ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC -------------------

NGUYỄN THỊ LOAN

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ

TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN XUÔI

LÃNG MẠN 1930 – 1945 CHO HỌC SINH LỚP 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC -------------------

NGUYỄN THỊ LOAN

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ

TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN XUÔI LÃNG

MẠN 1930 – 1945 CHO HỌC SINH LỚP 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

( BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60140111

Người hướng dẫn khoa học: TS. Tôn Quang Cƣờng

HÀ NỘI – 2016

MỤC LỤC

Lời cảm ơn.......................................................................................................................................i

Danh mục viết tắt...........................................................................................................................ii

Danh mục bảng.............................................................................................................................iii

Mục lục..........................................................................................................................................iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu............................................................................4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................7

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................7

6. Cấu trúc luận văn..........................................................................................8

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................................9

1.1. Cơ sở lý luận.............................................................................................9

1.1.1. Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề................................................................9

1.1.2. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề .......................10

1.1.3. Vai trò của câu hỏi nêu vấn đề ............................................................17

1.1.4. Phân loại hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong tác phẩm văn chương.....19

1.1.5. Tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 -1945 ở lớp 11 với việc ứng dụng

câu hỏi nêu vấn đề...........................................................................................23

1.1.6. Xu hướng tiếp cận liên môn trong dạy học...........................................24

1.2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................28

1.2.1. Đặc điểm tâm lí của học sinh THPT.....................................................28

1.2.2. Thực trạng áp dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học hiện nay .........32

1.2.3. Học sinh với việc vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong tác phẩm văn xuôi

i

lãng mạn 1930 -1945 ở lớp 11........................................................................34

CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC TÁC

PHẨM VĂN XUÔI LÃNG MẠN 1930 – 1945 Ở LỚP 11 36

2.1. Phân tích mục tiêu dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 - 1945

trong chƣơng trình THPT 36

2.1.1 Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn 36

2.1.2 Mục tiêu dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 -1945 trong

chương trình THPT 36

2.2. Cách xây dựng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn xuôi

lãng mạn 1930 – 1945 37

2.2.1. Dựa vào tình huống của tác phẩm và tính cách của nhân vật 37

2.2.2. Dựa vào đặc trưng sáng tạo trong kết cấu và nghệ thuật sử dụng chi tiết

trong tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 40

2.3. Những yêu cầu chính đối với câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học các tác

phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 41

2.3.1. Câu hỏi nêu vấn đề trong tình huống có vấn đề 41

2.3.2. Câu hỏi nêu vấn đề phải bám sát giá trị nội dung, nghệ thuật 43

2.3.3 Câu hỏi nêu vấn đề phải dựa vào đặc điểm tâm lý tiếp nhận của học sinh

45

2.4. Khai thác các vấn đề trong quá trình phân tích tác phẩm “Hai đứa

trẻ” và “ Chữ ngƣời tử tù” 46

2.4.1. Những tư tưởng, quan điểm của tác giả Nguyễn Tuân và Thạch Lam

trước cách mạng tháng Tám – 1945 46

2.4.2. Sự sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và Nguyễn

Tuân 48

2.5. Các bƣớc chuẩn bị cho việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ

học tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 51

2.5.1. Xác định vấn đề, tình huống có vấn đề ................................................51

2.5.2. Xây dựng tình huống có vấn đề............................................................53

ii

2.5.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề................................................54

2.6. Điều kiện để vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các tác

phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 -1945...........................................................59

2.6.1 Xây dựng môi trường học tập tạo tâm thế cho học sinh.........................59

2.6.2. Một số kỹ thuật sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để kiểm tra, đánh giá......61

CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM...................................................................63

3.1. Mục đích thực nghiệm..............................................................................63

3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm...........................................................63

3.3. Nội dung thực nghiệm..............................................................................63

3.4. Chuẩn bị công việc thực nghiệm..............................................................63

3.5. Tiến trình thực nghiệm ..................................................... 64

3.5.1 Công việc thực nghiệm..........................................................................64

3.5.2. Mô tả hoạt động triển khai dạy học thực nghiệm..................................64

3.6. Thuyết minh hệ thống câu hỏi trong bài thực nghiệm..............................66

3.7. Kết quả thực nghiệm và đánh giá.............................................................69

3.7.1. Đánh giá khả năng tiếp thu bài của học sinh bằng bài kiểm tra…....…69

3.7.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng phương

pháp quan sát………………………...........………………………………....72

3.7.3. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng phương

pháp phỏng vấn……………………...............................................................74

3.8. Thành công và hạn chế của thực nghiệm.................................................74

3.8.1 Những thành công của thực nghiệm.......................................................74

3.8.2. Những vấn đề còn hạn chế....................................................................75

3.9. Một số điểm cần lưu ý khi sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học....76

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.....................................................................................78

TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................81

iii

PHỤ LỤC...................................................................................................................................83

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những

yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới

cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những

định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang

tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc

hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người

học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự

lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của

người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà

trường phổ thông.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy

và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận

dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một

chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự

học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát

triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập

đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để

thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo theo

Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới

phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một

số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.

Luật giáo dục (điều 28) yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông

phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với

đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn

1

luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem

lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Đổi mới PPDH là một trọng tâm của

đổi mới giáo dục.

Môn Ngữ Văn ở trường THPT nói chung, ở chương trình Ngữ Văn 11

nói riêng là sự tích hợp ba phân môn: Đọc Văn, Tiếng Việt và Làm Văn. Mỗi

phân môn có vai trò, nhiệm vụ và vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức

khoa học, rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học

sinh. Trong đó, phân môn Đọc Văn, nhất là các giờ đọc- hiểu Văn bản văn

học (VBVH) có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình

cảm và năng lực thẩm mỹ cho học sinh. Ở một mức độ nhất định, các giờ đọc-

hiểu VBVH khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh trong

hoạt động dạy cũng như hoạt động học. Sự yêu thích môn Ngữ Văn phần lớn

cũng bắt nguồn từ niềm say mê các giờ Đọc-hiểu này. Tạo được tình huống

có vấn đề trong giảng văn là tạo được một trạng thái tâm lí văn học cần thiết

để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn. Xây dựng

được tình huống có vấn đề là một hoạt động sư phạm phù hợp với mục đích

dạy học mới hiện nay, vừa thích ứng với quy luật cảm thụ văn học và

đặc trưng của văn học.

Tuy thế, trong một số năm gần đây, không khí và hiệu quả dạy- học

Ngữ Văn ở nhiều Nhà trường thực sự không được như mong muốn của cả

người dạy lẫn người học. Không khí nhiều giờ đọc- hiểu trở nên tẻ nhạt, nặng

nề, “thiếu lửa”. Nhiều giáo viên dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn học sinh

thì thụ động, lười đọc, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây dựng bài hoặc nếu bị

buộc phát biểu thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học sinh viết những

câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu

quả dạy học Ngữ Văn vì thế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Qua hoạt động dự

giờ các đồng nghiệp tôi thấy là do nhiều nguyên nhân: Nhiều giáo viên văn

chưa sử dụng được hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài đủ sức lôi cuốn học

sinh tham gia giờ học với tinh thần chủ động, tích cực và say mê. Cá biệt, có

2

giáo viên thường xuyên nêu những câu hỏi không đạt yêu cầu về tính khoa

học, tính sư phạm khiến học sinh và đôi khi cả giáo viên dự giờ cũng không

biết phải trả lời như thế nào, hay có những câu hỏi chỉ mang tính chất tái hiện

kiến thức, không phong phú, đa dạng. Thậm chí, có giáo viên chưa biết khai

thác, tận dụng triệt để và linh hoạt các câu hỏi có sẵn trong SGK. Ở trường

THPT Lương Thế Vinh là một trường dân lập, chất lượng đầu vào của học

sinh thấp nên việc sử dụng các câu hỏi nhằm phát huy sự sáng tạo, tích cực,

chủ động trong giờ học của học sinh là một vấn đề cần chú trọng. Việc sử

dụng những câu hỏi yêu cầu học sinh phải dùng tri thức đã biết để tìm tòi phát

hiện tri thức mới hoặc phải tổng hợp, bao quát tri thức trên nhiều lĩnh vực,

phải trăn trở suy ngẫm để mở rộng, xoáy sâu vấn đề hoặc vận dụng, liên hệ

VBVH vào thực tế xã hội, thực tiễn đời sống lại càng khiêm tốn.

Để học sinh chủ động, tích cực, sôi nổi, hào hứng trong giờ học văn

cũng như nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn, tôi đã

tích cực sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong đọc-hiểu VBVH. Và đặc biệt hơn

chúng tôi quan tâm tới việc giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 -

1945 bởi việc dạy các tác phẩm này đang gặp nhiều khó khăn do cách biệt về

hoàn cảnh lịch sử, đời sống, quan điểm nghệ thuật giữa các nhà văn, giữa các

thời đại khác nhau. Bên cạnh đó, tình trạng thầy đọc trò chép, thầy giảng trò

nghe là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh không

hứng thú trong giờ học. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi nhằm kích thích sự suy

nghĩ tìm tòi của học sinh, buộc các em phải vận dụng những thao tác tư duy

khác nhau, phải sáng tạo, tìm tòi, phát hiện, giải thích, chứng minh và kết luận

vấn đề. Rõ ràng đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực và hoạt

động tư duy của học sinh qua giờ học. Vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề

trong phân tích tác phẩm văn học ở bậc THPT đã được thực hiện từ khá lâu.

Thế nhưng không phải tiết dạy nào cũng thành công bởi cái khó nhất là làm

thế nào nêu lên tình huống có vấn đề nhằm đưa học sinh (đối tượng trung

tâm) vào quá trình tư duy. Một bài văn, một tác phẩm văn chương, một số

3

phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy tư của mỗi người khi chính người

đó nhận ra trong đó có một tình huống, một vấn đề, một tâm trạng có liên

quan đến tầm suy nghĩ hay rung động của mình. Tác phẩm nào cũng có vấn

đề cả. Nhưng không phải bất kì vấn đề nào trong tác phẩm cũng tự nhiên trở

thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người đọc - học sinh.

Thực tế nhiều giáo viên khi đặt câu hỏi lại mặc định là có vấn đề nhưng

thực chất lại không có vấn đề. Vì vậy thông qua đề tài của mình, chúng tôi sẽ

xác lập một hệ thống khoa học về việc đặt câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học

và áp dụng lý thuyết đó vào việc “Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề

trong dạy học tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 cho học sinh lớp 11”

nhằm nâng cao hiệu quả của giờ học.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học không còn là vấn đề mới

trên thế giới. Ngay từ những năm trước Công nguyên vấn đề này đã gắn liền

với tên tuổi của nhà triết học Socrát (470 - 390 TCN). Khổng Tử (551 - 479

TCN) cho rằng khi dạy học là đưa người học vào tình huống mâu thuẫn, tức

là đặt ra cho họ những câu hỏi bẫy để kích thích cho người học.

Trong phương pháp luận dạy học văn của Z.Rez. (Bản dịch của Nxb

GD – Hà Nội,1983).Tác giả đã trình bày khái niệm dạy học nêu vấn đề và

câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn chương. Tác giả cũng chỉ rõ:

Câu hỏi nêu vấn đề là nhân tố tạo ra tình huống có vấn đề. Câu hỏi phải

đảm bảo tiêu chí: “có mâu thuẫn”, “phát hiện được bình diện thứ hai của sự

kiện”, “phù hợp với bản chất của tác phẩm nghệ thuật và được học sinh quan

tâm.”

Bàn về hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa, V. A. Kôvalép

cho rằng: Mỗi chương sách giáo khoa được kết thúc bằng một hệ thống câu

hỏi và bài tập. Hệ thống câu hỏi và bài tập này sẽ giúp cho các bạn học sinh

phân tích sâu hơn tác phẩm, hiểu thấu đáo những nội dung trong các phần của

sách giáo khoa… Làm những câu hỏi và bài tập này bạn sẽ nắm được tri thức

4

một cách hệ thống. Những câu hỏi và bài tập này được sắp xếp một cách có

thứ tự. Mỗi câu hỏi mới lại phức tạp hơn, vì nó đều có lôgíc bắt nguồn từ các

bài tập và câu hỏi trước đó.

Qua ý kiến trên, V. A. Kôvalép chú ý tới hệ thống câu hỏi và bài tập

trong sách giáo khoa với mục đích, yêu cầu, tác dụng và đặc điểm của nó.

Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi, bài tập trong

sách giáo khoa văn học, tác giả A.C.Acbaseva quan niệm: Những câu hỏi, bài

tập xếp đặt trong sách giáo khoa văn học có thể góp phần kích thích và phát

triển tình cảm, đạo đức của học sinh; hình thành phương pháp lịch sử văn học

đối với các tác phẩm nghệ thuật; giúp đỡ học sinh phát triển và làm phong

phú lời nói.

Ở Liên Xô, các tài liệu đề cập đến phương pháp xây dựng và sử dụng

câu hỏi trong dạy học của các tác giả như: P.B. Gophman, O.Karlinxki,

B.P.Exipop, M.A.Danilop, N.M.Veczilin. Cũng đi sâu vào nghiên cứu và vấn

đề này còn có một số nhà giáo dục như: Skinner (Mỹ), Okon (Ba Lan)... Gần

đây đáng chú ý có công trình Đặt câu hỏi có hiệu quả cao (HEO) cách thức

giúp học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập của Ivan Hanel.

Ở nước ta vấn đề nghiên cứu phương pháp xây dựng câu hỏi trong dạy

học môn văn được đề cập trong một số công trình như: “Phương pháp dạy

học Văn” của Phan Trọng Luận (Chủ biên), tác giả đề cập tới đặc điểm, vai

trò và nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống câu hỏi gắn với phương pháp

dạy học. Tác giả bàn nhiều đến tiêu chí câu hỏi nêu vấn đề và điều đó có đóng

góp đáng kể, làm phong phú thêm cho đề tài nghiên cứu.

Trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà

trường” (2009) của Nguyễn Viết Chữ. Tác giả đề cập đến các loại câu hỏi

trong dạy học các thể loại như: tự sự, trữ tình, dân gian. Tác giả cũng phân

loại hệ thống câu hỏi cảm xúc vật chất, câu hỏi nội dung, câu hỏi tưởng

tượng, sáng tạo.

Đi sâu vào trình bày những biện pháp nhằm rèn luyện tư duy cho học

sinh, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn đã đưa ra cuốn “Rèn luyện tư duy sáng tạo

trong dạy học tác phẩm văn chương”. Tác giả có phân loại các loại câu hỏi

5

trong dạy học Văn. Theo tác giả, “Việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong quá

trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói

cách khác là mở tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học

sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức”.

Khi tiến hành biên soạn sách giáo khoa cải cách, nói về Phương hướng

biên soạn sách giáo khoa cải cách lớp 10, Nguyễn Lộc đã đề cập đến vấn đề

câu hỏi và bài tập: Tuyệt đối tránh những câu hỏi mà học sinh không cần

nghiên cứu văn bản cũng có thể trả lời được đại khái, hay những câu hỏi chỉ

chú trọng mặt đạo đức xã hội của tác phẩm mà hoàn toàn coi nhẹ giá trị

thẩm mỹ của tác phẩm. Phải nghiên cứu thật kỹ các văn bản giảng văn để nêu

lên những câu hỏi cụ thể, gợi mở để học sinh có thể trả lời từng bước từ chi

tiết đến khái quát. Bám sát câu hỏi, học sinh tự mình phát hiện ra cái hay, cái

đẹp của văn bản. Ý kiến trên đã thể hiện quan niệm về vai trò, ý nghĩa và tầm

quan trọng của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa Văn học kể cả nội dung

khoa học cũng như phương pháp sư phạm.

Đi vào cụ thể hơn về vấn đề câu hỏi trong dạy học Văn là bài viết “Câu

hỏi trong giảng văn” của Trương Dĩnh. Tác giả đã phân tích khái niệm vấn đề,

vấn đề trong học tập và vấn đề trong phân tích văn học. Theo ông, để diễn đạt

vấn đề hay đề ra nó, người ta dùng hình thức đặt câu hỏi. Nội dung vấn đề và câu

hỏi nêu vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đặt ra được các vấn đề dưới dạng

câu hỏi là một nghệ thuật của lao động sáng tạo trong phân tích nêu vấn đề.

Cùng với nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, trường Đại học Giáo dục

đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo đề cập vấn đề dạy học với câu hỏi hiệu quả.

Hội thảo đã cung cấp nhiều bài nghiên cứu có giá trị về vấn đề này cũng như

đưa ra những tiêu chí đánh giá câu hỏi có hiệu quả.

Trên đây là một số khái quát về vai trò của câu hỏi và trong dạy học văn

qua một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Từ việc nghiên cứu

trên có thể thấy việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học văn là vấn

đề không mới. Nhưng các công trình chỉ dừng lại ở việc lý luận về câu hỏi.

Còn việc “xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn

6

xuôi lãng mạn 1930 - 1945 cho học sinh lớp 11” thì chưa có công trình hay

- Sách tham khảo cho giáo viên cần chú ý thêm hướng dẫn ứng dụng câu

hỏi nêu vấn đề. Mỗi bài soạn là một bản thiết kế công việc của thầy và trò;

thầy tổ chức hướng dẫn, trò tìm tòi khám phá trong đó câu hỏi nêu vấn đề là

một phương tiện quan trọng để giáo viên triển khai kiến thức đồng thời dẫn

dắt học sinh tìm tòi tri thức mới một cách sáng tạo. Sách Văn học của học

sinh, phần hướng dẫn chuẩn bị bài có câu hỏi nhằm giúp học sinh tìm tòi

những kiến thức, kỹ năng liên quan đến câu hỏi nêu vấn đề và là cơ sở để giải

quyết câu hỏi nêu vấn đề. Làm như vậy, giáo viên sẽ có cơ hội tiếp cận với

câu hỏi nêu vấn đề đồng thời nhanh chóng ứng dụng được câu hỏi nêu vấn đề

và học sinh mới có vốn kiến thức cũng như tâm thế để giải quyết vấn đề ở

trên lớp.

- Trong dạy học văn, đề kiểm tra 15 phút, đề tập làm văn, kiểm tra học

kỳ đều phải mang tính sáng tạo, nghĩa là yêu cầu học sinh phải suy luận chứ

không phải tái hiện lại những kiến thức đã có trong tài liệu. Có như vậy, việc

ứng dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học văn mới thực sự thấm sâu vào mọi

hoạt động dạy học văn ở nhà trường THPT. Đồng thời, mới khích lệ học sinh

có ý thức tham gia vào công cuộc đổi mới dạy - học một cách triệt để.

Trong quá trình tiến hành nghiên cứu luận văn, mặc dù chúng tôi đã rất

cố gắng và nghiêm túc trong quá trình thực hiện đề tài song không khỏi có

những ngộ nhận, thiếu sót do hạn chế về thời gian nghiên cứu. Vì vậy, chúng

tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu và thầy cô để

những định hướng của đề tài luận văn thực sự có hiệu quả thiết thực trong

7

giảng dạy thực tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A.Lecxcep (chủ biên) (1976), Phát triển tư duy học sinh. Sách dịch của Nxb

GD.

2. Dự án Việt – Bỉ (2009), Dạy và học tích cực – Một số phương pháp và kỹ

thuật dạy học, Nxb Sư phạm, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Chỉnh (1995), Vấn đề đặt câu hỏi của giáo viên đứng lớp.

Kiểm tra đánh giá việc học tập của học sinh, Hà Nội.

4. Nguyễn Viết Chữ (2010), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường. Nxb Giáo dục.

Hồ Ngọc Đại (1993), Tâm lí học dạy học, Nxb GD.

5. Phan Cự Đệ (2002), Bình giảng văn học Việt Nam hiện đại. Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

6. Hà Minh Đức (chủ biên) (1996), Lí luận văn học, Nxb GD.

7. Nguyễn Văn Đƣờng (2007), Thiết kế bài giảng ngữ văn 11, tập1 Nxb Hà Nội.

8. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD.

9. Nguyễn Trọng Hoàn (2001), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác

phẩm văn chương. Nxb Giáo dục.

10. Nguyễn Trọng Hoàn (2005), Đọc – hiểu văn bản ngữ văn , Nxb GD.

11. Trần Bá Hoành (1996), Phương pháp tích cực, TC. NCGD số 3.

12. Đặng Vũ Hoạt (1994), Một số vấn đề về dạy học nêu vấn đề, TTKHGD,Số

45.

13. Lê Văn Hồng (1997), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb

ĐHQG,HN.

14. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo Dục.

15. Nguyễn Thanh Hùng (2011), Kĩ năng đọc hiểu văn, Nxb Đại học Sư phạm.

16. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (11.1995), Góp phần đổi mới việc dạy học

TPVH ở trường PTTH. (trích yếu hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy

học văn ở THPT

8

17. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (1998), Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn

học ở nhà trường. Nxb Giáo dục.

18. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (2001), Dạy học văn ở nhà trường phổ thông.

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

19. I.F. Kharlamốp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế

nào, Sách dịch của Nxb GD.

20. I.Ia.Lence( 1997 ), Dạy học nêu vấn đề. Nxb Giáo dục Việt Nam.

21. I.Ia.Lence (1981), Những cơ sở lí luận dạy học của phương pháp dạy học,

Sách dịch của Nxb GD.

22. Z. Rez (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Sách dịch của Nxb GD.

23. Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1998), Lí luận văn học, Nxb GD.

24. Phan Trọng Luận ( 1999), Phương pháp dạy học Văn. Nxb Đại học Quốc

Gia Hà Nội.

25. Phan Trọng Luận ( 2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng. Nxb Đại

học Sư phạm.

26. Machiuskin (1972), Tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học.

Nxb Giáo dục Việt Nam.

27. Nguyễn Đăng Mạnh (2007), Phân tích tác phẩm văn học 11. Nxb Giáo dục.

28. Makhơnutôp (1972), Lý luận và thực hành dạy học nêu vấn đề. Nxb Giáo

Dục Việt Nam.

29. Nhiều tác giả ( 2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 11. Nxb Giáo dục.

30. Nhiều tác giả (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 11. Nxb Giáo dục.

31. Nhiều tác giả (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn

lớp 11. Nxb Đại học Sư phạm.

32. Vũ Nho (1999), Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn ở trung học

cơ sở. Nxb Giáo Dục

33. Trần Đình Sử (2010), Lý luận và phê bình văn học. Nxb Giáo Dục Việt Nam.

34. Văn Tâm (1991), Giảng văn Văn học Việt Nam. Nxb Giáo dục.

35. V. Ôkôn (1976), Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề. Nxb Giáo Dục,

9

Hà Nội.