ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ––––––––––––––––––––––

HOÀNG THỊ THU TRANG ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC BÓN ĐẠM VÀ TUỔI THU HOẠCH ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA CÂY THỨC ĂN MORINGA OLEIFERA TRONG NĂM THỨ HAI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ––––––––––––––––––––––

HOÀNG THỊ THU TRANG ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC BÓN ĐẠM VÀ TUỔI THU HOẠCH ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA CÂY THỨC ĂN MORINGA OLEIFERA TRONG NĂM THỨ HAI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 8.62.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Từ Quang Hiển THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được

cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Đề tài này là một phần đề tài của nghiên cứu sinh, chúng tôi hợp tác cùng

nhau thực hiện và đã được sự đồng ý của nghiên cứu sinh về việc công bố các

kết quả nghiên cứu trong luận văn này.

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Thị Thu Trang

ii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã

nhận được sự giúp đỡ cũng như quan tâm, động viên từ nhiều cơ quan, tổ

chức và cá nhân. Nghiên cứu khoa học cũng được hoàn thành dựa trên sự

tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên cứu liên quan, các

sách, báo chuyên ngành của nhiều tác giả…Đặc biệt hơn nữa là sự giúp đỡ

của tạo điều kiện về vật chất cũng như tinh thần của gia đình, bạn bè và các

đồng nghiệp.

Trước hết em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS. Từ Quang

Hiển, Thầy đã dành nhiều thời gian công sức hướng dẫn em trong suốt quá

trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn này.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự quan tâm giúp đỡ

của các thầy cô giáo và các cán bộ bộ môn Cơ sở, các thầy cô giáo khoa

Chăn nuôi - Thú y và bộ phận Sau đại học thuộc phòng đào tạo trường Đại

học Nông lâm Thái Nguyên, các cán bộ Ban đào tạo Sau đại học - Đại học

Thái Nguyên đã động viên giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài

nghiên cứu.

Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các cán bộ viên chức

của các đơn vị: Viện Khoa học sự sống - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều

kiện thuận lợi và giúp đỡ nhiệt tình cho em trong quá trình thực hiện đề tài.

Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng năm 2019

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Thị Thu Trang

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. v

DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................... vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Đặt vấn đề ...................................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................... 1

3. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 2

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3

1.1.Cơ sở khoa học của đề tài……………………………………………. ...... 3

1.1.1. Giới thiệu về cây Moringa oleifera ......................................................... 3

1.1.2. Đặc điểm sinh lý, thành phần hóa của cây thức ăn gia súc ..................... 4

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đến năng suất và chất lượng của cây thức

ăn gia súc ........................................................................................................... 7

1.2. Tình hình nghiên cứu về Moringa oleifera ở trong và ngoài nước ......... 16

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước....................................................... 16

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ...................................................... 18

Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 21

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu .............................................. 21

2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 21

2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 21

2.3.1. Xác định điều kiện thí nghiệm .............................................................. 21

2.3.2. Thí nghiệm 1: Xác định mức bón đạm hợp lý cho cây M. Olefera ở

năm thứ hai ...................................................................................................... 21

2.3.3. Thí nghiệm 2: Xác định tuổi thu cắt thích hợp của M. oleifera ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

năm thứ hai ...................................................................................................... 22

iv

2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu ........................................................ 24

2.4. Xử lý số liệu ............................................................................................. 25

Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................... 26

3.1. Điều kiện thí nghiệm ................................................................................ 26

3.2. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất và

chất lượng của M. oleifere trong năm thứ hai ................................................. 28

3.2.1. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất sinh khối của

M. oleifera ...................................................................................................... 28

3.2.2. Ảnh hưởng của mức bón đạm đến năng suất lá tươi ............................ 31

3.2.3. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất vật chất khô của

M. oleifera ....................................................................................................... 33

3.2.4. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến thành phần hóa học của

M. oleifera ...................................................................................................... 34

3.2.5. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến sản lượng của M. oleifera ..... 36

3.2.5. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến hiệu lực sản xuất của

M. oleifera ...................................................................................................... 39

3.3. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất và chất

lượng của M. oleifera trong năm thứ hai ........................................................ 40

3.3.1. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất sinh khối của

M. oleifera ...................................................................................................... 40

3.3.2.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất lá tươi của M. oleifera ...... 43

3.3.3.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất vật chất khô của

M. oleifera ...................................................................................................... 45

3.3.4.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến thành phần hóa học của M. oleifera .. 48

3.3.5.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến sản lượng của M. oleifera ........... 50

KẾT LUẬN .................................................................................................... 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.................................... 60

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

: Khoáng Tổng số Ash

: Xơ thô CF

: Protein thô CP

: Cộng sự cs

: Vật chất khô DM

DXKN : Dẫn xuất không chứa nitơ

: Lipit thô EE

: Năng lượng thô GE

: Kali K

: Khoảng cách cắt KCC

: Khối lượng KL

: Nitơ N

: Dẫn xuất không chứa nitơ NFE

: Năng suất NS

: Nghiệm thức NT

: Phốt pho P

: Protein Pr

: Sản lượng SL

: Trung bình TB

: Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

: Vật chất khô VCK

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1 ............................................................... 22

Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2 ............................................................... 23

Bảng 3.1. Giá trị trung bình về khí tượng Thái Nguyên từ tháng 3 năm

2018 đến tháng 3 năm 2019 .......................................................... 26

Bảng 3.2. Thành phần dinh dưỡng đất thí nghiệm ........................................ 27

Bảng 3.3. Năng suất sinh khối của M. oleifera ở các mức bón phân đạm

trong năm thứ hai ......................................................................... 28

Bảng 3.4. Năng suất lá tươi của M. oleifera ở các mức bón phân đạm

trong năm thứ hai .......................................................................... 31

Bảng 3.5. Năng suất vật chất khô của M. oleifera ở các mức bón phân

đạm trong năm thứ hai .................................................................. 33

Bảng 3.6. Thành phần hóa học lá M. oleifera ở các mức bón phân đạm

khác nhau trong năm thứ hai ......................................................... 35

Bảng 3.7. Sản lượng của M. oleifera ở các mức bón phân đạm trong năm

thứ hai ............................................................................................ 36

Bảng 3.8. Hiệu lực sản xuất của M. oleifera ở các mức bón đạm khác

nhau trong năm thứ hai .................................................................. 39

Bảng 3.9. Năng suất sinh khối của M. oleifera ở khoảng cách cắt khác nhau ....... 41

Bảng 3.10. Năng suất lá tươi của M. oleifera ở khoảng cách cắt khác nhau ........ 44

Bảng 3.11. Năng suất vật chất khô của M. oleifera ở khoảng cách cắt khác nhau .. 46

Bảng 3.12. Thành phần hóa học lá M. oleifera ở khoảng cách cắt khác nhau ......... 48

Bảng 3.13. Sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô của M. oleifera ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khoảng cách cắt khác nhau ........................................................... 50

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Đồ thị nhiệt độ, ẩm độ và lượng mưa ở khu vực Thái Nguyên

từ tháng 3 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019 ................................. 27

Hình 3.2. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng suất sinh khối . 30

Hình 3.3. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng xuất lá tươi ..... 32

Hình 3.4. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng suất VCK ........ 34

Hình 3.5. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và sản lượng VCK ....... 38

Hình 3.6. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất sinh khối ... 42

Hình 3.7. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất lá tươi. ...... 45

Hình 3.8. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách và năng suất VCK .......... 47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.9. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và sản lượng VCK ... 51

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Để đưa một cây thức ăn xanh sử dụng trong chăn nuôi cần phải tiến

hành nghiên cứu trong hai bước. Bước 1: nghiên cứu kỹ thuật canh tác như

mật độ trồng, tuổi thu hoạch, mức bón phân (chuồng, đạm, lân, kali..), tưới

nước ... và nghiên cứu thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng của cây thức

ăn. Bước 2: Nghiên cứu sử dụng các dạng khác nhau (tươi, bột khô) cho các

đối tượng vật nuôi khác nhau (lợn, thỏ, gà...).

Cây Moringa oleifera Lam (M. oleifera) thuộc ngành ngọc lan

Magnoliphyta, lớp ngọc lan Magnoliosida, bộ Chùm ngây Moringales, họ

Chùm ngây Moringaceae, chi Chùm ngây Moringa có mặt ở nhiều nơi trên

thế giới, ở các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới thuộc châu Mỹ La Tinh, Châu Phi,

Châu Á. Lá của cây M. oleifera giàu protein, từ 30 - 40 % vật chất khô tùy

theo tuổi lá và khu vực trồng, giầu sắc tố, carotenoids tổng khoảng 700 mg/kg

VCK, carotene khoảng 300 mg/kg VCK. Vì vậy, lá tươi và bột lá M. oleifera

là một nguồn thức ăn quý, giàu protein và sắc tố đối với vật nuôi và M.

oleifera là một trong các cây thức ăn xanh có triển vọng tốt cho việc sản xuất

bột lá bổ sung vào thức ăn cho vật nuôi.

Thí nghiệm về ảnh hưởng của mức bón đạm và khoảng cách cắt đến

năng suất, chất lượng của cây thức ăn xanh M. oleifera nằm trong bước một

nêu trên. Thí nghiệm được thực hiện trong nhiều năm, trong khuôn khổ của

luận văn thạc sĩ, chúng tôi thực hiện thí nghiệm ở năm thứ hai với tiêu đề “

Ảnh hưởng của mức bón đạm và tuổi thu hoạch đến năng suất và chất

lượng của cây thức ăn Moringa oleifera trong năm thứ hai”

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Xác định được mức bón phân đạm, và tuổi thu hoạch thích hợp để áp

dụng vào canh tác cây Moringa oleifera (M. oleifera) nhằm đạt được năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

suất chất xanh và bột lá cao.

2

Xác định được thành phần hóa học của lá và bột lá để làm dữ liệu xây

dựng công thức thức ăn hỗn hợp cho gà mà trong đó bột lá M. oleifera là một

trong những nguyên liệu thức ăn.

3. Ý nghĩa của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cho ngành thức ăn chăn nuôi những

hiểu biết về ảnh hưởng của mức bón đạm và tuổi thu hoạch đến năng suất chất

xanh và thành phần hóa học của cây M. oleifera.

Kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng trong giảng dạy và nghiên cứu

khoa học thuộc lĩnh vực thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Ứng dụng các kết quả của đề tài này trong sản xuất sẽ nâng cao năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

suất chất xanh, bột lá, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.

3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.Cơ sở khoa học của đề tài

1.1.1. Giới thiệu về cây Moringa oleifera

* Tên gọi

Tên thông dụng ở Việt Nam: Chùm ngây

Tên Khoa học: Moringa oleifera hay M. Pterygosperma thuộc họ

Moringaceae.

Nhà Phật gọi là cây Độ Sinh (Tree of Life )

* Nguồn gốc

Cây xuất xứ từ vùng Nam Á, có lịch sử hơn 4 ngàn năm, nhưng phổ

biến rất nhiều ở cả Châu Á và Châu Phi. Cây Chùm ngây rất phổ thông ở Ấn

Độ và được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ sinh. Là loài cây ưa sáng,

mọc nhanh, giai đoạn đầu ưa bóng nên có thể trồng xen, khi cây lớn điều

chỉnh ánh sáng, phân cành cao, vỏ màu hơi xanh khi còn non, màu trắng mốc

khi đã già, tái sinh chồi mạnh với những nơi có độ ẩm cao, đất xốp, những nơi

tầng mùn dày tái sinh hạt yếu. Cây chịu hạn tốt, chịu được những nơi đất xấu

cằn cỗi.

Moringa oleifera thích hợp và phát triển tốt nhất ở nơi có độ cao dưới

600m, chịu hạn, sinh trưởng tốt ở những nơi có lượng mưa hàng năm từ 250 –

1.500 mm. Tuy nhiên ở những nơi có độ cao 1.200m cây M. oleifera vẫn phát

triển bình thường (Bennett và cs, 2003).

Nhiệt độ môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sinh

trưởng, phát triển và phân bố cây M. oleifera; cây sinh trưởng, phát triển tốt ở nhiệt độ từ 25 - 350C; tuy nhiên cây vẫn tồn tại được trong một khoảng thời gian khi nhiệt độ môi trường cao tới 48oC. Chất lượng, năng suất và thành

phần hóa học của lá cây M. oleifera chịu ảnh hưởng rất lớn của sự chênh lệch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiệt độ giữa các mùa trong năm.

4

Moringa oleifera trồng ở nơi đất xấu cũng mọc được, chịu được hạn,

ưa nắng, ít bị sâu bệnh. Tuy nhiên, nó ưa đất có khả năng thoát nước hoàn

toàn, thích nghi tốt nhất tại những vùng đất mùn pha cát, đất nhiều cát; những

vùng đất thoát nước kém cây vẫn có khả năng sinh trưởng, phát triển nhưng

cây không cao, thân nhỏ. Cây không chịu được ngập úng, ở những vùng đất

ngập úng thường xuyên, đất không được thoát nước, cây dễ chết.Độ pHkcl

thích hợp nhất đối với cây M. oleifera từ 5 đến 9.

Cây Chùm ngây (Moringa oleifera) hiện được trồng ở 80 quốc gia trên

thế giới, những quốc gia tiên tiến sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ

dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng.

Các quốc gia đang phát triển sử dụng Moringa như dược liệu kỳ diệu kết hợp

chữa những bệnh hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh dưỡng.

Ở Việt Nam chùm ngây là loài duy nhất của chi chùm ngây được phát

hiện mọc hoang từ lâu đời tại nhiều nơi như Thanh Hóa, Ninh Thuận, Bình

Thuận, vùng Bảy Núi ở An Giang, Đảo Phú Quốc...Tuy vậy trước đây cây ít

được chú ý, có nơi trồng chỉ để làm hàng rào và chỉ trong vài chục năm trở lại

đây khi hạt cây từ nước ngoài được mang về Việt Nam, được trồng có chủ

định và qua nghiên cứu người ta thấy có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là

cây mới du nhập.

1.1.2. Đặc điểm sinh lý, thành phần hóa học của cây thức ăn gia súc

Cây Chùm ngây là cây gỗ nhỏ, cao từ 5-10m. Lá kép, thường là 3 tầng

lông chim, có 6-9 đôi lá chét hình trứng, mọc đối. Hoa trắng có cuống, hơi

giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, mỗi một hoa là một tổ hợp gồm 5

cánh hoa bằng nhau, vểnh lên, rộng khoảng 2,5cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen

với 5 nhị lép. Bầu noãn một buồng do 3 lá noãn đính phôi trắc mô. Quả nang

treo, có 3 cạnh, dài 25-30cm, hơi gồ lên ở chỗ có hạt, khía rãnh dọc. Hạt màu

đen,to bằng hạt đậu Hà Lan, hình tròn có 3 cạnh và 3 cánh màu trắng dạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

màng. Cây ra hoa vào tháng 1-2 (Võ Văn Chi,1999).

5

Thân vỏ có màu trắng xám, dày, mềm, sần sùi, nứt nẻ, gỗ mềm và nhẹ.

Khi bị thương tổn, thân rỉ ra nhựa màu trắng, sau chuyển dần sang màu nâu.

Hệ thống rễ phát triển mạnh nếu được trồng từ hạt, phình to như cu màu

trắng với những rễ bên thưa. Nếu trồng bằng cách giâm cành, hệ thống rễ sẽ

không được như vậy.

Cây Chùm ngây phát triển nhanh chóng ở những vùng có điều kiện

thuận lợi, có thể tăng trưởng chiều cao từ 1-2m/năm trong vòng 3-4 năm đầu.

Tuy nhiên trong một thử nghiệm ở Tanzania, cây trồng từ hạt có thể đạt được

chiều cao trung bình 4,1m trong năm đầu tiên. Trong điều kiện tự nhiên,

không biết cây sống được bao lâu. Cây bắt đầu cho quả từ thân và nhánh sau

6-8 tháng trồng.

- Đặc điểm về sinh trưởng và tái sinh

Ở Việt Nam cây trổ hoa vào tháng 1-2. Cây ra hoa rất sớm, thường ngay trong năm đầu tiên, khoảng sáu tháng khi trồng. Cây khoảng 12 năm tuổi là cho hạt tốt nhất. Quả chín, hạt giống phát tán khắp nơi theo gió và nước, hoặc được mang đi bởi những loài động vật ăn hạt.

Khả năng này mầm của hạt còn mới là 60-90%.Tuy nhiên khả năng này không giữ được nêu hạt lưu giữ ở điều kiện thường quá 2 tháng. Tỷ lệ nảy mầm giảm dần từ 60%, 48%, và 7,5% tương ứng với thời gian trữ hạt là 1, 2 và 3 tháng (kết quả hử nghiệm ở Ấn Độ). Cây có thể trồng được quanh năm, vùng thiếu nước nên trồng vào mùa mưa, khoảng tháng 4 và tháng 5. Cây được trồng nhiều ở những vùng khô hạn, khắc nghiệt nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán, ưa nắng, hầu như không bị sâu bệnh hại, do đó chăm sóc cây không cần điều kiện gì đặc biệt về phân bón và nước tưới. Tuy nhiên, cây không chịu được ngập úng và dễ chết nếu không được thoát nước tốt. Hệ thống rễ phát triển mạnh nếu được trồng từ hạt, phình to như củ màu trắng với rễ bên thưa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cây có thể trồng bằng hạt hoặc bằng cách giâm cành: Trồng bằng hạt là phương pháp dễ nhất. Cây trồng từ hạt có sức sống cao, tuy nhiên, trong giai đoạn còn non, cây yếu nên cần được chăm sóc trong điều kiện bóng mát. Biện pháp giâm cành cũng có thể thực hiện tuy nhiên hiệu quả không bằng gieo

6

hạt, thường tiến hành giâm cành vào mùa mưa, khi điều kiện không khí đạt độ ẩm thích hợp. Gỗ chùm ngây khá mềm, giòn nên thân cành dễ bị gẫy trong mùa mưa bão. Do đó nếu trồng cây để khai thác sử dụng người trồng thường cắt ngọn cây khi đạt độ cao nhất định, vừa tiện thu hái, vừa kích thích cây đâm tược, nảy cành theo cấp số nhân như tán dù, vừa tránh được thiệt hại do gãy đổ.

Do M. oleifera có khả năng tái sinh chồi mạnh nên người ta thường lựa chọn phương pháp nhân giống in vitro để nhân giống cây M. oleifera nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp trồng bằng hạt hoặc giâm cành. Với nguồn nguyên liệu là đoạn chồi từ cây mẹ đã chọn lọc, chỉ trong một thời gian ngắn người ta có thể tạo ra lượng lớn cây con có chất lượng tốt, đồng đều, đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và thương mại với giá thành sản xuất thấp, phù hợp với sản xuất đại trà.

- Đặc điểm về thành phần hóa học cây Chùm ngây. + Rễ cây Chùm ngây: Chứa hợp chất glucosinolates: như4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl glucosinolate (khoảng 1%), sau khi chịu tác động của enzyme myrosinase sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzylisothiocyanate, glucotropaeolin (khoảng 0.05%) và benzylisothiocyanate. + Hạt cây Chùm ngây: Hạt chứa glucosinolate như trong rễ, có thể lên đến 9% sau khi hột đã được khử chất béo. Các axit loại phenol carboxylic như beta - D - glucosyl 2, 6 dimethyl benzoate. Ngoài ra hạt còn chứa chất béo 33-38% được dùng trong dầu ăn và kỹ nghệ hương liệu, thành phần chính gồm các axit béo như oleic axit (60-70%), palmitic axit (3-12%), stearic axit ( 3-12%)và các axit béo khác như behenic axit, eicosanoic và lignoceric axit.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

+ Lá cây Chùm ngây: Chứa các hợp chất thuộc nhóm flavonoids và phenolic như kaempferol 3-Oalpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside (Natural Product Research Số 21-2007).

7

Lá cây chùm ngây tươi có độ ẩm 72,67%; 8,08% protein; 1,67% lipit; 239 mg% vitamin C (Nguyễn Thị Thùy Minh và CS, 2016). Kết quả khảo sát của Phan Thị Bích Trâm và Nguyễn Thị Diễm My (2016) cho thấy, lá cây chùm ngây có hàm lượng polyphenol và flavonoid tổng số nhiều hơn thân cây nên có hoạt tính kháng oxy hóa mạnh hơn.

+ Hoa Chùm ngây: Hoa chứa polysaccharide được dùng làm chất phụ gia trong kỹ nghệ

dược phẩm.

Rễ chứa glucosinolate như: 4 - (alpha - L - rhamnosyloxy) benzyl

glucosinolate (1%) sau khi chịu tác động của myrosinase sẽ cho 4 - (alpha - L -

rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate (0,05%) và benzylisothicocyanate.

+ Nhựa cây Chùm ngây (Gôm):

Gôm chiết từ vỏ cây có chứa arabinose, galactose, acid glucuronic và vết

rhamnose. Từ gôm, chất leucoanthocyanin đã được chiết và xác định là

leucodelphinidin, galactopyranosyl, glucopyranosid.

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đến năng suất và chất lượng của cây

thức ăn gia súc

* Ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, thời tiết Cây Chùm ngây thích hợp với những vùng có độ cao dưới 600m, phát triển tốt nhất ở vùng nhiệt đới bán khô hạn, đây là cây chịu hạn, có thể phát triển tại những nơi có lượng mưa từ 250 -1.500 mm mỗi năm. Tuy nhiên, theo Bennett và cs (2003), thì cây Chùm ngây cũng có thể phát triển ở những nơi có độ cao 1.200 m.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhiệt độ là yếu tố môi trường ảnh hưởng quan trọng đến sinh trưởng, phát triển và phân bố cây Chùm ngây. Nhiệt độ tối ưu cho cây chùm ngây là 25-350C. Sự khác biệt về nhiệt độ theo mùa và kiểu sinh thái nông nghiệp có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất, hoạt động và thành phần các chất chống oxi hóa trong lá chùm ngây. Muhl (2011), đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng và phát triển của cây Chùm ngây ở ba chế độ nhiệt đêm/ngày tương ứng 10/200C, 15/250C, và 20/300C trong điều kiện nhà kính. Kết quả cho thấy chu kỳ nhiệt 20/300C cho tỷ lệ nảy mầm, tốc độ nảy mầm của hạt giống

8

cao nhất; sinh trưởng cây non trong vườn tốt nhất; các chỉ tiêu sinh trưởng phát triển ngoài đồng ruộng như chiều cao cây, chu vi thân, diện tích lá đạt cao nhất và điều này là tiền đề cho Chùm ngây đạt năng suất và chất lượng tốt nhất.

Chùm ngây trong điều kiện mùa mưa cho năng suất chất lượng lá cao hơn trong điều kiện mùa khô (Sanchez, 2006). Tại Pakistan (Nouman, 2012) đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt đến năng suất và giá trị dinh dưỡng của lá chùm ngây. Kết quả cho thấy giá trị dinh dưỡng và các chất chống oxi hóa tổng số đạt cao nhất trong điều kiện mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 8 và cắt ở độ cao 30cm.

Ở Việt Nam thời vụ trồng: khu vực đồng bằng sông hồng và Bắc trung bộ gieo trồng từ tháng 2 đến tháng 4. Các tỉnh miền núi và nam trung bộ trồng đầu mùa mưa, miền Nam có thể trồng quanh năm.

* Ảnh hưởng của điều kiện đất đai Cây chùm ngây thích nghi tốt tại những vùng có đất mùn pha cát, thoát nước tốt; tại những vùng đất thoát nước không tốt cây cũng có thể sinh trưởng phát triển nhưng cây không cao, thân cây nhỏ, pH thích hợp nhất đối với cây Chùm ngây từ 5 đến 9. Chùm ngây sinh trưởng trong điều kiện đất phèn thuộc khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa.

Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối đến năng suất và chất lượng dầu cây chùm ngây được thực hiện tại trường Đại học nông nghiệp Faisalabad, Pakistan cho thấy nồng độ muối không ảnh hưởng đến hàm lượng dầu trong hạt chùm ngây, tuy nhiên có thể ảnh hưởng đến thành phần tocopherol và axit béo trong hạt chùm ngây.

Kali là một trong những nguyên tố thiết yếu cho sự sinh trưởng và phát triển của thực vật. Hiệu quả cung cấp kali của cây Chùm ngây khác nhau khi nồng độ kali trong đất khác nhau. Chaves và cs (2005) đã tiến hành thí nghiệm trong nhà kính để tìm hiểu ảnh hưởng của sự hấp thu kali đến sinh trưởng ban đầu và sự tích tụ kali trên lá, thân và rễ cây chùm ngây. Sáu nghiệm thức tương ứng (0, 2, 4, 6, 8, 12 mM K+) được thiết kế theo kiểu thí nghiệm hoàn toàn ngẫu nhiên, ba lần lặp lại. Trọng lượng lá, K+ chuyển vị, K+ , Ca2+ và Mg2+ được phân tích vào 80 ngày sau khi trồng cây ra ngoài đồng ruộng. Kết quả cho thấy Chùm ngây phản ứng tốt với nồng độ K+ lên tới hơn 2 mM và nồng độ K+ tích lũy trong thân cũng cao hơn lá và rễ. Có thể kết luận rằng Chùm ngây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

9

ít mẫn cảm với nồng độ K+ kể cả trên 2 mM và không ảnh hưởng đến sự di chuyển kali trong cây. Mặc dù chùm ngây là cây nhạy cảm với muối, tuy nhiên một vài nghiên cứu cho thấy Chùm ngây có thể phát triển tốt trong điều kiện nhiễm mặn. Hệ thống chống oxi hóa mạnh giúp Chùm ngây thích nghi với điều kiện dung dịch đất có độ dẫn điện lên tới 8 dS/m, trong trường hợp này đã ảnh hưởng đến chất lượng chùm ngây, trong trường hợp này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng Chùm ngây thông qua làm giảm hàm lượng các chất khoáng trong cây (Nouman và cs, 2012).

Vì vậy cây Chùm ngây có thể trồng trên các loại đất thuộc các vùng khí

hậu khác nhau như nhiệt đới và cận nhiệt đới, trừ các vùng đất bị ngập úng.

+Ảnh hưởng của phân bón

Vai trò của phân bón là cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng nhằm đạt

năng suất cao, chất lượng tốt, đồng thời bù đắp chất dinh dưỡng cho đất, nâng

cao độ phì của đất, góp phần cải tạo đất.

Người ta thấy rằng cứ bón 1kg N sẽ làm tăng 20 đến 30kg cỏ khô, bón

1kg P2O5 tăng 7 đến 8kg cỏ khô và bón 1kg K2O tăng 8 đến 10kg cỏ khô; Bón

vôi làm tăng sản lượng 5 đến 10 tạ/ha. Những bãi chăn có sản lượng cỏ khô

2,5tấn/ha/năm thuộc loại trung bình thì một năm tiêu tốn chừng 70kg N; 7,5kg

P; 37kg Ca và 60kg K2O/ha. Vì vậy, hàng năm phải bón một lượng lớn hơn thế

để bù đắp cho cây (Từ Quang Hiển và cs, 2002).

Để bón phân có hiệu quả, phải hiểu rõ đặc tính, đặc điểm và tác dụng của

từng loại phân bón đối với cây thức ăn xanh. Tác động của một số loại phân

bón chính đến năng suất và chất lượng cây thức ăn xanh như sau:

+Vai trò của phân đạm

Hàm lượng nitơ tổng số trong đất có khoảng 0,05 - 0,25 %, chủ yếu

là chứa trong các hợp chất hữu cơ và chiếm khoảng 5% trong mùn, do đó

đất càng giàu mùn thì nitơ tổng số càng nhiều (Cao Liêm và Nguyễn Văn

Huyên, 1975).

Theo Nguyễn Vy và Phạm Thúy Lan (2006), đạm có trong thành phần

chất diệp lục, nguyên sinh chất, đạm có trong thành phần protein, các axit amin

và các hợp chất khác tạo nên tế bào. Đạm còn có trong các men của cây, trong

ADN, ARN, nơi khu trú các thông tin di truyền của nhân bào. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

10

Cây được bón đủ đạm, lá có mầu xanh tươi, sinh trưởng khỏe mạnh (Đào

Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt, 2007). Đủ đạm, chồi búp cây phát triển nhanh,

cành lá, nhánh phát triển mạnh, đó là cơ sở để cây trồng cho năng suất cao.

Nếu bón thừa đạm thì cây phải sử dụng nhiều nước để giải độc amon, do

đó tỷ lệ nước trong thân lá cao, thân lá vươn dài, mềm mại, che bóng lẫn nhau

và gây ảnh hưởng tới quá trình quang hợp của cây. Bón nhiều đạm, tỷ lệ diệp

lục trong lá cao, lá có mầu xanh thẫm, quá trình sinh trưởng phát triển của thân,

lá bị kéo dài, cây thành thục muộn, dễ đổ lốp, dễ mắc sâu bệnh, rễ cây kém

phát triển.

Nếu thiếu đạm, cây cỏ sẽ cằn cỗi, lá kém xanh, ra hoa kém và thưa thớt,

ít quả. Cây thiếu đạm buộc phải hoàn thành chu kỳ sống nhanh, thời gian tích

lũy ngắn, năng suất thấp bởi vì lá già sẽ chuyển đạm nuôi các lá non nên lá

già rụng sớm.

Nhiều tác giả đã nghiên cứu và chỉ ra ảnh hưởng của nitơ đến sản lượng

cây thức ăn xanh, đồng thời tìm ra sự tương quan giữa liều lượng N được bón

với năng suất chất xanh và hiệu quả bón phân.

Đối với cỏ họ đậu: Liều lượng bón tối ưu cho đồng cỏ Alfalfa là 90 -

120kg N/ha/năm, đối với cỏ orchard là 140kg N/ha/năm và cỏ orchard hỗn

hợp với cỏ tall fescure là 180 kg N/ha/năm.

Liều lượng bón hữu hiệu cho cỏ họ đậu khoảng từ 100 - 200kg N/ha/năm,

còn cho cỏ hòa thảo khoảng từ 300 - 400kg N/ha/năm. Bón liều lượng thấp quá

sẽ không nhận thấy sự khác biệt về sản lượng cỏ, bón cao quá lại làm giảm sản

lượng cỏ. Như vậy, liều lượng đạm bón cho cỏ họ đậu và hòa thảo có sự khác

nhau, với cỏ họ đậu thì thấp hơn, còn với cỏ hòa thảo thì cao hơn.

Hiện nay trong quá trình trồng và chăm sóc cây thức ăn xanh người ta

thường sử dụng đạm để bón cho cây tuy nhiên sử dụng với lượng bao nhiêu

để cây thức ăn tăng năng suất và chất lượng sản phẩm mà không bị tồn dư các

chất có hại cho cây trồng vật nuôi, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghiên cứu trên các cây thức ăn xanh khác nhau như Bùi Quang Tuấn và cs

11

(2011), Trần Thị Hoan và cs (2011), Từ Trung Kiên và Trần Thị Hoan

(2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy khi tăng mức bón đạm cho cây thì

protein tăng lên, tỷ lệ chất xơ thô giảm có nghĩa là bón đạm ảnh hưởng

đến cây thức ăn xanh.

Khi nghiên cứ về cỏ Panicum maximum, Nguyễn Văn Quang và cs (2012)

đã thí nghiệm với 4 mức bón đạm khác nhau từ 120 đến 240 kg N/ha/năm và

đưa ra kết luận với mức bón đạm hợp lý nhất của cỏ là 200 - 240 KgN/năm.

Bùi Thị Hồng và cs (2012), nghiên cứu về mức bón đạm cho cỏ voi tím

với 3 là 180 - 230 - 280 kgN/ha/năm; kết quả cho thấy mức nghiên cứu cho

biết 280 kgN/ha/năm là hợp lý nhất, ở mức này cỏ cho sản lượng chất xanh,

VCK, protein thô đạt cao nhất.

M. oleifera cũng đã được Mendieta - araica và cs (2013) nghiên cứu về

mức bón đạm với 4 nghiệm thức là 0 - 261 - 521 - 782 kgN/ha/năm và kết quả

cho biết khi bón đạm cho M. oleifera ở mức 521 kgN/ha/năm thì cây cho

năng suất chất xanh và VCK cao nhất.

Bón đạm đã nâng cao chất lượng và tính ngon miệng của cỏ. Tuy nhiên,

khi lượng đạm bón cho đồng cỏ tăng sẽ đồng thời làm tăng tỷ lệ nitrat trong

cỏ, do đó cần đề phòng bón đạm với liều lượng cao sẽ dẫn đến tích tụ nitrat

trong cỏ và gây ngộ độc cho gia súc.

Tóm lại: xác định được mức bón phân đạm hợp lý sẽ giúp cho ta có cơ

sở để bổ sung hàm lượng cho cây giúp cây thức ăn tăng năng suất và phẩm

chất lá làm nguồn bổ sung thức ăn trong chăn nuôi

+Vai trò của phân lân

Photpho là một nguyên tố đa lượng cần thiết cho cây trồng, nó đóng vai

trò rất quan trọng trong sự sinh trưởng của thực vật và động vật.

Tác dụng của phân lân thể hiện ở vai trò của nguyên tố photpho đối với

thực vật. Photpho tham gia tạo nên các vật chất di truyền (ADN, ARN, axit

nucleic), các hợp chất cao năng (ADP, ATP,...). Photpho có tác dụng làm tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cường sự phát triển của bộ rễ (đặc biệt là thời kỳ đầu sinh trưởng). Cây đủ

12

photpho, bộ rễ phát triển sớm, lông hút xum xuê, là cơ sở tạo bộ rễ vững chắc

để cây hút chất dinh dưỡng và phát triển tốt. Thiếu photpho ảnh hưởng không

tốt đến quá trình hình thành và chắc hạt, nên năng suất hạt giảm rõ rệt

(Nguyễn Công Vinh, 2002).

Đối với đồng cỏ họ đậu: Mức bón phân cho đồng cỏ alfalfa chủ yếu là

bón hàng năm với lượng tương đương với lượng P, K bị mất do thu hoạch.

Nhiều nghiên cứu cho rằng cần phải bón liều lượng phân lân lớn cho

đồng cỏ mới gieo hoặc trồng lần đầu tiên, liều lượng này vào khoảng 300 -

500kg super photphat tương đương với 60 - 100kg P2O5/ha.

Từ năm thứ 2 trở đi, có thể bón lân với liều lượng thấp hơn, khoảng từ

150 đến 300kg super photphat, tương đương với 20 - 60kg P2O5/ha/năm.

Tùy thuộc vào loại đất và giống cỏ để bón liều lượng lân cho phù hợp,

đồng thời phân lân phân giải chậm vì vậy phải bón toàn bộ lượng phân một

lần khi gieo, trồng và bón vào cuối thu hoặc đầu xuân đối với đồng cỏ từ năm

thứ 2 trở đi.

+ Vai trò của phân kali

Kali là một khoáng đa lượng vô cùng thiết yếu cho cây sinh trưởng. Nó

được sử dụng với số lượng lớn hơn photpho. Trong mô cây sống, tỷ lệ của kali

lớn hơn của photpho khoảng 8 - 10 lần; trong đất, tỷ lệ K2O tổng số có thể từ

0,5 - 3% (Trịnh Xuân Vũ và Lê Doãn Diên, 1976). Đất nhiệt đới chứa kali ít

hơn đất ôn đới, vì vùng nhiệt đới mưa nhiều, các ion K+ lại dễ bị rửa trôi. Rất

nhiều vùng đất ở Việt Nam cần phải bón phân kali (Lê Văn Căn, 1978). Khi

cây lấy đi lượng lớn kali, đất phải được cung cấp thêm kali.

Kali làm tăng sức trương, tăng áp suất thẩm thấu trong tế bào. Nó còn

giúp cây trồng chống bệnh, chống rét... có thể lấy được từ đá mẹ trong đất

hoặc lấy từ phân chuồng (Nguyễn Vy và Phạm Thúy Lan, 2006).

Kali làm tăng vai trò quang hợp của lá, tăng cường sự hình thành bó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mạch, giúp cây cứng cáp, góp phần vào việc chống đổ lốp cho cây.

13

Kali giúp cho cây trồng không hút đạm ồ ạt, nói một cách khác là

chống bội thực đạm của cây, tránh hiện tượng lá thì nhiều, mà hạt và quả

thì ít. Cùng một lượng đạm, nếu ta tăng dần lượng phân kali, thì ở liều thấp kali

cho bội thu rất cao. Thế nhưng, cứ tăng kali đến một ngưỡng nào đó, thì năng

suất lại giảm đột ngột.

Tỷ lệ kali trong cây biến động trong phạm vi từ 0,48 - 1,85% so với tổng

khối lượng chất khô (Đào Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt, 2007).

Ảnh hưởng của liều lượng phân kali bón riêng biệt cho cỏ thường ít

được chú trọng và nghiên cứu, mà thường được bón kết hợp với các loại

phân khác như N. P... và ảnh hưởng của phân kali tới các loại cỏ cũng gắn

liền với sự ảnh hưởng của các loại phân bón kết hợp cùng.

Lượng phân kali nên được bón hàng năm cho cỏ Orchard theo tỷ lệ kali

mất đi. Tỷ lệ nitơ cao sẽ tăng lượng kali được hút và thông thường tăng lượng

kali hấp thu sẽ có thể làm giảm Mg hấp thu.

Ở Orocovis, Puerto Rico, đồng cỏ được bón phân dùng để thu cắt mất

đi trung bình hàng năm 328kg nitrogen, 54kg phốtpho, 422kg kali, 128kg

canxi và 75kg magie/ha/năm. Lượng phân bón thông thường là 15: 5: 10 (N:

P: K) trộn và bón 5 tạ/ha hàng năm cho cỏ Pennisetum purpureum và 3,75

tạ/ha với cỏ Digitaria decumbens, Cynodon nlemfuensis, Brachiaria

ruziensis, Eriochloa punctata, Panicum maximum, Brachiaria mutica. Một

tấn vôi được bón cùng với 1 tấn hỗn hợp phân cho đất loại này.

Ở vùng á nhiệt đới ẩm, lượng mưa từ 625 - 1.500mm, bón khoảng 100 -

200kg/ha super photphat/năm và cứ 3 - 4 năm một lần thì phải bón muối

molipden và muối kali với liều lượng 50 - 100kg/ha/năm.

Cỏ E. curvula được bón hàng năm 450kg N/ha + 38kg P2O5/ha + 58kg

K2O/ha, thì sản lượng cỏ đạt được là 5.930kg vật chất khô/ha/năm .

Sản lượng vật chất khô của cỏ đạt được 28.282 kg/ha qua 5 lứa cắt khi

được bón 220 kg N, 22 kg P2O5 và 55 kg K2O/ha/năm

Như vậy, phân kali trong tổ hợp phân bón (N.P.K) có ảnh hưởng tốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đến cỏ, cụ thể là đã làm tăng sản lượng cỏ.

14

Liều lượng phân bón được sử dụng trong nghiên cứu rất khác nhau.

Tuy nhiên, liều lượng bón thông thường vào khoảng 50 - 60 kg K2O/ha/năm.

+ Vai trò của phân chuồng

Phân chuồng là hỗn hợp các chất do gia súc bài tiết ra cùng với chất

độn chuồng. Thành phần của chúng phụ thuộc nhiều vào loài gia súc và

phương pháp bảo quản. Bón phân chuồng thường có tác dụng ngay, vì trong

phân chuồng có một lượng đạm nhất định (Lê Văn Căn, 1978). Tuy nhiên,

phân chuồng chưa phải là loại phân hoàn chỉnh, vì vậy khi dùng phân

chuồng phải kết hợp với các phân giàu đạm, lân, kali để tăng độ phì nhiêu

cho đất (Đào Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt, 2007).

Bón nhiều phân chuồng cũng có tác dụng khử chua của đất, amoniac

trong nước tiểu và các sản phẩm mang tính kiềm cao có trong phân chuồng

cũng làm cho đất mất chua, đồng thời không ảnh hưởng tới các chất dinh

dưỡng khác trong đất (Nguyễn Vy và Phạm Thúy Lan, 2006).

Bón phân chuồng có thể cung cấp trực tiếp chất dinh dưỡng cho cây, làm

tăng năng suất và phẩm chất cây trồng. Đặc biệt, bón phân hữu cơ làm tăng số

lượng và cường độ hoạt động của vi sinh vật trong đất, góp phần làm tăng thêm

hàm lượng các chất dinh dưỡng dễ tiêu cho cây trồng.

Đối với cỏ voi khi bón N.P.K với tỷ lệ 250 : 80 : 80kg/ha/năm và chu

kỳ thu hoạch bình quân 6 tuần tuổi đã cho kết quả tốt. Đầu tư bón phân hữu cơ

cao 40 tấn/ha, năng suất cỏ voi thu cắt đạt 200 tấn/ha/năm.

Nguyễn Văn Quang (2002), đã nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón

đến năng suất của một số giống cỏ trong mô hình trồng xen với cây ăn quả

trên đất đồi Bá Vân - Thái Nguyên, trong đó gồm 3 giống cỏ là Brachiaria

decumbens,Setaria splendida, Panicum maximum TD58, phân vô cơ N.P.K

bón với tỷ lệ 160 : 80 : 80 kg/ha. Kết quả cho thấy 3 giống cỏ trên đạt sản

lượng cỏ tươi 15 - 19,7 tấn/ha/năm khi bón 10 tấn phân chuồng, nhưng khi

bón 20 tấn phân chuồng/ha thì sản lượng đạt là 75,2 - 94,7 tấn/ha/năm.

Nếu tăng mức bón phân chuồng gấp đôi so với khuyến cáo hiện nay thì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lượng đạm, khoáng từ phân hóa học có thể giảm xuống một nửa. Đó là hệ quả

15

của việc tăng dung tích hấp thu, tạo diện tích thừa để giữ ion NH4+, đồng thời

quá trình này sẽ làm tăng lượng phức chất, làm tăng pH đất và làm giảm độ

chua của đất, mặt khác, nó cũng giải phóng lân và tăng độ hòa tan của lân.

Chính vì vậy, tăng lượng phân chuồng bón cho đất sẽ tăng độ phì của đất và

tăng khả năng sử dụng của cây trồng.

Như vậy, bón phân chuồng đã cung cấp cho đất mùn, các khoáng đa, vi

lượng và đã làm tăng sản lượng cỏ.

Liều lượng phân chuồng thường được sử dụng bón cho cỏ trồng ở Việt

Nam vào khoảng từ 10- 20 tấn/ha/năm.

Tóm lại: xác định được mức bón phân đạm hợp lý sẽ giúp cho ta có cơ

sở để bổ sung hàm lượng cho cây giúp cây thức ăn tăng năng suất và phẩm

chất lá làm nguồn bổ sung thức ăn trong chăn nuôi

* Ảnh hưởng của tuổi thu hoạch hay khoảng cách cắt

Kể từ lứa cắt lần thứ nhất trở đi, thời gian giữa các lần thu hoạch gọi là

tuổi thu hoạch hay khoảng cách cắt. Khi cây dự trữ đủ dinh dưỡng thì ta bắt

đầu thu hoạch. Một cây thức ăn nếu được cắt trước khi rễ và những phần còn

lại của lứa cắt trước chưa dự trữ đủ dinh dưỡng thì tái sinh sẽ gặp khó khăn và

có thể không tái sinh được. Nếu tuổi thu hoạch chỉ bằng 1/2 tuổi thu hoạch

thích hợp (tuổi thu hoạch thích hợp là từ 6 tháng tuổi) thì năng suất chỉ còn

1/3. Nếu tăng thêm 50 % thời gian của tuổi thu hoạch thích hợp thì chỉ tăng

năng suất 20 %, nhưng chất lượng giảm, tỷ lệ chất xơ tăng.

Nếu cắt quá ít lần trên năm thì cây thức ăn sẽ bị già, chất lượng kém

đồng thời ảnh hưởng tới lứa tái sinh sau, ảnh hưởng tới sản lượng cây thức ăn

trên năm.

Nếu cắt quá nhiều lần trên năm, cây thức ăn chưa đủ thời gian tích lũy

các chất dinh dưỡng nuôi cây, bộ rễ phát triển kém hoặc bị teo đi ít nhiều, đất

trồng dễ bị xói mòn, rửa trôi các chất dinh dưỡng trên bề mặt, nên cây thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chóng bị thoái hóa, năng suất, chất lượng giảm.

16

Vậy, xác định được tuổi thu hoạch hợp lý không chỉ nâng cao năng suất

chất lượng mà còn nâng cao tỷ lệ tiêu hóa cây thức ăn, đồng thời tạo điều kiện

cho cây thức ăn tái sinh tốt hơn và kéo dài tuổi thọ của cây thức ăn.

Theo Điền Văn Hưng, (1964) thì cây thức ăn thân đứng thu hoạch sau

trồng và cắt là trên 60 ngày. Cây thức ăn thân bụi sau trồng là 60 ngày, sau cắt

là 30 - 45 ngày. Cây thức ăn thân bò thu hoạch sau trồng là 50 - 55 ngày, sau

cắt là 30 - 45 ngày.

1.2. Tình hình nghiên cứu về Moringa oleifera ở trong và ngoài nước

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Theo Võ Văn Chi (1997), (2003), viết về cây Chùm ngây như sau:

Tên khoa học Moringa oleifera Lam., là một loại cây gỗ nhỏ, nửa rụng lá,

thuộc họ Moringaceae. Cây Chùm ngây có dạng sống là cây phân cành thấp,

cao từ 10 - 12 m. Hệ thống rễ phát triển mạnh, nếu được trồng từ hạt, rễ cái

phình to như củ, màu trắng với hệ thống những rễ bên thưa, dài, đâm sâu, lan

rộng. Nếu trồng bằng cách giâm cành, hệ thống rễ sẽ không được như vậy.

Thân có vỏ màu trắng xám, dày, mềm, sần sùi nứt nẻ, gỗ mềm và nhẹ.

Khi bị thương tổn, thân rỉ ra nhựa màu trắng, sau chuyển dần thành nâu.

Lá kép lông chim 3 lần, lá trưởng thành có thể dài đến 45 cm, rộng 20 - 30 cm.

Các lá phụ dài khoảng 1.2 - 2.5 cm, rộng 0.6 - 1 cm.

Cụm hoa to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng,

vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu

noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Hoa có mùi thơm thoang thoảng.

Quả dạng nang treo, dài 20 - 50 cm, có quả dài đến 1 m nhưng rất hiếm,

rộng 2 - 2.5 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 26 hạt/quả),

tròn dẹp, màu nâu hoặc đen, đường kính khoảng 1 cm, mỗi hạt có 3 góc cạnh

với những cánh mỏng màu hơi trắng, trọng lượng mỗi hạt khác nhau, trung

bình khoảng 3.000 - 9.000 hạt/kg.

Cây Chùm ngây thuộc loài mọc nhanh, phát triển nhanh chóng ở những

vùng có điều kiện thuận lợi, có thể tăng trưởng chiều cao từ 1 - 2 m/năm trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vòng 3 đến 4 năm đầu. Tuy nhiên, trong một thử nghiệm ở Tanzania, cây trồng

17

từ hạt có thể đạt được chiều cao trung bình 4,1 m trong năm đầu tiên.. Cây bắt

đầu cho quả từ thân và nhánh sau 6 đến 8 tháng trồng, quả sẽ chín sau khi hoa

nở khoảng 3 tháng.

Vào những năm cuối thế kỉ 20, Đại sứ Hoàng gia Anh đã tài trợ cho Viện

lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long nghiên cứu trồng cây Chùm ngây dùng làm rau

xanh và thuốc nam tại Ô Môn và một số tỉnh ở Nam bộ. Giống cây Chùm ngây

đã nghiên cứu là Moringa oleifera Lam. được nhập nội từ Ấn Độ, Hà Lan….

Cây Chùm ngây là cây dễ trồng, có thể trồng bằng hạt hay bằng cách giâm

cành, cây tăng trưởng nhanh: Cao từ 4 - 5 m, đường kính cổ rễ từ 5 - 6 cm sau

1 năm trồng và ra hoa kết trái ngay trong năm đầu tiên và cao từ 7 - 8 m, đường

kính cổ rễ từ 7 - 9 cm khi cây được 2 năm tuổi, lá Chùm ngây có chứa vitamin

C gấp 7 lần trong trái cam, 4 lần vitamin A trong cà rốt, gấp 4 lần canxi trong

sữa, gấp 0.75 lần hàm lượng sắt trong cải bó xôi, gấp 2 lần lượng đạm trong

sữa, gấp 3 lần lượng kali trong trái chuối.

Ở Việt Nam các nhà khoa học nghiên cứu về ảnh hưởng của khoảng cách

trồng (40 x 20, 40 x 30, 40 x 40cm) đến sinh trưởng, năng suất ngọn và lá tươi

Moringa oleifera đã kết luận: Khoảng cách trồng không ảnh hưởng đến chiều

cao và năng suất Moringa oleifera. Nghiên cứu cũng cho biết, có thể thu hoạch

nhiều lần trong một năm và năng suất lá có thể đạt từ 42 - 53 tấn/ha/năm. Tuy

nhiên, ở những lần cắt sau năng suất thường thấp hơn lần cắt trước và

câyMoringa oleifera có thể phát triển trên đất chua nhưng cây con không thích

nghi với điều kiện ngập nước kéo dài.

Khi nghiên cứu đặc điểm lâm học và khả năng gây trồng Moringa oleifera

tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Dương Đức Tiến (2012) cho

biết, mật độ trồng ảnh hưởng đến chiều cao cây, đường kính thân cây.

Nói chung, tuỳ vào mục đích sử dụng của cây mà khoảng cách, mật độ

trồng và chu kỳ thu hoạch cũng khác nhau. Khi trồng Moringa oleifera làm

rau thì nên trồng ở khoảng cách 10 x10cm tương ứng với mật độ 1 triệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cây/ha và chu kỳ thu hoạch từ 33 đến 40 ngày/lần.

18

Khi nghiên cứu ảnh hưởng của chu kỳ cắt (4, 5, 6, 12 tuần) và chiều cao

cắt (50, 100, 150cm) đến năng suất ngọn và lá tươi Moringa oleifera trong

điều kiện mùa mưa và mùa khô. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện

mùa mưa ở chu kỳ cắt từ 4 - 6 tuần, cắt ở độ cao 150cm cho năng suất cao

nhất, tuy nhiên năng suất đạt thấp nhất khi cắt ở 12 tuần với độ cao cắt

150cm. Trong điều kiện mùa khô kết quả sự khác biệt đáng kể, năng suất

Moringa oleifera đạt cao nhất ở chu kỳ cắt 12 tuần ở độ cao cắt 100cm.

Theo Nguyễn Đặng Toàn Chương (2011), năng suất Chùm ngây thực

thu đạt cao nhất (1.801,6 kg/2 lần thu/ha) khi đốn ở độ cao 100 cm và phun

chất kích thích chồi bằng urê 1%.

Tuy nhiên, Những nghiên cứu nêu trên thực hiện với mục đích phục vụ sản

xuất rau xanh cho người và dược liệu không phải là sản xuất thức ăn gia súc.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

- Mật độ, khoảng cách trồng và chu kỳ thu hoạch: Mật độ trồng và

khoảng cách trồng Moringa oleifera đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới

tiến hành nghiên cứu như: Foidl và cs (2001), Amaglo (2006), Sanchez

(2006)… các tác giả đã chỉ ra rằng mật độ trồng Moringa oleifera không

những ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây mà còn ảnh hưởng

đến năng suất và chất lượng lá. Foidl và cs (2001), đã thử nghiệm trồng

Moringa oleifera ở mật độ khác nhau để xác định giá trị sinh khối cao nhất.

Foidl và cs (2001) cho biết, mật độ càng dày thì năng suất sinh khối càng cao

tuy nhiên mật độ trồng cao (trên một triệu cây/ha) sẽ khó thực hiện vì khâu

thu hoạch mất nhiều thời gian.

Chùm ngây có khả năng tạo ra trọng lượng chất khô tương đối cao, từ

4,2 - 8,3 tấn/ha/năm, phụ thuộc chế độ phân bón, mức độ đầu tư, mùa vụ và

vùng sinh thái (Palada và cs, 2007).

Theo Foidl (1999), để sản xuất Chùm ngây làm rau ăn lá trong điều

kiện đất cát, được cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây sinh trưởng, thoát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nước tốt thì mật độ trồng tốt nhất là 10 x 10 cm (1.000.000 cây/ha).

19

Theo Price (2007), Chùm ngây có thể phát triển và cho năng suất sinh

khối lên đến 270 tấn/ha/năm. Cây Chùm ngây được trồng ở mật độ 10 x 10

cm (1.000.000 cây/ha), bón lót phân chuồng (phân bò), lá được thu hoạch khi

cây đạt đến độ cao khoảng 50 cm trở lên. Để thu hoạch, cần cắt ở độ cao 15 -

20 cm tính từ mặt đất, cây con có thể chết 20 - 30% ở năm đầu tiên, tuy nhiên

cây sẽ đâm chồi khá mạnh sau khi cắt.

Theo Sanchez (2006), mật độ trồng 750.000 cây/ha và chu kỳ thu

hoạch 75 ngày/lần cho năng suất, hàm lượng và thành phần các hợp chất hoá

học đạt cao nhất.

Theo Amaglo (2006), mật độ trồng 1 triệu cây/ha và chu kỳ thu hoạch

35 ngày/lần cây Chùm ngây sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất lá và

hàm lượng dinh dưỡng đạt cao nhất.

Theo L.H. Manh và cs (2003), Chùm ngây có thể phát triển trên đất

chua, cây con không thích nghi với điều kiện ngập nước kéo dài; có thể thu

hoạch 7 lần trong một năm và năng suất có thể đạt từ 42 - 53 tấn/ha/năm.

Theo Fadiyimu và cs (2011), trong điều kiện mùa mưa chu kỳ cắt từ 4 -

6 tuần/lần, cắt ở độ cao 150 cm cho năng suất cao nhất, tuy nhiên năng suất

đạt thấp nhất khi cắt ở 12 tuần ở độ cao cắt 150 cm. Trong điều kiện mùa khô,

kết quả có sự khác biệt đáng kể, năng suất Chùm ngây đạt cao nhất ở chu kỳ

cắt 12 tuần ở độ cao 100 cm.

Tóm lại, cây Chùm ngây là cây đa mục đích (Fuglie, 1999), tuỳ vào

mục đích sử dụng các bộ phận của cây mà khoảng cách, mật độ trồng và chu

kỳ thu hoạch cũng khác nhau. Với mục tiêu sản xuất Chùm ngây làm rau có

năng suất cao, chất lượng tốt, giảm thiểu hàm lượng lignin trong lá thì nên

trồng ở khoảng cách tối ưu 10 x 10 cm, tương ứng với mật độ 1 triệu cây/ha

và chu kỳ thu hoạch từ 33 đến 40 ngày/lần (Fuglie, 1999).

- Dinh dưỡng và phân bón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Theo Palada và Chang (2003), Chùm ngây là cây trồng sinh trưởng tốt trong đất mà không cần bổ sung dinh dưỡng. Tuy nhiên, để đạt sinh trưởng và năng suất tối ưu thì phân bón cần được bón ngay vào thời điểm trồng. Sử dụng phân đạm để bón với lượng 300 g/cây, bón cách gốc 10 - 15 cm. Trong

20

trường hợp không có phân đạm, thì có thể sử dụng phân hữu cơ hoặc phân chuồng ủ hoai để bón với lượng 1 - 2 kg/cây.

Theo Price (2007), Chùm ngây trồng với mật độ dày 1 triệu cây/ha, một năm hút khoảng 250 kg N, 35 kg P205, 270 kg K20/ha từ đất. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong lá tươi Chùm ngây khoảng 0,25% N; 0,07% P; 0,25% K; 0,44% Ca; 0,025% Mg, 0,025% Fe, 0,13% S (Fuglie, 1999). Từ đó, suy ra nhu cầu phân bón hàng năm cho Chùm ngây trồng với mật độ hàng triệu cây/ha khoảng 250 kg N + 70 kg P205 + 280 kg K20/ha. Ngoài ra, cần bổ sung các chất khoáng thiết yếu khác như Ca, Fe, Mg, S, Cu, Zn, B giúp Chùm ngây sinh trưởng, phát triển tốt.

Theo Mendieta-Araica (2013), Chùm ngây trồng ở mật độ trồng 167.000 cây/ha và bón đạm với lượng 512 kg/ha/năm cho năng suất cao nhất. Theo Isaiah (2013), bón 120 kg NPK/ha cho cây Chùm ngây cho số lá, chiều cao, đường kính thân và hàm lượng protein cao nhất. Kết quả này cũng trùng hợp với nghiên cứu của Fagbenro. Theo Fuglie (1999), bón lân và đạm cho cây Chùm ngây sẽ kích thích hệ thống rễ cũng như tán lá phát triển.

 Nhận xét Kỹ thuật trồng và thu hoạch cây thức ăn cho người và cho vật nuôi có sự khác nhau. Ví dụ: Nếu trồng làm rau xanh cho người thì cần thu hoạch lúc rau còn non dẫn tới khoảng cách thu hoạch (tuổi của rau) phải ngắn, còn cho vật nuôi thì khoảng cách giữa các lứa phải dài hơn (thu hoạch ở thời điểm cây thức ăn đạt được tối đa về dinh dưỡng và năng suất). Với mục đích khác nhau như trên dẫn đến khoảng cách trồng (mật độ trồng) cũng phải khác nhau. Cụ thể: Mật độ trồng rau ăn cho người (khoảng cách thu hoạch ngắn) thì phải trồng dày hơn so với mật độ trồng thu hoạch lá cho vật nuôi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cũng tương tự như vậy, tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong lá ở thời điểm còn non (rau ăn cho người) khác với thời điểm thu lá làm thức ăn cho vật nuôi. Mặc dù đã có một số nghiên cứu về cây Moringa oleifera, nhưng các nghiên cứu này chỉ nhằm mục đích phục vụ sản xuất rau ăn cho người và dược liệu, do đó, cần phải có các nghiên cứu tương tự với mục đích phục vụ sản xuất thức ăn (chất xanh, bột lá) cho vật nuôi.

21

Chương 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu

* Đối tượng

Cây thức ăn M. oleifera ở năm thứ hai

* Địa điểm

Trồng cây thức ăn tại Trường Đại học Nông Lâm tỉnh Thái Nguyên

Phân tích mẫu thức ăn tại Viện Khoa học sự sống, Đại học Thái Nguyên.

* Thời gian

Từ tháng 3/2018 đến tháng 10/2019

2.2. Nội dung nghiên cứu

Đề tài sẽ có 2 nội dung nghiên cứu như sau:

- Xác định ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất và thành

phần hóa học của cây M. oleifera

- Xác định ảnh hưởng của tuổi thu hoạch đến (khoảng cách thời gian

giữa 2 lứa cắt) đến năng suất và thành phần hóa học của cây M. oleifera

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Xác định điều kiện thí nghiệm

- Khí tượng khu vực thí nghiệm

Số liệu khí tượng thủy văn được lấy tại trạm quan trắc khí tượng thủy

văn tỉnh Thái Nguyên.

- Thành phần dinh dưỡng đất khu vực thí nghiệm

Thành phần dinh dưỡng đất bao gồm: pH kcl , N tổng số, dễ tiêu P2O5

tổng số và dễ tiêu, K2O tổng số và trao đổi được phân tích tại Viện Khoa học

sự sống, ĐH Thái Nguyên.

2.3.2. Thí nghiệm 1: Xác định mức bón đạm hợp lý cho cây M. Oleifera ở

năm thứ hai

Thí nghiệm với 5 nghiệm thức tương ứng với 5 mức bón đạm khác nhau,

đó là 0 - 20 - 40 - 60 và 80 Kg N/ha/lứa cắt. Các nghiệm thức có cùng mức bón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phân chuồng: 20 tấn, lân: 40 kg P2O5, kali: 80 kg K2O tính cho 1 ha/năm.

22

Mỗi nghiệm thức được bố trí với diện tích là 24 m2 nhắc lại 5 lần. Mật

độ trồng là 83.500 cây/ha tương ứng với khoảng cách trồng 0,3 m x 0,6 m đối

với cả 5 nghiệm thức.

Bố trí thí nghiệm thực hiện ở năm thứ nhất và được trình bày ở bảng

2.1. Trong năm thứ hai, các nghiệm thức được bón phân như nêu trên và thu

hoạch cùng một khoảng cách cắt 50 ngày/lứa.

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1

Chỉ tiêu Đơn vị NT1 NT2 NT3 NT4 NT5

Đối tượng - Moringa oleifera

24 Diện tích m2 24 24 24 24

5 Nhắc lại lần 5 5 5 5

Mật độ trồng nghìn cây/ha 83,5 83,5 83,5 83,5 83,5

20 Phân chuồng tấn/ha/năm 20 20 20 20

40 Phân lân 40 40 40 40

80 Phân kali 80 80 80 80 kg P205/ha/năm kg K20- /ha/năm

Phân đạm kgN/ha/lứa 0 20 40 60 80

Các chỉ tiêu theo dõi

Năng suất và sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô, thành phần hóa

học của lá.

2.3.3. Thí nghiệm 2: Xác định tuổi thu cắt thích hợp của M. oleifera ở năm

thứ hai

* Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm với 5 nghiệm thức tương ứng với 5 giai đoạn tuổi của cây

(hay 5 khoảng cách thời gian giữa hai lứa cắt), đó là 30 - 40 - 50 - 60 - 70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngày sau khi cắt lứa trước.

23

Mỗi nghiệm thức được bố trí với diện tích 24 m2 nhắc lại 3 lần. Mật độ

trồng là 83.500 cây/ha tương ứng với khoảng cách trồng 0,2 m x 0,6 m đối

với cả 5 nghiệm thức.

Các nghiệm thức có cùng mức phân chuồng là 20 tấn phân vô cơ là:

lân: 40 kg P2O5, K2O: 80 kg tính cho 1 ha/năm và phân đạm 60 kg/ha/lứa cắt.

Sơ đồ bố trí thí nghiệm năm thứ nhất được trình bày ở bảng 2.2. Trong

năm thứ hai, các nghiệm thức được bón phân và thu hoạch với các khoảng

cách cắt nêu trên.

Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2

Chỉ tiêu Đơn vị NT1 NT2 NT3 NT4 NT5

Đối tượng - Moringa oleifera

Diện tích m2 24 24 24 24 24

Nhắc lại lần 5 5 5 5 5

Mật độ trồng nghìn cây/ha 83,5 83,5 83,5 83,5 83,5

Phân chuồng tấn/ha/năm 20 20 20 20 20

kg Phân lân 40 40 40 40 40 P205/ha/năm

Phân kali 80 80 80 80 80 kg K20/ha/năm

60 60 60 60 60 Phân đạm kgN/ha/lứa

40 30 60 70 50 Khoảng cách cắt Ngày

Các chỉ tiêu theo dõi

Năng suất và sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô, thành phần hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

học của lá.

24

2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu

Cách thu hoạch: Khi cây chùm ngây bắt đầu cao lên khoảng 1,5 m thì

cắt, khoảng cách từ mặt đất đến điểm cắt khoảng 45-50cm. Sau đó tách cuống

lá, tách lá, phơi khô và nghiền thành bột lá.

Năng suất sinh khối là toàn bộ thân, cành, lá thu được trên 1 ha trong 1

lứa thu hoạch, đơn vị tính là tạ/ha/lứa. Năng suất sinh khối được xác định

bằng cách cắt cây ở khoảng cách 45-50 cm so với mặt đất của toàn bộ ô thí

nghiệm, từ năng suất của các ô, tính năng suất sinh khối trung bình /ha/lứa,

đơn vị tính là tạ/ha/lứa.

Năng suất lá tươi là khối lượng lá tươi thu được sau khi tách lá khỏi

cuống lá tính trên 1 ha trong 1 lứa thu hoạch, đơn vị tính là tạ/ha/lứa. Năng

suất lá tươi và bột lá được tính bằng cách: Cân khoảng 10 kg thân, cành, lá

(sinh khối thu được)/ 1 điểm nghiên cứu (Tổng là 10 x 5 = 50 kg) tách lá ra

khỏi cuống và cân từ khối lượng lá tươi, sau đó phơi khô, nghiền thành bột

và cân khối lượng bột lá. Tính tỷ lệ lá tươi so với thân cành lá tươi (sinh khối)

(1), tính tỷ lệ bột khô so với lá tươi (2), từ các tỷ lệ (1); (2) và khối lượng sinh

khối (thân, cành, lá) của diện tích thí nghiệm sẽ tính được năng suất lá tươi và

bột lá của diện tích đó, cũng như của một ha. Đơn vị tính năng suất lá tươi,

vật chất khô là tạ/ha/lứa. Năng suất vật chất khô là khối lượng vật chất khô của

lá thu được trên 1 ha trong 1 lứa, đơn vị tính: tạ/ha/lứa. Năng suất vật chất khô

được tính bằng cách nhân năng suất lá tươi với tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi.

Sản lượng là khối lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô thu được trên 1

ha trong 1 năm, đơn vị tính là tấn/ha/năm. Sản lượng được tính theo hai cách:

i, cộng năng suất sinh khối hoặc lá tươi hoặc vật chất khô của tất cả các lứa

trong năm, đơn vị tính là tấn/ha/năm; ii, nhân năng suất sinh khối, lá tươi, vật

chất khô trung bình /lứa với số lứa cắt trong năm, sau đó đổi đơn vị tính từ tạ

sang tấn/ha/năm.

Sản lượng protein khô được tính bằng cách nhân sản lượng vật chất khô

với tỷ lệ protein thô trong vật chất khô. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

25

* Thành phần hóa học của lá tươi và bột lá

Phân tích thành phần hóa học bao gồm vật chất khô, protein thô, lipit,

xơ, khoáng tổng số, năng lượng thô của lá tươi.

Phương pháp lấy mẫu và phân tích thành phần hóa học, áp dụng theo

tiêu chuẩn phòng thí nghiệm Việt Nam. Mẫu được phân tích tại Viện Khoa

học sự sống, ĐH Thái Nguyên.

2.4. Xử lý số liệu

Xử lý thống kê theo phương pháp của Đỗ Thị Ngọc Oanh và Hoàng

Văn Phụ 2012.

Số liệu được xử lý trên phần mềm exel 2007. Xử lý bằng thống kê phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mềm IRRISTAT 5.0 và Minitab 18 theo phương pháp phân tích ANOVA.

26

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Điều kiện thí nghiệm

* Khí tượng khu vực thí nghiệm

Khu vực thí nghiệm nằm trong tỉnh Thái Nguyên, khí tượng của tỉnh từ

tháng 3/2018 đến tháng 2/2019 được tóm lược trong Bảng 3.1.

Bảng 3.1. Giá trị trung bình về khí tượng Thái Nguyên từ tháng 3

năm 2018 đến tháng 2 năm 2019

Tháng

3/2018 4/2018 5/2018 6/2018 7/2018 8/2018 9/2018 10/2018 11/2018 12/2018 1/2018 2/2019

TB/ tháng

Chỉ tiêu

T (0C)

22

25,3

28,4

30,0

29,5

29,1

28,7

25,8

22,2

17,8

19,3

19,7

24,8

A0 (%)

87

82

79

82

88

87

86

81

76

73

81

74

81,3

81,2

78,5

95,5

493,4 312,2 401,3 235,1

125,8

12,8

38.5

165,7

36,7

169,9

Lượng mưa (mm)

Nhiệt độ trung bình năm là 24,8oC, nhiệt độ trung bình tháng từ tháng 3

đến 10 dao động trong khoảng 22 - 25,80C, các tháng còn lại dao động từ 12 -

21,70C, nhiệt độ cao nhất là 390C (tháng 6), thấp nhất là 8oC (tháng 12).

Ẩm độ trung bình năm là 81,3 %, tháng cao nhất là 87% (tháng 8),

tháng thấp nhất là 73% (tháng 12).

Tổng lượng mưa cả năm là 2076,7 mm, lượng mưa khá cao trong các

tháng 6, 7, 8, 9, từ 235,1mm đến 493,4mm, các tháng còn lại lượng mưa rất

thấp, từ 12,8 - 165,7mm.

Nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa thì từ tháng 4 - 10 thuận lợi cho cây thức

ăn xanh sinh trưởng phát triển, các tháng còn lại kém thuận lợi hơn.

Nhiệt độ, ẩm độ trung bình và lượng mưa trong các tháng được minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

họa bằng đồ thị dưới đây:

27

Hình 3.1. Đồ thị nhiệt độ, ẩm độ và lượng mưa ở khu vực Thái Nguyên từ

tháng 3 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019

* Thành phần hóa học đất

Kết quả phân tích thành phần hóa học đất của Viện Khoa học sự sống

được tóm tắt lại và trình bày tại Bảng 3.2.

Bảng 3.2. Thành phần dinh dưỡng đất thí nghiệm

Chỉ tiêu Kết quả phân tích

6,51 pHKCl

Nitơ tổng số, % 0,16

0,13 P2O5 tổng số, %

21,05 P2O5 dễ tiêu, mg/100g

0,91 K2O tổng số, %

59,72 K2O trao đổi, mg/100g

OM, %

Số liệu bảng 3.2 cho thấy, độ pH của đất là 6,51. Theo phân loại đất

của Nguyễn Ngọc Nông (1999), thì đây là đất trung tính độ pH thích hợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

để trồng cây.

28

Hàm lượng các chất dinh dưỡng của ở mức khá, hàm lượng nitơ tổng

số là 0,13%; P2O5 tổng số và dễ tiêu tương ứng là 0,13% và 21,05 mg/100g;

K2O tổng số và trao đổi tương ứng là 0,91% - 59,72 mg/100g. Tuy nhiên, để

đảm bảo cho sinh trưởng và phát triển của cây trong thời gian dài, trước khi

gieo hạt, chúng tôi đã bón lót phân chuồng, lân, kali cho đất và bón phân đạm

theo thiết kế của thí nghiệm.

3.2. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất và

chất lượng của M. oleifere trong năm thứ hai

3.2.1. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất sinh khối của

M. oleifera

Năng suất sinh khối là toàn bộ thân, cành, lá thu được trên 1 ha trong 1

lứa thu hoạch, đơn vị tính là tạ/ha/lứa. Kết quả theo dõi năng suất sinh khối

được trình bày tại Bảng 3.3.

Bảng 3.3. Năng suất sinh khối của M. oleifera ở các mức bón phân đạm

trong năm thứ hai (tạ/lứa/ha)

NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Lứa SEM P 0N 20N 40N 60N 80N

1 106,34 117,57 129,44 133,58 140,48 - -

2 182,74 204,87 226,64 248,37 263,31 - -

3 179,10 201,36 223,95 250,40 260,91 - -

4 101,62 118,70 133,06 147,15 154,51 - -

5 66,65 74,82 84,11 91,39 95,05 - -

6 38,65 45,80 51,40 54,30 56,74 - -

112,52d 127,19cd 141,43bc 154,20ab 161,83a 8,447 0,000

Ở cả năm mức bón đạm, năng suất sinh khối lứa thứ nhất thấp, sau đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tăng lên ở lứa thứ hai. Năng suất lứa thứ nhất thấp vì thời gian này nhiệt độ và

29

lượng mưa thấp, chưa hoàn toàn phù hợp cho sinh trưởng của cây, lứa thứ hai

nằm trong mùa hè, nhiệt độ phù hợp hơn, lượng mưa cao hơn. Năng suất sinh

khối cao tiếp tục được duy trì ở lứa thứ ba, sau đó giảm dần ở các lứa thứ năm

và sáu; sở dĩ năng suất lứa năm và sáu giảm mạnh là vì đây là các lứa cắt

cuối, cây thức ăn đã sử dụng cạn kiệt dần các chất dinh dưỡng trong đất và lứa

năm, sáu nằm trong mùa khô không thuận lợi cho sinh trưởng của cây thức ăn.

Theo như nghiên cứu của Đào Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt (2007), và

Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm (2007), thì cây được bón đủ đạm, lá có màu

xanh tươi, chồi búp cây phát triển nhanh, cành lá, nhánh phát triển mạnh. Do

đó các lô thí nghiệm có mức bón phân đạm cao hơn thì năng suất cao hơn cụ

thể là: năng suất sinh khối của M. oleifera ở mức bón 80N là cao nhất, sau đó

giảm dần theo mức bón phân đạm là 60N; 40N; 20 N và 0N. Kết quả này

giống nhau ở các lứa cắt khác nhau. Thứ tự xếp từ cao xuống thấp theo năng

suất sinh khối trung bình ở các lứa cắt là 80N > 60N > 40N > 20N > 0N.

Năng suất sinh khối trung bình ở năm thứ 2 của NT5 là 161,83

tạ/lứa/ha, NT4 là 154,20 tạ/lứa/ha; NT3 là 141,43 tạ/lứa/ha; NT2 là 127,19

tạ/lứa/ha và NT1 là 112,52 tạ/lứa/ha. Như vậy, so với mức bón 0N thì mức

bón 80N đã tăng 44% năng suất sinh khối; mức bón 60N tăng 37%, 40N tăng

26% và 20N tăng 13%. Số liệu trên cho thấy các nghiệm thức có cùng mức

bón phân chuồng, lân, kali khi bón đạm tăng hiệu lực sản xuất của phân đạm

giảm. Cụ thể: Năng suất sinh khối của NT2 cao hơn so với NT1, của NT3 cao

hơn so với NT2, của NT4 cao hơn so với NT3 và của NT5 cao hơn so với

NT4 lần lượt là 13; 11,2; 9 và 5%. Năng suất trung bình/lứa của các mức bón

đạm có sự sai khác nhau khá rõ rệt với p < 0,01. Điều đó có nghĩa là cùng

mức bón phân chuồng, lân, kali như nhau, bón phân đạm đến mức

80kgN/ha/lứa vẫn có tác động tốt đến năng suất sinh khối của M. oleifera.

Năng suất sinh khối trung bình/lứa của M.olefira ở các mức bón đạm

trong năm thứ nhất từ NT1 đến NT5 như sau: NT1 là 180,4, NT2 là 200,89,

NT3 là 221,83, NT4 là 240,89 và NT5 là 252,19 (Lương Thị Thu Hương,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2018). Như vậy năng suất sinh khối trung bình/lứa trong năm thứ hai có xu

30

hướng giảm xuống ở cả năm mức bón đạm nhưng mức độ giảm của các mức

bón đạm cao lớn hơn so với mức bón đạm thấp. Cụ thể: chênh lệch năng suất

sinh khối trung bình/lứa giữa năm hai so với năm một của NT1 là 67,52, NT2

là 73,7, NT3 là 70,40, NT4 là 86,69 và NT5 là 90,36 tạ/ha/lứa.

Tăng mức bón đạm làm tăng năng suất chất xanh của cây thức ăn đã

được thông báo bởi nhiều tác giả, như: Từ Trung Kiên và Trần Thị Hoan

(2014), Nguyễn Văn Quang và cs (2012), Trần Thị Hoan và cs (2011),

Nguyễn Văn Quang và cs (2011).

Mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng suất sinh khối được minh họa

bằng biểu đồ dưới đây:

Hình 3.2. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng suất sinh khối

Năng suất sinh khối trung bình/lứa của M. oleifera trong năm thứ 2 đạt

từ 112,52 - 161,83 tạ/lứa/ha thấp hơn năng suất sinh khối trung bình/lứa của

M. oleifera ở năm thứ nhất đạt từ 180,41 - 252,19 tạ/lứa/ha (Lương Thị Thu

Hương, 2018).

Năng suất sinh khối trung bình của keo giậu là 151 tạ/ha/lứa (Trần Thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoan và cs, 2017), của Stylosanthes guianesis CIAT 184 là 194 tạ/ha/lứa (Từ

31

Quang Hiển và cs, 2017), của sắn trồng thu lá là 174 tạ/ha/lứa (Từ Quang

Hiển và Từ Quang Trung, 2016). Như vậy, năng suất sinh khối trung bình/lứa

của M. oleifera ở năm thứ hai trong thí nghiệm này cao hơn năng suất sinh

khối trung bình/lứa của một số cây thức ăn xanh được thông báo bởi các tác

giả nêu trên. Các cây này, được xếp hàng đầu trong việc sản xuất bột lá bổ

sung vào thức ăn cho gà.

3.2.2. Ảnh hưởng của mức bón đạm đến năng suất lá tươi

Năng suất lá tươi là khối lượng lá tươi thu được sau khi tách lá khỏi

cuống lá tính trên 1 ha trong 1 lứa thu hoạch, đơn vị tính là tạ/ha/lứa. Kết quả

theo dõi năng suất lá tươi của các mức bón đạm được trình bày tại Bảng 3.4.

Bảng 3.4. Năng suất lá tươi của M. oleifera ở các mức bón phân đạm

trong năm thứ hai (tạ/lứa/ha)

NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Lứa SEM P 0N 20N 40N 60N 80N

1 41,13 45,48 50,07 51,67 54,34 - -

2 70,68 79,24 87,66 96,07 101,85 - -

3 69,28 77,89 86,62 96,85 100,92 - -

4 39,31 45,91 51,47 56,92 59,76 - -

5 25,78 28,94 32,53 35,35 36,77 - -

6 14,95 17,72 19,88 21,00 21,95 - -

43,52d 49,20cd 54,71bc 59,64ab 62,60a 3,267 0,000

Tương tự như năng suất sinh khối, năng suất lá tươi của M. oleifera ở

các lứa cắt khác nhau có xu hướng giống nhau, đó là: năng suất lá tươi thấp ở

lứa 1, tăng lên cao ở lứa cắt 2 sau đó giảm dần ở các lứa cắt tiếp theo và giảm

mạnh ở lứa cắt 5 và 6.

Ở các mức bón đạm càng cao thì năng suất lá tươi càng cao và ngược

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lại Trong thí nghiệm thì năng suất là tươi ở mức bón đạm 80N là cao nhất sau

32

đó giảm dần theo mức bón 60N, 40N, 20N và 0N. Kết quả này, tương đối

giống nhau ở các lứa cắt khác nhau. Thứ tự xếp từ cao xuống thấp theo năng

suất lá tươi trung bình ở các lứa cắt là 80N > 60N > 40N > 20N > 0N.

Năng suất lá tươi trung bình ở năm thứ 2 của NT5 là 62,60

tạ/lứa/ha, NT4 là 59,64 tạ/lứa/ha; NT3 là 54,71 tạ/lứa/ha; NT2 là 49,20

tạ/lứa/ha và NT1 là 43,52 tạ/lứa/ha. So với mức bón 0N thì mức bón 80N

có năng suất lá tươi cao hơn 43,8% và các mức bón 60N, 40N, 20N cao

hơn tương đương là 37%, 25,7%, 13,05%. Tuy nhiên, khi mức bón đạm

tăng lên thì hiệu suất sản suất lá tươi giảm xuống. Cụ thể: Năng suất lá

tươi của NT2 cao hơn so với NT1, của NT3 cao hơn so với NT2, của NT4

cao hơn so với NT3 và của NT5 cao hơn so với NT4 lần lượt là 13; 11,2;

9 và 5%. Năng suất trung bình/lứa của các mức bón đạm có sự sai khác

nhau rất rõ rệt với p < 0,01. Điều đó có nghĩa là, cùng mức bón phân như

nhau, bón thêm phân đạm đến mức 80kgN/ha/lứa vẫn có tác động tốt đến

năng suất lá tươi của M. oleifera.

Kết quả thí nghiệm cho thấy, năng suất lá tươi trung bình/lứa mối quan

hệ chặt chẽ với mức bón đạm. Mối quan hệ này được minh họa ở biểu đồ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.3. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng xuất lá tươi

33

3.2.3. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến năng suất vật chất khô của

M. oleifera

Năng suất vật chất khô là khối lượng vật chất khô của lá thu được trên

1 ha trong 1 lứa, đơn vị tính: tạ/ha/lứa. Năng suất vật chất khô được tính bằng

cách nhân năng suất lá tươi với tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi. Tỷ lệ này cao

ở các mức bón đạm thấp và ngược lại. Cụ thể: Tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi

của NT1 đến NT5 tương ứng là 23,13; 22,66; 22,24; 21,79 và 21,31%.Kết quả

về năng suất vật chất khô của các mức bón đạm được trình bày ở Bảng 3.5

Bảng 3.5. Năng suất vật chất khô của M. oleifera ở các mức bón phân

đạm trong năm thứ hai (tạ/lứa/ha)

NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Lứa SEM P 0N 20N 40N 60N 80N

1 9,52 10,31 11,14 11,26 11,83

2 16,36 17,96 19,50 20,93 21,70

3 16,03 17,66 19,26 21,10 21,26

4 9,10 10,41 11,45 12,40 12,73

5 5,97 6,56 7,23 7,70 7,84

6 3,46 4,02 4,42 4,58 4,68

10,07c 11,15bc 12,17ab 13,00a 13,34a 0,724 0,000

Số liệu bảng 3.5 cho thấy, ở các mức bón đạm khác khau thì năng suất

DM cũng khác nhau tương đối rõ rệt. Năng suất vật chất khô ở mức 80N là

cao nhất sau đó giảm dần ở mức 60N, 40N, 20N và 0N. Cụ thể: năng suất vật

chất khô trung bình của NT5 là 13,34 tạ/lứa/ha, NT4 là 13 tạ/lứa/ha; NT3 là

12,17 tạ/lứa/ha; NT2 là 11,15 tạ/lứa/ha và NT1 là 10,07 tạ/lứa/ha. Như vậy so

với mức bón 0N thì mức bón 80N đã tăng 32,47% năng suất vật chất khô;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mức bón 60N tăng 29,09%, 40N tăng 20,85% và 20N tăng 9,38%. Năng suất

34

vật chất khô trung bình/lứa của 5 mức bón đạm sai khác nhau tương rất rõ rệt

với p = 0,001. Tuy nhiên, năng suất vật chất khô của các mức bón 40N, 60N

và 80N không sai khác nhau rõ rệt.

Mối quan hệ giữa năng suất vật chất khô và mức bón đạm được minh

họa bằng biểu đồ dưới đây:

Hình 3.4. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và năng suất VCK

Bùi Quang Tuấn (2005), Trần Thị Hoan và CS (2011), Từ Trung Kiên

và Trần Thị Hoan (2014), nghiên cứu về ảnh hưởng của mức bón đạm đến

năng suất vật chất khô của cây thức ăn xanh, có cùng một nhận định như sau:

tăng mức bón đạm đã làm tăng năng suất vật chất khô. Tuy nhiên, mỗi loại

cây thức ăn thích ứng với mức bón đạm khác nhau; đối với một số cây thức

ăn xanh, khi tăng mức bón đạm quá cao sẽ làm giảm năng suất, thậm chí còn

làm cho cây thức ăn xanh bị chết.

3.2.4. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến thành phần hóa học của

M. oleifera

Thành phần hóa học của lá M. oleifera tươi và năng lượng thô được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trình bày tại Bảng 3.6.

35

Bảng 3.6. Thành phần hóa học lá M. oleifera ở các mức bón phân đạm

khác nhau trong năm thứ hai (%)

Mức bón DM CP EE CF Ash NFE GE

*Lá tươi

0 N 20 N 40 N 60 N 80 N 23,14a 22,67ab 22,24abc 21,79bc 21,31c 7,42a 7,43a 7,45a 7,46a 7,50a 1,51a 1,52a 1,53a 1,54a 1,54a 2,31a 2,16ab 1,96bc 1,73cd 1,56d 2,08a 2,07a 2,06a 2,05a 2,02a 9,83a 9,49b 9,24c 9,01d 8,69f 1074a 1055ab 1037abc 1017bc 998c

SEM 0,653 0,255 0,103 0,123 0,117 0,067 26,544

P 0,002 0,989 0,987 0,000 0,939 0,000 0,002

*DM

0 N 20 N 40 N 60 N 80 N 100 100 100 100 100 32,07d 32,77cd 33,50bc 34,24ab 35,19a 6,53c 6,70bc 6,88abc 7,07ab 7,23a 9,94a 9,53a 8,81b 7,94c 7,32d 8,99a 9,13a 9,26a 9,41a 9,48a 42,47a 41,87a 41,55a 41,34a 40,78a 4641a 4654a 4663a 4667a 4683a

SEM - 0,742 0,232 0,308 0,311 1,589 63,641

Ghi chú: DM: vật chất khô, CP: protein thô, EE: lipit thô, CF: Xơ thô, Ash: khoáng

tổng số, NFE: dẫn xuất không chứa nitơ, GE: năng lượng thô; Theo hàng ngang các số

mang một chữ cái khác nhau thì sai khác giữa chúng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.

P - 0,000 0,001 0,000 0,124 0,552 0,795

Số liệu bảng 3.6 cho thấy: khi tăng mức bón đạm từ 0N lên 80N đã làm

giảm tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi từ 23,14 % xuống 21,31% (giảm 1,83 %).

Tỷ lệ này của các nghiệm thức sai khác nhau khá rõ rệt với p < 0,001.

Trong lá tươi, khi tăng mức bón đạm từ 0N lên 80N thì protein và lipit

tăng lên, protein tăng 0,08% từ 7,42 lên 7,50, lipit tăng 0,03% từ 1,51 lên 1,54.

Hàm lượng xơ thô, khoáng tổng số, dẫn xuất không chứa nitơ và năng lượng

thô đều giảm, cụ thể: tỷ lệ xơ thô giảm 0,75% từ 2,31 xuống 1,56%; tủy lệ

khoáng giảm 0,06%, dẫn xuất không chứa nitơ giảm 1,14%.

Trong vật chất khô, tỷ lệ protein, litpit, khoáng tổng số và năng lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thô tăng lên, tỷ lệ xơ thô, dẫn xuất không chứa nitơ giảm xuống. Tỷ lệ protein

36

trong DM tăng 3,12 %, từ 32,07 % ở mức 0 N lên 35,19 % ở mức 80 N, tỷ lệ

này của mức bón 60 N và 80 N cao hơn rõ rệt với mức bón 0N và 20N

(p<0,01). Tỷ lệ xơ trong DM giảm 2,62 %, từ 9,94 % xuống 7,32 %, tỷ lệ xơ

của các mức bón đạm sai khác nhau rất rõ rệt (p<0,001). Sự tăng lên của tỷ lệ

protein và giảm tỷ lệ xơ trong DM làm cho thức ăn có giá trị hơn, (tăng khả

năng thu nhận và tiêu hóa thức ăn của vật nuôi). Như vậy, tăng mức bón đạm

đã làm cải thiện chất lượng thức ăn xanh.

Nghiên cứu các mức bón đạm trên một số loại cây thức ăn xanh khác, các

tác giả có cùng một nhận xét như sau: Khi tăng mức bón đạm, tỷ lệ DM trong lá

tươi giảm; trong DM, tỷ lệ protein thô tăng, tỷ lệ xơ giảm, các chất dinh dưỡng

khác có thể tăng hoặc giảm (Bùi Quang Tuấn, 2005; Bùi Quang Tuấn và cs,

2011; Trần Thị Hoan và cs, 2011, Từ Trung Kiên và Trần Thị Hoan; 2014).

3.2.5. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến sản lượng của M. oleifera

Sản lượng là khối lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô thu được trên 1

ha trong 1 năm, đơn vị tính là tấn/ha/năm. Sản lượng được tính bằng cách

cộng năng suất của các lứa thu hoạch/ha/năm hoặc nhân năng suất trung

bình/lứa với số lứa cắt trong năm. Cách thứ hai có sai số 1 – 5 ‰ so với cách

thứ nhất do làm tròn số năng suất trung bình/lứa. Sản lượng của M. oleifera

trong năm thứ nhất được trình bày tại Bảng 3.7.

Bảng 3.7. Sản lượng của M. oleifera ở các mức bón phân đạm trong năm

thứ hai (tấn/ha)

Chỉ tiêu SEM P NT1 0N NT2 20N NT3 40N NT4 60N NT5 80N

Sinh khối

Lá tươi

VCK

Protein 7,300ab 2,446bc 6,692bc 2,193cd 7,798a 2,670ab

chúng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.

67,510d 76,312cd 84,860bc 92,519ab 97,100a 5,068 0,000 26,113d 29,517cd 32,824bc 35,786ab 37,558a 1,960 0,000 8,004a 0,434 0,000 6,043c 2,816a 0,146 0,000 1,938d Ghi chú:Theo hàng ngang các số mang một chữ cái khác nhau thì sai khác giữa

Số liệu tại bảng 3.7 cho thấy khi tăng mức bón đạm từ 0N đến 80N đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

làm thay đổi đáng kể sản lượng sinh khối, sản lượng lá tươi, sản lượng DM và

37

sản lượng protein của M. oleifera. Ở các chỉ tiêu trên thì sản lượng ở mức bón

đạm 80N là cao nhất sau đó giảm dần đến 60N, 40N, 20N và 0N.

Sản lượng sinh khối tăng 29,59 tấn/ha khi tăng mức bón đạm từ 0N lên

80N, tương đương với tăng 43,8% (tăng từ 67,510 lên 97,100 tấn/ha). Mức

60N tăng 37%, mức 40N tăng 25,7%, mức 20N tăng 13% so với mức 0N.

Phân tích thống kê cho thấy sản lượng sinh khối của các nghiệm thức có sự

sai khác nhau khá rõ rệt (p < 0,001).

Tương tự như sản lượng sinh khối thì sản lượng lá tươi cũng tăng tỷ lệ

thuận khi tăng mức bón đạm lên, cụ thể: 13%, 25,7%, 37,4% và 43,8% khi

tăng lên mức 20N, 40N, 60N, 80N. Sản lượng lá tươi của 5 nghiệm thức sai

khác nhau rất rõ rệt với p < 0,001.

Sản lượng vật chất khô cũng tăng từ 6,043 lên 8,004 tấn/ha khi tăng lên

mức 80N. Sản lượng vật chất khô của các nghiệm thức sai khác nhau rất rõ rệt

với p < 0,001, trừ NT4 so với NT5.

Kết quả phân tích thống kê cho thấy, sản lượng protein thô của các

nghiệm thức sai khác nhau rất rõ rệt với p < 0,001. Như vậy, tăng mức bón

đạm từ 0kgN đến 80kgN/ha/lứa đã làm tăng sản lượng sinh khối, lá tươi, vật

chất khô, protein thô. Tuy nhiên, khi bón mức cao (80kgN) đã không tạo được

sự sai khác về sản lượng vật chất khô so với mức 60N và mức 40kgN/ha/lứa.

Vì vậy, có thể bón đạm cho M.olefira trong năm thứ hai ở mức 40N hoặc

60kgN/ha/lứa.

So sánh với sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô trong năm thứ

nhất được thông báo bởi Lương Thị Thu Hương (2018) thì các sản lượng nêu

trên ở năm thứ hai đều thấp hơn. Cụ thể, sản lượng sinh khối ở năm thứ nhất

từ nghiệm thức một đến nghiệm thức năm tương ứng là 90,205 đến 120,447

tấn/ha/năm. Còn ở năm thứ hai tương ứng là 67,510 đến 115,598 tấn/ha/năm.

Tương tự như vậy, sản lượng lá tươi ở năm thứ nhất từ 34,891 đến 46,589

tấn/ha/năm; năm thứ hai từ 26,113 đến 35,786 tấn/ha/năm; sản lượng vật chất

khô ở năm thứ nhất từ 8,704 đến 10,395 tấn/ha/năm, năm thứ hai từ 6,043 đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

8,004 tấn/ha/năm; sản lượng protein thô ở năm thứ nhất từ 2,589 đến 3,568

38

tấn/ha/năm, năm thứ hai từ 1,938 đến 2,816 tấn/ha/năm. Như vậy, sản lượng

của M. oleifera ở năm thứ hai có xu hướng giảm so với năm thứ nhất mặc dù

mức bón phân chuồng, đạm, lân, kali ở hai năm là như nhau.

Mối quan hệ giữa mức bón đạm và sản lượng vật chất khô được minh

họa bằng biểu đồ dưới đây:

Hình 3.5. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm và sản lượng DM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ảnh hưởng của các mức đạm đến sản lượng chất xanh và vật chất khô của cây thức ăn xanh được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Nguyễn Văn Quang và cs (2012), nghiên cứu bốn mức bón đạm từ 120 đến 240 kg N/ha/năm đối với cỏ Panicum maximum và kết luận mức bón 200 - 240 KgN là hợp lý. Bùi Thị Hồng và cs (2012), nghiên cứu 3 mức bón đạm (180 - 230 - 280 kgN/ha/năm) cho cỏ voi tím đã cho biết mức bón 280 kgN cho sản lượng chất xanh, vật chất khô và protein thô cao nhất. Bùi Quang Tuấn và cs (2011), nghiên cứu 4 mức bón đạm (0 - 5 - 100 - 150 kgN/ha/lứa) cho cỏ setaria, kết quả là sản lượng chất xanh, vật chất khô cao nhất ở mức bón 150 kgN nhưng không sai khác rõ rệt so với mức 100 kgN/ha/lứa. Mendieta - araica và cs (2013), nghiên cứu 4 mức bón đạm cho M. oleifera (0 - 261 - 521 - 782 kgN/ha/năm) và cho biết mức 521 kgN cho năng suất chất xanh và DM cao nhất.

39

3.2.5. Ảnh hưởng của mức bón phân đạm đến hiệu lực sản xuất của

M. oleifera

Hiệu lực sản suất vật chất khô (DM), protein thô (CP) của các mức bón đạm được tính bằng cách lấy sản lượng (DM, CP) của các nghiệm thức 2, 3, 4, 5 trừ đi sản lượng tương ứng của NT1; sau đó chia cho lượng đạm (kgN) đã sử dụng của từng nghiệm thức trong 1 năm.

Bảng 3.8.Hiệu lực sản xuất của M. oleiferaở các mức bón đạm khác nhau

trong năm thứ hai

Chỉ tiêu

Đơn vị

SEM

P

NT4 60N

NT3 40N

NT5 80N

DM tăng thêm

Kg

Kg

CP tăng thêm

40,843

NT2 20N 649c 1258b 1755a 1961a 109,749 0,000 255d 0,000 100

507c 200

732b 300

Kg

-

-

0,677

0,000

879a N/ha/năm 400 Hiệu suất DM/N KgDM/kg N 6,49a 6,29a 5,85ab 4,90b 2,20 Hiệu suất CP/N Kg CP/kg N 2,55

2,44

2,54

0,267

0,173

Ghi chú: Theo hàng ngang, các số liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau có

ý nghĩa thống kê.

Khi mức bón đạm đã làm tăng sản lượng vật chất khô và protein thô,

vì vậy, nghiệm thức có mức bón đạm cao hơn sẽ có khối lượng vật chất khô

và protein thô tăng thêm trên một ha trong một năm so với nghiệm thức một

cũng cao hơn. Cụ thể, các mức bón 80N, 60N, 40N và 20NkgN/ha/lứa chênh

lệch vật chất khô so với mức 0N lần lượt là 1961, 1755, 1258 và 649 kg/ha/năm,

còn protein thô là 879,732,507 và 255kg/ha/năm. Vật chất khô tăng thêm của

các mức bón đạm sai khác nhau rõ rệt (p<0,001) trừ mức 60N so với mức

80N; protein thô tăng thêm của các mức bón sai khác nhau rõ rệt, kể cả mức

60N so với mức 80N (p<0,001).

Đối với hiệu lực sản xuất vật chất khô và protein thô của 1kgN của

các mức bón đạm có sự ngược lại với lượng vật chất khô và protein thô

tăng thêm vì các đại lượng này còn phải chia cho số kgN được sử

dụng/1ha/năm, có nghĩa là bón đạm càng nhiều thì mẫu số càng to và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thương số càng giảm.

40

Chính vì vậy, hiệu lực sản xuất vật chất khô (DM) của mức bón 20N

là cao nhất sau đó giảm dần ở các mức bón 40N, 60N và 80N. Hiệu lực sản

xuất DM của các mức bón đạm sai khác nhau khá rõ rệt (p < 0,001). Hiệu

lực sản xuất protein thô đạt cao nhất ở mức bón 20N sau đó giảm dần ở các

mức bón đạm cao hơn. Tuy nhiên, hiệu lực sản xuất protein thô của các

mức bón đạm không sai khác nhau rõ rệt (p < 0,05).

3.3. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất và chất

lượng của M. oleifera trong năm thứ hai

Khoảng thời gian giữa hai lứa thu hoạch của cây thức ăn xanh được gọi

là khoảng cách cắt (KCC), thuật ngữ này được sử dụng khá phổ biến trên thế

giới. Khoảng cách cắt đồng nghĩa với tuổi thu hoạch của cây thức ăn xanh từ

sau lứa thu hoạch thứ nhất trở đi.

Số lứa thu hoạch trong một năm phụ thuộc vào khoảng cách cắt, nếu

khoảng cách cắt ngắn thì số lứa thu hoạch nhiều và ngược lại. Trong năm thứ

hai số lứa cắt của NT1 là 10 lần, của NT2 là 7 lần, NT3 là 6 lần, của NT4 và

NT5 đều là 5 lần.

Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất

của M. oleifera trong năm thứ hai được trình bày trong các mục dưới đây.

3.3.1. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất sinh khối của M. oleifera

Năng suất sinh khối là toàn bộ khối lượng thân, cành, lá của cây thức

ăn thu được trong 1 lứa cắt, đơn vị tính là tạ/ha/lứa.

Năng suất sinh khối của các nghiệm thức được trình bày tại Bảng 3.9.

Số liệu Bảng 3.9 cho thấy, diễn biến năng suất sinh khối của các

nghiệm thức như sau:

Ở lứa 1 là thời gian sau mùa đông, cây đang trong giai đoạn tái sinh

nên năng suất sinh khối còn thấp, tuy nhiên năng suất sinh khối của các

nghiệm thức khác nhau khá rõ rệt, năng suất sinh khối của NT2 cao hơn NT1

là 69,2%, NT3 cao hơn NT2 là 38,9%, NT4 cao hơn NT3 là 30,9% và NT5

cao hơn NT4 là 8,9%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

41

Bảng 3.9. Năng suất sinh khối của M. oleifera

ở khoảng cách cắt khác nhau (ta/ha/lứa)

Lứa SEM P NT1 30 ngày NT2 40 ngày NT3 50 ngày NT4 60 ngày NT5 70 ngày

1 56,84 96,18 133,58 174,86 190,35

2 105,77 178,81 248,37 325,52 357,56

3 105,69 180,13 250,40 311,58 337,92

4 97,79 131,68 147,15 167,99 137,75

5 86,06 128,32 91,39 87,47 60,72

6 80,48 108,15 54,30

7 69,64 72,43

8 62,23

9 49,27

10 34,57

74,83d 127,96c 0,000 8,458 2

có ý nghĩa thống kê.

154,20b 213,48a 216,86a Ghi chú: Theo hàng ngang, các số liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau

Ở lứa 2 và 3, cả 5 nghiệm thức cùng nằm trong mùa mưa nên tác động

của khoảng cách cắt đến năng suất sinh khối khá rõ rệt. Năng suất sinh khối

lứa 2 và 3 của NT2 cao hơn NT1 là 69,0% và 70.4%, của NT3 cao hơn NT2

là 38,9% và 39%, của NT4 cao hơn NT3 là 31,1% và 24,4%, của NT5 cao

hơn NT4 là 9,8 và 8,5%

Lứa 4 có sự khác biệt với lứa 1, 2 và 3, đó là các nghiệm thức 1, 2, 3

và 4 vẫn nằm trong mùa mưa, còn nghiệm thức 5 đã có một nửa thời gian

tái sinh nằm trong mùa khô. Do đó, năng suất sinh khối của NT2 vẫn cao

hơn 34,6% so với NT1, nghiệm thức 3 cao hơn 11,7% so với NT2, NT4

cao hơn 14,16% so với NT3, nhưng năng suất sinh khối của NT5 lại thấp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hơn 18,0% so với NT4.

42

Lứa 5 năng suất sinh khối của NT2 cao nhất, sau đó giảm dần đến NT5

cụ thể: NT2 cao hơn 40,41% so với NT3, NT3 cao hơn 4,48% so với NT4,

NT4 cao hơn NT5 là 44,05%. Nguyên nhân là NT1 và NT2 vẫn nằm trong

mùa mưa, các nghiệm thức còn lại do kéo dài khoảng cách cắt nên đã đẩy lùi

thời gian tái sinh lứa 5 vào mùa khô từ đó đã dẫn đến giảm năng suất sinh

khối của cây thức ăn.

Tăng khoảng cách cắt từ 30 lên 70 ngày, đã tăng năng suất sinh khối

trung bình/lứa của M. oleifera từ 74,83 lên 216,86 tạ/ha/lứa. Năng suất sinh

khối trung bình/lứa của các nghiệm thức sai khác nhau khá rõ rệt với p < 0,01.

Nếu các nghiệm thức có cùng số lứa cắt trong một năm, thì năng suất bình

quân/lứa tăng cũng có nghĩa là tăng sản lượng/ha/năm nhưng trong thí nghiệm

này số lứa cắt trong năm của các nghiệm thức khác nhau, nên năng suất

không phải là yếu tố duy nhất quyết định tới sản lượng của cây thức ăn xanh

mà sản lượng còn phụ thuộc vào yếu tố thứ 2, đó là số lứa cắt trong 1 năm.

Mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất sinh khối còn được

minh họa bằng biểu đồ dưới đây:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.6. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất sinh khối

43

Năng suất sinh khối trung bình/lứa của cả 5 nghiệm thức của M.

oleifera là 157,47 tạ/ha/lứa. Năng suất sinh khối trung bình/lứa của M.

oleifera năm thứ nhất là 253,82 cao hơn 96,35 tạ/ha/lứa so với năm thứ hai.

Năng suất sinh khối trung bình của keo giậu là 151 tạ/ha/lứa (Trần Thị Hoan

và cs, 2017), của Stylosanthes guianesis CIAT 184 là 194 tạ/ha/lứa (Từ

Quang Hiển và cs, 2017), của sắn trồng thu lá là 174 tạ/ha/lứa (Từ Quang

Hiển và Từ Quang Trung, 2016). Như vậy, năng suất trung bình ở năm thứ

hai của M. oleifera ngang bằng hoặc thấp hơn năng suất trung bình 2 năm của

một số cây thức ăn được thông báo bởi các tác giả nêu trên.

3.3.2.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất lá tươi của M. oleifera

Năng suất lá tươi được tính trên cơ sở nhân năng suất sinh khối với tỷ

lệ giữa lá tươi/sinh khối. Tỉ lệ lá tươi/sinh khối của 5 nghiệm thức có sự khác

nhau ở các khoảng cách cắt khác nhau. Tỷ lệ này của NT1 đến NT5 lần lượt

là 42,79; 43,92; 38,68; 29,28 và 24,72%. Lúc 30 ngày tuổi, lá non chiếm đa

số nhưng thân cây vẫn còn bé nên lá chiếm tỷ lệ khá lớn so với toàn bộ sinh

khối của cây; lúc 40 ngày tuổi phần lớn lá đã trưởng thành về diện tích và độ

dày của lá, do đó tỷ lệ lá/sinh khối cao hơn giai đoạn 30 ngày tuổi; lúc 50

ngày tuổi thân cây phát triển mạnh, đồng thời lá non vẫn còn tiếp tục tăng

sinh nên tỷ lệ lá/sinh khối có giảm nhưng không lớn; lúc 60 ngày tuổi thân

cây tiếp tục tăng trưởng mạnh nhưng phần lớn lá đã ổn định không tăng sinh

thêm, do đó tỷ lệ lá/sinh khối giảm mạnh. Lúc 70 ngày tuổi, diễn biến về tăng

trưởng của thân và lá tương tự như lúc 60 ngày tuổi nhưng phần lá ở gốc đã

già, chuyển sang màu vàng, phần lá này bị loại bỏ, vì vậy tỷ lệ lá trên sinh

khối chỉ còn 24,72%, giảm 19,2% so với khoảng cách cắt 40 ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Năng suất lá tươi của các nghiệm thức được trình bày tại Bảng 3.10.

44

Bảng 3.10. Năng suất lá tươi của M. oleifera

ở khoảng cách cắt khác nhau (ta/ha/lứa)

Lứa NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 SEM P

1 24,32 42,24 51,67 51,20 47,06

2 45,26 78,53 96,06 95,31 88,39

3 45,22 79,11 96,85 91,23 83,53

4 41,84 57,83 56,92 49,19 34,05

5 36,83 56,36 35,35 25,61 15,01

6 34,44 47,50 21,00 - -

7 29,80 31,81 - - -

8 - - - 26,63

9 - - - 21,08

- - - 10 14,79

Ghi chú: Theo hàng ngang, các số liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau

có ý nghĩa thống kê.

32,02d 56,20c 59,64ab 62,51a 53,61bc 2,834 0,000

Số liệu Bảng 3.10 cho thấy, năng suất lá tươi có diễn biến tương tự như

năng suất sinh khối; khi tăng khoảng cách cắt từ 30 lên 40 ngày, năng suất lá

tươi trung bình/lứa tăng thêm 75,5%; tăng từ 40 lên 50 ngày tăng 6,1%, từ 50

lên 60 ngày tăng 4,8%.

Tăng khoảng cách cắt từ 60 lên 70 ngày, năng suất sinh khối tăng 1,6%

nhưng năng suất lá tươi không những không tăng thêm mà còn giảm 14,23%.

Nguyên nhân là tỷ lệ lá tươi/sinh khối ở khoảng cách cắt 70 ngày thấp hơn so

với khoảng cách cắt 60 ngày.

Phân tích thống kê cho thấy, năng suất lá tươi trung bình/lứa của các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khoảng cách cắt sai khác rõ rệt (p <0,001).

45

Mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất lá tươi còn được minh

họa bằng biểu đồ dưới đây

Hình 3.7. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất lá tươi.

3.3.3.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất vật chất khô của

M. oleifera

Năng suất vật chất khô phụ thuộc vào hai yếu tố: năng suất lá tươi và tỷ

lệ vật chất khô trong lá tươi. Tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi có sự khác nhau

giữa các nghiệm thức; tỷ lệ này thấp ở khoảng cách ngắn (lá non có tỷ lệ vật

chất khô thấp), và cao khi khoảng cách cắt tăng lên (lá già có tỷ lệ vật chất

khô cao). Tỷ lệ vật chất khô trong lá của NT1 đến NT5 lần lượt là 19,67;

20,68; 21,79; 22,32 và 23,68%. Năng suất vật chất khô của các nghiệm thức

được trình bày tại Bảng 3.11.

Số liệu Bảng 3.11 cho thấy, năng suất vật chất khô có diễn biến tương

tự như năng suất lá tươi, năng suất vật chất khô ở lứa 2 và 3 đạt cao nhất. Vì

mặc dù năng suất vật chất khô phụ thuộc vào hai yếu tố đó là năng suất lá tươi

và tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi nhưng tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi chênh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lệch nhau không lớn giữa các nghiệm thức.

46

Bảng 3.11. Năng suất vật chất khô của M. oleifera

ở khoảng cách cắt khác nhau (ta/ha/lứa)

NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Lứa SEM P 30 ngày 40 ngày 50 ngày 60 ngày 70 ngày

4,78 1 8,74 11,26 11,43 11,14

8,90 2 16,24 20,93 21,27 20,93

8,89 3 16,36 21,10 20,36 19,78

8,23 4 11,96 12,40 10,98 8,06

7,24 5 11,66 5,72 7,70 3,55

6,77 6 9,82 4,58 - -

5,86 7 6,58 - - -

5,24 8 - - - -

4,15 9 - - - -

2,91 10 - - - -

Ghi chú: Theo hàng ngang, các số liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau

có ý nghĩa thống kê.

6,30d 11,62c 13,00ab 13,95a 12,69bc 0,616 0,000

Khi tăng khoảng cách cắt từ 30 lên 40 ngày, năng suất vật chất khô

trung bình/lứa tăng 84,4%, từ 40 - 50 ngày tăng 11,9%, từ 50 - 60 ngày tăng

7,3%. Riêng giai đoạn 60 - 70 ngày, năng suất vật chất khô không tăng mà

còn giảm 9,03%. Số liệu các bảng 3.9, 3.10 và 3.11 cho thấy, năng suất sinh

khối, lá tươi và vật chất khô tăng ở giai đoạn từ 30 - 40 ngày lớn nhất và cao

hơn hẳn so với giai đoạn sau (40 - 60 ngày), riêng giai đoạn 60 - 70 ngày thì

năng suất có chiều hướng giảm.

Năng suất vật chất khô trung bình/lứa của các nghiệm thức sai khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhau rất rõ rệt với p < 0,001, trừ NT3 so với NT4 (khoảng cách cắt 50 ngày so

47

với 60 ngày). Tuy nhiên, năng suất vật chất khô không hoàn toàn quyết định

sản lượng vật chất khô, vì ngoài yếu tố năng suất, sản lượng vật chất khô còn

phụ thuộc vào số lứa cắt trong một năm (sản lượng vật chất khô = năng suất

vật chất khô trung bình x số lứa cắt trong năm).

Nghiên cứu của các tác giả khác về ảnh hưởng của khoảng cách đến

năng suất của một số cây thức ăn xanh khác cũng có kết quả tương tự (Bùi

Quang Tuấn (2005), Từ Trung Kiên và cs (2010), Nguyễn Văn Quang và cs

(2013). Lương Thị Thu Hương 2018.

Fadiyimu và cs, 2011, Amaglo và cs, 2006, Sanchez, 2006 nghiên

cứu trên cây M. oleifera có cùng nhận định, đó là KCC quá ngắn (thu

hoạch sớm quá) sẽ cho năng suất/lứa thấp, kéo dài KCC sẽ tăng năng

suất/lứa nhưng khi khoảng cách cắt quá dài, năng suất không tăng thêm

nhiều, đôi khi còn giảm xuống.

Mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và năng suất vật chất khô còn được

minh họa bằng biểu đồ dưới đây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.8. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách và năng suất VCK

48

3.3.4.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến thành phần hóa học của M. oleifera

Thành phần hóa học của M. oleifera bao gồm vật chất khô, protein thô,

lipit, xơ, khoáng tổng số đã được phân tích và năng lượng thô đã được xác

định. Kết quả được trình bày tại Bảng 3.12.

Bảng 3.12. Thành phần hóa học lá M. oleifera

ở khoảng cách cắt khác nhau

DM CP EE CF Ash NFE GE

KCC (ngày) 30 19,67d 6,77b 1,34d 1,38d 1,76d 8,42d 919c

40 20,68cd 7,26a 1,44cd 1,48d 1,86cd 8,64c 970b *Lá

tươi 50 21,79bc 7,46a 1,54bc 1,73c 2,05bc 9,01b 1017a

60 22,32b 7,48a 1,62ab 2,02b 2,17b 9,03b 1041a

70 23,68a 7,51a 1,76a 2,45a 2,48a 9,48a 1041a

SEM 0,636 0,244 0,091 0,102 0,116 0,100 24,713

P 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000

30 100 34,42a 6,81c 7,02d 8,95c 42,80a 4672a

40 100 35,11ab 6,96bc 7,16d 8,99c 41,78a 4691a *DM 50 100 34,24ab 7,07abc 7,94c 9,41bc 41,34a 4667a

60 100 33,51b 7,26ab 9,05b 9,72b 40,46a 4664a

70 100 31,71c 7,43a 10,35a 10,47a 40,04a 4637a

SEM 0,000 0,671 0,232 0,262 0,318 1,477 57,166

Ghi chú: DM: vật chất khô, CP: protein thô, EE: lipit thô, CF: Xơ thô, Ash: khoáng

tổng số, NFE: dẫn xuất không chứa nitơ, GE: năng lượng thô; Theo hàng ngang, các số

liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau có ý nghĩa thống kê.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

P 1,000 0,000 0,004 0,000 0,000 0,058 0,513

49

Số liệu Bảng 3.6 cho thấy, khi tăng khoảng cách cắt từ 30 lên 70

ngày đã có sự biến động rõ rệt về các thành phần hóa học của lá M.

oleifera. Cụ thể:

Tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi thấp hơn ở khoảng cách cắt ngắn (30,

40 ngày) và cao hơn ở các khoảng cách cắt dài (50, 60 và 70 ngày). Tỷ lệ này

có sự sai khác rõ rệt giữa các khoảng cách cắt với p < 0,001. Như vậy, tăng

khoảng cách cắt đã làm tăng tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi.

Trong vật chất khô, tỷ lệ protein thô, dẫn xuất không chứa nitơ và năng

lượng thô giảm, tỷ lệ lipit, xơ, khoáng tổng số tăng. Tỷ lệ protein thô đạt cao

nhất ở NT2 và thấp nhất ở NT5 với khoảng chênh lệch là 3,4% (35,11 so với

31,71%), tỷ lệ này của NT1 đến NT3 không sai khác nhau nhưng chúng sai

khác rõ rệt so với NT5, (p<0,001); tỷ lệ xơ trong vật chất khô tăng 3,33%, từ

7,02% lên 10,35%, tỷ lệ này của NT5 cao hơn với sự sai khác rõ rệt so với các

nghiệm thức còn lại (p < 0,001). Như vậy, tăng khoảng cách cắt quá dài (70

ngày) đã làm giảm chất lượng thức ăn xanh (tỷ lệ protein thấp, tỷ lệ xơ cao sẽ

làm giảm khả năng thu nhận và tiêu hóa thức ăn của vật nuôi).

Vì khoảng cách cắt có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của cây thức ăn

xanh, nên vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Bùi

Quang Tuấn (2005) nghiên cứu về KCC đối với cỏ voi, cỏ ghinê, Từ Quang

Hiển và cs (2013) nghiên cứu trên cỏ B.decumbens, Nguyễn Văn Quang và cs

(2013) nghiên cứu đối với cỏ S.guianensis, Fadiyimu và cs (2011), Sanchez

(2006), Amaglo và cs (2006), Nouman, 2012 nghiên cứu đối với M. oleifera.

Các tác giả này, đều chỉ ra rằng khoảng cách cắt tăng đã làm tăng tỷ lệ vật

chất khô, xơ và giảm tỷ lệ protein. Khoảng cách cắt càng dài các tỷ lệ trên

càng tăng hoặc giảm mạnh làm ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sử dụng, tỷ lệ tiêu hóa

của cây thức ăn xanh.

Tóm lại khi tăng khoảng cách cắt, tỷ lệ vật chất khô trong lá tươi cũng

tăng theo. Trong vật chất khô, tỷ lệ lipit, khoáng tổng số, dẫn xuất không chứa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

50

nitơ, có biến động không lớn, tỷ lệ protein thô giảm và tỷ lệ xơ tăng mạnh khi

khoảng cách cắt quá dài (70 ngày). Đây là những điều cần lưu ý khi thu hoạch

cây thức ăn xanh.

3.3.5.Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến sản lượng của M. oleifera

Sản lượng được tính bằng cách cộng năng suất của tất cả các lứa trong

năm hoặc nhân năng suất trung bình/lứa với số lứa cắt trong năm sau đó đổi

đơn vị tính từ tạ sang tấn (tấn/ha/năm), cách tính thứ hai sai lệch 1 – 5‰ so

với cách tính thứ nhất do làm tròn số năng suất trung bình/lứa. Sản lượng sinh

khối, lá tươi, vật chất khô và protein thô được trình bày tại Bảng 3.13.

Bảng 3.13. Sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô của M. oleifera ở

khoảng cách cắt khác nhau (tấn/ha/năm)

NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 Chỉ tiêu SEM P 30 40 50 60 70

Sinh khối 74,834c 89,570b 92,519b 106,742a 108,430a 5,106 0,000

Lá tươi 32,021c 39,339a 35,786b 31,254c 26,804d 1,867 0,000

DM 6,299b 8,135a 7,798a 6,976b 6,347b 0,395 0,000

Ghi chú: Theo hàng ngang, các số liệu mang chữ cái khác nhau thì sai khác nhau

có ý nghĩa thống kê.

Protein 2,168c 2,856a 2,670ab 2,477b 2,013c 0,136 0,000

Số liệu Bảng 3.13 cho thấy, tăng khoảng cách cắt từ 30 lên 70 ngày các

chỉ tiêu sản lượng có diễn biến như sau:

Sản lượng sinh khối tăng từ 74,834 lên 108,430 tấn/ha/năm. Nếu quy

ước sản lượng sinh khối của NT1 là 100% thì của NT2 là 119,7%, của NT3 là

123,6%, của NT4 là 142,6% và của NT5 là 114,9%. Như vậy năng suất sinh

khối tăng mạnh khi đưa khoảng cách cắt từ 50 lên 60 ngày nhưng sau đó chỉ

tăng nhẹ khi tăng khoảng cách cắt từ 60 lên 70 ngày. Sản lượng sinh khối của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

các nghiệm thức sai khác nhau rõ rệt với p < 0,001.

51

Sản lượng lá tươi tăng từ 32,021 tấn (NT1) lên 39,339 tấn (NT2) sau đó

giảm xuống còn 35,786 tấn/ha/năm ở TN3, 31,254 tấn ở NT4 và 26,804 tấn ở

NT5. Sản lượng lá tươi của các nghiệm thức sai khác nhau rõ rệt với p < 0,01,

trừ NT1 so với NT4.

Sản lượng vật chất khô cũng có diễn biến tương tự như sản lượng lá tươi,

tăng dần từ NT1 đến NT2, sau đó giảm xuống. Sản lượng vật chất khô ở NT2

cao nhất sau đó đến NT3. Vật chất khô là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu trong

việc đánh giá khả năng sản xuất của cây thức ăn xanh. Vì vậy, có thể sơ bộ

nhận định M. oleifera thu hoạch ở khoảng cách cắt 40 đến 50 ngày là phù hợp.

Mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và sản lượng vật chất khô còn được

minh họa bằng biểu đồ dưới đây.

Hình 3.9. Biểu đồ mối quan hệ giữa khoảng cách cắt và sản lượng DM

Sản lượng protein thô được tính bằng cách nhân sản lượng vật chất khô

với tỷ lệ protein trong vật chất khô.

Sản lượng protein thô tăng từ khoảng cách cắt 30 đến 40 ngày sau đó

giảm xuống ở khoảng cách cắt 50, 60 và 70 ngày. Như vậy, kéo quá dài

khoảng cách cắt sẽ không làm tăng sản lượng protein thô, vì tỷ lệ protein thô

trong vật chất khô giảm xuống. Sản lượng protein thô của các khoảng cách cắt

sai khác nhau rõ rệt với p < 0,001. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

52

Các tác giả Nguyễn Văn Quang và cs (2013) Bùi Quang Tuấn (2005),

Từ Quang Hiển và cs, 2013, Từ Trung Kiên và cs (2010), đã nghiên cứu về ảnh

hưởng của khoảng cách cắt đến sản lượng một số cây thức ăn xanh. Các nghiên

cứu đã chỉ ra rằng tăng khoảng cách cắt làm tăng sản lượng chất xanh, vật chất

khô, protein thô, nhưng khi tăng khoảng cách cắt quá dài, sản lượng tăng thêm

không đáng kể, thậm chí còn giảm xuống.

Nghiên cứu đối với cây M. oleifera, Fadiyimu và cs (2011) cho biết,

khoảng cách cắt từ 28 - 42 ngày trong mùa mưa và 84 ngày trong mùa khô

cho sản lượng cao nhất; Amaglo và cs (2006) cho rằng, khoảng cách cắt 35

ngày là phù hơp nhất; theo Nouman (2012 thì khoảng cách cắt 30 ngày là hợp

lý, trừ mùa khô; nhưng Sanchez (2006), lại thông báo rằng khoảng cách cắt

75 cho sản lượng chất xanh, vật chất khô cao nhất đối với tất cả các mật độ

trồng mà ông đã nghiên cứu.

Nhìn chung, khoảng cách cắt dài hay ngắn tùy thuộc vào khí tượng,

dinh dưỡng đất và phải đảm bảo cây tích tụ đủ chất dinh dưỡng dùng cho tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sinh lứa sau (Latt và cs, 2000, Assefa, 1998).

53

KẾT LUẬN

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các mức bón đạm và tuổi thu hoạch

đến năng suất và chất lượng cây thức ăn Moringa oleifera cho thấy:

1) Kết quả thí nghiệm bón đạm cho M. oleifera ở các mức 20, 40, 60 và

80kgN/ha/lứa cắt ở năm thứ hai cho thấy: Sản lượng vật chất khô/ha/năm của

các mức bón 40N, 60N và 80N không sai khác nhau rõ rệt, còn sản lượng

protein thô không sai khác nhau rõ rệt giữa hai mức bón 60N và 80N. Vì vậy,

bón đạm thích hợp cho M. oleifera ở mức 40N trở lên là thích hợp, tối ưu nhất

là mức bón 60kgN/ha/lứa cắt.

2) Kết quả thí nghiệm các khoảng cách cắt 30, 40, 50, 60 và 70 ngày ở

năm thứ hai đối với M. oleifera cho thấy: Khoảng cách cắt 40 và 50 ngày/lứa

đạt sản lượng vật chất khô và protein thô/ha/năm cao nhất và sai khác rõ rệt

với các nghiệm thức còn lại. Vì vậy, nên thu hoạch M. oleifera ở khoảng cách

cắt 40-50 ngày/lứa.

Đề nghị

Các cơ sở chăn nuôi có sử sụng M.oleifera để chế biến thức ăn cho gia cầm có

thể áp dụng kết quả nghiên cứu trên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

54

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I.TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đào Văn Bảy, Phùng Tiến Đạt (2007), Giáo trình Hóa nông học, Nxb Đại

học Sư phạm, Hà Nội, tr. 88-101;123-124.

2. Lê Văn Căn (1978), Giáo trình Nông hóa và thổ nhưỡng, Nxb Giáo dục,

tr. 78-80.

3. Nguyễn Đặng Toàn Chương (2011), Xác định một số biện pháp kỹ thuật

canh tác cây Chùm ngây Moringa oleifera Lam, Luận văn tốt nghiệp Thạc

sỹ khoa học cây trồng, Trường Đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.

4. Võ Văn Chi (1999), Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y Học, trang 248.

5. Ngô Thị Đào, Vũ Hữu Yêm (2007), Đất và phân bón, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội, tr. 344-348.

6. Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc, Trần Trang Nhung (2002), Giáo

trình đồng cỏ và cây thức ăn gia súc, Nxb Nông nghiệp, 112 tr.

7. Từ Quang Hiển, Từ Trung Kiên, Trần Thị Hoan (2013), “Xác định khoảng

cách cắt thích hơp cho cỏ Brachiria decumhens basilisk trồng tại Thái

Nguyên”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đai học Thái Nguyên, Tập 104,

số 4, tr 23 - 27.

8. Từ Quang Hiển, Từ Quang Trung (2016), “Nghiên cứu khả năng sản xuất

chất xanh và bột lá của sắn trồng thu lá tại tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí

chăn nuôi, Hội chăn nuôi Việt Nam, số 214 tháng 12, tr 52 - 56.

9. Từ Quang Hiển, Trần Thị Hoan, Từ Quang Trung (2017), “Nghiên cứu

năng suất chất xanh và bột cỏ của cỏ stylosanthes guianensis CIAT 184”,

Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học công nghệ, tập 19,

tháng 8, tr 23 - 27.

10. Trần Thị Hoan, Từ Quang Hiển, Từ Quang Trung (2017), Nghiên cứu khả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

năng sản xuất chất xanh và bột lá của cây keo giậu (leucaena

55

leucoceppala) tại Thái Nguyên, Kỷ yếu Hội nghị Chăn nuôi thú y toàn

quốc, Cần Thơ 11 - 12/3, tr 290 - 296.

11. Trần Thị Hoan, Từ Quang Hiển, Từ Trung Kiên (2011), “Nghiên cứu ảnh

hưởng của các mức bón phân đạm đến sản lượng và chất lượng lá sắn”, Tạp

chí Khoa học và công nghệ, Đại học Thái Nguyên, tập 82, số 6, tr 25 - 29.

12. Bùi Thị Hồng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Văn Đại,

Nguyễn Đức Chuyên, Nguyễn Thị Thúy Hằng (2012), “Ảnh hưởng mật độ

trồng và các mức phân bón đến năng suất và chất lượng cỏ voi tím”, Tạp

chí Khoa học - Công nghệ, Viện Chăn nuôi, số 38, tr 92 - 100.

13. Điền Văn Hưng (1964), Cây thức ăn gia súc Miền bắc Việt Nam, Nxb

Nông thôn, tr. 125

14. Lương Thị Thu Hương (2018), Ảnh hưởng của mức bón đạm và tuổi thu

hoạch đến năng suất chất lượng của cây thức ăn Moringa Oleifer, Luận

văn thạc sĩ chăn nuôi thú y, Đại học nông lâm Thái Nguyên.

15. Từ Trung Kiên, Trần Thị Hoan (2014), “Nghiên cứu ảnh hưởng các mức

bón phân N.P.K khác nhau đến sản lượng và chất lượng của cỏ B.brizantha

6387 trồng tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học

Thái Nguyên, Tập 115, số 1, tr 1981 - 1984.

16. Từ Trung Kiên, Từ Quang Hiển, Trần Thị Hoan, Trần Trang Nhung

(2010). “Nghiên cứu ảnh hưởng của khoảng cách cắt khác nhau đến khả

năng thu nhận, tỷ lệ cỏ được sử dụng và tỷ lệ tiêu hóa của một số giống cỏ

nhập nội (P.atratum, B.brizantha, B.decumbens) trên bò thịt”. Tạp chí

Khoa học và công nghệ, Đại học Thái Nguyên, Tập 67, số 5, tr 109 - 112.

17. Cao Liêm, Nguyễn Văn Huyên (1975), Giáo trình Nông hóa thổ nhưỡng,

Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 33-88.

18. Mai Thanh Nhàn (2011), Nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ hữu cơ

trên địa bàn xã Thanh Xuân - Sóc Sơn - Hà Nội, Báo cáo tốt nghiệp kỹ sư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội

56

19. Đỗ Thị Ngọc Oanh, Hoàng Văn Phụ (2012), Giáo trình phương pháp thí

nghiệm đồng ruộng, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, 210 tr.

20. Nguyễn Văn Quang (2002), Nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và

ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của một số giống cỏ trong mô

hình trồng xen với cây ăn quả trên đất đồi Bá Vân, Thái Nguyên, Báo cáo

khoa học năm 2001, Viện Chăn nuôi, Hà nội, 6/2002, tr. 197, 198.

21. Nguyễn Văn Quang, Bùi Việt Phong, Phạm Thị Xim, Nguyễn Thị Mùi,

Nguyễn Đình Vinh(2011), “Ảnh hưởng của chế độ phân bón đến nắng

suất, chất lượng 2 giống cây họ đậu (S.guianensis CIAT 184 và

L.leucocephala K636”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ chăn nuôi, Viện

Chăn nuôi, Số 30, tr 41 - 49.

22. Nguyễn Văn Quang, Bùi Việt Phong, Bùi Thị Hồng, Nguyễn Duy Linh,

Ngô Đức Minh, Nguyễn Duy Phương (2012), “Ảnh hưởng của mật độ và

phân bón đến năng suất, chất lượng môt số giống cỏ tại huyện Than Uyên

và Sìn Hồ tỉnh Lai Châu”, Tạp chí Khoa học và công nghệ Chăn nuôi, số

38, tr 16 - 28.

23. Nguyễn Văn Quang, Hoàng Đình Hiếu, Bùi Việt Phong, Phí Như Liễu

(2013), “Ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến năng suất chất

xanh của giống cỏ S.guianensis CIAT 184 và S.guianensis plus tại Bến

Cát, Bình Dương”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ chăn nuôi, Viện Chăn

nuôi, Số 44, tr 21 - 32.

24. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2001), Phương pháp xác định

ẩm độ, TCVN 4326 - 2001.

25. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2001), Xác định hàm lượng

chất béo, TCVN 4331- 2001.

26. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2007), Lấy mẫu, TCVN

4325 - 2007.

27. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2007), Xác định hàm lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nitơ và tính hàm lượng protein thô, TCVN 4328 - 2007.

57

28. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2007), Phương pháp xác định

hàm lượng xơ thô, TCVN 4329:2007

29. Tiêu chuẩn Việt Nam, Thức ăn chăn nuôi (2007), Phương pháp xác định

hàm lượng tro, TCVN4327:2007

30. Dương Đức Tiến (2012), Nghiên cứu đặc điểm lâm học và khả năng gây

trồng loài Chùm ngây (Moringa oleifera Lam) qui mô hộ gia đình, trang

trại tại vùng Duyên Hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, Báo cáo tổng kết

thực hiện đề tài thuộc dự án Khoa học Công nghệ nông nghiệp vốn ADB.

Hà Nội, tháng 6 năm 2012.

31. Bùi Quang Tuấn (2005), “Ảnh hưởng của tuổi thu hoạch đến năng suất và

chất lượng thức ăn của cỏ voi (Penisetum purpureum), cỏ Ghi nê

(Panicum maximum) trồng tại Đan Phượng, Hà Tây”, Tạp chí Khoa học kỹ

thuật nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Tập 3, số 3, tr

202 - 206.

32. Bùi Quang Tuấn, Nguyễn Thị Dương Huyền, Bùi Thị Bích (2011), “Ảnh

hưởng của khoảng cách trồng và mức bón phân đạm đến năng suất, chất

lượng cỏ Setaria”, Tạp chí Khoa học và phát triển, trường Đại học Nông

nghiệp Hà Nội, Tâp 9, số 2, tr 251 - 257.

33. Trạm quan trắc khí tượng thủy văn, tỉnh Thái Nguyên, số liệu quan trắc

năm 2017.

34. Nguyễn Công Vinh (2002), Hỏi đáp về đất, phân bón và cây trồng, Nxb

Nông nghiệp, tr. 30-40.

35. Trịnh Xuân Vũ, Lê Doãn Diên (1976), Giáo trình Sinh lý thực vật, Nxb

Nông Thôn, tr. 303-306

36. Nguyễn Vy, Phạm Thúy Lan (2006), Hiểu đất và biết bón phân, Nxb Lao

động xã hội, tr. 28-36

II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

37. Amaglo N. K, Timpo G.M, Ellis W.O. and Bennett R. N, (2006). Effect of

spacing and harvest frequency on the growth and leaf yield of moringa

(Moringa oleifera Lam), a leafy vegetable crop. In Moringa and other highly Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

58

nutritious plant resources: Strategies, standards and markets for a better

impact on nutrition in Africa. Accra, Ghana, November 16 - 18, 2006.

38. Bennett R.N., Mellon F.A., Foidl N., Pratt J.H., DuPont M.S., Perkins L.

and Kroon P.A., (2003). Profiling glucosinolates nad phenolics in

vegetative and reproductive tissues of the multi - purpose trees Moringa

oleifera L. (Horseradish tree) and Moringa stenopetala L. Journal of

Agricultural nad Food Chemistry 51: 3546 - 3553.

39. Caceres, A.B; Cabrera, O; Mirals, O. Mollinedo, O. and Imendia, A.,

(1991), Preliminary screening for antimicrobial activity of Moringa

oleifera, J. Ethnopharmacol, 33: 213 - 216.

40. Fadiyimu A.A., Fajemisin A.N., Alokan J.A. and Aladesanawa R.D.,

(2011). Effect of cutting regimes on seasonal fodder yield of Moringa

oleifera in the tropical rainforest of Nigeria. Livestock research for Rural

Development 23.

41. Fahey J.W., (2005). Moringa oleifera: a review of the medical evidence

for it’s nutritional, therapeuotic and prophylactic properties. Part 1. Tree

For Life journal: 1-5

42. Foidl N, Makkr H.P.S and Becker K, (2001). The potential of Moringa

oleifera for agricultural and industrial uses. In proceedings of the

international workshop "what development potential for moringa

products", Dar-es-salaam, Tanzania, pp 47-67.

43. Latt C.R., Nair P.K.R. and Kang B.T., (2000). Interaction among cutting

frequency, reserve carbohydrates, and post-cutting biomass production in

Gliricidia sepium and leucaena leucocephala. Agrofor Syst 50: 27-46.

44. Mendieta-Araica B., Sporndly E., Reyes-Sanchez N., Salmeron-Miranda

F. and Halling M., (2013). Biomass production and chemical composition

of Moringa oleifera under different planting densities and levels of

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nitrogen fertilization. Agroforest Syst 12, 81 - 92.

59

45. Muhl Q.E., (2011). Seed germination, tree growth and flowering

responses of Moringa oleifera Lam. To temperature. Submitted in Partial

of requirements for degree MSc (Agric.) Horticulture in the Faculty of

Natural and Agriculture Sciences University of Pretoria.

46. Nouman W., (2012). Biomass production and nutritional quality of

Moringa oleifera as field crop. Turk Agric Fores 37: 410 – 419.

47. R. Brossa, I. Casals, M. Pinto´-Marijuan, I. Fleck, (2008), Leaf flavonoid

content in Quercus ilexL. resprouts and its seasonal variation, Trees

23:401 - 408.

48. Rubeena saleem (1995),Study in the chemical constituents of Moringa

oleiferaLam., and prepaparation of potential biologically significant

derivatives of 8-hydroxyquinoline H. E. j. Research institute of chemistry

university of Karachi Pakistan.

49. Sánchez N.R., (2006). Moringa oleifera and cratylia argentea: potential

fodder species for ruminants in Nicaragua. Doctoral thesis Swedish

University of Agricultural Sciences Uppsala.

III. TÀI LIỆU WEBSITE

50. Trần Việt Hưng, Võ Duy Huấn, 2007. Cây thực phẩm và cây thuốc Chùm

ngây http://www.rfviet.com.

51. http://khoahocphothong.com.vn/index.php?mag=MTM=&nid=Mzc1Mw=

=&act=dmlld2RldGFpbA==

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

52. http://www.hear.org/starr/plants/images/species/?q=moringa+oleifera

60

MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

Bón đạm cho cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thu hoạch cây

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cân định lượng