i
Bé Gi¸o Dôc vµ ®µo t¹o
Bé N«ng nghiÖp vµ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ====== ======
NGUYỄN THỊ NHƯ HOA
CẢNH QUAN KHU DI TÍCH CÔN SƠN VÀ BIỆN
PHÁP DUY TRÌ TÍNH ỔN ĐỊNH CẢNH QUAN ĐỂ
PHỤC VỤ LỄ HỘI, DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2012
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu thực
sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức kinh điển,
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của Giáo
sư.Tiến sĩ Ngô Quang Đê.
Các số liệu và những kết quả trong luận văn là trung thực, các giải pháp kĩ
thuật lâm sinh, cảnh quan, quản lí, tổ chức đưa ra xuất phát từ thực tiễn, dựa trên
kiến thức học được từ trường lớp và chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào
trước khi trình, bảo vệ và công nhận bởi “ Hội Đồng đánh giá luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ Lâm học ”.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Tác giả luận văn
iii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại trường Đại học lâm nghiệp theo chương
trình đào tạo cao học Lâm nghiệp hệ chính quy, khóa học 2009 - 2011.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn thạc sỹ này, tôi đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học và các thầy,
cô giáo Trường Đại học lâm nghiệp, các bạn bè và địa phương nơi tôi thực hiện
nghiên cứu. Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ có hiệu quả đó.
Trước tiên, tôi xin đặc biệt cảm ơn GS.TS Ngô Quang Đê là người hướng
dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn Khoa Sau đại học Trường Đại học Lâm nghiệp đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2012
Tác giả luận văn
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... vii
DANH MỤC CÁC HÌNH ..................................................................................... viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 2
1.1. Nghiên cứu về rừng nhiệt đới và cảnh quan rừng Việt Nam ..................... 2
1.2. Giá trị nhân văn của cảnh quan khu di tích Côn Sơn ................................ 3
Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ........................................................................................................... 8
2.1. Mu ̣c tiêu nghiên cứ u ...................................................................................... 8 2.2. Đố i tươ ̣ng nghiên cứ u .................................................................................... 8
2.3. Pha ̣m vi nghiên cứ u ........................................................................................ 8
2.4. Nô ̣i dung nghiên cứ u ...................................................................................... 8
2.5. Phương phá p nghiên cứ u .............................................................................. 8 2.5.1. Quan điểm phương phá p luận .................................................................. 8 2.5.2. Ngoại nghiê ̣p .......................................................................................... 10
2.5.3. Nội nghiê ̣p............................................................................................... 12
2.6. Đề xuấ t cá c giả i phá p nhằm phá t triển bền vững khu hê ̣ thực vâ ̣t và cả nh quan di tích li ̣ch sử côn sơn ....................................................................... 12 2.6.1. Giải phá p về kĩ thuật .............................................................................. 12
v
2.6.2. Giả i phá p về quy hoạch cả nh quan ........................................................ 12 2.6.3. Giả i phá p vể tổ chứ c, quả n lý ................................................................. 12
2.6.4. Giải pháp về tăng cường đầu tư tài chính và khoa học kĩ thuật ............ 12
Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI - VĂN HÓA CỦA
KHU VỰC NGHIÊN CỨU .................................................................................... 13
3.1. Điều kiê ̣n tự nhiên ........................................................................................ 13
3.1.1.Vi ̣ trí đi ̣a lí................................................................................................ 13 3.1.2. Đi ̣a hình .................................................................................................. 13 3.1.3. Khí hậu ................................................................................................... 14 3.1.4. Thủy văn ................................................................................................. 14
3.1.5. Điều kiê ̣n đất đai .................................................................................... 14
3.2. Điều kiê ̣n xã hô ̣i ............................................................................................ 16 3.2.1. Cơ cấu tổ chức ........................................................................................ 16
3.2.2. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội........................................................ 16
Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................... 18
4.1. Thực vật trong khu vực nghiên cứu ........................................................... 18
4.1.1. Chùa Côn Sơn (Chùa Hun) .................................................................... 18
4.1.2. Giếng Ngọc ............................................................................................. 20
4.1.3. Am Bạch Vân (Bàn cờ tiên) .................................................................... 21
4.1.4. Thạch Bàn (Suối Côn Sơn) ..................................................................... 23
4.1.5. Đền thờ Nguyễn Trãi .............................................................................. 25
4.1.6. Đền Thanh Hư ........................................................................................ 26
4.1.7. Hồ Côn Sơn ............................................................................................ 27
4.2. Hiện trạng môi trường sinh thái ................................................................. 28
4.2.1. Môi trường đất ........................................................................................ 28
4.2.2. Nguồn nước ............................................................................................ 29
4.2.3. Môi trường không khí ............................................................................. 29
4.2.4. Hệ sinh thái ............................................................................................. 29
vi
4.3. Môi trường văn hoá, du lịch ........................................................................ 29
4.4. Những tá c đô ̣ng ả nh hưở ng đến cả nh quan khu di tích ........................... 30 4.5. Kết quả điều tra thực vật trong OTC ........................................................ 30
4.5.1.Tổ thành tầng cây cao ............................................................................. 30
4.5.2. Sinh trưởng tầng cây cao ........................................................................ 34
4.5.3. Kết quả điều tra tái sinh ......................................................................... 35
4.6. Danh mục các cây cổ thụ và cây di tích ..................................................... 38
4.6.1. Danh lục cây cổ thụ ................................................................................ 39
4.6.2. Danh lục cây di tích ................................................................................ 41
4.7. Cảnh quan khu vực nghiên cứu .................................................................. 41
4.7.1. Sơ đồ hiện trạng cảnh quan khu di tích côn sơn .................................... 41
4.7.2. Đánh giá tính đa dạng sinh học trong khu di tích .................................. 43
4.7.3. Đánh giá tính hợp lý của cảnh quan trong khu di tích Côn Sơn ............ 45
4.7.4. Tình trạng xuống cấp và nguyên nhân xuống cấp của cây xanh trong
khu di tích lịch sử Côn Sơn ............................................................................... 47
4.7.5. Đề xuất cải thiện cảnh quan và biện pháp duy trì tính ổn định cảnh quan
phục vụ lễ hội du lịch một cách bền vững ........................................................ 52
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................
PHỤ LỤC .....................................................................................................................
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu Viết đầy đủ
Ba Bách tán
Ca Cau ta
Đ Đa
Đa Đại
Đe Đề
Ga Gạo xanh
Ke Keo
Lo Long não
Mi Mít
Ngo Ngọc lan
Nha Nhãn
Sa Sanh
Th Thông mã vĩ
Va Vải
Xa Xà cừ
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
TT
Trang
Tổ thành tầng cây cao theo vị trí địa hình nghiên cứu 31
4.1
Tổ thành cây cao theo hướng địa hình nghiên cứu 32
4.2
Tổng hợp tổ thành tầng cây cao ở khu vực nghiên cứu 33
4.3
Tổng hợp các chỉ tiêu sinh trưởng tầng cây cao 34
4.4
Tổ thành cây tái sinh khu vực nghiên cứu 36
4.5
Mật độ và chất lượng cây tái sinh 37
4.6
Phân cấp chiều cao và cây tái sinh có triển vọng 38
4.7
40
4.8 Danh mục các cây cổ thụ
41
4.9 Danh mục các cây di tích
ix
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình
TT
Trang
Chùa Côn Sơn 18
4.1
Sân chùa Hun 18
4.2
Cây Đại cổ thụ hơn 600 tuổi tại chùa Error!
4.3
Bookmark
not
defined.
21
4.4 Giếng Ngọc
Bàn cờ tiên (Am Bạch Vân) 23
4.5
Thạch bàn 24
4.6
Cảnh quan khu đền thờ Nguyễn Trãi 26
4.7
26
4.8 Đền thờ Trần Nguyên Đán
Hồ Côn Sơn Error!
4.9
Bookmark
not
defined.
28
4.10 Miếu Ngũ Nhạc
Error!
4.11 Cây đại cổ thụ
Bookmark
not
defined.
18
4.12 Cây Thông cổ thụ
42
4.13 Sơ đồ khu di tích Côn Sơn
48
4.14 Thân cây Đại bị mối ăn
48
4.15 Cây Đại bị rêu và địa y kí sinh
x
48
4.16 Cây Thông cổ thụ bị mục gốc
1
MỞ ĐẦU
Côn Sơn – Kiếp Ba ̣c là hai di tích li ̣ch sử nổ i tiếng củ a huyê ̣n Chí Linh tỉnh Hải dương. Khu di tích danh thắng Côn Sơn thuô ̣c xã Cô ̣ng Hò a huyê ̣n Chí Linh tỉnh Hải Dương, nằ m giữa hai dãy nú i Phươ ̣ng Hoàng - Kỳ Lân, cách Hà Nô ̣i khoảng 70km về phía Đông – Bắc.
Khu di tích danh thắng này gồ m có nú i non, chù a tháp, rừ ng thông, khe suố i và các di tích nổ i tiếng gắn liền vớ i cuô ̣c đờ i củ a nhiều danh nhân trong li ̣ch sử như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biê ̣t là anh hù ng dân tô ̣c, danh nhân văn
hó a thế giớ i Nguyễn Trãi.
Toàn bô ̣ khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn có diê ̣n tích 1653.8 ha, đươ ̣c chia làm hai vù ng: vù ng bảo tồ n đă ̣c biê ̣t và vù ng khai thác đă ̣c biê ̣t. Ngoài ra cò n có vù ng đê ̣m vớ i diê ̣n tích là 4772 ha, bao quanh cả hai khu vực Côn Sơn và Kiếp Ba ̣c.
Tuy nhiên, hiê ̣n nay cảnh quan hê ̣ sinh thái đang bi ̣ tác đô ̣ng ma ̣nh mẽ do sự phát triển củ a kinh tế, xã hô ̣i, văn hó a, tín ngưỡng. Diê ̣n tích rừ ng bi ̣ thu hẹp la ̣i do bi ̣ chă ̣t phá bừa bãi nhằ m phu ̣c vu ̣ nhu cầu lơ ̣i ích củ a con ngườ i, cảnh quan xung quanh khu di tích bi ̣ xuố ng cấp và không đươ ̣c quy hoa ̣ch đồ ng bô ̣, hơ ̣p lí. Khu cảnh quan di tích Côn Sơn là mô ̣t di sản văn hó a số ng, quá trình sử du ̣ng chú ng cù ng vớ i tính tất yếu sẽ là quá trình đào thải tự nhiên đã làm cho nó thay đổ i và xuố ng cấp theo thờ i gian. Xuất phát từ thực tế trên và những yêu cầu cấp bách bảo vê ̣ và tôn ta ̣o cảnh quan khu di tích Côn Sơn, tôi tiến hành nghiên cứ u cảnh quan khu di tích Côn Sơn và các mố i quan hê ̣ xung quanh khu di tích nhằ m đảm bảo tính phù hơ ̣p về mă ̣t kiến trú c xây dựng cũng như cảnh quan sinh thái cho khu di tích, từ đó có những biê ̣n pháp bảo vê ̣, duy trì tính ổ n đi ̣nh bền vững cho khu vực. Vớ i đề tài: “Cả nh quan khu di tích Côn Sơn và biê ̣n phá p duy trì tính ổn đi ̣nh cả nh quan để phục vụ lễ hội, du li ̣ch.” sẽ giải quyết các yêu cầu trên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về rừng nhiệt đới và cảnh quan rừng Việt Nam
Rừng Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm cơ bản của rừng nhiệt đới. Những
nghiên cứu về các hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam đã được một số tác giả
trong và ngoài nước tiến hành từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay nhưng còn rất tản
mạn, bởi nhiều nguyên nhân, trong đó chiến tranh là nguyên nhân chính.
Người đầu tiên nghiên cứu về hệ sinh thái rừng Bắc Bộ là A.Chevalier (1918). Vào
năm 1943 P.Maurand đã nghiên cứu “các kiểu quần thể” trong ba vùng Bắc Đông
Dương, Nam Đông Dương và vùng trung gian. Năm 1956, Dương Hàm Hi có công bố
về “Tài nguyên rừng rú Việt Nam”. Ngoài ra còn một số công trình khác như: Loeschau
(1960), Trần Ngũ Phương (1970.2000)… đã nghiên cứu về rừng Bắc Việt Nam.
Rừng là bộ phận quan trọng nhất của sinh quyển trên hành tinh chúng ta. Tài
nguyên rừng không chỉ mang lại giá trị về kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn về văn hóa,
xã hội và bản sắc riêng của từng dân tộc, vùng miền. Ngoài công năng cung cấp hàng
hóa lâm sản, phòng hộ, bảo vệ nguồn nước, cân bằng sinh thái, điều hòa khí hậu thì rừng
còn mang lại giá trị về văn hóa cảnh quan cho khu vực đó. A.Tsêkhốp nhà văn Nga đã
từng nói rằng: “ Rừng và cảnh quan của rừng có thể làm tăng sức khỏe con người, làm
mạnh thêm quan niệm về đạo đức”. Chính vì vậy, khi cuộc sống con người được nâng
cao thì kéo theo mong muốn được hưởng thụ các giá trị về cuộc sống ngày càng lớn, cho
nên những vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên được mở ra, các khu di tích lịch sử
gắn với rừng được quan tâm, tôn tạo, bảo vệ. Những khu danh lam thắng cảnh xây dựng
ngày càng nhiều, các khu du lịch sinh thái có mặt khắp mọi nơi như một yếu tố để đáp
ứng các nhu cầu của con người.
Cảnh quan khu di tích lịch sử là vấn đề hiện nay đang được xã hội rất quan
tâm. Làm sao có thể duy trì, cải tạo cảnh quan khu di tích mà vẫn đảm bảo yếu tố tự
nhiên, không làm phá vỡ cấu trúc lịch sử vốn có của nó. Cảnh quan phải phù hợp
3
với không gian kiến trúc và có chứa đựng đầy đủ ý nghĩa lịch sử, văn hóa của khu
di tích đó.
1.2. Giá trị nhân văn của cảnh quan khu di tích Côn Sơn
Khi cái ăn, cái mặc không còn là vấn đề quá lớn với mỗi người dân, khi cuộc
sống của chúng ta đang từng ngày, từng giờ được cải thiện, nâng cao cả về vật chất
lẫn tinh thần, thì ý thức cần phải bảo vệ, giữ gìn các giá trị di sản văn hóa dân tộc
càng được nêu cao và đặt lên hàng đầu.
Nằm cách Hà Nội chừng 70km, khu di tích lịch sử Côn Sơn - Kiếp Bạc
(huyện Chí Linh, Hải Dương) gắn liền với tên tuổi các anh hùng, danh nhân văn hóa
đất Việt như Trần Nguyên Đán, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi.
Cái hấp dẫn du khách thập phương trước hết vì Côn Sơn là một vùng danh
lam cổ kính nổi tiếng. Khoảng 600 năm trước, Nguyễn Phi Khanh (thân phụ
Nguyễn Trãi) đã mô tả: Khói đầu non, ráng ngoài đảo, gấm vóc phô bày, hoa dọc
suối, cỏ ven rừng, biếc hồng phấp phới. Bóng mát để nghỉ, chỗ vắng để ngồi, mùi
thơm để ngửi, sắc đẹp để xem.
Ngày nay, di tích Côn Sơn được tu tạo và bổ sung thêm nhiều nét mới, khiến
phong cảnh càng thêm thơ mộng và huyền diệu. Du khách đến Côn Sơn vào bất cứ
mùa nào cũng thấy không khí mát lành, bởi nơi đây có tấm thảm thực vật lý tưởng.
Vào những ngày đầu xuân mưa lất phất, cây cối đua nhau nảy lộc, trời đất Côn Sơn
hòa quyện với nhau. Đi dưới mặt đất mà tay như với được những áng mây bồng
bềnh. Leo lên sườn núi, bước chân du khách lẫn trong mây.
Đã đến Côn Sơn, du khách không thể không leo lên sườn núi Kỳ Lân thơ
mộng. Tương truyền, vào một sớm mùa thu, có một số thi nhân rẽ cỏ, vén hoa tìm
đường lên núi. Trên đường đi, họ nghe như có tiếng nói, cười lao xao từ đỉnh núi
vọng xuống. Nhưng đến nơi tịnh không một bóng người, chỉ thấy một bàn cờ đang
đánh dở. Đứng ở đỉnh núi cao giữa bao la đất trời, mọi người cho rằng các tiên đã
xuống đây chơi cờ, múa hát, khi thấy người vội bỏ đi không kịp mang theo bàn cờ.
Vì thế, đỉnh núi được gọi là Bàn Cờ Tiên.
4
Còn sườn bên phải núi Kỳ Lân, nơi Nguyễn Trãi dựng nhà dạy học, nay vẫn
còn dấu tích nền nhà xưa cùng với phiến đá lớn mà nhân dân địa phương thường gọi
là Thạch Bàn, hay còn gọi là hòn đá năm gian (rộng bằng 5 gian nhà), nơi Nguyễn
Trãi từng ngồi ngâm ngơ, đọc sách.
Quần thể di tích lịch sử – văn hoá – danh thắng Côn Sơn, cụm di tích thờ
Phật (chùa Hun) và cụm di tích về danh nhân (đền thờ Nguyễn Trãi), đều có vị trí
và tầm quan trọng đặc biệt; du khách tới đây dâng hương niệm Phật, tưởng nhớ Ức
Trai và ngoạn cảnh, tiêu dao, nên có nhiều người là trí giả, văn nhân và đông đảo
thầy giáo, học trò. Xưa nay, người đời tìm đến Côn Sơn là cuộc tìm về với căn nhà
vũ trụ, nơi hoà hợp tột cùng của âm dương, sơn thuỷ và trời đất. Để ở đó, con người
được hưởng thụ khí trời trong mát, với hương rừng, gió núi và tiếng ca muôn thuở
của suối chảy, thông reo; được đắm mình trong hồn thiêng sông núi, trong cổ tích
ngàn năm còn rung động trái tim của muôn triệu con người. Côn Sơn là mảnh đất
lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định quốc công Nguyễn Bặc, thượng thuỷ
tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để đánh sứ quân Phạm Phòng Át,
giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước vào năm 968. Trong các cuộc chiến
tranh giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc, quân dân trong vùng thường lấy rừng
núi Côn Sơn làm căn cứ đánh giặc. Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm và Thanh Mai,
Côn Sơn là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang đậm bản sắc
văn hoá Việt Nam. Đệ nhất tổ – Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ –
Pháp Loa tôn giả và đệ tam tổ – Huyền Quang tôn giả đều đã về đây hoằng dương
thuyết pháp, phát triển giáo giới, xây dựng chùa Hun thành chốn tổ đình, một Thiền
viện lớn từ thời đại nhà Trần. Côn Sơn là mảnh đất có bề dầy văn hoá hiếm có. Ở
đây, văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo và văn hoá Lão giáo cùng tồn tại và phát
triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt, đều để lại
dấu ấn qua mỗi công trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các
bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối… Văn hoá Lý – Trần, văn hoá Lê – Nguyễn
hiển hiện trước mắt mọi người và ở các tầng văn hoá dưới lòng đất khi khai quật
khảo cổ học. Di sản văn hoá phi vật thể quý giá ở Côn Sơn chứa đựng trong sách
5
vở, trong các truyền thuyết còn lưu, trong các nghi thức cúng tế, trong các hoạt
động lễ hội vô cùng phong phú. Cũng hiếm ở đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí
thức, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo đến như ở Côn
Sơn. Đây thực sự đã là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh
nhân, tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, tinh hoa văn hoá Việt Nam ở nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau, cũng như của bao tao nhân mặc khách. Trần Nguyên Đán –
quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn
dựng Thanh Hư Động để lui nghỉ những năm tháng cuối đời. Thời Lê sơ, Anh hùng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi đã nhiều lần, nhiều năm sống, gắn
bó chan hòa cùng thiên nhiên, tạo vật ở Côn Sơn, tìm thấy nơi đây bạn tri âm tri kỷ
và nguồn thi hứng dạt dào. Lê Thánh Tông, vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy
(thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát (thời Nguyễn) v.v. đều đã đến đây tìm lại dấu
vết Ức Trai, vãng cảnh, làm thơ, để lại những thi phẩm giá trị. Tháng 2-1965, Hồ
Chủ tịch về thăm Côn Sơn. Người đã lên thăm Thạch Bàn, Thanh Hư động và đọc
văn bia trước cửa chùa Hun, bằng sự trân trọng thiêng liêng và niềm giao cảm đặc
biệt đối với cổ nhân. Người xưa từng đúc kết: “Núi chẳng cần cao có tiên ắt nổi
tiếng. Nước chẳng cần sâu có rồng ắt thiêng”. Mỗi sự vật, di tích ở Côn Sơn đều lấp
lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi – Sao Khuê; mỗi địa danh ở Côn Sơn đều in đậm
dấu ấn thiêng liêng, áng thi văn, cổ thoại, truyền thuyết ly kỳ và những sự tích bất
hủ của những danh nhân kim cổ. Những di tích và tên tuổi các danh nhân, của Trúc
Lâm Tam Tổ, đặc biệt là của Nguyễn Trãi, đã nâng tầm vóc Côn Sơn trở thành quốc
tự, thành di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, thành “một cõi đi về” trong đời
sống tâm hồn của muôn triệu người dân Việt, kể cả những người sống xa Tổ quốc .
Cảnh sắc thiên nhiên và con người tạo dựng đã làm cho Côn Sơn thành một “Đại
thắng tích”. Ở đây, có núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, với rừng Thông bát ngát, suối chảy
rì rầm, nước hồ trong mát; có Bàn Cờ Tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc; có chùa Hun,
đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ… Cũng vì
Côn Sơn cảnh vật tốt tươi, “sắc ngàn ráng đỏ, rừng gấm cuốn, cỏ lụa giăng”, chùa
chiền cổ bích, am pháp thâm nghiêm, u tịch và tao nhã, nước biếc, non xanh, hữu
6
tình và hoà hợp, thành miền thắng cảnh làm say đắm hồn người, là nơi con người có
thể gửi gắm ước nguyện tâm linh, thoả chí hướng và rung động tâm hồn. Cho nên,
từ bao đời nay, mùa trẩy hội, “trai thanh gái lịch đi lại đông như mắc cửi”; bao thi
nhân, trí giả tìm về rồi ở đó, nghiền ngẫm và xúc cảm viết nên những trước tác có
giá trị sâu sắc, những áng thơ văn tuyệt đẹp. Ở đây, Huyền Quang viết kinh, thuyết
pháp, làm thơ; Trần Nguyên Đán nghiên cứu nông lịch và viết “Băng Hồ ngọc hác
tập”, Nguyễn Phi Khanh viết “Thanh Hư Động ký” và Nguyễn Trãi viết “Côn Sơn
ca” cùng nhiều bài thơ xứng là kiệt tác. Những năm gần đây, nhân dân Hải Dương,
được sự đồng lòng của đồng bảo cả nước, đã tu bổ hàng loạt di tích, đồng thời xây
dựng mới nhiều công trình văn hóa lớn như đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần
Nguyên Đán, đường lên Ngũ Nhạc v.v. làm cho Côn Sơn càng giàu thêm giá trị văn
hóa, cảnh sắc càng thêm tráng lệ, tôn nghiêm và ngoạn mục, hấp dẫn nhiều du
khách bốn phương.
Những công trình như chùa Côn Sơn, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ quan Tư đồ
Trần Nguyên Đán, Ngũ Nhạc linh từ…. trong quần thể Côn Sơn mãi mãi là những chốn
thờ tự thiêng liêng, nơi đặt niềm tin nhân thế. Vẻ đẹp hùng vỹ mà nên thơ, tráng lệ mà
trầm mặc thanh u của cảnh vật do thiên nhiên và con người tạo dựng tại Côn Sơn đang
tiếp tục được chăm sóc, tu bổ cho ngày càng tốt tươi, hoành tráng, giàu tiềm năng, ngày
càng hấp dẫn du khách thập phương về đây niệm Phật, tưởng nhớ các danh nhân, “nghỉ
ngơi chơi ngắm”, nâng cao tri thức và bồi bổ tâm hồn…
Trong những năm gần đây, nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc bảo tồn, tôn
tạo, trùng tu, gìn giữ kiến trúc cảnh quan của những khu di tích, lịch sử văn hóa,
khu vườn, công viên, cây xanh ở các khu đô thị lớn. Quá trình đô thị hóa mở ra các
khu công nghiệp đã gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống, vì vậy vấn đề Lâm
nghiệp đô thị cần phải được quan tâm đúng mức. Cụ thể là trong quá trình tôn tạo,
bảo tồn các khu di tích lịch sử, hạng mục cây xanh không thể thiếu cần được chú ý
và quan tâm không kém. Khu di tích lịch sử Côn Sơn cũng là một nét văn hóa mà
nhà nước và nhân dân đang hết sức quan tâm để bảo vệ, gìn giữ.
7
Khu di tích lịch sử Côn Sơn được quản lí bởi Ban quản lí di tích Côn Sơn và
Ban quản lí rừng tỉnh Hải Dương. Nơi đây gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của
nhiều danh nhân đất Việt như: Trần Nguyên Đán, Huyền Quang, anh hùng dân tộc
danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được
những dấu tích văn hóa thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Phần cây xanh
bao gồm cây gỗ, cây bụi, cây cảnh nhỏ, cây đường viền, thảm cỏ... Tuy nhiên do
yêu cầu của việc trang trí trong những dịp lễ hội nên nhiều cây đã bị tác động của
con người, thêm vào đó là việc bổ sung, thay thế cây xanh không theo quy trình và
quy hoạch cụ thể nên dẫn đến tình trạng cấu trúc cảnh quan bị phá vỡ. Diện tích khu
di tích Côn Sơn tương đối rộng nhưng số lượng cũng như thành phần loài cây rất
nghèo nàn, đơn điệu. Loài cây chủ yếu là cây Thông cổ thụ, nhưng cũng đã bị chặt
phá nhiều vì mục đích xây dựng và bảo vệ các công trình kiến trúc. Ngoài ra tại khu
vực còn trồng một số cây như vải, nhãn, si, đa nhưng số lượng không nhiều, cũng
như không có quy hoạch cụ thể dẫn đến cảnh quan xung quanh khu di tích thiếu sự
liên kết, trông rất đơn điệu, rời rạc. Nhiều vị trí gần như không có tầng cây cao mà
chỉ toàn bụi rậm và cây dại. Các cây di tích, cây cổ thụ đang có dấu hiệu xuống cấp
do cằn cỗi, bị sâu bệnh…Nói chung cảnh quan cây xanh tại khu di tích lịch sử Côn
Sơn chưa được quan tâm đúng mức, chưa có quy hoạch đồng bộ nên vấn đề này cần
phải nghiên cứu và có biện pháp bảo tồn, tôn tạo lại cho phù hợp với cảnh quan
cũng như mục đích sử dụng của con người.
Với giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng của người dân Hải Dương
nói riêng và nhân dân cả nước nói chung, bên cạnh đó là giá trị tự nhiên gắn liền với
các danh lam thắng cảnh cùng với yêu cầu cấp bách bảo vệ hệ sinh thái rừng tự
nhiên, đảm bảo nguyên vẹn giá trị văn hóa, lịch sử cho khu di tích Côn Sơn, ngày
18/6/2010 thủ tướng phê duyệt quyết định 920/QĐ-TTg “Quy hoạch tổng thể bảo
tồn khu di tích lịch sử văn hóa Côn Sơn – Kiếp Bạc”
8
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Mu ̣c tiêu nghiên cứ u
Nghiên cứu cảnh quan và tính đa da ̣ng sinh ho ̣c củ a hê ̣ thực vâ ̣t khu di tích li ̣ch
sử Côn Sơn.
Đánh giá tính hơ ̣p lí củ a cảnh quan khu di tích và đề xuất các biê ̣n pháp tác
đô ̣ng nhằ m giữ gìn, tôn ta ̣o và phát triển cảnh quan khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn. 2.2. Đố i tươ ̣ng nghiên cứ u
Cảnh quan khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn, đă ̣c biê ̣t là các cây cổ thu ̣, cây di tích, cây lâm nghiê ̣p chính, cây cảnh ta ̣o nên cảnh quan nhằ m phu ̣c vu ̣ cho du li ̣ch, lễ hô ̣i khu di tích Côn Sơn. 2.3. Phạm vi nghiên cứ u
Đề tài chỉ tâ ̣p trung nghiên cứ u cảnh quan khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn, cò n go ̣i là vù ng bảo tồ n đă ̣c biê ̣t vớ i diê ̣n tích là 413.2 ha. Đề tài tiến hành nghiên cứ u tính phù hơ ̣p và giá tri ̣ cảnh quan củ a khu di tích ảnh hưở ng đến sinh thái, văn hó a để có những biê ̣n pháp tác đô ̣ng tích cực nhằ m bảo vê ̣, duy trì và cải ta ̣o những nét đe ̣p truyền thố ng, đâ ̣m đà bản sắc dân tô ̣c.
2.4. Nô ̣i dung nghiên cứ u
2.4.1. Điều tra quần thể thực vâ ̣t ta ̣i khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn. 2.4.2. Tìm hiểu tình hình sinh trưở ng, phát triển củ a hê ̣ thực vâ ̣t ta ̣i khu di
tích li ̣ch sử Côn Sơn. Tác du ̣ng củ a hê ̣ thực vâ ̣t vớ i cảnh quan nơi đây.
2.4.3. Đánh giá sơ bô ̣ hiê ̣n tra ̣ng cảnh quan ta ̣i khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn. 2.4.4. Nghiên cứ u và đề xuất những biê ̣n pháp quản lí, chăm só c, tôn ta ̣o và bảo vê ̣ cây xanh, cây cổ thu ̣, cây di tích ta ̣i khu vực cũng như phương án quy hoạch cảnh quan cho khu di tích lịch sử Côn Sơn.
2.5. Phương phá p nghiên cứ u 2.5.1. Quan điểm phương phá p luận
9
Khu di tích li ̣ch sử Côn Sơn là khu hê ̣ thực vâ ̣t bán nhân ta ̣o. Do đó đề tài vâ ̣n du ̣ng nguyên lý cảnh quan sinh thái ho ̣c để nhìn nhâ ̣n mô ̣t cách tổ ng quan trong viê ̣c điều tra, đánh giá đă ̣c điểm khu thực vâ ̣t di tích li ̣ch sử này.
Cảnh quan sinh thái học (hay sinh thái học cảnh quan) do nhà thực vật học nổi
tiếng người Đức đề xuất năm 1939. Cảnh quan sinh thái học là sự kết hợp giữa tư
tưởng địa lí học và sinh thái học.
Cảnh quan là từ Hán Việt (tiếng anh là Landscape), là từ đa nghĩa. Theo Từ
Hóa Thành (1999) có ba cách lí giải như sau:
- Trên khái niệm thị giác mĩ học, cảnh quan đồng nghĩa với từ phong cảnh,
cảnh sắc.
- Trên phương diện địa lí, cảnh quan là tổng hợp của các thành phần sinh vật,
địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu.
- Trên phương diện cảnh quan sinh thái học (Landscape ecology), cảnh quan là
sự tụ họp của các hệ sinh thái khác nhau trong một không gian.
Cảnh quan sinh thái ho ̣c là khoa ho ̣c nghiên cứ u kết cấu, công năng biến hó a
củ a cảnh quan và quản lý, quy hoa ̣ch cảnh quan. Cảnh quan sinh thái ho ̣c là môn ho ̣c tổ ng hơ ̣p, cơ sở lý luâ ̣n củ a nó là chỉnh thể luâ ̣n.
Để duy trì cảnh quan ổ n đi ̣nh cần: -Tăng cườ ng tính di ̣ chất cảnh quan. - Tăng cườ ng tính đa da ̣ng sinh ho ̣c. - Quy hoa ̣ch cảnh quan phù hơ ̣p vớ i điều kiê ̣n kinh tế, văn hó a, xã hô ̣i và mục
đich sử du ̣ng củ a con ngườ i.
Trong tự nhiên, thực vật phong phú về loài, đa dạng về hình thái. Chúng tồn
tại và phát triển trong các kiểu rừng khác nhau, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
trong thời gian dài. Vì vậy, đặc tính của cây chỉ được phát hiện chính xác và đầy đủ
khi tìm hiểu chúng trên quan điểm động với các mối quan hệ nhiều bên.
Đối với đề tài này, đối tượng nghiên cứu là các cá thể thực vật mà môi trường
sống là khu di tích lịch sử Côn Sơn. Các cá thể này có vòng đời khác nhau, kích
thước khác nhau, mọc và được trồng hỗn giao với nhiều loài cây trong quần thể bán
10
nhân tạo. Do vậy các cá thể thực vật được nghiên cứu từ tổng thể đến chi tiết, từ
quần thể đến các cá thể và được nghiên cứu trên toàn bộ diện tích.
Những cây gỗ có tuổi thọ cao, kích thước lớn, những cây đặc biệt như cây di
tích được nghiên cứu, xem xét từ hình thái đến sinh trưởng, phát triển của cây, đồng
thời kết hợp với những tài liệu liên quan.
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
biểu hiện của nó là sự xuất hiện thế hệ cây con của những loại cây gỗ ở những nơi
còn hoàn cảnh rừng, dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất
rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già
cỗi. Vì vậy tái sinh rừng theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của
rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Tái sinh bao gồm có tái sinh nhân tạo và tái sinh tự
nhiên, đối với khu vực nghiên cứu thì tồn tại cả hai loại tái sinh trên, vì vậy cần phải
lựa chọn phương pháp trên những khu điển hình, đặc trưng có cây tái sinh tồn tại.
2.5.2. Ngoa ̣i nghiê ̣p
2.5.2.1. Thu thập tà i liê ̣u cơ bả n
Kế thừa các tài liệu của ban quản lí di tích, ban quản lí rừng tại địa phương
cũng như các tài liệu tham khảo về các vấn đề nghiên cứu của các tác giả.
2.5.2.2. Điều tra tổng thể, xá c đi ̣nh đối tượng nghiên cứ u
Trên cơ sở tài liê ̣u đã thu thâ ̣p đươ ̣c, tiến hành đi khảo sát điều tra ta ̣i một số
khu vực. Thố ng kê các loài thực vâ ̣t gă ̣p trong khu hê ̣ đó , đồ ng thờ i đánh dấu những cây cổ thu ̣, cây di tích. 2.5.2.3. Phương phá p thu thập hiê ̣n trạng cá c loà i cây
* Xác đi ̣nh hiê ̣n tra ̣ng cây - Sử du ̣ng phương pháp điều tra tổ ng thể, quan sát khi phát hiê ̣n những hiê ̣n
tươ ̣ng đă ̣c biê ̣t củ a cây trong khu vực như: bi ̣ sâu bê ̣nh ha ̣i, mố i nấm, tầm gử i… tiến
hành lấy mẫu riêng, ghi chép, đánh dấu cây trên bản đồ .
- Đo đườ ng kính ngang ngực thân cây (D1.3(cm)) bằng thướ c ke ̣p kính vớ i đô ̣
chính xác tớ i mm.
11
- Đo chiều cao vú t ngo ̣n (Hvn(m)) bằng thướ c Blumeleiss vớ i đô ̣ chính xác đến dm. Chiều cao vú t ngo ̣n củ a cây đươ ̣c xác đi ̣nh từ gố c cây đến đỉnh sinh trưở ng. - Đườ ng kính tán lá (Dt(m)) đươ ̣c đo bằng thướ c dây có đô ̣ chính xác đến dm. - Xác đi ̣nh đô ̣ tàn che: đô ̣ tàn che đươ ̣c xác đi ̣nh theo ô tiêu chuẩn (ÔTC). Tại mỗi điểm trong ÔTC xác đi ̣nh đô ̣ tàn che nếu thấy tán lá tầng cây cao che kín thì điểm đó ghi số 1, nếu không có gi che lấp thì ghi số 0, nếu những điểm còn nghi ngờ thì ghi ½. Ngoài ra đô ̣ tàn che cò n đươ ̣c xác đi ̣nh thông qua phẫu đồ rừng.
(1 ha cần đo 200 điểm, ô tiêu chuẩn là 1000m2 thì phải tiến hành đo 20 điểm
cách đều nhau.)
- Kết quả đo đươ ̣c thố ng kê vào phiếu điều tra cây cao theo mẫu dướ i đây:
Mẫu điều tra cây tầng cao
STT ÔTC Tên cây D1.3(cm) Hvn(m) Dt(m) Ghi chú
Đ-T N-B
* Điều tra cây tái sinh
Cây tái sinh là những cây gỗ cò n non, số ng dướ i tán từ cây ma ̣ cho đến khi
chú ng bắt đầu tham gia vào tầng tán rừ ng. Các cây tái sinh đươ ̣c thống kê theo bảng
dướ i đây:
Mẫu biểu điều tra cây tá i sinh
STT ÔTC Tên cây Hvn(m) Ghi Phân cấp chất lươ ̣ng
TB Tố t Xấu chú
Trong đó : + Cây tố t là những cây thân thẳng, không cu ̣t ngo ̣n, sinh trưở ng và phát triển
tố t, không bi ̣ sâu bê ̣nh ha ̣i.
+ Cây xấu là những cây cong queo, cu ̣t ngo ̣n, sinh trưở ng và phát triển kém, bi ̣
sâu bê ̣nh.
+ Cây trung bình là những cây cò n la ̣i.
12
Phân cấp cây tái sinh theo chiều cao: cao dướ i 1m, cao từ 1-2m, cao trên 2m.
Xác đi ̣nh nguồ n gố c cây tái sinh: tái sinh tự nhiên, tái sinh nhân ta ̣o, tái sinh
hạt, tái sinh chối.
* Điều tra cây cổ thu ̣, cây di tích Điều tra, đo điếm ngoài thực đi ̣a, kết hơ ̣p phỏ ng vấn ngườ i dân đi ̣a phương.
2.5.3. Nội nghiê ̣p
2.5.3.1. Phương phá p xá c đi ̣nh tên và lập danh mục
Trên cơ sở tài liê ̣u có sẵn, sau khi điều tra, so sánh, đố i chiếu nếu thấy cần
thiết bổ sung thì tiến hành thu thâ ̣p mẫu.
Tiến hành so sánh các mẫu thu thâ ̣p được và phân loa ̣i danh mu ̣c theo vần ABC.
2.5.3.2. Phương phá p đá nh giá hiê ̣n trạng cây
Trong quá trình đánh dấu, thố ng kê những cây cổ thu ̣, cây di tích, tiến hành xem xét, thu thâ ̣p những mẫu bi ̣ sâu bê ̣nh ha ̣i hay những hiê ̣n tươ ̣ng làm ảnh hưở ng đến sinh trưở ng và phát triển củ a cây. 2.5.3.3. Nghiên cứ u một số đặc điểm cấu trú c của khu hê ̣ thực vật
- Cấu trú c tổ thành
- Mâ ̣t đô ̣
- Cấu trúc tầng
- Kết cấu tàn che củ a rừ ng
2.5.3.4. Phân tích các nhân tố hình thành cảnh quan ở khu vực nghiên cứu và vai
trò của từng nhân tố đó
2.5.3.5. Những ảnh hưởng của con người: sản xuất, sinh hoạt, lễ hội ảnh hưởng đến
các nhân tố đó và phương hướng cải thiện
2.6. Đề xuấ t cá c giả i phá p nhằm phá t triển bền vững khu hê ̣ thực vâ ̣t và cả nh quan di tích li ̣ch sử Côn Sơn: 2.6.1. Giả i phá p về kĩ thuật 2.6.2. Giả i phá p về quy hoạch cả nh quan 2.6.3. Giả i phá p vể tổ chứ c, quả n lý
2.6.4. Giải pháp về tăng cường đầu tư tài chính và khoa học kĩ thuật
13
Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI - VĂN HÓA
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiê ̣n tự nhiên
3.1.1.Vi ̣ trí đi ̣a lí
Khu di tích Côn Sơn thuộc xã Cộng Hòa huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương,
cách Hà Nội khoảng 70 km.
Khu di tích này nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Hải Dương, cách trung tâm tỉnh
khoảng 40km. Phía Đông giáp huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía Tây giáp
tỉnh Bắc Ninh. Phía Nam giáp huyện Nam Sách. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
Phía Bắc và Đông Bắc của Chí Linh là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông
Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thày, sông Thái Bình và sông
Đông Mai.
Côn Sơn - Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh. Khu vực này có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18
chạy dọc theo hướng Đông - Tây qua trung tâm huyện nối liền Hà Nội - Quảng
Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai
chiến lược quốc gia từ trung tâm huyện đi tỉnh Bắc Giang. Đường thuỷ có chiều dài
40 km, đường sông bao bọc phía Đông, Tây, Nam của huyện thông thương với Hải
Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).
3.1.2. Đi ̣a hình
Hải Dương được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi
nằm ở phía Bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và
18 xã thuộc huyện Kinh Môn; Côn Sơn có địa hình đồi núi, đây là vùng đồi núi thấp, phù
hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày.
Địa chất của khu vực bao gồm các kết cấu đá cát, bột kết và các trầm tích đệ
tứ, phân bố rộng ở vùng đồi, đồng bằng thung lũng ven sông suối của huyện.
14
3.1.3. Khí hậu
Côn Sơn Chí Linh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ
rệt, mùa khô hanh lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 9 hàng năm. Nhiệt độ trung bình năm 23 °C; tháng có nhiệt độ thấp nhất là
tháng 1 và tháng 2 (khoảng 10-12 °C); tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6 và
tháng 7 (khoảng 37-38 °C). Lượng mưa trung bình hàng năm 1.463 mm, độ ẩm
tương đối trung bình là 81,6%.
Do đặc điểm của địa hình, địa mạo nên khí hậu Chí Linh được chia làm 2 vùng:
- Khí hậu vùng đồng bằng phía Nam mang đặc điểm khí hậu như các vùng đồng
bằng trong tỉnh.
- Khí hậu vùng bán sơn địa chiếm diện tích phần lớn trong vùng, do vị trí địa lí
và địa hình phân hoá nên mùa đông ở đây lạnh hơn vùng khí hậu đồng bằng. (Di
tích Côn Sơn nằm trong vùng khí hậu này). Đây là vùng mưa ít so với bình quân
chung của tỉnh. Hạn hán xảy ra thường xuyên và sương muối thường xuất hiện vào
tháng 12 làm ảnh hưởng đến hoa màu và cây ăn quả.
3.1.4. Thủy văn
Chí Linh có nguồn nước phong phú bởi có sông Kinh Thày, Thái Bình, Đông
Mai bao bọc, có kênh mương trung thuỷ nông từ Phao Tân đến An Bài dài 15,5 km
chạy qua những cánh đồng canh tác chính của huyện, có nguồn nước của nhà máy
điện Phả Lại cung cấp quanh năm. Ngoài ra còn có 33 hồ đập với tổng diện tích tự
thuỷ 409 ha, đặc biệt có nguồn nước ngầm sạch trữ lượng lớn.
Hệ thống sông suối, hồ tưới tiêu của huyện Chí Linh khá phong phú và chịu
ảnh hưởng của hệ thống thuỷ văn sông Phả Lại, lưu lượng nước bình quân trong
năm của sông là 286 m3/s, mùa kiệt nhất vào tháng 4 với lưu lượng 181 m³/s, mùa
lũ mực nước cao nhất là 7,2 m cao hơn mức báo động cấp 3. Lũ lụt luôn là nguy cơ
tiềm ẩn làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
3.1.5. Điều kiê ̣n đấ t đai
Tổng diện tích tự nhiên của Chí Linh là 29.618 ha, chia ra:
- Đất nông nghiệp 9.784 ha, chiểm tỉ lệ 33,03%.
15
- Đất lâm nghiệp 14.470 ha, chiếm tỉ lệ 48,86%.
- Đất chuyên dùng 2.467 ha, chiếm tỉ lệ 8,33%.
- Đất ở 1.110 ha, chiếm tỉ lệ 3,75%.
- Đất khác 1.787 ha, chiếm tỉ lệ 6,03%.
Địa hình Chí Linh đa dạng phong phú, có diện tích đồi núi, đồng bằng xen kẽ,
địa hình dốc bậc thang từ phía Bắc xuống phía Nam, nhìn chung địa hình chia làm 3
tiểu vùng chính:
- Khu đồi núi bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng, càng về phía Bắc đồi núi
càng cao, đỉnh cao nhất là Dây Diều cao 616 m, đèo Trê cao 536 m.
- Khu đồi bát úp gó lượn sóng xen kẽ bãi bằng, đồi ở đây không cao lắm, trung
bình từ 5 - 60 m, có độ dốc từ 10°-15°, xen kẽ là những bãi bằng có độ cao bình
quân + 2,5 m.
- Khu bãi bằng phù sa mới, phân bố ở phía Nam đường 18, địa hình tương đối
bằng phẳng, càng về phái Nam càng trũng, có nơi cốt đất chỉ +0,8m.
Đất Chí Linh được hình thành từ 2 nhóm chính, nhóm đất đồi núi được hình
thành tại chỗ, phát triển trên các đá sa thạch; nhóm đất đồng bằng do phù sa sông
Kinh Thày và Thái Bình bồi tụ. Theo tài liệu của Viện nông hoá thổ nhưỡng Việt
Nam, đất nông nghiệp được phân loại như sau:
- Địa hình: cao 21%; trung bình 47,2%; thấp 27,5%; trũng 4,3%.
- Thành phần cơ giới: đất thịt nhẹ 42,2%; thịt trung bình 28,1%; thịt nặng
29,7%.
- Độ chua: cấp I: 74,5%; cấp II: 15%; cấp III: 8%; cấp IV: 2,5%.
Đất đai vùng huyện Chí Linh chủ yếu là đất đỏ vàng và đất phù sa. Đất phù sa
thuận lợi cho việc phát triển trồng lúa nước và hoa màu. Tuy nhiên, nhiều nơi trũng
hay bị ngập úng, hạn hán nên cần có biện pháp tưới và tiêu úng tốt. Chí Linh có một
số sinh vật đặc hữu. Thực vật và động vật hoang dã không nhiều và phân bố chủ
yếu ở một số xã miền núi nên thuận lợi cho công tác bảo vệ.
16
3.2. Điều kiê ̣n xã hô ̣i:
3.2.1. Cơ cấu tổ chức
Ban quản lý di tích Côn Sơn quản lý trực tiếp khu di tích Côn Sơn bao gồm
mảng cây xanh, cây cảnh, cây cổ thụ, cây di tích và các công trình kiến trúc lịch sử
thuộc khu di tích. Ban quản lý gồm có giám đốc nhiệm vụ quản lý chung khu di tích
với các phòng ban cùng với nhiệm vụ chức năng cụ thể như: phòng hành chính,
phòng tuyên truyền, phòng bảo quản di tích, phòng sưu tầm thống kê số liệu và đội
bảo vệ . Hàng năm ban quản lý khu di tích thuê thêm công nhân lao động ngắn hạn
và dài hạn để quét dọn vệ sinh, phục vụ du lịch và mùa lễ hội.
Ngoài ra, khu di tích Côn Sơn còn chịu sự quản lý của Ban quản lý rừng Chí
Linh, tuy nhiên chỉ Ban quản lý này có nhiệm vụ phòng cháy chữa cháy, bảo vệ
rừng, ngăn chặn việc chặt phá rừng, kiểm soát số lượng, chủng loại và trồng bổ
sung cây rừng.
Như vậy, khu di tích Côn Sơn chịu sự quản lý của Ban quản lý khu di tích
Côn Sơn và Ban quản lý rừng Chí Linh. Sở dĩ di tích Côn Sơn có hai đơn vị quản lí
vì trong khu di tích có 2 mảng, một là toàn bộ công trình kiến trúc mang ý nghĩa
lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng thì sẽ do Ban quản lý di tích Côn Sơn quản lý, còn về
mảng cây rừng, cây lâm nghiệp lại do Ban quản lý rừng Chí Linh quản lý. Chính vì
vậy, trong quá trình quản lý có sự chồng chéo nhau, khâu tổ chức cũng như thực
hiện của hai đơn vị thiếu sự thống nhất với làm ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lí,
bảo vệ và nâng cao chất lượng khu di tích Côn Sơn.
3.2.2. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội
Là khu vực được sự quan tâm của Tỉnh và nhầ nước, thu nhập của cán bộ chủ
yếu là từ ngân sách nhà nước, ngoài ra từ các nguồn khác như từ dịch vụ du lịch
cho khách thăm quan.
Năm 1995, dân số Chí Linh là 149.169 người, mật độ phân bố không đều giữa
các xã và thị trấn trong huyện; 3 thị trấn và các xã Cộng Hoà, Văn Đức, Đồng Lạc,
Chí Minh, Tân Dân có mật độ dân số cao.
17
Cơ cấu kinh tế của huyện chủ yếu vẫn là nông nghiệp, chiếm 43% tổng giá trị
thu nhập; diện tích cây lương thực là 11.060 ha, diện tích trồng cây thực phẩm bình
quân đạt 1.048 ha/năm, tổng đàn lợn là 39.386 con/năm, tổng đàn trâu bò bình quân
năm đạt 10.268 con/năm. Trong 5 năm 1991-1995 sản xuất lương thực của huyện
tăng với tốc độ chậm. Chăn nuôi chưa tương xứng với trồng trọt. Các mặt hàng
nông sản còn gặp khó khăn trong tiêu thụ, trình độ thâm canh không cao. Một bộ
phận nông dân còn thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, năng suất và chất lượng
nông sản thấp. Huyện có điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp. Trên địa bàn huyện có 41 nhà máy xí nghiệp, cơ sở sản xuất của
Trung ương và của tỉnh như Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Công ty lắp máy, Mỏ đất
chịu lửa Trúc Thôn... Công nghiệp địa phương phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng của huyện và chưa thu hút được các nhà đầu tư.
Huyện Chí Linh là huyện có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời với khu di
tích lịch sử, văn hóa, danh thắng cảnh nổi tiếng như Côn Sơn, Kiếp Bạc, Đền Cao
v.v... Các công trình kiến trúc đền, chùa, danh thắng là tiềm năng phát triển ngành
du lịch.
Đời sống, văn hóa, y tế, giáo dục của huyện đang từng bước được phát triển.
18
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thực vật trong khu vực nghiên cứu
4.1.1. Chùa Côn Sơn (Chùa Hun)
Núi Côn Sơn còn gọi là núi Kỳ Lân nằm về phía Đông Bắc huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Dương. Chân núi Côn Sơn có một ngôi chù cổ tên chữ Hán là Côn Sơn
Thiên Tư Phúc tự, tục gọi là chùa Hun. Chùa quay về hướng Đông Nam được xây
dựng theo lối cung đình với hồ Bán Nguyệt, Sân Đá, Tam quan, gác chuông, Phật
điện, Tổ đường, hòn non bộ. Chùa được xây dựng vào trước đời Trần, đến đời Lê
được trùng tu và mở rộng rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời
gian, chùa Côn Sơn nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá xanh của
các cây cổ thụ
Hình 4.1:Chùa Côn Sơn [22]
Từ cổng thứ nhất
đến cổng thứ hai của
chùa có 3 hàng Thông
cổ thụ được quy
hoạch theo hàng thẳng
tắp, xen kẽ giữa 3
hàng thông là đường
Hình 4.2: Sân Chùa Hun
19
dạo rộng 3m, xung quanh trồng cây Vải theo hàng với khoảng cách đều nhau.Số
lượng cây Thông còn ít, với chiều cao trung bình 12 - 14m, đường kính gốc 60-
80cm. Sau khi quy hoạch lại chùa, cây Vải đã được trồng bổ sung để thay thế cho
những cây Thông đã bị chặt bỏ hoặc bị chết do sâu bệnh, số lượng 11 cây, được
trồng theo hàng, khoảng cách khá đều nhau. Cây Vải có cùng độ tuổi, chiều cao
trung bình 6 - 7m, đường kính gốc 40 - 50cm, số lượng 28 cây.
Các cây ở đây đều được phát tỉa tán và khống chế chiều cao đảm bảo cho cây
không bị đổ gẫy vào mùa mưa bão, tránh nguy hiểm cho khách du lịch và người dân
địa phương, bảo vệ các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử.
Sân chùa rộng, diện tích cây xanh và tạo bóng lớn. Cảnh quan đơn giản, tạo
hai tầng thứ rõ rệt: tầng cao (cây Thông), tầng trung (cây Vải) mang lại không khí
xanh mát quanh năm.
Ngoài ra, trong sân còn trồng 2 cây Đại hoa trắng H = 4m; Dg = 20cm, 1 cây
vạn tuế và 1 cây Bồ đề H = 4m; Dg = 8.4cm. Cây Bồ đề được trồng bên trái cổng
thứ hai của chùa, do đồng chí Nguyễn Tấn Dũng trồng ngày 14/9/2008, đây là cây
Bồ đề được chiết từ cây Bồ đề phật thích ca Đắc đạo tại chùa MaHabodhi
Mahavihara do chính phủ Ấn Độ tặng.
Tiếp tục đi vào
sân trong có 6 cây Đại
hoa trắng trồng thành
hai hàng H = 4 - 5m;
Dg = 40 - 60cm, (theo
các nhà nghiên cứu,
những cây Đại này có
từ thời Trần Nguyên
Đán về Côn Sơn ở ẩn).
Những cây Đại này
không mọc thẳng mà đổ
nghiêng sát mặt đất, bởi Hình 4.3: Cây Đại cổ thụ hơn 600 tuổi tại chùa
Hun
20
thân chính đã bị gãy đổ, chỉ còn các thân nhánh mọc lên từ gốc đổ, trải qua nhiều giông
bão và thời gian khắc nghiệt để thành cây cổ thụ hôm nay. Trong số những cây Đại trên
có 2 cây trên 600 tuổi. Cây già cỗi, phát triển kém, thế cây nghiêng, thân và gốc xù xì, có
biểu hiện của sâu bệnh và mục thân. Ban quản lý khu di tích có đưa ra một số biện pháp
khắc phục như làm trụ đỡ cây để cây không bị gãy và bật gốc, hạn chế sự tác động bất lợi
của khách thăm quan cho cây bằng việc treo biển cảnh báo khách thăm quan.
Sân trong có 7 cây Thông cổ thụ, H = 10 - 14m; Dg = 60 - 80cm, cây được cắt tỉa
cành và khống chế chiều cao, xung quanh sân trồng 12 cây vải, những cây này cũng
được trồng theo hàng lối và khoảng cách đều nhau.
Sau chùa trồng chủ yếu là cây Vải, số lượng 7 cây, ngoài ra còn có 2 cây
Mít. Tuy nhiên, các cây này đều phát triển kém, già cỗi, bị sâu bệnh và bị nhiều cây
kí sinh trên thân và cành, làm ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây cũng
như ảnh hưởng đến cảnh quan chung của chùa. Cũng tại khu vực sân sau của chùa
trồng một số cây cảnh như 4 cây Vạn tuế, 1 cây Đa. Các cây cảnh này được trồng
trong chậu nhưng không được chăm sóc, quan tâm cũng như không được bày trí
hợp lý. Cây phát triển còi cọc, tán xấu, bị sâu bệnh xâm nhập gây mất mỹ quan
chung cho khuôn viên.
Nhìn chung, cảnh quan chùa Côn Sơn chủ yếu là công trình xây dựng và
đường dạo, cây rừng đã được quy hoạch lại nên số lượng cây đặc biệt là cây thông
đã giảm đi đáng kể, cây trồng thay thế chủ yếu là cây vải. Đa số đều là cây cổ thụ
được trồng từ rất lâu nên diện tích cây xanh và cho bóng mát là khá lớn. Cây cảnh,
cây trang trí trong khuôn viên chùa Côn Sơn chưa nhiều, các cây khá đơn giản nên
về tổng thể ngoài ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng thì giá trị cảnh quan không thể hiên
được nhiều.
4.1.2. Giếng Ngọc
Từ chùa Côn Sơn đi lên các bậc đá khoảng 100m là tới Giếng Ngọc, xung
quanh giếng chỉ còn lác đác vài cây Thông nhỡ, H=7-8m; Dg=15-20cm, ngoài ra
chủ yếu là cây dại tầng thấp dưới 1m. Phía trước sân giếng có trồng 2 cây Đại hoa
trắng H=3.5m; Dg=18cm, sau giếng có 1 loại cây gỗ nhỡ, có hoa màu trắng, nhỏ li
21
ti, mọc thành chùm ở kẽ lá. Người dân bản địa gọi đó là cây ba chạc, có tác dụng
chữa ngứa rất tốt. Loại cây này tự mọc, ngoài giá trị làm thuốc còn có giá trị về
cảnh quan như cho hoa, mùi thơm, tán dày tạo nhiều bóng mát cho Giếng Ngọc.
Cách đây 10 năm, cây cối quanh Giếng Ngọc đều bị phát quang, giới hạn
chiều cao dưới 1m, 10 năm trở lại đây, Ban quản lý di tích mới chỉ đạo giữ nguyên
hiện trạng của khu vực, không làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển cũng
như tái sinh của hệ thực vật rừng. Vì vậy, cây rừng đã bắt đầu có sự phân tầng , diện
tích cây xanh đang dần phủ kín khu vực. Tuy nhiên, cây rừng vẫn chủ yếu là cây
nhỏ và là cây dại không có giá trị về mặt cảnh quan và giá trị về mặt lâm sinh,
chủng loại cây nghèo nàn, ngoài di tích Giếng Ngọc ra thì không có đặc điểm gì ấn
tượng để thu hút du khách.
Hình 4.4: Giếng Ngọc [23]
4.1.3. Am Bạch Vân (Bàn cờ tiên)
Từ Giếng Ngọc đi lên Bàn cờ tiên khoảng 1800m, phải leo lên các bậc đá
khá dốc. Trên đoạn đường dốc và cao này cây cối thưa thớt, chủ yếu là cây dại tầng
22
thấp, số lượng cây Thông không nhiều, tuy đã được trồng bổ sung một số cây Xà
cừ, Keo, Long não nhưng cây vẫn còn nhỏ, chưa tạo được tầng tán nhiều. Xét về sự
đa dạng của hệ thực vật thì đây vẫn là rừng nghèo về loài, về số lượng, cây sinh
trưởng, phát triển kém, mật độ che phủ rừng thấp. Nguyên nhân là bị nhiều cây dại
lấn áp, cạnh tranh về dinh dưỡng và không gian sống. Lên cao hơn thì cây Keo, cây
Xà cừ, Long não đã phát triển trưởng thành, khá đồng đều về kích thước, ít bị tác
động bởi con người, Htb= 6-8m; Dgtb=25-30cm. Dọc đường đi lên Bàn cờ tiên, các
bậc đá được cải tạo từ hiện trạng ban đầu vì vậy cây cối và khuôn viên xung quanh
không bị can thiệp nhiều, vẫn đảm bảo yếu tố tự nhiên
Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tục gọi là Bàn cờ tiên. Ở đây phát lộ
nền một kiến trúc cổ, hình chữ Công, đó là dấu tích của Am Bạch Vân. Hiện nay,
trên Am Bạch Vân có dựng một nhà bia theo kiểu vọng lâu, hai tầng tám mái cổ
kính. Tại đây du khách có thể nhìn về bốn phía bao quát trong tầm mắt cảnh núi
sông hùng vĩ. Từ chùa Côn Sơn lên Bàn Cờ Tiên có hàng trăm bậc đá từ nhiều thế
kỉ trước, nay đã được khôi phục gồm trên 600 bậc.
Khuôn viên quanh Bàn cờ tiên chủ yếu là công trình xây dựng, chưa có cảnh
quan, cây xanh. Trước tháp thờ Bàn cờ tiên trồng cây Sanh si và cây Đa, cây còn bé
chưa tạo cảnh quan, cây bị sâu bệnh và bị cây khác kí sinh nên cây phát triển kém,
tán xấu. Tại đây, phần lớn cây Thông đã bị chặt hạ và khai thác nhằm phục vụ cho
việc xây dựng công trình. Đến nay, số lượng và chủng loại cây vẫn chưa được phục
hồi khiến cho khuôn viên mất đi vẻ tự nhiên vốn có cũng như yếu tố cảnh quan
không phù hợp với công trình kiến trúc nơi đây. Từ Am bạch vân nhìn ra tứ phía
chủ yếu là cây keo được trồng bổ sung trong 10 năm trở lại đây, số lượng ít, chất
lượng thấp và độ che phủ chưa cao.
Nhìn tổng thể Bàn cờ tiên thì ngoài ý nghĩa tâm linh yếu tố cảnh quan không
hề có giá trị lớn, du khách không có cơ hội thăm ngắm cảnh đẹp tự nhiên cũng như
những tiểu cảnh nhân tạo do con người tạo nên.
23
Hình 4.5: Bàn Cờ Tiên (Am Bạch Vân) [24]
4.1.4. Thạch bàn ( còn gọi là suối Côn Sơn)
Từ đỉnh núi của Bàn Cờ Tiên đi xuống Thạch Bàn, các bậc đã được xây dựng
mới nên đỡ dốc và dễ đi hơn. Ở khu vực này, cây chủ yếu là cây Thông, ngoài ra có
trồng bổ sung cây Keo, Xà cừ, Long não. Cây Thông được trồng từ lâu hiện vẫn giữ
được, tạo thành tầng cao nhất, thân cây to, tán rộng. Các cây còn lại mới trồng cách đây
khoảng 10 năm nên hầu hết đều đã khép tán và tạo thành tầng trung. Tầng thấp chủ yếu
là cây dại, phát triển um tùm tạo nên hệ sinh thái đặc trưng cho rừng.
Đi dần xuống dưới, số lượng Thông giảm dần, do quá trình vận chuyển vật
liệu xây dựng lối đi nên một số lượng lớn Thông đã bị chặt bỏ, sau này đã được
trồng bổ sung và có nhiều biện pháp bảo vệ gìn giữ cây rừng nên môi trường sinh
thái đã được tái sinh và phát triển rất thuận lợi.
Tuy nhiên, có một số cây Thông do quá già cỗi, dẫn đến bị mục thân, gốc
dẫn đến cây bị chết và đổ, một số cây khác bị sâu bệnh hoặc bị cháy, đó là những
nguyên nhân khiến cho số lượng cây Thông cổ thụ giảm dần. Tuy đã được trồng bổ
xung khá nhiều cây nhưng ít nhiều cũng làm mất đi nét đặc trưng riêng của núi Côn
Sơn (theo truyền thuyết ông trồng Thông, bà trồng Rễ).
Suối Côn Sơn bắt nguồn từ hai dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng
3km, uốn lượn tạo nhiều ghềnh thác kế tiếp nhau rồi đổ ra hồ Côn Sơn. Dòng suối
hẹp, cây cối um tùm mang dáng vẻ hoang sơ, thơ mộng, Suối Côn Sơn chảy rì rào
quanh năm suốt tháng, bên suối có hai tảng đá lớn tương đối bằng phẳng gọi là
24
Thạch bàn. Thạch bàn nhỏ rộng khoảng 70m², mặt thạch bàn có màu son nâu rất
đẹp. Thạch bàn lớn rộng khoảng 200m² về phía thượng nguồn được gọi là “Hòn đá
năm gian”
Tuy nhiên, những năm gần đây, việc khai thác cây rừng bừa bãi, quá trình xây
dựng, cải tạo các công trình kiến trúc làm xói mòn đất, kết cấu đất bị thay đổi, ảnh
hưởng đến dòng chảy, mạch nước ngầm khiến cho suối Côn Sơn không còn tự
nhiên và chảy liên tục nữa. Cũng chính sự thay đổi đó cũng khiến cho những thực
vật ưa ẩm, ưa bóng cũng không thể tồn tại và phát triển được. Thêm vào đó, vì đây
là điểm di tích nên được rất nhiều du khách đến thăm, chính điều này đã khiến cho
hệ thực vật xung quang suối bị tác động khá lớn.
Thạch Bàn là dấu tích lịch sử với những truyền thuyết của người xưa truyền
miệng lại cho thế hệ sau. Cảnh nơi đây chỉ gây sự chú ý và hấp dẫn cho du khách
khi có tiếng nước suối chảy róc rách, tuy nhiên hiện tượng này đang mất dần vì khí
hậu thay đổi, địa hình đã bị tác động nhiều, thêm vào đó cây rừng cũng không mang
lại giá trị cảnh quan cho tiểu cảnh này.
Hình 4.6: Thạch Bàn [25]
25
4.1.5. Đền thờ Nguyễn Trãi
Đi về phía hạ nguồn, theo ven suối Côn Sơn du khách sẽ thấy được đền thờ nền
nhà cũ của Nguyễn Trãi. Tại đây, cây cối um tùm, xanh tốt quanh năm, tạo nhiều tầng
thứ, chủ yếu vẫn là cây dại tầng trung và tầng thấp, tầng cao chính vẫn là Thông, Keo.
Tiếp tục đi xuống là đền thờ Nguyễn Trãi với một quần thể kiến trúc khá đẹp gồm cầu
đá, cổng đá, tam quan, điện thờ,… Đây là đền thờ Nguyễn Trãi, tọa lạc trên vị trí đắc địa
dưới chân núi Ngũ Nhạc, hướng chính là Nam ghé Đông 29°10’. Minh đường của đền
nhìn thẳng ra hồ Côn Sơn, nơi có núi Phượng Hoàng và núi Hồ Phóng chầu vào. Ngôi
đền xây dựng trên diện tích 10.000m² với 15 hạng mục công trình.
Xung quanh Đền thờ Nguyễn Trãi được che phủ bởi cây rừng, trong khuôn
viên đền được trồng một số cây cảnh, cây trang trí nhằm tạo cảnh quan cũng như
tăng tính hài hòa về không gian cho khu đền. Các cây đô thị này được trồng và bố
trí nhằm tạo sự liên kết giữa công trình kiến trúc với khu rừng nhằm tạo vẻ đẹp tự
nhiên cho khu đền nói riêng và toàn cảnh quan nói chung.Dọc theo các bậc đá đi
xuống đền thờ Nguyễn Trãi, hai bên lối đi trồng hàng rào Trúc mây xanh tốt quanh
năm, lác đác một vài cây Thông cổ thụ được giữ lại sau khi quy hoạch đền thờ
Nguyễn Trãi.
Ở Côn Sơn, mỗi năm đều diễn ra hai lễ hội lớn: Hội Xuân và Hội Thu. Hội
Xuân là hội chùa Côn Sơn là để kỷ niệm ngày mất của Thiền sư Huyền Quang diễn
ra vào ngày 16 cho đến ngày 22 tháng giêng. Còn Hội Thu sẽ được tổ chức từ ngày
16 đến ngày 20 tháng tám âm lịch để tưởng niệm vị anh hùng Nguyễn Trãi. Du
khách tham gia lễ hội sẽ được chơi những trò vui dân gian rất đặc sắc.
Đền thờ Nguyễn Trãi là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, các lễ hội hàng
năm vì vậy khuôn viên của đền thờ được quy hoạch khá quy mô. Ngoài việc gìn
giữ, trồng bổ sung cây rừng nhằm tạo cảnh quan tự nhiên của rừng núi Côn Sơn thì
khuôn viên đền thờ được trồng và sắp xếp rất ấn tượng, đẹp mắt. Nhiều cây cảnh,
cây hoa, cây trang trí cũng như cây bóng mát có dáng đẹp, màu sắc nổi bật đã được
đưa vào khuôn viên đền thờ, tạo không gian mới lạ, đẹp mắt gây ấn tượng cho
khách thăm quan du lịch.
26
Hình 4.7: Cảnh quan khu đền thờ Nguyễn Trãi
4.1.6. Đền Thanh Hư
Hình 4.8: Đền thờ Trần Nguyên Đán [26]
Đây là đền thờ Chương túc Quốc thượng hầu – Đại Tư đồ phụ chính Trần
Nguyên Đán. Năm 2005, nhà nước xây dựng đền Thanh Hư trên nền nhà cũ của ông
27
giữa rừng tùng bách Côn Sơn đại ngàn. Đền Thanh Hư kiến trúc chữ Đinh, đền tựa
núi Côn Sơn, Minh Đường nhìn xuống hồ Côn Sơn.
Đền Thanh Hư được xây dựng, cải tạo lại nên diện tích khu vực này bị mất
hầu hết diện tích cây xanh che phủ. Ngoài cây thông trước đền thì xung quang
khuôn viên không hề có cây xanh. Cây thông trước đền trong tình trạng phát triển
kém, do chịu nhiều tác động từ bên ngoài, đặc biệt là ảnh hưởng từ việc xây dựng
quy hoạch lại công trình kiến trúc đền Thanh Hư.
4.1.7. Hồ Côn Sơn
Trước núi Côn Sơn có 1 hồ nước trong xanh rộng mênh mông, đó chính là hồ
Côn Sơn. Hồ được tôn tạo năm 1998, có diện tích 43ha, với sức chứa hàng trăm m³
nước. Bao quanh hồ là hệ thống đường dạo, cây cảnh.
Hồ Côn Sơn là minh đường của Ức trai linh từ, hồ góp phần tô điểm cho vẻ
đẹp hư ảo của chốn lâm tuyền. Đặc biệt vào những ngày lễ hội, hồ Côn Sơn là nơi
diễn ra nhiều hoạt động văn hóa như: rước nước, đua thuyền, câu cá… thu hút
khách thập phương.
Hình 4.9: Hồ Côn Sơn [24]
28
Miếu Ngũ Nhạc gồm có năm miếu đều quay về hướng Nam – nơi có hồ Côn
Sơn quanh năm nước biếc, với hệ thống đường bộ hành lên núi đã được tổ chức xây
dựng lại. Địa hình của miếu chủ yếu là núi dốc, hiểm trở nhưng cảnh quan xung
quanh miếu Ngũ Nhạc khá hài hòa và nghiêm trạng, giữ được dáng vẻ và không
gian tự nhiên trang trọng. Đây là nơi có cảnh quan thiên nhiên kì thú, ngoạn mục,
rừng thông xanh bạt ngàn, suối trong róc rách quanh năm suốt tháng, khí hậu trong
lành đã thu hút rất nhiều du khách đến thăm quan không chỉ về mặt cảnh quan thiên
nhiên mà còn về ý nghĩ tâm linh, tín ngưỡng.
Hình 4.10: Miếu Ngũ Nhạc [26]
4.2. Hiện trạng môi trường sinh thái
4.2.1. Môi trường đất
Hiện nay, đất đỏ vàng vùng đồi núi đang bị suy thoái do lớp phủ không còn,
tầng đất màu bị rửa trôi, nghèo dinh dưỡng.
29
4.2.2. Nguồn nước
Nhìn chung nguồn nước mặt trên địa bàn khu di tích Côn Sơn nói riêng và
huyện Chí Linh nói chung hiện chưa bị ô nhiễm, các chỉ số kim loại nặng như Pb,
Ca, Cu, As, còn dưới ngưỡng tiêu chuẩn cho phép. Nguồn nước giếng đào và giếng
khoan đảm bảo vệ sinh nhưng với tiêu chuẩn nguồn nước này để sử dụng cho sinh
hoạt thì chưa đạt được loại A.
4.2.3. Môi trường không khí
Không khí của khu vực huyện Chí Linh bị ô nhiễm chủ yếu là do bụi vô cơ,
nguyên nhân do các hoạt động giao thông vận tải dọc Quốc lộ 18 và bụi từ Nhà máy
Nhiệt điện Phả Lại, Mỏ đất chịu lửa Trúc Thôn...Núi Côn Sơn tuy được cây rừng
điều hòa khí hậu, che chắn và thải lọc không khí độc hại, tạo môi trường trong lành
thoáng mát nhưng những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền công nghiệp,
khí hậu của khu vực núi Côn Sơn cũng bị tác động làm thay đổi nhiều, diễn biến
thời tiết ngày càng phức tạp và khắc nghiệt hơn.
4.2.4. Hệ sinh thái
Rừng tự nhiên trong khu vực núi Côn Sơn đã được bảo vệ và bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi. Hệ sinh thái rừng trồng và hệ sinh thái vườn đang góp phần cải thiện
môi trường sống. Tuy nhiên, sự tác động không có lợi của con người thông qua việc
thăm quan, cải tạo, ý thức bảo vệ rừng và các di tích lịch sử trong thời gian dài
trước đây không thể một sớm một chiều mà có thể thay đổi, khôi phục lại được.
Qúa trình khôi phục và phát triển bền vững hệ sinh thái cần phải có thời gian và
chiến lược lâu dài, cần thực hiện một cách triệt để và nghiêm túc.
4.3. Môi trường văn hoá, du lịch
Môi trường văn hoá, du lịch được bảo tồn và tổ chức tương đối tốt, có tính
chuyên nghiệp cao, song cần phải quy hoạch cụ thể hơn và có kế hoạch tôn tạo, bảo vệ,
nâng cấp một cách bền vững. Cơ sở hạ tầng xung quanh các khu di tích lịch sử và danh
thắng đang được cải tạo và mở rộng ngày một quy mô. Tuy nhiên, hoạt động tham quan,
du lịch còn chưa khai thác được thế mạnh và tiềm năng vốn có của khu di tích Côn Sơn.
Du khách đến di tích Côn Sơn chủ yếu là thăm quan các khu di tích lịch sử, các đền thờ,
30
chùa tháp và tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ mà quên đi việc thăm quan tìm
hiểu về cây rừng, về đặc điểm, quá trình sinh trưởng cũng như nguồn gốc lịch sử của cây.
Cây không được mang tên hay bất cứ dấu hiệu gì đặc biệt để gây sự chú ý cho du khách.
Chính vì vậy, cây rừng không được quan tâm chú ý nhiều để đầu tư trở thành một hạng
mục văn hóa, du lịch cho di tích Côn Sơn.
4.4. Những tá c đô ̣ng ả nh hưở ng đến cả nh quan khu di tích
Di tích Côn Sơn là khu hệ tự nhiên bán nhân tạo, nó không chỉ bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố tự nhiên như địa hình, khí hậu, đất đai… mà thực vật ở đây còn chịu
ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố con người. Trong quá trình cải tạo, duy trì các công
trình kiến trúc cũng như xây dựng các đền thờ, con người đã tác động vào hệ thực
vật như chặt phá một phần diện tích cây rừng để lấy mặt bằng xây dựng, để làm
đường. Nhiều cây có tuổi thọ cao, cây cổ thụ đã bị chặt bỏ làm phá vỡ kết cấu tự
nhiên vốn có của hệ thực vật tại đây.
Hàng năm, khu di tích Côn Sơn diễn ra các lễ hội văn hóa, tín ngưỡng thu hút
hàng trăm lượt khách thập phương đến thăm quan, giải trí, lễ hội. Nhìn chung mọi
người có ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường chung nhưng vẫn có số ít những người
thiếu ý thức bảo vệ cảnh quan, làm ảnh hưởng đến rừng tự nhiên và các công trình
kiến trúc. Nhận thấy việc bảo vệ gìn giữ môi trường là rất quan trọng, Ban quản lý
di tích Côn Sơn đã có những biện pháp nhằm nâng cao ý thức người dân và khách
du lịch tham gia bảo vệ môi trường, tài nguyên rừng và các công trình kiến trúc lịch
sử cũng như cảnh quan chung của khu di tích Côn Sơn như đặt các thùng rác tại
nhiều điểm, đặt các biển báo hướng dẫn hay tổ chức dịch vụ hướng dẫn du lịch.
Nhờ có được các biện pháp tích cực trên mà khu di tích Côn Sơn đã giảm đáng kể ô
nhiễm môi trường, bảo vệ được cảnh quan và thảm thực vật tự nhiên.
4.5. Kết quả điều tra thực vật trong OTC
4.5.1. Tổ thành tầng cây cao
Tầng cây cao là là thành phần quan trọng của cấu trúc rừng, có vai trò quan
trọng trong việc hình thành tiểu hoàn cảnh rừng, điều tiết tái sinh rừng và ảnh
hưởng đến chiều hướng diễn thế của rừng. Sự đa dạng phong phú của tổ thành tầng
31
cây cao là do đặc thù của từng trạng thái hoàn cảnh rừng và là sự tác động tổng hợp
của nhiều nhân tố tạo thành hệ sinh thái rừng như điều kiện thổ nhưỡng, địa hình,
hướng phơi, đâị cao, nhiệt ẩm và tác động của con người.
Qua điều tra hệ thực vật tịa khu di tích Côn Sơn, tổ thành tầng cây cao trên
các vị trí địa hình nghiên cứu được tổ hợp lại bảng dưới đây:
Bảng 4.1 Tổ thành tầng cây cao theo vị trí địa hình nghiên cứu
Số loài
Tổng số tham Số cây Vị trí Công thức tổ thành loài ĐT gia tổ TB/loài
thành
2.2Th + 2.84Va – 0.36Nha – 0.21Ngo
9 Sườn chân 10 15.56 – 0.14Mi + 1.7Đa + 0.7Ca – 0.28Ba +
1.49Ke
4 Sườn giữa 4 36.25 5.66Th + 2.41Ke + 0.83Xa + 1.1Lo
2.99Th + 3.73Ke + 2.54Xa + 0.6Lo – 6 Sườn đỉnh 6 22.33 0.08Đ – 0.08Sa
Kết quả nghiên cứu tổ thành tầng cây cao ở các vị trí địa hình cho thấy số
lượng loài điều tra được ở các vị trí nghiên cứu dao động từ 4 loài ở vị trí sườn
giữa đến 10 loài ở vị trí sườn chân, số loài tham gia vào công thức tổ thành cũng
giao động từ 4 đến 9 loài.
Qua kết quả tính toán cho thấy số cây trung bình/loài ở mỗi vị trí nghiên cứu
đạt từ 15.56 cây/loài ở sườn chân đến 36.25 cây/ loài ở sườn giữa, các loài tham gia
tổ thành chủ yếu là Thông, Vải, Keo, Xà cừ…Từ đó cho thấy sự chiếm ưu thế giữa
các loài trong hệ thực vật ở đây khá rõ rệt.
Để đánh giá mức độ đa dạng loài ở khu vực nghiên cứu, ngoài viêc đánh giá
theo các vị trí địa hình khác nhau chúng tôi cũng tiến hành đánh giá theo vị trí
hướng phơi, kết quả đánh giá được tổng hợp tại bảng sau:
32
Bảng 4.2 Tổ thành cây cao theo hướng địa hình nghiên cứu
Số loài Tổng số Số cây Vị trí tham gia tổ Công thức tổ thành loài ĐT TB/loài thành
3.39 Th + 2.19Va – 0.11Mi –
Hướng Bắc 8 7 22.88 0.44Đa + 2.46Ke + 1.04Xa –
0.33Lo
3.82Th – 0.25Nha – 0.13Ngo +
0.67Đa – 0.42Ca – 0.17Ba +2.56Ke Hướng Nam 11 11 21.64 + 1.13Xa + 0.76Lo – 0.04Đ –
0.04Sa
Kết quả ở bảng trên cho thấy số lượng và thành phần loài ở hướng Nam của khu
vực nghiên cứu có mức độ đa dạng, phong phú hơn hướng Bắc với tổng số 11 loài và
toàn bộ các loài này tham gia vào tổ thành tầng cây cao. Tuy nhiên số lượng cây trung
bình/loài ở hướng Nam không cao bằng hướng Bắc, chỉ đạt 21.64 so với 22.88 cây/loài ở
hướng Bắc. Về tổ thành tầng cây cao ở các hướng tương đối giống nhau, những loài
chiếm số lượng lớn trong tổ thành bao gồm Thông, Keo, Xà cừ, Vải…
Từ việc nghiên cứu tổ thành tầng cây cao khu vực nghiên cứu ở các vị trí địa
hình và các hướng phơi khác nhau, để từ đó có thể đánh giá tổng quát cho cả khu
vực, chúng tôi tổng hợp kết quả nghiên cứu tại bảng dưới đây:
33
Bảng 4.3 Tổng hợp tổ thành tầng cây cao ở khu vực nghiên cứu
Tổng Số loài Mật OT Vị trí số tham gia Công thức tổ thành độ/ô C loài CTTT
Sườn chân, 4 1 69 5 2.61Th + 5.80Va + 1.16Đa – 0.29Mi hướng Bắc
Sườn chân, 2.44Th + 0.64Nha – 0.39Ngo + 2.05Đa 7 2 78 7 hướng Nam + 1.28Ca + 2.69Ke + 0.51Ba
Sườn giữa, 4 3 59 4 5.93Th + 2.54Ke + 0.85Xa + 0.68Lo hướng Bắc
Sườn giữa, 5.17Th + 2.2Ke + 0.77Xa + 1.12Lo + 5 4 91 5 hướng Nam 0.55Ga
Sườn đỉnh, 3.21Th + 3.57Ke – 0.18Đ + 2.5Xa – 6 5 56 6 hướng Bắc 0.36Lo – 0.18Sa
Sườn đỉnh, 4 6 78 4 2.82Th + 3.85Ke + 2.56Xa + 0.77Lo hướng Nam
3.64Th + 0.95Va – 0.12Nha + 0.57Đa –
Cả khu vực 72 14 9 0.24Ca – 0.1Ba + 2.52Ke + 1.1Xa +
0.57Lo
Từ bảng kết quả nghiên cứu thấy rằng khi tổng hợp điều tra tổ thành tầng cây
cao cho cả khu vực thì tỏng số loài chúng tôi điều tra được là 14 loài và chỉ có 9
loài chủ yếu tham gia vào tổ thành tầng cây cao, trong đó cao nhất là cây Thông,
tiếp theo là cây Keo, Vải, Xà cừ... Có 5 loài cây không tham gia trực tiếp vào công
thức tổ thành, nguyên do là các loài cây này có số lượng thấp, trong quá trình điều
tra các loài cây này xuất hiện rất ít. Tuy khu vực nghiên cứu không đa dạng, phong
phú về loài và số lượng loài nhưng chính vẫn là Thông, Vải và Keo, thực chất thì
khu vực này trước đây chính vẫn là cây Thông, nhưng qua thời gian cùng với những
cải tạo về mặt kiến trúc đã là thay đổi rất lớn cấu trúc hệ thực vật, một số lượng lớn
34
cây Thông đã bị mất đi, tuy đã được thay thế bằng một số loài khác như Keo, Vải,
Xà cừ nhưng số lượng ít, chất lượng cây kém.
4.5.2. Sinh trưởng tầng cây cao
Sinh trưởng của cây rừng là sự tăng lên về kích thước và khối lượng của cây
(hoặc từng bộ phận) có sự liên quan đến sự tạo thành mới của các cơ quan, các tế
bào cũng như các yếu tố cấu trúc của tế bào. Sinh trưởng của cây rừng thể hiện rõ
qua chỉ tiêu chiều cao và đường kính, ta có thể thấy đươc mức độ sinh trưởng của
cây rừng cũng như khả năng thích nghi với điều kiện lập địa của từng loài cây. Kết
quả nghiên cứu sinh trưởng tầng cây cao được tổng hợp ở bảng dưới đây:
Bảng 4.4 Tổng hợp các chỉ tiêu sinh trưởng tầng cây cao
Độ Mật D1.3 Hvn G M OTC Vị trí tàn Dt (m) độ/ô (cm) (m) (m2) (m3) che
Sườn chân, 69 0.65 38 7.78 5.34 1.764 473.42 1 hướng Bắc
Sườn chân,
2 hướng 78 0.55 19 4.97 3.17 0.282 54.60
Nam
Sườn giữa, 59 0.4 13 4.33 3.37 0.115 14.68 3 hướng Bắc
Sườn giữa,
4 hướng 91 0.6 23 4.47 3.58 0.371 75.51
Nam
Sườn đỉnh, 56 0.5 14 3.28 2.46 0.101 9.27 5 hướng Bắc
Sườn đỉnh,
6 hướng 78 0.55 16 4.12 3.2 0.166 26.61
Nam
Trung bình 71.8 0.5 0.2 4.8 3.5 0.5 109.0
35
Từ bảng cho thấy mật độ tầng cây cao của rừng thấp, dao động từ 56 cây/ô
đến 91cây/ô. Về sinh trưởng đường kính cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các ô
nghiên cứu, đường kính trung bình lớn nhất ở ô tiêu chuẩn 1 và tiếp đến là các ô
tiêu chuẩn 4, 6, 5, 3, 2. Về sinh trưởng chiều cao cũng có sự phân cấp rõ rệt, chiều
cao tốt nhất ở ô tiêu chuẩn 1, tiếp đến là ô 6, 4, 5, 2, 3.
Từ việc nghiên cứu sinh trưởng về chiều cao và đường kính chúng tôi tính
được tiết diện ngang cho từng ô tiêu chẩn nghiên cứu và xác định được trữ lượng
của rừng ở từng vị trí. Với kết quả điều tra tính toán cho thấy trữ lượng ở từng lâm
phần ở từng vị trí là có sự khác biệt rất lớn. Với những vị trí có trữ lượng lớn thì
tầng cây cao chủ yếu là những cây có ý nghĩa về mặt tâm linh, lịch sử như Vải,
Thông, Đại…Tuy rừng trước đây chủ yếu là Thông với số lượng và chất lượng khá
lớn, nhưng do bị khai thác không hợp lý và chưa được quan tâm đúng mức nên số
lượng cây thông giảm đi nhiều, kéo theo chất lượng cây cũng thấp, mặc dù đã được
trồng bổ sung cây Keo, Xà cừ, Long não nhưng cây phát triển kém, số lượng còn ít.
4.5.3. Kết quả điều tra tái sinh
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng.
Biểu hiện đặc trưng của hệ sinh thái rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ ở những nơi có hoàn cảnh rừng (hoặc mất rừng chưa lâu), dưới
tán rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác. Vai trò lịch sử của thế hệ cây con
này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng được hiểu là quá trình phục
hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ, đóng góp vào việc hình
thành tiểu hoàn cảnh rừng, nó là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá xu
hướng phát triển của rừng.
* Tổ thành cây tái sinh
Tổ thành cây tái sinh phần nào phản ánh được tổ thành tầng cây cao của lâm
phần trong tương lai, nếu như các điều kiện sinh thái thuận lợi cho sự sinh trưởng
và phát triển của chúng. Tuy nhiên tổ thành cây cao và cây tái sinh vẫn có sự biến
đổi, sự biến đổi ấy một phần do loài cây ưa sáng chèn ép và một phần do tác động
36
của ngoại cảnh cùng với hàng loạt các nguyên nhân khác. Nhưng bản chất của quá
trình tái sinh là sự kế thừa các thế hệ trước của cây rừng, do vậy mà khi biết kết quả
tổ thành tái sinh sẽ có thể dự đoán và đánh giá được tình hình rừng trong tương lai,
từ đó đề xuất được các biện pháp điều chỉnh tổ thành hợp lý. Qua điều tra, tổ thành
cây tái sinh ở các ô nghiên cứu được mô tả ở bảng
Bảng 4.5 Tổ thành cây tái sinh khu vực nghiên cứu
Tổng Số loài Mật OTC Vị trí số tham Công thức tổ thành độ/ô loài gia TT
10Th Sườn chân, 12 5 1 1 hướng Bắc
Sườn chân, 2 20 7 2 3.57Th + 6.43Ke hướng Nam
Sườn giữa, 3.23Th + 4.19Ke + 1.61Xa + 3 16 4 4 hướng Bắc 0.97Lo
Sườn giữa, 4.13Th + 3.6Ke + 0.93Xa + 4 35 5 5 hướng Nam 1.07Lo – 0.27Ga
Sườn đỉnh, 5 22 6 4 4.17Th + 5Ke - 0.42Xa – 0.42Lo hướng Bắc
Sườn đỉnh, 2.96Th + 5.56Ke + 1.11Xa – 6 24 4 4 hướng Nam 0.37Lo
5 Cả khu vực 14
37
Qua số liệu điều tra và qua công thức tổ thành cho ta thấy tổng số loài điều
tra 14 loài với 5 loài tham gia vào tổ thành tái sinh bao gồm: Thông, Keo, Xà
cừ…Số loài điều tra được ở mỗi OTC biến động từ 4 đến 7 loài. Từ công thức tổ
thành cây tái sinh và công thức tổ thành tầng cây cao ta nhận thấy rằng những cây
tham gia vào công thức tổ thành tầng cây cao đều có cây con tái sinh trong công
thức tổ thành cây tái sinh. Như vậy trong tương lai lớp cây con này sẽ là thế hệ kế
tiếp của rừng hiện tại.
* Mật độ và chất lượng cây tái sinh
Bảng 4.6 Mật độ và chất lượng cây tái sinh
Chất lượng sinh trưởng cây tái sinh Mật Mật OTC Số cây Số cây Tỷ lệ Số cây độ/ô độ/ha Tỷ lệ % Tỷ lệ % trung bình % xấu tốt
6 960 50 1 12 4 33.33 2 16.67
1600 12 60 2 20 6 30 2 10.00
1280 4 25 3 16 6 37.50 6 37.50
2800 20 57.14 4 35 8 21.05 7 20
1760 8 36.36 5 22 7 31.82 7 31.82
1920 9 37.50 6 24 5 20.83 10 41.67
Trung bình 1720 9.83 44.33 6.83 32.56 4.83 22.80
Mật độ cây tái sinh trung bình 1720 cây/ha, dao động thấp nhất là 960 cây/ha
ở ô tiêu chẩn 1, cao nhất ở ô tiêu chuẩn 4 với 2800 cây/ha. Với mật độ như ở khu
vực nghiên cứu cho thấy mật độ tái sinh đạt mức độ rất thấp, chất lượng cây tái sinh
rất kém vì vậy tỉ lệ tái sinh rừng rất khó thành công trong tương lai vì tỷ lệ cây tái
sinh sinh trưởng tốt tương đối thấp, cao nhất chỉ đạt 60% và thấp nhất chỉ có 25%.
38
* Phân cấp chiều cao và cây tái sinh có triển vọng
Bảng 4.7 Phân cấp chiều cao và cây tái sinh có triển vọng
Cấp chiều cao (tính cho 1ha) Cây tái sinh có triển vọng OTC Mật độ/ô Mật độ/ha <1m 1-2m H>1.5m Tỷ lệ % >2m
12 20 16 35 22 24 1 2 3 4 5 6 960 1600 1280 2800 1760 1920 105 145 150 468 320 410 620 995 875 1312 855 890 235 460 255 1020 585 620 432 810 520 1430 780 820 45 50.65 40.63 51.07 44.32 42.71
Từ bảng có thể thấy rằng số lượng cây tái sinh có chiều cao từ 1m trở lên là
rất lớn hơn những cây có chiều cao dưới 1m. Từ những cây tái sinh sinh trưởng tốt
và có chiều cao lớn hơn 1.5m chúng tôi tính được cây tái sinh có triển vọng dao
động từ 432 cây/ha đến 1430 cây/ha. Với mật độ cây tái sinh có triển vọng này
không thể đảm bảo cho tái sinh rừng thành công vì số lượng và chất lượng cây quá
thấp , trung bình không thể đạt được 50%. Qua công tác điều tra cây rừng tại khu
vực nghiên cứu đã đưa ra yêu cầu cấp thiết cần tiến hành các biện pháp kĩ thuật
cũng như công tác bảo vệ nghiêm ngặt quá trình tái sinh rừng tự nhiên cũng như
những tác động có lợi để có thể thực hiện việc tái sinh rừng được thành công, để
đảm bảo giữ được rừng tự nhiên trong tương lai một cách bền vững.
4.6. Danh mục các cây cổ thụ và cây di tích
Mặc dù khái niệm cây cổ thụ còn chưa thống nhất, nhưng nếu là cây thân gỗ
với mức tuổi trên 100 năm và có giá trị cao về văn hóa, lịch sử và sinh thái (Nguyễn
Đình Hòe) thì được gọi là cây cổ thụ.
Theo quy định của Bộ Xây dựng, những cây có độ tuổi từ 50 năm trở lên được
gọi là cây cổ thụ. Còn theo tiêu chí của ngành văn hóa, những cây lâu niên được
trồng tại chỗ khoảng 100 năm thì được coi là cây cổ thụ. Nhiều nhà nghiên cứu thì
lại cho rằng, những cây thân gỗ được trồng tại chỗ có độ tuổi từ 70 đến 100 năm thì
được coi là cây cổ thụ.
39
Cây di tích là cây trồng của các lãnh tụ, các danh nhân hoặc các chứng tích
của một sự kiện lịch sử nào đó. Cây di tích có thể là di tích lịch sử, văn hóa, khoa
học hoặc có ảnh hưởng xã hội khác. Có thể trong trường hợp nào đó cây vừa là di
tích vừa là cổ thụ.
Di tích Côn Sơn gắn liền với di tích lịch sử, với tên tuổi các vị anh hùng, danh
nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Thần Nguyên Đán…Nhắc đến Côn Sơn là nói đến
những đền thờ, miếu mạo, những truyền thuyết được con người gìn giữ và truyền
miệng từ đời này sang đời khác. Các di tích này nằm ẩn mình dưới tán rừng thông
xanh bạt ngàn, quanh năm râm mát khí hậu trong lành. Hệ thực vật tại khu di tích
được quản lý bởi hai cơ quan đó là Ban quản lý rừng Chí Linh và Ban quản lý di
tích Côn Sơn, tuy nhiên bảo tồn và duy trì trực tiếp vẫn là Ban quản lý di tích Côn
Sơn. Chính vì vậy việc tôn tạo, bảo tồn các di tích lịch sử luôn đóng vai trò chủ đạo.
Bảo vệ cây cổ thụ, cây di tích không chỉ có ý nghĩa gìn giữ lịch sử mà đây còn
là tài liệu, bằng chứng sống để giáo dục truyền thông về lòng yêu quê hương, đất
nước cho mọi người, mọi thế hệ. Cây cổ thụ, cây di tích còn là điểm nhấn tạo nên
cảnh quan, nét đẹp riêng, là nét chấm phá cho bức tranh phong cảnh lớn, thông qua
đó con người có thể tìm hiểu để thấy được sự thay đổi của không khí, hệ sinh thái
qua từng thời kỳ, từ đó có những tác động tích cực nhằm bảo vệ duy trì những cảnh
quan vốn có và tôn tạo nâng cấp chúng cho phù hợp với cảnh quan chung nhưng
vẫn đảm bảo yếu tố lịch sử của các di tích.
4.6.1. Danh lục cây cổ thụ
Hình 4.11: Cây Đại cổ thụ Hình 4.12: Cây Thông cổ thụ
40
Việc đánh giá cây cổ thụ không chỉ thông qua việc quan sát, điều tra ngoài
thực địa mà còn phải dựa vào yếu tố lịch sử, sự hình thành của cây, kết hợp với các
chỉ tiêu về đường kính, chiều cao. Từ các chỉ tiêu đưa ta có bảng kết quả như sau:
Bảng 4.8 Danh mục các cây cổ thụ
TT Tên cây Vị trí Tuổi D1.3(cm) Hvn (m) Hiện trạng cây
Cây phát triển bình
Cây Trước thường, cây bị khống 1 >600 76.8 13.6 Thông chùa Hun chế chiều cao và tán.
Tán cây không đẹp.
Cây già cỗi, thân xù Trong sân
2 Cây Đại chùa Hun >600 60 6 xì, bị sâu bệnh, tán
xấu, thân cây nghiêng (2 cây)
Cây nghiêng, tán xấu, Trong sân
3 Cây Đại chùa Hun 70 42.5 4.8 thân xù xì và bị sâu
bệnh nhiều (4 cây)
Cây phát triển tốt, thân Cây Sườn núi, >100 45.8 15.6 4 thẳng, tán đều Thông đỉnh núi
Còn lại rất ít, một số
cây bị mục thân và Cây Sườn núi, >600 77.2 17.1 gốc. Cây thân thẳng, 5 Thông đỉnh núi tán đều, phát triển
kém.
41
4.6.2 Danh lục các cây di tích
Tại khu di tích Côn Sơn, cây di tích không nhiều nên chưa được quy hoạch
cụ thể và cũng chưa được quan tâm nhiều. Những cây này của các vị lãnh đạo trồng
làm kỉ niệm trong những lần về thăm khu di tích Côn Sơn, nhằm đánh dấu thời gian,
sự kiện quan trọng tại các địa điểm di tích lịc sử.
Bảng 4.9 Danh mục các cây di tích
Người trồng Chức vụ TT D1.3 (cm) Hvn (m) Tên cây Năm trồng
Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng 8.4 4 1 Cây Bồ đề (14/9/2008)
23 7.7 Trần Đức Lương Chủ tịch nước 2 Cây Đa lông (14/2/2005)
12 4.8 3 Cây Đa Nguyễn Minh Triết Chủ tịch nước
4.7.Cảnh quan khu vực nghiên cứu
4.7.1. Sơ đồ hiện trạng cảnh quan khu di tích Côn Sơn
Có thể tổng quan về khu di tích Côn Sơn như sau: Dưới chân núi Kỳ Lân là
chùa Côn Sơn (chùa Hun), trước chùa là hồ Côn Sơn. Từ chùa đi lên khoảng 50m là
Giếng Ngọc, đi tiếp khoảng 10 bậc đá là Đăng Minh bảo tháp. Đi lên đỉnh núi
khoảng 1800m là Bàn Cờ Tiên. Từ Bàn cờ tiên đi xuống rẽ phải sẽ gặp suối Côn
Sơn , tiếp tục xuống nữa là nền nhà cũ của Nguyễn Trãi. Từ đây rẽ tay phải đi lên là
đền thờ Trần Nguyên Đán, đi xuống khoảng 500m là đền thờ Nguyễn Trãi. Hầu hết
các công trình kiến trúc kịch sử đều đã được tu sửa và cải tạo lại, đường đi cũng đã
được mở rộng và nâng cấp, thuận lợi cho khách du lịch đi lại. Tuy nhiên, đồng
nghĩa với sự đổi mới về cơ sở hạ tầng và các công trình kiến trúc thì một số lượng
lớn cây rừng bị chặt bỏ đặc biệt là cây thông cổ thụ đã bị mất đi, thêm vào đó là sự
tác động bất lợi đến quá trình sinh trưởng, phát triển phục hồi và tái sinh rừng, làm
cho rừng Côn Sơn ngày càng xuống cấp, không đảm bảo cho hệ sinh thái rừng cũng
như giá trị cảnh quan, tính thẩm mĩ cho toàn bộ khu di tích Côn Sơn.
42
Hình 4.13: Sơ đồ khu di tích Côn Sơn
43
4.7.2. Đánh giá tính đa dạng sinh học trong khu di tích
Trong tổng số loài thực vật phân bố trong khu di tích Côn Sơn không mang
nhiều giá trị lắm, ngoài việc cung cấp gỗ, nhựa, tạo cảnh quan, điều hòa khí hậu và
mang ý nghĩ lớn về di tích lịch sử thì hệ thực vật ở đây không có nhiều giá trị lớn.
Tổ thành cây nghèo nàn, cấu trúc khu hệ thực vật không tạo được tầng thứ rõ rệt.
Tầng cây gỗ lớn và cây gỗ nhỡ có tuổi thọ cao chiếm tầng không gian trên cùng có
số lượng ít, tán lá thưa thớt, mật độ che phủ thấp, không tập trung. Phía dưới là các
loài cây ưa bóng và chịu bóng với những cây gỗ nhỡ và cây gỗ nhỏ khác nhau
nhưng chưa khép tán vì vậy mà việc tạo tầng thứ về mặt không gian theo chiều
thẳng đứng vẫn chưa rõ ràng. Tầng cây bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng phát
triển chưa đồng đều, có những vị trí độ che phủ đạt 70-80%, nhưng có những nơi
chỉ đạt 40-50%, thậm chí ở những khu vực có độ dốc lớn chỉ thấy trơ đất và đá.
Nguyên nhân làm cho hệ thực vật rừng phát triển không đồng đều, số lượng
loài bị suy giảm, chất lượng rừng ngày càng kém là do địa hình đồi núi dốc, thời
tiết, khí hậu thay đổi, ô nhiễm môi trường, nguồn nước và đất. Tuy nhiên, nguyên
nhân sâu xa là việc khai thác rừng bừa bãi, thiếu ý thức của con người, không có kế
hoạch trồng bổ sung tăng diện tích cây rừng. Quá trình thăm quan, du lịch của
khách thập phương đã tác động rất lớn đến quá trình phục hồi rừng, kèm theo đó là
việc xả rác gây ô nhiễm môi trường và làm ảnh hưởng đến cảnh quan cho khu di
tích. Thêm vào đó là một số cây cổ thụ do quá nhiều tuổi, lại không được quan tâm,
bảo vệ nên nhiều cây bị sâu bệnh, mục thân dẫn đến cây bị chết và đổ gẫy.
4.7.2.1. Chùa Côn Sơn
Tại khu vực chùa, thực vật chủ yếu là Thông và Vải tạo thành tầng cây cao và
tầng trung, có chiều cao và kích thước khá lớn. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa có
trồng một số cây cảnh cho hoa, lá, màu sắc đẹp như cây đại, vạn tuế, đề… Tuy
nhiên, chất lượng những cây này rất kém, bị sâu bệnh, gãy đổ, mục thân, tầng tán
cây mất cân đối, không tạo được vẻ đẹp vốn có của dáng cây. Số lượng cây cảnh,
cây hoa chưa nhiều, màu sắc không đa dạng, không gây ấn tượng mạnh cho khách
tham quan.
44
4.7.2.2. Giếng ngọc
Khuôn viên quanh Giếng ngọc chủ yếu là cây dại, ngoài ra có số ít cây Thông,
cây Keo, chất lượng cây rất xấu, bị sâu bệnh, chiều cao trung bình 1.5m-1.8m, tầng
tán xấu. Trước sân Giếng ngọc có trồng hai cây Đại, cây sinh trưởng phát triển kém,
thân và tán xấu. Tại đây, ngoài việc dừng chân, nghỉ ngơi thưởng thức nước tại
Giếng ngọc thì yếu tố cảnh quan về loài cây cũng như tính đa dạng của thực vật khu
vực này không gây ấn tượng mạnh cho khách tham quan.
4.7.2.3. Bàn cờ tiên
Xung quanh khu vực bàn cờ tiên chủ yếu là cây Keo và cây Thông, các cây
này có chiều cao và kích thước tương đối đồng đều nhau. Tuy nhiên, số lượng cây
Thông cổ thụ gần như đã mất, nguyên nhân là do quá trình cải tạo khu vực này đã
tác động rất lớn đến hệ sinh thái cũng như tính đa dạng của rừng cây. Cây cối thưa
thớt, mật độ cây thấp, tầng tán đơn giản, chưa khép kín, tạo cho không gian nghèo
nàn, thiếu màu sắc. Trước Bàn cờ tiên có trồng hai cây Sanh và cây Đề, nhưng do
không được chăm sóc và quan tâm đúng mức nên cây phát triển kém, bị sâu bệnh,
vật kí sinh xâm nhập khiến cho cây xấu.
4.7.2.4. Thạch bàn
Thực vật nơi đây chủ yếu là cây Thông, Keo, Xà Cừ,…tạo thành tầng cây cao,
tầng thấp chủ yếu là cây dại. Xung quanh Thạch bàn do sự tác động lớn của con
người khiến cho cây cối phát triển kém, thậm chí còn bị chết, số lượng cây, số
lượng loài giảm đáng kể.
4.7.2.5. Đền thờ Nguyễn Trãi
Khu vực này được qui hoạch qui mô và bài bản rõ rệt nhất, với số lượng loài
đa dạng, chất lượng cây đạt tiêu chuẩn đã tạo cho khuôn viên nhiều màu sắc, nhiều
ấn tượng. Ngoài cây chủ đạo là cây Thông, Keo, Xà Cừ, Long Não phát triển khá
tốt và đồng đều, thì những cây cảnh, cây bóng mát như Ngọc Lan, Cau, Đại, Bách
Tán…cũng được trồng và chăm sóc khá tốt. Các loài cây này đã phát huy được hết
công năng cũng như tác dụng trong việc tạo hệ sinh thái cũng như tính đa dạng loài
cho đền thờ Nguyễn Trãi nói riêng và cho khu di tích Côn Sơn nói chung.
45
4.7.3. Đánh giá tính hợp lý của cảnh quan trong khu di tích Côn Sơn
Khu di tích Côn Sơn có vị trí địa lý đắc địa, tọa lạc trên núi Kỳ Lân, được bao
phủ bởi rừng thông với những cây Thông cổ thụ được trồng từ thời Trần Nguyên
Đán, từ núi Kỳ Lân có thể nhìn ra hồ Côn Sơn, liền kề núi Kỳ Lân là núi Ngũ Nhạc.
Đây là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hóa đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn.
Tại đây có các di tích lịch sử gắn liền với cuộc đời của các anh hùng và danh nhân
văn hóa như Trần Nguyên Đán, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi được gìn giữ và bảo
tồn dưới các công trình kiến trúc như đền thờ Trần Nguyên Đán, Đền thờ Nguyễn
Trãi, Thạch Bàn các địa điểm danh thắng mang truyền thuyết cổ xưa Bàn cờ tiên,
Giếng ngọc…Tất cả các công trình kiến trúc lịch sử được tọa lạc ở những vị trí khá
đẹp, phía sau dựa vào núi, phía trước nhìn ra hồ với không gian thoáng đãng và thơ
mộng. Các công trình đã được trùng tu và cải tạo nhiều tuy nhiên vẫn giữ được
những nét kiến trúc cổ xưa của từng thời kỳ. Tuy đã có quy hoạch cụ thể nhưng lại
chủ yếu tập trung vào các công trình kiến trúc mà quyên đi yếu tố cảnh quan.
Xét về tổng thể di tích Côn Sơn có cảnh quan đẹp và vẫn giữ được yếu tố tự nhiên,
các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử văn hóa lớn, đảm bảo tính chân thực về lịch sử.
Hình ảnh rừng thông quanh năm xanh rì rào, ẩn dưới tán rừng là các di tích lịch sử, thoắt
ẩn, thoắt hiện, mờ ảo trong sương và mây, tạo cảm giác huyền ảo, thơ mộng, gây trí tò
mò cho khách du lịch khi đến nơi đây. Không gian thoáng đãng, yên tĩnh, khí hậu trong
lành, khung cảnh nên thơ khiến cho du khách thập phương đến đây không chỉ để thắp
hương dâng lễ mà còn có cớ hội hòa mình với thiên nhiên, chiêm ngưỡng những cảnh
đẹp mà trong đời thường không mấy ai có thể bắt gặp.
Xét đến từng vị trí cụ thể thì vấn đề cảnh quan có rất nhiều điều bất hợp lý, thiếu sự
hài hòa và gắn kết với cảnh quan chung. Trong quá trình quy hoạch, cải tạo lại các công
trình kiến trúc đã làm phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên của rừng, tầng thảm thực vật bị mất đi
làm đất bị xói mòn, nghèo chất dinh dưỡng, không giữ được độ ẩm. Chính vì vậy rừng
thông tự nhiên không thể phục hồi và tái sinh được. Cây cổ thụ không được chăm sóc
bảo vệ cứ ngày càng mất đi do bị khai thác, sâu bệnh, già cỗi, trong khi đó hàng năm
không có kế hoạch trồng bổ sung cây rừng và có biện pháp khôi phục khả năng phục hồi
của rừng. Hậu quả là rừng ngày càng nghèo nàn về số lượng, chủng loại, chất lượng suy
46
giảm, gây mất mĩ quan vốn có của rừng nói chung và khu di tích Côn Sơn nói riêng.
Thêm vào đó, tại các đền thờ, miếu mạo được xây dựng, quy hoạch lại chỉ trơ trụi mỗi
công trình kiến trúc mà không có cây xanh tạo cảnh quan hoặc còn lại rất ít do đã bị chặt
bỏ nhằm lấy mặt bằng để xây dựng. Vì vậy xét chi tiết từng địa điểm di tích thì khu di
tích Côn Sơn không đạt được yếu tố cảnh quan vì không đảm bảo về mặt thẩm mĩ, thiếu
sự liên kết giữa công trình kiến trúc với rừng tự nhiên, cảnh quan tự nhiên bị suy giảm
nghiêm trọng.
Tuy nhiên, vì quá chú trọng đến việc tôn tạo, xây dựng các công trình kiến
trúc nhằm gìn giữ các di tích lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng thì con người lại quên
hoặc xem nhẹ việc bảo tồn hệ thực vật xung quanh các công trình kiến trúc. Khu di
tích Côn Sơn được hình thành từ hai yếu tố hệ thực vật và các công trình kiến trúc
gọi chung là cảnh quan. Một cảnh quan đẹp và hợp lý cần phải giữ được cái vốn có
của lịch sử, có sự hài hòa giữa kiến trúc và cảnh quan, phù hợp về không gian, thời
gian và có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng. Từ đó để thấy rằng cảnh quan của
khu di tích có sự xuống cấp rõ rệt, hệ sinh thái có sự thay đổi lớn làm ảnh hưởng
đến số lượng cũng như chất lượng loài.
Rừng Thông do Trần Nguyên Đán trồng nay đã bị con người khai thác khá
nhiều, khu vực từ sườn núi đến chân núi còn lại rất ít Thông, cây phát triển kém, tán
thưa, bị sâu bệnh nhiều. Ngoài ra tầng cây nhỡ, cây bụi gần như mất hẳn, nguyên
nhân chính là sự tác động của con người trong quá trình vận chuyển vật liệu xây
dựng để tôn tạo, xây dựng các công trình kiến trúc, đường đi, thêm vào đó là rừng
bị chặt phá làm thay đổi hệ sinh thái, cấu trúc rừng, môi trường khí hậu khiến cho
quá trình sinh trưởng phát triển của cây rừng bị ảnh hưởng, khả năng tái sinh, phục
hồi rừng bị mất đi.
Tại các đền thờ, miếu mạo không có nhiều tiểu cảnh, ngoài một vài cây thông,
cây tầng thấp xung quanh các công trình kiến trúc, quanh khuôn viên sân không có
nhiều cây cảnh, cây trang trí khiến cho cảnh quan tại từng địa điểm khi du khách đi
qua cảm thấy đơn điệu, thiếu màu sắc, không có điểm nhấn hay gây ấn tượng lớn.
47
Chùa Côn Sơn chưa có nhiều cây cảnh, cây cho hoa và tán đẹp, ngoài Thông
và Vải phát triển tương đối tốt thì các cây còn lại đều sinh trưởng rất kém, khiến
cho cảnh quan chùa thiếu màu sắc, thiếu sức sống và sự tôn nghiêm.
Các điểm di tích khác chưa được quy hoạch triệt để, chủ yếu mới hoàn thiện
phần kiến trúc, về cây xanh chưa được quan tâm nhiều vì vậy yếu tố cảnh quan
chưa phát huy được công năng của từng khu.
Nói tóm lại khu di tích Côn Sơn chưa thể coi là nơi có cảnh quan đẹp vì yếu tố
kiến trúc và cây xanh chưa hài hòa, cân xứng với nhau. Có thể nói đây là sự phát
triển không bền vững của khu di tích nói chung và hệ thực vật rừng nói riêng tại khu
di tích Côn Sơn. Trong tương lai, nếu vấn đề về sự hài hòa của cảnh quan không
được giải quyết triệt để và quan tâm đúng mức thì rừng tự nhiên sẽ nhanh chóng bị
xuống cấp và mất đi.
4.7.4. Tình trạng xuống cấp và nguyên nhân xuống cấp của cây xanh trong khu
di tích lịch sử Côn Sơn
4.7.4.1. Tình trạng xuống cấp
Cây Đại cổ thụ trong khuôn viên sân chùa Hun bị mối ăn thân, cây bị
nghiêng, thân xù xì, bị nhiều thực vật kí sinh như cây tầm gửi, dây tơ hồng…, tán
cây xấu, không cân đối.
Cây Mít và toàn bộ cây Vải trong chùa Hun đều bị sâu bệnh và thực vật kí
sinh làm cho cây phát triển kém, ảnh hưởng đến mỹ quan của khuôn viên.
Cây Thông cổ thụ ở sườn giữa hướng Nam quá già cỗi dẫn đến mục gốc, đổ
gãy và chết.
Gần như toàn bộ cây keo con trồng ở sườn giữa hướng Bắc phát triển kém, bị
sâu bệnh nhiều nên diện tích khép tán chưa có.
Tại các điểm di tích lịch sử cây xanh gần như không còn hoặc có còn cũng
phát triển kém, không mang lại mỹ quan cho khuôn viên.
Nhiều vị trí như sườn chân, sườn giữa của núi Côn Sơn cây phát triển kém,
còi cọc, bị cỏ dại lấn áp nên nhiều cây bị chết dần, nhiều cây không khép được tán
chính vì vậy tầng cây thấp gần như không có.
48
Hình 4.14 Thân cây Đại bị mối ăn Hình 4.15 Cây Đại bị rêu và địa y kí sinh
Hình 4.16 Cây Thông cổ thụ bị mục gốc
4.7.4.2. Nguyên nhân xuống cấp của cây xanh trong khu di tích
Sự xuống cấp của cây cổ thụ và cây di tích trong khu di tích Côn Sơn được
thể hiện rất rõ: Số lượng và diện tích cây cổ thụ ngày càng bị thu hẹp và mất dần,
cây di tích chưa được quy hoạch cụ thể nên chưa phát huy được hết giá trị lịch sử,
tính sự kiện cũng như yếu tố cảnh quan cho khu di tích. Hầu hết các cây cổ thụ và
cây di tích không được chú thích, nhấn mạnh nhiều, thậm chí cũng không được đề
cập đến nên không gây được ấn tượng hay sự chú ý đặc biệt về cảnh quan và hệ
thực vật nơi đây trong quá trình khách du lịch thăm quan. Sự xuống cấp của cây cổ
thụ và cây di tích qua từng thời kì là do chịu nhiều ảnh hưởng của các tác nhân chủ
49
quan và khách quan. Những nguyên nhân chính khiến cho thực vật nơi đây, đặc biệt
là cây cổ thụ và cây di tích bị suy giảm về số lượng và chất lượng:
- Nguyên nhân chủ quan: tác động của con người
- Nguyên nhân khách quan: Tình trạng chèn ép
Tình trạng sâu bệnh, cây kí sinh
Tình trạng già cỗi và chết
Hiện tượng thoái hóa
* Nguyên nhân chủ quan: do tác động của con người
Trước đây, việc bảo vệ và quản lý rừng chưa chặt chẽ, thêm vào đó là nhận
thức về giá trị cảnh quan lịch sử còn hạn chế nên người dân địa phương chặt phá,
khai thác bừa bãi không có kế hoạch khiến cho một số lượng lớn cây thông cổ thụ
bị mất đi trong một thời gian ngắn.
Nhiều cây cổ thụ vì lí do an toàn đã bị tác động bởi con người như bấm ngọn
để khống chế chiều cao, tỉa thưa cành tán để hạn chế đổ gãy. Tuy nhiên, việc cắt tỉa
cây được thực hiện chưa đúng kĩ thuật, chưa có quy trình xử lý mặt cắt, đây là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng mục lõi, giảm tuổi thọ cho những cây lâu
năm. Ngoài ra, việc cắt tỉa cũng không đảm bảo về mặt thẩm mĩ, cắt tán không cân,
con người phát tỉa gần như trụi tán để hạn chế đổ gãy vào mùa mưa bão. Quá trình
tác động này được thực hiện nhiều lần và diễn ra trong thời gian dài đã làm ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Một lí do nữa cũng hết sức quan trọng góp phần làm xuống cấp hệ thống cây cổ
thụ đó là quá trình quy hoạch, trùng tu lại khu di tích. Việc xây dựng đã loại bỏ đi một
số lượng cây trong đó bao gồm cả cây cổ thụ nhằm mở đường để vận chuyển nguyên
vật liệu, làm đường đi hay lấy mặt bằng để xây dựng các đền thờ, miếu mạo.
Việc phát quang tầng cây bụi cách đây mười năm đã làm ảnh hưởng đến quá
trình sinh trưởng, phát triển và tái sinh rừng rất lớn. Không có thảm cây bụi, tầng
cây thấp khiến cho đất bị xói mòn, không tạo được lớp mùn cho đất vì vậy việc giữ
nước, giữ đất và dinh dưỡng cho cây bị suy giảm. Chính vì vậy mà toàn bộ hệ thực
vật ở đây không chỉ riêng những cây cổ thụ phát triển rất kém.
50
Ban quản lý rừng Chí Linh và Bam quản lý khu di tích Côn Sơn không có sự
đồng nhất trong quá trình quản lý khu di tích Côn Sơn. Trong khi Ban quản lý khu
di tích Côn Sơn muốn bảo tồn không chỉ các công trình kiến trúc mà cả toàn bộ hệ
thực vật cụ thể là rừng Thông vì nó không chỉ có giá trị sinh thái mà còn mang ý
nghĩa lịch sử rất lớn thì Ban quản lý rừng Chí Linh lại muốn đưa vào khai thác
nhằm thu lại lợi nhuận kinh tế từ rừng Côn Sơn. Chính vì hai mục đích khác nhau
mà khu di tích Côn Sơn đã không thể kiểm soát việc khai thác bừa bãi của người
dân địa phương, kết quả là rất nhiều cây Thông trong đó có cả cây Thông cổ thụ đã
bị biến mất mà không một đơn vị nào có trách nhiệm hay có kế hoạch trồng bổ sung
kịp thời vào những lỗ hổng sinh thái đó.
* Nguyên nhân khách quan
+) Tình trạng chèn ép
Số lượng và chủng loại cây trong rừng không nhiều, mật độ che phủ không
cao nên rừng chỉ có tầng cây cao, những cây con mới trồng không được tán tầng cây
cao chủ yếu là cây thông che bóng vì cây phát triển già cỗi không có tán rộng và
dày, trong khi đó tầng cây bụi phát triển kém nên cây ở giai đoạn này ưa bóng lại
không được che bóng. Thêm vào đó, tầng đất rừng trơ trụi, bị xói mòn, rửa trôi đã
làm mất đi lớp đất mùn, không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây đã làm cản
trở sự sinh trưởng phát triển của cây con, làm gián đoạn quá trình tái sinh rừng.
Việc tranh giành nguồn dinh dưỡng, nguồn nước, không gian sống và không có sự
hỗ trợ nhau về mặt sinh thái giữa các cây rừng đã khiến cho hệ thực vật nơi đây
nghèo nàn, phát triển kém, không đảm bảo hệ sinh thái cho rừng.
Hiện tượng đấu tranh sinh tồn trong điều kiện bất lợi nói trên đã làm cho toàn
bộ hệ thực vật phát triển kém, chất lượng và số lượng cây bị suy giảm nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến giá trị kinh tế cũng như giá trị thẩm mỹ, cảnh quan cho khu di
tích Côn Sơn.
+) Tình trạng sâu bệnh, cây kí sinh
51
Do đặc điểm cây già cỗi, phát triển kém, những cây nhỏ không được chăm sóc
đúng kĩ thuật cộng với điều kiện bất lợi về địa hình, khí hậu và hệ sinh thái đã khiến
cho cây còi cọc, bị sâu bệnh và các tác nhân kí sinh xâm nhập dễ dàng.
Một số khu vực cây cối um tùm, quanh năm ẩm ướt, râm mát cũng là nơi
thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Đặc biệt rừng Côn Sơn chủ yếu là trồng thông nên
xuất hiện một số loại sâu bệnh điển hình như sâu róm thông, sâu đục thân, cành, sâu
ăn lá, mối làm rỗng thân…., ngoài ra còn xuất hiện một số loại bệnh như bệnh nấm,
khô lá, nấm mục thân, rễ…
Tuy nhiên do đây là khu di tích lịch sử văn hóa, thường xuyên có khách thăm
quan nên việc phòng trừ sâu bệnh bằng thuốc hóa học không thể thực hiện một cách
triệt để, chính vì vậy những khu vực bị sâu bệnh hại đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến
quá trình sinh trưởng phát triển của hệ thực vật, cảnh quan môi trường chung của
khu di tích.
Ngoài ra, một số cây tại khu vực bị thực vật kí sinh và phụ sinh có hại như tơ
hồng, tầm gửi, dương xỉ, rêu, địa y, các loài phong lan…Chủ yếu chúng sống trên
cây Vải, cây Mít, cây Đại, cây Thông…. Hiện nay, vấn đề này vẫn chưa có biện
pháp để giải quyết nên đã ảnh hưởng rất lớn đến giá trị thẩm mĩ, cảnh quan chung
của khu di tích.
+) Tình trạng già cỗi
Tình trạng cây già cỗi và chết là quy luật rất bình thường của tự nhiên, nhưng
nếu được chăm sóc đúng kĩ thuật và hợp lý thì sẽ làm cho cây sinh trưởng tốt, kéo
dài tuổi thọ, đảm bảo về mặt chất lượng cũng như tạo được giá trị thẩm mĩ, cảnh
quan cây xanh.
Nhiều cây tại rừng Côn Sơn do không được quan tâm đúng mức, cây phát triển
kém do điều kiện địa hình, thiên tai, dinh dưỡng, các tác nhân bất lợi xung quanh đã
làm giảm chất lượng cây rừng từ đó dẫn tới cây cằn cỗi, phát triển chậm, giảm tuổi
thọ và hậu quả là cây bị gẫy cành, thân rồi chết dần.
Có thể nói tình trạng cây già cỗi và chết không chỉ riêng gì cây cổ thụ mà còn
diễn ra ở những cây trưởng thành. Do điều kiện dinh dưỡng, địa hình, khí hậu, sâu
52
bệnh, các biện pháp kĩ thuật chưa hợp lý đã góp phần làm cho cây nhanh già cỗi,
kém phát triển, mang nhiều bệnh tật, lâu ngày cây sẽ bị yếu và chết. Đây là vấn đề
hết sức khó khăn cho Ban quản lý khu di tích Côn Sơn vì hầu hết cây rừng đều là
cây thông, là cây có giá trị lịch sử rất lớn cần phải được gìn giữ và bảo tồn, nếu
không có biện pháp kĩ thuật để bảo vệ một cách đúng đắn thì trong thời gian không
lâu giá tị lịch sử này sẽ bị xuống cấp nghiêm trọng và có thể sẽ biến mất.
4.7.5. Đề xuất cải thiện cảnh quan và biện pháp duy tri tính ổn định cảnh quan
phục vụ lễ hội du lịch một cách bền vững
Trước hiện trạng trên của hệ thực vật khu di tích Côn Sơn, để bảo tồn, gìn
giữ các di tích lịch sử, các yếu tố cảnh quan, thiên nhiên, môi trường theo đúng ý nghĩa
vốn có của nó thì nhà nước, các ban ngành cũng như mỗi người dân phải có những giải
pháp về mặt tổ chức, cảnh quan, các biện pháp kĩ thuật lâm sinh…. không ngừng nâng
cao ý thức bảo vệ các yếu tố mang tính lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng.
Quá trình sinh trưởng, phát triển, diễn thế của cây xanh rất riêng biệt và cần có
một thời gian dài. Quần thể cây xanh luôn diễn ra quá trình tái sinh, cạnh tranh nhau
về sinh trưởng và phát triển, bệnh tật, già cỗi và chết, đây là chu trình luôn xảy ra từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Qua mỗi một quá trình cây sẽ chịu nhiều tác động, ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển sao cho phù hợp với sự sinh tồn của mỗi cá thể.
Tuy nhiên , nếu vượt quá ngưỡng chịu đựng và thích nghi của cá thể đó thì chúng sẽ
bị diệt vong và bị thay thế.
Việc đầu tư, tôn tạo các kiến trúc lịch sử nhằm phục vụ lễ hội, khách thăm
quan, du lịch đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái rừng của khu di tích. Con
người can thiệp quá nhiều các công trình xây dựng đã làm giảm số lượng cũng như
chủng loại cây rừng, nhiều cây cổ thụ, cây di tích đã bị chặt phá, bị sâu bệnh, bị
cháy hay đổ gẫy làm cho hệ sinh thái cũng như cảnh quan nơi đây bị suy giảm.
Trong tương lai nếu không được quan tâm đúng mức thì khu di tích Côn sẽ không
thể giữ được giá trị lịch sử cũng như các yếu tố tự nhiên vốn có của nó. Các giải
pháp dưới đây sẽ phần nào đó góp phần xây dựng và phát triển bền vững cảnh quan
khu di tích Côn Sơn.
53
4.7.5.1. Giải pháp về quản lý, tổ chức
Cùng với thời gian, diện tích rừng khu di tích Côn Sơn đã có sự suy giảm đáng kể,
do điều kiện địa hình, địa lý, khí hậu đã làm nhiều cây bị sâu bệnh, mục thân dẫn đến đổ
gẫy và chết. Thêm vào đó khu di tích thường xuyên diễn ra các hoạt động văn hóa, thăm
quan của khách du lịch và dân bản địa sống tại đây đã làm ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình sinh trưởng phát triển của rừng cũng như cảnh quan chung.
Trình độ người dân sống tại đây còn nhiều hạn chế, chưa có ý thức bảo vệ tài
nguyên rừng, còn chặt phá cây thông cổ thụ để lấy gỗ, lấy củi để làm chất đốt làm
mất cân bằng sinh thái cho hệ thực vật.
Trước những vấn đề trên, ban quản lý khu di tích cần phải có sự thay đổi về
cách thức quản lý, tổ chức như:
- Cần xây dựng hành lang tham quan cụ thể, không để du khách đi sâu vào
rừng, tránh tình trạng giẫm đạp lên hệ thực vật, làm tổn hại đến cây rừng, gây ảnh
hưởng đến sinh trưởng, phát triển và tái sih tự nhiên của rừng
- Đưa ra những quy ước, quy định về bảo vệ cảnh quan, có những biển báo chỉ
dẫn, cảnh báo khách thăm quan để giữ gìn cảnh quan chung.
- Tăng cường an ninh, bảo vệ rừng tự nhiên, ngăn chăn người dân địa phương
vào khu di tích nhặt cành củi, bẻ cành cây, quét lá vì những hành động này ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng, phát triển và tái sinh của từng khu cảnh,
điểm cảnh.
- Cần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, không vất
rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng đến mỹ quan chung của khu di
tích. Ngoài ra, cần bổ sung thêm nhiều thùng rác, cũng như đặt ở những vị trí hợp lý
trên toàn bộ hệ thống các điểm di tích và trên các trục đường đi.
4.7.5.2. Giải pháp về quy hoạch cảnh quan
Di tích Côn Sơn là khu vực vừa mang tính bảo tồn di tích vừa là nơi thăm
quan danh lam thắng cảnh của du khách thập phương. Việc quy hoạch cảnh quan
cho khu vực cần phải được tính toán kĩ lưỡng, có kế hoạch cụ thể và cần phải chia
nhiều giai đoạn, thực hiện trong thời gian dài để có thể có được một cảnh quan bền
54
vững đạt được giá trị sinh thái, lịch sử văn hóa và thẩm mĩ. Việc quy hoạch cảnh
quan cho khu vực cần phải tiến hành từ đâu, thực hiện như thế nào, đâu là tiềm năng
của khu vực, đâu là những giá trị cần phải gìn giữ và bảo tồn, đó là những câu hỏi
phải được định hướng chính xác khi tiến hành quy hoạch cảnh quan.
Đối với rừng tự nhiên thì quan điểm cây trồng chính vẫn là cây Thông mã vĩ,
tuy nhiên cần phải tăng chủng loại cây, trồng bổ sung thêm cây bản địa, cây lâu năm
như cây sấu, cây long não, cây xà cừ. Đây là cây lá rộng thường xanh, có tán dày,
đẹp, màu sắc lá đẹp sẽ có tác dụng tô điểm cho rừng thông thêm nổi bật và ấn
tượng.Tốt nhất là trồng cây lớn để có cảnh quan ngay (có thể Dg>10cm,
Hvn>2.5m).
Xây dựng hành lang cây xanh giữa nhiều loại cây có hoa theo mùa khác nhau
từ dưới chân lên đến đỉnh núi để tăng tính đa dạng cho cảnh quan. Có thể trồng
nhiều loại cây khác nhau với nhiều màu sắc lá, hoa, quả, thời vụ ra hoa, độ tuổi, độ
cao tầng tán khác nhau để quanh năm cảnh quan luôn đẹp và tăng tính đã dạng cảnh
quan sinh học. Các cây đó cần phải phù hợp với khung cảnh chung và phù hợp với
từng tiểu cảnh cụ thể, như: cây Muồng đen, Lim xẹt, Muồng hoàng yến cho hoa
màu vàng vào mùa hè, Phượng vĩ cho hoa màu đỏ vào mùa hè, Móng bò cho hoa đỏ
hoặc tím vào mùa đông, Ban trắng cho hoa trắng vào mùa hè…Điểm xuyết ở các
tiểu cảnh có thể trồng Trà, Hải đường cho hoa vào mùa đông. Mở rộng thành phần
loài cây lá rộng để dẫn dụ các loài chim đến. Nhanh chóng phủ xanh núi Côn Sơn
để khôi phục dòng nước chảy quanh năm trên suối Côn Sơn, phục hồi lại thác nước
như trước đây.
Việc tiến hành trồng cây có thể tập trung ở những nơi đất trống do trước đó đã
bị khai thác và dọc đường dạo để tạo bóng mát cũng như cảnh quan đẹp cho du
khách thăm quan. Thông qua việc tăng chủng loại cây rừng còn giúp cho những
người đến đây thăm quan hiểu biết thêm không chỉ về ý nghĩa lịch sử mà còn có cơ
hội tìm hiểu thêm về đặc điểm sinh thái của cây rừng, cảm nhận được nét đẹp riêng
của từng loại cây. Vì vậy, rừng Côn Sơn cần phải có những quy hoạch cụ thể và ổn
định như vị trí những cây thông cổ thụ phải được bảo vệ, bảo tồn nguồn gen riêng,
55
trồng bổ sung cây Thông để đảm bảo tính đặc trưng của rừng, ngoài ra tiến hành
trồng nhiều loại cây bản địa và cây lâu năm để tăng dị chất cảnh quan. Trong quá
trình quy hoạch lại rừng cần tính toán việc chọn loại cây, cách phân bố tầng tán, mật
độ sao cho phù hợp, đảm bảo về mặt sinh thái và cảnh quan.
Hiện nay, việc đưa cây Keo trồng tại rừng Côn Sơn là không hợp lý vì giống
cây này có tuổi thọ ngắn, chỉ phù hợp trồng cho rừng sản xuất, vì vậy cần nhanh
chóng loại bỏ cây Keo ra khỏi rừng để không ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng
phát triển của hệ thực vật rừng.
Đối với cây Đại cổ thụ tại chùa Hun cần phải có biện pháp chống đỡ để hạn
chế cây bị đổ, gãy cành. Phát tỉa bớt những cành thấp, lòa xòa gây nặng tán cho cây
làm ảnh hưởng đến giá trị thẩm mĩ của cây.
Tại các đền thờ, miếu mạo, vì đã được quy hoạch thành từng khuôn viên cụ thể
nên ta có thể đưa một số cây cảnh, cây trang trí, cây hoa nhằm tăng màu sắc, chủng loại
cây và tạo điểm nhấn tiểu cảnh cho từng khu vực. Ngoài đền thờ Nguyễn Trãi được
quy hoạch quy mô và đạt hiệu quả về giá trị cảnh quan thì các khu di tích khác hầu như
yếu tố cảnh quan được đưa vào. Có thể đưa một số cây bóng mát như cây đa, cây đề,
sanh si, lộc vừng vào khuôn viên sân chùa, đền thờ, miếu mạo, kết hợp với những cây
hoa, cây trang trí, tạo hình, tạo màu sắc như mẫu đơn, dâm bụt, chuỗi ngọc, bỏng nổ,
hay những cây cảnh như cây hoàng nam, vạn tuế, ngâu, viết…Việc đưa vào trồng và
bố trí cây xanh trong khuôn viên sẽ tạo ấn tượng đẹp mắt tránh sự nhàm chán và làm
nổi bật cho khuôn viên, ngoài ra, đây cũng là sự gắn kết giữa các công trình kiến trúc
với rừng tự nhiên một cách hài hòa, hợp lí và tự nhiên.
Cây di tích không có nhiều nhưng lại không có quy hoạch cụ thể, không được
trồng ở những vị trí hợp lý, không gây sự chú ý cho mọi người. Cây di tích nên
trồng ở những vị trí rộng, nơi tập trung nhiều du khách qua lại và cần có biển ghi
chú thông tin cụ thể về cây di tích đó.
4.7.5.3. Giải pháp về kĩ thuật
56
Giaỉ pháp kỹ thuật lâm sinh là trực tiếp tác động vào các đối tượng là hệ thực
vật, những giải pháp này được áp dụng theo phương thức hiện đại có hiệu quả lâu
dài vì vậy đòi hỏi phải được thực hiện một cách thường xuyên và liên tục.
Với cây rừng cần phải có biện pháp bảo vệ phòng trừ sâu bệnh, làm vệ sinh
loại bỏ các loài sống ký sinh có hại cho cây như tầm gửi, tơ hồng…bám trên cây.
Những nơi còn trống cần phải được trồng bổ sung, nên tăng cường trồng cây hỗn
giao nhiều loài, tuy nhiên loài cây trồng cần phải được lựa chọn kĩ lưỡng về nguồn
gốc, đặc điểm sinh thái để cây có thể phát triển tốt, ít cạnh tranh nhau về dinh
dưỡng và không gian sống, ít bị sâu bệnh, mang lại giá trị cảnh quan, tăng cường
tính bền vững, ổn định cho khu hệ thực vật di tích.
Đối với cây cổ thụ, cây di tích, theo GS.TS Ngô Quang Đê thì không thể có
những biện pháp đồng nhất cho mọi loại cây được mà mỗi cây cụ thể sẽ có những
bện pháp tác động khác nhau phụ thuộc vào quá trình tìm hiểu nguyên nhân sâu xa
và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cây bị suy thoái. Các nguyên nhân đó có thể do
đất quá chặt, tính chất lý hóa của đất đã thay đổi, bề mặt không thoáng do lớp phủ
nhân tạo bên trên, sâu bệnh hại và do con người va chạm hoặc thiên tai han hạn gây
nên. Khi tôn tạo các loại cây cổ thụ này cần làm cho nó phục tráng, khỏe trở lại, có
sức sống mạnh nẽ và bền lâu hơn, tùy theo loại cây, tùy theo từng tình hình cụ thể
mà có những phương pháp tiến hành khác nhau.
Cây cổ thụ cần phải có biện pháp chăm sóc, bảo vệ đặc biệt hơn như thường
xuyên theo dõi tình hình sâu bệnh hại để có biện pháp phòng trừ kịp thời. Tiến hành
sửa, tỉa tán những cành mục chết, bị sâu bệnh hoặc làm nặng tán gây mất thẩm mĩ
cho cây, hạn chế cây bị gãy đổ, và che bóng ảnh hưởng đến những cây bên cạnh
cũng như cảnh quan chung. Do khu vực này không thể xử lý phun thuốc trừ sâu
hoặc các loại hóa chất rộng rãi và thường xuyên được nên có thể dung Boverin để
phòng trừ sâu bệnh hoặc sử dụng vòng dính quấn quanh thân cây vào mùa sinh sản
của sâu để tiêu diệt sâu bệnh. Để duy trì những cây cổ thụ, cây di tích bị chết cần
tiến hành trồng thay thế ngay lập tức vào đúng vị trí ban đầu để đảm bảo tính lịch
sử, ý nghĩa văn hóa và sự kiện. Cây cổ thu và cây di tích là nhân chứng sống của
57
lịch sử, vì vậy phải hết sức giữ gìn, bảo tồn. Hiện nay có rất nhiều cây bị rỗng ruột,
sâu đục thân, mối ăn mục thân, nhiều cây bị gãy đổ do mưa bão, cần phải tiến hành
chống đỡ cây, xử lý và phòng trừ mối làm mục thân, thường xuyên cắt tỉa cành
nhánh để tán đỡ dày, hạn chế được sâu bệnh, giúp cây trẻ hóa và kéo dài tuổi thọ.
Cây bị sâu bệnh hại, tổn thương do cơ giới thì phải tiến hành chữa trị vết
thương ngay lập tức để tránh sâu bệnh hại xâm nhập:
Nếu vết thương là do mối gây ra cần phải tiến hành xử lý các bước như sau:
- Dùng dao sắc gọt sạch xung quanh vết thương, lấy dung dịch CuSO4 2-5%
hoặc dung dịch thủy ngân (Hg) 0.1% để diệt trùng, sau đó lấy dung dịch lưu huỳnh
vôi để tiêu độc và diệt khuẩn. Dung dịch này phải có độ bám tốt, không bị nóng
chảy, không tổn hại với tổ chức thực vật vì vậy có thể trộn dung dịch này với dầu
hoặc đất sét để phát huy được tác dụng diệt khuẩn.
- Sau đó dùng chất kích thích sinh trưởng α – NAA 0.01-0.1% bôi lên vết
thương để vết thương mau lành.
Nếu vết thương do cây bị mục tạo lỗ hổng trên thân cây, cần phải được xử lý
ngay vì sẽ ảnh hưởng đến sự vận chuyển và dinh dưỡng của cây, nếu vết thủng do mục
quá lớn thì sẽ làm đổ cây dẫn đến chết cây. Để hạn chế lỗ thủng ta có các cách sau:
- Với lỗ thủng sâu, không quá rộng thì ta dung cách chữa trị vết thương giống
như vết thương do mối xâm nhập.
- Với những lỗ thủng quá lớn nhưng lại gây ấn tượng đặc biệt cho khách
thăm quan thì ta có thể để nguyên lỗ thủng đó, chỉ cần xử lý bằng cách khoét hết
phần mục rồi dung thuốc tiêu độc diệt nấm và xử lý định kỳ 6 tháng 1 lần.
- Với lỗ thủng lớn gây mất thẩm mĩ thì ta nên lấp kín lỗ thủng, các bước thực
hiện như sau: sau khi lỗ thủng được tiêu độc diệt nấm, dung một miếng gỗ lấp kín
trên mặt, sau đó dung dầu Trẩu xoa lên phía trên miếng gỗ (có thể dùng dung dich
dầu Trẩu và vôi pha với tỷ lệ 1/0.35). Dùng dao sắc nạo bằng và nhẵn vết lấp, sau
đó bôi lớp màu sang để làm đẹp bề mặt hoặc dán miếng gỗ hay lớp vỏ cây lên.
Phòng chống gãy đổ ở cây cổ thụ và cây di tích: những cây lệch tán, nghiêng…có
thể bị đổ gãy khi gặp mưa bão cần phải được củng cố tăng cường sự ổn định cho cây
58
bằng cách thiết kế dây đai giữ cây. Đặc biệt là những cây cổ thụ ở chùa, đền của khu di
tích thì việc giữ cành thích hợp với hệ thống dây chằng, điều chỉnh thế cây để không bị
đổ, gãy làm ảnh hưởng đến cây và các công trình xung quanh.
Ngoài ra cần có biện pháp tác động thường xuyên như mở tán, chặt tỉa cành
để tạo điều kiện thuận lợi về mặt ánh sáng để những cây tái sinh có điều kiện phát
triển. Đây sẽ là nguồn cây thay thế cho thế hệ cây già cỗi sau này. Nên chọn thời
điểm chặt mở tán vào màu đông, khi đó nhiệt độ, độ ẩm không khí thấp, ít bị sâu
bệnh hại đến phần cắt bỏ, sau khi cắt thân cành cần tiến hành bôi thuốc chống nấm,
chống mục vào những vết cắt để bảo quản. Đồng thời cần áp dụng những tiến bộ
khoa học kĩ thuật hiện đại, công nghệ sinh học trong việc tạo giống cây con, chủ
động nguồn giống và nguồn cây khi cần thiết.
4.7.5.4. Giải pháp về tăng cường đầu tư tài chính và khoa học kĩ thuật
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước cũng như Sở văn hóa thông tin
và ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã có nhiều quan tâm đến việc bảo tồn các khu
di tích văn hóa Côn Sơn, cụ thể như:
- Quyết định số 920 QĐ/Ttg, Khu di tích lịch sử - văn hóa Côn Sơn - Kiếp
Bạc sẽ được quy hoạch định hướng từng bước phát triển để trở thành khu du
lịch cấp Quốc gia.
- Vốn đầu tư ước tính là khoảng 1.600 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách trung
ương bố trí theo kế hoạch hàng năm, ngân sách địa phương cùng với vốn thu được
từ khai thác các hoạt động du lịch, vốn huy động từ sự đóng góp của tổ chức, doanh
nghiệp và các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, nguồn vốn đóng góp
của nhân dân,... Dự kiến phân kỳ đầu tư theo 2 giai đoạn: 2009-2015 (giai đoạn 1)
và 2015-2020 (giai đoạn 2).
Tuy nhiên quá trình quy hoạch diễn ra còn rời rạc, thiếu đồng bộ. Việc thực
hiện chưa triệt để, mới chỉ chú trọng nhiều đến việc trùng tu tôn tạo các kiến trúc
lịch sử, chưa quan tâm đúng mức đến rừng cây và yếu tố cảnh quan xung quang các
di tích văn hóa. Tiến hành áp dụng các khoa học kỹ thuật và công nghệ vào thực
tiễn như đầu tư thích đáng vào hạng mục bảo tồn trong đó có cây xanh đặc biệt là
59
cây cổ thụ và cây di tích, tạo nguồn giống và nhân rộng giống cây trồng thông qua
việc thiết kế xây dựng vườn ươm, khu bảo tồn nguồn gen.
60
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thực vật và cảnh quan khu di tích lịch sử Côn Sơn,
đề tài rút ra được một số kết luận sau:
Qua điều tra, khảo sát hệ thực vật khu di tích Côn Sơn với diện tích 1653,8
ha bao gồm vùng bảo tồn đặc biệt và vùng khai thác đặc biệt. Trong tổng diện tích
trên có cả diện tích cây rừng và diện tích các công trình kiến trúc lịch sử nằm trên
núi Kỳ Lân và Núi Ngũ Nhạc. Thực vật chính là cây Thông, đươc trồng tập trung ở
núi Côn Sơn và một vài điểm di tích như Chùa Hun, đền thờ Trần Nguyên Đán, đền
thờ Nguyễn Trãi. Những cây Thông cổ thụ còn lại rất ít, chủ yếu là ở chùa Hun,
nhưng đều có sự tác động của con người. Ngoài ra, tại đây còn trồng bổ sung một số
cây Vải và các cây cảnh nhỏ như: cây Đại, Vạn tuế, Đề. Đền thờ Nguyễn Trãi sử
dụng nhiều loại cây cảnh, cây trang trí hơn, đã tận dụng được màu sắc hoa, lá để tạo
điểm nhấn cho khuôn viên, như: ngọc lan, bách tán, cau ta, đại, chuỗi ngọc… Các di
tích còn lại chưa có nhiều cây, xung quanh chủ yếu vẫn là cây thông hoặc cỏ dại.
Trong những năm gần đây Ban quản lý khu di tích và Ban quản lý rừng Chí Linh đã
tiến hành trồng bổ sung cây Keo, cây thông nhằm phủ xanh ngững khu vực đất
trống do con người khai thác hoặc chặt bỏ trong quá trình cải tạo công trình di tích.
Tuy nhiên, số loài và số lượng cây vẫn còn rất hạn chế, hiện tại các điểm di tích chủ
yếu vẫn là công trình xây dựng, chưa hề có cây xanh tạo cảnh quan cho khuôn viên,
rừng Côn Sơn nhiều nơi vẫn trơ đất đá, cỏ dại mọc nhiều lấn át những cây con.
Với diện tích lớn như vậy nhưng số lượng loài cây rất ít không có sự đa dạng
sinh học về số lượng và chủng loại các loài. Cây Thông cổ thụ hiện nay số lượng
không còn nhiều đã có dấu hiện già cỗi, phát triển kém, phần lớn đã có sự cạn thiệp
của con người như phát tỉa bớt tán, khống chế chiều cao. Cây Đại cổ thụ bị sâu bệnh
và bị rêu, địa y kí sinh, thân cây nghiêng, vỏ cây xù xì, tán cây không phát triển.
Các cây cảnh cho hoa, lá, cây trang trí đã được sử dụng nhưng chưa nhiều, chưa
được quan tâm đúng mức nên không tận dụng triệt để thế mạnh của từng loại cây,
không đảm bảo được yêu cầu về thẩm mĩ của cây cảnh. Hệ thực vật của rừng Côn
61
Sơn phát triển không đồng đều, tầng cây cao có độ tàn che thấp, mật độ không cao,
thân, tán cây xấu, một số cây bị sâu đục thân, sâu ăn lá làm ảnh hưởng đến hệ thực
vật nói riêng và cảnh quan trong khu vực nói chung. Khả năng tái sinh tự nhiên gần
như không có, thế hệ cây con được trồng bổ sung nhưng không được quản lý chặt
chẽ nên cây bị chết và bị sâu bệnh rất nhiều, số còn lại có sống thì phát triển chậm,
cây còi cọc do bị cạnh tranh về dinh dưỡng, nước và bị chèn ép bởi cỏ dại. Toàn bộ
hệ thực vật tại khu di tích, ngoài việc tạo bóng mát, trang trí, điều hòa khí hậu thì ý
nghĩa về mặt cảnh quan không lớn, thiếu tính hợp lý, không có nhiều loại cây, cũng
như không cho giá trị lớn về mặt lâm sinh. Tuy hệ thực vật không cho nhiều giá trị
về kinh tế, cảnh quan, nhưng lại có ý nghĩa về mặt lịch sử, văn hóa rất lớn mà cụ thể
đó là rừng Thông, bãi Rễ.
Có thể nói yếu tố thực vật có tác động rất lớn đến cảnh quan, để thay đổi
cách quan thì cách dễ nhất và hiệu quả nhất chính là cải tạo, tác động vào hệ thực
vật. Khu di tích Côn Sơn được đánh giá là khu di tích gần gũi với thiên nhiên, với
sông núi, mây trời, nhưng tất cả vẫn là chưa đủ vì chưa thực sự mang lại giá trị
thẩm mĩ về cảnh quan một cách đúng nghĩa. Diện tích cây xanh nhiều nhưng việc
sử dụng loài cây, tuổi cây và cách bố trí cây chưa hợp lý, cùng đó là việc chăm sóc
quản lý cây chưa tốt dẫn đến cây phát triển kém là những nguyên nhân ảnh hưởng
đến mĩ quan chung của khu di tích.
Tổng thể khu di tích lịch sử Côn Sơn có ý nghĩa và giá trị lịch sử, văn hóa,
tín ngưỡng rất lớn, nhưng nổi bật và đáng chú ý hơn cả là các công trình kiến trúc
lịch sử được các ban ngành và lãnh đạo tỉnh, nhà nước quan tâm đầu tư, tôn tạo và
quy hoạch lại trong nhiều năm nay. Điều đáng nói là rừng thông không chỉ là một di
tích lịch sử mà nó còn có tác dụng tạo cảnh quan, hình thành hệ sinh thái, cân bằng
khí hậu, cân bằng đất và nước, hệ thực vật này cần phải được bảo vệ và gìn giữ thì
lại được quan tâm rất ít, cùng với thời gian, sự thay đổi của khí hậu và những tác
động bất lợi của con người dù đó là vô tình hay cố ý thì cũng làm phá vỡ hệ sinh
thái rừng, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của hệ thực vật, đặc biệt
là làm mất khả năng phục hồi và tái sinh rừng. Chính vì không khai thác triệt để giá
62
trị của khu di tích mà quá trình quy hoạch lại cảnh quan đã có nhiều sự bất hợp lý,
hạng mục cây xanh không được tận dụng những gì có sẵn cũng như không tiến hành
bổ sung nâng cao chất lượng, số lượng loài để sắp xếp, bố trì hài hòa, hợp lý với các
công trình kiến trúc vốn dĩ đã được tôn tạo, xây dựng khá hoành tráng và tôn
nghiêm. Chính vì vậy, khách thập phương đến đây chủ yếu là thăm quan các địa
điểm di tích, để thắp hương, dâng lễ cầu may mắn và tham gia vào các lễ hội được
tổ chức hàng năm tại khu di tích Côn Sơn chứ không hề có khái niệm hay mục đích
là đến với rừng, đến với thiên nhiên để ngắm cảnh rừng thông, tìm hiểu sự kỳ thú,
sự đặc biệt của hệ thực vật rừng nơi đây.
Theo điều tra, số lượng và chủng loại cây cổ thụ rất nghèo nàn, chỉ có cây
Thông và cây Đại là cây cổ thụ. Chiều cao dao động từ 5-15m, Dgốc từ 40-80cm.
Những cây này hiện vẫn sinh trưởng phát triển bình thường, tuy nhiên cũng đã có
biểu hiện của sự già cỗi và sâu bệnh xâm nhập. Số lượng cây cổ thụ không còn
nhiều, nguyên nhân là do khai thác bừa bãi, ý thức bảo vệ, gìn giữ của người dân và
các cơ quan có chức năng còn yếu, thiếu tính triệt để và dứt khoát. Nhiều cây bị gãy
đổ do mưa bão, số khác thì do bị sâu bệnh, do quá già dẫn đến cây bị chết.
Số lượng cây di tích rất ít, trồng không có quy hoạch cụ thể, việc chăm sóc, bảo
vệ cây di tích cũng không được quan tâm đúng mức dẫn đến cảnh quan rời rạc, không
thể hiện được hết ý nghĩa lịch sử cũng như vẻ đẹp tự nhiên của cây. Đây cũng là sự thiếu
sót khi không khai thác được triệt để yếu tố cảnh quan của cây di tích.
Từ những vấn đề đã điều tra, nghiên cứu ở trên ta thấy được yếu tố thực vật có
những ảnh hưởng rất lớn đến cảnh quan chung cũng như cảnh quan riêng tại từng
điểm di tích. Để cải tạo cảnh quan và duy trì tính ổn định cảnh quan một cách bền
vững thì biện pháp hiệu quả nhất và dễ tác động nhất đó là cải tạo hệ thực vật trong
khu di tích Côn Sơn. Để làm được việc này cần tiến hành từng công đoạn, thực hiện
một cách triệt để và đồng bộ công tác cải tạo cảnh quan từ việc chọn loại cây, độ
tuổi cây, cách bố trí, kĩ thuật trồng, cách chăm sóc cũng như công tác quản lý cho
từng loại cây, từng khu vực. Chỉ có như vậy mới có thể giữ được rừng tự nhiên, cải
63
tạo được cảnh quan, mang lại giá trị lớn về mặt sinh thái, cảnh quan, lich sử, văn
hóa.
2. Tồn tại
Khu di tích Côn Sơn hiện nay do hai cơ quan quản lý, đó là Ban quản lý khu di
tích Côn Sơn và Ban quản lý rừng Chí Linh, với hai mục đích và cách thức quản lý khác
nhau đã làm hạn chế rất lớn đến việc bảo vệ và nâng cao các di tích Côn Sơn.
Với quy mô khu di tích khá rộng trong khi đó đội ngũ cán bộ quản lý lại quá
ít so với khối lượng công việc cũng như yêu cầu kỹ thuật đặt ra. Điều này làm ảnh
hưởng đến chất lượng công việc như bảo vệ, tôn tạo, duy trì hay bổ sung, quy hoạch
lại các khu di tích sao cho hợp lý, hiệu quả và thể hiện được tính chất uy nghi,
trang nghiêm của khu di tích.
Tất cả những số liệu và những đánh giá về hệ thực vật, cảnh quan, công tình
kiến trúc đều thu thập được từ điều tra thực tế thông qua việc khảo sát khu di tích
Côn Sơn, thăm hỏi người dân địa phương, lấy thông tin từ Ban quản lý khu di tích
Côn Sơn. Tuy nhiên những số lượng loài và chủng loại loài chỉ mang tính tương đối
vì không có bất cứ một số liệu nào cụ thể từ Ban quản lý khu di tích cũng như ban
quản lý rừng Chí Linh. Đây chính là điểm yếu trong khâu quản lý rừng và cảnh
quan khu di tích tại địa phương này, chính điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho
việc tìm hiểu nghiên cứu hệ thực vật rừng nơi đây.
Thêm vào đó, hàng năm khu di tích Côn Sơn tổ chức các lễ hội thu hút rất
nhiều khách thập phương đến thăm quan, đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm ảnh hưởng đến hệ thực vật rừng và cảnh quan khu di tích. Cách tổ chức còn
nhiều thiếu sót, thiếu chặt chẽ đã làm cho môi trường bị ô nhiễm, nhiều hình ảnh
không mấy thiện cảm đã làm giảm giá trị của khu di tích Côn Sơn như xả rác, bẻ
cành, hái hoa, hay những hàng quán mọc ra bừa bãi không có sự quản lý cụ thể, hợp
lý đã làm mất mỹ quan chung cho toàn bộ khuôn viên nơi đây.
3. Kiến nghị
Cần có sự thống nhất trong khâu quản lý, bảo vệ khu di tích Côn Sơn giữa
Ban quản lý khu di tích Côn Sơn và Ban quản lý rừng Chí Linh.
64
Tăng tính đa dạng sinh học cho hệ thực vật rừng thông qua công tác trồng bổ
sung cây rừng với những loại cây lâu năm, có nhiều giá trị sinh thái, cảnh quan
nhưng vẫn trên quan điểm giữ cây Thông làm chủ đạo của rừng.
Cần hạn chế trồng cây Keo vì đây là loại cây có tuổi thọ ngắn, không phù
hợp với điều kiện đất đai và địa hình nơi đây, thêm vào đó là không có giá trị tạo
cảnh quan.
Cần xây dựng vườn ươm để duy trì nguồn giống và nguồn cây để luôn chủ động
trong công tác trồng bổ sung thay thế những khu vực còn trống hoặc những cây bị chết
nhằm đảm bảo tính ổn định cho hệ sinh thái cũng như giá trị lịch sử của khu vực.
Tuy nhà nước đã có quyết định quy hoạch tổng thể khu di tích Côn Sơn
nhưng cần phải có kế hoạch cụ thể. Qúa trình quy hoạch phải đảm bảo tính nguyên
văn và tính bền vững, trong đó yếu tố cảnh quan phải có sự hài hòa, hợp lý giữa cây
xanh và các công trình kiến trúc sao cho khu di tích vừa giữ được vẻ tự nhiên vừa
mang phong thái trang nghiêm của di tích lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000), Thực vật rừng, Giáo trình ĐHLN, NXB
Nông nghiệp, Hà Tây.
2. Ngô Quang Đê (2003), Quản lý chăm sóc cây di tích, cây cổ thụ, Việt Nam hương
sắc, (121), 20-21, Hà Tây.
3. Ngô Quang Đê, Nguyễn Xuân Quát, Nguyễn Hữu Vĩnh (2001), Trồng rừng, bài
giảng dùng cho cao học Lâm nghiệp và nghiên cứu sinh.
4. Ngô Quang Đê, Triệu Văn Hùng, Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Hữu Lộc, Lâm Xuân
Sanh, Nguyễn Hữu Vĩnh (1992), Lâm sinh học, tập 1,2, Giáo trình
trường ĐHLN, Hà Tây.
5. Ngô Quang Đê (2005), Vận dụng nguyên lý cảnh quan sinh thái rừng vào kinh
doanh rừng nhân tạo, Tài liệu hội nghị khoa học công nghệ Lâm nghiệp
20 năm đổi mới 1986-2005, Hà Nội.
6. Ngô Quang Đê (2005), tài liệu dịch từ cuốn Viện lâm sinh thái học, của Lãnh
Bình Sanh, Trung Quốc.
7. Nguyễn Hoàng Giang (2007), Nghiên cứu hệ thực vật khu di tích Đền Hùng và
biện pháp quản lý, chăm sóc nhằm phát triển bền vững khu hệ thực vật
này, luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp, trường ĐHLN, Hà Tây.
8. Hoàng Hòe, Phạm Đình Thái, Đặng Huy Quỳnh, Vũ Thành Mô, Vũ Văn Can
(1998), Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng Việt Nam, NXB Giáo dục
13. Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam I, II, III, NXB Trẻ, Hà Nội.
9. Phạm Xuân Hoàn, Triệu Văn Hùng, Phạm Văn Điển, Nguyễn Trung Thành, Võ
Đại Hải (2004), Một số vấn đề trong lâm học nhiệt đới, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
10. Nguyễn Bá Khiêm (2005), Khu di tích lịch sử và rừng quốc gia Đền Hùng, sở
văn hóa thông tin tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.
11. Nguyễn Thị Bích Liên (2006), Tìm hiểu tình hình chăm sóc, quản lý cây cổ thụ,
cây di tích tại khu vực chùa Yên Tử - Uông Bí, Quảng Ninh.
12. Quốc hội Việt Nam (1991), Luật bảo vệ và phát triển rừng, 19/8/1991, Hà Nội.
13. Quốc hội Việt Nam (1993), Luật bảo vệ môi trường, 27/12/1993, Hà Nội.
14. Trần Văn Mão, Phạm Bình Quyền (1998), Bảo vệ rừng, Bài giảng dùng cho cấp
học Lâm nghiệp và nghiên cứu sinh.
15. Hoàng Kim Ngũ, Phùng Ngọc Lan, Triệu Văn Hùng (2001), Lâm học nhiệt đới,
Bài giảng dùng cho cấp học Lâm nghiệp và nghiên cứu sinh.
16. Vũ Thị Bích Thuận (2005), Nghiên cứu hệ thực vật khu di tích Phủ Chủ Tịch và
biện pháp quản lý, chăm sóc nhằm phát triển bền vững khu hệ thực vật
này, luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp, trường ĐHLN, Hà Tây.
17. Nguyễn Nghĩa Thìn (2008), Đa dạng sinh học, NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
18. Tổng cục du lịch, TT công nghệ thông tin du lịch (2002), Non nước Việt Nam,
Hà Nội.
19. Thái Văn Trừng (2000), Những hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
20. Trường Đại học Kiến trúc (2005), Kiến trúc cảnh quan và cây xanh đô thị, Hà Nội.
21. Vũ Văn Vụ, Vũ Thanh Tâm, Hoàng Minh Tấn (1999), Sinh lý học thực vật,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Website
22. http://www.baomoi.com/Ve-Con-Son-nho-Nguyen-Trai/137/4121808.epi
23.http://baothaibinh.com.vn/38/5210/Con_Son__khu_di_tich_dac_biet_quan_trong
_cua_Quoc_gia.htm
24. http://consonkiepbac.org.vn/c131/quan-the-khu-di-tich?trang=2
25. http://diemhenviet.com/hai-duong-451/di-tich-con-son-917/
26. http://www.hoangnguyen.vn/ecom/vn/asp/ServiceDetail.asp?ID=161