BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

---- (cid:75) ---

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

CẤU TRÚC VÀ TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng

Mã số:60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS.PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010

Trang 1

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Danh mục các bảng, biểu

Danh mục các hình vẽ

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4

1 SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ..................................................................... 4

2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .......................................................................... 5

3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 5

4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 5

5 Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỀN ................................................... 6

6 BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................. 6

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ TÁI CẤU TRÚC

TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1 KHÁI NIỆM CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ TÁI CẤU TRÚC TÀI

CHÍNH ............................................................................................................. 7

1.2 TẬP ĐOÀN VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ .......... 9

1.2.1 Tập đoàn và cấu trúc tài chính tập đoàn kinh tế .................................... 9

1.2.1.1 Khái niệm .................................................................................... 9

1.2.1.2 Đặc điểm cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế .................... 11

1.2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của tập đoàn

kinh tế ....................................................................................... 13

1.2.2 Tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế .......................................... 16

1.3 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ ..................................... 17

Trang 2

1.3.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những yêu cầu đặt ra đối với tái

cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế ................................................ 18

1.3.2 Nội dung của tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế trong bối

cảnh khủng hoảng ................................................................................ 19

1.4 KINH NGHIỆM CẤU TRÚC VÀ TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH MỘT

SỐ TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI ........................................... 22

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM

2.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP

ĐOÀN Ở VIỆT NAM ................................................................................... 32

2.2 THỰC TRẠNG CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH

TẾ VIỆT NAM .............................................................................................. 34

2.2.1 Thực trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước

Việt nam .............................................................................................. 34

2.2.2 Thực trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân .......... 51

2.3 THỰC TRẠNG TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CỦA CÁC TẬP

ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM KHI CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH XẢY RA .......................................................................................... 61

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU

3.1 NHỮNG THÁCH THỨC CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI

CHÍNH TOÀN CẦU ĐẾN CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM ..................................................................... 67

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH .................................................................................. 69

3.2.1 Mô hình tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam ............. 69

3.2.2 Hệ thống các giải pháp liên quan đến quy định, chính sách vĩ mô

của Nhà nước ....................................................................................... 72

3.2.2.1 Đổi mới cơ chế quản lý, giám sát của nhà nước đối với các

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

tập đoàn kinh tế ........................................................................ 72

Trang 3

3.2.2.2 Các giải pháp phối hợp ............................................................ 77

3.2.3 Hệ thống các giải pháp từ phía các tập đoàn kinh tế ........................... 78

3.2.3.1 Xây dựng một cấu trúc tài chính mang tính “chiến lược” để đối phó với khủng hoảng và ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng xảy ra. ............................................................................ 78

3.2.3.2 Thực hiện đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa các tập

đoàn kinh tế .............................................................................. 79

3.2.3.3 Tăng cường công tác kiểm soát tài chính trong nội bộ tập

đoàn .......................................................................................... 80

3.2.3.4 Phát huy vai trò của các công ty tài chính trong tập đoàn ..... 83

KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................................89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Trang 4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Khủng hoảng tài chính diễn ra - cuộc khủng hỏang tài chính 2008-2009

- ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều

nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước. Nguyên nhân của cuộc

khủng hoảng và động thái tái cấu trúc tài chính được đặt ra như một đề tài nóng

ở tất cả các cấp độ: thế giới, khu vực, quốc gia và doanh nghiệp.

Mặc dù được đánh giá là không bị tác động trực tiếp nhưng trong quá

trình toàn cầu hóa sâu sắc ngày nay các doanh nghiệp Việt nam cũng đã, đang

và sẽ chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng. Để thấy được mức

độ ảnh hưởng như thế nào và nên hành động đối phó ra sao đòi hỏi mỗi doanh

nghiệp phải đánh giá toàn diện “sức khỏe” của mình.

Tập đoàn kinh tế Việt nam - một “tổ hợp” các doanh nghiệp trên cơ sở

quan hệ đầu tư vì mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh

tranh và tối đa hóa lợi nhuận- mới hình thành và phát triển trong những năm

gần đây được kỳ vọng như những “quả đấm thép” trong quá trình công nghiệp

hóa –hiện đại hóa đất nước. Vai trò này được các tập đoàn kinh tế đảm nhận

đến đâu thì cần phải đánh giá nhưng những hạn chế của họ thì đã bộc lộ và

đang trở thành mối quan tâm của xã hội như các vấn đề về nợ; về hiệu quả sử

dụng vốn nhà nước; về cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, phát triển đa ngành nhưng

có xu hướng thiên về các ngành nhiều rủi ro như tài chính, ngân hàng, bất động

sản; về hệ thống quản lý tài chính trong từng tập đoàn chưa minh bạch, khó

kiểm soát, gây thất thoát vốn. . .

Rõ ràng, cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt Nam đang tiềm

ẩn những rủi ro, cần phải đánh giá thực trạng và tiến hành tái cấu trúc để tránh

sự đổ vỡ mang tính hệ thống, đặc biệt trong bối cảnh khó khăn của khủng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.

Trang 5

Từ những lý do nêu trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Cấu trúc và tái

cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam sau khủng hoảng tài chính toàn

cầu” là cần thiết.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

− Hệ thống hoá lý luận về cấu trúc và tái cấu trúc tài chính; tập đoàn kinh

tế và cấu trúc tài chính tập đoàn.

− Đánh giá những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 đối

với cấu trúc tài chính tập đoàn.

− Nghiên cứu thực trạng tái cấu trúc tài chính trước bối cảnh khủng hoảng

tài chính ở một số Tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới từ đó rút ra bài học

kinh nghiệm, những ứng dụng cho các tập đoàn kinh tế Việt nam.

− Phân tích và đánh giá thực trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh

tế Việt nam.

− Gắn kết những kết luận về thực trạng hiện nay, những bài học kinh

nghiệm trên thế giới và xem xét những điều kiện trong giai đoạn mới để

đề xuất hoàn thiện mô hình cấu trúc tài chính cho các tập đoàn kinh tế

Việt nam cùng với một hệ thống các giải pháp liên quan triển khai mô

hình đó.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

− Đối tượng: cấu trúc tài chính và tái cấu trúc tài chính của các tập đòan

kinh tế Việt nam.

− Phạm vi nghiên cứu: cơ cấu nguồn tài trợ; cơ cấu và hiệu quả đầu tư, hệ

thống quản lý tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt nam; các chính

sách của Nhà nước tác động đến cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế;

yêu cầu về tái cấu trúc tài chính tập đoàn nhìn từ cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008-2009.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trang 6

Phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích kinh tế trên cơ sở lấy lý

luận so với thực tiễn và lấy thực tiễn để làm cơ sở đưa ra giải pháp cho những

vấn đề đặt ra trong đề tài.

5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỀN

Kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất một mô hình cấu trúc tài chính cho các

tập đoàn kinh tế Việt nam hướng đến một sự phát triển bền vững và hạn chế

những tác động từ bên ngoài.

Góp phần hoàn thiện những quy định Nhà nước về cơ chế quản lý tài

chính đối với các tập đoàn kinh tế.

6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI

Nội dung đề tài gồm 03 chương:

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ TÁI CẤU

TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TÀI CHÍNH CỦA

CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP

ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

CẦU

Trang 7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ TÁI CẤU TRÚC

TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1 KHÁI NIỆM CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH

Khái niệm cấu trúc tài chính thường gắn liền với từng đối tượng điều chỉnh cụ thể

như cấu trúc tài chính thế giới, cấu trúc tài chính khu vực, cấu trúc tài chính quốc

gia, cấu trúc tài chính doanh nghiệp . . .Ở những cấp độ khác nhau, cấu trúc tài

chính sẽ có những nội dung khác nhau.

“Cấu trúc” được hiểu là một danh từ với nghĩa cơ cấu, tổ chức hoặc một động từ

với nghĩa kiến tạo, xây dựng.

“Tài chính” về bản chất là những quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với

quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ; nó phản ánh quá trình lựa chọn

trong đầu tư, sự lựa chọn giữa nhu cầu của thị trường, của xã hội, của con người

và khả năng cho phép để quyết định sản xuất cái gì, bằng cách nào và bán cho ai

sao cho đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất.

Vì vậy, khi nói đến cấu trúc tài chính thế giới là bàn và xem xét đến việc phân bổ

các nguồn lực tài chính thế giới như các dòng vốn đầu tư trực tiếp, dòng vốn đầu

tư gián tiếp, các quỹ, các ưu đãi/ hạn chế về thuế quan, các khoản vay tín dụng .. .

. . giữa các quốc gia trên nguyên tắc phát huy “lợi thế cạnh tranh” ở những nơi mà

chúng đến. Tham gia vào việc cấu trúc tài chính thế giới là các quy tắc trong hệ

thống Bretton woods, chính sách tự do hóa tài chính các quốc gia trên thế giới, thị

trường chứng khoán các nước lớn, ngân hàng thế giới WB, quỹ tiền tệ quốc tế

IMF, các chương trình hỗ trợ phát triển chính thức . . .

Trong khi đó, cấu trúc tài chính doanh nghiệp phản ánh cơ cấu các nguồn tài trợ

mà doanh nghiệp sử dụng để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bao

gồm nợ ngắn hạn, nợ trung -dài hạn và vốn cổ phần. Thông qua các công cụ kiểm

soát và đánh giá rủi ro tài chính doanh nghiệp, đánh già hiệu quả sử dụng nguồn

tài trợ, đánh giá khả năng thị thị trường. . .bộ phận chức năng về tài chính sẽ tiến

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

hành xác lập một cấu trúc tài chính phù hợp cho doanh nghiệp.

Trang 8

Rõ ràng, cơ cấu trong lựa chọn và phân bổ các nguồn lực tài chính ảnh hưởng trực

tiếp đến sự phát triển về kinh tế, mức độ an toàn hay rủi ro về tài chính trong từng

phạm vi mà nó điều chỉnh.

Quá trình “di chuyển” các nguồn lực tài chính luôn được được giám sát, cân đối

bởi một hệ thống tài chính với các quy tắc, luật lệ; các định chế tài chính trung

gian, các thị trường tài chính. Vì vậy, việc thiết lập một cấu trúc tài chính sao cho

hiệu quả phải xem xét đến tất cả các tác động mà hệ thống tài chính đang điều

chỉnh các nguồn lực tài chính đó có thể tạo ra.

Cấu trúc tài chính sẽ thay đổi như một yêu cầu tất yếu khách quan cho phù hợp

với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới nếu đó là cấu trúc tài chính thế

giới; phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện nền kinh tế quốc gia nếu đó là cấu trúc

tài chính quốc gia; phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp nếu đó là

cấu trúc tài chính doanh nghiệp. . .Nói cách khác, cấu trúc tài chính mang tính thời

gian. Việc thay đổi cho “phù hợp” đó được gọi là “tái cấu trúc tài chính”.

Việc tái cấu trúc tài chính cũng được thực hiện để khắc phục những hạn chế mà

cấu trúc cũ đã, đang hoặc sẽ có nguy cơ tan vỡ, sụp đổ.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 xảy ra, người ta thấy ngay hàng

loạt các nghiên cứu từ các nhà kinh tế học về tái cấu trúc tài chính thế giới. Nhận

định chung là: thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nghiêm

trọng nhất kể từ sau Đại suy thoái 1929-1933. Để chữa trị tận gốc căn bệnh khủng

hoảng vốn bắt đầu từ cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ,

cấu trúc tài chính thế giới cần được tái cấu trúc thay thế cho “Hệ thống Bretton

woods” được thiết lập từ sau Thế chiến II, vốn đã quá lỗi thời và không còn phù

hợp với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra sâu rộng và cán cân kinh tế - chính trị

đang thay đổi.

Hay khi một quốc gia đang thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế thì tái cấu trúc tài

chính cũng là một trong những nội dung quan trọng cần làm trước.

Còn đối với một doanh nghiệp: đánh giá lại hiệu quả cấu trúc nợ, tài sản hay lợi

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

nhuận hiện tại để tìm ra những tồn tại, hạn chế; đặt vấn đề về duy trì đòn bẩy tài

Trang 9

chính cao vào thời điểm này hay không? Phát hành thêm cổ phiếu hay vay nợ khi

thị trường chứng khoán giảm sút? đâu tư vào đâu?. . .Đó chính là các hoạt động tái

cấu trúc tài chính của doanh nghiệp.

Tóm lại: “Tái cấu trúc tài chính là hoạt động điều chỉnh, thay đổi cấu trúc chính

hiện tại cho phù hợp với yêu cầu và tình hình phát triển trong điều kiện mới”.

Cấu trúc và tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế sẽ được nghiên cứu trên cơ

sở khái niệm về cấu trúc và tái cấu trúc tài chính nêu trên.

1.2 TẬP ĐOÀN VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.2.1 Tập đoàn và cấu trúc tài chính tập đoàn kinh tế

1.2.1.1 Khái niệm

Tập đoàn kinh tế ở các nước khác nhau được gắn với các tên gọi khác nhau.

“Group” hay “business group”, “conglomerate” hay “holding company”,

‘keiretsu” ở Nhật bản hay “chaebol” ở Hàn Quốc. Sự đa dạng về tên gọi, thuật

ngữ này cho thấy tính đa dạng của hình thức liên kết mà được khái quát chung

là “Tập đoàn kinh tế”.

Về bản chất, “Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty hoạt động trong một

ngành hay những ngành khác nhau, ở phạm vi một nước hay nhiều nước, trong

đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo chi phối hoạt động của các công ty

con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh tế là một cơ cấu tổ

chức vừa có chức năng kinh doanh vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm

tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi

nhuận”. Nói cách khác, các công ty thành viên trong một tập đòan kinh tế được

kết nối với nhau thông qua chủ yếu bằng các quan hệ tài chính.

Vì thế, nếu như bài toán xây dựng cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp chỉ

đơn thuần là việc lựa chọn, xây dựng cơ cấu, tỷ lệ các nguồn tài trợ cho nhu

cầu vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì đối với quy mô, tổ chức của

một tập đòan kinh tế, cấu trúc tài chính sẽ bao gồm nhiều nội dung hơn.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Cấu trúc tài chính tập đoàn kinh tế bao gồm:

Trang 10

• Cơ cấu các nguồn tài trợ- nợ hay vốn cổ phần trong ngắn hạn cũng như

dài hạn- mà tập đoàn huy động để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh

doanh.

• Cơ cấu đầu tư đầu tư trong tập đoàn: giữa công ty mẹ và các công ty

thành viên; giữa các công ty thành viên trong tập đoàn.

• Các quan hệ trong hệ thống quản lý tài chính giữa công ty mẹ-công ty

con, giữa các thành viên trong tập đoàn.

Sự cần thiết phải xem xét tài trợ là nợ hay vốn cổ phần:

Cũng như cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế

phải xác định cơ cấu nợ - ngắn hạn hay dài hạn, vốn cổ phần phù hợp trong

từng thời kỳ, đảm bảo được nguyên tắc “tự phòng ngừa”. Hơn nữa, với quy

mô lớn, việc sử dụng đòn bảy tài chính trong cấu trúc tài chính các tập đoàn

kinh tế là tất yếu, vấn đề là mức độ sử dụng trong từng giai đoạn phát triển

của tập đoàn, từng bối cảnh của thị trường.

Xem xét cơ cấu đầu tư giữa công ty mẹ- công ty con; cơ cấu đầu tư giữa

các công ty thành viên

Trong một tập đoàn kinh tế, quan hệ đầu tư về vốn giữa công ty mẹ- công ty

con, giữa các công ty thành viên là quan hệ chủ yếu chi phối, quy định mọi

mặt về hoạt động sản xuất kinh doanh, về chiến lược phát phát triển, về vai

trò của mỗi công ty thành viên tập đoàn.

Cấu trúc tài chính tập đoàn còn thể hiện các quan hệ trong hệ thống

quản lý tài chính giữa công ty mẹ và các công ty con, giữa các công ty

thành viên

Bao giờ cũng vậy, hệ thống quản lý tài chính của một doanh nghiệp luôn

đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo một cấu trúc tài chính vững

mạnh. Khi mối quan hệ trong tập đòan kinh tế là đa dạng, đan xen thì yêu

cầu về một hệ thống quản lý tài chính minh bạch, công khai là cần thiết và

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

phải phản ánh được mô hình phát triển của tập đoàn.

Trang 11

1.2.1.2 Đặc điểm cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế

Cấu trúc tài chính của mỗi doanh nghiệp có những đặc trưng nhất định quy

định bởi đặc điểm về cơ cấu tổ chức, ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt

động, xếp hạng tín nhiệm, khả năng cạnh tranh. . . Các tập đoàn kinh tế với

những đặc điểm riêng của nó cũng sẽ phản ánh một cấu trúc tài chính với

những đặc trưng như sau:

• Với quy mô lớn, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực nên cấu trúc tài chính

của công ty mẹ trong một tập đoàn kinh tế là một cấu trúc hỗn hợp bao

gồm tất cả các hình thức tài trợ nợ- ngắn hạn, trung-dài hạn và vốn cổ

phần để đáp ứng nhu cầu vốn lớn.

• Cũng vì tính quy mô và chiến lược phát triển vì mục tiêu “bành trướng”

vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, cấu trúc tài chính các tập

đoàn kinh tế hướng đến nhiều hơn các nguồn tài trợ bền vững trong dài

hạn. Đòn bảy tài chính được xem xét sử dụng nhiều hơn trong cấu trúc

tài chính của các tập đòan kinh tế.

• Hình thức tổ chức của các Tập đoàn kinh tế đa dạng nhưng tựu chung ở

mô hình công ty mẹ-công ty con được sử dụng để xác lập mối quan hệ

giữa các công ty thành viên trong tập đoàn. Từ đây, công ty mẹ, công ty

con dễ dàng chủ động trong việc bố trí và tái cơ cấu đầu tư, cơ cấu tài

trợ theo các mục tiêu, chiến lược khác nhau bằng việc mua bán cổ phần

của mình trong các công ty con, cháu. Ngoài ra, tập đoàn còn có thể huy

động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách thành lập công ty

con mới trong điều kiện vừa có thể kiểm sóat được doanh nghiệp mới

thành lập thông qua cổ phần khống chế vừa không bị các nhà đầu tư chi

phối đối với doanh nghiệp cũ. Như vậy, tập đòan kinh tế có điều kiện để

xây dựng một cấu trúc tài chính mà vốn cổ phần chiểm tỷ trọng lớn khi

cần.

• Công ty mẹ có ảnh hưởng nhất định đến cấu trúc tài chính của mỗi công

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

ty con trong một tập đòan. Công ty mẹ sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ

Trang 12

nhất định vốn cổ phần trong các công ty con. Công ty mẹ đề ra chiến

lược và định hướng phát triển tổng thể của Tập đòan đồng thời phân bổ

nguồn lực thông qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán

chứng khoán, cơ cấu lại tài sản . . . các công ty con. Công ty mẹ còn sử

dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết hình

thành các công ty con, công ty liên kết. Hơn nữa, để đảm bảo cho tập

đoàn sử dụng vốn một cách hiệu quả, nhiều tập đòan rất chú ý đến việc

cơ cấu lại khỏan vốn tồn đọng bằng cách rút bớt khoản vốn không hiệu

quả để tập trung vào những khoản vốn mang lại hiệu quả.

• Các công ty thành viên trong tập đoàn tự chủ trong việc lựa chọn, quyết

định cấu trúc tài chính của mình trên nguyên tắc không mâu thuẫn với

định hướng phát triển chung của tập đoàn. Các công ty con phải tự tìm

nguồn vốn bổ sung từ các nguồn tài trợ trên thị trường tín dụng và

chứng khoán. Đặc điểm này đặt ra một nhiệm vụ đối với công ty mẹ là

cần xác lập một cơ chế tài chính phù hợp để kiểm soát, đánh giá tính

hiệu quả, tính lành mạnh của cấu trúc tài chính chung của tập đoàn trong

từng giai đoạn phát triển. Công ty mẹ cũng cần xác định các chỉ tiêu

mang tính vĩ mô như mức vay vốn thích hợp, các chỉ tiêu đánh giá hiệu

quả tài chinh để vay vốn. . . nhằm đảm bảo tính cân đối, phù hợp cấu

trúc tài chính của tập đoàn.

• Đối với phần lớn các tập đòan kinh tế nhà nước đều “sở hữu’ ít nhiều

tính độc quyền trong sản xuất kinh doanh vì được sự che chở và giúp đỡ

của chính phủ. Vì lẽ đó, khả năng dàn xếp các khoản tài trợ của các tập

đoàn kinh tế nhà nước khá linh hoạt cho phép xây dựng một cấu trúc tài

chính theo mong muốn. Điều này không dễ đối với các doanh nghiệp

nhỏ. Tuy nhiên, cũng chính từ đặc điểm này làm cho cấu trúc tài chính

các tập đòan kinh tế nhà nước cũng hàm đựng nhiều rủi ro.

• Hầu hết các tập đòan kinh tế là hoặc sẽ là các công ty đa quốc gia.

Những ảnh hưởng từ môi trường kinh doanh, các thị trường vốn, các

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

quy định về mặt luật pháp. . . vượt ra khỏi biên giới mỗi quốc gia. Vì thế

Trang 13

việc xây dựng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế cũng chịu

những ảnh hưởng, tác động tổng thể trong điều kiện quốc tế hóa đó.

Những đặc điểm về cấu trúc tài chính của tập đòan kinh tế cho thấy tính

phức tạp của cấu trúc tài chính một tập đoàn kinh tế. Vì thế việc xây dựng

cấu trúc tài chính tập đoàn từng thời kỳ phải dựa trên những nguyên tắc

nhất định và xem xét đến các yếu tố có ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính tập

đoàn.

1.2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của tập đoàn kinh tế

Các đặc điểm của nền kinh tế

Một cấu trúc tài chính sẽ liên quan đến một số dự báo về triển vọng kinh tế.

Hơn nữa, các tập đòan kinh tế thường có sức ảnh hưởng lớn, vai trò “đầu

tàu” của kinh tế quốc gia của nên “độ nhạy” của cấu trúc tài chính các tập

đoàn kinh tế trước những đặc điểm từng thời kỳ của nền kinh tế khá cao.

− Mức độ kinh doanh: khi mức độ hoạt động kinh doanh gia tăng điều đó

có nghĩa là nhu cầu đầu tư, bành trướng trong một hay nhiều lĩnh vực

của tập đoàn và vốn để tài trợ cho cho sự mở rộng này cũng sẽ gia tăng.

Khi đó khả năng điều động sẽ có một vai trò quan trọng. Ngoài ra,

những dự báo thay đổi về mức độ hoạt động kinh doanh giữa các lĩnh

vực, ngành nghề khác nhau sẽ tác động ở những tầng nấc khác nhau

trong quyết định đầu tư vốn của công ty mẹ đến các công ty thành viên.

Đồng thời, mỗi công ty thành viên cũng xem xét lại cấu trúc tài chính

của chính mình trước quyết sách đầu tư của công ty mẹ.

− Triển vọng thị trường vốn: đối với một doanh nghiệp, nếu dự báo vốn

vay sẽ “đắt” họ sẽ điều chỉnh tăng độ nghiêng đòn bẩy tài chính ngay

tức khắc và ngược lại nếu dự kiến lãi suất thấp, họ sẽ duy trì một vị thế

mà khi cần có thể hưởng lợi của tiền vay rẻ hơn sau này. Việc sử dụng

đòn bảy tài chính của tập đòan kinh tế cũng không nằm ngoài nguyên

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

tắc ấy. Song việc dàn sếp các khoản vay tín dụng với lãi suất ưu đãi

Trang 14

thường là “đặc ân” mà các tập đoàn kinh tế nhà nước thường có được từ

chính sách của nhà nước.

− Các chính sách về thuế, thuế suất đôi khi cũng ảnh hưởng trực tiếp đến

chiến lược huy động nguồn tài trợ và các quyết định đầu tư của công ty

mẹ trong tập đoàn. Chẳng hạn trong giai đoạn khó khăn, các tập đoàn

kinh tế được hưởng chính sách miễn giảm hay giãn thuế, điều này sẽ tạo

điều kiện cho các tập đòan mạnh dạn hơn trong việc sử dụng nợ vay.

Các đặc tính của ngành kinh doanh

− Tính đa dạng, quy mô trong ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn

kinh tế sẽ tạo tính ổn định cao trong cấu trúc tài chính tập đoàn về tổng

thể. Phần lớn các nguồn vốn sẽ được tối đa hóa hiệu quả sử dụng nếu hệ

thống quản lý tài chính của tập đoàn minh bạch, các báo cáo tài chính kịp

thời và rõ ràng để công ty mẹ nhận định đúng tình hình.

− Tính cạnh tranh: mục đích liên kết của các doanh nghiệp trong một tập

đoàn là để gia tăng khả năng cạnh tranh. Chiến lược cạnh tranh thường

mang tính dài hơi và vì thế cấu trúc tài chính của tập đoàn cũng cần linh

hoạt từng thời kỳ nhất là việc thay đổi cơ cấu đầu tư vào các ngành nghề,

lĩnh vực khác nhau hoặc gia tăng đầu tư chiều sâu vào lĩnh vực có lợi thế.

Trong nhiều trường hợp, tập đoàn kinh tế, phần lớn là các tập đòan kinh

tế nhà nước giữ vai trò độc quyền trong những ngành mũi nhọn của đất

nước như điện lực, viễn thông, dầu khí, khai khoáng. . .nghĩa là lợi nhuận

hầu như ổn định và được dự báo trước thì việc cân nhắc sử dụng nguồn

tài trợ nào, cổ phần hay vay nợ, lại không phải là vấn đề mà quan trọng

hơn là sử dụng như thế nào.

Các đặc tính của mô hình tổ chức

Hình thức tổ chức: Các tập đoàn kinh tế được hình thành và phát triển

chủ yếu theo hai phương thức chính. Một là, theo con đường truyền

thống. Doanh nghiệp phát triển tuần tự, tự phát triển, tự tích tụ, tập trung

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

vốn và đầu tư chi phối các doanh nghiệp khác hoặc bằng các biện pháp

Trang 15

sáp nhập, hợp nhất, thôn tính, mua cổ phần, góp vốn ở các doanh nghiệp

khác để trở thành tập đoàn. Trường hợp khác là các doanh nghiệp độc lập

tự nguyện liên kết với nhau để tạo thành tập đòan kinh doanh có tiềm lực

kinh tế tài chính đủ mạnh. Hai là, tập đòan kinh tế thành lập trên cơ sở

một công ty nhà nước có quy mô rất lớn hoặc tổng công ty nhà nước có

sãn các mối quan hệ mật thiết bên trong và cơ cấu tổ chức theo hướng tập

đoàn.

Trong mỗi loại mô hình tập đoàn kinh tế sẽ có những đặc trưng riêng về

cơ cấu tổ chức, quyền kiểm soát và mục tiêu phát triển. Mặc dầu vậy,

chung ta vẫn có thể nhìn thấy những đặc điểm chung về hình thức tổ

chức của các tập đoàn kinh tế như:

• Tập đoàn kinh tế không có tư các pháp nhân, mỗi đơn vị thành

viên của Tập đoàn là một pháp nhân độc lập. Các doanh nghiệp

trong tập đòan, kể cả công ty mẹ lẫn công ty thành viên đều bình

đẳng với nhau trước pháp luật, được thành lập và đăng ký theo

quy định của pháp luật. Theo quan điểm hiện nay, các tập đoàn

kinh tế khôn g có tư cách pháp nhân nên không phải chịu trách

nhiệm liên đới trước trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp

khác. Công ty mẹ và các công ty con tự chịu trách nhiệm về việc

đầu tư trong giới hạn của khỏan vốn do mình bỏ ra.

• Cơ cấu tổ chức tập đòan kinh tế gồm nhiều tầng nấc, nhiều mô

hình tổ chức khác nhau. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công

ty thành viên phụ thuộc vào mối quan hệ liên kết giữa các doanh

nghiệp liên kết trong tập đòan.

• Công ty mẹ trong tập đòan có thể thực hiện một hoặc cả hai chức

năng sản suất-kinh doanh và đầu tư tài chính hay kinh doanh vốn

đầu tư vào các doanh nghiệp khác.

Như vậy cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế có hình thức tổ chức

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

khác nhau sẽ khác nhau. Trong một chừng mực nhất định, những nguyên

Trang 16

tắc về xây dựng cơ cấu nguồn tài trợ của công ty mẹ, cơ cấu đầu tư giữa

công ty mẹ và các công ty thành viên trong tập đoàn có thể không khác

biệt giữa các loại hình tổ chức tập đoàn kinh tế nhưng sự khác biệt đặc

trưng cần quan tâm là các mối quan hệ trong hệ thống tài chính của mỗi

mô hình tổ chức tập đoàn.

− Quy mô của tập đòan rất đa dạng, lớn, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực.

Phần lớn các tập đoàn mạnh trên thế giới hiện nay là tập đoàn đa quốc

gia với các chi nhánh, công ty con ở nhiều nước trên thế giới. Với sự kết

hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong hoạt động

sản xuất kinh doanh và sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học và

sản xuất, hiện nay, các công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các

viện nghiên cứu ứng dụng về khoa học, công nghệ tham gia vào các tập

đoàn kinh tế ngày càng nhiều.

− Xếp hạng tín nhiệm: cũng như doanh nghiệp nhỏ khác, mức tín nhiệm

của tập đòan kinh tế càng cao, khả năng điều động càng lớn. Nếu mức tín

nhiệm kém, cấu trúc tài chính nên xem xét việc cải thiện mức tín dụng và

gia tăng khả năng điều động. Xếp hạng tín dụng phụ thuộc vào các yếu

tố: khả năng thanh khoản , tiềm năng lợi nhuận, mức độ đáp ứng các

nghĩa vụ nợ trước đây, giá trị và đặc tính tài sản mà tập đoàn cam kết thế

chấp.

1.2.2 Tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế

Cấu trúc tài chính là một bộ phận quan trọng của cấu trúc một doanh nghiệp.

Vì vậy, khi doanh nghiệp thực hiện chiến lược tái cấu trúc thì người ta nghĩ

ngay đến việc tái cấu trúc tài chính song song với việc tái cấu trúc các vấn đế

khác như nhân sự, ngành nghề kinh doanh, hệ thống quản lý. . .

Trong hoạt động của một tập đoàn kinh tế, cấu trúc tài chính còn có vai trò

quan trọng hơn thế bởi nó là “xương sống” quy định cho các quan hệ liên kết

đan xen trong tập đoàn. Sức khỏe của cấu trúc tài chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

đến các hoạt động khác của tập đoàn và ngược lại.

Trang 17

Khi các yếu tố thuộc về điều kiện nền kinh tế, đặc tính ngành kinh doanh của

tập đoàn hay cấu trúc tập đòan biến đổi, ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính tập

đoàn theo hướng không phù hợp, mất cân bằng hay bản thân cấu trúc tài chính

tập đòan đến lúc cần thay đổi cho phù hợp với các dấu hiệu như:

• Cấu trúc tài chính của tập đoàn tiềm ẩn những yếu tố bất lợi như: dòng

tiền luân chuyển chậm; hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp;tình trạng đầu

tư mất cân đối, trong tập đòan vẫn có nơi vừa thừa vừa thiếu vốn; Vốn

chảy quá nhiều vào những lĩnh vực kinh doanh không còn tính cạnh

tranh cao hay rủi ro lớn. . .; xếp hạng tín nhiệm giảm, ảnh hưởng nghiêm

trọng đến khả năng huy động, dàn sếp các nguồn tài trợ; Nợ và nguy cơ

phá sản; hệ thống quản lý tài chính có những biểu hiện trì trệ, hạn chế

đến toàn bộ hệ thống quản lý trong tập đoàn…

• Những yếu tố khách quan từ bên ngoài tác động buộc cấu trúc tài chính

tập đoàn cần phải thay đổi như tình hình bất lợi của thị trường tài chính

như khủng hoảng, suy thoái . . .

v.v…..

Việc đưa cấu trúc tài chính về trạng thái cân bằng để khắc phục những hạn chế

nêu trên và để phù hợp với điều kiện mới chính là việc tái cấu trúc tài chính của

các tập đoàn kinh tế.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít đề cập đến việc tái cấu trúc tài chính vì

đó là việc làm hàng ngày còn các tập đoàn kinh tế -một hỗn hợp liên kết chỉ đặt

ra vấn đề tái cấu trúc khi sự bành trướng trong hoạt động sản xuất kinh doanh

trở nên “quá tải” so với cấu trúc tài chính hiện tại của một tập đoàn hay hệ

thống tài chính tập đòan rơi vào “mất cân bằng” nêu trên. Nói cách khác, việc

tái cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế thường thực hiện trong tình trạng

bị động, nó được xem như “cuộc cách mạng” cùng với quá trình tái cấu trúc tập

đoàn.

1.3 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

Trang 18

1.3.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những yêu cầu đặt ra đối với tái cấu

trúc tài chính các tập đoàn kinh tế

Khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra đồng thời nhiều nơi trên thế giới từ

tháng 8/2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng

hỏang tài chính Mỹ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến năm 2009. Cuộc

khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra

suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các

nước.

Tuy còn được tranh luận và bàn cãi song các vấn đề như: tín dụng dưới chuẩn

(subprime), chứng khoán hóa các khoản nợ, sự thiếu trung thực của các tổ chức

tài chính và thiếu năng lực của các nhà lập chính sách tại Mỹ, sự mất cân đối

tòan cầu với những khoản thặng dư thương mại khổng lồ của một số quốc gia

như Trung quốc và thâm hụt thương mại cũng vĩ đại không kém của một số

nước khác như Mỹ, tình trạng buông lỏng quản lý hệ thống tài chính cùng với

việc không tuân thủ kỷ luật thị trường của Mỹ, các tập đoàn tài chính quá sáng

tạo trong việc phát triển những cơ cấu và công cụ mới để phục vụ cho nhu cầu

tìm kiếm lợi nhuận cao của giới đầu tư . . . được coi là những nguyên nhân của

cuộc khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng tài chính lần này ảnh hưởng và yêu cầu một công cuộc tái

cấu trúc tài chính toàn diện không chỉ đối với các tập đoàn kinh tế trong lĩnh

vực tài chính ngân hàng mà còn đối với tất cả các tập đòan kinh tế trong lĩnh

vực phi tài chính với các lý do sau đây:

Thứ nhất: đối với hàng loạt các tập đoàn tài chính, bảo hiểm lớn phá sản, quá

trình thâu tóm sáp nhập lẫn nhau diễn ra, cấu trúc tài chính của các tập đòan

trong lĩnh vực tài chính chắc chắn phải cải tổ lại toàn diện, khoanh vùng các

khoản nợ xấu, chờ đợi các gói giải cứu từ chính phủ. Xếp hạng tín nhiệm của

các tập đòan tài chính liên tục bị giảm sút dẫn đến tình trạng khan hiếm hơn về

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

tiền mặt trong khi cổ phiếu thị trường giảm giá & giảm tính thanh khoản.

Trang 19

Thứ hai: đối với các tập đoàn kinh tế sản xuất, kinh doanh phi tài chính đã

thực hiện các kế hoạch đầu tư không đúng đắn (không tuân thủ nguyên tắc tự

phòng ngừa, lấy các nguồn vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn vào lĩnh vực bất

động sản, chứng khóan mà giờ đây tính thanh khoản hạn chế. . .), không thu hồi

được vốn đầu tư và vì thế không thanh toán được các khoản vay đầu tư, cấu

trúc tài chính sẽ bị tổn thương nặng nề, khó khăn trong việc sử dụng đòn bảy

tài chính thời gian tiếp theo, khả năng phá sản phải nghĩ đến nếu như không tìm

ra một kế hoạch sản xuất, kinh doanh nào có thể làm tình hình tốt đẹp hơn.

Thứ ba: do hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng, các nguồn tài trợ bị thu hẹp

đáng kể, các dự án kinh doanh cần vốn lớn khó có khả năng đáp ứng trong khi

giá cả các hàng hàng hóa trên thị trường thế giới đều có xu hướng giảm, mức

tiêu thụ giảm, các tập đòan kinh tế phi tài chính sẽ rất khó khăn trong giai đoạn

này và yêu cầu phải thực thi một cấu trúc tài chính linh hoạt, không thể gia tăng

về tuyệt đối các nguồn tài trợ nhưng đòi hỏi tăng hiệu quả sử dụng các nguồn

tài trợ có được.

Thứ tư: trước những nguyên nhân của cuộc khủng hỏang tài chính, cấu trúc tài

chính của các tập đoàn kinh tế cho thấy những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn nếu như

huy động nguồn vốn vô tội vạ, khó kiểm soát tính hiệu quả của các nguồn vốn

đầu tư, có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính cao. . . .

Thứ năm: khó khăn chung của cả nền kinh tế thế giới đã đặt ra những điều kiện

mới buộc các tập đòan kinh tế phải bắt tay vào việc tái cấu trúc tài chính cùng

với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế quốc gia mà hầu như nước nào cũng đã và

đang thực hiện để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng này.

Tóm lại, trước bối cảnh của của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, các tập

đoàn kinh tế phải bắt tay vào một công cuộc tái cấu trúc tài chính với chương

trình, nội dung cụ thể.

1.3.2 Nội dung của tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh

khủng hoảng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Thứ nhất là tái cấu trúc nguồn tài trợ tập đoàn

Trang 20

Vì sao phải tái cấu trúc nguồn tài trợ? Rõ ràng cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu - bản chất là khủng hoảng nợ của một số tập đoàn tài chính khổng lồ trên

thế giới đã làm hạn chế và giảm sút trầm trọng các nguồn tài trợ. Việc sắp sếp

các nguồn tài trợ của các tập đoàn kinh tế sẽ không còn dễ dàng như trong điều

kiện không có khủng hoảng về cả quy mô lẫn chi phí.

Nội dung tái cấu trúc nguồn tài trợ tập đoàn bao gồm:

Tái cấu trúc cơ cấu nguồn tài trợ cả tập đoàn trước hết là tái cấu trúc về vốn

chủ sở hữu và nợ theo hướng đa dạng hóa để duy trì tính chất đặc trưng vốn có

của công ty cổ phần, đồng thời phát huy đầy đủ hiệu quả hoạt động của loại

hình công ty này.

Mua, quản lý nợ là một trong các biện pháp tái cấu trúc tài chính mà công ty

mẹ trong một tập đòan kinh tế thường xem xét đến. Sau khi tái cấu trúc nợ, tập

đoàn sẽ đủ khả năng để kiểm soát các khoản nợ trong tập đoàn cũng như là khả

năng trả nợ cho các trái chủ cũng gia tăng.

Ngoài ra, tập đoàn cũng có thể thực hiện tái cấu trúc tài chính qua các hoạt

động cắt giảm chi phí thí dụ như lương trả cho nhân viên, hoặc giảm quy mô

qua việc bán một số tài sản của tập đoàn.

Một trong những nội dung tái cấu trúc tài chính mà tập đoàn cần xem xét nữa là

xây dựng mối quan hệ giữa quản trị tài chính và giá trị cổ đông. Bản chất của

một cấu trúc tài chính hiệu quả là phải tối đa hóa giá trị cổ đông. Nghĩa là làm

cho giá trị vốn hóa thị trường của cổ phần tập đoàn lớn nhất và ổn định, giảm

bớt sự trồi sụt không kiểm soát với việc xây dựng chiến lược về giá trị vốn hóa

thị trường rõ ràng. Vì cổ đông là một giá trị nội tại và là một trong những yếu

tố của tiêu chuẩn quản trị của doanh nghiệp. Công ty mẹ cũng đồng thời quan

tâm tới giá trị cho các nhóm cổ đông ngắn, trung và dài hạn và hạn chế tối đa

xung đột lợi ích giữa các nhóm cổ đông. Tái cấu trúc quản trị tài chính công ty

mẹ nhằm đến mục tiêu cân đối giữa ba giá trị: giá trị nội tại, giá trị vốn hóa và

sự bền vững của các giá trị đó. Tăng trưởng bền vững là cần thiết vì tăng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

trưởng nóng sẽ không mang lại những lợi ích lâu dài.

Trang 21

Cuối cùng, trong việc tái cấu trúc tài chính, công ty mẹ cần điều chính cơ cấu

tổ chức bộ máy tài chính và kế toán, phân biệt rõ chức năng tài chính và kế

toán, tăng cường chức năng tài chính. Kiểm toán cũng là vấn đề cần tách bạch.

Thứ hai là xây dựng một kế hoạch tái cấu trúc tài chính bao gồm tái cấu

trúc cả công ty mẹ và sắp xếp lại hệ thống quản trị ở các công ty thành viên.

Nội dung này phải được các tập đoàn chú trọng và thực hiện ngay cả trong điều

kiện không có khủng hoảng xảy ra. Tuy nhiên, trước nguyên nhân của cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu thì nội dung này càng thể hiện vai trò quan

trọng trong tiến trình tái cấu trúc tài chính tập đoàn. Bởi lẽ cấu trúc tài chính

của tập đoàn là một chỉnh thể thống nhất, việc tái cấu trúc tài chính phải được

tiến hành một cách đồng thời ở cả công ty mẹ và các công ty thành viên.

Kế hoạch này có thể chia làm nhiều giai đoạn. Về bản chất, tài chính không tạo

ra tiền trực tiếp nhưng có thể tạo ra tiền từ những chỗ chưa tối ưu. Vì vậy, kế

hoạch này nhằm đảm bảo công việc của tái cấu trúc tài chính là sắp xếp lại

luồng tiền cho hợp lý, quản trị tài chính tốt tạo ra số tiền rất lớn với các việc

làm như củng cố Ban Kế hoạch tài chính, tổ chức lại nguồn lực mang tính tăng

cường và tinh gọn, các sự vụ sẽ chuyển giao cho công ty con, tăng cường công

tác kiểm toán nội bộ, xây dựng các cấu trúc tài chính phù hợp với chiến lược

của cả tập đoàn cũng như các công ty thành viên như vốn, đòn bẩy nợ, những

quan điểm về quản trị dòng tiền. . .

Thứ ba là tái cấu cơ cấu đầu tư của công ty mẹ vào các công ty thành viên

Dưới tác động của khủng hoảng sẽ có không ít những công ty con trong nội bộ

một tập đoàn hoặc ở các tập đoàn kinh doanh trong lĩnh vực, ngành nghề liên

quan gặp khó khăn nhưng cũng có những công ty nắm bắt, phát huy được cơ

hội từ khủng hoảng.

Vì vậy sẽ có rất nhiều nội dung trong tái cấu trúc tài chính tập đoàn liên quan

đến tái cơ cấu đầu tư giữa công ty mẹ và các công ty thành viên sau khủng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

hoảng mà các tập đoàn có thể thực hiện.

Trang 22

Trong những điều kiện nhất định, công ty mẹ sẽ đưa ra được dòng tiền đủ

mạnh để có thể mua lại các công ty thành viên trụ cột tạo ra lợi nhuận lớn và

dài hạn cho tập đoàn, hoặc đầu tư thêm vào các công ty này, chứ không giảm tỷ

lệ sở hữu. Dựa trên tỷ lệ chi phối được tăng cường, tập đoàn sẽ thúc đẩy công

ty đó tăng trưởng. Để làm được điều này, tập đoàn phải xác định được công ty

thành viên nào sẽ được đầu tư chiến lược và có nhiều khả năng thu lợi nhuận

lớn trong tương lai. Với những công ty thành viên khác, công ty mẹ xây dựng

và gửi đi những thông điệp rõ ràng để truyền thông cho nhà đầu tư. Thông điệp

đó có thể là quan điểm về phòng chống rủi ro cho những ngành nghề đó như

thế nào trước khi nói tới lợi nhuận.

Mua bán và sáp nhập- đầu tư vào các công ty bên ngoài là chiến lược tái cấu

trúc tài chính của một số các tập đoàn kinh tế có tiềm lực tài chính mạnh.

Thứ tư là tái cấu trúc hệ thống quản lý tài chính trong tập đoàn.

Khủng hoảng xảy ra như hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả các tập đoàn kinh tế

thế giới trong mọi lĩnh vực. Các công cụ tài chính hiện nay như con dao hai

lưỡi. Nếu hệ thống quản lý tài chính trong tập đoàn không kiểm soát và nhận

dạng được các rủi ro hệ thống thì hậu quả sẽ khôn lường ( nợ, vỡ nợ, phá sản . .

.)

Hệ thống quản lý tài chính tập đoàn phải được tài cấu trúc phù hợp với các nội

dung về tái cấu tài chính mà tập đoàn đang thực hiện như tái cấu trúc ngành

nghề, lĩnh vực kinh doanh; tái cơ cấu đầu tư;. . .

Tùy vào điều kiện khách quan và chủ quan trong từng giai đoạn mà các tập

đoàn kinh tế tiến hành việc tái cấu trúc tài chính với các nội dung khác nhau, có

thể bao gồm đồng thời tất cả các nội dung nêu trên nhưng cũng có thể chỉ chọn

lọc một hoặc vài trong số các nội dung ấy.

1.4 KINH NGHIỆM CẤU TRÚC VÀ TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH MỘT SỐ

TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI

1.4.1 MÔ HÌNH CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CỦA MỘT SỐ TẬP ĐOÀN KINH

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

TẾ TRÊN THẾ GIỚI

Trang 23

Xem xét cấu trúc tài chính của một số tập đoàn kinh tế điển hình trong khu vực

và trên thê giới:

• Tập đoàn dầu khí Petronas (Malaysia)

• Tập đoàn Sembcorp (Singapore)

• Tập đoàn Unilever (Hà lan)

• Tập đoàn Viễn thông Trung Quốc

• Tập đoàn Sam sung (Hàn Quốc)

• Tập đoàn LG (Hàn quốc)

- những tập đòan khá vững vàng trước bối cảnh khủng hỏang.

Hình 1.1: Tỷ suất nợ/ tổng tài sản trung bình của 06 tập đoàn: Petronas,

Sembcorp, Unilever, Samsung, LG, China Telecom giai đoạn 2001-2008

(Nguồn: Báo cáo thường niên các tập đoàn Petronas, Sembcorp, Unilever,

Samsung, LG, China Telecom các năm 2001-2008)

Hình 1.2: Tỷ suất nợ/ Vốn chủ sở hữu của 06 tập đoàn:

Petronas, Sembcorp, Unilever, Samsung, LG, China Telecom

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

giai đoạn 2001-2008

Trang 24

(Nguồn: Báo cáo thường niên các tập đoàn Petronas, Sembcorp, Unilever,

Samsung, LG, China Telecom các năm 2001-2008)

(Số liệu phân tích cụ thể về cấu trúc tài chính các tập đoàn này được chi tiết ở

phụ lục số 2)

Như vậy: về cấu trúc tài chính các tập đoàn này đều sử dụng đòn bảy tài chính

nhưng mức độ giám dần theo quá trình phát triển, tỷ suất nợ/tài sản trung bình

khoảng 41% và tỷ suất nợ/ vốn chủ hữu <1.

1.4.2 CÁC HOẠT ĐỘNG TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CỦA MỘT SỐ TẬP

ĐOÀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI TRƯỚC BỐI CẢNH KHỦNG

HOẢNG TÀI CHÍNH.

1.4.2.1 Các tập đoàn kinh tế Trung Quốc

Các tập đòan kinh tế ở Trung quốc còn được gọi là tập đoàn doanh nghiệp, là

các tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, đáp ứng đòi hỏi của nền sản

xuất hàng hóa XHCN và của nền sản xuất lớn xã hội hóa. Cơ cấu tổ chức bao

gồm một doanh nghiệp nòng cốt gắn bó với hàng loạt các doanh nghiệp khác

bằng quan hệ về tài sản và hợp tác. Tất cả các doanh nghiệp trong một tập đoàn

đều có tư cách pháp nhân độc lập. Với thực lực kinh tế khá mạnh, các tập đoàn

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

kinh tế Trung quốc ra đời như là sản phẩm của cạnh tranh thị trường và là kết

Trang 25

quả của quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế Trung quốc theo hướng xuyên khu

vực, xuyên ngành nghề và xuyên quốc gia các hoạt động kinh tế.

Trong bối cảnh khủng hoảng, việc tái cấu trúc tài chính các tập đòan kinh tế

được phối hợp thực hiện từ cả hai phía: những chính sách từ chính phủ và chiến

lược phát triển của bản thân các tập đòan kinh tế.

Chính phủ Trung quốc-được đánh giá là “ nhà nước đóng vai trò của một con

đê” ngăn chặn làn sóng khủng hoảng, đã đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở quy

mô (tổng vốn đầu tư của chính phủ Trung quốc tăng hơn 30% so với cùng kỳ

năm ngoái) để giúp các tập đòan kinh tế trong ngành xây dựng.

Bản thân các tập đòan kinh tế Trung quốc cũng tích lũy được khoản dự trữ lớn

nên họ luôn tìm kiếm những dự án có tiềm năng sinh lời cao.

Các tập đòan kinh tế lớn Trung quốc còn củng cố tái cơ cấu tài chính của mình

bằng việc mua lại một phần vốn hay hợp tác với các công ty trên thế giới.

Nhiều tập đòan Trung quốc đã mua lại cổ phần của đối tác phương Tây với giá

trên 1 tỷ USD. Trong sáu tháng đầu năm 2009, 10% các vụ sáp nhập công ty

trên thế giới là do các tập đoàn Trung quốc chủ động. Ngày 24/6/2009, tập

đoàn dầu khí quốc doanh Trung quốc (Sinopec) đã đạt được thỏa thuận mua lại

công ty dầu mỏ Addax có trụ sở đặt tại Thụy sỹ với tổng giá trị thương lượng là

7.24 tỷ USD trên mức giá 52.8 Canada đôla một cổ phiếu. Tổng công ty dầu

khí quốc gia Trung quốc (CNPC) cũng có nhiều hoạt động triển khai tại nước

ngoài đáng chú ý. Ngày 29/6/2009, CPNC phát hành 20 tỷ NDT trái khóan để

bù đắp vào số vốn kinh doanh và đang có ý định đầu tư vào nhà máy lọc dầu

thuộc tập đoàn hóa chất Ineos của Anh.

Đồng thời, hướng vào khai thác thị trường nội địa vào thời điểm hoạt động xuất

khẩu gặp nhiều khó khăn cũng là một trong những giải pháp thay đổi chiến

lược kinh doanh giảm thiểu những tác động lớn đến cấu trúc tài chính tập đoàn.

Rõ ràng với vai trò, vị thế và tiềm lực sãn có, các tập đòan kinh tế Trung quốc

đã và đang biến thách thức thành cơ hội trong bối cảnh khủng hoảng tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

toàn cầu.

Trang 26

1.4.2.2 Các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc

Tập đoàn kinh tế ở Hàn quốc được sử dụng để chỉ một liên minh gồm nhiều

công ty hình thành quanh một công ty mẹ, thường duy trì chế độ sở hữu huyết

thống, cha truyền con nối của gia đình sáng lập ra nó. Ba tập đoàn kinh tế nổi

tiếng của Hàn quốc, là “tam trụ” của nền kinh tế Hàn quốc là: Samsung,

Hyudai và Daewoo. Theo số liệu của ngân hàng Hàn quốc, nhóm 3 tập đoàn

kinh tế lớn của đất nước này đang kiểm soát gần 40% nền kinh tế. Mặc dù, mô

hình tập đòan chaebol của Hàn quốc vẫn còn nhiều điều cần bàn nhưng rõ ràng

nó có vai trò, ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển “thần kỳ” của Hàn

quốc.

Các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn quốc cũng chịu tác động trực tiếp từ cuộc

khủng hỏang tài chính tòan cầu hiện nay:

• Số liệu thống kê công bố ngày 23/3 của Hiệp hội các tập đoàn kinh tế

(Chaebol) Hàn Quốc cho biết tổng nợ thực của 10 tập đoàn kinh tế hàng đầu

nước này đã tăng 104,5%, từ mức 17,6 nghìn tỷ won năm 2007 lên 36,4

nghìn tỷ won (26,2 tỷ USD) vào thời điểm cuối năm 2008. Điều này cho

thấy an toàn tài chính của các tập đoàn đang suy giảm nghiêm trọng do tác

động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

• Trong số 10 chaebol, SK Group, tập đoàn kinh tế lớn thứ 3 Hàn Quốc, dẫn

đầu về số nợ với 17,3 nghìn tỷ won trong năm 2008, tăng 55% so với cùng

kỳ năm 2007. Đứng vị trí thứ 2 trong bảng ghi nợ là Hanjin Group và

Kumho Asiana Group với nợ thực khoảng 6,7 nghìn tỷ won. Tập đoàn sản

xuất ô tô Hyundai-Kia, Chaebol kinh tế lớn thứ 2 Hàn Quốc, đứng thứ 4

trong bảng xếp hạng về số nợ lên, với 5,8 nghìn tỷ won trong năm 2008,

tăng 80% so với mức 3,2 nghìn tỷ won năm 2007. Tập đoàn GS Group lập

kỷ lục về việc tăng tổng nợ trong năm 2008 với bước "đại nhảy vọt"

821,9%, đưa tổng nợ của tập đoàn này từ 343,4 tỷ won cuối năm 2007 lên

3,1 nghìn tỷ won năm 2008. Hai tập đoàn Samsung và Hyundai cũng ghi nợ

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

đáng kể với 8,6 nghìn tỷ won và 3,8 nghìn tỷ won.

Trang 27

Các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn ngày

càng nghiêm trọng, khi các chỉ số kinh tế cho thấy tình trạng yếu kém của

doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn chưa có

dấu hiệu kết thúc. Tuy nhiên với nội lực và sách lược đối phó với khủng hỏang,

nền kinh tế Hàn quốc được đánh giá là một “điểm sáng” trong tình hình hiện

nay. Trong 6 tháng đầu năm nay, nền kinh tế của Hàn Quốc đã hồi phục nhanh

hơn là dự đoán: thị trường tài chính đã đi vào ổn định, tỷ lệ lãi suất giảm, tỷ giá

hối đoái giữa đồng won và đôla Mỹ không biến động nhiều, tiêu dùng và đầu tư

không co lại như quý trước, chỉ số thị trường chứng khoán của Hàn Quốc, vốn

đã tụt xuống 930 điểm do ảnh hưởng từ vụ phá sản của tập đoàn tài chính

Lehman Brothers, đã đạt trở lại mức 1400 điểm, tổng sản phẩm quốc nội bắt

đầu tăng vào quý đầu năm nay, các giao dịch bất động sản cũng đã cho thấy các

dấu hiệu hồi phục. . . .

Biện pháp của chính phủ Hàn quốc:

• Một trong sáu biện pháp mà Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng để giúp nước

này vượt qua khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và vững vàng trong

cuộc khủng hoảng toàn cầu 2007 chính là nhanh chóng cơ cấu lại khu vực

doanh nghiệp song song với cơ cấu ngân hàng và tái vốn hóa. Theo tiến sĩ

Kwon, khi cuộc khủng hoảng xảy ra, Chính phủ nước này đã lập tức phân

loại và xử lý đối với khối doanh nghiệp. Cụ thể, đối với các công ty tốt

nhưng gặp vấn đề về vốn sẽ được ngân hàng hỗ trợ để phục hồi một cách

nhanh nhất; đối với các công ty không có khả năng trả nợ sẽ được cơ cấu

lại; đối với các công ty được xác định là không thể tồn tại sẽ được cho phá

sản.

• Các ngân hàng chủ nợ Hàn Quốc đã đánh giá tình hình tài chính của các tập

đoàn lớn tại nước này và tái cơ cấu lại những bộ phận hoạt động yếu kém

để ngăn chặn sự nhân rộng khó khăn về tài chính. Nếu một số bộ phận của

các tập đoàn thể hiện sự làm ăn kém hiệu quả thì các ngân hàng này sẽ ký

hiệp ước với họ nhằm tăng cường tình hình tài chính bằng cách bán tài sản

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

hoặc các công ty con.

Trang 28

• Lập các quỹ do các tổ chức thuộc sở hữu nhà nước quản lý như Ngân hàng

Phát triển Hàn Quốc để mua cổ phiếu và tài sản của các công ty trong qúa

trình tái cơ cấu.

• Sửa đổi luật về quỹ đầu tư cổ phần nhằm thu hút giới đầu tư vào các quỹ tái

cơ cấu tập đoàn.

• Tăng vốn cho công ty xử lý nợ nhà nước là Korea Asset Management Corp

nhằm tăng hoạt động mua bán nợ khó đòi.

• Thực hiện kế hoạch kích cầu.

Biện pháp của các tập đòan kinh tế

• Các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc nhanh chóng thực hiện các biện pháp tái cơ

cấu như giảm việc làm, giảm chi tiêu nhằm lành mạnh hóa năng lực tài

chính.

• Việc đồng won Hàn Quốc giảm giá đến 40% so với đô la được tận dụng

như một lợi thế đối vối các tập đòan sản xuất xuất khẩu như LG, Samsung

mở rộng thị trường.

1.4.2.3 Các tập đoàn kinh tế Mỹ

Mỹ là quốc gia có nhiều tập đoàn kinh tế đa quốc gia lớn quy mô quốc tế. Thị

trường chứng khoán có vai trò rất lớn trong việc cấp vốn và giám sát hoạt động

của các tập đoàn kinh tế này. Vì thế, trong cuộc khủng hoảng tài chính tòan cầu

lần này, họ vừa là nguyên nhân vừa gánh chịu những tổn thất nặng nề nhất. Nó

không chỉ gây nên sự phá sản của các tập đoàn kinh tế tài chính mà nó còn kéo

theo sự đổ vỡ của những đại gia trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.

Vì cả hệ thống tài chính Mỹ rơi vào khủng hoảng nên hầu hết các chiến lược tái

cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Mỹ phụ thuộc chủ yếu vào các gói,

chương trình “cứu trợ” từ chính phủ. Nhựng tập đòan kinh tế Mỹ thực hiện

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

chiến lược tái cấu trúc tài chính tiêu biểu là:

Trang 29

General Motors: GM phá sản, chính phủ Mỹ quyết định sẽ bơm 30 tỉ USD cho

việc tái thiết GM. Dự kiến GM sẽ được bán đi và tái cấu trúc với quy mô nhỏ

hơn nhiều và một doanh nghiệp mới dự kiến sẽ ra đời trong 2-3 tháng nữa.

Tập đoàn tài chính Mỹ AIG: tập đòan vừa công bố thiết lập cơ chế đặc biệt cho

Công ty Bảo hiểm AIA. Mục đích của việc tái cấu trúc này nhằm tăng cường

cơ cấu vốn của tập đoàn, cũng như bảo vệ các mảng kinh doanh chính và cơ

cấu các mảng kinh doanh này trở thành những công ty hoạt động độc lập trong

tương lai. Các giaả pháp chủ yếu là: xác lập các cơ chế điều hành và cấu trúc

vốn phù hợp cho hoạt động của các đơn vị này, xây dựng kế hoạch chuyển

nhượng đối với một số mảng kinh doanh của tập đoàn, chuyển vốn vào các

định chế đặc biệt (special purpose vehicles - SPVs) nhằm tạo ra các cổ phần

phổ thông và cổ phẩn ưu đãi của các SPVs này để giảm các khoản nợ và phí

phải trả lãi trong khi vẫn thu được các khoản lợi trên cổ phần phổ thông của

SPVs.

1.4.3 Bài học về tái cấu trúc tài chính cho các tập đoàn kinh tế Việt nam

• Trong giai đoạn củng cố và định vị trên thị trường, các tập đoàn kinh tế Việt

nam cần thận trọng trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính, chú trọng gia tăng

vốn chủ sở hữu, duy trì tỷ suất nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức an toàn.

• Bất cứ một tập đoàn kinh tế nào, trong lĩnh vực tài chính hay phi tài chính,

mới hình thành hay hình thành đã rất lâu đời, ngành kinh doanh có thể quan

trọng hoặc rất quan trọng đối với một nền kinh tế… đều có thể đứng trước

nguy cơ phá sản nếu như cấu trúc tài chính duy trì với đòn bẩy tài chính quá

cao mà không kiểm soát, không tuân thủ nguyên tắc “tự phòng ngừa”, điển

hình như các tập đoàn kinh tế Mỹ.

• Để xây dựng được một tiềm lực tài chính lớn mạnh đúng nghĩa “tập đòan”,

cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế cần quan tâm đặc biệt đến việc

củng cố, tích lũy nguồn vốn tự có; điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho hiệu

quả; điều chỉnh chiến lược kinh doanh . . . để giảm thiểu những rủi ro khi

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

khủng hoảng xảy ra và có khả năng biến thách thức thành cơ hội trong lúc

Trang 30

các “đối thủ” khác gặp khó khăn. Đó là bài học từ các tập đoàn kinh tế

Trung quốc.

• Khi khủng hoảng xảy ra, dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp thì các tập

đoàn kinh tế cũng cần nhanh chóng đánh giá lại một cách toàn diện cấu trúc

tài chính doanh nghiệp. Từ đó xác định một chiến lược tái cấu trúc tài chính

hợp lý.

• Chính phủ phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để cùng tái cấu trúc tài

chính các tập đoàn trong giai đoạn khủng hoảng tuy nhiên cần ưu tiên các

giải pháp mang tính “bà đỡ” hơn là can thiệp trực tiếp.

Kết luận chương I

Cấu trúc tài chính là cơ cấu trong lựa chọn và phân bổ các nguồn lực tài

chính cho quá trình sản xuất, kinh doanh sao cho lợi ích đem lại là nhiều nhất.

Việc lựa chọn và phân bổ các nguồn lực tài chính được thực hiện và giám sát

thông qua hệ thống tài chính.

Tái cấu trúc tài chính là hoạt động điều chỉnh, thay đổi cấu trúc chính

hiện tại cho phù hợp với yêu cầu và tình hình phát triển trong điều kiện mới.

Tập đoàn kinh tế có cấu trúc tài chính khá phức tạp vừa tạo ra những lợi

thế vừa chứa đựng những rủi ro khôn lường nhất là trong điều kiện thị trường

vốn, thị trường tài chính xuất hiện nhiều công cụ hiện đại ngày nay.

Khủng hoảng tài chính tòan cầu năm 2008-2009 mang đến một thông

điệp rằng: các doanh nghiệp dù có lớn mạnh mang tầm vóc tập đoàn đa quốc

gia cũng rơi vào tình trạng phá sản nếu như cấu trúc tài chính không tuân thủ

nguyên tắc “tự phòng ngừa”, sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao mà không

kiểm soát được, đầu tư quá nhiều vào lĩnh vực tài chính chạy theo lợi nhuận

trước mắt mà “bỏ quên” lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính.

Khủng hỏang tài chính tòan cầu năm 2008-2009 đã, đang và sẽ mang lại

rất nhiều khó khăn cho kinh tế tòan cầu, trong đó có Việt nam, đặc biệt các

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

nguồn tài trợ sẽ trở nên vô cùng khan hiếm.

Trang 31

Những bài học về tái cấu trúc tài chính của một số tập đòan kinh tế các

nước Trung quốc, Hàn quốc & Mỹ trong thời điểm trước mắt sẽ mang đến một

số kinh nghiệm cho các tập đoàn kinh tế Việt nam.

Các vấn đề nêu trên là cơ sở khoa học cho thấy sự cần thiết phải đánh

giá tình trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt nam hiện nay

đồng thời đưa ra các giải pháp củng cố, tái cấu trúc tài chính các tập đòan kinh

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

tế Việt nam trước bối cảnh khủng hoảng tài chính tòan cầu hiện nay.

Trang 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC

TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM

2.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP ĐOÀN

Ở VIỆT NAM

Vấn đề thành lập các tập đoàn kinh tế được đề cập tại Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa IX (tháng 9-2001). Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:

"Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước,

có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có

ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền

kinh tế quốc dân…".

Từ Nghị quyết này, các tập đoàn kinh tế nhà nước lần lượt ra đời dưới hình thức

“thí điểm”. Đến nay, cả nước có 8 tập đoàn kinh tế nhà nước: Tập đoàn Bưu chính

Viễn thông Việt Nam (VNPT); Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV);

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); Tập

đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin); Tập đoàn Dệt may Việt Nam

(Vinatex); Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG); Tập đoàn Tài chính –

Bảo hiểm (Bảo Việt).

Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân cả về quy mô

và chất lượng đã khiến không ít những doanh nghiệp phát triển thành nhóm doanh

nghiệp có mối liên hệ với nhau về vốn, kỹ thuật và quản trị, kinh doanh trên nhiều

ngành nghề và không giới hạn phạm vi. Những tập đoàn kinh tế tư nhân đầu tiên

của Việt Nam ra đời như FPT, Hòa Phát, Trung Nguyên, Kinh Đô, Đồng tâm…

Thế mạnh của các tập đoàn Nhà nước là được hình thành trên cơ sở chuyển đổi từ

những tổng công ty lớn, có lợi thế đặc thù và sự hậu thuẫn của Chính phủ. Tất cả

các tập đoàn Nhà nước được ra đời bằng một quyết định và nhanh chóng được

thừa nhận và có vị thế riêng. Trong khi đó, các tập đoàn kinh tế tư nhân được hình

thành bằng chính sự tăng trưởng quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động của các

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

doanh nghiệp. Việc hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân hoàn toàn do nhu cầu và

Trang 33

nội lực của doanh nghiệp và không có bất cứ một quyết định chuyển đổi hay sắp

xếp hành chính nào.

Như vậy, so với các tập đoàn kinh tế trên thế giới thì các tập đoàn kinh tế Việt nam

khá non trẻ. Định hướng, mô hình phát triển các tập đòan kinh tế Việt nam vẫn còn

là vấn đề tranh luận của nhiều chuyên gia kinh tế, đặc biệt đối với các tập đoàn

kinh tế nhà nước. Hành lang pháp lý về quản lý nhà nước đối với các tập đòan

kinh tế cũng chỉ trong giai đoạn “chỉnh lý” và hoàn thiện.

Nhìn ở quan điểm tích cực thì có thể nói sự ra đời của các tập đoàn kinh tế Việt

nam là nền tảng cho sự gia tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên cả thị

trường trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, vai trò này của các tập đòan kinh tế

Việt nam phát huy đến đâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Ở góc độ khác, mô hình tập đoàn kinh tế nước ta có những hạn chế nhất định,

mang tính “rủi ro” cao cho toàn bộ nền kinh tế như:

• Quy mô lớn, nắm giữ các ngành trọng yếu nên bất cứ một biến động nào dù

tích cực hay tiêu cực của nền kinh tế trong và ngoài nước cũng sẽ tác động

trước hết đến hoạt động của các tập đoàn kinh tế và ngược lại các tập đòan

kinh tế cũng có thế “cất cánh” và cũng có thể gây “tổn thương” lớn cho nền

kinh tế quốc gia từ kết quả hoạt động của mình.

• Mất cân đối trong cơ cấu vốn đầu tư giữa các tập đoàn kinh tế nhà nước và

tư nhân: vốn ưu đãi cứ “chảy” vào các tập đoàn kinh tế nhà nước kém hiệu

quả trong khi khu vực dân doanh đang trưởng thành lại thiếu nguồn lực để

phát triển.

• Pháp luật về tập đoàn kinh tế chưa hoàn thiện, nhiều nội dung quan trọng

của mô hình tập đoàn vẫn chưa được làm rõ, chẳng hạn như địa vị pháp lý,

chế độ tài chính, mô hình quản trị nội bộ của tập đoàn . . . Vì vậy, các tập

đoàn kinh tế đang phải hoạt động một cách mò mẫm và chưa có những định

hướng mang tầm vĩ mô.

• Các tập đoàn kinh tế nhà nước được bảo hộ, độc quyền đã đa dạng hóa

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

ngành nghề kinh doanh, "lấn sân" sang các lĩnh vực kinh doanh khác. Việc

Trang 34

mở rộng đầu tư vào các ngành ít liên quan đến ngành kinh doanh chính như

vậy sẽ làm phân tán nguồn lực, hiệu quả không cao và chứa đựng rủi ro lớn.

Ví dụ, nếu các tập đoàn kiểm soát một số ngân hàng, sau đó sử dụng ngân

hàng này để tài trợ cho kế hoạch mở rộng của mình mà không có hệ thống

kiểm soát tốt, phân tích rủi ro tốt thì điều này sẽ dẫn tới lạm dụng khoản

vay và đầu tư quá mức của các thành viên tập đoàn. Ngoài ra, cùng với sự

tăng liên tục về số lượng công ty con, công ty cháu, rồi công ty liên kết,

đồng thời sở hữu chéo của nhau, tất yếu sẽ hình thành những nhóm đặc

quyền liên kết với nhau chặt chẽ và tác động trở lại tới chính sách của các

bộ, ngành theo hướng có lợi cho nhóm.

Nói tóm lại, các tập đoàn kinh tế Việt nam trong giai đoạn đầu của quá trình

hình thành và phát triển này còn khá nhiều điều cần xem xét từ cả phía các doanh

nghiệp tập đoàn lẫn chính sách quản lý của nhà nước nhất là trong bối cảnh khủng

hoảng tài chính hiện nay.

Trong phạm vi đề tài sẽ phân tích và đánh giá những vấn đề liên quan đến cấu

trúc và tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam – một trong những nội

dung quan trọng bậc nhất trong tiến trình tái cấu trúc của các tập đoàn kinh tế Việt

nam hiện nay.

2.2 THỰC TRẠNG CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT

NAM

2.2.1 Thực trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước Việt nam

2.2.1.1 Mô hình cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế nhà nước Việt nam

Khi nhận thấy sự thất bại của mô hình tổng công ty nhà nước 91, chính phủ đã

đi đến quyết định phải cải cách những tổng công ty này. Một trong những

chính sách chủ yếu để thực hiện là kế hoạch xây dựng 19 tập đoàn nhà nước từ

18 tổng công ty 91 và tổng công ty Kinh doanh và Đầu tư vốn Nhà nước - nắm

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

giữ vị thế gần như độc quyền ở nhiều ngành công nghiệp nặng.

Trang 35

Vì được “cải cách” trên nền tảng cấu trúc tài chính của các doanh nghiệp nhà

nước nên cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế nhà nước “thừa kế” hầu hết

những đặc điểm của cấu trúc tài chính doanh nghiệp nhà nước trước đây:

• Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, giữ vai trò chi phối hoặc ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp thành viên. Vốn

điều lệ của công ty mẹ của Tập đoàn do 100% Nhà nước đầu tư, tối

thiểu là 7.000 tỷ đồng.

• Về nguyên tắc, tập đoàn có thể hoạt động kinh doanh đa ngành song

nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức

công ty tài chính để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu

phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế

khác; các tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập nhằm đóng vài trò

chủ đạo và là " quả đấm thép" thúc đẩy kinh tế đất nước

Nhưng qua nhiều năm hoạt động, các tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn bị đánh

giá là: việc chuyển từ tổng công ty lên tập đoàn chỉ là thay "vỏ" chứ không thay

đổi hay nâng cấp về mô hình quản lý nhà nước cũng như quản trị doanh

nghiệp- trong đó có cấu trúc tài chính tập đoàn.

Hạn chế từ sự thừa kế này chính là quy mô và khả năng tích tụ vốn của các Tập

đoàn kinh tế Việt Nam chưa cao. Khả năng tích tụ và tập trung vốn, tài sản của

các Tổng công ty 91 được chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế (Điện lực, Bưu

chính viễn thông, Than, Dầu khí...) tuy có trình độ cao hơn và quy mô lớn hơn so

với các Tổng công ty khác nhưng vẫn được đánh giá là chậm và yếu so với các

nước trong khu vực và chưa tương xứng với yêu cầu hình thành các tập đoàn kinh

tế. So sánh với Trung Quốc, nước có 503 tập đoàn nhà nước có công ty mẹ là xí

nghiệp quốc hữu, đã có tới 3 tập đoàn trong danh sách 500 tập đoàn lớn nhất thế

giới về vốn và doanh thu, tài sản trung bình của một tập đoàn kinh tế là 12,4 tỷ nhân

dân tệ, tương đương khoảng 24.800 tỷ đồng Việt Nam. Trong khi đó tại Việt Nam

chỉ có 3 Tổng công ty là Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Dầu khí và Tổng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là có tổng tài sản vượt mức trung bình này

Trang 36

của Trung Quốc. Nếu so với quy mô vốn các một số tập đoàn của một số nước

trong khu vực và trên thế giới thì các tập đoàn kinh tế nước ta có số vốn còn quá

khiêm tốn.

2.2.1.2 Cơ cấu và việc phân bổ, sử dụng các nguồn tài trợ- nợ, vốn chủ sở hữu của

các tập đoàn kinh tế Nhà nước

Gần đây nhất, theo kết quả giám sát về quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước

tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước vào tháng 8/2009 của đoàn giám sát

của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Nếu đánh giá một cách tổng quát trên cơ sở

các chỉ tiêu nguồn vốn, lợi nhuận của các tập đoàn thì có thể thấy đa số các tập

đoàn duy trì một cơ cấu tài chính khá ổn định với việc bảo toàn và phát triển

vốn chủ sở hữu; doanh thu, lợi nhuận đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm

trước, tốc độ tăng doanh thu trong 3 năm qua là 65%; tốc độ tăng lợi nhuận sau

thuế đạt 13,9%/năm.

Tuy nhiên, đi vào phân tích chi tiết, chúng ta sẽ thấy được những vấn đề thật sự

rất nguy hiểm trong cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện

nay:

Thứ nhất: Nợ nhiều, chất lượng nợ xấu, cơ cấu nợ- vốn chủ sở hữu không

hợp lý: nợ phải trả cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu

Nợ phải trả cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nên khả năng thanh toán không

được bảo đảm. Theo số liệu thống kê chung cho các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước thì năm 2006, có 38 (chiếm 40%) tập đoàn, tổng công ty nhà nước có hệ

số an toàn vốn vượt ngưỡng ba lần và con số này vẫn còn ở mức 32% trong

năm 2007, 2008, thậm chí có đơn vị tổng nợ cao gấp hơn 10 lần; chiếm 70%

tổng dư nợ quốc gia và 80% dư nợ tín dụng.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, tính đến 31.12.2008, tổng nợ

tín dụng của 7 tập đoàn (Dầu khí, Than khoáng sản, Cao su, Dệt may, Công

nghiệp tàu thủy, Điện lực, Bưu chính viễn thông) là 128.786 tỉ đồng, tăng

20,54% so với cuối 2007, chiếm gần 10% so với tổng nợ tín dụng đối với nền

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

kinh tế ở cùng thời điểm.

Trang 37

Bảng 2.1: Nợ tín dụng của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước tính đến

31/12/2008

ĐVT: tỷ đồng

Tập đoàn Dầu khí Tập đoàn Điện lực Tập đoàn Vinashin 4 Tập đoàn còn lại

Tổng nợ tín dụng các tập đoàn kinh tế nhà nước

138.491 66.764 21.477 19.885 30.365

(Nguồn: Ngân hàng nhà nước)

Ngoài vốn vay tín dụng trực tiếp, các tập đoàn còn phát hành trái phiếu để huy

động vốn. Tính đến 31/12/2008, có 4 tập đoàn đã phát hành và bán trái phiếu

cho các tổ chức tín dụng đạt 3.621 tỷ đồng. Có một số trường hợp sử dụng vốn

huy động trái phiếu để trả nợ vay ngân hàng.

Về chất lượng nợ, tổng nợ quá hạn của 7 tập đoàn tính đến 31.12.2008 là 4.168

tỉ đồng (chiếm 3,24% tổng dư nợ tín dụng của các tập đoàn). Tập đoàn

Vinashin có số nợ quá hạn là 3.812 tỉ đồng (91,4% tổng số nợ quá hạn của cả 7

tập đoàn).

Tập đoàn có tỷ lệ tổng nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu đáng báo động là tập

đoàn Vinashin, tính đến 31/12/2007 là 7,27 lần nhưng đến 31/12/2008 con số

này đã lên đến 10,9 lần.

Cơ cấu nợ của các tập đoàn kinh tế nhà nước duy trì chủ yếu là nợ trung và dài

hạn cho những dự án đầu tư mang tính chiều sâu và kế hoạch phát triển.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Hình 2.1: Cơ cấu nợ của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước

Trang 38

(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban Thường vụ quốc hội)

Rõ ràng, tình trạng nợ, cơ cấu nợ của các tập đoàn kinh tế nhà nước cho thấy

những hạn chế nhất định:

• Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu vượt ngưỡng an toàn nhiều lần cho thấy

khả năng thanh toán nợ khó mà đảm bảo. Ở góc độ khác, việc tiếp tục

được rót vốn của các tập đoàn kinh tế khi nợ vẫn đang chồng nợ cho

thấy họ được nhà nước hậu thuẫn khá mạnh. Việc cấp vốn cho các tập

đoàn kinh tế Nhà nước hiện nay không tuân thủ theo cơ chế thị trường.

Rủi ro từ vấn đề này không chỉ dừng lại ở hiện tượng là nợ khó đòi, chất

lượng nợ xấu mà nó còn khả năng gây hậu quả nghiêm trọng cho nền

kinh tế khi các khỏan nợ của các tập đoàn kinh tế này chính là nợ quốc

gia.

• Nợ duy trì theo cơ cấu 15%-85% nợ ngắn hạn và trung-dài hạn có thể là

hợp lý cho các dự án “dài hơi” của các tập đoàn kinh tế nhưng lại trở

nên khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay. Rất nhiều các dự án

lớn từ phía đối tác nước ngoài đã bị cắt giảm.

Thứ hai: Hiện tượng thất thoát vốn chủ sỡ hữu do yếu kém trong quản lý

Vốn chủ sở hữu: So với đánh giá chung về việc bảo toàn và phát triển vốn chủ

sở hữu của các tập đoàn kinh tế thì vẫn còn đó những tập đoàn do mất phần vốn

nhà nước ở các đơn vị thành viên nên phần vốn chủ sở hữu toàn tập đoàn bị âm

trong 3 năm liên tiếp, nghĩa là những tập đoàn kinh tế này làm thất thoát tài sản

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

mỗi năm một nhiều hơn nhưng vẫn hoạt động. Nguyên nhân của tình trạng này

Trang 39

là do việc phân công, phân cấp thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu Nhà

nước đối với tập đoàn còn phân tán, cắt khúc dẫn đến tình trạng không có cơ

quan đầu mối chịu trách nhiệm chính về quản lý vốn, tài sản tại các tập đoàn,

và không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính theo dõi, phân tích, đánh giá

sâu sát cụ thể về việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chủ sở hữu Nhà nước giao

cho tập đoàn. Các Bộ, ủy ban nhân dân hầu như không nắm được đầy đủ thông

tin về tình hình hoạt động của các tập đoàn. Bộ Tài chính quản lý Nhà nước về

tài chính nhưng chỉ tham gia quản lý vốn, tài sản tại các tập đoàn một cách gián

tiếp. Bên cạnh đó, vẫn chưa triệt để tách biệt chức năng thực hiện các quyền

chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính Nhà nước theo quy định của Luật

DN; mô hình và phương thức quản lý nội bộ tập đoàn vẫn còn nhiều bất cập...

Thứ ba: Lợi nhuận và hiệu quả đầu tư thấp

Chỉ có một vài tập đoàn là kinh doanh có lợi nhuận nhưng tương đối thấp, chưa

bằng mức lãi suất ngân hàng.

Xem xét lợi nhuận và tỷ số sinh lời trên tổng tài sản của tập đoàn dầu khí Việt

nam - tập đoàn nhà nước có quy mô lớn nhất, có nhiều lợi thế nhất:

Bảng 2.2: Lợi nhuận sau thuế của Tập đoàn dầu khí giai đoạn 2001-2008

ĐVT: Nghìn USD (năm 2001-2003)

Triệu VND (năm 2004-2008)

Tỷ suất sinh lợi Lợi nhuận trên tổng tài Stt Năm Tổng tài sản sau thuế sản

1 2001 2,865,203 626,347 34.11%

2 2002 3,596,089 608,757 27.58%

3 2003 4,558,505 908,670 24.88%

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

4 2004 88.805.833 18.208.361 20.50%

Trang 40

Tỷ suất sinh lợi Lợi nhuận trên tổng tài Stt Năm Tổng tài sản sau thuế sản

5 2005 106.341.336 33.853.477 31.83%

6 2006 146.762.365 32.342.789 15.23%

7 2007 218.480.787 18.622.219 11.64%

8 2008 269.996.206 24.262.137 8.9%

(Nguồn: Báo cáo thường niên các năm 2001-2008 của Tập đòan dầu khí

Việt nam)

Xét về giá trị tuyệt đối, lợi nhuận của tập đoàn Dầu khí tăng trong giai đoạn

2001-2008 nhưng không đều, nhất là khi có ảnh hưởng từ thị trường dầu thô

thế giới thì lợi nhuận biến động giảm trong 2 năm 2007, 2008. Điều này cho

thấy cơ cấu lợi nhuận chưa hợp lý, phụ thuộc chủ yếu vào lĩnh vực khai thác

dầu thô mà chưa phát huy được lợi thế từ các lĩnh vực khác như thăm dò, chế

biến dầu khí . . . .Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản lại có xu hướng giảm, giai

đoạn 2006-2007 chỉ xấp xỉ bằng mức lãi suất tiền gửi của ngân hàng.

Còn tình hình lợi nhuận và hiệu quả đầu tư của các tập đoàn kinh tế nhà nước

khác chỉ đạt ở mức thấp thậm chí còn thua lỗ.

Bảng 2.3: Lợi nhuận sau thuế của một số tập đoàn và

tổng công ty nhà nước năm 2007

ĐVT: tỷ đồng

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Hệ số sinh lợi Tên Tập đoàn/ Tổng Tổng vốn Lợi nhuận của tài sản STT công ty nhà nước đầu tư sau thuế (%)

Trang 41

Hệ số sinh lợi Tên Tập đoàn/ Tổng Tổng vốn Lợi nhuận của tài sản STT công ty nhà nước đầu tư sau thuế (%)

Vinashin 1 6.000 500 8.3

EVN 2 155.000 3.000 2

Vinatext 3 3.564 556 17

4 Tổng công ty xăng -900

dầu Việt nam

5 Tổng công ty hàng -83.5

không Việt nam

(Nguồn: Tổng hợp của đoàn giám sát Ủy ban thường vụ quốc hội)

Quy mô lợi nhuận của EVN chỉ đạt 3000 tỷ đồng/năm, Vinashin 500 tỷ

đồng/năm. Một số tổng công ty nhà nước khác còn thua lỗ.

Nếu tính trung bình hiệu quả đầu tư của các Tập đoàn, tổng công ty nhà nước

(17%/năm) chỉ bằng ½ hiệu quả đầu tư vốn của khu vực tư nhân (34,8%).

So sánh với hiệu quả đầu tư của Việt nam và các nước trong khu vực:

Bảng 2.4: So sánh hệ số ICOR

Tổng đầu Tăng trưởng

tư (% của ICOR Nước Giai đoạn GDP

GDP/năm) (%/năm)

Hàn quốc 1961-1980 7.9 23.3 3

Đài Loan 1961-1980 9.7 26.2 2.7

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Indonesia 1981-1995 6.9 25.7 3.7

Trang 42

Tổng đầu Tăng trưởng

tư (% của ICOR Nước Giai đoạn GDP

GDP/năm) (%/năm)

Malaysia 1981-1995 7.2 32.9 4.6

Thái Lan 1981-1995 8.1 33.9 4.1

Trung quốc 2001-2006 9.7 38.8 4.0

Việt nam 2001-2006 7.6 33.5 4.4

(Nguồn: Trần Tiến Cường- Tập đoàn kinh tế -Lý luận & kinh nghiệm quốc

tế ứng dụng vào Việt nam )

Có thể kết luận rằng chính hiệu quả đầu tư kém của các Tập đoàn kinh tế đã

làm cho chỉ số ICOR của Việt Nam cao hơn các nước khác ở chính giai đoạn

họ phát triển với trình độ như chúng ta. Bởi lẽ các tập đoàn kinh tế nhà nước sử

dụng chủ yếu vốn đầu tư của cả xã hội trong khi hiệu quả đầu tư không cao.

Thứ tư: Sử dụng không đúng mục đích các nguồn tài trợ vay trên thị trường

quốc tế

Các tập đoàn nhà nước đang lợi dụng sự bảo lãnh công khai hay ngầm của nhà

nước để thực hiện các khoản vay lớn trên thị trường quốc tế mà không rõ mục

đích sử dụng. Chính các khoản vay đầu tư nước ngoài không được phòng vệ

này sẽ làm “lỏng lẻo”, khó kiểm soát được một cách chính xác cấu trúc tài

chính tập đoàn. Xem xét trường hợp của Vinashin: Vinashin vay 750 triệu USD

từ nguồn trái phiếu chính phủ phát hành ở nước ngoài trong khi hoạt động ở tập

đoàn đang có vấn đề: nhiều công ty con bị tập đoàn mẹ nợ hàng trăm tỷ đồng,

nhiều dự án quan trọng trễ tiến độ gây thiệt hại dây chuyền. Điển hình là hợp

đồng chế tạo kho nổi chứa dầu FSO-5 cho Tổng Công Ty Cổ Phần Dịch Vụ

Dầu Khí, trễ hạn 15 tháng phải đến tháng 3/2010 mới hy vọng giao hàng, dự

kiến đơn vị dầu khí đặt hàng bị thiệt hại hơn 50 triệu USD. Mỗi ngày đơn vị

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

này mất 12.000 USD chi phí thuê tàu thay thế. Điểm đáng lưu ý là Vinashin

Trang 43

trúng thầu do đơn giá 110 triệu USD thấp hơn nhà thầu nước ngoài 50 triệu

USD, nhưng sau đó đã điều chỉnh vốn lên 169 triệu USD nghĩa là còn cao hơn

nhà thầu nước ngoài. Vậy khả năng trả nợ của Vinashin sẽ như thế nào? Rõ

ràng chính phủ giao cho một khoản tiền lớn 750 triệu USD, Vinashin đã không

biết phải làm gì với số tiền lớn như trên để phát triển năng lực cốt lõi của ngành

công nghiệp đóng tàu, cho đúng với vị thế tiềm năng kỳ vọng của nhà nước.

Thay vào đó họ đầu tư tràn lan sang các lĩnh vực khác như đầu tư sân golf,

khách sạn, năm 2007 đầu tư cổ phiếu Bảo Việt 1.467 tỷ đồng tương đương 90

triệu USD, mua tàu du lịch Hoa Sen 1.300 tỷ đồng. Vinashin lỗ 700 tỷ khi

chuyển giao cổ phiếu Bảo Việt lại cho SCIC vào ngày 7/7/2009 còn Tàu Hoa

Sen hiện nằm ụ.

2.2.1.3 Cơ cấu đầu tư của công ty mẹ vào các công ty thành viên của các tập đòan

kinh tế nhà nước Việt nam

Cơ cấu đầu tư vào các công ty con, công ty liên kết

Theo số liệu năm 2007, các tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư vào các công ty

con là trên 57.078 tỷ đồng, các công ty liên kết là trên 34.482 tỷ đồng và đầu tư

dài hạn khác trên 33.545 tỷ đồng.

Cấu trúc tài chính của các đơn vị thành viên của các tổng công ty chuyển biến

theo hướng ngày càng nâng cao quyền kiểm soát của công ty mẹ với việc tăng

tỷ trọng vốn góp của công ty mẹ vào những ngành nghề, dự án then chốt.

Bảng 2.5: Hợp tác đầu tư giai đoạn 2001-2010 của

Tập đoàn dầu khí Việt nam

Phần tham gia của Petro Việt nam

Tổng vốn đầu

Các dự án đầu tư

tư (triệu USD)

Tổng giá trị (triệu

Tỷ lệ (%)

USD)

Tìm kiếm thăm dò

3.950-4.150

900-1.100

23%-27%

Phát triển mỏ

6.120-7.020

1.945-2.312

32%-33%

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Trang 44

Phần tham gia của Petro Việt nam

Tổng vốn đầu

Các dự án đầu tư

tư (triệu USD)

Tổng giá trị (triệu

Tỷ lệ (%)

USD)

853

61%

Thu gom vận chuyển khí

1.399

Đầu tư tìm kiếm thăm dò ở

550-700

225-600

41%-86%

nước ngoài

Chế biến dầu khí

5.199

3.132-3.232

60%

Phân phối tiêu thụ sản phẩm

1.319-1.369

1.319-1369

100%

Dịch vụ và kinh doanh dầu khí

819

819

100%

(Nguồn Báo cáo tài chính Tập đoàn dầu khí Việt nam 2006)

Mặc dầu vậy, những tồn tại trong việc đầu tư từ công ty mẹ và các công ty

thành viên trong một tập đoàn là:

• Hoạt động đầu tư từ công ty mẹ vào các công ty thành viên trong một số

tập đoàn quá "nóng", vượt khả năng tài chính, dẫn đến rủi ro khi xảy ra

biến động thị trường. Có những tập đoàn có tới 157 doanh nghiệp thành

viên, vốn đầu tư phát triển chủ yếu do vay mượn. Trong khi đó, trình độ

quản lý tài chính, quản lý vốn còn rất hạn chế.

• Tình trạng công ty con đầu tư ngược trở lại công ty mẹ, hoặc công ty mẹ

chi phối công ty cháu đã làm phức tạp thêm quan hệ, lẫn lộn trong thực

hiện quyền chủ sở hữu. Công ty mẹ đầu tư vốn vào công ty con và đảm

nhận vai trò chủ sở hữu phần vốn đầu tư. Tuy nhiên vai trò chủ sở hữu

bị giới hạn và nhiều trường hợp công ty mẹ gặp khó khăn trong việc chi

phối đối với công ty con.

Bên cạnh đó, việc đầu tư chéo vào nhau thông qua các công ty con tạo

nên một hệ thống sở hữu chéo, làm lợi ích liên kết ngày càng chặt chẽ.

Tiền vốn cứ chạy lòng vòng theo kiểu công ty con lén dúi tiền cho công

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

ty mẹ, rồi mẹ lại đổ tiền về con để lách đi dễ dàng những qui định kiểm

Trang 45

soát của Nhà nước. So với năm 2006 số lượng công ty con trong tập

đoàn tăng 10% (68 công ty) và công ty liên kết tăng 39%. Trong năm

2007, riêng Vinashin tăng 43 công ty con và 111 công ty liên kết, liên

doanh mà chủ yếu góp vốn bằng thương hiệu.

Cơ cấu đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh

Cấu trúc tài chính các đoàn kinh tế rủi ro hơn khi họ không chú trọng, tập trung

vào đầu tư vào các lĩnh vực chính mà lại đua nhau đầu tư vào các lĩnh vực

mang lại lợi nhuận cao, dễ đầu cơ, nhưng mang đầy rủi ro như: chứng khoán,

bất động sản, ngân hàng.

• Theo công bố của Bộ tài chính thì hiện tại có 13 Tập đoàn và tổng công

ty đầu tư vào các quỹ chứng khoán và quỹ đầu tư tài chính với tổng giá

trị đầu tư 1.061 tỉ đồng ; 19 tập đoàn , tổng công ty góp vốn thành lập

NHTMCP với tổng giá trị 4.426 tỷ đồng ; 13 tập đoàn, tổng công ty gớp

vốn thành lập 15 công ty chứng khoán với tổng giá trị 420 tỷ đồng và 18

tập đoàn , tổng công ty nhà nước gớp vốn đầu tư vào bất động sản

(BĐS) với tổng giá trị 1.463 tỷ đồng. Tổng số vốn kể trên (7.370 tỉ

đồng) đã chiếm 2.16 % vốn chủ sở hữu và 0.92 % tổng giá trị tài sản

doanh nghiệp . Như vậy số vốn được coi là "đầu tư mạo hiểm" trên tuy

chỉ chiếm phần nhỏ, vẫn nằm trong phạm vi an toàn nhưng nó gây ra

nhiều sự việc bất cập.

• PetroVietNam , Vinashin và EVN thành lập hay đoạt quyền kiểm soát ở

một số ngân hàng, sau đó các tập đoàn này sẽ sử dụng ngân hàng để tài

trợ cho các kế hoạch mở rộng lãnh địa của mình. Nếu như không có hệ

thống kiểm soát đủ mạnh và khả năng phân tán rủi ro hiệu quả thì chắc

chắn cấu trúc này sẽ dẫn đến những khoản vay và đầu tư quá sức của các

thành viên tập đoàn.

• Không ít tập đoàn, tổng công ty đã đầu tư, góp vốn thành lập doanh

nghiệp mới, tiếp nhận doanh nghiệp từ nơi khác về làm thành viên hoạt

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

động ngoài lĩnh vực kinh doanh chính và phụ trợ cho lĩnh vực kinh

Trang 46

doanh chính nhưng hiệu quả không như mong muốn, ngành nghề trùng

lặp, cạnh tranh ngay trong nội bộ tập đoàn. Vì vậy, nhiều trường hợp

doanh nghiệp mới thành lập chưa được một năm nhưng đã phải sáp

nhập, hợp nhất, chuyển vốn, thoái vốn vì quy mô nhỏ, năng lực hoạt

động yếu kém.

• Hiệu suất đầu tư vào lĩnh vực tài chính của các tập đoàn đã không mang

lại những con số mong đợi.

Bảng 2.6: Tổng số tiền các tập đoàn kinh tế Nhà nước

đầu tư vào lĩnh vực tài chính

ĐVT: tỷ đồng

Năm 2006 2007 2008

7.999 18.279 25.706 Số tiền

(Nguồn: Tổng hợp của đoàn giám sát Ủy ban thường vụ quốc hội)

Qua số liệu bảng trên cho thấy quy mô vốn đầu tư vào lĩnh vực tài chính

của các Tập đoàn kinh tế tăng khá nhanh, năm 2007 bằng 228% so với

năm 2006, năm 2008 bằng 140% so với năm 2007. Trong đó, tập đoàn

PVN, Vinashin, EVN là những tập đoàn có số tiền đầu tư vào lĩnh vực

tài chính khá lớn.

Hình 2.2: Cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

của các tập đoàn kinh tế nhà nước

Trang 47

(Nguồn: Tổng hợp của đoàn giám sát Ủy ban thường vụ quốc hội)

Kết quả của hoạt động đầu tư tài chính của các Tập đoàn: bị lỗ hoặc

không phát sinh lợi nhuận:

• Tập đoàn Điện lực: đầu tư chứng khoán 214 tỷ đồng, lỗ 30 tỷ

đồng

• Tập đoàn Dệt may: đầu tư chứng khoán 24 tỷ đồng, không phát

sinh lợi nhuận

• Tập đoàn Công nghiệp cao su: góp vốn vào quỹ đầu tư 271 tỷ

đồng, không phát sinh lợi nhuận

• PVN: góp vốn vào quỹ đầu tư 368,9 tỷ đồng, không phát sinh lợi

nhuận

• Vinashin: góp vốn vào quỹ đầu tư 144 tỷ đồng, không phát sinh

lợi nhuận

(tính đến cuối năm 2008).

Tình hình cổ phần hóa các công ty thành viên

Quá trình cổ phần hóa được xem như một trong các biện pháp tái cấu trúc tài

chính trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước trong thời gian qua nhưng chưa

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

được quản lý chặt chẽ dẫn đến thất thoát vốn nhà nước. Mặc dù, một thực tế

Trang 48

cho thấy rằng giải pháp này đóng góp đáng kể cho sự phát triển của các tập

đoàn kinh tế.

Bảng 2.7: Kết quả hoạt động SXKD của các đơn vị thuộc

Tập đoàn Bưu chính viễn thông sau khi thực hiện CPH

Đơn vị: Tỷ đồng

So sánh Trước khi thực Sau khi Chỉ tiêu hiện CPH thực hiện CPH mức độ tăng

Doanh thu 2.427 5.331 220%

Nộp NSNN 200 364 182%

Lợi nhuận sau thuế 158 252 159%

(Nguồn: Cục Tài chính DN - Báo cáo tình hình SXKD, tài chính của VNPT)

Song kết quả đó mới chỉ là bước đầu, nhiều vấn đề khác trong quá trình cổ

phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm “méo mó” cấu trúc tài chính của các

tập đoàn. Trên 80% doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa nhưng số vốn

chiếm chưa đến 20%, còn hơn 80% vốn vẫn nằm trong nguồn vốn của các tập

đoàn.

Định giá tài sản nhà nước trong doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa hợp lý. Lợi

thế kinh doanh của doanh nghiệp ở đây bao gồm cả lợi thế về vị trí địa lý, giá

trị thương hiệu và tiềm năng phát triển. Khi thực hiện cổ phần hóa có hai cái

liên quan đến tài sản nhà nước là tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Riêng câu

chuyện về đất đai, chúng ta đã biết nhiều doanh nghiệp được sở hữu những vị

trí đắc địa, không những là “đất vàng” mà còn là “đất kim cương”, nhưng thực

tế chưa được tính toán một cách thỏa đáng vào giá trị cổ phiếu bán trên thị

trường. Một cuộc giám sát mới đây cho thấy nhiều thương hiệu nổi tiếng của ta

đã được định đoạt tương đối dễ dàng nhưng không theo một quy tắc nào cả, và

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

thường là do quyết định của cấp có thẩm quyền phê duyệt giá trị doanh nghiệp.

Trang 49

Đơn cử như thương hiệu Vinaconex được Bộ Xây dựng thống nhất tính 100 tỉ

đồng, thương hiệu Vinashin được tính bằng 30% vốn điều lệ của bất kỳ công ty

thành viên hay liên kết của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy.

2.2.1.4 Hệ thống quản lý tài chính của các tập đòan kinh tế nhà nước Việt nam

Mô hình và phương thức quản lý tài chính chuyển từ cơ chế cấp vốn sang đầu

tư vốn, chuyển từ cơ chế hoạch toán phụ thuộc giữa tổng công ty với các đơn vị

thành viên sang mô hình công ty mẹ, công ty con. Các mối liên kết công ty mẹ

- công ty con theo quan hệ sở hữu vốn. Công ty mẹ thực hiện quyền quản lý,

điều hành các công ty con bằng tỷ lệ góp vốn của nhà nước mà do công ty mẹ

góp vào các công ty con trong tập đoàn thông qua các cơ quan quản lý, điều

phối.

Công ty con là những pháp nhân độc lập với công ty mẹ và do công ty mẹ sở

hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ được ghi trong Điều lệ. Các công ty con

được tổ chức dưới các hình thức: Các công ty do công ty mẹ sở hữu vốn 100%;

các công ty do công ty mẹ sở hữu trên 50% vốn, các công ty do công ty mẹ sở

hữu vốn dưới 50% và các công ty liên doanh với nước ngoài có vốn góp của

tập đoàn trên nguyên tắc tự nguyện.

Nhưng vì trong các tổng công ty Nhà nước- đơn vị tiền thân của các tập đoàn kinh

tế Việt Nam do chưa thực hiện phân tách rõ ràng giữa quyền sở hữu hoặc đại diện

sở hữu và quyền điều hành doanh nghiệp do đó chưa có sự chuyên môn hoá và

chuyên sâu trong công tác quản lý tài chính.

Giữa các đơn vị trong tập đoàn kinh tế quan hệ quản lý tài chính chưa thể hiện

được bản chất kinh tế của Tập đoàn kinh tế. Sự chi phối của công ty mẹ đối với

đơn vị thành viên đôi khi vẫn mang tính hành chính mà chưa thực sự dựa trên cơ sở

quan hệ lợi ích kinh tế và tự nguyện theo nguyên tắc thị trường. Sự “lúng túng” này

là do nhiều nội dung quan trọng của mô hình tập đoàn vẫn chưa được làm rõ,

chẳng hạn như địa vị pháp lý, chế độ tài chính, mô hình quản trị nội bộ của tập

đoàn cũng như mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

viên trong tập đoàn. Với tư cách là những đơn vị hạch toán độc lập, nhưng gần

Trang 50

như các quyết định đầu tư lớn nhỏ của các công ty con của các tập đoàn kinh tế

nhà nước lại lệ thuộc vào các quyết định của ban lãnh đạo các tập đoàn kinh tế

nhà nước, vẫn tồn tại một sự không rõ ràng giữa vai trò chủ sở hữu đầu tư và

vai trò quản lý nhà nước đưa đến cho các công ty con cảm giác dễ “bị can

thiệp” và các công ty con cho rằng xin “bao cấp” chủ trương có vẻ an tâm hơn.

Quy định về quản lý nhà nước đối với các tập đòan kinh tế nhà nước vẫn còn

đó những bất cập, chưa khai thông trong vấn đề liên quan đến phần lợi nhuận

mà các công ty con phải nộp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các khoản lợi

nhuận sau thuế đáng lẽ ra phải nộp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng

phần lớn vẫn còn “treo” tại các công ty con này. Từ đó, đã dần dần hình thành

một cơ chế “mở” cho các công ty con là khi có nhu cầu đầu tư, thì một lối khai

thông nguồn vốn đầu tư gần nhất có thể được nghĩ đến đó chính là khả năng sử

dụng phần lợi nhuận phải nộp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước. Điều này

hình như đã kích thích các công ty con cố gắng “tìm kiếm” các dự án để có thể

có lý do giữ lại và sử dụng, nếu có thể được, toàn bộ nguồn vốn đáng lẽ ra phải

nộp về các tập đoàn kinh tế nhà nước bất kể trường hợp việc đầu tư có thể trải

dài ra nhiều phân kỳ. Điều này rõ ràng chứa đựng nhiều hiểm nguy tiềm ẩn

trong quản lý tài chính, vì thông thường, nhà kinh doanh nào cũng nghĩ rằng

mình đủ tỉnh táo, sáng suốt trong các quyết định đầu tư. Tiền nhàn rỗi sẽ có

điều kiện “nhảy” vào các dự án đầu tư khác, và cứ thế.

Tính công khai, minh bạch của các báo cáo tài chính tập đoàn hàng năm rất hạn

chế. Các báo cáo tài chính hợp nhất này vừa chậm vừa không chính xác vì

những lý do như:

• Chúng được lập vì nhiều mục đích khác nhau đã chịu tác động từ lãnh

đạo của doanh nghiệp

• Sửa các báo cáo tài chính nhiều khi vì liên quan đến khoản vay của các

tổ chức tín dụng. Những “biến báo” là nhằm mục đích “tô hồng” tình

hình hoạt động của doanh nghiệp, giúp cho việc đánh giá triển vọng trả

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

nợ, lãi vay có được kết quả tốt hơn.

Trang 51

• Có rất nhiều thủ thuật kế toán sử dụng khi lập báo cáo tài chính như

chuyển chi phí sang kỳ hạch toán sau để tăng lợi nhuận

• Tổng hợp báo cáo của tất cả các đơn vị trực thuộc để thành báo cáo hợp

nhất, bất chấp quy định phải sử dụng bút toán loại trừ đối với các khoản

đầu tư, lợi nhuận… phát sinh trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty. Điều

này gây nên tình trạng tính trùng.

2.2.2 Thực trạng cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân

Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng đóng vai trò quan trọng

trong nền kinh tế. Trong 5 năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng trên 10% (cao

hơn 8% của cả nền kinh tế), khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm hơn một nửa

GDP của cả nước. Nhiều công ty có mức tăng trưởng doanh thu lên đến trên

50%/năm. Trong số đó có nhiều tổng công ty tư nhân đang phát triển theo

hướng tập đoàn. Những tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam đầu tiên phải kể đến

là FPT, Kinh Đô, Hòa Phát, REE... Điểm chung của các tập đoàn này là có vốn

góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, có doanh nghiệp liên kết... và

đang có xu hướng mở rộng quy mô và ngành nghề thông qua phát triển nội

sinh, mua bán sáp nhập hay liên kết. Thực trạng và tình hình tái cấu trúc tài

chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân có thể khái quát với những nội dung

sau:

2.2.2.1 Mô hình cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân

Về pháp lý, mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân hiện nay vẫn chưa được thừa

nhận. Nhiều tập đoàn buộc phải mang tên không chính danh như: “công ty cổ

phần tập đoàn” hay “công ty TNHH tập đoàn”. Thậm chí, trong Luật Doanh

nghiệp và văn bản hướng dân hiện có đều chưa tạo được hành lang cho việc

hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân.

Nhưng nhìn chung các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT, Hòa phát, REE, Kinh

đô . . .đều được tổ chức theo mô hình công ty mẹ- công ty con. Mặc dầu vậy,

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

trong những điều kiện:

Trang 52

• Hầu hết các tập đoàn kinh tế tư nhân này đều mới thành lập trong vòng

10 năm gần đây, giai đoạn đầu vận hành bằng phương thức “gia đình”

chứ chưa thực sự chuyên nghiệp

• Thị trường vốn Việt nam, với sự hình thành và phát triển của thị trường

chứng khoán trong giai đoạn đầu

nên mô hình cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân này cũng chưa

theo những chuẩn mực nhất định nào. Nó hầu như phụ thuộc vào quyết sách

của bộ máy lãnh đạo từng tập đoàn về tầm nhìn, chiến lược, quan điểm trong

quá trình xây dựng và quản lý cấu trúc tài chính công ty. Đồng thời, những hạn

chế từ chính sách quản lý nhà nước chưa theo kịp sự phát triển của mô hình tập

đoàn kinh tế tư nhân cũng là nguyên nhân cản trở và hạn chế đến tính minh

bạch, khả năng quản lý rủi ro đối với cấu trúc tài chính các tập đoàn này.

2.2.2.2 Cơ cấu và việc phân bổ, sử dụng các nguồn tài trợ- nợ, vốn chủ sở hữu của

các tập đoàn kinh tế tư nhân

Các tập đoàn kinh tế tư nhân ngày càng chú trọng đến việc tăng tỷ trọng nguồn vốn

chủ sở hữu, đảm bảo tỷ lệ nợ trên nguồn vốn chủ sở hữu không vượt qua ngưỡng an

toàn.

Bảng 2.8: Tỷ số nợ trên nguồn vốn chủ sở hữu (D/E) của một số tập đoàn

kinh tế Tư nhân Việt nam

ĐVT: lần

Tên tập Năm Năm Năm Năm Năm STT đoàn 2005 2006 2007 2008 2009

2.23 1.02 1.37 1.07 2.23 1 FPT

1.71 1.14 0.49 0.31 1.04 2 Hòa phát

0.59 0.58 0.20 0.40 0.73 3 Kinh đô

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

0.63 0.39 0.28 0.24 0.36 4 REE

Trang 53

(Nguồn Báo cáo tài chính các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của các tập đoàn

FPT, Hòa phát, Kinh đô, REE)

Từ bảng trên ta thấy, tỷ lệ nợ trên vốn chủ (D/E) của tất cả các tập đoàn đều có

xu hướng giảm qua các năm. Các tập đoàn ngày càng tự chủ nguồn vốn. Đáng

chú ý trong năm 2007, 2008 vốn vay của các tập đoàn giảm đáng kể so với

nguồn vốn chủ sở hữu. Sự thay đổi cấu trúc này được xem là khá phù hợp trong

điều kiện thị trường chứng khoán Việt nam phát triển nhanh chóng và lãi suất

được duy trì ở mức cao. Tuy nhiên ở khía cạnh khác, phải chăng việc sử dụng

nợ ít của các tập đoàn kinh tế tư nhân là do họ bị giới hạn trong việc tiếp cận

các nguồn vốn vay?

Hình 2.3: Tỷ số nợ trên tài sản (D/A) của một số tập đoàn kinh tế Tư nhân

Việt nam

(Nguồn Báo cáo tài chính các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của các tập đoàn

FPT, Hòa phát, Kinh đô, REE)

Việc sử dụng nợ tài trợ cho gia tăng tài sản không giống nhau giữa các tập đoàn

nhưng nhìn chung đều giảm trong giai đoạn 2005-2008: REE giảm từ 39%

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

xuống 19%, FPT giảm từ 69% xuống 52%, Kinh đô giảm từ 37% xuống 28%. .

Trang 54

Xu hướng giảm của hai chỉ số trên không phải do các tập đoàn ít chú trọng đến

việc sử dụng đòn bảy tài chính hoặc giảm khả năng huy động vốn vay mà do

hầu hết các tập đoàn đều gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu.

Bảng 2.9: Nguồn vốn chủ sở hữu của một số tập đoàn kinh tế tư nhân Việt

nam giai đoạn 2005- 2009

ĐVT: Tỷ đồng

Tên tập Năm Năm Năm Năm Năm STT đoàn 2005 2006 2007 2008 2009

686,00 1.689,00 2.262,00 2.959,00 2.999,00 1 FPT

258,00 330,00 3.142,00 4.111,00 4.898,00 2 Hòa phát

493,00 582,00 2.441,00 2.075,00 2.418,00 3 Kinh đô

512,00 1.085,00 2.244,00 2.087,00 2.463,00 4 REE

(Nguồn Báo cáo tài chính các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của các tập đoàn

FPT, Hòa phát, Kinh đô, REE)

Rõ ràng tính đến cuối năm 2009 các tập đoàn đã gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu

gấp nhiều lần so với năm 2005, đặc biệt là tập đoàn Hòa phát, từ một công ty

cổ phần thép Hòa phát với vốn chủ sở hữu chỉ khoảng 258 tỷ đồng đã lớn mạnh

thành tập đoàn Hòa phát với vốn chủ sở hữu lên đến 4.898 tỷ đồng. Có được

điều này phải kể đến khả năng huy động nguồn tài trợ bằng việc phát hành cổ

phiếu của các Tập đoàn kinh tế tư nhân.

Tuy nhiên, hầu hết các tập đòan kinh tế tư nhân non trẻ đều vấp phải sai lầm

khi đầu tư quá mức vào lĩnh vực tài chính, bất động sản trong năm 2007, 2008

làm lợi nhuận năm 2008 giảm sút đáng kể, thậm chí còn có tập đoàn lỗ. Tình

hình lợi nhuận năm 2009 được cải thiện hơn do chính sách giãn thu thuế thu

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

nhập doanh nghiệp của chính phủ.

Trang 55

Hình 2.4: Tình hình gia tăng lợi nhuận của một số tập đoàn kinh tế tư

nhân Việt nam giai đoạn 2005-2009

Song khả năng sinh lời của tài sản, của nguồn vốn chủ sở hữu cũng không mấy

ấn tượng.

Bảng 2.10: Khả năng sinh lời của tài sản ROA của một số tập đoàn kinh tế

tư nhân Việt nam giai đoạn 2005- 2009

Tên tập Năm Năm Năm Năm Năm STT đoàn 2005 2006 2007 2008 2009

0.42 0.40 0.37 0.49 0.16 1 FPT

0.02 0.18 0.20 0.22 0.15 2 Hòa phát

0.29 0.31 0.11 0.12 0.13 3 Kinh đô

0.17 0.14 0.10 0.13 0.20 4 REE

(Nguồn Báo cáo tài chính các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của các tập đoàn

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

FPT, Hòa phát, Kinh đô, REE)

Trang 56

FPT, Hòa phát là các tập đoàn có ROE tăng trưởng khá đều cho thấy tập đoàn

sử dụng hiệu quả nguồn vốn của cổ đông.

Bảng 2.11: Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu ROE của một số tập

đoàn kinh tế tư nhân Việt nam giai đoạn 2005- 2009

Năm Năm Năm Năm Năm STT Tên tập đoàn 2005 2006 2007 2008 2009

0.44 0.32 0.39 0.36 0.47 1 FPT

0.01 0.22 0.20 0.21 0.26 2 Hòa phát

0.19 0.29 0.09 -0.03 0.22 3 Kinh đô

0.13 0.20 0.13 -0.07 0.18 4 REE

(Nguồn Báo cáo tài chính các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của các tập đoàn

FPT, Hòa phát, Kinh đô, REE)

Nhìn chung, các tập đoàn kinh tế tư nhân đang ở giai đoạn đầu phát triển. Họ

xây dựng một cấu trúc tài chính được xem là phù hợp khi nó thể hiện khát vọng

tự chủ và mở rộng quy mô doanh nghiệp. Nhưng hiệu quả sử dụng đồng vốn,

tăng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu vấn là vấn đề các tập đoàn cần xem

xét.

2.2.2.3 Cơ cấu đầu tư vào các công ty thành viên

Không ồ ạt như các tập đoàn kinh tế nhà nước, việc đầu tư để mở rộng quy mô

vào các công ty thành viên của các tập đòan kinh tế tư nhân phụ thuôc khá chặt

chẽ với năng lực, khả năng của công ty mẹ và xu hướng phát triển ngành trên

thị trường.

Tập đoàn Kinh đô năm 2006 có 1 công ty con và 1 công ty liên kết; đến năm

2008 có 2 công ty con, 1 công ty liên kết đồng thời đầu tư vào 6 công ty khác

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

trong lĩnh vực ngân hàng, quản lý quỹ, bất động sản.

Trang 57

Tập đoàn Hòa phát: năm 2006 là công ty cổ phần thép Hòa phát, đến năm 2007

mở rộng hẳn quy mô, chuyển sang mô hình tập đoàn với 8 công ty, 3 công ty

liên kết và đầu tư vào ngân hàng TMCP Dầu khí.

FPT đang hoạt động trên bốn lĩnh vực: Công nghệ thông tin và viễn thông; Tài

chính và ngân hàng; Bất động sản; Giáo dục và đào tạo, gồm 16 công ty thành

viên.

Bảng 2.12: % sở hữu của trong các công ty thành viên của Tập đoàn FPT

qua các năm

Stt Công ty thành viên Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008

1 Cty TNHH Công nghệ di 100 100 100

động FPT

2 Cty TNHH hệ thống thông 100 100 100

tin FPT

3 Cty cổ phần phần mềm FPT 70.41 42.01 68.89

4 Cty TNHH phân phối FPT 100 100 100

5 Cty CP viễn thông FPT 45.45 44.18 43.05

6 Đại học FPT 66.67 100 100

7 Công ty TNHH bán lẻ FPT 100 100 100

8 Cty CP Quảng cáo 60 60

100 100 9 Cty TNHH BĐS FPT

100 100 10 Cty TNHH truyền thông

giải trí FPT

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

100 100 11 Cty TNHH DV tin học FPT

Trang 58

Stt Công ty thành viên Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008

100 100 12 Cty TNHH phát triển khu

CN Hòa lạc

13 Cty CPDV trực tuyến FPT 34.61 35.06

14 Cty CP Chứng khoán FPT 25 25

15 Cty quản lý quỹ FPT 33 33

16 NHTM cổ phần FPT 15 15

(Nguồn Báo cáo thường niên các năm 2006, 2007, 2008 của tập đoàn FPT)

Qua bảng trên ta thấy FPT lớn mạnh với số công ty thành viên năm 2008 lớn

gấp đôi năm 2006. Điều dễ nhận thấy rằng, FPT duy trì một cơ cấu đầu tư hợp

lý, giữ quyền chi phối đối với các lĩnh vực kinh doanh chính trong các công ty

thành viên.

Chính vì thế doanh thu chính của các tập đòan này cũng được đóng góp chủ

yếu từ những lĩnh vực chủ chốt của ngành.

Hình 2.5: Cơ cấu doanh thu của Tập đoàn Hòa Phát năm 2008

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

(Nguồn Báo cáo thường niên Tập đòan Hòa phát năm 2008)

Trang 59

Đầu tư vào lĩnh lực bất động sản, chứng khoán, ngân hàng nhưng thiếu kinh

nghiệm nên các tập đòan đều thua lỗ đối với khỏan đầu tư này khi thị trường

xuất hiện những yếu tố bất lợi. REE là một ví dụ. Trong năm 2008, tổng dự

phòng trích lập đầu tư tài chính của REE lên đến 467,13 tỷ đồng. Tổng doanh

thu hoạt động 183 tỷ đồng, lỗ đầu tư ước tính 384 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư

đến thời điểm 31/12/2008 là 1.257 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực đầu tư lớn nhất là

ngân hàng tài chính, chiếm 56% tổng vốn đầu tư (tương đương gần 700 tỷ

đồng), chủ yếu đầu tư vào hai ngân hàng Sacombank và ACB; bất động sản là

156 tỷ đồng; còn lại là những lĩnh vực khác.

2.2.2.4 Hệ thống quản lý tài chính

Hệ thống quản lý tài chính trong các tập đòan kinh tế tư nhân đang trong giai

đoạn “xây dựng”. Mô hình quản lý tài chính của họ vẫn là mô hình của một

công ty cổ phần song trên nền tảng cũ của mô hình tổ chức ở đó không tách

bạch giữa chức năng quản lý của HĐQT và chức năng điều hành của Ban TGĐ.

Một số tập đòan lớn như FPT có thiên hướng thực hiện một hệ thống quản lý

tài chính ở đó ban tài chính của công ty mẹ kiểm soát các nguồn vốn đầu tư,

tìm kiếm các nguồn tài trợ, quản trị rủi ro tài chính thông qua đơn vị thành viên

là công ty quản lý quỹ và hoặc một ngân hàng của tập đoàn.

Một hạn chế nữa trong hệ thống quản lý tài chính tập đoàn tư nhân là chưa có

chức danh CFO. Những người trong ban lãnh đạo chưa phải là những người có

kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính.

Điều khác biệt trong hệ thống quản lý tài chính của các tập đoàn kinh tế tư

nhân và tập đoàn kinh tế nhà nước là tính minh bạch. Vì là các đơnvị niêm yết

trên thị trường chứng khoán nên tất cả các báo cáo tài chính hợp nhất của các

tập đoàn kinh tế tư nhân đều được lập kịp thời và công khai. Quản trị rủi ro tài

chính là công việc phải làm trong công tác quản lý tài chính của các tập đoàn tư

nhân.

Qua việc đánh giá, phân tích thực trạng cấu trúc tài chính của các tập

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

đoàn kinh tế Việt nam ta có thể nhận thấy một số khác biệt khá rõ nét

Trang 60

trong cấu trúc tài chính giữa các tập đoàn kinh tế Nhà nước và tập đoàn

kinh tế tư nhân:

Nội dung cấu trúc tài Tập đoàn kinh tế Nhà Tập đoàn kinh tế tư

chính tập đoàn nước nhân

Tích tụ, tập trung từ quy Mô hình cấu trúc tài Thừa kế từ cấu trúc tài

mô một doanh nghiệp chính chính các Tổng công ty

thành quy mô tập đoàn nhà nước: khả năng tích

tụ và tập trung vốn chậm

và yếu.

Chú trọng đến việc gia Cơ cấu các nguồn tài Nợ nhiều, nơ xấu, nợ

tăng nguồn vốn chủ sở trợ, hiệu quả đầu tư gấp nhiều lần vốn chủ sở

hữu, nợ trên vốn chủ sở hữu.

hữu không vượt ngưỡng Lợi nhuận và hiệu quả

an toàn. đầu tư thấp

Khả năng sinh lợi trên

tổng tài sản đều nhưng

không cao.

Phù hợp với năng lực, Đầu tư quá nóng, vượt Cơ cấu đầu tư từ công ty

khả năng của công ty mẹ khả năng tài chính, trình mẹ vào các công ty

và ngành nghề kinh độ quản lý tài chính và thành viên

doanh trên thị trường. quản lý vốn của công ty

mẹ. Đầu tư vào lĩnh vực tài

chính không hiệu quả. Đầu tư vào lĩnh vực tài

chính không hiệu quả.

Theo xu hướng của hệ Hệ thống quản lý tài Về nguyên tắc: Chuyển

thống quản lý tài chính chính từ cơ chế cấp vốn sang

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

của mô hình công ty mẹ- đầu tư vốn, hạch toán

Trang 61

Nội dung cấu trúc tài Tập đoàn kinh tế Nhà Tập đoàn kinh tế tư

chính tập đoàn nước nhân

công ty con như các tập phụ thuộc sang hạch

đoàn kinh tế trên thế toán độc lập, quyền của

giới. công ty mẹ phụ thuộc

vào tỷ lệ vốn góp. Hầu hết niêm yết cổ

Tuy nhiên, thực tế vì phiếu trên TTCK, các

chưa rõ ràng giữa vai trò báo cáo tài chính công

chủ sở hữu và quản lý khai, minh bạch, kịp

nhà nước nên các công thời.

ty thành viên còn bị can

thiệp khá nhiều trong

quản lý tài chính.

Tính công khai, minh

bạch của các báo cáo tài

chính rất hạn chế.

Sự khác biệt này cho thấy yêu cầu về tái cấu trúc tài chính giữa các tập đoàn

kinh tế Nhà nước và các tập đoàn kinh tế tư nhân sẽ khác nhau.

2.3 THỰC TRẠNG TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH

TẾ VIỆT NAM KHI CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH XẢY RA

Ngay sau cuộc khủng hoảng tài chính toán cầu xảy ra, hàng loạt các biện pháp liên

quan đến tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế đã được xem xét và thực hiện

từ cả phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp như:

Cắt giảm đầu tư cho các tập đoàn kinh tế Nhà nước

Trong việc phân bổ ngân sách năm 2009, chính phủ đã cắt giảm 4.100 tỷ đồng từ

khoản chi dự kiến ban đầu 9.000 tỷ dành cho Tập đoàn Dầu khí, 251,6 tỷ đồng dự

kiến bố trí cho các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước để xây dựng, cải thiện các

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

trường đào tạo nghề, trung tâm y tế trực thuộc, 57 tỷ đồng dành cho EVN thực

Trang 62

hiện dự án đầu tư của Nhà nước nhằm cung cấp đường truyền tải điện cho các thôn

bản thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên . . Điều này sẽ khiến họ bớt ỷ lại và phải chủ động

hơn trong quản lý nguồn vốn.

Chính phủ yêu cầu các tập đoàn kinh tế Nhà nước không đầu tư vào những

ngành nghề không đúng với ngành nghề kinh doanh chính: Thực hiện chỉ đạo

này, tập đoàn dầu khí Việt nam (PVN) đã thực hiện ngay các biện pháp thoái dần

vốn đầu tư tài chính bằng cách sắp xếp lại trong nội bộ, ví dụ khoản góp vốn vào

CTCP Đầu tư cho thuê máy bay được chuyển nhượng cho PVFC; phần vốn góp

của PVN trong CTCP Đầu tư Công đoàn Dầu khí cũng được chuyển nhượng cho

PVFC; vốn góp tại CTCK Dầu khí, PV Media chuyển về PVI; phần vốn tại Công

ty Dịch vụ cao cấp chuyển nhượng cho PVC. Các đơn vị thành viên của PVN, chỉ

có các khoản đầu tư tài chính vào PVFC và PVI, tập đoàn vẫn tiếp tục giữ, đây đều

là các đơn vị được thành lập trên cơ sở có sự đồng ý của Chính phủ từ khi PVN

còn hoạt động theo mô hình tập đoàn, các đơn vị khác đều được chuyển nhượng

vốn.

Không chỉ có PVN cơ cấu lại các khoản đầu tư ngoài ngành, mới đây Vinashin

theo yêu cầu của Chính phủ cũng đã thoái vốn tại Tập đoàn Bảo Việt. Để trở thành

cổ đông chiến lược của Bảo Việt, cách đây 2 năm, Vinashin đã bỏ ra 1.467 tỷ đồng

(hơn 90 triệu USD thời điểm đó) để sở hữu 3,56% vốn điều lệ.

Các tập đoàn kinh tế Nhà nước cũng thực hiện các giải pháp phối hợp để điều

chỉnh cấu trúc tài chính tập đoàn:

• Các tập đoàn kinh tế Nhà nước tổ chức rà soát các dự án đình, giãn tiến độ

trong năm 2008 để đánh giá phân loại và sắp xếp thứ tự ưu tiên, tận dụng cơ

hội thị trường để thúc đẩy đầu tư. Triển khai tích cực các dự án xây dựng

nhà ở cho cán bộ, công nhân viên, đồng thời kiên quyết dừng, giãn các dự

án không đủ thủ tục, không có phương án thu xếp vốn khả thi có hiệu quả.

• Thực hiện cơ chế tài chính, quản lý vốn hiệu quả và linh hoạt. Tập trung các

nguồn vốn nhàn rỗi trong tập đoàn và từng đơn vị thành viên, nhằm huy

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

động cao nhất sức mạnh tài chính của tập đoàn. Các định chế tài chính triển

Trang 63

khai cho vay đầu tư và sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên với

thủ tục đơn giản, lãi suất ưu đãi, linh hoạt, hỗ trợ, cùng chia sẻ khó khăn.

Ðẩy mạnh kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án

bất động sản, điều chỉnh vốn điều lệ tại các đơn vị, chuyển nhượng một

phần vốn của tập đoàn ở các đơn vị thành viên cho đối tác nước ngoài và

trong nước, với tư cách là cổ đông chiến lược. Ða dạng hóa các hình thức

huy động vốn, tận dụng tối đa các nguồn tín dụng của các tổ chức tài chính

trong và ngoài nước, bảo đảm cân đối đủ vốn cho nhu cầu đầu tư của tập

đoàn và các đơn vị thành viên. Tổ chức kiểm tra, rà soát định mức vốn lưu

động của tất cả các đơn vị thành viên, bảo đảm sử dụng vốn lưu động hiệu

quả nhất.

Các tập đoàn kinh tế tư nhân chủ động điều chỉnh cơ cấu nợ, cơ cấu hàng

tồn kho, cơ cấu đầu tư, cắt giảm những ngành nghề đang kinh doanh

nhiều rủi ro và dự kiến giảm doanh thu; phân tích tình hình thị trường để

đầu tư có trọng điểm.

Tập đoàn Hòa phát (HPG), khi giá của hầu hết các nguyên liệu thô giảm mạnh,

Tập đoàn đã chủ động trích lập dự phòng giảm giá tồn kho. Giá trích lập dựa

trên nguyên tắc thận trọng và tính đến những rủi ro giảm giá của thị trường đến

hết năm. Bên cạnh đó, Ban lãnh đạo công ty chủ động chỉ đạo đẩy mạnh bán

hàng, tăng cường chính sách hỗ trợ đại lý để tiêu thụ hàng nhanh nhất trong

điều kiện nhu cầu thấp và xu hướng giảm giá. Chiến lược rõ ràng và linh hoạt

đã giảm bớt những rủi ro và tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của toàn

Tập đoàn. Tập đoàn cũng duy trì một tỷ lệ nợ vay thấp trên tổng tài sản, để

giảm áp lực vốn vay và không bị ảnh hưởng của biến động lãi suất. Gần đây,

lãi suất cơ bản liên tục giảm là một tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp và phù

hợp với tình hình chung của thị trường. Tính đến 30/11, tổng nợ vay của Tập

đoàn là 535 tỷ đồng, trong đó số vốn vay ngắn hạn là 512 tỷ, dài hạn là 23 tỷ

đồng. Tập đoàn chưa sử dụng hết tổng hạn mức mà các ngân hàng thương mại

cho phép vay, đồng thời việc tiếp cận với các nguồn vốn không quá khó khăn.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Hiện tại chỉ số Vay nợ trên Tổng tài sản của Tập đoàn khoảng 10%. Khi các dự

Trang 64

án lớn như thép và xi măng… đi vào hoạt động, hệ số này cũng chỉ trên dưới

20%. Đây là hệ số nợ có tính an toàn rất cao. Đến thời điểm này, việc thu xếp

vốn cho các dự án lớn của HPG đã cơ bản hoàn thành. Trong bối cảnh rất nhiều

dự án lớn bị đình hoãn, việc duy trì và đưa vào hoạt động đúng tiến độ 2 dự án

lớn của Hòa Phát sẽ là một lợi thế lớn của Hòa Phát khi nền kinh tế ấm trở lại.

Tập đoàn FPT: nhiều khoản mục chi phí bị cắt giảm mạnh từ 30% đến 80%

trong đó cắt giảm chi phí hoạt động khoảng 20% và 10% nhân sự và chỉ cắt

giảm nhiều ở những đơn vị bị tác động mạnh bởi thị trường tài chính như

chứng khoán còn những đơn vị không chịu tác động bởi những biến động tài

chính nhiều như xuất khẩu phần mềm (FPT Software), viễn thông (FPT

Telecom), lĩnh vực giáo dục đào tạo (Đại học FPT, Học viện Quốc tế FPT…)

thì không phải thực hiện cắt giảm; chuẩn bị sẵn sàng nguồn tiền, nhân lực công

nghệ, và quản trị để nắm bắt những cơ hội phát sinh từ khủng hoảng trên cơ sở

đánh giá phân tích những ngành hàng chịu tác động trực tiếp từ khủng hoảng

và những ngành hàng không chịu ảnh hưởng

Đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp tái cấu trúc tài chính nêu trên:

Đối với các tập đoàn kinh tế Nhà nước: vẫn là các giải pháp mang tính mệnh

lệnh, tình thế. Sau hơn một năm tái cấu trúc tài chính để đối phó với khủng

hoảng nhưng cấu trúc tài chính các các tập đoàn kinh tế Nhà nước vẫn chưa có

những chuyển biến tích cực, nhà nước vẫn phải “hỗ trợ”, “giải cứu”các tập

đoàn thua lỗ, nợ chồng nợ như Vinashin; các tập đoàn vẫn xin những cơ chế

riêng cho mình không tuân thủ cơ chế thị trường vì nhiều lý do khác nhau.

Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân: các giải pháp tái cấu trúc tài chính như

điều chỉnh cơ cấu nợ, cơ cấu hàng tồn kho, cơ cấu đầu tư, cắt giảm những

ngành nghề đang kinh doanh nhiều rủi ro và dự kiến giảm doanh thu; phân tích

tình hình thị trường để đầu tư có trọng điểm đã giúp các tập đoàn kinh tế tư

nhân từng bước đối phó được những khó khăn của cuộc khủng hoảng.

Sự khác biệt về kết quả này chính là do cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

tế tư nhân được được kiểm soát, đánh giá rủi ro có hệ thống còn các tập đoàn

Trang 65

kinh tế Nhà nước vẫn không đánh giá, kiểm soát được các rủi ro tiềm ẩn trong

khi lại “vác’ lên vai các “nhiệm vụ, trọng trách” Nhà nước giao phó nên Nhà

nước vẫn phải ban phát đặc ân- những yếu tố làm “méo mó” cấu trúc tài chính

tập đoàn có thể gây những hậu quả khôn lường cho nền kinh tế.

Kết luận chương II

Tập đoàn kinh tế Việt nam là một mô hình doanh nghiệp mới xuất hiện trong

những năm gần đây tại Việt nam. Đối với các tập đòan kinh tế nhà nước, sự ra

đời của họ là chủ trương của chính phủ với mục đích xây dựng và phát triển

những tập đoàn doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc

tế. Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân, sự ra đời của họ là do sự lớn mạnh,

tăng trưởng quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động doanh nghiệp.

Nhìn chung, cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam đều nhằm phản

ánh quan hệ sở hữu trong tập đoàn theo mô hình công ty mẹ- công ty con. Cấu

trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt nam được đánh giá chung là đang

trong giai đoạn xây dựng, tái cấu trúc: cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh

tế nhà nước Việt nam được tái cấu trúc trên nền tảng mô hình cấu trúc tài chính

của tổng công ty nhà nước 90, 91 còn cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh

tế tư nhân Việt nam được tái cấu trúc trên nền tảng cấu trúc tài chính của các

công ty cổ phần.

Qua đánh giá thực trạng cấu trúc tài chính Việt nam:

• Cấu trúc tài chính các tập đòan kinh tế nhà nước thực sự phản ánh

những bất cập và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho mô hình tập đoàn

kinh tế nhà nước nói riêng và nền kinh tế nói chung nhất là vấn đề nợ và

hiệu quả sử dụng vốn.

• Cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế tư nhân trong giai đoạn này

thể hiện rõ khát vọng tự chủ và mở rộng quy mô doanh nghiệp của họ.

Những vấn đề về cơ cấu đầu tư, mở rộng ngành nghề chính; đầu tư vào

những lĩnh vực tài chính, bất động sản; hòan thiện hệ thống quản lý tập

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

đoàn sẽ cần đến những “động thái” tái cấu trúc tiếp theo của các tập

Trang 66

đoàn kinh tế tư nhân này nhằm đáp ứng chiến lược phát triển của Tập

đoàn.

Việc định hướng phát triển tiếp theo như thế nào cho mô hình tập đoàn kinh tế,

nhất là tập đoàn kinh tế nhà nước còn nhiều quan điểm khác nhau. Mặc dầu

vậy, với thực trạng hiện nay, việc tái cấu trúc cơ cấu tài chính các tập đoàn Việt

nam là việc cần làm ngay như một trong những giải pháp tái cấu trúc doanh

nghiệp nhằm khắc phục những hạn chế nêu.

Hơn nữa, đặt trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, các giải pháp tình

huống về việc tái cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế thực hiện ngay sau

cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra được xem là các động thái tích cực trong

giai đoạn vượt qua khủng hoảng tài chính hiện nay. Nhưng điều nhận thấy hơn

hết là sự khác biệt trong cách thức thực hiện tái cấu trúc tài chính giữa tập đoàn

kinh tế tư nhân và tập đoàn kinh tế Nhà nước. Một bên, công việc tái cấu trúc là

“chủ động” – xuất phát từ chủ trương, chính sách phát triển doanh nghiệp “phải

làm” như vậy, một bên là nhà nước phải chỉ đạo, yêu cầu thực hiện và các giải

pháp đưa ra nhằm đáp ứng chủ trương của Nhà nước hơn là nhìn nhận, đánh

giá từ yêu cầu nội tại của doanh nghiệp.

Rõ ràng điều này cho thấy rằng, giải pháp trong thời gian tới đối với tái cấu trúc tài

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

chính các tập đoàn kinh tế nước cần phải bàn nhiều hơn.

Trang 67

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN

KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU

3.1 NHỮNG THÁCH THỨC CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

TOÀN CẦU ĐẾN CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

VIỆT NAM

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến nền kinh tế Việt Nam mang

tính gián tiếp chứ không dẫn đến đổ vỡ mang tính hệ thống. Mặc dù gián tiếp

nhưng những ảnh hưởng đó vẫn mang lại nhiều khó khăn, thách thức hơn là cơ

hội.

Những thách thức đối với cấu trúc tài chính của các tập đoàn kinh tế Việt nam do

khủng hoảng tài chính là:

Nguồn vốn tài trợ giảm và khả năng “dàn xếp” khó thành công

• Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt, thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn

dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.

• Các khoản đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không

phải vốn tự có, nên trong điều kiện các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ

làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải

ngân.

• Thị trường chứng khoán Việt nam cũng giảm giá vì trong tình hình tài chính

khó khăn nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào. Trạng thái khác là

yếu tố tâm lý cũng góp phần làm cho VN-Index sụt giảm. Tình hình này sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong các

tập đoàn kinh tế.

• Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế của chính

phủ Việt nam cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao.

• Kế hoạch niêm yết và phát hành chứng khoán tại một số thị trường lớn trên thế

giới của một số doanh nghiệp Việt nam sẽ phải chủ động thay đổi để chờ thời

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

điểm thích hợp hơn.

Trang 68

Hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn hơn, nhất là đối với các tập đoàn sản

xuất hàng xuất khẩu.

• Hoạt động nhập khẩu của các nước sẽ co lại, vì vậy ảnh hưởng đến xuất khẩu

của Việt Nam.

• Giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam như dầu thô, gao. . . có xu

hướng giảm sút ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh thu các tập đoàn.

Quản trị rủi ro trong quản lý tài chính của các tập đoàn đứng trước những yêu

cầu mới

Sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc biệt là

các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế làm cho công tác quản lý tài chính

trong tập đoàn càng khó kiểm soát. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các

thành viên trong tập đoàn, các công ty tài chính dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực

cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự

án của tập đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng

tăng lên mà còn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ

hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn có biến động mạnh. Nói cách khác,

rủi ro hệ thống tiềm tàng cùng với tác động của khủng hoảng, các ngân hàng, tổ

chức tài chính của các tập đoàn sẽ khó khăn hơn trong vai trò của mình để cân

bằng giữa việc huy động vốn duy trì hoạt động kinh doanh và quản trị ngân hàng.

Các tập đoàn kinh tế nhà nước với vai trò “chủ đạo”trong nền kinh tế phải

chung tay với chính phủ thực hiện hàng loạt nhiệm vụ của các chính sách vĩ mô

để đối phó với khủng hoảng.

Các tập đoàn kinh tế nhà nước sẽ phải xem xét cắt giảm các dự án đầu tư, điều

chỉnh giá cả để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát. . .

Trước những ảnh hưởng nêu trên và thực trạng hiện tại của cấu trúc tài chính của

mình, các tập đoàn kinh tế Việt nam phải bắt tay vào công cuộc tái cấu trúc nhằm

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

mục đích:

Trang 69

• Trong ngắn hạn: kịp thời ứng phó với những khó khăn mà cuộc khủng

hoảng mang lại nêu trên để ít nhất không gây tổn thương thêm cho nền

kinh tế nếu vai trò “đầu tàu” không phát huy một cách trọn vẹn.

• Trong dài hạn: góp phần vào việc tái cấu trúc tập đoàn kinh tế trong giai

đoạn “thí điểm” này để hướng tới một mô hình doanh nghiệp phù hợp hơn

nhằm khắc phục những hạn chế của mô hình các tập đoàn kinh tế hiện nay.

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH CÁC TẬP ĐOÀN

KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

3.2.1 Mô hình tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam

Trước hết, phải xác định rằng sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh

tế là tất yếu của quá trình hợp tác phát triển các loại hình doanh nghiệp, các

mối quan hệ hợp tác đầu tư trên cơ sở nhu cầu phát triển thị trường và hội nhập

kinh tế quốc tế.

Tái cấu trúc tài chính là một bộ phận của quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp.

Nó phụ thuộc khá chặt chẽ với các hoạt động tái cấu trúc sở hữu, tái cấu trúc

nguồn lực, tái cấu trúc ngành nghề kinh doanh, tái cấu trúc hệ thống quản lý,

giám sát . . . . . .Vì thế, việc xác định rõ ràng mô hình tập đoàn kinh tế, trong đó

quy định về quan hệ sở hữu, mối quan hệ-trách nhiệm quyền hạn của các đơn

vị thành viên trong tập đoàn. . .sẽ là cơ sở cho việc xây dựng một cấu trúc tài

chính chặt chẽ, phù hợp. Ngược lại, khi các vấn đề về mô hình tập đoàn còn

chưa tách bạch, quan hệ phụ thuộc chồng chéo thì cấu trúc tài chính sẽ tiềm ẩn

nhiều rủi ro vì không kiểm soát được. Mô hình tập đoàn kinh tế Việt nam thời

gian tới hoàn thiện như thế nào?

Đối với mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước: do việc chuyển đổi thành lập

tập đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở các Tổng Công ty nhà nước giữ vai trò

quan trọng trong nền kinh tế và do lịch sử để lại nên một số lĩnh vực cụ thể,

hoạt động của một số tập đoàn hiện nay mang tính độc quyền, chưa phù hợp

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

với cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Vì sự hạn chế này mà có

Trang 70

khá nhiều quan điểm khác nhau về việc nên hay không việc tiếp tục cho ra đời

và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nói về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, trong một báo cáo mới nhất gửi Thủ

tướng Chính phủ (vừa được phép công bố) mang tên “Thay đổi cơ cấu: Giải

pháp kích thích có hiệu lực duy nhất”, nhóm chuyên gia của đại học Harvard

(Mỹ) đã khuyến nghị: Đây là mô thức thường gặp ở các nước đang phát triển

có hệ thống điều tiết yếu kém và thực tế bất kỳ nước nào thử nghiệm mô thức

này đều chuốc lấy những thất bại tràn trề. Từ mô hình tập đoàn gia đình của

Indonesia tới các tập đoàn của Chile, sự kết cấu của các lợi ích kinh tế và

doanh nghiệp đều dẫn đến hoạt động cho vay chéo trong tập đoàn. Sự tập trung

(chứ không phải phân tán) rủi ro, tình trạng mất kiểm soát cung tiền và cuối

cùng là khủng hoảng tài chính. Các tập đoàn kinh tế nhà nước kiếm được lợi

nhuận dễ dàng nhờ mối quan hệ hơn là năng lực cạnh tranh trên thị trường và

khả năng tạo ra giá trị thông qua sáng tạo và lao động nghiêm túc.

Xu hướng hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế là cần thiết nhưng như

những bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy việc tiếp tục hoàn thiện về

mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước cần được nghiên cứu và thay đổi cho phù

hợp trên nguyên tắc tập đoàn phải là con đẻ của thị trường, là sản phẩm của

một quá trình tích tụ tư bản kéo dài, đến khi đủ lớn thì bản thân nội tại

của nó đủ tiềm năng sẽ trở thành tập đoàn dưới sự thừa nhận của thị

trường, chứ không phải là một sự sắp xếp duy ý chí, sự lắp ghép cơ học

một số doanh nghiệp như nhiều trường hợp đang diễn ra ở nước ta, nhà nước

chỉ nên đóng vai trò “bà đỡ”.

Đối với mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân: việc hình thành và phát triển các

tập đoàn kinh tế tư nhân trong nước cũng đang đặt ra các yêu cầu hoàn thiện,

tính tương thích với hệ thống pháp luật, cải cách hành chính về cạnh tranh, đầu

tư, thương mại, sáp nhập và mua lại theo hướng thống nhất, khuyến khích mô

hình kinh tế này phát triển. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước

đối với tập đoàn kinh tế tư nhân trên cơ sở tôn trọng các quy luật của một nền

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

kinh tế thị trường như: khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế trong khu

Trang 71

vực ngoài quốc doanh; Không can thiệp vào công việc nội bộ tập đoàn; Không

sử dụng mệnh lệnh cưỡng chế hành chính; Không tạo cơ chế xin – cho trong

các tập đoàn, quản lý nhà nước thông qua các chính sách vĩ mô như các chính

sách về thuế, về chống độc quyền...

Đến một giai đoạn phát triển nhất định sẽ không còn sự phân biệt giữa tập đoàn

kinh tế nhà nước và tập đoàn kinh tế tư nhân.

Để phù hợp với định hướng phát triển đối với mô hình tập đoàn kinh tế Việt

nam nêu trên; phù hợp với lộ trình cải cách doanh nghiệp nhà nước Việt nam

và kinh nghiệm của các tập đoàn kinh tế thế giới thì mô hình tái cấu trúc tài

chính các tập đoàn kinh tế có thể “định dạng” là:

- Cấu trúc các nguồn tài trợ: tăng vai trò của nguồn vốn chủ sở hữu, tài trợ

cho tài sản chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu. Tỷ suất nợ/tài sản trung bình

khoảng 41%, tỷ suất nợ/ vốn chủ sở hữu 80% và có xu hướng giảm dần

theo quá trình phát triển của tập đoàn. (Thực tế một số tập đoàn lớn trên thế

giới có khả năng cạnh tranh mạnh, thị phần lớn có thể tăng đòn bảy tài

chính nhưng với hầu hết các tập đòan kinh tế Việt nam giai đoạn này đều

trong giai đoạn củng cố và định vị trên thị trường)

- Cơ cấu đầu tư vào ngành, lĩnh vực: tập trung vào lĩnh vực chính để phát

huy lợi thế cạnh tranh. Phá sản hay mua bán sáp nhập các công ty thành

viên khi cần thiết.

- Hệ thống quản lý tài chính tập đoàn: minh bạch, công khai và kịp thời; có

hệ thống quản trị rủi ro tài chính, đánh giá, phân tích dòng tiền trong tập

đoàn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Và để hình thành mô hình cấu trúc tài chính như vậy, lộ trình tái cấu trúc tài

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

chính các tập đoàn kinh tế Việt nam có thể đề xuất như sau:

Trang 72

Tập đoàn kinh tế Nhà nước

Tập đoàn kinh tế tư nhân

• Tăng khả năng tích tụ vốn chủ sở hữu.

• Phát triển bền vững, tăng vốn

Giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước.

chủ sở hữu .

• Đầu tư mở rộng phát triển ngành nghề, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ trong ngành.

Đến 2015

• Cổ phần hoá tối thiểu 2/3 doanh nghiệp nhà nước trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước. Nhà nước chỉ nắm cổ phần chi phối trong 1 số lĩnh vực, ngành nghề then chốt. Phá sản những công ty thua lỗ trong 03 năm.

• Hoàn thiện hệ thống quản lý tài chính tập đoàn theo mô hình công ty mẹ-công ty con chuẩn mực trên thế giới.

• Tăng vốn chủ sở hữu • Đầu tư vào các ngành nghề có hàm lượng công nghệ - khoa học cao.

Đến 2020

• Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý tài chính “cấp-phát”, thiết lập hệ thống quản lý tài chính, quản trị rủi ro theo mô hình công ty mẹ-công ty con chuẩn mực trên thế giới. • Tăng vốn chủ sở hữu • CPH 100% các doanh nghiệp nhà nước trong các tập đoàn. Nhà nước chỉ nắm 100% hoặc cổ phần chi phối tại công ty mẹ trong những lĩnh vực, ngành nghề có liên quan đến an ninh, quốc phòng.

Tập đoàn kinh tế

Việt nam

Để triển khai việc tái cấu trúc hướng đến mô hình cấu trúc tài chính theo lộ

trình tái cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế nêu trên, hệ thống các giải pháp

bao gồm:

3.2.2 Hệ thống các giải pháp liên quan đến quy định, chính sách vĩ mô của Nhà

nước

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

3.2.2.1 Đổi mới cơ chế quản lý, giám sát của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế

Trang 73

Đúng vào lúc Quốc hội thảo luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật về

quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà

nước, chính phủ đã ban hành Nghị định 101 về thí điểm thành lập, tổ chức và

quản lý hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước. Đối tượng áp dụng của nghị

định này là các tập đoàn kinh tế nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định

thành lập. Tập đoàn kinh tế nhà nước dự kiến thành lập phải có ngành nghề

kinh doanh chính theo quy định trong nghị định này, có khả năng phát triển

trên cơ sở ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan; đảm bảo

các điều kiện về cơ cấu ngành nghề...Nghị định cũng quy định cụ thể về hạn

chế đầu tư và về ngành nghề kinh doanh trong tập đoàn kinh tế nhà nước. Cụ

thể, doanh nghiệp bị chi phối không được mua cổ phần, góp vốn vào doanh

nghiệp giữ quyền chi phối trong cùng một tập đoàn. Việc đầu tư vốn ra ngoài

công ty mẹ là công ty nhà nước thực hiện theo Quy chế quản lý tài chính của

công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác ban

hành kèm theo Nghị định 09 ngày 5-2-2009 của Chính phủ. Công ty mẹ, các

doanh nghiệp thành viên của tập đoàn được đăng ký những ngành nghề kinh

doanh theo quy định của pháp luật, nhưng phải tập trung đầu tư và hoạt động

kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan

đến ngành nghề kinh doanh chính. Đại diện chủ sở hữu Nhà nước quyết định

việc kinh doanh các ngành nghề kinh doanh chính; quyết định việc điều chỉnh

hoặc thay đổi đối với các ngành nghề kinh doanh chính; giám sát kinh doanh

các ngành nghề không liên quan đến ngành nghề kinh doanh chính.

Như vậy chưa có sự thay đổi đáng kể nào trong mô hình quản lý tập đoàn kinh

tế nhà nước. Quy định mới về giám sát của chủ sở hữu Nhà nước đối với tập

đoàn kinh tế nhà nước cũng sẽ không triển khai theo hướng thành lập bộ máy

mới như đã từng được thảo luận nhiều. Câu chuyện tranh luận về mô hình “siêu

tổng công ty” hay “siêu bộ” lập ra để quản lý, giám sát hoạt động của tập đoàn

kinh tế nhà nước sẽ tạm dừng lại, chờ kết luận từ chặng đường thí điểm tiếp

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

theo. Nội dung quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn

Trang 74

kinh tế nhà nước sẽ được thực hiện thông qua giám sát công ty mẹ và do các cơ

quan quản lý chuyên ngành thực hiện. Cụ thể:

• Bộ Tài chính giám sát, đánh giá hoạt động tài chính, kết quả và hiệu quả kinh

doanh của công ty mẹ và toàn bộ tập đoàn kinh tế; việc phát hành cổ phiếu,

tăng vốn điều lệ của công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên; vay vốn đầu

tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán. Bộ Tài Chính

cũng được đề nghị giao quyền giám sát việc chuyển dịch vốn, đầu tư và các

nguồn lực bên trong tập đoàn và giữa trong và ngoài tập đoàn kinh tế cũng như

theo dõi báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn kinh tế.

• Trách nhiệm giám sát danh mục đầu tư, các ngành nghề kinh doanh chính và

ngành nghề có liên quan sẽ do bộ quản lý đối với ngành nghề kinh doanh chính

thực hiện. Bộ này cũng sẽ có trách nhiệm đánh giá về cơ cấu ngành nghề chính

và ngành nghề có liên quan. Đặc biệt, bộ này cũng được giao nhiệm vụ theo

dõi cán bộ lãnh đạo quản lý tại công ty mẹ, đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu

về nhân lực lãnh đạo quản lý đối với ngành nghề kinh doanh chính và ngành

nghề có liên quan.

• Với các đề án thành lập mới tập đoàn kinh tế nhà nước cũng như việc thành lập

doanh nghiệp mới của công ty mẹ, tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp

khác thuộc lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, các dự án có nguy cơ rủi ro, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư sẽ thực hiện giám sát và chịu trách nhiệm cả quá trình tổ chức

thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ trong tập đoàn

kinh tế nhà nước; đánh giá về kết quả thực hiện đề án; phân tích các thuận lợi

và rủi ro của phát triển tập đoàn kinh tế; giám sát và đánh giá việc thực hiện

chiến lược phát triển của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các cơ quan này sẽ

thực hiện nhiệm vụ quản lý, giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước thông

qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị công ty mẹ; qua thực hiện kiểm toán

tại công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên cũng như các báo cáo định kỳ và

đột xuất của công ty mẹ theo các nguyên tắc, tiêu chí sẽ được Thủ tướng Chính

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

phủ ban hành. Đặc biệt, theo quy định này thì kết quả đánh giá này là cơ sở để

Trang 75

quyết định mức lương, thưởng, bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại đối với thành viên

hội đồng quản trị, người quản lý điều hành tại công ty mẹ.

Nghị định này có ảnh hưởng đến việc tái cấu trúc tài chính tập đoàn hay

không. Tất nhiên là có vì nó quy định giới hạn và quản lý các khoản mục

đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề nhiều rủi ro; phát triển đa ngành nhưng

phải tập trung vào ngành nghề chính. Song điều này các tập đoàn kinh tế

nhà nước đã thực hiện, điều chỉnh trong thời gian trước. Tồn tại ở đây là

vẫn có quá nhiều các bộ ngành tham gia vào hoạt động của tập đoàn. Tình

trạng làm theo “chỉ đạo” sẽ tồn tại. Hệ quả là ý thức về việc tái cấu trúc tài

chính sao cho gia tăng khả năng nguồn tài trợ, nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn, cân đối giữa nợ và vốn vay. . .. vẫn không phải là vấn đề các tập đoàn

quan tâm. Vì bản thân các tập đoàn không cần đánh giá các hoạt động tài

chính của mình vì đã có bộ Tài chính lo, không cần giám sát hoạt động đầu

tư vì đã có bộ Kế hoạch và đầu tư lo. Vẫn là phương thức quản lý, giám

sát “trực tiếp” không mấy hiệu quả. Hơn nữa, đối tượng của nghị định này

là các tập đòan kinh tế nhà nước, không điều chỉnh các tập đoàn kinh tế tư

nhân.

Do vậy, cơ chế quản lý, giám sát các tập đoàn kinh tế của Nhà nước để việc tái

cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn cho nền

kinh tế là:

• Xây dựng và ban hành hành lang pháp lý điều chỉnh sự hoạt động của các

tập đoàn kinh tế, không phân biệt Nhà nước hay tư nhân. Kiểm soát hoạt

động đầu tư tài chính của các tập đoàn kinh tế phi tài chính để giảm thiểu

khả năng xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai.

• Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân: có chính sách khuyến khích sự hình

thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân; tạo môi trường kinh doanh

cạnh tranh bình đằng.

• Đối với các Tập đoàn kinh tế Nhà nước:

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Quản lý nợ trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước:

Trang 76

Một thực tế là công tác quản lý nợ của các tập đoàn kinh tế Nhà nước còn

nhiều vướng mắc, hạn chế. Vì vậy, hệ thống các giải pháp về quản lý nợ

trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước được đề xuất bao gồm:

(cid:190) Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn,

tài sản nhà nước. Sớm ban hành Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư

vào kinh doanh.

(cid:190) Xác định rõ trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước về vốn và tài sản

tại các tập đoàn.

(cid:190) Triệt để tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng thực hiện

các quyền chủ sở hữu; tách biệt thực hiện quyền chủ sở hữu đối với

quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức đánh giá mô

hình hoạt động của SCIC để có định hướng và giải pháp rõ ràng;

đồng thời xây dựng quy chế hoạt động phù hợp với đặc thù của

SCIC. Cơ quan quản lý cần hạn chế thấp nhất việc can thiệp bằng

mệnh lệnh hành chính vào quá trình quản trị điều hành của các công

ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Thay vào đó, Nhà

nước nên ban hành quy định rõ ràng về người đại diện chủ sở hữu

vốn Nhà nước với tư cách một cổ đông bình đẳng chứ không phải cơ

quan quản lý hành chính. việc xử lý nợ thông qua tái cấu trúc doanh

nghiệp như là phương cách chủ đạo. Trong trường hợp này, nhà

nước mua nợ từ ngân hàng theo cơ chế thị trường, sau đó xử lý

những tồn tại tài chính để cân bằng sổ sách, tiếp theo là tái cấu trúc

doanh nghiệp thông qua việc chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc

cấu trúc lại tình trạng tài chính, quản trị và hoạt động hiện tại, nếu đó

là công ty đã được cổ phần hóa.

(cid:190) Tổ chức rà soát đánh giá hoạt động của các tập đoàn để có biện pháp

chấn chỉnh, củng cố các doanh nghiệp trong tập đoàn kém hiệu quả.

Chấn chỉnh hoạt động đầu tư tràn lan ở một số đơn vị, nhất là sử

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

dụng vốn nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro. Xây dựng

Trang 77

những quy định cụ thể và điều kiện các tập đoàn được phép đầu tư ra

ngoài ngành.

(cid:190) Với những doanh nghiệp có vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh

tế hiện đang gặp khó khăn về tài chính, một mặt cần làm rõ trách

nhiệm của Ban quản lý tập đoàn, mặt khác cần cơ cấu lại theo

hướng: (1) đánh giá thực trạng nhu cầu vốn của các tập đoàn, tổng

công ty để có cơ chế xử lý bổ sung vốn tiếp tục thực hiện các dự án

đầu tư có hiệu quả, hạn chế thất thoát vốn do kéo dài thời gian dự án;

(2) cơ cấu lại tài sản theo hướng chuyển nhượng, sáp nhập các dự án,

các khoản đầu tư không hiệu quả hoặc không cần thiết cho hoạt động

kinh doanh chính để tập trung nguồn lực phục vụ sản xuất - kinh

doanh theo nhiệm vụ được giao.

(cid:190) Có giải pháp xử lý triệt để tình trạng nợ dây dưa, nợ chiếm dụng

không lành mạnh.

(cid:190) Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát đủ năng lực và điều kiện về

quản lý vốn, tài sản song song với việc tăng tính trách nhiệm của cơ

quan quản lý.

Đẩy nhanh việc sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước

trong các tập đoàn Nhà nước.

Tách bạch giữa nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ kinh doanh của tập

đoàn Nhà nước.

3.2.2.2 Các giải pháp phối hợp

Thực hiện kiểm toán nhà nước

- Đối với tập đoàn kinh tế Nhà nước: Giao quyền và năng lực đầy đủ cho

kiểm toán nhà nước để kiểm toán thường xuyên, kịp thời các tập đoàn

kinh tế nhà nước, với mật độ kiểm toán dày hơn. Kiểm toán vừa bảo đảm

cái lợi về lâu dài cho năng lực cạnh tranh của tập đoàn vừa giúp Nhà nước

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

quản lý tốt hơn.

Trang 78

- Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân: chuẩn mực hoá các quy định về kiểm

toán phù hợp với thông lệ quốc tế để các con số báo cáo niêm yết trên thị

trường chứng khoán mang tính chính xác cao và kịp thời.

Kiểm soát các khoản nợ vay ngân hàng của các tập đoàn kinh tế

- Đối với tập đoàn kinh tế Nhà nước: Hệ thống ngân hàng, đặc biệt các ngân

hàng thương mại quốc doanh cần kiểm soát vốn vay tốt hơn. Hiện nay, các

khoản tín dụng cho vay đối với tập đoàn kinh tế Nhà nước vẫn còn mang

tính bao cấp chứ chưa xem xét tính khả thi của dự án. Vì vậy, cần xóa bỏ

tình trạng bao cấp trong hoạt động tài trợ vốn cho danh nghiệp, thay vào đó

là các khoản vay mang tính chất thương mại.

- Đối với Tập đoàn kinh tế tư nhân: tạo điều kiện tiếp cận vốn cho các tập

đoàn này trên cơ sở các chiến lược phát triển kinh doanh đúng đắn.

3.2.3 Hệ thống các giải pháp từ phía các tập đoàn kinh tế

3.2.3.1 Xây dựng một cấu trúc tài chính mang tính “chiến lược” để đối phó với

khủng hoảng và ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng xảy ra.

- Củng cố dòng tiền mặt trong toàn tập đoàn:

• Cơ cấu lại hàng tồn kho, hoãn thanh toán các khoản phải trả như

các khoản nợ, thu… chẳng hạn, kiến nghị với Chính phủ xin hoãn

nộp thuế

• Thực hiện các chính sách kích thích tăng thu (giảm giá, . . .),

giảm chi (giảm nhân sự, dừng/ giãn kế hoạch chi của một số dự

án chưa cần thiết).

• Tận dụng các gói cho vay kích cầu lãi suất thấp của chính phủ để

duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh.

• Quy tắc 80/20 trong việc quản lý dòng tiền: 80% dòng tiền được

tạo ra từ 20% khoản mục.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

- Tăng quy mô và khả năng tích tụ vốn

Trang 79

• Tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới đồng thời tập trung khai thác

thị trường nội địa. Điều chỉnh cơ cấu ngành nghề phù hợp.

• Xem xét các phương án giải thể, sáp nhập, liên doanh liên kết các

công ty thành viên trên nguyên tắc tập trung phát triển, mở rộng

các công ty thành viên kinh doanh trong lĩnh vực trọng yếu của

tập đoàn, làm ăn có lãi.

- Điều chỉnh cơ cấu nợ/vốn chủ sở hữu hợp lý (lập lại dự báo tài chính tối

thiểu là 1 năm), hoàn thiện các hệ số tài chính thông qua việc so sánh

với các doanh nghiệp cùng ngành trong khu vực và tại Việt Nam, đưa ra

phương thức quản trị tài chính hiệu quả, tái cấu trúc lại doanh nghiệp và

các khoản đầu tư (bằng cách chia tách, sát nhập hoặc bán bớt cổ phần...).

Điều này thực hiện trên cơ sở: phân tích và rà soát các hoạt động tài

chính, dự báo tài chính cho các năm tới, xác định cơ cấu vốn tối ưu, lựa

chọn giải pháp thực hiện để đạt cơ cấu vốn tối ưu, tổ chức thực hiện và

đánh giá giải pháp. Bên cạnh đó, để thực hiện thành công việc tái cấu

trúc tài chính, doanh nghiệp còn phải lập dự báo tài chính trong khoảng

3 năm, bao gồm: Dự báo bảng cân đối kế toán, dự báo kết quả kinh

doanh, dự báo nhu cầu vốn dài hạn, dự báo biến động dòng tiền.

- Tất cả các tập đoàn Nhà nước phải chính thức kiểm toán quốc tế và công

khai cho người đóng thuế biết được tiền của mình hiện đang được sử

dụng ra sao.

3.2.3.2 Thực hiện đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa các tập đoàn kinh tếNhà

nước

Vấn đề xác định chủ sở hữu là yếu tố then chốt để tạo động lực cho công ty mẹ

và các công ty thành viên. Việc chuyển đổi sang mô hình Công ty cổ phần,

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của một số công ty con vẫn còn ỷ

lại vào sự điều hành, phân công thị trường, bảo hộ thị trường của Tập đoàn;

một số công ty chưa có chuyển biến thực sự về quản trị theo luật Doanh

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

nghiệp, hoạt động quản lý vẫn mang nặng hình thức của Công ty nhà nước.

Trang 80

Một số doanh nghiệp còn chưa thoát khỏi cơ chết xin - cho… vì thế việc sớm

tiến hành cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế nhà nước là cần thiết.

Hơn nữa, cổ phần hóa sẽ giúp các tập đoàn phát huy vai trò của vốn cổ phần

trong hoạt động huy vốn cho kinh doanh.

Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp trong các tập đòan

kinh tế nhà nước; phát hành trái phiếu, tham gia thị trường chứng khoán để

thực hiện đa dạng hóa sở hữu.

3.2.3.3 Tăng cường công tác kiểm soát tài chính trong nội bộ tập đoàn

Các tập đoàn kinh tế Việt Nam cần quản lý các công ty con thông qua kiểm soát

tài chính- hoạt động chi phối, định hướng của công ty mẹ đối với việc ra quyết

định về các chính sách tài chính và hoạt động của các công ty con nhằm đạt

được mục tiêu phát triển của Tập đoàn. Đây là công cụ quan trọng để thực hiện

mục tiêu quản lý của Công ty mẹ đối với các công ty con trong mối quan hệ đầu

tư vốn. Một số giải pháp có tính định hướng để thực hiện kiểm soát tài chính

một cách hiệu quả trên cơ sở mối quan hệ về đầu tư vốn giữa công ty mẹ và các

công ty con có thể là:

Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp DN, đẩy nhanh tiến trình cổ

phần hóa DN thành viên và trực thuộc đơn vị thành viên.

Để thực hiện kiếm soát tài chính một cách hiệu quả thì một trong những

giải pháp quan trọng là các Tập đoàn kinh tế Việt Nam cần đẩy nhanh

tiến trình thực hiện cổ phần hóa (CPH), đa dạng hóa sở hữu. Sở dĩ như

vậy vì CPH sẽ tách bạch quyền sở hữu và quyền điều hành quản lý DN,

hoạt động của DN sẽ được giám sát bởi các cổ đông. Sau CPH, giám đốc

là người điều hành DN và biết rõ mục tiêu của các chủ sở hữu (cổ đông)

là gia tăng giá trị tài sản của mình. Nếu cổ đông không hài lòng với hoạt

động của công ty họ sẽ bán cổ phiếu và rút vốn đầu tư nơi khác. Điều này

đòi hỏi giám đốc và DN cần nỗ lực và tập trung vào việc tạo ra giá trị cho

cổ đông, nhằm làm cho cổ đông hài lòng vì thấy mục tiêu của họ được

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

thực hiện. Thực tế cho thấy, các DN trong các tập đoàn kinh tế sau khi

Trang 81

CPH đều hoạt động hiệu quả hơn với sự tham gia giám sát của đội ngũ

đông đảo cổ đông, các thông tin minh về tình hình hoạt động, tình hình tài

chính, kết quả hoạt động của đơn vị được minh bạch hơn.

Thứ hai, cần xây dựng hệ thống kiểm soát tài chính hiệu quả trong

các Tập đoàn

Hệ thống kiểm soát tài chính là một trong những yếu tố quan trọng của hệ

thống quản lý hiện đại và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hệ thống

quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng trong tập đoàn kinh tế. Đối

với các tập đoàn kinh tế Việt Nam hiện nay, hệ thống kiểm soát tài chính

vẫn chưa được xây dựng một cách hệ thống, chức năng kiểm soát tài chính

còn chồng chéo. Do đó, hệ thống kiểm soát tài chính cần được kiện toàn và

hoàn thiện như sau:

- Ban kiểm soát là đơn vị đại diện cho các chủ sở hữu vốn, thực hiện

chức năng kiểm soát đối với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm

vụ của HĐQT trong việc quản lý và thực hiện các mục tiêu phát

triển của tập đoàn. Do đó, đơn vị này cần phải độc lập với HĐQT

(trong hầu hết các tập đoàn kinh tế Việt Nam hiện nay, Ban kiểm

soát trực thuộc HĐQT).

- Cần tách bạch chức năng thực hiện các hoạt động tài chính và

chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính để nhanh

chóng hạn chế tồn tại trong một số tập đoàn hiện nay là Ban kế toán

tài chính là đơn vị chức năng nhưng lại vừa là đơn vị thực hiện các

hoạt động tài chính, vừa thực hiện chức năng kiểm soát các hoạt

động tài chính do đó chức năng kiểm soát hầu như không có hiệu

quả.

- Hệ thống kiểm soát tài chính trong các tập đoàn kinh tế bao gồm:

kiểm soát của chủ sở hữu đối với giám đốc điều hành, kiểm soát của

giám đốc điều hành đối với toàn bộ hoạt động trong phạm vi được

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

quản lý. Có thể thực hiện theo hệ thống sau: Kiểm soát của chủ sở

Trang 82

hữu đối với người quản lý tập đoàn (corporate governance) và kiểm

soát của người quản lý tập đoàn đối với toàn bộ hoạt động trong

phạm vi mình quản lý (internal control). Ở tầng thứ nhất, đại hội cổ

đông, cơ quan quyền lực cao nhất sẽ lập và bầu ra Ủy ban kiểm soát

tập đoàn. Ủy ban kiểm soát này có nhiệm vụ kiểm soát tất cả những

hoạt động của HĐQT. Nếu phát hiện HĐQT có hành vi sai trái, Ủy

ban này sẽ báo cáo đại hội cổ đông để cơ quan này xử lý, kể cả cách

chức, miễn nhiệm HĐQT; Đồng thời, HĐQT cũng lập ra một Ban

kiểm soát để giám sát hoạt động của Tổng giám đốc, Phó tổng giám

đốc, trong đó có hai hoạt động quan trọng là hoạt động tài chính và

việc thực thi chiến lược, nghị quyết của HĐQT… Ở tầng kiểm soát

tiếp theo, để giám sát hoạt động của cấp dưới, Tổng giám đốc cũng

lập ra một bộ phận kiểm soát nội bộ. Bộ phận này thay mặt Tổng

giám đốc có thể kiểm soát các hoạt động tài chính của tập đoàn

Thứ ba, cần xây dựng được một quy trình kiểm soát tài chính trong

tập đoàn mà trước hết cần thiết lập mục tiêu kiểm soát tài chính của tập

đoàn theo đó mục tiêu kiểm soát là những mốc mà các hoạt động tài

chính của tập đoàn cần đạt được. Các mục tiêu này thường là các chỉ

tiêu phản ánh về mặt định tính hay định lượng. Tuy nhiên cần cố gắng

lượng hóa các tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn định lượng như tổng doanh

thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư,... Đồng thời, cần thiết

lập được các hệ thống giám sát, đánh giá hoạt động tài chính cũng như

dự báo và kiểm soát được rủi ro các hoạt động tài chính để có các biện

pháp ứng phó linh hoạt.

Quy trình kiểm soát tài chính cần chỉ rõ đơn vị đầu mối thực hiện kiểm

soát tài chính cũng như các đơn vị, tổ chức tham gia phối hợp kiểm soát

tài chính trong tập đoàn kinh tế. Đồng thời, quy trình cũng cần nêu rõ

trách nhiệm của từng chủ thể thực hiện kiểm soát trong tập đoàn. Cần

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

lưu ý rằng kiểm soát tài chính là kiểm soát sự luân chuyển và sự sinh sôi

Trang 83

đồng vốn, hay nói cách khác là tính hiệu quả của vốn đầu tư vào công ty

con chứ không phải kiểm soát công việc của giám đốc các công ty con.

Thứ tư là cần dự báo và kiểm soát được rủi ro tài chính

Rủi ro tài chính là một trạng thái biểu hiện nguy cơ bất ổn xảy ra trong

hoạt động đầu tư dẫn đến hiệu quả đầu tư không đạt được mức như mục

tiêu dự kiến khiến cho chủ thể đầu tư lâm vào trạng thái bất lợi trong

kinh doanh như thua lỗ, nợ nần thậm chí phá sản,.. và gây ảnh hưởng

đến hoạt động tài chính. Nguy cơ rủi ro tài chính đã thực sự chứa đựng

trong từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tài

chính và là những mầm mống, sẵn sàng châm ngòi cho những ngọn “núi

lửa” khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế đối với các tập đoàn

kinh tế bất cứ lúc nào. Đặc biệt hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị

trường ngày càng phát triển thì mức độ rủi ro tài chính ngày càng tăng

thêm cùng với sự phát triển của thị trường tài chính. Do đó, kiểm soát

rủi ro tài chính được coi là một nội dung quan trọng và không thể thiếu

của nội dung kiểm soát tài chính trong tập đoàn kinh tế. Tùy từng lĩnh

vực của hoạt động tài chính mà kiểm soát rủi ro tài chính bao gồm các

nội dung tương ứng.

Đặc biệt, hoạt động kiểm soát muốn đạt hiệu quả, người được giao trọng

trách kiểm soát phải hội tụ được một số phẩm chất quan trọng. Thứ nhất,

phải am hiểu ngành, nghề. Ví dụ, kiểm soát tuân thủ thì phải am hiểu về

luật lệ; kiểm soát về tài chính thì phải có chuyên môn kế toán - tài chính

hoặc công ty hoạt động về dầu khí thì phải có kiến thức về lĩnh vực dầu

khí… Thứ hai, phải có tính hoài nghi nghề nghiệp, phát hiện ra sai sót.

Thứ ba, phải khách quan (tôn trọng sự thật). Muốn khách quan thì cần

phải độc lập (về kinh tế, quan hệ, công việc…).

3.2.3.4 Phát huy vai trò của các công ty tài chính trong tập đoàn

Công ty tài chính có nhiệm vụ huy động và cho vay đáp ứng nhu cầu của tập

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

đoàn và các đơn vị thành viên của về vốn. Quan hệ giữa Công ty tài chính với

Trang 84

các đơn vị thành viên của tập đoàn được thực hiện theo nguyên tắc có vay có

trả. Trường hợp thực hiện việc cho vay đối với các tổ chức đơn vị kinh doanh

khác ngoài tập đoàn phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị .

Bằng các nghiệp vụ sử dụng vốn tự có của mình công ty tài chính đại diện cho

tập đoàn tham gia vào việc điều hoà vốn trong tập đoàn. Đây cũng chính là

công cụ chủ yếu để công ty mẹ có thể chi phối được và điều chỉnh được hoạt

động của các công ty thành viên, tạo mối liên kết chặt chẽ về tài chính tạo ra

sức mạnh cho toàn bộ tập đoàn. Theo mô hình công ty mẹ - công ty con, công

ty mẹ thực hiện việc đầu tư vào các doanh nghiệp thành viên thông qua công ty

tài chính.

Muốn làm được điều nói trên, công ty mẹ phải đảm bảo thực hiện được những

yêu cầu cơ bản sau:

Về báo cáo tài chính: Các công ty con hạch toán độc lập và tự lập các báo cáo

tài chính định kỳ để gửi về công ty mẹ. Trên cơ sở đó, định kỳ công ty mẹ tiến

hành hợp nhất các báo cáo tài chính để có thể lập thành báo cáo chung cho toàn

bộ công ty.

Về đầu tư và quản lý vốn: Thông qua công ty tài chính, vốn của công ty mẹ

(vốn chủ sở hữu và vốn huy động) đựơc đầu tư vào các công ty con theo chiến

lược của công ty mẹ đồng thời cũng căn cứ vào qui mô hoạt động của từng

công ty con thông qua công ty tài chính. Các công ty con co nhiệm vụ bảo toàn

và phát triển vốn cũng như chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn từ công

ty tài chính lẫn vốn huy động đuợc từ bên ngoài.

Về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận: Cả công ty mẹ và công ty con đều

phải tuân thủ các qui định của pháp luật về quản lý tài chính. Công ty mẹ có thể

quản lý doanh thu, chi phí, lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trên lượng vốn

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

góp của mình tại từng công ty con thông qua hoạt động của công ty tài chính.

Trang 85

Kết luận chương III

Cấu trúc tài chính các tập đoàn kinh tế Việt nam tiếp tục đứng trước những

thách của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: các nguồn tài trợ trở nên khan

hiếm, môi trường kinh doanh tác động mạnh mẽ đến doanh thu, lợi nhuận,

quản lý tài chính chứa đựng nhiều rủi ro hơn. . . .

Trong bối cảnh những thách thức đó cùng với thực trạng cấu trúc tài chính các

tập đoàn kinh tế đã phân tích, đánh giá ở chương II, cấu trúc tài chính các tập

đoàn kinh tế sẽ phải được tái cấu trúc theo một mô hình hướng đến sự phát

triển bền vững với lộ trình cụ thể đến 2020.

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

Hệ thống giải pháp được phối hợp từ cả phía nhà nước lẫn các tập đoàn.

Trang 86

KẾT LUẬN CHUNG

Cấu trúc tài chính và tài cấu trúc tài chính có vai trò quan trọng đối với

sự phát triển của một doanh nghiệp.

Tập đoàn kinh tế Việt nam là một mô hình doanh nghiệp mới xuất hiện

trong những năm gần đây tại Việt nam. Qua phân tích, đánh giá, cấu trúc tài

chính các tập đoàn kinh tế Việt nam phản ánh một thực trạng là:

• Đối với các tập đoàn kinh tế Nhà nước: cấu trúc tài chính thực sự chứa

đựng những bất cập và nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là vấn nợ và kiểm

soát nợ. Việc tái cấu trúc tài chính được tiến hành một cách bị động.

• Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân: cấu trúc tài chính trong giai đoạn

này thể hiện rõ khát vọng tự chủ và mở rộng quy mô doanh nghiệp của

họ. Tuy nhiên, những vấn đề về cơ cấu đầu tư; hòan thiện hệ thống quản

lý tập đoàn sẽ cần đến những “động thái” tái cấu trúc tiếp theo của các

tập đoàn kinh tế tư nhân này nhằm đáp ứng chiến lược phát triển của

Tập đoàn.

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, cấu trúc tài chính các

tập đoàn kinh tế Việt nam tiếp tục đứng trước những thách đòi hỏi phải thực

hiện một công cuộc tái cấu trúc toàn diện theo một mô hình hướng đến sự phát

triển bền vững với lộ trình cụ thể đến 2020.

Hệ thống giải pháp để triển khai mô hình đó được đề xuất nhằm phối

hợp từ cả phía nhà nước lẫn các tập đoàn.

Tuy nhiên do hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn số liệu và thời gian

nên một số giải pháp chưa được đưa ra một cách cụ thể. Rất mong nhận được

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh- Khóa K 16

sự đóng góp để hoàn thiện từ phía thầy cô.