i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

NGUYỄN THÁI DŨNG

CẢM QUAN ĐÔ THỊ

TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017

ii

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

NGUYỄN THÁI DŨNG

CẢM QUAN ĐÔ THỊ

TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hải Ninh

Thái Nguyên – 2017

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kì công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Dũng

iv

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,

Khoa sau đại học, Khoa Văn - X ã h ộ i , T rường Đại học Khoa học - Đại học

Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá

trình học tập. đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và

nghiên cứu.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Hải Ninh

- người đã tận tình hướng dẫn, tin tưởng và giúp đỡ trong suốt quá trình tác giả

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,

khích lệ để tác giả hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Dũng

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii

MỤC LỤC .............................................................................................................. i

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2

2.1. Những đánh giá về văn học đô thị trong văn học Việt Nam đương đại . 2

2.2. Những đánh giá về tác phẩm của Phong Điệp ........................................ 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................ 8

4. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 9

4.1. Phương pháp hệ thống. ............................................................................ 9

4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu. ............................................................. 9

4.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp. ......................................................... 9

4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội. ................................................................. 9

4.5. Phương pháp thống kê - khảo sát. ........................................................... 9

4.6. Phương pháp thi pháp học ..................................................................... 10

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................. 10

5.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 10

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 10

6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 10

7. Đóng góp của luận văn. ............................................................................... 11

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CẢM QUAN ĐÔ THỊ

TRONG TIỂU THUYẾT PHONG ĐIỆP ........................................................... 12

1.1. Giới thuyết về cảm quan đô thị trong văn học ......................................... 12

1.1.1. Văn học đô thị .................................................................................... 12

1.1.2. Cảm quan đô thị ................................................................................. 14

vi

1.2. Sơ lược về cảm quan đô thị trong văn học Việt Nam............................... 17

1.2.1. Giai đoạn trước thế kỷ XX ................................................................. 17

1.2.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến 1945 ...................................................... 19

1.2.3. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ............................................................... 25

1.2.4. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay ................... 26

1.3. Sự hình thành cảm quan đô thị trong sáng tác Phong Điệp ...................... 29

TIỂU KẾT ........................................................................................................ 33

CHƯƠNG 2: CẢM QUAN VỀ ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG

TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP ................................................................ 35

2.1. Cảm quan về đời sống đô thị .................................................................... 35

2.1.1. Quá trình đô thị hóa và góc nhìn đô thị .............................................. 35

2.1.2. Những xung đột giá trị văn hóa, đạo đức trong đời sống đô thị ........ 40

2.2. Cảm quan về con người đô thị .................................................................. 47

2.2.1. Con người trong cuộc mưu sinh và lập nghiệp .................................. 47

2.2.2. Con người với ký ức về quá khứ và quê nhà ..................................... 54

2.2.3. Con người tha hóa. ............................................................................. 57

TIỂU KẾT ........................................................................................................ 60

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM

QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP ...................... 62

3.1. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................... 62

3.1.1. Ngôn ngữ mang màu sắc thị dân đời thường ..................................... 62

3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu và tốc độ. ................................................... 67

3.2. Ngôi kể và điểm nhìn ................................................................................ 71

3.2.1 Ngôi kể ................................................................................................ 71

3.2.2. Điểm nhìn ........................................................................................... 74

3.2.2.1. Điểm nhìn bên trong .................................................................... 75

3.2.2.2. Sự di động điểm nhìn ................................................................... 78

3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật ......................................................... 84

vii

3. 3.1 Không gian nghệ thuật. ...................................................................... 84

3.3.1.1. Không gian thành thị đầy bất trắc. ............................................... 85

3.3.1.2. Không gian đô thị ảo. ................................................................... 92

3.3.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 93

3.3.2.1. Độ căng và sức nén của thời gian ................................................ 97

3.3.2.2 Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian ..................................... 101

TIỂU KẾT ...................................................................................................... 104

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 108

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cuộc xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp năm 1858 đã làm thay đổi rõ

rệt mọi mặt của xã hội Việt Nam và tác động lớn tới đời sống văn hóa cũng như

văn học Việt Nam. Tuy chưa hình thành một dòng văn học đô thị nhưng ngay từ

nửa đầu thế kỷ XX, cảm quan đô thị đã xuất hiện khá nhiều trong văn học đặc biệt

là văn học giai đoạn 1930-1945. Các nhà văn như Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng,

Nguyên Hồng, Nam Cao…, những người sống trong bầu khí của quá trình đô thị

hóa thời kỳ này đã bộc lộ những cảm xúc, thái độ và cái nhìn riêng về đời sống

đô thị qua hàng loạt các tiểu thuyết, truyện ngắn tiêu biểu của mình.

Phong Điệp thuộc thế hệ nhà văn sinh ra sau chiến tranh, trưởng thành trong

thời kì hội nhập mạnh mẽ. Tác giả này được đông đảo độc giả biết đến qua truyện

ngắn Ma mèo, truyện ngắn được giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn

trên báo Văn nghệ Trẻ 1996 – 1997, khi chị vẫn còn là sinh viên đại học. Sau này,

tên tuổi của chị đã có một vị trí vững chắc trong lòng độc giả qua hàng loạt các

tiểu thuyết như Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức, Vực gió và các tập truyện

ngắn tiêu biểu như Khi ta hai mươi, Ma mèo, Người phía bên kia đường, Phòng

trọ, Vườn hoang, Kẻ dự phần..., tản văn Bay trên mái nhà thành phố...

Sinh ra ở thành Nam, học tập, sinh sống và làm việc ở Hà Nội, tuy nhận

mình là dân “ngụ cư” nơi Hà thành nhưng Phong Điệp luôn nặng trĩu suy tư về

đô thị nơi chị đang sống. Có thể nói rằng, Phong Điệp viết nhiều truyện ngắn và

tiểu thuyết về đề tài đô thị. Qua các tác phẩm của mình, Phong Điệp đã có những

kiến giải riêng về đời sống đô thị theo cách nhìn của một nhà văn nữ sắc sảo và

tinh tế

Trong thời gian qua, các tác phẩm của Phong Điệp đã được đông đảo các

nhà văn, giới phê bình, nghiên cứu và bạn đọc nhiệt thành đón nhận. Đã có những

cuộc hội thảo, bài viết, luận văn nghiên cứu về cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật tự

2

sự của tiểu thuyết Phong Điệp. Nhiều bài báo đã đề cập vấn đề đô thị trong tiểu

huyết của Phong Điệp, song chưa có công trình nghiên cứu nào lấy cảm quan đô

thị làm đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Luận văn lựa chọn “Cảm

quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp” làm đề tài nghiên cứu nhằm tìm

hiểu và lý giải những nét mới và riêng khác trong cảm quan đô thị của một cây

bút đáng chú ý hiện nay, góp phần nhận diện sự đa dạng, phong phú của bức tranh

văn học Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những đánh giá về văn học đô thị trong văn học Việt Nam đương đại

Có thể nói, trong những năm gần đây, văn học đô thị thu hút được sự quan

tâm của đông đảo các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình, học viên, sinh viên

và cả bạn đọc. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều luận văn thạc sĩ, đã lấy văn học đô thị

làm đối tượng nghiên cứu. Trong cuộc tọa đàm “Văn học đô thị hôm nay” do tạp

chí Người đô thị tổ chức, nhà báo Trần Trung Chính cho rằng: “Trong các thuộc

tính của văn học đô thị đã được nêu: cuộc sống người viết, khung cảnh và con

người thị dân, tính hiện đại (cũng là tính đô thị) có thể là các cơ sở để nhận biết

một tác phẩm văn học đô thị. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp cụ thể nào,

một tác phẩm cụ thể nào cũng hội đủ các yếu tố đó. Có thể nói rằng văn học đô

thị Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành, như hình hài các đô thị Việt

Nam.” [47].

Cũng trong tọa đàm về văn học đô thị này, Đỗ Lai Thúy cho rằng “tiểu

thuyết đô thị Việt Nam còn ít về đề tài đô thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được

nhìn bằng sự hoài niệm nông thôn. Bởi vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện

ở phương diện thể loại”[47].

Đại diện cho các nhà văn trẻ tham gia buổi tọa đàm, Hà Thủy Nguyên chia

sẻ: “Thế hệ những người được sinh ra ở đô thị (8x, 9x) thì sự ám ảnh về đô thị

hóa như là sự thoái hóa về nhân cách con người không phải vấn đề lớn. Đề tài

mà họ quan tâm là viết về bản thân mình, những chiêm nghiệm, suy nghĩ, suy

3

tưởng bản thân. Họ chui vào đó (bản thân) và câu chuyện văn chương của họ,

viết về chính thế giới ấy”[47]. Chị tin tưởng: “khi chúng ta hoàn toàn ở trong đô

thị rồi, chúng ta thấm nhuần tính đô thị, họ sẽ viết về những điều khác”.

Là người luôn bám sát mảng văn xuôi Việt Nam đương đại, Đỗ Hải Ninh

nhấn mạnh đến cảm thức về đô thị: “Trong văn học đương đại đã có những tác

giả thành công khi viết về đô thị, thể hiện được nét đặc sắc cuộc sống và con

người đô thị như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh

Lam, Trần Nhã Thụy, Phong Điệp,... Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu khuất

của con người và đời sống đô thị: nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống đơn điệu,

thiếu vắng. Cuộc sống đô thị vừa là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh

công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ẩn chứa những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và

nỗi mặc cảm…”[47].

Với cái nhìn khá lạc quan về văn học đô thị, Nguyễn Mạnh Tiến cũng có

nhận xét: “nếu như văn học đô thị ở phương Tây là một dòng phát triển lớn, có

nhiều thành tựu đáng kể thì văn học đô thị ở Việt Nam, dù là một vấn đề thú vị,

vẫn chưa phải là dòng chủ lưu. Đó là, đô thị Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thực

sự là đô thị theo đúng nghĩa của nó. Đô thị Việt Nam là sự chắp vá, chỉ là “cái

siêu làng” trương nở ra mà thôi. Vì thế, người sống ở đô thị Việt Nam, trong đó

có cả các nhà văn, vẫn mang nặng tâm tính, nếp nghĩ, nếp cảm của nông dân, cho

dù họ có tuyên bố là đã “đô thị hóa” hoàn toàn. Chính bởi thế, văn học đô thị dù

hình thành nhưng không phát triển mạnh mẽ và chưa được giới nghiên cứu đi sâu

tìm hiểu. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của các đô thị, sự mở rộng các đô thị

xâm lấn vùng nông thôn, có thể nhìn thấy trước văn học đô thị sẽ là một chủ đề

nổi trội.”[47].

Cũng có những kiến giải riêng về văn học đô thị, Mai Anh Tuấn khẳng định

“sự vắng mặt hoặc bị lép vế khá lâu của tầng lớp trung lưu đô thị và tư sản nội

địa trong xã hội miền Bắc từ sau 1945 khiến cho văn học giai đoạn này ít đề cập

đến đô thị. Phải từ Đổi mới, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị

4

Hoài thì đô thị mới tái xuất với tư cách là nơi chốn của các yếu tố thị trường và

nhân cách, đạo đức mới/khác có khả năng phá vỡ các giá trị mặc định và đối

kháng với nông thôn. Muộn hơn, trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà và gần đây

là của các nhà văn trẻ, đô thị được nhìn ở khía cạnh lịch sử, thế tục của nó, nơi

cần đến thái độ chấp nhận hơn là chối từ, dù về cơ bản, nó luôn khía vào nỗi cô

đơn, lạc lõng, sự phân rã của con người. Cảm thức đô thị đương đại, vì thế, đòi

hỏi những nỗ lực làm mới bút pháp và thể loại để vừa lòng độc giả ngày một sành

sỏi”[47].

Dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng các ý kiến đều khẳng định văn học

đô thị Việt Nam tuy chưa phát triển mạnh mẽ và chưa được quan tâm nghiên cứu

đúng mức nhưng mảng văn học này đã có những đóng góp không nhỏ đối với văn

học Việt Nam và trong tương lai sẽ là một mảng đề tài nổi trội.

2.2. Những đánh giá về tác phẩm của Phong Điệp

Nhà văn Phong Điệp thành công khá sớm và có sức viết khá bền bỉ, các tập

truyện ngắn và sau này là tiểu thuyết của chị liên tục xuất hiện với tần suất khá

dày và đều, một số tập truyện ngắn đã được giải thưởng cao trong các cuộc thi.

Đọc truyện ngắn của Phong Điệp ta có thể nhận thấy “cái hay trước hết là ở nội

dung câu chuyện, thấm đẫm sự cảm thông, chia sẻ, bao dung và độ lượng với từng

số phận, hoàn cảnh (khốn khổ, khốn nạn, nhếch nhác) của các nhân vật Chị chưa

hề lên án những nhân vật mà ở những cây bút khác rất dễ "xây dựng" thành "kẻ

xấu", để đối lập với người tốt mà nhiều khi còn "bênh"họ, "bào chữa" cho họ với

những luận lý không có trong sách luật nhưng lại tìm thấy trong trái tim nhân

hậu” [62]. Nói về nghệ thuật trong văn xuôi của nhà văn Phong Điệp, nhà văn

Hoàng Quảng Uyên nhận xét: “truyện của Phong Điệp hầu như không có cốt

truyện (lớp trẻ bây giờ hay viết thế, văn học hiện đại, hậu hiện đại hay viết thế?)

- Truyện chỉ là những mảnh ghép số phận và hoàn cảnh bằng một chất keo dính

chặt bởi bàn tay khéo léo, xâu chuỗi bởi sợi chỉ đỏ. Những mảnh ghép tưởng bình

thường, không có gì, đôi khi còn "vớ vẩn" nữa bỗng trở nên có vấn đề, có tư tưởng.

5

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói (đại ý): “Văn người ta (ý nói văn nước

ngoài) toàn viết những truyện nhỏ nhặt, "vớ vẩn" mà ra cái to lớn, mà có tư tưởng

. Văn ta viết toàn những vấn đề, đề tài lớn mà lại thành ra "vụn vặt", "vớ vẩn"”

Đúng vậy,năng lực quan trọng nhất của nhà văn là ở chỗ nhìn ra được những cái

to lớn, vĩ đại trong những cái (tưởng như) nhỏ bé, tầm thường. "Anh hùng đoán

giữa trần ai mới tài". Đọc truyện ngắn Phong Điệp tôi như hiểu thêm ra những

điều này.” [62]

Trong bài viết Đôi nét về Phong Điệp và tập truyện Phòng trọ nhà thơ

Trần Đăng Khoa nhận xét: “Thông thường khi viết truyện ngắn, các nhà văn

thường “thủ” sẵn một vấn đề nào đó làm thông điệp gửi đến độc giả. Rồi từ vấn

đề đó mà tạo dựng truyện và các nhân vật. Cốt truyện dựng sao cho hấp dẫn và

các nhân vật cũng phải thật sinh động. Có khi chỉ một vài câu đối thoại ngắn gọn

là lột tả được hết tính cách và tâm địa của nhân vật. Phong Điệp dường như không

quan tâm lắm đến những thao tác quen thuộc ấy của nghề văn. Chị viết tự nhiên.

Mỗi truyện là một khoảnh khắc, một mảnh đời. Khoảnh khắc không có gì đặc biệt

và mảnh đời cũng rất bình dị, lại được kể bằng một giọng nhỏ nhẹ, dửng dưng,

dửng dưng đến lạnh lùng. Dường như truyện nào của chị cũng là những nét chấm

phá bàng bạc, cốt để gợi chứ không tả, cũng không nói hết, nghĩa là không đi đến

tận cùng của mọi vấn đề. Đây có lẽ là một ý thức, một dụng công của tác giả”[35].

Trong bài viết Phong Điệp – một sức viết đáng nể, một cách viết đã đi vào độ

thành thục, tác giả Nguyên An đánh giá: “Phong Điệp với các trang viết của

mình, với sự có mặt trên diễn đàn sáng tác đương đại đã là một hiện tượng mà

khi ta nghiên cứu, phân tích, bình luận thì không chỉ có ích cho Phong Điệp mà

còn có ích cho rất nhiều người sáng tác khác, bất kể họ mới cầm bút hay đã in ấn

một số tác phẩm rồi”.[1]

Sau thành công của tập truyện ngắn Ma mèo và hàng loạt tập truyện ngắn

khác, Phong Điệp đã thử sức với loại hình tiểu thuyết bằng tác phẩm Lạc chốn

thị thành. Khi cuốn sách ra đời nhà văn Nguyễn Đông Thức đã đánh giá: “Cả

6

một thực trạng giới trẻ vất vả chen chân vào đời ở các thành phố lớn hiện ra khá

đầy đủ trong Lạc chốn thị thành. Đẹp nhất trong truyện là một tình bạn thủy

chung, thứ tình cảm quý hiếm hiện nay. Một tình bạn dựa vào đó, người ta dẫu có

đi lạc vẫn có thể quay về. Đọc và thấy lòng nhẹ hẳn đi với thứ tình bạn thuần khiết

ấy, sau bao nhiêu bạo liệt của cuộc sống đã được tác giả thỏa tay."[16]. Ông

khẳng định cuốn Lạc chốn thị thành: “hoàn toàn có thể thể xây dựng thành một

bộ phim dài nhiều tập dành cho giới trẻ”[16]. Tuy nhiên, nói theo nhà văn Đông

Thức thì Phong Điệp viết có phần hơi vội vì là một nhà báo trẻ ở thủ đô, Phong

Điệp có quá đủ tư liệu và vốn sống để có thể viết sâu và hay hơn nữa với đề tài và

cốt truyện này.

Từ Lạc chốn thị thành đến Blogger đã đánh dấu một thay đổi lớn trong

văn phong của tác giả Phong Điệp. Nhiều đánh giá, nhận xét về những đổi mới

trong cuốn tiểu thuyết Blogger đã được đưa ra. Đoàn Minh Tâm trong bài viết

Vài cảm nhận về tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp đã nhận định: “thoạt nhìn

vào nhan đề tiểu thuyết, không ít người lầm tưởng Blogger sẽ chỉ đề cập thuần

túy đến cuộc sống của những cư dân mạng. Nhưng Blogger không chỉ giới hạn ở

đề tài đang là một trong những đề tài “hot” thu hút sự quan tâm của nhiều người

mà còn mở rộng biên độ sang chuyện thân phận, cuộc đời của người phụ nữ, sang

chuyện gia đình… Nói một cách chính xác, blog và cuộc sống của cư dân mạng

là điểm tựa cho Phong Điệp mô tả và lí giải về cuộc sống hiện tại của những

người phụ nữ trẻ tuổi… Có một thế giới phụ nữ trong Blogger. Họ đa dạng về

tuổi đời: bà già, trẻ em, phụ nữ, trung niên, thanh niên, phong phú về xuất thân:

nông dân, trí thức, doanh nhân, nhà văn, nhân viên văn phòng, lao công, thợ gội

đầu”[50]. Về ngôn ngữ của tác phẩm, Đoàn Minh Tâm cũng nhận xét: “Ngôn ngữ

“mạng” trong Blogger thu hút sự chú ý của tôi vì đây là một trong những thành

tố quyết định sự thành công của tác phẩm. Ngôn ngữ mạng muôn hình vạn trạng

ngoài đời thường được Phong Điệp dụng công trau chuốt, chọn lựa để đưa vào

tác phẩm. Đó là thứ ngôn ngữ “mạng” vừa có tính khách quan, nhiều màu sắc cá

7

nhân vừa giảm đi hỗn tạp, xô bồ và có phần “tục tĩu” vốn có của đời

thường.”[50]. Bài Blogger - những lát cắt cuộc sống đăng trên báo Người lao

động của tác giả H.Dung viết: “Mỗi lát cắt trong Blogger là entry trong blog. Mỗi

entry là mỗi thước phim sống động đến nghẹt thở. Ở đây là cuộc sống nham nhở

chốn thị thành, một cuộc sống vụ lợi với những góc u mê bị bóc trần ra những gì

hiện thực nhất có thể.”[7].

Là người theo dõi sát quá trình sáng tác của Phong Điệp từ những năm 1996

-1997, tự nhận là khắt khe khi để tập truyện ngắn Ma mèo chỉ đạt giải nhì (không

có giải nhất) nhà văn Bảo Ninh luôn hi vọng vào hành trình mai sau của Phong

Điệp. Sự ra đời của tiểu thuyết Ga kí ức năm 2015 đã hiện thực hóa sự kì vọng

đó. Trong bài viết Sống động và ám ảnh thay cho lời tựa cho cuốn Ga kí ức, nhà

văn Bảo Ninh đã đánh giá: “Ga kí ức là bức tranh sống động và ám ảnh thể hiện

được sâu sắc những chuyển biến của thời cuộc từ bao cấp sang kinh tế thị trường.

Song, không chỉ hay ở nội dung và văn phong, Ga kí ức còn độc đáo mới lạ trong

cấu trúc. Ba chứ không phải một câu chuyện trong cùng một tiểu thuyết mà mạch

truyện vẫn xuyên suốt và mạch lạc. Ba nhân vật, ba số phận riêng rẽ nhưng không

biệt lập, tương phản nhưng lại soi rọi nhau, và nhờ vào sự liên tưởng của độc giả

mà ba nhân vật ấy có thể gặp gỡ nhau ở sân ga kí ức.” [22]. Cùng quan điểm với

Bảo Ninh, nhà văn Lê Phương Liên cho rằng, Phong Điệp đã lựa chọn cách thể

hiện hoàn toàn đổi mới và tiểu thuyết Ga kí ức được đánh giá là tác phẩm vượt

trội cả bút pháp và câu chuyện: “Cũng là sự hồi tưởng kí ức nhưng tác giả viết

theo lối tương đối nhanh, đưa ra 3 nhân vật khác nhau, 3 tuyến đi khác nhau và

cuối cùng hội tụ lại ở một điểm "sân ga kí ức". Nó không bày sẵn sàng trên câu

chữ hay ở cái kết mà nó đòi hỏi người đọc phải nhận ra được những điều mới,

những điều cần phải suy ngẫm" [55]. Trân trọng cách nhìn và đánh giá cao cách

khai thác, thể hiện của nhà văn Phong Điệp, nhà phê bình Nguyễn Hòa cho rằng:

“Đọc tới trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, có thể xác định thời gian tuyến

tính của một chuyện kể, nhưng sẽ khó kể lại một cách rành mạch, vì từ đầu tới

8

cuối, Phong Điệp kể - tả khá tỉ mỉ, cụ thể nhưng hiệu quả của những gì được kể -

tả lại sự ám ảnh ở “Phía sau con chữ” chứ không hiển hiện như các sự kiện, chi

tiết để từ đó hình thành một cốt truyện. Dấu hiệu của lối viết này từng manh nha

xuất hiện trong hai tiểu thuyết "Lạc chốn thị thành" và "Blogger", nhưng đến

"Ga ký ức" thì Phong Điệp tỏ ra thuần thục, nên có thể nói chị đã có một bước

tiến khá dài. Và nếu coi ba cuốn tiểu thuyết có mối liên hệ nhất định thì dường

như với "Ga ký ức", Phong Điệp đã tìm ra đáp án cho các câu hỏi: Tại sao người

ta lại “lạc chốn thị thành”? Tại sao người ta lại sống với thế giới ảo để trở thành

một “blogger”?”[32]. Bên cạnh một số bài phê bình giới thiệu, khóa luận tốt

nghiệp một số luận văn thạc sĩ đã chọn tác phẩm của chị làm đề tài nghiên cứu

như: Những tìm tòi nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Phong Điệp

của Đặng Thị Lan và Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết “Blogger’’ và “Ga

kí ức” của Phong Điệp của Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên.

Qua phần lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của Phong Điệp đã

được quan tâm chú ý và dành cho những đánh giá cao về ý thức nghệ thuật, những

nỗ lực cách tân trong lối viết của nhà văn. Tuy nhiên, chưa có nhiều những nghiên

cứu đánh giá về cảm quan đô thị trong tác phẩm của nhà văn. Có chăng chỉ là

những ý kiến riêng lẻ được đưa ra trong các bài viết, trong các bài giới thiệu. Vì

vậy, việc tìm hiểu cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp là

một việc làm cần thiết để thấy rõ hơn những giá trị cả về mặt nội dung và nghệ

thuật, cũng như những đóng góp của nhà văn trong bức tranh tổng thể văn học

Việt Nam đương đại.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Luận văn tập trung tìm hiểu cảm quan về đô thị trong các tiểu thuyết Phong

Điệp

Trong luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát ba cuốn tiểu thuyết: Lạc

chốn thị thành, Blogger và Ga kí ức. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo và một

9

số truyện ngắn, tản văn của Phong Điệp, cũng như một số tiểu thuyết viết về đô

thị đương đại.

4. Phương pháp nghiên cứu.

Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số

phương pháp sau:

4.1. Phương pháp hệ thống.

Đây là một phương pháp quan trọng giúp người thực hiện luận văn xâu

chuỗi được các hiện tượng văn học đơn lẻ, đặt chúng trong mối quan hệ biện

chứng để từ đó nhận diện được cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp.

4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.

Để làm nổi bật những đặc sắc và sự độc đáo trong cảm quan đô thị của

Phong Điệp, chúng tôi đã đối chiếu, so sánh với những tác giả khác có tác phẩm

viết về đề tài đô thị. Với phương pháp này, chúng tôi có thể thấy được những điểm

khá tương đồng và những điểm riêng trong cảm quan đô thị của Phong Điệp.

4.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp.

Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này

giúp chúng tôi có thể đi sâu khám phá từng khía cạnh của vấn đề rồi từ đó tổng

hợp, khái quát làm rõ đặc điểm cảm quan đô thị của Phong Điệp.

4.4. Phương pháp lịch sử - xã hội.

Trong luận văn, chúng tôi sự dụng phương pháp này để tìm hiểu sự phát

triển đô thị trong văn học của mỗi thời kỳ đồng thời nhận ra sự kế thừa và nét

riêng trong cảm quan đô thị của Phong Điệp.

4.5. Phương pháp thống kê - khảo sát.

Để làm rõ cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Phong Điệp, chúng tôi đã tiến

hành thống kê, khảo sát những biểu hiện cụ thể trên phương diện nội dung và nghệ

10

thuật của các tiểu thuyết nhằm nhận diện cảm quan riêng của Phong Điệp về đô

thị.

4.6. Phương pháp thi pháp học

Trong luận văn chúng tôi sử dụng phương pháp thi pháp học qua việc phân

tích hình thức nghệ thuật của tác phẩm để làm rõ cảm quan đô thị trong tiểu thuyết

của Phong Điệp.

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

5.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài sẽ nhận diện và làm nổi bật cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của

Phong Điệp trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

Thể hiện rõ nét riêng khác trong cảm quan đô thị và những đóng góp của

Phong Điệp với thể loại tiểu thuyết trong bộ phận văn học đô thị nói riêng và trong

bức tranh văn học Việt Nam đương đại nói chung.

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung đi sâu tìm hiểu:

- Cảm quan đô thị chi phối việc lựa chọn nội dung và phương thức nghệ

thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp.

- Thế giới quan và thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống đô thị.

- Những phương thức nghệ thuật thể hiện cảm quan đô thị của Phong Điệp

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, nội dung chính được cấu trúc thành ba chương chính.

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của cảm quan đô thị trong tiểu thuyết

Phong Điệp.

11

Chương 2: Cảm quan về đời sống và con người đô thị trong tiểu thuyết

của Phong Điệp.

Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật thể hiện cảm quan đô thị trong

tiểu thuyết của Phong Điệp.

7. Đóng góp của luận văn.

Với đề tài “Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp”, luận văn

là công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về cách quan niệm, thái độ, cái nhìn

của nhà văn về xã hội, con người và lối sống đô thị.

Khẳng định một hướng tiếp cận có hiệu quả về chiều sâu tư tưởng, quan

niệm và tài năng qua nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. Góp phần

nghiên cứu những nét mới trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn đương đại, qua

tiểu thuyết của một cây bút đáng chú ý. Qua đó, góp phần tìm hiểu, đánh giá những

đóng góp của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

12

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT PHONG ĐIỆP

1.1. Giới thuyết về cảm quan đô thị trong văn học

1.1.1. Văn học đô thị

“Văn học đô thị” (hay văn học thành thị) là một cụm từ khá quen thuộc

trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học sử. “Văn học đô thị” được hiểu là

văn học phản ánh cuộc sống ở các đô thị từ mọi góc độ. Nhưng có hay không một

khái niệm “văn học đô thị” với đối tượng nghiên cứu thống nhất và phương pháp

sáng tác đặc thù? Có phải mọi sáng tác ra đời ở đô thị, trong bối cảnh văn hoá đô

thị và viết về đô thị đều được gọi là văn học đô thị hay không? Là những câu hỏi

không dễ có lời giải đáp. Ở Việt Nam, cụm từ “văn học đô thị” cũng đã từng tồn

tại với tư cách định danh cho một bộ phận văn học trong một thời kỳ nhất định.

Khi nói về “văn học đô thị”, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng đã viết: “Văn

học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính

phủ Sài Gòn tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam

trước đây”[26]. Tuy nhiên, đây là cách gọi một thời của các nhà phê bình miền

Bắc dành cho văn học ở thành thị miền Nam. Cách định danh này mang nhiều nội

dung chính trị hơn là văn học. Nếu như văn học viết về nông thôn phổ biến và

được khẳng định bằng tên gọi hẳn hoi thì văn học viết về đô thị có vẻ vẫn còn

chưa được định danh và thừa nhận. Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn băn

khoăn liệu đã bao giờ tồn tại một dòng văn học đô thị theo đúng nghĩa của từ này

ở Việt Nam chưa. Nhà nghiên cứu Văn Giá khẳng định: “Bây giờ đặt vấn đề ở ta

đã có văn học đô thị hay chưa, tôi xin trả lời rằng vẫn chưa có văn học đô thị của

hôm nay, rằng văn học vẫn đang chuyển động cùng sự chuyển động của đô thị

13

(…) Vả lại, đất nước chúng ta có nhiều nghìn năm lịch sử là nông thôn, nông

nghiệp, nông dân - cái gen trội trong tâm hồn máu huyết người Việt, nên viết về

nông thôn thấy thuận tay hơn. Nó có tâm thức văn hoá xóm làng nâng sức, chắp

cánh. Chứ viết về đô thị đâu có được cái đà đi, sức bút như thế. Tập làm người

đô thị cho ra người đô thị chân chính đã khó, huống chi là viết cho đô thị và về

đô thị.”[25].

Tuy còn nhiều ý kiến trái chiều nhau về khái niệm văn học đô thị nhưng

các nhà nghiên cứu đều dễ nhận thấy sự ra đời của các thành thị và văn hoá thị

dân vào giai đoạn hậu kỳ trung đại, kéo theo sự ra đời của dòng văn học thị dân

đối lập với văn học cung đình vốn được xem là chính thống. Như vậy, khái niệm

văn học đô thị ở đây là sự đối lập với văn học cung đình khuôn phép, lý trí và đầy

đạo đức. Nó hướng vào những cảm xúc riêng tư, những nhu cầu trần thế, và khát

vọng khẳng định cái tôi cá nhân trong một xã hội coi trọng tập thể. Đô thị giải

phóng cho văn học khỏi cái rọ đạo đức, mang đến cho văn học đặc tính giải trí,

cũng là một trong những đặc tính chung của nghệ thuật muôn đời.

Không chỉ đối lập với văn học cung đình, nếu đem so sánh với văn học

nông thôn thì ta cũng sẽ nhân thấy những đặc trưng cơ bản của bộ phận văn học

này: “Văn học đô thị đối lập với văn học nông thôn được xác định dựa trên căn

cứ định nghĩa đô thị và nông thôn về mặt xã hội học. Đô thị và nông thôn phân

biệt với nhau dựa trên các hoạt động sống của xã hội như công nghiệp, nông

nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, dịch vụ… hoặc dựa

trên các thiết chế chủ yếu của xã hội như thiết chế kinh tế, văn hoá, giáo dục,

chính trị, gia đình… hoặc theo các nhóm, các giai tầng xã hội. Về mặt xã hội, đó

là sự khác biệt trong lối sống, giao tiếp, ứng xử gia đình, mật độ dân số, vai trò

của thiên nhiên trong đời sống. Xét theo nghĩa này, văn học đô thị được định

nghĩa từ đối tượng phản ánh của nó, tức là đời sống đô thị trên tất cả các mặt

kinh tế, chính trị, văn hoá, với những xô bồ, chật chội, phiền muộn, trống rỗng và

cả những niềm vui ngắn ngủi. Nó phản ánh lối sống và cách tư duy của con người

14

đô thị trong sự đối lập với cách nghĩ, cách cảm của người nông thôn...Văn học đô

thị và văn học nông thôn không chỉ đối lập nhau trên nền tảng kinh tế, chính trị,

xã hội mà còn đối lập trong tư duy sáng tạo. Nếu văn học nông thôn sử dụng

phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực, dùng nhãn quan hiện thực để

phản ánh và tái hiện đời sống, thì văn học đô thị có khuynh hướng tư duy của chủ

nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Do đó, văn học nông thôn thể hiện rõ ràng lập

trường quan điểm của nhà văn, có thể là quan điểm dân chủ, dân tộc, hoặc giai

cấp. Văn học nông thôn luôn có một đối tượng để tấn công: sự trì trệ bảo thủ của

nông thôn hoặc sự lạnh lùng vô tình của tiến trình đô thị hoá, sự lỗi thời của chế

độ cũ hoặc sự xâm lược của thực dân. Văn học đô thị không chống lại nông thôn,

nó bao gồm hết tất cả những sáng tạo dành cho mọi lớp người trong đô thị.”[54].

Nói như PGS.TS Đỗ Lai Thúy trong cuộc tọa đàm “Văn học đô thị hôm

nay” do tạp chí Người đô thị tổ chức thì: “trải gần một thế kỷ, tiểu thuyết đô thị

Việt Nam nói riêng và văn học đô thị Việt Nam nói chung phát triển qua từng giai

đoạn khác nhau và đặt ra những vấn đề khác nhau. Nhưng, tựu trung, nó chưa

phải là một nhịp mạnh của văn học Việt Nam.”[47]. Tuy nhiên, những đóng góp

của bộ phận văn học này đối với nền văn học Việt Nam thì không ai có thể phủ

nhận. Chắc hẳn trong một tương lai không xa, cùng với sự phát triển của các đô

thị, văn học đô thị sẽ có bước phát mới. Công chúng có quyền chờ đợi vào sự ra

đời của các tác phẩm lớn, có giá trị của bộ phận văn học này.

1.1.2. Cảm quan đô thị

Về phương diện ngôn ngữ học, nhiều nhà nghiên cứu thông thạo Hán học

như Phương Lựu, Trần Đình Sử, Phạm Tú Châu cho biết trong ngôn ngữ Trung

Quốc không có từ “Cảm quan”, nhưng từ ấy lại không xa lạ với tiếng Việt, và nội

hàm của nó biến đổi nghĩa cùng với thời gian. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng

Phê viết rất ngắn gọn, “Cảm quan: (1) cơ quan cảm giác; giác quan. (2) Nhận thức

trực tiếp bằng cảm quan [45, tr.106]. Như vậy, về mặt từ ngữ, cảm quan là một từ

15

Hán Việt chỉ những cảm nhận, cái nhìn của nhà văn mang tính phát hiện, cho thấy

sự nhạy cảm trong nắm bắt vấn đề đời sống trên cơ sở quan sát và trải nghiệm.

Trong tiếng Anh, từ tương đương với từ “cảm quan” là “feeling”. Theo

Bách khoa toàn thư Britannica ( Encyclopedia Britannica): “Feeling: trong tâm

lí học là sự thu nhận các sự kiện bên trong cơ thể, liên quan gần gũi đến cảm xúc.

Thuật ngữ ấy (Feeling) nhanh chóng mang nghĩa, khái quát hơn, là thu nhận qua

những giác quan chẳng quy chiếu vào bất cứ giác quan đặc biệt nào...”

Gần với “cảm quan” là khái niệm “cảm thức”. Theo Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê), “Cảm thức: ( điều ) nhận thức được bằng cảm quan, nhận thức cảm

giác”[45, tr.107]. Tuy nhiên, ranh giới của hai khái niệm này không rõ ràng: cảm

quan nghiêng nhiều hơn về những trải nghiệm của người nghệ sĩ trước hiện thực

cuộc sống; cảm thức nghiêng nhiều hơn về chiều sâu nhận thức của người nghệ

sĩ. “Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, từ “cảm quan” cũng đã được

dùng khá phổ biến theo nghĩa tương tự, đó là loại nhận thức đặc biệt, nhận thức

không phải bằng suy lý, lôgic, bằng khái niệm mà bằng cảm giác, cảm tính hiểu

theo nghĩa rất rộng, có tính trực cảm, trực giác, được phát tiết từ vô thức. Như

Phạm Vĩnh Cư chuyển ngữ cụm từ tiếng Pháp “sens esthétique” thành “cảm quan

thẩm mỹ” trong bài nghiên cứu dài về biểu tượng của Jean Chevalier mở đầu

công trình đồ sộ Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới; Nguyễn Thị Lệ Hà cách đây

hai mươi năm bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Cảm quan tương ứng

trong Những bông hoa ác của Baudelaire” (1995); Phan Thị Thu Hiền viết bài

“Cảm quan Phật giáo trong thế giới nghệ thuật của Cánh đồng bất tận”; Nhà

văn Chu Lai có bài “Viết bằng cảm quan người lính”; “Nguyễn Du và Thăng

Long xem xét từ cảm quan thẩm mỹ” là bài nghiên cứu của Nguyễn Huệ Chi v.v.”

[61]

Từ phương diện nghệ thuật, “Cảm quan” như một thuật ngữ mỹ học được

hình thành trên các cơ sở ngôn ngữ học, triết học và tâm lý học trên đây. Trong Từ

điển các thuật ngữ văn học (The Routledge Dictionary of Literary Terms),

16

“Feeling được hiểu là bằng cách nào một tác phẩm nghệ thuật (văn học) được

tạo ra và nó ảnh hưởng đến người đọc như thế nào, bằng cách nào”. Nghệ thuật

là lĩnh vực hoạt động sáng tạo trong đó cảm quan hữu cơ đóng vai kiểm soát mạnh,

hay nói cách khác, mỗi tác phẩm nghệ thuật như một kiểu biểu tượng hóa ý tưởng

về cảm quan...Nếu trong cuộc sống thường nhật, cảm quan in dấu ấn cá nhân trong

cách nhìn nhận, cách nhận thức sự vật, hiện tượng thì trong nghệ thuật, cảm quan

như là thuộc tính đặc trưng của hình ảnh nội dung được ẩn giấu (và vén mở) trong

ẩn dụ, biểu tượng, huyền thoại.

Như vậy, cảm quan được hiểu là hệ thống những cảm xúc, cảm nhận, nhận

định của cá nhân trước thế giới xung quanh. Nó bộc lộ thế giới quan riêng của cá

nhân và cảm thức riêng của mỗi người.

Trước hiện thực cuộc sống, mỗi người có một cảm quan riêng. Nhưng xét

riêng trong văn chương nghệ thuật thì cảm quan được hiểu là cảm quan của người

nghệ sĩ. Với nghệ sĩ cảm quan càng tinh tế, bén nhạy càng khiến cho tác phẩm có

giá trị lớn.

Cảm quan của cá nhân người nghệ sĩ có sự hòa hợp với cảm quan thời đại.

Tìm hiểu cảm quan của nhà văn sẽ giúp người đọc hình dung được những nền

tảng tư tưởng sâu xa chi phối đến quá trình sáng tác và những nhận định, đánh giá

về hiện thực, con người mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.

Đô thị hiện đại Việt Nam bắt đầu được hình thành và mở rộng từ đầu thế

kỷ XX khi thực dân Pháp tiến hành mạnh mẽ quá trình khai thác thuộc địa. Với

đa số cư dân Việt quen với không gian sinh tồn là dòng sông, mảnh ruộng, khu

vườn, cây đa giếng nước thì đô thị hiện đại là không gian khá lạ lẫm. Có người

nhìn nhận đô thị là nơi phồn hoa đô hội với sự hào nhoáng của phố phường tấp

nập, đông vui. Nhưng dưới góc nhìn khác, đô thị lại hiện ra với sự xô bồ, chen

lấn, ganh đua ngột ngạt. Đô thị vừa là nơi năng động, đầy ắp những cơ hội, những

mơ ước đổi đời, những khát vọng làm giàu, thành danh nhưng cũng chứa đầy cạm

bẫy, những mưu toan thủ đoạn hèn hạ, khiến người ta sợ hãi trốn chạy. Như vậy,

17

“cảm quan đô thị ” được hiểu như một cách tiếp nhận trực tiếp về đô thị, là cách

người nghệ sĩ quan sát, thể hiện cảm xúc, cảm nhận, quan niệm của mình về cuộc

sống đô thị. Từ đó đô thị gắn liền với lối sống, tâm trạng của cá nhân người nghệ

sĩ. Qua văn học đô thị đã tạo nên trường thẩm mỹ riêng, khuynh hướng thẩm mỹ

riêng của người nghệ sĩ. Nó tạo nên nhân sinh quan của người nghệ sĩ. Theo chúng

tôi cảm quan đô thị thực chất là cái nhìn, là thái độ, cách đánh giá và ý thức về

con người thị dân, về hiện thực xã hội trong môi trường đô thị. Cảm quan đô thị

có vai trò quan trọng trong hệ thống các cảm quan của văn học. Bởi lẽ, khi xã hội

có sự chuyển biến từ làng lên phố thì cuộc sống con người có nhiều thay đổi. Văn

chương luôn phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của người

nghệ sĩ. Vì thế để cảm nhận môi trường đô thị cũng cần có cảm quan riêng: Cảm

quan đô thị. Chỉ có cảm quan ấy mới phản ánh được chân thực, sâu sắc bức tranh

đô thị Việt Nam.

Có thể thấy rằng, văn học đô thị và cảm quan đô thị là hai vấn đề khác nhau

nhưng lại có quan hệ chặt chẽ. Nếu văn học đô thị lựa chọn phạm vi hiện thực là

đô thị để phản ánh, thì cảm quan đô thị là cái nhìn, thái độ đánh giá của nhà văn.

Cùng một phạm vi hiện thực, cùng một đối tượng nhưng mỗi nhà văn lại có cái

nhìn và sự đánh giá khác nhau. Chính điều này tạo ra đặc điểm và phong cách

riêng cho từng nhà văn và tạo ra sự đa dạng cho bức tranh văn học đô thị nói riêng

và bức tranh văn học Việt Nam nói chung.

1.2. Sơ lược về cảm quan đô thị trong văn học Việt Nam

1.2.1. Giai đoạn trước thế kỷ XX

Do văn hóa Việt Nam là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, cư dân ưa sự

tĩnh tại, ổn định, gắn bó với sản xuất nông nghiệp trồng lúa nên sự thay đổi ồn ào

của đô thị không phải là mối quan tâm hàng đầu. Vậy nên trong văn chương không

gian lí tưởng là không gian điền viên, đề tài lí tưởng cũng không phải là đề tài

thành thị và tầng lớp thị dân. Tuy không phải là cảm quan chủ đạo của văn học

trung đại nhưng ta có thể nhận thấy bóng dáng đô thị được thể hiện khá sớm trong

18

bài thơ Đề Báo Thiên tháp của Phạm Sư Mạnh ( Khoảng 1300-1360) khi ông ca

ngợi kinh thành Thăng Long với niềm tự hào mãnh liệt. Đến Nguyễn Du hình ảnh

đô thành Thăng Long được phản ánh gián tiếp qua số phận đáng thương của một

kỹ nữ Hà Thành tài năng nhưng bị người đời coi thường khinh miệt. Lê Hữu trác

đã ghi lại cảnh đô thị sầm uất trong Thượng kinh kí sự với đình, đài, miếu mạo

nguy nga nơi cung vua phủ chúa không phải để ca ngợi chốn ăn chơi xa hoa, mà

để bộc lộ thái độ phê phán thói hưởng lạc của giới quyền quý là nguyên nhân gây

ra bao đau khổ cho dân lành.

Cùng có nỗi niềm hoài cổ trước sự biến thiên của cuộc đời, nhưng nếu Bà

Huyện Thanh Quan trong Thăng Long thành hoài cổ nối tiếc đến đớn đau những

cảnh hoa lệ, phồn thịnh của phố xá với những con đường tấp nập ngựa xe, với lâu

đài nguy nga, tráng lệ bị phá hủy điêu tàn bởi binh lửa cuộc đời thì Tú Xương-

nhà thơ gắn bó máu thịt với thành Nam, trước sự đổi thay của phố phường Nam

Định:

“Trời kia xui khiến nên sông bãi

Ai khéo xoay ra phố nửa làng.”

( Sông lấp)

Không gian làng quê đã thay đổi dẫn đến sự thay đổi cả con người lẫn lối

sống. Lối sống dân quê nặng tình cảm, lễ nghi, khuôn phép không còn, sự bát

nháo mang nặng hơi hám đồng tiền của đời sống đô thị đã len lỏi vào từng gia

đình khiến Tú Xương ngao ngán thốt lên:

“ Có đất nào như đất tớ không

Phố phường tiếp giáp với bờ sông.

Nhà kia lỗi phép con khinh bố

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng...”

( Đất Vị Hoàng)

Bằng cảm quan nhạy bén, Tú Xương đã sớm nhận ra những bát nháo trong

19

đời sống đô thị trong buổi đầu của sự giao thời văn hóa và kinh tế Âu - Á. Với

giọng điệu giễu nhại, trào lộng đầy chua xót, Tú Xương không giấu giếm sự chán

ngán cuộc sống nhố nhăng nơi thành Nam.

Như vậy, có thể khẳng định, tuy không phải là cảm quan chủ đạo nhưng đô

thị và cảm quan đô thị manh nha xuất hiện trong nền văn học giai đoạn này sẽ là

tiền đề quan trọng để đô thị trở thành đề tài quen thuộc trong các sáng tác của các

nhà thơ, nhà văn giai đoạn sau này.

1.2.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến 1945

Đầu thế kỷ XX, sự ra đời và phát triển mạnh của các đô thị nhằm phục vụ

cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã có tác động

lớn đến đời sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần của đa số dân chúng đặc biệt

là bộ phận dân chúng sống ở các thành thị. Chữ quốc ngữ ra đời thay cho chữ Hán

và chữ Nôm. Nền văn học cùng đội ngũ sáng tác dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của

văn học Trung Hoa và hội nhập với nền văn học phương tây mà cụ thể là nền văn

học nước Pháp. Nghề báo in xuất bản ra đời và phát triển khiến cho đời sống văn

hóa trở nên sôi nổi. Tất cả những điều kiện xã hội thời điểm này thuận lợi cho đời

sống văn học đô thị của tầng lớp thị dân ra đời và phát triển.

Người được coi là tác giả mở đầu cho văn học thị dân giai đoạn này chính

là Trần Chánh Chiếu. Qua tác phẩm Hoàng Tố Oanh hàm oan, các bài báo và

các truyện ngắn khác, người đọc dễ dàng nhận ra tác phẩm của ông tuy còn ảnh

hưởng về hình thức theo kết cấu chương hồi của tiểu thuyết Trung Quốc nhưng

nội dung đã mang hơi thở của thời đại. Qua các tác phẩm của mình, Trần Chánh

Chiếu đã hé mở phần nào cái hiện thực phồn tạp của cuộc sống đô thị đang thay

đổi.

Phạm Duy Tốn lại mang đến cho người người đọc cái nhìn về góc khuất,

mặt tối của cuộc sống đô thị. Đọc tác phẩm Nước đời lắm nỗi, ta thấy rõ một bộ

phận thanh niên Việt Nam ở các đô thị bị chính quyền thực dân đầu độc bằng rượu

20

cồn và thuốc phiện để họ quên đi hiện thực, quên đi tinh thần yêu nước, khát vọng

giải phóng dân tộc.

Đô thị càng phát triển thì đời sống đô thị, nhất là đời sống tâm hồn của con

người đô thị càng được các nhà văn quan tâm thể hiện. Tác phẩm viết về tình yêu

của lớp thanh niên đô thị chịu ảnh hưởng của lối sống phương Tây có sức lay động

lớn đến người đọc. Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một minh

chứng điển hình. Đóng góp cho văn học đô thị giai đoạn này ta còn có thể kể đến

nhà văn Hồ Biểu Chánh, tác giả khá nổi tiếng của văn học Nam Bộ. Ông viết khá

nhiều tác phẩm như: Cay đắng mùi đời, Tiền bạc - bạc tiền, Thầy thông ngôn,

Kẻ làm người chịu... Phản ánh cuộc sống nơi thị tứ, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

đã ghi lại bức tranh đô thị ở nhiều địa điểm, với đủ hạng người ở các tầng lớp

khác nhau, từ giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga đến giới trí thức tân học hoặc có

chí khí, có lòng với dân với nước.

Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 -

1945 đã mau lẹ hoàn tất quá trình hiện đại hóa từ quan điểm nghệ thật đến vấn đề

cách tân thể loại. Sự ra đời của Thơ mới đã đem đến cho văn học thời kì này diện

mạo của một nền văn học mới. Một trong những thành tựu đặc sắc của thơ ca thời

kì này là sự phong phú về đề tài. Đây là giai đoạn các nhà thơ đã tiến hành công

cuộc cách mạng đề tài. Trong đó, đô thị là mảng hiện thực luôn đem đến nhiều

cảm hứng cho các nhà văn và để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Trong số các nhà

Thơ mới, có thể nói đến Thế Lữ là người có nhiều gắn bó với chốn thị thành. Ông

đã từng hăm hở ra đi mang theo một hoài bão, một niềm tin mãnh liệt vào tương

lai:

“ Bỗng một hôm từ phương ngoài xa cách

Cơn gió phồn hoa thổi qua đời tịch mịch

Đem tới cho lòng ham muốn tung hoành

21

Giữa vinh hoa lồng lộng của văn minh.”

(Trả lời )

Không chỉ Thế Lữ mà ngay cả Nguyễn Bính, người thôn dân được coi là

thi sỹ của hồn quê đất Việt cũng không cưỡng nổi sức hút của đô thành. Trong

cuộc đời phong trần của mình ông đã không ít lần từ biệt chốn bờ lau gốc chuối

để dấn bước vào chốn phồn hoa:

“ Bỏ vườn cam, bỏ mái gianh

Tôi đi dan díu với kinh thành ”

(Hoa với rượu )

Sức hấp dẫn của chốn phồn hoa là một ma lực khó cưỡng. Có lúc, nó đủ

sức để đánh bật những ràng buộc, níu giữ của truyền thống xưa đã ăn sâu vào tiềm

thức của một con người được coi là “con nhà nho cũ gắn với thôn quê” như

Nguyễn Bính. Vậy mà không ít lần dấn bước vào phồn hoa đô hội.

“Phồn hoa rộn rã áo xiêm,

Muôn bao hình ảnh có tìm như không.”

(Mười hai bến nước )

Cùng viết về đề tài thành thị, bên cạnh những đặc điểm chung, mỗi nhà thơ

lại tạo nên một bức tranh về đô thị theo cảm nhận riêng của mình. Trong đó có

bức tranh đô thị rực rỡ ánh đèn, là tiếng gọi của công danh, vinh hoa, nhưng cũng

là nơi bon chen lừa lọc, sự tha hóa, ngột ngạt, nỗi “sầu đô thị”. Háo hức với đô

thị là thế mà rồi Nguyễn Bính cũng phải thở than:

“Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang

Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng

Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị”

( Sao chẳng về đây )

22

Còn Thế Lữ, sự tiên phong, hăm hở, thiết tha gắn bó với đô thị giúp ông nhận

ra đằng sau sự hào nhoáng, phồn hoa là sự giả dối, tầm thường khiến ông chán

ghét:

“... Ghét những cảnh sửa sang tầm thường giả dối

Hoa chăm cỏ xén, lối phẳng, cây trồng

Dải nước đen giả suốt chẳng thông dòng

Len dưới lách những mô gò thấp kém...”

( Nhớ rừng )

Có thể thấy, Thơ mới đã góp một phần không nhỏ trong việc phản ánh sâu

rộng cuộc sống ở thành thị và bao chứa nhiều đề tài khác nhau trong đó đề tài về

đô thị là mảng đề tài được nhà thơ chú ý đến. Từ hiện thực cuộc sống, các nhà thơ

sáng tạo nên những bức tranh nghệ thuật về đô thị đầy sức sống. Việc đi sâu, khám

phá bức tranh đô thị trên bình diện rộng với những vấn đề ngoại cảnh, nội tâm,

các cây bút đã có cách nhìn mới về con người và xã hội mang chiều sâu tư tưởng

và nghệ thuật. Trong các bức tranh hiện thực sinh động về đô thị, mỗi nhà thơ lại

lựa chọn từng điểm nhìn để sáng tạo. Do vậy, cùng viết về đô thị, mỗi nhà thơ đã

tạo cho mình một bức tranh riêng để tạo ra một bức tranh đô thị nhiều chiều, đa

sắc, đa xúc cảm.

Song hành cùng các nhà thơ mới, sự ra đời của nhóm văn chương Tự lực văn

đoàn năm 1932 đã cổ súy không chỉ cho Thơ mới mà cho cả nền văn xuôi hiện

đại phát triển. Họ tiếp nhận và cổ súy cho nền văn minh phương Tây với cuộc

sống Âu hóa. Họ nhiệt thành với lối sống thành thị bởi nó đã giải phóng con người

khỏi những hủ tục của xã hội phong kiến. Đồng thời cho ra đời những con người

mới mang đậm cái “tôi” của đô thị hiện đại. Các nhà văn của Tự lực văn đoàn mà

tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đã thể hiện rõ sự xung đột giữa

“cái cũ” và “cái mới”, đề cao quyền được sống, quyền được yêu của con người.

Họ coi trọng vẻ đẹp hình thể, của sự trẻ trung, của tự do, dân chủ. Văn chương

23

của Tự lực văn đoàn vì thế mà thoát khỏi tư tưởng cũ. Họ ca ngợi và có những

quan niệm mới về hôn nhân. Những cô gái tân thời, những chàng trai tiến bộ vượt

qua lễ giáo phong kiến đến với nhau trong tình yêu. Đô thị trong cảm quan các

nhà văn lãng mạn không chỉ là chốn hoa lệ, tấp nập đông vui mà ở đó còn là chốn

ăn chơi trụy lạc. Thanh niên ngập tràn trong rượu, thuốc phiện, cô đầu hay gái

làng chơi.

Cũng là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng trong tác phẩm của

Thạch Lam đô thị lại hiện ra với những không gian hoàn toàn khác. Có lẽ, Thạch

Lam là người hoài cổ nên bóng dáng đô thị trong tác phẩm của mình là bóng dáng

hình ảnh phố huyện nhỏ bé, tiêu điều, tối tăm, nơi ông đã từng sống. Ở đó không

có sự đông đúc, huyên náo với nhà cao cửa rộng mà chỉ hiện lên với những ga

xép, những phiên chợ tàn. Con người đô thị cũng vì thế hiện lên cũng tù túng,

quẩn quanh với cuộc sống mỏi mòn.

Khác với các nhà văn theo xu hướng lãng mạn, các nhà văn theo xu hướng

hiện thực lại nhìn cuộc sống đô thị bằng những cảm quan riêng. Tiêu biểu cho xu

hướng này ta phải kể đến Vũ Trọng Phụng. Khi đáp lời các nhà văn lãng mạn trên

báo Ngày nay ông đã tuyên bố: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi

và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Các

nhà văn hiện thực phê phán nhìn đô thị bằng con mắt chân thực, cảm nhận cuộc

sống đô thị phồn tạp như chính nó đang tồn tại. Cuộc sống Âu hóa đã tạo ra sự

hợm hĩnh, đua đòi, a dua. Đô thị vì thế gắn liền với những tệ nạn xã hội như nghiện

hút, cờ bạc, trai gái. Các nhà văn hiện thực đã vạch trần cuộc sống đô thị đen tối

ẩn chứa đằng sau sự hào nhoáng kia. Với các tiểu thuyết: Giọt lệ sông Hương,

Đời Hoàng Oanh và các tập phóng sự: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương,

Người...Ngợm, tác giả Tam Lang đã vẽ lên bức tranh về đô thị tạp nham, cuộc

sống khốn khó, cùng cực. Con người bị bóc lột, bị xô đẩy đến bước đường cùng.

Với các tập phóng sự: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy tây, Làm đĩ, Cơm thầy cơm

cô...Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy cuộc sống bẩn thỉu, nhếch nhác, tối tăm của xã hội

24

đương thời. Ông phơi bầy mặt trái đầy ung nhọt của xã hội với cờ bạc bịp, bọn

ma cô, đĩ điếm. Ông chỉ thẳng và gọi tên đó là một “xã hội chó đểu”. Cái “xã hội

chó đểu” ấy Vũ Trọng Phụng đã tái hiện vô cùng sinh động trong tiểu thuyết Số

đỏ. Qua tác phẩm, tác giả đã dựng lên một xã hội Âu hóa lố lăng, kệch cỡm. Chính

cái xã hội được những kẻ hãnh tiến, vênh váo ngợi ca đã đẻ ra Xuân tóc đỏ, từ

một kẻ không cha, không mẹ lang thang đầu đường xó chợ, từ một thằng nhặt

bóng được bà Phó Đoan thương xót, cưu mang vì nó có hành vi nhìn trộm một cô

đầm thay váy bị bắt quả tang. Được ra nhập xã hội thượng lưu với sự ma cô cộng

với may mắn, Xuân tóc đỏ dần trở nên danh giá và cuối cùng đã trở thành vĩ nhân

- anh hùng cứu quốc.

Cũng là nhà văn xuất phát từ cuộc sống cơ cực nhưng Nguyên Hồng lại cảm

nhận đời sống đô thị ở một góc độ khác. Tác giả đã đi sâu thể hiện quá trình tha

hóa của con người nơi đô thị khi họ bị xô đẩy khỏi lũy tre làng bởi những định

kiến khắc nghiệt của xã hội cũ. Tám Bính trong tiểu thuyết Bỉ vỏ là một cô gái

quê mùa, trót trao thân cho kẻ bội tình để rồi phải sống tủi cực khi sinh nở một

mình. Những hủ tục của xã hội phong kiến đã làm cô phải trốn chạy lên thành

phố. Từ đây, đô thị là nơi chứa đầy cạm bẫy với một cô gái quê như Tám Bính.

Đi tìm lại người yêu cô bị lừa gạt, cưỡng ép và trở thành một gái điếm. Cuộc đời

xô đẩy đã khiến số phận cô gắn chặt với tên trùm lưu manh Năm Sài Gòn để cuộc

đời cuối cùng gắn chặt với lao tù và niềm đau đớn, ân hận về đứa con do chính

Năm Sài Gòn hại chết.

Dưới con mắt trào phúng và tài viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan,

đô thị là nơi đầy dẫy những điều nhố nhăng và bỉ ổi. Ở đó, bọn nhà giàu đểu cáng,

khốn nạn thì sống phè phỡn, còn người nghèo thì bị ức hiếp cùng khổ.

Nhà văn hiện thực cuối cùng tiêu biểu cho văn học giai đoạn này chính là

Nam Cao. Ông không trực diện phản ánh đời sống thành thị với những cảnh bất

công, ngang trái mà đi sâu vào thể hiện cuộc sống tù túng, bế tắc của tầng lớp trí

thức. Họ luôn phải đối diện cơm, áo, gạo, tiền. Gánh nặng vật chất đã đè bẹp giấc

25

mơ hoài bão, khát vọng. Từng trang văn trong Sống mòn, Đời thừa,Giăng sáng...

ta thấy hiển hiện điều đó.

Có thể nói giai đoạn này, cảm quan đô thị đã trở thành cảm quan chủ đạo

khi phản ánh xã hội và cuộc sống của con người. Dù văn học theo xu hướng thẩm

mỹ nào thì đô thị cũng hiện lên khá rõ nét. Nếu như các nhà văn lãng mạn muốn

thoát ly thực tại để cổ súy cho cuộc sống mới thì các nhà văn hiện thực phê phán

lại phơi bầy tất cả sự nhố nhăng, bát nháo, đảo điên của xã hội. Chính điều này

tạo nên bức tranh toàn diện về đô thị hiện đại Việt Nam trong buổi giao thời.

1.2.3. Giai đoạn từ 1945 đến 1975

Con người trong văn học thời kì này thường xuất hiện với tư cách con

người cộng đồng, con người dân tộc. Đề tài đô thị cũng tập trung phản ánh chân

dung những công dân - chiến sĩ, những nhân vật thị dân hiện lên phần ít thiện

cảm. Đôi mắt của Nam Cao khắc họa nhân vật trí thức tiểu tư sản - nhà văn

Hoàng, về nông thôn tản cư vẫn giữ những tư tưởng, nếp sống của người thành

thị. Vào thời điểm đó, lối sống đô thị trở nên lạc lõng và không phù hợp với đời

sống của quần chúng lao động.

Khác với Nam Cao, Tô Hoài viết Những ngõ phố phản ánh sự đổi đời của

những người dân nghèo nơi đô thị. Họ thoát khỏi cuộc sống đói khổ để đến với

cuộc sống mới vui vẻ, tự do, ấm áp tình người. Họ hăng hái xây dựng lại cuộc

sống, làm lại từ đầu, trở về với chính mình.

Hà Minh Tuân đề cập đến cuộc sống đô thị ở Trong lòng Hà Nội và

Hai trận tuyến. Hai tiểu thuyết này viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của

nhân dân Hà Nội. Đến tiểu thuyết Vào đời, tác giả này tiếp tục khai thác đề tài

xây dựng xã hội mới, không né tránh hay bóp méo hiện thực mà phản ánh trung

thực cuộc sống thực tại.

26

Tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết Sống mãi với thủ đô. Trong đó, thủ đô

Hà Nội được chọn làm bối cảnh cho các nhân vật với một hình ảnh anh dũng,

kiên cường. Không khí kháng chiến len lỏi vào từng ngõ phố.

Nguyễn Tuân viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Hà Nội hiện lên trong tập

ký của ông với hình ảnh hiên ngang và hào hoa, đi qua công cuộc kháng chiến

chống Mỹ anh hùng. Mảnh đất thủ đô được khắc họa như hương đất, hồn

người của dân Việt qua những đêm trăng, những nhành hoa, vườn quất.

Ngoài ra, có một bộ phận các nhà văn sáng tác trong miền Nam những năm

1954 - 1975. Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới hiện thực

cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá linh hoạt nhu

cầu của người đọc tại các vùng đô thị. Các tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954

không chỉ giới hạn trong những đề tài cổ điển như nói về cuộc sống của người

thành thị, trí thức, tình cảm lãng mạn, phiêu lưu hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của

những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất cả mọi vấn đề từ cao cả đến thấp

hèn, hướng đến mọi đối tượng từ người lớn đến trẻ em, từ giới trí thức đến người

lao động, nhưng tập trung nhất vẫn là đề tài tình yêu với đủ mọi cung bậc, biến

thái khác nhau.

Nói chung, ở giai đoạn này, đặc biệt ở miền Bắc, con người và xã hội đô

thị ít được chú ý trong văn học. Văn học chủ yếu khai thác đề tài từ hai cuộc kháng

chiến của dân tộc. Vậy nên, cảm quan đô thị cũng trở nên mờ nhạt. Còn ở Miền

Nam, đời sống xã hội đã tiệm cận với đô thị phương Tây nên cảm quan đô thị

trong văn học miền Nam có bước tiến sớm hơn văn học miền Bắc.

1.2.4. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay

Đề tài đô thị sau 1975 gắn liền với cuộc sống thị dân nhiều thay đổi.

Nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của văn hóa - xã hội.

Nhiều tác giả viết về đề tài đô thị như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma

Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Phong Điệp,

27

Nguyễn Danh Lam, Đỗ Tiến Thụy, Kiều Bích Hậu, Nguyễn Trương Quý, Thụy

Anh, Đỗ Bích Thúy…

Nhà văn Ma Văn Kháng cũng có những tác phẩm hay về đô thị như tiểu

thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Tác phẩm báo động lối sống của xã hội buổi

giao thời, không ít cá nhân sống ích kỷ, vụ lợi, đầy dục vọng. Tác giả cũng nhấn

mạnh vai trò của gia đình truyền thống trong cuộc sống mới, dù nó cũng đang rạn

nứt.

Nguyễn Khải đã có nhiều truyện ngắn viết về cuộc sống và con người Hà

Nội, được tập hợp trong hai tập truyện: Một người Hà Nội (1990) và Hà Nội

trong mắt tôi (1995). Ông viết văn để trải tấm lòng mình với mảnh đất từng gắn

bó, nhiều duyên nợ, và phản ánh vùng đất kinh đô chứa đựng nhiều điều hấp

dẫn, bí ẩn, nhất là trong tầng sâu văn hoá, lối sống, các giá trị tinh thần của người

Hà Nội luôn mời gọi và là một dư địa cho ngòi bút ưa tìm tòi, triết lí. Truyện

ngắn Một người Hà Nội kể những chuyện về bà Hiền và gia đình bà trong một

khoảng thời gian dài suốt mấy chục năm, chủ yếu từ sau cuộc kháng chiến chống

Pháp, Hà Nội được giải phóng cho đến những năm đầu đổi mới. Thông qua nhân

vật bà Hiền – một “hạt bụi vàng” cặm cụi, lưu giữ những nét văn hóa của thủ

đô ngàn năm, tác giả thể hiện niềm tin vào những giá trị tốt đẹp đã được hình

thành và xây đắp từ bao đời sẽ được đặt lại đúng với vị trí của nó. Cũng như mọi

thứ xô bồ, hỗn tạp của Hà Nội hiện thời chỉ là những rác nổi trên bề mặt của đời

sống, rồi đến lúc nó sẽ bị cuốn đi, để một Thủ đô với 1000 năm văn hiến, sự

thanh lịch của người Tràng An sẽ trở lại.

Nguyễn Huy Thiệp có cái nhìn sâu sắc và đa chiều hơn về đề tài đô thị.

Ông nhìn cuộc sống và con người đô thị bằng thái độ lạnh lùng, sắc lẹm. Ở đó,

con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi, ích kỷ (Tướng về

hưu, truyện Huyền thoại phố phường). Đó là cuộc sống xô bồ tạp nham trong

Không có vua, khắc họa một đô thị thiếu vắng tình người, đầy rẫy những

28

giả trá. Nó cũng thể hiện sự hoài nghi về lối sống, tương lai của tầng lớp thị

dân.

Một tác giả khác cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của con

người nơi phố thị là Hồ Anh Thái. Ông cho ra mắt tập truyện Tự sự 265 ngày -

câu chuyện tự kể của anh công chức Nhà nước về thời gian 265 ngày làm việc ở

cơ quan. Nhà văn phản ánh quá trình một công chức bằng mọi giá ngoi lên từng

nấc thang danh vọng qua bức chân dung méo mó, hài hước, xấu xí và có phần

cay nghiệt. Ở đô thị vẫn còn vương lại thói tủn mủn của thời bao cấp, và thói

học đòi thời mở cửa.

Trong khi đó, Nguyễn Việt Hà là nhà văn viết về đô thị với cái nhìn từ bên

trong. Ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nên nặng lòng với thủ đô là điều không hề

khó hiểu. Trước tình trạng dân cư ở thủ đô mỗi lúc một nhiều, ông càng xót xa và

quý mến những con người Hà Nội thực sự. Với ông, có những kẻ ba đời ở thủ đô

vẫn không thể là người Hà Nội được vì những quá khứ bất hảo của chính ông cha

họ vẫn còn để lại theo cái gien tiểu thị dân lưu manh. Nguyễn Việt Hà cho Hà Nội

là “vùng trũng” văn hóa, nơi tiếp nhận, giao thoa văn hóa của mọi miền. Hà Nội

vừa lắng đọng cái tinh hoa, trong trẻo lại vừa chứa cái cặn bã, ô hợp. Hà Nội như

bức tranh nhiều mảng màu, bên ngoài cái đông vui náo nhiệt là dòng chảy âm

thầm của sự tù túng, xấu xa. Ông viết một loạt các tác phẩm như: tập truyện ngắn

Của rơi, các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, tạp văn Con giai

phố cổ.

Cũng là một tác giả trẻ, Nguyễn Trương Quý có tới sáu cuốn sách viết về

đề tài đô thị (bối cảnh Hà Nội). Anh viết tản văn Tự nhiên như người Hà Nội

(2004), Ăn phở rất khó thấy ngon (2008), Hà Nội là Hà Nội (2010), Xe máy tiếu

ngạo (2012), Còn ai hát về Hà Nội (2013). Năm 2014, tác giả ra mắt tập truyện

Dưới cột đèn rót một ấm trà. Đó là cái nhìn đầy yêu thương, trăn trở, tự hào về

một không gian văn hóa – kiến trúc của thị thành.

29

Cũng viết về đề tài đô thị, ta không thể không kể đến hàng loạt sáng tác

của họa sĩ – nhà văn Đỗ Phấn. Ông đã dùng con mắt hội họa, những cảm nhận

tinh tế của một họa sĩ và rung động của người yêu văn viết nên hàng loạt tác phẩm

về cuộc sống, con người đô thị - thủ đô Hà Nội như tiểu thuyết Vắng mặt,

Rừng người, Chảy qua bóng tối, Con mắt rỗng, Ruồi là Ruồi, Gần như là

sống… Không kể hàng loạt tập truyện ngắn, tản văn của ông đã được xuất bản

và đăng rải rác trên các trang web.

Trong dòng mạch đó, Phong Điệp với hàng loạt các tiểu thuyết viết về đề

tài đô thị như: Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức đã mang đến cho người đọc

cái nhìn về đô thị từ góc độ của những người từ ngoại vi đến với thị thành với

nhiều suy tư và âu lo.

1.3. Sự hình thành cảm quan đô thị trong sáng tác Phong Điệp

Nhà văn Phong Điệp sinh ngày: 6 - 6 - 1976 tại thành phố Nam Định. Phong

Điệp là cây bút nổi danh khá sớm. Năm 17 tuổi, Phong Điệp đã đạt giải nhất cuộc

thi sáng tác văn học do Hội văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định tổ chức năm 1993

cho truyện ngắn Huyền thoại đêm. Phong Điệp gây bất ngờ cho thầy cô, bạn bè,

và những ai kì vọng vào tài năng văn chương của chị khi quyết định theo học tại

trường đại học Luật để trở thành một luật sư chứ không phải thành một nhà văn.

Thế nhưng, có lẽ mối duyên với văn chương của Phong Điệp vẫn còn sâu đậm,

bằng tinh thần làm việc miệt mài, bền bỉ và chuyên nghiệp, từ năm 1996 đến nay

Phong Điệp thử nghiệm trên nhiều thể loại và thu được nhiều thành quả đáng nể.

Chị viết đều đặn và cho ra mắt độc giả nhiều tác phẩm hấp dẫn và đạt giải trong

các cuộc thi văn nghệ như: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn trên

báo Văn nghệ Trẻ năm 1996- 1997 với truyện ngắn Ma mèo. Giải thưởng “Văn

học tuổi xanh” 1996 do Tạp chí Tuổi xanh tổ chức năm 1996 với truyện ngắn Hoạ

sĩ. Giải khuyến khích cuộc thi sáng tác Văn học cho tuổi trẻ do NXB Thanh niên

phối hợp với Tuần báo Văn nghệ tổ chức với tập truyện ngắn Vườn hoang. Giải

Tư cuộc thi sáng tác Văn học tuổi 20 lần II và III do do NXB Trẻ, Báo Tuổi Trẻ

30

và Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức với tập truyện ngắn

Người phía bên kia đường và truyện dài Lạc chốn thị thành. Rời khỏi giảng

đường đại học, chị không gắn bó với ngành luật mà theo đuổi đam mê từ thời niên

thiếu của mình bằng sự gắn bó với Báo Văn nghệ Trẻ. Phong Điệp đã cho ra mắt

độc giả 10 tập truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 3 truyện dài dành cho thiếu nhi, 1 tập

tản văn với các đề tài tình yêu, thành thị, phụ nữ, thiếu nhi. Đề tài được Phong

Điệp quan tâm nhiều nhất chính là thành thị. Trong số 18 tác phẩm thì có tới 12

tác phẩm Phong Điệp viết về cuộc sống và con người nơi đô thị với đủ thể loại từ

truyện ngắn, tản văn đến tiểu thuyết. Có thể thấy, đề tài đô thị đã thành một vệt

đậm liên tục trong những sáng tác của Phong Điệp.

Sự gắn bó với đề tài đô thị có lẽ bắt nguồn từ chính cuộc sống của chị. Sinh

ra và lớn lên ở thành Nam, đã từng sống khổ, sống sở trong những căn nhà chật

chội, nóng bức, hôi thối trong khu tập thể nhà máy sợi, trong khu lò mổ, cạnh

nghĩa địa, cống rãnh nên dấu ấn của một đô thị đã in hằn trong tâm trí của chị.

Đến khi đi học đại học rồi “đi làm báo, vật lộn với những con chữ, nhận mức

lương 500.000 đồng, sống tằn tiện trong căn phòng trọ tồi tàn 9m2. Mùa hè nắng

như thiêu đốt, đổ một chậu nước ra sàn nhà, chỉ mấy phút sau cái nóng đã nuốt

chửng nó. Những giấc ngủ chập chờn mộng mị vì bất an, vì nóng, vì cô đơn không

bè bạn, không tình yêu.”[36]. Không chỉ phải sống với những khó khăn thiếu thốn

về vật chất chị còn trải qua bao đau đớn về tinh thần. Nhưng, sau thất vọng, và cả

tuyệt vọng là đứng dậy, bò ra viết báo để kiếm tiền, để bám trụ với đời sống đô

thị. Gắn bó với đô thị, thế nên, việc lựa chọn đề tài đô thị để viết là sự lựa chọn tự

nhiên như chính hơi thở của chị vậy.

Trong phần lớn các trang viết của mình Phong Điệp quan tâm đến đề tài

người trẻ sống ở đô thị. Đọc các tác phẩm Blogger, Lạc chốn thị thành, Phòng

trọ. Ma mèo... chúng ta đều thấy rõ điều đó. Phong Điệp đang cố gắng khắc họa

chân dung những người trẻ từ tỉnh lẻ về lập nghiệp và mưu sinh ở thành phố, và

31

họ phải đối mặt với những cuộc vật lộn, những niềm vui, nỗi buồn và cả bi kịch

để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mình là ai, mình đang đi về đâu? Viết về những

người trẻ, cũng là viết về chính mình.

Phong Điệp chia sẻ: “Viết về tuổi trẻ đô thị mình có nhiều trải nghiệm.

Trong văn chương quá nhiều tác phẩm về đề tài này, nhưng mình thấy hình như

vẫn chưa có ai đào sâu đến tận cùng những vật lộn, những bi kịch mà những

người trẻ tỉnh lẻ về đô thị mưu sinh đang phải trải qua. Mặc dù đã viết về đề tài

này nhiều lần, nhưng mình luôn có cảm giác mắc nợ, và mình sẽ còn viết tiếp”[58].

Một trong những lý giải cho sự thiết tha với đề tài đô thị, Phong Điệp cho

biết: “Vì mỗi buổi sáng mở mắt ra, âm thanh dội vào tai tôi đầu tiên không phải

là tiếng gà gọi sáng mà là tiếng còi xe inh ỏi. Ám ảnh những giấc ngủ của các con

tôi là tắc đường, kẹt xe. Ám ảnh đồng nghiệp tôi hàng ngày là ô nhiễm, dịch bệnh,

cháy xe, sập nhà...”. Tất cả những điều đó đã khiến chị không ngớt nghĩ về đời

sống nơi đây, với những thân phận người đang cố neo vào đô thị này để tồn tại

bằng mọi cách. Nơi ấy những người bạn chung trường đại học Luật với chị, đã

gần mười lăm năm chia tay nhau kể từ ngày tốt nghiệp, dù sống trong cùng một

thành phố vẫn chưa thể gặp nhau vì bao nỗi ngổn ngang. Chị bày tỏ: “đô thị

mang trong mình quá nhiều câu chuyện, và chúng thúc giục tôi viết ra.”[57].

Phong Điệp viết về đô thị bằng sự ám ảnh, thúc giục bởi trái tim của một

người nghệ sĩ, sự lo lắng của một người mẹ, sự nhạy cảm một người phụ nữ đầy

yêu thương. Chia sẻ với nhà văn Đỗ Bích Thúy trên Văn nghệ Quân đội, Phong

Điệp đã không giấu được cảm xúc lo âu về đời sống đô thị: “Tôi luôn có cảm giác

bấp bênh và âu lo về đời sống đô thị này. Những rủi ro bất trắc quá nhiều. Cũng

có thể tôi cả nghĩ quá chăng. Hôm qua, chứng kiến một chiếc xe bốc cháy ngùn

ngụt trên đường, ám ảnh không dứt trong tôi là, nếu tôi là người ngồi trên chiếc

xe ấy thì sao? Ai sẽ đón các con, sẽ lo bữa cơm chiều? Mỗi buổi chiều đón con

ngoài cổng trường, tôi luôn phấp phỏng đoán định cảm xúc của con qua từng biểu

hiện trên nét mặt.Người lớn đã dễ tổn thương. Trẻ con càng mong manh vô cùng.

32

Hình như cuộc sống này, càng ngày con người càng ít chú ý đến cảm xúc sống

của mình và của những người xung quanh. Chúng ta luôn vội vã mà không hiểu

vì sao mình lại phải vội vã đến thế.” [21]. Phong Điệp không chỉ âu lo về nơi mình

đang sinh sống mà trong sâu thẳm trái tim mình, chị luôn đau đáu về phố thị nơi

thành Nam mà chị đã gắn bó cả tuổi thơ. Chị hiểu rất rõ: “Trong tâm hồn những

người dân nhập cư tại các đô thị lớn, luôn có một vùng đất để trở về. Chỉ có điều,

cuộc sống hàng ngày không cho phép họ làm điều đó. Và tôi cũng vậy thôi. Luôn

có một cõi riêng để tôi trở về, dù cõi riêng đó - đôi khi chỉ còn là ký ức”[21]. Thế

nên, sống ở Hà Nội gần hai mươi năm nhưng Phong Điệp vẫn canh cánh tâm thế

của một người “ở trọ” dù chị đã có nhà riêng, đã có một tổ ấm mà chị biết cách

chăm lo gìn giữ để nó được yên bình, có những đứa con xinh xắn. Trong một góc

nhỏ cuộc sống của Phong Điệp vẫn có những cơn mơ về một vùng ký ức mờ xa,

để rồi khi tỉnh lại giữa những tiếng còi xe báo hiệu một ngày mới, chị lại tất bật

với những lo toan thường ngày, tất bật với công việc làm báo. Và đêm về, khi các

con đã ngủ yên, chị lại ngồi bên bàn viết, tiếp tục những cơn mơ dang dở…

Sống bằng đầy ắp cảm xúc và sự thúc giục phải viết về hiện thực đô thị nên

viết văn hay làm báo - Phong Điệp đều đề cao vốn sống, kinh nghiệm sống. Không

ít chuyện của Phong Điệp được triển khai trên nền của một bối cảnh có thực, nhân

vật thực, sự kiện thực với một đời sống có nhiều điểm nhấn sâu sắc. Phong Điệp

viết để giải thoát sự ám ảnh hoặc để đồng cảm, cảnh tỉnh...Nếp nghĩ của Phong

Điệp nghiêng hẳn về những câu chuyện, những số phận, những sự kiện mà cá

nhân chị từng được sống, từng được chứng kiến trong đời sống của mình. Phong

Điệp không phải tạng người ưa ứng dụng sức mạnh của hư cấu tưởng tượng vào

những sự kiện, những tình thế mà chị trải nghiệm. Phong Điệp thuộc về hiện thực,

một hiện thực có tính thời sự của các đô thị. Tính hiện thực đã làm tác phẩm Phong

Điệp ngồn ngộn hơi thở cuộc sống thành thị đương đại. Nếu Nguyễn Ngọc Tư là

nhà văn nữ chiếm được cảm tình của độc giả bắt đầu bằng những câu chuyện chân

thực về miền đất mũi Cà Mau, vùng nông thôn. Đỗ Bích Thúy lại đưa người đọc

33

đến vùng cao Tây Bắc bằng giọng văn trong trẻo và đong đầy tình cảm, thì Phong

Điệp lại là nhà văn dành được sự quan tâm bởi những câu chuyện đời thường nơi

đô thị.

Có thể nói cảm quan đô thị của Phong Điệp được khơi nguồn từ chính cuộc

sống đô thị mà chị gắn bó, lo lắng và yêu thương. Chính sự trân quý hiện thực

cuộc sống nơi đô thị trong tác phẩm của mình đã tạo cho Phong Điệp có góc nhìn

riêng về cuộc sống và con người đô thị.

TIỂU KẾT

Đô thị ở Việt Nam xuất hiện khá sớm nhưng văn học lấy đô thị làm đề tài

sáng tác thì chưa có nhiều và chưa tạo thành dòng văn học đô thị riêng biệt. Trong

suốt thời kì phong kiến, đô thị Việt Nam chỉ giữ vai trò là trung tâm hành chính là

chủ yếu. Văn học thời kì này tuy đã có những tác phẩm lấy đô thị làm đề tài sáng

tác nhưng đô thị vẫn chưa phải là cảm quan chủ yếu chủ đạo. Bước sang thế kỉ

XX, cùng với những thăng trầm của lịch sử, sự phát triển của đô thị có lúc mạnh

mẽ, có lúc trầm lắng và phát triển nhanh chóng sau khi đất nước bước vào thời kì

đổi mới. Tuy chưa phát triển thành nhịp mạnh để mang đầy đủ nội hàm của một

nền văn học đô thị như của phương Tây nhưng văn học đô thị Việt Nam đã để lại

những dấu ấn sâu đậm với các tên tuổi lớn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy

Thiệp, Nguyễn Việt Hà...cùng các tác phẩm có giá trị làm phong phú cho nền văn

học Việt Nam. Là một nhà văn trẻ, tiếp nối truyền thống văn học viết về đô thị,

34

Phong Điệp với cảm quan nghệ thuật của một cây bút nữ trẻ đương đại đã dần hình

thành một lối viết riêng thể hiện cảm quan đô thị đáng chú ý.

35

CHƯƠNG 2

CẢM QUAN VỀ ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG TIỂU

THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP

2.1. Cảm quan về đời sống đô thị

2.1.1. Quá trình đô thị hóa và góc nhìn đô thị

Các nhà văn viết về đô thị luôn chọn quá trình đô thị hóa là tâm điểm của

sự chú ý và coi đây như một vấn đề nổi bật của của quá trình sáng tác. Vấn đề này

vừa thể hiện được bộ mặt đô thị trong quá trình đổi thay, phát triển đồng thời cũng

thể hiện được thế giới quan của nhà văn trước hiện thực đô thị. Nguyễn Việt Hà

chú ý bước chuyển mình của đô thị thời điểm nền kinh tế bắt đầu mở cửa hội

nhập. Đô thị hóa của Nguyễn Việt Hà là những thay đổi trong sinh hoạt và lối

sống của cư dân phố cổ khi nền kinh tế đô thị phát triển mạnh mẽ. Đỗ Phấn, với

con mắt của một họa sĩ viết văn lại chú ý đến màu sắc, kiến trúc của đô thị trong

quá trình mở rộng và phát triển với nhiều không gian khác nhau. Phong Điệp cũng

viết về đô thị hóa nhưng chị lại chọn cho mình một không gian tương đối hẹp,

một địa danh cụ thể, ở khu vực giáp ranh. Đó là xóm Chùa Cuối trong cảnh làng

lên phố.

Quá trình đô thị hóa được Phong Điệp khắc họa qua sự quan sát và cảm

nhận của nhân vật cô bác sĩ tâm lí trong tiểu thuyết Ga kí ức. Không gian đó là

nơi cô gắn bó trong cả tuổi thơ nghèo khó cùng mẹ và chị gái. Cũng nơi đó, sự ra

đi bí ẩn của bố luôn ám ảnh và đeo bám cô không dứt khiến cô chưa bao giờ ngừng

tìm kiếm câu trả lời cho sự ra đi ấy. Quá trình đô thị hóa đến với một làng quê đã

làm thay đổi hẳn không gian yên bình: “Làng lên phố. Máy ủi, máy xúc công

nghiệp rầm rập kéo về. Điện công trường rừng rực sáng suốt đêm... Cả xóm thành

một đại công trường với máy ủi máy xúc ầm ào suốt 24 giờ.” [22, tr. 8, 158]. Làng

quê chuyển mình hối hả, dồn dập và ồn ã. Phong Điệp không miêu tả nhiều, nhưng

chị lại mang đến cho người đọc cái cảm giác được chứng kiến trực tiếp quá trình

thay đổi ấy. Việc chị lựa chọn miêu tả quá trình làng lên phố từ những vệt ủi, gầu

36

xúc đầu tiên là có dụng ý nghệ thuật. Đô thị hóa trong cái nhìn của Phong Điệp

không phải đơn giản là quá trình thay đổi nhẹ nhàng, mang lại niềm vui và hạnh

phúc cho mọi người mà là sự xáo trộn tận gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước.

Làng lên phố không chỉ là một sự thay đổi cảnh quang mang tính chất cơ

học, dưới con mắt nhà văn sự thay đổi cơ học ấy là một sự lột xác đầy đầy đau

đớn, mất mát: “Nhà cửa, đất vườn bị đốn phẳng. Toàn bộ khu nghĩa địa mọc lên

giữa cánh đồng cũng bị san bằng. Không còn dấu vết nào để cô có thể tìm kiếm

được nấm mộ của con bé. Cái bờ rào nơi hai chị em vẫn hẹn nhau ngày trước

cũng tuyệt nhiên không còn sót lại gì - dù chỉ là một cọng cỏ xơ xác. Tất cả đã nát

nhừ dưới đất sâu. Bầm máu.” [22, tr. 8]. Với cô bác sĩ, mỗi nóc nhà, mỗi mô đất,

mỗi cái cây, mỗi kỉ niệm với cô đều là những sinh thể sống có linh hồn riêng. Vậy

mà những sinh thể ấy đang bị nghiền nát, bấy máu và biến mất dưới sức mạnh và

sự tàn phá của máy móc trong quá trình làng lên phố. Cô không chỉ quan sát sự

thay đổi của khung cảnh xóm Chùa Cuối bên ngoài mà còn cảm nhận sự thay đổi

đó ở bên trong để rồi đau đớn đến thảng thốt với: “một câu hỏi: vì sao đất ở nơi

này đỏ đến thế. Đỏ như máu ứa. Đỏ như ráng chiều tàn, rực cháy lên trên cánh

đồng sau vụ gặp rồi tắt lụi. Đỏ như sầu thảm.”[22, tr.8]. Một màu đỏ ám ảnh.

Màu đỏ ấy có thể là máu của những sinh thể nát vụn, có thể là ánh mắt hoe đỏ

nhìn đâu cũng thấy mầu tang thương. Ám ảnh bởi sự đau đớn, ám ảnh bởi sự mất

mát mà Phong Điệp đã làm cho người đọc dù ngoài cuộc cũng có thể cảm nhận

rõ rệt cảm giác đau đớn, mất mát của cư dân xóm Chùa Cuối và cả cô bác sĩ.

Đô thị hóa đã phá vỡ không gian làng quê, những ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ,

nằm ẩn mình trong những khu vườn xanh mát đã không còn, thay vào đó là

“những tòa cao ốc đua nhau mọc lên, cao đến chóng mặt”[22, tr. 158]. Những

xóm nhỏ đêm khuya đom đóm lập lòe đã biến mất, không còn thấy đêm trăng

thanh bình thả ánh vàng lấp loáng, xóm Chùa Cuối “giờ cũng lên phường, và

chuyển đổi thành khu đô thị mới. Điện sáng nhưng nhức suốt đêm.”[22, tr. 158].

Màu xanh mát của cây cối được thay thế bằng những khối bê tông xám xịt, nặng

nề. Đô thị nơi xóm Chùa Cuối trở nên khô cứng và nặng nề. Sự tiện nghi của đô

37

thị đã làm con người dễ thô bạo với tự nhiên và xa rời cây cỏ. Đô thị hóa không

đơn thuần đã phá vỡ không gian làng quê mà phá vỡ cả sự cân bằng môi trường

sinh thái, làm mất đi sự hiện hiện quen thuộc của màu xanh cây cỏ trong đời sống

hiện thực. Con người càng xa rời thiên nhiên càng trở nên thiếu thân thiện. Phong

Điệp không chỉ nuối tiếc không gian làng quê biến mất mà còn lo lắng cho chính

con người đô thị đang dần vô cảm trước thiên nhiên, và vô cảm với chính xã hội

đang sống.

Đô thị hóa mang đến cho xóm Chùa Cuối những ngôi nhà cao tầng, những

con đường trải nhựa phẳng lì, nhưng cái giá mà cư dân xóm Chùa Cuối phải trả

giá thì lại quá đắt. Phong Điệp chỉ rõ hậu quả trước tiên là tình trạng ô nhiễm môi

trường. Sự trong lành vốn có của làng quê cũng không còn: “Khu đô thị mới đang

mọc lên nham nhở. Máy xúc hì hụi ngoạm phế liệu, chất đầy khoang chứa, rồi cứ

thế nhông nhênh chạy đi, chẳng buồn dùng bạt che. Gạch vữa rơi đầy trên đường.

Bụi tốc mù mịt từ sáng đến tối. Phế liệu đi thì cát sỏi vào. Mùi dầu xe khét lẹt.”

[22, tr. 10]. Để có được viễn cảnh về một đô thị hào nhoáng người ta sẵn sàng

đánh đổi mọi thứ. Sự quản lí lỏng lẻo, sự thiếu ý thức bảo vệ môi trường sống

đang khiến cho cư dân làng ven đô chưa kịp thụ hưởng thành quả của quá trình

đô thị hóa thì đã phải trả giá cho chính quá trình ấy. Đằng sau ngôn ngữ miêu tả

chân thực, khách quan về quá trình đô thị hóa Phong Điệp không khỏi xót xa cho

tình cảnh sống của người dân đô thị.

Đô thị hóa nhanh chóng, ồ ạt không chỉ làm thay đổi cảnh quan mà thay

đổi cả nếp sống của làng quê bình làng quê. Xóm Chùa Cuối giờ đây: “khu công

nghiệp đã ngoạm hết đất làng. Thanh niên làng nhuộm tóc đỏ chót, phóng SH như

rồ. Ba bữa tiêu hết tiền đền bù đất, thì đã thành con nghiện nặng mất rồi. Nhà hở

cái gì ra là mất cái ấy. Không trộm cắp thì xin đểu.” [22, tr. 168]. Có tiền bán

ruộng, cư dân xóm Chùa Cuối những tưởng họ sẽ đổi đời, gốc gác nông dân sẽ

biến mất, họ sẽ trở thành cư dân phố thị, áo quần bảnh bảo, đời sống nhàn hạ.

Giấc mơ xa vời chưa đến. Họ nhận ra đô thị hóa mang đến cho họ nỗi buồn hơn

niềm vui, khổ đau hơn hạnh phúc. Bản tính chăm chỉ, cần cù dần bị thay thế cho

38

lối sống hưởng thụ, đua đòi đã làm hỏng không chỉ một thế hệ của cư dân Chùa

Cuối. Phong Điệp không cổ vũ, cũng không phê phán quá trình đô thị hóa. Nhà

văn hiểu đó là một quá trình tất yếu của đất nước đang trong đà phát triển mạnh

mẽ. Với thiên chức của một nhà văn, với tình cảm luôn đau đáu với làng quê,

Phong Điệp không chỉ tổng kết mang tính dự báo về những mặt trái, những tác

hại của quá trình đô thị cho mọi làng quê, mà còn cảnh tỉnh những ảo tưởng đơn

giản về những điều tốt đẹp của quá trình làng lên phố.

Có thể nói, Phong Điệp đã nhìn sâu hơn vào vấn đề đô thị hóa để nhận ra

những góc khuất của nó. Nếu chỉ là người đứng ngoài quan sát sẽ thấy đô thị hóa

làm cho nhà cửa khang trang, đẹp đẽ, phố xá đông đúc, tấp nập. Nhưng Phong

Điệp viết về đô thị hóa với tâm thức của người trong cuộc để nhận ra những đớn

đau và mất mát được che đậy bằng những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Phong Điệp

nhận thức về quá trình đó và miêu tả của chị gắn với hoài niệm về không gian

làng quê thanh bình đã mất như một sự đánh thức con người về không gian sống

của họ, những gì diễn ra xung quanh họ để trân trọng, giữ gìn hiện thực tốt đẹp

đang có.

Để bức tranh đô thị trong tác phẩm của mình hiện lên một cách đầy đủ, rõ

rệt không ít lần Phong Điệp để cho các nhân vật của chị phát ngôn về đô thị với

những góc nhìn khác nhau, từ những lứa tuổi khác nhau. Trước tiên là góc nhìn

của những người già. Với bố mẹ Nhung trong Lạc chốn thị thành, những người

ở quê có con đi học đại học, nhất là con gái thì: “Hà Nội rặt cạm bẫy thôi”. Bố

mẹ Nhung không phải không tin tưởng cô mà không thể yên tâm để cô ở bên ngoài

trước bao những rình rập, cạm bẫy của cuộc sống nơi đô thị. Vậy nên, Nhung

được “ở nhà người quen, dẫu người ta có không ưa thì vẫn còn an toàn”. Quan

niệm của bố mẹ Nhung phản ánh cái nhìn thiếu thiện cảm của những người dân

quê sống xa đô thị vốn quen với tình làng nghĩa xóm và sự bao bọc bình yên của

lũy tre làng. Sự thiếu thiện cảm đó cao hơn là sự cảnh giác và tâm lí bất an với đô

thị. Qua góc nhìn của bố mẹ Nhung đô thị đã thành một môi trường thiếu an toàn,

cần phải đề phòng và cảnh giác. Khác với bố mẹ Nhung, mẹ của Quân, người yêu

39

của Hạ trong Blogger lại trực tiếp cảm nhận về đô thị. Vì hoàn cảnh sống thay

đổi, mặc dù chả thích thú gì nhưng bà buộc phải lên phố với chồng với con. Trong

mắt bà: “Thành phố thì có gì hay ho? Nhà cao cao là, nhìn xuống chỉ chực buồn

nôn.” Với bà, đô thị là nơi không đáng sống. Mọi thứ đều chật chội, ngột ngạt

khiến bà như bị cầm tù. Lối sống trọng tình, quan tâm của người nhà quê khiến

bà không thích nghi nổi với thói quen tôn trọng sự riêng tư đến vô cảm của người

thành phố. Mẹ Phùng trong Ga kí ức cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. Cái làng

Bình Yên dù đã làm mẹ con bà sống khổ, sống nhục nhưng phải rời đi để sống ở

phố thì bà không muốn. Sống nơi thành phố, dù được Phùng chăm sóc với những

điều kiện tốt nhất nhưng sự ngột ngạt của đô thị khiến bà mòn mỏi, sự nhàn hạ

khiến bà thấy mình vô dụng, sự vắng vẻ trong ngôi nhà nơi phố xá ôn ào khiến bà

trầm cảm. Bà đã phải thốt lên với Phùng: “sống thế này tao cũng chết sớm thôi

con ạ”. Câu nói của mẹ Phùng là minh chứng rõ nhất cho sự chán ngán về đô thị,

đô thị đang lấy mất dần sự sống của bao con người như mẹ Phùng, mẹ Quân,

những người vì bất đắc dĩ phải đến với đô thị. Phong Điệp thật xót xa cho những

hoàn cảnh sống như thế. Có thể nói các nhân vật của Phong Điệp đến với thành

phố hầu như không được chuẩn bị tâm thế. Họ bị sốc, vì quá bất ngờ trước khung

cảnh phố phường, xa lạ với lối sống thờ ơ, lạnh lùng của cư dân phố thị. Đến với

đô là một điều bất hạnh.

Không chỉ người già thiếu thiện cảm với đô thị mà ngay với người trẻ cũng

không thể tìm thấy sự bình yên, hạnh phúc nơi đô thị. Việc rời khỏi “mảnh đất bị

yểm bùa” với y trong Ga kí ức là một bất ngờ. Chưa bao giờ mẹ y có ý định rời

khỏi làng. Y thì cũng không được chuẩn bị gì cho sự ra đi. Sự ra đi chỉ được quyết

định sau cái chết của hai chị và của bố y để cứu chính sự sống của y. Đến với phố

phường mẹ y “nhanh chóng thích nghi với môi trường mới”. Với y, thành phố

khác hẳn cái làng vắng vẻ và lạnh lẽo mà y từng sống: “Mở mắt ra là đường xá,

xe cộ. Mở mắt ra là tiếng rao bán hàng. Mở mắt ra là người với người. Đông quá,

ồn ào quá.” [22, tr. 126]. Rồi y rút ra kết luận: “Thành phố khác hẳn với vùng đất

bị nguyền rủa trước kia của y. Ở đây mọi thứ rạch ròi, sòng phẳng. Mọi thứ không

40

ngừng chuyển động với tốc độ chóng mặt.” [22, tr. 147]. Ngôi làng y sống trầm

lắng bao nhiêu thì thành phố y đến ồn ào bấy nhiêu, ngôi làng y mọi thứ chậm rãi

bao nhiêu thì thành phố y sống hối hả bấy nhiêu. Thành phố không có sự bình yên

để y có thể tìm thấy chút nhẹ nhõm của tâm hồn. Ngoài y còn có cô bác sĩ. Sống

ở đô thị nhưng chưa bao giờ cô, một bác sĩ tâm lí cảm thấy gắn bó với đô thị. Tâm

trí cô hướng về quá khứ, tình cảm cô hướng về xóm Chùa Cuối. Tâm trí ấy, tình

cảm ấy khiến cho luôn cảm thấy đô thị như nơi sống tạm, ở nhờ: “Nếu tính thời

gian ở phố, thì thời gian ấy dài hơn hẳn những ngày tháng sống ở làng, vậy mà

lạ thay những ngày tháng nơi phố xá trôi tuột đi mỗi ngày. Như nước rơi vô duyên

xuống lá. Ngày này sang ngày khác. Bao nhiêu nước đã rơi? Sao không đọng lại

chút gì nhung nhớ trong cô.” [22, tr. 152].

Có thể nói, Phong Điệp không dành nhiều trang viết về quá trình đô thị

hóa, cũng không ham đi phân tích, mổ xẻ bộ mặt đô thị như những nhà văn khác.

Qua trang viết thấm đẫm sự trải nghiệm của chính bản thân nhà văn, cộng với

nhạy cảm của một nhà văn nữ ta thấy rõ quá trình đô thị hóa là quá trình đau đớn

và mất mát. Một cuộc lột xác mà con người phải chấp nhận cả những điều tệ hại

và đến với thành phố con người thật khó tìm được sự bình yên trong cuộc sống

cũng như trong tâm hồn.

2.1.2. Những xung đột giá trị văn hóa, đạo đức trong đời sống đô thị

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia xung đột có thể hiểu là sự đối lập

về những nhu cầu, giá trị và lợi ích. Xung đột văn hóa có thể hiểu là những khác

biệt, những mâu thuẫn là sự đối lập về những nhu cầu, giá trị và lợi ích trên phương

diện văn hóa.Từ khái niệm soi chiếu vào những tiểu thuyết viết về đô thị của

Phong Điệp, người đọc nhận thấy nhà văn tập trung chủ yếu vào những xung đột

giữa văn hóa truyền thống nông thôn với văn hóa đô thị hiện đại hoặc những xung

đột quan niệm đạo đức do tác động của quá trình đô thị hóa hay bị nhiễm cuộc

sống đô thị.

41

Trước tiên, để làm nổi bật sự xung đột giữa văn hóa truyền thống (nông

thôn) với văn hóa đô thị, Phong Điệp không lựa chọn bối cảnh rộng với các thành

phần xã hội khác nhau mà lựa chọn bối cảnh hẹp gia đình trong mối qua hệ mẹ

con giữa Phùng, một doanh nhân thành đạt với mẹ trong tiểu thuyết Ga kí ức để

thể làm minh chứng tiêu biểu. Mẹ Phùng, một cô gái thanh niên xung phong quá

lứa nhỡ thì trở về làng sau khi cuộc kháng chiến kết thúc. Chẳng thể lập gia đình

riêng, mẹ Phùng chấp nhận bao tủi nhục nơi làng quê để sinh ra Phùng. Mẹ phùng

được coi là hình ảnh tiêu biểu cho con người và văn hóa truyền thống nơi làng

quên. Còn Phùng, tuổi thơ ở làng Bình Yên là những năm tháng nhục nhã. Nhờ

học giỏi Phùng được đi du học. Trải qua bao khốn khó nơi xứ người, Phùng đã

trở thành một doanh nhân thành đạt. Phùng là hiện thân của con người mang đầy

đủ những giá trị văn hóa của đô thị.

Sự xung đột giữa Phùng với mẹ như hiện thân của sự xung đột giữa văn

hóa truyền thống với văn hóa đô thị. Sự xung đột ấy được Phong Điệp khắc họa

bằng việc Phùng quyết định chuyển mẹ lên thành phố. Phùng với đầu óc thực tế

của một doanh nhân, một con người sống quen ở đô thị thì quá khứ không quá

quan trọng, nếu quá khứ ấy chẳng tốt đẹp gì thì càng đáng phải quên đi, hiện tại

và tương lai mới quan trọng. Mọi thứ có thể thay đổi nếu sự thay đổi ấy là tốt đẹp.

Sự thay đổi không gian sống là chuyện bình thường. Thế nên, khi trở về nước và

quyết định đưa mẹ rời khỏi làng Bình Yên lên thành phố sống với anh là việc nên

làm mà chẳng cần phải nghĩ ngợi gì. Bởi vì, với Phùng, cái làng Bình Yên chỉ là

nơi ghi dấu sự tủi hổ của hai mẹ con, tuy giờ chẳng có kẻ nào dám khinh mẹ con

Phùng nhưng Phùng cũng chẳng nuối tiếc. Làng Bình Yên nghèo đói và bất an đã

không còn phù hợp để mẹ con Phùng sống. Mẹ Phùng thì ngược lại. Quá khứ dù

đói khổ, dù tủi nhục vẫn đáng nhớ, đáng trân trọng. Ngôi làng Bình Yên đã làm

mẹ con bà mang vết thương lòng khó có thể lành được. Nhưng gắn bó cả đời nên

bà không muốn rời xa. Khi phải rời xa thì bà “tiếc làng tiếc nước. Tiếc từng hàng

rau ngót mới dâm, giờ bắt đầu đâm chồi” [22, tr . 180]. Đó là tâm lí ưa ổn định,

42

ngại di chuyển và đổi thay của những người nông dân ngàn đời quẩn quanh sau

lũy tre làng. Tâm lí ấy đối lập hẳn với tâm lí của Phùng.

Không chỉ dừng lại ở việc rời làng, Phong Điệp khai thác sự xung đột giữa

văn hóa truyền thống với văn hóa đô thị chính ở quan niệm về hạnh phúc. Đưa

mẹ lên phố, Phùng muốn mẹ hạnh phúc, Phùng muốn bù đắp cho mẹ những ngày

tháng thiếu thốn, tủi nhục bằng những tiện nghi tốt nhất. Mọi thứ Phùng đều có

sẵn để phục vụ mẹ: “máy đo huyết áp tại nhà. Thuốc men tại nhà. Bác sĩ phục vụ

tại nhà. Của ngon vật lạ gì Phùng cũng mua cho mẹ thử. Nơi nào đẹp, Phùng dẫn

mẹ đi thăm quan. Nghe nói vở chèo nào hay Phùng đều mua vé mời mẹ đi xem.

Vậy mà mẹ vẫn rầu rĩ sinh bệnh. Bà thẫn thờ như một cái bóng ra vào.”[22, tr.

181]. Phong Điệp đã tỏ ra am hiểu tâm lí cư dân đô thị khi để Phùng luôn coi giá

trị vật chất là giá trị tối thượng trong đời sống đô thị. Phùng luôn nghĩ giàu có thì

sẽ khiến con người ta hạnh phúc. Và Phùng muốn mẹ hạnh phúc bằng chính sự

giàu có của mình. Phùng không thể hiểu được tại sao khi có tất cả mọi thứ, được

nhàn hạ, được sung sướng đủ đầy mẹ Phùng lại héo úa, tàn tạ. Phong Điệp không

chỉ am hiểu tâm lí cư dân đô thị, chị càng hiểu tâm lí của những người phụ nữ

nông thôn như mẹ Phùng khi sống trong hoàn cảnh đủ đầy ở nơi đô thị. Với mẹ

Phùng, bà không đòi hỏi quá nhiều về mặt vật chất, thứ bà cần không phải là tiện

nghi đầy đủ, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người hạ. Bà cần có Phùng bên cạnh,

giàu hay nghèo đều có mẹ có con. Phùng là niềm vui, là hạnh phúc của bà. Vậy

mà Phùng không thực hiện được hay Phùng không hiểu điều đó có ý nghĩa như

thế nào với mẹ ở nơi thành phố xa lạ này. Một sự xung đột không dễ nói thành

lời. Người ta mong như bà còn chẳng được. Nói ra bà sợ làm Phùng buồn. Chính

sự âm thầm chịu đựng khiến khoảng cách giữa bà và Phùng ngày một xa. Khoảng

cách của sự khác biệt đã khiến bà lâm vào tình trạng trầm cảm, đáng thương.

Một vấn đề khác mà phải tinh tế và am hiểu những người dân quê Phong

Điệp mới phát hiện ra đó là nếp nghĩ nếp cảm khác biệt quá lớn giữa các thế hệ

đối với cuộc sống đô thị. Phùng không muốn mẹ vất vả. Bà đã khổ cực cả đời,

nay phải được nghỉ ngơi. Chính Phùng không hiểu chính sự nghỉ ngơi, nhàn hạ

43

nơi đô thị cũng đang làm bà héo úa. Vốn quen lao động chân tay bà cảm thấy

mình trở nên vô dụng khi không phải đụng chân đụng tay vào việc gì. Lao động

với những người nông dân không chỉ là thói quen, nó còn là niềm vui, mà còn

khiến bà thấy mình có ích.

Đi sâu vào hoàn cảnh sống của mẹ Phùng, Phong Điệp chỉ cho độc giả thấy

sự xung đột chính yếu giữa văn hóa truyền thống với văn hóa đô thị chính là sự

khác biệt giữa không gian sống rộng rãi, thoáng đãng, gần gũi và giao hòa với tự

nhiên ở nông thôn với không gian sống chật hẹp, ngột ngạt và xa rời, cách biệt

với thiên nhiên nơi đô thị khiến con người như mẹ Phùng khó có thể thích nghi

nổi. Có lẽ chính Phong Điệp đã trải qua hoàn cảnh này nên chị viết không chỉ

bằng sự trải nghiệm của bản thân và bằng cả sự cảm thông, thấu hiểu sâu sắc với

nhân vật. Sự thay đổi môi trường sống một cách đột ngột khiến bà “không quen

được cái nhà trên phố”. Bởi vì, nhà phố “mang tiếng là nhà có vườn nhưng vườn

chỉ bé bằng manh chiếu, may ra thì trổ được ít hành húng.”[22, tr. 178]. Cả cuộc

đời bà “bước chân ra ngoài ngoài nhà là gặp luống rau xanh mướt mát, là vườn

cây ăn quả mùa nào thức ấy xum xuê, là đàn gà ao cá tíu ta tíu tít, là đồng ruộng

bời bời nắng gió” [22, tr. 178]. Cuộc sống nơi đô thị khiến bà ngột ngạt, bức bối:

“Tự nhiên phải sống kiểu nhà cao cửa kín không có cả không khí mà thở, toilet

liền kề với bếp ăn, bà thấy hãi hãi. Thời gian đầu mẹ ngồi ăn, con giật nước bên

trong, tí nữa thì bà nôn.”[22, tr. 178]. Vậy nên, “không bao giờ bà dám đóng cửa

sổ, trừ khi mưa bão. Vì đóng cửa sổ thì cũng bịt hết không khí bên ngoài vào.

Sống kiểu ấy có khi chết vì ngạt trước khi chết vì bệnh tật.” [22, tr. 178]. Ở với

Phùng nơi đô thị, bà có tất cả những điều kiện vật chất tốt, nhưng càng tiện nghi

bao nhiêu bà càng cảm thấy mệt mỏi bấy nhiêu. Bà đã cố gắng kiên nhẫn để hòa

nhập với đô thị, bà đã thỏa hiệp nhưng: “dù đã cố gắng thỏa hiệp bà vẫn không

tài nào quen được tòa nhà cao ngất ngưởng, tầng dưới tầng trên cũng phải đi

bằng thang máy, bước chân vào chỉ tổ chóng mặt. Điện thoại chốc chốc lại đổ

chuông khiến bà giật mình thon thót.” [22, tr. 178]. Sự vất vả, cơ cực trong suốt

những tháng năm tuổi trẻ chưa bao giờ làm bà gục ngã. Bà luôn kiên cường vừa

44

làm mẹ vừa làm cha. Là chỗ dựa, cũng là hầm trú ẩn an toàn cho Phùng sau tất cả

những ghẻ lạnh, những khinh bỉ của người đời. Khi đó bà được sống, được hít thở

bầu không khí thoáng đãng, cao rộng của làng quê. Vậy mà giờ cái sự sống mạnh

mẽ ấy cứ bị bào mòn bởi những tiện nghi vật chất mà Phùng lầm tưởng mang lại

sự sung sướng cho bà. Bà là cái cây chịu phong ba bão táp mới trở nên cứng cỏi.

Bây giờ, cái cây ấy đang cớm nắng, cớm gió đang héo úa dần. Chính sự xung đột

về văn hóa, nếp cảm nếp nghĩ đã tạo ra những bất hạnh cho cư dân đô thị đến từ

vùng ngoại vi.

Viết về sự xung đột văn hóa nông thôn với văn hóa đô thị Phong Điệp tỏ ra

tinh tế từ những chi tiết nhỏ như mẹ Phùng cảm thấy buồn nôn khi đang ngồi ăn

bên ngoài mà con xả nước nhà vệ sinh bên trong đã cho thấy khả năng quan sát

và biết lựa chọn chi tiết để làm nổi bật sự xung đột văn hóa. Với nông thôn nhà

vệ sinh bao giờ cũng là không gian tế nhị, riêng tư luôn được bố trí ở những vị trí

xa khuất, còn thành phố sự tiện lợi và tiết kiệm không gian lại được đề cao. Chính

sự am tường về văn hóa cả nông thôn lẫn đô thị nên trang viết của Phong Điệp

không chỉ chân thực mà lôi cuốn người đọc.

Không chỉ tập trung thể hiện sự xung đột văn hóa truyền thống mà Phong

Điệp còn thể hiện sự xung đột quan niệm đạo đức do bị nhiễm cuộc sống đô thị.

Sự xung đột diễn ra giữa những con người cùng đến từ ngoại vi, hoặc giữa những

con người đến từ ngoại vi với con người gốc gác đô thị.

Ở những con người ngoại vi thì việc đến đô thị trước hay sau đã có sự nhìn

nhận khác nhau về sự đứng đắn hay tử tế của một con người. Đó là sự xung đột

quan niệm đạo đức. Ta có thể thấy rõ điều này trong hai nhân vật Hạ và mẹ Quân

trong tiểu thuyết Blogger. Hạ là một cô gái tỉnh lẻ tìm đến đô thị. Tốt nghiệp đại

học và xin vào làm ở một Viện nghiên cứu nơi thành phố. Hạ yêu Quân từ khi còn

là sinh viên. Ra trường có việc làm, cô muốn lập gia đình với Quân. Nhưng bà mẹ

Quân từ quê ra không chấp nhận cuộc hôn nhân này. Theo bà, Hạ không phù hợp

để làm vợ Quân. Ngoài những khác biệt về tính cách, điều bà không thể chấp nhận

45

Hạ làm con dâu còn xuất phát từ quan niệm đạo đức. Việc Hạ ở thành phố, thuê

trọ, sống một mình và nửa đêm nhắn tin cho người yêu là hoàn toàn bình thường

và bất kì cô gái đứng đắn nào cũng có thể làm. Nhưng với mẹ Quân thì điều này

không bình thường. Trong mắt bà Hạ là một “con nặc nô”, một đứa “con gái mặt

dạn mày dày”, cái đồ “lăng loàn”, hư hỏng. Sự xung đột trong quan niệm đạo

đức xuất phát từ việc mẹ Quân nhìn Hạ với con mắt của một người nông dân sống

trong môi trường bị ràng buộc bởi những tư tưởng đã lạc hậu và không còn thích

hợp với đô thị. Sự xung đột này gián tiếp gây ra những bi kịch cho Hạ, và nếu cứ

giữ nguyên cái quan niệm này thì chính mẹ Quân cũng rơi vào bi kịch nơi phố thị

này. Phong Điệp đã nhìn thấy những nguyên nhân sâu xa khiến những người nông

dẫn chất phác, đôn hậu như bà trở nên mất đi sự bao dung và độ lượng của người

phụ nữ dẫn tới cái nhìn phiến diện về đạo đức của con người.

Với nhãn quan đô thị sắc sảo, Phong Điệp tiếp tục khám phá sự xung đột

trong quan niệm đạo đức giữa một bên coi nhân phẩm của bản thân như một giá

trị cần giữ gìn còn một bên coi nhân phẩm như một phương tiện để thực hiện mục

đích. Sự xung đột này Phong Điệp tập trung thể hiện ở bốn nhân vật Nhung, Kiều,

Oanh, Phương trong Lạc chốn thị thành. Xuất phát điểm của các cô giống nhau.

Cả bốn cô đều giàu mơ ước, khát vọng nhưng sự lựa chọn đường đi cho riêng

mình đã khiến các cô nảy sinh xung đột về quan niệm đạo đức và dần cách biệt

nhau. Ở Phương có khát vọng được ở lại Hà Nội, có nhà, có hộ khẩu, có tiền bạc,

có cuộc sống nhàn hạ. Oanh dù không có tấm bằng đại học nhưng cô có khát vọng

làm giầu ở chính nơi mà cô vấp ngã, cô muốn khẳng định giá trị của bản thân với

gia đình và bạn bè bằng cách buôn bán. Cô muốn chứng minh cho mọi người thấy

cô có thể thành công trong cuộc sống mà không nhất thiết phải có tấm bằng đại

học. Khát vọng của Phương, của Oanh đều chính đáng, và là động lực để họ vươn

lên. Khát vọng ấy chắc hẳn cả Kiều và Nhung đều đồng tình. Thế nhưng, cách mà

Phương và Oanh thực hiện để đạt mục tiêu của mình lại khiến cho hai cô bạn còn

lại và chắc hẳn xã hội khó đồng tình. Họ xung đột rồi dần xa nhau. Trong khi cả

Nhung và Kiều đều thất nghiệp, hai cô chấp nhận làm đủ nghề để tồn tại, các cô

46

chấp nhận mọi gian khổ nhưng không chấp nhận đánh đổi bản thân để lấy những

đồng tiền nhơ bẩn. Thậm chí khi Kiều có cơ hội được làm việc theo đúng chuyên

ngành mình đã học khi thử việc tại văn phòng luật Chính Nghĩa, nhưng cô đã sẵn

sàng từ bỏ, chấp nhận thất nghiệp để không phải thay đổi mình theo chiều hướng

xấu, bán rẻ lương tâm, và lý tưởng của mình để lấy những đồng tiền không chính

đáng và một chỗ ngồi trong xã hội. Còn Nhung sau những vất vả cô cũng có việc

làm và cô đã cống hiến cho xã hội bằng chính tài năng và lương tâm của mình.

Xung đột với quan điểm đạo đức này, để đạt mục đích của mình, Phương lấy chính

mình là vốn tự có. Không quan tâm đến danh dự, đạo đức của cá nhân, Phương

chấp nhận làm gái bao của một người đàn ông đáng tuổi bố mình với vỏ bọc bên

ngoài là ông bố nuôi. Khi Kiều phát hiện bí mật của Phương, Phương đã lạnh lùng

tuyên bố xa rời nhóm bạn, cắt đứt mọi liên hệ tình cảm, nhất quyết đi theo con

đường mình đã lựa chọn. Oanh khởi nghiệp bằng việc buôn bán nhỏ lẻ quanh các

trường đại học, lợi nhuận chẳng đáng là bao mà phải tranh cướp, chụp giật Oanh

chuyển sang buôn bán lớn hơn với khát vọng làm giầu nhanh chóng. Oanh đã

dùng thân mình như một tài sản để góp vốn, Oanh sẵn sàng cặp với một lão già

người Hàn Quốc để thuận lợi cho việc buôn bán và hi vọng kiếm được một số tiền

lớn nếu sinh được đứa con trai, sự việc không thành Oanh tiếp tục lao vào cặp với

những người đàn ông khác để cuối cùng nhận kết thúc đau đớn, tủi nhục cho bản

thân. Hành động của Phương và Oanh không chỉ đi trái thuần phong mỹ tục của

người Việt Nam mà còn thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức trong giới trẻ, vì

những giá trị vật chất mà sẵn sàng bán rẻ cả bản thân mình. Sự xung đột trong

quan điểm đạo đức đã khiến Phương và Oanh không đủ can đảm để quay trở lại

với Nhung, Kiều sau những vấp ngã. Chỉ có lòng vị tha và tình bạn chân thành

mới giúp Nhung, Kiều vượt qua những định kiến và cả những nỗi sợ hãi để giang

rộng vòng tay đón họ trở lại. Phong Điệp không trực tiếp lên án đạo đức lối sống

của Phương, Oanh hay ca ngợi Nhung, Kiều, dù giữ thái độ khách quan nhưng

người đọc cảm nhận được tình cảm trân trọng của Phong Điệp với những những

cô gái giàu bản lĩnh như Nhung, Kiều trước đô thị đầy cạm bẫy, đồng thời thể

47

hiện nỗi xót thương cho những cô gái lầm lạc như Phương, Oanh. So với các nhà

văn viết về đô thị khác Phong Điệp ít tạo dựng những xung đột trực diện, gay gắt

về văn hóa, đạo đức. Tuy nhẹ nhàng nhưng những xung đột mà chị tạo dựng đã

giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về đời sống văn hóa của cư dân đô thị nhất

là bộ phận đến từ ngoại vi. Qua những xung đột, Phong Điệp thể hiện rõ sự am

hiểu đời sống văn hóa của cư dân đô thị đồng thời kín đáo bộc lộ thái độ tình cảm

của mình trước những vấn đề văn hóa đạo đức của con người trong cuộc sống

đương đại.

2.2. Cảm quan về con người đô thị

2.2.1. Con người trong cuộc mưu sinh và lập nghiệp

Khi cuốn Lạc chốn thị thành ra đời, Phong Điệp đã tâm sự: “Tôi luôn

muốn viết về cuộc sống của những người trẻ tuổi, trước ngưỡng của cuộc đời,

trong đó có tôi và rất nhiều bạn bè. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng thật

khó để kiếm tìm cho mình một chỗ đứng trong cuộc đời. Con đường mưu sinh,

lập nghiệp ấy có lúc thật khốc liệt...”[16]. Không chỉ có trong Lạc chốn thị thành,

ở Blogger, Ga kí ức những trang viết của chị thấm đẫm sự đồng hành và cảm

thông ấy ta luôn bắt gặp hình ảnh những sinh viên tốt nghiệp, những nhân viên

văn phòng, những người lao động đủ loại, đủ nghề nhất là những sinh viên nữ

ngoại tỉnh về thành phố lập nghiệp đều vật vã trong cuộc mưu sinh nơi phồn hoa

đô hội.

Ám ảnh bởi sự mưu sinh lập nghiệp nên trang của Phong Điệp hầu như

thiếu vắng sự thụ hưởng. Đọc Đỗ Phấn ta dễ dàng nhận ra hầu hết các nhân vật

thị dân lâu đời trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn đều có một vốn kiến thức ẩm thực

dày dặn. Tất cả các món ăn từ đơn giản đến phức tạp đều được họ chế biến,

thưởng thức như một môn nghệ thuật. Thế giới nhân vật của Phong Điệp chủ

yếu là những nhân vật xuất thân từ tỉnh lẻ. Vậy nên, “ Tứ cô nương” Kiều, Oanh,

Nhung, Phương trong Lạc chốn thị thành của Phong Điệp thì chế biến và thưởng

thức những món ăn như vậy là một sự xa xỉ. Họ chẳng dám, mà có dám họ cũng

48

chẳng thể. Bệnh viêm màng túi mãn tính của những sinh viên tỉnh lẻ xa nhà, đối

diện với thực tế thất nghiệp, thường trực với sự nghiệp ăn bám kéo dài thì có cái

để cho no cái dạ dày đã là điều may mắn. Họ thèm thuồng trước món quà nghèo,

và coi là thú vui không dễ mấy ai có được khi được ăn món “quẩy nóng”. Phong

Điệp tạo ra cái cảm giác hạnh phúc cho nhân vật của mình thật giản đơn nhưng

cũng thật hiếm hoi trong cuộc mưu sinh lập nghiệp. Hạnh phúc với họ chỉ là “buổi

tối mùa đông căm căm rét, mấy đứa chúng tôi được xì xụp ngồi quanh chảo quẩy

nóng, chờ cho những cục bột bé tí xíu trong chớp mắt biến thành những thanh

quẩy vàng bóng, giòn tan, làm thỏa những miệng háu ăn. Thêm chút nước chấm

có vị thơm của tỏi đập dập, vị tê tê cay cay của tương ớt, và hơi bếp ấm cúng lan

tỏa quanh mình thì thật chẳng có thú vui nào bằng.”[16, tr. 11]. Trong cuộc mưu

sinh, đôi khi kiếm được chỗ làm, có một nơi để ngủ, có cơm để ăn dù thu nhập

chỉ là 300.000 ngàn đồng một tháng cũng khiến những người thất nghiệp như

Kiều trong Lạc chốn thị thành mừng đến rơi nước mắt. Ngay cả đến Phùng trong

Ga kí ức, một doanh nhân thành đạt, hắn không thiếu tiền, hắn sẵn sàng bỏ ba

triệu đồng để mua cả một tiệm tạp hóa toàn bim bim, bỏng ngô, bánh kẹo cho trẻ

con làng Bình Yên, hắn đón mẹ lên thành phố sống với đầy đủ tiện nghi và chăm

sóc mẹ với những điều kiện vật chất tốt nhất. Thế nhưng, với bản thân thì hắn

chẳng sống xa hoa để bù đắp cho tuổi thơ thiếu thốn tủi nhục, cũng chẳng vung

tiền ăn chơi trác táng để trả thù đời. Hắn vùi đầu vào công việc, hắn không thở ra

được lúc nào rảnh rỗi nên việc hưởng thụ lại càng không có trong dự định thiết kế

tương lai của hắn. Có lẽ, sự tằn tiện của một phụ nữ đã trải qua nhiều nỗi vất vả

cơ cực để tồn tại nơi đô thị đã giúp chị hiểu sâu sắc những niềm vui bé nhỏ của

bốn cô gái trong Lạc chốn thị thành và sự tằn tiện với chính mình của Phùng

trong Ga kí ức.

Vắng bóng những trang viết về ăn mà ngay cả uống và vui chơi thì Phong

Điệp cũng đề cập hết sức mờ nhạt. Với Cơ hội của chúa Nguyễn Việt Hà để cho

các nhân vật hay xuất hiện ở những khách sạn sang trọng, gặp nhau ở sân quần

vợt, hay giải trí ở những quầy bar, hộp đêm, cửa hàng Karaoke. Nhan nhản những

49

mác rượu Tây: Johny Walker, Remy Martel, Gordon, Martini. Còn trong văn Đỗ

Phấn thói quen ăn sáng uống cà phê tồn tại như một điều thiết yếu của cuộc sống

thị thành. Nhân vật của Phong Điệp không phải đám quan chức tai to mặt lớn

được xài tiền chùa vô tội vạ, hiếm những doanh nhân thành đạt tiêu tiền như

nước, cũng chẳng có đám thị dân trung lưu, quanh quẩn chỉ là những lao động

bình dân nên không gian giải trí của họ đa phần là không gian công cộng miễn

phí hoặc rẻ tiền. Nam trong Lạc chốn thị thành dù đã đi làm nhưng anh cũng chỉ

đủ khả năng rủ Kiều đi xem ca nhạc, đến khi u uất muốn trút bầu tâm sự với Kiều

thì Nam cũng chỉ đề nghị cô đến quán trà Đài Loan, rồi nuốt bao đau đớn tủi hổ

không nói được thành lời cùng với chai rượu và một đĩa lạc rang trước mặt Kiều.

Sự gắn bó của cặp Quân và Hạ trong Blogger cũng ít xuất hiện những địa điểm

giải trí như vũ trường, nhà hàng thậm trí cả nhà nghỉ, ngay đến cả việc làm tình

của họ cũng diễn ra chẳng mấy thi vị, lúc ở gốc cây, khi ở bãi cỏ và đa phần là ở

nhà trọ vừa rẻ tiền vừa tiện lợi, vừa sẵn có.

Để bám trụ nơi thành phố, tiếp tục nuôi những hi vọng về một tương lai tốt

đẹp, nhân nhân vật của chị chấp nhận vất vả, làm đủ nghề khác nhau để sống.

Đồng hành và thấm đẫm sự cảm thông của người trong cuộc, Phong Điệp để

người đọc thấy được vị mặn chát trong cuộc mưu sinh của mỗi nhân vật. Kiều và

Nhung trong Lạc chốn thị thành là nhân vật tiêu biểu. Tốt nghiệp đại học, dù

không xin được việc nhưng cả hai đều không muốn về quê. Dù nhiều lúc cảm

thấy hoang mang, chán chường khi phải quăng quật ròng rã mấy tháng trời kiếm

tìm việc làm nơi Hà thành nhưng ý định bám trụ lại, tiếp tục tìm kiếm cơ hội lập

nghiệp nơi đô thị của các cô chưa khi nào từ bỏ. Nhung đã từng tuyên bố khi lâm

vào hoàn cảnh bi đát của sự thất nghiệp: “Nói thì nói vậy thôi, chứ tao quyết ở

lại. Đây mới chính là đất sống của tụi mình. Chứ về quê, lại ngồi nhẵn đít bên

bàn giấy cho người khác sai vặt, lương ba cọc ba đồng, đầu óc mỗi ngày lại mụ

đi. Sống thế tao chẳng chơi” [16, tr. 57]. Phong Điệp tỏ ra đồng tình với phát

ngôn của Nhung. Các cô tìm mọi cách để ở lại thành phố không đơn thuần để tìm

kiếm một cuộc sống đủ đầy hơn về mặt vật chất, cao hơn thế là khát vọng sống

50

sôi nổi, say mê, cống hiến để trưởng thành trong môi trường đầy mới mẻ của

những tháng năm tuổi trẻ. Vậy nên Phong Điệp để hai cô làm đủ thứ việc:“bán

hàng trong hội chợ, phát hàng khuyến mại, tiếp thị bia, phát tờ bướm quảng cáo,

làm phiếu thăm dò khách hàng...” [16, tr. 41], mạo hiểm làm nhân viên thử việc

trong quán rượu, chấp nhận làm gia sư tạm thời, làm nhân viên bán hàng tại hiệu

kính thuốc, thử việc trong văn phòng luật trước khi có một công việc tử tế. Ngoài

hai nhân vật Nhung và Kiều trong Lạc chốn thị thành, Phong Điệp tiếp tục xây

dựng hình ảnh những người trẻ nhất là nhân vật nữ vất vả trong cuộc mưu sinh

lập nghiệp nơi đô thị thông qua nhân vật Oanh trong Lạc chốn thị thành. Không

bằng cấp, Oanh khó có cơ hội chen chân vào các công sở. Cô buôn bán đủ thứ để

sống từ giày dép, đồ lưu niệm, quần áo, mỹ phẩm cao cấp, sau bao thăng trầm cô

tiếp tục buôn bán đồ lưu niệm bằng chất liệu gốm sứ. Có thể thấy rằng, bóng

dáng các nhân vật với sự vất vả cơ cực nơi thành thị thật thân thuộc với Phong

Điệp. Hình ảnh Nhung, Kiều, Oanh có thể chính là hình ảnh bạn bè của chị hay

chính chị hóa thân trên trang viết. Phong Điệp quan sát cuộc sống của con người

đô thị từ chính trải nghiệm của một người xuất thân từ tỉnh lẻ. Vậy nên, trang viết

của chị thấm đẫm sự đồng cảm và sẻ chia khi nhìn sâu vào số phận của từng nhân

vật.

Không dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài những vất vả, cơ cực của những

con người đến từ tỉnh lẻ, Phong Điệp còn đi sâu phản ánh những góc khuất, những

nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần, những vết thương không khi nào lành được,

những khó khăn bế tắc, những dồn đẩy của xã hội khiến nhân vật phải trốn chạy

hoặc không ít lần tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Phong Điệp xót xa cho

cái giá quá đắt mà họ phải chịu cho cuộc sống đô thị. Trong Lạc chốn thị thành,

so với Phương và Oanh thì sự lo lắng miếng cơm manh áo, và nỗi ám ảnh về sự

thất nghiệp của Nhung và Kiều vẫn còn hạnh phúc. Với Phương với cái vẻ bên

ngoài đủ đầy, những lọ nước hoa đắt tiền, những chuyến du lịch dài ngày với ông

bố nuôi cũng không giấu được nỗi nhục nhã, ê chề khi chấp nhận làm gái bao

một kẻ đáng tuổi cha mình, khi bị con gái của ông bố nuôi cùng đám bạn hành

51

hạ và biến thành trò mua vui thì Phương nhận ra tình trạng thê thảm của bản thân,

cô lặng lẽ biến mất khỏi người thân và bạn bè để không phải đối diện với quá

khứ ô nhục của mình. Oanh còn thê thảm hơn. Cô biến thân xác mình làm vốn tự

có để kiếm lời, phải phá thai, cuối cùng nhiễm HIV. Cô đã chọn cái chết nhiều

lần để giải thoát cho chính mình nhưng không thành. Tuy được che chở trong

tình yêu thương của Nhung, Kiều nhưng nỗi đau của thân xác, nỗi nhục nhã của

tinh thần vẫn luôn đeo đẳng cô. Ngoài nhân vật trong Lạc chốn thị thành, Phong

Điệp còn xây dựng nhân vật Hạ trong Blogger cũng trở thành nhân vật chịu nhiều

đau khổ cho cuộc mưu sinh của mình. Hạ là một cô gái tỉnh lẻ, ra trường cô cũng

không thể tự mình xin được một công việc tử tế. Nhờ những mối quan hệ của

Quân, cô được vào làm tại một viên nghiên cứu với chân nhân viên thư viện. Để

giữ chân cho một công việc nhàm chán trong khi khối người thất nghiệp, Hạ chấp

nhận trở thành kẻ yếu thế trong cơ quan, bị biến thành con mồi cho lão sếp đê

tiện săn đuổi trong trò chơi “săn gái”, là vật hi sinh cho các cuộc đấu đá nội bộ,

là người cam chịu trước mọi oan ức, cô đã cố tìm việc khác, nhưng sự sĩ diện với

tấm bằng đại học, và cũng muốn đẹp mặt với xóm làng khi làm cho một cơ quan

nhà nước nên Hạ chấp nhận mọi sự buồn tẻ, nhàm chán, uất ức, tủi nhục, bế tắc.

Có lẽ miếng cơm manh áo làm cho con người ta hèn mọn đi. Hay cũng vì những

lí do mưu sinh khác mà người ta chấp nhận làm những việc người ta ghê tởm.

Nam trong Lạc chốn thị thành lâm vào hoàn cảnh thật trớ trêu và cũng oái oăm.

Vì món nợ ân tình với Vân, chủ văn phòng luật Chính Nghĩa, với tấm bằng đỏ

trong tay, vậy mà, Nam phải chấp nhận “làm cái công việc bẩn thỉu, mạt hạng”

mà anh cảm thấy “nhục nhã” là kiếm gái cho khách hàng, rồi “trong lúc họ làm

những chuyện nhớp nhúa ấy thì anh ngồi ngoài, chầu chực như một con chó canh

cổng bảo vệ chủ.” [16, tr. 225-226]. Nỗi nhục đến đỉnh điểm khi chính anh bị tên

khách hàng người Úc đè anh ra cưỡng hiếp. Cái giá cho sự mưu sinh thật quá sức

chịu đựng với anh. Ơn đã trả, Nam không đủ can đảm để đối diện với những nỗi

nhục nhã, anh đã nghỉ việc ở văn phòng luật Chính Nghĩa. Có thể thấy rõ, viết về

những cơ cực trong cuộc mưu sinh của những người trẻ ngoại tỉnh nơi đô thị,

52

Phong Điệp không hề hư cấu, chị viết một cách chân thực khách quan như chính

cuộc sống vốn thế. Tạo dựng hàng loạt những khó khăn, những biến cố cho từng

nhân vật đối diện để vượt quan hay thể hiện mình là cách chị giúp người đọc có

cái nhìn đa chiều và thực tế với những người trẻ nơi đô thị. Mỗi khó khăn, mỗi

thử thách là một trải nghiệm sống đáng quý. Mỗi vấp ngã là một bài học để người

trẻ trưởng thành. Chắc hẳn, mỗi bước đường đời nơi đô thị của người trẻ, nhất là

người trẻ đến từ ngoại tỉnh sẽ không bao giờ đơn độc. Sự đồng hành của Phong

Điệp sẽ giúp họ có thêm niềm tin để bước tiếp.

Kiểu mẫu nhân vật lập nghiệp là lựa chọn của nhiều nhà văn khi viết về đô

thị hay viết về người trẻ. Viết về nhân vật lập nghiệp, mỗi tác giả sẽ thấy được

số phận nhân vật trong một môi trường đầy hấp dẫn, cám dỗ và đầy cạm bẫy.

Môi trường ấy có thể giúp con người đổi đời nhưng cũng có thể kéo con người

xuống vực thẳm. Phong Điệp đến Hà Nội với hai bàn tay trắng và hành trang để

bước vào đời làm tấm bằng đại học, Phong Điệp không chỉ muốn bám trụ được

ở nơi Hà Thành, mà chị còn muốn lập nghiệp cho mình tại đây dù cho phải trải

qua bao thăng trầm vất vả. Ta không lạ khi các tiểu thuyết của chị hầu như vắng

bóng những cậu ấm, cô chiêu ăn chơi trác táng, hay những nhân vật mà đường

đời trải sẵn hoa hồng, hoạn lộ hanh thông. Nhân vật chính của chị chủ yếu là

người trẻ, ngụp lặn trong cuộc mưu sinh, lăn lộn trên đường đời, tìm cho mình

một chỗ đứng trong xã hội không chỉ để kiếm miếng ăn mà còn để khẳng định

giá trị của bản thân. Khó khăn có thể làm họ gục ngã nhưng sự khát khao, đam

mê, nhiệt huyết của tuổi trẻ giúp họ đứng dậy đi tiếp và vững vàng trên đôi chân

của mình. Với ánh mắt nhìn chứa nhiều thiện cảm nên hầu hết nhân vật lập nghiệp

của chị đều giàu nghị lực sống. Kiều và Nhung trong Lạc chốn thị thành dù trải

qua nhiều sóng gió nhưng với nỗ lực vươn lên mạnh mẽ và niềm tin vào những

điều tốt đẹp cả hai cô cuối cùng đã tìm được việc làm có ý nghĩa cho bản thân và

xã hội. Phương và Oanh sau những sai lầm của tuổi trẻ, các cô đã phải trả cái giá

quá đắt cho những toan tính thực dụng của mình. Dù nhiều lần tự tử không thành

và lại mang trong mình căn bệnh thế kỉ, nhưng Oanh đã không gục ngã, khát

53

vọng sống, khát vọng lập nghiệp vẫn chảy trong huyết quản đã giúp cô tiếp tục

mơ ước kinh doanh của mình bắt đầu lại với việc mở cửa hàng bán đồ lưu niệm.

Còn Phương sau biến cố cuộc đời cô không trượt dài trong sự tha hóa, lần đầu

tiên trong đời cô sống bằng chính sức lao động của mình khi cô có việc làm tại

Sài Gòn. Ngoài các nhân vật trong Lạc chốn thị thành, nhân vật Phùng trong Ga

kí ức được coi là hình mẫu tiêu biểu của kiểu nhân vật lập nghiệp. Tất nhiên,

Phong Điệp không có chủ ý xây dựng hình ảnh lí tưởng cho giới trẻ, với chị mọi

hình ảnh lí tưởng có lẽ sẽ mang nhiều hư cấu. Điều chị mong muốn mang lại cho

người đọc nhất là các bạn trẻ một động lực để sống tốt đẹp, động lực ấy phải bắt

nguồn từ hiện thực mới có sức thuyết phục cao. Nhân vật Phùng với tuổi thơ đầy

tủi nhục đã biết vươn lên để khẳng định giá trị của bản thân mình bằng chính nỗ

lực cá nhân, đi du học trong hoàn cảnh không còn viện trợ, trong lúc mọi người

buông xuôi, mất hi vọng, Phùng đã xoay sở đủ cách để không chỉ có tiền tồn tại,

tiền gửi về cho mẹ, mà anh còn lập xưởng may mang lại cuộc sống tốt đẹp cho

mình, cho mọi người nơi đất khách. Khát vọng vươn lên, vượt qua mọi khó khăn

cơ cực để khẳng định mình, để xây dựng sự nghiệp cho mình, cống hiến cho xã

hội là khát vọng cao đẹp của tuổi trẻ. Phong Điệp không hô hào, nhưng sự chân

thực trong các tác phẩm của chị lại có sức thuyết phục lớn cho những lí tưởng

không hề xa vời đó.

Trong tiểu thuyết viết về đô thị của Đỗ Phấn hình ảnh con người được

khắc họa có nhiều cám cảnh, tàn lụi, xót xa. Họ là những thực thể cô đơn, trống

rỗng, tẻ nhạt, ơ hờ, bất lực và tuyệt vọng. Còn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà

có nhân vật tuổi trẻ nhưng luôn hoang hoải, thiếu khát vọng sống, tồn tại không

mục đích, không lí tưởng. Phong Điệp đã tạo cho mình dấu ấn riêng khi viết về

con người đô thị. Nhân vật trong tiểu thuyết của chị dù là nam hay nữ, dù hoàn

cảnh sống cơ cực hay bất hạnh, nhưng khát khao vươn lên, khát khao thay đổi

hoàn cảnh và số phận để có cuộc sống tốt đẹp hơn luôn cháy bỏng trong họ. Dù

bế tắc hay tuyệt vọng nhân vật của chị cũng tìm được ánh sáng cuối đường hầm.

Đó chính là niềm tin vào cuộc sống và niềm tin vào những người trẻ, nhất là

54

những người trẻ đến từ tỉnh lẻ. Niềm tin đó chỉ có được khi Phong Điệp luôn tin

yêu, sẻ chia và đồng hành với những người trẻ.

Có thể nói, những trang viết về con người trong cuộc mưu sinh lập nghiệp

của giới trẻ đã làm cho Phong Điệp có một chỗ đứng vững chắc trong lòng độc

giả. Phong Điệp không chỉ viết bằng chính trải nghiệm chân thực của bản thân

mà còn viết bằng sự cảm thông và trân trọng những bạn trẻ. Bóng dáng các nhân

vật với giọt mồ hôi nhọc nhằn, với nước mắt của đau đớn, tủi hổ thất vọng khiến

lòng ta quặn thắt. Khát vọng được khẳng định mình, được tìm cho mình một lối

đi riêng, được đứng vững trên đôi chân mình khiến ta vui mừng và tin tưởng vào

các bạn trẻ. Đọc Phong Điệp ta thấy như lạc quan hơn. Hãy cứ đi, đường đời dù

chông gai, dù gian khổ nhưng nếu vượt lên chính bản thân mình, không gục ngã

trước hoàn cảnh, ta sẽ về tới đích.

2.2.2. Con người với ký ức về quá khứ và quê nhà

Cư dân đô thị trong các tiểu thuyết của Phong Điệp đa phần là dân nhập cư

ngoại tỉnh. Họ coi đô thị như một vùng đất hứa, và đến đô thị với khát vọng đổi

đời hoặc để rũ bỏ quá khứ gắn với cuộc sống đau buồn nơi làng quê. Nhung, Kiều

sau bốn năm học đại học ở Hà Nội, ra trường, để chờ đợi một công việc tử tế, tuy

phải sống những tháng ngày lay lắt, khốn khổ, chán chường, mệt mỏi, rồi có lúc

tuyệt vọng nhưng chưa bao giờ bao giờ họ có ý định quay lại quê nhà. Ngay cả

trong lúc hoang mang với cuộc sống đô thị Nhung cũng quyết bám trụ. Kiều cũng

không muốn về quê, cô không muốn tiếp tục phải đối diện với ánh mắt luôn soi

mói thiếu thiện cảm và giọng điệu đay nghiến suốt ngày của bà mợ, càng không

muốn cậu tiếp tục buồn và phải lo lắng quá nhiều cho mình. Dù tương lai có thế

nào Kiều cũng không muốn quay lại nơi “chỉ cất toàn những kỉ niệm buồn của

cuộc đời mình.”. Oanh dù không đỗ đại học cô cũng không muốn trở về quê. Khát

vọng làm giầu bằng con đường kinh doanh đã níu chân cô lại với phố phường.

Còn Phương, khát vọng có hộ khẩu, có nhà, có tiền ở Hà Nội đã khiến cô chấp

55

nhận làm gái bao. Với Phương về quê, đồng nghĩa với thất bại, là lạc hậu, là đói

nghèo, là tăm tối. Hạ trong Blogger cũng mang theo khát vọng như Nhung, Kiều,

Oanh, Phương. Tốt nghiệp đại học cô cũng muốn ở lại thành phố. Chỉ là nhân viên

thư viện quèn cho một Viện nghiên cứu, có một anh người yêu đẹp trai, hiền lành

ở thành phố đã khiến cho mẹ cô luôn tự hào với làng xóm. Cô là niềm mơ ước

của bao cô gái ở miền quê nghèo. Sự tự hào và kì vọng của mẹ đã vô tình chắn

lối, khiến cô chưa bao giờ có ý định quay lại quê nhà khi gục ngã nơi đô thị.

Hối hả với vòng quay cơm áo những tưởng miền kí ức, hình bóng quê nhà

sẽ chìm lắng, lãng quên. Thế nhưng, trong tâm hồn những người dân nhập cư luôn

có một vùng đất để trở về, quá khứ luôn ám ảnh hiện hữu. Nhân vật kết nối những

hành khách còn lại trong chuyến tàu trên Ga kí ức chính là cô, một bác sĩ tâm

thần, sống ở thành phố nhưng luôn mang theo hình ảnh xóm Chùa Cuối cùng

những câu hỏi day dứt về sự ra đi bí ẩn của người cha sau nhiều năm không có lời

giải đáp. Xóm Chùa Cuối đã lên phố, dấu vết của làng cũ không còn, những con

người cũ cũng không còn. Mỗi lần trở lại, trong cô là những câu hỏi đau đáu:

“Ông Sì nuôi cá giống - giờ ở đâu? Cô Thu làm nhang - giờ ở đâu?. Bác Cương

xuất khẩu lao động - giờ ở đâu?... Thằng Tùng đen như cơm cháy giờ ở đâu? Ở

đâu?.”[22, tr. 8-9]. Cô lần tìm từng dấu vết rồi, hình dung rõ rệt khung cảnh xóm

Chùa Cuối xưa: “Chỗ này là cái máy nước công cộng. Ngày xưa cả xóm chỉ có

mỗi cái máy nước bao cấp”. “Chỗ này trước là cây cầu”. “Trận lũ ấy.”, “Ngày

ấy ”. Nào là: “Chỗ này đây này... Ngày xưa chỗ này là nhà cô... Ngày xưa, cả

nhà cả cửa trông vào đàn lợn mà sống.”[22, tr. 11, 13]. Quá khứ về xóm Chùa

Cuối gắn liền với mẹ cô, đặc biệt luôn gợi ra kỉ niệm buồn về sự ra đi bí ẩn của

cha. Cô chưa khi nào thôi day dứt rồi tự hỏi: “Vì sao bố bỏ đi? Không ai giải đáp

cho cô. Bao nhiêu năm qua câu hỏi ấy cứ bám diết lấy cô, không cho cô yên,

chừng nào chưa có lời giải.” [22, tr. 73]. Sau nhiều năm, cô vẫn liên tục đặt đặt

ra hàng loạt những giả thuyết để trả lời cho việc bố cô bỏ đi trong quá khứ: “Có

phải bố tiếp tục nhận một nhiệm vụ quan trọng hơn nên phải ra đi? Có phải bố

có một nơi chốn mới? Có phải bố bị thương đúng chỗ hiểm nên bị bất lực. Không

56

muốn vợ con phải khổ vì mình nên ông đã lẳng lặng bỏ ra đi? Có phải sau chiến

tranh, bố bị bệnh mộng du, nên đã bỏ nhà ra đi vào lúc cơn bệnh phát tác? Có

phải...???.” [22, tr.153]. Cô nhận ra: “Sự biến mất đột ngột của bố, dù muốn hay

không đã khiến phần đời sau này của cô trở nên trống trải và vô nghĩa. Cô tự hiểu

rằng, chỉ khi nào có được lời giải đáp thấu đáo ngọn ngành cho sự ra đi ấy thì cô

mới trở lại trạng thái cân bằng.” [22, tr.154]. Trong trạng thái chông chênh khi

vẫn chưa tìm ra lời giải đáp cho quá khứ, cô lại rơi vào tình trạng hoài nghi chính

mình: “Cô là ai? Là ai đây?”, “Thành phố của cô đâu? Cô đã sai ư?”, “Tại sao

mẹ lại lẩn tránh ký ức?”, “Bà phải chăng chính là cô của ba mươi năm nữa?”,

“Cô có đủ can đảm để tiếp tục hành trình sống ấy không?”[22]. Quá khứ ám ảnh

khiến cô thấy sợ tình yêu: “Lâu nay cô thờ ơ với những người đàn ông đi qua đời

mình. Vì cô chưa bao giờ yêu. Cô sợ yêu, rồi những người đàn ông lại bỏ đi,

không kèm theo một lí do nào hết. Cô sợ sẽ như mẹ, một lúc nào đó, đứng câm

lặng trên ban công tầng thứ 24, nuôi duy nhất một ý nghĩ trong đầu là buông bỏ

mọi thứ cho gió cuốn đi.” [22, tr.198]. Cùng ở Ga kí ức, nhân vật y cũng luôn bị

ám ảnh bởi quá khứ và vùng đất quê hương y. Y là bệnh nhân của cô, y chạy trốn

khỏi “mảnh đất bị yểm bùa”, những tưởng y sẽ thoát, những tưởng ồn ào đô thị

sẽ làm y quên đi những lạnh lẽo, chết chóc của làng cũ, và căn bệnh truyền kiếp

sẽ không bám theo y. Nhưng quá khứ không buông tha y, ám ảnh y cả lúc tỉnh lẫn

lúc mơ: “Trong những giấc ngủ, y cố chống cự với kí ức xâm lấn vào các cơn mơ

ngày một dày hơn. Nó khiến y mòn mỏi. Tinh thần rệu rã. Y không tài nào thoát

ra khỏi phòng sách mốc xỉn của bố. Đám mèo hoang chạy huỳnh huỵch trên mái

nhà. Tất cả bủa vây lấy y, chi phối từng nhịp thở của y, y càng không muốn nhớ

thì kí ức ấy càng giày vò y. Và những cơn đau đầu bắt đầu giày vò y.” [22, tr.138].

Làng cũ ám ảnh y, hai chị cũng luôn đến với y trong từng giấc chập chờn: “Trong

những cơn mơ day dứt về làng cũ, y vẫn gặp hai chị. Mắt mở to. Nhìn y không

chớp mắt. Và không cười.” [22, tr.138]. Quá khứ không chỉ ám ảnh mà còn dằn

vặt y, thúc giục y trở về: “Chẳng phải nhiều đêm y đã nhung nhớ, đã vật vã mãi

về nơi chốn cũ hay sao? Y dằn vặt mình về việc đã bỏ đi. Dù có viện lí do gì chăng

57

nữa thì việc bỏ đi cũng để lại trong lòng y sự ăn năn, hối hận. Từng có lúc y muốn

quay trở về. Khi thấy không chịu nổi tâm thế cô đơn lạc loài nơi phố xá. Nếu vậy

thì thành phố không níu giữ y làm gì nữa. lòng dạ y ở đâu, thì y hãy tìm về nơi đó.

Y hãy đi đi. Về tiếp tục hàn gắn những kí ức mà sống. Để khỏi phải ăn năn.”[22,

tr.148]. Với y quá khứ đã chảy trong huyết quản, theo từng nhịp thở, ám ảnh, thúc

bách, khiến y đau đớn, vật vã. Càng trốn chạy y càng bị ám ảnh, càng xa lánh y

càng đau khổ. Có lẽ, Phùng là nhân vật duy nhất tỉnh táo, thực tế trong Ga kí ức.

Dù đã tuyên bố : “Phải đi thôi. Dứt bỏ ký ức mà đi thôi” [22, tr. 187], “Ký ức là

ký ức. Cái gì có phận sự của cái ấy. Không thể đắm chìm mãi với ký ức. Cái cuộc

sống phía trước mới thực sự là cuộc sống của mình” [22, tr. 227] thì vẫn không

thể lẩn tránh ký ức, khi phải đối diện, phải giải quyết điều xảy ra với người mẹ

yêu quý vì bà không thể thích nghi với cuộc sống hiện đại do Phùng tạo dựng, mà

trong thâm tâm Phùng ngỡ là tất cả. Bà là sản phẩm của quá khứ, bà là người sống

với ký ức. Nếu Phùng không chấp nhận ký ức ấy, không biết chia sẻ với ký ức ấy,

mẹ con anh chỉ còn là hai sinh thể sống được kết nối bằng mối dây của tình mẫu

tử đang dần dà có xu hướng lỏng lẻo. Có thể thấy mỗi nhân vật trong Ga kí ức của

Phong Điệp đều gắn bó với một miền quê. Ám ảnh, day dứt với ký ức về quê

hương như là một cách để chối bỏ đô thị và thanh lọc tâm hồn con người đô thị.

2.2.3. Con người tha hóa.

Trong cái ngổn ngang, bề bộn, đầy biến động, quay đảo hỗn tạp của đô thị

con người rất dễ bị tha hoá, biến chất, sống một đời sống bất ổn. Sự tha hoá trong

các nhân vật của Phong Điệp xảy ra dưới nhiều cấp độ và biểu hiện vô cùng đa

dạng: kẻ thì chớm hư hỏng, còn có khả năng thức tỉnh, kẻ thì bị nhuộm đen hoàn

toàn và chỉ là con thú đội lốt người. Có sự tha hoá do tình thế đưa lại, do hám vật

chất, tiền bạc, có sự tha hoá về nhân cách lối sống. Trước tiên, Phong Điệp phát

hiện sự tha hóa của một bộ phận người trẻ, những con người luôn ham muốn có

được có được sự giầu có, đủ đầy nhưng không phải bằng đôi bàn tay và khối óc

mà bằng chính thân xác của mình. Phương và Oanh trong Lạc chốn thị thành là

những nhân vật điển hình cho sự tha hóa do hám vật chất, tiền bạc. Đến với đô

58

thị, Phương cũng như Kiều, Nhung và Oanh, Họ đều là những cô gái đến từ tỉnh

lẻ, ngây thơ trong sáng. Môi trường sống của đô thị với biết bao cám dỗ vật chất

không làm Nhung và Kiều thay đổi lối sống nhưng lại làm Phương và Oanh thay

đổi rất nhiều. Phương không muốn mình sống lay lắt trong những ngôi nhà trọ tồi

tàn như Kiều, cũng không muốn bươn chải vất vả như Oanh, càng không muốn

phụ thuộc vào người quen như Nhung. Phương không muốn chịu cảnh ra trường

lại mòn mỏi để chờ xin được việc làm với đủ thứ cạnh tranh ở nơi đô thị. Cô muốn

có nhà, có hộ khẩu, có xe, có tiền, có việc làm, những chuyến du lịch nước ngoài.

Với hai bàn tay trắng, thân cô thế cô nơi thành thị, để có được những thứ đó

Phương sẵn sàng lấy chính cái vốn tự có để đánh đổi. Phương chấp nhận cái vỏ

bọc là làm “con nuôi” mà thực chất là làm gái bao cho một lão già giầu có. Bị

Kiều phát hiện ra mối quan hệ của mình, Phương cũng chẳng cần thanh minh,

cũng chẳng tỏ ra tội lỗi hay ân hận. Đó là con đường Phương chọn để có được

những thứ Phương muốn. Phương chấp nhận hi sinh cả tình bạn gắn bó suốt thời

đại học chứ không thể từ bỏ mục tiêu mà Phương đã đề ra và quyết tâm thực hiện.

Sự hào nhoáng của vật chất nơi đô thành đã làm Phương thay đổi, biến chất, tha

hóa. Nếu Phương dùng chính tấm thân mình là một món hàng để trao đổi thì Oanh

lại “sử dụng tình ái, xác thịt để làm ăn, để lên xe xuống ngựa, để qua mặt kẻ khác,

để không bị chèn ép”[16, tr. 270]. Oanh sử dụng tình ái, thân xác như một phương

tiện để kinh doanh, coi tấm thân mình như một thứ tài sản để góp vốn, để làm lợi

thế cạnh tranh. Oanh sẵn sàng cặp bồ với một lão già người Hàn Quốc để được

ưu ái trong việc nhập hàng lậu với giá rẻ để phân phối cho các cửa hàng khác kiếm

lời. Oanh chấp nhận mang thai cho lão già ấy với hi vọng mình sẽ được một số

tiền lớn nếu đứa bé là con trai. Đôi lúc Oanh đã phải thú nhận: “đã lao theo đồng

tiền một cách điên cuồng”. Trong quá trình tha hóa của mình: “Cũng từng có lúc

nó muốn dứt mình khỏi cơn lốc xoáy chết người ấy nhưng vì lý do này, lý do nọ,

nó cứ nấn ná để kết cục vẫn nguyên vẹn là một con thiêu thân”[16, tr. 267]. Sự

tha hóa của Phương và Oanh khiến người đọc không khỏi đau đớn, xót xa cho sự

lệch lạc trong lối sống của một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay.

59

Nếu ở Phương và Oanh sự tha hóa chính là ham muốn chạy theo tiền bạc,

vật chất, vì tiền bạc, vật chất sẵn sàng chấp nhận đánh đổi bằng chính thân thể

mình thì Sếp của Hạ trong Blogger là kẻ bị tha hóa cả về nhân cách và lối sống.

Đứng đầu một viện nghiên cứu, thế nhưng, những khe hở trắng nõn nơi cổ áo rộng

khiến hắn khát khao đến mê mẩn hơn bất cứ công trình nghiên cứu nào: “Hắn

nhìn chăm chăm vào khoảng hõm trắng xanh, rõ lớp lông tơ mịn màng giữa hai

bầu vú của con bé… hai đầu ti như hai viên kẹo hồng. Thơm mùi quả vừa chín

tới. Làm hắn thèm thuồng” [18, tr. 24]. Tâm trí và sức lực của hắn tập trung hết

cho việc tìm ra cách sập bẫy con mồi trong trò chơi săn gái bệnh hoạn của hắn.

Hắn lão luyện trong việc nhử mồi. Với những nhân viên như An, như Hòa hám

lợi hắn dùng miếng mồi là tiền bạc và địa vị ở cơ quan để các con mồi tự động

chui vào bẫy, thậm chí tranh nhau chui vào bẫy của hắn. Còn với Hạ, một cô gái

tỉnh lẻ cần việc làm, hắn lại dùng quyền sa thải để gây áp lực khiến cô phải sập

bẫy. Câu nói của hắn với Hạ trong nhà nghỉ: “Chú cháu chó gì. Vứt mẹ kính trọng

ấy đi”[18, tr. 63] khiến người đọc ghê tởm. Phong Điệp đã nhìn thấu bản chất đê

tiện của hắn, chị đã lột mặt lạ để hắn hiện hình. Đằng sau vẻ bệ vệ, oai phong, trí

thức của một viện trưởng là bản chất của một kẻ thiếu văn hóa với lời nói của một

kẻ đầu đường xó chợ. Một kẻ không cần liêm sỉ, không cần kính trọng mà chỉ cần

thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn thú tính. Không dừng lại ở đó, với giọng văn lạnh

lùng Phong Điệp đã phơi bầy bản chất thú vật khi hắn hả hê thưởng thức con mồi

trong cuộc săn gái: “Hắn thích thú với mọi phản ứng từ phía con mồi. Giống như

những gia vị của một bữa tiệc, thậm chí đại tiệc. Sẽ phải có đầy đủ: cay xóc óc

kiểu mù tạt. Cay ran lưỡi kiểu ớt chỉ thiên. Cay rực họng kiểu tiêu sọ... và hắn

làm chủ bàn tiệc ấy” [18, tr. 25]. Hành động của hắn, suy nghĩ của hắn, lối sống

của hắn là sự tha hóa về nhân tính, sự tha hóa ấy trở nên thật nguy hiểm khi có sự

tiếp tay của quyền lực, địa vị, tiền bạc.

Không chỉ là kẻ sống theo bản năng, theo đuổi là dục vọng, khi bị anh hưởng

đến địa vị và quyền lực hắn trở thành kẻ vô nhân tính. Bị Hạ và ông bảo vệ già

bắt quả tang khi đang “hành sự” với chị tạp vụ, hắn tìm cách đối phó. Ông bảo

vệ thì chết đột ngột. Còn Hạ, hắn không muốn đe dọa trực tiếp sợ mọi chuyện um

60

xùm nhưng hắn vẫn có cách khiến cô phải im lặng. Hình ảnh cô vào nhà nghỉ với

hắn đã được chụp ảnh lại. Chỉ cần, cô hé răng, những tấm ảnh ấy sẽ được gửi cho

mẹ cô, cho người yêu cô. Như vậy, mọi thủ đoạn đối phó với mọi nhân viện trong

các tình huống bất lợi đều đã được hắn tính toán trước. Xây dựng nhân vật tha hóa

như sếp của Hạ, Phong Điệp không đi sâu miêu tả ngoại hình, chị tập trung làm

nổi bật nhân cách tha hóa thông qua lời nói, cử chỉ, hành động. Phong Điệp không

muốn miêu tả một nhân vật cụ thể, chị muốn khái quát về sự tha hóa về một kiểu

người không hề hiếm đang hiện hữu sống động ở nhiều công sở. Sự tha hóa của

kẻ có tiền, có quyền không chỉ làm băng hoại đạo đức xã hội, mà còn tạo ra môi

trường làm việc đầy bất an với những người lao động chân chính.

Có thể thấy rằng, Phong Điệp đã lí giải lối sống tha hóa bắt nguồn từ chính

cuộc sống vật chất hào nhoáng nơi đô thị. Sự nghèo khó, thiếu thốn dễ khiến con

người vì đồng tiền mà chấp nhận hành động thực dụng, nhơ bẩn trái với đạo lí,

văn hóa. Hoặc ngược lại do dư thừa vật chất con người dễ biến chất, sa đọa, trụy

lạc khiến người tha hóa mang tâm hồn của con thú. Tất nhiên, đô thị không có lỗi

mà chính cách ứng xử của con người trong môi trường ấy mới chính là nguyên

nhân tạo ra sự tha hóa.

TIỂU KẾT

Bức tranh đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp ít không gian thiên nhiên

mơ mộng. Đó là bức tranh đời sống với bao suy tư, trăn trở và bộn bề lo lắng.

Cũng viết về đô thị hóa nhưng Phong Điệp không quan tâm nhiều đến vùng trung

tâm mà chị chú ý đến quá trình đô thị hóa ở những không gian ngoại vi như một

hệ quả tất yếu của sự phát triển đô thị. Là người trong cuộc, chị thấu hiểu quá

trình ấy tuy đem đến cho đô thị vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng lại xáo trộn tận

gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước của những vùng ven đô. Đô thị hóa là một

sự lột xác đầy đau đớn và mất mát. Trong tiểu thuyết của mình Phong Điệp đã thể

hiện cái nhìn đa chiều về đời sống đô thị và phát hiện những xung đột về văn hóa,

về quan niệm đạo đức do tác động của quá trình đô thị hóa đem lại. Sự xung đột

61

ấy là sự va đập của văn hóa nông thôn truyền thống với văn hóa đô thị hiện đại

khi con người thay đổi không gian sống một cách thụ động.

Trong cảm quan đô thị của Phong Điệp, con người đô thị hiện lên khá đa

dạng. Đó là những người trẻ từ tỉnh lẻ đến đô thị, vật vã trong cuộc mưu sinh và

lập nghiệp. Hay những con người rời xa quê hương, hối hả với vòng quay cơm áo

nơi đô thị nhưng trong sâu thẳm trái tim luôn đau đáu hình ảnh thân thuộc với

khát vọng trở về. Phong Điệp bày tỏ sự cảm thông đến những người trẻ vì lối sống

thực dụng với những ham muốn vật chất đã đánh mất mình. Đồng thời, nhà văn

bầy tỏ sự ghê tởm sự tha hóa về đạo đức và lối sống của những kẻ có tiền, có

quyền, biến người phụ nữ trở thành con mồi trong cuộc săn đuổi nhằm thỏa mãn

ham muốn bệnh hoạn. Viết về con người đô thị với sự đồng hành, chia sẻ, Phong

Điệp luôn tin tưởng dù trải qua nhiều sóng gió, nhưng với khát vọng sống mãnh

liệt, cuối cùng họ sẽ tìm thấy niềm vui, hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.

62

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN

CẢM QUAN ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP

Phong Điệp là một trong những cây bút tiểu thuyết trẻ giàu khát vọng cách

tân. Tiểu thuyết của chị thường không dễ đọc bởi tính trò chơi và dấu ấn của chủ

nghĩa hậu hiện đại in đậm trong lối viết. Với thủ pháp nghệ thuật như cắt dán văn

bản, kiểu nhân vật phân thân, lồng ghép và di chuyển điểm nhìn trần thuật... tiểu

thuyết của chị là những thể nghiệm mới lạ và thách thức sự đọc của độc giả. Trong

phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát những phương diện nghệ thuật cơ

bản nhất liên quan đến sự thể hiện cảm quan đô thị của tác giả Phong Điệp như

ngôn ngữ nhân vật, điểm nhìn và không gian, thời gian nghệ thuật

3.1. Ngôn ngữ nhân vật

3.1.1. Ngôn ngữ mang màu sắc thị dân đời thường

Trước 1975 ngôn ngữ trong tiểu thuyết mang đậm tính văn chương, ngôn

ngữ sử thi với sự thi vị hóa đã tạo khoảng cách nhất định với ngôn ngữ đời thường.

Đến văn tiểu thuyết hiện đại, ngôn ngữ đời thường tràn vào ồ ạt, không màu mè

mà thông tục, suồng sã. Các tiểu thuyết gia đương đại không còn coi tiểu thuyết

là miền thánh địa cao sang mà đưa tiểu thuyết về vùng đất thô ráp đời thường.

Ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại dần bớt đi vẻ trang trọng, thi vị, du

dương mà tăng thêm chất thô mộc gai góc, sống động của cuộc sống. Việc đưa

ngôn ngữ thị dân đời thường, nhất là dạng ngôn ngữ bị xem là thô tục vào văn

chương không phải là việc chưa từng có nhưng chưa bao giờ ngôn ngữ thị dân đời

thường ùa vào tiểu thuyết với một mức độ bạo liệt như trong các tiểu thuyết đương

đại mang cảm quan đô thị. Ở các tác phẩm viết về đô thị của Phong Điệp, ta có

thể dễ dàng nhận ra ngôn ngữ đài các, sang trọng, quyền uy được thay thế bằng

thứ ngôn ngữ hiện thực thị dân đời thường dung nạp nhiều từ khẩu ngữ làm cho

độc giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm.

63

Khẩu ngữ (từ hội thoại) là những từ được dùng ở lời nói miệng trong sinh

hoạt hàng ngày, nhất là trong đối thoại. Lớp khẩu ngữ được Phong Điệp sử dụng

thường xuyên có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Mỗi kiểu nhân vật

đều có ngôn ngữ đặc trưng của nhân vật đó, gắn với ngữ cảnh nhất định. Nhờ sử

dụng khẩu ngữ mà những giả dối, sự băng hoại đạo đức, sự nhẫn tâm của con

người đô thị được nhìn nhận một cách thẳng thắn.

Bước vào thế giới tiểu thuyết Phong Điệp, người đọc như được tiếp xúc với

những con người thật, sự việc thật bởi một phần do ngôn ngữ của tác phẩm gần

gũi với ngôn ngữ thị dân đời thường. Cách xưng hô, lối nói chuyện bình thường

được đưa vào tác phẩm kéo độc giả xích lại gần hơn tác phẩm. Qua đó, cá tính

nhân vật cũng được bộc lộ rõ nét.

Có thể bắt gặp trong tiểu thuyết của chị những câu thành ngữ hay cách nói

quen thuộc như: “ba cọc ba đồng, thần nanh đỏ mỏ, chậm như rùa, mặt hoa da

phấn, kén cá chọn canh, mặt dạn mày dày, con sâu cái kiến, canh mặn cơm nhão,

tim đập chân run, ăn cho qua ngày đoạn tháng, ngồi mát ăn bát vàng, không dưng

ai dễ đem phần đến cho, trút thêm dầu vào chảo, vắt mũi chưa sạch, ở trong chăn

mới biết chăn có rận, nam vô tửu như cờ vô phong, trúng số độc đắc, tẩn ngẩm

tầm ngầm, lơ ngơ như bò lên phố, ông chẳng bà chuộc, giãy đành đạch, rón ra

rón rén, chả nói chả rằng, ấp a ấp úng, vớ va vớ vẩn, mật ít ruồi nhiều, nhục như

con chó, trời sinh voi sinh cỏ…”[18] được mọi đối tượng thuộc các tầng lớp khác

nhau sử dụng cũng là cách thức tạo ra màu sắc dân dã, thị dân đời thường. Những

câu thành ngữ, mượn cách nói của thành ngữ và những câu nói quen thuộc này

mang lại giá trị biểu đạt cao.

Ngôn ngữ thị dân đời thường được thể hiện ngay trong cách xưng hô.

Những nhân vật là đối tượng lao chân tay nơi đô thị ưa sử dụng kiểu xưng hô

suồng sã “con này - tao”, cùng những tiếng đèo xíu, những văng tục. Đoạn đối

thoại của Kiều và ông chủ cửa hàng photocopy khi cô đến có ý định xin việc cho

ta thấy rõ điều đó:

64

“ Tôi mổ tay xuống bàn phím:

- Như c... thế này mà dám bảo là biết gõ.

Có tiếng cười khẩy đâu đó. Người tôi nóng ran.

- Thôi cháu xin phép - Tôi nén cơn nghẹn trong lồng ngực và đứng lên.

- Mẹ con này - người đàn ông cục cằn quát...

- Sao?

- Cháu...

- Vứt mẹ cái bằng đại học đi con ạ. Đại với chả học. Làm thì như con cục

c....” [16, tr. 240].

Không chỉ tầng lớp lao động phổ thông sử dụng ngôn ngữ vỉa hè, thông tục.

Phong Điệp còn để tầng lớp trí thức cũng sử dụng ngôn ngữ vỉa hề thông tục để

bộc lộ bản chất. Phong Điệp giỏi đặt những câu chửi thề “mang nguyên tính chất

vỉa hè” vào miệng lão sếp của Hạ dùng để bóc trần bản chất đê hèn của những kẻ

được ngụy trang với vỏ bọc bên ngoài bằng vẻ trí thức:

“ - Tôi là con người trọng tình cảm. Ai có tình cảm với tôi thì tôi quý trọng,

tôi nâng đỡ. Em hiểu chưa?

- Nhưng cháu vẫn luôn quý trọng chú mà.

- Chú cháu chó gì. Vứt mẹ cái kính trọng ấy đi.

Ông ta phun phì phì như một con rắn bị chọc tức” [18, tr. 62-63]...

“Ông ta nhìn nhanh xuống đũng quần ố đỏ của Hạ. Sự vồn vã đã tắt hẳn:

- Mẹ kiếp! Sao không nói sớm!

- Chú… chú làm ơn… gọi… lễ tân cho cháu với…

- Lễ tân cái chó gì. Thế này thì giải tán cho sớm chợ. Mẹ kiếp! Lấy tạm giấy

vệ sinh mà chịn vào. Nom kinh quá. Thôi, về! Về” [18, tr. 69].

65

Bằng một vài vỉa hè, cộng với những tiếng chửi thề, Phong Điệp đã gỡ mặt

nạ của lão sếp để hắn hiện nguyên hình trước mắt độc giả. Sự tử tế ban đầu đã

thay bằng thói vô văn hóa khi hắn không đạt được mục đích.

Có lẽ, chửi thề không phải là đặc quyền của đàn ông, chửi thề cũng không

chỉ dừng lại ở vỉa hè, góc chợ. Nó len lỏi cả vào công sở, được dùng với cả những

người có học, được dùng với cả phụ nữ. Để làm nổi bật sự đánh đá chua ngoa, và

sự giành giật miếng ăn trong chốn công sở Phong Điệp đã không ít lần cho nhân

vật An trong Blogger chửi thề:

“Chị An xồng xộc bước vào phòng:

- Mẹ cha nhà nó! Phòng Điều hành Dự án hôm trước bảo nhận em sang,

đến sáng nay thì kêu các sếp họp đã thay người khác, sẽ thông báo sau.

Trưởng phòng cười khì khì:

- Đào kép cũ hết thời thì có đào kép mới.

- Em thì em không để yên đâu!

- Cô thì làm được gì?

- Để rồi xem.” [18, tr. 79] hay ở entry 45: Nhân viên mới:

“Chị An chạy lên chạy xuống, nghe ngóng việc điều chuyển cán bộ, mặt

mũi đỏ gay…

Chị An nhìn xối vào ngực Hòa, chửi đổng:

- Mẹ kiếp, mật ít ruồi nhiều” [18, tr. 144]. Đó là một người phụ nữ tỏ ra

bất cần khi vị trí của mình có nguy cơ bị người khác cướp mất:

“- Bằng cấp gì cũng không bằng nằm ngửa. - Chị An dề môi. Trưởng phòng

lấm lét:

- Sao cô dám nói thế. Điên quá hóa liều hả. Cứ liệu hồn.

Chị An dẩu môi lên:

- Bà thì bà cứ nói toẹt ra đấy. Ai dám làm gì bà nào”[18, tr. 146]. Ngôn

ngữ của Hòa là ngôn ngữ của một con buôn bị lỗ vốn, nên phải dùng những từ

66

ngữ chợ búa mới hả được đau, được tức. Qua ngôn ngữ của Hòa, sự bi hài của

một viện nghiên cứu dần được phơi bày.

Cũng giống như Nguyễn Việt Hà, Phong Điệp không dẫn dắt rườm rà mà

để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ thứ ngôn ngữ thị dân suồng sã, đời thường, không

màu mè chau chuốt, mới thể hiện đúng hơi thở cuộc sống.

Bên cạnh từ ngữ thông tục, Phong Điệp còn sử dụng các từ ngữ mang nét

nghĩa mới của đời sống đô thị, thứ ngôn ngữ mang màu sắc hiện đại của vỉa hè để

làm nổi bật sự phẫn uất của nhân vật Hạ trước cách đối xử thô bạo của người yêu:

“ Quân gầm lên : “ Hoặc hôm nay, hoặc không bao giờ cô có cơ hội

nữa!”.Cô sững sờ nhìn Quân. Chết điếng: “ Tôi không phải là con cave.”[18, tr.

207].

Viết về đô thị trong bối cảnh internet bùng nổ toàn cầu, Phong Điệp đã khéo

léo sử dụng ngôn ngữ mạng như một đặc trưng cho văn phong của mình. Ở

Blogger khi viết về người trẻ, vốn là một hotblogger Phong Điệp sử dụng khá

dày đặc lớp từ ngữ chuyên dụng của mạng internet: “chat (trò chuyện), chatroom

(phòng chat), comment (bình luận), nickname (biệt danh), forum (diễn đàn), reply

(trả lời), online (trực tuyến), about me (về tôi), blogger (người viết blog), friendlist

(danh sách bạn bè), delete (xóa), quick comment (bình luận nhanh chóng), icon

(biểu tượng), is not available to chat (không có sẵn để trò chuyện)…” [22]. Đây

là những từ ngữ được sử dụng phổ biến và khá quen thuộc với độc giả, đặc biệt là

giới trẻ. Với việc sử dụng lớp từ ngữ này, tác giả đã tạo ra được một không gian

mạng trong Blogger như tên gọi của tác phẩm.

Ngôn ngữ mạng trong Blogger không chỉ dừng lại ở việc sử dụng lớp từ ngữ

chuyên dụng mà còn sử dụng những từ ngữ, cách nói riêng. Hiện nay, chúng được

giới trẻ sử dụng khá phổ biến. Đó là những từ đọc chệch hay được sáng tạo theo

lối “iếc hóa”: túm lại (tóm lại), vớ vỉn (vớ vẩn), nét niếc (net), chát chiếc hay chát

chít đều chỉ chat, nhắn tin nhắn tiếc (nhắn tin)… hay một số cách nói như: bình

thường như ăn cơm uống nước, cứ từ từ khoai sẽ dừ, đen như con mèo hen…một

67

số hiện tượng đời sống vào trong ngôn ngữ mạng được nói, gọi tên riêng: xì căng

đan (gây chấn động trong dư luận), nhân vật hot (người gây được sự chú ý, quan

tâm của nhiều người), xăng pha nhớt (người đồng tính), lăn cu đơ (ngã), chảy

nước (khóc), để mốc (bỏ quên, bỏ rơi), giám đốc thông tấn xã vỉa hè (chỉ người

hay buôn chuyện), mấy chú Khoai Tây (chỉ người Tây), phê (thỏa mãn, thích thú),

phắn (bỏ đi), lúa ngắn ngày (một việc diễn ra nhanh hơn mức bình thường), vãi

linh hồn (sợ), cho leo cây (bị lừa), chỗ làm có màu và thơm (chỗ làm tốt). Với

việc sử dụng phổ biến ngôn ngữ mạng màu sắc cá nhân được thể hiện khá rõ nét

đồng thời mang lại nhiều cách nói thú vị, có giá trị biểu đạt cao. Lớp ngôn ngữ

mạng trong Blogger kết hợp với ngôn ngữ hiện thực đời thường làm cho tác phẩm

làm cho tác phẩm gần gũi người đọc hơn bao giờ hết.

Có thể nói rằng, các thể loại lời nói vỉa hè, ngôn ngữ thị dân đời thường với

khẩu ngữ, với tiếng nói tục, hay ngôn ngữ mạng trước nay vẫn được hiểu như

những “tiếng ồn”, là “ tội đồ” phá vỡ sự thuần khiết, trong sáng của văn bản văn

học giờ công nhiên phơi bầy trên các trang văn. Phong Điệp dường như đã cố ý

xóa nhòa ranh giới giữa cái nghệ thuật và cái thông tục thường ngày. Ngôn ngữ

thị dân đời thường xuất hiện trong mọi mối quan hệ: Công việc, tình yêu; ở mọi

tầng lớp: dân lao động, trí thức. Đó là ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống, mang hơi

thở của cuộc sống đô thị. Đằng sau lớp ngôn ngữ thị dân đời thường ấy chính là

sự ái ngại đầy trắc ẩn của Phong Điệp trước những chuyển biến của con người

trước nhịp sống đô thị đầy bất trắc.

3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu và tốc độ.

Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với

ngôn ngữ tự sự. Tuy nhiên, đến với ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phong Điệp,

chúng ta lại thấy đó là thứ ngôn ngữ tự sự giàu nhịp điệu. Nhịp điệu đó dựa vào

phép lặp: lặp lại một từ, một câu, một lời nói. Nhịp điệu đó dựa vào những đặc

tính của tiếng Việt: đa nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do, thời gian lỏng lẻo.

68

Trong ba cuốn tiểu thuyết viết về đô thị thì yếu tố nhịp điệu ở cuốn Lạc

chốn thị thành hầu như vắng bóng. Trong Ga kí ức, Phong Điệp tạo dấu ấn về

nhịp điệu trong ngôn ngữ tiểu thuyết của mình bằng việc lặp đi lặp lại thứ âm

thanh phát ra từng chiếc máy khâu cũ của mẹ cô bác sĩ tâm lí:

“ Xoèn xoẹt.

Xoèn xoẹt.

Xoèn xoẹt.

Cứ thế mà làm. Có làm thì mới có ăn...

Xoèn xoẹt.

Xoèn xoẹt.

Xoèn xoẹt.

Hết vụ len me mua cho cái áo mới...” [22, tr. 35].

Không phải ngẫu nhiên trong 9 trang của Ga kí ức, Phong Điệp đã dùng

đến 32 lần từ “xoèn xoẹt”. Việc lặp lại nhiều lần từ “xoèn xoẹt”, Phong Điệp đã

tạo ấn tượng mạnh về một âm thanh quen, và ám ảnh với cô bác sĩ tâm lí. Chỉ cần

thứ âm thanh ấy cất lên ở bất cứ nơi đâu và khi nào thì quá khứ về xóm Chùa Cuối

và tuổi thơ khốn khó với bao kỉ niệm đau buồn lại ùa về ngập tràn tâm hồn cô.

Đến Blogger, ngôn ngữ giàu nhịp độ được Phong Điệp thể hiện trên nhiều

cấp độ khác nhau và đậm đặc trong suốt tác phẩm. Có khi là một từ được lặp lại

nhiều lần: “Thứ Bảy” được lặp lại tới 17 lần trong ba trang. Có khi là một cụm

từ: “Hai tháng mười bảy ngày trước đó.” được lặp lại 8 lần trong ba trang. Có khi

là một câu được lặp lại:

“ Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!

Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!

Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!

Tôi chưa chết đâu mà mọi người phải lo!” [18, tr. 191].

69

Cũng khi là cả cấu trúc câu được lặp lại:

“ Sau Công đoàn là Hội phụ nữ...

Sau Hội phụ nữ là Đoàn Thanh niên.

Sau Đoàn Thanh niên là Trưởng phòng mắt lé.

Sau Trưởng phòng mắt lé là chị tạp vụ nhiều chuyện.

Sau chị tạp vụ nhiều chuyện là ...

Sau ... sau ... là...” [18, tr. 153].

Việc lặp từ ngữ ở nhiều cấp độ, Phong Điệp đã tạo được những điểm nhấn

đặc biệt về hình ảnh và tâm trạng nhân vật. Mỗi từ “Thứ Bảy” được lặp lại như

một bước đi của thời gian, nhàm chán và uể oải đồng thời gợi lên hình ảnh nhân

vật quẩn quanh bế tắc trong không gian hai chục mét vuông phòng trọ tồi tàn của

mình. Mỗi lặp lại của một “Thứ Bảy”, Phong Điệp khiến người đọc cảm thấy thời

gian của đời sống đô thị luôn thừa sự buồn tẻ, nhàm chán, quanh quẩn mà thiếu

đi niềm vui, hạnh phúc. Cái điệp khúc “Sau... là...” gợi ra cái dồn dập của những

mối quan tâm bề ngoài mà thực chất chỉ là sự vô cảm của tình thương và lòng sẻ

chia bên trong. Điệp khúc ấy gợi ra những con sóng, lớp sóng này gối lên lớp sóng

kia dồn dập xô đẩy những cá nhân khốn khổ như Hạ hay những con người đáng

thương như Hạ ở nơi công sở của đô thị.

Không dừng ở việc lặp từ ngữ để tạo ra những hiệu ứng tâm lí đặc biệt,

Phong Điệp còn làm phong phú cho nhịp điệu ngôn ngữ tiểu thuyết của chị bằng

cách cắt nhịp, gieo vần, ngắt dòng câu văn như một bài thơ:

“ Trong hoang mang

hỗn độn

u mê

đau đớn

70

tê điếng... ”

Mỗi cảm xúc của nhân vật được in đậm, ngắt quãng, và kéo dài tạo nên cái

lê thê của sự buồn chán, sợ hãi đến tuyệt vọng của nhân vật hay cái thê lê buồn

chán của đời sống đô thị mà phải đi sâu khám phá Phong Điệp mới nhận ra.

Không chỉ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phong Điệp còn

giàu tốc độ. Vòng quay hối hả của cuộc sống đô thị không cho phép con người ta

có nhiều thời gian để giải trí, hay nghiền ngẫm. Thông tin đến với người đọc đòi

hỏi tính cập nhật, ngắn gọn. Lối đọc và cảm thụ tác phẩm đã có nhiều thay đổi.

Hiểu được bối cảnh xã hội, đặc biệt tác phẩm của Phong Điệp lại hướng đến người

trẻ, đặc biệt là người trẻ ở chốn thị thành nên chị đã gọt rũa tối đa về hình thức

câu chữ, để tăng thông tin đến với người đọc. Đoạn đối thoại giữa Hạ và Quyên

trong Blogger là trường hợp điển hình:

“ Hỏi:

- Gội đầu à?

Trả lời:

- Em không gội đầu.

Hỏi:

- Làm móng à?

Trả lời:

- Em không làm móng...” [18, tr. 177-178].

Trong đoạn hội thoại, Phong Điệp đã tước bỏ mọi hình thức rườm rà của

câu văn. Hai từ “Hỏi” và “Trả lời” được lặp lại 4 lần tuy có phần đơn điệu nhưng

khiến cho tốc độ đoạn hội thoại diễn ra nhanh hơn và vì thế người nghe cũng nắm

được nhiều thông tin hơn trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đồng thời việc

tiếc kiệm tối đa việc sử dụng từ ngữ cho việc hỏi và trả lời, với cấu trúc câu được

71

lặp đi lặp lại cũng giúp người đọc thấy rõ sự mệt mỏi, chán chường của cư dân đô

thị, chán chả buồn giao tiếp .

Trong cả ba cuốn tiểu thuyết, Phong Điệp thường sử dụng lối viết lạnh, khá

hiện đại. Cấu trúc câu đơn giản, ngôn ngữ đơn nghĩa, giàu thông tin và tốc độ. Chỉ

một vài câu văn ngắn mà quá trình phòng thủ của Hạ với lão sếp dê già đã được

Phong Điệp tái hiện đầy đủ: “Điện thoại bật. Máy ghi âm đã lắp băng. Máy ảnh

đã nạp pin. Và thêm một con dao tỉa hoa quả, đủ sắc, đủ nhọn. Cho tình huống

xấu nhất. Có thể xảy ra.”[18, tr. 68]. Đôi khi, chị lược bỏ đến tối đa những từ ngữ

miêu tả hay diễn đạt mà gọi đích danh cảm xúc. Đoạn văn đầy ắp thông tin khiến

người đọc có cảm giác chị đang dùng thao tác “nén file” để tiếc kiệm tối đa

khoảng không gian của trang viết nhưng lại mang cho độc giả nhiều thông tin với

tốc độ nhanh nhất: “Giá có thể xóa trắng những nỗi đau khổ. Làm thế nào để hết

ưu tư - phiền muộn - hoang mang - khủng hoảng - giả dối - độc ác - toan tính -

lừa lọc - cạm bẫy - hèn nhát - tự ti - rầu rĩ - bế tắc -tuyệt vọng...” [18, tr. 210]

Một điều dễ nhận thấy, khi viết về nông thôn hay viết cho thiếu nhi, Phong

Điệp ít sử dụng kiểu câu ngắn đến cộc lốc, ít sử dụng thủ pháp “nén file” để tăng

tốc độ và tạo nhịp điệu cho ngôn ngữ. Giọng điệu trong các tác phẩm viết về nông

thôn hay viết cho thiếu nhi khá mềm mại, giàu cảm xúc. Sắc thái lạnh trong ngôn

ngữ ít được sử dụng, khác hẳn với các tác phẩm viết về đô thị. Sự đa giọng điệu

và phong phú trong việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ mang lại thành công Phong

Điệp mà còn giúp chị ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng văn học.

3.2. Ngôi kể và điểm nhìn

3.2.1 Ngôi kể

Ngôi kể là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong tổ chức trần thuật

của tiểu thuyết, cũng là nhân tố mấu chốt thực hiện ý thức cách tân thể loại của

nhà văn. Ngôi kể là vị trí của người kể chuyện khi thực hiện quá trình trần thuật

72

câu chuyện. Ngôi kể gắn bó chặt chẽ với điểm nhìn, và là một trong những tiêu

điểm để nhà văn bộc lộ quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.

Về ngôi kể, tiểu thuyết của Phong Điệp sử dụng hài hòa cả hai ngôi kể. Tùy

dụng ý nghệ thuật của nhà văn mà các ngôi kể được sử dụng khá linh hoạt. Ở cuốn

Lạc chốn thị thành tác giả sử dụng chủ yếu ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện

xưng tôi hoặc chúng tôi. Toàn bộ câu chuyện được kể bởi nhân vật Kiều, một cô

sinh viên tỉnh lẻ tìm cách bám trụ lại Hà Nội. Kiều không chỉ kể chuyện về mình,

những chuyện về gia đình, về các cô bạn học cùng đại học, mà chuyện về các đồng

nghiệp nơi công sở, chuyện những con người Kiều gặp nơi thành phố. Đến cuốn

Blogger, Phong Điệp kết hợp cả hai ngôi kể số một và ngôi kể số ba. Ngôi kể số

một chiếm dung lượng nhỏ, Phong Điệp để một số nhân vật tham gia vào việc kể

chuyện của mình, kể chuyện về nhân vật Hạ. Phần lớn nội dung còn lại của câu

chuyện được kể bằng ngôi kể số ba. Ngôi kể số ba được Phong Điệp lựa chọn có

khi là tác giả là người kể chuyện, có khi nhân vật là người kể chuyện. Chuyện của

Hạ, chuyện của Quân, chuyện mẹ Quân, chuyện của Phong, của Diệp, của Quyên,

của Nó, của Bé con, của lão sếp Hạ lần lượt được kể đan cài nhau diễn ra một cách

hợp lí. Đến Ga kí ức Phong Điệp chỉ sử dụng ngôi kể số ba, người kể có khi là

cô, một bác sĩ tâm lí luôn ám ảnh bởi quá khứ, có khi là y, một bệnh nhân hoang

tưởng của cô, hay là Phùng một người đàn ông thành đạt nhưng lại có bà mẹ mắc

bệnh trầm cảm muốn cô chữa trị. Cũng có khi là chính tác giả. Việc sử dụng ngôi

kể phù hợp đã mang lại những thành công nhất định cho Phong Điệp khi tái hiện

về bức tranh đời sống về đô thị và con người đô thị.

Trước hết, ngôi kể thứ nhất trong tiểu thuyết Lạc chốn thị thành của

Phong Điệp tạo cho độc giả một lối vào tìm hiểu tác phẩm với sự đưa đường của

người trong cuộc. Tất cả những gì hiện ra, từ không gian đô thị, thời gian đô thị,

thậm chí cảm xúc của con người sống trong đô thị đều được “tôi” mang tới

cho độc giả. Đó là lối kể của người trong cuộc, người chứng kiến tất cả sự biến

chuyển trong lối sống của các bạn trẻ trong cuộc mưu sinh vật vã ở nơi đô thị.

73

Không bàn tới việc người đọc có tin đó là những câu chuyện có thật hay không,

nhưng cách kể của nhân vật “tôi” khiến mọi người thấm được những cảm xúc

chân thành về tình cảnh của con người trong xã hội đô thị hiện đại. Đó là

những cảm xúc mà ngôi kể thứ ba khó diễn đạt hiệu quả và lưu loát. Người đọc

có thể nhầm lẫn “tôi” với chính tác giả. Nhưng họ đủ sáng suốt để nhận ra cái

“tôi” trong tiểu thuyết dù sao vẫn là một hư cấu, dẫu nó có mang gương mặt quen

thuộc phố phường của mọi thị dân trong thành phố. Đến Blogger việc sử dụng

ngôi kể số một được Phong Điệp sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để người

đọc hiểu được những góc khuất trong đời sống nội tâm của nhân vật, mang lại cái

nhìn đa chiều khi đánh giá nhân vật. Với cách kể chuyện ngôi thứ nhất, tác giả có

thể hoàn toàn hóa thân vào nhân vật. Và lúc này ngôn ngữ của tác giả chính là

ngôn ngữ nhân vật, khiến cho khoảng cách giữa tác giả và nhân vật không còn.

Ranh giới giữa nhà văn và nhân vật được rút ngắn lại đến mức gần nhất. Chính sự

hóa thân đó đã khiến cho nhà văn vừa khám phá được chiều sâu bí ẩn trong tâm

hồn của những cư dân đô thị để từ đó phác họa hình ảnh các nhân vật một cách

hiện thực và sống động với những biến thái tinh vi của tâm trạng con người, vừa

thể hiện được những tư tưởng, tình cảm, những quan niệm của mình về cuộc sống

đô thị. Một sự bổ sung mà ngôi kể số ba không thể làm trọn vẹn được.

Việc sử dụng ngôi kể số ba đã mang lại lợi thế cho Phong Điệp khi tạo

dựng lên một bức tranh đô thị khá rộng với nhiều không gian khác nhau. Đó là

không gian của nhà trọ tồi tàn, không gian bề thế của những căn biệt thự, không

gian công sở, bệnh viện ngột ngạt, của nhà nghỉ, phòng khám bất an. Hay không

gian đô thị hóa của một làng quê yên bình. Hoặc những không gian hoài niệm,

không gian ảo. Ngôi kể thứ ba giúp nhà văn có mặt khắp nơi và linh hoạt khi

miêu tả nhiều hạng người và đủ cảnh đời khác nhau từ sinh viên đại học, đến

nhân viên văn phòng, từ những người lao động chân tay đến kĩ sư, bác sĩ, hay

những kẻ có tiền bạc và địa vị xã hội. Những cảnh đời, những chiều sâu tâm trạng,

những mưu mô thủ đoạn, những toan tính thấp hèn, những thủ đoạn dơ bẩn lúc

74

được quay cận cảnh, lúc lại lùi xa đã mang đến cho người đọc cái nhìn bao quát

nhất về bức tranh sinh hoạt đô thị mà ngôi kể số một khó có thể thực hiện được.

Việc sử dụng linh hoạt đa dạng trong ngôi kể đã mang lại hiệu ứng thẩm

mỹ rõ rệt cho tiểu thuyết của Phong Điệp. Nếu như người kể chuyện ở ngôi thứ

nhất bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật một cách chân thực sống động thì

ngôn ngữ của người kể chuyện ở ngôi thứ ba mang đến cái nhìn khách quan về

con người và cuộc sống đô thị mà Phong Điệp khắc họa trong tác phẩm. Thấp

thoáng đằng sau lời của những người kể chuyện chính là tình cảm tốt đẹp hay xót

xa, đau đớn, ghê tởm mà tác giả dành cho nhân vật của mình, và nhiều khi nhân

vật cũng chính là bóng dáng của tác giả.

3.2.2. Điểm nhìn

Điểm nhìn và người kể chuyện là hai phương diện không thể tách rời trong

trần thuật của văn bản tự sự. Điểm nhìn chính là yếu tố thể hiện được quan điểm

của tác giả cũng như thái độ của người kể chuyện. Trong văn học, điểm nhìn

trần thuật được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh

giá đối tượng.

Theo lí thuyết tự sự học, có ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn) phổ

biến ở người kể chuyện: Nhìn “từ đằng sau” (gắn với điểm nhìn toàn tri)

khi người kể chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả. Nhìn “từ

bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể chuyện là nhân vật. Điểm

nhìn bên trong thường thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật. Nhìn “từ bên

ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài): Đây là điểm nhìn của người kể

chuyện khi anh ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ không hiểu rõ tâm lí nhân

vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác. Điểm nhìn nghệ thuật (the point

of view) là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Trong tác phẩm tự sự, tương

quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật

với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được

75

xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên

cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn

tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm

nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật,

sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo

ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.

Soi chiếu lí thuyết tự sự học vào tiểu thuyết của Phong Điệp, ta dễ nhận ra

nhà văn đã sử dụng đa dạng các điểm nhìn trong các sáng tác của mình. Ngoài

việc sử dụng điểm nhìn truyền thống, nhìn “từ đằng sau, Phong Điệp còn sử dụng

các điểm nhìn “từ bên trong”, nhìn “từ bên ngoài” không chỉ đáp ứng nhu cầu

đổi mới của tiểu thuyết mà còn thể hiện cảm quan đô thị của các nhà văn hiện đại.

Xã hội đô thị càng phức tạp, nhiều chiều bao nhiêu càng cần có những góc nhìn

đa dạng bấy nhiêu để thấu thị bản chất của nó. Xã hội càng phát triển con người

càng bị chi phối bởi những mối quan hệ chồng chéo. Trong mỗi quan hệ đó, con

người hiện lên với một vai nhất định. Vì vậy, muốn thể hiện đúng bản chất của

con người và xã hội đô thị hiện đại, cần có những góc nhìn đa dạng, khi khách

quan, khi chủ quan. Việc sử dụng đa dạng các điểm nhìn, Phong Điệp muốn người

đọc khám phá những điều chân thực, bản chất nhất của đời sống đô thị hiện đại.

3.2.2.1. Điểm nhìn bên trong

Điểm nhìn bên trong thể hiện quá trình tư duy và cảm xúc. Khác với điểm

nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong chỉ xuất hiện khi người trần thuật nhập vào

cuộc sống nội tâm, phân tích, mổ xẻ cảm xúc hoặc để nhân vật tự bộc lộ. Như

vậy, điểm nhìn bên trong là cái cảm thấy, biểu hiện bằng tự quan sát, tự thú nhận

hoặc người trần thuật dựa vào giác quan, tâm hồn nhân vật để biểu hiện và cảm

nhận thế giới. Ở Phong Điệp, tuy vẫn còn ảnh hưởng của văn học truyền thống

trong việc xây dựng mạch truyện được triển khai từ cái nhìn tương đối ổn định,

đó là cái nhìn “biết trước tất cả” của người kể chuyện ngôi thứ ba. Nhưng với sự

76

đổi mới của văn học nhất là tiểu thuyết đương đại viết về đô thị, Phong Điệp đã

có ý thức trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật, tạo dựng điểm nhìn và tái hiện

điểm nhìn để khám phá đời sống. Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật đã được

nhà văn khai thác có chủ ý đã trở thành phương thức trần thuật quen thuộc, đồng

thời thể hiện được sự sáng tạo và chủ ý kí thác quan niệm, tư tưởng của nhà văn.

Trong ba tiểu thuyết Phong Điệp sử dụng điểm nhìn bên trong - phương thức trần

thuật ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” ở hai dạng thức: dạng thức thứ

nhất, một người kể chuyện xưng “tôi” kể tất cả mọi chuyện; dạng thức thứ hai

nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể các câu chuyện khác nhau.

Ở dạng thức thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” kể tất cả mọi chuyện

được Phong Điệp sử dụng triệt để ở tác phẩm Lạc chốn thị thành. Ở tác phẩm

này Phong Điệp muốn mang đến cho người đọc một bức tranh đô thị từ một góc

nhìn khác, góc nhìn của những người trẻ, đặc biệt là góc nhìn của những người

trẻ từ tỉnh lẻ chen chân đến các đô thị, coi đô thị như một miền đất hứa, tìm mọi

cách để bám trụ lại. Toàn bộ câu chuyện được kể qua góc nhìn của Kiều, một cô

sinh viên trường luật, sau khi tốt nghiệp đã tìm mọi cách để tồn tại, mưu sinh và

lập nghiệp nơi đô thị. Lạc chốn thị thành được tạo dựng từ chính cảm nhận, phân

tích, lý giải về cuộc sống đô thị của Kiều. Qua góc nhìn của Kiều đô thị hiện ra

không có bóng dáng của một miền đất hứa. Cuộc sống đô thị chẳng dễ dàng gì.

Để tồn tại và mưu sinh những con người ấy phải làm đủ nghề, chịu đủ thứ áp lực,

phải cạnh tranh, phải giành giật thậm chí hãm hại lẫn nhau để tồn tại. Đằng sau

vẻ hào nhoáng, xa hoa của đô thị là đầy rẫy những cạm bẫy không ít những người

trẻ như Oanh, như Phương vướng vào để phải nhận hậu quả cay đắng. Ở môi

trường đô thị con người phải thay đổi để thích nghi, có sự thay đổi để sống tốt

hơn như Kiều, Nhung, nhưng cũng có sự thay đổi làm con người ta tha hóa cả lối

sống lẫn nhân phẩm như Oanh, Phương, Ân, Vân. Như vậy tác phẩm Lạc chốn

thị thành điểm nhìn tập trung bên trong được tổ chức xoay quanh điểm nhìn của

một nhân vật là chủ yếu. Vì vậy, mức độ bao quát hiện thực của tác phẩm chỉ

77

thông qua điểm nhìn, cách suy nghĩ của một nhân vật. Qua cách trần thuật như

thế, nhà văn muốn làm nổi bật thế giới nội tâm cũng những suy nghĩ cá nhân của

nhân vật về đời sống đô thị. Chính từ điểm nhìn bên trong của một cô gái giàu

nghị lực như Kiều, chấp nhận dấn thân, chấp nhận cơ cực nhưng không chấp nhận

đánh mất mình trước những cám dỗ vật chất, không chấp nhận bán rẻ cả tâm lẫn

thân để có cuộc sống đủ đầy về mặt vật chất Phong Điệp đã thể hiện được niềm

tin vào những người trẻ, niềm tin về những con người như Kiều, như Nhung, như

Nam, hay thậm chí là Oanh và Phương. Dù có khó khăn cơ cực nhưng chính sự

kiên cường của tuổi trẻ, sự hướng thiện của những con người dù đã lầm lạc chắc

chắn họ sẽ tìm được lối đi đúng đắn, tìm được cho mình chỗ đứng vững chắc nơi

đô thị nhiều gian truân, vất vả.

Ở dạng thức thứ hai, nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể các câu chuyện

khác nhau. Những nhân vật xưng tôi này, chỉ kể những câu chuyện họ biết và họ

không hề biết chuyện của những cái “tôi” khác. Ở tiểu thuyết Blogger, Phong

Điệp đã để nhiều cái tôi tham gia kể chuyện. Cái “tôi” ấy có thể là Phong một

“blogger” nổi tiếng kể chuyện về mình, kể chuyện về nhân vật do mình sáng tạo

ra, hay những chuyện về những người bạn của Phong, cái “tôi” đó có thể là mẹ

Quân người yêu Hạ, một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết do Phong tạo ra. Ngoài

những cái tôi cụ thể, trong Blogger có hàng loạt cái tôi không xác định được cụ

thể tham gia kể chuyện, cái “tôi” ấy có thể là một bạn của Phong, trong nhóm

Hội những người thích tự do mà cô quen qua sự giới thiệu của Diệp, cái “tôi”

không xác định có thể là một người qua đường kể về Hạ, một trong số những

khách mời chứng kiến sự có mặt của Hạ trong đám cưới của Quân, hay đó là lời

kể của những nhân vật đến viếng đám ma của Phong, của Hạ. Trong Blogger,

Phong Điệp còn tạo ra những cái “tôi” là bạn đọc kể chuyện của mình khi tương

tác với Phong một “blogger” nổi tiếng. Việc để nhiều nhân vật kể chuyện về mình

và kể chuyện về người khác tạo nên những mạch truyện bộn bề, lồng ghép vào

nhau như những bộn bề của cuộc sống đô thị. Có thể thấy rằng việc đặt điểm nhìn

vào bên trong các nhân vật, người trần thuật đã nhập vào cuộc sống nội tâm, phân

78

tích mổ xẻ cảm xúc của nhân vật. Thông qua điểm nhìn bên trong khi người kể

chuyện là nhân vật trong tác phẩm, Phong Điệp đã tái hiện lại những suy nghĩ,

những trạng thái xúc cảm của họ: tâm trạng chán nản, hoài nghi, sự xót thương,

sự giận dữ, những nỗi đau khổ của cư dân đô thị được hiện nên một cách trung

thực và sống động trước mắt người đọc.

Tóm lại, điểm nhìn trần thuật bên trong của nhân vật có vai trò rất lớn trong

việc thể hiện con người bên trong, bởi đó là điểm nhìn của nhân vật, nhà văn để

cho nhân vật của mình tự biểu hiện. Từ điểm nhìn bên trong, tác phẩm đã rất thành

công trong việc tái tạo và khám phá thế giới nội tâm nhân vật, một thế giới với

nhiều cung bậc, phong phú mà không kém phần phức tạp của đời sống cư dân đô

thị.

3.2.2.2. Sự di động điểm nhìn

Trong tác phẩm tự sự, khi trần thuật lại câu chuyện, một nhà văn tài năng

không bao giờ sử dụng điểm nhìn trần thuật một cách cứng nhắc bởi như thế sẽ

tạo cho tác phẩm một sự đơn điệu, xơ cứng và nhàm chán mà luôn có sự di chuyển

điểm nhìn một cách linh hoạt, đầy biến hóa. Ở tiểu thuyết Blogger, Phong Điệp

luôn có ý thức di chuyển điểm nhìn trần thuật giữa các nhân vật, và trượt điểm

nhìn từ điểm tác giả sang điểm nhìn nhân vật để tạo nên một cái nhìn đa diện về

hiện thực, con người đô thị.

Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong,

từ điểm nhìn của một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho

nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di

chuyển điểm nhìn liên tục. Trong các tuyến truyện được kể từ điểm nhìn của người

kể chuyện ngôi thứ ba, Phong Điệp thường sử dụng phương thức trần thuật khách

quan, phản ánh hiện thực theo cái nhìn bên ngoài của người kể chuyện có khoảng

cách nhất định đối với nhân vật. Nhưng sang đến những tuyến truyện khác, tác

giả lại di chuyển điểm nhìn của người trần thuật đến nhân vật, trần thuật câu

chuyện theo điểm nhìn bên trong của nhân vật. Lúc này, người kể chuyện đã hóa

thân vào nhân vật, thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật, nhìn thế giới

79

theo con mắt của nhân vật và trần thuật bằng chính giọng điệu của nó. Người đọc

lúc này có cảm giác khoảng cách giữa người trần thuật với nhân vật trên thực tế

đã bị thủ tiêu, điểm nhìn của cả hai phía hòa vào nhau.

Như vậy, có thể thấy rằng sự di chuyển điểm nhìn trần thuật xuất hiện thường

xuyên và liên tục trong Blogger là do sự đan xen linh hoạt giữa các ngôi kể: ngôi

thứ nhất với điểm nhìn bên trong, ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài và kết hợp

bên trong và bên ngoài.

Các điểm nhìn di chuyển liên tục từ nhân vật này sang nhân vật khác. Các

nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc, rõ đến mức như có thể chạm vào. Vì thế, sự

di chuyển điểm nhìn có khi là từ ngoài vào trong hoặc có khi ngược lại từ trong

ra ngoài vô cùng linh hoạt làm cho mạch trần thuật trở nên mới lạ làm cho câu

chuyện được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau.

Chúng ta có thể khảo sát trường hợp một nhân vật được soi chiếu dưới

nhiều điểm nhìn khác nhau từ đó bức chân dung về nhân vật ngày càng thêm rõ

nét qua hai nhân vật là Phong và Hạ trong Blogger.

Trước hết là Phong, với lời tự giới thiệu ngắn gọn của chính nhận vật: “Tôi

là một nữ blogger. Mắt cận. Tóc ngắn. 25 tuổi”, người đọc có thông tin về công

việc, ngoại hình, tuổi tác của cô, nhưng ấn tượng về nhân vật Phong khá mờ nhạt.

Từ điểm nhìn bên trong của chính nhân vật đến điểm nhìn bên ngoài của các thành

viên Hội những người thích tự do, nơi Phong được Diệp, một cô bạn thân rủ đến.

Đến với họ, hình ảnh Phong hiện ra thật rõ nét trong sự chú ý của mọi người.

Trong suy nghĩ của họ, những tưởng một nữ “blogger” chủ nhân của một blog

gây sốt trong giới trẻ phải là một “cô gái rất thời thượng: tóc highlight, ipod nghe

24/24, và có thể sở hữu một hình xăm nhỏ trên rốn.”[18, tr. 102]. . Thế nhưng

trong mắt họ Phong là một cô gái “hầu như không có điểm gì đặc biệt ngoài một

đôi mắt khá sầu muộn. Suốt cuộc gặp gỡ cô ta như bị gắn xi vào miệng. Giương

mắt nhìn hết người này đến người kia. Và hơi luống cuống khi bị mọi người quan

tâm.”[18, tr. 102]. Suốt buổi gặp gỡ “trông cô ta ngơ ngác và có vẻ sững sờ... Cô

80

ta dè dặt ngồi xuống ghế. Đôi kính mắt trễ xuống ngang sống mũi, để lộ đôi mắt

xám xịt vì mất ngủ. Trông cô ta hơi ốm.”[18, tr. 101]. Dưới điểm nhìn của những

người trong Hội những người thích tự do, sự hiện đại về ngoại hình của một

“blogger” không hề có, sự nhanh nhẹn, minh mẫn, nhạy cảm, thời thượng của

một nhà văn mạng biến mất, thay vào đó là một cô gái cũ kĩ, mệt mỏi với ánh mắt

thâm quầng vì thiếu ngủ triền miên, hay cắm mặt vào máy tính, sống với thế giới

ảo nhiều hơn mà trở nên ngờ nghệch với thế giới thực. Không chỉ về ngoại hình,

dưới điểm nhìn bên ngoài của những người bạn của Diệp, Phong trở thành một cô

gái nhút nhát, thụ động, thiếu kĩ năng giao tiếp và tâm hồn thì u sầu và cô độc, sự

hòa nhập với thế giới thực ở Phong hầu như mờ nhạt khi suốt buổi gặp gỡ cô luôn

mang vẻ mặt ngơ ngác, sững sờ và gần như im lặng. Dưới góc nhìn này, Phong

Điệp khéo léo gửi đi một thông điệp về tình trạng sống ảo của nhiều bạn trẻ ở các

đô thị, các bạn trẻ đang quên đi cuộc sống thực với những mối quan hệ thực, mà

đắm chìm vào thế giới ảo, với những mối quan hệ ảo, tình trạng ấy khiến các bạn

luôn ngơ ngác trước cuộc đời, luôn âu sầu, lo lắng thậm chí cảm thấy bế tắc với

cuộc sống thực. Sự bế tắc có thể gây nên những hậu quả đáng tiếc. Thông điệp

này phải đủ tinh tế, người đọc mới nhận ra vì đó không phải phát ngôn của nhà

văn mà đó là tầng ý nghĩa ngầm, ẩn sau sự cảm nhận và cái nhìn của nhân vật.

Một thông điệp hoàn toàn khách quan, không mang tính áp đặt hay tính một chiều

của nhà văn.

Đến nhân vật Hạ trong Blogger, Phong Điệp cũng xây dựng nhân vật này

từ những điểm nhìn bên ngoài khác nhau. Với điểm nhìn của người mẹ thì Hạ là

một cô con gái đáng tự hào nhưng bướng bỉnh, dưới con mắt của lão sếp, là cô

nhân viên không biết điều. Ở điểm nhìn của mẹ Quân, người yêu cô, cô là hình

ảnh khiến bà khó chịu, ngoại hình, hành động của cô cũng không gây được thiện

cảm với bà: “Nó có đôi mắt lạnh lẽo... Người nó thì xanh rớt. Nói năng thì ấp a

ấp úng. Làm việc gì thì rón ra rón rén.”[18, tr. 134]. Với con mắt của một người

đàn bà nông thôn, cô là “đồ lăng loàn, đĩ thõa” khi nửa đêm gọi điện cho Quân

và ở một mình nơi thành phố. Đó là điều không thể chấp nhận được. Dưới góc

81

nhìn của Quân, cô từ người yêu bé bỏng, ngoan hiền đến cô gái nhiều đòi hỏi, và

trở nên hư hỏng khi cùng lão sếp lên taxi đi xa mấy chục cây số rồi cùng nhau

chui vào một nhà nghỉ. Còn với Quyên, một người bạn của Hạ, làm nghề cắt tóc

gội đầu, việc Hạ có ý định bỏ việc ở cơ quan đến làm cùng Quyên thì bị Quyên

cho là điên rồ, còn việc Hạ mặc kệ cho Quân bỏ rơi mình đi với cô gái khác mà

chẳng hành động hay phản ứng gì thì bị Quyên cho là ngu. Còn khi Hạ chết, dưới

ánh mắt vô cảm của những kẻ cùng cơ quan đến viếng, cô trở thành kẻ bất bình

thường.

Với các nhà văn viết đề đô thị khác, điểm nhìn thường có tính xác thực, tức

là điểm nhìn thường là ở các nhân vật có tên tuổi, hoặc lai lịch rõ ràng để tạo ra

tính tin cậy tương đối, người đọc có thể nhìn nhận, đánh giá điểm nhìn đó đúng

hay sai, phù hợp hay không phù hợp. Nhà văn đóng vai trò gì trong các điểm nhìn.

Phong Điệp lại khác, chị hay sử dụng điểm nhìn từ những nhân vật thiếu tính xác

thực nhân vật thường không tên, không lai lịch, khó có thể xác định nhân vật đó

là ai, làm nghề gì, đạo đức ra sao. Phong Điệp không tạo tính xác thực, cũng không

thể hiện vai trò của nhà văn trong điểm nhìn của các nhân vật, chị chỉ đóng vai là

người ghi lại câu chuyện một cách chính xác theo lời kể của nhân vật. Có thể

chính điều này đã tạo nên sự khác biệt trong các tác phẩm viết về đô thị của Phong

Điệp khi điểm nhìn của các nhân vật không chịu sự chi phối của tác giả, cũng

không mạng nặng định kiến từ chính thế giới quan của nhân vật kể chuyện khiến

cho câu chuyện đô thị không chỉ mang tính khái quát, mà còn trung tính, khách

quan. Điển hình Phong trong Blogger, ngoài điểm nhìn bên trong từ chính nhân

vật, điểm nhìn của tác giả, còn các điểm nhìn bên ngoài khác ta khó có thể xác

định chính xác là điểm nhìn của ai, bởi nhân vật thường bị giấu tên, điểm nhìn đó

có thẻ là một người bạn biết mặt, hay một người bạn chưa một lần gặp ngoài đời

mặc dù có thể hàng ngày vẫn trò chuyện trên “diễn đàn”. Ở nhân vật Hạ cũng vậy,

ngoài điểm nhìn từ các nhân vật xác quyết, Phong Điệp còn để nhân vật hiện hữu

qua hàng loạt điểm nhìn của những nhân vật không xác quyết, có thể đó là điểm

82

nhìn của một người khách đến dự đám cưới Quân đã thấy Hạ: “Cô độc - đứng

nép vào góc hành lang - như một cây non cần cột chống, phòng cơn gió to. Khuôn

mặt phờ phạc, Một chút son vương lại trên môi, nhợt nhạt. Nó khiến cô ta trông

mệt mỏi hơn là không còn chút son nào” [18, tr. 214], cũng có khi Hạ xuất hiện

trong góc nhìn của những người qua đường không quen biết: “Tôi từng nhìn thấy

cô ta trên phố”; “tôi nhìn thấy cô ta ngồi co ro trong quán nước ven đường.”;

“Một lần khác , là ở cửa hàng quần áo thu đông.”; “Một lần khác , tôi gặp cô ta

trong một cửa hàng sách giảm giá trên phố.”; “Một lần khác , ủ rũ trong hàng

cơm bụi.”; “Một lần khác, chồn chân bên trạm đợi xe bus”[18, tr. 216, 217]. Với

những điểm nhìn từ những nhân vật không xác quyết, hình ảnh Hạ đau khổ, chán

nản, bế tắc, tuyệt vọng hiện lên thật rõ nét. Sự đa dạng điểm nhìn càng tô đậm cái

bế tắc tuyệt vọng của nhân vật.

Sự di động điểm nhìn trong tiểu thuyết của Phong Điệp như một camera khi

quay xa, bao quát với ngôi kể số ba gắn với điểm nhìn toàn tri của nhà văn, có khi

lại quay cận cảnh với ngôi kể số một gắn với điểm nhìn bên trong của nhân vật để

người đọc thấu tâm can, thấu những uẩn khúc trong tình cảm, thái độ của nhân

vật. Trong mối quan hệ giữa mẹ Quân, và Hạ, nếu ở ngôi kể số ba, gắn với điểm

nhìn của tác giả, người đọc dễ ngộ nhận mẹ Quân là một người mẹ ghê gớm, bà

ở nông thôn nên bà luôn có cái nhìn cổ hủ và khắt khe với những cô gái sống ở

đô thị như Hạ. Việc Hạ gọi điện cho Quân lúc nửa đêm, và ở một mình là điều

hoàn toàn bình thường nơi thành phố với một cô gái. Từ điểm nhìn khách quan

bên ngoài, người đọc dễ đổ lỗi cho bà, chính bà cản trở Quân đến với Hạ, coi bà

chính là nguyên nhân dẫn đến đau khổ và bế tắc của Hạ trong tình yêu. Nếu chỉ

dừng lại ở đó thì điểm nhìn của Phong Điệp có lẽ là cái nhìn một chiều, thiếu dân

chủ và không phù hợp với việc tái hiện cuộc sống đô thị. Phong Điệp với sự nhạy

cảm và đủ tinh tế để di chuyển điểm nhìn, từ điểm nhìn bên ngoài với ngôi kể số

ba vào điểm nhìn bên trong với ngôi kể số một, để cho chính nhân vật lên tiếng,

bộc bạch nỗi niềm. Chính sự bộc bạch ấy, ta hiểu được nguyên nhân mẹ Quân

83

không chấp nhận Hạ làm con dâu mình vì bà hiểu rằng: “Thằng con tôi là một

thằng quen thói ỉ lại. Nó cần một con vợ tháo vát đảm đang. Con bé ấy không có

vẻ tháo vát, hay đảm đang”[18, tr. 134]. Sự cấm cản ấy bắt nguồn từ sự yêu

thương, lo lắng của một bà mẹ cho con mình cũng là điều bình thường và dễ cảm

thông, ngoài ra, qua lời mẹ Quân người đọc còn được thấy một phần khác của con

người Hạ. Đành rằng mẹ Quân mắng chửi Hạ là đồ đĩ thõa, lăng loàn là một sự

xúc phạm khó có thể chấp nhận được, thế nhưng, việc Hạ dọa kiện bà ta ra tòa,

lại là cách hành xử thiếu tê nhị, một cách hành xử mạng nặng lối sống dân chủ đô

thị nặng tính trọng lý, đôi khi lại thiếu phù hợp trong những mối quan hệ tế nhị

nhất là với mẹ Quân, một người quen lối sống nông thôn coi trọng tình cảm.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hai nhân vật trên đã được đặt trong trung

tâm của các điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật thường xuyên có sự thay đổi, dịch

chuyển, đan xen giữa lời nhân vật và lời tác giả. Nhờ vậy, tâm trạng của nhân vật

được soi chiếu từ nhiều chiều kích khác nhau, hiện lên rất sống động và đầy đủ.

Việc trần thuật từ điểm nhìn của nhiều nhân vật đã tạo ra nhiều góc quét của "máy

quay" khác nhau, làm cho đối tượng miêu tả trở nên đa chiều.

Sự di chuyển điểm nhìn của các nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật

khác vô cùng linh hoạt đã giảm thiểu đáng kể sự khô cứng và hạn hẹp nếu tác

phẩm chỉ xoay quanh vài điểm nhìn. Để xây được những điểm nhìn trần thuật đòi

hỏi nhà văn phải có được một tầm nhìn, sự hiểu biết sâu sắc về con người và cuộc

đời, đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khám phá thế giới đô thị. Việc thay đổi điểm nhìn

đã tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện khiến người đọc luôn phải chú ý theo dõi

lời kể và sự di chuyển điểm nhìn. Các sự kiện, tình tiết được nhìn từ nhiều góc độ

khác nhau tạo nên tính chân thực và khách quan cho lời kể, và phù hợp với cảm

quan đô thị của các nhà văn.

Chính vì thế sự di động điểm nhìn góp phần tạo nên những trang viết sinh

động và lôi cuốn cho tác phẩm, giúp cho người đọc có thể nắm bắt hết được những

sự việc khá phức tạp trong tác phẩm và cũng có thể hiểu được nhân vật từ những

84

gì họ thấy và kể lại. Khi di chuyển điểm nhìn giữa các nhân vật, tác giả đã tạo

dựng tính hiện thực trong mối quan hệ của rất nhiều con người trong xã hội đô thị

, đồng thời tạo nên hệ quy chiếu đa chiều cho các mối quan hệ ấy.

Sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một cách thức tạo nên

tính phức điệu của tiểu thuyết. Theo đó tác phẩm là một cấu trúc đa tầng, có khả

năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau. Nó cho

phép sự hòa trộn nhiều sắc thái giọng điệu: vừa sắc lạnh, vừa mỉa mai chế giễu

nhưng đôi khi cũng tràn đầy sự xót thương, đồng cảm. Sự đan xen và dịch chuyển

liên tục điểm nhìn cũng phù hợp với bản chất của xã hội đô thị đương đại là phức

tạp, đa nguyên, đòi hỏi một cái nhìn đa diện. Chính xã hội đô thị đương đại chấp

nhận đa giá trị và đa điểm nhìn là một sự lựa chọn phù hợp.

3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật

3. 3.1 Không gian nghệ thuật.

Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dòng sông, cánh

đồng, ngọn núi, biển cả, đô thị, phố phường, công sở... Không gian cũng là nơi

nhà văn triển khai sự kiện, biến cố, là chỗ cho nhân vật hoạt động. Không gian

trong văn học là không gian nghệ thuật. Không gian đó không phải ngẫu nhiên

như trong đời sống mà do người nghệ sĩ lựa chọn nhằm thể hiện ý đồ tư

tưởng. Theo từ điển thuật ngữ văn học: “không gian nghệ thuật là hình thức bên

trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó… Không gian

nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn

ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của

tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám

phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ

thuật”[28. tr, 135]. Là nhà văn trẻ, không phải là dân Hà Nội, Phong Điệp viết về

đô thị với con mắt và tâm hồn của dân nhập cư trong cuộc mưu sinh cực nhọc.

Tác phẩm của chị thiếu vắng không gian đô thị lung linh, thơ mộng. Sự đan cài

85

không gian hiện thực và không gian hư ảo đã tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm

của chị.

3.3.1.1. Không gian thành thị đầy bất trắc.

Cũng viết về không gian đô thị, chân dung phố phường hiện lên trong văn

Đỗ Phấn vô cùng chi tiết, tỉ mỉ, từ góc phố cà phê, cây bàng cụt, cửa ô đầy

khói đến những công viên xanh li ti lá phượng. Một Hà Nội xưa cũ hiện về qua

những hàng cây và mặt hồ, qua mùi cà phê thơm nồng ngõ phố, qua làn khói thuốc

của những nghệ sỹ trầm ngâm. Đó là hình ảnh một không gian đô thị đẹp, một

đô thị dung chứa nhiều đường nét của làng quê thanh bình. Hồ Tây như một

bức tranh xinh xắn. Không gian nơi đây không chỉ đẹp, mà còn thơm ngát mùi

hương huyền bí của sen trăm cánh, loài hoa được người Hà Nội dùng để ướp

trà. Còn Nguyễn Việt Hà dành nhiều trang viết để làm nổi bật không gian Hồ Tây

lung linh huyền ảo trong những buổi hoàng hôn. Viết Cơ hội của chúa, nhà văn

cũng để cho các nhân vật hay xuất hiện ở những khách sạn sang trọng, gặp nhau

ở sân quần vợt, hay giải trí ở những quầy bar, hộp đêm, cửa hàng Karaoke. Không

gian trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà mang dáng vẻ lãng mạn, kiêu bạc của chất

Hà Nội gốc. Đó là không gian sinh tồn, không gian văn hóa, lịch sử. Ngoài miếng

cơm manh áo, Nguyễn Việt Hà khám phá và cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ của

nó. Với Phong Điệp, nhà văn nhìn đô thị đơn thuần là một không gian sinh tồn.

Trong thế giới thành thị của chị nhân vật phải đối diện với miếng cơm manh áo

hàng ngày, để kiếm được đồng tiền, để có vị trí trong công việc, địa vị xã hội. Con

người trong môi trường ấy không khỏi giành giật, bon chen thậm chí hãm hại

nhau. Bởi vậy không gian thành thị là không gian chứa đầy bất trắc.

Sự bất trắc của thành thị được Phong Điệp khai thác khá nhiều ở một không

gian quen thuộc với người trẻ nhập cư, những người lao động nghèo khó đó là

không gian phòng trọ. Nhà trọ dưới cảm quan đô thị riêng của Phong Điệp không

chỉ chật chội, tồi tàn mà còn trở nên thiếu an toàn, nhiều nguy hiểm rình rập. Trụ

lại với Hà Nội, sau bốn năm yên ổn với kí túc xá của đại học. Kiều trong Lạc

86

chốn thị thành không thể ngờ ngoài nỗi lo kiếm tiền để mưu sinh thì việc kiếm

được một chỗ để ở cũng không hề dễ dàng. Ban đầu cô may mắn vì được ở với

Phúc, một cô bạn cùng học đại học trong một khu trọ dù chật chội nhưng không

xô bồ và khá an toàn. Yêu, cả tin và bị lợi dụng, Phúc đã tìm mọi cách phá thai

khiến cô suýt mất mạng nơi phòng trọ, gia đình đã phải đón cô về quê. Kiều không

thể ở lại nơi ám ảnh đó nên cô đã phải chuyển nhà trọ. Một không gian yên ổn,

thấy được cảm giác an toàn nơi đô thị đầy bất trắc thật không phải dễ dàng với

những người như Kiều. Cuộc tìm kiếm nhà trọ như một cuộc trường chinh mệt

mỏi. Phong Điệp khiến người đọc sởn gai ốc khi trước mỗi không gian phòng trọ

nơi Kiều đặt chân đến: “Nhà gì mà chỉ là mấy mảnh cót ép quây kín nằm cạnh

sông, sực nức mùi bùn rữa. Người qua đường “quá đà” thò tay vào là quờ được

tới tận giường ngủ. Nói dại chứ có ai vứt tàn thuốc lá xuống là đi tong như chơi.

Có nhà nằm trong xóm liều, kim tiêm của dân nghiện vứt đầy dưới chân tường,

máu dính vẫn còn tươi ròng.” [16, tr. 67]. “Một nhà khác thì nhà cửa quá nhếch

nhác, lại nằm cạnh bãi tha ma hoang hoác gió.” [16, tr. 164]. Không gian chật

chội, nhạt nhẽo, vô hồn khiến Kiều hoang mang không biết bắt đầu cuộc sống nơi

phòng trọ mới như thế nào: “10 mét vuông rỗng tuếch với những vệt vôi quét

tường loang lổ chỗ đậm chỗ nhạt. Tôi bần thần nhìn căn phòng không biết mình

nên bắt đầu như thế nào.” [16, tr. 178]. Đô thị quả là không yên ổn. Cũng học

Đại học rồi trụ lại ở thành phố, Hạ trong Blogger phải chật vật trăm bề để kiếm

được một công việc. Xin được một suất làm nhân viên thư viện, tưởng chừng như

mọi thứ đều đã đi vào guồng quay của sự ổn định nhưng đó lại là khởi đầu cho

chuỗi ngày nhân vật rơi vào hoang mang và trống rỗng. Tuy không chật vật, khốn

khổ đi tìm nhà trọ như Kiều nhưng không gian nhà trọ của Hạ cũng chẳng khác

gì. Nơi đó chật hẹp, “thoang thoảng mùi nước mắm, mùi dầu hỏa” [18, tr. 53], là

nơi đều đặn vào mỗi thứ bảy, Quân đến xem tivi một cách uể oải và giải tỏa dục

tính của hắn một cách sỗ sàng. Hậu quả sau đó là Hạ có thai ngoài ý muốn và phải

gián tiếp triệt mầm của một sự sống đang nảy nở trong bụng mình. Sự lặp đi lặp

lại con số 10 mét vuông trong các câu chuyện của Phong Điệp như một sự ám

87

ảnh. Con số vô hồn là tiêu chuẩn vàng cho mỗi ô của một đoàn tàu mang tên nhà

trọ không chỉ gợi sự chật chội, mà luôn là nỗi buồn, sự kinh hoàng với những

người đã đi qua.

Không gian bất trắc của thành thị không chỉ đến từ những căn phòng trọ tồi

tàn, Phong Điệp luôn nhận thấy sự bất an đằng sau sự xa hoa hào nhoáng của

những ngôi biệt thự, sự yên bình của những ngôi nhà khang trang. Sau nhiều ngày

mệt mỏi không tìm được nhà trọ Kiều bất đắc dĩ phải đến tạm ở nhờ trong ngôi

biệt thự của ông “bố nuôi” Phương, Kiều đã không giấu được vẻ choáng ngợp ban

đầu: “Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được sống trong một ngôi nhà sang trọng như

thế. Nhà kiến trúc kiểu Pháp với những đường uốn thanh thoát, những chiếc cửa

sổ hình vòm giăng đầy hoa ti gôn thơ mộng mở ra một không gian thoáng mát rất

dễ chịu. Đồ đạc trong ngôi nhà cũng không kém phần sang trọng. Bộ phô tơi da

mầu kem nhạt rất ăn với mầu tường mầu be vàng của phòng khách. Chưa bao giờ

tôi được ngồi trên một chiếc ghế rộng rãi và êm ái như thế. Chiếc tủ li đặt khiêm

nhường ở góc phòng với những bộ li tách pha lê và những chai rượu ngoại đắt

tiền. Gần cửa sổ là chiếc đồng hồ quả lắc, dễ phải cao đến ngang đầu tôi. Nước

gỗ trên chiếc đồng hồ đã bắt lên mầu gụ bóng loáng. Phòng ngủ của cái Phương

được sơn mầu hồng nhạt, những chiếc rèm cũng cùng mầu, tạo nên một không

gian thật ấm áp. Rồi còn cả một tủ váy áo các loại mà bất kỳ đứa con gái nào

cũng thèm muốn được sở hữu.” [16, tr. 51, 52]. Sự choáng ngợp nhanh chóng đi

qua, nhìn bức ảnh ông bố nuôi của Phương treo trên tường khiến cho Kiều có cảm

giác bất an, sờ sợ. Kiều không hiểu nổi cô sợ gì, một thứ sợ hãi mơ hồ, bất chợt

thoáng qua nhưng ám ảnh rất lâu. Sự nhạy cảm của một người con gái khiến Kiều

hiểu rằng ngôi nhà đó không phải là nơi an toàn, và cũng chẳng phải là nơi cô có

thể ở nhờ lâu được. Phong Điệp giỏi gợi ra cảm giác bất trắc của cuộc sống đô thị

từ những điều mơ hồ.

Không chỉ cảm thấy sự bất an trong ngôi nhà của bố nuôi Phương, Phong

Điệp còn để người đọc cảm nhận rõ sự bất an của Kiều khi đến dạy cu Tũn. Bề

88

ngoài là một không gian khá yên bình và thơ mộng: “Đó là một ngôi nhà ba tầng

bề thế nằm trong khu tập thể Kim Liên. Trước hiên nhà là một giàn hoa giấy sum

suê đang trổ hoa. Những chùm bông đỏ như lửa giăng quanh bờ tường mầu vàng

nhạt vẫn còn loang lổ những vệt nước ẩm ướt, dấu vết của trận mưa từ đêm hôm

trước.” [16, tr. 72]. Nhưng bước vào ngôi nhà, sự yên ổn trong tâm hồn Kiều đã

không còn: “Ngôi nhà rộng, nhiều phòng với đầy những đồ đạc đắt tiền, nhưng

không hiểu sao tôi cứ có cảm giác sờ sợ bởi không khí lạnh lẽo, âm âm quanh

quất bên mình.” [16, tr. 81]. Kiều đã tìm cách lí giải cho nỗi sợ vô hình đó: “Sống

được một thời gian ở nhà ông chủ Hùng, tôi luôn cảm giác có một điều gì đó bất

ổn mà tự mình không tài nào lí giải nổi. Có thể bởi tại không khí âm âm ở ngôi

nhà ba tầng khép cửa im ỉm suốt ngày nên thiếu ánh sáng mặt trời. Cũng có thể

bởi những biểu hiện lạ lùng của bà giúp việc. Cả đứa trẻ mà tôi đang dạy với

những phút lơ đãng khó hiểu của nó...” [16, tr. 95]. Nhưng chưa khi nào cảm giác

bất an, nguôi ngoai trong lòng cô. Cảm giác của Kiều phải chăng là do cô đã quá

quen với lối sống làng quê luôn quan tâm gắn bó với nhau bằng tình cảm thân

thiết của tình làng nghĩa xóm, hay quen với lối sống sinh viên chân thật giản dị

mà yên bình. Nay sống với những ánh mắt lạnh lùng của người đô thị cô luôn có

cảm giác bất an. Cảm giác bất an mơ hồ của Kiều nơi đô thị chắc hẳn không chỉ

là của riêng cô. Đằng sau sự hào nhoáng nơi đô thị là những cám dỗ, những cạm

bẫy đầy ma mị mà nhiều cô gái không đủ tỉnh táo bị cuốn vào để nhận những đắng

cay, tủi nhục. Phong Điệp đã tạo được sự ám ảnh với người đọc về một không

gian thành thị đầy bất trắc.

Không gian thị thành bất trắc trong tiểu thuyết Phong Điệp còn là những

căn phòng công sở chật chội với ánh nhìn lườm nguýt, dè bỉu của “đao to búa

lớn”, của trò mèo vờn chuột, của những thứ xảo trá và cả sự hèn nhát, yếu đuối,

vô vàn điều phức tạp, bát nháo, những thủ đoạn hãm hại lẫn nhau. Không gian ấy

là Văn phòng luật Chính Nghĩa nơi Kiều trong Lạc chốn thị thành được nhận vào

làm. Một không gian vẻn vẹn trong tầng một với khoảng chục con người vậy mà

Kiều mới chỉ được giao nghiên cứu hồ sơ nghiên cứu một vụ án đã khiến cô nhận

89

đủ lời dè bỉu, chế giễu, bị nói xấu, bị tẩy chay, rồi bị hãm hại bằng những thủ đoạn

hèn kém. Khi thì chiếc máy tính hỏng, khi thì những bản in được thực hiện vô tội

vạ nhân lúc cô không có mặt. Những thủ đoạn mà với một cô gái chân thật như

Kiều chưa khi nào nghĩ đến. Không gian viện nghiên cứu nơi Hạ trong Blogger

làm việc cũng là một không gian bất trắc. Với một nhân viên quèn như Hạ mà có

bao nhiêu cạm bẫy luôn rình rập cô. Đó làm lão sếp giở đủ chiêu trò để chiếm

đoạn thân xác cô. Đó là những cuộc đấu đá nội bộ mà cô là cái cớ để người ta hạ

bệ nhau. Chưa bao giờ Hạ thấy mình được yên ổn dù là ở cơ quan hay nơi phòng

trọ với Quân. Kiều và Hạ cũng không biết khi nào tai họa sẽ ập xuống đầu mình.

Không gian công sở dưới góc nhìn của Phong Điệp không phải là môi trường làm

việc thân thiện. Trong không gian đó, mọi sinh lực của nhân viên không dành cho

công việc. Sức lực, nhiệt huyết cống hiến của họ bị bào mòn bởi bao nỗi bất trắc,

thường trực bủa vây, treo lơ lửng trên đầu. Thành phố quả là nơi bất trắc với

những thân phận bé nhỏ như Kiều, như Hạ.

Không gian công sở của Cô ở Ga kí ức lại bất trắc theo một khía cạnh khác.

Không có những toan tính thấp hèn, không có những thủ đoạn bỉ ổi nhằm hãm hại

nhau, không có những cuộc “săn mồi” của những con thú lớn, Phong Điệp mang

đến cho người đọc cảm nhận về một không gian bệnh viện tâm thần ngày càng

ngột ngạt: “Càng ngày, con bệnh đổ về càng đông, với các biểu hiện phức tạp

hơn. Bệnh viện đứng trước nguy cơ quá tải. Y bác sĩ bệnh viện thường xuyên rơi

vào trạng thái căng thẳng khi phải đối đầu với quá nhiều diễn biến phức tạp.”[22,

tr. 78]. Sự ngột ngạt căng thẳng có lúc khiến cô “ngỡ mình cũng sắp trở thành

một bệnh nhân trong số trong số hàng ngàn bệnh nhân, chòng chọc ngồi chờ vào

mỗi sáng, đợi đến lượt mình được phát thuốc.”[22, tr. 78]. Qua không gian bệnh

viện, qua sự cảm nhận của Cô, Phong Điệp đã cảnh báo một nguy cơ tệ hại mà

con người sống trong không gian đô thị sẽ phải đối diện: “Khi cuộc sống ngày

càng đầy đủ hơn, tiện nghi hơn, thì người hoang tưởng ngày càng nhiều.”[22, tr.

78]. Minh chứng rõ nhất cho sự hoang tưởng của cư dân sống trong không gian

đô thị chính là y, một bệnh nhân của cô trong Ga kí ức. Không gian thành thị

90

trong mắt y là một nơi ồn ào, đông nghịt, y bị biến thành “món nhậu” trong các

cuộc tụ tập đông người, chúng chòng ghẹo, săm soi y, đồng nghiệp xa lánh, kì thị

y. Những điều đó khiến y sợ hãi, chọn nơi trú ẩn là không gian của những cái

toilet trong cơ quan và bệnh viện. Chỉ ở trong không gian của những cái toilet y

mới thấy dễ chịu, mới thấy yên ổn. Đến khi y quyết định đến bệnh viện cầu cứu

các bác sĩ, là bệnh nhân của cô thì cuộc đời y đã không còn hy vọng. Giá như y

không đến thành phố thì chưa chắc y đã thê thảm đến thế. Có thể nói, giữa dòng

chảy phát triển của thành phố, y và cô đều trở nên bơ vơ và chệch nhịp, lo lắng,

sợ hãi. Chốn thị thành ấy chứa nhiều căn bệnh tâm lý của con người đương đại,

nó tấp nập, hối hả và đầy rẫy những điều phải lo toan. Cảm giác về sự bất trắc của

không gian đô thị không còn mơ hồ mà đã dần hiện hữu cụ thể qua từng trang viết

của Phong Điệp.

Có lẽ, không gian nhà nghỉ và không gian các phòng khám tư là những

không gian quen thuộc đối với cư dân đô thị. Thành phố phát triển, vui chơi, giải

trí, nhu cầu có không gian riêng tư cho nghỉ ngơi thư giãn là nhu cầu hết sức cần

thiết. Đổi mới kinh tế làm cho bộ mặt đô thị khởi sắc, lối sống phương Tây du

nhập đã làm thay đổi quan niệm sống của một bộ phận lớn cư dân đô thị. Nhà

nghỉ mọc lên như nấm sau mưa để đáp ứng nhu cần không gian riêng tư cho hoạt

động tình dục của cư dân đô thị. Nguyễn Việt Hà với tình yêu Hà Nội yên bình

thơ mộng của không gian phố cổ đã chua xót cho rằng: "Nhà nghỉ nhiều nhan

nhản đã làm cho Hà Nội trở nên một con đĩ thập thành". Phong Điệp không bộc

lộ cảm xúc, Chị không đi sâu vào khai thác không gian nhà nghỉ như một mặt tối

của không gian đô thị. Dưới góc nhìn của một nhà văn nữ, bằng chi tiết miêu tả

chân thực, không gian nhà nghỉ hiện lên với sự bất an và mất vệ sinh: “Còn lại

mình Hạ giữa những giường đệm nhớp nhúa mùi của những cuộc giao hoan...

Bằng chứng là vài sợi lông đen nhưng nhức còn lưu lạc trên mép giường và sàn

nhà. Chắc là sau vài cái phủi tay của người dọn phòng “biết việc” trên chiếc ga

giường nhàu nhĩ. Miễn là dọn dẹp, căng trải sao cho thật nhanh, để còn kịp đón

91

khách. Nhét vội cái bao ok dưới đệm, đặt lại dép trên sàn, giật nước trong nhà vệ

sinh. Thế là đủ để đón khách.”[22, tr. 64]. Mùi nhớp nhúa của những cuộc giao

hoan, những sợi lông vương lại, ga giường nhàu nhĩ, mùi nước hoa rẻ tiền che đậy

khiến Hạ ghê tởm về sự mất vệ sinh của nhà nghỉ. Cảm giác thiếu sạch sẽ, không

an toàn về mặt vệ sinh của nhà nghỉ làm Hạ buồn nôn. Hạ không trốn chồng, tìm

đến nhà nghỉ như một nơi an toàn kín đáo để thỏa mãn nhu cầu sinh lí với bồ.

Cũng chẳng tìm đến nhà nghỉ như một không gian riêng tư để thỏa mãn yêu

đương. Những lần làm tình cùng Quân ở những nơi công cộng chỉ khiến Hạ xấu

hổ thì việc đến nhà nghỉ với lão sếp khiến Hạ bất an. Lúc này, Hạ là con thú non,

bị săn đuổi, bị dồn vào một không gian mà ở đó lão sếp có thể nhẩn nha nhắm

nháp con mồi là Hạ. Hạ rơi vào tình trạng bị dồn ép vì nỗi lo mất việc nếu không

chiều lòng lão sếp già. Với cảm nhận riêng của Phong Điệp, không gian nhà nghỉ

không phải là nơi an toàn, riêng tư cho nhân vật nữ của chị. Ở đó luôn là nỗi bất

an, ám ảnh nhân vật của chị. Đằng sau không gian nhà nghỉ thấp thoáng bộ mặt

tha hóa của đô thị, của con người đô thị.

Từ nhà nghỉ đến phòng khám tư nhân là một con đường gần. Hệ quả tất yếu

của sự thiếu kiến thức về giới tính, của nếp sống, lối nghĩ thông thoáng về tình

dục, mối quan hệ lỏng lẻo trong các gia đình đô thị chính là tình trạng nạo phá

thai đến mức báo động trong giới trẻ nơi đô thị. Phong Điệp không đề cập trực

tiếp đến vấn đề thời sự đó, nhưng với không gian các phòng khám mà chị tái hiện

trong các tiểu thuyết viết về đô thị ta không không khỏi giật mình. Là nhà báo viết

văn, Phong Điệp xót xa, đau đớn chứng kiến cả dãy phố với “ngổn ngang không

biết bao nhiêu là phòng khám... Tấp nập ở nơi đó, những khuôn mặt bịt kín đến

tận cửa... Những đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên đã học làm người lớn.”.

Không gian đó chính là hố đen nuốt vào đó bao sự sống và tạo ra biết bao bi kịch.

Cũng từ đây....Khung cảnh của phòng khám sản tư “không địa chỉ, không tên tuổi,

cáu bẩn và hôi hám” [18, tr. 84] với tiếng dao kéo lạch xạch, “thuốc kháng sinh

liều cao cấp tập. Máu và máu. Trần nhà ẩm thấp. Đèn điện chập chờn” [18, tr.

92

172] không chỉ mãi mãi ám ảnh Kiều, Oanh trong Lạc chốn thị thành, Hạ trong

Blogger những tháng ngày sau đó mà sẽ mãi ám ảnh Phong Điệp, ám ảnh người

đọc về một không gian đô thị với bao bất trắc.

Có thể nói, không gian thành thị trong tiểu thuyết Phong Điệp là không gian

của sự ngột ngạt, bí bách và vô cảm, nó mang đến nhiều nỗi bất an, trống rỗng

và bi kịch cho nhân vật. Trong không gian ấy con người không chỉ quay cuồng

với nỗi lo cơm áo mà còn phải đối phó từ đủ thứ cám dỗ, những cạm bẫy do chính

con người đô thị tạo ra. Không gian ấy chưa mang lại chút yên bình cho cư dân

đô thị. Viết về không gian đô thị Phong Điệp không giấu nổi nỗi lo lắng, bất an

cho nhân vật mà còn bộc lộ nỗi lo lắng bất an cho chính mình và cả cư dân đô thị.

3.3.1.2. Không gian đô thị ảo.

Không gian đô thị thực trong Blogger và Ga kí ức xuất hiện cùng lúc

với không gian đô thị ảo, hòa quyện với nhau tạo nên sự đồng hiện. Thực là ảo và

ảo cũng là thật. Trước nhất là không gian giấc mơ. Những gì đến với Hạ trong

mộng ảo chính là những biến cố cuộc đời mà nhân vật đã trải qua cùng với nỗi

niềm ẩn ức không thể giãi bày. Những giấc ngủ hằng đêm, hình ảnh của phòng

khám sản tư cùng với bà bác sĩ “mặt lạnh như chì” vẫn ám ảnh và chực chờ xuất

hiện làm lạnh buốt trái tim cô. Ở hiện thực, Hạ đã “khai tử sinh linh bé bỏng” của

chính mình vậy nên chỉ trong không gian của giấc mơ, cô mới có thể được làm

một người mẹ đúng nghĩa. Nỗi đau vì lần phá thai vẫn luôn dày vò trái tim Hạ,

không chỉ ngoài đời thực mà trong cả cơn mê: “Cô chuẩn bị hai bầu sữa thật căng

để bước vào giấc mơ. Cô đi tìm những hài nhi của mình. Chúng đang co ro ôm

lấy nhau, núp sau một bụi cây lúp xúp có mùi hăng hăng. Nhìn thấy cô, chúng hốt

hoảng buông nhau ra, chạy túa sang những khóm cây khác. Trên đường chúng

bỏ chạy, những vệt máu vẫn còn rơi rớt lại, thẫm đỏ.” [18, tr. 173].

Ở tiểu thuyết Ga kí ức, không gian giấc mơ là nơi các nhân vật tìm thấy lối

đi tưởng chừng như đã bế tắc ở hiện thực. Y là một bệnh nhân tâm thần trốn viện

và cô là bác sĩ phụ trách ca bệnh này. Sự biến mất của y khiến cô phải chịu trách

nhiệm giải trình. Khi mọi phương cách tìm kiếm đều bất lực thì cô đã tìm được y

93

trong giấc mơ “ở đúng chỗ bức tường rêu hắt màu ảm đạm trong ánh chiều tà với

vẻ mặt âm u” [22, tr. 81]. Với Phùng, sau khi không tìm được cô, giấc mơ hiện ra

trong anh với sự mơ hồ, huyễn hoặc: “Phùng đi mãi, tìm mãi vẫn không thể thấy

tòa nhà 10 tầng, với hai rặng phi lao chạy dọc từ cổng vào khu khám bệnh đâu.

Như thể chưa từng tồn tại một nơi như thế. Phùng tra tên và địa chỉ của bệnh viện

vì sợ mình nhớ nhầm. Nhưng cũng không có bệnh viện nào dành cho người hoang

tưởng mà Phùng từng đến” [22, tr. 226]. Thế nhưng, hóa ra tất cả chỉ là một cơn

mê. Như vậy có thể thấy, không gian giấc mơ trong Blogger và Ga kí ức đều bị

ảo hóa nhưng sau cùng, nó chính là một hình thức hiện hữu khác của hiện thực đô

thị. Một hiện thực mờ nhòe ranh giới và đa chiều kích.

Không gian ảo trong tiểu thuyết Phong Điệp còn là thế giới mạng internet.

Trong Blogger, Hạ và Phong đều là những người viết blog. Ở thế giới ảo, Hạ có

danh sách bạn bè (friend list) quan tâm bằng những lời bình luận (comment ) chứ

không cô đơn như ở đời thật. Trong không gian ảo của internet, Hạ có thể giãi bày

hết những cảm xúc của mình, kể cả sự giải tỏa bằng những câu chửi thề. Còn ở

hiện thực, Hạ yếu đuối và mất hết bản năng chống cự. Có thể nói, ở thế giới ảo,

Hạ toàn quyền quyết định được cách hiện tồn của mình trong cuộc đời, cũng như

thỏa chí bày tỏ những xúc cảm yêu, ghét, thù hằn… Thế giới mạng cũng như đời

sống, nó có nhiều con người mang những ý kiến, xu hướng khác nhau. Họ cũng

có một tên gọi riêng (nickname), có quyền trò chuyện, bày tỏ… thế nhưng, tất cả

chỉ là một không gian ảo do con người tạo lập.

3.3.2. Thời gian nghệ thuật

Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là dạng tồn tại mang

tính đặc thù của vật chất, nghĩa là nghệ thuật có thời gian riêng để thể hiện phương

thức tồn tại và triển khai thế giới. Nếu như không gian nghệ thuật không phải là

không gian vật lý thì thời gian nghệ thuật cũng chưa phải tồn tại trong thời gian

vật chất, mà thời gian nghệ thuật luôn vận động, biến đổi gắn liền với sự cảm thụ

về thời gian của tác giả.

94

Các tác giả trong cuốn Từ điển tiếng Việt cho rằng: “thời gian là hình thức

tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với không gian) trong đó vật chất vận động và

phát triển liên tục, không ngừng”[45]. Đứng về phương diện triết học, “thời gian

là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính, độ lâu của sự biến

đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật, các trạng thái biến đổi khác nhau của

thế giới vật chất.”[45]. Như vậy thời gian là một phạm trù cơ bản của cuộc sống.

Thế giới tự nhiên và con người đều tồn tại trong quá trình vận động của thời gian.

Tuy nhiên thời gian vật chất và thời gian nghệ thuật có những phạm trù riêng.

Những sự kiện trong tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại trong thời gian vật

chất. Bởi ở tác phẩm nghệ thuật, con người có quá trình vận động và phát triển

riêng. Trong tác phẩm nghệ thuật, con người có thể trải qua một cuộc đời, một

ngày, trải qua nhiều thế hệ, hoặc quay về quá khứ, hay nhảy vượt tới tương lai.

Như vậy thời gian nghệ thuật có thể mang tính liên tục, cái này xảy ra sau cái kia

theo một trình tự nhưng cũng có thể đảo ngược sự liên tục của nó. Bởi thế thời

gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ. Người nghệ sĩ có thể chọn

điểm bắt đầu và kết thúc, có thể là nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược,

có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian

thể hiện ý thức sáng tạo chủ động, tự do mang đậm dấu ấn của tác giả.

Trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm

nhìn nhất định trong thời gian. Cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời

gian, được biết qua thời gian. Thời gian nghệ thuật vừa là hình thức hiện hữu, vừa

là hình thức tư duy của con người được diễn tả bằng ngôn từ trong quá trình miêu

tả tính cách, hoàn cảnh, đường đời của nhân vật.

Thời gian nghệ thuật là hình thức nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác giả

bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức cảm nhận

được: hoặc hồi hộp đợi chờ, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm vào quá khứ.

Nhưng thời gian nghệ thuật cũng không phải là một hiện tượng của tâm lý mà cá

nhân người đọc muốn cảm thụ nhanh chậm tùy ý. Thời gian nghệ thuật là một

sáng tạo khách quan trong chất liệu. Nếu như một tác phẩm có thể gây hiệu quả

95

hồi hộp đợi chờ thì đối với ai, lúc nào, khi cảm thụ thời gian ấy đều xuất hiện.

Điều đặc biệt là thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện

một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người.

Như vậy thời gian nghệ thuật trong văn học khác với thời gian khách quan,

nó có thể trôi rất nhanh, bị dồn nén hay kéo dài cái chốc lát thành vô tận.

Có thể nói thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận thời

gian của con người. Phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời

kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển, thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về

phương thức tồn tại của con người trong tác phẩm.

Thời gian nghệ thuật là sự sáng tạo của nghệ sĩ để tạo ra “một thế giới nghệ

thuật có thể trường tồn trong thời gian” (Trần Đình Sử). Như vậy thời gian nghệ

thuật đã góp phần bộc lộ rõ quan điểm và tư tưởng của nhà văn. Có khi nhà văn

tổ chức vận hành thời gian nghệ thuật trong tác phẩm của mình theo diễn biến của

câu chuyện, được trình bày theo sự phát triển trước sau của thời gian. Đó là thời

gian sự kiện, thời gian này được tính theo độ dài thời gian mà nó diễn ra. Các sự

kiện được xâu chuỗi và xuất hiện một cách tuần tự, không đứt quãng. Tác phẩm

không có thời gian chết và sức hấp dẫn của nó là ở nhịp điệu dẫn dắt câu chuyện.

Bên cạnh kiểu thời gian này còn có kiểu thời gian tâm lý. Nhà văn kéo dài

thời gian để diễn đạt tâm trạng chờ đợi của nhân vật, có khi buộc thời gian phải

đứng lại vận động theo chiều ngược lại hay vận động ngược chiều để thể hiện sự

hồi tưởng của nhân vật. Quá khứ, hiện tại và tương lai không tách rời mà đan cài

lẫn nhau; cái hôm qua hiện hữu trong cái hôm nay, cái hôm nay dự báo cái ngày

mai. Điều đó thể hiện quan niệm về sự vận động biện chứng của con người và lịch

sử.

Thời gian nghệ thuật rất đa dạng. Nó là một thuộc tính tất yếu của hình

tượng nghệ thuật. Các nhà văn khi sáng tạo nên công trình nghệ thuật thường sử

96

dụng yếu tố thời gian nghệ thuật như một phương tiện cần thiết để tái hiện đời

sống con người.

Khi nghiên cứu thời gian nghệ thuật, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một

số cách phân loại.

M.Bakhtin (nhà nghiên cứu văn học Nga) trong bài viết Tiểu thuyết giáo

dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (Tạp chí văn học số 4

- 1999) đã phân chia thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học thành bốn loại:

thời gian phiêu lưu, thời gian cổ tích, thời gian tiểu sử và thời gian lịch sử. G.S

Trần Đình Sử quan niệm trong tác phẩm văn học có thời gian trần thuật và thời

gian được trần thuật:

Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến tính

một chiều của văn bản ngôn từ. Người ta nói văn học là nghệ thuật thời gian bởi

văn học diễn đạt các sự vật hiện tượng theo trật tự thời gian của lời nói liên tục,

từ câu đầu đến câu cuối cùng, không đảo ngược. Thời gian trần thuật là thời gian

của người kể, của sự kể. Nó có mở đầu và kết thúc; có tốc độ và nhịp độ riêng do

người kể có thể nhanh hay chậm, kể lướt hay kể tỉ mỉ, dừng lại miêu tả chi tiết;

có thể sắp xếp trật tự thời gian của sự việc đem cái xảy ra sau kể trước và ngược

lại; nó luôn mang thời hiện tại (tương ứng với thời hiện của người nói).

Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới bao gồm:

thời gian sự kiện, thời gian nhân vật, thời gian thiên nhiên, thời gian sinh hoạt,

thời gian phong tục, thời gian xã hội lịch sử.

Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong các tiểu thuyết viết về đô thị của

Phong Điệp chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật trong các tiểu thuyết chủ yếu là

thời gian tâm lí được thể hiện trên hai bình diện: Độ căng và sức nén cua thời gian

và mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Chính nó đã góp phần làm nên thành

công của tiểu thuyết viết về đô thị của Phong Điệp.

97

3.3.2.1. Độ căng và sức nén của thời gian

Trong tiểu thuyết viết về đô thị, nhất là trong các cuốn Blogger và Ga kí ức,

các sự kiện nối tiếp nhau không theo chuỗi thời gian tuyến tính mà dựa trên logic

của trí nhớ, của dòng hoài niệm gợi lên bất chợt nên thời gian trong tác phẩm bị

khúc xạ qua tâm lí và kí ức của nhân vật. Thời gian không trôi chảy bên ngoài sự

vật nữa mà vận động bên trong tâm lý nhân vật. Thời gian được kể biến thành thời

gian chủ quan, thời gian hồi tưởng. Chính vì vậy thời gian ở mỗi nhân vật có sự

biến động khác nhau làm cho thời gian nghệ thuật của tác phẩm đôi lúc bị kéo

căng ra, giãn nở, trương phình và đôi lúc thì dồn nén một khoảng thời gian dài chỉ

trong vài trang viết ít ỏi.

Phong Điệp đã sử dụng thủ pháp dồn nén thời gian khi tái hiện lại cả một

quãng thời gian dài nhân vật Phong trong Blogger sống ở đô thị chỉ với những

dòng tổng kết hết sức ngắn gọn trong lời giới thiệu của chính nhân vật. Rất nhiều

sự kiện chỉ được dồn nén trong một khoảng thời gian ngắn đã góp phần tô đậm ấn

tượng về một khoảng thời gian tuy dài nhưng nhạt nhẽo, thậm chí chán nản, cô

đơn, chẳng có gì đáng nhớ ngoài những chuyện buồn khi cô sống ở thành phố.

Nhưng ấn tượng về sự xa lạ và bất an nơi phố xá luôn in hằn trong tâm trí cô:

“Bảy năm trước, lần đầu tiên tôi đặt chân lên thành phố để dự kì thi đại học...Bảy

năm trước, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy máy vi tính ở nhà người cô họ tên

Sương... Bảy năm trước, khi cầm giấy báo đại học, lên tầu về Thành phố, kẻ gian

đã móc gọn của tôi cục tiền mẹ buộc chặt để dưới đáy ba lô... Bảy năm trước ...

Thành phố - xa lạ và đầy bất trắc. Bảy năm - sau khi đặt chân đến thành phố, tôi

nhắm mắt cũng biết đường đi lối lại... Bảy năm - sau khi đặt chân đến Thành phố,

tôi tự cho mình nghỉ việc ở rất nhiều công ty. Sau bảy năm, Thành phố - với tôi -

cụ thể như một chén nước đang uống dở, đặt ngay trước mặt... Sau bảy năm, có

những vũng lầy to đùng phía trước mà tôi phải tự lội qua, mà không hề có mẹ.”

[18, tr. 6-7]. Mốc thời gian “bảy năm trước, bảy năm” lặp đi lặp lại như một điệp

98

khúc không chỉ diễn đạt sự trôi chảy của thời gian, mà còn thể hiện nhịp sống đơn

điệu, chán nản của chính Phong nơi đô thị.

Ở Ga kí ức thời gian trong tiểu thuyết trôi qua vùn vụt theo những mạch kể

đan xen giữa hồi ức và hiện tại. Trong đó có những khoảng thời gian khá dài

nhưng chỉ được miêu tả ngắn gọn trong những trang viết ít ỏi, chẳng hạn như

khoảng thời gian Phùng được sinh ra, trải qua tuổi thơ đầy tủi nhục ở làng Yên

Bình, học và làm đủ nghề, nếm trải đầy cơ cực để mưu sinh nơi trời Âu đến khi

thành đạt, trở thành một doanh nhân giầu có. Cả một khoảng thời gian dài trên

dưới ba mươi năm chỉ được Phong Điệp kể lại ngắn gọn với 15 trang văn khi so

sánh với dung lượng khoảng 50 trang cho vài năm mà cả Phùng và mẹ được ở bên

nhau nơi thành phố với đầy đủ tiện nghi cho một cuộc sống thừa thãi về vật chất.

Với kiểu dồn nén thời gian này, Phong Điệp cho người đọc thấy rằng, đây là

khoảng thời gian dù tủi nhục và cơ cực nhưng cả hai mẹ con Phùng đều có động

lực sống để vươn lên, để chứng minh cho cả làng Yên Bình thấy giá trị của Phùng,

và hai mẹ con luôn cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên nhau nên thời gian qua

nhanh, vì thế Phong Điệp không tập trung tái hiện một cách tỉ mỉ, chi tiết. Có thể

nói thủ pháp dồn nén thời gian đã tạo cho tiểu thuyết giầu tính tốc độ, phù hợp

với sự đổi mới của tiểu thuyết hiện đại, phù hợp với thị hiếu của người đọc, nhất

là phù hợp với nhịp sống hiện đại, hối hả của các đô thị.

Bên cạnh sự dồn nén thời gian, chúng ta còn bắt gặp những khoảnh khắc thời

gian như bị kéo căng ra đến trương phình, giãn nở trong các cuốn tiểu thuyết viết

về đô thị của Phong Điệp. Trong ba cuốn tiểu thuyết, có lẽ cuốn Lạc chốn thị

thành, Phong Điệp ít dùng thủ pháp kéo căng thời gian. Các sự kiện được xâu

chuỗi và xuất hiện một cách tuần tự, không đứt quãng. Thời gian trần thuật khá

trùng khớp với thời gian sự kiện. Tác phẩm không có thời gian bị kéo căng hay

giãn nở. Đến Blogger, Phong Điệp đã sử các mạch truyện khác nhau. Sự đan xen

các mạch truyện, lúc thì chuyện của Phong, lúc lại chuyện của Hạ, lúc lại chuyện

truyện của Nó và Bé con làm cho các câu chuyện không liền mạch tạo cảm giác

99

thời gian của câu chuyện bị kéo căng. Không chỉ là sự đan xen các mạch truyện,

có khi thời gian dường như ngừng trôi, nhân vật đắm chìm vào những giấc mơ.

Có lúc, Phong Điệp đóng khung thời gian trong sự hình dung của Hạ về Quân khi

hai người tạm biệt nhau để tô đậm, và làm nổi bật sự chán nản mệt mỏi trong lối

sống đô thị: “Quân uể oải ngồi lên xe, miệng mở rộng, cuống họng bật ra đám

hơi đã bắt đầu vón cục lại do cơn buồn ngủ gây nên. Hai bên khóe mắt Quân lập

tức xô vào nhau, rỉ ra một chút nước sau cơn ngáp đầy hưng phấn vừa rồi. Hình

ảnh ấy liên tục lặp lại – đều đặn vào mỗi tối thứ Bảy – và nó rõ ràng đến độ cô

có thể chia nhịp cho từng động tác, rồi đếm 1-2-3. Cái ngáp sẽ kéo dài từng mười

lăm giây, với cái nốt ruồi bên má Quân bị kéo xệch đi trong chốc lát. Kết thúc

cơn ngáp sẽ là một tiếng rít khè khè cất lên từ đáy họng.” [18, tr. 53]. Đến tiểu

thuyết Ga kí ức, các mạch truyện ngưng đọng ở một khoảnh khắc và xen vào

khoảnh khắc đó là những câu chuyện lùi vào quá khứ trước đó nên góp phần kéo

dãn thời gian, gây cảm giác như thời gian ngừng trôi. Trước tiên, Phong Điệp kể

chuyện của cô, một bác sĩ chuyên chữa bệnh hoang tưởng và sống ở thành phố.

Câu chuyện được mở đầu bằng sự việc cô trở về xóm Chùa Cuối để tìm lại những

dấu vết của làng xưa, thời gian cô trở về xóm Chùa Cuối chỉ tính bằng những

khoảnh khắc ngắn ngủi và được gói gọn trong 2 trang, thế nhưng trong khoảnh

khắc ngắn ngủi đó tất cả kí ức lại ùa về. Đó là xóm Chùa Cuối tiêu điều, xơ xác.

Khi mùa lũ tràn về, dăm ba nóc nhà nơi đây đều bị nhấn chìm trong biển nước

mênh mông, tội nghiệp như cánh bèo dập dềnh trong ao ngày nhiều gió. Ký ức ấy

là giấc mơ cá theo con lũ bơi vào nhà rỉa đứt ngón chân khiến chị em cô chẳng

thể ngủ yên. Ở đó, đứa bé nghèo chẳng có nổi một mái nhà trọn vẹn. Bố cô cứ thế

bỏ đi mà chẳng để lại cho bầy con thơ một lời chào hay vài dòng thư từ biệt. Ba

mẹ con tằn tiện sống qua ngày bằng cơm độn. Trong khi mẹ cô phải tần tảo kiếm

từng đồng từ cái máy dệt đã han rỉ thì bao người trong xóm Chùa Cuối đã kịp đổi

đời. Ký ức của cô về xóm Chùa Cuối được nhà văn dành đến 64 trang để tái hiện.

Câu chuyện hiện tại của cô có khoảng trống, tạm dừng để cô chìm đắm vào quá

100

khứ.Thời gian bị kéo căng đến độ trương phình, giãn nở khiến cho chúng ta có

cảm giác thời gian ngừng trôi, ngưng đọng.

Không chỉ có nhân vật bác sĩ tâm lý, Phong Điệp còn kể về y, một nhân vật

bị hoang tưởng, là bệnh nhân của cô, chỉ bằng một sự việc trong hiện tại khi y

trốn khỏi bệnh viện tâm thần, sau đó câu chuyện của y ở hiện thực tạm dừng, thay

vào đó là dòng hồi tưởng của cô bác sĩ về việc y nhập viện, việc y xuất hiện liên

tục trong giấc mơ của cô hay là lời kể của nhà văn về quá khứ của y. Cũng như

chuyện của cô bác sĩ, sự việc xảy ra trong hiện thực chỉ được nhà văn dành một

vài trang gọn, còn phần lớn các trang viết là dòng hồi tưởng về quá khứ của nhân

vật. Đến chuyện của Phùng, tuy không dành nhiều trang viết về quá khứ của nhân

vật này nhưng Phong Điệp còn chèn điểm nhìn tâm lý của cô bác sĩ vào câu

chuyện của Phùng để làm gián đoạn thời gian sự kiện từ đó càng làm tăng thêm

sự ngưng trệ của thời gian. Việc cố tình kéo căng một khoảng thời gian nào là

nhằm để tô đậm những ấn tượng trong quá khứ từ đó có tác dụng nhấn mạnh một

giai đoạn nào đó trong cuộc đời nhân vật để thể hiện những vấn đề tư tưởng của

tác phẩm. Với cô bác sĩ tâm lí, nhân vật y và Phùng, Phong Điệp như muốn khẳng

định thời gian hiện tại nơi đô thị của cả ba nhân vật đều là tạm bợ, không dấu ấn,

thời gian quá khứ ở những vùng quê dù đau khổ, dù đói nghèo nhưng đều là những

thời gian vô cùng ám ảnh, dù muốn chạy trốn nhưng chưa bao giờ thời gian quá

khứ, những sự việc trong quá khứ thôi day dứt, thôi thúc giục nhân vật trở về. Chỉ

khi nào sự day dứt về quá khứ không còn, các nhân vật tìm ra câu trả lời thỏa

đáng, hay đối diện với quá khứ với sự tĩnh tâm thì cuộc sống nơi đô thị của các

nhân vật mới thực sự bình yên.

Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù

quan trọng nhất của thi pháp học, bởi vì nó thể hiện thực chất sáng tạo của người

nghệ sĩ. Nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể kể nhanh hay chậm,

có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế

hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian thể hiện ý thức sáng tạo chủ động, tự do, chủ quan

của nghệ thuật” [36]. Có thể nói chính cách xử lí thời gian kể truyện của Phong

101

Điệp đã đem lại một sự đổi mới cấu trúc nghệ thuật tiểu thuyết, khác hẳn cách kể

trong các tiểu thuyết cổ điển viết về đô thị. Đô thị được phản ánh dường như

không như cái ta cảm thấy mà là do cái ta nghĩ ra theo dòng tâm tư của người kể

“cái thấy là” thành “cái như là” (G.Genette). Cách xử lí thời gian của hành vi kể

chuyện trở thành mối quan tâm hàng đầu của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại viết

về đô thị. Vì vậy trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết chuyển từ xây dựng nhân

vật sang cách xử lí thời gian. Bằng những trải nghiệm, suy tư, triết lý trong cảm

nhận về thời gian, người kể chuyện đã làm sai lệch dòng chảy tự nhiên của thời

gian câu chuyện khiến cho thời gian tự sự đạt đến độ năng động tuyệt vời và tạo

hiệu quả rõ rệt trong việc miêu tả đời sống tinh thần cư dân đô thị.

3.3.2.2 Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian

Đô thị là nơi cư dân luôn đối diện với áp lực ghê gớm của sự mưu sinh, với

những toan tính, thủ đoạn thấp hèn để tranh giành miếng ăn, những đau đớn mất

mát của đời sống tình cảm hay sự chông chênh với quá khứ, dằn vặn với quê

hương. Những mệt mỏi, mất mát, đau khổ khiến cho cư dân đô thị nhiều khi mất

đi ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Ở Lạc chốn thị thành, Phong Điệp nhận

ra sự quay cuồng với cơm áo cũng khiến cho nhân vật của mình mất đi ý thức về

sự diễn tiến của thời gian. Kiều ra trường, thất nghiệp, cô phải làm đủ việc để

sống. Trọ cùng với Phúc, cô bạn người Thái Nguyên, nhận được sự chăm sóc,

động viên ân cần nhưng điệp khúc suốt ngày chạy việc ngoài đường, tối về đến

phòng trọ là mệt lử, ăn uống qua loa để ngày mai lại tiếp tục “chinh chiến”, khiến

cho Kiều quên mất xung quanh, quên mất sự diễn tiến của thời gian. Trọ cùng

Phúc cả bốn, năm tháng mà Kiều không nhận ra những thay đổi lớn lao của Phúc

từ ngoại hình đến tình cảm. Chỉ đến khi Phúc suýt chết vì tự phá thai Kiều mới ân

hận nhận ra mọi sự thay đổi bấy lâu nay. Chính sự hối hả, bon chen, sự mệt mỏi,

đau khổ nơi Thành thị đã làm Kiều không còn ý thức về thời gian, về mọi việc

xung quanh.

102

Ánh mắt và tư duy sắc sảo của một nhà báo, trái tim đa cảm của một người

phụ nữ viết văn đã giúp Phong Điệp hiểu được những điệp khúc đơn điệu, tẻ nhạt,

buồn chán và những khổ đau của cuộc sống đô thị lặp đi, lặp lại cũng làm cho ta

mất đi ý thức về sự diễn tiến của thời gian. Ở Blogger, nhiều nhân vật của chị rơi

vào tình trạng mơ hồ. Trước tiên là Nó, “Nó thường xuyên gặp lại những TRẠNG

THÁI SỐNG đã từng xảy ra.”. “ Nó thường xuyên gặp lại một giấc mơ mà nó đã

gặp từ rất lâu trước đó. Hay những tình huống, những câu chuyện mà khi Bé con

vừa bắt đầu thì nó biết ngay từng chi tiết diễn biến sau đó”. Điều này khiến Nó bị

rối loạn về cảm giác và TRẠNG THÁI SỐNG hiện thời. Nó đang sống lại một

ngày X. tháng Y. của một năm nào đó, chứ không phải một ngày giờ cụ thể

này.”[18, tr. 58]. Nó không cảm nhận được sự thay đổi của thời gian hay cảnh

vật, sự lặp lại của những điều quen thuộc khiến Nó thấy “ngạc nhiên và hoảng

loạn”. Nó nhận ra sự mất ý thức về thời gian phải chăng chính là “một dạng tự

lặp và nhàm chán với chính cuộc sống của mình”. Không chỉ có Nó, Bé con mà

cả Phong, Hạ trong Blogger cũng đều có những giây phút mất đi ý thức về sự vận

động thực của thời gian đang diễn ra. Với cuộc sống thực, Phong có phần khép

kín, cô độc và bế tắc. Thế giới mà cô luôn hiện hữu là thế giới không thực, thời

gian ảo mờ. Cô đôi khi lạc lõng trong các mối quan hệ, xa lạ với thế giới thực,

phân vân giữa thực và ảo. Còn Hạ, cô luôn tìm cách thu mình ở cơ quan để xa

lánh ánh mắt cú vọ của lão sếp, chuỗi ngày làm việc ở cơ quan là thời gian tra tấn

hệ thống thần kinh non nớt khiến cô lâm vào tình trạng sợ hãi, khủng hoảng tâm

lí. Mối quan hệ nhạt nhẽo với Quân khiến cô từ lâu không còn ý thức về ngày thứ

bảy. Ngày thứ bảy, cô chỉ có một mình với sự cô đơn, làm những việc vô vị, đợi

thời gian trôi đi vô nghĩa. Chẳng hi vọng, không chờ đợi, thời gian trôi qua cuộc

sống của Hạ thật nhạt nhẽo và vô hồn. Cô không còn ý thức về nó, thậm chí lãng

quên nó, hay nó chỉ là những cột mốc ghi dấu sự đau khổ của cô mà thôi. Sự mất

ý thức về thời gian ở Hạ là một biểu hiện rõ rệt cho cuộc sống chán nản và bế tắc

nơi đô thị.

103

Mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian không chỉ diễn ra khi nhân vật của

Phong Điệp trong tình trạng chán nản, mệt mỏi, khổ đau, bế tắc mà còn diễn ra

khi nhân vật chông chênh giữa thực và ảo, giữa quá khứ và hiện tại. Cả cô bác sĩ

tâm lí và y trong Ga kí ức đều rơi vào trạng thái mất ý thức về thời gian, mỗi sự

kiện ở hiện tại đều gợi nhớ cho cô, cho y về quá khứ, và chìm vào ảo mộng của

mỗi người. Thời gian hiện tại của cả cô và y đều mờ nhạt, gãy khúc và luôn rơi

vào các khoảng lặng. Cả cô và y luôn chìm vào hoài niệm hay suy tưởng với hàng

loạt câu hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra? Y đang ở đâu? Thành phố mà y vẫn sống đâu?

Ngày hôm qua của y đâu rồi? Chỗ trú ẩn của y đâu rồi? Thực ra y có tồn tại

không? ”[22, tr. 87]. Hay “Tại sao bố bỏ ba mẹ con cô mà đi?”; “Cô là ai? Là ai

đây?”. Ý thức về cuộc sống hiện tại, về thời gian hiện tại với cô và y chỉ như

những đốm sáng chợt lóe lên rồi lại tắt vụt để lại cho cả hai nhân vật chìm vào

khoảng mênh mông của hoài niệm và vô thức. Phùng là nhân vật có lẽ tỉnh táo

nhất trong các nhân vật ở Ga kí ức. Với Phùng quá khứ chỉ là quá khứ, hiện tại

và tương lai mới đáng quan tâm. Cuộc sống với Phùng là những kế hoạch, những

dự định tốt đẹp cho tương lai. Anh bận đến nỗi chẳng có thời gian chăm sóc mẹ

và làm việc cả khi ngủ. Những tưởng Phùng sống lí trí và chai sạn cảm xúc, đến

khi gặp cô bác sĩ tâm lí, người đã làm cho mẹ Phùng hạnh phúc, Phùng đã mềm

lòng. Phùng đã yêu cô và khi cô biến mất Phùng rơi vào trạng thái thẫn thờ đến

lẩn thẩn: “Phùng đi quanh nhà đến chục lần, mà không biết, không nhớ mình cần

phải làm gì. Giữa cuộc họp với đối tác, Phùng bỗng quên sạch những gì cần trao

đổi.” [22, tr. 250]. Lúc này, Phùng không đủ tỉnh táo để nhận biết thời gian thực.

Phùng đang chìm đắm vào sự suy tưởng, toàn bộ tâm trí của Phùng dành cho cô.

Cô đang ở đâu, Phùng nhớ cô, lo cho cô, yêu cô và cần cô quay lại với mẹ con

Phùng. Phùng sẽ tìm cô dù cô ở phương trời nào.

Có thể nói, nhân vật của Phong Điệp đều có những giây phút nhớ nhớ, quên

quên, hay mơ hồ ở thời điểm thực tại. Sự mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian

vừa thể hiện sự mệt mỏi, bế tắc trong cuộc sống đô thị nhưng mặt khác Phong

Điệp lại muốn thể hiện đời sống tình cảm giàu yêu thương của cư dân đô thị, sự

104

mơ hồ về thời gian, sống với đời sống tinh thần mà quên đi thực tại cũng là cách

tiếp thêm sức mạnh, lấy lại sự thăng bằng để sống tiếp. Đằng sau mỗi cư dân đô

thị, dù xù xì gai góc, dù chai sạn khô héo đều cần yêu thương và sẻ chia.

TIỂU KẾT

Cảm quan đô thị sắc sảo của một cây bút trẻ nữ đã chi phối mạnh mẽ đến

phương thức nghệ thuật trong tiểu thuyết của Phong Điệp. Để tiểu thuyết của mình

phản ánh hơi thở của cuộc sống đô thị đương đại Phong Điệp đã sử dụng ngôn ngữ

thông tục suồng sã vỉa hè khá đa dạng. Từ lời ăn tiếng nói hàng ngày đến những

tiếng lóng, tiếng đệm mang một hàm ý mới. Sống và viết trong thời đại của

Internet, Phong Điệp đã đưa ngôn ngữ chat, blog một cách tiết chế có liều lượng

nên tạo được hiệu quả thẩm mỹ tích cực.

Bên cạnh ngôn ngữ, Phong Điệp đã kết hợp sáng tạo và linh hoạt ngôi kể và

điểm nhìn để bức tranh về cuộc sống và con người đô thị hiện lên vừa chân thực,

khách quan vừa sống động, đa chiều. Với trái tim nhân hậu và đa cảm của một

phụ nữ viết văn, Phong Điệp không khỏi lo lắng trước một không gian thành thị

đầy bất trắc, thành thị không chỉ có cám dỗ vật chất, bao hiểm nguy rình rập, mà

đó còn là không gian ngột ngạt, tù túng khiến con người héo úa, lụi tàn. Đôi khi,

sự thất bại, bế tắc ở cuộc sống thực, con người đã phải tìm đến không gian đô thị

ảo như một sự phủ nhận trốn tránh, hay là một lối thoát. Trong tiểu thuyết của

Phong Điệp, bên cạnh thời gian tuyến tính nhà văn sử dụng nhiều thời gian tâm

trạng. Vì vậy, trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết chuyển từ xây dựng nhân vật

sang cách xử lí thời gian. Bằng những trải nghiệm, suy tư, triết lý trong cảm nhận

về thời gian, Phong Điệp đã làm sai lệch dòng chảy tự nhiên của thời gian câu

105

chuyện khiến cho thời gian tự sự đạt đến độ năng động tuyệt vời và tạo hiệu quả

rõ rệt trong việc miêu tả đời sống tinh thần cư dân đô thị.

Sự mất ý thức về sự diễn tiến của thời gian vừa thể hiện sự mệt mỏi, bế tắc

trong cuộc sống đô thị nhưng mặt khác Phong Điệp lại muốn thể hiện đời sống

tình cảm giàu yêu thương của cư dân đô thị, sự mơ hồ về thời gian, sống với đời

sống tinh thần mà quên đi thực tại cũng là cách tiếp thêm sức mạnh, lấy lại sự

thăng bằng để sống tiếp. Đằng sau mỗi cư dân đô thị, dù xù xì gai góc, dù chai

sạn khô héo đều cần yêu thương và sẻ chia.

PHẦN KẾT LUẬN

Văn học lấy đô thị làm để tài sáng tác như một dòng chảy bền bỉ và liên

tục. Dòng chảy này bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của đô thị. Trong sự

biến thiên của lịch sử và sự thăng trầm của các đô thị, dòng chảy ấy có lúc sôi nổi,

mãnh liệt có lúc lặng lẽ, âm thầm lan tỏa. Tuy chưa phải là dòng chính và riêng

biệt nhưng chưa khi nào bộ phận văn học này lại vắng bóng trong bức tranh văn

học Việt Nam. Trong những năm gần đây, khi đô thị ở Việt Nam có sự phát triển

mạnh mẽ thì cuộc sống và con người đô thị đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của

các nhà văn. Bằng cảm quan riêng của một nhà văn nữ đến với đô thị từ không

gian ngoại vi, Phong Điệp đã thể hiện những khám phá riêng về bức tranh đô thị

qua các tiểu thuyết Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức. Quan nghiên cứu

“Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp”, chúng tôi rút ra một số

kết luận sau:

1. Bức tranh đô thị trong tiểu thuyết của Phong Điệp là bức tranh đời sống

với bao suy tư và bộn bề lo lắng. Phong Điệp chú ý đến quá trình đô thị hóa ở

những không gian ngoại vi như một hệ quả tất yếu của sự phát triển đô thị. Là

người trong cuộc, nhà văn thấu hiểu quá trình ấy tuy đem đến cho đô thị vẻ hào

nhoáng bên ngoài nhưng lại xáo trộn tận gốc rễ cuộc sống thanh bình thủa trước

của những vùng ven đô. Đó là một sự lột xác đầy đau đớn và mất mát. Trong tiểu

thuyết của mình Phong Điệp đã thể hiện cái nhìn đa chiều về đời sống đô thị và

106

phát hiện những xung đột về văn hóa, về quan niệm đạo đức do tác động của quá

trình đô thị hóa đem lại.

2. Trong cảm quan đô thị của Phong Điệp, con người hiện lên khá đa dạng.

Đó là những người trẻ từ tỉnh lẻ đến đô thị, vật vã trong cuộc mưu sinh và lập

nghiệp. Hay những con người rời xa quê hương hối hả với vòng quay cơm áo nơi

đô thị nhưng trong sâu thẳm trái tim luôn đau đáu hình ảnh thân thuộc với khát

vọng trở về. Phong Điệp bày tỏ sự cảm thông đến những người trẻ vì lối sống thực

dụng với những ham muốn vật chất đã đánh mất mình, đồng thời, bầy tỏ sự ghê

tởm sự tha hóa về đạo đức và lối sống của những kẻ có tiền, có quyền, biến người

phụ nữ trở thành con mồi trong cuộc săn đuổi nhằm thỏa mãn ham muốn bệnh

hoạn. Đời sống muôn mặt của đô thị với bao lo toan vất vả mưu sinh, với bao bon

chen, vụ lợi của đủ hạng người đã đi vào trang văn của Phong Điệp một cách tự

nhiên, chân thực. Dù có lạc lối, có cô đơn, bế tắc, trả giá thì cuối cùng ta vẫn thấy

hi vọng, tin tưởng vào tình người, tình đời và tương lai.

3. Cảm quan đô thị với ý thức mô tả toàn diện và sâu sắc cuộc sống thành

thị bộn bề, ngổn ngang với bao lo toan, vất vả đã chi phối mạnh mẽ đến phương

thức thể hiện tác phẩm. Phong Điệp đã sử dụng ngôn ngữ mang đặc trưng của

tầng lớp thị dân và giới trẻ. Đó là lớp từ ngữ thông tục suồng sã, vỉa hè. Ngôn ngữ

mạng được đưa vào không chỉ tạo màu sắc riêng cho tiểu thuyết Phong Điệp mà

còn làm cho văn chương của chị gần gũi với giới trẻ và mang hơi thở của cuộc

sống đô thị. Bên cạnh ngôn ngữ, Phong Điệp đã kết hợp sáng tạo và linh hoạt ngôi

kể và điểm nhìn để bức tranh về cuộc sống và con người đô thị hiện lên vừa chân

thực, khách quan vừa sống động, đa chiều. Với trái tim nhân hậu và đa cảm của

một phụ nữ viết văn, Phong Điệp không khỏi lo lắng trước một không gian thành

thị đầy bất trắc, Thành thị không chỉ có cám dỗ vật chất, bao hiểm nguy rình rập,

mà đó còn là không gian ngột ngạt, tù túng khiến con người héo úa, lụi tàn. Đôi

khi, sự thất bại, bế tắc ở cuộc sống thực, con người đã phải tìm đến không gian

đô thị ảo như một sự phủ nhận trốn tránh, hay là một lối thoát. Ở không gian ấy,

107

thời gian đôi lúc dồn nén, ngừng trôi khiến con người mất đi ý thực với thực tại,

chông chênh giữa đôi bờ ảo, thực.

4. Tuy nhiên vì quá chú trọng đến việc cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết

nhất là trong Blogger, Phong Điệp đã hơi lạm dụng thủ pháp nghệ thuật nên đôi

lúc, đôi chỗ chị dùng những thủ pháp nghệ thuật chưa hợp lí gây khó khăn cho sự

tiếp nhận của độc giả.

Qua ba tiểu thuyết Lạc chốn thị thành, Blogger, Ga kí ức Phong Điệp đã

thể hiện được sự gắn bó, trăn trở, âu lo đầy trách nhiệm với cuộc sống và con

người đô thị. Với sự gắn bó đầy trăn trở ấy, chúng ta tin tưởng rằng trong tương

lai Phong Điệp sẽ còn nhiều tác phẩm thành công viết về mảng đề tài này góp

phần làm phong phú cho thành tựu của văn xuôi Việt Nam đương đại, tạo động

lực cho văn học đô thị sẽ trở thành dòng riêng và thành nhịp mạnh trong bức tranh

chung của nền văn học Việt Nam đương đại.

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyên An, Phong Điệp – một sức viết đáng nể, một cách viết đã đi

vào độ thành thục, http://tranchieuqn.vnweblogs.com/a190496/phong-

diep-mot-suc-viet-dang-ne-mot-cach-viet-da-vao-do-thanh-thuc.html

2. Thụy Anh, Phong Điệp, một phong cách sáng tác hiện đại,

http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/tac-pham-va-du-

luan/453-phong-ip-mt-phong-cach-sang-tac-hin-i.html

3. M.Bakhtin, Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ

nghĩa hiện thực, Tạp chí văn học số 4 - 1999

4. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi ( 1998), Từ điển văn học, Tập

1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Miên Di, Blogger - một ngòi bút lạnh, phongdiep.net.

6. Di Li (2010), “Phỏng vấn nhà văn Phong Điệp”, Người Hà Nội, số 32,

07/8/2010.

7. H.Dung, Blogger - những lát cắt cuộc sống, http:\\nld.com.vn

8. Đoàn Ánh Dương, Vấn đề đô thị trong văn chương Việt Nam hiện

đại,http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/van-de-do-thi-

trong-van-chuong-viet-nam-hien-dai-9915.html

9. Đoàn Ánh Dương, Phong Điệp và truyện ngắn viết về đô thị,

http://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/phong-diep-

va-truyen-ngan-viet-ve-do-thi-412812

10. Hoàng Đạt (2009), Dấu ấn Phong Điệp, phongdiep.net

11. Phong Điệp (1996), Khi ta hai mươi, NXB Trẻ

12. Phong Điệp ( 1997), Ma mèo, NXB Trẻ

13. Phong Điệp ( 2000), Người phía bên kia đường, NXB Trẻ

14. Phong Điệp ( 2001), Phòng trọ, NXB Thanh niên

15. Phong Điệp ( 2005), Vườn hoang, NXB Thanh niên

109

16. Phong Điệp (2005), Lạc chốn thị thành, Nxb Trẻ; Hội Nhà văn Tp. Hồ

Chí Minh; Báo Tuổi trẻ.

17. Phong Điệp ( 2008), Kẻ dự phần, NXB Hội Nhà văn

18. Phong Điệp (2009), Blogger, Nxb Hội nhà văn.

19. Phong Điệp ( 2012), Nhật kí nhân viên văn phòng, NXB Trẻ

20. Phong Điệp ( 2012), Bay trên mái nhà thành phố, NXB Văn học

21. Phong Điệp( 2012), Tôi luôn có cảm giác bấp bênh và âu lo về đời sống

đôthị, http://vannghequandoi.com.vn/Trao-doi/Nha-van-Phong-Diep-

Toi-luon-co-cam-giac-bap-benh-va-au-lo-ve-doi-song-do-thi.

22. Phong Điệp (2015), Ga kí ức, Nxb Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh

23. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, H.

24. Hương Giang, Blogger - dấu ấn mới của Phong Điệp,

http:\\Anninhthudo.vn

25. Văn Giá, Văn học đô thị - có hay chưa?,

http://vietvan.vn/vi/bvct/id149/Van-hoc-do-thi---co-hay-chua/

26. Ngân Hà, Văn học đô thị - mảnh đất bỏ hoang, http://www.thotre.com

27. Trần Thị Hà ( 2011), Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam,

Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội.

28. Lê Bá Hán… (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc

gia, Hà Nội.

29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( Đồng chủ biên) (2004),

Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Đỗ Đức Hiểu ( 2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

31. Lê Anh Hoài (2009), Blogger - cuốn tiểu thuyết đòi hỏi một cách đọc

khác, phongdiep.net

32. Vương Quốc Hùng, Phong Điệp - nóng và hot,

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c179/n3606/Phong-Diep-nong-

va-hot.html

110

33. Nguyễn Thị Hương (2014), Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn,

Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

34. Hoàng Đăng Khoa, Phong Điệp mỗi tác phẩm một bữa tiệc,

http://nhavantphcm.vn/chan-dung-phong-van/phong-diep-moi-tac-

pham-mot-bua-tiec.html#

35. Trần Đăng Khoa (2001), Đôi nét về Phong Điệp và tập truyện Phòng

trọ, NXB Thanh niên

36. Đặng Thị Lan (2013), Những tìm tòi nghệ thuật trong truyện ngắn và

tiểu thuyết Phong Điệp, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Vinh.

37. Phạm Hồng Lan ( 2002), “ Không gian đô thị trong tiểu thuyết hiện thực

Vũ Trọng Phụng ”, Tạp chí Giáo dục.

38. Trinh Duy Luân ( 2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

39. Phương Lựu – Nguyễn Trọng Nghĩa, La Khắc Hòa – Lê Lưu Oanh (

2008), Lí luận văn học, Tập 1, Nxb ĐHSP Hà Nội.

40. Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên, Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết

“Blogger” và “Ga kí ức” của Phong Điệp, http://vanvn.net/tim-toi-the-

nghiem/khong-gian-nghe-thuat-trong-tieu-thuyet-“blogger”-va-“ga-

ky-uc”-cua-phong-diep

41. Nguyễn Ngọc Thảo Nguyên, Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết “

Blogger’’ và “Ga kí ức” của Phong Điệp, Luận văn thạc sĩ, Trường đại

học Khoa học Huế

42. Lê Thiếu Nhơn (2011), Cảm hứng đô thị và sự đắn đo thân phận,

vnca.cand.com.vn

43. Hoàng Thị Oai ( 2014), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Blogger của

Phong Điệp, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2

111

44. Thụy Oanh, “Ga ký ức”: nơi gặp gỡ của quá khứ đầy ám ảnh,

http://news.zing.vn/ga-ky-uc-noi-gap-go-cua-qua-khu-day-am-anh-

post673477.html

45. Hoàng Phê (Chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

46. Nguyễn Văn Phương (2012), Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết

Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Sư phạm Hà Nội.

47. Lệ Quyên, Văn học đô thị hôm nay, http://vanviet.info/nghien-cuu-

phe-binh/van-hoc-d-thi-viet-nam/

48. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập (2 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Trần Đình Sử (1998). Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo Dục

50. Đoàn Minh Tâm, Vài cảm nhận về tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp,

http://phongdiep.net

51. Dương Tử Thành(2012), Nhà văn Phong Điệp: Khám phá những tầng

sâu của đời sống, http: //www.nxbcand.vn/

52. Bùi Việt Thắng ( 2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội, Hà Nội

53. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ, Nxb Lao động, 1992.

54. Nguyễn Thị Phương Thúy, Văn học đô thị; khái niệm và đặc điểm,

http://www.vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/2790-2016-04-23-08-

01-44.html

55. Phương Thúy, Gặp gỡ ở sân ga kí ức cùng Phong Điệp, http://vov.vn/van-hoa/van-hoc/gap-go-o-san-ga-ki-uc-cung-phong- diep-hoi-tuong-thoi-bao-cap-446174.vov

56. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị,

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Truyen-ngan-

duong-dai-ve-de-tai-do-thi-1265.html

112

57. Nguyễn Xuân Thủy, Phong Điệp cất những cơn mơ trong ngăn tủ,

http://anninhthudo.vn/blog-nghe-si/nhung-con-mo-cat-trong-ngan-

tu/469582.antd

58. Bình Nguyên Trang, Phong Điệp: Bay trong thế giới của riêng mình,

http://thvl.vn/?p=97240

59. Nguyễn Quỳnh Trang, Nhà văn Phong Điệp: hãy tránh xa đám đông ồn

ào, http://www.tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/2924-

nha-van-phong-diep-hay-tranh-xa-cac-dam-dong-on-ao.html

60. Bùi Công Thuấn, Tiểu thuyết Blogger và những cách tân nghệ

thuật,http:\\phongdiep.net

61. Nguyễn Thị Tuyết ( 2015), “ Cảm quan và cảm quan nghệ thuật”,

http:// tapchisonghuong.com.vn

62. Hoàng Quảng Uyên, Phong Điệp, người trẻ văn già,

http://www.tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/452-phong-

ip-ngi-tr-vn-gia.html

63. Lê Thị Y Vân, Những đặc sắc trong kết cấu tiểu thuyết Blogger của

Phong Điệp, Bài tham dự Hội nghị Sinh viên nghiên cứu khoa học,

Khoa Ngữ văn – Đại học Vinh, năm học 2010 - 2011