn một cách linh hoạt, đầy biến hóa. Ở tiểu thuyết Blogger, Phong Điệp
luôn có ý thức di chuyển điểm nhìn trần thuật giữa các nhân vật, và trượt điểm
nhìn từ điểm tác giả sang điểm nhìn nhân vật để tạo nên một cái nhìn đa diện về
hiện thực, con người đô thị.
Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong,
từ điểm nhìn của một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho
nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di
chuyển điểm nhìn liên tục. Trong các tuyến truyện được kể từ điểm nhìn của người
kể chuyện ngôi thứ ba, Phong Điệp thường sử dụng phương thức trần thuật khách
quan, phản ánh hiện thực theo cái nhìn bên ngoài của người kể chuyện có khoảng
cách nhất định đối với nhân vật. Nhưng sang đến những tuyến truyện khác, tác
giả lại di chuyển điểm nhìn của người trần thuật đến nhân vật, trần thuật câu
chuyện theo điểm nhìn bên trong của nhân vật. Lúc này, người kể chuyện đã hóa
thân vào nhân vật, thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật, nhìn thế giới
79
theo con mắt của nhân vật và trần thuật bằng chính giọng điệu của nó. Người đọc
lúc này có cảm giác khoảng cách giữa người trần thuật với nhân vật trên thực tế
đã bị thủ tiêu, điểm nhìn của cả hai phía hòa vào nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng sự di chuyển điểm nhìn trần thuật xuất hiện thường
xuyên và liên tục trong Blogger là do sự đan xen linh hoạt giữa các ngôi kể: ngôi
thứ nhất với điểm nhìn bên trong, ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài và kết hợp
bên trong và bên ngoài.
Các điểm nhìn di chuyển liên tục từ nhân vật này sang nhân vật khác. Các
nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc, rõ đến mức như có thể chạm vào. Vì thế, sự
di chuyển điểm nhìn có khi là từ ngoài vào trong hoặc có khi ngược lại từ trong
ra ngoài vô cùng linh hoạt làm cho mạch trần thuật trở nên mới lạ làm cho câu
chuyện được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Chúng ta có thể khảo sát trường hợp một nhân vật được soi chiếu dưới
nhiều điểm nhìn khác nhau từ đó bức chân dung về nhân vật ngày càng thêm rõ
nét qua hai nhân vật là Phong và Hạ trong Blogger.
Trước hết là Phong, với lời tự giới thiệu ngắn gọn của chính nhận vật: “Tôi
là một nữ blogger. Mắt cận. Tóc ngắn. 25 tuổi”, người đọc có thông tin về công
việc, ngoại hình, tuổi tác của cô, nhưng ấn tượng về nhân vật Phong khá mờ nhạt.
Từ điểm nhìn bên trong của chính nhân vật đến điểm nhìn bên ngoài của các thành
viên Hội những người thích tự do, nơi Phong được Diệp, một cô bạn thân rủ đến.
Đến với họ, hình ảnh Phong hiện ra thật rõ nét trong sự chú ý của mọi người.
Trong suy nghĩ của họ, những tưởng một nữ “blogger” chủ nhân của một blog
gây sốt trong giới trẻ phải là một “cô gái rất thời thượng: tóc highlight, ipod nghe
24/24, và có thể sở hữu một hình xăm nhỏ trên rốn.”[18, tr. 102]. . Thế nhưng
trong mắt họ Phong là một cô gái “hầu như không có điểm gì đặc biệt ngoài một
đôi mắt khá sầu muộn. Suốt cuộc gặp gỡ cô ta như bị gắn xi vào miệng. Giương
mắt nhìn hết người này đến người kia. Và hơi luống cuống khi bị mọi người quan
tâm.”[18, tr. 102]. Suốt buổi gặp gỡ “trông cô ta ngơ ngác và có vẻ sững sờ... Cô
80
ta dè dặt ngồi xuống ghế. Đôi kính mắt trễ xuống ngang sống mũi, để lộ đôi mắt
xám xịt vì mất ngủ. Trông cô ta hơi ốm.”[18, tr. 101]. Dưới điểm nhìn của những
người trong Hội những người thích tự do, sự hiện đại về ngoại hình của một
“blogger” không hề có, sự nhanh nhẹn, minh mẫn, nhạy cảm, thời thượng của
một nhà văn mạng biến mất, thay vào đó là một cô gái cũ kĩ, mệt mỏi với ánh mắt
thâm quầng vì thiếu ngủ triền miên, hay cắm mặt vào máy tính, sống với thế giới
ảo nhiều hơn mà trở nên ngờ nghệch với thế giới thực. Không chỉ về ngoại hình,
dưới điểm nhìn bên ngoài của những người bạn của Diệp, Phong trở thành một cô
gái nhút nhát, thụ động, thiếu kĩ năng giao tiếp và tâm hồn thì u sầu và cô độc, sự
hòa nhập với thế giới thực ở Phong hầu như mờ nhạt khi suốt buổi gặp gỡ cô luôn
mang vẻ mặt ngơ ngác, sững sờ và gần như im lặng. Dưới góc nhìn này, Phong
Điệp khéo léo gửi đi một thông điệp về tình trạng sống ảo của nhiều bạn trẻ ở các
đô thị, các bạn trẻ đang quên đi cuộc sống thực với những mối quan hệ thực, mà
đắm chìm vào thế giới ảo, với những mối quan hệ ảo, tình trạng ấy khiến các bạn
luôn ngơ ngác trước cuộc đời, luôn âu sầu, lo lắng thậm chí cảm thấy bế tắc với
cuộc sống thực. Sự bế tắc có thể gây nên những hậu quả đáng tiếc. Thông điệp
này phải đủ tinh tế, người đọc mới nhận ra vì đó không phải phát ngôn của nhà
văn mà đó là tầng ý nghĩa ngầm, ẩn sau sự cảm nhận và cái nhìn của nhân vật.
Một thông điệp hoàn toàn khách quan, không mang tính áp đặt hay tính một chiều
của nhà văn.
Đến nhân vật Hạ trong Blogger, Phong Điệp cũng xây dựng nhân vật này
từ những điểm nhìn bên ngoài khác nhau. Với điểm nhìn của người mẹ thì Hạ là
một cô con gái đáng tự hào nhưng bướng bỉnh, dưới con mắt của lão sếp, là cô
nhân viên không biết điều. Ở điểm nhìn của mẹ Quân, người yêu cô, cô là hình
ảnh khiến bà khó chịu, ngoại hình, hành động của cô cũng không gây được thiện
cảm với bà: “Nó có đôi mắt lạnh lẽo... Người nó thì xanh rớt. Nói năng thì ấp a
ấp úng. Làm việc gì thì rón ra rón rén.”[18, tr. 134]. Với con mắt của một người
đàn bà nông thôn, cô là “đồ lăng loàn, đĩ thõa” khi nửa đêm gọi điện cho Quân
và ở một mình nơi thành phố. Đó là điều không thể chấp nhận được. Dưới góc
81
nhìn của Quân, cô từ người yêu bé bỏng, ngoan hiền đến cô gái nhiều đòi hỏi, và
trở nên hư hỏng khi cùng lão sếp lên taxi đi xa mấy chục cây số rồi cùng nhau
chui vào một nhà nghỉ. Còn với Quyên, một người bạn của Hạ, làm nghề cắt tóc
gội đầu, việc Hạ có ý định bỏ việc ở cơ quan đến làm cùng Quyên thì bị Quyên
cho là điên rồ, còn việc Hạ mặc kệ cho Quân bỏ rơi mình đi với cô gái khác mà
chẳng hành động hay phản ứng gì thì bị Quyên cho là ngu. Còn khi Hạ chết, dưới
ánh mắt vô cảm của những kẻ cùng cơ quan đến viếng, cô trở thành kẻ bất bình
thường.
Với các nhà văn viết đề đô thị khác, điểm nhìn thường có tính xác thực, tức
là điểm nhìn thường là ở các nhân vật có tên tuổi, hoặc lai lịch rõ ràng để tạo ra
tính tin cậy tương đối, người đọc có thể nhìn nhận, đánh giá điểm nhìn đó đúng
hay sai, phù hợp hay không phù hợp. Nhà văn đóng vai trò gì trong các điểm nhìn.
Phong Điệp lại khác, chị hay sử dụng điểm nhìn từ những nhân vật thiếu tính xác
thực nhân vật thường không tên, không lai lịch, khó có thể xác định nhân vật đó
là ai, làm nghề gì, đạo đức ra sao. Phong Điệp không tạo tính xác thực, cũng không
thể hiện vai trò của nhà văn trong điểm nhìn của các nhân vật, chị chỉ đóng vai là
người ghi lại câu chuyện một cách chính xác theo lời kể của nhân vật. Có thể
chính điều này đã tạo nên sự khác biệt trong các tác phẩm viết về đô thị của Phong
Điệp khi điểm nhìn của các nhân vật không chịu sự chi phối của tác giả, cũng
không mạng nặng định kiến từ chính thế giới quan của nhân vật kể chuyện khiến
cho câu chuyện đô thị không chỉ mang tính khái quát, mà còn trung tính, khách
quan. Điển hình Phong trong Blogger, ngoài điểm nhìn bên trong từ chính nhân
vật, điểm nhìn của tác giả, còn các điểm nhìn bên ngoài khác ta khó có thể xác
định chính xác là điểm nhìn của ai, bởi nhân vật thường bị giấu tên, điểm nhìn đó
có thẻ là một người bạn biết mặt, hay một người bạn chưa một lần gặp ngoài đời
mặc dù có thể hàng ngày vẫn trò chuyện trên “diễn đàn”. Ở nhân vật Hạ cũng vậy,
ngoài điểm nhìn từ các nhân vật xác quyết, Phong Điệp còn để nhân vật hiện hữu
qua hàng loạt điểm nhìn của những nhân vật không xác quyết, có thể đó là điểm
82
nhìn của một người khách đến dự đám cưới Quân đã thấy Hạ: “Cô độc - đứng
nép vào góc hành lang - như một cây non cần cột chống, phòng cơn gió to. Khuôn
mặt phờ phạc, Một chút son vương lại trên môi, nhợt nhạt. Nó khiến cô ta trông
mệt mỏi hơn là không còn chút son nào” [18, tr. 214], cũng có khi Hạ xuất hiện
trong góc nhìn của những người qua đường không quen biết: “Tôi từng nhìn thấy
cô ta trên phố”; “tôi nhìn thấy cô ta ngồi co ro trong quán nước ven đường.”;
“Một lần khác , là ở cửa hàng quần áo thu đông.”; “Một lần khác , tôi gặp cô ta
trong một cửa hàng sách giảm giá trên phố.”; “Một lần khác , ủ rũ trong hàng
cơm bụi.”; “Một lần khác, chồn chân bên trạm đợi xe bus”[18, tr. 216, 217]. Với
những điểm nhìn từ những nhân vật không xác quyết, hình ảnh Hạ đau khổ, chán
nản, bế tắc, tuyệt vọng hiện lên thật rõ nét. Sự đa dạng điểm nhìn càng tô đậm cái
bế tắc tuyệt vọng của nhân vật.
Sự di động điểm nhìn trong tiểu thuyết của Phong Điệp như một camera khi
quay xa, bao quát với ngôi kể số ba gắn với điểm nhìn toàn tri của nhà văn, có khi
lại quay cận cảnh với ngôi kể số một gắn với điểm nhìn bên trong của nhân vật để
người đọc thấu tâm can, thấu những uẩn khúc trong tình cảm, thái độ của nhân
vật. Trong mối quan hệ giữa mẹ Quân, và Hạ, nếu ở ngôi kể số ba, gắn với điểm
nhìn của tác giả, người đọc dễ ngộ nhận mẹ Quân là một người mẹ ghê gớm, bà
ở nông thôn nên bà luôn có cái nhìn cổ hủ và khắt khe với những cô gái sống ở
đô thị như Hạ. Việc Hạ gọi điện cho Quân lúc nửa đêm, và ở một mình là điều
hoàn toàn bình thường nơi thành phố với một cô gái. Từ điểm nhìn khách quan
bên ngoài, người đọc dễ đổ lỗi cho bà, chính bà cản trở Quân đến với Hạ, coi bà
chính là nguyên nhân dẫn đến đau khổ và bế tắc của Hạ trong tình yêu. Nếu chỉ
dừng lại ở đó thì điểm nhìn của Phong Điệp có lẽ là cái nhìn một chiều, thiếu dân
chủ và không phù hợp với việc tái hiện cuộc sống đô thị. Phong Điệp với sự nhạy
cảm và đủ tinh tế để di chuyển điểm nhìn, từ điểm nhìn bên ngoài với ngôi kể số
ba vào điểm nhìn bên trong với ngôi kể số một, để cho chính nhân vật lên tiếng,
bộc bạch nỗi niềm. Chính sự bộc bạch ấy, ta hiểu được nguyên nhân mẹ Quân
83
không chấp nhận Hạ làm con dâu mình vì bà hiểu rằng: “Thằng con tôi là một
thằng quen thói ỉ lại. Nó cần một con vợ tháo vát đảm đang. Con bé ấy không có
vẻ tháo vát, hay đảm đang”[18, tr. 134]. Sự cấm cản ấy bắt nguồn từ sự yêu
thương, lo lắng của một bà mẹ cho con mình cũng là điều bình thường và dễ cảm
thông, ngoài ra, qua lời mẹ Quân người đọc còn được thấy một phần khác của con
người Hạ. Đành rằng mẹ Quân mắng chửi Hạ là đồ đĩ thõa, lăng loàn là một sự
xúc phạm khó có thể chấp nhận được, thế nhưng, việc Hạ dọa kiện bà ta ra tòa,
lại là cách hành xử thiếu tê nhị, một cách hành xử mạng nặng lối sống dân chủ đô
thị nặng tính trọng lý, đôi khi lại thiếu phù hợp trong những mối quan hệ tế nhị
nhất là với mẹ Quân, một người quen lối sống nông thôn coi trọng tình cảm.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hai nhân vật trên đã được đặt trong trung
tâm của các điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật thường xuyên có sự thay đổi, dịch
chuyển, đan xen giữa lời nhân vật và lời tác giả. Nhờ vậy, tâm trạng của nhân vật
được soi chiếu từ nhiều chiều kích khác nhau, hiện lên rất sống động và đầy đủ.
Việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều góc quét của "máy
quay" khác nhau, làm cho đối tượng miêu tả trở nên đa chiều.
Sự di chuyển điểm nhìn của các nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật
khác vô cùng linh hoạt đã giảm thiểu đáng kể sự khô cứng và hạn hẹp nếu tác
phẩm chỉ xoay quanh vài điểm nhìn. Để xây được những điểm nhìn trần thuật đòi
hỏi nhà văn phải có được một tầm nhìn, sự hiểu biết sâu sắc về con người và cuộc
đời, đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khám phá thế giới đô thị. Việc thay đổi điểm nhìn
đã tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện khiến người đọc luôn phải chú ý theo dõi
lời kể và sự di chuyển điểm nhìn. Các sự kiện, tình tiết được nhìn từ nhiều góc độ
khác nhau tạo nên tính chân thực và khách quan cho lời kể, và phù hợp với cảm
quan đô thị của các nhà văn.
Chính vì thế sự di động điểm nhìn góp phần tạo nên những trang viết sinh
động và lôi cuốn cho tác phẩm, giúp cho người đọc có thể nắm bắt hết được những
sự việc khá phức tạp trong tác phẩm và cũng có thể hiểu được nhân vật từ những
84
gì họ thấy và kể lại. Khi di chuyển điểm nhìn giữa các nhân vật, tác giả đã tạo
dựng tính hiện thực trong mối quan hệ của rất nhiều con người trong xã hội đô thị
, đồng thời tạo nên hệ quy chiếu đa chiều cho các mối quan hệ ấy.
Sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một cách thức tạo nên
tính phức điệu của tiểu thuyết. Theo đó tác phẩm là một cấu trúc đa tầng, có khả
năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau. Nó cho
phép sự hòa trộn nhiều sắc thái giọng điệu: vừa sắc lạnh, vừa mỉa mai chế giễu
nhưng đôi khi cũng tràn đầy sự xót thương, đồng cảm. Sự đan xen và dịch chuyển
liên tục điểm nhìn cũng phù hợp với bản chất của xã hội đô thị đương đại là phức
tạp, đa nguyên, đòi hỏi một cái nhìn đa diện. Chính xã hội đô thị đương đại chấp
nhận đa giá trị và đa điểm nhìn là một sự lựa chọn phù hợp.
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật
3. 3.1 Không gian nghệ thuật.
Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dòng sông, cánh
đồng, ngọn núi, biển cả, đô thị, phố phường, công sở... Không gian cũng là nơi
nhà văn triển khai sự kiện, biến cố, là chỗ cho nhân vật hoạt động. Không gian
trong văn học là không gian nghệ thuật. Không gian đó không phải ngẫu nhiên
như trong đời sống mà do người nghệ sĩ lựa chọn nhằm thể hiện ý đồ tư
tưởng. Theo từ điển thuật ngữ văn học: “không gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó… Không gian
nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn
ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của
tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám
phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ
thuật”[28. tr, 135]. Là nhà văn trẻ, không phải là dân Hà Nội, Phong Điệp viết về
đô thị với con mắt và tâm hồn của dân nhập cư trong cuộc mưu sinh cực nhọc.
Tác phẩm của chị thiếu vắng không gian đô thị lung linh, thơ mộng. Sự đan cài
85
không gian hiện thực và không gian hư ảo đã tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm
của chị.
3.3.1.1. Không gian thành thị đầy bất trắc.
Cũng viết về không gian đô thị, chân dung phố phường hiện lên trong văn
Đỗ Phấn vô cùng chi tiết, tỉ mỉ, từ góc phố cà phê, cây bàng cụt, cửa ô đầy
khói đến những công viên xanh li ti lá phượng. Một Hà Nội xưa cũ hiện về qua
những hàng cây và mặt hồ, qua mùi cà phê thơm nồng ngõ phố, qua làn khói thuốc
của những nghệ sỹ trầm ngâm. Đó là hình ảnh một không gian đô thị đẹp, một
đô thị dung chứa nhiều đường nét của làng quê thanh bình. Hồ Tây như một
bức tranh xinh xắn. Không gian nơi đây không chỉ đẹp, mà còn thơm ngát mùi
hương huyền bí của sen trăm cánh, loài hoa được người Hà Nội dùng để ướp
trà. Còn Nguyễn Việt Hà dành nhiều trang viết để làm nổi bật không gian Hồ Tây
lung linh huyền ảo trong những buổi hoàng hôn. Viết Cơ hội của chúa, nhà văn
cũng để cho các nhân vật hay xuất hiện ở những khách sạn sang trọng, gặp nhau
ở sân quần vợt, hay giải trí ở những quầy bar, hộp đêm, cửa hàng Karaoke. Không
gian trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà mang dáng vẻ lãng mạn, kiêu bạc của chất
Hà Nội gốc. Đó là không gian sinh tồn, không gian văn hóa, lịch sử. Ngoài miếng
cơm manh áo, Nguyễn Việt Hà khám phá và cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ của
nó. Với Phong Điệp, nhà văn nhìn đô thị đơn thuần là một không gian sinh tồn.
Trong thế giới thành thị của chị nhân vật phải đối diện với miếng cơm manh áo
hàng ngày, để kiếm được đồng tiền, để có vị trí trong công việc, địa vị xã hội. Con
người trong môi trường ấy không khỏi giành giật, bon chen thậm chí hãm hại
nhau. Bởi vậy không gian thành thị là không gian chứa đầy bất trắc.
Sự bất trắc của thành thị được Phong Điệp khai thác khá nhiều ở một không
gian quen thuộc với người trẻ nhập cư, những người lao động nghèo khó đó là
không gian phòng trọ. Nhà trọ dưới cảm quan đô thị riêng của Phong Điệp không
chỉ chật chội, tồi tàn mà còn trở nên thiếu an toàn, nhiều nguy hiểm rình rập. Trụ
lại với Hà Nội, sau bốn năm yên ổn với kí túc xá của đại học. Kiều trong Lạc
86
chốn thị thành không thể ngờ ngoài nỗi lo kiếm tiền để mưu sinh thì việc kiếm
được một chỗ để ở cũng không hề dễ dàng. Ban đầu cô may mắn vì được ở với
Phúc, một cô bạn cùng học đại học trong một khu trọ dù chật chội nhưng không
xô bồ và khá an toàn. Yêu, cả tin và bị lợi dụng, Phúc đã tìm mọi cách phá thai
khiến cô suýt mất mạng nơi phòng trọ, gia đình đã phải đón cô về quê. Kiều không
thể ở lại nơi ám ảnh đó nên cô đã phải chuyển nhà trọ. Một không gian yên ổn,
thấy được cảm giác an toàn nơi đô thị đầy bất trắc thật không phải dễ dàng với
những người như Kiều. Cuộc tìm kiếm nhà trọ như một cuộc trường chinh mệt
mỏi. Phong Điệp khiến người đọc sởn gai ốc khi trước mỗi không gian phòng trọ
nơi Kiều đặt chân đến: “Nhà gì mà chỉ là mấy mảnh cót ép quây kín nằm cạnh
sông, sực nức mùi bùn rữa. Người qua đường “quá đà” thò tay vào là quờ được
tới tận giường ngủ. Nói dại chứ có ai vứt tàn thuốc lá xuống là đi tong như chơi.
Có nhà nằm trong xóm liều, kim tiêm của dân nghiện vứt đầy dưới chân tường,
máu dính vẫn còn tươi ròng.” [16, tr. 67]. “Một nhà khác thì nhà cửa quá nhếch
nhác, lại nằm cạnh bãi tha ma hoang hoác gió.” [16, tr. 164]. Không gian chật
chội, nhạt nhẽo, vô hồn khiến Kiều hoang mang không biết bắt đầu cuộc sống nơi
phòng trọ mới như thế nào: “10 mét vuông rỗng tuếch với những vệt vôi quét
tường loang lổ chỗ đậm chỗ nhạt. Tôi bần thần nhìn căn phòng không biết mình
nên bắt đầu như thế nào.” [16, tr. 178]. Đô thị quả là không yên ổn. Cũng học
Đại học rồi trụ lại ở thành phố, Hạ trong Blogger phải chật vật trăm bề để kiếm
được một công việc. Xin được một suất làm nhân viên thư viện, tưởng chừng như
mọi thứ đều đã đi vào guồng quay của sự ổn định nhưng đó lại là khởi đầu cho
chuỗi ngày nhân vật rơi vào hoang mang và trống rỗng. Tuy không chật vật, khốn
khổ đi tìm nhà trọ như Kiều nhưng không gian nhà trọ của Hạ cũng chẳng khác
gì. Nơi đó chật hẹp, “thoang thoảng mùi nước mắm, mùi dầu hỏa” [18, tr. 53], là
nơi đều đặn vào mỗi thứ bảy, Quân đến xem tivi một cách uể oải và giải tỏa dục
tính của hắn một cách sỗ sàng. Hậu quả sau đó là Hạ có thai ngoài ý muốn và phải
gián tiếp triệt mầm của một sự sống đang nảy nở trong bụng mình. Sự lặp đi lặp
lại con số 10 mét vuông trong các câu chuyện của Phong Điệp như một sự ám
87
ảnh. Con số vô hồn là tiêu chuẩn vàng cho mỗi ô của một đoàn tàu mang tên nhà
trọ không chỉ gợi sự chật chội, mà luôn là nỗi buồn, sự kinh hoàng với những
người đã đi qua.
Không gian bất trắc của thành thị không chỉ đến từ những căn phòng trọ tồi
tàn, Phong Điệp luôn nhận thấy sự bất an đằng sau sự xa hoa hào nhoáng của
những ngôi biệt thự, sự yên bình của những ngôi nhà khang trang. Sau nhiều ngày
mệt mỏi không tìm được nhà trọ Kiều bất đắc dĩ phải đến tạm ở nhờ trong ngôi
biệt thự của ông “bố nuôi” Phương, Kiều đã không giấu được vẻ choáng ngợp ban
đầu: “Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được sống trong một ngôi nhà sang trọng như
thế. Nhà kiến trúc kiểu Pháp với những đường uốn thanh thoát, những chiếc cửa
sổ hình vòm giăng đầy hoa ti gôn thơ mộng mở ra một không gian thoáng mát rất
dễ chịu. Đồ đạc trong ngôi nhà cũng không kém phần sang trọng. Bộ phô tơi da
mầu kem nhạt rất ăn với mầu tường mầu be vàng của phòng khách. Chưa bao giờ
tôi được ngồi trên một chiếc ghế rộng rãi và êm ái như thế. Chiếc tủ li đặt khiêm
nhường ở góc phòng với những bộ li tách pha lê và những chai rượu ngoại đắt
tiền. Gần cửa sổ là chiếc đồng hồ quả lắc, dễ phải cao đến ngang đầu tôi. Nước
gỗ trên chiếc đồng hồ đã bắt lên mầu gụ bóng loáng. Phòng ngủ của cái Phương
được sơn mầu hồng nhạt, những chiếc rèm cũng cùng mầu, tạo nên một không
gian thật ấm áp. Rồi còn cả một tủ váy áo các loại mà bất kỳ đứa con gái nào
cũng thèm muốn được sở hữu.” [16, tr. 51, 52]. Sự choáng ngợp nhanh chóng đi
qua, nhìn bức ảnh ông bố nuôi của Phương treo trên tường khiến cho Kiều có cảm
giác bất an, sờ sợ. Kiều không hiểu nổi cô sợ gì, một thứ sợ hãi mơ hồ, bất chợt
thoáng qua nhưng ám ảnh rất lâu. Sự nhạy cảm của một người con gái khiến Kiều
hiểu rằng ngôi nhà đó không phải là nơi an toàn, và cũng chẳng phải là nơi cô có
thể ở nhờ lâu được. Phong Điệp giỏi gợi ra cảm giác bất trắc của cuộc sống đô thị
từ những điều mơ hồ.
Không chỉ cảm thấy sự bất an trong ngôi nhà của bố nuôi Phương, Phong
Điệp còn để người đọc cảm nhận rõ sự bất an của Kiều khi đến dạy cu Tũn. Bề
88
ngoài là một không gian khá yên bình và thơ mộng: “Đó là một ngôi nhà ba tầng
bề thế nằm trong khu tập thể Kim Liên. Trước hiên nhà là một giàn hoa giấy sum
suê đang trổ hoa. Những chùm bông đỏ như lửa giăng quanh bờ tường mầu vàng
nhạt vẫn còn loang lổ những vệt nước ẩm ướt, dấu vết của trận mưa từ đêm hôm
trước.” [16, tr. 72]. Nhưng bước vào ngôi nhà, sự yên ổn trong tâm hồn Kiều đã
không còn: “Ngôi nhà rộng, nhiều phòng với đầy những đồ đạc đắt tiền, nhưng
không hiểu sao tôi cứ có cảm giác sờ sợ bởi không khí lạnh lẽo, âm âm quanh
quất bên mình.” [16, tr. 81]. Kiều đã tìm cách lí giải cho nỗi sợ vô hình đó: “Sống
được một thời gian ở nhà ông chủ Hùng, tôi luôn cảm giác có một điều gì đó bất
ổn mà tự mình không tài nào lí giải nổi. Có thể bởi tại không khí âm âm ở ngôi
nhà ba tầng khép cửa im ỉm suốt ngày nên thiếu ánh sáng mặt trời. Cũng có thể
bởi những biểu hiện lạ lùng của bà giúp việc. Cả đứa trẻ mà tôi đang dạy với
những phút lơ đãng khó hiểu của nó...” [16, tr. 95]. Nhưng chưa khi nào cảm giác
bất an, nguôi ngoai trong lòng cô. Cảm giác của Kiều phải chăng là do cô đã quá
quen với lối sống làng quê luôn quan tâm gắn bó với nhau bằng tình cảm thân
thiết của tình làng nghĩa xóm, hay quen với lối sống sinh viên chân thật giản dị
mà yên bình. Nay sống với những ánh mắt lạnh lùng của người đô thị cô luôn có
cảm giác bất an. Cảm giác bất an mơ hồ của Kiều nơi đô thị chắc hẳn không chỉ
là của riêng cô. Đằng sau sự hào nhoáng nơi đô thị là những cám dỗ, những cạm
bẫy đầy ma mị mà nhiều cô gái không đủ tỉnh táo bị cuốn vào để nhận những đắng
cay, tủi nhục. Phong Điệp đã tạo được sự ám ảnh với người đọc về một không
gian thành thị đầy bất trắc.
Không gian thị thành bất trắc trong tiểu thuyết Phong Điệp còn là những
căn phòng công sở chật chội với ánh nhìn lườm nguýt, dè bỉu của “đao to búa
lớn”, của trò mèo vờn chuột, của những thứ xảo trá và cả sự hèn nhát, yếu đuối,
vô vàn điều phức tạp, bát nháo, những thủ đoạn hãm hại lẫn nhau. Không gian ấy
là Văn phòng luật Chính Nghĩa nơi Kiều trong Lạc chốn thị thành được nhận vào
làm. Một không gian vẻn vẹn trong tầng một với khoảng chục con người vậy mà
Kiều mới chỉ được giao nghiên cứu hồ sơ nghiên cứu một vụ án đã khiến cô nhận
89
đủ lời dè bỉu, chế giễu, bị nói xấu, bị tẩy chay, rồi bị hãm hại bằng những thủ đoạn
hèn kém. Khi thì chiếc máy tính hỏng, khi thì những bản in được thực hiện vô tội
vạ nhân lúc cô không có mặt. Những thủ đoạn mà với một cô gái chân thật như
Kiều chưa khi nào nghĩ đến. Không gian viện nghiên cứu nơi Hạ trong Blogger
làm việc cũng là một không gian bất trắc. Với một nhân viên quèn như Hạ mà có
bao nhiêu cạm bẫy luôn rình rập cô. Đó làm lão sếp giở đủ chiêu trò để chiếm
đoạn thân xác cô. Đó là những cuộc đấu đá nội bộ mà cô là cái cớ để người ta hạ
bệ nhau. Chưa bao giờ Hạ thấy mình được yên ổn dù là ở cơ quan hay nơi phòng
trọ với Quân. Kiều và Hạ cũng không biết khi nào tai họa sẽ ập xuống đầu mình.
Không gian công sở dưới góc nhìn của Phong Điệp không phải là môi trường làm
việc thân thiện. Trong không gian đó, mọi sinh lực của nhân viên không dành cho
công việc. Sức lực, nhiệt huyết cống hiến của họ bị bào mòn bởi bao nỗi bất trắc,
thường trực bủa vây, treo lơ lửng trên đầu. Thành phố quả là nơi bất trắc với
những thân phận bé nhỏ như Kiều, như Hạ.
Không gian công sở của Cô ở Ga kí ức lại bất trắc theo một khía cạnh khác.
Không có những toan tính thấp hèn, không có những thủ đoạn bỉ ổi nhằm hãm hại
nhau, không có những cuộc “săn mồi” của những con thú lớn, Phong Điệp mang
đến cho người đọc cảm nhận về một không gian bệnh viện tâm thần ngày càng
ngột ngạt: “Càng ngày, con bệnh đổ về càng đông, với các biểu hiện phức tạp
hơn. Bệnh viện đứng trước nguy cơ quá tải. Y bác sĩ bệnh viện thường xuyên rơi
vào trạng thái căng thẳng khi phải đối đầu với quá nhiều diễn biến phức tạp.”[22,
tr. 78]. Sự ngột ngạt căng thẳng có lúc khiến cô “ngỡ mình cũng sắp trở thành
một bệnh nhân trong số trong số hàng ngàn bệnh nhân, chòng chọc ngồi chờ vào
mỗi sáng, đợi đến lượt mình được phát thuốc.”[22, tr. 78]. Qua không gian bệnh
viện, qua sự cảm nhận của Cô, Phong Điệp đã cảnh báo một nguy cơ tệ hại mà
con người sống trong không gian đô thị sẽ phải đối diện: “Khi cuộc sống ngày
càng đầy đủ hơn, tiện nghi hơn, thì người hoang tưởng ngày càng nhiều.”[22, tr.
78]. Minh chứng rõ nhất cho sự hoang tưởng của cư dân sống trong không gian
đô thị chính là y, một bệnh nhân của cô trong Ga kí ức. Không gian thành thị
90
trong mắt y là một nơi ồn ào, đông nghịt, y bị biến thành “món nhậu” trong các
cuộc tụ tập đông người, chúng chòng ghẹo, săm soi y, đồng nghiệp xa lánh, kì thị
y. Những điều đó khiến y sợ hãi, chọn nơi trú ẩn là không gian của những cái
toilet trong cơ quan và bệnh viện. Chỉ ở trong không gian của những cái toilet y
mới thấy dễ chịu, mới thấy yên ổn. Đến khi y quyết định đến bệnh viện cầu cứu
các bác sĩ, là bệnh nhân của cô thì cuộc đời y đã không còn hy vọng. Giá như y
không đến thành phố thì chưa chắc y đã thê thảm đến thế. Có thể nói, giữa dòng
chảy phát triển của thành phố, y và cô đều trở nên bơ vơ và chệch nhịp, lo lắng,
sợ hãi. Chốn thị thành ấy chứa nhiều căn bệnh tâm lý của con người đương đại,
nó tấp nập, hối hả và đầy rẫy những điều phải lo toan. Cảm giác về sự bất trắc của
không gian đô thị không còn mơ hồ mà đã dần hiện hữu cụ thể qua từng trang viết
của Phong Điệp.
Có lẽ, không gian nhà nghỉ và không gian các phòng khám tư là những
không gian quen thuộc đối với cư dân đô thị. Thành phố phát triển, vui chơi, giải
trí, nhu cầu có không gian riêng tư cho nghỉ ngơi thư giãn là nhu cầu hết sức cần
thiết. Đổi mới kinh tế làm cho bộ mặt đô thị khởi sắc, lối sống phương Tây du
nhập đã làm thay đổi quan niệm sống của một bộ phận lớn cư dân đô thị. Nhà
nghỉ mọc lên như nấm sau mưa để đáp ứng nhu cần không gian riêng tư cho hoạt
động tình dục của cư dân đô thị. Nguyễn Việt Hà với tình yêu Hà Nội yên bình
thơ mộng của không gian phố cổ đã chua xót cho rằng: "Nhà nghỉ nhiều nhan
nhản đã làm cho Hà Nội trở nên một con đĩ thập thành". Phong Điệp không bộc
lộ cảm xúc, Chị không đi sâu vào khai thác không gian nhà nghỉ như một mặt tối
của không gian đô thị. Dưới góc nhìn của một nhà văn nữ, bằng chi tiết miêu tả
chân thực, không gian nhà nghỉ hiện lên với sự bất an và mất vệ sinh: “Còn lại
mình Hạ giữa những giường đệm nhớp nhúa mùi của những cuộc giao hoan...
Bằng chứng là vài sợi lông đen nhưng nhức còn lưu lạc trên mép giường và sàn
nhà. Chắc là sau vài cái phủi tay của người dọn phòng “biết việc” trên chiếc ga
giường nhàu nhĩ. Miễn là dọn dẹp, căng trải sao cho thật nhanh, để còn kịp đón
91
khách. Nhét vội cái bao ok dưới đệm, đặt lại dép trên sàn, giật nước trong nhà vệ
sinh. Thế là đủ để đón khách.”[22, tr. 64]. Mùi nhớp nhúa của những cuộc giao
hoan, những sợi lông vương lại, ga giường nhàu nhĩ, mùi nước hoa rẻ tiền che đậy
khiến Hạ ghê tởm về sự mất vệ sinh của nhà nghỉ. Cảm giác thiếu sạch sẽ, không
an toàn về mặt vệ sinh của nhà nghỉ làm Hạ buồn nôn. Hạ không trốn chồng, tìm
đến nhà nghỉ như một nơi an toàn kín đáo để thỏa mãn nhu cầu sinh lí với bồ.
Cũng chẳng tìm đến nhà nghỉ như một không gian riêng tư để thỏa mãn yêu
đương. Những lần làm tình cùng Quân ở những nơi công cộng chỉ khiến Hạ xấu
hổ thì việc đến nhà nghỉ với lão sếp khiến Hạ bất an. Lúc này, Hạ là con thú non,
bị săn đuổi, bị dồn vào một không gian mà ở đó lão sếp có thể nhẩn nha nhắm
nháp con mồi là Hạ. Hạ rơi vào tình trạng bị dồn ép vì nỗi lo mất việc nếu không
chiều lòng lão sếp già. Với cảm nhận riêng của Phong Điệp, không gian nhà nghỉ
không phải là nơi an toàn, riêng tư cho nhân vật nữ của chị. Ở đó luôn là nỗi bất
an, ám ảnh nhân vật của chị. Đằng sau không gian nhà nghỉ thấp thoáng bộ mặt
tha hóa của đô thị, của con người đô thị.
Từ nhà nghỉ đến phòng khám tư nhân là một con đường gần. Hệ quả tất yếu
của sự thiếu kiến thức về giới tính, của nếp sống, lối nghĩ thông thoáng về tình
dục, mối quan hệ lỏng lẻo trong các gia đình đô thị chính là tình trạng nạo phá
thai đến mức báo động trong giới trẻ nơi đô thị. Phong Điệp không đề cập trực
tiếp đến vấn đề thời sự đó, nhưng với không gian các phòng khám mà chị tái hiện
trong các tiểu thuyết viết về đô thị ta không không khỏi giật mình. Là nhà báo viết
văn, Phong Điệp xót xa, đau đớn chứng kiến cả dãy phố với “ngổn ngang không
biết bao nhiêu là phòng khám... Tấp nập ở nơi đó, những khuôn mặt bịt kín đến
tận cửa... Những đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên đã học làm người lớn.”.
Không gian đó chính là hố đen nuốt vào đó bao sự sống và tạo ra biết bao bi kịch.
Cũng từ đây....Khung cảnh của phòng khám sản tư “không địa chỉ, không tên tuổi,
cáu bẩn và hôi hám” [18, tr. 84] với tiếng dao kéo lạch xạch, “thuốc kháng sinh
liều cao cấp tập. Máu và máu. Trần nhà ẩm thấp. Đèn điện chập chờn” [18, tr.
92
172] không chỉ mãi mãi ám ảnh Kiều, Oanh trong Lạc chốn thị thành, Hạ trong
Blogger những tháng ngày sau đó mà sẽ mãi ám ảnh Phong Điệp, ám ảnh người
đọc về một không gian đô thị với bao bất trắc.
Có thể nói, không gian thành thị trong tiểu thuyết Phong Điệp là không gian
của sự ngột ngạt, bí bách và vô cảm, nó mang đến nhiều nỗi bất an, trống rỗng
và bi kịch cho nhân vật. Trong không gian ấy con người không chỉ quay cuồng
với nỗi lo cơm áo mà còn phải đối phó từ đủ thứ cám dỗ, những cạm bẫy do chính
con người đô thị tạo ra. Không gian ấy chưa mang lại chút yên bình cho cư dân
đô thị. Viết về không gian đô thị Phong Điệp không giấu nổi nỗi lo lắng, bất an
cho nhân vật mà còn bộc lộ nỗi lo lắng bất an cho chính mình và cả cư dân đô thị.
3.3.1.2. Không gian đô thị ảo.
Không gian đô thị thực trong Blogger và Ga kí ức xuất hiện cùng lúc
với không gian đô thị ảo, hòa quyện với nhau tạo nên sự đồng hiện. Thực là ảo và
ảo cũng là thật. Trước nhất là không gian giấc mơ. Những gì đến với Hạ trong
mộng ảo chính là những biến cố cuộc đời mà nhân vật đã trải qua cùng với nỗi
niềm ẩn ức không thể giãi bày. Những giấc ngủ hằng đêm, hình ảnh của phòng
khám sản tư cùng với bà bác sĩ “mặt lạnh như chì” vẫn ám ảnh và chực chờ xuất
hiện làm lạnh buốt trái tim cô. Ở hiện thực, Hạ đã “khai tử sinh linh bé bỏng” của
chính mình vậy nên chỉ trong không gian của giấc mơ, cô mới có thể được làm
một người mẹ đúng nghĩa. Nỗi đau vì lần phá thai vẫn luôn dày vò trái tim Hạ,
không chỉ ngoài đời thực mà trong cả cơn mê: “Cô chuẩn bị hai bầu sữa thật căng
để bước vào giấc mơ. Cô đi tìm những hài nhi của mình. Chúng đang co ro ôm
lấy nhau, núp sau một bụi cây lúp xúp có mùi hăng hăng. Nhìn thấy cô, chúng hốt
hoảng buông nhau ra, chạy túa sang những khóm cây khác. Trên đường chúng
bỏ chạy, những vệt máu vẫn còn rơi rớt lại, thẫm đỏ.” [18, tr. 173].
Ở tiểu thuyết Ga kí ức, không gian giấc mơ là nơi các nhân vật tìm thấy lối
đi tưởng chừng như đã bế tắc ở hiện thực. Y là một bệnh nhân tâm thần trốn viện
và cô là bác sĩ phụ trách ca bệnh này. Sự biến mất của y khiến cô phải chịu trách
nhiệm giải trình. Khi mọi phương cách tìm kiếm đều bất lực thì cô đã tìm được y
93
trong giấc mơ “ở đúng chỗ bức tường rêu hắt màu ảm đạm trong ánh chiều tà với
vẻ mặt âm u” [22, tr. 81]. Với Phùng, sau khi không tìm được cô, giấc mơ hiện ra
trong anh với sự mơ hồ, huyễn hoặc: “Phùng đi mãi, tìm mãi vẫn không thể thấy
tòa nhà 10 tầng, với hai rặng phi lao chạy dọc từ cổng vào khu khám bệnh đâu.
Như thể chưa từng tồn tại một nơi như thế. Phùng tra tên và địa chỉ của bệnh viện
vì sợ mình nhớ nhầm. Nhưng cũng không có bệnh viện nào dành cho người hoang
tưởng mà Phùng từng đến” [22, tr. 226]. Thế nhưng, hóa ra tất cả chỉ là một cơn
mê. Như vậy có thể thấy, không gian giấc mơ trong Blogger và Ga kí ức đều bị
ảo hóa nhưng sau cùng, nó chính là một hình thức hiện hữu khác của hiện thực đô
thị. Một hiện thực mờ nhòe ranh giới và đa chiều kích.
Không gian ảo trong tiểu thuyết Phong Điệp còn là thế giới mạng internet.
Trong Blogger, Hạ và Phong đều là những người viết blog. Ở thế giới ảo, Hạ có
danh sách bạn bè (friend list) quan tâm bằng những lời bình luận (comment ) chứ
không cô đơn như ở đời thật. Trong không gian ảo của internet, Hạ có thể giãi bày
hết những cảm xúc của mình, kể cả sự giải tỏa bằng những câu chửi thề. Còn ở
hiện thực, Hạ yếu đuối và mất hết bản năng chống cự. Có thể nói, ở thế giới ảo,
Hạ toàn quyền quyết định được cách hiện tồn của mình trong cuộc đời, cũng như
thỏa chí bày tỏ những xúc cảm yêu, ghét, thù hằn… Thế giới mạng cũng như đời
sống, nó có nhiều con người mang những ý kiến, xu hướng khác nhau. Họ cũng
có một tên gọi riêng (nickname), có quyền trò chuyện, bày tỏ… thế nhưng, tất cả
chỉ là một không gian ảo do con người tạo lập.
3.3.2. Thời gian nghệ thuật
Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là dạng tồn tại mang
tính đặc thù của vật chất, nghĩa là nghệ thuật có thời gian riêng để thể hiện phương
thức tồn tại và triển khai thế giới. Nếu như không gian nghệ thuật không phải là
không gian vật lý thì thời gian nghệ thuật cũng chưa phải tồn tại trong thời gian
vật chất, mà thời gian nghệ thuật luôn vận động, biến đổi gắn liền với sự cảm thụ
về thời gian của tác giả.
94
Các tác giả trong cuốn Từ điển tiếng Việt cho rằng: “thời gian là hình thức
tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với không gian) trong đó vật chất vận động và
phát triển liên tục, không ngừng”[45]. Đứng về phương diện triết học, “thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính, độ lâu của sự biến
đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật, các trạng thái biến đổi khác nhau của
thế giới vật chất.”[45]. Như vậy thời gian là một phạm trù cơ bản của cuộc sống.
Thế giới tự nhiên và con người đều tồn tại trong quá trình vận động của thời gian.
Tuy nhiên thời gian vật chất và thời gian nghệ thuật có những phạm trù riêng.
Những sự kiện trong tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại trong thời gian vật
chất. Bởi ở tác phẩm nghệ thuật, con người có quá trình vận động và phát triển
riêng. Trong tác phẩm nghệ thuật, con người có thể trải qua một cuộc đời, một
ngày, trải qua nhiều thế hệ, hoặc quay về quá khứ, hay nhảy vượt tới tương lai.
Như vậy thời gian nghệ thuật có thể mang tính liên tục, cái này xảy ra sau cái kia
theo một trình tự nhưng cũng có thể đảo ngược sự liên tục của nó. Bởi thế thời
gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ. Người nghệ sĩ có thể chọn
điểm bắt đầu và kết thúc, có thể là nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược,
có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian
thể hiện ý thức sáng tạo chủ động, tự do mang đậm dấu ấn của tác giả.
Trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhìn nhất định trong thời gian. Cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời
gian, được biết qua thời gian. Thời gian nghệ thuật vừa là hình thức hiện hữu, vừa
là hình thức tư duy của con người được diễn tả bằng ngôn từ trong quá trình miêu
tả tính cách, hoàn cảnh, đường đời của nhân vật.
Thời gian nghệ thuật là hình thức nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác giả
bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức cảm nhận
được: hoặc hồi hộp đợi chờ, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm vào quá khứ.
Nhưng thời gian nghệ thuật cũng không phải là một hiện tượng của tâm lý mà cá
nhân người đọc muốn cảm thụ nhanh chậm tùy ý. Thời gian nghệ thuật là một
sáng tạo khách quan trong chất liệu. Nếu như một tác phẩm có thể gây hiệu quả
95
hồi hộp đợi chờ thì đối với ai, lúc nào, khi cảm thụ thời gian ấy đều xuất hiện.
Điều đặc biệt là thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện
một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người.
Như vậy thời gian nghệ thuật trong văn học khác với thời gian khách quan,
nó có thể trôi rất nhanh, bị dồn nén hay kéo dài cái chốc lát thành vô tận.
Có thể nói thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận thời
gian của con người. Phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời
kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển, thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về
phương thức tồn tại của con người trong tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật là sự sáng tạo của nghệ sĩ để tạo ra “một thế giới nghệ
thuật có thể trường tồn trong thời gian” (Trần Đình Sử). Như vậy thời gian nghệ
thuật đã góp phần bộc lộ rõ quan điểm và tư tưởng của nhà văn. Có khi nhà văn
tổ chức vận hành thời gian nghệ thuật trong tác phẩm của mình theo diễn biến của
câu chuyện, được trình bày theo sự phát triển trước sau của thời gian. Đó là thời
gian sự kiện, thời gian này được tính theo độ dài thời gian mà nó diễn ra. Các sự
kiện được xâu chuỗi và xuất hiện một cách tuần tự, không đứt quãng. Tác phẩm
không có thời gian chết và sức hấp dẫn của nó là ở nhịp điệu dẫn dắt câu chuyện.
Bên cạnh kiểu thời gian này còn có kiểu thời gian tâm lý. Nhà văn kéo dài
thời gian để diễn đạt tâm trạng chờ đợi của nhân vật, có khi buộc thời gian phải
đứng lại vận động theo chiều ngược lại hay vận động ngược chiều để thể hiện sự
hồi tưởng của nhân vật. Quá khứ, hiện tại và tương lai không tách rời mà đan cài
lẫn nhau; cái hôm qua hiện hữu trong cái hôm nay, cái hôm nay dự báo cái ngày
mai. Điều đó thể hiện quan niệm về sự vận động biện chứng của con người và lịch
sử.
Thời gian nghệ thuật rất đa dạng. Nó là một thuộc tính tất yếu của hình
tượng nghệ thuật. Các nhà văn khi sáng tạo nên công trình nghệ thuật thường sử
96
dụng yếu tố thời gian nghệ thuật như một phương tiện cần thiết để tái hiện đời
sống con người.
Khi nghiên cứu thời gian nghệ thuật, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một
số cách phân loại.
M.Bakhtin (nhà nghiên cứu văn học Nga) trong bài viết Tiểu thuyết giáo
dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (Tạp chí văn học số 4
- 1999) đã phân chia thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học thành bốn loại:
thời gian phiêu lưu, thời gian cổ tích, thời gian tiểu sử và thời gian lịch sử. G.S
Trần Đình Sử quan niệm trong tác phẩm văn học có thời gian trần thuật và thời
gian được trần thuật:
Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến tính
một chiều của văn bản ngôn từ. Người ta nói văn học là nghệ thuật thời gian bởi
văn học diễn đạt các sự vật hiện tượng theo trật tự thời gian của lời nói liên tục,
từ câu đầu đến câu cuối cùng, không đảo ngược. Thời gian trần thuật là thời gian
của người kể, của sự kể. Nó có mở đầu và kết thúc; có tốc độ và nhịp độ riêng do
người kể có thể nhanh hay chậm, kể lướt hay kể tỉ mỉ, dừng lại miêu tả chi tiết;
có thể sắp xếp trật tự thời gian của sự việc đem cái xảy ra sau kể trước và ngược
lại; nó luôn mang thời hiện tại (tương ứng với thời hiện của người nói).
Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới bao gồm:
thời gian sự kiện, thời gian nhân vật, thời gian thiên nhiên, thời gian sinh hoạt,
thời gian phong tục, thời gian xã hội lịch sử.
Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong các tiểu thuyết viết về đô thị của
Phong Điệp chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật trong các tiểu thuyết chủ yếu là
thời gian tâm lí được thể hiện trên hai bình diện: Độ căng và sức nén cua thời gian
và mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Chính nó đã góp phần làm nên thành
công của tiểu thuyết viết về đô thị của Phong Điệp.
97
3.3.2.1. Độ căng và sức nén của thời gian
Trong tiểu thuyết viết về đô thị, nhất là trong các cuốn Blogger và Ga kí ức,
các sự kiện nối tiếp nhau không theo chuỗi thời gian tuyến tính mà dựa trên logic
của trí nhớ, của dòng hoài niệm gợi lên bất chợt nên thời gian trong tác phẩm bị
khúc xạ qua tâm lí và kí ức của nhân vật. Thời gian không trôi chảy bên ngoài sự
vật nữa mà vận động bên trong tâm lý nhân vật. Thời gian được kể biến thành thời
gian chủ quan, thời gian hồi tưởng. Chính vì vậy thời gian ở mỗi nhân vật có sự
biến động khác nhau làm cho thời gian nghệ thuật của tác phẩm đôi lúc bị kéo
căng ra, giãn nở, trương phình và đôi lúc thì dồn nén một khoảng thời gian dài chỉ
trong vài trang viết ít ỏi.
Phong Điệp đã sử dụng thủ pháp dồn nén thời gian khi tái hiện lại cả một
quãng thời gian dài nhân vật Phong trong Blogger sống ở đô thị chỉ với những
dòng tổng kết hết sức ngắn gọn trong lời giới thiệu của chính nhân vật. Rất nhiều
sự kiện chỉ được dồn nén trong một khoảng thời gian ngắn đã góp phần tô đậm ấn
tượng về một khoảng thời gian tuy dài nhưng nhạt nhẽo, thậm chí chán nản, cô
đơn, chẳng có gì đáng nhớ ngoài những chuyện buồn khi cô sống ở thành phố.
Nhưng ấn tượng về sự xa lạ và bất an nơi phố xá luôn in hằn trong tâm trí cô:
“Bảy năm trước, lần đầu tiên tôi đặt chân lên thành phố để dự kì thi đại học...Bảy
năm trước, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy máy vi tính ở nhà người cô họ tên
Sương... Bảy năm trước, khi cầm giấy báo đại học, lên tầu về Thành phố, kẻ gian
đã móc gọn của tôi cục tiền mẹ buộc chặt để dưới đáy ba lô... Bảy năm trước ...
Thành phố - xa lạ và đầy bất trắc. Bảy năm - sau khi đặt chân đến thành phố, tôi
nhắm mắt cũng biết đường đi lối lại... Bảy năm - sau khi đặt chân đến Thành phố,
tôi tự cho mình nghỉ việc ở rất nhiều công ty. Sau bảy năm, Thành phố - với tôi -
cụ thể như một chén nước đang uống dở, đặt ngay trước mặt... Sau bảy năm, có
những vũng lầy to đùng phía trước mà tôi phải tự lội qua, mà không hề có mẹ.”
[18, tr. 6-7]. Mốc thời gian “bảy năm trước, bảy năm” lặp đi lặp lại như một điệp
98
khúc không chỉ diễn đạt sự trôi chảy của thời gian, mà còn thể hiện nhịp sống đơn
điệu, chán nản của chính Phong nơi đô thị.
Ở Ga kí ức thời gian trong tiểu thuyết trôi qua vùn vụt theo những mạch kể
đan xen giữa hồi ức và hiện tại. Trong đó có những khoảng thời gian khá dài
nhưng chỉ được miêu tả ngắn gọn trong những trang viết ít ỏi, chẳng hạn như
khoảng thời gian Phùng được sinh ra, trải qua tuổi thơ đầy tủi nhục ở làng Yên
Bình, học và làm đủ nghề, nếm trải đầy cơ cực để mưu sinh nơi trời Âu đến khi
thành đạt, trở thành một doanh nhân giầu có. Cả một khoảng thời gian dài trên
dưới ba mươi năm chỉ được Phong Điệp kể lại ngắn gọn với 15 trang văn khi so
sánh với dung lượng khoảng 50 trang cho vài năm mà cả Phùng và mẹ được ở bên
nhau nơi thành phố với đầy đủ tiện nghi cho một cuộc sống thừa thãi về vật chất.
Với kiểu dồn nén thời gian này, Phong Điệp cho người đọc thấy rằng, đây là
khoảng thời gian dù tủi nhục và cơ cực nhưng cả hai mẹ con Phùng đều có động
lực sống để vươn lên, để chứng minh cho cả làng Yên Bình thấy giá trị của Phùng,
và hai mẹ con luôn cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên nhau nên thời gian qua
nhanh, vì thế Phong Điệp không tập trung tái hiện một cách tỉ mỉ, chi tiết. Có thể
nói thủ pháp dồn nén thời gian đã tạo cho tiểu thuyết giầu tính tốc độ, phù hợp
với sự đổi mới của tiểu thuyết hiện đại, phù hợp với thị hiếu của người đọc, nhất
là phù hợp với nhịp sống hiện đại, hối hả của các đô thị.
Bên cạnh sự dồn nén thời gian, chúng ta còn bắt gặp những khoảnh khắc thời
gian như bị kéo căng ra đến trương phình, giãn nở trong các cuốn tiểu thuyết viết
về đô thị của Phong Điệp. Trong ba cuốn tiểu thuyết, có lẽ cuốn Lạc chốn thị
thành, Phong Điệp ít dùng thủ pháp kéo căng thời gian. Các sự kiện được xâu
chuỗi và xuất hiện một cách tuần tự, không đứt quãng. Thời gian trần thuật khá
trùng khớp với thời gian sự kiện. Tác phẩm không có thời gian bị kéo căng hay
giãn nở. Đến Blogger, Phong Điệp đã sử các mạch truyện khác nhau. Sự đan xen
các mạch truyện, lúc thì chuyện của Phong, lúc lại chuyện của Hạ, lúc lại chuyện
truyện của Nó và Bé con làm cho các câu chuyện không liền mạch tạo cảm giác
99
thời gian của câu chuyện bị kéo căng. Không chỉ là sự đan xen các mạch truyện,
có khi thời gian dường như ngừng trôi, nhân vật đắm chìm vào những giấc mơ.
Có lúc, Phong Điệp đóng khung thời gian trong sự hình dung của Hạ về Quân khi
hai người tạm biệt nhau để tô đậm, và làm nổi bật sự chán nản mệt mỏi trong lối
sống đô thị: “Quân uể oải ngồi lên xe, miệng mở rộng, cuống họng bật ra đám
hơi đã bắt đầu vón cục lại do cơn buồn ngủ gây nên. Hai bên khóe mắt Quân lập
tức xô vào nhau, rỉ ra một chút nước sau cơn ngáp đầy hưng phấn vừa rồi. Hình
ảnh ấy liên tục lặp lại – đều đặn vào mỗi tối thứ Bảy – và nó rõ ràng đến độ cô
có thể chia nhịp cho từng động tác, rồi đếm 1-2-3. Cái ngáp sẽ kéo dài từng mười
lăm giây, với cái nốt ruồi bên má Quân bị kéo xệch đi trong chốc lát. Kết thúc
cơn ngáp sẽ là một tiếng rít khè khè cất lên từ đáy họng.” [18, tr. 53]. Đến tiểu
thuyết Ga kí ức, các mạch truyện ngưng đọng ở một khoảnh khắc và xen vào
khoảnh khắc đó là những câu chuyện lùi vào quá khứ trước đó nên góp phần kéo
dãn thời gian, gây cảm giác như thời gian ngừng trôi. Trước tiên, Phong Điệp kể
chuyện của cô, một bác sĩ chuyên chữa bệnh hoang tưởng và sống ở thành phố.
Câu chuyện được mở đầu bằng sự việc cô trở về xóm Chùa Cuối để tìm lại những
dấu vết của làng xưa, thời gian cô trở về xóm Chùa Cuối chỉ tính bằng những
khoảnh khắc ngắn ngủi và được gói gọn trong 2 trang, thế nhưng trong khoảnh
khắc ngắn ngủi đó tất cả kí ức lại ùa về. Đó là xóm Chùa Cuối tiêu điều, xơ xác.
Khi mùa lũ tràn về, dăm ba nóc nhà nơi đây đều bị nhấn chìm trong biển nước
mênh mông, tội nghiệp như cánh bèo dập dềnh trong ao ngày nhiều gió. Ký ức ấy
là giấc mơ cá theo con lũ bơi vào nhà rỉa đứt ngón chân khiến chị em cô chẳng
thể ngủ yên. Ở đó, đứa bé nghèo chẳng có nổi một mái nhà trọn vẹn. Bố cô cứ thế
bỏ đi mà chẳng để lại cho bầy con thơ một lời chào hay vài dòng thư từ biệt. Ba
mẹ con tằn tiện sống qua ngày bằng cơm độn. Trong khi mẹ cô phải tần tảo kiếm
từng đồng từ cái máy dệt đã han rỉ thì bao người trong xóm Chùa Cuối đã kịp đổi
đời. Ký ức của cô về xóm Chùa Cuối được nhà văn dành đến 64 trang để tái hiện.
Câu chuyện hiện tại của cô có khoảng trống, tạm dừng để cô chìm đắm vào quá
100
khứ.Thời gian bị kéo căng đến độ trương phình, giãn nở khiến cho chúng ta có
cảm giác thời gian ngừng trôi, ngưng đọng.
Không chỉ có nhân vật bác sĩ tâm lý, Phong Điệp còn kể về y, một nhân vật
bị hoang tưởng, là bệnh nhân của cô, chỉ bằng một sự việc trong hiện tại khi y
trốn khỏi bệnh viện tâm thần, sau đó câu chuyện của y ở hiện thực tạm dừng, thay
vào đó là dòng hồi tưởng của cô bác sĩ về việc y nhập viện, việc y xuất hiện liên
tục trong giấc mơ của cô hay là lời kể của nhà văn về quá khứ của y. Cũng như
chuyện của cô bác sĩ, sự việc xảy ra trong hiện thực chỉ được nhà văn dành một
vài trang gọn, còn phần lớn các trang viết là dòng hồi tưởng về quá khứ của nhân
vật. Đến chuyện của Phùng, tuy không dành nhiều trang viết về quá khứ của nhân
vật này nhưng Phong Điệp còn chèn điểm nhìn tâm lý của cô bác sĩ vào câu
chuyện của Phùng để làm gián đoạn thời gian sự kiện từ đó càng làm tăng thêm
sự ngưng trệ của thời gian. Việc cố tình kéo căng một khoảng thời gian nào là
nhằm để tô đậm những ấn tượng trong quá khứ từ đó có tác dụng nhấn mạnh một
giai đoạn nào đó trong cuộc đời nhân vật để thể hiện những vấn đề tư tưởng của
tác phẩm. Với cô bác sĩ tâm lí, nhân vật y và Phùng, Phong Điệp như muốn khẳng
định thời gian hiện tại nơi đô thị của cả ba nhân vật đều là tạm bợ, không dấu ấn,
thời gian quá khứ ở những vùng quê dù đau khổ, dù đói nghèo nhưng đều là những
thời gian vô cùng ám ảnh, dù muốn chạy trốn nhưng chưa bao giờ thời gian quá
khứ, những sự việc trong quá khứ thôi day dứt, thôi thúc giục nhân vật trở về. Chỉ
khi nào sự day dứt về quá khứ không còn, các nhân vật tìm ra câu trả lời thỏa
đáng, hay đối diện với quá khứ với sự tĩnh tâm thì cuộc sống nơi đô thị của các
nhân vật mới thực sự bình yên.
Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù
quan trọng nhất của thi pháp học, bởi vì nó thể hiện thực chất sáng tạo của người
nghệ sĩ. Nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể kể nhanh hay chậm,
có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế
hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian thể hiện ý thức sáng tạo chủ động, tự do, chủ quan
của nghệ thuật” [36]. Có thể nói chính cách xử lí thời gian kể truyện của Phong
101
Điệp đã đem lại một sự đổi mới cấu trúc nghệ thuật tiểu thuyết, khác hẳn cách kể
trong các tiểu thuyết cổ điển viết về đô thị. Đô thị được phản ánh dường như
không như cái ta cảm thấy mà là do cái ta nghĩ ra theo dòng tâm tư của người kể
“cái thấy là” thành “cái như là” (G.Genette). Cách xử lí thời gian của hành vi kể
chuyện trở thành mối quan tâm hàng đầu của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại viết
về đô thị. Vì vậy trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết chuyển từ xây dựng nhân
vật sang cách xử lí thời gian. Bằng những trải nghiệm, suy tư, triết lý trong cảm
nhận về thời gian, người kể chuyện đã làm sai lệch dòng chảy tự nhiên của thời
gian câu chuyện khiến cho thời gian tự sự đạt đến độ năng động tuyệt vời và tạo
hiệu quả rõ rệt trong việc miêu tả đời sống tinh thần cư dân đô thị.
3.3.2.2 Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian
Đô thị là nơi cư dân luôn đối diện với áp lực ghê gớm của sự mưu sinh, với
những toan tính, thủ đoạn thấp hèn để tranh giành miếng ăn, những đau đớn mất
mát của đời sống tình cảm hay sự chông chênh với quá khứ, dằn vặn với quê
hương. Những mệt mỏi, mất mát, đau khổ khiến cho cư dân đô thị nhiều khi mất
đi ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Ở Lạc chốn thị thành, Phong Điệp nhận
ra sự quay cuồng với cơm áo cũng khiến cho nhân vật của mình mất đi ý thức về
sự diễn tiến của thời gian. Kiều ra trường, thất nghiệp, cô phải làm đủ việc để
sống. Trọ cùng với Phúc, cô bạn người Thái Nguyên, nhận được sự chăm sóc,
động viên ân cần nhưng điệp khúc suốt ngày chạy việc ngoài đường, tối về đến
phòng trọ là mệt lử, ăn uống qua loa để ngày mai lại tiếp tục “chinh chiến”, khiến
cho Kiều quên mất xung quanh, quên mất sự diễn tiến của thời gian. Trọ cùng
Phúc cả bốn, năm tháng mà Kiều không nhận ra những thay đổi lớn lao của Phúc
từ ngoại hình đến tình cảm. Chỉ đến khi Phúc suýt chết vì tự phá thai Kiều mới ân
hận nhận ra mọi sự thay đổi bấy lâu nay. Chính sự hối hả, bon chen, sự mệt mỏi,
đau khổ nơi Thành thị đã làm Kiều không còn ý thức về thời gian, về mọi việc
xung quanh.
102
Ánh mắt và tư duy sắc sảo của một nhà báo, trái tim đa cảm của một người
phụ nữ viết văn đã giúp Phong Điệp hiểu được những điệp khúc đơn điệu, tẻ nhạt,
buồn chán và những khổ đau của cuộc sống đô thị lặp đi, lặp lại cũng làm cho ta
mất đi ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Ở Blogger, nhiều nhân vật của chị rơi
vào tình trạng mơ hồ. Trước tiên là Nó, “Nó thường xuyên gặp lại những TRẠNG
THÁI SỐNG đã từng xảy ra.”. “ Nó thường xuyên gặp lại một giấc mơ mà nó đã
gặp từ rất lâu trước đó. Hay những tình huống, những câu chuyện mà khi Bé con
vừa bắt đầu thì nó biết ngay từng chi tiết diễn biến sau đó”. Điều này khiến Nó bị
rối loạn về cảm giác và TRẠNG THÁI SỐNG hiện thời. Nó đang sống lại một
ngày X. tháng Y. của một năm nào đó, chứ không phải một ngày giờ cụ thể
này.”[18, tr. 58]. Nó không cảm nhận được sự thay đổi của thời gian hay cảnh
vật, sự lặp lại của những điều quen thuộc khiến Nó thấy “ngạc nhiên và hoảng
loạn”. Nó nhận ra sự mất ý thức về thời gian phải chăng chính là “một dạng tự
lặp và nhàm chán với chính cuộc sống của mình”. Không chỉ có Nó, Bé con mà
cả Phong, Hạ trong Blogger cũng đều có những giây phút mất đi ý thức về sự vận
động thực của thời gian đang diễn ra. Với cuộc sống thực, Phong có phần khép
kín, cô độc và bế tắc. Thế giới mà cô luôn hiện hữu là thế giới không thực, thời
gian ảo mờ. Cô đôi khi lạc lõng trong các mối quan hệ, xa lạ với thế giới thực,
phân vân giữa thực và ảo. Còn Hạ, cô luôn tìm cách thu mình ở cơ quan để xa
lánh ánh mắt cú vọ của lão sếp, chuỗi ngày làm việc ở cơ quan là thời gian tra tấn
hệ thống thần kinh non nớt khiến cô lâm vào tình trạng sợ hãi, khủng hoảng tâm
lí. Mối quan hệ nhạt nhẽo với Quân khiến cô từ lâu không còn ý thức về ngày thứ
bảy. Ngày thứ bảy, cô chỉ có một mình với sự cô đơn, làm những việc vô vị, đợi
thời gian trôi đi vô nghĩa. Chẳng hi vọng, không chờ đợi, thời gian trôi qua cuộc
sống của Hạ thật nhạt nhẽo và vô hồn. Cô không còn ý thức về nó, thậm chí lãng
quên nó, hay nó chỉ là những cột mốc ghi dấu sự đau khổ của cô mà thôi. Sự mất
ý thức về thời gian ở Hạ là một biểu hiện rõ rệt cho cuộc sống chán nản và bế tắc
nơi đô thị.
103
Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian không chỉ diễn ra khi nhân vật của
Phong Điệp trong tình trạng chán nản, mệt mỏi, khổ đau, bế tắc mà còn diễn ra
khi nhân vật chông chênh giữa thực và ảo, giữa quá khứ và hiện tại. Cả cô bác sĩ
tâm lí và y trong Ga kí ức đều rơi vào trạng thái mất ý thức về thời gian, mỗi sự
kiện ở hiện tại đều gợi nhớ cho cô, cho y về quá khứ, và chìm vào ảo mộng của
mỗi người. Thời gian hiện tại của cả cô và y đều mờ nhạt, gãy khúc và luôn rơi
vào các khoảng lặng. Cả cô và y luôn chìm vào hoài niệm hay suy tưởng với hàng
loạt câu hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra? Y đang ở đâu? Thành phố mà y vẫn sống đâu?
Ngày hôm qua của y đâu rồi? Chỗ trú ẩn của y đâu rồi? Thực ra y có tồn tại
không? ”[22, tr. 87]. Hay “Tại sao bố bỏ ba mẹ con cô mà đi?”; “Cô là ai? Là ai
đây?”. Ý thức về cuộc sống hiện tại, về thời gian hiện tại với cô và y chỉ như
những đốm sáng chợt lóe lên rồi lại tắt vụt để lại cho cả hai nhân vật chìm vào
khoảng mênh mông của hoài niệm và vô thức. Phùng là nhân vật có lẽ tỉnh táo
nhất trong các nhân vật ở Ga kí ức. Với Phùng quá khứ chỉ là quá khứ, hiện tại
và tương lai mới đáng quan tâm. Cuộc sống với Phùng là những kế hoạch, những
dự định tốt đẹp cho tương lai. Anh bận đến nỗi chẳng có thời gian chăm sóc mẹ
và làm việc cả khi ngủ. Những tưởng Phùng sống lí trí và chai sạn cảm xúc, đến
khi gặp cô bác sĩ tâm lí, người đã làm cho mẹ Phùng hạnh phúc, Phùng đã mềm
lòng. Phùng đã yêu cô và khi cô biến mất Phùng rơi vào trạng thái thẫn thờ đến
lẩn thẩn: “Phùng đi quanh nhà đến chục lần, mà không biết, không nhớ mình cần
phải làm gì. Giữa cuộc họp với đối tác, Phùng bỗng quên sạch những gì cần trao
đổi.” [22, tr. 250]. Lúc này, Phùng không đủ tỉnh táo để nhận biết thời gian thực.
Phùng đang chìm đắm vào sự suy tưởng, toàn bộ tâm trí của Phùng dành cho cô.
Cô đang ở đâu, Phùng nhớ cô, lo cho cô, yêu cô và cần cô quay lại với mẹ con
Phùng. Phùng sẽ tìm cô dù cô ở phương trời nào.
Có thể nói, nhân vật của Phong Điệp đều có những giây phút nhớ nhớ, quên
quên, hay mơ hồ ở thời điểm thực tại. Sự mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian
vừa thể hiện sự mệt mỏi, bế tắc trong cuộc sống đô thị nhưng mặt khác Phong
Điệp lại muốn thể hiện đời sống tình cảm giàu yêu thương của cư dân đô thị, sự
104
mơ hồ về thời gian, sống với đời sống tinh thần mà quên đi thực tại cũng là cách
tiếp thêm sức mạnh, lấy lại sự thăng bằng để sống tiếp. Đằng sau mỗi cư dân đô
thị, dù xù xì gai góc, dù chai sạn khô héo đều cần yêu thương và sẻ chia.
TIỂU KẾT
Cảm quan đô thị sắc sảo của một cây bút trẻ nữ đã chi phối mạnh mẽ đến
phương thức nghệ thuật trong tiểu thuyết của Phong Điệp. Để tiểu thuyết của mình
phản ánh hơi thở của cuộc sống đô thị đương đại Phong Điệp đã sử dụng ngôn ngữ
thông tục suồng sã vỉa hè khá đa dạng. Từ lời ăn tiếng nói hàng ngày đến những
tiếng lóng, tiếng đệm mang một hàm ý mới. Sống và viết trong thời đại của
Internet, Phong Điệp đã đưa ngôn ngữ chat, blog một cách tiết chế có liều lượng
nên tạo được hiệu quả thẩm mỹ tích cực.
Bên cạnh ngôn ngữ, Phong Điệp đã kết hợp sáng tạo và linh hoạt ngôi kể và
điểm nhìn để bức tranh về cuộc sống và con người đô thị hiện lên vừa chân thực,
khách quan vừa sống động, đa chiều. Với trái tim nhân hậu và đa cảm của một
phụ nữ viết văn, Phong Điệp không khỏi lo lắng trước một không gian thành thị
đầy bất trắc, thành thị không chỉ có cám dỗ vật chất, bao hiểm nguy rình rập, mà
đó còn là không gian ngột ngạt, tù túng khiến con người héo úa, lụi tàn. Đôi khi,
sự thất bại, bế tắc ở cuộc sống thực, con người đã phải tìm đến không gian đô thị
ảo như một sự phủ nhận trốn tránh, hay là một lối thoát. Trong tiểu thuyết của
Phong Điệp, bên cạnh thời gian tuyến tính nhà văn sử dụng nhiều thời gian tâm
trạng. Vì vậy, trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết chuyển từ xây dựng nhân vật
sang cách xử lí thời gian. Bằng những trải nghiệm, suy tư, triết lý trong cảm nhận
về thời gian, Phong Điệp đã làm sai lệch dòng chảy tự nhiên của thời gian câu
105
chuyện khiến cho thời gian tự sự đạt đến độ năng động tuyệt vời và tạo hiệu quả
rõ rệt trong việc miêu tả đời sống tinh thần cư dân đô thị.
Sự mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian vừa thể hiện sự mệt mỏi, bế tắc
trong cuộc sống đô thị nhưng mặt khác Phong Điệp lại muốn thể hiện đời sống
tình cảm giàu yêu thương của cư dân đô thị, sự mơ hồ về thời gian, sống với đời
sống tinh thần mà quên đi thực tại cũng là cách tiếp thêm sức mạnh, lấy lại sự
thăng bằng để sống tiếp. Đằng sau mỗi cư dân đô thị, dù xù xì gai góc, dù chai
sạn khô héo đều cần yêu thương và sẻ chia.
PHẦN KẾT LUẬN
Văn học lấy đô thị làm để tài sáng tác như một dòng chảy bền bỉ và liên
tục. Dòng chảy này bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của đô thị. Trong sự
biến thiên của lịch sử và sự thăng trầm của các đô thị, dòng chảy ấy có lúc sôi nổi,
mãnh liệt có lúc lặng lẽ, âm thầm lan tỏa. Tuy chưa phải là dòng chính và riêng
biệt nhưng chưa khi nào bộ phận văn học này lại vắng bóng trong bức tranh văn
học Việt Nam. Trong những năm gần đây, khi đô thị ở Việt Nam có sự phát triển
mạnh mẽ thì cuộc sống và con người đô thị đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của
các nhà văn. Bằng cảm quan riêng của một nhà văn nữ đến với đô thị từ không
gian ngoại vi, Phong Điệp đã thể hiện những khám phá riêng về bức tranh đô thị
qua các tiểu thuyết Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức. Quan nghiên cứu
“Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp”, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
1. Bức tranh đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp là bức tranh đời sống
với bao suy tư và bộn bề lo lắng. Phong Điệp chú ý đến quá trình đô thị hóa ở
những không gian ngoại vi như một hệ quả tất yếu của sự phát triển đô thị. Là
người trong cuộc, nhà văn thấu hiểu quá trình ấy tuy đem đến cho đô thị vẻ hào
nhoáng bên ngoài nhưng lại xáo trộn tận gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước
của những vùng ven đô. Đó là một sự lột xác đầy đau đớn và mất mát. Trong tiểu
thuyết của mình Phong Điệp đã thể hiện cái nhìn đa chiều về đời sống đô thị và
106
phát hiện những xung đột về văn hóa, về quan niệm đạo đức do tác động của quá
trình đô thị hóa đem lại.
2. Trong cảm quan đô thị của Phong Điệp, con người hiện lên khá đa dạng.
Đó là những người trẻ từ tỉnh lẻ đến đô thị, vật vã trong cuộc mưu sinh và lập
nghiệp. Hay những con người rời xa quê hương hối hả với vòng quay cơm áo nơi
đô thị nhưng trong sâu thẳm trái tim luôn đau đáu hình ảnh thân thuộc với khát
vọng trở về. Phong Điệp bày tỏ sự cảm thông đến những người trẻ vì lối sống thực
dụng với những ham muốn vật chất đã đánh mất mình, đồng thời, bầy tỏ sự ghê
tởm sự tha hóa về đạo đức và lối sống của những kẻ có tiền, có quyền, biến người
phụ nữ trở thành con mồi trong cuộc săn đuổi nhằm thỏa mãn ham muốn bệnh
hoạn. Đời sống muôn mặt của đô thị với bao lo toan vất vả mưu sinh, với bao bon
chen, vụ lợi của đủ hạng người đã đi vào trang văn của Phong Điệp một cách tự
nhiên, chân thực. Dù có lạc lối, có cô đơn, bế tắc, trả giá thì cuối cùng ta vẫn thấy
hi vọng, tin tưởng vào tình người, tình đời và tương lai.
3. Cảm quan đô thị với ý thức mô tả toàn diện và sâu sắc cuộc sống thành
thị bộn bề, ngổn ngang với bao lo toan, vất vả đã chi phối mạnh mẽ đến phương
thức thể hiện tác phẩm. Phong Điệp đã sử dụng ngôn ngữ mang đặc trưng của
tầng lớp thị dân và giới trẻ. Đó là lớp từ ngữ thông tục suồng sã, vỉa hè. Ngôn ngữ
mạng được đưa vào không chỉ tạo màu sắc riêng cho tiểu thuyết Phong Điệp mà
còn làm cho văn chương của chị gần gũi với giới trẻ và mang hơi thở của cuộc
sống đô thị. Bên cạnh ngôn ngữ, Phong Điệp đã kết hợp sáng tạo và linh hoạt ngôi
kể và điểm nhìn để bức tranh về cuộc sống và con người đô thị hiện lên vừa chân
thực, khách quan vừa sống động, đa chiều. Với trái tim nhân hậu và đa cảm của
một phụ nữ viết văn, Phong Điệp không khỏi lo lắng trước một không gian thành
thị đầy bất trắc, Thành thị không chỉ có cám dỗ vật chất, bao hiểm nguy rình rập,
mà đó còn là không gian ngột ngạt, tù túng khiến con người héo úa, lụi tàn. Đôi
khi, sự thất bại, bế tắc ở cuộc sống thực, con người đã phải tìm đến không gian
đô thị ảo như một sự phủ nhận trốn tránh, hay là một lối thoát. Ở không gian ấy,
107
thời gian đôi lúc dồn nén, ngừng trôi khiến con người mất đi ý thực với thực tại,
chông chênh giữa đôi bờ ảo, thực.
4. Tuy nhiên vì quá chú trọng đến việc cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
nhất là trong Blogger, Phong Điệp đã hơi lạm dụng thủ pháp nghệ thuật nên đôi
lúc, đôi chỗ chị dùng những thủ pháp nghệ thuật chưa hợp lí gây khó khăn cho sự
tiếp nhận của độc giả.
Qua ba tiểu thuyết Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức Phong Điệp đã
thể hiện được sự gắn bó, trăn trở, âu lo đầy trách nhiệm với cuộc sống và con
người đô thị. Với sự gắn bó đầy trăn trở ấy, chúng ta tin tưởng rằng trong tương
lai Phong Điệp sẽ còn nhiều tác phẩm thành công viết về mảng đề tài này góp
phần làm phong phú cho thành tựu của văn xuôi Việt Nam đương đại, tạo động
lực cho văn học đô thị sẽ trở thành dòng riêng và thành nhịp mạnh trong bức tranh
chung của nền văn học Việt Nam đương đại.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên An, Phong Điệp – một sức viết đáng nể, một cách viết đã đi
vào độ thành thục, http://tranchieuqn.vnweblogs.com/a190496/phong-
diep-mot-suc-viet-dang-ne-mot-cach-viet-da-vao-do-thanh-thuc.html
2. Thụy Anh, Phong Điệp, một phong cách sáng tác hiện đại,
http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/tac-pham-va-du-
luan/453-phong-ip-mt-phong-cach-sang-tac-hin-i.html
3. M.Bakhtin, Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ
nghĩa hiện thực, Tạp chí văn học số 4 - 1999
4. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi ( 1998), Từ điển văn học, Tập
1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Miên Di, Blogger - một ngòi bút lạnh, phongdiep.net.
6. Di Li (2010), “Phỏng vấn nhà văn Phong Điệp”, Người Hà Nội, số 32,
07/8/2010.
7. H.Dung, Blogger - những lát cắt cuộc sống, http:\\nld.com.vn
8. Đoàn Ánh Dương, Vấn đề đô thị trong văn chương Việt Nam hiện
đại,http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/van-de-do-thi-
trong-van-chuong-viet-nam-hien-dai-9915.html
9. Đoàn Ánh Dương, Phong Điệp và truyện ngắn viết về đô thị,
http://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/phong-diep-
va-truyen-ngan-viet-ve-do-thi-412812
10. Hoàng Đạt (2009), Dấu ấn Phong Điệp, phongdiep.net
11. Phong Điệp (1996), Khi ta hai mươi, NXB Trẻ
12. Phong Điệp ( 1997), Ma mèo, NXB Trẻ
13. Phong Điệp ( 2000), Người phía bên kia đường, NXB Trẻ
14. Phong Điệp ( 2001), Phòng trọ, NXB Thanh niên
15. Phong Điệp ( 2005), Vườn hoang, NXB Thanh niên
109
16. Phong Điệp (2005), Lạc chốn thị thành, Nxb Trẻ; Hội Nhà văn Tp. Hồ
Chí Minh; Báo Tuổi trẻ.
17. Phong Điệp ( 2008), Kẻ dự phần, NXB Hội Nhà văn
18. Phong Điệp (2009), Blogger, Nxb Hội nhà văn.
19. Phong Điệp ( 2012), Nhật kí nhân viên văn phòng, NXB Trẻ
20. Phong Điệp ( 2012), Bay trên mái nhà thành phố, NXB Văn học
21. Phong Điệp( 2012), Tôi luôn có cảm giác bấp bênh và âu lo về đời sống
đôthị, http://vannghequandoi.com.vn/Trao-doi/Nha-van-Phong-Diep-
Toi-luon-co-cam-giac-bap-benh-va-au-lo-ve-doi-song-do-thi.
22. Phong Điệp (2015), Ga kí ức, Nxb Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh
23. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, H.
24. Hương Giang, Blogger - dấu ấn mới của Phong Điệp,
http:\\Anninhthudo.vn
25. Văn Giá, Văn học đô thị - có hay chưa?,
http://vietvan.vn/vi/bvct/id149/Van-hoc-do-thi---co-hay-chua/
26. Ngân Hà, Văn học đô thị - mảnh đất bỏ hoang, http://www.thotre.com
27. Trần Thị Hà ( 2011), Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam,
Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội.
28. Lê Bá Hán… (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( Đồng chủ biên) (2004),
Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Đỗ Đức Hiểu ( 2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
31. Lê Anh Hoài (2009), Blogger - cuốn tiểu thuyết đòi hỏi một cách đọc
khác, phongdiep.net
32. Vương Quốc Hùng, Phong Điệp - nóng và hot,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c179/n3606/Phong-Diep-nong-
va-hot.html
110
33. Nguyễn Thị Hương (2014), Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
34. Hoàng Đăng Khoa, Phong Điệp mỗi tác phẩm một bữa tiệc,
http://nhavantphcm.vn/chan-dung-phong-van/phong-diep-moi-tac-
pham-mot-bua-tiec.html#
35. Trần Đăng Khoa (2001), Đôi nét về Phong Điệp và tập truyện Phòng
trọ, NXB Thanh niên
36. Đặng Thị Lan (2013), Những tìm tòi nghệ thuật trong truyện ngắn và
tiểu thuyết Phong Điệp, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Vinh.
37. Phạm Hồng Lan ( 2002), “ Không gian đô thị trong tiểu thuyết hiện thực
Vũ Trọng Phụng ”, Tạp chí Giáo dục.
38. Trinh Duy Luân ( 2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
39. Phương Lựu – Nguyễn Trọng Nghĩa, La Khắc Hòa – Lê Lưu Oanh (
2008), Lí luận văn học, Tập 1, Nxb ĐHSP Hà Nội.
40. Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên, Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
“Blogger” và “Ga kí ức” của Phong Điệp, http://vanvn.net/tim-toi-the-
nghiem/khong-gian-nghe-thuat-trong-tieu-thuyet-“blogger”-va-“ga-
ky-uc”-cua-phong-diep
41. Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên, Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết “
Blogger’’ và “Ga kí ức” của Phong Điệp, Luận văn thạc sĩ, Trường đại
học Khoa học Huế
42. Lê Thiếu Nhơn (2011), Cảm hứng đô thị và sự đắn đo thân phận,
vnca.cand.com.vn
43. Hoàng Thị Oai ( 2014), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Blogger của
Phong Điệp, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2
111
44. Thụy Oanh, “Ga ký ức”: nơi gặp gỡ của quá khứ đầy ám ảnh,
http://news.zing.vn/ga-ky-uc-noi-gap-go-cua-qua-khu-day-am-anh-
post673477.html
45. Hoàng Phê (Chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
46. Nguyễn Văn Phương (2012), Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
47. Lệ Quyên, Văn học đô thị hôm nay, http://vanviet.info/nghien-cuu-
phe-binh/van-hoc-d-thi-viet-nam/
48. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập (2 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Trần Đình Sử (1998). Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo Dục
50. Đoàn Minh Tâm, Vài cảm nhận về tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp,
http://phongdiep.net
51. Dương Tử Thành(2012), Nhà văn Phong Điệp: Khám phá những tầng
sâu của đời sống, http: //www.nxbcand.vn/
52. Bùi Việt Thắng ( 2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội, Hà Nội
53. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ, Nxb Lao động, 1992.
54. Nguyễn Thị Phương Thúy, Văn học đô thị; khái niệm và đặc điểm,
http://www.vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/2790-2016-04-23-08-
01-44.html
55. Phương Thúy, Gặp gỡ ở sân ga kí ức cùng Phong Điệp, http://vov.vn/van-hoa/van-hoc/gap-go-o-san-ga-ki-uc-cung-phong- diep-hoi-tuong-thoi-bao-cap-446174.vov
56. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị,
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Truyen-ngan-
duong-dai-ve-de-tai-do-thi-1265.html
112
57. Nguyễn Xuân Thủy, Phong Điệp cất những cơn mơ trong ngăn tủ,
http://anninhthudo.vn/blog-nghe-si/nhung-con-mo-cat-trong-ngan-
tu/469582.antd
58. Bình Nguyên Trang, Phong Điệp: Bay trong thế giới của riêng mình,
http://thvl.vn/?p=97240
59. Nguyễn Quỳnh Trang, Nhà văn Phong Điệp: hãy tránh xa đám đông ồn
ào, http://www.tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/2924-
nha-van-phong-diep-hay-tranh-xa-cac-dam-dong-on-ao.html
60. Bùi Công Thuấn, Tiểu thuyết Blogger và những cách tân nghệ
thuật,http:\\phongdiep.net
61. Nguyễn Thị Tuyết ( 2015), “ Cảm quan và cảm quan nghệ thuật”,
http:// tapchisonghuong.com.vn
62. Hoàng Quảng Uyên, Phong Điệp, người trẻ văn già,
http://www.tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/452-phong-
ip-ngi-tr-vn-gia.html
63. Lê Thị Y Vân, Những đặc sắc trong kết cấu tiểu thuyết Blogger của
Phong Điệp, Bài tham dự Hội nghị Sinh viên nghiên cứu khoa học,
Khoa Ngữ văn – Đại học Vinh, năm học 2010 - 2011