ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ĐẶNG THỊ THẢO CẢM THỨC VỀ THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM ANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
ĐẶNG THỊ THẢO
CẢM THỨC VỀ THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Kiến Thọ
Thái Nguyên – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Đặng Thị Thảo
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn TS Nguyễn Kiến Thọ, người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Đặng Thị Thảo
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Đặng Thị Thảo
iv
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã
trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn TS Nguyễn Kiến Thọ, người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Đặng Thị Thảo
v
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................. 10
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 11
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 11
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 11
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 12
CHƯƠNG I: THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA BÙI KIM ANH ...................................... 13
1.1. Thơ nữ Việt Nam đương đại – hành trình của truyền thống và cách tân ........ 13
1.1.1. Vài nét về thơ nữ Việt Nam đương đại. ................................................... 13
1.1.2. Một số đặc điểm nổi bật của thơ nữ Việt Nam đương đại. ...................... 15
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Bùi Kim Anh ....................................... 19
1.2.1. Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Bùi Kim Anh .................................................. 19
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Bùi Kim Anh .................................... 23
CHƯƠNG II: NỘI DUNG BIỂU HIỆN CẢM THỨC THÂN PHẬN VÀ
TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM ANH ................................................... 32
2.1. Khái niệm cảm thức .................................................................................... 32
2.2.Cảm thức về thân phận trong thơ Bùi Kim Anh ........................................... 36
2.2.1. Cảm thức cô đơn trước nhịp sống hối hả của cuộc đời ............................. 36
2.2.2. Cảm thức về về nỗi bất hạnh giăng bủa .................................................... 40
2.3. Cảm thức về tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh ............................................. 44
2.3.1. Một tình yêu nồng nàn, mãnh liệ .............................................................. 44
vi
2.3.2. Một tình yêu mang đầy dự cảm của sự tan vỡ .......................................... 49
CHƯƠNG III. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC VỀ THÂN
PHẬN VÀ TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM AN .................................. 55
3.1. Thể thơ-ngôn ngữ của sự sáng tạo ............................................................... 55
3.1.1. Cách tân lục bát-cách tân nỗi buồn ........................................................... 56
3.1.2. Thơ tự do – sự khơi mở giãi bày những ẩn ức tâm hồn. ........................... 62
3.2. Hình ảnh thơ – những biểu tượng của cảm thức ................................................... 66
3.2.1. Biểu tượng “chiều” –biểu tượng của nỗi buồn ......................................... 68
3.2.2. Biểu tượng “đêm” –biểu tượng của những nỗi niềm thầm kín ................. 70
3.2.3. Biểu tượng “mưa” – biểu tượng của sự cô đơn......................................... 74
3. 3. Ngôn ngữ thơ – “hệ quy chiếu” của tâm hồn nhà thơ ................................. 76
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................................... 88
3.4. Giọng điệu thơ- những giai điệu của tâm hồn ............................................. 80
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.2: Bảng thống kê tần số xuất hiện của một số biểu tượng trong thơ Bùi
Kim Anh ............................................................................................................. 68
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong đội ngũ các nhà thơ nữ Việt Nam từ những năm 90 của thế
kỷ XX đến nay, Bùi Kim Anh là nhà thơ nữ khá nổi bật. Thơ Bùi Kim Anh có
một giọng điệu riêng biệt so với các nhà thơ nữ khác cùng thời bởi sự kín đáo,
thâm trầm, u uẩn và đầy tâm trạng của một người phụ nữ tri thức luôn có ý
thức sâu sắc về mình và về số phận của những người phụ nữ thời kỳ hiện đại
với bao nỗi niềm trước cuộc đời vốn rất phức tạp, đầy niềm vui, hạnh phúc
nhưng cũng đầy nỗi buồn, khổ đau và bất hạnh.
1.2. Những năm gần đây, cái tên Bùi Kim Anh đã phần nào trở nên
quen thuộc với giới văn chương và công chúng yêu thơ trong cả nước. Bởi lẽ,
Bùi Kim Anh là một trong số không nhiều những nhà thơ nữ luôn nỗ lực làm
mới cho thơ mình. Đặc biệt, Bùi Kim Anh viết rất hay về thân phận và tình
yêu bằng cảm thức của một phụ nữ thông minh, đa tài song cũng đã từng trải
nghiệm nhiều những đắng cay, ngang trái của cuộc đời cũng như những trớ
trêu của số phận. Đương đầu và vượt qua tất cả những cái đó là điều mà Bùi
Kim Anh đã làm trong cuộc đời và cả trong thơ. Chính vì vậy mà thơ Bùi
Kim Anh đầy những chiêm nghiệm về tình yêu và thân phận của một người
phụ nữ nặng nợ với thơ và nặng nợ với cuộc đời.
1.3. Đến nay, mặc dù đã có khá nhiều những bài viết, nghiên cứu về
thơ Bùi Kim Anh, tuy nhiên, một nghiên cứu mang tính qui mô và chuyên
biệt về thơ Bùi Kim Anh hình như còn là một khoảng trống mà giới nghiên
cứu còn bỏ ngỏ. Vì vậy, nghiên cứu về thơ Bùi Kim Anh là việc làm có ý
nghĩa lí luận và thực tiễn nhằm đánh giá những giá trị nội dung và nghệ thuật
thơ Bùi Kim Anh cũng như góp phần khắc họa diện mạo của thơ nữ Việt Nam
hiện đại .
2
1.4. Là nhà giáo trước khi trở thành nhà thơ, Bùi Kim Anh viết rất hay và cảm
động về tình cảm thầy trò, về tình yêu đối với nghề giáo. Vì vậy, nghiên cứu vấn
đề cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh cũng là một hành
động thiết thực để thể hiện sự trân trọng, yêu kính của cá nhân tác giả luận văn
đối với nhà thơ- nhà giáo Bùi Kim Anh, trên tất cả là sự tri âm của những tâm
hồn phụ nữ.
Từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Cảm thức về thân phận
và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Một trong những người đầu tiên đánh giá về thơ Bùi Kim Anh có lẽ
là Lê Thiếu Nhơn. Tháng 4 năm 2008, tác giả Lê Thiếu Nhơn đăng bài
viết:“Bùi Kim Anh chòng chành thi phú giữa tai ương”. Tác giả nhận định
Bùi Kim Anh là “một người phụ nữ từng ngồi lặng trong đau khổ để viết
những câu thơ xót xa”[56]. Lê Thiếu Nhơn chú ý hơn đến hai tập thơ Bán
không cho gió và Lời buồn trên đá. “Hai tập thơ với gần 200 bài thơ, ở nhà
thơ Bùi Kim Anh xuất hiện một chân dung khác. Không còn nữa một Bùi Kim
Anh lãng đãng và mê đắm thời Cỏ dại khờ (1995) hay Lối mưa (1999), mà là
một Bùi Kim Anh chông chênh trong cơn tuyệt vọng và dằn vặt nỗi hệ lụy”,
“Trong thơ chị, có những đêm rất dài, những đêm chờn vờn cay đắng, những
đêm ngập tràn bơ vơ”. Lê Thiếu Nhơn đã cho rằng: “Chị chỉ còn vũ khí cuối
cùng là thơ để tự vệ trước những đêm rờn rợn hoảng hốt” và “Thơ đã dìu chị
qua gập ghềnh khi không còn nước mắt để khóc”[56].
Trên Báo Thể thao văn hóa cuối tuần số 36 ngày 5- 11/9/2008, tác giả
Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “Những câu thơ của chị thường lắng sâu một
nỗi niềm thân phận, thương cho phận mình, thương cho phận người ngay cả
khi cuộc sống thanh bình và khi cuộc đời bỗng rẽ ngoặt một biến cố, thơ chị
có thêm cung bậc thế thái nhân tình để càng xoáy sâu hơn vào thân phận con
3
người vẫn luôn là mong manh và trắc ẩn trong trái tim nhà thơ. Thơ Bùi Kim
Anh luôn là viết cho mình, viết từ mình. Chị biết đặt mình giữa chợ người để
thấu hiểu mình và đồng cảm với nhân sinh. Điệu lục bát vì thế đến với chị như
một tiếng thở dài, một lời tự than, một tiếng ru mình”.[54]
Tháng 2 năm 2010, trong Diễn đàn Văn Nghệ, nhà thơ Phan Thị
Thanh Nhàn đăng bài viết: “Bùi Kim Anh dịu dàng và cam chịu”. Nhà thơ
Phan Thị Thanh Nhàn nhận xét: “Thơ Bùi Kim Anh là nỗi niềm của một người
bị nhiều điều phụ bạc mà không oán hận, chỉ tự trách mình. Đó chính là tâm
hồn thật là trong trẻo, thật là cao đẹp, bao dung. Cũng có thể đó chỉ là những
phút “giận dỗi và nghi ngại” của một tâm hồn yếu đuối, thiếu tự tin”.[53]
Ngày 14 tháng 03 năm 2012, trong bài viết: “Bùi Kim Anh, hai cuộc
đời trong năm tập thơ”, tác giả Trần Thị Thắng viết: “Năm tập thơ của cùng
một tác giả như hai cuộc đời khác nhau, ba tập thơ chị viết hiền lành, thơ
ngắn, có tứ xinh xinh. Sang hai tập thơ gần đây, bao lo toan, bao vất vả, bao oan
ức vào thơ chị làm câu thơ mạnh mẽ lên, súc tích lên và thật gần cuộc đời hơn”
[70]. Ngoài cách nhận xét rất thỏa đáng về năm tập thơ của Bùi Kim Anh, tác giả
còn bày tỏ lòng thán phục đối với “người bạn đồng tuổi, đồng môn”.
Tác giả Lê Minh Quốc có bài viết “Thơ Bùi Kim Anh” với nhận xét:
“Những câu thơ lãng đãng đi qua vùng trí nhớ. Tôi đọc và nhớ. Rồi như có
một vết xước trong sâu thẳm tâm hồn” và “Đọc thơ của một người, đôi khi lại
thấy suy tư của chính mình. Những câu thơ của chị nồng nàn mà cũng da diết
một nỗi buồn thăm thẳm”[66]
Bên cạnh những bài viết đưa ra cái nhìn khái quát về nội dung các tập
thơ còn có những phê bình, đánh giá cụ thể về nội dung của từng bài thơ, từng
tập thơ.
Ngày 01 tháng 11 năm 2010, tác giả Chân Phương với bài viết “Đọc
thơ Bùi Kim Anh” đã đưa ra cái nhìn khái quát về tập thơ Bắc lên ngọn gió mà
cân của Bùi Kim Anh. Tác giả đã chỉ ra giá trị nội dung của tập thơ là “Toát
4
lên từ sáng tác này tính cách nhân hậu của người phụ nữ Á Đông thời đại,
không chỉ làm tốt bổn phận người con, người mẹ và bà, còn ôm ấp thêm
những ưu tư xã hội”. [61]
Ngày 14 tháng 3 năm 2011, trên báo An ninh Thế giới giữa tháng số
38, nhà báo Vũ Duy Thông có bài Nhà thơ Bùi Kim Anh: Những câu thơ u
uẩn với riêng mình. Đó là cuộc trò chuyện thân mật với nhà thơ Bùi Kim Anh
về thân phận của những người phụ nữ làm thơ: “Tôi làm thơ trước hết để cho
mình, công chúng thơ là thứ hai”. Nhà thơ Bùi Kim Anh đã tâm sự một cách
cởi mở và rất thẳng thắn: “số phận đã sắp đặt, muốn thay đổi cũng đâu có
được. Chỉ biết bằng lòng, thậm chí chấp nhận với những gì mình có. Đó là
cuộc đời”.[74]
Năm 2012, tác giả Nguyễn Sỹ Đại khi đọc tập thơ Đi tìm giấc mơ
của Bùi Kim Anh đã có bài viết: Trân trọng cái tôi và hiện tại. Tác giả đi tới
nhận xét: “Trước hết, chị sắc sảo hơn trong đời, trong nghề” và “Thế giới thơ
chị đem đến qua tập thơ Đi tìm giấc mơ là một thế giới nhọc nhằn, khắc
khoải”. Cuối bài viết Nguyễn Sỹ Đại bày tỏ mong muốn “mong sao những
giấc mơ của chị Bùi Kim Anh được ngọt ngào trong hiện tại. Và thơ đừng vì
hai chữ hiện tại mà đi xa con người mình quá!”.[19]
Tháng 12 năm 2012, nhà báo Lê Hoài Nam có bài “Nhà thơ Bùi Kim
Anh: Lãng đãng sương mai vơi nỗi niềm” đăng trên báo Văn Nghệ Công An.
Bài viết là cuộc trò chuyện hết sức thân mật với nhà thơ Bùi Kim Anh và chủ
yếu khai thác đời tư của nhà thơ từ chuyện quá khứ khi bà vẫn còn là một cô
giáo dạy Văn cho đến những tai ương mà bà và gia đình bà đã trải qua, cuối
cùng là cuộc sống hạnh phúc của bà bên chồng và con, cháu. Kết thúc bài
báo, Lê Hoài Nam dùng những câu thơ của chính tác giả để nói về những biến
cố mà bà đã trải qua, nói về số phận của “người đàn bà mảnh mai”.
Trong bài viết “Về bài thơ “Khoảng cách” của Bùi Kim Anh” tác giả
Bùi Thị Hương Lam có viết: “Bài thơ thật buồn, tình yêu cũng thật buồn và
5
xâm chiếm lòng người là nỗi cô đơn, trống trải, thất vọng của khoảng cách
không thể lấp đầy, không thể vượt qua”. Nói về kết thúc bài thơ tác giả viết:
“Bài thơ đem lại cho người đọc niềm tin họ không còn khoảng cách trong
nhau để không “trơ trọi”, không “đơn côi”, không “xa cách giữa nỗi
đời””[36]
Tác giả Phạm Thanh Cải có bài viết Đọc bài thơ “Bia vẫn trắng” của
nhà thơ Bùi Kim Anh” trong đó có đoạn viết: “Đọc bài thơ lục bát “Bia vẫn
trắng” của nhà thơ Bùi Kim Anh, tôi không tài nào quên được. Đọc xong rồi,
tôi đọc lại, rồi đọc lại lần nữa. Đọc trên trang mạng, tắt máy tính rồi mà hình
ảnh bài thơ vẫn vương vấn mãi, không tài nào quên nổi. Có phải chăng, đây
là bài thơ của một nhà thơ nữ, thơ trữ tình, mang đậm nữ tính và trái tim rất
nhạy cảm với nỗi đau của cuộc đời”.[15 ]
Tháng 12 năm 2011, tác giả Lâm Xuân Vi trong bài Đọc bài thơ Trên
đường Giảng Võ của Bùi Kim Anh”, đã nhận định: “Trên đường Giảng Võ,
bức thông điệp giàu ý tưởng, chuyện muôn đời nhưng vẫn mang tính thời sự
nhức nhối, nóng bỏng… Có lẽ, đối với một nhà thơ thì đây là sự biểu đạt
trách nhiệm công dân cao nhất. Cũng là sự đồng cảm chia sẻ thiết thực nhất
với những người lao động, những thân phận thiệt thòi”.[76]
Tác giả Chu Thị Linh Quang cho rằng: “Qua các tập thơ từ tập thơ
Viết cho mình, đến tập Cỏ dại khờ, Lối mưa, Bán không cho gió, Lời buồn
trên đá và tập Lục bát cuối chiều đều thấm đẫm tình yêu hạnh phúc, sự dịu
dàng, vị tha, vượt lên số phận của Bùi Kim Anh”. Trước những biến cố của
cuộc sống “chị vẫn vượt lên hoàn cảnh, vượt lên số phận để sáng tác, để đạp
qua mọi khó khăn, thử thách trong đời thường”[67 ].
Tác giả Đào Nam Sơn khi đọc “Lục bát cuối chiều” đã viết: “Đây là
tập tinh tuyển những bài thơ lục bát đã trình làng trong các tập thơ trước và
thêm một đôi bài chị mới làm”. Tác giả đã đánh giá đây là “một sự cố gắng
không mệt mỏi” của nhà thơ. Dễ thấy, thơ Bùi Kim Anh hầu hết là những bài
6
thơ buồn nhưng nó không bị rơi vào sự “đơn điệu”[41]. Ở mỗi bài thơ, ý thơ
đều không hề bị lặp lại.
Tác giả Song Nguyễn khi đọc “Lời buồn trên đá” cho rằng 59 bài thơ
trong tập thơ là: “59 nỗi buồn của một phần đời đã qua đi và bây giờ được nhà
thơ kể lại”. Mỗi câu thơ biết dính nỗi buồn vô tình “tạm trú” trong con người
nhà thơ đã trở thành “thường trú” trong sự tồn tại của tâm hồn. Bùi Kim Anh
đã hoán vị sự tồn tại đó từ nơi cất giấu mơ hồ không nhìn thấy đến rõ ràng,
cụ thể “trên đá”. Bà đã “tự làm mới những câu thơ khỏi cách nghĩ, cách diễn
đạt thông thường” và đem đến cho người đọc “một cái gì đó” đáng để suy
ngẫm”. [55]
Năm 2012, luận văn thạc sĩ văn học của tác giả Nguyễn Thị Loan
“Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh” đã đi khảo sát, phân tích thơ Bùi
Kim Anh một cách toàn diện cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, luận văn
không chỉ nêu ra đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh mà còn
bước đầu chỉ ra ít nhiều những đóng góp của tác giả trong thơ nữ Việt Nam
đương đại.
Tháng 9 năm 2014, tác giả Bình Nguyên Trang có bài viết: Bùi Kim
Anh yêu cho trọn kiếp người, đã nhận định: “Đối với chị Bùi Kim Anh, thơ
không phải chuyện làm dáng câu chữ. Thơ là nhật ký, là chốn cuối cùng để
chị bỏ vào đó ăm ắp cõi lòng, những điều không thể chia sẻ cùng ai được.
Những ngày tháng gian nan, tưởng chừng như không thể gượng dậy, thơ là
niềm an ủi lớn lao”[71]
Năm 2015, tác giả Mai Thanh khi đọc tập thơ Nhặt lời cho bóng lá
đã viết: “tập thơ mà ta đang cảm nhận thể hiện nỗi niềm băn khoăn, day dứt
và xót xa của nữ thi nhân”, “Xót xa là đỉnh cao nỗi niềm của nữ thi sĩ được
thể hiện trong các trang thơ”.[69]
Gần đây nhất, ngày 23 tháng 3 năm 2017, trên báo Vĩnh Phúc có
bài viết: “Hình như mùa đã lỡ”: Đọc để yêu cả những bất trắc của cuộc đời”.
7
Tác giả bài viết đã cho rằng “không còn những mê đắm, khát khao hay những
dằn vặt, tự vấn giữa chông chênh bão tố đời người ...thay vào đó là những
tâm sự nhẹ nhàng mà lắng sâu của một người đàn bà lớn tuổi, đã “ngụp lặn”
đủ những ngọt-bùi-đắng-cay của kiếp đời...mang tới cho người đọc cảm giác
nhẹ nhõm, thư thái, truyền đến một nguồn năng lượng tích cực để biết yêu cả
những… bất hạnh, trắc trở của cuộc đời... có nụ cười ấm áp, ánh nhìn lãng
đãng và trái tim nhân hậu, đầy yêu thương”.
Qua những nhận xét, đánh giá trên đây, chúng tôi thấy hầu hết các tác
giả đều khẳng định: “Bùi Kim Anh đã viết thơ theo nhu cầu tự thân để nói về
những niềm vui, nỗi buồn, những được, mất của chính mình một cách chân
thành, cảm động”. Bên cạnh đó, Bùi Kim Anh còn phản ánh những vấn đề
thế sự, vấn đề có bề rộng xã hội hiện nay, những số phận của con người bất
hạnh. Qua đây, chân dung người phụ nữ hiện đại hiện lên rất rõ ràng trong các
tác phẩm của bà.
Bên cạnh những đánh giá về nội dung các tác giả còn chỉ ra nét đặc
sắc về nghệ thuật trong thơ Bùi Kim Anh.
Tác giả Lê Minh Quốc trong bài viết “Thơ Bùi Kim Anh” nhận xét thơ
của Bùi Kim Anh có “cấu trúc chặt và gọn như một bài thơ Haiku”. “Với nhà
thơ Bùi Kim Anh, lâu nay, theo tôi sở trường của chị vẫn là những vần thơ lục
bát thanh thoát, mượt mà. Đành rằng trong tập thơ mới nhất của chị vẫn có
Giấc mơ Đà Lạt, Vấn vương dại khờ, Không nâu sồng vẫn ta thôi, Người ơi
nghe gió… nhưng tôi vẫn thích những câu thơ tự do của chị. Đành rằng, âm
điệu sáu tám trong thơ chị bền, quyện chặt tơ tằm, trong gió có trầm”[64].
Đồng thời, tác giả cũng nhận định về âm hưởng thơ Bùi Kim Anh: “Da diết,
tha thiết quá đỗi trong âm và điệu, trong nhạc và lời. Những câu thơ không
vần, văn xuôi cũng có ma lực riêng”.[66]
Tác giả Phạm Thanh Cải khi đọc bài thơ “Bia vẫn trắng” của Bùi
Kim Anh thì nhận xét : “Câu lục trong bài lục bát Bia vẫn trắng được mở đầu
8
và kết thúc bằng câu : “Ai biết mộ anh ở đâu?”. Câu này, tác giả đã sử dụng
thủ thuật phá cách, chữ thứ tư lẽ ra phải dùng thanh trắc, nhưng trong câu thơ
này tác giả sử dụng thanh bằng. Tác giả đã có ý tạo cho câu thơ có một tiếng
nấc nghẹn, một nhịp điệu khác với câu lục thông thường. Việc phá cách trong
câu thơ ở đây có hiệu quả rõ rệt. Người đọc mới bắt đầu vào đọc ngay câu nấc
nghẹn, và khi đọc xong, vẫn một câu nghẹn nấc, bùi ngùi”[15].
Tháng 12 năm 2011, tác giả Lâm Xuân Vi trong bài “Đọc bài thơ
Trên đường Giảng Võ của Bùi Kim Anh”. Tác giả viết: “Lục bát của Bùi Kim
Anh có một sức sống riêng biệt, chị thường dùng thủ pháp cách ở câu sáu “vạ
vật tê cả bước đi” hay sử dụng điệp ngữ làm cho câu thơ được dồn nén trùng
điệp về ý tứ, hối hả về nhịp điệu mà vẫn nhuyễn, lấp lánh hấp dẫn người đọc.
Đó là những đóng góp đáng kể để lục bát vẫn mới, vẫn hiện đại mang hơi thở
thời đại”.[76]
Tác giả Song Nguyễn khi đọc “Lời buồn trên đá” đánh giá: “Lời buồn
trên đá còn ấn tượng bởi một hình thức thể hiện khá phong phú của các thể
thơ từ truyền thống đến hiện đại. Nhìn vào cấu trúc thơ ta liên tưởng đến một
rừng hoa đủ màu sắc và hương thơm. Bắt đầu từ thể thơ lục bát… đến những
bài thơ bắt vần… phần còn lại là thơ tự do. Nhưng thơ tự do trong Lời buồn
trên đá của Bùi Kim Anh lại phân ra hai loại: tự do về vần và tự do về câu
chữ. Đan xen những bài thơ tự do của các thể thơ 7 chữ, 8 chữ đến thơ văn
xuôi. Đọc những bài thơ này bỗng thấy khả năng kì diệu của con chữ cũng “co
duỗi nhịp nhàng” theo tâm trạng của người tiếp nhận thơ… Có thể khẳng định
những câu chữ của Bùi Kim Anh đã tự làm mới những câu thơ khỏi cách nghĩ,
cách diễn đạt thông thường và đem đến cho người đọc “một cái gì” đáng để suy
ngẫm. Đây là hành trình đi tìm cái mới của một cây bút” [55].
Tác giả Nguyễn Trọng Tạo đã rất tinh tường khi nhận xét rằng: “Bùi
Kim Anh thật đắc địa với lục bát. Những câu thơ lục bát của chị đi giữa lằn
ranh của quê kểnh và thành thị, giữa dân gian và hàn lâm, giữa cổ xưa và
9
hiện đại. Chính cái lằn danh ấy khiến thơ lục bát của chị không phá cách quá,
nhưng cũng không bị “cũ” nên dễ nhập vào đương thời.[41]
Ngoài ra, tác giả Đào Nam Sơn viết: “Có thể nói Bùi Kim Anh đã
hình thành một giọng thơ riêng không thể trộn lẫn với các nhà thơ nữ cùng
thời với chị”[41].
Khi đọc bài thơ “Bia vẫn trắng” của Bùi Kim Anh, tác giả Nguyễn Bá
Phiếu nhận định: “Một bài thơ có sức ám ảnh, bút lực mạnh mẽ, nghe da diết,
sâu lắng, xúc động và đầy tính nhân văn”[60]
Năm 2012, tác giả Nguyễn Sỹ Đại khi đọc tập thơ “Đi tìm giấc mơ”
của Bùi Kim Anh đã có bài viết: “Trân trọng cái tôi và hiện tại”. Ông có đánh
giá đôi nét về nghệ thuật thơ Bùi Kim Anh đó là: “Lượng từ, chất liệu thơ mới
mẻ hơn. Hiện đại trong cách dùng từ, trong kết cấu ngữ pháp… điều mà
không phải ai ở thế hệ chị, cả thế hệ @ nữa có thể viết được”[19]
Tháng 3 năm 2015, khi đọc tập thơ “Nhặt lời cho bóng lá” của Bùi Kim
Anh, tác giả Mai Thanh đã có bài viết: “tập thơ thể hiện pha trộn các khuynh
hướng và hình thức sáng tác truyền thống và hiện đại, nói cụ thể là thơ lục
bát và thơ tự do-không vần điệu kể cả thơ văn xuôi kết hợp, quấn quyện với
nhau... phần đầu là thể thơ lục bát; hai phần sau là thể thơ tự do – không vần
điệu kể cả thơ văn xuôi”. Sự độc đáo này trong thơ Bùi Kim Anh, một lần
nữa khẳng định bằng thực tiễn sinh động về một quan niệm thơ ca qua các
thời kì khác nhau luôn đổi mới và phát triển, “nữ thi sĩ Bùi Kim Anh là nhà
thơ cách tân không chối từ truyền thống và đặt chân trên điểm xuất phát
truyền thống để vững bước trên con đường cách tân”[69].
Tháng 3 năm 2017, trên báo văn hóa văn nghệ có bài viết: ““Hình
như mùa đã lỡ”: Đọc để yêu cả những bắt trắc của cuộc đời” đã viết “Thơ
lục bát vốn được coi là một trong những thế mạnh của nhà thơ Bùi Kim Anh”,
thế nhưng đến tập thơ thứ 10 “Hình như mùa đã lỡ” đã có những lối đi riêng
“ lối viết thơ không vần điệu, câu thơ ngắn, thậm chí một câu thơ được cắt
10
thành nhiều dòng, tập trung diễn tả sự kìm nén của cảm xúc”.[57]
Như vậy, khi khảo sát về nghệ thuật trong thơ Bùi Kim Anh các tác
giả đều chỉ ra những đặc sắc về thể thơ, vần điệu... Hầu hết đều khẳng định
thế mạnh của Bùi Kim Anh về thể thơ lục bát và việc sử dụng từ ngữ và hình
ảnh có chọn lọc đã góp phần đem lại thành công trong thơ Bùi Kim Anh.
Những bài viết nói trên là những gợi ý và định hướng quan trọng cho
tác giả đề tài nghiên cứu về thơ Bùi Kim Anh nói chung và về cảm thức về
thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh nói riêng.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cảm thức về thân phận và tình yêu trong
thơ Bùi Kim Anh.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh
nhằm mục đích: chỉ ra những đặc điểm riêng, những sáng tạo và những đóng
góp riêng của nhà thơ Bùi Kim Anh đối với thơ nữ Việt Nam thời kì hiện đại.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đề tài đi sâu khảo sát về chủ đề thân phận và tình yêu trong từng bài
thơ cụ thể từ đó phát hiện ra cảm thức của tác giả về thân phận và tình yêu
trong mười tập thơ.
- Từ việc phát hiện ra quan niệm mới mẻ của Bùi Kim Anh về thân phận
và tình yêu cũng như những biểu hiện cụ thể và đầy tính nghệ thuật trong việc
biểu hiện cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh.
- Góp phần khẳng định vị trí của thơ Bùi Kim Anh trong thơ nữ Việt
Nam hiện đại .
11
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim
Anh” chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Tôi sử dụng phương pháp này
trong việc khảo sát, thống kê và phân loại những tác phẩm có nội dung biểu
hiện về cảm thức thân phận và tình yêu của nhà thơ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng trong việc trình bày
và phân tích các luận điểm, luận chứng cụ thể, từ đó đưa ra những đánh giá có
tính chất tổng hợp, khái quát chung cho từng phần, từng chương và toàn bộ
luận văn; giúp cho việc nghiên cứu đề tài có tính thuyết phục cao.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Được sử dụng trong trường hợp so
sánh những nét tương đồng và khác biệt về cảm thức thân phận và tình yêu
với các thi nhân khác trong thời kì hiện đại.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu các tác phẩm của Bùi Kim Anh bao gồm mười tập thơ sau:
1. Viết cho mình (1995), Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Cỏ dại khờ (1996), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Lối mưa (1999), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Bán không cho gió (2005), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Lời buồn trên đá (2007), Nxb Văn học, Hà Nội
6. Lục bát cuối chiều (2008), Nxb Văn học, Hà Nội
7. Bắc lên ngọn gió mà cân (2010), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
8. Đi tìm giấc mơ (2012), Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Nhặt lời cho bóng lá (2015), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
10. Hình như mùa đã lỡ (2017), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
12
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Thơ nữ Việt Nam đương đại và hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Bùi Kim Anh
Chương 2: Nội dung biểu hiện cảm thức thân phận và tình yêu trong
thơ Bùi Kim Anh
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cảm thức về thân phận và tình yêu
trong thơ Bùi Kim Anh
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn bước đầu làm sáng tỏ cảm thức về thân phận và tình yêu
trong thơ của Bùi Kim Anh trong cái nhìn toàn diện về cả nội dung và
nghệ thuật.
- Luận văn góp phần gợi mở hướng tiếp cận nghiên cứu về một hiện
tượng văn học cụ thể trong đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại. Kết quả của
luận văn sẽ góp phần chỉ rõ hơn sự phong phú và nét đặc sắc của thơ nữ Việt
Nam thời kỳ hiện đại.
- Là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về thơ Việt Nam nói chung và thơ nữ Việt Nam nói riêng thời kì hiện
đại.
13
CHƯƠNG 1
THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
NGHỆ THUẬT CỦA BÙI KIM ANH
1.1. Thơ nữ Việt Nam đương đại – Hành trình của truyền thống và cách
tân.
1.1.1. Vài nét về thơ nữ Việt Nam đương đại.
Trong lịch sử thi ca dân tộc Việt Nam, ngay dưới chế độ phong kiến,
khi quan niệm trọng nam khinh nữ còn nặng nề, đã xuất hiện một lớp các nhà
thơ nữ lên tiếng bênh vực người phụ nữ. Những trang viết của họ đã có nhiều
đóng góp cho nền văn chương nước nhà, để lại nhiều tên tuổi lớn. Bước sang
thời kỳ văn học hiện đại, một lực lượng đông đảo các cây bút nữ xuất hiện.
Những sáng tác của họ đã góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho sự phát
triển của nền thơ ca Việt Nam. Thơ của họ đã gây ấn tượng cho người đọc,
được dư luận khẳng định và đã được giới thiệu ra nhiều nước trên thế giới. Họ
đã góp mặt mình vào sự phát triển mới mẻ, sôi nổi và tràn đầy sức sống của
thời đại: “ Sự xuất hiện của họ đã khiến cho diện mạo văn học từ đây trở nên
đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn, với nhiều nét vẻ, giọng điệu, thanh âm và hình hài,
được tạo nên từ sự đa dạng về giới chứ không còn là hành trình đơn lẻ và độc
chiếm của các tác giả nam như chuỗi thế kỉ dài trong quá khứ” [28].
Thơ của các cây bút nữ trẻ xuất hiện từ khoảng 10 năm trở lại đây chịu
sự ảnh hưởng của những mạch nguồn thơ nữ trước đó, từ thế hệ các tác giả
trưởng thành trong chiến tranh như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh
Nhàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thúy
Bắc, Lê Thị Mây... cho đến Thu Nguyệt, Tuyết Nga, Lê Thị Kim, Đỗ Bạch
Mai, Thảo Phương, Phi Tuyết Ba, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, Đoàn Ngọc Thu,
Đặng Thị Thanh Hương... Thơ của họ mang hơi thở của đời sống hòa bình với
những vui buồn thường trực của con người. Sau họ một quãng ngắn là thế hệ
14
nhà thơ nữ cũng sinh ra trong chiến tranh, ít nhiều biết mùi đạn bom, thuốc
súng như Tuyết Nga, Thảo Phương, Đỗ Bạch Mai, Phạm Hồ Thu, Nguyễn
Thị Mai, Giáng Vân, Trần Kim Hoa, Trần Thị Huyền Trang, Thu Nguyệt,
Đoàn Ngọc Thu,... Cùng với việc tiếp tục khai thác hướng đề tài cũ nói về
thân phận người đàn bà, về tình yêu và lòng thủy chung son sắt, tình mẹ con,
bầu bạn, những tác giả thơ nữ trẻ đi sâu khai phá những đề tài mới đầy biến
động của đời sống, những va đập của đời thường, niềm khát khao mãnh liệt
hướng tới những cái mới, những chân trời lạ lẫm. Một thế hệ mới đã xuất hiện
như Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Bình Nguyên Trang, Dạ
Thảo Phương, Đường Hải Yến, Nguyễn Thúy Hằng, Trương Quế Chi, Phạm
Vân Anh, Ngô Thị Hạnh, Ngô Thị Thanh Vân, Lynh Bacardy, Nguyệt Phạm,
Thanh Xuân, Phương Lan, Khương Hà, Lê Thị Mỹ Ý, Trần Lê Sơn Ý,
Trương Gia Hòa, Tú Trinh, Lữ Thị Mai, Trương Hồng Tú... Họ là những cây
bút trẻ thuộc thế hệ 7X, 8X, 9X chịu ảnh hưởng của nhiều luồng văn học trên
thế giới, có những nét phá cách và có nhiều thể nghiệm mới mẻ. Đây chính là
lực lượng “mạnh” làm cho bức tường “quyền lực” của nữ giới trong thơ trở
nên kiên cố hơn. Tất cả họ, dù ít dù nhiều, cũng đã làm cho mảng thơ nữ sau
1975 thêm sôi động, khẳng định sự có mặt không thể thiếu của mình trong thơ
ca đương đại Việt Nam.
Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của một số nhà thơ nữ có
tên tuổi nổi bật như: “Tặng riêng một người" (1990), "Thơ Lê Thị Mây"
(2003) của Lê Thị Mây; "Đề tặng một giấc mơ" (1999), "Hồn đầy hoa cúc
dại" (2007), "Thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ" (2008) của Lâm Thị Mỹ Dạ; "Sóng
thời gian" (2000), "Quà tặng" (2004), "Hoa trên gai" (2007) của Phi Tuyết
Ba; "Em đi ngang chiều gió" (2001), "Người gánh vô hình" (2005), "Đứt dải
yếm" (2007) của Nguyễn Thị Ngọc Hà; "Một mình khâu những lặng im"
(2005), "Vệt trăng và cánh cửa" (2008) của Hoàng Việt Hằng; "Lối nhỏ"
(1988), "Du nữ ngâm" (2006) của Dư Thị Hoài; "Ngôi nhà sau cơn bão"
(1992), "Thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát" (2003), "Gió thổi tràn qua mặt"
15
(2006) của Nguyễn Thị Hồng Ngát; “Cỏ trắng” (1999), “Lô lô” (2005) của
Ly Hoàng Ly; "Cô gái và cầu vồng" (1995), "Nửa vòng bông gạo" (2001)
của Đoàn Thị Ký; "Khát" (1999), “Linh” (2000), "Đồng tử" (2005) của Vi
Thuỳ Linh; "Chồng chị chồng em" (1991), "Thơ trữ tình" (2003), "Thơ
với tuổi thơ" (2005) của Đoàn Thị Lam Luyến; "Đẹp và buồn trong suốt như
gương" (2005), "Giấc mơ hái từ cơn giông" (2008) của Lê Khánh Mai; "Một
khúc sông trăng" (2001), "Tảo tần gót khuya" (2005) của Nguyễn Thị Mai;
"Người đàn bà ngồi đan" (1985), "Mưa tuyết" (1991), "Ý Nhi Thơ" (2000)
của Ý Nhi; "Khoảng cách cuối cùng" (1999), "Hoa bất tử" (2011) của Trần
Thị Vân Trung; "Giá mà em từ chối" (2002), "Mưa mùa đông" (2004) của
Nguyễn Thúy Quỳnh; “Sẹo độc lập”(2015) của Phan Huyền Thư, "Lục bát
cuối chiều" (2008), "Bắc lên ngọn gió mà cân" (2010), "Đi tìm giấc mơ”
(2012), “Nhặt lời cho bóng lá” (2015),“Hình như mùa đã lỡ” (2017) của Bùi
Kim Anh…
Tất cả hàng trăm tập thơ, hàng ngàn bài thơ của các nhà thơ nữ Việt
Nam thuộc các thế hệ khác nhau, họ đang có đủ tự tin để xung phong mở
đường giải phóng cho cái tôi phụ nữ chật hẹp, lắm phiền muộn nhưng cũng
đầy tự tin, cao ngạo của thơ nữ trẻ đương đại Việt Nam trong thời buổi hội
nhập toàn cầu...
1.1.2. Một số đặc điểm nổi bật của thơ nữ Việt Nam đương đại.
Bàn về thơ nữ đương đại, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài Thơ
trẻ không an bài với thành tựu đã nhận xét “cái thước thơ chính thống đã bị
những giá trị mới phát ra những tín hiệu đổi thay… Sự xuất hiện ào ạt và
dần dần được ghi nhận của thơ trẻ quả đã làm cựa quậy khuôn thước độc
tôn của thơ ca chính thống”, sự mới mẻ đó thể hiện ở chỗ “những nhà thơ
trẻ tuổi của ta hiện nay đang bắt đầu trên nấc thang rất cao của thành tựu
thơ ca thế giới nói chung và thơ Việt Nam nói riêng. Theo thiển ý của tôi thì
họ đang thâu nhận thành tựu để tạo ra một giọng điệu riêng cho thơ trẻ Việt
16
Nam hôm nay. Có nhiều tác giả muốn tạo thế cân bằng. Họ kết hợp thành
tựu và sự chuẩn bị riêng từ thời đoạn đầu mở ra công cuộc đổi mới đất
nước”.[33]
Cùng với thời gian, sự đổi thay của cuộc sống với hơi hướng hiện
đại, đất nước phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thời kì
hội nhập đã sinh ra những con người mới với lối sống mới, cách nghĩa cách
cảm mới từ đó thơ bắt đầu chuyển mình sang một sắc thái mới với những
cách tân cả về nội dung và hình thức. Nhìn vào đội ngũ cũng như tác phẩm,
có thể phân thơ nữ trẻ đương đại thành hai xu hướng nghệ thuật chính: thứ
nhất, thơ truyền thống có giao thoa với hiện đại; thứ hai, thơ cách tân, phá
cách với sự phi chuẩn cả về nội dung và hình thức.
Các nữ thi sĩ thuộc xu hướng thứ nhất ảnh hưởng từ truyền thống và
phát huy các giá trị truyền thống. Thơ của họ nhuần nhị cả về mặt cấu trúc,
thể loại, ngôn từ lẫn nội dung được chuyển tải. Có thể thấy rõ đặc điểm này ở
một số cây bút như Bình Nguyên Trang, Phạm Vân Anh, Đường Hải Yến,
Lê Mỹ Ý, Chu Thị Minh Huệ, Nguyễn Thanh Vân, Trang Thanh, Lê Ngân
Hằng, Trần Lê Sơn Ý... Những tác giả này tìm tòi trên những khuôn hình có
sẵn. Thơ theo xu hướng này dễ được bạn đọc đồng cảm, ủng hộ. Người đọc
có thể cảm nhận ngay khi đọc tác phẩm bằng tư duy và cảm xúc của chính
mình mà không cần phải nhờ tác giả hay nhà phê bình phân tích lại mới hiểu.
“Thế giới nghệ thuật của các tác giả này phong phú, ám ảnh bởi hồn thơ, tứ
thơ và hình tượng thơ. Họ đã đến cõi thơ bằng trái tim và sự đam mê quặn
thắt. Ở một góc độ nào đó, sự kiếm tìm của họ đã thành công. Thơ họ đã có
bóng dáng của chiều sâu triết lý, mang yếu tố xã hội mà vẫn có những rung
động nghệ thuật rất đỗi cao cả, mang tính nhân văn, không nhòa với các tác
giả khác” (Chu Thị Thơm, Thơ trẻ, bức tranh chưa phân định màu sắc, Tạp
chí Nhà văn, số 2, 2006). Tuy nhiên, những cây bút trẻ theo hướng truyền
thống này đang ngày càng vận động theo chiều hướng mới, bắt đầu có những
17
Xu hướng thứ hai, là lớp nhà thơ nữ sinh ra trong thời bình, họ không
phá cách trong cảm xúc và lối thể hiện.
gánh chịu mùi bom đạn chiến tranh, sống trong thời đại mới nên quan niệm
nghệ thuật của họ cởi mở, táo bạo hơn. Với lối thơ tự do phóng khoáng, nội
dung thường gắn liền với biến động của đời sống tình cảm, khơi gợi tình yêu
và nhục dục. Các tác giả thơ không bằng lòng với những cái đã an bài, thơ họ
mạnh bạo về ngôn từ, lạ về giọng điệu, thể hiện bản ngã một cách mãnh liệt.
Khát vọng của cái tôi nhục cảm được thể hiện ráo riết và thôi thúc: “Cái lưỡi
mềm của anh nơi gan bàn chân em/ Làm thế giới hóa lỏng...” (Vi Thùy Linh).
“Vào sau cửa buồng vần vũ mười lăm phút/ Ra đường đoan trang chớp mắt
thướt tha...” (Phan Huyền Thư), “Em nhận ra niềm vui kia/ Mang theo gương
mặt của nỗi buồn” (Trần Lê Sơn Ý), “Thật ra nỗi buồn đâu có màu sắc gì/
Chỉ là màu vàng của ánh đèn vàng đêm đêm soi vào mắt cô gái trẻ để tìm cho
ra nỗi buồn có màu sắc gì (Ly Hoàng Ly)...
Có thể nói, ngòi - bút - thơ của các nhà thơ sau 1975 đã chủ động, tìm
tòi hơn để vươn tới bề sâu của những vỉa tầng còn ẩn khuất của đời sống tâm
trạng và tinh thần con người để khai thác và hướng tới những hiệu quả nghệ
thuật mới. Cũng viết về cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng các nhà thơ sau
năm 1975 đã hướng tới những số phận, khắc hoạ được những nỗi đau mất
mát, nó thấm thía và lay động lòng người hơn trước. Nỗi buồn được cảm
thông và chia sẻ trong thơ họ rất thật, nó mệt mỏi, nhức đau như chính cuộc
đời vậy. Đọc thơ họ, chúng ta có cảm giác vừa đi qua một cánh rừng rậm đặc,
trong bóng đêm ẩm ướt của những câu thơ đang tuôn trào như một sự hối thúc
ám ảnh.Thơ của họ như bản giao hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác,
suy ngẫm và ý tưởng-cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Những
day dứt của đời thường để lại không ít vết thương trong trái tim các nhà
thơ.Đọc thơ họ, ta như được tham dự vào những nỗi khổ đau và hy vọng đã
làm nên gương mặt của mỗi số phận.
18
Các nhà thơ này đã mang lại những phát hiện mới, có giá trị khắc hoạ
bằng ngôn ngữ của thơ, nỗi đau của những phận người - cái mà chỉ ít năm
trước đây, không ít người làm thơ còn né tránh. Họ đã chạm được vào cõi sâu
của tâm hồn, không chỉ bằng sự phá vỡ sắc cạnh của lý trí mà còn bằng cảm
xúc của trái tim, điều đó làm cho người đọc thấy gần gũi và đồng cảm với nhà
thơ. Sự dồn nén, bức xúc của tâm trạng bật dậy trong họ những câu thơ không
chịu bằng phẳng và sự chuyển tiếp của những nỗi niềm, những ẩn ức đang
còn khuất lấp trong tâm hồn thi sĩ đã tự tìm cho mình một hình thể mới, một
nhịp vận động riêng trong cách tổ chức câu chữ và những bài thơ đổi mới của
họ ra đời. Nhà thơ trẻ Vi Thùy Linh trong bài phỏng vấn trên Vnexpress đã
phát biểu: “Tôi không muốn chỉ là người miêu tả và phục hiện cuộc sống trên
trang viết mà còn muốn tạo dựng, phơi mở một thế giới khác trong chính thế
giới hiện thực này, thế giới mà tôi vươn tới và khao khát, thế giới của yên
bình và tình yêu” [37]. Đồng thời nhà thơ kêu gọi:
Thơ đi!
Những chùm quả vòm cây như những chùm đèn huyền diệu
Rừng rừng xanh hiệu lệnh hy vọng
Nhân lên triệu cặp tình nhân, những đời yêu và hoa nở
Em phủ thơ khắp thế giới của mình!
(Hãy phủ thơ khắp thế giới của em – Vi Thùy Linh)
Với quan niệm nghệ thuật đó, thơ nữ đương đại mang những đặc trưng
riêng không nhòe lẫn. Nó thể hiện phái tính của người viết, bộc bạch giùm họ
những suy nghĩ trăn trở rất riêng của giới mình. Có thể nói, dù là Viết cho
mình (Bùi Kim Anh) hay Em muốn giăng tay giữa trời mà hét (Phạm Thị
Ngọc Liên), dù là Thương nhớ một ngày hay Tình yêu dài suốt cuộc đời (Lê
Thị Mây)... thì những người đàn bà làm thơ vô hình chung vẫn bộc lộ nữ tính
19
một cách rõ nét trong trang viết của mình, làm cho thơ nữ đương đại nói
chung mang những đặc trưng riêng, vẻ đẹp riêng đầy nữ tính.
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Bùi Kim Anh
1.2.1. Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Bùi Kim Anh
Bùi Kim Anh sinh năm 1948. Quê gốc ở Thái Bình nhưng bà sinh ra và
lớn lên tại Hà Nội trong một gia đình công chức. Tuy chưa ngày nào sống ở
Thái Bình nhưng Bùi Kim Anh vẫn luôn nhớ về làng Trình Phố - nơi chào đời
của thân mẫu bà. Mẹ của nhà thơ là một nữ hộ sinh Đông Dương rất giỏi văn
chương. Có lẽ, năng khiếu văn chương, tài thơ phú của bà một phần được kế
thừa từ người mẹ. Trong những sáng tác của mình, không ít lần Bùi Kim Anh
nhắc tới cố hương, những chuyến về thăm quê cũ, những lần viếng thăm mộ
tổ tiên. Qua đó thấy rằng, mảnh đất Thái Bình đã trở thành một chốn quen
thuộc, gần gũi trong tâm thức nhà thơ đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho
nhiều sáng tác của bà.
Tuổi thơ của Bùi Kim Anh trôi qua trong êm ả, đủ đầy nhưng lại luôn
khắc khoải một nỗi buồn trống vắng vì sự xa cách của cha mẹ như bà đã viết:
“Suốt cuộc đời con đâu hiểu tình yêu người bố”. Bùi Kim Anh lớn lên trong
sự cưu mang của mẹ và bà ngoại. Hẳn vì thế mà những bài thơ viết về tuổi thơ
của Bùi Kim Anh thường trực một nỗi u hoài, ám ảnh cô đơn. Không ít những
bài thơ viết về thời niên thiếu của mình, hình ảnh một Bùi Kim Anh cô đơn,
lạnh lẽo và dường như bất lực trước sự ngăn cách giữa cha và mẹ hiện lên rất
rõ rệt. Một tuổi thơ đủ đầy về vật chất nhưng lại thiếu thốn về tinh thần, vắng
bóng sự quan tâm, che chở của người cha đã tạo nên một Bùi Kim Anh có trái
tim nhạy cảm, đa sầu, đa cảm nhưng cũng đầy nghị lực, mạnh mẽ trước
những biến cố của cuộc sống sau này.
Có năng khiếu văn chương và yêu ca hát nhưng Bùi Kim Anh đã chọn
ngành sư phạm. Bà tốt nghiệp ngành Ngữ Văn của trường Đại học Sư phạm
Hà Nội và bắt đầu làm cô giáo dạy Văn từ năm 1968. Bà gắn bó trọn vẹn với
20
nghề giáo viên ở một số trường trung học phổ thông ở Hà Nội, từ trường cấp
3 Cổ Loa đến trường cấp 3 Bạch Mai và cuối cùng là trường trung học phổ
thông Hoàn Kiếm - Trần Phú. Bùi Kim Anh có khi phải dạy thêm như bao
giáo viên khác để có thêm thu nhập. Bùi Kim Anh là một cô giáo yêu nghề,
mến trẻ. Tình yêu văn chương, tình yêu nghề và sự trưởng thành của các thế
hệ học sinh chính là nguồn động viên giúp bà vượt qua nhiều khó khăn, thử
thách. Có thể nói, những năm tháng gắn bó với bảng đen, phấn trắng, với bao
thế hệ học trò là nguồn cảm hứng để bà sáng tác ra nhiều bài thơ hay. Trong
một bài phỏng vấn, Bùi Kim Anh tâm sự: “Tôi chưa bao giờ có ý định chuyển
nghề khác khi còn đứng trên bục giảng. Ngay cả khi tôi vào Hội Nhà văn
Việt Nam thì tôi vẫn nói với mọi người mình là cô giáo dạy văn. Thực sự thì
tôi rất yêu nghề dạy văn của mình. Khi nào dạy là dạy bằng tất cả nhiệt tình”
(Hiền Nguyễn - Báo Điện tử Tổ quốc). Như vậy, tất cả tình yêu, lòng nhiệt
huyết với nghề giáo, tấm lòng yêu quý học trò được bà gửi gắm vào những
vần thơ. Một phần không thể không nhắc tới trong các sáng tác của Bùi Kim
Anh đó là những bài thơ viết về tình yêu thủa ban đầu giữa cô giáo Bùi Kim
Anh với nhà báo trẻ Trần Mai Hạnh. Những cảm xúc yêu thương: xốn xang,
rạo rực, say đắm, thiết tha, mong nhớ, giận dỗi, hờn ghen đã được Bùi Kim
Anh thủ thỉ tâm tình qua những vần thơ.
Khi về hưu, bà dành được trọn thời gian cho chồng con, chèo chống
trong cơn bão. Chính thời điểm này, cô giáo Bùi Kim Anh đã bước ra thi đàn
để trở thành nhà thơ Bùi Kim Anh. Tuy bước vào thi đàn khá muộn nhưng
tình yêu đối với văn chương, đối với thơ đã được Bùi Kim Anh ấp ủ từ thủa
nhỏ. Bà làm thơ từ thời còn là học sinh, sinh viên nhưng những bài thơ lúc đó
bà chỉ viết trong sổ tay như là tâm sự của riêng mình. “Lúc đó, tôi còn rụt rè
và cảm thấy nó rất riêng tư. Có lẽ, những bài thơ đầu tiên được đăng báo của
tôi lại là đề tài giáo dục”. Người đọc biết đến tác giả Bùi Kim Anh qua bài thơ
đầu tiên của bà được đăng báo Hà Nội mới có tên “Chị là giáo viên” vào
khoảng những năm 70 của thế kỉ trước. Tuy nhiên, một điều dễ dàng nhận
21
thấy, những sáng tác đem lại thành công và tên tuổi cho cây bút Bùi Kim Anh
lại không phải ở đề tài giáo dục. Quãng thời gian làm cô giáo dạy văn, Bùi
Kim Anh vẫn cầm bút sáng tác thơ nhưng dường như con đường sáng tác thơ
của Bùi Kim Anh bị gián đoạn, để mãi sau này mọi người mới biết, mới giật
mình nhận ra ngoài một cô giáo, Bùi Kim Anh còn là một nhà thơ. Khi về
hưu, đề tài trong các sáng tác của Bùi Kim Anh mở rộng hơn rất nhiều, không
chỉ gói gọn trong nhà trường. Bùi Kim Anh viết nhiều bài thơ thế sự, có bề
rộng xã hội.
Những sóng gió, những cơn hoạn nạn trong cuộc đời có ảnh hưởng rất
lớn đến thơ của Bùi Kim Anh. Những hoạn nạn xảy ra với gia đình Bùi Kim
Anh theo chu kỳ cứ 10 năm một lần. Hoạn nạn sau thường nặng hơn hoạn nạn
trước. Mười năm sau khi lấy chồng, một vụ hỏa hoạn lớn ở khu tập thể Thông
tấn xã Việt Nam khiến nhà bà cháy sạch. Như con ong hì hục xây tổ, trắng tay
kiên nhẫn bà làm lại từ đầu. Mười năm tiếp theo, một vụ tai nạn giao thông
khiến chồng bà bị thương nặng tưởng không qua khỏi. Và rồi tiếp đến tai nạn
kinh hoàng năm 2002 khiến ông không tránh khỏi vòng lao lý. Nếu ai quan
tâm đến giới truyền thông đều rõ, chồng nhà thơ Bùi Kim Anh là nhà báo
Trần Mai Hạnh. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Trần Mai Hạnh là một trong
những nhà báo đầu tiên trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn, có mặt
tại Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975 lịch sử. Ông là nhà báo có bài viết đầu
tiên về những giây phút lịch sử thiêng liêng ấy. Hai nhiệm kỳ liên tiếp, Ông
được bầu làm Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt
Nam, đồng thời là Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. Tai nạn trong
nghề nghiệp của chồng khiến Bùi Kim Anh một chuỗi ngày dài vào Nam, ra
Bắc thăm nuôi từ miếng ăn đến lo tìm tài liệu, luật sư để bảo vệ cho chồng.
Vừa lo toan, quán xuyến việc nhà, làm chỗ dựa cho các con. Cho dù lên thác
hay xuống ghềnh, bà đã luôn bên chồng, cùng chồng chịu đựng, chống đỡ để
vượt qua chuỗi nạn kiếp người. Ba người con lần lượt ra đời trong khó khăn
chung của thời bao cấp và chiến tranh. Một Trần Mai Anh, biết viết báo theo
22
nghề cha, biết làm thơ do ảnh hưởng từ mẹ. Một Trần Mai Linh - con trai út là
nhà báo theo nghề bố. Một Trần Hiền Anh - kiến trúc sư không chỉ biết vẽ đồ
án thiết kế mà còn vẽ cả tranh nghệ thuật. Trong nhà bà treo toàn tranh con
gái vẽ. Với bà, con cái là niềm tự hào, niềm an ủi lớn vì sau bao hoạn nạn, ba
người con của bà vẫn vững vàng, ngoan ngoãn, được tín nhiệm trong công
việc, được bạn bè, đồng nghiệp yêu quý. Cho dù ba người con là ba số phận
khác nhau. Không phải người con nào cũng may mắn, cũng khỏe mạnh và
hạnh phúc. Cô con gái út Trần Hiền Anh mắc chứng ung thư, 10 năm trời
chữa chạy cho con, bà theo con khắp mọi bệnh viện, mạnh mẽ đôi vai cho con
tựa vào mà vượt qua nỗi đau, nỗi tuyệt vọng. Không thể hình dung đôi vai
gầy bé nhỏ của bà có thể gánh vác những việc quá sức mình như vậy. Tưởng
như có lúc áp cuộc sống đè nặng, nhấn chìm bà xuống đáy. Trần Mai Anh
nuôi bé Thiện Nhân. Chú bé có hoàn cảnh đáng thương, quê ở Núi Thành –
Quảng Nam bị mẹ đẻ bỏ rơi và bị thú rừng ăn mất một chân và bộ phận sinh
dục. Bà theo Mai Anh và Thiện Nhân đi khắp các bệnh viện, lo toan chăm
bẵm cháu trong ca mổ. Vì cậu bé “lính chì” này phải trải qua nhiều cuộc phẫu
thuật tạo hình khác nhau. Bà không đành lòng nhìn con gái vất vả, việc của
con cũng là việc của mình. Lăn lộn hồ sơ giấy tờ, đi lại như con thoi, giúp con
cháu từ việc lớn đến việc nhỏ, ai cũng khâm phục sức chịu đựng của bà.
Những ngày tháng đối mặt với hoạn nạn khiến Bùi Kim Anh không chỉ là nhà
thơ, nhà báo mà trở thành một người có kiến thức sâu rộng về pháp luật, về xã
hội. Hoạn nạn cũng cho bà nhận ra, cần phải có niềm tin rất lớn vào cuộc
sống, vào sự thật, vào lòng người. Bà biết ơn mỗi ngày đi qua, những nặng nề
khó khăn của nó trao cho bà thêm nhiều trải nghiệm, dù buồn vui hay đau đớn
đi nữa. Thơ Bùi Kim Anh nhìn chung là buồn, ai đọc thơ Bùi Kim Anh cũng
có cảm giác ấy. Bài nào cũng nặng trĩu nỗi niềm. Một tuổi thơ buồn. Một
người đàn bà làm vợ với liên tiếp những hoạn nạn lớn.
Hiện nay, bà đang sống hạnh phúc cùng chồng, hai cô con gái và bốn
người cháu ngoại trong căn nhà nhỏ ở đường Nguyễn Đình Chiểu – Hà Nội.
23
Cứ rảnh rỗi lúc nào là Bùi Kim Anh viết. Bà gõ máy tính thay cho cầm bút.
Càng lớn tuổi, càng khổ đau, bà càng ham viết. Báo nào mời viết bài bà cũng
nhận lời. Bạn bè nào nhờ viết điểm sách bà cũng không chối từ. Thơ, tùy bút,
tản văn, bình thơ… đủ cả. Viết với Bùi Kim Anh lúc này như là một sự "cứu
rỗi linh hồn", một giải pháp chống lão hóa. Bà lo quỹ thời gian cuộc đời còn
hạn hẹp, lo một ngày tật bệnh bất ngờ ập đến, vì vậy, bà làm việc dường như
không biết mệt mỏi.Gần đây, Bùi Kim Anh lập một blog cá nhân để giới thiệu
các sáng tác của mình và của bạn bè. Có khá nhiều người đọc. Nhưng cũng có
đồng nghiệp nói rằng "Già rồi cũng chơi blog". Mặc ai nói gì thì nói, Bùi Kim
Anh lên mạng đều đều. Một người phụ nữ nhiều tuổi thạo máy tính, viết báo,
làm thơ và chơi blog. Bà coi blog là một thú chơi trí tuệ. Ngoài đăng bài, nó
dẫn dắt Bùi Kim Anh cập nhật thông tin, giao lưu, làm quen với những người
bạn mới. Tất cả những việc đó đã giúp Bùi Kim Anh có thêm sinh lực để sống
và viết trong những năm tháng quý giá còn lại của một kiếp người.
Bùi Kim Anh hiện là hội viên hội nhà văn Việt Nam và đã từng công
tác trong Ban Nhà văn nữ của Hội nhà văn Việt Nam. Thơ của bà được in trên
báo từ năm 1980 và xuất bản cuốn thơ đầu tiên “Viết cho mình” (1995) tiếp
theo là tập “Cỏ dại khờ” (1996), “Lối mưa” (1999), “Bán không cho gió”
(2005), “Lời buồn trên đá” (2007), “Lục bát cuối chiều” (2008), “Bắc lên
ngọn gió mà cân” (2010), “Đi tìm giấc mơ” (2012), “Nhặt lời cho bóng lá”
(2015) và gần đây nhất là tập “Hình như mùa đã lỡ” được viết năm (2016).
Với tập thơ đầu tay “Viết cho mình” ra đời, Bùi Kim Anh đã nhận được giải
thưởng của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội. Bà cũng đã được nhận
giải của cuộc thi thơ lục bát của Báo Giáo dục và thời đại, ngoài ra, bà còn
được một số giải của báo Văn nghệ, báo Hà Nội…
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Bùi Kim Anh
Bùi Kim Anh làm thơ như một nhu cầu tự thân nhằm giải tỏa mọi ẩn ức
và gửi gắm mọi nỗi niềm (đặc biệt là nỗi buồn), mọi nỗi suy tư cũng như
24
những mối quan ngại sâu sắc về cuộc đời, về thế sự, về con người, cuộc
sống… thời kì hiện đại. Qua thơ bà, người đọc thấy rõ chân dung một người
phụ nữ trí thức thời kì hiện đại: dịu dàng, nhân ái, luôn có ý thức sâu sắc về
cái tôi cá nhân của mình với tất cả niềm vui, nỗi đau, hi vọng và tuyệt vọng…
trước cuộc đời đầy sóng gió. Cái tôi ấy không bao giờ tách rời và đơn độc mà
luôn muốn có một sự đồng cảm, sự sẻ chia chân thành, tha thiết với mọi
người xung quanh, với cuộc sống vốn rất phong phú, phức tạp thời kì hiện
đại. Một trái tim nhạy cảm, nhãn quan tinh tế của người phụ nữ Á Đông cộng
thêm vốn liếng văn chương khá dày dặn, Bùi Kim Anh có những cái nhìn,
cách cảm rất độc đáo về tình yêu và hạnh phúc mà không phải nhà thơ nữ nào
cũng làm được. Nó làm nên chất riêng, nét đặc thù khi nhắc tới các tác phẩm
của bà. Tác giả Hiền Nguyễn cho rằng: “Bùi Kim Anh làm thơ để tìm giá trị
hạnh phúc” và chính nhà thơ Bùi Kim Anh cũng khẳng định rằng: “Tôi làm
thơ cho chính mình. Cảm xúc của tôi được lấy từ chính cuộc sống thường
ngày của mình và chỉ khi nào có cảm hứng thì tôi mới viết. Có những ngày tôi
làm một mạch được vài bài…” (Báo Điện tử Tổ Quốc – Chuyên mục ý kiến –
đối thoại 1/6/2009).
Các tác phẩm của Bùi Kim Anh viết theo thể thơ lục bát và thơ tự do. Bà
hay viết thơ lục bát nhưng thơ lục bát của Bùi Kim Anh có những điểm khác
với thơ lục bát truyền thống. “Thơ lục bát của chị là một thứ lục bát thuần
nhụy, nhưng không cũ, mang hơi thở cuộc sống, chứa đầy ưu tư và cảm xúc
của con người hiện đại”. Bên cạnh đó, bà cũng thường sáng tác theo thể thơ tự
do vì theo bà đây là một thể thơ rất phù hợp trong việc thể hiện sự tuôn trào
của cảm xúc và những suy tư, trăn trở, đau đớn… không giới hạn trước một
số phận cá nhân cũng như trước cuộc đời. Dường như với thể thơ tự do này,
bà viết được nhiều hơn, giãi bày được nhiều hơn những suy tư, cảm xúc của
mình mà không bị giới hạn bởi câu chữ hay niêm luật nào.
Trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2016, nhà thơ Bùi Kim
25
Anh có khoảng hơn 500 bài thơ với 10 tập thơ. Có thể chia các tác phẩm thơ
của Bùi Kim Anh làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu: đầy sự trong trẻo, tin yêu,
băn khoăn, day dứt, bao dung, hồn hậu… của một người phụ nữ - một cô giáo
yêu người, yêu thơ và làm thơ; Giai đoạn sau: đau đớn, xót xa, quằn quại,
hoài nghi, chua chát, cay đắng đôi khi là tuyệt vọng nhưng vẫn toát lên chất
vàng mười của lòng nhân hậu, sự hi sinh của lòng tự trọng, của bản lĩnh người
mẹ, người vợ Việt Nam trong những lúc khó khăn nhất, bất hạnh nhất của
cuộc đời. Ở giai đoạn đầu, người đọc bắt gặp một thứ tình cảm trong trẻo đầy
sự tin yêu, bao dung và hồn hậu của một người phụ nữ trong hàng loạt bài thơ
như: Ngập ngừng, Buồn dang dở, Tím lỡ làng, Cho em gặp anh, Ngày không
anh, Lạc khoảng trời, Nhặt trăng, Chơi vơi.... Khi ấy, Bùi Kim Anh là một cô
giáo trẻ, một thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết với nghề, với cuộc đời. Một cô
giáo Bùi Kim Anh yêu văn thơ và có trái tim nóng luôn luôn khao khát yêu và
được yêu đến cháy bỏng. Nhưng đến giai đoạn sau, người đọc bắt gặp những
nỗi đau đớn, xót xa, tuyệt vọng trong nhiều bài thơ như: Đi tìm, Em và Anh,
Nợ thời gian… Đó là những câu thơ nặng trĩu suy tư, nỗi niềm trắc ẩn về cuộc
đời, về số phận con người. Một Bùi Kim Anh, một người đàn bà mảnh mai,
chông chênh đang gồng mình lên chống đỡ trong cơn bão của cuộc đời.
Năm 1995, Bùi Kim Anh cho ra đời tập thơ đầu tay mang tên “Viết cho
mình”. Có thể nói, đây là tập thơ tình mang dấu ấn đậm nét. Tập thơ bộc lộ
những nỗi niềm, suy ngẫm, day dứt, chứa đầy sự hoài nghi và niềm tin vào
tình yêu của chính mình. Đứng giữa cuộc đời đầy phức tạp, đầy thử thách và
sóng gió, người phụ nữ có biết bao điều lo toan, bao điều phải chống chọi để
có một tình yêu, một hạnh phúc gia đình, một sự nghiệp đầy ý nghĩa đối với
bao lớp học trò yêu quý. Bà đã phải trải qua bao niềm vui, nỗi buồn, bao hi
vọng và tuyệt vọng, may mắn và bất hạnh để dựng xây, để níu kéo hạnh phúc,
tình yêu của chính mình. Tập thơ “Viết cho mình” toát lên một vẻ đẹp kín đáo,
trong trẻo của một tấm lòng đôn hậu, một trái tim đa cảm, một tâm hồn giàu
lòng yêu thương, vị tha của một người phụ nữ trí thức yêu nghề, mến trẻ. Tập
26
thơ “Viết cho mình”, bà khẳng định thêm một khuynh hướng viết về cái tôi
bản thiện, viết về cuộc đời thật trong cái tôi nhỏ bé.
Năm 1996, Bùi Kim Anh cho ra đời tập “Cỏ dại khờ”. Bà vẫn đi tiếp cái
mạch thơ mà bà đã đi: “đằm thắm, nhẹ nhàng, ân tình, đôi khi bứt phá nhưng
rồi lại trở về chân nữ tính của riêng mình” (Đào Nam Sơn). Vẫn theo nhận
xét của Đào Nam Sơn thì: “Cỏ dại khờ” là cách nói khiêm nhường của thi sĩ,
còn với những ai tri kỷ, tri âm thì nó là thứ thảo dược quý. Với 40 bài thơ
trong tập thơ này ít có bài dài, ý tưởng trong bài thơ gợi lên thật rõ ràng, gọn
gàng bởi nhà thơ quan niệm viết cho mình và mong chia sẻ với cuộc đời bằng
suy nghĩ của mình. Trong “Cỏ dại khờ” ta thấy Bùi Kim Anh muốn thể
nghiệm những gì bà cảm nhận được trong cuộc đời này. Trong nhiều bài thơ,
bà luôn hướng tới đời, tới con người của hôm nay. Trong quan điểm sáng tác
của mình, “Bùi Kim Anh không bao giờ khẳng định phải làm thơ, phải là nhà
thơ, mà thơ mình tự đến với nó và lúc nó tự đến với mình”. Chính khuynh
hướng này làm cho các sáng tác của Bùi Kim Anh trở nên gần gũi và nhận
được sự đồng cảm của độc giả.
Tiếp sau tập thơ “Cỏ dại khờ”, tập thơ “Lối mưa” ra đời vào năm 1999.
Tập thơ vẫn giữ khuynh hướng viết cho mình, mình giãi bày cùng bạn đọc
nhưng đã chín nhiều hơn trong những bài thơ viết cho cuộc đời, cõi nhân
gian. Phần viết cho mình bà luôn bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở của mình
bằng những câu thơ đầy tính hiện thực, giản dị, trong trẻo.
Đến năm 2005, Bùi Kim Anh cho ra đời tập thơ “Bán không cho gió”.
“Không còn nữa một Bùi Kim Anh lãng đãng và mê đắm thời Cỏ dại
khờ (1995) hay Lối mưa(1999), mà là một Bùi Kim Anh chông chênh cơn
tuyệt vọng và dằn vặt nỗi hệ lụy. Trước đây chị làm thơ không chú trọng
nhiều về kỹ thuật, thì bây giờ thơ càng giống như nhật ký mỗi ngày”[ 56].
Trong tập thơ, người đọc bắt gặp Bùi Kim Anh với các trạng thái tâm lí đối
lập: yêu và hoài nghi, chịu đựng và phản ứng, tha thứ và lên án, thỏa mãn và
27
khát khao. Tất cả các mặt đối lập đó đều được giãi bày thành thực như một
nhu cầu để tự giải thoát. Vì thế mà thơ Bùi Kim Anh hiếm có câu vui, hiếm
có những khoảnh khắc bình yên, thanh thản. Tập thơ “Bán không cho gió” bà
đã sáng tác khi mà tai ương bỗng ập đến với gia đình bà. Vậy mà con người
làm thơ vẫn cứng cỏi vượt lên số phận để làm thơ, bởi bà đã lựa chọn và
quyết “vin vào thơ” để sống. Tập thơ “Bán không cho gió” còn phản ánh sự
day dứt về những nỗi buồn của một người vốn có nhiều ao ước, mộng mơ
nhưng chẳng có cơ hội thực hiện. “Việc đàn bà” và “ba chuyện đời” của chị
cũng là cái chuyện muôn đời của một người phụ nữ, một người yêu, một công
dân, một thi sĩ trong những ngày đất nước nhiều đổi thay”(Vũ Nho).
Chỉ một năm sau khi “Bán không cho gió” được xuất bản thì năm 2007,
nhà thơ cho in “Lời buồn trên đá”. Khi chồng mắc vào vòng lao lý, con mắc
bệnh nan y, bà càng viết thơ nhiều hơn, giọng thơ cứng rắn hơn, khiến người
đọc xúc động. Tập thơ “Lời buồn trên đá” được Hội liên hiệp Văn học nghệ
thuật Hà Nội trao giải hàng năm. Hai tập thơ “Bán không cho gió” và “Lời
buồn trên đá” như những trang nhật ký đầy sự kinh hoàng. “Không dễ dàng
đọc một mạch hết hai tập thơ của Bùi Kim Anh. Thỉnh thoảng tôi phải dừng
lại, vì bị tâm trạng nặng nề từ tác giả lây sang. Trong thơ chị, có những đêm
rất dài, những đêm chờn vờn cay đắng, những đêm ngập tràn bơ vơ” (Lê
Thiếu Nhơn).
Năm 2008, tác giả cho in tập “Lục bát cuối chiều”. Trong tập thơ này tác
giả tuyển chọn 68 bài. Đây là tập tinh tuyển những bài lục bát đã trình làng
trong những tập trước và thêm vào một số bài mới. Hầu hết trong thơ Bùi
Kim Anh là những bài buồn, những lời than thở. Nhưng ở những bài thơ này
mỗi bài có một hoàn cảnh riêng, có một thứ cảm hứng riêng. Cùng là lục bát
nhưng có thể nói Bùi Kim Anh đã hình thành một giọng thơ riêng không thể
trộn lẫn với các nhà thơ cùng thời với bà. Thể lục bát vốn là thể thơ truyền
thống, người viết lục bát mà tách khỏi cách nói truyền thống, cách nói dân dã
28
để tìm đến sự cách tân không phải chuyện dễ. Vậy mà người đọc bắt gặp một
Bùi Kim Anh vừa truyền thống vừa hiện đại trong “Lục bát cuối chiều”. Nhờ
sự cân xứng trong tiết tấu, nhờ hình ảnh chắt lọc, người đọc thấy hiện lên một
thi sĩ trẻ trung, quả quyết và đa tình. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã từng
khẳng định: Bùi Kim Anh “thật đắc địa với lục bát”. Những câu thơ lục bát
của bà đi giữa lằn ranh của quê kiểng và thành thị, giữa dân gian và thành thị,
giữa cổ xưa và hiện đại.
“Bắc lên ngọn gió mà cân” là tập thơ thứ 7 của Bùi Kim Anh được xuất
bản năm 2010. Tập thơ ra đời khi mọi sóng gió cuộc đời đã tạm lắng dịu, bất
hạnh cũng phải “cất đi” để sống tiếp với bao trách nhiệm nặng nề của một
người vợ, người mẹ, người bà. Toát lên từ tập thơ là tính cách nhân hậu của
một người phụ nữ Á Đông hiện đại: không chỉ làm tốt bổn phận người con,
người mẹ, người bà mà còn chất chứa những ưu tư về xã hội mang đầy tính
thế sự. Hình như trong nhà thơ có nỗi ám ảnh về tình trạng suy thoái của đạo
lý và nhân cách của con người trong cuộc sống hiện đại với cơ chế thị trường
hôm nay. Nhưng cho dù xã hội có bao điều ngang trái, bao điều trăn trở thì bà
vẫn quyết “vịn vào thơ” để “cứu rỗi” tâm hồn mình. Với 54 bài thơ có vần và
không vần, thi tập “Bắc lên ngọn gió mà cân” khẳng định Bùi Kim Anh vẫn
luôn là kẻ “mắc nợ” những trang thơ, những vần thơ. Bởi có thơ, nhờ thơ mà
bà mới có thể tiếp tục được chặng đường đời mình.
Hai năm sau khi xuất bản tập thơ “Bắc lên ngọn gió mà cân”, Bùi Kim
anh cho xuất bản tập thơ “Đi tìm giấc mơ”. Thơ Bùi Kim Anh rưng rưng
buồn. Buồn len vào từng ý. Buồn len vào từng câu. Buồn len vào từng dòng.
Nữ nhà thơ chủ động không dùng dấu câu và không chủ động xác lập những
chữ viết hoa đầu dòng. Mục đích duy nhất là cho phép những vướng mắc tâm
hồn tràn ra trang giấy thật tự nhiên. Thơ Bùi Kim Anh mang dáng dấp của
những lời tự thú chân thành. Trong tập thơ, không còn đắc địa cho những câu
thơ véo von ca tụng nữa. Thơ trước hết dành để lau nước mắt cho người bẽ
29
bàng trước xã hội xuất hiện lắm điều nhiễu nhương. Tuy nhiên, giữa rất nhiều
ngột ngạt, phẩm chất thi sĩ vẫn không thể che giấu được. Thỉnh thoảng, thơ Bùi
Kim Anh bật lên những nét thật bay, thật duyên, lúc chan hòa với cảnh vật hồn
nhiên. “Đi tìm đi giấc mơ” giúp nhà thơ Bùi Kim Anh giãi bày những ngày nửa
chán chường nửa hy vọng. Sự trải nghiệm của một nữ sĩ vừa nhọc nhằn vừa tin
yêu: “buồn vui xếp cũng đã đầy/ có thêm cũng chỉ làm dày vần thơ”.
Năm 2015, Bùi Kim Anh cho xuất bản tập thơ “Nhặt lời cho bóng lá”.
“Nhặt lời cho bóng lá” là tập thơ thứ 9 của nhà thơ Bùi Kim Anh, kể từ khi bà
cho in tập thơ đầu tay “Viết cho mình” vào năm 1995, khoảng cách đúng 20
năm cho 9 tập thơ, trung bình hơn hai năm một tập thơ. Đối với một phụ nữ
vốn nhiều nỗi niềm, đa mang chuyện gia đình cũng đủ khiến ta thêm nể phục
và quý trọng sức lao động, sáng tạo của bà. 47 bài thơ trong tập thơ được chia
làm 3 phần: Sợ rằng lục bát sẽ nhàu, Nhẹ cánh hoa rơi và Người ở trong thơ
ta. Ba mảng đề tài, song cùng một chủ đề xuyên suốt tập thơ là những tình
cảm trĩu nặng và tinh tế trong trái tim của một người phụ nữ Hà thành lúc đã
qua mảng sáng chiều của hoàng hôn cuộc đời. Trái tim vẫn còn nhiều trăn trở,
khát vọng và cũng rất yêu đời.
Tôi lại trở về với tôi thôi
Với câu lục bát một đời dở dang
Lỡ rơi một khúc mơ màng
Ngọt ngào rơi bởi ngổn ngang gió lùa
(Xin cho một nắm vô hình)
Gần đây nhất, tháng 3 năm 2017, Bùi Kim Anh cho xuất bản tập thơ
“Hình như mùa đã lỡ” là tập thơ thứ 10 kể từ tập thơ đầu tiên xuất bản năm
1995 viết cho mình của nhà thơ Bùi Kim Anh. Hơn 80 bài thơ trong tập thơ là
những lời tâm sự, chia sẻ về những gì xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ. Là
sự trải lòng của một người đàn bà đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời,
những gì đã qua, những nỗi buồn, nỗi lo lắng, niềm tin và hy vọng mà bà đặt
30
vào số phận, lấy 4 bài thơ là 4 điểm nhấn của tập thơ, nếu không làm thơ nữa
chị còn gì như một câu hỏi, cũng là sự trả lời cho mình: thơ và mình là hai
người bạn tri âm, tri kỷ mà nếu vắng đi một thì phần còn lại sẽ không trở nên
tròn trịa.
Hình như mùa đã lỡ là điểm nhấn thứ 2 của tập thơ, tên bài thơ cũng
là tựa tập thơ mới xuất bản, là tâm trạng bâng khuâng nhưng không có cảm
giác tiếc nuối về những gì đã qua vì đã quên hai chữ chờ đợi/ rơi đâu rồi cảm
xúc/ lững lờ thời gian trôi.
Rồi đến nỗi niềm của người bán thơ khi tấm tình, nỗi niềm của mình
trở thành hàng hóa, mang ra bán, lại còn rao là “rẻ thôi”, thế mà cũng hiếm
khách để ý vì “ai mà mua cái ưu phiền làm chi”. Loanh quanh cũng lại quay
trở lại cái thực tại của mình, lại nhìn người rõ hơn mà cũng không tránh được,
ở đâu thì thực tại cũng hiển hiện trước mắt người.
Tập thơ cũng là lời chia sẻ của tác giả về những câu chuyện cuộc
sống, về chuyện của những người bạn-những người đàn bà lứa tàn thu, canh
cánh nỗi lòng trong cuộc sống riêng chưa xong mà vẫn đa mang chuyện đời,
kể lại với nhau cũng là một cách để tạm lánh đi những nỗi riêng để tìm
lại bình thản giữa ồn ào cuộc sống (hôm nay kể lại bằng giọng nghe thật lạ).
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Bùi Kim Anh là một nhà thơ nữ điềm tĩnh, đôn hậu và bản lĩnh. Chịu
nhiều đau đớn, bất hạnh nhưng sức làm thơ của bà không hề suy giảm mà còn
mạnh mẽ lên, càng khỏe lên. Đó chính là phẩm chất nhà giáo, là tính nhân
văn, nhân bản trong con người phụ nữ làm thơ Bùi Kim Anh.
Nhìn một cách tổng thể quá trình sáng tác của Bùi Kim Anh có thể thấy
bà là người viết nhiều, viết khỏe. Chỉ trong khoảng thời gian 22 năm bà đã
cho ra đời 10 tập thơ. Đọc 10 tập thơ của bà, người đọc cảm nhận như hai
cuộc đời khác nhau trong tác giả này. Ba tập thơ đầu bà viết giọng thơ khá
31
hiền lành, phần lớn đó là những bài thơ ngắn, cấu tứ gọn. Những tập tiếp theo
đã thể hiện bao nỗi buồn đau, bao mất mát, bao nỗi bất hạnh ập đến cuộc đời
bà. Những điều đó đã khiến những câu thơ, tứ thơ của bà mạnh mẽ hơn, sâu
sắc hơn. Tác giả Chu Thị Linh Quang nhận xét: “Sau một chặng đường dài
gian nan, vất vả, lầm lũi, gan góc, chống đỡ sự nghiệt ngã thử thách của số
phận để mưu sinh và sáng tác, nhà thơ Bùi Kim Anh thật sự đã đứng vững
trên thi đàn và cuộc sống. Thơ chị ngày càng được đông đảo bạn đọc yêu
thích”. Đó là một nhận xét khách quan và có cơ sở thực tiễn.
32
Chương 2
NỘI DUNG BIỂU HIỆN CẢM THỨC THÂN PHẬN
VÀ TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM ANH
2.1. Khái niệm cảm thức
Cảm thức là một thuật ngữ có nguồn gốc từ rất xa xưa, xuất hiện trong
cả văn hóa phương Tây và phương Đông. Trong thần thoại, sử thi Ấn Độ,
cảm thức là thuật ngữ được dùng để chỉ những rung cảm thẩm mĩ sâu sắc
trước cái đẹp mang màu sắc tôn giáo, là sự thức ngộ những chân lí tạo ra cảm
xúc mãnh liệt và đức tin tuyệt đối. Trong văn học Nhật Bản có cảm thức thẩm
mĩ Mono no aware và cảm thức thẩm mĩ Okashi. Mono no awre là sự cảm
động một cách thành thực trước những gì đáng rung động, nó gần với đạo Lão
tử, tính thiện của Mạnh Tử, Phật tính của Thiền tông. Còn Okashi là cảm thức
thích thú, khoái chí khi tiếp xúc với cái đẹp. Nếu Mono no aware đi tìm cái
đẹp trong nỗi buồn và sự tàn phai, vô thường của vạn vật thì Okashi lại đi tìm
cái đẹp của sự tươi vui (Makura no soshi, thế giới của cảm thức Okashi-
http://khoavanhocngonngu.edu.vn).
Ở Việt Nam, thuật ngữ “cảm thức” được sử dụng khá phổ biến trong
khoảng mười năm trở lại đây. Nhiều bài viết, chuyên đề đã nhắc tới thuật ngữ
này như nói về một sự rung cảm sâu sắc mạnh mẽ trước một giá trị cao đẹp,
một dấu ấn đặc sắc, hay đơn giản chỉ là những dòng cảm xúc suy tư mơ hồ
vấn vương nào đó như Cảm thức ngày thống nhất (Thanh Thảo), Cảm thức
tính văn chương lạ trong dòng Văn học phi lí (Trần Văn Nam)
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Kim Thản (nhà xuất bản
Văn hóa Sài Gòn): “Cảm thức là khả năng cảm nhận bằng trực giác”. Cách
định nghĩa này khá trừu tượng và khó hiểu. Trực giác được hiểu là khả năng
cảm nhận của con người, được thực hiện thông qua việc nhận thức trực tiếp
sự vật, hiện tượng mà không phải bằng suy luận lí trí. Con người cảm nhận và
33
phản ánh những sự vật, hiện tượng hay thế giới khách quan tồn tại xung
quanh mình chỉ bằng trực giác. Đây là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng và
mang đậm dấu ấn chủ quan của con người. Vì cảm thức là những ý thức đầu
tiên của con người được hình thành bởi những gì họ nhìn thấy, nghe thấy…
cho nên cảm thức của con người về thế giới quanh họ phụ thuộc rất nhiều vào
độ nhạy của cảm giác, trình độ văn hóa của mỗi người.
Nếu đi xem xét khái niệm “Cảm thức” ở góc độ từ ngữ thì theo Từ điển
Tiếng Việt tường giải và liên tưởng của tác giả Nguyễn Văn Đạm (nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin Hà Nội): “cảm” được hiểu là “có ý thức về những gì
xảy ra trong lòng mình”, “thức” là “dạng của động từ, qua đó thể hiện cách
trình bày một hành động, thái độ của người nói đối với diễn trình biểu thị
bằng động từ”. Như vậy, có thể hiểu cảm thức là một quá trình trong đó con
người tự ý thức về tâm trạng, diễn biến tâm lí đang xảy ra với chính mình
mà nguồn gốc sâu xa của những nét tâm lí đó chính là sự tác động của yếu
tố bên ngoài vào chủ thể nhận thức.
Theo cuốn Cảm thức tha - ngã luận của tác giả Phạm Tấn Xuân Cao:
“Cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình mang tính tác động chung cuộc
trong việc hướng định đến tổng phần nội tại của chủ thể. Diễn trình đó, ở
đây, chính là sự tương quan giữa cảm giác và tri giác, chúng hòa quyện với
nhau và liên thông với nhau”. Trong đó, “Cảm giác là một quá trình tâm lí
phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật và hiện tượng
đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta”[17].
Như vậy, cảm thức đóng vai trò trung tâm của mọi sự thụ nạp những gì
ngoại giới đang trong từng ngày tác động vào nội giới. Đồng thời, nó phóng
nạp ra ngoại giới những gì mà chính cảm thức muốn thực hiện công cuộc
khảo sát cho riêng mình, trên từng ý tưởng. Cảm thức là nhận thức được cảm
quan đem lại những gì có ý nghĩa cho chủ thể. Hơn thế nữa, cảm thức luôn là
nơi chứa đựng điều gì đó mang tính tường minh của tổng thể trong hệ thống
tâm lí của mỗi cá nhân.
34
2.2.Cảm thức về thân phận trong thơ Bùi Kim Anh.
2.2.1. Cảm thức cô đơn trước nhịp sống hối hả của cuộc đời.
Sống trong thời đại đất nước đang vận động trên con đường phát triển
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – thời kì đầy thuận lợi
trong sự vận động, phát triển đi lên nhưng cũng phải đối mặt với nhiều mặt
trái đầy phức tạp của cơ chế thị trường. Nhà thơ Bùi Kim Anh cho dù là một
trí thức, một người vợ chung thủy, dịu dàng, có tâm hồn thánh thiện nhưng
vẫn không thể tránh khỏi những tác động mạnh mẽ của mặt trái cơ chế thị
trường trong thời kì này. Là người vợ của một quan chức, bà được hưởng bao
điều tốt lành, bao điều hạnh phúc, nhưng cũng phải nhận bao nỗi đau đớn, cay
đắng, xót xa và cả nỗi bất hạnh không ngờ nữa.
Ngay từ khi mới xuất hiện, trong những vần thơ của Bùi Kim Anh đã
nhuốm màu tâm trạng ấy:
Những câu thơ viết cho mình làm sao nói dối
Chẳng ai mượn cô đơn choàng lên tâm trạng
Chẳng ai thích lẻ loi
(Mỗi ngày)
Có người cho rằng Bùi Kim Anh đến với thơ như một sự mặc định của
số phận để làm vơi đi nỗi buồn. Cuộc đời riêng của nhà thơ nữ này không ít
éo le, trắc trở: từ chuyện của người cha “nhói nỗi đau năm tháng” đến chuyện
riêng của bà “đứt thôi lại nối những ba bẩy lần”. Bà đã từng thổ lộ:
Em chẳng bao giờ thích cô đơn
Thơ chẳng thích buồn dẫu lời say đắm
Anh gói niềm vui trong ngăn tủ hẹp
Con mối gặm rồi còn chiếc vỏ không
(Chiếc vỏ)
35
Trong thơ Bùi Kim Anh, có những đêm rất dài, những đêm chờn vờn cay
đắng, những đêm ngập tràn bơ vơ. Những đêm mệt nhọc dồn dập đổ ập và chị
những câu thơ nhũng nhẵng không kịp ngắt:
Những vật vã đã qua đi lại đến
Tuyến lệ đã khô nước mắt lại đầy
Buông tay để hạt thời gian lăn lóc
Buông tay tất cả kệ bón chiều sầm sập
Một người đàn bà bỏ quên những câu thơ tình trong cuốn
sổ tay vàng úa
Một người đàn bà run rẩy trái tim mềm
(Trái tim mềm)
Tác giả thừa nhận: “Tôi mãi là người đàn bà tội nghiệp” (Nếu). Tội
nghiệp là bởi vì yêu mà chẳng được yêu, đi tìm tri âm tri kỷ thì toàn gặp nhạt
nhẽo, hờ hững còn người trong mộng thì “Anh vẫn là anh xa cách giữa đời”
(Đến bao giờ). Nhà thơ đã từng nói lên nỗi đắng cay đó một cách hết sức cụ
thể như:
Trụi trần ẩn bóng đêm dày
Tỉnh say một tấm thân gầy chỏng chơ
(Dan díu)
Thơ Bùi Kim Anh bàng bạc cô đơn, buồn tủi:
Em không thể vứt đi nỗi buồn của mình…
Em không thể xé nỗi buồn ném vào đêm tối
Nó đã lớn lên trong em như một bào thai
(Không thể)
36
Nỗi buồn trở thành đứa con tinh thần của nhà thơ. Đã có lần nhà thơ
khẳng định: “Thơ là cuộc đời tôi. Mà cuộc đời tôi thì có quá nhiều nỗi buồn”.
Nỗi buồn trong thơ Bùi Kim Anh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:
Tôi cho tôi là người đau khổ nhất trên đời
Và tôi biết là tôi không ngộ nhận
Có bất hạnh nào sánh với bất hạnh nào được đâu
(Lời bóng đêm)
Tính cách Bùi Kim Anh hiền hậu, rụt rè, không bao giờ vượt ra khỏi cái
ngưỡng của lễ giáo, dẫu biết bên kia ngưỡng cửa ấy có thể là thiên đường và
cũng có thể là địa ngục. Rồi bà tự khẳng định một cách chua chát “Em không
thể xé nỗi buồn vứt vào đêm tối” (Không thể) để lại tiếp tục đau, tiếp tục buồn.
Có những lúc đớn đau thấm sâu đến tận cùng kết thành những giọt,
những dòng lệ:
Giọt mắt chảy từ nỗi đau…
Giọt mắt chảy từ thù hận…
Là giọt lệ thời gian tẩm ướp đêm dài
Có có không không vô cùng vô nghĩa
(Giọt đau)
Có người nhận xét “Thơ của chị (Bùi Kim Anh) buồn đến xót lòng”. Và
nhà thơ cũng đã xác nhận: “Xót lòng, bởi có lẽ đó là những nỗi buồn có thực,
đeo bám cuộc sống. Tập thơ “Bán không cho gió” là một phần nhật ký về những
ngày hiện tại của tôi. Đó là những ngày cũng là đêm và đêm cũng như ngày”:
Ngày của ta đêm của hồn
Ngày của hồn đêm của ta
Hồn ôm cổ ta lảo đảo
37
Đứa nào uống
Đứa nào say
(Ngày đêm)
Cô đơn là một thứ tài sản của nhà thơ giúp cho nhà thơ đi hết những
chặng đường độc hành của mình. Trong thơ Bùi Kim Anh, nhân vật trữ tình
có lúc như bị “thừa ra” trên thế gian này nhưng trong thực tế người phụ nữ ấy
lại đang là chỗ dựa vững chắc cho con, cháu, những người thân. Thơ Bùi Kim
Anh là nỗi niềm của một người bị nhiều điều khổ đau mà không oán hận, chỉ
tự trách mình, tự trách đời. Có những lúc, người phụ nữ ấy đã có thái độ cam
chịu xót xa, chấp nhận sự “nhạt phèo” trong tình yêu, chấp nhận nỗi cô đơn
không có người san sẻ:
Nửa câu thơ để bên thềm
Nửa đời yêu để tình duyên nhạt phèo...
Sự cô đơn chỉ em biết
Gậm nhấm mỗi ngày nham nhở
Yên tĩnh và trống vắng xoa dịu co thắt trái tim
(Mỗi ngày)
“Gậm nhấm” nỗi cô đơn trong “tình yêu và trống vắng” đã làm cho con
người cảm thấy “nghẹt thở”, muốn được giải tỏa trong ly cà phê, trong ly
rượu màu để nhớ, để quên một cách thầm lặng giữa cõi đời:
Khi người đàn bà ngồi với tách cà phê trước mặt
Quán đông người chỉ là khoảng trống không
Khi người đàn bà ngồi với ly rượu màu
Quên và nhớ ngâm trong từng ngụm nhỏ
(Một người)
38
Người đàn bà với tách cà phê, người đàn bà với ly rượu màu là cái hữu
hình nhưng cũng tồn tại với cái hữu hình ấy “quên và nhớ ngâm trong từng
ngụm nhỏ” – cái vô hình. Và chắc chắn “cái vô hình” kia mới là điều mà nhà
thơ muốn bộc lộ.
2.2.2. Cảm thức về nỗi bất hạnh giăng bủa
Cuộc sống có quá nhiều điều bất hạnh đã dội vào số phận, con người Bùi
Kim Anh. Từ chỗ ngỡ ngàng, bất ngờ đến chỗ bình tĩnh đón nhận và bản lĩnh
đối mặt với tất cả những nỗi buồn, những điều không may, những kiếp nạn…
tưởng chừng như không thể nào chịu đựng nổi. Bùi Kim Anh đã thể hiện rõ
tính cách mạnh mẽ, kiên cường, cái bản lĩnh của người phụ nữ Việt Nam
trong cuộc sống thời kì hiện đại. Bà đã bình tĩnh đón nhận mọi nỗi buồn đau,
bà tự đấu tranh và sống một cách bản lĩnh để làm chỗ dựa tinh thần cho người
chồng, cho các con trong những ngày đen tối nhất của cuộc đời. Hình ảnh Bùi
Kim Anh hiện lên với một diện mạo hoàn toàn mới, một tính cách mới nhưng
vẫn thống nhất hình ảnh Bùi Kim Anh ở giai đoạn trước. Đó cũng chính là hai
mặt của cái tôi cá nhân thời kì hiện đại.
Bùi Kim Anh từ chỗ bất ngờ với những nỗi buồn đau ập đến, rồi đau
đớn, xót xa, cay đắng trước những điều bất hạnh xảy ra, đến chỗ bình tĩnh chủ
động đón nhận và đối mặt với nỗi buồn đau như một người từng trải, chai sạn,
bản lĩnh trong cuộc đời. Đấy là một sự trưởng thành, một sự chín chắn, già
dặn và phong sương hơn trong cuộc sống đối với một người phụ nữ trí thức
đa cảm, trong sáng, ít có sự vất vả, lăn lộn trong cuộc sống vốn rất phong phú,
phức tạp ngoài đời.
Người phụ nữ ấy cũng rất cứng cỏi vượt lên nỗi buồn, vượt lên số
phận, vượt lên những lời đồn thổi để làm tròn thiên chức của một người vợ,
người mẹ, một trụ cột gia đình. Vai trò ấy của Bùi Kim Anh thể hiện bằng
cách nói với con một cách hết sức giản dị:
Ta còn mãi mái nhà
(Sáng tháng 9)
39
Và lạ thay, thơ Bùi Kim Anh càng cứng cỏi, người đọc càng xúc động
bởi sự dũng cảm của một người yếu đuối:
Những câu thơ không vớt được ý thơ
Những câu thơ không giải thoát được người làm thơ
Những điều tồn tại không có mặt trong thơ
Những điều tồn tại lại kết thành câu chữ
(Tự họa)
Và người phụ nữ bé nhỏ, lầm lũi đó đã trở thành chỗ dựa cho chồng, cho
con vượt qua những biến cố kinh hoàng của cuộc đời. Lúc đó, thơ đã đến với
bà, cứu rỗi và dìu dắt Bùi Kim Anh ra khỏi cuộc đời đầy bức bối, đầy nghiệt
ngã:
Tôi viết cho mình qua cơn bức bối
Lẩn thẩn cho mình khỏi lẩn thẩn giấc mơ
Anh trở về với em…
(Một lần khác mọi lần)
Thơ với Bùi Kim Anh như một sự cứu rỗi, một người bạn tâm tình để
chị thổ lộ hết những vui buồn đời mình, mà day dứt với người đọc, với bạn
thơ, văn là nỗi buồn dường như lấn át, còn niềm vui thảng qua, hiếm hoi:
bóc từng lớp lá ban ngày gói ý nghĩ
trụi trần bày trong màn đêm
khuya rất khuya
ta được dành cho ta tất cả”
( Người đàn bà không ngủ)
Và sự trụi trần trong màn đêm mà ta được dành cho ta, đã đưa một Bùi
Kim Anh- vô cùng đàn bà, người đàn bà của gia đình, thầm lặng đón nhận và
40
chấp nhận tất cả những đòn số phận, không oán than, trách móc, không nổi
loạn bực bội phá phách, cũng không tiêu cực đau buồn. Hãy cùng đọc những
dòng thơ Bùi Kim Anh viết cho con gái:
“Trong bụng mẹ làm sao biết ngoài kia gió mưa hay nắng ráo
sao mẹ lại sinh con trong cuộc đời của mẹ
để con mang nặng kiếp trần ai
cơn bệnh ngặt nghèo mù lòa gõ cửa
mong manh vặt vẹo tấm thân gày
…
(Giấc con bình an)
Và đây nữa:
“Mẹ xin lỗi không hiểu gì năm tháng
đã sinh con vụng dại phận đàn bà
con cô đơn vật vã bệnh hiểm nghèo
mẹ không biết vọng vào đâu lời cầu xin thay đổi
(Con tha thứ hay giận hờn cũng vậy)
Bùi Kim Anh đã vượt qua tất cả mà chẳng ai biết, nếu như không có
thơ giúp hé lộ với một sức chịu đựng vô biên mà tất cả những cú đòn ác hiểm
của số phận không sao làm mất đi nụ cười ấm áp, ánh nhìn lãng đãng nhưng
đầy bao dung, yêu thương với tất cả mọi người từ đôi mắt dẫu thời gian đã để
lại những vết chân chim song không thể làm giảm đi sức quyến rũ của người
phụ nữ vóc dáng nhỏ bé ấy dù:
cõi này dẫu chỉ là cõi tạm thôi
thoang thoảng hương thơm
thoảng gió trời
41
trộn trạo buồn vui
nào ai nỡ
ồn ã ngoài kia tiếng của đời
(Nằm viện những ngày tháng Ba)
Nhìn lại chặng đường đời – chặng đường thơ của Bùi Kim Anh, người
đọc cảm nhận rất rõ hình ảnh nhân vật trữ tình người phụ nữ trong thơ của bà.
Người phụ nữ đó đã đi từ bất ngờ, sợ hãi, trốn tránh... đến chỗ chấp nhận và
đối mặt với bất hạnh, độc thoại với khổ đau và cuối cùng là vượt qua nó để
sống, để yêu thương và để lấp lánh niềm tin và cuộc sống. Chính điều ấy đã
thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh, luôn ở tư thế chòng chành trên chiếc
thuyền để vượt qua dòng thác lũ của cuộc đời. Đó chính là bức chân dung thứ
hai của nhà thơ trí thức – Bùi Kim Anh.
2.3. Cảm thức về tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh
2.3.1. Một tình yêu nồng nàn, mãnh liệt
Nếu như một tình yêu nồng nàn, mãnh liệt có thể được rất nhiều nhà
thơ, kể cả nhà thơ là nam giới thể hiện thành công thì phản ánh một tình
yêu kín đáo, dịu dàng, sâu thẳm mang đầy nữ tính dường như lại thuộc về
thế mạnh của các nhà thơ nữ. Tình yêu đó có khi được thể hiện qua niềm
khát khao, mong đợi tha thiết:
Thỉnh thoảng chợt nhớ chợt quên
Góc phố nào
Con đường nào
Lần ngóng đợi
(Cánh đào rơi)
Yêu tha thiết đâu có nghĩa là phải luôn dữ dội, ồn ào. Nhiều khi chính
những giờ khắc lắng đọng, dịu êm, lặng lẽ lại là lúc chúng ta tha thiết, sống
42
trọn với tình yêu nhất. Đọc thơ Bùi Kim Anh, ta thấy sự cảm nhận tinh tế của
người con gái đầy nữ tính và hết sức truyền thống mà vẫn có gì đó rất hiện
đại:
Chiều nay anh cầm tay em
Ngoài kia cuối mùa đổi gió
Thay cho một lời bày tỏ
Một khoảng không gian chơi vơi
(Cảm nhận)
Chỉ với bốn dòng thơ, tác giả nói được hành động (cầm tay), ý nghĩa của
hành động (thay lời bày tỏ), nói được điều khách quan của hiện thực (cuối
mùa gió đổi), điều chủ quan của lòng người (chơi vơi).
Trong bài thơ “Cảm nhận”, Bùi Kim Anh viết:
Chúng mình đã ngồi như vậy
Uống trà nói chuyện hôm nay
Chiếc bàn mỏng manh ngăn cách
Giữ lòng em ở bên này
(Cảm nhận)
“Giữ lòng em” chỉ bằng sự “mỏng manh” của chiếc bàn thì đấy chính là
“cái truyền thống” giữ em đấy chứ. Và điều cần nói nhà thơ đã nói một cách
giản dị:
Vì sao em đến với anh
Hãy xin âm thầm đón nhận
Khi em chưa kịp hiểu mình
(Cảm nhận)
43
Trong thơ tình yêu của các nhà thơ nữ nói chung và thơ tình yêu của Bùi
Kim Anh nói riêng, người phụ nữ với tính cách tế nhị, kín đáo nên có khi chỉ
bằng một câu hỏi cũng có thể bộc lộ được tình yêu tha thiết, nỗi khao khát,
nhớ thương cháy bỏng của mình. Người phụ nữ khi yêu thường có xu hướng
đi lí giải nguồn gốc của tình yêu “Vì sao em đến với anh”. Khi người con gái
trong bài thơ nói “em chưa kịp hiểu mình” nhưng thực ra thì cô gái ấy đã hiểu,
rất hiểu mình thì mới có thể “cảm nhận” như thế.
Yêu thương và chờ đợi, tin tưởng và nghi ngờ khiến cho người con gái
trong thơ băn khoăn tự hỏi rồi vẫn không tìm ra câu trả lời cho chính mình bởi
không biết là “nắng mong manh” hay tình mong manh nữa.
Em chẳng biết mình sai hay đúng
Em chẳng biết mình giả hay thật
Em chẳng biết có nên đợi anh
Khi chiều về phố lạnh
Nắng mong manh
(Đợi)
Tác giả của bài thơ “Tự mình” là một người phụ nữ kín đáo trong cuộc
đời nhưng lại bày tỏ trong thơ một cách hết sức cụ thể:
Tôi giấu người yêu vào cõi tâm linh
Dại dột bày lên câu chữ
Thiên hạ bởi ngổn ngang mảnh vỡ
Kín đáo trong tình cảm, tình yêu nhưng không thể không nói ra
bằng nỗi nhớ:
Em cứ cố xóa đi nỗi nhớ
Mà trong mơ anh lại tới gần…
44
Em gọi anh trong cơn mơ đêm trong ý nghĩ ngày…
Tình yêu nào có lỗi gì đâu
Nỗi nhớ nào cũng trắng giọt sương đầu
(Giọt sương đầu)
“Cố xóa đi nỗi nhớ” nghĩa là không thể quên được nên đêm ngày lúc nào
em cũng nghĩ tới anh. Đó là nét tâm trạng luôn luôn tồn tại trong tình yêu.
Không chỉ thể hiện tình yêu kín đáo, dịu dàng, sâu thẳm đầy nữ tính qua
nỗi khao khát, nhớ mong mà Bùi Kim Anh còn phản ánh thứ tình yêu ấy qua
sự bao dung, hy sinh vì người yêu của người phụ nữ. Trong thơ tình yêu từ
xưa đến nay, hình ảnh người phụ nữ luôn được hiện lên với tất cả vẻ đẹp của
một người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong tình yêu. Đó là luôn yêu bằng
tất cả trái tim, bằng sự bao dung, cao thượng, bằng chở che, hi sinh hết
mình… Tiếp nối những nhân cách cao đẹp đó, người phụ nữ trong thơ Bùi
Kim Anh cũng luôn sẵn sàng hi sinh, dâng hiến cho tình yêu:
Đừng trách em tham lam
Muốn buộc chân làn gió
Em dằng dai như cỏ
Mặc cho mùa đông sang
(Ngỡ ngàng)
Để được hạnh phúc bên người mình yêu thương, người phụ nữ muốn
cưỡng lại quy luật của tự nhiên và tạo hóa. Cũng nói về sự hi sinh trong tình
yêu của người phụ nữ, nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến viết:
Em như cơn gió lạc đường
Theo anh lỡ cả mười phương lấy chồng
(Đa mang)
45
Khi yêu, người phụ nữ luôn khao khát một tình yêu trọn vẹn, càng khát
khao, hy vọng một tình yêu viên mãn, nồng nàn, hạnh phúc bao nhiêu thì họ
càng cảm thấy đau đớn, xót xa, hờn tủi bấy nhiêu khi tình yêu, hạnh phúc bị
sẻ chia. Tuy nhiên, chính những nỗi đau và sự âm thầm chịu đựng chính là
những biểu hiện của một tình yêu thiết tha, sâu đậm của người phụ nữ. Vì thế,
đi sâu vào thế giới tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh cũng có nghĩa là người
đọc đang bước vào một khối sầu với vô vàn buồn đau, cô đơn, xót xa:
Một tình yêu tha thiết chẳng hẹn hò
Em với anh chỉ là mộng tưởng
Một giấc mơ gần mà không thực
Rất mặn nồng mà trống trải cô đơn
(Đến bao giờ)
Nỗi cô đơn vì “Một tình yêu tha thiết chẳng hẹn hò” khiến cho người con
gái như rơi vào trong mộng tưởng. Tình yêu ấy khi thì rất “mặn nồng”, lúc lại
“trống trải cô đơn”. Người con gái đang yêu như bị lạc vào hai bờ thực - ảo.
Càng nhớ về quá khứ mặn nồng, càng đau đớn gấp bội vì sự “trống trải cô
đơn” của thực tại. Một điều đáng quý, đáng trân trọng hơn cả ở người phụ nữ
đang yêu trong thơ Bùi Kim Anh đó là dù phải sống cùng nỗi đau, bị nỗi đau
cào xé, tê tái cõi lòng thì họ vẫn không cất lên một lời oán giận, trách móc
nào. Nỗi buồn đau, xót xa ấy sâu đậm đến mức có thể khiến người ta chết
trong sự cô độc, nó giống như giọt sương kia rơi âm thầm, không thành tiếng
nên không ai biết, chẳng ai hay:
Dở dang trao lại chúng mình
Phận con gái kiếp nhân sinh tủi hờn
(Cỏ trắng)
Không cần trực tiếp dùng những từ “buồn đau”, “cô đơn” trong thơ
46
nhưng Bùi Kim Anh vẫn tinh tế thể hiện được nỗi cô đơn thường trực trong
lòng người phụ nữ đang yêu:
Mạnh mẽ sâu xa biển của thiên nhiên
Náo nhiệt quanh co con đường của phố
Trong làn nước thân em bé nhỏ
Giữa phố đông lạc bởi vắng anh
(Xa)
Giữa phố phường đông vui, tấp nập, trước vẻ đẹp tuyệt vời của thiên
nhiên những tưởng con người có thể mải mê chiêm ngưỡng để tạm thời quên
đi hiện thực. Nhưng nỗi nhớ về “anh” luôn luôn thường trực, nó khiến “em”
thấy mình “nhỏ bé” và lẻ loi giữa dòng đời tấp nập. Điều đó đủ để chứng
minh vị trí của “anh” lớn đến nhường nào trong trái tim “em”.
Với tình yêu tha thiết, nồng nàn, sâu đậm trong trái tim người phụ nữ
thì sự hờn ghen, trách móc kia cũng được thể hiện vô cùng kín đáo. Nó dường
như ẩn sâu nỗi băn khoăn, nghi vấn:
Mùa hè ở biển
Anh phơi nắng cùng ai
Để con sóng dữ dằn lôi em lên bờ cát
Đôi vòng phao díu chặt
Trên mảnh chòng chành
Em ngó theo
(Mùa hè ở biển)
Hình ảnh cô gái trong bài thơ “Mùa hè ở biển” hiện lên rất trong sáng. Mùa
hè ở biển có biết bao người “phơi nắng”, vậy mà cô gái khi yêu lại trách người
yêu “Anh phơi nắng cùng ai”. Một sự trách móc rất nhẹ nhàng và cũng rất đáng
47
yêu.
Như vậy, tình yêu sâu kín của người phụ nữ đã được nữ tác giả thể hiện
một cách chân thành và phong phú qua các cung bậc tình cảm, trạng thái cảm
xúc khác nhau: nỗi nhớ, nỗi khao khát đợi chờ, sự hi sinh, dâng hiến cho tình
yêu… Và những vần thơ ấy góp phần khẳng định tài năng, thế mạnh của Bùi
Kim Anh trong đề tài viết về tình yêu.
2.3.2. Một tình yêu mang đầy dự cảm của sự tan vỡ
Người ta yêu nhau để ở bên nhau, để chở che, chăm sóc lẫn nhau. Vì
vậy, khi yêu nhau, người ta không muốn chia sẻ tình yêu của mình. Người ta
yêu nhau không biết đêm, ngày, bóng tối hay ánh sáng. Tình yêu là một điều
diễn biến liên tục, chẳng biết khi nào sẽ dừng lại. Nhưng những khoảng khắc
tưởng như vô hình và nhẹ bẫng ấy, đôi khi lại là điều chúng ta phải tìm kiếm
cả cuộc đời. Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc nhận thấy sự gắn kết chặt chẽ
giữa cuộc đời với thơ. Thơ của bà toát lên sự dịu dàng, kín đáo của một người
phụ nữ Việt Nam trong tình yêu. Tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh mang đầy
dự cảm của sự tan vỡ, ngay cả khi tình yêu đang nồng nàn, người phụ nữ cũng
không thôi suy nghĩ, lo âu vì sự mong manh của tình yêu, về khoảng cách vô
hình giữa “anh” và “em”.
Hình ảnh người con gái trong bài thơ “Khoảng cách” dường như bất
lực trước khoảng cách lẽ không chỉ là khoảng cách của không gian, của thời
gian mà đó còn là khoảng cách của tình cảm, của trái tim khi hai người không
có duyên gặp gỡ:
Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
Chỉ một lần êm ả
Dẫu đã bao lần vội vã
Anh vẫn là anh xa cách giữa nỗi đời…
Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
48
Chỉ một lần thôi là tất cả
(Khoảng cách)
Lời thơ đau đớn, tuyệt vọng vì người con gái dù đã chủ động thử vượt
qua khoảng cách sau “bao lần vội vã” nhưng “khoảng cách” vẫn cứ là
“khoảng cách”. Cái đích mà người con gái mong tha thiết “chỉ một lần thôi”
vẫn cứ cách xa và “sẽ chẳng bao giờ có được”. Lời thơ giản dị, đã thể hiện rõ
sự cô đơn – như một định mệnh của người phụ nữ giàu tình cảm, khao khát
tình yêu, hạnh phúc đích thực. Khoảng cách đáng sợ ấy là khoảng cách mong
manh của tình cảm luôn bị chi phối bởi muôn vàn nỗi niềm trong cuộc sống
hôm nay.
Trong tình yêu, nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh có ý thức rất rõ
về một “ngưỡng cửa” vô hình để chỉ ra một ranh giới trong tưởng tượng:
Bên kia ngưỡng cửa là thiên đường
Bên này ngưỡng cửa là ước vọng
Em dựa vào bên này biển sóng
Nghe tiếng mình đập dồn dập niềm yêu
Bên kia có anh – em sợ
Thiên đường hay địa ngục
(Ngưỡng cửa)
Trong cuộc sống, có những thứ vô hình ngăn cản con người đến với
nhau “Bên kia ngưỡng cửa là thiên đường” còn “Bên này ngưỡng cửa là ước
vọng”, khoảng cách giữa hai con người là xa nhất, dù nhìn thấy nhau nhưng
sao vẫn cảm thấy xa vời, không sao nắm bắt được. Người phụ nữ luôn lo âu,
khắc khoải vì khoảng cách là vô hình nên chẳng cách nào xóa bỏ, hay bởi
người ta chẳng đủ yêu thương để cố gắng. Có lẽ, để kéo gần khoảng cách giữa
hai con người chỉ có một cách duy nhất đó là đi về phía họ, không chỉ để tiến
49
gần nhau ở cự ly ngăn cách mà còn để tiến gần với tâm hồn và trái tim mỗi
con người.
Trong bài “Duyên xuân” Bùi Kim Anh viết:
Cho em trở lại bên anh
Nhẹ nhàng thôi gió lên cành đẩy đưa
Cho em trở lại ngày xưa
Được yêu anh giữa giấc trưa ngọt ngào
(Duyên xuân)
Cái ước mơ “trở lại ngày xưa” hình như có ở nhiều người chứ không
riêng Bùi Kim Anh. Ước “trở lại ngày xưa” còn trẻ, đẹp, hồn nhiên, mộng
mơ… là niềm ước mơ chung của bao người phụ nữ trong đó có Bùi Kim Anh.
Nhưng bà lại ước mơ một cách hiện thực hơn, giản dị hơn. Cho dù “Bây giờ
cách mấy đoạn đường/ Mưa ngăn lối gió lạc phương ngại ngần” thì chỉ là
“Hai chúng mình chỉ có duyên đợi chờ” (Duyên xuân).
Trong hoàn cảnh “Hai ta tiễn biệt” Bùi Kim Anh đã giãi bày một cách
thành thực cho dù có chút xót xa:
Khi em hiểu về cuộc đời
Khi em hiểu về anh
Đầy đủ ngọn ngành
Thì tất cả đã là rất muộn
Cho dù những bông hoa tình yêu vẫn nở
Cho dù những nhịp cầu lao nhanh nối đôi bờ cách trở
Và anh nói rằng – anh vẫn yêu em
(Khoảng trống)
Thật tuyệt vời cho ai đó nếu được sống một cuộc đời không có gì phải
50
nuối tiếc. Đó thật sự là một cuộc đời hiếm có, bởi đa phần sau một thời gian
sống, ai cũng chợt nhận ra mình cũng có điều gì đó để tiếc nuối, dù ít dù
nhiều. Và ngẫu nhiên hay tất yếu những tiếc nuối, xót xa nhất lại luôn vướng
một chữ “tình”. Xa “anh” rồi “em” mới thấy sao niềm hạnh phúc mong manh
đến thế. “Anh” ra đi mang theo tình yêu, để lại cho anh sự trống trải, hụt
hẫng, cô đơn. Hạnh phúc, tình yêu đã theo “anh” đi mất rồi. Người ta chỉ nhận
ra sự vô giá của tình yêu khi người ta đánh mất nó. “Cho dù những bông hoa
tình yêu vẫn nở”, cho dù “anh nói rằng – anh vẫn yêu em” thì cũng đã quá
muộn màng. Nhưng “trong tình yêu, thà nuối tiếc những gì ta đã làm còn hơn
là nuối tiếc những gì ta không làm” – câu ngạn ngữ cổ xưa ấy nhắc: con người
ít ra cũng được phép sai lầm một đôi lần trong đời, để thấy rằng mình đã
sống, đã yêu hết mình.
Người phụ nữ khi yêu mà không được yêu bởi:
Anh không nói vì sao anh xa em
Anh không nói mặc cho tình dang dở
(Xa)
Trong tình yêu, người phụ nữ luôn hoài nghi “vì sao anh xa em”. Có khi
nào “em” tự hỏi vì sao có sự im lặng kia? Và có phải sự im lặng kia tạo ra một
khoảng cách vô hình cho “anh” và “em”? Câu trả lời cho tất cả những câu hỏi
cũng chỉ là sự im lặng. Vì “anh” hay “em” đều chưa từng hỏi nhau về điều đó.
Nhưng “em” biết được rằng, chúng ta đều mong được hỏi và biết câu trả lời
cho những điều đó, song tất cả ta đợi và dành cho nhau cũng chỉ là thế thôi.
Trong thơ Bùi Kim Anh đã giãi bày lòng mình:
Em ủ dột xa anh yêu dấu
Nỗi đau tình yêu cào cấu
Em vu vơ trong đói khát dày vò
51
Những người yêu đương suôn sẻ thì cho tình yêu là đoá hoa tươi, ngát
hương vĩnh cửu, là niềm vui bất tận, là động lực mạnh mẽ, thường xuyên
trong lao động, học tập và công tác. Những người gặp trắc trở trong tình yêu
hoặc sống trong cảnh yêu đương tan vỡ thì quan niệm tình yêu là vị đắng, là
vực thẳm, là sự tàn phá cuộc sống yên bình, bị “Nỗi đau tình yêu cào cấu”
đến “vu vơ trong đói khát dày vò”. Con đường của tình yêu chẳng mấy bằng
phẳng, có trải qua đau khổ, tình yêu mới thêm sâu đậm và thử thách là sợi
giây mềm buộc cho tình yêu bền vững. Đau khổ và thử thách trong tình yêu
không phải là thảm hoạ nếu những người trong cuộc đã thực lòng yêu nhau.
Tình yêu không phải lúc nào cũng ngọt ngào, hạnh phúc, đó chỉ là
những phút giây thăng hoa của một tình yêu đẹp. Cay đắng, xót xa, tan vỡ là
những trạng thái khó có thể tránh khỏi trên con đường đi kiếm tìm một tình
yêu đích thực, và những ai đi trên con đường ấy phải biết chấp nhận điều đó.
Một trái tim quá nhạy cảm như Bùi Kim Anh đã luôn trăn trở, lo âu về hạnh
phúc của mình, đó là cảm giác sợ mất đi những gì đẹp nhất ở một tình yêu bà
đã đánh đổi bằng chính cuộc đời mình mới có được. Tuy vậy, không có nghĩa
là Bùi Kim Anh buông xuôi theo số phận khi nghiệt ngã cuộc đời ép vào trái
tim bé nhỏ của bà. Ta vẫn thấy có một người đàn bà từng trải, đằm thắm tỉnh
táo trong tình yêu. Trái tim ấy dù có lúc đau buồn nhưng không hề hoảng
loạn, Bùi Kim Anh đã ngụp lặn trong đại dương mênh mông sâu thẳm của
tình yêu với sóng gió và bão tố, rồi trong giông tố bà lại lắng nghe tiếng nói
trái tim để tìm về đúng nghĩa của hạnh phúc.
52
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Cảm thức là một quá trình trong đó con người tự ý thức về tâm trạng,
diễn biến tâm lí đang xảy ra với chính mình mà nguồn gốc sâu xa của những
nét tâm lí đó chính là sự tác động của yếu tố bên ngoài vào chủ thể nhận thức.
Đọc thơ Bùi Kim Anh người đọc thấy rõ những biểu hiện của cảm thức
về thân phận và tình yêu: cảm thức cô đơn trước những hối hả, gấp gáp của
cuộc đời, cảm thức về nỗi bất hạnh giăng bủa. Bên cạnh đó, thơ Bùi Kim Anh
còn đăm đắm một nỗi niềm, một nỗi khát khao mãnh liệt trong tình yêu và cả
những dự cảm của sự tan vỡ. Qua đó, ta hiểu rõ hơn những sắc thái và vẻ đẹp
tâm hồn của nhà thơ trước cuộc đời và số phận; vẻ đẹp của một tâm hồn phụ
nữ luôn đắm say khao khát yêu thương song cũng đầy bản lĩnh, đầy nghị lực
vượt qua những phong ba bão tố của cuộc đời.
53
Chương 3
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC VỀ THÂN PHẬN
VÀ TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI KIM ANH
3.1. Thể thơ-ngôn ngữ của sự sáng tạo
3.1.1. Cách tân lục bát-cách tân nỗi buồn
Trở về với thơ lục bát là trở về với cội nguồn, trở về với dòng trữ tình
dân gian. Từ ca dao đến Truyền Kiều của Nguyễn Du rồi đến thơ hiện đại với
các tên tuổi Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Huy Cận, Bùi Giáng đến thơ
đương đại như Lâm Thị Mỹ Dạ, Bùi Kim Anh... thơ lục bát là mạch nguồn
xuyên suốt thể hiện được tâm thức của dân tộc và thời đại. Ngày nay thơ lục
bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan
trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Bùi Kim Anh – một trong những tài năng của thơ lục bát Việt Nam
đương đại. Với 10 tập thơ, trong đó có nhiều bài thơ thậm chí có hẳn một tập
thơ viết theo thể lục bát, Bùi Kim Anh đã chứng tỏ mình là một nhà thơ còn
khá trung thành với thể thơ truyền thống này. Thơ lục bát của Bùi Kim Anh
có những nét riêng biệt vừa có nét truyền thống đằm thắm, nhẹ nhàng, ân tình,
vừa có tính hiện đại đôi khi bứt phá nhưng về cơ bản nó mang hơi thở thời đại
nên vẫn chinh phục lòng người đọc đương thời.
Trong bài “Trên đường Giảng Võ”, kết thúc bằng cặp câu lục bát:
Chợ người chẳng bán người đâu
Dãi dầu bán cái dãi dầu mà thôi
Đọc hai câu kết, cứ tưởng nhẹ nhàng chơi chơi để khép lại bài thơ cho
đúng luật lệ. Vâng, chính cách chơi chữ “người” đối với “dãi dầu” đã để lại
nỗi ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả.
Lục bát của Bùi Kim Anh có một sức sống riêng biệt, bà thường dùng
54
thủ pháp phá cách ở câu sáu (câu lục) “Ai biết mộ anh ở đâu?. Ở câu lục,
tiếng thứ 2 lẽ ra phải dùng thanh bằng thì tác giả dùng thanh trắc, chữ thứ 4 lẽ
ra phải dùng thanh trắc thì tác giả lại sử dụng thanh bằng. Tác giả đã tạo ra
một nhịp điệu khác với câu lục bát thông thường. Điều đó có hiệu quả rõ rệt.
Bắt đầu đọc bài thơ, độc giả đã gặp ngay câu nấc nghẹn và đến cuối bài vẫn
một câu nấc nghẹn, bùi ngùi. Đó là những đóng góp đáng kể để lục bát vẫn
mới, vẫn hiện đại:
- Ai biết mộ anh ở đâu?
- Vạ vật tê cả bước đi
- Muốn viết một câu thơ tình
- Đi chợ bèn mua nắm hoa
- Tình chẳng đẹp như câu thơ
- Câu lục bát cứ ngân nga
- Bỏ phố mình biết đi đâu
- Bia vẫn trắng cỏ vẫn tươi.
…
Nhà thơ Bùi Kim Anh có lần tâm sự: “Lục bát là thể thơ mà tôi rất
thích nhưng cứ làm kiểu đều đều thì đọc cũng chán. Làm lục bát dễ mà khó,
không cẩn thận nó dễ rơi vào thể loại hò vè, bích báo, được vần thì hỏng ý,
được ý thì hỏng vần”. Bùi Kim Anh nói rõ: cách gieo vần bằng – trắc trong
một số bài lục bát của bà khác với lục bát truyền thống không phải là chủ đích
của bà mà do bà “cứ làm tự nhiên thôi, thấy như thế hợp với thơ mình”. (Hiền
Nguyễn - Báo Điện tử Tổ quốc).
Câu bát trong nhiều bài lục bát của mình, Bùi Kim Anh thể hiện rõ
sự táo bạo, sáng tạo trong cách dùng từ, lựa chọn hình ảnh thơ:
Con đường hai vệt nắng mưa
55
Cái cơn trái gió có chừa mặt ai
(Trên đường Giảng Võ)
Sợ cũ như miếng trầu cay
Sợ mòn như thể lối ngày đi qua
(Sợ rằng lục bát đã nhàu)
Bao giờ mình lại gặp nhau
Thời gian cháy thời gian đau đáu lòng
(Thời gian cháy)
Với mình gợi cả ước mong
Với mình tẽ mối bòng bong giãi bày
(Cơn mơ một mình)
Bà không phải là người đầu tiên có cách viết như thế. Bởi trước đó đã có
nhiều nhà thơ có cách viết như vậy, nhưng bà là người vận dụng khá thành
thục và rất hiệu quả, tạo cho người đọc một cảm giác vừa mới lạ và vẫn như
thấy quen quen.
Thơ lục bát của Bùi Kim Anh còn sử dụng điệp ngữ làm cho câu thơ dồn
nén, trùng điệp về ý, hối hả về nhịp điệu mà vẫn lấp lánh, hấp dẫn người đọc:
Về đi thơ về đi người
Về trong bao chuyện khóc cười với nhau
( Cửa thiền có tiếng thở dài)
Gánh buồn đi đổ xuống sông
Gặp người ngả gánh giữa dòng lại thương
Gặp người gỡ một đoạn trường
Ghé bờ vai mỏng vấn vương dặm dài
56
(Gánh buồn đi đổ xuống sông)
Biết mình nay đã già rồi
Biết mình nay đã là người hôm qua
(Xách tay lên cánh chuồn chuồn)
Chờ gì ta biết chờ gì
Chờ tháng hết chờ năm ghi nốt ngày
(Ta ngồi đếm buổi tháng 10)
Lãng quên bỏ nét bơ phờ
Lãng quên mặc gió đứng chờ ngoài mưa
(Rủ ai quên lãng ngày xưa)
Ước một ngày giữa tự nhiên
Cởi cho gió rũ ưu phiền cuốn đi
Cởi cho mưa xối nước kỳ
Chẳng còn chi nữa cả khi đứng ngồi
(Chẳng còn tự nhiên)
Nhỏ thôi một kiếp sinh linh
Rũ bụi bặm đón chân tình cỏ cây
Nhỏ thôi một giấc ngủ đầy
Ban mai thức với sương mai đậm lời
(Giấc mơ Đà Lạt)
Trong bài thơ “Yêu lần cuối mặc muộn màng” việc lặp lại từ ngữ cũng
để lại nhiều suy tư trong lòng độc giả:
Yêu lần cuối mặc muộn màng
57
Yêu lần cuối mặc tan hoang đất trời
Hãy yêu lần cuối để rồi
Ta sống thật một lần thôi với tình.
Có những câu thơ Bùi Kim Anh sử dụng khá nhiều từ láy phối hợp với
sự lặp từ làm cho âm hưởng của bài thơ gần gũi với ca dao, dân ca. Nếu ca
dao có câu:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Thì ta lại tìm thấy ý ấy trong thơ Bùi Kim Anh.
Gửi người ở chốn Nghi Tàm
Một câu thơ đã muộn màng với hoa
Biết là người vẫn trách ta
Bởi chưng gió cứ la đà Hồ Tây
(Lối hoa rơi)
Đặc biệt Bùi Kim Anh đã phát huy cao độ sự phù hợp giữa đặc trưng
của thể lục bát là uyển chuyển, mềm mại với phong cách thơ của mình là mộc
mạc, đằm thắm, dịu dàng. Trong ca dao có câu:
Trầu xanh, cau trắng, chay vàng
Cơi trầu bịt bạc thiếp chàng ăn chung
Trầu xanh, cau trắng, chay hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
Nỗi niềm xót xa nhưng lời thơ ngọt ngào với những cặp lục bát gần gũi,
thân quen càng làm đậm thêm nét riêng của ngòi bút Bùi Kim Anh.
Tơ trời vương ở ngọn chanh
58
Em như con nhện loang quanh khép vòng
Trầu xanh têm với vôi nồng
Ăn vào say đến ửng hồng cả môi
Thương nhau vạch núi thề bồi
Ngửa tay che ánh mặt trời để yêu
(Thương nhau)
“Ngọn chanh”, ‘‘con nhện”, “trầu xanh”, “vôi nồng”, nhờ hình ảnh gần
gũi với ca dao ấy làm cho bài thơ nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhưng sau cái “thề
non hẹn biển” mà phải “ngửa tay che ánh mặt trời để yêu" thì quả thật để
“yêu” thật khó khăn vô vàn.
Cũng như thơ lục bát dân gian, âm điệu chung của thơ Bùi Kim Anh là
buồn. Đã biết bao đời người quê Việt Nam sống với nỗi buồn nhiều hơn là
niềm vui, hồn quê thấm đẫm nỗi buồn ấy cho nên trong số các bài thơ của bà
độc giả dễ nhận ra cái thanh thoát, nhẹ nhàng, ngọt ngào nhưng ẩn nỗi xót xa,
cay đắng vì tình yêu, vì cuộc đời dâu bể… có những câu thơ mang giọng điều
buồn thương, ai oán, não nùng :
Câu thơ em viết cho em
Cởi ra xa xót vò thêm nát nhàu
Buông tay qua nhịp cơ cầu
Tuột sâu nỗi nhớ một câu không vần
(Cho anh và em)
Nhà thơ đã có cách ngắt nhịp rất tinh tế tạo âm hưởng trầm buồn tha
thiết :
Nén nhang thắp xuống/ khói lên mịt mờ
Nén nhang thắp/ lại rụng rời tàn hương
(Lên chùa)
59
Bia vẫn trắng/ cỏ vẫn tươi
Mẹ còng lưng suốt một đời/ nỗi đau
(Bia vẫn trắng)
Nhà thơ đã phát huy được cái tinh hoa của lục bát truyền thống là
hiệp vần, ngắt nhịp, nhưng có những bài thơ được sáng tác với thể lục bát
cách tân độc đáo. Các câu lục, câu bát thoát khỏi nhịp đôi (2 / 2) bình thường
để bước sang ngắt dòng tự do kiểu bậc thang. Các sự kiện hiện về trong bài
thơ không nhiều, dâng đầy những cảm xúc, tâm trạng nhớ nhung, bồi hồi, xót
xa… theo tầng, theo bậc, khấp khểnh, không trơn chu, trôi chảy:
Thôi thì/
thôi ước làm chi
Ta già/
mình cũng còn gì sắc xuân
Tình thơ/
thơ viết ngại ngần
Sớm xuân chẳng biết/
thơ cần cho ai
(Ta già mình cũng còn gì sắc xuân)
Các câu lục, bát ngả nghiêng ngắt dòng. Nhịp của câu thơ vì thế cũng
thay đổi theo. Nhịp 3/3, 2/4 trong câu lục, 4/4, 5/3, 3/3/2, 2/6, trong câu bát
có thể coi là những biến thể. Trái tim nhà thơ không bao giờ thiếu vắng tình
yêu. Có điều ở mỗi giai đoạn thì tình yêu trong thơ của người làm thơ có một
sắc thái khác. Bài thơ cho người đọc thấy hình ảnh một người đàn bà luống
tuổi làm thơ tình vừa buồn, vừa bâng khuâng, mơ màng, thảng thốt, nhớ lại
một sắc xuân của mình. Kỉ niệm làm cho đời người thêm giàu có nhưng cũng
có những kỉ niệm làm cho cuộc đời nặng trĩu ưu tư. Chính vì có sự đan xen
60
giữa thực và mơ mà câu thơ lục bát mới trở nên khác thường.
Những câu thơ khi mới đọc thì tưởng như nhẹ tênh nhưng càng đọc ta
càng thấy những tâm sự đong đầy, những ưu tư trĩu nặng trước sự chuyển
động của thời gian ẩn sâu bên trong:
Ta ngồi đếm buổi tháng 10
Thấy ngày trống thấy lá rơi lối về
Thấy chiều trên một dải đê
Con đò gày đến tái tê đợi chờ
Thấy mình là kẻ ngẩn ngơ
Cứ trông ngóng một vu vơ đến già
(Ta ngồi đếm buổi tháng 10)
Cũng có khi thơ lục bát của Bùi Kim Anh bộc lộ niềm vui. Vui vì
những cái tưởng như rất nhỏ bé nhưng lại đầy ý nghĩa, nó thể hiện được tình
yêu thương con người:
Bắc lên ngọn gió mà cân
Chữ oán thì bổng chữ ân thì chìm
(Bắc lên ngọn gió mà cân)
“Bổng” - “chìm”, “oán” - “ân”, hai từ láy tạo ra kết hợp “oán thì
bổng”, “ân thì chìm” đã làm cho người đọc nhẹ lòng hơn, tin ở cuộc đời này
hơn bởi dù sao thì “ân” cũng nặng hơn “oán”.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận xét về thơ Bùi Kim Anh “thật đắc
địa với lục bát”. Hầu hết những bài thơ lục bát của Bùi Kim Anh đều là
những bài thơ buồn, những lời tâm sự, thở than, nhưng ở mỗi bài lại có những
nét riêng nên vẫn không gây nên sự đơn điệu. Sự phong phú, mới lạ về tứ thơ,
ý thơ, hình ảnh thơ… đã làm nên một màu sắc riêng. Qua đó, thể hiện rõ hơn,
61
sinh động hơn thế giới nội tâm của cái tôi trữ tình, góp phần làm cho thơ lục
bát của bà có sức sống riêng.
3.1.2. Thơ tự do – sự khơi mở giãi bày những ẩn ức tâm hồn
Nhu cầu giải phóng bản thân không cho phép các nhà thơ nữ bó mình
trong những khuôn khổ chật hẹp. Nhu cầu tìm đến những hình thức mới,
những hình thức vừa vặn hơn với sự gai góc trong tư duy thơ là nhu cầu bức
thiết và chính đáng của các nhà thơ. Chính vì vậy, Bùi Kim Anh đã tìm đến
với thơ tự do với nhiều biến thể để khẳng định cái tôi không trùng lặp của
mình. Khác với các thể thơ khác phải gò mình theo một khuôn mẫu nhất định
thì đặc điểm nổi bật của thơ tự do là không tuân theo những quy tắc về cách
luật. Thơ tự do phóng túng trong cách biểu đạt, nhịp điệu phóng khoáng, được
cấu tạo bằng những câu thơ tự nhiên đa dạng về tổ chức kết cấu, có số lượng
từ ngữ co giãn linh hoạt. Về mặt hình thức, thơ tự do có thể có vần nhưng nó
không trở thành một quy tắc chặt chẽ và ở đó, nhịp điệu được nổi lên như một
yếu tố chủ đạo. Nhịp điệu ở đây không do cách luật xác định mà do những cảm
xúc nội tại của nhà thơ. Sự phát triển của thơ tự do là để đáp ứng nhu cầu của
thơ ca đòi hỏi đi sâu vào những đề tài mới, bắt nhịp với hơi thở của thời đại.
Bùi Kim Anh lựa chọn thơ tự do bởi những ưu thế ấy. Trong sáng
tác thơ tự do, bên cạnh việc biến đổi thể thơ bảy chữ thành những dòng thơ
dài ngắn khác nhau một cách linh hoạt uyển chuyển, Bùi Kim Anh thường sử
dụng thủ pháp ngắt dòng để tạo nên những câu thơ ngắn :
Ngõ nhỏ
nhà chõ sang nhau
không hạn định sớm tối
ngõ nhỏ
chuông gọi hàng xóm
62
ngỡ khách nhà mình
ngõ nhỏ
xe rồi máy
khói xộc nhà mình
(Ngõ)
Bùi Kim Anh đã bỏ đi một loạt giới từ, liên từ, thậm chí cả chủ ngữ để
làm nên hiệu quả cho những câu thơ ngắt dòng như vậy. Những dòng thơ đứt
đoạn như một nhát cắt của cái hình sắc nhọn, như những mảnh ngổn ngang
của không gian. Mỗi câu thơ cất lên ngắn gọn và dứt khoát, mang trong nó
sức nặng của những ý nghĩ đứt đoạn ngổn ngang.
Trong bài “Màu của cơn đau” Bùi Kim Anh đã diễn tả nỗi buồn, nỗi
đau về thể xác lẫn tâm hồn, sự cô đơn, trống vắng và cả lòng quyết tâm dứt
bỏ, vượt qua nỗi buồn, bất hạnh để sống, để tồn tại:
Cơn đau nhiều màu lắm con ơi
Màu tái xanh của làn da vật vã
Màu bạc phếch của mớ tóc thời gian
Màu đăm đắm mắt trẻ thơ lo lắng
Màu đợi chờ dành cho hết cơn đau
(Màu của cơn đau)
Cách viết theo thể thơ tự do của Bùi Kim Anh bộc lộ một cách rất tự
nhiên mạch cảm xúc, khi thì như “một cuốn phim” với các hình ảnh, sự kiện
lần lượt xuất hiện theo thời gian (Bục giảng và những mùa phượng, Thư gửi
con, Mong qua đêm), khi thì như “một tia chớp” vụt qua, nhưng cái bất ngờ,
sắc lạnh của nó thì đọng lại mãi, cứa đứt lòng người.
Có những bài thơ tuôn trào những mạch suy nghĩ không dứt với những
63
câu hỏi, câu trả lời trong tâm tưởng của nhà thơ khiến người đọc phải day dứt:
...
tôi nhớ tôi cái ngày tôi về cõi
đẫn đờ hương khói
gặp người xưa lởn vởn bến đò
khua gì
vẫy gì
gọi gì
con đò thủng tôi sang sông
thôi
thôi
nhé
(Nằm viện những ngày tháng ba)
Bùi Kim Anh đã khoác cho thơ mình một vẻ ngoài góc cạnh cũng
giống như chính tâm hồn bà sau bao nhiêu bão giông. Những vần thơ trữ tình
truyền thống giường như đã quá cũ và quá chật để chất chứa một cái tôi muốn
vươn ra ngoài biển lớn, muốn chứng tỏ bản thân và muốn cháy nhiều hơn
nữa. Cùng với thủ pháp ngắt dòng Bùi Kim Anh cũng viết nhiều thơ văn xuôi.
Câu thơ dài rộng chất chứa nhiều tâm sự có khi bộc bạch những tâm sự cá
nhân, có lúc trầm tư suy nghĩ về cuộc sống trước mắt:
...
Tôi viết về tôi quả thật tôi chỉ viết về nỗi đau của mình gặm nhấm những
gì thuộc về mình như con chuột lột xột trong xó thơ tôi lợt lạt thiếu nắng mai và
gió trời. Trăn trở câu chữ như đồng tiền bé mọn cho người để an ủi mình thôi.
...
64
Tôi không dám đối mặt với cảnh quay người đi phân phát lòng từ thiện
khi mắt họ chiếu vào tôi ngồi trước màn hình một dấu chấm than hay dấu hỏi
...
(Dấu chấm than)
Sự dài ngắn khác nhau trong thơ khiến nhà thơ có điều kiện thỏa sức
tung bút theo cảm xúc của mình. Điều này là một yếu tố thuận lợi cho phép bà
đưa vào thơ những bộn bề của cuộc sống và cả những ngổn ngang trong suy
tư trăn trở.
Nguyễn Thanh Tuấn cho rằng: Thơ không hình hài cụ thể, không có giới
hạn, không tuân theo quy luật nào, hình ảnh thơ, nhịp thơ, cách ngắt dòng cứ
mặc sức tung phá, nhập nhằng, bất định, mờ ảo trong trạng thái mông lung
giữa tâm thức và tiềm thức, giữa thực và hư [28].
Viết cho mình, viết cho đời, Bùi Kim Anh tự tung tự tác với ngôn từ
trong thơ một cách mạnh dạn, tự nói với đời bao ý nghĩa:
con gái ơi
ta chỉ còn biết an ủi bằng lời số phận
mẹ dựa vào cơn đau của con đi nốt quãng đời còn lại
nốt những ngày bắt đầu bằng
tia nắng kết thúc ngày bằng giấc con bình yên
(Giấc con bình an)
Câu thơ cứ tiếp nối dài ngắn, dài ngắn để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng
băn khoăn, trăn trở, bức xúc của nhà thơ:
Luẩn quất chiều nay
Chỉ hai chữ ra đi
Ngày của xuân mà vẫn đông buốt giá
65
Rét mướt ơi ra đi
Biết là phải ra đi
Mất mát nào chia sẻ được cho ai
Xa lạ
Trong nỗi đau không hề xa lạ
(Một mảng đời là nỗi đau)
Có lẽ chỉ có hình thức thơ tự do mới thực sự phù hợp và đủ sức chứa
cho những tâm sự ngổn ngang và nhiều dang dở của người phụ nữ đa cảm và
tinh tế, dễ rung động trước mọi đổi thay của cuộc sống. Mỗi dòng thơ như
một hơi thở dài của người phụ nữ sau những năm tháng buồn vui đau khổ với
cuộc đời nhiều khúc quanh, nhiều ngã rẽ. Trong thơ tự do Bùi Kim Anh mặc
sức để cho cảm xúc kéo gọi cảm xúc, nối tiếp nhau chảy trôi trong thơ.
3.2. Hình ảnh thơ – những biểu tượng của cảm thức
Văn học phản ánh hiện thực đời sống nhưng không phải là sự rập
khuôn y nguyên hiện thực. Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm là một thế giới
hư cấu, giống thật chứ không phải là thật. Để tạo nên một thế giới như thế,
nhà văn sử dụng nhiều yếu tố trong đó có những biểu tượng nghệ thuật. Tìm
hiểu biểu tượng nghệ thuật sẽ góp phần làm rõ hơn bản chất của việc xây
dựng hình tượng trong văn học.
Về biểu tượng văn học, theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì: Theo nghĩa rộng, biểu tượng là đặc
trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo
nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một
loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái
quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm,
một tư tưởng triết lí sâu xa về con người và cuộc đời [22; tr.24].
66
Hiểu một cách chung nhất thì biểu tượng là những hình tượng mang
tính đa nghĩa trong văn học nói chung và trong thơ nói riêng. Biểu tượng là
những hình ảnh sự vật cụ thể, cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây
được ấn tượng sâu sắc với người đọc. Biểu tượng trở thành phương tiện diễn
đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong lòng độc giả. Thế giới thơ
là thế giới của những biểu tượng. Nó vừa là phương tiện vừa là đối tượng,
vừa là mục đích của quá trình sáng tạo [22, tr.49]
Trong thơ nữ, các nhà thơ thường xây dựng nên thế giới nghệ thuật của
mình bằng những biểu tượng mang đặc trưng riêng của phái nữ. Đó là những
hình ảnh phản ánh được tâm tư, tình cảm và thể hiện quan điểm nhân sinh của
phái nữ. Người đọc dễ dàng bắt gặp trong thơ nữ những sóng và biển, bầu trời
và những con đường, đôi mắt và bàn tay,... Trong thơ Bùi Kim Anh, người
đọc rất nhiều lần bắt gặp các hình ảnh chiều”, “đêm”, “mưa”, “gió”, “sao”,
“trăng”, “nước”, “lửa”, “hoa”, “cỏ dại”, sự xuất hiện lặp đi lặp lại trở
thành biểu tượng mang tính thẩm mỹ của nhà thơ.
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc thấy rất rõ sự xuất hiện với tần số
cao của hình ảnh chiều, đêm, mưa trong thơ bà. Sơ lược về nhan đề các bài
thơ có các từ kể trên đã là con số gây ấn tượng: Lời chiều hôm, Cuối chiều
dồn lại một làn mưa, Tắt lạnh cơn mưa chiều, Chiều mưa, Chiều của riêng ai,
Lục bát cuối chiều, Chiều muộn, Bóng chiều… Lời bóng đêm, Nửa đêm, Nghe
đêm, Ngày đêm, Lời đêm, Đêm…
Qua khảo sát, chúng tôi thấy hình hảnh “chiều”, “đêm”, “mưa” xuất
hiện nhiều trong các sáng tác của Bùi Kim Anh. Kết quả cụ thể được ghi lại
trong bảng sau:
67
Bảng 3.2: Bảng thống kê tần số xuất hiện của một số biểu tượng trong
mười tập thơ Bùi Kim Anh
Tên biểu tượng Tần số xuất hiện
(lần)
250 Chiều
230 Đêm
202 Mưa
3.2.1. Biểu tượng “chiều” –biểu tượng của nỗi buồn
Thơ Bùi Kim Anh rất ưu sử dụng những hình ảnh của thiên nhiên,
thiên nhiên trong thơ vừa là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm tình, vừa là cái
khơi nguồn cho những cảm xúc của nhà thơ, lại vừa là những hình ảnh mang
tính biểu tượng để nói lên nỗi lòng của tác giả. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất là hình
ảnh “chiều”. Hình ảnh chiều đã từng đi vào thơ ca truyền thống biểu tượng
của nỗi buồn, nỗi nhớ miên man. Và nay, nó vẫn duy trì được giá trị của mình
trong các vần thơ đương đại.
Buổi chiều là lúc mọi vật đoàn tụ, chỉ có con người là phải chịu cảnh lìa
xa. Trong bài “Tắt lạnh cơm chiều” Bùi Kim Anh viết:
Ghim vào tâm não hiện tại
Vô cảm của người đàn ông
Giàn giụa của người đàn bà
Tắt lạnh cơm chiều.
Cuộc hôn nhân tan vỡ dưới cái nhìn của nhà thơ Bùi Kim Anh là bữa
cơm chiều “tắt lạnh” kể từ đó.
Có những khi tác giả “không biết mình là ai” trong một “chiều mưa”:
Một chiều mưa cũng vội
68
Đón mùa đông muộn màng
(Chiều mưa)
Chiều cũng thả vào con người những cảm xúc buồn, những tiếng thở
dài, cô đơn và tâm trạng khác thường nghĩ về đâu không rõ. Nhưng bà vẫn
tiếp tục là bà trong “Chiều của riêng ai” thế này đây:
Nghĩ về đâu không rõ
Chiều đâu của riêng ai
(Chiều của riêng ai)
Chiều còn khiến người thơ tự cảm về thời gian, về tuổi xuân của mình
Lục bát viết lúc cuối chiều
Nghe trong hơi gió đọng nhiều ưu tư
(Lục bát cuối chiều)
Tâm trạng “ưu tư” với “lòng câm như bị cầm tù” trong biết bao cái
“hắt hiu dồn lại” làm cho câu lục bát càng nhiều “ước mong”.
Trong “chiều muộn” tác giả viết:
Chiều muộn anh mới đến tìm
Hoàng hôn rủ tím con thuyền chơ vơ
Chiều đến mà là “chiều muộn” khi đã “ngang trời dính một mảnh
trăng” vẫn thường là lúc mà nỗi niềm của người viết cần được giãi bày.
Và có khi chiều chỉ đơn giản là gặp người trên đường như người xưa:
Chỉ có thế đôi khi
Hè trên phố có một chiều dịu mát
Thu trên phố có một chiều nắng ấm
Gặp người trên đường qua như người xưa
69
(Gặp người trên đường như người xưa)
Thơ Bùi Kim Anh, có nhiều câu thơ nói đến “chiều”, viết về “chiều”
không nằm trong các bài có tên “chiều”:
Viết cho những buổi chiều
Không hoàng hôn trên phố
(Hình như mùa đã lỡ)
Như ta cứ thấy mỗi chiều
Đọc đủ thứ để biết nhiều làm chi
(Giời mưa ngồi viết nối vần)
Vội vã như ánh chiều tà
Khoác tấm chăn chùm lên đông giá lạnh
(Khoác cho thơ màu xám của trời cao)
Mồng một con về chúc tết
Chiều cuối năm mẹ đợi
Chiều nào mẹ cũng đợi
(Chiều cuối năm mẹ đợi)
Mỗi buổi chiều chờ bữa cơm xum họp
Tiếng các cháu khua bát đĩa chật căn nhà
(Gửi ba con)
Tất cả “bóng chiều”, “buổi chiều”, “chiều cuối năm”, “nắng chiều”,
“chiều tà”… xuất hiện tạo nên cái không gian quen thuộc trong thơ Bùi Kim
Anh. Có thể coi “chiều” là một biểu tượng trong thơ bà. Nó góp phần tạo nên
cái tôi buồn, cô đơn, đầy tâm trạng của tác giả.
70
3.2.2. Biểu tượng “đêm” –biểu tượng của những nỗi niềm thầm kín
Cùng với “chiều” là “đêm” xuất hiện ngay trong nhan đề các bài thơ:
Một đêm thơ ngủ quên, Lời bóng đêm, Nghe đêm, Nửa đêm, Ngày đêm, Lời
đêm, Đêm… Đêm là thời gian con người trở về với trạng thái tĩnh tâm nhất,
đêm là không gian cho con người tự “cật vấn” với chính mình, đêm trở đi trở
lại trong thơ đã trở thành một hình ảnh mang tính biểu tượng – biểu tượng của
tâm trạng con người.
Bùi Kim Anh mượn hình ảnh của đêm để vẽ nên chân dung tinh thần
của người đàn bà với những thổn thức về cuộc đời: “Sẻ nỗi buồn cho đêm/
nhận cơn mê màu xám/ sẻ nỗi buồn cho người/ lang thang giấc mơ hoang”
(Tôi viết lúc tỉnh lúc mê). Đêm là lúc không gian mở cửa cho những nỗi buồn
tuôn trào:
Đêm nay mưa rồi Đồi Quy Nhơn không trăng
Người chẳng về đâu hồn lại đau máu lại chảy khi trở gió
Biển Quy Nhơn đêm mưa không ngủ
Sóng đạp vào vọng hư không…
Ôi, đúng là Bùi Kim Anh, người mà thơ chọn như một duyên nghiệp,
( Đêm Quy Nhơn)
như chị tự nhận:
“Có người đàn bà dở hơi
Hằng đêm thức để tìm lời cho thơ…”
( Rủ ai quên lãng ngày xưa)
Thơ với Bùi Kim Anh như một sự cứu rỗi, một người bạn tâm tình để
chị thổ lộ hết những vui buồn đời mình, mà day dứt với người đọc, với bạn
thơ, văn là nỗi buồn dường như lấn át, còn niềm vui thảng qua, hiếm hoi:
71
bóc từng lớp lá ban ngày gói ý nghĩ
( Người đàn bà không ngủ)
trụi trần bày trong màn đêm
Và sự trụi trần trong màn đêm mà ta được dành cho ta, đã đưa một Bùi
Kim Anh- vô cùng đàn bà, người đàn bà của gia đình, thầm lặng đón nhận và
chấp nhận tất cả những đòn số phận, không oán than, trách móc, không nổi
loạn bực bội phá phách, cũng không tiêu cực đau buồn.
Có nên gọi Bùi Kim Anh là “nữ hoàng bóng đêm” không khi mà hình
ảnh đêm dường như đã có mặt và ngự trị trên khắp mọi ngóc ngách tâm hồn
của người thơ ấy? Sức mạnh của đêm thật kì diệu, nó một lần nữa cho thấy
khả năng “chất vấn” tâm hồn con người thực sự mạnh đến thế nào, nó cũng
cho thấy một hồn thơ Bùi Kim Anh giàu tâm trạng, đa đoan và nhiều nỗi niềm
thầm kín. Trước bóng đêm, Bùi Kim Anh thú nhận tất cả về mình:
Mẹ lao xuống cầu thang trong đêm tối
Tiếng con gọi mẹ
Tiếng ú ớ cơn mê
Con đi đâu nửa đêm chưa về
(Đêm)
Đêm ơi sao lạ vậy
Chẳng cho ta giấc ngủ bình thường
Tiếng thở đêm
Khua loãng màu đen
…
Ngày có lỗi gì đâu
Mà đêm dài đến thế
72
Hay sợ một mình
Bắt ta thức đêm nghe than thở
(Nghe đêm)
Đêm, người đàn bà chờ con với tâm trạng rối bời. Đêm người đàn bà làm
thơ ấy cùng thức với đêm, nghe đêm “thở than”:
Hết một ngày
Đêm mở mắt nhìn người đi dưới ánh đèn ánh cây
Ta quàng vai hồn nhập nhoạng
Ngày của ta đêm của hồn
Ngày của hồn đêm của ta
(Ngày đêm)
Phải chăng, trong đêm, “ta” và “hồn” đổi chỗ cho nhau. Phải chăng
điều tác giả muốn nói ở đây là cái hiện thực mà tác giả đang phải đối mặt
khiến cho “ta’ không còn là “ta” nữa.
Nửa đêm nở đóa hoa nhài
Nửa đêm trăng khuyết đi sai đoạn đường
(Nửa đêm)
Quen rồi ư
Niềm đau đến lúc nửa đêm
(Đêm)
Đọc thơ Bùi Kim Anh, người đọc gặp hàng trăm câu thơ có chứa từ
“đêm”. Với tần số xuất hiện cao, hình ảnh đêm thực sự trở thành nỗi ám ảnh
trong lòng người đọc. Kèm theo đó là nỗi cô đơn, sự đau đớn của một người
đàn bà đầy tâm trạng:
73
Làm sao kể trọn vẹn giấc mơ đêm
(Từ nơi không rõ trở về)
Ướp trong đêm nụ hoa nhài
Câu thơ dành để sớm mai tặng người
(Rằng ta lại viết cho mình)
- Ta ngủ ít chẳng biết vì sao nữa
Thức càng khuya mắt dọi thấu trong đêm
- Khi trong đêm ta được dành cho ta tất cả
Khi trang thơ đã quen giấc ngủ ngày
(Gom vào đâu thi tứ)
Em không thể xé nỗi buồn ném vào đêm tối
(Không thể)
Điều đó khẳng định “Nỗi buồn” vẫn tồn tại cùng đêm tối trong con người tác
giả:
Em thao thức lời đêm khép lại
(Nợ)
Tắt mặt trời thắp đêm dày bóng đêm
(Chẳng còn tự nhiên)
Thêm một chiều để lại bớt một ngày
Nửa đêm
Còn nửa đêm của ngày tiếp cuối
Mặc ta thức mặc đêm trôi
…
74
(Bóng chiều)
3.2.3. Biểu tượng “mưa” – biểu tượng của sự cô đơn
Cũng như “đêm”, “mưa” là một hình ảnh thiên nhiên rất được các tác
giả nữ đương đại ưa chuộng, nhắc đến mưa người ta thường nhắc đến nước
mắt, đến nỗi buồn, đến sự chia phôi, sự cô đơn... Trong thơ Bùi Kim Anh
cũng luôn gắn liền vời tâm trạng buồn bã, cô đơn của tác giả. Nhà thơ có một
tập thơ có tên “Lối mưa” và nhiều bài có từ mưa (Mưa mùa hạ, Trời mưa, Lối
mưa, Chiều mưa…) và rất nhiều câu thơ chứa từ mưa.
Trong bài “Mưa mùa hạ”. Mưa vừa là một hình ảnh lãng mạn, những
đôi lứa yêu nhau:
Dễ dàng mưa mùa hạ
Là tình yêu của anh
Hình ảnh mưa xuất hiện trong thơ cũng chính là “mưa”trong tâm hồn
nhà thơ, mưa làm cho con người buồn hơn hay là người buồn mang “mưa”
đến cả cho thơ:
Có một chiều sũng cơn mưa
Mưa mang hơi biển xót xa
Mưa mang hình núi dập dồn
Mang hiện tại lót đáy ngôi mồ
Để một làn mưa lén chặt
Để một làn mưa chảy dóc vệt dài
(Chiều mưa)
Mưa đến khiến cho thơ miên man điệu buồn, hình ảnh người “không
biết còn gì” trong chiều mưa ấy, nhà thơ nhìn về quá khứ, nhìn vào hiện tại và
nhìn tới tương lai với một tâm trạng đầy bi quan, chán nản:
75
Lối về chiều lại mưa tuôn
Tôi thương hứng lấy giọt buồn cho tôi
Lối về chỉ có một thôi
Lênh láng thế nước biết trôi ngả vào
(Lối mưa)
Trong thơ Bùi Kim Anh, mưa xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc, ta bắt gặp
hình ảnh cơn mưa, mưa, mưa xối, mưa dội, mưa rào, mưa ngâu … trở đi trở
lại trong thơ bà để nói về nỗi lòng mình.
Chờ khi người nhớ đến ta
Thì hạt sương trắng đã nhòa vào mưa
(Bây giờ tìm ai)
Tình chẳng đẹp như câu thơ
Bởi trời mưa nắng thẫn thờ người ơi
(Tình chẳng đẹp như câu thơ)
Nỗi nhớ dầm trong mưa không ướt
Nỗi buồn đi qua mưa không ướt
Chỉ mái tóc ướt mưa rỏ ướt làn mi
(Mưa tối nay biết)
Ta khắc vào khoảng nhớ những ngày mưa
(Khoảng nhớ những ngày mưa)
Tối nào mưa cũng kín trời
Hỡi ôi gặp gỡ để rồi cách xa
(Mưa ngâu)
Chỉ một lần mưa ốm mãi mỗi lần mưa
(Ngoài kia mưa)
76
Giời mưa ngồi viết linh tinh
Đố ai vẽ được bức hình giời mưa
Nhớ ghi thêm một lời thưa
Rằng hạ giới khát cơn mưa mát lành
(Giời mưa ngồi viết linh tinh)
Ngoài các hình ảnh nói trên, đọc thơ Bùi Kim Anh người đọc còn gặp
khá nhiều các hình ảnh gây ấn tượng khác như: Mắt, trăng, gió, mùa thu, giấc
mơ... Nó góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình tượng trong thơ Bùi
Kim Anh.
3.3. Ngôn ngữ thơ – “hệ quy chiếu” của tâm hồn nhà thơ
Nhờ khả năng truyền tải cảm xúc mạnh mẽ nên kiểu câu kể, liệt kê đã
được nhiều nhà thơ Việt Nam, đặc biệt là các tác giả thơ đương đại lựa chọn.
Bùi Kim Anh cũng tìm đến thơ tự do sử dụng nhiều câu kể, liệt kê để giãi bày
tình cảm, thể hiện nhu cầu tự biểu hiện cái tôi cá nhân. Là tác giả có xu hướng
đi vào khai thác những vấn đề bình dị của cuộc sống đời thường. Vì thế, các
câu kể của bà khiến người đọc không chỉ cảm nhận đó là “kể” mà còn là lời
tâm sự chân thật, chân thật tới tận đáy lòng của tác giả. Các bài thơ: Ngày mới
yêu, Một lần khác mọi lần, Căn tù hẹp, Mỗi ngày, Em có gì, Tình yêu của
mình, Và một cuộc đời, Đêm… của bà hầu như đều viết theo lối kể này. Ta
hãy lắng nghe lời tâm tình của nhà thơ:
Gom làm chi nữa người
…
Gom tình tình đã nhạt phai
...
Gom vui lại chuốc nhọc nhằn
...
77
Gom làm chi nữa phận nghèo
(Gom vui lại chuốc nhọc nhằn)
May mà phố có con hồ
Ta ngồi ngắm được trăng phô sắc ngà
(Phố có con hồ)
Phố có con hồ, có hàng hoa, có lũ trẻ thả diều… được liệt kê tự nhiên
nhưng sau đó là tâm trạng vui vẻ với hình ảnh (rất hiếm có ở thơ Bùi Kim
Anh) “phố thả theo cả nắng chiều lên cao”.
Bùi Kim Anh đã sử dụng kiểu câu kể rất khéo léo, tinh tế với ngôn từ
chắt lọc, người đọc có thể hình dung ra hoàn cảnh của người cha, người mẹ
với những đứa trẻ còn non nớt chưa hiểu được chuyện:
… Căn phòng dọc ra làm đôi
Mỗi nửa có một ô cửa sổ
Đồ đạc giằng ra làm đôi
Nhưng đứa trẻ chỉ một thôi
(Làm đôi)
Ngoài ra còn một số bài thơ khác của Bùi Kim Anh cũng sử dụng
kiểu câu kể, liệt kê rất tự nhiên "Hơi thở đêm", "Ca dao đau đáu riêng con",
"Bên kia là đền", "Buồn xa", …
Nếu như hội họa tạo nên hình tượng từ màu sắc, đường nét, điêu khắc
tạo nên hình tượng từ hình khối, âm nhạc tạo nên hình tượng từ giai điệu thì
văn học lại tạo nên hình tượng từ chất liệu ngôn từ nghệ thuật, thứ chất liệu
giúp văn học vẽ nên tranh, tạc thành tượng và tạo ra nhạc. Macxim Gorki đã
nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Tuy nhiên tùy vào đặc trưng
thể loại, ngôn ngữ trong mỗi loại thể văn học có những đặc điểm riêng. Là
nghệ thuật “lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson), ngôn ngữ giữ một vị trí
78
đặc biệt quan trọng trong thơ nói chung. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có
các loại hình ngôn ngữ như: ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại, ngôn
ngữ biểu cảm...Khi nghiên cứu về thơ Bùi Kim Anh, chúng ta dễ dàng nhận
thấy đặc điểm nổi bật trong việc sử dụng ngôn ngữ là ngôn ngữ đối thoại, gần
gũi với đời sống.
Trong thơ Bùi Kim Anh, chất đối thoại thể hiện rõ qua các bài thơ:
Tìm trong phố cũ, Em và Viêng Chăn, Đi tìm, Nghe đêm. Đó là cặp nhân vật
anh - em, chị - em, mẹ - con, ta -người… với những hình thức đa dạng hỏi -
đáp, kể - nghe. Bùi Kim Anh thường lựa chọn thứ ngôn ngữ chân mộc, gần
gũi với cuộc sống. Trong bài “Tìm trong phố cũ”, ta bắt gặp cuộc đối thoại
giữa anh và em dưới dạng câu cầu khiến rất cụ thể nêu lên điều em muốn
đừng “trách nhau” nữa anh hãy “về Hà Nội” với em đi:
Lại về Hà Nội nhé anh
Phố xưa em vẫn để dành lối đi
Trách nhau lần nữa làm chi
Hoa tầm xuân có còn gì nữa đâu
(Tìm trong phố cũ)
Trong bài thơ “Em và Viêng Chăn”, tác giả Bùi Kim Anh viết:
Có phải ta đã đến muộn không
lặng lẽ Mê Kông lặng lẽ xuôi chen chúc xanh đôi bờ rợp bóng
ta cứ nghĩ rằng sóng cuồn cuộn cứ nghĩ gió Lào rát sạn làn môi
em và Viêng Chăn và Luang Prabang cho ta trở lại thời son
trẻ…
em buộc chỉ may mắn
ta giữ đủ ba ngày…
79
ta giữ đủ một tuần
có phải ta đã đến muộn không?
(Em và Viêng Chăn)
Bùi Kim Anh cũng sử dụng ngôn ngữ đời sống để diễn tả cuộc đối
thoại giữa hai nhân vật “ta” và “em”. Còn ở bài thơ “Đi tìm” thì hai nhân vật
đối thoại lại là “anh” và “em”. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, ta thấy
hình ảnh em hiện lên cụ thể, chân thực với “nỗi niềm riêng chung” với tình
yêu chung thủy của người con gái:
Anh là gì mà em không xa nổi
Anh là gì mà khiến em vui buồn
Anh là gì giữa bình thường thiêng liêng
Anh là gì giữa nỗi niềm riêng chung…?
Còn trong bài “Nghe đêm” thì hai nhân vật đối thoại lại là “ta” và
“đêm”:
Đêm ơi sao lạ vậy
Chẳng cho ta giấc ngủ bình thường…
Hay đêm sợ một mình
Bắt ta thức nghe đêm than thở
Xây dựng ngôn ngữ đối thoại, Bùi Kim Anh còn đưa vào thơ rất các
từ láy, lặp lại từ, lặp cấu trúc ngữ pháp. Vì vậy, đọc thơ của Bùi Kim Anh, ta
luôn có cảm giác gần gũi, thân quen: Người đừng có ước già đi/ Để ta ước lại
cái thì còn xuân/ Người đừng nói câu nửa chừng/ Để ta tỏ nỗi ngập ngừng
với ai (Nửa đêm).
Qua hình thức đối thoại, Bùi Kim Anh muốn giãi bày tâm trạng của
một cái tôi mang trong mình bao sự trăn trở bao nghĩ suy về cuộc sống, về
80
tình yêu, hạnh phúc của con người. Tác giả thường hướng tới một đối tượng
cụ thể bên ngoài nào đó để bộc lộ những điều thầm kín trong cõi lòng, nhưng
nhiều khi ta bắt gặp Bùi Kim Anh đối thoại với cả đối tượng vô hình và cả đối
thoại với chính mình. Khi đó, đối thoại không phải là để mong muốn sẻ chia
mà đơn thuần chỉ là để bộc bạch để làm vơi đi nỗi cô đơn, sự trăn trở trong
lòng - độc thoại:
Ta làm thơ để tặng mình
(Bán không cho gió)
Ta làm con kiến giữa dòng
Bám vào cọng cỏ long đong một mình
(Long đong một mình)
Tóm lại, những chất liệu ngôn ngữ trong thơ Bùi Kim Anh thường được
lấy từ vốn ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nó mang lại màu sắc
biểu đạt tự nhiên, khiến cho những vần thơ của bà trở nên gần gũi hơn, dễ
giao cảm hơn với người đọc. Bên cạnh đó, trong thơ Bùi Kim Anh cũng có
một số lượng đáng kể những từ ngữ mang màu sắc phong cách ngôn ngữ gọt
giũa sắc sảo, tinh tế, làm cho thơ bà thể hiện rõ tính trí tuệ sâu sắc. Bùi Kim
Anh đã sử dụng một cách hợp lý và sáng tạo các chất liệu ngôn ngữ các hình
thức biểu đạt góp phần làm rõ cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ.
Giọng điệu là yếu tố quan trọng thuộc tổ chức nghệ thuật của tác phẩm,
3.4. Giọng điệu thơ- những giai điệu của tâm hồn
một trong những nhân tố cần thiết tạo tính hấp dẫn cho tác phẩm và góp phần
hình thành phong cách nhà văn. Nghiên cứu văn chương nói chung, thơ nói
riêng cần đặt giọng điệu lên vị trí quan tâm hàng đầu. Theo “Từ điển thuật
ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì giọng điệu
là “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện
81
tượng được miêu tả, được thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi
tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [22, tr.134]. Như vậy có nghĩa trong một
tác phẩm có thể bao gồm nhiều giọng điệu khác nhau tùy vào tư tưởng tình
cảm của tác giả trong từng tình huống cụ thể.
Với một tâm hồn nữ tính nhạy cảm và dịu dàng, nên một cách tự
nhiên, các nhà thơ nữ thường làm thơ với giọng điệu nhẹ nhàng thủ thỉ và tha
thiết tâm tình. Nhưng với Bùi Kim Anh phần lớn lấy chính cuộc đời mình ra
làm thơ. Viết thơ như một sự giải tỏa với tất cả yêu ghét, vui buồn, lo lắng,
trăn trở, suy tư. Đứng trước cuộc sống Chị mang cho mình một lăng kính
riêng, một thái độ riêng. Chị đã tạo cho mình một giọng thơ vừa khắc khoải,
lo âu, vừa xót xa, oán trách nhưng tế nhị sâu sắc và cũng đầy mạnh mẽ,
quyết liệt.
Không còn là giọng nồng nàn tình cảm. Trong thơ Bùi Kim Anh, đối
mặt với hiện thực cuộc sống là một cái tôi quyết liệt và mạnh mẽ, dám nhìn
trực diện vào những thay đổi tiêu cực của đời sống. Đọc thơ Bùi Kim Anh
người đọc bắt gặp một giọng thơ trầm lắng, nhiều day dứt, khắc khoải, lo âu
nhưng đầy mạnh mẽ. Rơi và cảnh huống đau đớn bất ngờ, Bùi Kim Anh luôn
luôn có một tâm trạng xót xa, cô đơn, cay đắng. Vì vậy, thơ Bùi Kim Anh sử
dụng nhiều từ ngữ như: cô đơn, bất hạnh, đớn đau, ưu phiền, bão giông và
những hình ảnh chất chứa tâm trạng: chiều, đêm, mưa, hoa dại, cỏ dại… xuất
hiện với tần số cao, tất cả gợi nên một thế giới nội tâm riêng của tác giả trong
thơ Bùi Kim Anh.
Ở tập thơ đầu tiên Viết cho mình, đến tập tiếp theo Cỏ dại khờ, Bùi Kim
Anh đã bày tỏ một tình kín đáo và đầy tính truyền thống. Nhưng các tập thơ
sau thì vẫn tình yêu chân thật và kín đáo ấy còn kèm theo sự lo âu, khắc
khoải, sự day dứt, đớn đau… có lúc đến tột cùng:
Năm trở mình đau nhức khắp căn nhà
82
Không có anh không ai mở cửa đón hoa xuân nở
Ta không thể sống bằng hoài niệm năm xưa cũ
Bao quanh anh
Bao quanh em
Chật những bức tường
(Đêm cuối năm)
Vậy mà trước đó:
Dễ dàng mưa mùa hạ
Là tình yêu của anh
Nơi mà anh trú lại
Là tình yêu của em
Và sự trụi trần trong màn đêm mà ta được dành cho ta, đã đưa một Bùi
(Mưa mùa hạ)
Kim Anh- vô cùng đàn bà, người đàn bà của gia đình, thầm lặng đón nhận và
chấp nhận tất cả những đòn số phận, không oán than, trách móc, không nổi
loạn bực bội phá phách, cũng không tiêu cực đau buồn. Hãy cùng đọc những
dòng thơ Bùi Kim Anh viết cho con gái:
con tha thứ hay giận hờn cũng vậy
người đàn bà làm thơ lại san lấp vào thơ
người đàn bà làm thơ khôn khéo cũng dại khờ
chỉ biết chọn đê ngã dòng lau giọt ướt”
(Con tha thứ hay giận hờn cũng vậy)
Lời thơ của Bùi Kim Anh khi thì nhẹ nhàng, thủ thỉ, khi lại mạnh mẽ,
kiên quyết. Nỗi lo lắng trở đi, trở lại trong thơ Bùi Kim Anh:
Có lúc tưởng mất nhau phần còn lại
83
Có ý nghĩ đã bao lần tê tái
Anh là gì mà im lặng
Em suốt một đời đi tìm
(Đi tìm)
Đến tập thơ thứu 10 “Hình như mùa đã lỡ,” thơ Bùi Kim Anh không
còn những mê đắm, khát khao hay những dằn vặt, tự vấn giữa chông chênh
bão tố đời người như ở các tập thơ trước. Thay vào đó là những tâm sự nhẹ
nhàng mà lắng sâu của một người đàn bà lớn tuổi, đã “ngụp lặn” đủ những
ngọt-bùi-đắng-cay của kiếp đời.
“Già rồi nghẹn miếng cơm ăn
nghẹn thời gian niềm đau năm tháng
giá như trao được
còn được gì trao lại cho con
đã thừa thãi rồi sự đời mất còn
đã hao hụt rồi bình minh mỗi sớm
và đêm vò võ cơn mê…”
(Chiều cuối năm mẹ đợi).
Những tâm sự đong đầy, những ưu tư trĩu nặng trước sự chuyển động
của thời gian ẩn sâu trong những câu thơ khi mới đọc thì tưởng như nhẹ tênh
và có phần dàn trải:
“Ta ngồi đếm buổi tháng 10
thấy ngày trống, thấy lá rơi lối về
thấy chiều trên một dải đê
con đò gày đến tái tê đợi chờ
84
thấy mình là kẻ ngẩn ngơ
cứ trông ngóng một vu vơ đến già”
(trích “Ta ngồi đếm buổi tháng 10”).
Lo âu, khắc khoải thường trực trong thơ Bùi Kim Anh. Nó tạo nên
một giọng điệu phong phú: khi trăn trở, thở than, khi ngơ ngác, thảng thốt, khi
bình tĩnh, tự tin… Đó là những sắc điệu trong giọng thơ, hồn thơ Bùi Kim
Anh – một giọng thơ đầy nữ tính nhưng cũng đầy sức mạnh.
Trước tất cả những đòn đau của số phận, sự khắc nghiệt trên đường
đời, nhà thơ đón nhận và vượt qua tất cả bằng sự bền bỉ sống và viết; không
than khóc, trách móc hay phản ứng lại bằng sự nổi loạn, phá phách. Bởi thơ
Bùi Kim Anh là thơ của một tấm lòng giàu yêu thương và chứa chất bao cảm
xúc của tấm lòng đầy trắc ẩn với con người. Những bài thơ, câu thơ viết về
người lao động ở cái chợ người “Trên đường Giảng Võ” viết về những em bé
đánh giày, những người ăn xin… gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Là chợ mà chỉ có người
Phơi phong từng đám giữa trời bơ vơ…
Chợ người chẳng bán người đâu
Dãi dầu bán cái dãi dầu mà thôi
(Trên đường Giảng Võ)
Những đoạn thơ, câu thơ như thế xuất hiện khá nhiều trong thơ Bùi
Kim Anh nhất là ở những tập thơ sau của bà. Một tâm trạng cô đơn, đau đớn
được viết ra với một giọng thơ xót xa, oán trách là một lẽ tất nhiên. Có điều,
đây đó vẫn có những bài thơ, những câu thơ (thường xuất hiện ở cuối bài)
người đọc vẫn thấy được bên cạnh sự tế nhị, sâu sắc lấp lánh niềm tin từ sự
gắng gỏi vượt lên số phận của mình.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Để thể hiện cảm thức về thân phận và tình yêu, tác giả Bùi Kim Anh đã
85
sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật. Bùi Kim Anh không chỉ sử dụng đắc địa
thể thơ lục bát mà bà còn có sáng tạo của riêng mình. Bên cạnh thể thơ lục bát
truyền thống, Bùi Kim Anh còn là người sử dụng thành thạo, linh hoạt, đầy
hiệu quả thể thơ tự do. Hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu thơ cũng là những đặc
điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Bùi Kim Anh. Có thể thấy, Bùi Kim Anh đã
có những tìm tòi độc đáo trong việc tìm kiếm, chọn lọc những hình ảnh, từ
ngữ vừa mang đậm tính chân thực lại vừa sinh động có hiệu quả thẩm mĩ cao
gây rung động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
86
PHẦN KẾT LUẬN
Bùi Kim Anh là người có một giác quan nhạy bén, một trái tim nhạy
cảm để cảm nhận, sao chụp lại những dấu ấn của hiện thực tác động vào chính
mình đem lại sự nhận thức, cảm nghiệm mới mẻ mang đậm dấu ấn cá nhân về
thân phận và tình yêu. Để hình thành nên những cảm thức ấy yếu tố quan
trọng nhất cần phải nhắc tới đó là yếu tố tác động ngoại cảnh, cảm thức chỉ
hình thành khi con người trực tiếp trải nghiệm. Điều này chứng tỏ rằng,
những cảm thức về thân phận, về tình yêu, Bùi Kim Anh gửi gắm trong thơ
gắn liền với một Bùi Kim Anh chông chênh trong cơn bão táp của cuộc đời.
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện trực tiếp những cảm xúc và suy tư chủ
quan của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống. Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi
Kim Anh được thể hiện trước hết ở tình cảm của một người phụ nữ trí thức
đầy nỗi niềm tâm trạng. Người phụ nữ trong thơ Bùi Kim Anh có những phát
hiện, cảm thức mới mẻ và đầy ý nghĩa về thân phận và tình yêu.
Trước hết, sáng tác của Bùi Kim Anh là những vần thơ tình yêu say
đắm, nồng nàn, kín đáo, đầy nữ tính của một cô giáo yêu người, yêu thơ. Sáng
tác của Bùi Kim Anh còn là những vần thơ giàu đức hi sinh, tấm lòng đôn hậu
của người phụ nữ Á Đông hiện đại, yêu chồng, thương con hết mực, sẵn sàng
hi sinh, dâng hiến để xây dựng và bảo vệ hạnh phúc. Bên cạnh người phụ nữ
của gia đình, Bùi Kim Anh còn là một cô giáo mẫu mực yêu nghề, mến trẻ.
Không chỉ bộc lộ tình cảm nỗi niềm riêng tư và tâm trạng ưu phiền của người
phụ nữ, thơ Bùi Kim Anh còn mang giá trị nhân văn sâu sắc bởi một cái tôi
nhân hậu, biết sẻ chia và xót xa đau đớn trước những cuộc đời, số phận của
những con người, kiếp người bất hạnh. Thơ Bùi Kim Anh là những khao khát
cháy bỏng về cuộc sống hạnh phúc, khát vọng yêu và được yêu một cách chân
thành, tha thiết, khát vọng về hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Người phụ nữ
trong thơ Bùi Kim Anh đầy bản lĩnh, mạnh mẽ đối mặt với buồn đau, bất
hạnh để bảo vệ hạnh phúc.
87
Để thể hiện cảm thức về thân phận và tình yêu, tác giả Bùi Kim Anh đã
sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau và đã có những thành công nhất
định để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Bùi Kim Anh không chỉ
sử dụng đắc địa thể thơ lục bát mà bà còn có sáng tạo của riêng mình. Bên
cạnh thể thơ lục bát truyền thống, Bùi Kim Anh còn là người sử dụng thành
thạo, linh hoạt, đầy hiệu quả thể thơ tự do. Thơ tự do rất phù hợp với tâm
trạng, những cảm xúc phức tạp trào dâng và cuộn chảy của các nhà thơ thời
kỳ hiện đại. Hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu thơ cũng là những đặc điểm nổi
bật trong nghệ thuật thơ Bùi Kim Anh. Có thể thấy, Bùi Kim Anh đã có
những tìm tòi độc đáo trong việc tìm kiếm, chọn lọc những hình ảnh, từ ngữ
vừa mang đậm tính chân thực lại vừa sinh động có hiệu quả thẩm mĩ cao gây
rung động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
Qua tìm hiểu cảm thức về thân phận và tình yêu trong thơ Bùi Kim Anh,
chúng ta thấy thơ Bùi Kim anh đã khẳng định được sự có mặt của mình trên thi
đàn văn học dân tộc. Nó làm bản sắc, sự phong phú cho thơ nữ Việt Nam thời kì
hiện đại. Đó chính là đóng góp hết sức đáng trân trọng của nhà thơ Bùi Kim
Anh.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam
từ 1945 đến nay, Luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội.
3. Bùi Kim Anh (1995), Viết cho mình, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Bùi Kim Anh (1996), Cỏ dại khờ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Bùi Kim Anh (1999), Lối mưa, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Bùi Kim Anh (2005), Bán không cho gió, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Bùi Kim Anh (2007), Lời buồn trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội
8. Bùi Kim Anh (2008), Lục bát cuối chiều, Nxb Văn học, Hà Nội
9. Bùi Kim Anh (2010), Bắc lên ngọn gió mà cân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
10. Bùi Kim Anh (2012), Đi tìm giấc mơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Bùi Kim Anh (2015), Nhặt lời cho bóng lá, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
12. Bùi Kim Anh (2017), Hình như mùa đã lỡ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
13. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
14. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 – 2000, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội
15. Phạm Thanh Cải (2012), đọc bài thơ “Bia vẫn trắng”,
http://phamthanhcai@gmail.com, trích dẫn ngày 07/01/2012.
16. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb văn học, Hà Nội.
17. Phạm Tấn Xuân Cao (2014), “Cảm thức tha ngã luận” [kì 1],
www.vanchuongviet.org, trích ngày 3/2/2014.
89
18. Nguyễn Việt Chiến (2008), Thơ Việt Nam 30 năm cách tân, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
19. Nguyễn Sỹ Đại (2012), “Trân trọng cái tôi hiện tại”,
http://lethieunhon.bogspot.com, trích dẫn 19/12/2012.
20. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,
Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội
23. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
24. Báo an ninh thủ đô (2013), “Nhà thơ Bùi Kim Anh: Buồn vui xếp cũng đã
đầy”, http://anninhthudo.vn, trích dẫn ngày 19/3/2013.
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ ca Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
27. Bùi Công Hùng (1990), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nhân dân chủ nhật
(số 10), Hà Nội, tr 141.
28. Nguyễn Thanh Huyền (2012), Những biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện
đại trong văn học đương đại, Luận văn Thạc sỹ, ĐH Quốc gia Hà Nội.
29. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên,
2003) Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
30. Nguyễn Giáng Hương, Văn học của phái nữ và một vài xu hướng văn
chương nữ quyền Pháp thế kỉ XX, http://phongdiep.net
31. Trần Hoàng Thiên Kim, Thơ nữ trẻ đương đại quan niệm thể nghiệm và
90
xu hướng (Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 745, tháng 3/2012)
32. Trần Hoàng Thiên Kim, “Nỗi cô đơn trong thơ nữ trẻ đương đại”,
http:tuoitre.com.vn, trích dẫn ngày 3/5/2008
33. Trần Hoàng Thiên Kim (2015), “Thơ nữ trẻ đương đại và hành trình tìm
kiếm cái tôi mới”, http://vannghequandoi.com.vn, trích dẫn ngày 5/2/2015
34. Trần Hoàng Thiên Kim (2015), “Thơ nữ Việt Nam đương đại: Những giá
trị vĩnh cửu”, http://vanhien.vn, trích dẫn ngày 19/02/2015.
35. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Bùi Thị Hương Lam (2011), “Về bài thơ khoảng cách”,
https://minhtrunglapvo1.violet.vn, trích dẫn ngày 23 tháng 3 năm 2011.
37. “Nhà thơ Vi Thùy Linh trả lời bạn đọc” (2002),
https;//giaitri.vnexpress.net, trích dẫn ngày 19/4/2002.
38. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
39. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc của thơ, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
40. Phong Lê (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
41. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại những chân dung tiêu biểu,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Loan (2012), Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên.
43. Vũ Bình Lục (2016), “Nhà thơ Bùi Kim Anh”, http://vanhien.vn, trích dẫn
14/1/2016.
44. Nguyễn Văn Long (2009), Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam
91
từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc
Hòa, Thành Thế Thái Bình (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
46. Phương Lựu, Nguyễn Nghĩa Trọng, La Khắc Hòa, Lê Lưu Oanh (2009),
Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Lịch sử văn học Việt Nam – tập 1, Nxb Đại
học sư phạm Hà Nội.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách, Nxb văn học.
50. Lê Hoài Nam (2012), “Nhà thơ Bùi Kim Anh: Lãng đãng sương mai với
nỗi niềm”, http://vnca.cand.com.vn, trích dẫn ngày 31/12/2012.
51. Vũ Nho (2009), 33 gương mặt thơ nữ tiêu biểu Việt Nam, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
52. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam, hình thức và
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
53. Phan Thị Thanh Nhàn (2010), “Bùi Kim Anh dịu dàng và cam chịu”,
http://buikimanh.vn, trích dẫn 15/2/2010.
54. Phạm Xuân Nguyên (2008), Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Kim Anh, Thể
thao Văn hóa cuối tuần.
55. Song Nguyễn (2007) “Bùi kim anh- tự chưng cất lời buồn trên đá”,
http://toquoc.vn, trích dẫn ngày 28/6/2007.
56. Lê Thiếu Nhơn (2008), “Bùi Kim Anh chòng chành thi phú giữa tai
ương”, http://giaitri.vnExpress.net, trích dẫn 17/4/2008.
92
57. Lê Thiếu Nhơn (2017), “Bùi Kim Anh hình như mùa đã lỡ”, lethieunhon.
Blogspot.com, trích 13/3/2017.
58. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội
59. Hoàng Phê (chủ biên), (1997), “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng.
60. Nguyễn Bá Phiếu (2010), “Đọc bài thơ Bia vẫn trắng”,
nbphieu@gmail.com, trích dẫn ngày 17 tháng 3 năm 2010.
61. Chân Phương (2010), “Đọc thơ Bùi Kim Anh” văn học và nghệ thuật, trích
dẫn ngày 1/11/2010
62. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
63. Trần Đình Sử, (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
64. Trần Đình Sử (2000), Lý luận phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
65. Chu Văn Sơn (2007), Thơ, điệu hồn và cấu trúc, Nxb Giáo dục.
66. Lê Minh Quốc (2013), “Thơ Bùi Kim Anh”, http://leminhquoc.vn
67. Chu Thị Linh Quang (2012), “Bùi Kim Anh gương mặt thơ buồn”,
https://buikimanhpoem.wordpress.com, trích dẫn ngày 06/02/2012.
68. Hồng Thanh Quang (2017), “Nhà thơ Bùi Kim Anh: Bán buồn để làm quà
cho vui”, http://daidoanket.vn, 29/6/2017
69. Mai Thanh (2015), Đọc tập thơ “Nhặt lời cho bóng lá”,
https://datdung.com.vn, trích dẫn ngày 16/03/2015
70. Trần Thị Thắng (2012), “Bùi Kim Anh, hai cuộc đời trong năm tập thơ”,
http://buikimanh.vn, trích dẫn 14/03/2012
71. Bình Nguyên Trang (2014), “Bùi Kim Anh yêu cho trọn kiếp người”,
http://antgct.cand.com.vn, trích dẫn 3/9/2014.
93
72. Nguyễn Kim Thản (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa, Sài Gòn
73. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam đương
đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Vũ Duy Thông (2011), “Nhà thơ Bùi Kim Anh: Những câu thơ u uẩn với
riêng mình”, trên báo An ninh Thế giới giữa tháng số 38, trích dẫn ngày
14/03/2011.
75. Vũ Anh Thư (2017), “Người đàn bà thỏa hiệp với nỗi buồn”, vov5, trích
dẫn 28/5/2017.
76. Lâm Xuân Vi (2011), “Cảm nhận bài thơ Trên đường Giảng Võ”,
http://lamxuanvi.vn, trích dẫn ngày 04/12/2011.
77. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.