ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------------------------
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN HOÀN
CHỈNH (TOTAL MIX RATION - TMR) TỪ NGUYÊN
LIỆU PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP SẴN CÓ CỦA ĐỊA
PHƯƠNG CÓ BỔ SUNG MEN VI SINH VẬT TRONG
CHĂN NUÔI BÒ THỊT Ở NÔNG HỘ TẠI ĐIỆN BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------------------------
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN HOÀN CHỈNH (TOTAL MIX RATION - TMR) TỪ NGUYÊN LIỆU PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP SẴN CÓ CỦA ĐỊA PHƯƠNG CÓ BỔ SUNG MEN VI SINH VẬT TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT Ở NÔNG HỘ TẠI ĐIỆN BIÊN
Ngành: Chăn nuôi
Mã số: 8.62.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Anh Khoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các
số liệu công bố trong luận văn là trung thực, chính xác và có trích dẫn rõ ràng. Tác
giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung và các số liệu đã công bố trong luận
văn này.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu và hoàn thành luận
văn tôi xin cam đoan đều đã được cảm ơn đầy đủ.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 8 năm 2019
Học viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Hương Giang
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè, sự
động viên khích lệ của gia đình để tôi hoàn thành luận văn.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Mai Anh
Khoa với cương vị giáo viên hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng đào tạo sau đại học - Đại học Thái
Nguyên, Bộ phận quản lý sau đại học, khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên; Viện chăn nuôi đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin được dành những tình cảm, lời cảm ơn sâu sắc nhất
tới toàn thể người thân trong gia đình, bạn bè thân thiết, đã luôn động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 8 năm 2019
Học viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Hương Giang
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................ i
DANH MỤC CÁC BẢNG....................................................................... vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................... vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................... viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
2. Mục tiêu ................................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ............................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................... 4
1.1. Vị trí của con bò thịt trong hệ thống nông nghiệp nước ta ................ 4
1.2. Lịch sử phát triển chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam ............................... 5
1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của bò ............................................................... 8
1.3.1. Chất khô và nhu cầu chất khô ......................................................... 8
1.3.2. Chất xơ và nhu cầu chất xơ ............................................................. 9
1.3.3. Chất bột đường và nhu cầu chất bột đường .................................. 10
1.3.4. Protein và nhu cầu protein ............................................................ 10
1.4. Đặc điểm sinh trưởng ....................................................................... 10
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng ............................. 11
1.6. Giới thiệu về chế phẩm AIG ............................................................ 15
1.7. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về việc sử dụng phụ phẩm
nông nghiệp và các chế phẩm sinh học cho bò ....................................... 16
1.7.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................. 16
1.7.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................. 19
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........ 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu .................................. 21
iv
2.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu .................................................. 21
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ..................................................................... 21
2.1.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 21
2.2. Nội dung nghiên cứu ........................................................................ 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 22
2.3.1. Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn hợp
thân ngô, cỏ yến mạch, cỏ voi có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh
học ........................................................................................................... 22
2.3.2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa invitro của hỗn hợp hoàn chỉnh
(TMR) cho bò thịt. .................................................................................. 22
2.3.3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp hoàn chỉnh trên bò thịt giai đoạn
12 – 15 tháng tuổi .................................................................................... 24
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................ 27
3.1. Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn hợp thân
ngô, cỏ yến mạch, cỏ voi có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh học .... 27
3.1.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm ............................ 27
3.1.2. Công thức phối trộn các nguyên liệu thí nghiệm .......................... 28
3.1.3. Bổ sung chế phẩm sinh học AIG .................................................. 30
3.2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa in vitro của hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR)
cho bò thịt ................................................................................................ 31
3.2.1. Tốc độ sinh khí in vitro của các loại thức ăn ................................ 31
3.2.2. Động thái sinh khí in vitro của các loại thức ăn ........................... 34
3.2.3. Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và năng lượng trao đổi ....................... 37
3.3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp hoàn chỉnh trên bò thịt giai đoạn 12
– 15 tháng tuổi ......................................................................................... 39
3.3.1. Tăng khối lượng của bò thịt khi sử dụng TMR ............................ 39
3.3.2. Khả năng thu nhận VCK ............................................................... 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.3.3. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng ....................................... 49
v
3.3.4. Tiêu tốn protein cho 1 kg tăng khối lượng .................................... 51
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................... 52
1. Kết luận ............................................................................................... 52
2. Đề nghị ................................................................................................ 53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 53
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ....................................................... 23
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ....................................................... 25
Bảng 3.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm .................. 27
Bảng 3.2. Công thức phối trộn các nguyên liệu .................................. 29
Bảng 3.3. So sánh giá trị dinh dưỡng giữa TMR và TMR đã bổ sung
AIG1% (%) ......................................................................... 30
Bảng 3.4. Tốc độ sinh khí của các mẫu thức ăn (ml) .......................... 31
Bảng 3.5. Động thái sinh khí của mẫu thức ăn ................................... 35
Bảng 3.6. %OMD và năng lượng trao đổi ước tính tại thời điểm 24h 38
Bảng 3.7. Tăng khối lượng của bò thí nghiệm .................................... 40
Bảng 3.8. Khả năng thu nhận VCK của bò thí nghiệm ....................... 48
Bảng 3.9. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng (kg) .................... 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 3.10. Tiêu tốn protein cho 1 kg tăng khối lượng (gam) ............... 51
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Lượng khí tích lũy trung bình khi lên men in vitro gas
production của các khẩu phần ............................................. 31
Hình 3.2. Lượng khí sinh ra tích lũy tại thời điểm 3h và 24h của các
khẩu phần ............................................................................ 33
Hình 3.3. Lượng khí tích lũy khi lên men in vitro gas production tại các
thời điểm khác nhau (ml) .................................................... 34
Hình 3.4. Đặc điểm sinh khí khi lên men in vitro gas production của các
khẩu phần ............................................................................ 36
Hình 3.5. Khối lượng bò của 2 khẩu phần qua các giai đoạn ............. 43
Hình 3.6. Khả năng thu nhận VCK của bò thí nghiệm ....................... 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 3.7. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng qua các giai đoạn 50
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Xơ không tan trong dung môi axit ADF
Chế phẩm vi sinh bổ sung acid amin và các nhóm AIG
dinh dưỡng thiết yếu cho vật nuôi
Xơ thô CF
Protein thô CP
Cộng sự Cs.
Protein tiêu hóa DCP
Vật chất khô DM
Chất béo EE
FAO Tổ chức lương thực và Nông Nghiệp của Liên Hiệp
Quốc
Tổng lượng khí Gv
Khối lượng KL
Năng lượng trao đổi ME
NDF Xơ không tan trong dung môi trung tính
NLTĐ Năng lượng trao đổi
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
VSV Vi sinh vật
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong vòng 10 năm qua, tốc độ tăng đàn bò thịt nước ta đạt trên 3% mỗi
năm. Tuy vậy bình quân số gia súc bao gồm cả trâu và bò trên đầu người vẫn
còn rất thấp, khoảng 0,1 con/người. Số lượng gia súc ít và khối lượng gia súc
nhỏ nên sản lượng thịt trâu bò sản xuất mỗi năm tính trên đầu người cũng rất
thấp, chỉ đạt 2,6kg thịt hơi. Trong khi đó Úc 106,4kg, Argentina 76,9kg Canada
46,7kg, Mông Cổ 32,8kg. Những năm gần đây nước ta nhập mỗi năm hàng
chục ngàn tấn thịt bò từ Úc, Argentina, Mỹ và thịt trâu từ Ấn Độ. Giá thịt bò
nhập khẩu bán tại các siêu thị từ 150 ngàn đến 350 ngàn đ/kg. Nhu cầu thịt bò
chất lượng cao ngày càng gia tăng cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế và
mức thu nhập của người dân.
So với ngành chăn nuôi bò sữa thì ngành chăn nuôi bò thịt nước ta phát
triển chậm hơn. Đến cuối năm 2006 cả nước có 1.620 trang trại chăn nuôi bò
thịt quy mô từ 50 con đến trên 500 con. Một số giống bò thịt thuần nhiệt đới
như Brahman, Droughtmaster đã được nhập vào Việt Nam nuôi nhân thuần tại
nhiều tỉnh trong cả nước. Nhiều trang trại chăn nuôi bò thịt được đầu tư chuồng
trại quy mô lớn, đúng kỹ thuật, hình thành đồng cỏ chất lượng cao để nuôi bò
thịt giống thuần nhiệt đới và con lai với các giống bò thịt chuyên dụng nhiệt
đới và ôn đới. Chăn nuôi bò thịt theo hướng sản xuất hàng hóa đang hình thành
ngày một rõ nét.
Ở Việt Nam, nuôi dưỡng bò sữa, bò thịt vẫn theo phương thức cũ, nghĩa
là cho ăn riêng lẻ các loại thức ăn thô (chủ yếu là cỏ xanh) và các loại thức ăn
tinh. Với diện tích canh tác ngày càng thu hẹp, đất trồng cỏ bị hạn chế nên tình
trạng thiếu cỏ xanh thường xảy ra, đặc biệt trong mùa khô. Trong khi đó, một
số phụ phẩm cây trồng như thân ngô, ngọn mía, thân lạc…có thể sử dụng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một nguồn thức ăn thô cho bò thịt song do tính chất thu hoạch theo mùa vụ và
2
chưa có giải pháp dự trữ hợp lý nên khả năng sử dụng còn hạn chế. Đề tài nhằm
mục đích thử nghiệm sản xuất TMR cho bò thịt dựa trên nguồn phụ phẩm cây
trồng để thay thế khẩu phần hiện tại với nguồn thức ăn thô chính là cỏ xanh.
TMR là dạng hỗn hợp các loại thức ăn thô và thức ăn tinh được trộn lẫn
với nhau theo một tỷ lệ được tính toán khoa học sao cho đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng của gia súc. Ở các nước có ngành chăn nuôi bò thịt tiên tiến, TMR đã
được ứng dụng từ lâu. Ưu điểm của TMR là gia súc không thể lựa chọn thức
ăn, tăng khả năng ăn vào, cải thiện hệ sinh thái dạ cỏ, từ đó tăng tỷ lệ tiêu hóa
thức ăn và cuối cùng là tăng khả năng sản xuất thịt của bò thịt. Ở Việt Nam,
thời gian gần đây quy mô và số lượng chăn nuôi phát triển, việc sử dụng TMR
là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu. Đây là nhu cầu cần thiết đặt ra trong
nghiên cứu hiện nay, vì vậy đề tài: “Nghiên cứu xây dựng khẩu phần ăn hoàn
chỉnh (Total Mix Ration - TMR) từ nguyên liệu phụ phẩm nông nghiệp sẵn
có của địa phương có bổ sung men vi sinh vật trong chăn nuôi bò thịt ở nông
hộ tại Điện Biên” được tiến hành.
2. Mục tiêu
- Xây dựng được hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh (TMR) từ nguyên liệu phụ
phẩm nông nghiệp sẵn có của địa phương có bổ sung chế phẩm sinh học nhằm
nâng cao khả năng tiêu hóa và sử dụng thức ăn của bò thịt.
- Đánh giá được thành phần dinh dưỡng, khả năng tiêu hóa thức ăn của
hỗn hợp thức ăn tổng số (TMR) trong phòng thí nghiệm.
- Xây dựng được các mô hình sản xuất và sử dụng TMR cho bò thịt từ
nguồn sản phẩm và phụ phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Kết quả của đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu về
khẩu phần ăn hoàn chỉnh từ phụ phẩm nông nghiệp có bổ sung men vi sinh vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho bò thịt.
3
- Kết quả của đề tài được ứng dụng trong chăn nuôi vỗ béo trâu bò thịt
trong chuyển đổi phương thức chăn nuôi từ quảng canh sang thâm canh sản
xuất hàng hóa.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu tiếp theo, làm tài liệu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo, các cơ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khuyến nông và bà con nông dân áp dụng.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vị trí của con bò thịt trong hệ thống nông nghiệp nước ta
Vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu với cây lúa nước là cây trồng chính,
vì thế vị trí con bò trong hệ thống nông nghiệp của nước ta cũng có vai trò rất
khiêm tốn. Trâu và bò được nuôi trong mỗi gia đình nông dân với mục đích
trước hết là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như cày ruộng, lấy phân bón
ruộng, sau đó mới sử dụng bò vào mục đích kéo xe, mà cũng chỉ một số ít nơi
biết chế ra xe cho bò kéo. Với mục đích cày ruộng nên trâu được nuôi nhiều ở
vùng trũng, đất thịt nặng. Bò được nuôi nhiều ở vùng trung du, ven biển đất cát
nhẹ. Nuôi trâu bò với phương thức chủ yếu là tận dụng nguồn thức ăn sẵn có
từ bãi cỏ tự nhiên và rơm rạ dự trữ cho mùa khan hiếm thức ăn. Mùa đông ở
miền Bắc và mùa khô ở miền Nam là thời gian bò bị thiếu hụt thức ăn trầm
trọng và phải sống trong môi trường sống bất lợi như quá lạnh, quá nóng, bệnh
dịch và thiếu nước. Có những năm trâu bò đổ ngã lên tới trên 20% tổng đàn tại
một số tỉnh vùng núi phía Bắc hay ở miền Trung. Trong cuộc sống tự nhiên
khắc nghiệt như vậy chỉ những con bò có khối lượng nhỏ mới có cơ hội tồn tại
vì chúng cần ít dinh dưỡng hơn cho duy trì sự sống. Quá trình thích nghi và
chọn lọc tự nhiên này đã hình thành nên giống trâu bò địa phương của ta nhỏ
con, dễ nuôi, sinh ra để “cày ruộng”.
Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chính sách ưu tiên phát
triển nông nghiệp của nhà nước đã coi trâu bò là tư liệu sản xuất (như là máy
cày vậy). Nhiều chính sách đã ban hành nhằm duy trì và phát triển đàn trâu bò
để tạo nguồn sức kéo cho nông nghiệp. Việc giết mổ trâu bò là phạm pháp,
những con trâu bò già không còn khả năng cày kéo khi đổ ngã muốn giết thịt
cũng phải xin phép chính quyền địa phương. Sự kiện giết mổ chia thịt trâu bò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
già thời đó là ngày vui hiếm hoi ở những vùng quê nghèo.
5
Từ năm 1995, đất nước bước vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại
hóa, trâu bò cũng đang được chuyển dần từ mục đích cày kéo sang mục đích
sản xuất thịt và sữa. Mặc dầu vậy, một nước chủ yếu là nông nghiệp như nước
ta, với người nông dân, con trâu, con bò vẫn giữ một vị trí quan trọng trong hệ
thống sản xuất nông nghiệp với những lợi ích như sau:
- Tăng sản phẩm thịt, sữa cho xã hội, do vậy mà giảm nhập khẩu sữa bột,
thịt đỏ (thịt trâu và bò). Tăng thu nhập từ bán bê giống, bò thịt cho người chăn
nuôi.
- Giải quyết sức kéo: kéo cày, kéo xe cho nhiều vùng chưa có điều kiện
cơ khí hóa.
- Cung cấp nguồn phân bón hữu cơ cho trồng trọt.
- Tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có, tận dụng được các phụ phế phẩm
nông nghiệp và công nghiệp chế biến như rơm rạ, thân cây ngô, hèm bia, vỏ
quả dứa, ngọn và lá mía… và chuyển chúng thành thịt bò.
- Chăn nuôi bò còn góp phần giải quyết việc làm cho lao động phụ hay
lao động nhàn rỗi trong gia đình.
1.2. Lịch sử phát triển chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam
Xét ở góc độ con giống, phương thức và mục đích chăn nuôi, thị trường
sản phẩm, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có một nền chăn nuôi bò thịt đúng
nghĩa. Nghiên cứu lai tạo bò thịt ở nước ta có thể còn sớm hơn so với nghiên
cứu lai tạo bò sữa, ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta đã có một bước tiến dài
so với ngành chăn nuôi bò thịt.
Nghiên cứu lai tạo bò thịt ở Việt Nam bắt đầu cách nay hơn 80 năm. Mốc
đáng ghi nhận nhất là vào những năm 20 của thế kỉ 20 giống bò Sind đỏ (Red
Sindhi) được nhập vào nước ta từ Pakistan nuôi tại một số đồn điền của người
Pháp, với mục đích lấy sữa và thịt phục vụ cho tầng lớp quý tộc người Pháp hồi
đó đang đô hộ Việt Nam. Từ các đồn điền này chúng phát tán ra vùng xung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quanh tạo ra con lai gọi là lai Sind. Bò có màu sắc đẹp vóc dáng to cao, có u
6
yếm trông rất chắc chắn. Ở phía Nam các giống bò u khác cũng lần lượt du
nhập vào Việt Nam dưới nhiều hình thức như bò Ongle, Brahman… Con lai giữa
bò Vàng với các giống bò có u trên hơn hẳn bò Vàng về các tính trạng sản xuất
chính. Tầm vóc và hình dáng rất thích hợp cho kéo xe.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1980 ta nhập từ Pakistan hàng trăm
bò Sind và Sahiwal về nuôi. Những con đực xuất sắc thuần chủng của giống
này sinh ra ở Việt Nam được chọn lọc để sản xuất tinh tại Moncada (Ba Vì).
Những con đực còn lại được nuôi làm đực giống nhảy trực tiếp bò Vàng. Đến
cuối những năm 1980 đàn bò lai đã lên đến khoảng 10% tổng đàn, tập trung
chính ở những vùng ven đô, ven thị, nơi có nguồn thức ăn và người dân có
truyền thống nuôi bò kéo xe lâu đời.
Từ năm 1994-1998 chương trình Sind hóa (u hóa) đàn bò Vàng được tài
trợ của Ngân hàng Thế giới đã nâng tỷ lệ bò lai lên 25% tổng đàn. Phía Bắc,
các tỉnh như Hà Tây, Hà Nội có đàn bò lai Sind chất lượng khá. ở miền Trung,
một số tỉnh có đàn bò lai Zebu chất lượng khá như Phú Yên, Bình Định. Đàn
bò lai Sind chất lượng cao đã hình thành và tập trung nhiều ở Tây Ninh, Long
An, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tây. Đây là nguồn nguyên liệu
quý giá để lai tạo bò Việt Nam theo hướng thịt và sữa.
Đến năm 1975 chúng ta bắt đầu có những nghiên cứu lai tạo bò địa
phương (bò Vàng và bò lai Zebu) với bò chuyên dụng thịt. Từ 1975-1978 thí
nghiệm tiến hành tại nông trường Đồng Giao (Ninh Bình). Từ năm 1982-1985
thí nghiệm tiến hành tại nông trường Hà Tam (Gia Lai). Đã sử dụng tinh của
những giống bò thịt ôn đới nổi tiếng như Charolais, Hereford, Limousin, Santa
Gertrudis phối cho đàn cái lai Sind. Trong điều kiện chăn nuôi còn khó khăn
nhưng con lai F1 đều thể hiện khả năng sinh trưởng tốt, thích nghi với điều kiện
nóng ẩm và thức ăn nghèo dinh dưỡng.
Cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỉ trước chúng ta có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hẳn một chương trình cấp nhà nước do Viện Chăn nuôi chủ trì, có sự hỗ trợ của
7
dự án quốc tế UNDP-VIE 86/008. Tinh của nhiều giống bò chuyên dụng thịt
đã được đưa vào thử nghiệm lai tạo với bò cái lai Sind. Các giống bò thịt ôn
đới gồm có Charolais, Limousin, Hereford, Simmental, Santa Gertrudis. Địa
bàn lai tạo tiến hành chủ yếu ở miền Trung (Bình Định, Phú Yên, Gia Lai). Kết
quả cho thấy con lai F1 Charolais được ưa chuộng hơn vì lớn nhanh, ngọai hình
và màu sắc đẹp. Con lai F1 Simmental, Santa Gertrudis và Hereford ít được ưa
chuộng vì màu lông có đốm trắng hoặc vằn như hổ, niêm mạc mắt và gương
mũi có màu nâu đỏ hoặc hoe đỏ. Những kết quả trên được trình bày chi tiết
trong cuốn “Nuôi bò thịt ở Việt Nam, những kết quả nghiên cứu bước đầu” của
GS. Lê Viết Ly, nhà xuất bản Nông nghiệp năm 1995.
Từ năm 1995 đến năm 2000, nhiều đơn vị nghiên cứu đã quan tâm lai
tạo bò thịt. Một số giống bò kiêm dụng mới cũng được lai thăm dò như
Tarentaise, Abondance (Đinh Văn Cải, Vương Ngọc Long, 1997). Chương
trình hợp tác với ACIAR- Úc (Viện Chăn nuôi, 1997-2000) đã nghiên cứu sử
dụng tinh giống bò thịt nhiệt đới của úc như Red Brahman, Droughtmaster, Red
Belmon và Red Bragus phối cho bò cái địa phương để tạo con lai F1. Tại
Madrak (Daklak) con lai F1 lúc 400 ngày tuổi của giống Droughtmaster đạt
140kg, giống Red Belmon 148kg và giống Red Brahman 124kg. Tại Vĩnh
Tường (Vĩnh Phúc) con lai F1 lúc 200 ngày tuổi giống Droughtmaster đạt
147kg, Red Brahman đạt 134kg, Red Bragus 134kg so với bò lai Sind là 106kg.
Con lai F1 của giống Red Brahman và Droughtmaster có màu từ vàng nhạt đến
màu cam nhạt rất phù hợp với thị hiếu người chăn nuôi.
Từ năm 2000 đến nay Nhà nước có dự án phát triển bò thịt triển khai trên
quy mô 15 tỉnh của cả nước. Nội dung chính của dự án là tiếp tục duy trì việc
Sind hóa đàn bò Vàng. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho một số đơn vị nghiên
cứu, sản xuất nuôi bò thịt thuần giống nhiệt đới và sản xuất tinh bò thịt.
Đầu năm 2007 trong Hội nghị tổng kết chăn nuôi trang trại tại Bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dương cho biết, cả nước có 1620 trang trại bò thịt, chủ yếu là trang trại nhỏ.
8
Quy mô tổng đàn dưới 100 con chiếm 1269 trang trại, chỉ có 28 trang tại có
quy mô tổng đàn từ 200 con trở lên (Báo cáo của Cục Chăn nuôi tháng 3-2007).
Giống bò nuôi thịt trong trang trại và ngoài dân là bò ta Vàng, bò lai Sind chiếm
tỷ lệ trên 60%, chỉ có một tỷ lệ nhỏ giống thuần Brahman, Droughtmaster, còn
lại là giống Lai Sind và một số con lai giữa bò thịt với bò địa phương. Không
có trại nào nuôi bò thịt thuần giống cao sản ôn đới như Charolais, Hereford. So
với các ngành chăn nuôi khác như gia cầm, lợn, bò sữa thì ngành chăn nuôi bò
thịt đang ở trình độ thấp hơn đáng kể.
Để có một nền chăn nuôi bò thịt theo đúng nghĩa cần phải có sự thay đổi
toàn diện từ con giống, phương thức nuôi dưỡng, đến hình thức tổ chức sản
xuất hợp lí và gắn với thị trường tiêu thụ phù hợp.
Trong khi chuyển dần đến một ngành sản xuất thịt bò chất lượng cao như
vậy, quá trình sản xuất thịt bò cung cấp cho nhu cầu nội địa như đã hình thành
và tồn tại từ trước đến nay vẫn còn giữ một vai trò quan trọng và cần được từng
bước nâng cao.
Trong vòng 5 năm trở lại đây, số trang trại nuôi bò thịt tăng nhanh. Nhiều
hô nông dân đã đầu tư nuôi bò lai Sind sinh sản để lai tạo bò thịt, bán bê giống,
bò thịt. Nhiều trang trại đã đầu tư nuôi bò sinh sản với quy mô lớn cũng với
mục đích bán bê giống và bò thịt. Giá bò cái tơ giống lai Sind tại thời điểm
2005 khoảng 50 ngàn đ/kg khối lượng sống. Nhà nước với các chương trình
Sind hóa bò Vàng, các dự án phát triển nông thôn về phát triển chăn nuôi bò
sinh sản bò thịt trong những năm gần đây là những dấu hiệu khởi đầu cần thiết
để phát triển một ngành chăn nuôi bò thịt chất lượng cao trong tương lai.
1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của bò
1.3.1. Chất khô và nhu cầu chất khô
Vật chất khô của thức ăn có vai trò quan trọng không những chúng chứa
đựng các chất dinh dưỡng của thức ăn mà còn duy trì sinh lý bình thường của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quá trình tiêu hóa dạ cỏ. Khả năng ăn vào lượng vật chất khô thức ăn của bò
9
phụ thuộc vào: Hàm lượng chất dinh dưỡng của thức ăn trong chất khô; hàm
lượng chất khô của thức ăn; năng suất của con vật và khối lượng cơ thể.
Dung tích dạ cỏ có hạn và thời gian thức ăn lưu lại ở dạ cỏ của mỗi loại
thức ăn cũng khác nhau nên lượng chất khô thức ăn bò thu nhận trong ngày có
giới hạn. Ước tính khoảng 3% khối lượng cơ thể.
Hàm lượng chất khô thấp, chất lượng thức ăn kém là nguyên nhân chính
cản trở chất khô ăn vào và không thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng ở bò cao sản.
Nhu cầu chất khô của bò thịt trong một ngày đêm bằng 2,5- 3,5% khối
lượng cơ thể (tùy thuộc bò mẹ nuôi con hay bò tơ đang lớn). Thí dụ bò mẹ nuôi
con tiết sữa 5 kg/ngày, khối lượng 300kg, nhu cầu vật chất khô bằng 3% khối
lượng cơ thể, vậy số kg vật chất khô cần là:
300kg x 3/100 = 9 kg/ngày.
Mùa mưa bò chỉ ăn cỏ non thì thường là thiếu chất khô, ngay cả khi
chúng được ăn tự do đến no. Thức ăn tinh và rơm có hàm lượng chất khô cao
vì thế được cho ăn kèm với cỏ xanh non.
1.3.2. Chất xơ và nhu cầu chất xơ
Chất xơ được tiêu hóa nhờ vi sinh vật trong dạ cỏ cho ra các chất dinh
dưỡng (các axit béo bay hơi) cho vật chủ và cho vi sinh vật phát triển. Chất xơ
cung cấp khoảng 60% nhu cầu năng lượng cho con vật. Khi thiếu chất xơ (hàm
lượng chất xơ thấp hơn 13% chất khô khẩu phần) sẽ sinh ra rối loạn tiêu hóa.
Khi hàm lượng xơ cao, khẩu phần sẽ thiếu năng lượng, thức ăn khẩu phần có
tiêu hóa kém. Vì vậy tỷ lệ chất xơ cần chiếm khoảng 17- 25% chất khô khẩu
phần. Tỷ lệ ADF không thấp hơn 21% chất khô khẩu phần. Yêu cầu lượng xơ
tối thiểu cho bò trưởng thành khoảng 2kg/con/ngày, tương đương với 25 kg cỏ
tươi hoặc 6 kg rơm khô (tùy hàm lượng xơ trong cỏ và rơm).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chất xơ có nhiều trong rơm, cỏ khô, thân lá cây già.
10
1.3.3. Chất bột đường và nhu cầu chất bột đường
Chất bột đường gồm 2 thành phần chính là tinh bột và đường. Chất bột
đường được vi sinh vật phân giải nhanh trong dạ cỏ thành chất dinh dưỡng
cung cấp năng lượng cho vật chủ và nguyên liệu cho vi sinh vật phát triển.
Hàm lượng chất bột đường chiếm khoảng 50-60% chất khô khẩu phần bò.
Thiếu nó thì khẩu phần thiếu năng lượng, tăng khối lượng của bò giảm và
giảm sản lượng sữa. Khi dư chất bột đường (khi ăn nhiều thức ăn tinh giàu
chất bột đường) sẽ sinh rối loạn tiêu hóa, giảm khả năng tiêu hóa xơ, tăng
lượng axit dạ cỏ dẫn đến bệnh (sản phẩm phân giải bột đường chủ yếu là axit
lactic).
Thức ăn tinh, hạt ngũ cốc, rỉ mật... giàu chất bột đường.
1.3.4. Protein và nhu cầu protein
Protein là chất dinh dưỡng thiết yếu đối với bò. Thiếu protein sẽ dẫn đến
hậu quả sau:
Giảm sản lượng sữa. Giảm khối lượng ở bò tơ. Khả năng ăn vào giảm
(khi protein thấp dưới 7% chất khô khẩu phần), ảnh hưởng đến lên giống và tỷ
lệ đậu thai ở bò cái.
Giảm sức đề kháng đối với bệnh tật. Bê con sinh ra có trọng lượng thấp.
Nhu cầu protein trong khẩu phần của bò thịt tùy thuộc vào giai đoạn sinh lý. Bê
con nhu cầu protein cao hơn bò tơ. Bò mẹ nuôi con cần nhiều protein hơn so
với bò cạn sữa. Trung bình nhu cầu protein thô từ 13-15% chất khô khẩu phần.
Protein có nhiều trong bột cá, khô dầu, hèm bia, xác đậu nành, cây họ đậu.
1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Quá trình sinh trưởng phát triển của đàn bò vàng ở các địa phương là gần
giống nhau. Bê ở 3 tháng đầu tăng khối lượng nhanh, tháng thứ nhất đạt 390;
433 g/ngày, hai tháng tiếp theo khả năng tăng khối lượng giảm, tháng thứ ba
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chỉ đạt 321 và 338g/ngày.
11
Từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6 sự tăng trọng của bê đã giảm, điều này
phù hợp với thực tế vì lượng sữa mẹ ngày càng giảm, trong lúc nguồn đinh
dưỡng dựa hẳn vào tự nhiên, bê con lại đang chuyển dần từ chế độ tiêu hoá
dạng men sang tiêu hoá dạng vi sinh vật dạ cỏ.
Sau 6 tháng tuổi khối lượng của bê lại tăng dần và đến 60 tháng tuổi khối
lượng bò tăng không đáng kể và ồn định. Khối lượng tuyệt đối lúc này của bò
đực là 237 - 3,14 kg, bò cái 196,39 - 1,62 kg.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng
Khi nghiên cứu về quá trình sinh trưởng của vật nuôi, người ta thấy quá
trình này chịu sự tác động của hai yếu tố chính đó là:
- Đặc điểm di truyền của giống.
- Môi trường nuôi dưỡng và chọn lọc giống.
Theo nhận xét của Ewald Sasimonski (1987) khối lượng của động vật
phụ thuộc vào bản chất di truyền của loài, giống, tuổi, phụ thuộc vào tính biệt,
yêu cầu thức ăn và thời tiết khí hậu.
Yếu tố ảnh hưởng đầu tiên, chủ yếu trực tiếp tới khả năng sinh trưởng
của con vật là yếu tố di truyền. Thực tế cho thấy rằng: Các giống bò khác nhau
có khả năng sinh trưởng khác nhau. Những giống bò thịt như: Hereford,
Santagertrudis có tốc độ sinh trưởng nhanh, đạt 1.000 - 1.200 g/ngày. Trong
khi đó các giống kiêm dụng thịt, sữa như Zebu, Red Sindhi, Browrn Swiss chỉ
đạt tăng trọng 600 – 800 gam/ngày.
Khi so sánh giữa bò Russian Black Pied (RBP) với bò lai Holstein
Friesian (HF + RBP), các tác giả Ertuer. N.M; Koltosova I.Yu (1984) đã đánh
giá: bò lai (HF + RBP) đã nặng hơn rõ rệt so với bò RBP ở 3,6,12 và 18 tháng
tuổi. Sự khác nhau trung bình là 11,2; 14,3; 17,5 và 21,6 kg.
So sánh năng suất sinh trưởng của các giống thuần Charolais, Holstein
Friesian, Mentbeliard; Aberdeen - Angus với con lai giữa bò cái Adma với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chúng, Saint Martin. G, Mesine. O và cộng sự (1991) đã thấy có sự khác nhau
12
giữa giống thuần và giống lai, giữa con đực và con cái. Khối lượng sơ sinh là
24,8±0,6 và 30,4±1,1kg đối với con đực 23,2±0,6 và 30,9±0,09 kg ở con cái.
Tăng khối lượng gam/ngày là 470±22 và 663±176 gam ở con đực; 453±18 và
669±44 gam ở con cái.
So sánh khả năng sinh trưởng của bò F1 khi cho bò lai Zebu với bò
Brown Swiss, Charolais, Chianina, Indobrazinlian, Limousine, Simmental dưới
các điều kiện, quản lý thay đổi, các tác giả Montano. M, Martiner. G, Reynoso
(1990) đã cho biết: Sinh trưởng của bò chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Bò
lai giữa Charolais và Chianina có khối lượng sơ sinh cao hơn 4% so với những
con lai khác.
Dashdamirov. K.SH (1991) khi nghiên cứu bò đực Aberdeen Angus
(AA), F1 Cuban Zebu (CZ) x (AA)và F2 CZ x AA đã thu được kết quả tương
ứng là: Khối lượng sơ sinh trung bình là 29,9; 31,3 và 30,0 kg. Khối lượng 6
tháng tuổi là 207,9; 281,6 và 293,8 kg. Khối lượng 18 tháng tuổi là 405; 446,2
và 451,2kg. Như vậy giữa các nhóm có sự sai khác rõ rệt.
Sung. Y.Y, Wang. K.C và cộng sự (1988) nghiên cứu về năng suất của
các giống bò Red Sindhi (RS) Santa Gertrudis (SG) và con lai của chúng với
bò Taiwan Yellow cho thấy: Khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và khối
lượng lúc 1 tuổi ở bò SG (27,6; 130,7 và 177,7kg) cao hơn rõ rệt so với những
con bò khác. Tốc độ sinh trưởng của bò Red Sindhi nói chung là thấp.
Planas. T (1983) khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng của 1.300 bê
Zebu sinh ở Cu Ba vào những năm 1978-1980 đã cho biết: Hệ số di truyền về
khối lượng sơ sinh 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi tương ứng là: 0,44±0,14; 0,16±0,07;
0,16±0,06; 0,11±0,25 và 0,16±0,06.
Kentamies. H (1983) đã tính được hệ số di truyền về tốc độ tăng
trọng/ngày của bò Finnish Ayrsline và bò Finnish Friesian tương ứng là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
0,39±0,1 và 0,77±0,25.
13
Theo Abasa. K.P, Wilcox C.J và Oson. T.A (1989) khi nghiên cứu trên
1.401 bò Gobra thì hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa,
12 và 18 tháng tuổi tương ứng là 0,14; 0,34; 0,33 và 0,15.
Burrow. H.M, Serfert. G.W và Hetzel. O.J.S (1991) nghiên cứu trên bò
Zebu, Bos Taurus và bò Zebu x Bos Taurus ở vùng nhiệt đới đã tính được hệ
số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và lúc 18 tháng tuổi của
các giống tương ứng là 0,46 ; 0.21 và 0,22.
Sinh trưởng và phát triển của bò ngoài yếu tố di truyền còn phụ thuộc
vào những yếu tố khác như: Thức ăn và mức độ dinh dưỡng, các điều kiện tự
nhiên như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng… Trong đó thức ăn, mức
độ dinh dưỡng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng.
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy bò ở vùng ôn đới sinh trưởng, phát triển
tốt hơn ở vùng nhiệt đới.
Theo kết quả nghiên cứu của Johnson (1958-1961) về khả năng tăng
trọng của bò cho thấy: ở vùng khí hậu nóng bò sinh trưởng chậm hơn so với bò
ở vùng ôn đới có nhiệt độ trung bình 10P 0 PC.
Kết quả nghiên cứu tương tự, khi nuôi bò đực Hereford Angus trong điều
kiện nóng ở Imperian valley (Mendel 1971, Johnson. H.D, Roman Ponce. H,
trích dẫn, 1994) Strees nóng làm giảm sinh nhiệt nội sinh, giảm thu nhận thức
ăn cũng như đòi hỏi tăng sinh nhiệt và thay đổi tình trạng Hormore, giảm năng
lực đạt được của bò đối với khả năng di truyền của chúng về mặt sinh trưởng.
Nhiệt độ môi trường cao luôn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển
của bào thai. Những bò cái chửa trong điều kiện đó đã đẻ bê có khối lượng sơ
sinh nhỏ hơn rõ rệt (Johnson H.D trích dẫn 1994).
Chu kỳ chiếu sáng cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới tốc độ sinh trưởng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bò.
14
Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của bò tơ Boule, Zebu, Adama và
Boule x Adama, các tác giả Poivery. F.P Menissien F và cộng sự (1988) đã
đánh giá sinh trưởng của bò trên 3 - 4 tháng tuổi phụ thuộc vào tính chất mùa vụ.
Khi nghiên cứu về mùa vụ trên bò cái Gobra Zebu, tác giả Abassa. K.P
(1987) đã nhận xét : Mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sản của bò và khối
lượng sơ sinh cũng như mức độ tăng trưởng của bê. Những bò cái sinh ra từ
tháng 10 đến tháng 3 có khối lượng trưởng thành nhỏ hơn so với những bê sinh
ra từ tháng 4 đến tháng 9.
Ảnh hưởng của tính biệt và thiến tới tốc độ sinh trưởng của bò cũng khá
rõ rệt. Nhiều nghiên cứu về hiệu quả phối giống của bò Hereford với đực
Sahiwal, Charolais, Simmental, Jersey đã cho thấy: So với những con cái, con
đực có khối lượng sơ sinh cao hơn 2kg, nặng hơn 15kg khi cai sữa và tăng trọng
cao hơn 66 gam/ngày. Bê lai với các giống Châu Âu có khả năng sản xuất cao
hơn khi cho lai với giống Zebu.
Khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt của
các giống bò Finnish Ayrsline (FA), Finish Friesian (FF), Finish (F) Charolais
và Hereford, tác giả Kentamies. H (1983) đã nhận xét: Bò Charolais có khả
năng tăng trọng cao nhất và tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò F1, FF và FA. Tính biệt cũng
ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt.
Dalatte. J.T, Ougan. H và cộng sự (1986) nghiên cứu cho thấy tính biệt
cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của bò. Thí nghiệm ảnh hưởng của
tính biệt đến năng suất sinh trưởng của bò Zebu trên các giống Arah, Fuleni đã
nhận xét: Sự khác biệt giữa các giống là rõ rệt, tăng trọng/ngày bị ảnh hưởng
bởi tuổi và tính biệt.
Sử dụng các loại kích tố sinh trưởng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới
tốc độ tăng trưởng của con vật. Ngoài ra các yếu tố như bệnh tật, loại hình thần
kinh, chăm sóc, quản lý đều có những ảnh hưởng nhất định tới khả năng sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trưởng của vật nuôi.
15
Johnson. H.D và Roman. Ponce. H (1994) đã kết luận: Sinh trưởng của
vật nuôi phụ thuộc vào dinh dưỡng, khí hậu, tình hình dịch bệnh….
Các tác giả Mwandotto. B.A.J Carles. HB, Cartwraight. T.C (1998) đã
nhận thấy: Giống, mùa vụ, tháng đẻ, tính biệt, tuổi cai sữa, thời tiết, khí hậu,
lượng mưa tổng số và tuổi đẻ của đàn bò mẹ đã ảnh hưởng tới khối lượng cai
sữa. Những bê sinh trong các tháng từ tháng 7 đến tháng 12 nặng hơn 12kg so
với những bê sinh trong các tháng từ tháng 1 đến tháng 6, do ảnh hưởng của
các yếu tố môi trường sống, nhiệt độ, ẩm độ và thức ăn.
1.6. Giới thiệu về chế phẩm AIG
- Nguồn gốc chế phẩm: là sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, được sản xuất
bởi công ty cổ phần ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao Việt Nam.
- Thành phần của chế phẩm AIG:
Streptomyces: 109 CFU
Rhizobium: 109 CFU
Lactic: 109 CFU
Bacillus: 109 CFU
Vi khuẩn quang hợp: 109 CFU
Nấm men và xạ khuẩn: 109 CFU
pH = 3.5÷4.0
- Có thể sử dụng cho:
+ Dùng cho gia súc, gia cầm (lợn, trâu bò, gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu,
trĩ, cút, dê, thỏ, nhím, …).
+ Dùng để cải tạo ao nuôi cá rất tốt. 1 hộp + 1 kg đường ăn pha với nước
để 45 phút té được 500m2 ao nuôi.
- Công dụng: Bổ sung acid amin và các nhóm dinh dưỡng thiết yếu cho
vật nuôi giúp gia súc gia cầm phát triển, tăng tỷ lệ nạc. Tăng khả năng miễn
dịch nâng cao sức đề kháng, chống stress. Vật nuôi tăng trưởng nhanh, giảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiêu tốn thức ăn, rút ngắn thời gian nuôi và nâng cao tỷ lệ sống. Đẩy mạnh quá
16
trình phát triển sinh lý, sinh hóa, giảm mùi hôi phân từ 70-80%, nâng cao chất
lượng thịt, trứng, sữa… cho xuất chuồng sớm hơn 7-15 ngày, đồng thời tạo ra
dòng thực phẩm sạch.
- Hướng dẫn sử dụng:
+ Gia súc (lợn, trâu, bò, dê…): Pha 5 ml với một lượng nước vừa đủ trộn
với 10kg cám khô (cám công nghiệp) để cho ăn. Pha 5 ml với 10-15 lít nước
cho gia súc uống.
+ Gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng…): Thời ký úm pha 5ml với 16-20 lít
nước cho uống. Thời kỳ trưởng thành: Pha 5 ml với 10-15 kg cám khô (cám
công nghiệp) cho ăn. Dùng 5ml AIG pha với 10-15 lít nước cho uống.
+ Thức ăn thô xanh ủ chua: 10 ml với 10 kg cám gạo và 200 kg cỏ, rơm,
cây ngô…tươi băm nhỏ (ủ trong 21 ngày).
Chú ý: Lắc điều trước khi sử dụng. Không pha thức ăn khi còn nóng, pha
xong để 15 phút tạo men rồi mới cho ăn. Cho ăn (hoặc uống) cách nhật vào
buổi chiều tối đối với vật nuôi lấy thịt. Với gia cầm, thủy cầm lấy trứng cho ăn
vào buổi sáng. Lượng thức ăn (hoặc lượng nước uống) sử dụng để hòa trộn với
sản phẩm phải bằng 30-50% tổng khẩu phần/ngày. Khi cho ăn thì thôi cho uống
và ngược lại. Không sử dụng chung AIG với thuốc kháng sinh. Cách ly thuốc
kháng sinh phòng bệnh với sản phẩm từ 8h-16h.
1.7. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về việc sử dụng phụ phẩm
nông nghiệp và các chế phẩm sinh học cho bò
1.7.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Để nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò thịt và áp dụng trong các gia
đình nông dân ở các nước đang phát triển, các nhà khoa học chăn nuôi đã nghiên
cứu việc sử dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò.
Từ những năm 1970, việc nghiên cứu xây dựng các khẩu phần thích hợp
cho từng đối tượng bò đã được Viện Chăn nuôi tiến hành với các kết quả khả
quan, được tổng hợp trong cuốn “Nuôi bò thịt” do Lê Viết Ly, 1995 làm chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biên.
17
Nguyễn Quốc Đạt và CS, 1988 sử dụng tảng liếm urê - rỉ mật cho bò cái
lai hướng sữa hậu bị nhận thấy bò được bổ sung tăng trọng 470 g/con/ngày.
Vũ Văn Nội và cs, 1994 trong điều kiện chăn thả còn hạn chế, bổ sung
thêm rơm ủ urê và bánh dinh dưỡng (MUB) có hàm lượng bột cá 20%, bê lai
F1 hướng thịt tăng trọng đạt 402 - 429 g/con/ngày, trong khi nuôi quảng canh
chỉ đạt 210 - 240 g/con/ngày.
Lê Viết Ly (1995) nghiên cứu sử dụng bột hạt bông, rỉ mật, rơm xử lý
4% urê và rơm không xử lý urê bổ sung cho bò lai vào mùa khô cho thấy, sau
6 tháng thí nghiệm bò được bổ sung hạt bông, rỉ mật, rơm xử lý 4% urê tăng
trọng bình quân 568 g/con/ngày và lô bổ sung hạt bông, rỉ mật và rơm không
xử lý urê tăng trọng 454 g/con/ngày, trong khi lô không bổ sung chỉ tăng trọng
157 g/con/ngày.
Nguyễn Quốc Đạt và cs (1998) Nghiên cứu rơm ủ urê 4% trong 14 và 21
ngày cho thấy: Hàm lượng protein tổng số tăng cao nhất sau 14 ngày ủ (10,5%),
sau 21 ngày tăng 6,43% protein thô. Ủ rơm với 4% urê có ảnh hưởng rõ rệt đến
cấu trúc xơ: xơ không hòa tan trong dung dịch trung tính giảm 2,04%, lignin
giảm 2,81%; hemicellulose và cellulose tăng tương ứng là 0,51 và 0,25 trong
vật chất khô. Tác giả đề nghị nên sử dụng rơm ủ với 4% urê cho bò nên bắt đầu
cho ăn từ ngày thứ 14 - 21.
Người ta thường dùng urê như một nguồn amoniac để xử lý rơm. Rơm
xử lý urê đã tăng được gấp đôi N tổng số (từ 3 - 5% lên 9 - 10%), tăng được
gấp đôi protein ở ruột non, tỷ lệ tiêu hóa và lượng tiêu thụ thức ăn cũng tăng
lên (Lưu Kỷ, 1996; Bùi Đức Lũng, 1999).
Trong những năm 1998 - 2000, tiểu phần “Nghiên cứu sử dụng các phế
phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi bò thịt” của Dự án “Chăn nuôi bò thịt có lãi
ở Việt Nam” (Vũ Chí Cương và cs, 2001) đã cho thấy với khẩu phần vỗ béo
bằng rỉ mật đường (45% chất khô của khẩu phần) kết hợp với hạt bông và rơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khô không cần cỏ xanh, bò lai Sind có thể tăng trọng trong giai đoạn vỗ béo từ
18
650 - 700 g/con/ngày, trong khi đó nuôi bò đại trà chỉ tăng trọng 300 - 400
g/con/ngày.
Bùi Văn Chính và Lê Viết Ly, 2001 cho biết khi thay thế 60% cỏ xanh
hoặc 100% cỏ xanh bằng lá sắn ủ chua trong khẩu phần bò sữa, năng suất sữa
và chất lượng sữa vẫn đảm bảo như bò được ăn 100% cỏ tươi.
Hoàng Thanh Vân (2002) nghiên cứu sử dụng men vi sinh ủ với bã sắn
tươi (bã sắn 80%, cám gạo 20%, sunphatamon 3%, urê 0,5% với 2% nấm mục
trắng và 1% nấm men) trong 44 giờ thu được sản phẩm sinh khối có hàm lượng
protein thô là 7,2% tăng 3,9% so với trước khi ủ. Khi sử dụng cho bò lai Sind
(khẩu phần 5 kg/con/ngày) thì tăng trọng bình quân là 32,07 kg/60 ngày, tăng
hơn lô đối chứng là 77,77%.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Trạch, 2004 khi theo dõi sự biến đổi thành
phần hóa học của rơm xử lý bằng urê và vôi với mức urê: 0%, 2%, 4%; mức
CaO: 0%, 3%, 6% và thời gian ủ là 21 ngày, cho thấy hàm lượng N tăng lên rõ
rệt, hàm lượng NDF, hemicellulose giảm.
Vũ Chí Cương và cs, 2007 khi sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp như
rơm, cây ngô sau thu hoạch, lõi ngô, bẹ bắp với khẩu phần rỉ mật cao (38%),
bò ở 4 lô thí nghiệm cho tăng khối lượng tương ứng: 583, 625, 795 và 839
g/con/ngày.
Trần Thị Hoan, Nguyễn Thị Liên, Từ Trung Kiên, 2007 khi nghiên cứu
ảnh hưởng của thức ăn ủ xanh đến năng suất, chất lượng sữa của bò sữa cho
thấy:
Khi nuôi bò sữa bằng thức ăn ủ xanh với mức 10kg và 15kg trong khẩu
phần ăn đã làm tăng sản lượng sữa, chất lượng sữa vẫn bảo đảm và không làm
tăng chi phí thức ăn/1kg sữa. Sản lượng trong 120 ngày và chi phí thức ăn cho
1kg sữa của các lô tương ứng như sau: Đối chứng: 1143,6kg và 2229 đồng; thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghiệm 1: 1179,6kg và 2212 đồng; lô thí nghiệm 2; 1172 kg và 2249 đồng.
19
Trong hai mức cho ăn cỏ ủ xanh thì mức 10/kg/con/ngày có năng suất, chất
lượng sữa tốt hơn mức 15kg/con/ngày; chi phí thức ăn/1kg sữa cũng thấp hơn.
Hàm lượng vật chất khô, lipit, khoáng tổng số, xơ tổng số của cỏ voi ủ
xanh cao hơn đôi chút so với cỏ voi tươi nhưng hàm lượng protein của cỏ voi
ủ xanh thì lại thấp hơn so với cỏ voi tươi (2,85% so với 3,19%).
1.7.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Việc chế biến, bảo quản và sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, phụ phẩm
gia súc, phụ phẩm thủy hải sản làm thức ăn chăn nuôi bằng phương pháp làm
giảm độ pH đã được nghiên cứu từ rất sớm. Các phương pháp sử dụng để bảo
quản phụ phẩm là việc bổ sung vào trong đó các loại acid vô cơ hay hữu cơ và
phương pháp sinh học.
Nhiều nghiên cứu về các biện pháp xử lý thức ăn giàu xơ đã và đang
được thực hiện ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái
Lan, ... bằng các biện pháp vật lý, hóa học, sinh học để nâng cao chất lượng
phụ phẩm bao gồm: xử lý xút NaOH theo phương pháp Beckman, phương pháp
nhúng, xử lý bằng khí NH3 hoặc dùng NH3 lỏng (Leng, 2003).
Theo Floulker và Preston, 1978 (Nguyen Thi Loc và Cs, 2000), đánh giá
ngọn lá sắn tươi là nguồn protein và xơ bổ sung vào một khẩu phần lỏng gồm
nước và rỉ mật để vỗ béo bò, sinh trưởng tuyệt đối đạt trên 800 g/ngày, ngọn lá
sắn là nguồn protein “thoát qua” tốt hơn dây lá khoai lang.
Phương pháp hóa học được sử dụng đầu tiên ở Phần Lan năm 1920 bởi
A.I. Virtanen (dẫn theo Raa J. and Gilderg, 1982), Ông đã sử lý thức ăn thô
xanh bằng hỗn hợp acid Sulfuric và acid Clohydric. Phương pháp này được
phát triển vào những 1930 để bảo quản cá ở trạng thái ướt.
Leng và Nolan (1984) đã sản xuất khối liếm urê - rỉ mật theo công thức
55% rỉ mật, 18% cám gạo, 15% urê khoáng, chất độn 12% sử dụng cho bò
Zersey cho thấy: mỗi ngày bò ăn được 530g khối liếm và lượng rơm ăn vào
nhiều hơn (6,8 kg chất khô/ngày so với đối chứng 6,4 kg chất khô/ngày) và tăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khối lượng gấp 3 lần (700 g/con/ngày so với 220 g/con/ngày).
20
Theo Preston và Leng (1987), rơm xử lý bằng cách ủ urê đã làm giảm
lượng thức ăn tiêu tốn và tăng tiêu thụ rơm ủ. Ở Sri Lanka, sử dụng rơm ủ urê
làm thức ăn nuôi bò cũng đã được áp dụng (Schiere và Ibrahim, 1989).
Frands Dolberg và Peter Finlayson, 1990 (Vũ Văn Nội, 1994) đã tiến
hành ủ rơm để nuôi bò thịt ở Trung Quốc, theo dự án FAO (1990-1992).Tác
giả cũng sử dụng protein thoát qua dạ cỏ để nâng cao khả năng hấp thu protein
(khô dầu bông) đã cho kết quả tăng trọng từ 608g ± 198 - 173g ± 90 so với
1027 con bò của 312 gia đình trong 12 làng tại 4 vùng Huaiyang, Shanshiu,
Beixiang, Ding Xing.
Preston (1995) đã nghiên cứu sử dụng sản phẩm phụ khác từ mía là:
ngọn, lá và rỉ mật làm thức ăn cho động vật nhai lại.
Các nghiên cứu của Preston (1995) về nuôi bò bằng các phụ phẩm nông
công nghiệp với nguồn thức ăn là rỉ mật, hạt bông đã cho rằng: có thể sử dụng
trên 70% rỉ mật (tính theo chất khô) trong khẩu phần vỗ béo bò thịt. Rất nhiều
nghiên cứu khác cũng cho thấy có thể sử dụng rỉ mật từ 30 - 50% hoặc cao hơn
trong khẩu phần, bò có thể cho tăng khối lượng 600 - 1000 g/con/ngày.
Các nghiên cứu của Chenost và Kayuli (1997), Leng (2003), Preston
(1995) đã nghiên cứu sản xuất khối liếm urê - rỉ mật, khoáng và chất độn nuôi
bò tăng khối lượng bình quân trong 100 ngày nuôi vỗ béo đạt 865,8 g/con/ngày
và 921,4 g/con/ngày lần lượt ở bò cái và bò đực, bò tiêu thụ 6 - 6,4 kg thức ăn
tinh cho 1kg tăng khối lượng.
Chenost và Kayuli (1997) cho rằng tác động chính của biện pháp dùng
urê phụ phẩm và thức ăn nhiều xơ sẽ gia tăng hệ số tiêu hóa 8 - 12 đơn vị, tăng
lượng thức ăn nitơ lên 2 lần, năng lượng thức ăn ăn được lên 25 - 50% và tăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
21
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Bò vàng Việt Nam tại địa phương.
- Vật liệu nghiên cứu:
+ Cỏ voi băm nhỏ.
+ Thân ngô: Thân ngô băm phơi nghiền nhỏ.
+ Cỏ yến mạch: Băm nhỏ
+ Cám gạo.
+ Chế phẩm sinh học: AIG.
- Tất cả các mẫu thức ăn được phân tích các chỉ tiêu: Vật chất khô (VCK),
protein thô, lipid, xơ thô, NDF, ADF, khoáng tổng số (KTS) và được phân tích tại
phòng Phân tích thức ăn và sản phẩm chăn nuôi - Viện Chăn nuôi.
Sấy khô, nghiền các nguyên liệu thức ăn khẩu phần và thức ăn bổ sung
được nghiền nhỏ đến kích thước ≤1mm.
Mẫu thức ăn (khẩu phần ăn cơ sở) được xây dựng theo dạng hỗn hợp
hoàn chỉnh, có mật độ dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu cho bò sinh trưởng theo
tiêu chuẩn NRC (1996) (10-11 MJ/kgVCK và 12-14% protein thô) phối trộn
tại Bộ môn Dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi, Viện Chăn nuôi. Nguyên liệu
dùng để xây dựng khẩu phần cơ sở là các nguồn thức ăn sẵn có (thân ngô, cỏ
voi, yến mạch, cám gạo) thường dùng trong các cơ sở chăn nuôi.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 2018 đến năm 2019.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1. Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hợp thân ngô, cỏ voi, cỏ yến mạch có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh học.
22
Nội dung 2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa invitro của hỗn hợp hoàn
chỉnh (TMR) cho bò thịt.
Nội dung 3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp toàn chỉnh (TMR) vỗ béo
bò thịt giai đoạn 12 – 15 tháng tuổi.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn hợp thân
ngô, cỏ yến mạch, cỏ voi có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh học
Xác định thành phần hóa học
Phân tích thành phần hoá học của các loại thức ăn bao gồm: Hàm
lượng chất khô (%VCK), protein thô, xơ thô, mỡ thô, dẫn xuất không đạm
và khoáng tổng số được phân tích tại Viện Khoa học sự sống – Đại học
Thái Nguyên.
- Các nguyên liệu cỏ voi, thân ngô, cỏ yến mạch được sử dụng sẵn có
của địa phương, cám gạo được thu mua từ các nhà máy và cơ sở xay xát gạo có
uy tín của tỉnh, chế phẩm sinh học AIG được mua.
- Các nguyên liệu được băm, nghiền nhỏ.
- Xác định các chỉ số dinh dưỡng của các nguyên liệu: tỷ lệ vật chất khô,
protein, NDF, ADF,…
- Xác định tỷ lệ trộn của các nguyên liệu, tạo khẩu phần.
- Bổ sung chế phẩm sinh học AIG để xây dựng khẩu phần ăn hoàn chỉnh
(Total Mix Ration – TMR).
2.3.2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa invitro của hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR)
cho bò thịt.
Sau khi xác định được vật chất khô của mẫu (khẩu phần cơ sở) và chế phẩm
sinh học AIG sẽ được bổ sung vào khẩu phần cơ sở với 3 tỷ lệ khác nhau. Mẫu
phối trộn này được gọi là khẩu phần. Như vậy sẽ có 4 khẩu phần (1 mẫu đối chứng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và 3 mẫu thí nghiệm).
23
Sau khi phối trộn, tất cả các mẫu này sẽ được chia làm hai phần, một phần
đem phân tích thành phần hóa học, phần còn lại đưa vào làm thí nghiệm in vitro
gas production.
Thiết kế thí nghiệm: Thí nghiệm được thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày ở bảng 2.1
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Nghiệm thức Kí hiệu Lặp lại
Đối chứng ĐC 3
Chế phẩm sinh học (1%) AIG 1% 3
Chế phẩm sinh học (2%) AIG 2% 3
Chế phẩm sinh học (3%) AIG 3% 3
Phương pháp phòng thí nghiệm:
- Sử dụng các phương pháp phòng thí nghiệm thu mẫu các nguyên liệu
để phân tích thành phần hóa học và xác định giá trị dinh dưỡng bằng phương
pháp thử mức tiêu hóa INVITRO trên thiết bị INCUBATOR và theo quy trình
công nghệ của Hãng ANKOM -Mỹ, các chỉ tiêu phân tích được xác định như sau:
+ Phân tích vật chất khô được xác định bằng phương pháp sấy tới khối
lượng không đổi trong tủ sấy Memmer của Đức theo tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN tương ứng.
+ Xác định protein thô bằng phương pháp phân tích Nitơ trên hệ thống
Kjeldahl tự động của Đức theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN tương ứng.
+ Xác định xơ thô và các xơ thành phần ADF, NDF bằng thiết bị phân
tích xơ Fiber system và thiết bị ANKOM 200/220 theo tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN tương ứng.
Nguyên lý của phương pháp như sau:
Phương pháp xác định tỷ lệ tiêu hóa thực invitro trên thiết bị lên men
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
yếm khí DAISYII incubator (Công nghệ ANKOM technology - 08 - 05). Đây
24
là thiết bị mô phỏng các điều kiện tương đồng như điều kiện dạ cỏ, nên là
phương pháp tốt nhất để xác định tỷ lệ tiêu hóa thực.
Xác định giá trị năng lượng trao đổi (ME)
Dựa vào lượng khí sinh ra tại thời điểm 24h sau khi ủ, kết hợp với thành
phần hóa học của từng mẫu thí nghiệm để ước tính giá trị năng lượng trao đổi
của chúng thông qua các phương trình của Vũ Chí Cương và cs (2008).
ME (kcal/kg VCK) = 1885 + (21*Gv24) + (2,49*DM) – (21,6*CP)
Trong đó: Gv24 (ml) là thể tích khí trong xylanh chứa mẫu tại thời điểm
24 giờ sau ủ, CP (%) là tỷ lệ protein thô, DM (%) là tỷ lệ vật chất khô.
Ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ
Dựa vào lượng khí sinh ra tại thời điểm 24h sau khi ủ, kết hợp với thành
phần hóa học của từng mẫu thí nghiệm để ước tính giá trị năng lượng trao đổi
của chúng thông qua các phương trình ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (OMD
%) của Menke và Steingass (1979).
OMD = 14,88 + 0,88*Gv24 + 0,45*CP + 0,651*X
Trong đó: Gv24: thể tích khí sinh ra ở thời điểm 24 giờ sau ủ (ml); CP
(%) là tỷ lệ protein thô, X (%) là khoáng tổng số (ash).
2.3.3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp hoàn chỉnh trên bò thịt giai đoạn 12
– 15 tháng tuổi
2.3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thiết kế theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh
với số bò, thời gian, yếu tố thí nghiệm và một số chỉ tiêu của gia súc được trình
bày ở bảng 2.2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sơ đồ bố trí thí nghiệm được thể hiện qua bảng 2.2
25
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Chỉ tiêu ĐVT NTĐC Lô TN
con Số gia súc 6 6
tháng Tuổi gia súc 12-15 12-15
Khối lượng bắt đầu thí nghiệm kg 116,17 117,15
ngày Thời gian nuôi thích nghi 7 7
ngày Thời gian thí nghiệm 90 90
TMR có bổ Thức ăn dùng trong thí nghiệm TMR sung AIG 1%
- Khẩu phần ăn và chế độ nuôi dưỡng:
+ NTĐC: Bò được nuôi bằng TMR
+ NTTN: Bò được nuôi bằng TMR có bổ sung AIG 1%
- Quản lý gia súc thí nghiệm:
Bò được tẩy giun sán bằng Levisol 7,5% liều lượng 1ml cho 10 kg khối
lượng cơ thể, được nuôi riêng mỗi con một ngăn chuồng để theo dõi cá thể.
+ Tất cả bò thí nghiệm và đối chứng được nuôi nhốt và cung cấp thức ăn
hàng ngày tại chuồng.
+ Thức ăn cung cấp và thức ăn thừa được cân hàng ngày để xác định
lượng thức ăn thu nhận.
+ Khối lượng cơ thể được cân đầu thí nghiệm, cuối tuần thứ 4, tuần thứ
8 và khi kết thúc thí nghiệm.
- Các chỉ tiêu theo dõi:
+ Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của từng loại thức ăn.
+ Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày (kg/con).
+ Khả năng tăng khối lượng.
+ Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng khối lượng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Tiêu tốn protein/1 kg tăng khối lượng.
26
- Phương pháp theo dõi:
+ Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn:
- Lượng thức ăn thu nhận: Thức ăn cung cấp và thức ăn thừa được cân
hàng ngày để xác định lượng thức ăn thu nhận.
Chất khô ăn vào =[Thức ăn cho ăn x % chất khô] – [Thức ăn còn thừa x
%chất khô ]
+ Khả năng tăng khối lượng của bò: tất cả bò được cân vào buổi sáng
liên tục trước khi cho bò ăn bằng cân điện tử Rudd weight - 1200. Tăng khối
lượng của bò được tính theo công thức sau:
P tăng khối lượng (g/con/ngày) = (P2 - P1)/T x 1000g
Trong đó:
P: Tăng khối lượng của bò ở giai đoạn thí nghiệm (g/con/ngày)
P1: Khối lượng bò lần cân trước (kg)
P2: Khối lượng bò lần cân sau (kg)
T: Thời gian theo dõi (ngày)
- Tiêu tốn vật chất khô cho 1 kg tăng khối lượng: Được xác định bằng
cách lấy tổng lượng vật chất khô thu nhận/tổng số kg tăng khối lượng của bò.
Công thức như sau:
T = A/ P
Trong đó:
T: Tiêu tốn vật chất khô cho 1 kg tăng khối lượng (kg)
A: Tổng khối lượng vật chất khô thu nhận cả giai đoạn (kg)
P: Khối lượng tăng cả giai đoạn (kg)
2.3.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập, số liệu được tính toán thô trên bảng Excel sau đó xử lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bằng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) trên phần mềm Minitab 14.
27
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn hợp thân
ngô, cỏ yến mạch, cỏ voi có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh học
3.1.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm
Để nghiên cứu mức độ ảnh hưởng khi bổ sung chế phẩm sinh học AIG
trong khẩu phần thì việc xác định thành phần vật chất khô và thành phần dinh
dưỡng các loại thức ăn bổ sung là điều cần thiết.
Trong thí nghiệm các mẫu thức ăn được đem đi phân tích thành phần hóa
học và đã thu được kết quả được trình bày ở bảng 3.1:
Bảng 3.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm
ME TPDD VCK CF NDF ADF Ash CP (kcal/ Nguyên liệu (%) (%) (%) (%) (%) (%) kg)
13,5 36,1 76,4 37,7 9,4 314 12,7 Cỏ voi
21,6 30,1 51,5 28,9 7,96 477 7,4 Thân ngô
Cỏ yến mạch 17,4 30,4 52,1 28,2 9,5 3899 18,2
83,9 12 40,2 19,9 9,9 2850 13,2 Cám gạo
100 0 0 0 100 0 0 Muối ăn
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tăng khối lượng, thu nhận thức ăn và sự
chuyển hóa thức ăn của bò. Một trong những nhân tố quan trọng là dinh dưỡng
của khẩu phần ăn. Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy hàm lượng protein thô cao nhất
là ở cỏ yến mạch(18,2%VCK), tiếp đến là cám gạo (13,2%VCK), cỏ voi
(12,7%VCK) trong khi thân ngô là thấp nhất (chỉ có 7,4%VCK). Xơ thô của cỏ
voi là cao nhất (36,1%VCK), cỏ yến mạch là (30,4%VCK), thân ngô là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
30,1%VCK, thấp nhất là của cám gạo (12%VCK). Khoáng tổng số ở cám gạo,
28
cỏ yến mạch và cỏ voi là gần như tương đương nhau lần lượt là 9,9; 9,5 và
9,4%VCK; thấp nhất là ở thân ngô (7,96%VCK). Giá trị NLTĐ của thức ăn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong số đó thành phần hóa học của thức ăn và tỷ
lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng có trong thức ăn đó. Các loại thức ăn sử dụng
ở thí nghiệm này có hàm lượng NLTĐ cao nhất là cỏ yến mạch (3899 kcal/kg
VCK), cám gạo (2850 kcal/kg VCK), thân ngô và cỏ voi tương đương nhau
(lần lượt là 477 và 314 kcal/kg VCK). Kết quả về thành phần hóa học và giá trị
năng lượng của các loại thức ăn thí nghiệm cũng tương tự với các kết quả
nghiên cứu trước đây ở Việt Nam.
Cỏ voi là thức ăn thô xanh, có hàm lượng vật chất khô thấp (13,5%).
Hàm lượng protein cao hơn thân ngô, hàm lượng xơ thô, NDF và ADF lần lượt
là: 36,1; 76,4; 37,7% cao hơn hàm lượng xơ thô, NDF và ADF của thân ngô và
cám gạo. Các thành phần hóa học của cỏ voi về vật chất khô, protein thô, xơ
thô, NDF, ADF, khoáng tổng số tương ứng lần lượt là: 13,5%; 12,7%; 36.1%;
76,4%; 37,7%; 9,4%. Kết quả này cao hơn kết quả của Đinh Văn Mười (2010)
đã công bố về xơ thô 34,04% nhưng lại thấp hơn về vật chất khô (13,5%),
protein thô (12,7%), NDF (76,4%), ADF (37,7%).
Các thành phần hóa học của thân cây ngô về VCK, protein thô, xơ thô,
NDF, ADF, khoáng tổng số tương ứng lần lượt là: 21,6%; 7,4%; 30,1%; 51,5%;
28,9%; 7,96%. Kết quả này thấp hơn so với kết quả của Đinh Văn Mười (2012)
đã công bố: vật chất khô, protein thô, xơ thô, NDF, ADF, khoáng tổng số. Có
sự khác nhau về kết quả này có thể là do nguồn gốc của các nguyên liệu thức
ăn khác nhau, điều kiện khí hậu, đất đai ở mỗi vùng khác nhau.
3.1.2. Công thức phối trộn các nguyên liệu thí nghiệm
Sau khi xác định được vật chất khô của mẫu (khẩu phần cơ sở), từ đó ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xác định được công thức phối trộn để tạo khẩu phần ăn.
29
Bảng 3.2. Công thức phối trộn các nguyên liệu
Nguyên liệu ĐVT KL
Kg 39 Cỏ voi
Kg 35 Thân ngô
Kg 20 Yến mạch
Kg 05 Cám gạo
Kg 01 Muối
Khi nuôi bò điều cốt yếu là làm sao cho ăn được càng nhiều thức ăn thô
càng tốt. Thức ăn thô xanh chất lượng càng cao, dinh dưỡng càng cân bằng so
với nhu cầu của VSV dạ cỏ thì tốc độ tiêu hoá càng nhanh và lượng ăn vào
được càng lớn. Ngược lại, nếu thức ăn thô có chất lượng thấp thì lượng thu
nhận tự do sẽ rất thấp do mất cân bằng dinh dưỡng (thường thiếu protein, gluxit
dễ tiêu, khoáng và vitamin) nên không tối ưu hoá được hoạt động của VSV dạ
cỏ. Do vậy, trong khẩu phần ngoài thức ăn thô thường cần phải bổ sung thêm
dinh dưỡng để tối ưu hoá hoạt động của VSV dạ cỏ và bổ sung cho nhu cầu sản
xuất. Lúc đó, lượng thu nhận thức ăn thô thực tế ngoài phụ thuộc vào tính chất
của nó còn chịu ảnh hưởng của thức ăn bổ sung.
Khẩu phần được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn của bò thịt giai đoạn sinh
trưởng, có mức năng lượng trao đổi (ME): 9,6 MJ/kgCK, protein thô:11,1%.
(Tiêu chuẩn của L.C Kearl – Đại học Utah, Hoa Kỳ, 2001). Khẩu phần ăn được
xây dựng theo tỷ lệ 39 kg cỏ voi trộn với 35 kg thân ngô, 20 kg yến mạch, 5 kg
cám gạo và 1 kg muối. Đây là nguồn thức ăn từ phụ phẩm nông nghiệp rất sẵn
có tại địa phương, người dân vùng cao có thể sử dụng để nuôi bò trong mùa mưa,
khi nguồn thức ăn tươi xanh và thức ăn tinh khan hiếm.
Có thể nói việc sử dụng khẩu phần ăn trong nuôi dưỡng có vai trò quan
trọng đến khả năng sản xuất thịt của bò vỗ béo. Trong thực tế với điều kiện ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Việt Nam, khi sử dụng các loại thức ăn có nguồn gốc từ các phụ phẩm nông
30
nghiệp như rơm lúa, lá sắn, sắn củ, cám gạo... nếu biết kết hợp với các loại thức
ăn cung cấp protein một cách hợp lý sẽ làm tăng năng suất, chất lượng thịt bò
trước khi đưa vào tiêu thụ.
3.1.3. Bổ sung chế phẩm sinh học AIG
Thành phần hóa học của thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh và thức ăn hỗn hợp
hoàn chỉnh đã được bổ sung men vi sinh vật AIG 1% được trình bày ở bảng
3.3.
Bảng 3.3. So sánh giá trị dinh dưỡng giữa TMR và TMR đã bổ sung
AIG1% (%)
TMR đã được bổ Chỉ tiêu so sánh TMR sung AIG
VCK (DM) 28,07a ± 0,35 27,83a ± 0,67
Protein thô (CP) 10,90a ± 0,36 10,85a ± 0,13
Xơ thô (CF) 28,20 ± 0,26 28,02 ± 0,28
Mỡ thô (EE) 2,33 ± 0,15 2,36 ± 0,10
Dẫn xuất không đạm 51,09 ± 0,44 52,13 ± 2,15
Khoáng tổng số 6,87 ± 0,25 7,03 ± 0,21
* Theo hàng ngang, dọc cùng chỉ tiêu các số có chữ cái khác nhau thì sự sai
khác giữa chúng là từ rõ rệt (P<0,05).
Số liệu bảng 3.3 cho thấy với mẫu thức ăn TMR và TMR đã được bổ
sung AIG 1% có hàm lượng vật chất khô (DM) tương đối cao, dao động từ
27,83-28,07%. Mẫu TMR có hàm lượng protein khô cao hơn so với TMR bổ
sung là không đáng kể (0,05%) (tính ở dạng VCK). Tương tự như vậy hàm
lượng mỡ thô của 2 mẫu ổn định ở mức 2,33-2,36%. Tuy nhiên kết quả phân
tích phương sai không thấy rõ sự sai khác giữa 2 mẫu thức ăn với nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(P>0,05).
31
3.2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa in vitro của hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR)
cho bò thịt
3.2.1. Tốc độ sinh khí in vitro của các loại thức ăn
Đối với mỗi loại thức ăn được tiến hành thí nghiệm với ba lần lặp lại (tức
là mỗi một mẫu thức ăn sẽ được thí nghiệm trên ba xylanh đặt ở các vị trí khác
nhau trong cùng một giá), kết quả sinh khí (khí sinh ra, tích luỹ) được tính trung
bình ở các thời điểm khác nhau. Từ các kết quả này có thể cho biết lượng khí
sinh ra của các khẩu phần có bổ sung thức ăn khác nhau.
Lượng khí sinh ra trong điều kiện in vitro của các nguồn thức ăn bổ sung
được trình bày trong bảng 3.4.
Bảng 3.4.Tốc độ sinh khí của các mẫu thức ăn (ml)
Thời gian ủ mẫu (giờ) Mẫu
TB 3 6 9 12 24 48 72 (n=3)
3,0a 6,5c 10,2b 14,0b 25,8b 34,8a 37,4a 18,8 ĐC
2,6b 5,8b 9,7b 13,2c 24,6b 33,1a 34,3b 17,6 AIG 1%
2,4b 5,5b 9,4b 12,9c 24,0b 32,8a 34,2b 17,3 AIG 2%
Ghi chú: a, b Các giá trị trung bình trong cùng một cột với các chữ cái khác nhau là
khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ).
19
18
17
Series 1
16
15
ĐC
AIG1% AIG2% AIG3%
2,2b 5,1b 9,2b 12,5c 23,0c 32,3b 33,6b 16,8 AIG 3%
Hình 3.1. Lượng khí tích lũy trung bình khi lên men in vitro gas production của các
khẩu phần
Kết quả bảng 3.4 cho thấy: Lượng khí sinh ra tại các mức giờ là khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhau và lượng khí sinh ra của mẫu thức ăn khác nhau cũng khác nhau. Lượng
32
khí sinh ra tăng mạnh tại thời điểm từ 3h - 48h, sau đó thời điểm 48h - 72h
lượng khí sinh ra giảm dần.
Qua bảng 3.4 nhận thấy rằng: Lượng khí tích lũy ở các khẩu phần đối
chứng và bổ sung AIG đều tăng dần theo thời gian. Trong khẩu phần đối chứng
lượng khí sinh ra trong thời gian ủ từ 3h- 48h tăng từ 3,0- 34,8; khẩu phần bổ
sung AIG 1% tăng từ 2,6–33,1; khẩu phần bổ sung AIG 2% tăng từ 2,4- 32,8;
khẩu phần bổ sung AIG 3% tăng từ 2,2 – 32,3. Tuy nhiên sau 48h lượng khí
sinh ra đều giảm cụ thể trong khẩu phần đối chứng trong khoảng thời gian từ
48- 72h lượng khí sinh ra chỉ tăng từ 34,8 – 37,4; khẩu phần bổ sung AIG1%
là từ 33,1 – 34,3; khẩu phần bổ sung AIG2% là từ 32,8- 34,2; khẩu phần bổ
sung AIG3% là từ 32,3 – 33,6.
Lượng khí sinh ra tích lũy trong các khẩu phần tại thời điểm 3h không
có sự khác nhau rõ rệt tại thời điểm ủ 3h lượng khí tích lũy trong khẩu phần
ĐC là 3,0; trong khẩu phần bổ sung AIG1% là 2,6; trong khẩu phần bổ sung
AIG2% là 2,4; trong khẩu phần bổ sung AIG3% là 2,2. Tuy nhiên đến thời
điểm sau 24 giờ ủ đã có sự khác nhau khá rõ rệt giữa các khẩu phần có bổ sung
AIG và khẩu phần đối chứng. Đạt lớn nhất là khẩu phần đối chứng là 25,8 ml,
tiếp đến là khẩu phần bổ sung AIG1% đạt 24,6 ml, đạt giá trị nhỏ nhất là khẩu
phần bổ sung AIG3% 23,0 ml.
Tại thời điểm 24h ủ mẫu, ở tất cả các mẫu bổ sung AIG lượng khí sinh
ra đều thấp hơn so với mẫu đối chứng. Do đó khi bổ sung AIG không làm thay
đổi các thành phần hóa học khác và giá trị dưỡng của mẫu thức ăn nhiều. Khi
bổ sung AIG với các tỷ lệ khác nhau 1%, 2%, 3% vào khẩu phần thì các thành
phần khác của mẫu thức ăn như protein thô, ME, NDF…cũng có sự thay đổi
nên tổng lượng khí sinh ra tại thời điểm 24 giờ sau khi ủ không giảm thậm chí
còn tăng lên.
Tại thời điểm 48 giờ ủ, có sự khác biệt giữa mẫu đối chứng và mẫu thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ăn bổ sung (P<0,05). Lượng khí sinh ra lớn nhất tại khẩu phần đối
33
chứng(34,8ml). Lượng khí sinh ra ở các khẩu phần bổ sung AIG1%, 2%, 3%
tương ứng là (33,1ml, 32,8ml, 32,3ml) và không có sự khác biệt giữa ba mẫu
3h
24h
25.8
24.6
24
23
3
2.6
2.4
2.2
ĐC
AIG1%
AIG2%
AIG3%
bổ sung này về lượng khí sinh ra trong điều kiện in vitro.
Hình 3.2. Lượng khí sinh ra tích lũy tại thời điểm 3h và 24h của các khẩu phần
Kết quả bảng 3.5 cho thấy: Thành phần của các loại thức ăn có ảnh hưởng
rõ rệt đến tốc độ sinh khí của chúng. Theo Prasad và cs. (1994) lượng khí sinh
ra khi lên men in vitro cũng có mối tương quan chặt chẽ với hàm lượng vật chất
khô (r=0,95) trong thức ăn. Tổng lượng khí sinh ra khi lên men là các kết quả
thu được khi lên men các cơ chất khác nhau của thức ăn trong cùng một thời
điểm, nhưng lại có tốc độ lên men khác nhau, điều này dẫn đến có nhiều vấn
đề phức tạp trong việc phân chia ảnh hưởng do yếu tố cụ thể nào. Và cho rằng
điều cốt lõi của tốc độ sinh khí khi lên men in vitro là thời gian ủ được tính toán
trên cơ sở lấy giá trị lượng khí sinh ra trừ đi lượng khí sinh ra ở thời điểm trước
đó và giá trị này có thể cho ta những gợi ý sơ bộ về tỷ lệ tiêu hóa khác nhau
của thức ăn.
Sau đây là đồ thị 3.3 biểu diễn lượng khí sinh ra của các khẩu phần ở các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thời điểm ủ mẫu khác nhau:
34
40
35
30
25
ĐC
AIG1%
20
AIG2%
15
AIG3%
10
5
0
3h
6h
9h
12h
24h
48h
72h
Hình 3.3. Lượng khí tích lũy khi lên men in vitro gas production tại các
thời điểm khác nhau (ml)
3.2.2. Động thái sinh khí in vitro của các loại thức ăn
Động thái sinh khí in vitro phản ánh tiềm năng phân giải của mẫu thức
ăn trong môi trường dạ cỏ. Động thái sinh khí của mẫu thức ăn trong điều kiện
in vitro được mô tả bởi thể tích khí tích luỹ ở các thời điểm khác nhau, tốc độ
và tiềm năng sinh khí của chúng.
Giá trị (A) âm, số liệu này nói lên đây là thời kỳ mà vi khuẩn không có sự
hoạt động trong mẫu thức ăn. Một số tác giả cũng công bố rằng giá trị âm của (A)
với các loại mẫu thức ăn khác nhau khi sử dụng mô hình toán học để đánh giá động
lực sinh khí (Blummel và cs, 1999) và nó đã phản ánh sự lên men của thức ăn. Các
chất dễ hòa tan (A) dao động trong khoảng từ-2,26 đến - 4,45ml. Bổ sung mức AIG
2% đạt giá trị cao nhất trong khi đó bổ sung ở mức AIG 3% đạt giá trị thấp nhất.
Lượng khí sinh ra từ các chất hữu cơ khó hoà tan (B) trong suốt quá trình ủ (ml) bị
ảnh hưởng bởi các mức bổ sung của thức ăn.
Để đánh giá tiềm năng sinh khí qua đó dự đoán khả năng lên men phân
giải trong dạ cỏ của các loại thức ăn thí nghiệm McDonald (1976) đã đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thông số │A│+ B (ml). Theo đó, các loại thức ăn có tiềm năng sinh khí cao
35
trong thí nghiệm sinh khí in vitro có thể sẽ có khả năng lên men, phân giải tốt
ở điều kiện in vivo trong môi trường dạ cỏ.
Động thái sinh khí của mẫu thức ăn trong điều kiện in vitro được trình
bày trong bảng 3.5.
Bảng 3.5. Động thái sinh khí của mẫu thức ăn
Các tham số ước tính Mẫu (n=3) A B │A│+B C L
ĐC -2,16 b 39,8a 42,8 a 0,043a 3,1b
AIG 1% -3,25a 34,8 b 37,4b 0,041a 2,8c
AIG 2% -3,1 a 34,5b 36,9 b 0,037a 3,0b
AIG 3% -3,34a 34,2b 36,2b 0,030b 3,6a
Ghi chú: a, b, c, d, e,…Các giá trị trung bình trong cùng một cột với các chữ
cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ).
Trong đó: A: là lượng khí sinh ra từ các chất dễ hoà tan thường ở ngay
tại thời điểm ban đầu khi ủ mẫu (ml).
B: là lượng khí sinh ra từ các chất hữu cơ khó hoà tan trong
suốt quá trình ủ (ml).
A+B: là tổng lượng khí sinh ra của mẫu thức ăn đem ủ hay
tiềm năng sinh khí của thức ăn đó (ml).
C: là tốc tộ sinh khí (%/giờ).
L: thời gian từ lúc ủ đến lúc bắt đầu sản sinh khí (ml).
Qua bảng 3.5 cho thấy tiềm năng sinh khí đạt cao nhất ở mẫu AIG 1%
(37,4ml/200gVCK) và thấp nhất ở mức bổ sung AIG 3% (36,2 ml/200gVCK).
Hệ số C (%/giờ) biểu hiện tốc độ lên men sinh khí của các mẫu thức ăn
trong thí nghiệm sinh khí in vitro. Việc bổ sung men vi sinh AIG đã làm giảm
tốc độ sinh khí (C). Khi bổ sung AIG vào khẩu phần ăn ở các mức khác nhau
từ 1%, 2% và 3% thì tốc độ sinh khí (C) đã giảm với (P<0,05): Ở các mức giảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giá trị từ: 0,041 đến 0,030 thấp hơn so với mẫu đối chứng (0,043).
36
Khoảng thời gian (L) là tham số rất quan trọng trong động thái sinh khí
in vitro. Để biết được thời gian vi sinh vật bắt đầu hoạt động lên men sinh khí
từ mẫu ủ thí nghiệm (hay còn gọi là pha dừng) McDonald (1976). Bảng 3.5 cho
ta thấy thời gian chờ ngắn nhất là ở mẫu AIG1% (2,8h). Thời gian chờ dài nhất
là ở mẫu bổ sung AIG3% (3,6h) có thể là do vi sinh vật mất nhiều thời gian ban
đầu để tấn công phá vỡ thức ăn khi ủ thí nghiệm. Khả năng sử dụng thức ăn thô
phụ thuộc chủ yếu vào khả năng phân giải của vi khuẩn trong dạ cỏ, việc mô tả
thức ăn thô dưới dạng các động thái sinh khí của chúng sẽ có thể cung cấp một
50
40
30
ĐC
AIG1%
20
AIG2%
AIG3%
10
0
A
B
A + B
C
-10
nền tảng hữu ích cho việc đánh giá chất lượng thức ăn.
Hình 3.4. Đặc điểm sinh khí khi lên men in vitro gas production của các
khẩu phần
Qua hình trên ta thấy tiềm năng sinh khí trong 3 khẩu phần có bổ sung
AIG không có sự khác biệt do trong khẩu phần có chứa hàm lượng AIG. Khẩu
phần đối chứng tiềm năng sinh khí đạt 42,8ml do trong khẩu phần không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chứa men AIG.
37
3.2.3. Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ và năng lượng trao đổi
Hầu hết các tài liệu tham khảo đều cho thấy rằng để ước tính OMD và
ME của thức ăn từ lượng khí sinh ra sau 24h ủ thức ăn invitro một cách chính
xác nhất cần đưa thêm thành phần hoá học của thức ăn như là các biến trợ giúp
quan trọng. Đặc điểm sinh khí (a, b, c) không phải là các biến cho độ chính xác
cao trong phương trình hồi qui ước tính OMD và ME. Aregheore và Ikhatua
(1999) đưa ra công thức để tính tỷ lệ tiêu hoá chất hữu cơ của thức ăn như sau:
OMD = 14,88 + 0,889 * lượng khí 24h + 0,45 *CP . Vũ Chí cương và cs đưa
ra phương trình tính năng lượng trao đổi ME = 1885 + 21* lượng khí 24h +
2,49 * DM – 21,6*CP. Chenost và cộng sự, (2001) cũng cho thấy đưa thêm
thành phần hoá học vào phương trình chẩn đoán dùng lượng khí tạo ra sau 24h
đã làm tăng độ chính xác của phương trình ước tính OMD và ME. Nhiều tác
giả khác cũng thấy kết quả tương tự: Menke và Steingass (1988). Khazaal và
cộng sự., (1993); Iantcheva và cộng sự., (1999). Theo Chenost và cộng sự.,
(2001) khi đưa thêm thành phần hoá học đặc biệt là đưa protein vào độ chính
xác của phương trình ước tính tăng lên rất rõ rệt. Sở dĩ như vậy vì protein hoạt
động như một yếu tố hiệu chỉnh tổng lượng khí sinh ra do lên men protein tạo
ra ít khí hơn các chất hữu cơ khác và NH4 CO3 được tạo ra từ NH3 do phân
giải protein và CO2 đã làm giảm đóng góp của CO2 trong tổng lượng khí được
tạo ra, hơn nữa lên men protein sản xuất ít CO2 hơn so với lên men
cabonhydrate (Chenost và cộng sự., 2001). Tuy nhiên, theo Mauricio và cộng
sự., (2005) thì tổng lượng khí sinh ra sau 24h là biến tốt nhất để ước tính tỷ lệ
tiêu hoá chất hữu cơ của thức ăn. Theo các tác giả trên OMD của thức ăn = -
0,007 × (tổng khí sinh ra sau 24h)2 + 4,92 × tổng khí sinh ra sau 24h + 82,49.
Ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ dựa vào lượng khí sinh ra tại thời
điểm 24h sau khi ủ, kết hợp với thành phần hóa học của từng mẫu thí nghiệm
để ước tính tỷ lệ tiêu hóa của chúng thông qua các phương trình ước tính tỷ lệ
tiêu hóa chất hữu cơ (OMD %) của Menke và Steingass.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
OMD = 14,88 + 0,88*Gv24 + 0,45*CP + 0,651*X
38
Trong đó: Gv24: thể tích khí sinh ra ở thời điểm 24 giờ sau ủ (ml/200
mg DM); CP (%) là tỷ lệ protein thô, X (%) là khoáng tổng số (ash).
Xác định giá trị năng lượng trao đổi (ME) dựa vào lượng khí sinh ra tại
thời điểm 24h sau khi ủ, kết hợp với thành phần hóa học của từng mẫu thí
nghiệm để ước tính giá trị năng lượng trao đổi của chúng thông qua phương
trình của Vũ Chí Cương và cộng sự (2008).
ME (kcal/kg VCK) = 1885 + 21*Gv24 + 2,49*DM – 21,6*CP
Trong đó: Gv24 (ml) là thể tích khí trong xylanh chứa mẫu tại thời điểm
24 giờ sau ủ, DM (%) là tỷ lệ vật chất khô, CP (%) là tỷ lệ protein thô.
Theo Romney và cs (1997) có sự tương quan giữa khí sinh ra và tỷ lệ tiêu
hóa. Kể cả tỷ lệ protein trong khẩu phần và sự tăng lên của khí sinh ra cũng có thể
sử dụng để dự đoán tỷ lệ tiêu hóa in vitro chất hữu cơ. Hơn nữa, Sommart và cs
(2000) cũng cho thấy lượng khí sinh ra là thông số hữu hiệu để đánh giá tỷ lệ tiêu
hóa in vitro, các sản phẩm của quá trình lên men. Bên cạnh đó tỷ lệ tiêu hóa vật
chất khô và chất hữu cơ cũng thể hiện mối liên hệ cao với lượng khí sinh ra (Nitipot
và Sommart, 2003; Sommart và cs, 2000) hoặc mối tương quan giữa lượng khí
sinh ra và tỷ lệ tiêu hóa in vitro (Romney và cs, 1997).
Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy: Khi bổ sung men vi sinh AIG 1% thì tỷ lệ
tiêu hóa chất hữu cơ đều giảm so với mẫu đối chứng.
Bảng 3.6. %OMD và năng lượng trao đổi ước tính tại thời điểm 24h
TMR đã được bổ sung Mẫu TMR P AIG
0,0025 OMD (%) 46,96a 45,99b
0,0017 ME (MJ/kgDM) 9,47a 9,36b
Các số trung bình có chữ cái bên trái khác nhau, theo cột dọc khác nhau có ý
nghĩa (P<0,05)
Theo dõi tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ ta thấy, mẫu thức ăn TMR có tỷ lệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiêu hóa chất hữu cơ cao hơn mẫu TMR bổ sung AIG 1% (P<0,05). Điều này
39
cho thấy mẫu khẩu phần thức ăn TMR cho tiềm năng sinh khí cao hơn dẫn đến
tỷ lệ tiêu hóa các chất hữu cơ cũng cao hơn. Kết quả của chúng tôi cao hơn kết
quả của Akinfemi và cs. (2010).
Tính toán năng lượng trao đổi mẫu TMR cho năng lượng trao đổi cao
hơn mẫu TRM bổ sung AIG 1%, lần lượt là 9,47 và 9,36 MJ/kgDM (P<0,05).
So với công bố của Akinfemi và cs. (2010), có ME là 5,97 MJ/kgDM, kết quả
của chúng tôi cao hơn. Kết quả bảng 3.6 cho thấy ME của mẫu TMR bổ sung
AIG khác so với mẫu TMR với (P<0,05), lần lượt là 9,47 MJ/kgVCK và 9,36
MJ/kg VCK. Bởi vì lượng khí sinh ra tại thời điểm 24h của mẫu TRM cao hơn
so với mẫu bổ sung.
Kết quả về hàm lượng NLTĐ/kg VCK của khẩu phần TMR và TMR bổ
sung AIG 1% trong thí nghiệm này cũng không sai khác nhiều với kết quả
nghiên cứu về hai loại thức ăn tương tự trước đây ở Việt Nam. Theo Đinh Văn
Mười (2012) rơm ủ urê 2% và thức ăn hỗn hợp có giá trị NLTĐ tương ứng là:
6,31 và 9,83 MJ NLTĐ/kg VCK. Giá trị NLTĐ của thức ăn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong số đó thành phần hóa học của thức ăn và tỷ lệ tiêu hóa các
chất dinh dưỡng có trong thức ăn đó.
3.3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp hoàn chỉnh trên bò thịt giai đoạn 12
– 15 tháng tuổi
3.3.1. Tăng khối lượng của bò thịt khi sử dụng TMR
Khảo sát, đánh giá chất lượng đàn bò địa phương trước thí nghiệm cho
thấy nhìn chung đàn bò địa phương có tầm vóc bé, khối lượng thấp. Đàn bò có
khối lượng thấp là do bản chất của giống bò Vàng Việt Nam, đồng thời trong
nhiều năm qua công tác chọn lọc, cải tạo giống chưa được chú ý, bò cái không
được chọn lọc, bò đực giữ lại từ trong đàn vừa có tầm vóc bé vừa không có sự
hoán đổi nên xảy ra hiện tượng đồng huyết trong đàn.
Thay đổi khối lượng (KL) và tăng khối lượng (TKL) của bò được trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bày ở bảng 3.7:
40
Bảng 3.7. Tăng khối lượng của bò thí nghiệm
Hạng mục ĐVT Lô ĐC Lô TN P
KL bò đầu TN Kg/con 116,17a 117,15a 0,0813
KL 30 ngày Kg/con 129,55a 126,4a 0,1105
KL 60 ngày Kg/con 136,97b 142,07a 0,0219
KL 90 ngày Kg/con 147,45b 154,72a 0,0049
347,60b 417,41a 0,000 Tăng khối lượng g/con/ngày
Ghi chú: a, b Các giá trị trung bình trong cùng một cột với các chữ cái
khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ).
Số liệu ở bảng 3.6 cho thấy, khối lượng của bò ở các lô lúc bắt đầu thí
nghiệm là tương đương nhau. Sau thời gian 90 ngày thí nghiệm, khối lượng của
bò ở các lô có khác nhau. Cụ thể, tăng trọng hàng ngày của bò ở lô TN đạt
417,41 g/con/ngày, trong khi chỉ tiêu này ở lô đối chứng thấp hơn, chỉ đạt
347,60 g/con/ngày.
Sau 30 ngày thí nghiệm, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
khối lượng bò thịt (P>0,05). Sau 60 ngày thí nghiệm, bò được cho ăn khẩu
phần thí nghiệm có khối lượng lớn hơn so với bò ăn khẩu phần ăn đối chứng.
Sau 90 ngày thí nghiệm, khối lượng cơ thể bò ăn khẩu phần TMR có bổ
sung AIG 1% lớn hơn so với bò ăn khẩu phần TMR không bổ sung AIG.
Có thể thấy rằng, khi sử dụng khẩu phần ăn hỗn hợp hoàn chỉnh mang lại
khả năng sinh trưởng cao cho bò thí nghiệm.
Trong thời gian nuôi, bò không có các biểu hiện bất thường về sức khỏe.
Như vậy, thức ăn ủ có chất lượng tốt đã làm cho quá trình tiêu hoá và hấp thu
của bò tốt hơn dẫn đến bò tăng trọng cao hơn. Kết quả tăng trọng của bò ở thí
nghiệm tôi thấp hơn thí nghiệm tại Đức Trọng (Lâm Đồng), bò tăng trọng 594
g/con/ngày (Trương La và cs, 2010) và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Vũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chí Cương và cs (2007), bò vỗ béo cho tăng khối lượng 839 g/con/ngày. Sở dĩ
41
như vậy là do hàm lượng protein của các khẩu phần trong thí nghiệm tôi thấp
hơn.
Ở giai đoạn 12 tháng tuổi, Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995) cho biết:
F1 Charolais lúc 12 tháng tuổi nuôi chăn thả là 121 kg, nuôi có bổ sung thức
ăn tinh đạt 173 kg, tương ứng bê F1 Hereford đạt 126,9; 145,8 kg; bê F1
Simmental 130 và 168 kg. Đinh Văn Cải và cs. (2001) thấy rằng bê F1
Charolais lúc 12 tháng đạt khối lượng 164,6 kg, bê lai Sind 126,5 kg. Phạm
Văn Quyến (2001) cho biết F1 Charolais đạt 150,75 kg; F1 Hereford 142,63
kg; F1 Simmental 138,86 kg và lai Sind 114,75 kg.
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác về tăng khối lượng của bò
Vàng Việt Nam cho thấy khối lượng bò qua các mốc tuổi là tương tự hoặc nhỏ
hơn với NTĐC của nghiên cứu này. Lê Quang Nghiệp (1984) cho tăng khối
lượng từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là đực 268 g/ngày, cái là 255 g/ngày; từ 7 đến
12 tháng tuổi đực là 202 g/ngày, cái là 205 g/ngày; từ 13 - 24 tháng tuổi đực là
227 g/ngày, cái là 82 194 g/ngày. Đinh Văn Cải (2007) thì cho rằng tăng khối
lượng từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là đực 311 g/ngày, cái là 289 g/ngày; từ 7 đến
12 tháng tuổi đực là 128 g/ngày, cái là 122 g/ngày; từ 13 - 24 tháng tuổi đực là
164 g/ngày, cái là 151 g/ngày. Nguyễn Đàm Thuyên (2012) cho biết bò đực
H’Mông từ 18 tháng đến 24 tháng tăng bình quân là 50,3 kg; từ 24 đến 36 tháng
tuổi tăng bình quân 50,2 kg.
Đối với bò Vàng thì nghiên cứu vỗ béo còn hạn chế nhưng nhiều tác giả
đã nghiên cứu vỗ béo bò lai hướng thịt bằng các phụ phẩm nông nghiệp. Lê
Viết Ly (1995) khi nghiên cứu vỗ béo bò lai F1 hướng thịt bằng phụ phẩm có
hàm lượng rỉ mật cao (45%), bò tăng trọng từ 0,6 - 0,7 kg/con/ngày. Nguyễn
Trọng Tiến (1991) nuôi bò bằng cây ngô vụ đông và cây ngô già ủ với 2,5%
urê, bò cho tăng trọng 0,5 kg/con/ngày. Vũ Văn Nội và cs. (1999) nuôi bò bằng
nguồn phụ phẩm nông nghiệp cho tăng trọng 0,53 - 0,7 kg/con/ngày. Kết quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghiên cứu của Preston (2001) sử dụng thân, lá sắn bổ sung rỉ mật và urê để vỗ
42
béo bò thịt đạt tăng trọng 800 g/ngày. Cao nhất là kết quả nghiên cứu của Vũ
Chí Cương và cs. (2007) thì bò được vỗ béo bằng rơm, lõi ngô cho tăng trọng
0,839 kg/con/ngày. Nguyễn Quốc Đạt và cs. (2008) vỗ béo bò lai Sind,
Brahman và Drought Master cho tăng trọng 952 - 1.552 g/con/ngày. Đỗ Thị
Thanh Vân và cs. (2009) sử dụng thân lá lạc ủ chua nuôi vỗ béo bò lai Sind cho
kết quả tăng khối lượng 0,49 - 0,58 kg/con/ngày. Trương La và cs. (2011) đã
tiến hành vỗ béo bò lai Sind bằng phụ phẩm nông nghiệp cho kết quả tăng trọng
553 g/con/ngày.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Phạm Thế Huệ và Phạm Mạnh Hùng.
2007. Ảnh hưởng của các nguồn xơ khác nhau trong khẩu phần vỗ béo đến tăng
trọng, hiệu quả sử dụng thức ăn của bò lai Sind tại Đắk Lắk. Viện Chăn nuôi.
Tạp chí Khoa học Công nghệ chăn nuôi. Số 4-2007.
Đỗ Thị Thanh Vân, Nguyễn Thành Trung, Vũ Chí Cương, Lê Văn Hùng
và Phạm Bảo Duy. 2009. Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua trong
khẩu phần nuôi vỗ béo bò thịt tại Quảng Trị. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn
nuôi. Số 18. Tr. 1-6.
Nguyễn Văn Thưởng và cs. (1995) nghiên cứu bổ sung chế độ vỗ béo
thu được kết quả của các cặp lai giữa bò lai Sind với F1 Zebu, F1 Brown Swiss,
F1 Santa Gertrudis đạt tăng khối lượng 400 - 622 g/con/ngày, trong đó bò lai
F1 Charolais đạt tăng khối lượng khá cao 544 - 630 g/con/ngày. Nghiên cứu
của Vũ Văn Nội và cs., (1995) về nuôi dưỡng một số bê lai F1 bằng cỏ cắt và
bánh dinh dưỡng (MUB) cho tăng khối lượng đối với F1 Charolais 556 g/ngày,
F1 Simmental 520 g/ngày và F1 Red Sindhi 368 g/ngày. Vũ Chí Cương và cs.
(2001) vỗ béo bò lai Sind bằng khẩu phần rỉ mật cao 45% chất khô của khẩu
phần với rơm khô, không cần cỏ xanh cho tăng khối lượng 650 - 700
g/con/ngày, trong khi nuôi đại trà chỉ đạt tăng khối lượng 300 - 400 g/con/ngày.
Nguyễn Văn Hòa và cs. (2005) nghiên cứu vỗ béo bò lai Sind bằng phụ phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nông nghiệp cho tăng khối lượng 600 - 760 g/con/ngày. Các nghiên cứu về bò
43
lai cho tăng khối lượng cao hơn bò trong nghiên cứu này là bình thường vì bò
trong nghiên cứu này là bò Vàng địa phương còn con lai có ưu thế lai.
Đinh Văn Cải và ctv (2006), khi vỗ béo bò đực Brahman thuần đã sử dụng
khẩu phần với CP=13,02% và ME= 2.443 kcal/kg, tăng khối lượng đạt 955
g/ngày. Đoàn Đức Vũ và ctv (2008) khi vỗ béo với khẩu phần dựa trên nguồn
phụ phẩm công nông nghiệp ở TPHCM có tỷ lệ thức ăn tinh cao (70%) thì bò
lai F1 Charolais đưa vào vỗ béo lúc 16 tháng tuổi với thời gian vỗ béo 3 tháng
đạt tăng khối lượng 922 g/con/ngày. Theo Phạm Văn Quyến (2009), tăng khối
lượng bình quân trong giai đoạn vỗ béo 3 tháng đối với các nhóm bò là Lai
Sind, F1Droughtmaster, Droughtmaster thuần, F1Brahman và F1Charolais đạt
180
160
140
120
100
ĐC
80
TN
60
40
20
0
KL BĐ TN
KL 30 ngày
KL 60 ngày
KL 90 ngày
833, 911, 1.037, 1.104 và 1.148 g/con/ngày tương ứng.
Hình 3.5. Khối lượng bò của 2 khẩu phần qua các giai đoạn
Với nền thức ăn thô là cỏ voi, thân ngô một phế phụ phẩm rất dồi dào ở
những vùng núi Tây Bắc, TMR bổ sung AIG 1% đã cho tăng khối lượng của
bò tương đương với khẩu phần TMR không bổ sung. Điều này mở ra một tiềm
năng rất lớn trong việc sử dụng nguồn phụ phế phẩm cây trồng để phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chăn nuôi bò thịt thông qua kỹ thuật TMR.
44
Qua quan sát cho thấy, khẩu phần thí nghiệm có mùi chua dễ chịu, bò rất
thích ăn. Khẩu phần được phối hợp ở lô thí nghiệm đã không có ảnh hưởng xấu
đến khối lượng của bò trong quá trình thí nghiệm.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn một số nghiên cứu trước đây.
Vũ Chí Cương và cs (2001) khi vỗ béo bò bằng nguồn phụ phẩm nông nghiệp
với rỉ mật cho tăng trọng 650 -700g/con/ngày; kết quả của Vũ Văn Nội và cs,
(1999) khi vỗ béo bò bằng nguồn phụ phẩm là rơm, cỏ khô, rỉ mật đường,
hạt bông... cho thấy bò có khả năng tăng trọng 610 -700g/con/ngày và cao
hơn của Vũ Chí Cương và cs, (2007) khi vỗ béo bò tại Đắk Lắk bằng nguồn xơ
là thân cây ngô với tỉ lệ trong khẩu phần là 27%, bò cho tăng trọng
625g/con/ngày. Nguyễn Tuấn Hùng và Đặng Vũ Bình, (2004) khi sử dụng rơm
lúa và thân áo ngô ủ 4% urê, tăng trọng của bò đạt 758 - 784g/con/ngày. Các
nghiên cứu về bò lai cho tăng khối lượng cao hơn bò trong nghiên cứu này là
bình thường vì bò trong nghiên cứu này là bò Vàng địa phương.
Hàm lượng dinh dưỡng và thành phần các loại thức ăn trong khẩu phần có
ảnh hưởng lớn đến tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn của bò vỗ béo.
Một số nghiên cứu trước đây cho thấy, khi tỷ lệ thức ăn tinh bổ sung trong khẩu
phần tăng thì khối lượng của bò vỗ béo cũng tăng lên (Nguyễn Tuấn Hùng và
Đặng Vũ Bình, 2003; Ba et al., 2008a; Ba et al., 2008b; Nguyễn Xuân Bả và
cs., 2010).
Phương thức cho ăn và nguồn thức ăn tinh khác nhau cũng ảnh hưởng đến
tăng khối lượng của bò vỗ béo. Vũ Chí Cương và cs. (1999) khi vỗ béo bò lai
Sind 18 tháng tuổi cho thấy bò được cho ăn khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh có
hàm lượng rỉ mật cao (>45% chất khô khẩu phần) cho tăng khối lượng cao hơn
bò ăn khẩu phần gồm thức ăn tinh hỗn hợp, cỏ tươi và rơm khô nhưng cho ăn
riêng rẽ. Nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Hùng và Đặng Vũ Bình (2003) cho biết
bò lai Sind 18 tháng tuổi được vỗ béo bằng khẩu phần có bổ sung thức ăn tinh
ở mức 1,8 kg/con/ngày cho tăng khối lượng (784,2 g/ngày) cao hơn đáng kể so
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
với nhóm chỉ được bổ sung 0,9 kg/ngày (561,3 g/ngày) mặc dù khẩu phần của
45
nhóm sau có hàm lượng protein cao hơn do được cho ăn tự do bẹ ngô ủ urê 4%.
Vũ Chí Cương và cs. (2007) nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn và hàm lượng
xơ khác nhau trong khẩu phần đến khả năng sản xuất của bò lai Sind vỗ béo
cho thấy các nguồn xơ và tỷ lệ xơ khác nhau không ảnh hưởng đến tăng khối
lượng (trung bình đạt 800 g/ngày) và hệ số chuyển hóa thức ăn (8 - 9 kg chất
khô/kg tăng khối lượng) của bò vỗ béo. Ba et al. (2008b); Nguyễn Xuân Bả và
cs. (2010) cho thấy, lượng thức ăn tinh bổ sung trong khẩu phần vỗ béo bò
Vàng có tương quan tuyến tính với tăng khối lượng của bò; tăng lượng thức ăn
tinh bổ sung trong khẩu phần vỗ béo bò Vàng cũng làm giảm đáng kể chí phí
thức ăn cho tăng khối lượng, đồng thời làm tăng đáng kể diện tích cơ thăn. Vỗ
béo bò lai Sind thì tác giả trên cho thấy việc bổ sung tăng dần mức bột sắn (0,3
đến 2,0% so với khối lượng cơ thể) trong khẩu phần gồm rơm và cỏ tự nhiên
có ảnh hưởng phi tuyến tính đến lượng thức ăn ăn vào và tăng khối lượng của
bò với mức bổ sung 0,7 - 1,0%, bò cho tăng khối lượng cao nhất. Đinh Văn
Dũng và cs. (2009) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng protein trong
khẩu phần đến năng suất của bò Vàng địa phương vỗ béo, cho thấy bò ăn khẩu
phần có bổ sung thức ăn tinh 19% protein cho tăng khối lượng cao nhất (815
g/con/ngày) và hệ số chuyển hóa thức ăn thấp nhất, trong khi bò ăn khẩu phần
được bổ sung thức ăn tinh 10% protein cho tăng khối lượng thấp nhất (583
g/ngày) và hệ số chuyển hóa thức ăn cao nhất.
Trong các năm 1998 - 2000, tiểu phần "Nghiên cứu sử dụng các phụ phế
phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi bò thịt” của Dự án: "Chăn nuôi bò thịt có
lãi ở Việt Nam” (Dự án ACIAR mã số AS2/1997/18) đã cho thấy với khẩu phần
vỗ béo bò bằng rỉ mật đường (45% chất khô của khẩu phần) kết hợp với hạt
bông và rơm khô không cần cỏ xanh, bò Laisind có thể tăng khối lượng trong
giai đoạn vỗ béo từ 650 - 700 g/con/ngày, trong khi đó nuôi đại trà bò chỉ tăng
300 - 400 g/con/ngày (Vũ Chí Cương và cs, 2001).
Dự án hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Na Uy: “Sử dụng phụ phẩm là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thức ăn gia súc ở Việt Nam” triển khai trên 18 nhóm thí nghiệm trên các loại
46
phụ phẩm nông nghiệp như mía, ngô, rơm lúa... với nhiều kỹ thuật xử lý khác
nhau cho kết quả tốt (Le Viet Ly, 2001). Khi nuôi vỗ béo bằng cách bổ sung
thức ăn là phụ phẩm nông công nghiệp gồm rơm, hạt bông, rỉ mật bò cho tăng
khối lượng 556 - 700 g/con/ngày. Việc sử dụng năng lượng và nguồn protein
rẻ tiền từ phụ phẩm nông công nghiệp sẵn có dùng vỗ béo bò trên qui mô lớn
sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Sự khác biệt về tăng trọng của bò trong thí nghiệm này so với các kết
quả của các tác giả khác có thể do nhiều nguyên nhân. Trước hết là sự khác biệt
về giá trị dinh dưỡng của khẩu phần, tỷ lệ tinh thô.
Cùng một giống nhưng bò được cho ăn các khẩu phần có giá trị dinh
dưỡng khác nhau thì kết quả tăng trọng cũng khác nhau. Jokhank (2013) khi
nuôi bò giống Fulani trắng với 5 khẩu phần là các phế phụ phẩm chế biến ngũ
cốc khác nhau có hàm lượng protein khác nhau, nhưng năng lượng trao đổi
tương tự cho thấy tăng trọng của bò rất khác nhau dao động từ 0,66 đến 0,40
kg/con/ngày. Scarr (1986) cũng thấy các kết quả tương tự. Trong một thí
nghiệm làm tại Bangladesh trên bò đỏ Chittagong (Red Chittagong). Trong điều
kiện nuôi nông hộ ở Tây nguyên, chăn thả cộng bổ sung thức ăn thô và cám
gạo hoặc cám ngô với một lượng nhỏ, tăng trọng của bò đực lai Sind giai đoạn
13-18 tháng tuổi cũng chỉ đạt: 0,383 kg/con/ngày (Văn Tiến Dũng, 2002). Cũng
theo tác giả trên, trong điều liện nuôi nhốt thí nghiệm với khẩu phần ăn nhiều
dinh dưỡng hơn bò đực lai Sind trong độ tuổi này có thể đạt tăng trọng 0,610
kg/con/ngày.
Scarr M.J. 1986. The optimal use of agro-industrial by-products and crop
residues in Nigeria. In: Little D.A and Said A.N. (eds). Utilization of
Agricultural Byproducts as livestock feeds for Nigeria. Proceedings of
workshop by African Research Network for Agricultural By-products
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(ARNAB) 1987. International Livestock Centre for Africa.
47
Như vậy, kết quả tăng trọng của bò trong thí nghiệm này ở lô đối chứngvà
lô thí nghiệm tương đương với rất nhiều nghiên cứu và là kết quả chấp nhận
được.
3.3.2. Khả năng thu nhận VCK
Sự thu nhận thức ăn của bò chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính là nhu
cầu dinh dưỡng (gia súc thu nhận thức ăn theo nhu cầu của cơ thể) và giới hạn
của đường tiêu hoá ( gia súc chỉ thu nhận được khối lượng thức ăn mà đường
tiêu hoá cho phép). Ngoài ra, lượng thu nhận thức ăn còn bị chi phối bởi các
yếu tố điều chỉnh khác nữa.
Đối với gia súc nhai lại có một mối tương quan dương giữa tỷ lệ tiêu hoá
và lượng thu nhận của thức ăn thô (ngược với thức ăn tinh ở dạ dày đơn). Thực
ra thì lượng thu nhận thức ăn có liên quan chặt chẽ hơn với tốc độ phân giải
(tiêu hoá) hơn là với bản thân tỷ lệ tiêu hoá, cho dù hai yếu tố này có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nói một cách khác, thức ăn nào được tiêu hoá nhanh thì có
tỷ lệ tiêu hoá cao và lượng thu nhận lớn. Đó là vì tốc độ tiêu hoá càng cao thì
đường tiêu hoá được giải phóng càng nhanh tạo ra được càng nhiều không gian
cho việc tiếp nhận thức ăn mới vào.
Ở nhiệt độ môi trường thấp dưới vùng đẳng nhiệt (khoảng nhiệt độ trong
đó sinh nhiệt trong cơ thể ổn đinh, được xác định cho mỗi loại giá súc riêng)
thì thu nhận thức ăn tăng và ngược lại khi nhiệt độ môi trường nằm trên vùng
đẳng nhiệt thì lượng thu nhận thức ăn giảm xuống. Ví dụ, bò gốc ôn đới trung
bình giảm thu nhận thức ăn 2% cho mỗi 0C nhiệt độ bình quân ngày tăng lên
trên 250C. Rõ ràng là bò khoẻ ăn được nhiều hơn bò ốm, nhưng sau khi ốm thì
ngược lại bò có hiện tượng “ăn bù”. Bò bị ký sinh trùng đường ruột có xu hướng
giảm thu nhận thức ăn, được mặc nhận là do chúng làm rối loạn đường tiêu hoá
cho dù nhu cầu dinh dưỡng tăng lên như một hậu quả của việc giảm hấp thu
dinh dưỡng. Cũng có bằng chứng cho rằng kích thích hệ thống miễn dịch của
cơ thể, như trường hợp bị ký sinh trùng, có thể góp phần làm giảm thu nhận
thức ăn. Ngoại ký sinh trùng như ve cũng làm giảm thu nhận thức ăn của gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
súc.
48
Với thí nghiệm này, bò được cho ăn riêng từng con, thức ăn thừa được
thu gom, chúng tôi đã xác định được lượng thức ăn hỗn hợp ăn vào hàng ngày,
tháng theo từng cá thể, kết quả được trình bày tại bảng 3.8:
Bảng 3.8. Khả năng thu nhận VCK của bò thí nghiệm
Giai đoạn Chỉ tiêu ĐC TN (ngày)
1 - 30 2,67 2,72
31 - 60 2,81 2,84 VCK ăn vào
(kg/con/ngày) 61 - 90 2,92 3,02
TB 2,80a 2,86a
Lượng ăn vào của gia súc là chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá chất lượng
khẩu phần và liên quan chặt chẽ với sức sản xuất và hiệu quả chăn nuôi.
Lượng VCK ăn vào hàng ngày của bò lô thí nghiệm và lô ĐC (trung bình
là 2,86 kg/ngày so với 2,80 kg/ngày) không có sự sai khác.Khi sử dụng khẩu
phần ăn hỗn hợp hoàn chỉnh không có ảnh hưởng đến khả năng thu nhận VCK
của bò (p>0,05). Điều này có thể được giải thích là khẩu phần TMR có bổ sung
3.1
3
2.9
2.8
ĐC
TN
2.7
2.6
2.5
2.4
1-30 ngày
31-60 ngày
61-90 ngày
TB
AIG 1% không ảnh hưởng đến độ ngon miệng của thức ăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 3.6. Khả năng thu nhận VCK của bò thí nghiệm
49
Với lượng thức ăn thu nhận hàng ngày khá cao này đảm bỏ nhu cầu dinh
dưỡng của bò. Sự thu nhận thức ăn của gia súc nhai lại chịu ảnh hưởng của các
yếu tố chính là khẩu phần ăn và gia súc, ngoài ra còn bị chi phối bởi các yếu tố
điều chỉnh khác (Orskov và Ryle, 1990; Vũ Duy Giảng et al., 2008). Theo
McDonald et al. (1995), lượng thu nhận chất khô của bò thịt được ước tính
khoảng 2,2% khối lượng cơ thể. Vũ Duy Giảng và cs. (2008) cho rằng lượng
chất khô thu nhận biến động từ 2 - 3% khối lượng cơ thể tuỳ theo chất lượng
thức ăn.
3.3.3. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng
Trong cả quá trình vỗ béo thì tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng
thấp nhất ở giai đoạn 0 - 4 tuần và tăng dần theo các giai đoạn sau. Hiệu quả sử
dụng thức ăn khác nhau rõ rệt giữa NT thí nghiệm và NTĐC.
Từng giai đoạn sinh trưởng, khả năng tiêu tốn VCK của gia súc được
trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.9. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng (kg)
Giai đoạn (ngày) ĐC TN P
1 - 30 7,81a 6,59b 0,000
31 - 60 7,98a 6,81b 0,0014
61 - 90 8,37a 7,16b 0,000
8,05a 6,85b 0,0003 TB
Ghi chú: a, b Các giá trị trung bình trong cùng một cột với các chữ cái
khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ).
Hiệu quả sử dụng VCK của bò ở lô TN (sử dụng khẩu phần TMR có bổ
sung AIG 1%) là cao hơn, tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 6,85 kg VCK và thấp
hơn là lô ĐC (chỉ sử dụng TMR) tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 8,05 kg VCK
(có sự khác nhau giữa hai lô thí nghiệm), (P<0,05).
Qua bảng 3.7 cho thấy tiêu tốn VCK/kg tăng khối lượng của bò ở hai NT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thí nghiệm là từ 6,85 – 8,05 kg tương đối phù hợp với tiêu chuẩn của ARC
50
(1980); NRC (1984); INRA (1989); Rajan (1990); Perry (1990) và AFRC
(1993).
Kết quả nghiên cứu trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác
giả khác đã công bố trước đây. Phạm Kim Cương và cs. (2001) cho biết tiêu
tốn thức ăn của bò biến động trong khoảng 6,3 - 7,9 kg chất khô/kg tăng khối
lượng. Vũ Chí Cương và cs. (2005) nuôi vỗ béo bê đực HF 12 tháng tuôi cho
tiêu tốn từ 8,54 - 8,68 kg/kg tăng khối lượng.
Tiêu tốn VCK cho mỗi kg tăng khối lượng của bò ở lô thí nghiệm đều
cao hơn so với lô đối chứng. Điều này là do hàm lượng các chất dinh dưỡng
trong TMR khác khẩu phần sử dụng TMR có bổ sung AIG đã ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng thức ăn của bò, làm cho lượng thức ăn tiêu tốn cho mỗi kg
ĐC
TN
9 8 7 6 5 4 3 2 1 0
1-30 ngày
31-60 ngày
61-90 ngày
tăng khối lượng có tăng lên.
Hình 3.7. Tiêu tốn VCK cho 1 kg tăng khối lượng qua các giai đoạn
Như vậy, khi thay thế bằng khẩu phần ăn TMR có bổ sung AIG thì hiệu
quả sử dụng thức ăn của bò ở lô TN tốt hơn nên cho tăng trọng nhanh hơn và
tiêu tốn VCK cho mỗi kg tăng trọng thấp hơn so với bò ở lô ĐC.
Kết quả tiêu tốn thức ăn của các nhóm bò trong thí nghiệm của chúng tôi
đều thấp hơn kết quả của Vũ Chí Cương và cs (2007) khi sử dụng 27% thân
cây ngô trong khẩu phần để vỗ béo bò, tiêu tốn thức ăn là 10,84kg CK/kg tăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trọng.
51
Vì tăng trọng của bò khác nhau trong khi lượng thức ăn ăn vào như nhau
nên tiêu tốn thức ăn của các nhóm bò có sự khác nhau đáng kể (P<0,05). Tiêu
tốn thức ăn của bò vàng địa phương trong TN là 6,85-8,05 kgCK/kgTT. Kết
quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Quốc Đạt và cs (2008) bò
Laisind vỗ béo có mức tiêu tốn thức ăn là 8,73 kg CK/kgTT và tương đương
với kết quả nghiên cứu của Trương La (2010) khi vỗ béo bò Laisind tại Đắk
Lắk, tiêu tốn thức ăn của bò dao động từ 7,21 -8,51 kgCK/kgTT.
3.3.4. Tiêu tốn protein cho 1 kg tăng khối lượng
Tiêu tốn protein của bò ở từng giai đoạn sinh trưởng được trình bày ở
bảng 3.10:
Bảng 3.10. Tiêu tốn protein cho 1 kg tăng khối lượng (gam)
Giai đoạn (ngày) ĐC TN P
1-30 991,87a 715,02b 0,002
31-60 1013,46a 738,89b 0,0015
61-90 1062,99a 776,86b 0,004
TB 1022,35a 743,23b 0,0021
Ghi chú: a, b Các giá trị trung bình trong cùng một cột với các chữ cái
khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ).
Hiệu quả sử dụng Protein thô của bò ở lô TN là cao nhất, tăng 1 kg khối
lượng tiêu tốn 743,23g Protein thô và thấp nhất là ở lô ĐC tăng 1 kg khối lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiêu tốn 1022,35g Pr.thô (có sự khác nhau giữa hai NT thí nghiệm) (P<0,05).
52
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy:
1.1. Nghiên cứu thành phần dinh dưỡng, xây dựng hỗn hợp thân ngô, cỏ
yến mạch, cỏ voi có bổ sung cám gạo và chế phẩm sinh học.
Mẫu thức ăn TMR và TMR đã được bổ sung AIG có hàm lượng vật chất
khô (DM) tương đối cao, dao động từ 27,83 - 28,07%. Mẫu TMR có hàm lượng
protein thô cao hơn so với TMR bổ sung AIG là không đáng kể (0,05%) (tính
ở dạng VCK). Tuy nhiên kết quả phân tích phương sai không thấy rõ sự sai
khác giữa 2 mẫu thức ăn với nhau (P>0,05).
1.2. Nghiên cứu khả năng tiêu hóa in vitro của hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR)
cho bò thịt.
Lượng khí tích lũy ở các khẩu phần đối chứng và bổ sung AIG đều tăng
dần theo thời gian. Trong khẩu phần đối chứng lượng khí sinh ra trong thời gian
ủ từ 3h- 48h tăng. Tuy nhiên sau 48h lượng khí sinh ra đều giảm.
Tại thời điểm 24h ủ mẫu, ở tất cả các mẫu bổ sung AIG lượng khí sinh
ra đều thấp hơn so với mẫu đối chứng. Do đó khi bổ sung AIG không làm thay
đổi các thành phần hóa học khác và giá trị dưỡng của mẫu thức ăn nhiều. Khi
bổ sung AIG với các tỷ lệ khác nhau 1%, 2%, 3% vào khẩu phần thì các thành
phần khác của mẫu thức ăn như protein thô, ME, NDF…cũng có sự thay đổi
nên tổng lượng khí sinh ra tại thời điểm 24 giờ sau khi ủ không giảm thậm chí
còn tăng lên.
Việc bổ sung men vi sinh AIG đã làm giảm tốc độ sinh khí (C). Khi bổ
sung AIG vào khẩu phần ăn ở các mức khác nhau từ 1%, 2% và 3% thì tốc độ
sinh khí (C) đã giảm (P<0,05).
1.3. Nghiên cứu thử nghiệm hỗn hợp hoàn chỉnh trên bò thịt giai đoạn 12
– 15 tháng tuổi.
Sau thời gian 90 ngày thí nghiệm, khối lượng của bò ở các lô có khác
nhau. Cụ thể, tăng trọng hàng ngày của bò ở lô TN đạt 417,41 g/con/ngày, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khi chỉ tiêu này ở lô đối chứng chỉ đạt 347,60 g/con/ngày.
53
Lượng VCK ăn vào hàng ngày của bò lô thí nghiệm và lô ĐC (trung bình
là 2,86 kg/ngày so với 2,80 kg/ngày) không có sự sai khác. Khi sử dụng khẩu
phần ăn hỗn hợp hoàn chỉnh không có ảnh hưởng đến khả năng thu nhận VCK
của bò (p>0,05). Điều này có thể được giải thích là khẩu phần TMR có bổ sung
AIG không ảnh hưởng đến độ ngon miệng của thức ăn.
Như vậy, khi thay thế bằng khẩu phần ăn TMR có bổ sung AIG thì hiệu
quả sử dụng thức ăn của bò ở lô TN tốt hơn nên cho tăng trọng nhanh hơn và
tiêu tốn VCK cho mỗi kg tăng trọng thấp hơn so với bò ở lô ĐC.
2. Đề nghị
Đề tài cần được tiếp tục theo dõi nghiên với mẫu khảo sát lớn hơn.
Nghiên cứu thêm chi tiết về khẩu phần dinh dưỡng để có giải pháp cụ thể về
việc tạo ra một khẩu phần dinh dưỡng phù hợp hơn với điều kiện của địa
phương, nhằm góp phần tác động nâng cao năng suất, khả năng sinh trưởng của
bò thịt.
Nhà nước cần có chương trình dự án để phát triển đàn bò tại huyện Tuần
Giáo. Cần có cơ chế chính sách khai thác phát triển chăn nuôi bò thịt tạo sinh
kế bền vững cho đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa tỉnh Điện Biên.
Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các khẩu phần thức ăn hỗn hợp hoàn
chỉnh (TRM) từ nguyên liệu phụ phẩm sẵn có bổ sung thêm các chế phẩm sinh
học tại khu vực để nâng cao hơn nữa năng suất và chất lượng đảm bảo nhu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thức ăn cho phát triển chăn nuôi bò thịt tại khu vực.
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Đinh Văn Cải, Nguyễn Ngọc Tấn, Vương Ngọc Long (2001), Khả năng sinh
trưởng của bò lai giữa tinh bò đực Charolais, Abondance, Tarentaise với
bò lai Sind. Báo cáo khoa học Chăn nuôi - Thú y 1999-2000, TP Hồ Chí
Minh 10-12 tháng 4 năm 2001. Tr. 229-235.
2. Đinh Văn Cải (2006), Kết quả bước đầu nhân thuần giống bò Droughtmaster
và Brahman tại Việt Nam - Tuyển tập kết quả nghiên cứu khoa học công
nghệ Trung tâm NCHLCN Gia Súc Lớn (1977-2007).
3. Đinh Văn Cải (2007), Nuôi bò thịt, Kĩ thuật - Kinh nghiệm - Hiệu quả, nhà
xuất bản Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Phạm Thế Huệ và Phạm Hùng Cường
(2007), Ảnh hưởng của các nguồn xơ khác nhau trong khẩu phần vỗ béo bò
lai Sind tại Đắk Lắk. Tạp chí KHCN Chăn nuôi, số 4-2/2007, tr: 36-42.
5. Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly (2001), Hội thảo về dinh dưỡng và gia súc nhai
lại, Hà Nội.
6. Phạm Kim Cương, Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn
Thành Trung (2001), Nghiên cứu sử dụng rơm lúa trong khẩu phần bò thịt.
Báo cáo khoa học. Đề tài KHCN 08-05, tr. 174-187.
7. Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Graeme Mc Crabb, Phạm Kim Cương, Nguyễn
Thành Trung, Đinh Văn Tuyền, Đoàn Thị Khang (2001), Nghiên cứu sử
dụng rỉ mật trong nuôi dưỡng bò thịt. Báo cáo Khoa học Chăn nuôi - Thú
y, phần thức ăn và dinh dưỡng, TP. HCM ngày 10-12/4/2001, tr 13-20.
8. Vũ Chí Cương, Đặng Vũ Hoà, Vũ Văn Nội, Graeme Mc Crabb, Phạm Kim
Cương, Nguyễn Thành Trung (2001), Ảnh hưởng của nguồn thức ăn thô
trong khẩu phần vỗ béo có hàm lượng rỉ mật cao đến tăng trọng và hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sử dụng thức ăn của bò thịt. Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, tr: 48 - 50.
55
9. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương và Phạm Hùng Cương (2005), Sử dụng
nguồn thức ăn sẵn có để vỗ béo bò đực HF không dùng làm giống tại Sơn
La. Tóm tắt Báo cáo khoa học, Viện chăn nuôi, tr. 131.
10. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Phạm Thế Huệ và Phạm Mạnh Hùng
(2007), Ảnh hưởng của các nguồn xơ khác nhau trong khẩu phần vỗ béo
đến tăng trọng, hiệu quả sử dụng thức ăn của bò lai Sind tại Đắk Lắk. Viện
Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học Công nghệ chăn nuôi. Số 4-2007.
11. Văn Tiến Dũng (2002), Khả năng sinh trưởng, sản xuất thịt của bê lai Sind
và các con lai ½ Drought Master, ½ Red Angus, ½ Limousine nuôi tại
huyện Eaka, tỉnh Đăk lăk. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Viện chăn nuôi.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2012.
12. Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, Bùi Thế Đức, Nguyễn Thanh Bình
(1998), “Khả năng sản xuất của đàn bò cái lai hướng sữa (HF x Lai Sind)
trong điều kiện chăn nuôi trang trại ở thành phố Hồ Chí Minh”, Báo cáo
khoa học, Viện Chăn nuôi. NXB NN, Hà Nội, tr. 16-18.
13. Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thanh Bình và Đinh Văn Tuyền (2008), Khả
năng tăng trọng và cho thịt của bò lai Sind. Brahman. Droughtmaster nuôi
vỗ béo tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn nuôi, số 15,
tr. 1- 8, 32 – 39.
14. Vũ Duy Giảng, Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Trạch,
Vũ Chí Cương, Nguyễn Hữu Văn (2008), Dinh dưỡng và thức ăn cho bò,
NXB Nông nghiệp, tr.71.
15. Nguyễn Văn Hòa, Đoàn Trọng Tuấn, Vũ Chí Cương (2005), “Nghiên cứu
vỗ béo bò lai Sind bằng thức ăn là phế phụ phẩm của ngành Nông nghiệp
ở huyện Nam Đàn, tỉnh nghệ An”. Tóm tắt báo cáo Khoa học năm 2004.
16. Trần Thị Hoan, Nguyễn Thị Liên, Từ Trung Kiên (2007), “Nghiên cứu
ảnh hưởng của thức ăn ủ xanh đến năng suất và chất lượng của bò sữa tại
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3 (43).
56
17. Nguyễn Tấn Hùng, Đặng Vũ Bình (2004), Sử dụng thân lá áo ngô sau thu
hoạch làm thức ăn vỗ béo bò lai Sind trong mùa khô hạn. Tạp chí khoa
học kỹ thuật nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tập II số
5/2004, tr: 349-352.
18. Lưu Kỷ (1996), “Kỹ thuật kiềm hóa rơm và rơm ủ urê”, Chăn nuôi, số 4,
Hội chăn nuôi Việt Nam, tr. 16.
19. Trương La (2010), Sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp để vỗ béo bò
thịt tại huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, 2010.
20. Trương La và cs (2011), Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật
nhằm phát triển nuôi bò cho đồng bào dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên. Báo
cáo tổng kết đề tài, Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên.
21. Bùi Đức Lũng (1999), “Ủ đạm urê với rơm cỏ làm thức ăn cho trâu bò, dê
trong nông hộ”, Chăn nuôi, số 6 (27), Hội chăn nuôi Việt Nam, tr. 11 - 12.
22. Lê Viết Ly (1995), Giới thiệu một số kinh nghiệm nuôi bò thịt (bò vàng
Trung Quốc) bằng phụ phẩm nông, công nghiệp. Nuôi bò thịt và những
kết quả nghiên cứu bước đầu ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr:
38-44.
23. Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội(1995), Kết quả nghiên cứu bò lai hướng thịt ở
Việt Nam, Viện chăn nuôi, NXB Nông nghiệp 2002. Tr. 54 - 62.
24. Đinh Văn Mười (2010), Tỷ lệ tiêu hóa, giá trị dinh dưỡng và phương trình
ước tính tỷ lệ tiêu hóa chât hữu cơ, giá trị năng lượng trao đổi của thức ăn
cho gia súc nhai lại, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi.
25. Lê Quang Nghiệp (1984), Một số đặc điểm chung về sinh trưởng, cày kéo,
cho thịt của bò Vàng Thanh Hóa và kết quả lai với bò Zebu. Luận án Phó
Tiến sỹ Nông nghiệp.
26. Vũ Văn Nội (1994), Nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của bò Lai Sind,
bò lai kinh tế hướng thịt trên nền bò Lai Sind ở một số tỉnh miền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trung, Luận án phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp.
57
27. Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt (1995),
Nuôi bò lai hướng thịt với thức ăn bổ sung là nguồn phụ phẩm nông nghiệp
tại miền Trung. Nuôi bò thịt, nhà xuất bản Nông nghiệp. Tr. 71-77.
28. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền (1999), Sử dụng phế
phụ phẩm và nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương để vỗ béo bò. Báo cáo
khoa học chăn nuôi thú y, Huế (20-30/6/1999), tr. 25-29.
29. Phạm Văn Quyến (2001), Khảo sát khả năng sinh trưởng, phát triển của
một số nhóm bò lai hướng thịt tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm chăn
nuôi Sông Bé. Luận văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.
30. Phạm Văn Quyến (2009), Nghiên cứu khả năng sản xuất của bò
Droughtmaster thuần nhập nội và bò lai F1 giữa bò Droughtmaster với bò
Lai Sind tại miền Đông Nam Bộ. Luận án Tiến sỹ.
31. Nguyễn Đàm Thuyên (2012), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và
khả năng sản xuất thịt của bò H’Mông nuôi tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà
Giang. Luận văn Thạc sĩ khoa học nông nghiệp, đại học Nông lâm Thái
Nguyên.
32. Nguyễn Văn Thưởng, Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Nguyễn Quốc Đạt,
Nguyễn Văn Niêm, Hồ Khắc Oánh, Phạm Kim Cương, Phú Văn Bộ
(1995), Những kết quả nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm tăng năng
suất thịt của đàn bò nước ta. Nuôi bò thịt và những kết quả bước đầu ở
Việt Nam, nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
33. Nguyễn Trọng Tiến (1991), Giáo trình Chăn nuôi trâu bò, trường Đại học
Nông nghiệp I Hà Nội.
34. Nguyễn Xuân Trạch (2004), Ảnh hưởng của xử lý kiềm hóa bằng vôi hoặc
urê đến lượng ăn vào và tỷ lệ tiêu hóa rơm. Tạp chí Chăn nuôi số 11, tr:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
16-18.
58
35. Đỗ Thị Thanh Vân, Nguyễn Thành Trung, Vũ Chí Cương, Lê Văn Hùng
và Phạm Bảo Duy (2009), Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua
trong khẩu phần nuôi vỗ béo bò thịt tại Quảng Trị. Tạp chí Khoa học kỹ
thuật Chăn nuôi, số 18, tr. 1-6.
36. Hoàng Thanh Vân (2002), “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật để phát
triển và nâng cao sức sản xuất của đàn bò thịt, sữa tỉnh Hà Tây”, Luận án
tiến sĩ nông nghiệp, tr. 116-118.
37. Đoàn Đức Vũ (2008), Nghiên cứu một số công thức lai tạo và quy trình nuôi
dưỡng bò thịt chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo nghiệm thu
đề tài.
Tài liệu tiếng Anh
38. Abassa. K.P (1987), Analysis of growth parameters of Gobra Zebu
females in Senega.
39. Abassa. K.P; Wilcox. C; Johnson. T.A (1989), Genetic aspects of growth
in Gobra Zebu cattle.
40. AFRC (1993), Energy and Protein Requirements for Ruminants,
University Press, Cambridge, UK.
41. Akinfemi, A., Adu, O. A. and Doherty, F. 2010. Conversion of sorghum
stover into animal feed with white-rot fungi: Pleurotus ostreatus and
Pleurotus pulmonarius, African J. of Bio., Vol. 9 (11), pp. 1706-1712.
42. ARC (1980), The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl.1.
Commonwealth Agicultural Bureau, Slough.
43. Aregheorre, E. M and Ikhatua, U. J. (1999). Nutritional Evaluation of
Some Tropical Crop Residues: invitro organic matter, NDF, true dry
matter digestibility and metabolizable enery using the Hohorfnhim test.
44. Bowman G. R., Beauchemin K. A., & Shelford J. A.(2002), “The
Proportion of the Diet to which Fibrolytic Enzymes are Added Affects
Nutrient Digestion by Lactating Dairy Cows1”, Journal of Dairy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Science, 85(12), pp.3420-3429.
59
45. Chenost. M and Kayuli. C (1997), Roughage utilization on warm
climates. FAO - Animal production and health, Rome. pp 25-124.
46. Chenost. M, Aufrere, J and Macheboeuf, D (2001), The gas test technique
as a tool for predicting the energen value of forage plants. Anim. Res, 50,
349-364.
47. Dashdamirov. K.SH (1991), Carass quality of Zebu. Crossbreed.
48. Dalatte. J.T; Ougan. H; Theander .S..S (1986), Effects of age, sex and
breed an the finishing performance of Zebu fed on rice by products in
North Cameroon.
49. Ewald Sasimonski (1987), Animal breeding and production on outline.
50. Ertuer. N.M; Koltosova. I.Yu (1984), Age changes in Crossbreed
(Holstein – Friesian x Black Pied) and Black Pied calves.
51. INRA (1989), Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed
Tables. INRA, Paris, France.
52. Johnson (1958 – 1961), World animal science.
53. Johnson. H.D and Roman Ponce. H (1994), World animal science.
54. Jokhank, G. E. (2013), Effect of Different Energy Sources on Intake and
Weight Gain of White Fulani Cattle. IMPACT: International Journal of
Research in Applied, Natural and Social Sciences (IMPACT: IJRANSS).
ISSN 2321 - 8851. Vol. 1, Issue 5, Oct 2013, 1 – 8.
55. Kentamies. H (1983), Genetical and environmental factors affecting
slaughter traits in beef production experiments in field.
56. Leng. R. A (2003), Drought and dry season feeding strategies for cattle,
sheep and goats. Penambul books, Queensland, Australia. pp 85-118.
57. Leng. R. A, and Nolan. J.V (1984), Nitrogen matabolism in the rumen. J.
Dairy Sci, 67: 1072-1089.
58. Le Viet Ly (2001), Improved utilization of agricultural by-product for
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
animal in Vietnam and Lao. pp 52 - 63.
60
59. McDonald P., (1976), Trends in silage making, In: Microbiology in
Agriculture, Fisheries and Food Academic Press, London.
60. McDonald,.P (1981), The Biochemistry of Silage, John Whey and Sons,
Ltd; Chichester, UK.
61. Mendel (1971), Johnson H.D and Roman Ponce (1984), World animal
science.
62. Menke, H.H. and Steingass, H. (1988) Estimation of the energetic feed
value obtained from chemical analysis and in vitro gas production using
rumen fluid. Animal Research and Development.
63. Montano. M; Matinez. G; reynoso. O (1990), Comparision of BosTaurus
and India – Brazil breeds in topcrossing with Zebu cows for growth
characteristies.
64. Mwandotto. B.A.J; Carles. H.B; Cartwraight. T.C (1998), Weaning and
18 month weight of Boran, east African shorthorw Zebu and Sahiwal
breeds or crosses in Kenya.
65. Nguyen Thi Loc, Nguyen Thi Hoa Ly, Vo Thi Kim Thanh and Hoang
Nghia Duyet (2000), Ensiling Techniques and evaluation of cassava leaf
silage for Mong Cai Sows in Central Viet Nam, Sustaimable Livestock
production on local feed resources, Ho Chi Minh City, Viet Nam Famury,
18 - 20 thực hiện, P 25.
66. Nitipot P. and Sommart K., (2003), “Evaluation of ruminant nutritive value of cassava starch industry by-products, energy feed sources and roughages using in vitro gas production technique”, in proceeding of Annual Agricultural Seminar for year 2003, KKU, pp. 179-90. 67. NRC (1984), The nutrient requirements of beef cattle, Washington DC, USA.
68. Ørskov E. R., & McDonald I. (1979), “The estimation of protein
degradability in the rumen from incubation measurements weighted
according to rate of passage”, The Journal of Agricultural Science, 92(2),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
pp.499-503.
61
69. Perry, T.W. (1990), Dietary nutrient allowance for beef cattle. Feedstuffs-
Reference issue, 62, 31: 46 - 56.
70. Preston. T. R and Leng. R. A (1987), Matching ruminant production
systems with available resources in the tropics and sub-tropics. Penambul
Books Ltd, Mrmidale. NSW. Australia, pp 25-37.
71. Poivery. J.P; Menissien. F (1988), Growth variability among calves and
young cattle from sedentary herd in the Northern Irbry coast.
72. Planas. T (1983), Performance of Zebu herd in Cuba. Perweaning and
postweaning growth.
73. Prasad C. S., Wood C. D. and Sampath K. T. (1994), “Use of in vitro gas
production to evaluate rumen fermentation of untreated and urea treated
finger millet straw (Eleusine coracana) supplemented with different levels
of concentrate”, J. Anim. Food. Agric, 65: pp. 457- 464.
74. Preston. T.R (1995), Tropical animal feeding, A manual for research
worker FAO animal production and health, pp 126.
75. Preston TR (2001), Potential of cassava in integrated farming systems.
Cassava as livestock feed (23 - 25 july 2001) in Khon Kaen University.
76. Raa. J and Gilberg .A (1982), Fish Silage, Areview, CRC Crit. Rev. Food
Sci, Nutr. 16.
77. Rajan, S. K. (1990), Nutritional Value of Animal Feeds and Feeding of
Animals, ICAR, New Dehli.
78. Saint Martin. G; Messine. O, Mbal. D.A; Planchenault. D (1991),
Crossing Adamawa cows in the Cameroon with Bos taurus improver bulls
preweaning growth.
79. Scarr M.J (1986), The optimal use of agro-industrial by-products and crop
residues in Nigeria. In: Little D.A and Said A.N. (eds). Utilization of
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Agricultural Byproducts as livestock feeds for Nigeria. Proceedings of
62
workshop by African Research Network for Agricultural By-products
(ARNAB) 1987. International Livestock Centre for Africa.
80. Schiere, J. B. And Ibrahim, M.N.M. (1989), Feeding of urea-ammonia
treated rice straw, Pudoc. Wageningen. Netherlands.
81. Sommart K., Parker D.S., Rowlinson P. and Wanapat M., (2000), “Fermentation characteristics and microbial protein synthesis in an in vitro system using cassava, rice straw and dried ruzi grass as substrates”, Asian- Aus. J. Anim. Sci., vol. 13, pp. 1094-101.
82. Sung. Y.Y. Wang. K.C (1988), High grate beef production from exotic
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
and crossbred cattle in Taiwan.
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI