TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------------------ VŨ ĐÌNH KHOA

CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP

1.1. KHÁI NIỆM TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH. 12

1.1.1. Hệ thống ngành kinh tế quốc dân theo hệ thống tài 12 khoản quốc gia (SNA_System of National Accounts)

1.1.2. Các nhóm ngành thuộc ngành công nghiệp theo 12 hệ thống tài khoản quốc gia Việt Nam.

1.1.3. Khái niệm tăng trƣởng và tốc độ tăng trƣởng 13

1.1.4. Khái niệm chất lƣợng tăng trƣởng. 13

1.2. ĐO LƢỜNG TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH

17

1.2.1. Thƣớc đo tốc độ tăng trƣởng ngành. 17

1.2.2. Thƣớc đo chất lƣợng tăng trƣởng ngành kinh tế 18

1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG

24

TĂNG TRƢỞNG.

1.3.1. Các nhân tố kinh tế. 24

1.3.2. Các nhân tố phi kinh tế. 25

1.4. VAI TRÒ CỦA CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH.

27

1.4.1. Các lý thuyết về quan hệ giữa tốc độ và chất lƣợng 27 tăng trƣởng.

1.4.2. Vai trò chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp 30

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH CÔNG

NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1991 - 2005)

2.1. THỰC TRẠNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

31

1

GIAI ĐOẠN (1991 - 2005)

2.1.1. Quá trình phát triển ngành công nghiệp 31 Giai đoạn 1991 - 2005.

2.1.2. Các yếu tố đầu vào tác động đến tăng trƣởng 38 ngành công nghiệp

2.1.3. Nhân tố đầu ra tác động đến tăng trƣởng 41 ngành công nghiệp

2.1.4. Những hạn chế của tăng trƣởng ngành công nghiệp 41

2.1.5. Hội nhập kinh tế quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu 41

2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

43

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 - 2005

2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành 43 trong công nghiệp.

2.2.2. Hiệu quả kinh tế 49

2.2.3. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) 53

2.2.4. Phân tích chi phí trung gian 55

2.2.5. Sức cạnh tranh của ngành công nghiệp 58

2.2.6. Biến động môi trƣờng do phát triển công nghiệp 63

2.3. BÀI HỌC TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

70

GIAI ĐOẠN 1991 - 2005.

2.3.1. Những rào cản nâng cao hiệu quả đầu tƣ. 70

2.3.2. Trình độ và tác phong ngƣời lao động 70

2.3.3. Trình độ khoa học công nghệ. 72

2.3.4. Công tác quy hoạch phát triển ngành. 73

2.3.5. Cải cách hành chính Nhà nƣớc. 73

2.3.6. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trƣởng và 74 phát triển ngành.

2.3.7. Những bất cập về môi trƣờng. 75

2.3.8. Huy động vốn 75

2.3.9. Rào cản cho chính sách phát triển sản xuất trong nƣớc 78

2

để thay thế hàng hoá nhập khẩu tiến tới xuất khẩu

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG CÔNG

NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

3.1. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ẢNH HƢỞNG ĐẾN

81

CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP

3.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao 81 chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp

3.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra thách thức 83 nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp

3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

86

TĂNG TRƢỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

87

CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

3.3.1. Tăng cƣờng huy động nguồn vốn cho 87 tăng trƣởng ngành

3.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tƣ. 90

3.3.3. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực 92

3.3.4. Phát triển khoa học công nghệ 93

3.3.5. Gắn tăng trƣởng công nghiệp với bảo vệ môi trƣờng 94

3.3.6. Cải thiện môi trƣờng chính sách, pháp luật, đầu tƣ 95

3.3.7. Giáo dục tính tự tôn dân tộc 96

3

DANH MỤC BẢNG

Bảng Trang

Bảng 2.1 : Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp 39 phân theo hình thức sở hữu.

Bảng 2.2: Cơ cấu sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) 44 phân theo ngành công nghiệp (1991 – 2005)

Bảng 2.3: Cơ cấu sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) 45 phân theo ngành công nghiệp (1995 – 2005)

Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) 46 phân theo hình thức sở hữu.

Bảng 2. 5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) 49 phân theo vùng kinh tế

50 Bảng 2. 6: Năng suất lao động ngành công nghiệp giai đoạn (1995 - 2005)

Bảng 2. 7: Năng suất lao động theo ngành công nghiệp (1995 - 51 2005)

Bảng 2. 8: Tỷ suất lợi nhuận 1 đồng vốn SXKD của doanh nghiệp 51 công nghiệp phân theo sở hữu (không gồm cá thể)

Bảng 2. 9: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn SXKD của doanh nghiệp 52 công nghiệp phân theo ngành (không gồm cá thể)

Bảng 2. 10: Các nguồn tăng trƣởng công nghiệp Việt Nam 1991 – 54 2004

56 Bảng 2.11: Tốc độ tăng trƣởng ngành công nghiệp 1991 – 2005

57 Bảng 2. 12: Cơ cấu chi phí trung gian ngành công nghiệp (theo giá thực tế)

Bảng 2. 13: Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất 57 ngành công nghiệp (theo giá thực tế)

Bảng 2. 14: Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp 59 công nghiệp Việt Nam 1991 – 2005

60 B¶ng 2. 15: Møc trang bÞ vèn cho mét lao ®éng c«ng

4

nghiệp

Bảng 2. 16: Tỷ trọng công nghệ cao, trung bình, thấp tính theo giá trị 61 sản xuất (giá thực tế) của ngành công nghiệp chế biến

62 Bảng 2. 17: Nhóm ngành công nghệ của một số nƣớc ASEAN

Bảng 2. 18: Tỷ lệ xuất khẩu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1996 – 62 2005

Bảng 2. 19: Bảng so sánh giá hàng hoá sản xuất trong nƣớc với 63 hàng hoá nhập khẩu tại cảng Việt Nam (năm 2005)

Bảng 2. 20: Đánh giá chung về ô nhiễm môi trƣờng của các 66 ngành công nghiệp Việt Nam

Bảng 2. 21: Chỉ tiêu thực tế sử dụng nƣớc của một số 67 ngành công nghiệp Việt Nam

Bảng 2. 22: Chỉ tiêu thực tế tiêu hao năng lƣợng của một số 67 ngành công nghiệp Việt Nam

5

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ Trang

BIỂU ĐỒ 2.1: CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CÁC CƠ SỞ SẢN

XUẤT CÔNG NGHIỆP 39

PHÂN THEO HÌNH THỨC SỞ HỮU, NĂM 1991

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp 39 phân theo sở hữu, năm 1995

BIỂU ĐỒ 2.3: CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CÁC CƠ SỞ SẢN

XUẤT CÔNG NGHIỆP 40

PHÂN THEO SỞ HỮU, NĂM 2000

BIỂU ĐỒ 2.4: CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CÁC CƠ SỞ SẢN

XUẤT CÔNG NGHIỆP 40

PHÂN THEO SỞ HỮU, NĂM 2005

Biểu đồ 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) 44 phân theo ngành công nghiệp, giai đoạn (1991 – 2005)

BIỂU ĐỒ 2.6: CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

(THEO GIÁ CỐ ĐỊNH 1994) 47

PHÂN THEO HÌNH THỨC SỞ HỮU, NĂM 1991

BIỂU ĐỒ 2.7: CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

(THEO GIÁ CỐ ĐỊNH 1994) 47

PHÂN THEO HÌNH THỨC SỞ HỮU, NĂM 1994

Biểu đồ 2.8: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định

48 1994)

phân theo hình thức sở hữu, năm 2001

BIỂU ĐỒ 2.9: CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

(THEO GIÁ CỐ ĐỊNH 1994) 48

PHÂN THEO HÌNH THỨC SỞ HỮU, NĂM 2005

BIỂU ĐỒ 2.10: TỶ SUẤT LỢI NHUẬN CỦA 1 ĐỒNG VỐN CỦA

DOANH NGHIỆP 52

CÔNG NGHIỆP PHÂN THEO SỞ HỮU

6

Biểu đồ 2.11: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn của doanh nghiệp 52 công nghiệp phân theo ngành

BIỂU 2.12: TỐC ĐỘ TĂNG TRƢỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP 57 (1991 – 2005)

BIỂU 2.13: TỶ SUẤT LỢI NHUẬN TRÊN DOANH THU 59

63 Biểu 2.14: Tỷ lệ xuất khẩu Việt Nam (1996 – 2005)

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu Nghĩa đầy đủ

VIỆN QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƢƠNG CIEM

Tổng giá trị sản xuất (Gross Output) GO

TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI (GROSS DOMESTIC

PRODUCT) GDP

ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI (FOREIGN DIRECT

INVESTMENT) FDI

KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO (FREE TRADE AREA) FTA

Năng suất lao động NSLĐ

HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA (SYSTEM OF NATIONAL

ACCOUNTS) SNA

Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity) TFP

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XHCN

Tổ chức bảo vệ môi trƣờng của Liên hiệp quốc (United Nations UNEP Environment Programme)

TỔ CHỨC CÁC NƢỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN CỦA

UNIDO LIÊN HIỆP QUỐC (UNITED NATIONS INDUSTRIAL

DEVELOPMENT)

Đơn vị tiền tệ Hoa kỳ (United States Dollar) USD

7

GIÁ TRỊ GIA TĂNG (VALUE ADDED) VA

Tổ chức thƣơng mại thế giới (World Trade Organization) WTO

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Trong 15 năm (1991 - 2005) đổi mới, tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế

Việt Nam luôn duy trì mức cao, trung bình hàng năm giai đoạn này là

7,2%/năm, trong đó ngành công nghiệp có tốc độ tăng trƣởng bình quân

13,5%/năm với tốc độ tăng trƣởng này ngành công nghiệp ngày càng đóng vai

trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

Giai đoạn

1991 - 1995 1996 - 2000 2001 - 2005

Tốc độ tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng năm 8,2% 7% 7,5%

Tốc độ tăng trƣởng công nghiệp bình quân hàng năm 11% 13,5% 16%

Tỷ trọng công nghiệp trong GDP bình quân hàng năm 27% 32,6% 39,2%

(Nguồn: Tổng cục thống kª)

8

Vì vậy chất lƣợng tăng trƣởng của ngành công nghiệp có tác động to lớn

đến chất lƣợng tăng trƣởng nền kinh tế nhƣ thế nào? Thực trạng nền công

nghiệp đóng góp cho tốc độ tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế Việt Nam

đƣợc bao nhiêu? Để đạt đƣợc mục tiêu mà đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam đặt

ra “đến năm 2020, Việt Nam cơ bản là nƣớc công nghiệp” ngành công nghiệp

phải đi đầu và là đầu tàu của nền kinh tế Việt Nam, vậy ngành công nghiệp

muốn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó trong thời gian tới cần phải làm gì?

Chính vì những lý do trên đã thôi thúc tác giả nghiên cứu đề tài “Chất

lƣợng tăng trƣởng ngành công nghiệp Việt Nam" giai đoạn 1991 - 2005.

2. Tình hình nghiên cứu.

Để khẳng định sự lựa chọn con đƣờng „„Đổi mới‟‟ của Đảng và Nhà

nƣớc ta là đúng đắn, thời gian vừa qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vai trò

ngành công nghiệp Việt Nam trong 20 năm đổi mới:

Bộ công nghiệp (2005), ‟‟60 năm công nghiệp Việt Nam‟‟, NXB Lao

động – Xã hội, tác phẩm điểm lại quá trình phát triển nền công nghiệp Việt Nam

từ ngày lập nƣớc và những thành tựu mà ngành công nghiệp Việt Nam đạt đƣợc

trong nhƣng bối cảnh lịch sử hết sức khó khăn.

Viện chiến lƣợc và chính sách công nghiệp „„Công nghiệp Việt Nam 1945

– 2010‟‟, NXB Thống kê, tác phẩm là tập hợp các bài viết của các chuyên gia

9

trong ngành công nghiệp viết về những giai đoan đã qua của ngành công nghiệp

và dự báo ngành công nghiêp Việt Nam đến năm 2010.

Tổng cục thống kê „„Số liệu công nghiệp Việt Nam 1989 – 2005‟‟, NXB

thống kê, tác phẩm là nguồn số liệu về các ngành công nghiệp phân theo thời

gian, phân theo sở hữu và không gian địa lý.

Bên cạnh những đóng góp của các tác phẩm trên, ngƣời đọc vẫn còn thấy

những hạn chế nhƣ: tác phẩm mới chỉ mang tính chất thống kê, điểm lại những

thành tựu và một vài những hạn chế phát triển. Vì vậy, trong đề tài này tác giả

muốn tập trung nghiên cứu “Chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp Việt Nam‟‟

nhằm làm rõ hơn chất lƣợng của quá trình tăng trƣởng giai đoạn 1991 – 2005,

đóng góp của chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp đối với chất lƣợng tăng

trƣởng kinh tế Việt Nam, bài học rút ra từ chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp

giai đoạn 1991 – 2005, giải pháp để nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng công

nghiệp giai đoạn tới.

3. Mục đích nghiên cứu.

Lịch sử thế giới đã chứng minh không một quốc gia nào trở thành nƣớc

công nghiệp phát triển mà không phát triển ngành công nghiệp.

Ngành công nghiệp là ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nƣớc, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản là

nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu nhằm

mục đích dự trên cơ sở lý thuyết đánh giá, thực tiễn biến đổi sinh động của

ngành công nghiệp để đánh giá một cách xác đáng nhất chất lƣợng của tăng

trƣởng ngành công nghiệp trong 15 năm (1991 – 2005) đổi mới và đóng góp của

ngành công nghiệp Việt Nam cho tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế (1991 –

2005) từ đó rút ra bài học kinh nghiệp cho tăng trƣởng ngành công nghiệp trong

thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

Đề tài tập trung nghiên cứu vào quá trình tăng trƣởng và phát triển của

ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1991 – 2005 và phân tích yếu tố tác

10

động đến tăng trƣởng và phát triển, sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá chất lƣợng

của tăng trƣởng công nghiệp giai đoạn này.

Vấn đề chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp do nhiều yếu tố tác động,

nhiều quan điểm khác nhau về đánh giá chất lƣợng, nhƣng luận văn chỉ nghiên

cứu vấn đề này dƣới góc độ kinh tế chính trị nhƣ quan hệ sản xuất, phân phối

trao đổi, sở hữu....

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng phƣơng pháp luận duy

vật biện chứng để chứng minh tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng

ngành công nghiệp có đƣợc là nằm ngoài ý muốn chủ quan quan của con ngƣời.

Đồng thời xem xét tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp trong mối

quan hệ tác động với các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế, các trào lƣu

phát triển công nghiệp trên thế giới.

Phƣơng pháp trừu tƣợng hoá khoa học đƣợc sử dụng để gạt bỏ các yếu tố

đơn giản, ngẫu nghiên, tạm thời tác động, giữ lại những yếu tố điển hình, ổn

định, đại diện từ đó tìm ra bản chất của tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng

trƣởng ngành công nghiệp.

Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phƣơng khác nhƣ: Phƣơng pháp thống

kê, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp mô hình toán, phƣơng pháp logic...

6. Đóng góp của luận văn.

Hệ thống hoá lý thuyết tăng trƣởng, đánh giá chất lƣợng tăng trƣởng

ngành công nghiệp trên cơ sở đó ứng dụng đánh giá chất lƣợng tăng trƣởng công

nghiệp Việt Nam trong 15 năm (1991-2005) đổi mới. Từ những đánh giá đó rút

ra bài học cho chiến lƣợc phát triển công nghiệp trong giai đoạn (2006 – 2020).

Đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng

công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

11

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh muc tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chƣơng.

CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận về chất lƣợng tăng trƣởng ngành

công nghiệp.

CHƢƠNG 2: Thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng ngành công nghiệp

Việt Nam giai đoạn(1991 - 2005).

CHƢƠNG 3: Giải pháp nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp

Việt Nam giai đoạn (2006 - 2020).

II. NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN:

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP

1.1. KHÁI NIỆM TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH.

1.1.1. Hệ thống ngành kinh tế quốc dân theo hệ thống tài khoản quốc

gia (SNA_System of National Accounts).

Ngành trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) phân theo hoạt động sản

xuất. Ngành bao gồm tất cả các đơn vị cơ sở cùng một loại hoạt động sản xuất.

12

Nhƣ vậy, ngành không phải bao gồm các đơn vị sản xuất mà bao gồm các đơn vị

cơ sở giống nhau thuộc các đơn vị sản xuất khác nhau. Trong phân tích kinh tế

vĩ mô ở mức độ gộp nhất ngƣời ta phân nền kinh tế thành ba ngành: Nông

nghiệp, Công nghiệp và Dịch vụ. Phân ngành hoạt động đƣợc sắp xếp theo thứ

tự từ các sản phẩm khai thác trong tự nhiên (khu vực I), chế biến (khu vực II),

hoạt động dịch vụ (khu vực III)

Bảng phân ngành theo nghị định số 75/NĐ_CP ban hành ngày

27/10/21993 (có hiệu lực từ ngày 01/01/1994) Việt Nam có 20 ngành cấp I. Các

ngành cấp I đƣợc chi tiết thành 60 ngành cấp II. Các ngành cấp II đƣợc chi tiết

thành 159 ngành cấp III. Các ngành cấp III đƣợc chi tiết thành 299 ngành cấp

IV.

1.1.2. Các nhóm ngành thuộc ngành công nghiệp theo hệ thống tài

khoản quốc gia Việt Nam.

Công nghiệp là ngành sản xuất của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân,

có các hoạt động sản xuất chủ yếu là: khai thác; chế biến; sản xuất & cung ứng

điện, nƣớc, khí đốt

Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản nhằm khai thác các tài nguyên

thiên nhiên sẵn có trong tự nhiên để tạo nguồn nguyên liệu cho các ngành công

nghiệp chế biến hoặc tích luỹ tƣ bản cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.

Ngành công nghiệp chế biến là ngành mà thực chất hoạt động biến vật

chất tự nhiên thành dạng vật chất có tính năng, tác dụng phù hợp với nhu cầu và

khả năng sử dụng của con ngƣời, biến vật chất thành của cải vật chất.

Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nƣớc, khí đốt thuộc các ngành

kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội cần thiết cho mọi ngành, mọi lĩnh vực của sản

xuất, đời sống xã hội.

1.1.3. Khái niệm tăng trƣởng và tốc độ tăng trƣởng.

Tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản

lƣợng của nền kinh tế trong một kỳ nhất định (đơn vị thời gian thƣờng là một

năm). Khi đo lƣờng tăng trƣởng ngƣời ta thƣờng hay dùng các số đo tuyệt đối và

các số đo tƣơng đối:

13

Mức tăng trưởng tuyệt đối:

Trong đó:

Y: Tổng sản lƣợng tăng thêm.

Yn : Tổng sản lƣợng của năm n.

Y0 : Tổng sản lƣợng của năm gốc.

Mức tăng trưởng tương đối (tốc độ tăng trưởng): là tỷ lệ phần trăm (%)

của giá trị sản lƣợng kỳ sau so với kỳ trƣớc.

Trong đó:

Y: Tổng sản lƣợng tăng thêm.

Yn : Tổng sản lƣợng của năm n.

Y0 : Tổng sản lƣợng của năm gốc.

g : Tốc độ tăng trƣởng

1.1.4. Khái niệm chất lƣợng tăng trƣởng.

Từ khi kinh tế học ra đời các trƣờng phái kinh tế cố gắng xây dựng cho

mình lý thuyết hoặc mô hình kinh tế để giải thích nguồn gốc của tăng trƣởng,

các yếu tố của tăng trƣởng, yếu tố quan trọng nhất, mối quan hệ giữa tăng

trƣởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, các mô hình này mới chủ yếu

tập trung vào phân tích và đánh giá sự tăng trƣởng kinh tế vế số lƣợng còn về

mặt chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế thì chƣa đƣợc nhắc đến nhiều.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về chất lƣợng tăng trƣởng. Có

quan điểm cho rằng chất lƣợng tăng trƣởng đƣợc đánh giá ở đầu ra. Sự tăng

trƣởng tạo ra cho con ngƣời có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một tốt hơn,

tiến bộ trong bình đẳng thu nhập, bình đẳng giới, môi trƣờng sống ngày một tốt

đẹp.

Quan điểm cho rằng cùng đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng nhƣ nhau nhƣng

nền kinh tế nào sử dụng ít các yếu tố đầu vào và đòi hỏi các yếu tố đầu vào dễ

14

hơn thì nền kinh tế đó có hiệu suất sử dụng nguồn lực tốt hơn có chất lƣợng tăng

trƣởng cao hơn.

Quan điểm khác cho rằng với những nguồn lực tăng trƣởng kinh tế của

nền kinh tế nào tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn thì có chất lƣợng tăng trƣởng tốt

hơn.

Tóm lại cho đến nay chƣa có một khái niệm chính thức về chất lƣợng

tăng trƣởng, phần tiếp theo sẽ giới thiệu quan niệm về chất lƣợng tăng trƣởng

kinh tế của các nhà khoa học trong nƣớc và quốc tế.

Quan niệm 1: Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế đồng nghĩa với cơ cấu kinh

tế tiến bộ. Cơ cấu tăng trƣởng thể hiện ở chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm đóng góp của

các ngành vào tăng trƣởng và tỷ trọng đóng góp các bộ phận trong 100% giá trị

sản lƣợng. Ví dụ nhƣ tốc độ tăng trƣởng ngành công nghiệp và xây dựng Việt

Nam năm 2005 là 10,6% trong đó công nghiệp khai thác đóng góp 3,5%; công

nghiệp chế biến đóng góp 4,2%; công nghiệp điện, khí đối, nƣớc đóng góp

2,7%. Cơ cấu tăng trƣởng công nghiệp cụ thể: công nghiệp khai thác chiếm tỷ

trọng 25,6%, công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 50,5%, công nghiệp điện, khí

đốt, nƣớc chiểm tỷ trọng 23,9%.

Chất lƣợng tăng trƣởng ngành công nghiệp ngày càng cao khi mà cơ cấu

ngành công nghiệp chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ, điều này có nghĩa là trong

ngành công nghiệp tăng tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp điện,

khí đốt, nƣớc xây dựng, giảm tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác. Bởi vì

ngành công nghiệp khai thác có hàm lƣợng chất xám thấp nên giá trị gia tăng

thấp và ngành này phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên.

Quan niệm 2: Dùng thƣớc đo hiệu quả kinh tế để đánh giá chất lƣợng

tăng trƣởng kinh tế.

Tăng trƣởng kinh tế có hai phƣơng thức:

Tăng trƣởng theo chiều rộng là sự gia tăng sản lƣợng nền kinh tế nhờ gia

tăng các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật).

Tăng trƣởng theo chiều sâu là sự gia tăng sản lƣợng nhờ gia tăng năng

suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, tăng cƣờng sử dụng khoa học công nghệ.

15

Hiện nay, trên thế giới tăng trƣởng theo chiều sâu rất phổ biến ở các nƣớc

phát triển, tại những nƣớc này các nguồn lực cho tăng trƣởng theo chiều rộng đã

đƣợc huy động gần hết nên muốn tăng trƣởng buộc phải phải tăng trƣởng theo

chiều sâu ngoài ra không còn con đƣờng nào khác. Đối với các nƣớc đang phát

triển thì tăng trƣởng theo chiều rộng vẫn là chủ đạo.

Trong bối cảnh đi lên của nền kinh tế thế giới, con ngƣời sẽ đi qua nền

kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nền kinh tế tri thức có những ƣu

điểm vƣợt trội so với nền kinh tế truyền thống, thƣớc đo sự vƣợt trội này là hiệu

quả.

Quan niệm 3: Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế phản ánh bởi khả năng cạnh

tranh.

Các nền kinh tế thế giới cạnh tranh với nhau để giành thị trƣờng xuất

khẩu đầu tƣ nƣớc ngoài, họ cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục, sản xuất, dịch

vụ, quốc phòng, thành công toàn diện là nền tảng cho phát triển và thịnh vƣợng

của mỗi quốc gia.

Tăng trƣởng kinh tế phải đi liền với việc nâng cao sức cạnh tranh hàng

hoá, doanh nghiệp, quốc gia có nhƣ vậy mới là tăng trƣởng chất lƣợng cao.

Quan niệm 4: Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế góp phần giải quyết hiệu

quả các vấn đề xã hội. Tăng trƣởng kinh tế là nguồn gốc gia tăng của cải xã hội,

sự gia tăng đó chỉ có ý nghĩa khi đƣợc phân phối công bằng hiệu quả, tham gia

tích cực giải quyết các vấn đề xã hội nhƣ nâng cao thu nhập cho ngƣời dân,

giảm thất nghiệp, bảo vệ môi trƣờng, xoá đói giảm nghèo...

Quan niệm 5: Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế là phát triển bền vững.

Theo UNEP: Phát triển bền vững là một sự phát triển lành mạnh, trong đó

sự phát triển của cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của cá nhân khác,

sự phát triển của cá nhân không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng, sự phát

triển của cộng đồng này không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng khác, sự

phát triển của thế hệ hôm nay không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ mai

sau và sự phát triển của loài ngƣời không đe doạ sự sống còn hoặc làm suy giảm

nơi sinh sống của các loài khác trên hành tinh.

16

Thông qua kết quả thống kê của WB, mức độ ô nhiễm môi trƣờng tăng

dần theo tốc độ tăng trƣởng kinh tế cho tới khi thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt

tới 12.000USD/ngƣời/năm, thu nhập bình quân đầu ngƣời tiếp tục tăng thì chất

lƣợng môi trƣờng giai đoạn tiếp theo đƣợc cải thiện rõ rệt.

Quan niệm 6: Một vấn đề kinh tế do càng nhiều yếu tố quyết định thì chất

lƣợng tăng trƣởng kinh tế càng cao và ngƣợc lại.

Một số nhà kinh tế học đã đƣa ra những khái niệm đầy đủ hơn về chất

lƣợng tăng trƣởng kinh tế:

Theo quan điểm của Thoms, Dailami và Dhareshwar: chất lƣợng tăng

trƣởng kinh tế đƣợc thể hiện trên hai khía cạnh: tốc độ tăng trƣởng cao cần đƣợc

duy trì trong dài hạn và tăng trƣởng cần phải đóng góp trực tiếp vào cải thiện

một cách bền vững và xoá đói giảm nghèo.

Theo quan điểm của một số nhà kinh tế học nổi tiếng gần đây nhƣ Lucas,

Sen, Stiglitz, thì cùng với quá trình tăng trƣởng, chất lƣợng tăng trƣởng đƣợc

biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau: (1) yếu tố năng suất nhân tố tổng

hợp (TFP) cao, đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng trƣởng dài hạn và tránh

đƣợc những biến động bên ngoài; (2) tăng trƣởng phải đảm bảo nâng cao hiệu

quả kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) tăng trƣởng đi

kèm với phát triển môi trƣờng bền vững; (4) tăng trƣởng hỗ trợ cho thể chế dân

chủ luôn đổi mới, đến lƣợt nó thúc đẩy tăng trƣởng ở tỷ lệ cao hơn; (5) tăng

trƣởng phải đạt đƣợc mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm đói nghèo.

Theo quan điểm của Lê Xuân Bá (Viện quản lý kinh tế trung ƣơng –

CIEM), chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế thể hiện nhất quán và liên tục trong suốt

quá trình tái sản xuất xã hội. Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế thể hiện cả ở yếu tố

đầu vào nhƣ việc quản lý và phân bổ các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất,

lẫn kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với chất lƣợng cuộc sống đƣợc cải

thiện, phân phối sản phẩm đầu ra đảm bảo tính công bằng và góp phần bảo vệ

môi trƣờng sinh thái. Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế thể hiện sự bền vững của

17

tăng trƣởng và mục tiêu tăng trƣởng dài hạn, mặc dù tốc độ tăng trƣởng cao

trong ngắn hạn là những điều kiện rất cần thiết.

Theo quan điểm của Lê Huy Đức (Giảng viên khoa Kế hoạch và phát

triển - trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân): chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế là một

khái niệm kinh tế dùng để chỉ tính ổn định của trạng thái bên trong vốn có của

quá trình tăng trƣởng kinh tế là tổng hợp các thuộc tính cơ bản hay đặc tính tạo

thành bản chất của tăng trƣởng kinh tế trong một hoàn cảnh và giai đoạn nhất

định.

Từ những quan điểm và khái niệm nêu trên, tác giả khái quát chất lƣợng

tăng trƣởng nhƣ sau:

Chất lượng tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng bền vững dựa trên sự

tăng năng suất nhân tố tổng hợp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến

bộ, tăng trưởng đi đôi với giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội như xoá đói

giảm nghèo, công bằng xã hội, ô nhiễm môi trường.

1.2. ĐO LƢỜNG TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH.

1.2.1. Thƣớc đo tốc độ tăng trƣởng ngành.

1.2.1.1. Tổng giá trị sản xuất ngành (GO):

Tổng giá trị sản xuất ngành là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ

ngành tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất

định. Đây chính là doanh thu bán hàng thu đƣợc từ các đơn vị, ngành trong toàn

bộ nền kinh tế quốc dân hoặc giá trị sản xuất có thể tính trực tiếp từ sản xuất và

GIÁ TRỊ SẢN XUẤT = DOANH THU BÁN HÀNG + GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ SỬ

DỤNG KHÁC + GIÁ TRỊ THAY ĐỔI TỒN KHO.

dịch vụ gồm chi phí trung gian và giá trị gia tăng từ sản phẩm và dịch vụ.

Hay:

GIÁ TRỊ SẢN XUẤT = GIÁ TRỊ GIA TĂNG + CHI PHÍ TRUNG GIAN.

1.2.1.2. Giá trị gia tăng (VA):

18

Giá trị gia tăng là thƣớc đo quan trọng của ngành công nghiệp. Giá trị gia

tăng phản ánh giá trị mới tạo ra thêm nhờ sự đóng góp chung của mọi ngƣời

trong ngành. Giá trị gia tăng khác với giá trị sản lƣợng ở chỗ nó không bao gồm

giá trị của cải do các ngành cung cấp đầu vào cho ngành công nghiệp tạo ra, vì

thế, giá trị gia tăng đánh giá giá trị thực tế của ngành công nghiệp tạo ra. Giá trị

gia tăng đƣợc tạo ra dùng để phân bổ cho những ngƣời đã đóng góp cho việc tạo

ra nó dƣới dạng tiền lƣơng và phụ cấp lao động, lãi suất vay vốn, thuế, lợi tức,

lợi nhuận.

Giá trị gia tăng là chênh lệch giữa tổng đầu ra với nguyên liệu và dịch vụ

mua vào, giá trị gia tăng đƣợc tạo ra trong sản xuất và trừ đi khấu hao hay tiêu

dùng vốn cố định.

Giá trị gia tăng đƣợc tính theo hai phƣơng pháp:

Phương pháp trừ dần:

Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất – Chi phí trung gian.

Phương pháp cộng dồn:

Giá trị gia tăng = Lợi nhuận + Lãi suất + Thuế + Chi phí lao động +

Khấu hao + tiền thuê đất.

1.2.2. Thƣớc đo chất lƣợng tăng trƣởng ngành kinh tế.

Chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO), chỉ tiêu giá trị gia tăng (VA) là những chỉ

tiêu tốt nhƣng không đủ để đánh giá ngành công nghiệp một cách toàn diện.

Muốn đo chất lƣợng tăng trƣởng, cần xét đến nhiều chỉ số không nằm trong hệ

thống tài khoản quốc gia (SNA), để đánh giá nhiều mặt của nền công nghiệp.

Tuy nhiên để đánh giá chất lƣợng tăng trƣởng, cũng cần phải giới hạn những

tiêu chí trong một phạm vi.

1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp:

Cơ cấu ngành công nghiệp thể hiện cấu trúc bên trong của ngành. Cơ cấu

ngành biểu hiện qua tỷ trọng của các phần tử tạo nên cơ cấu và qua các quan hệ

chặt chẽ hay lỏng lẻo giữa các phần tử hợp thành. Cơ cấu kinh tế ngành quyết

19

định sự phát triển hài hoà, nhịp nhàng của tất cả các phần tử tạo nên cơ cấu và

cuối cùng đem lại tăng trƣởng chung cho ngành.

Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp đƣợc xem xét dƣới các góc độ:

Ngành: Sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp là quá trình chuyển

dịch cơ cấu ngành hẹp từ trạng thái này sang trạng thái khác theo hƣớng hiện

đại, tiên tiến và phù hợp với điều kiện của quốc gia, mà cụ thể tăng tỷ trọng

nhóm ngành công nghiệp chế biến, ngành sản xuất và phân phối điện, khí và

nƣớc, ngành xây dựng, giảm tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp khai thác.

Lãnh thổ: Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp nhìn nhận dƣới sự bố trí lực

lƣợng sản xuất giữa các vùng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Quá trình chuyển

dịch cơ cấu vùng cần bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hoà giữa các vùng để

đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển. Tuy nhiên cũng cần phải xem

xét vai trò trung tâm của các vùng trọng tâm phát triển, vùng đó sẽ là nơi lôi kéo

và thúc đẩy các vùng khác phát triển theo.

Sở hữu: Đa dạng hoá các loại hình sử hữu để thu hút các nguồn lực đầu tƣ

cho phát triển. Tạo điều kiện cho loại hình sở hữu nào có tính quyết định là

trung tâm cho sự phát triển nền kinh tế.

1.2.2.2. Năng suất lao động ngành:

Năng suất lao động ngành đƣợc tính bằng giá trị sản xuất trên số lao động

của ngành. Chỉ tiêu này có thể sử dụng để so sánh hiệu quả kinh tế giữa các

ngành kinh tế hoặc so sánh với các quốc gia khác. Đây cũng là một chỉ tiêu quan

trọng để giúp cho việc cơ cấu ngành kinh tế cho phù hợp. Đối với ngành công

nghiệp nặng chỉ tiêu này thƣờng thấp hơn vì kết cấu của các yếu tố cấu thành

nên giá trị sản phẩm sẽ ảnh hƣởng đến giá trị gia tăng có thể đƣợc tạo ra.

1.2.2.3. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP_ Total Factor

Productivity):

Năng suất nhân tố tổng hợp bản chất là phần làm tăng thêm năng suất

chung ngoài phần tăng do cƣờng độ vốn (lƣợng vốn trang bị cho 1 lao động) và

20

phần tăng năng suất lao động do gia tăng yếu tố đầu vào. Năng suất lao động

tăng do tác động của những nhân tố vô hình khó có thể lƣợng hoá. Có thể hiểu

TFP là kết quả của quá trình “chất lƣợng hoá‟‟ các yếu tố đầu vào để tạo ra sản

phẩm – dịch vụ. Để nhận biết TFP, phải xem xét mối quan hệ giữa kết quả đầu

ra và những yếu tố đầu vào của các quá trình tạo ra sản phẩm. Phần chênh lệch

của các kết quả đầu ra đạt đƣợc khi mà lƣợng đầu vào nhƣ nhau chính là do tác

động của các yếu tố vô hình, các tác động vô hình hày đƣợc thể hiện qua TFP.

Trong thực tế, TFP chỉ có thể nhận biết, tính toán, đánh giá đƣợc thông qua tính

toán, đánh giá sự biến đổi về chất của các yếu tố hữu hình, chủ yếu là vốn cố

định và lao động.

TFP là cơ sở để tạo ra và thể hiện sự phát triển bền vững của các quốc gia

trong phát triển kinh tế, đó là sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, năng suất lao

động cao nhƣng sử dụng hợp lý các nguồn lực, không huỷ hoại môi trƣờng. TFP

sẽ tăng dần cùng với quá trình nâng cao trình độ sản xuất và quản lý. Thực tế số

liệu thống kê của , nhờ trình độ sản xuất cao, hiệu quả quản lý cao nên TFP ở

các nƣớc phát triển đạt mức rất cao (60 – 70% tổng mức tăng năng suất chung).

Ngƣợc lại, ở các nƣớc đang phát triển do trình độ sản xuất còn thấp và hiệu quả

quản lý kém nên TFP ở các nƣớc chƣa chiếm đƣợc ƣu thế, mới chỉ chiếm từ 20

– 30% trong tổng mức năng suất chung.

Các yếu tố có thể tác động đến gia tăng TFP bao gồm:

Cơ cấu kinh tế (chuyển đổi kinh tế từ lĩnh vực hay sản phẩm hàng hoá có

giá trị gia tăng thấp sang lĩnh vực có giá trị gia tăng cao).

Nâng cao chất lƣợng lao động, đặc biệt là kỹ năng, kiến thức và kinh

nghiệm, tác phong làm việc.

Nâng cao chất lƣợng vốn, đặc biệt tính năng, công dụng, công nghệ của

thiết bị.

Cải tiến tổ chức và phƣơng thức quản lý, đặc biệt là phát huy ƣu thế của

quản lý theo các quá trình và ứng dụng công nghệ thông tin.

Phƣơng pháp để tính TFP từ hàm sản xuất Cobb Douglas

Ta có hàm sản xuất:

21

Trong đó:

Y: Đầu ra.

K: Vốn sản xuất.

L: Số lƣợng lao động.

A: là TFP.

,: các hệ số mũ phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.

Quan tâm đến tốc độ tăng của TFP cho thấy rõ việc tăng hiệu quả kinh

tế xã hội do tác động của các yếu tố vô hình nhằm chất lƣợng hoá các yếu tố hữu

hình nhƣ nâng cao chất lƣợng lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao các tính

năng công nghệ cơ bản của thiết bị, đổi mới cơ chế và phƣơng pháp quản lý đảm

bảo kiểm soát quá trình và kiểm soát chất lƣợng sản phẩm hàng hoá. Tốc độ

tăng TFP có ý nghĩa lớn trong phân tích, xác định xu hƣớng tăng trƣởng chung,

vừa đặc trƣng cho xu hƣớng phát triển theo chiều sâu, coi trọng chất xám và

công nghệ. Chính vì vậy, coi trọng vai trò của TFP, tăng tốc TFP trở thành quan

điểm chiến lƣợc trong phát triển kinh tế xã hội bền vững của nhiều nƣớc.

1.2.2.4. Khả năng cạnh tranh của ngành:

Khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp cần xem xét dƣới 3 góc độ:

sản phẩm công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, quốc gia.

+ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trong

nước:

Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất hoặc trên doanh thu

thƣờng đƣợc dùng để đo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất công

nghiệp.

Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất = x 100% Vốn sản xuất

22

Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = x 100% Giá trị sản xuất

Tỷ suất lợi nhuận càng cao nghĩa là sản xuất càng hiệu quả. Khi tốc độ

tăng trƣởng kinh tế cao và tỷ suất lợi nhuận có cùng xu thế thì chất lƣợng tăng

trƣởng tốt và ngƣợc lại.

+ Khả năng cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp trong nước:

Hàng hoá công nghiệp trong nƣớc đƣợc chia làm hai loại: hàng hoá sản

xuất phục vụ xuất khẩu và hàng hoá sản xuất phục vụ thay thế hàng nhập khẩu:

Khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu:

Giá trị xuất khẩu theo giá thực tế Tỷ lệ xuất khẩu = x 100% Giá trị sản xuất theo giá thực tế

Tỷ lệ xuất khẩu càng cao điều này chứng tỏ sản phẩm công nghiệp của đất

nƣớc làm ra có chất lƣợng tốt, đƣợc các nƣớc khác ƣa chuộng nên xuất khẩu tốt

và nhƣ vậy chính là có khả năng cạnh tranh tốt và ngƣợc lại. Nhƣ vậy, nền kinh

tế tăng trƣởng có chất lƣợng xét theo khả năng cạnh tranh phải đảm bảo sản

phẩm sản xuất ra có khả năng xuất khẩu tốt, phải đảm bảo tỷ lệ giá trị xuất khẩu

trong giá trị sản xuất tăng lên hoặc chí ít giữ nguyên. Nếu tỷ lệ xuất khẩu giảm,

điều đó có nghĩa là khả năng cạnh tranh ngày một giảm.

Bên cạnh đó khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu còn thể hiện ở

tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu trong nƣớc:

Giá trị xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ Tỷ lệ xuất khẩu sản

nguyên liệu trong nƣớc phẩm sản xuất từ 100% = x nguyên liệu trong nƣớc Tổng giá trị xuất khẩu

Nếu sản phẩm xuất khẩu từ nguyên liệu trong nƣớc càng nhiều, tỷ trọng

xuất khẩu sản phẩm từ nguyên liệu trong nƣớc càng cao, thì có nghĩa là với cùng

tổng giá trị xuất khẩu nhƣ nhau, chúng ta có thể thu đƣợc nhiều ngoại tệ cho đất

nƣớc hơn, tận dụng đƣợc nhiều công ăn việc làm cho ngƣời dân hơn. Tỷ lệ này

23

càng cao thì tăng trƣởng kinh tế càng bền vững, hạn chế sự phụ thuộc nhiều vào

nguyên liệu của nƣớc ngoài.

Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng thể hiện sức mạnh cạnh tranh của

hàng hoá xuất khẩu.

Khả năng cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp thay thế hàng nhập

khẩu: Trong thực tế hàng hoá thay thế nhập khẩu thƣờng đƣợc bảo hộ bởi các

hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá,

việc các nền kinh tế tham gia tích cực vào các tổ chức và các khu vực kinh tế –

thƣơng mại quốc tế cho thấy những rào cản bảo hộ này sẽ ngày càng đƣợc hạ

thấp, tiến tới rỡ bỏ hoàn toàn. Bởi vậy, việc đánh giá sức cạnh tranh của hàng

hoá sản xuất trong nƣớc thay thế hàng hoá nhập khẩu là điều quan trọng để nhận

biết năng lực sản xuất của đất nƣớc.

Để đo khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nƣớc so với hàng

hoá nhập khẩu, ta có thể xem xét mức chênh lệch giá cả giữa hai loại hàng hoá,

tỷ trọng nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng so với tổng kim ngạch nhập khẩu, mức

độ nhập siêu của nền kinh tế.

1.2.2.5. Tác động môi trường:

Đối với các nƣớc đang phát triển giải bài toán bảo vệ môi trƣờng quả là

một vấn đề khó, khó ví nhu cầu vốn cho phát triển cần nhiều mà tích lũy thấp,

mỗi quốc gia phải tự giải bài toán tối ƣu nguồn vốn và tài nguyên môi trƣờng.

Bài học của các nƣớc phát triển đang phải trả giá cho việc đánh đổi môi trƣờng

lấy tăng trƣởng càng làm cho các nƣớc đang phát triển lúng túng. Vậy để đánh

giá chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế với bảo vệ môi trƣờng cần xem xét mối tƣơng

quan giữa tốc độ tăng trƣởng kinh tế với tốc độ cạn kiệt tài nguyên và mức độ ô

nhiễm môi trƣờng.

24

1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG

TRƢỞNG.

1.3.1. Các nhân tố kinh tế.

1.3.1.1. Lao động:

Lao động là yếu tố sản xuất, nguồn lực sức lao động đƣợc tính trên tổng

số ngƣời ở tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động

với tƣ cách là yếu tố đầu vào, trong sản xuất, cũng giống nhƣ các yếu tố khác

đƣợc tính bằng tiền, giá cả sức lao động đƣợc hình thành trên cơ sở quan hệ

cung cầu sức lao động và biểu hiểu hiện ra là mức tiền lƣơng quy định. Lao

động là yếu tố sản xuất đặc biệt do lƣợng lao động không chỉ đơn giản là số

lƣợng (đầu ngƣời lao động hay số giờ lao động) mà bao gồm chất lƣợng của lao

động mà ngƣời ta thƣờng gọi là vốn nhân lực, đó là lao động có kỹ năng sản

xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị phức tạp, lao động có sáng kiến

và phƣơng pháp mới trong hoạt động kinh tế...Do vậy, những chi phí nhằm nâng

cao trình độ ngƣời lao động - vốn nhân lực, cũng đƣợc coi là đầu tƣ dài hạn cho

đầu vào.

Đối với các nƣớc đang phát triển sự tăng trƣởng của nền kinh tế chủ yếu

đƣợc đóng góp bởi quy mô (số lƣợng) lao động còn yếu tố vốn nhân lực của các

nƣớc này còn thấp.

1.3.1.2. Nguồn vốn:

Nguồn vốn là yếu tố đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng

trƣởng kinh tế. Vốn sản xuất là một bộ phận của tài sản quốc gia đƣợc trực tiếp

sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo

ra sản phẩm hàng hoá. Vốn sản xuất bao gồm: máy móc thiết bị, phƣơng tiện

vận tải, nhà xƣởng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện

các yếu tố khác không thay đổi thì tăng tổng vốn sản xuất trên đầu mỗi nhân lực

sẽ làm tăng thêm sản lƣợng. Tuy nhiên, sự biến thiên của vốn không chỉ đơn

giản nhƣ vậy, vì nó có liên quan đến nhiều yếu tố khác.

1.3.1.3. Khoa học- Kỹ thuật:

25

Tiến bộ khoa học kỹ thuật là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng

trƣởng ở các nền kinh tế. Yếu tố công nghệ bao hàm các dạng: thứ nhất, những

thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đƣa ra những

nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ; thứ hai, là áp

dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao

trình độ phát triển chung của sản xuất. Sự chuyển nhƣợng và ứng dụng những

phát minh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất là một lợi thế lịch sử

của các dân tộc, các nƣớc kém phát triển, vì những chi phí cho việc mua kỹ

thuật và công nghệ mới ở các nƣớc đã phát triển đỡ tốn kém thời gian và của cải

hơn rất nhiều so với việc phải đầu tƣ để có những phát minh mới.

1.3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên:

Vai trò của tài nguyên đƣợc đƣa vào sản xuất sản phẩm cho xã hội ngày

các mất vị trí, nhƣng không ai giám phủ nhận tài nguyên là lợi thế cho các nƣớc

đang phát triển trong giai đoạn đầu tích luỹ tƣ bản nhƣng phải đảm bảo chúng

đƣợc sử dụng có hiệu quả, không lãng phí. Việc sử dụng tài nguyên là vấn đề có

tính chiến lƣợc, lựa chọn công nghệ để có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài

nguyên của quốc gia là vấn đề sống còn của phát triển. Sử dụng lãng phí tài

nguyên có thể đƣợc xem nhƣ sự huỷ hoại môi trƣờng, làm cạn kiệt tài nguyên.

Nhƣ vậy, có thể thấy nguồn gốc của tăng trƣởng do nhiều yếu tố hợp

thành, vai trò của nó phụ thuộc vào hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mỗi

quốc gia. Đối với các nƣớc đang phát triển, vốn tài nguyên và lao động rẻ đóng

vai trò quan trọng. Ngƣợc lại đối với các nƣớc phát triển thì vai trò của vốn nhân

lực và tiến bộ khoa học kỹ thuật quan trọng hơn.

1.3.2. Các nhân tố phi kinh tế.

1.3.2.1. Thể chế chính trị - kinh tế:

Thể chế biểu hiện nhƣ một lực lƣợng đại diện cho ý chí của một cộng

đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, theo lợi ích

của cộng đồng đặt ra. Thể chế đƣợc biểu hiện thông qua các mục tiêu phát triển

dự kiến, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế – xã hội, luật pháp, chế độ,

chính sách là các công cụ mà bộ máy tổ chức thực hiện. Thể chế chính trị – xã

26

hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công

nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trƣởng và

phát triển nhanh chóng. Ngƣợc lại, một thể chế không phù hợp sẽ gây ra những

cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho

nền kinh tế đi vào suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính

trị, xã hội.

1.3.2.2. Tác phong người lao động:

Tác phong ngƣời lao động thể hiện là sự sắp xếp bố trí công việc một

cách khoa học, hợp lý, đứng trƣớc công việc thì giải quyết một cánh khẩn

trƣơng, chính xác, hiệu quả.

Tác phong của ngƣời lao động là kết quả của sự tích lũy lâu dài của văn

hóa, điều kiện cuộc sống và sản xuất

Tác phong của ngƣời lao động chuyên nghiệp sẽ giúp cho hiệu quả của

hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi và cao hơn. Ngƣợc lại tác phong lao

động kém sẽ làm cho cá nhân ngƣời lao động khó có thể hoàn thành công việc

theo yêu cầu, đôi khi làm cản trở sự phát triển của cá nhân và tổ chức kinh tế.

1.3.2.3.Tổ chức quản lý:

Tổ chức quản lý là hoạt động thiết yếu, hoạt động phối hợp những nỗ lực

cá nhân nhằm thu đƣợc hiệu quả, mà nếu để mỗi ngƣời hoạt động đơn lẻ thì

không thể đạt đƣợc. Nhƣ vậy, tổ chức quản lý tốt là hƣớng ngƣời lao động nhằm

đạt đƣợc mục tiêu đã định và khai thác mức tối đa tiềm năng của mỗi con ngƣời

cho mục tiêu tăng trƣởng và phát triển.

1.3.2.4. Văn hoá - xã hội:

Văn hoá - xã hội là nhân tố quan trọng, tác động nhiều tới quá trình phát

triển của mỗi quốc gia, nhân tố văn hoá - xã hội bao trùm nhiều mặt, từ tri thức

phổ thông đến những tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công

nghệ văn học, lối sống, phong tục tập quán...Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa

với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nhìn chung,

trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất

lƣợng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý.

27

1.3.2.5. Cơ cấu dân tộc:

Cơ cấu dân tộc là tỷ lệ các tộc ngƣời khác nhau cùng sống tạo nên một

cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể phân theo chủng tộc, theo khu vực sinh

sống lâu đời tạo ra những khác biệt nhất định, theo tỷ trọng số lƣợng trong tổng

dân số. Do những điều kiện sống khác nhau, đã tạo ra sự khác nhau về trình độ

tiến bộ văn minh về mức sống vật chất về vị trí địa lý, vị trí chính trị – xã hội

trong cộng đồng. Sự phát triển của tổng thể kinh tế đem đến những biến đổi có

lợi cho dân tộc này nhƣng bất lợi cho dân tộc khác. Đó chính là những nguyên

nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc, mà ta thƣờng thấy hiện nay. Do vậy,

phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhƣng lại bảo

tồn đƣợc bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục

đƣợc các xung đột và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó, tạo điều

kiện thuận lợi cho quá trình tăng trƣởng và phát triển.

1.3.2.6. Cơ cấu tôn giáo:

Vấn đề tôn giáo đi liền với vần đề dân tộc, mỗi tộc ngƣời đều theo một

tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo còn chia

thành nhiều giáo phái. Ngoài ra còn nhiều đạo giáo riêng mà chỉ một số tộc

ngƣời tôn thờ.

Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lý tƣ tƣởng riêng, ăn sâu vào

cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lý – xã hội riêng của

dân tộc. Những ý thức tôn giáo thƣờng là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi của

sự phát triển kinh tế – xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh

hƣởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nếu có

chính sách đúng đắn.

1.4. VAI TRÒ CỦA CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH.

1.4.1. Các lý thuyết về quan hệ giữa tốc độ và chất lƣợng tăng

trƣởng.

28

Khi nghiên cứu quá trình tăng trƣởng cần phải xem xét một cách đầy đủ

hai mặt số lƣợng và chất lƣợng của tăng trƣởng kinh tế. Mối quan hệ giữa mặt

lƣợng và mặt chất của quá trình tăng trƣởng là rất chặt chẽ.

Chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế là một khái niệm mang nhiều phần định

tính. Nó phản ánh nội dung bên trong của quá trình tăng trƣởng, biểu hiện ở

phƣơng tiện, phƣơng thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trƣờng chứa đựng

quá trình tăng trƣởng. Khác với chất lƣợng tăng trƣởng, tốc độ tăng trƣởng phản

ánh mặt ngoài của quá trình tăng trƣởng, thể hiện ở mức độ số lƣợng lớn nhỏ,

nhanh hay chậm của việc mở rộng quy mô.

Tốc độ tăng trƣởng và chất lƣợng tăng trƣởng là hai mặt của một vấn đề,

có quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Tăng trƣởng kinh tế về mặt lƣợng thƣờng diễn ra

trƣớc và là điều kiện tiền đề để đẩy mạnh, nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng kinh

tế. Nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế, tăng trƣởng bền vững và hiệu quả,

đến lƣợt nó góp phần tạo ra nhiều của cải, tăng thu nhập...tạo điều kiện bổ sung

nguồn lực cho chu kỳ sản xuất sau, và thúc đẩy việc tăng trƣởng về mặt lƣợng.

Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau và tuỳ theo sự lựa chọn mô hình phát

triển khác nhau mà vị trí của mặt số lƣợng và mặt chất lƣợng đƣợc đặt ra khác

nhau. Một số nền kinh tế đi lên từ nƣớc đang phát triển thành nƣớc phát triển trải

qua hai giai đoạn cơ bản:

Giai đoạn đầu của quá trình phát triển nền kinh tế huy động mọi nguồn

lực cho tăng trƣởng về số lƣợng, tăng trƣởng là đầu tàu kéo theo giải quyết các

vấn đề khác điều này có nghĩa là giai đoạn đầu này chú trọng tăng trƣởng về mặt

số lƣợng khi của cải đã dồi dào khi đó tự khắc nó sẽ giải quyết các vấn đề xã

hội.

Giai đoạn sau, khi các chỉ tiêu tăng trƣởng đã đạt đƣợc một mức độ nhất

định thì mới quan tâm đến vấn đề chất lƣợng của tăng trƣởng. Vấn đề đặt ra cho

giai đoạn này không phải là đạt đƣợc các chỉ tiêu tăng trƣởng là bao nhiêu mà là

tính hiệu quả và sự bền vững của các chỉ tiêu ấy nhƣ thế nào. Vị trí ngày càng

nâng cao của mặt chất lƣợng tăng trƣởng là hoàn toàn phù hợp với xu thế tăng

29

trƣởng dài hạn của nền kinh tế, cũng nhƣ phù hợp với mục tiêu phát triển bền

vững.

Theo phân tích động thái thay đổi vị trí số lƣợng và chất lƣợng tăng

trƣởng kinh tế nhƣ trên, có thể thấy mối quan hệ của hai mặt này cũng có những

thay đổi theo từng giai đoạn.

Giai đoạn đầu do quan tâm đến mặt số lƣợng của tăng trƣởng nhiều hơn,

trong nhiều trƣờng hợp phải bỏ qua yêu cầu của chất lƣợng tăng trƣởng. Mặt số

lƣợng và chất lƣợng tăng trƣởng gần nhƣ là hai yếu tố đánh đổi cho nhau.

Giai đoạn sau hai yếu tố này hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy nhau và tạo điều

kiện cho nhau cùng hoàn thiện. Chính việc quan tâm đến chất lƣợng tăng trƣởng

lại là cơ hội để đạt đƣợc mục tiêu về số lƣợng của tăng trƣởng lại tạo ra những

hỗ trợ về vật chất cho việc hƣớng tới chất lƣợng tăng trƣởng tốt hơn.

Việc phân chia vị trí mối quan hệ của hai yếu tố số lƣợng và chất lƣợng

tăng trƣởng theo hai giai đoạn, nhƣ phân tích ở trên, mang tính chất tƣơng đối.

Mức độ khác biệt giữa hai giai đoạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ tình trạng

phát triển kinh tế – xã hội, quan điểm, chính sách của chính phủ trong quá trình

lựa chọn con đƣờng phát triển cho đất nƣớc mình ngoài ra phải kể đến yếu tố bối

cảnh quốc tế, xu hƣớng hội nhập cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc

giải quyết mối quan hệ của hai yếu tố này. Đối với các nƣớc đang phát triển có

lợi thế lịch sử có thể khắc phục những khó khăn trong giải quyết mối quan hệ

của hai yếu tố số lƣợng và chất lƣợng tăng trƣởng, dung hoà và giải quyết đồng

thời, hợp lý hoá mối quan hệ này ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết lại ba mô hình tăng trƣởng kinh tế thể

hiện mối quan hệ giữa số lƣợng và chất lƣợng tăng trƣởng:

Mô hình 1: Tăng trƣởng không bền vững, quy mô của nền kinh tế đƣợc

mở rộng trong thời kỳ tăng trƣởng nhanh, nhƣng tại các thời kỳ khác, tăng

trƣởng kinh tế chậm lại và nền kinh tế suy giảm trì trệ.

Mô hình 2: Tăng trƣởng nhanh, mất cân đối phải trả giá bằng những tổn

thất to lớn về tài nguyên thiên nhiên, môi trƣờng. Do đánh giá thấp các loại tài

sản, nguồn vốn cho nên chậm trễ trong đầu tƣ, hoặc đầu tƣ không đúng mức cho

30

các loại vốn, đặc biệt vốn nhân lực, do đó không nâng cao hiệu quả của vốn

hoặc không sản sinh ra vốn mới.

Mô hình 3: Tăng trƣởng bền vững nhờ nguồn vốn tích luỹ từ các loại vốn

tăng lên theo thời gian một cách cân đối. Chính phủ tập trung đầu tƣ nhiều hơn

cho khu vực kinh tế công cộng nhƣ giáo dục, y tế và bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ

tài nguyên thiên nhiên. Vốn nhân lực đƣợc tiếp sức có giá trị tăng cao hơn, tạo

điều kiện đổi mới công nghệ và tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP).

Nhƣ vậy, tăng trƣởng kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn vốn vật chất thì

không thể bền vững.

1.4.2. Vai trò chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp.

Ngày nay, ngành công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP

của nền kinh tế Việt Nam và có vai trò quyết định trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Ngành công nghiệp thúc đẩy ngành nông nghiệp và

dịch vụ phát triển theo. Công nghiệp vừa tạo ra thị trƣờng vừa tạo ra những điều

kiện cần thiết nhƣ tƣ liệu sản xuất cho các ngành khác phát triển.

Chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp càng ngày càng cao đồng nghĩa với

việc năng suất và giá trị gia tăng ngày càng tăng cao làm gia tăng thuế, tăng

nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc, tăng lích luỹ cho doanh nghiệp, tăng thu

nhập cho dân cƣ, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nƣớc.

31

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1991 - 2005)

2.1. THỰC TRẠNG TĂNG TRƢỞNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN (1991 - 2005)

2.1.1. Quá trình phát triển ngành công nghiệp giai đoạn 1991 - 2005.

2.1.1.1. Giai đoạn tiền đổi mới (1986 - 1990)

Trong giai đoạn này Nhà nƣớc ta đã có những điều chỉnh lớn đối với nền

kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng:

Thứ 1: Nhà nƣớc đã ngừng đầu tƣ 40 công trình lớn và cắt giảm gần 300

công trình nhỏ. Tập trung tới 60% vốn đầu tƣ của ngân sách trung ƣơng và trên

70% vốn đầu tƣ của ngân sách địa phƣơng cho 3 chƣơng trình kinh tế lớn.

Thứ 2: Trong thời kỳ này các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng

đầu tƣ 2990 tỷ đồng bằng 38% tổng vốn đầu tƣ từ nguồn ngân sách cho công

nghiệp của trung ƣơng và địa phƣơng. Đây là một bƣớc đổi mới quan trọng việc

thừa nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và sự chuyển đổi theo hƣớng

giảm bao cấp của nhà nƣớc trong đầu tƣ xây dựng cơ bản.

Thứ 3: Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hƣớng giao cho

các xí nghiệp quốc doanh quyền tự chủ kinh doanh.

32

Tất cả những đổi mới trên đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất công nghiệp

phát triển. Về sản xuất hàng tiêu dùng, tuy sản xuất trong nƣớc còn kém nhƣng

sản lƣợng mỗi năm một tăng, chất lƣợng ngày một cao, hình thức ngày một tiến

bộ. So với năm 1986 giá trị tổng sản lƣợng hàng tiêu dùng năm 1990 tăng 60%.

Hàng hoá trên thị trƣờng dồi dào và đa dạng.

Về xuất khẩu, kim ngạch năm 1990 tăng gấp hơn 3 lần so với năm 1986.

Ngoài những mặt hàng truyền thống nhƣ: quặng, cao su, các mặt hàng lâm thổ

sản và tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ, chúng ta dần xuất khẩu dầu thô và gạo.

Về sản xuất công nghiệp, giá trị tổng sản lƣợng năm 1990 đạt 137,51 tỷ

đồng gấp 1,25 lần so với năm 1986. Bình quân hàng năm đạt tốc độ tăng trƣởng

5,9%. Đặc biệt các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng phát triển khá chiếm

bình quân tới 40% giá trị tổng sản lƣợng toàn ngành công nghiệp.

Năm 1990 Nhà nƣớc chấm dứt cơ chế kế hoạch hoá cũ, chuyển sang kế

hoạch hoá định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Ngoài một số sản phẩm đặc biệt cần có

chỉ tiêu pháp lệnh (điện, nhập khẩu xăng dầu, phân bón,...) các xí nghiệp đƣợc

quyền gần nhƣ chủ động hoàn toàn trong sản xuất và tiêu thụ. Nhà nƣớc cũng

cho phép thành lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu tƣ nhân, đồng thời tiến hành

giải thể sáp nhập doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ. Các xí nghiệp công nghiệp

quốc doanh không còn đƣợc bao cấp, lại phải cạnh tranh bình đẳng với các

thành phần kinh tế khác, nên gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là công nghiệp chế

tạo, từ năm 1989 lâm vào tình trạng suy thoái, hàng hoá không bán đƣợc, sản

xuất đình đốn, thiếu vốn, hàng loạt lao động bị thất nghiệp, nặng nhất là xí

nghiệp địa phƣơng và các cơ sở sản xuất tập thể. Nhiều xí nghiệp phải ngừng

sản xuất. Số xí nghiệp quốc doanh do trung ƣơng quản lý từ 681 cơ sở vào năm

1988, giảm xuống còn 666 cơ sở vào năm 1989, đến năm 1990 chỉ còn 589cơ

sở. Số xí nghiệp địa phƣơng giảm tƣơng ứng từ 2411 xuống 2354 và đến năm

1990 chỉ còn 2173 cơ sở. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp giảm rất mạnh từ

32.034 cơ sở xuống còn 21.901 và đến năm 1990 chỉ còn 13.086. Trong khi các

doanh nghiệp tƣ doanh và hộ kinh doanh cá thể đều tăng. Mặc dù giá trị sản

lƣợng công nghiệp năm 1989 bị giảm, nhƣng Nhà nƣớc lại giảm đƣợc thâm hụt

33

ngân sách nhờ cắt đƣợc khoản chi phí bù lỗ tràn lan cho các doanh nghiệp,

chiếm tới 1/5 tổng chi ngân sách hàng năm. Điều đáng mừng là rất nhiều xí

nghiệp, sau năm 1989 đã vƣợt qua đƣợc thử thách, đƣa sản lƣợng năm 1990 cao

hơn năm 1986 nhƣ: luyện kim đen, sản xuất thiết bị máy móc, dệt...Thậm chí có

xí nghiệp vƣợt sản lƣợng năm 1988 là năm có sản lƣợng cao nhất trƣớc khi suy

thoái, các xí nghiệp thuộc loại này nhƣ: điện và điện tử, hoá chất, vật liệu xây

dựng ....Kết quả là toàn ngành công nghiệp giá trị tổng sản lƣợng năm 1990 vƣợt

25% so với năm 1986, xấp xỉ bằng mức của năm 1988. Những chuyển biến

thuận lợi đã góp phần làm ngành công nghiệp tiếp tục phát triển trong những

năm tiếp theo.

2.1.1.2. Giai đoạn 1991 - 1995

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7 tiếp tục đẩy mạnh đƣờng lối đổi mới.

Ngành công nghiệp đã đổi mới hoạt động của mình, dần dần thích nghi với cơ

chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN, nên có tiến

bộ rõ nét, đạt đƣợc kết quả đáng khích lệ. Các ngành công nghiệp nặng từ địa

chất, khai khoáng, luyện kim, cơ khí, điện tử, kỹ thuật điện và hoá chất đều có

mức tăng trƣởng khá. Tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm của giai đoạn

1991 – 1995 của riêng ngành công nghiệp nặng đạt 19,6%.

Sản xuất công nghiệp đã dần dần đi vào thế ổn định. Năm 1991 tăng

10,0%, năm 1992 tăng 17,1%, năm 1993 tăng 12,7%, năm 1994 tăng 13,7%,

năm 1995 tăng 14,0%. Tốc độ bình quân hàng năm thời kỳ 1991 – 1995 đạt tốc

độ tăng bình quân (11%/năm) đây là mức tăng trƣởng cao nhất của ngành công

nghiệp từ trƣớc đến thời điểm đó (1976 – 1980 chỉ tăng 0,6%; năm 1981 – 1985

chỉ tăng 9,5%; 1986 – 1990 tăng 5,9%).

Sở dĩ có sự tăng trƣởng của ngành công nghiệp những năm 1991 – 1995

một phần bắt nguồn từ kết quả đầu tƣ lớn của nhiều năm trƣớc đây cho ngành

công nghiệp quan trọng nhƣ: dầu khí, xi măng. Việc đẩy mạnh khai thác dầu

thô, nâng cao hiệu suất sử dụng của các nhà máy lớn, các nhà máy này tuy đã

hoàn thành từ những năm trƣớc nhƣng gần đây mới hoàn thiện và công suất huy

động đầy đủ.

34

Các công ty nƣớc ngoài đầu tƣ vào nƣớc ta ngày càng nhiều. Tính đến hết

năm 1993 đã có 836 dự án đƣợc cấp phép với tổng số vốn đăng ký là 7,456 tỷ

đôla đến hết 10/1994 số dự án đƣợc cấp phép trên 1000 với tổng vốn đăng ký

gần 10 tỷ đôla. Cao nhất là đầu tƣ vào ngành công nghiệp, trong đó các ngành

công nghiệp nặng nhƣ xi măng, cơ khí, điển tử, hoá chất, cán thép, dầu

khí...chiếm 36%.

Sự phát triển công nghiệp giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy sự phát

triển chung của nền kinh làm cho đất nƣớc đi vào thế ổn định, đồng thời tạo

những tiền đề cần thiết để nền kinh tế có khả năng phát triển nhanh hơn, vững

chắc hơn trong giai đoạn sau.

2.1.1.3. Giai đoạn 1996 - 2000

Tình hình phát triển công nghiệp trong năm 5 (1996 – 2000) nhìn chung

đạt tƣơng đối thấp hơn so với mục tiêu Đại hội VIII đề ra. Nguyên nhân chính là

do trong quá trình triển khai kế hoạch năm 5 qua đã gặp phải ảnh hƣởng tiêu cực

của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vào giữa kỳ kế hoạch mà trong

quá trình xây dựng kế hoạch năm 5 đã không dự tính tới. Tuy nhiên, do có

những biện pháp điều chỉnh kịp thời nên ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng chỉ

có tác động tiêu cực tới tình hình phát triển công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp

chế biến) trong 2 năm 1998 và 1999.

Trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp đạt

767811 tỷ đồng và có tốc độ tăng trƣởng bình quân 13,6% (thấp hơn mục tiêu

Đại hội VIII đề ra là 14-15%). Trong hai năm đầu triển khai thực hiện kế hoạch

gặp nhiều thuận lợi với mức tăng trƣởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 14,2%

vào năm 1996 và 13,8% vào năm 1997, sát với mục tiêu thấp của kế hoạch đề

ra. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1998, do ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính

tiền tệ khu vực, làm cho thị trƣờng xuất khẩu bị thu hẹp trong khi đó nhu cầu thị

trƣờng trong nƣớc tăng chậm nên tốc độ tăng trƣởng giá trị sản xuất công nghiệp

chỉ đạt 12,5% vào năm 1998 và 11,6% vào năm 1999, thấp hơn so với kế hoạch

đề ra. Đến năm 2000, tình hình kinh tế trong nƣớc và khu vực đã có nhiều

35

chuyển biến tích cực và dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng nên phát triển công

nghiệp đã bắt đầu phục hồi trở lại và đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng cao 15,7%, cao

hơn so với kế hoạch đề ra.

Trong giai đoạn 1996 – 2000, các thành phần kinh tế đều tăng trƣởng khá,

đặc biệt khu vực công nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng cao hơn nhiều so

với khu vực công nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tốc độ tăng trƣởng

giá trị sản xuất công nghiệp trong giai đoạn này phân theo các thành phần kinh

tế cụ thể nhƣ sau:

- Công nghiệp quốc doanh trung ƣơng tăng bình quân 9,6%/năm.

- Công nghiệp quốc doanh địa phƣơng tăng bình quân 9,6%/năm.

- Công nghiệp ngoài quốc doanh tăng bình quân 11,5%/năm.

- Công nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng bình quân 21,8%/năm.

Một số sản phẩm công nghiệp đạt mức tăng trƣởng cao gồm: Chất hoá

dẻo DOP, LPG, xút thƣơng phẩm, xe đạp, gạch ốp lát, lốp ôtô máy kéo, sữa bột,

khí, xe máy, sứ vệ sinh, phân NPK, condensat, kính xây dựng, ôtô, dầu ăn. Các

sản phẩm đạt mức tăng trƣởng khá gồm: Động cơ diezen, lốp xe máy, thép, các

loại axit cơ bản, nhựa các loại, máy biến thế, phân vi sinh, xi măng, dầu thô, sơn

các loại, lốp xe đạp, săm xe máy, quần áo may sẵn, chất giặt rửa, điện thƣơng

phẩm, lắp ráp radio, đá xây dựng, săm xe đạp. Các sản phẩm đạt mức tăng

trƣởng trung bình gồm: Giấy các loại, pin các loại, động cơ điện, lắp ráp ti vi,

bia, dây điện, phân lân chế biến, khí công nghiệp, vải và sợi các loại, bột PVC,

giầy dép các loại, than sạch. Các sản phẩm có mức tăng trƣởng kém nhƣ: Sữa

hộp, phích nƣớc, thuốc lá, gạch, quặng apatit, thuốc trừ sâu, que hàn các loại,

phân đạm urê, quạt điện, các sản phẩm từ gỗ và lâm sản, than cốc.

Cơ cấu tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế

tiếp tục thay đổi theo hƣớng tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp có vốn

đầu tƣ nƣớc ngoài và giảm dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong nƣớc (kể

cả quốc doanh và ngoài quốc doanh). Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp

phân theo các thành phần cụ thể nhƣ sau:

36

- Năm 1996 công nghiệp quốc doanh chiếm 49,3%, công nghiệp ngoài

quốc doanh chiếm 24% và công nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm 26,7%

giá trị sản xuất công nghiệp.

- Năm 2000 công nghiệp quốc doanh chiếm 42%, công nghiệp ngoài quốc

doanh chiếm 22,4% và công nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm 35,6% giá

trị sản xuất công nghiệp.

Tỷ trọng GDP công nghiệp đã tăng lên đáng kể từ mức 23,2% năm 1996

lên mức 31,1% năm 2000, góp phần quan trọng vào tăng trƣởng chung của nền

kinh tế. Tỷ trọng GDP công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và sản

xuất và phân phối điện, khí đốt và nƣớc so với GDP đều tăng. Tuy nhiên, cơ cấu

nội bộ ngành công nghiệp vẫn chƣa có sự dịch chuyển theo hƣớng tăng dần tỷ

trọng công nghiệp chế biến. Do trong thời kỳ 1996 – 2000 công nghiệp khai thác

mỏ, sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nƣớc đều đạt mức tăng trƣởng bình

quân cao hơn so với công nghiệp chế biến. Tỷ trọng công nghiệp chế biến đạt

khoảng 80% về mặt giá trị sản xuất công nghiệp nhƣng chỉ chiếm khoảng 60%

về mặt giá trị gia tăng công nghiệp.

Trong giai đoạn 1996 - 2000, tổng vốn đầu tƣ cho công nghiệp đạt

145,893 ngàn tỷ đồng (theo giá 1994) chiếm 37,1% tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội.

Trong đó nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đó là nguồn

vốn đầu tƣ của nhà nƣớc cho các doanh nghiệp nhà nƣớc, nguồn vốn ODA, phần

còn lại do tƣ nhân đầu tƣ. Đầu tƣ trong giai đoạn này luôn bám sát các mục tiêu

theo quy hoạch ngành, bám sát các lộ trình hội nhập, đảm bảo cân đối các nhu

cầu của nền kinh tế. Kết quả là năng lực sản xuất của nhiều ngành đƣợc nâng lên

rõ rệt, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp đƣợc nâng cao, có

thêm nhiều năng lực sản xuất mới.

Trong giai đoạn 1996-2000 đã tiến hành chuẩn bị đầu tƣ và đầu tƣ cho

nhiều công trình trọng điểm nhƣ các công trình Thuỷ điện Yaly, Thuỷ điện Sông

Hinh, Phú Mỹ 1, Nhiệt điện Phả lại 2, Nhà máy lọc dầu số 1, Đƣờng ống Nam

Côn Sơn, đầu tƣ các công trình xi măng Hải phòng mới, Tam điệp, đầu tƣ cải

37

tạo Gang thép Thái nguyên, đạm Hà bắc,... Tiếp tục triển khai những chƣơng

trình trọng điểm nhƣ: Chƣơng trình 3 triệu tấn xi măng lò đứng, Chƣơng trình

mía đƣờng, Chƣơng trình Khí - Điện - Đạm, Chƣơng trình Kinh tế - kỹ thuật

công nghệ vật liệu và Chƣơng trình tự động hoá.

Tổng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp giai đoạn 1996 – 2000 đạt 34,12

tỷ USD, chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu và đạt mức tăng trƣởng bình

quân 29%/năm. Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu có xu hƣớng tăng dần và

đạt 70% vào năm 2000. Một số mặt hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh và

đạt đƣợc kim ngạch xuất khẩu cao trong thời gian này gồm: dầu thô, than đá,

quặng crôm, thiếc, hàng dệt – may, hàng giầy – dép, hàng thủ công mỹ nghệ,

hàng điện điện tử và linh kiện. Ngoài ra, còn một số mặt hàng công nghiệp chế

biến mới tham gia vào thị trƣờng xuất khẩu và bƣớc đầu đã có những đóng góp

tích cực làm đa dạng hoá mặt hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nhƣ

sữa, dầu thực vật, xe đạp, sản phẩm cơ khí nhỏ, sản phẩm nhựa, kết cấu thép, ...

2.1.1.4. Giai đoạn 2001 - 2005

Tốc độ tăng trƣởng kinh tế 5 năm 2001 – 2005 tƣơng đối cao và đạt mục

tiêu đề ra. Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội bình quân hàng năm đạt 7,51%,

cao hơn tốc độ tăng bình quân hàng năm 6,95% của kế hoạch 5 năm 1996 –

2000. Trong ba khu vực kinh tế thì khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ

tăng trƣởng bình quân hàng năm cao nhất. Giá trị sản xuất công nghiệp năm

2005 gấp 2,1 lần so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 16,02%, trong đó

công nghiệp Nhà nƣớc gấp 1,73 lần, bình quân mỗi năm tăng 11,53%; công

nghiệp ngoài Nhà nƣớc gấp 2,69 lần, bình quân mỗi năm tăng 21,91%, công

nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài gấp 2,17 lần, bình quân mỗi năm tăng

16,8%.

Trong 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế nƣớc ta không những tăng trƣởng

tƣơng đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khu vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 38,13%

38

năm 2001; 38,49% năm 2002; 39,47% năm 2003; 40,21% năm 2004; năm 2005

chiếm tới 41,04%. Chuyển dịch cơ cấu ngành trong khu vực công nghiệp theo

hƣớng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến. Ngành điện, ga và nƣớc đƣợc tỷ trọng

ổn định. Tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác có xu hƣớng giảm. Tuy nhiên, tỷ

trọng công nghiệp chế biến tăng không nhiều do các ngành công nghiệp gia

công lắp ráp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp. Giá trị

sản xuất công nghiệp những năm vừa qua tăng trƣởng nhanh nhƣng chủ yếu là

tăng ở các ngành may mặc, giầy da, lắp ráp ô tô, lắp ráp tivi, lắp ráp xe máy.

Một số thành tựu của ngành công nghiệp và xây dựng trong 5 năm (2001

- 2005), công suất điện năm tăng 4863MW, trong đó thuỷ điện 720MW, nhiệt

điện than tăng 800MW, nhiệt điện khí tăng 3343MW, công suất khai thác than

tăng 15,4 triệu tấn, công suất khai thác dầu thô tăng 2,2 triệu tấn; công suất khai thác khí đốt tăng 5,1 tỷ m3; công suất cán thép tăng 2390 nghìn tấn; công suất

sản xuất xi măng tăng 10,1 triệu tấn; công suất sản xuất phân bón hoá học tăng

760 nghìn tấn.

Tóm lại, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp qua 15 năm liên tục đạt

2 chữ số. Năm 2005 so với năm 1990, quy mô giá trị sản xuất toàn ngành công

nghiệp gấp trên 7,5 lần, bình quân tăng 14,5%/năm, một tốc độ tăng cao và ổn

định trong một thời gian dài điều mà nền kinh tế nƣớc ta chƣa đạt đƣợc trong

quá khứ. Tăng trƣởng cao của công nghiệp đạt đƣợc ở cả ba khu vực (khu vực

doanh nghiệp nhà nƣớc, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài). Tăng trƣởng cao cũng đạt đƣợc trên một số địa bàn quan trọng, với

tốc độ cao hơn tốc độ tăng chung, nhƣ: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh

Phúc, Bình Dƣơng, Đồng Nai, Cần Thơ, Hải Dƣơng, Khánh Hoà, Quảng Ninh,

Hải Phòng, Đà Nẵng...Tăng trƣởng cao cũng đạt đƣợc ở một số sản phẩm chủ

yếu nhƣ khai thác dầu thô, than, thép can, máy công cụ, vật liệu xây dựng...

2.1.2.Các yếu tố đầu vào tác động đến tăng trƣởng ngành công

nghiệp

2.1.2.1. Vốn

39

Đầu tƣ phát triển công nghiệp giai đoạn 1991 – 2005 tăng cả về quy mô

và tốc độ tăng trƣởng, tạo nguồn lực cho phát triển sản xuất. Nhìn chung vốn

đầu tƣ đóng vai trò chủ yếu và ngày càng tăng trong tăng trƣởng của ngành công

nghiệp. Tổng vốn đầu tƣ toàn ngành công nghiệp năm 2005 so với năm 1991

tăng 6,477 lần (từ 21415,580 tỷ đồng năm tăng lên 138.700 tỷ đồng) . Trong giai

đoạn này nền kinh tế Việt Nam cũng thu hút đƣợc 60 tỷ đôla vốn đăng ký vốn

đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI), vốn thực hiện ƣớc 27,5 tỷ đôla, trong đó đầu

tƣ cho ngành công nghiệp 40 tỷ đôla, vốn thực hiện ƣớc 18 tỷ đôla.

2.1.2.2. Lao động

Lao động là nguồn lực đầu vào quan trọng trong ngành công nghiệp. Tỷ

lệ lao động công nghiệp còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu lao động Việt Nam,

sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp còn chậm vẫn chƣa

theo kịp đƣợc với tộc độ tăng trƣởng cuả ngành. Trong giai đoạn (1991 – 2005)

rất nhiều ngành công nghiệp ở khá nhiều các địa phƣơng diễn ra hiện tƣợng

thiếu trầm trọng lao động tay nghề cao, thừa lao động phổ thông.

Bảng 2.1 : Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp

phân theo hình thức sở hữu.

Năm 2000 1991 2005

829931

682855

282770 24757

55851 77363 135696

1. Doanh nghiệp Nhà nớc - Trung ư¬ng - Địa phư¬ng 2. Ngoài quốc doanh - Hợp tác xã - DN tƣ nhân - Cty TNHH, CP, HD - Hộ kinh doanh cá thể 3. Khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài

1995 Tổng số 2183398 2633201 3306268 5242938 878974 750090 369601 444381 484171 584457 313254 305709 345760 298691 1487328 1778396 2112798 3204424 91956 80995 102230 225968 …… 386844 1146993 1179801 1509486 1542729 1771812 363539 1184634

104715

13215

(Nguồn: Niên gián thống kê 2005)

40

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp phân

theo sở hữu, năm 1991

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp phân

theo sở hữu, năm 1995

Biểu đồ 2.3: Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo sở hữu, năm 2000

41

Biểu đồ 2.4: Cơ cấu lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo sở hữu, năm 2005

2.1.2.3 Tài nguyên thiên nhiên

Tài nghiên thiên nhiên giai đoạn 1991 - 2005 đã đóng vai trò tích cực cho

sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp

nói riêng. Tài nguyên đã giúp ích rất nhiều cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng

(gần nhƣ toàn bộ nguyên liệu đầu vào của ngành này là có sẵn trong nƣớc),

ngoài ra xuất khẩu tài nguyên đã đem lại một lƣợng ngoại tệ lớn cho nền kinh,

nhờ dòng ngoại tệ này ngành công nghiệp có điều kiện hơn để đầu tƣ đổi mới

công nghệ, nhƣ dầu thô, than, quặng...Bên cạnh đó cũng đã xuất hiện mặt trái

khai thác tài nguyên quá mức, công nghệ khai thác lạc hậu dẫn đến hiệu quả

không cao, ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng sinh thái và gây ra lãng phí tài

nguyên.

2.1.3. Nhân tố đầu ra tác động đến tăng trƣởng ngành công nghiệp

Trƣớc thời kỳ đổi mới và giai đoạn 1986 – 1990 (bùng nổ khủng hoảng

kinh tế xã hội), sản xuất công nghiệp chƣa đủ tiêu dùng và sản xuất, nền công

nghiệp vẫn quên sống nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nƣớc và viện trợ công nghệ của

nƣớc ngoài. Từ năm 1991 đến nay ngành công nghiệp trong nƣớc dần dần đáp

ứng nhu cầu tiêu dùng và phục vụ sản xuất, đặc biệt để phục vụ chính sách của

Nhà nƣớc sản xuất thay thế hàng nhập khẩu tiến tới xuất khẩu.

42

Tiêu thụ trong nƣớc, dƣới tác động của chính sách kích cầu những năm

cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đã gia tăng cả về quy mô và tốc độ, trở thành

động lực của tăng trƣởng công nghiệp.

2.1.4. Những hạn chế của tăng trƣởng ngành công nghiệp

Trong giai đoạn 1991 – 2005, ngành công nghiệp đã thu đƣợc những kết

quả tốt đẹp (tốc độ tăng trƣởng cao, giải quyết đƣợc nhiều công ăn việc làm, góp

phần quan trọng vào công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc) nhƣng kết quả đó

chƣa phản ánh hết đƣợc tiềm năng thế mạnh của chúng ta. Năng suất lao động

còn thấp, hiệu quả đầu tƣ chƣa cao, sức cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp

còn yếu, một số dự án trọng điểm tạo cú huých cho phát triển công nghiệp triển

khai chậm nhiều năm, chƣa có những sản phẩm đột phá, nhóm sản phẩm tạo ra

đặc trƣng cho quốc gia.

Sản phẩm công nghiệp mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm thô, sản phẩm

gia dụng chƣa có nhiều những sản phẩm có hàm lƣợng chất xám cao.

2.1.5. Hội nhập kinh tế quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu

Kinh tế Việt Nam tuy trình độ phát triển còn thấp, song không thể tách

rời nền kinh tế toàn cầu. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế

Việt Nam ngày càng mở ra thế giới, giá trị xuất khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn

1/2 GDP; kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng với tốc độ trung bình trên

20%/năm. Việt Nam nằm trong danh sách 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim

ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới và đƣợc công nhận quốc gia có nền ngoại

thƣơng phát triển mạnh. Có những thành công nhƣ vậy nhờ quan hệ kinh tế song

phƣơng và đa phƣơng của Việt Nam không ngừng đƣợc mở rộng thông qua việc

ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn: ký hiệp định khung với Liên

minh Châu Âu (1992), tham gia Khu vực thƣơng mại Tự do ASEAN (AFTA)

(1996); tham gia diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC)

(1998); ký hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ (2000); đàm phám gia

nhập tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO). Bên cạnh đó Việt Nam đã tiến hành

ký kết song phƣơng với 54 nƣớc và vùng lãnh thổ trên thế giới về việc tránh

43

đánh thuế hai lần, đây là những điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam thâm

nhập vào các nƣớc.

Bên cạnh sự gia tăng vốn đầu tƣ, chất lƣợng lao động (yếu tố đầu vào của

sản xuất) thì những thành công về xuất khẩu (yếu tố đầu ra của sản xuất) cũng

đóng vai trò quan trọng, quyết định tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế Việt Nam

trong thời gian qua.

Hàng hoá công nghiệp xuất khẩu trong thời gian qua vẫn chủ yếu là xuất

thô và hàng gia công cho nƣớc ngoài, chúng ta đang nỗ lực tăng tỷ trọng hàng

công nghiệp đã qua chế biến có giá trị gia tăng cao.

Những thành tựu xuất khẩu trong thời gian qua có thể nói do nhiều

nguyên nhân, nguyên nhân khách quan nền kinh tế khu vực và thế giới sau một

vầi đợt biến động điều chỉnh thì đã phục hồi và phát triển hơn nên kéo theo nhu

cầu nhập khẩu gia tăng, nhất là các thị trƣờng chủ yếu của hàng hoá Việt Nam

nhƣ: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, Úc, các nƣớc Đông Nam Á...Đồng

thời giá cả hầu hết các hàng hoá trên thị trƣờng thế giới đều tăng (dầu tăng 2,7

lần; than 5 lần; gạo 2 lần....). Nguyên nhân chủ quan, để có đƣợc kết quả của sự

hội nhập này chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của Nhà nƣớc đã đi đầu

và mở đƣờng cho các doanh nghiệp và ngƣời dân tiếp bƣớc.

2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1991 - 2005

2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành trong công nghiệp.

Sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với

những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Bên cạnh tốc độ tăng trƣởng cao, cơ cấu

ngành công nghiệp của nƣớc ta trong những năm qua ở một chừng mực nào có

sự chuyển biến tích cực, nhƣng chƣa nhiều, chƣa chuyển dịch nhanh theo hƣớng

44

tiên tiến (cơ cấu công nghiệp tiên tiến, ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ

trọng rất lớn trong cơ cấu ngành, trong ngành công nghiệp chế biến thì ngành

công nghệ cao, ngành công nghiệp có hàm lƣợng chất xám cao phải chiếm tỷ

trọng lớn).

Ngành khai thác mỏ trong giai đoạn này (1991 - 2005) đã có bƣớc tiến

nhanh đại diện là khai thác dầu khí, than đẩy mạnh. Ngành dầu khí từ chỗ chƣa

khai thác đến nay đã có sản lƣợng gần 20 triệu tấn/năm (quy dầu) (năm 1990

khai thác đƣợc 1,07 triệu tấn), ngành than tăng sản lƣợng lên hơn 5 lần đạt

20triệu tấn/năm. Ngành điện cũng tăng trƣởng mạnh, từ mức sản lƣợng chƣa tới

9 tỷ KWh năm 1990, đến năm 2005 sản lƣợng điện đã tăng gấp 4 - 5 lần. Ngành

công nghiệp chế biến phát triển mạnh trong đó: ngành dệt may và da giầy đã có

bƣớc phát triển vƣợt trội, đóng góp quan trọng vào mức tăng xuất khẩu. Từ chỗ

cả nƣớc năm 1990 chỉ sản xuất 100 tấn thép thì năm 2005 đã đạt hơn 2,5 triệu

tấn thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngành điện, điện tử cũng tiến bƣớc mạnh mẽ.

Ngành vật liệu xây dựng đã sản xuất vƣợt 20 triệu tấn xi măng. Ngành xây dựng

đã có bƣớc phát triển mạnh, phục vụ xây dựng công nghiệp hoá và dân dụng.

Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và có tốc độ tăng giá trị tăng thêm cao

(16,02%), nên năm 2005 công nghiệp và xây dựng vẫn là khu vực có đóng góp

lớn nhất vào tốc độ tăng trƣởng chung, chiếm tới 49,7% hay 4,2 điểm phần trăm

tốc độ tăng trƣởng GDP.

Kết quả của việc chuyển dịch hoạt động nông nghiệp sang các ngành

công nghiệp và dịch vụ đã làm cho lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn

56,8% tổng số công ăn việc làm trong năm 2005 so với mức 73% năm 1991, lao

động nhóm ngành công nghiệp do đó mà tăng lên từ 11,2% (năm 1991) tăng lên

17,9% (năm 2005). Tuy diễn biến chuyển dịch lao động từ nông nghiệp diễn ra

chậm và ta thấy kết quả chuyển đổi cơ cấu sản lƣợng theo ngành chƣa tỷ lệ

thuận với chuyển đổi cơ cấu lao động, nhƣng tiến trình đổi mới cơ cấu lao động

trên đây là một bƣớc tiến trong phân bổ lao động xã hội và quỹ đạo chuyển đổi

cơ cấu ngành công nghiệp theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

45

Nếu xét theo phân ngành của ngành công nghiệp thì có sự gia tăng tỷ

trọng ngành công nghiệp chế biến (năm 1991 chiếm tỷ trọng 75,4%, năm 2000

chiếm 79,7%, năm 2005 chiếm 84,9%); tỷ trọng sản xuất điện, khí đốt và nƣớc

duy trì tỷ lệ ổn định (6,6% của năm 1991, năm 2000 đạt tỷ trọng 6,5%, năm

2005 chiếm 6%); giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác (năm 1991 chiếm tỷ trọng

18% giảm xuống còn 9,1% vào năm 2005). Với sự chuyển dịch cơ cấu ngành

công nghiệp theo hƣớng tích cực.

Bảng 2.2: Cơ cấu sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994)

phân theo ngành công nghiệp (1991 - 2005)

(ĐVT: %)

Năm

1991 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

18

13,4

13,5

13,6

14

14,6

13,8

12,8

11,6

10,7

10,5

9,1

A. Công nghiệp khai thác

75,4

80,6

80,3

80,1

79,8

79,2

79,7

80,7

81,8

82,9

83,3

84,9

B. Công nghiệp chế biến

6,6

6

6,2

6,3

6,2

6,2

6,5

6,5

6,5

6,4

6,1

6

C. SX & phân phối điện, khí đốt và nƣớc

(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005)

Biểu 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994)

phân theo ngành công nghiệp, giai đoạn (1991 – 2005)

Bảng 2.3: Cơ cấu sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994)

phân theo ngành công nghiệp (1995 - 2005)

ĐVT:%

Ngành

1995 1998 2000

2003

2005

100

100

100

100

100

13,4

14,0

13,8

10,7

9,1

Tổng số

A_ Công nghiệp khai thác mỏ

46

1,6

1,4

1,2

Khai thác than

1,2

1,4

10,5

11,2

11,5

Khai thác dầu thô và khí tự nhiên

8,2

6,5

0,2

0,1

0,1

Khai thác quặng kim loại

0,1

0,2

1,1

1,3

1,0

Khai thác đá và mỏ khác

1,2

1,0

80,6

79,8

79,7

82,9

84,9

B_ Công nghiệp chế biến

26,1

24,1

22,0

21,2

20,9

Sản xuất thực phẩm và đồ uống

Sản xuất thuốc lá, thuốc lào

4,0

3,2

2,9

3,0

2,6

Sản xuất sản phẩm dệt

6,0

5,5

5,1

4,7

4,7

Sản xuất trang phục

2,9

3,1

3,0

3,4

3,7

Sản xuất sản phẩm bằng da, giả da

3,4

4,7

4,5

4,4

4,6

Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản

3,2

2,0

1,8

1,8

1,9

1,9

2,1

2,0

Sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy

1,9

2,1

1,5

1,2

1,1

Xuất bản, in và sao bản ghi

1,2

0,9

0,3

0,1

0,1

Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế

0,1

0,1

4,9

5,4

5,6

Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất

5,4

5,3

2,2

2,9

3,3

Sản xuất sản phẩm cao su và plastic

3,7

4,7

8,8

9,1

9,2

Sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác

9,8

9,1

3,3

2,7

3,0

Sản xuất kim loại

3,4

3,3

2,8

2,9

Sản xuất sản phẩm bằng kim loại (trừ máy móc, thiết bị) 2,3

3,5

3,8

1,3

1,4

1,4

Sản xuất máy móc, thiết bị

1,5

1,5

0,0

0,2

0,7

Sản xuất TB văn phòng, máy tính

0,5

0,6

1,1

1,5

1,8

Sản xuất thiết bị điện

2,4

2,8

2,0

2,3

2,2

Sản xuất radio, tivi và TB truyền thông

2,3

2,3

0,2

0,2

0,2

0,2

0,2

Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ

1,4

1,1

1,6

Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ

2,7

2,6

1,8

2,2

3,2

Sản xuất, sửa chữa phƣơng tiện vận tải khác

3,2

4,0

1,9

1,9

2,0

Sản xuất giƣờng, tủ, bàn, ghế

2,6

3,3

0,1

0,1

0,1

Sản xuất sản phẩm tái chế

0,1

0,1

6,0

6,2

6,5

C_ Sản xuất &phân phối điện, khí đốt và nƣớc

6,4

6,0

5,3

5,6

6,0

Sản xuất và phân phối điện, ga

5,9

5,6

0,1

0,6

0,5

Sản xuất và phân phối nƣớc

0,4

0,4

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Xét cơ cấu công nghiệp phân theo sở hữu trong giai đoạn 1991 – 2005

có sự chuyển biến mạnh từ sở hữu nhà nƣớc kém hiệu quả sang sở hữu có yếu tố

47

nƣớc ngoài. Nhƣ chúng ta biết doanh nghiệp thuộc sở hữu của yếu tố nƣớc ngoài

có hiệu quả kinh tế cao hơn doanh nghiệp trong nƣớc, đối tƣợng này đang gia

tăng sở hữu. Xét về góc độ năng suất lao động, cạnh tranh thì quá trình này là

điều tích cực cho việc nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp Việt Nam

Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định)

phân theo hình thức sở hữu.

(ĐVT:%)

1991

1994

1998

2001

2003 2005

Tổng số

100

100

100

100

100

100

I. Doanh nghiệp Nhà nƣớc

55,8

57,2

45,9

41,1

38,6

34,3

Trung ƣơng

35,3

37,1

30,2

27,3

26,5

25,2

Địa phƣơng

20,4

20,1

15,7

13,8

12,0

9,1

II. Ngoài quốc doanh

31,5

27,6

22,1

23,6

25,7

28,5

Hợp tác xã

4,8

1,1

0,6

0,7

0,6

0,5

DN tƣ nhân

1,4

2,4

2,2

2,3

2,4

3,1

Cty TNHH, Cty Cổ phần

-

2,7

5,5

9,6

12,8

16,1

Cá thể

25,2

21,4

13,8

11,0

9,9

8,8

III. Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài

12,7

15,2

32,0

35,3

35,7

37,2

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Biểu đồ 2.6: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định

1994) phân theo hình thức sở hữu, năm 1991

48

Biểu đồ 2.7: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định

1994) phân theo hình thức sở hữu, năm 1994

Biểu đồ 2.8: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định

1994) phân theo hình thức sở hữu, năm 2001

49

Biểu đồ 2.9: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định

1994) phân theo hình thức sở hữu, năm 2005

Tóm lại, cơ cấu ngành công nghiệp còn rất lạc hậu so với các nƣớc công

nghiệp mới (NICs), trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành công

nghiệp theo hƣớng tích cực nhƣng diễn ra vẫn còn rất chậm và chƣa đạt đƣợc

nhƣ sự kỳ vọng của Đảng và Nhà . Cơ cấu ngành công nghiệp của Việt Nam

(năm 2005) giống nhƣ cơ cấu kinh tế của một số nƣớc NICs ở những năm đầu

thấp kỷ 80 của thế kỷ 20 (năm 2004, cơ cấu ngành công nghiệp của Hàn Quốc:

khai khoàng: 0,73%; công nghiệp chế biến 73,53%; điện hơi đốt, nƣớc và xây

dựng: 25,74%; Singapore: khai khoáng: 0,5%; công nghiệp chế biến: 80%).

50

Cơ cấu ngành công nghiệp phân theo vùng có sự gia tăng tỷ trọng của các

vùng có điều kiện cơ sở hạ tầng, nhân lực thuận lợi cho quá trình sản xuất nhƣ

Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Hồng. Một số vùng lãnh thổ có điều kiện tài

nguyên thuận lợi nhƣng tỷ trọng so với cả nƣớc có chiều hƣớng suy giảm điều

này còn có thể giả thích do điều kiện khai thác quá khó khăn, nhân lực trình độ

cao thiếu và xa thị trƣờng tiêu thụ. Bên cạnh đó có những vùng suy giảm tỷ

trọng một cách đáng ngạc nhiên nhƣ Đông Sông Cửu Long.

Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp

(theo giá cố định năm 1994) phân theo vùng kinh tế nƣớc ta

N¨m Tổng số

1.Đồng Bằng Sông Hồng 2.Đông Bắc 3.Tây Bắc 4.Bắc Trung Bộ 5.Duyên Hải Nam Trung Bộ 6.Tây Nguyên 7.Đông Nam Bộ 8.Đồng Bằng Sông Cửu Long 9.Không phân vùng 1991 1993 1995 1998 2000 2003 2005 100 100 22.8 19.1 5 5.6 0.3 0.3 3.7 3.2 5.3 4.8 0.8 1 48.2 50.5 9 10.2 4.8 5.4 100 21.8 5.3 0.3 3.9 5.1 0.8 48.5 9.2 5.1 100 20.4 5.4 0.3 3.6 4.9 1 50.2 9.3 5 100 13.6 6.2 0.2 4.6 5.8 1 46.2 15.3 7.1 100 13.5 5.8 0.2 4.3 5.2 1.4 49.6 13.8 6.3 100 15.3 6.6 0.3 3.8 5.1 1.3 48.9 12.1 6.6

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

2.2.2. Hiệu quả kinh tế

Bên cạnh việc xem xét chuyển dịch cơ cấu ngành để phản ánh chất lƣợng

tăng trƣởng ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1991 - 2005 thì thƣớc đo

hiệu quả kinh tế thể hiện phần nào chất lƣợng tăng trƣởng của ngành trong ngắn

hạn, trung hạn và dài hạn. Hiệu quả kinh tế thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng

các yếu tố đầu vào của tăng trƣởng nhƣ vốn (hiệu quả đầu tƣ), lao động (năng

suất lao động), trình độ khoa học công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng

trƣởng) và tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất.

2.2.2.1. Năng suất lao động trong ngành công nghiệp

Năng suất lao động trong ngành công nghiệp (đƣợc xác định bằng giá trị

sản xuất công nghiệp trên số lao động đang làm việc) của Việt Nam còn rất thấp:

51

năm 1991 đạt khoảng 27,59 triệu đồng/ngƣời/năm. Đó là số rất thấp so với các

nƣớc ASEAN nhiều lần (nếu Việt Nam là 1 thì Indonesia = 2,34, Philippines =

3,2; Thailan = 8,64).

Bảng 2.6: Năng suất lao động ngành công nghiệp

giai đoạn (1995 - 2005)

Năm NSLĐ (GO/lao động)(tr.đồng) Tốc độ tăng NSLĐ(%)

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

39.32 43.02 49.50 55.15 56.73 59.98 63.38 61.62 65.75 72.10 78.75

... 9.41 15.07 11.42 2.86 5.74 5.66 -2.78 6.71 9.66 9.22

Giá trị sản xuất GO)(tr.đồng) 103525119 118096555 134419717 151223389 168749465 198326126 227342416 261092437 305080377 355624168 416863190 Số lao động (ngƣời) 2633201 2745452 2715770 2742089 2974737 3306268 3586809 4237217 4639911 4932217 5293612 Tốc độ tăng GDP(%) 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.97 6.89 7.08 7.34 7.69 8.40

(Ghi chú: giá trị sản xuất tính theo giá cố định năm 1994)

(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu thống kê của Tổng cục thống kê)

Qua bảng số liệu chúng ta thấy tốc độ tăng năng suất lao động ngành công

nghiệp bằng hoặc nhỉnh hơn tốc độ tăng GDP.

Trong giai đoạn 1995 – 1998, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á

- Thái Bình Dƣơng chƣa ảnh hƣởng đến nền kinh tế Việt Nam thì năng suất lao

động ngành công nghiệp tăng trƣởng rất cao so với tốc độ chung của nền kinh tế,

thế nhƣng đến giai đoạn 1999 – 2002, tốc độ tăng trƣởng năng suất lao động

ngành công nghiệp thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trƣởng nền kinh tế qua

đó phần nào cho thấy giai đoạn 1995 – 1998 và 2003 – 2005 tốc độ tăng trƣởng

lao động có đƣợc nhờ đóng góp lớn từ nguồn vốn đầu tƣ mà cụ thể ở đây là

nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngoài.

52

Bảng 2.7: Năng suất lao động của từng ngành công nghiệp giai đoạn (1995 - 2005)

Số lao động (ngƣời)

Giá trị sản lƣợng (tỷ đồng)

Năng suất lao động (tr.đồng/lao đông)

Tốc độ tăng NSLĐ(%)

Năm

khai thác

chế biến

điện, nƣớc

khai thác

chế biến

điện, nƣớc

khai thác

chế biến

điện, nƣớc

khai thác

chế biến

35.68

63.80

80.19

77245

6194,4

83411,0

218162 2337794

-

-

điện, nƣ- ớc -

70.91

65154

7341,3

38.61 112.68

225192 2455106

11.14

8.21

40.51

58873

8443,7

221629 2435268

44.21 143.42

82.63

16.53

14.51

27.29

9440,0

49.12 154.84

60966

94.10

13.88

11.10

7.96

105.90 49.98 155.06

67502

12.54

1.76

0.14

121.73 52.54 176.84

72910

14.95

5.13

14.05

141.04 68.02 186.93

78656

15.86

29.45

5.71

120.54 54.76 204.60

83427

9.45

-14.54

-19.49

88382

6.21

7.50

7.46

17.37 12,48

9.96 5,39

-5.83 -3,65

1995 13919,7 1996 15968,3 94787,6 1997 18313,7 107662,3 1998 21117,8 120665,5 224420 2456703 1999 24580,6 133702,3 10466,5 232115 2675120 2000 27334,5 158098,0 12893,6 224544 3008814 2001 29097,2 224596,5 14703,4 206302 3301951 2002 30326,2 213696,9 17069,3 251593 3902197 2003 32762,2 252886,1 19432,0 255906 4295623 128.02 58.87 219.86 2004 37464,1 296293,9 21866,1 249321 4577285 105611 150.26 64.73 207.04 2005 39325,9 324594,5 22632,2 232670 4757592 113461 169,02 68,22 199,47

(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu thống kê của Tổng cục thống kê)

Với kết quả tính toán ở trên trong giai đoạn 1996 – 2005 tốc độ tăng

trƣởng năng suất lao động ngành khai thác tài nguyên luôn cao hơn mức tăng

trƣởng chung của ngành công nghiệp, ngƣợc lại năng suất lao động ngành công

nghiệp chế biến lại có mức tăng trƣởng thấp hơn, điều này sẽ ảnh hƣởng xấu đến

chất lƣợng tăng trƣởng ngành công nghiệp, ảnh hƣởng đến phát triển bền vững

của nền kinh tế (gia tăng mức độ khai thác tài nguyên thiên nhiên trong khi mức

độ gia tăng chế biến lại chậm).

2.2.2.2. Hiệu quả đầu tư

Bảng 2.8: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn SXKD của doanh nghiệp công nghiệp phân theo sở hữu(không gồm cá thể)

Ngành - Năm 1991 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Tổng số 0,076 0,095 0,096 0,088 0,090 0,090 0,099 0.105

Doanh nghiệp Nhà nƣớc

0,039 0,045 0,057 0,054 0,057 0,036 0,055 0,061

Ngoài quốc doanh

KV có vốn ĐT nƣớc ngoài 0,125 0,135 0,158 0,155 0,152 0,162 0,164 0,169

0,021 0,015 0,011 0,017 0,022 0,023 0,035 0,042

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

53

Biểu đồ 2.10: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn của doanh nghiệp

công nghiệp phân theo sở hữu

Bảng 2.9: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn SXKD

của doanh nghiệp công nghiệp phân theo ngành (không gồm cá thể)

1991 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Công nghiệp khai thác

0,415 0,430 0,446 0,433 0,432 0,433 0,462 0,490

Công nghiệp chế biến

Sản xuất & phân phối

0,022 0,032 0,026 0,030 0,037 0,040 0,043 0,050

điện, khí đốt và nƣớc

0,043 0,055 0,065 0,093 0,101 0,067 0,123 0,126

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Biểu đồ 2.11: Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn của doanh nghiệp

công nghiệp phân theo ngành

54

Tỷ suất lợi nhuận của 1 đồng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

công nghiệp Việt Nam là rất thấp (tỷ suất lợi nhuận trên 1đồng vốn sản xuất mới

sấp sỉ bằng 10%). Xét về nguồn vốn sở hữu thì thấy doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều so với doanh nghiệp Nhà nƣớc và

doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để lý giải cho vấn đề này có thể giải thích là

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có tiềm lực về vốn, trình độ công nghệ

tiên tiến, trình độ quản lý cao nên có hiệu quả đầu tƣ cao.

Phân theo ngành, ngành công nghiệp chế biến là ngành trụ cột của ngành

công nghiệp Việt Nam thì lại có tỷ suất sinh lời trên 1 đồng vốn sản xuất thấp

nhất trong số 3 ngành của ngành công nghiệp. Đây sẽ là trọng tâm để phấn đấu

nếu chúng ta muốn nâng cao chất lƣợng ngành công nghiệp.

2.2.3. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)

Năng suất lao động ngành công nghiệp gia tăng chậm, trong khi hiệu quả

đầu tƣ có xu hƣớng ổn định (năm 1991: 0,076 đồng lợi nhuận/1đồng vốn sản

xuất kinh doanh; năm 2000: 0,096 đồng lợi nhuận/1đồng vốn sản xuất kinh

doanh; năm 2004 (0,099 đồng lợi nhuận/1 đồng vốn sản xuất kinh doanh), đã

cho chúng ta thấy cái nhìn rõ về chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp dƣới góc

độ hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, cần lƣu ý rằng, việc tính toán năng suất của lao

động và vốn nhƣ trên không tách đƣợc tác động riêng phần của từng nhân tố đối

với tăng trƣởng. Cụ thể, theo cách tính nhƣ trên, năng suất của nhân tố này cũng

55

chịu tác động từ sự thay đổi của nhân tố kia. Ví dụ, năng suất của lao động có

thể tăng lên do đầu tƣ gia tăng. Để đánh giá đƣợc chất lƣợng của tăng trƣởng

kinh tế thì cần xem xét năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Các nhà kinh tế thế giới có nhận xét rằng: Tỷ lệ đóng góp của lao động và

vốn càng nhiều thì sự phát triển của nền kinh tế càng thiên về chiều rộng, bằng

cách sử dụng các nguồn lực vật chất. Ngƣợc lại, tỷ lệ đóng góp của TFP càng

lớn thì tăng trƣởng càng mang tính chất phát triển theo chiều sâu và yếu tố bền

vững càng có cơ sở đảm bảo. Tăng trƣởng TFP thể hiện cả hiệu quả khoa học –

công nghệ lẫn hiệu quả sử dụng các nguồn lực; trong giai đoan 1991 – 1996,

tăng trƣởng TFP là nhân tố quyết định tăng trƣởng công nghiệp Việt Nam.

Nhƣng giai đoạn 1997 – 2004, tăng trƣởng công nghiệp đƣợc quyết định bởi

tăng trƣởng vốn là chủ yếu.

Trong giai đoạn 1991 – 1996, tăng trƣởng TFP đóng góp khoảng 50 –

70% tăng trƣởng công nghiệp; trong khi đó đóng góp của sự tăng vốn chiếm

khoảng 20 – 40%, còn lao động đóp góp khoảng 5 – 20% tăng trƣởng công

nghiệp. Trong giai đoạn 1997 – 2004, vốn là yếu tố quyết định tăng trƣởng công

nghiệp, còn TFP mất dần vai trò chủ đạo.

Giai đoạn 1997 – 2004, tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trƣởng công

nghiệp của yếu tố vốn đã tăng từ 48,1% lên 62,9%; yếu tố lao động đã tăng từ

19,1% lên 20,9%, yếu tố TFP giảm từ 32,8% xuống còn 16,2%. Qua số liệu cho

thấy rằng tăng trƣởng công nghiệp của Việt Nam thiên hƣớng nhiều về số lƣợng

hơn là chất lƣợng, thiên về chiều rộng hơn là chiều sâu. Trong tăng trƣởng theo

chiều rộng thì sự tăng trƣởng của ngành công nghiệp nƣớc ta cũng nghiêng

nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ trọng đóng góp của vốn cao gấp 3

lần lao động). Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nƣớc ta đang còn thiếu, lao động

là yếu tố nƣớc ta rất dồi dào, nếu cứ kéo dài tình trạng này, tăng trƣởng công

nghiệp Việt Nam sẽ không bền vững, chất lƣợng tăng trƣởng không đƣợc cải

thiện, kéo theo làm kìm hãm tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế.

Năm

Bảng 2.10: Các nguồn tăng trƣởng công nghiệp Việt Nam 1991 - 2004

Đóng góp

Đóng góp Đóng góp của

56

của vốn 18.2 15.3 38.6 39.4 40.2 35.7 48.1 57.9 61.4 64.5 58.2 65.7 70.8 62.9

của lao động 15.4 18.5 14.8 20.7 17.9 5.4 19.1 17.4 16.6 16.2 25.6 30 32.6 20.9

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

TFP 66.4 66.2 46.6 39.9 41.9 58.9 32.8 24.7 22 19.3 16.2 4.3 -3.4 16.2

Nguồn: Trần Thọ Đạt (2005), Source of Vietnam’s Economic Growth 1986 - 2004,

NXB. Thống kê, Hà Nội

2.2.4. Phân tích chi phí trung gian

Chi phí trung gian của ngành công nghiệp trong giai đoạn 1991 – 2005

tăng cao, điều này có thể giải thích bằng các nguyên nhân nhƣ: cơ cấu ngành

chuyển dịch theo hƣớng tăng tỷ trọng những ngành chế biến, giá nhập khẩu tăng

lên trong những năm qua...Có một số nguyên nhân chủ quan nhƣ lãng phí, thất

thoát trong đầu tƣ, trong sản xuất kinh doanh, chi phí thuê mua địa điểm sản

xuất kinh doanh cao, tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thƣơng mại lớn,

các chi phí bôi trơn ngoài tầm tay của doanh nghiệp cao...

Qua số liệu của các bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ chi phí trung gian trong

giá trị sản xuất tính chung cho toàn ngành công nghiệp tăng liên tục trong thời

gian qua (năm 2000 là 65,36%; năm 2001 là 66,77%; năm 2002 là 67,51%; năm

2003 là 68,63%). Phân theo ngành thì ngành công nghiệp chế biến có tỷ trọng

lớn (ngành chế biến chiếm tới 90,97% chi phí trung gian của ngành), là ngành

đóng góp lớn vào giá trị sản xuất của ngành công nghiệp nhƣng ngành này cũng

có chi phí trung gian rất cao (năm 2003 chi phí trung gian chiếm tới 76,76% giá

trị sản xuất, mức chi phí này lại đang có xu hƣớng gia tăng trong thời gian qua.

Điều này khẳng định lại một lần nữa ngành công nghiệp của chúng ta vẫn đang

chủ yếu là sản xuất thô, sản xuất những hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, nền

sản xuất gia công là chủ yếu.

57

Một trong những nét đặc trƣng nổi bật về biến động tổng chi phí trung

gian của ngành công nghiệp trong thời gian 2000 – 2003 là chi phí trung gian

của ngành công nghiệp tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất

(giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 22,7%/năm, trong khi chi phí trung

gian tăng bình quân 24,7%/năm). Bình quân mỗi năm, tỷ lệ chi phí trung gian

trong giá trị sản xuất tăng lên 1,12%, cũng đồng nghĩa với việc làm giảm giá trị

tăng thêm 1,12% so với giá trị sản xuất.

Trong tổng số chi phí trung gian nguyên liệu chiếm trên 81% tăng bình

quân 25%/năm, tăng cao hơn mức tăng tổng chi phí trung gian. Chi phí dịch vụ

chiếm trên 9%, tăng 27,3%, chi phí về nhiên liệu, năng lƣợng chiếm khoảng

10% tổng chi phí trung gian nhƣng lại có mức tăng thấp hơn mức tăng chung

của tổng chi phí (nhiên liệu tăng 20,5%; năng lƣợng tăng 21,3%. Qua đó cho

thấy vấn để giảm chi phí trung gian trong ngành công nghiệp nói chung và

ngành công nghiệp chế biến nói riêng là tìm các biện pháp giảm chi phí nguyên

liệu đầu vào, tiết kiệm trong việc sử dụng các dịch vụ phục vụ sản xuất nhƣ vận

tải, tƣ vấn, tiếp khách, họp, hội nghị....là những dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và dễ

phát sinh lãng phí.

Bảng 2.11: Tốc độ tăng trƣởng ngành công nghiệp 1991 – 2005

ĐVT: %

Giá trị sản

Giá trị gia

Chi phí trung

Năm

xuất (GO)

tăng (VA)

gian (IE)

10,4

7,7

2,7

1991

17,1

12,8

4,3

1992

12,7

12,6

0,1

1993

13,7

13,4

0,3

1994

14,5

13,6

0,9

1995

14,2

14,5

-0,2

1996

13,8

12,6

1,2

1997

12,5

8,3

4,2

1998

11,6

7,7

3,9

1999

17,5

10,1

7,5

2000

14,6

10,4

4,2

2001

58

14,8

9,5

5,4

2002

16,8

10,5

6,4

2003

16,0

10.2

5,8

2004

17,2

10,6

6,6

2005

(Nguồn: Tổng cục thống kê).

Quan bản số liệu trên chúng ta có thể thấy tốc độ gia tăng giá trị gia tăng của

ngành công nghiệp rất chậm trong vòng 15 năm đổi mới (1991 – 2005); phần

nào nói lên rằng ngành công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 1991 – 2005 mới

chỉ tăng trƣởng theo chiều rộng (giá trị gia tăng nhờ gia tăng quy mô các yếu tố

sản xuất) còn về chất lƣợng tăng trƣởng chƣa cao (gia tăng giá trị trên mỗi đơn

vị sản xuất chƣa đƣợc cao) (tốc độ gia tăng giá trị gia tăng năm 1991: 7,7%; năm

2005: 10,6%; trong khi đó tốc độ tăng giá trị sản xuất năm 1991: 10,4%; năm

2005: 17,2%)

Biểu đồ 2.12: Tốc độ tăng trƣởng ngành công nghiệp (1991 – 2005)

Bảng 2.12: Cơ cấu chi phí trung gian ngành công nghiệp (theo giá thực tế)

ĐVT:%

Ngành 2000 2001 2002 2003

100 100 100 Tổng số 100

59

A Công nghiệp khai thác 6,56 4,80 4,81 4,92

B Công nghiệp chế biến 88,68 90,52 90,62 90,97

C Sản xuất & phân phối điện, khí đốt và nƣớc 4,76 4,68 4,57 4,11

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Bảng 2.13: Tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất

ngành công nghiệp (theo giá thực tế)

Ngành 2000 2001 2002 2003

Tổng số 65,36 66,77 67,51 68,63

A Công nghiệp khai thác 27,15 24,27 25,23 24,92

B Công nghiệp chế biến 73,68 74,56 75,06 76,76

C Sản xuất & phân phối điện, khí đốt và nƣớc 56,12 54,58 54,92 55,78

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

2.2.5. Sức cạnh tranh của ngành công nghiệp

2.2.5.1. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp có nhiều

tiêu chí khác nhau nhƣng nếu chỉ xét riêng về hiệu quả kinh tế thì tập trung vào

chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận trên

doanh thu, hai chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng cạnh tranh càng lớn, và ngƣợc

lại, tỷ số càng thấp thì khả năng cạnh tranh càng kém.

Xét về thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp thì doanh nghiệp có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất cao nhất (năm 1991

là: 12,5%; năm 2000 là: 15,8%; năm 2005 là:16,9%), chỉ tiêu này đối với doanh

nghiệp Nhà nƣớc thấp hơn nhiều (năm 1991 là: 3,9%; năm 2000 là: 5,7%; năm

2005 là: 6,1%), nhƣng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỷ lệ này còn xấu

hơn nữa (năm 1991 là: 2,1%; năm 2000 là 1,1%; năm 2005 là 4,2%). Qua đó

cho ta thấy doanh nghiệp càng nhỏ thì trình độ công nghệ càng thấp dẫn đến tỷ

suất lợi nhuận thấp. Xem xét tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng cho ta kết

luận tƣơng tự nhƣ vậy. Tính chung tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất của các

doanh nghiệp công nghiệp trong nƣớc đều rất thấp (năm 1991 là: 7,6%; năm

60

1995 là: 9,5%; năm 2000 là 9,6%; năm 2005 là 10,5%). Với mức tỷ suất chung

nhƣ thế này có thể thấy rất nhiều doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hoạt động

kém hiệu quả.

Xét về cơ cấu ngành công nghiệp tỷ suất lợi nhuận trên một đồng vốn sản

xuất kinh doanh của ngành công nghiệp công nghiệp khai thác tăng từ 41,5%

(năm 1991) lên 49,0% (2005); công nghiệp chế biến từ 2,2% (1991) lên 5,0%

(2005); ngành điện, nƣớc, khí đốt từ 4,3% (năm 1991) tăng lên 12,6% (năm

2005); tóm lại các ngành của ngành công nghiệp đều có sự gia tăng tỷ suất lợi

nhuận trên một đồng vốn sản xuất kinh doanh nhƣng trong đó ngành điện, nƣớc,

khí đốt có tốc độ tăng mạnh nhất; ngành công nghiệp khai thác có tốc độ tăng

chậm nhất, đối với ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi có tốc độ tăng tỷ suất lợi

nhuận trên 1 đồng vốn sản xuất kinh doanh cao nhƣng ở giai đoạn này ở Việt

Nam duy trì mức trung bình điều này chứng tỏ ngành công nghiệp có sự gia tăng

chất lƣợng không cao.

Tiêu chí tỷ suất lợi nhuận trên doanh ngành công nghiệp khai thác tăng

chậm trong vòng 15 năm tăng từ 40,25% năm 1991 lên 47,14% năm 2005;

ngành công nghiệp chế biến tăng từ 2,39% năm 1991 lên 4,05% năm 2005;

ngành công nghiệp điện, nƣớc, khí đốt từ 6,14% năm 1991 tăng lên 12,9% năm

2005, trong vòng 15 năm (1991 - 2005) ngành công nghiệp chế biến, điện, nƣớc,

khí đốt chỉ mới tăng 2 lần với mức tăng này đƣợc coi là thấp.

Bảng 2.14: Tỷ suất lợi nhuận của các DN công nghiệp Việt Nam 1991 - 2005

ĐVT: %

Tỷ suất lợi nhuận trên 1 đồng vốn SXKD

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

1991

1995

2000

2003

2005

1991

1995

2000

2003

2005

Công nghiệp khai thác 41,5

44,6

43,3

49,0 40,25 42,34 44,59 42,38 47,14

43

Công nghiệp chế biến

2,6

4,0

5,0

2,64

3,91

4,05

2,2 3,2 2,39 3,47

Điện, nƣớc, khí đốt

6,5

6,7

12,6 6,14

6,55

6,67

12,9

4,3 5,5 8,73

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Biểu đồ 2.13: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

61

Mức trang bị vốn cho 1 lao động của ngành công nghiệp Việt Nam rất

thấp, với mức vốn thấp rất khó cho đầu tƣ đổi mới công nghệ nhƣ vậy chúng ta

rất khó cạnh tranh đƣợc với các nƣớc trong khu vực. Trang bị vốn cho 1 lao

động của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đang có xu hƣớng giảm (năm

1995 là 505,274 triệu đồng/1lao động; năm 2005 là 312,356 triệu đồng/1lao

động). Để giải thích cho hiện tƣợng này là việc các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đang

đầu tƣ vào Việt Nam để tận dụng nhân công rẻ và sử dụng nguồn lực lao động

thay cho sử dụng vốn. Một khi yếu tố này mất dần lợi thế có thể nguồn vốn đầu

tƣ sẽ chững lại.

Bảng 2.15: Mức trang bị vốn cho một lao động công nghiệp

ĐVT: 1000 VNĐ

2000

1995

2002

2003

2005

Tổng số

1. Doanh nghiệp Nhà nƣớc Trung ƣơng Địa phƣơng 2. Ngoài quốc doanh Hợp tác xã Tƣ nhân Công ty TNHH, cổ phần Cá thể

120068 232050 310383 120495 34975 30003 63194 93945 12009

131061 251380 332105 132603 42190 33526 66016 104723 13738

2004 154192 325703 419580 166415 54331 37722 78115 125507 15135

171428 359163 461225 185596 63890 46656 85740 144460 16676

1991 48369 109859 21593 184471 32891 79563 248814 48362 101572 94241 47570 25659 23071 8308 4279 15658 5688 29854 50766 20048 9765 66816 31030 12896 10655 5761 2274

3. Khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài A. Công nghiệp khai thác B. Công nghiệp chế biến

444039 219963 81772

330999 225953 93797

322338 261634 102782

312356 192392 122541

309153 205391 147153

651433 505274 74823 131563 32659 22561

248358 288845

C. Sản xuất điện&phân phối,khí đốt, nƣớc

929826 1029561 1127422 1199697 1215683

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

62

2.2.5.2.Tỷ trọng các ngành công nghệ cao, trung bình, thấp của

ngành công nghiệp Việt Nam

Theo quy định của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hiệp quốc

(UNIDO) thì:

Ngành công nghiệp công nghệ cao gồm: Sản xuất máy móc thiết bị thông

dụng và chuyên dụng; sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính, sản xuất thiết bị

điện, điện tử; sản xuất radio, ti vi, thiết bị truyền thông; sản xuất dụng cụ y tế,

chính xác; sản xuất sửa chữa xe có động cơ; sản xuất sửa chữa phƣơng tiện vận

tải khác.

Ngành công nghiệp công nghệ trung bình bao gồm: sản xuất than cốc, dầu

mỏ, sản xuất hoá chất, sản xuất sản phẩm cao su và plastic; sản xuất sản phẩm

chất khoáng phi kim loại; sản xuất kim loại; sản xuất sản phẩm bằng kim loại.

Ngành công nghiệp công nghệ thấp gồm: sản xuất thực phẩm và đồ uống;

sản xuất thuốc lá, thuốc lào; sản xuất sản phẩm dệt; sản xuất trang phục; sản

xuất sản phẩm bằng da, giả da; sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản; sản xuất giầy

da và các sản phẩm bằng giấy; xuất bản, in và sao bản ghi; sản xuất giƣờng, tủ,

bàn, ghế; sản xuất sản phẩm tái chế.

Căn cứ vào quy định của UNIDO thì năm 2004, ngành công nghệ cao của

nƣớc ta mới chiếm 19,9% trong tổng giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến,

ngành công nghệ trung bình chiếm 28,9%, ngành công nghệ thấp chiếm 51,2%.

Nếu tính theo giá trị gia tăng thêm thì tỷ trọng ngành công nghiệp công nghệ cao

của nƣớc ta còn thấp hơn nhiều vì phần lớn những ngành công nghệ cao của

nƣớc ta là sản xuất lắp ráp. Trong khi đó cơ cấu nhóm ngành công nghệ của các

nƣớc ASEAN tiến bộ hơn chúng ta rất nhiều. Với kết quả này cho thấy trình độ

kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam rất kém nên sức cạnh tranh của

doanh nghiệp là rất yếu.

Bảng 2.16: Tỷ trọng công nghệ cao, trung bình, thấp tính theo

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

DN có

Năm Toàn Doanh nghiệp Nhà nƣớc

giá trị sản xuất (giá thực tế) của ngành công nghiệp chế biến

63

Hợp

DN

Cty

vốn ĐT

ngành

Tổng

Trung

Địa

Tổng

nƣớc

tác

TNHH,

thể

số

ƣơng

phƣơng

số

ngoài

nhân

Cổ phần

2,8

34,9

2004

11.9

14,4

8,0

6,6

5,5

10,9

6,6

19,9

2,7

34,7

2003

11,0

13,3

7,2

9,9

5,7

9,8

6,8

19,1

2,9

34,1

2002

10,5

12,5

7,3

8,4

4,8

11,0

7,0

18,6

5,0

36,0

2001

8,9

10,7

7,5

10,2

3,5

9,9

5,9

18,7

2,9

30,2

2000

10,5

12,5

7,3

8,4

4,9

10,9

7,1

Nhóm ngành công nghệ cao

15,6

2004

32,9

40,8

31,8 38,2 29,3

32,4

31,0

24,0

16,0

28,9

2003

30,4

28,3

32,4 37,4 28,9

33,6

31,0

24,0

16,1

28,5

2002

28,5

35,7

31,3 36,9 24,6

32,9

30,6

26,0

16,2

28,5

2001

28,5

36,0

27,2 38,5 16,2

27,5

29,9

24,4

16,0

26,5

2000

28,4

35,7

31,3 37,0 24,7

33,0

30,6

25,3

16,2

Nhóm ngành CN trung bình

26,2

2004

55,1

44,9

60,2 55,3 65,2

56,7

66,3

41,0

77,3

51,2

2003

58,6

48,5

60,4 52,7 65,4

56,6

66,3

41,4

77,1

52,4

2002

60,9

51,8

61,4 54,6 70,4

56,1

66,6

39,9

76,1

52,9

2001

62,6

53,3

65,3 51,3 80,3

62,7

64,3

39,7

78,1

54,8

2000

60,9

51,8

61,4 54,6 70,5

56,1

66,6

44,6

76,7

Nhóm ngành công nghệ thấp

58,2

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Bảng 2.17: Nhóm ngành công nghệ của một số nƣớc ASEAN

Nƣớc

Nhóm ngành công nghệ cao 30,8 Nhóm ngành công nghệ trung bình 26,5 Nhóm ngành công nghệ thấp 42,7 Thái Lan

Singapore 73 10,5 16,5

Malaysia 51,1 24,3 24,6

Indonexia 29,7 47,7 22,6

29,1 45,2 25,7

Philippin Việt Nam(*) 19,9 51,2 28,9

(*) Số liệu các nước là năm 1998, số liệu Việt Nam là năm 2004

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

2.2.5.3. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá

64

Năng lực cạnh tranh quốc tế: Hàng hoá trong nƣớc có sức cạnh tranh cao

trên thị trƣờng quốc tế khi mà tỷ lệ xuất khẩu càng ngày càng gia tăng. Căn cứ

vào tình hình thực tế ngành công nghiệp Việt Nam thời gian vừa qua chúng ta

thấy sức cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp đã đƣợc cải thiện (năm 1996 tỷ lệ

xuất khẩu chỉ chiếm 39,22%; năm 2005, tỷ lệ xuất khẩu là chiếm 42,99%),

nhƣng mức độ cải thiện vẫn quá thấp (trong vòng 10 năm nâng đƣợc tỷ lệ xuất

khẩu gần 4%).

Bảng 2.18: Tỷ lệ xuất khẩu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1996 - 2005

Năm

Giá trị xuất khẩu (tỷ VNĐ) 58604,0 83249,6 84511,0 109937,8 143992,8 159234,0 181350,0 226239,0 312848,0 384632,0

Giá trị sản xuất (tỷ VNĐ) 149432,5 180428,9 208676,8 244137,5 336100,3 395809,2 476350,1 620067,7 808958,3 894707,9

Tỷ lệ xuất khẩu (%) 39,22 46,14 40,50 45,03 42,84 40,23 38,07 36,49 38,67 42,99

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

(Theo tính toán của tác giả dự trên thông tin xuất khẩu – Bộ Thương mại)

Biểu đồ 2.14: Tỷ lệ xuất khẩu Việt Nam (1996 – 2005)

65

Năng lực cạnh tranh trong nước: Phần lớn những mặt hàng công nghiệp

hiện có khả năng cạnh tranh trong nƣớc là hàng tiêu dùng. Cơ sở cho sức cạnh

tranh của những mặt hàng này là giá cả thấp dự trên lao động rẻ và chi phí đầu

tƣ thấp và đây cũng là những mặt hàng mà thị trƣờng có nhu cầu lớn (nhƣ: chất

tẩy rửa; săm lốp xe đạp, xe máy; giày dép; may mặc; thực phẩm chế biến; bia;

điện tử dân dụng;...). Tuy nhiên các mặt hàng công nghiệp khác nhƣ hàng lắp

ráp điện tử; thép xây dựng, thép ống, đƣờng, sản phẩm hoá chất, dƣợc, ôtô, xe

máy, giấy, xi măng, phân đạm ure, động cơ diezen, sứ vệ sinh, hiện chƣa đủ sức

cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.

Điều này nhận thấy thông qua việc so sánh giá thành sản xuất của một số loại

hàng hoá đƣợc sản xuất trong nƣớc và giá nhập khẩu (CIF) tại cảng Việt Nam

nhƣ sau (tính giá trung bình):

Bảng 2.19: Bảng so sánh giá hàng hoá sản xuất trong nƣớc với hàng

hoá nhập khẩu tại cảng Việt Nam (năm 2005)

Hàng hoá Tỷ lệ giá hàng hoá VN với giá CIF

Thép xây dựng 123%

Ống thÐp m¹ 113%

Xi m¨ng 108%

Sø vÖ sinh 107,7%

GiÊy in 109%

§ êng tinh luyÖn 170%

Xe m¸y 200%

2.2.6. Biến động môi trƣờng do phát triển công nghiệp

Sự tăng trƣởng và phát triển trong thời gian qua của Việt Nam mang

trong mình những hiểm hoạ về môi trƣờng sinh thái. Do chú trọng vào tăng

trƣởng kinh tế, ít chú ý tới bảo vệ môi trƣờng, nên hiện tƣợng khai thác bừa bãi

và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trƣờng và làm

mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Tuy các hoạt động bảo vệ

môi trƣờng đã có những tiến bộ đáng kể, chẳng hạn nhƣ mở rộng diện tích đất

66

có rừng che phủ (từ 27,2% năm 1990 lên 37,4% năm 2005), bảo tồn thiên nhiên

và đa dạng sinh học)...Nhƣng mức độ ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất

lƣợng môi trƣờng vẫn tiếp tục gia tăng, ảnh hƣởng rất lớn đến sản xuất và sức

khoẻ của ngƣời dân, trong đó nguyên nhân chính từ chất thải công nghiệp thứ

đến do xử lý chất thải sinh hoạt kém.

Hệ thống xử lý chất thải công nghiệp vừa thiếu, vừa kém chất lƣợng,

chƣa ngăn chặn đƣợc tình trạng ô nhiễm môi trƣờng ngày càng nghiêm trọng.

Sự xuống cấp của môi trƣờng chẳng những ảnh hƣởng đến sự phát triển bền

vững, đến tăng trƣởng kinh tế và môi trƣờng sống, mà còn đỏi hỏi phải bỏ ra

một khoản tiền lớn để phòng chống và khắc phục sự xuống cấp đó.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia về môi trƣờng hiện trạng môi trƣờng

công nghiệp, các ngành công nghiệp Việt Nam có mức phát thải cao so với quy

mô. Kết quả đánh giá trên cho thấy mặc dù mức độ ô nhiễm môi trƣờng thay đổi

theo từng ngành công nghiệp, tuy nhiên cấp độ đáng lo ngai. Theo kết quả trên

thì gây ô nhiễm môi trƣờng lớn nhất là ngành luyên kim, thuộc da, khai khoáng,

dệt nhuộm, nhiệt điện, giấy.

Hiện tƣợng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên,

gây nên suy thoái môi trƣờng và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra

phổ biến. Những tiềm ẩn này đang bắt đầu bộc lộ mà bằng chứng là những trận

lũ lớn thƣờng xảy ra ở miền Trung và Nam Bộ, hạn hán cũng đe doạ tới cuộc

sống của nhiều ngƣời dân vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Với công nghệ lạc hậu, yếu kém và ý thức bảo vệ môi trƣờng chƣa cao là

nguyên nhân dẫn đến hao phí và thất thoát tài nguyên. Xét trên góc độ môi

trƣờng, các ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay có chi phí tài nguyên rất

cao. Đơn cử với hai loại tài nguyên chính là nƣớc và năng lƣợng, hiện trạng sử

dụng tài nguyên là rất quan ngại.

Trong các loại ô nhiễm do ngành công nghiệp gây ra thì tình trạng ô

nhiễm nƣớc là vấn đề đáng lo ngại nhất. Môi trƣờng nƣớc ở nhiều đô thị, khu

công nghiệp và hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi

trƣờng nƣớc do không có các công trình và thiết bị xử lý chất thải với mức độ

67

rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột

giấy, nƣớc thải thƣờng có độ pH trung bình từ 9 – 11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh

hóa (BOD), nhu cầu ô xy hóa học (COD) có thể lên đến 700mg/1l và

2.500mg/1l; hàm lƣợng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.

Hàm lƣợng nƣớc thải của các ngành này có chứa xyanua (CN_) vƣợt đến 84 lần;

H2S vƣợt 4,2 lần, hàm lƣợng NH3 vƣợt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô

nhiễm nặng nề các nguồn nƣớc mặt trong vùng dân cƣ. Mức độ ô nhiễm nƣớc ở

các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Tại

cụm công nghiệp Tam Lƣơng, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nƣớc bị ô nhiễm

bẩn bởi nƣớc thải công nghiệp với tổng lƣợng nƣớc thải ƣớc tính 500.000m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. Ở thành phố Thái

Nguyên, nƣớc thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang

thép, luyện kim màu, khai thác than. Tại các làng nghề sắt thép, đúc đồng,

nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định... có thấy có lƣợng nƣớc thải hàng nghìn m3/ngày không qua xử lý tự nhiên chảy

ra môi trƣờng.

Bảng 2.20: Đánh giá chung về ô nhiễm môi trƣờng của

các ngành công nghiệp Việt Nam

Thành phần môi trƣờng

STT

Ngành

Kim loại

Sức khoẻ

Bụi

Khí độc

Tiếng ồn

Nƣớc

nặng

cộng đồng

Điện lực

v

 







1

Nhiệt điện

v

v

v

v

v



Thuỷ điện













2

Cơ khí













3

Hoá chất

68

 









Luyện kim

4

v

v

v

v





Điện tử

5











Khai khoáng 

6

v











Dệt nhuộm

7

v

v









Giấy

8

v





 



Thuộc da

9

v

v

v







10 Bột ngọt

Ghi chó:  Ô nhiễm môi trƣờng nặng.

 Ô nhiễm môi trƣờng vừa

V Không ô nhiễm

 Ô nhiễm nhẹ.

(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường công nghiệp - Bộ Công nghiệp)

Mức sử dụng nƣớc ở nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí, đặc

biệt khu vực tƣ nhân. Chẳng hạn nhƣ ngành sản xuất bia, trên thế giới để sản

xuất 1 lít bia trung bình sử dụng 4 lít nƣớc, ở Việt Nam hệ số sử dụng nƣớc trên

1 lít bia cao gần gấp 3 lần , đạt mức 13 lít nƣớc trên 1 lít bia. Các ngành dệt,

nhuộm vải, giấy cũng là những ngành sử dụng nhiều nƣớc, thực trạng lãng phí,

tiêu hao nƣớc lớn cũng rất phổ biến.

Chúng ta cũng sẽ thấy sử dụng điện năng trong sản xuất công nghiệp

cũng có hiện tƣợng tƣơng tự nhƣ sử dụng nƣớc. Mức tiêu thụ điện năng ở các

ngành là rất cao. Các số liệu so sánh của Nhật Bản trong ngành sản xuất thép

cho thấy công nghệ sử dụng của Việt Nam hiện có thời gian nấu cao hơn 360%

so với thế giới, các chỉ tiêu tiêu hao thép phế liệu, điện và điện cực đều quá cao,

đặc biệt tiêu thụ điện năng bằng 257 so với các nƣớc khác trong khi công đoạn

cán tốc độ chỉ bằng 12,7% tốc độ cán của các nhà máy thép trên thế giới.

Bảng 2.21: Chỉ tiêu thực tế sử dụng nƣớc của

một số ngành công nghiệp Việt Nam

Ngành

Giấy Mức độ tiêu hao nƣớc trên một đơn vị sản phẩm (m3) 500 m3/1tấn giấy

69

Thép

Hoá chất 3000 m3/1tấn thép thỏi 70 m3/1tấn gang tinh luyện. 50 m3/1tấn Fero 23 m3/1tấn than cốc luyện 4,5 m3/1tấn thép cán 3,6 m3/1tấn sản phẩm sau cán. 200 – 300 m3/1tấn Urea 46% > 700 m3/1tấn NH3

30 lít nƣớc/1lít rƣợu công nghiệp.

Rƣợu 10 lít nƣớc/1 lít rƣợu nấu

40 lít nƣớc/1 lít cồn.

Bia

Dệt nhuộm 13 lít nƣớc/1 lít bia 50 – 300 m3/1tấn sản phẩm.

(Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp).

Bảng 2.22: Chỉ tiêu thực tế tiêu hao năng lƣợng của

một số ngành công nghiệp Việt Nam

Ngành Mức độ tiêu hao nƣớc trên một đơn vị sản phẩm (m3)

Giấy 1.200 kwh và 1.500kg than/1tấn giấy

700.000 kwh/1tấn thép thỏi

25 kwh/1tấn gang tinh luyện.

3.400 kwh/1tấn Fero Thép 27,5 kwh/1tấn than cốc luyện

145 kwh/1tấn thép cán

177 kwh/1tấn sản phẩm sau cán.

187kwh + than cục lò cao 0,83 tấn + than cám cho sấy

Hoá chất nghiền 0,6 tấn/1 tấn Urea 46%.

1.379kwh + than cục Antraxit 1,4 tấn/1tấn NH3

0,02 kwh + 0,24 kg than + 0,69 kg dầu FO/1lít rƣợu Rƣợu công nghiệp.

70

6 kg than/1 lít rƣợu nấu

Bia 6,3kwh + 0,12 kg than/1 lít bia

(Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp).

Ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã thu đƣợc những

thành công nhất định nhƣng để tăng trƣởng bền vững thì chúng ta cần phải chú

trọng hơn nữa về bảo vệ môi trƣờng nếu không thì một thời gian không xa nữa

chúng sẽ phải trả giá cho hành động bây giờ.

Tóm lại, Việt Nam sau 15 năm (1991 – 2005) thực sự đổi mới, ngành

công nghiệp chúng ta thu đƣợc nhiều thành quả, song còn nhiều tồn tại bất cập

cần phải khắc phục.

Trong giai đoạn (1991 – 2005), tốc độ tăng trƣởng công nghiệp cao

(14,5%/năm) nhƣng thiếu hiệu quả và bền vững, cơ cấu công nghiệp nƣớc ta

không khác gì cơ cấu công nghiệp của các nƣớc kém phát triển (công nghiệp

khai thác mỏ chiếm 9,1%; công nghiệp chế biến chiếm 84,9%; sản xuất &

truyền tải điện, khí đốt, nƣớc chiếm 6,0%). Mặt bằng chung về trình độ công

nghệ và trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ 2 – 3 thế hệ so với các nƣớc công

nghiệp phát triển, tỷ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung

bình chiếm 60 – 70%. Các sản phẩm chủ lực và xuất khẩu lớn là khoáng sản

(dầu mỏ, than đá, quặng) và gia công (dệt may, da giầy, gỗ, hàng điện tử), giá trị

gia tăng trong công nghiệp đạt thấp, hàm lƣợng chất xám trong sản phẩm nhỏ,

theo đánh giá năng suất lao động của ta so với các nƣớc ASEAN thấp hơn

khoảng 2 – 15 lần.

Chính sách nhà nƣớc Việt Nam còn chú trọng nhiều về phát triển công

nghiệp chế biến lƣơng thực thực phẩm, công nghiệp nhẹ may mặc, da giầy, đồ

gỗ và gia công, thiếu sự phát triển các ngành công nghiệp nặng, các ngành công

nghiệp sản xuất tƣ liệu sản xuất, các ngành có hàm lƣợng chất xám cao. Nhìn

chung còn tập trung phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,

lao động giản đơn và lao động thấp, do đó trong phát triển công nghiệp, Việt

Nam chỉ có vai trò là những ngƣời nhận hợp đồng gia công và lắp ráp, phụ thuộc

71

vào nguyên liệu nƣớc ngoài, doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam thƣờng nắm ở

phần giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị sản xuất.

Việt Nam còn chƣa chú trọng phát triển khu vực sản xuất tƣ liệu sản xuất,

cái lõi của chƣơng trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành công nghiệp này

bao gồm các ngành nhƣ: điện, sắt thép, xi măng, hoá dầu...cái lõi của khu vực

sản xuất tƣ liệu sản xuất lại là các nhà máy cơ khí có nhiệm vụ sản xuất máy

móc và công cụ sản xuất cho các ngành công nghiệp khác.

Các ngành công nghệ cao cũng chƣa coi trọng phát triển: công nghiệp cơ

khí chế tạo và tự động hoá, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin, công nghệ

sinh học, công nghệ sản xuất vật liệu mới là những ngành công nghệ mũi nhọn

có khả năng tạo động lực cho các ngành công nghiệp khác phát triển theo.

Các ngành hỗ trợ và liên quan chƣa quan tâm đến phát triển để nhằm tăng

tỷ lệ nội địa hoá trong các sản phẩm công nghiệp của nƣớc ta, các ngành này

phát triển rất chậm trong thời gian qua, nhƣ là con số 0, phải nhập phụ tùng linh

kiện từ bên ngoài, do đó biến nền công nghiệp nƣớc ta thành nền công nghiệp

gia công lắp ráp, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh, ví dụ điển

hình là ngành dệt may, da giầy, chế biến gỗ. Ngành dệt may đƣợc đánh giá là

xuất khẩu lớn nhƣng thực chất là ngành gia công không hơn không kém, nhập

nguyên liệu gồm hoá chất, thuốc nhuộm, bông, sợi, vải, phụ kiện may mặc khác

do đó tuy có kim ngạch xuất khẩu cao song giá trị gia tăng lại thấp, chỉ khoảng

20 – 25%. Tƣơng tự nhƣ vậy ngành da giầy chúng cũng gần nhƣ phải nhập toàn

bộ vật tƣ để sản xuất ra một sản phẩm nhƣ: đế giầy, keo, chỉ, da, phụ kiện làm

giầy.

Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hoạt động chính là lắp ráp, hoạt

động này kéo dài đã quá lâu, các nƣớc trong khu vực chỉ mất từ 5 – 15 năm cho

giai đoạn lắp ráp, sau đó họ chuyển dần sang sản xuất linh kiện, thiết kế sản

phẩm. Sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện từ Việt Nam là nhóm sản

phẩm nghe nhìn thì Việt Nam cũng chỉ tự túc đƣợc màn hình còn lại là nhập linh

kiện về lắp ráp. Máy tính thƣơng hiệu Việt cũng chung hoàn cảnh, giá trị gia

tăng trên mỗi máy tính này chỉ là công lắp ráp chính vì vậy cũng rất nhỏ, do

72

phần cứng, phần mềm tạo ra chiếc máy vi tính, Việt Nam đều không làm ra

đƣợc.

Ngành sản xuất ôtô cũng là ngành lắp ráp, nhập chi tiết, phụ tùng từ các

nƣớc. Trong ngành công nghiệp ôtô sau 10 năm nƣớc ta có nhiều hãng xe nổi

tiếng thế giới đầu tƣ, song ngành sản xuất ôtô của Việt Nam vẫn chủ yếu lắp ráp

giản đơn, công nghiệp phụ trợ chƣa phát triển, tỷ lệ nội địa hoá ôtô thấp, đến nay

tỷ lệ nội địa hoá ôtô cũng mới chỉ đạt 2 – 3 % đƣa đến giá thành sản xuất ôtô

trong nƣớc cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hoá thấp.

Một ngành công nghiệp nữa cũng đƣợc sự quan tâm và tạo điều kiện đầu

tƣ phát triển trong suốt thời gian qua đó là ngành đóng tàu, số lƣợng tàu đƣợc

đóng mới càng ngày càng tăng, trọng tải của tàu cũng đƣợc liên tục đƣơc nâng

lên nhƣng đó chỉ là mặt số lƣợng còn về thực chất ngành công nghiệp đóng tàu

cũng chỉ là ngành lắp ráp thiết kế do nƣớc ngoài đƣa ra, thép tấm làm vỏ tàu do

nƣớc ngoài sản xuất, động cơ phải nhập khẩu nguyên chiếc, thiết bị thông tin

liên lạc cũng phải nhập khẩu...

Do vậy, nền công nghiệp nƣớc ta chủ yếu là nền công nghiệp gia công

phụ thuộc hoàn toàn vào nƣớc ngoài.

2.3. BÀI HỌC TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 - 2005.

2.3.1. Những rào cản nâng cao hiệu quả đầu tƣ.

Một vấn đề kinh tế do một đơn vị quyết định, cá nhân quyết định, hiện

tƣợng này thƣờng thấy trong hoạt động đầu tƣ của Nhà nƣớc, từ khâu quy

hoạch, chuẩn bị đầu tƣ, thiết kế kỹ thuật, thi công, tƣ vấn giám sát. Nếu có đấu

thầu thì cũng chỉ là những hoạt động “bình phong“, hoạt động “quân xanh, quân

đỏ“ cho một đơn vị trúng thầu và nhƣ vậy đã làm mất đi tính cạnh tranh trong

nền kinh tế, làm thất thoát vốn đầu tƣ của Nhà nƣớc.

Đầu tƣ dàn trải, quy mô doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé,

bình quân một cơ sở sản xuất trong năm 2005 chỉ có 6,4 lao động, 0,99 tỷ đồng

vốn và 0,54 tỷ đồng tài sản cố định. Doanh nghiệp có quy mô vốn dƣới 10 tỷ

73

đồng chiếm 77,7%; có từ 10 tỷ đồng trở lên chiếm 22,3%, từ 200 tỷ đồng trở lên

chiếm 2,3%. Quy mô vốn nhỏ nhƣng các doanh nghiệp công nghiệp lại đầu tƣ

vào nhiều lĩnh vực khác nhau làm loãng vốn đầu tƣ, nhƣ vậy khó có thể tạo ra sự

đột biến trong việc nâng cao hiệu quả đầu tƣ. Trong thời gian tới cần phải xây

dựng các chính sách khuyến khích tích tụ vốn đầu tƣ cho phát triển.

2.3.2. Trình độ và tác phong ngƣời lao động

Ngày nay, vai trò của vốn nhân lực đƣợc nhận thức sâu sắc hơn và đƣợc

đề cao hơn đối với sự phát triển kinh. Việt Nam là quốc gia có lực lƣợng lao

động dồi dào, nhƣng chất lƣợng lao động thấp, 80% lực lƣợng lao động chƣa

qua đào tạo, vì vậy ảnh hƣởng rất nhiều đến năng suất lao động và chất lƣợng

sản phẩm. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ là vấn đề nan giải trong nền kinh tế

nƣớc ta. Theo kết quả điều tra lao động việc làm của Bộ Lao động – Thƣơng

binh và xã hội đến ngày 1/7/2004, số ngƣời đào tạo nghề và kỹ năng (có trình độ

sơ cấp hoặc có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 22,5%; trong đó tỷ lệ đã

qua đào tạo nghề là 13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt

nghiệp cao đẳng - đại học trở lên 4,8%. Nếu so sánh với các nƣớc trong khu vực

thì số lao động đƣợc đào tạo chính quy còn rất thấp. Số sinh viên trên 10.000

dân của Việt Nam chỉ có 118 ngƣời (năm 2005), thì số lƣợng tƣơng ứng của

Thái Lan là 216 ngƣời, Malaysia là 844 ngƣời, Trung Quốc là 377 ngƣời. Hơn

thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lƣợng lao động còn nhiều bất cập, số lao động

trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu.

Điều này không chỉ ảnh hƣởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà

còn là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lƣợng

tăng trƣởng. Đội ngũ lao động trí thức của Việt Nam còn quá kém cả về số

lƣợng (quy mô, cơ cấu), chất lƣợng so với khu vực và thế giới. Với cơ cấu trình

độ đào tạo nhƣ hiện nay, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và kinh

doanh còn rất nhiều khó khăn. Nhóm lao động khoa học công nghệ chƣa đáp

ứng đƣợc yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

74

Chất lƣợng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục -

đào tạo. Chi cho giáo dục bình quân đầu ngƣời ở Việt Nam hiện nay vào loại

thấp nhất trong khu vực, Việt Nam tập trung quá nhiều vào giáo dục phổ thông

xoá mù chữ, phổ cập giáo dục. Ngân sách Nhà nƣớc cần chú trọng đầu tƣ, tạo

điều kiện cho mọi thành phần kinh tế đầu tƣ đào tạo nghề, giáo dục chuyên

nghiệp cho ngƣời lao động, có nhƣ vậy mới cải thiện đƣợc trình độ tay nghề

ngƣời lao động và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất

lƣợng tăng trƣởng kinh tế.

Việt Nam đi lên từ nƣớc nông nghiệp lạc hậu chính vì thế mà ngƣời lao

động vẫn còn mang nặng tác phong nông nghiệp. Ngành công nghiệp đòi hỏi

ngƣời lao động phải có tác phong chuyên nghiệp, khẩn trƣơng, chính xác, đúng

giờ, phối kết hợp, tính trách nhiệm, trong khi đó nhiều lao động Việt Nam không

đáp ứng đƣợc.

2.3.3. Trình độ khoa học công nghệ.

Năng lực công nghệ và khả năng sáng tạo công nghệ của Việt Nam rất

thấp. Đây là một rào cản rất lớn đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc

gia nói chung và ngành công nghiệp nói riêng, cũng nhƣ việc nâng cao chất

lƣợng tăng trƣởng công nghiệp. Lịch sử đã chứng minh, quốc gia phát triển kinh

tế thành công là các trung tâm sáng tạo, đổi mới hoặc nơi tạo điều kiện thuận lợi

cho sáng tạo, đổi mới chuyển giao và phổ biến công nghệ. Kết quả sáng tạo

khoa học công nghệ ở nƣớc ta còn rất thấp, số phát minh sáng chế còn khiêm

tốn.

Chi phí đổi mới công nghệ chỉ chiếm khoảng 0,2 – 0,3% doanh thu, trong

khi ở Hàn Quốc tỷ lệ này là 10%. Điều này cho thấy quan hệ giữa doanh nghiệp

với nhà khoa học còn khá mờ nhạt lỏng lẻo. Các nhà khoa học chƣa coi doanh

nghiệp là thị trƣờng của mình, là vƣờn ƣơm các ý tƣởng khoa học – công nghệ,

là nơi ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, sáng chế phát minh.

Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có công nghệ sản xuất phổ biến

lạc hậu hơn các nƣớc trong khu vực từ 2 – 3 thập kỷ, cá biệt có những doanh

nghiệp lạc hậu hơn 4 – 5 thập kỷ. Có rất nhiều nhân tố cản trở đến quá trình đổi

75

mới công nghệ của doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng nhân

tố tác động lớn nhất là thiếu vốn trong khi đó thị trƣờng vốn trung và dài hạn ở

Việt Nam chƣa phát triển, chƣa có tác dụng hỗ trợ doanh nghiệp.

Không những thế, các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn

liên quan thực hiện đến các ƣu đãi cho doanh nghiệp trong quá trình đổi mới

công nghệ chƣa rõ ràng và đầy đủ, cộng với thái độ làm việc tiêu cực của một số

bộ phận quan chức khiến cho quá trình đổi mới công nghệ không có đƣợc động

lực.

Quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp còn gặp phải

rất nhiều khó khăn và rủi ro nhƣ thời gian hoàn vốn kéo dài, công nghệ bị sao

chép, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chƣa đƣợc nghiêm ngặt, thiếu thông tin

công nghệ và thông tin thị trƣờng.

Hiện nay ở nƣớc ta có hai luồng chuyển giao công nghệ chính, thứ nhất là

thông qua hình thức liên doanh với nƣớc ngoài hoặc cho phép thành lập doanh

nghiệp 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài; luồng thứ hai, thông qua thƣơng mại thuần

tuý (tức là thông qua mua bán công nghệ trên thị trƣờng). Song luồng thứ hai

chiếm tỷ lệ rất ít, còn luồng thứ nhất chiếm tỷ lệ lớn nhƣng trong đó cũng có

không ít những hợp đồng có trình độ công nghệ không cao, mà chủ yếu là khai

thác nhân công rẻ và trốn tránh trách nhiệm môi trƣờng.

2.3.4. Công tác quy hoạch phát triển ngành.

Công tác quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, quy hoạch không

gian, còn thiếu tính đồng bộ, có sự chồng chéo, thiếu tính thực tiễn. Quy hoạch

là kế hoạch phát triển trung và dài hạn cần sự ổn định, tính khả thi cao thì quy

hoạch một số ngành công nghiệp lại không có đƣợc điều đó. Đáng sợ hơn là việc

các quy định đƣợc ban hành dựa trên lợi ích của một nhóm đối tƣợng nào đó,

thƣờng chính là doanh nghiệp Nhà nƣớc do bộ là cơ quan chủ quản.

2.3.5. Cải cách hành chính Nhà nƣớc.

Trong thời gian vừa qua nhiều chính sách đƣa ra thay đổi quá nhanh

chóng làm cho các doanh nghiệp thay đổi không kịp, nhiều doanh nghiệp không

dám đầu tƣ mới vì sợ sau một thời gian áp dụng chính sách Nhà nƣớc lại thay

76

đổi một cách nhanh chóng theo hƣớng bất lợi nhƣ vậy sẽ làm ảnh hƣởng đến kết

quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngƣợc lại một số chính sách không còn phù

hợp cần thay đổi mới lại chậm đổi mới làm kìm hãm sự phát triển doanh nghiệp

(chính sách thu hút nhân tài, giữ chân nhân tài, chính sách huy động vốn, chính

sách khuyến khích xuất khẩu...) (một số đơn vị phàn nàn là những ngƣời lao

động giỏi của họ lần lƣợt ra đi mà không có cách nào giữ chân đƣợc vì doanh

nghiệp trả lƣơng thấp hơn bên ngoài rất nhiều, doanh nghiệp muốn thay đổi

chính sách lƣơng bổng cho ngƣời tài thì lại không đƣợc vì dính quy định của nhà

nƣớc nên vì vậy đành phải nhìn lao động ra đi).

Bộ máy quản lý nhà nƣớc cồng kềnh kém hiệu quả, tình trạng tham

nhũng, lạm dụng công quyền vì mục đích trục lợi cá nhân ngày càng gia tăng.

Một số đơn vị hành chính trung ƣơng và địa phƣơng chấp hành không nghiệp

pháp luật. Sự yếu kém hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nƣớc, tình

hình tham nhũng, lạm dụng công quyền vì mục đích trục lợi cá nhân của một bộ

phận cán bộ, công chức dẫn đến phân bổ sai nguồn lực, lãng phí và gây tác động

xấu tới niềm tin của xã hội, hiệu quả quản lý nhà nƣớc, nâng cao chất lƣợng tăng

trƣởng.

2.3.6. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trƣởng và phát triển ngành.

Trong 15 năm đổi mới (1991 – 2005), công nghiệp Việt Nam mới chỉ tiến

bộ nhanh trong việc gia tăng sản lƣợng (tăng trƣởng) còn phát triển vẫn ở trình

độ thấp.

Nền kinh tế nƣớc ta chủ yếu là nông nghiệp, nhƣng phát triển công

nghiệp chế biến nông sản thực phẩm lại rất chậm và chƣa có hiệu quả. Những cơ

sở công nghiệp chế biến hiện tại mới chỉ đáp ứng đƣợc một phần trong tiềm

năng phát triển nông nghiệp của nƣớc ta, trong khi đó công nghiệp chế biến lại

lạc hậu, chủ yếu là sơ chế và chỉ trong một số loại rau quả. Đáng lƣu ý là Nhà

nƣớc có nhiều chƣơng trình – dự án đúng đắn để phát triển ngành công nghiệp

chế biến nông sản thực phẩm nhƣng triển khai thực hiện lại đƣa đến kết quả kém

hiệu quả: phát triển ngành đƣờng, chế biến hoa quả đóng hộp, phát triển ngành

sữa...

77

Phát triển ngành công nghệ cao chậm, chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc

lắp ráp gia công cho nƣớc ngoài, tỷ trọng nhóm ngành này trong ngành công

nghiệp còn thấp.

Phát triển các ngành sản xuất tƣ liệu sản xuất để trang bị lại cho nền kinh

tế còn chậm, nhất là ngành sản xuất thiết bị máy móc vẫn dừng ở mức sản xuất

những máy móc thông thƣờng và phụ tùng thông thƣờng.

Trong giai đoạn tới muốn phát triển công nghiệp cần phải nâng cao chất

lƣợng ngành công nghiệp.

2.3.7. Những bất cập về môi trƣờng.

Các đơn vị sản xuất công nghiệp Việt Nam có quy mô vốn nhỏ, công

nghiệp lạc hậu nên dẫn đến quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trƣờng là hệ quả

tất yếu. Trong thời gian vừa qua nhận thức về bảo vệ môi trƣờng còn hạn chế

cộng với việc các doanh nghiệp chạy đua với nhau để giảm giá thành thì hạng

mục chi phí bảo vệ môi trƣờng gần nhƣ đƣợc cắt bỏ đầu tiên. Trong thời gian tới

để đảm bảo phát triển bền vững Nhà nƣớc cần đƣa ra các biện pháp nghiêm khắc

hơn nữa xử phạt các doanh nghiệp không thực hiện nghiêm luật bảo vệ môi

trƣờng, song song với việc đó là có những chính sách khuyến khích cơ sở sản

xuất sử dụng công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trƣờng.

2.3.8. Huy động vốn

2.3.8.1. Rào cản đối với huy động vốn đầu tư nước ngoài

Kết quả thu hút, sử dụng vốn FDI của ngành công nghiệp trong những

năm qua chƣa tƣơng xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nƣớc. Khối lƣợng

vốn đầu tƣ tăng chậm không những thế số vốn thực hiện lại thấp hơn rất nhiều

so với vốn đăng ký (số vốn thực hiện chỉ bằng 45,7% trong giai đoạn 1988 –

2005). Cơ cấu đầu tƣ còn mất cân đối, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chủ yếu đầu tƣ

những ngành công nghiệp tận dụng lợi thế của chúng ta nhƣ: nhân công rẻ (may

mặc, giầy – dép, lắp ráp ôtô, xe máy, lắp ráp linh kiện điện tử...), tài nguyên

(khai thác dầu thô, quặng sắt, quặng crom, quặng nhôm...). Các ngành công

nghiệp nặng, công nhiệp công nghệ cao là trụ cột cho một nền công nghiệp bền

vững lại vắng bóng các nhà đầu tƣ, nguyên nhân từ đâu:

78

*. Nguyên nhân khách quan: Các nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt để thu

hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. Chúng ta đã cố gắng cải thiện môi trƣờng đầu tƣ

trong thời gian qua nhƣng cần phải thông thoáng hơn nữa không phải so sánh

với chính mình mà còn phải đảm bảo tính hấp dẫn hơn so với đối thủ cạnh tranh

trực tiếp.

Quy mô thị trƣờng nƣớc ta lớn nhƣng sức mua của ngƣời dân còn yếu.

*. Nguyên nhân chủ quan:

+ Nhận thức chƣa đầy đủ về vị trí vai trò của FDI:

Chỉ thấy tác động tiêu cực của FDI trong việc chi phối đến tình hình kinh

tế - xã hội, tác động xấu đến môi trƣờng, tình trạng tiếp thu công nghệ kỹ thuật

lạc hậu, dẫn đến bài xích, hoặc do dự khi sử dụng FDI mà không thấy vị trí quan

trọng.

Nhấn mạnh quá mức đến việc phát huy nội lực mà không thấy hết vai trò

của nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tranh thủ hợp tác quốc tế để khai

thác tốt hơn nội lực, dẫn đến tuyệt đối hoá nội lực, tách rời mối quan hệ giữa nội

lực với ngoại lực, nhất là tâm lý lo ngại do tác động của cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ Châu Á năm 1997.

+ Môi trƣờng đầu tƣ kém minh bạch và thiếu nhất quán: Công khai, nhất

quán, minh bạch trong chính sách có ý nghĩa rất lớn trong quyết định đầu tƣ của

các nhà đầu tƣ. Rất nhiều nhà đầu tƣ e ngoại đầu tƣ vào Việt Nam do những

thay đổi không rõ ràng về chính sách, các rủi ro về chính sách có ảnh hƣởng rất

nghiêm trọng đến hoạt động đầu tƣ.

Rào cản nữa đối với môi trƣờng đầu tƣ Việt Nam là tính minh bạch và

công khai của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp không muốn cổ phần hoá

để thông qua thị trƣờng chứng khoán huy động vốn trung và dài hạn cho mình vì

rất nhiều lý do nhƣng trong đó nổi lên lý do phải công khai tài chính, tình hình

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến tính cạnh tranh của các

doanh nghiệp trong nền kinh tế chƣa đƣợc phát huy triệt để. Sự thiếu minh bạch,

công khai sẽ dẫn đến hệ quả: tham nhũng và tăng chi phí kinh doanh. Do đó, để

79

cải thiện môi trƣờng đầu tƣ cần phải tăng cƣờng và tích cực thiết lập cơ chế bảo

đảm công khai minh bạch.

+ Chi phí đầu vào cao, cơ sở hạ tầng yếu kém. Theo đánh giá của các

chuyên gia kinh tế Nhật Bản chi phí đầu tƣ ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các

nƣớc trong khu vực đặc biệt với Trung Quốc, các chi phí mà Việt Nam cao hơn

nhƣ: cƣớc phí dịch vụ cảng biển, tiền thuê đất, cƣớc viễn thông quốc tế, giá điện,

chi phí đăng kiểm, chi phí giải phóng mặt bằng, chất lƣợng điện, bên cạnh đó ƣu

thế về nguồn lao động rẻ bị mất dần. Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam

kém phát triển, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh kiện, phụ

tùng, nguyên liệu, và chỉ thực hiện công đoạn lắp ráp, gia công tại Việt Nam,

nên giá trị gia tăng thực hiện tại Việt Nam thấp, đồng thời thực tế này làm giá

thành sản phẩm cao, hạn chế sức cạnh tranh của sản phẩm.

Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông không đồng bộ, chất lƣợng

điện không đảm bảo (loại đầu vào này chất lƣợng càng kém khi vào các tháng

cao điểm của sử dụng điện).

2.3.8.2. Đầu tư trong nước

* Đầu tư của nhà nước: Trong nhiều trƣờng hợp đầu tƣ Nhà nƣớc chƣa

là ống dẫn để thu hút các nguồn đầu tƣ khác (đầu tƣ ngoài quốc doanh), mà

ngƣợc lại, còn lấn át các nguồn này, nguyên nhân cơ bản là do tỷ trọng đầu tƣ

Nhà nƣớc trong tổng đầu tƣ toàn xã hội còn quá cao và doanh nghiệp Nhà nƣớc

còn giữ vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp.

Cơ chế chính sách nhà nƣớc chƣa tạo nhiều điều kiện cho doanh nghiệp

Nhà nƣớc quyền tự chủ trong kinh doanh, chƣa độc lập tự chủ trong cách thức

huy động vốn mà vẫn trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nƣớc, ngân hàng.

Đầu tƣ của nhà nƣớc trong thời gian nổi nên vấn đề thất thoát, tỷ lệ thất

thoát phổ biến 20 – 30% giá trị, điều này làm giảm uy tín nhà nƣớc, giảm chất

lƣợng dự án.

* Đầu tư từ khu vực dân cư: Tốc độ tăng trƣởng kinh tế dù đƣợc duy trì

ở mức cao trong nhiều năm nhƣng thu nhập bình quân đầu ngƣời vẫn thấp, với

mức thu nhập bình quân đầu ngƣời nhƣ vậy (năm 2005 là 640USD/ngƣời/năm)

80

chỉ mới đáp ứng đƣợc những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống nên tỷ lệ tiết kiệm

cho đầu tƣ còn thấp, cộng với thói quen ngƣời dân Việt Nam thích sử dụng tiền

mặt, không có thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng nền nguồn vốn từ tƣ

nhân cho đầu tƣ còn rất thấp.

* Đầu tư từ khu vực tư nhân, ngoài quốc doanh: doanh nghiệp ngoài

quốc doanh có quy mô nhỏ, tỷ suất lợi nhuận thấp nên nguồn đầu tƣ từ nội tại

doanh nghiệp còn hạn chế, trong thời gian tới cần phát triển hơn nữa thị trƣờng

tài chính (đặc biệt thị trƣờng chứng khoán) giúp cho doanh nghiệp có thêm sự

lựa chọn cách huy động vốn, còn ngƣời có vốn rỗi có thể tìm đƣợc nơi đầu tƣ

nhanh chóng.

2.3.9. Rào cản cho chính sách phát triển sản xuất trong nƣớc để thay

thế hàng hoá nhập khẩu tiến tới xuất khẩu

2.3.9.1. Độc quyền

Hiện nay, trong một số lĩnh vực, độc quyền nhà nƣớc bị biến thành độc

quyền của doanh nghiệp nhà nƣớc, đại diện rõ nhất trong ngành công nghiệp là

độc quyền điện, khai thác khoáng sản. Việc lợi dụng độc quyền nhà nƣớc

chuyển nó thành độc quyền doanh nghiệp đã làm méo mó nghiêm trọng môi

trƣờng kinh doanh. Xét trong dài hạn sự biến dạng độc quyền này gây ra những

tổn thất lớn cho sự phát triển nền kinh tế nói chung và ngành công nghiêp nói

riêng.

Độc quyền doanh nghiệp làm tăng chi phí các yếu tố đầu vào, dẫn tới suy

yếu khả năng cạnh tranh của các sản phẩm khác, tổn hại đến toàn bộ nền kinh tế.

2.3.9.2. Bảo hộ

Để bảo vệ nền sản xuất trong nƣớc nhà nƣớc sở tại đƣa ra các rào cản

(thuế, lệ phí, tiêu chuẩn, thủ tục...) để ngăn cản sự xâm nhập của hàng hoá bên

ngoài vào, đó là nhu cầu tất yếu của nhiều nƣớc trên thế giới. Nƣớc ta trong thời

gian qua để bảo vệ sản xuất trong nƣớc cũng đƣa ra các rào cản để bảo hộ. Sự

phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua có đƣợc nhờ từ

sự bảo hộ không? Cụ thể lợi hại nhƣ thế nào có lẽ cần phải làm rõ, trong bối

cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

81

Sự phát triển mạnh hơn của các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu

đƣợc dẫn dắt bởi ý thức bảo hộ phát triển của Nhà nƣớc. Việc cơ cấu công

nghiệp quá thiên về hƣớng nội và thay thế nhập khẩu, làm cho cơ cấu yếu kém

không đƣợc khắc phục mà còn trở nên trầm trọng hơn. Hậu quả là cơ cấu ngành

công nghiệp có năng lực cạnh tranh rất thấp, chúng ta có thể thấy một số sản

phẩm công nghiệp là nạn nhân của chính sách này: sản xuất ôtô, xi măng,

đƣờng, thép xây dựng...

Chúng ta đã từng nuôi tham vọng sản xuất đƣợc ôtô, hiện nay vẫn còn

nguyên tham vọng đó trong khi sự thật về nó ngày một đƣợc phơi bày, để bảo vệ

ý tƣởng đó ngƣời ta đã xây dựng một mức rào cản rất rất cao để bảo vệ cho nền

sản xuất ôtô trong nƣớc. Ngƣời làm chính sách đã không chịu thừa nhận sự thật,

để sản xuất ra một chiếc ôtô cần rất nhiều linh kiện mà ngành sản xuất phụ kiện

cho sản xuất ở Việt Nam chƣa có, công nghệ sản xuất lạc hậu, chúng ta mới chỉ

sản xuất đƣợc rất ít chi tiết (nhƣ ghế, thiết bị nhƣa, lốp...). Với quy mô thị

trƣờng 50.000 xe/năm (chia cho 11 liên doanh lắp ráp có mặt tại Việt Nam) thì

không một hãng xe nào giám đầu tƣ cả một dây chuyền sản xuất (theo nhƣ tính

toán của các hãng xe điểm hoà vốn cho một dây chuyền sản xuất

100.000xe/năm). Hiện nay, Việt Nam vẫn duy trì chính sách bảo hộ cho nền sản

xuất ôtô để cho các liên doanh lắp ráp tự do áp giá cao thu lợi, kết quả sau 15

năm bảo hộ chúng ta không có đƣợc một ngành công nghiệp ôtô ra hồn (lắp ráp

CKD, tỷ lệ nội địa hoá 2 – 3%), đây là một ví dụ cho sự thất bại trong bảo hộ

nền sản xuất trong nƣớc.

2.3.9.3. Những hạn chế trong việc thúc đẩy xuất khẩu:

Các cơ quan chức năng nhà nƣớc chƣa giúp cho các cơ sở sản xuất nắm

đƣợc tình hình hiện tại cũng nhƣ dự báo thị trƣờng thế giới trong thời gian tới để

các doanh nghiệp có đối sách.

Bộ Thƣơng mại chƣa làm tròn vai trò của mình trong việc định hƣớng, hỗ

trợ các doanh nghiệp tổ chức xúc tiến, lựa chọn thị trƣờng cần xúc tiến và sự

phối hợp các doanh nghiệp trong ngành và liên ngành nhƣ thế nào cho có hiệu

quả. Để làm tròn trách nhiệm này thì theo kinh nghiệm của một số nƣớc cần

82

thành lập một bộ máy tổ chức hoạt động chuyên nghiệp chuyên làm công tác

Marketing đầu tƣ, xúc tiến quảng bá, giới thiệu sản phẩm của đất nƣớc.

Doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam chƣa quan tâm thích đáng đến công

tác xây dựng và phát triển thƣơng hiệu ra thị trƣờng thế giới. Nguyên nhân của

tình trạng này ngoài việc do chƣa xây dựng đƣợc chiến lƣợc kinh doanh, nghiên

cứu thị trƣờng, hiểu biết về khách hàng, đối tác và đối thủ cạnh tranh...thì yếu tố

cơ bản là do các doanh nghiệp vẫn theo lối tƣ duy truyền thống là dựa vào lợi

thế sức cạnh tranh của nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân công rẻ,

mà không chủ động chuyển sang cạnh tranh bằng tăng năng suất lao động và áp

dụng công nghệ tiên tiến, tức là chuyển từ sản xuất sản phẩm “thô“ có giá trị gia

tăng thấp sang sản xuất sản phẩm “tinh“ có hàm lƣợng chất xám cao, có giá trị

gia tăng lớn.

Nhiều năm qua, hàng hoá công nghiệp của chúng ta xuất sang các thị

trƣờng trung gian nhƣ Hồng Kông, Singapore, tại đây hàng hoá chúng ta tiếp tục

đƣợc chế biến thêm, đóng gói với mác của các hãng lớn rồi bán ra thế giới hoặc

xuất ngƣợc lại Việt Nam với giá cao hơn gấp nhiều lần. Một hƣớng nữa là hàng

hoá sản xuất tại Việt Nam đóng mác nƣớc ngoài đi ra thị trƣờng thế giới với tên

gọi của những hãng nổi tiếng. Câu hỏi đặt ra bao giờ Việt Nam làm đƣợc điều

ngƣợc lại?

83

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

3.1. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHẤT LƢỢNG

TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP.

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hƣớng tất yếu, nó

thu hút các nền kinh tế thế giới tham gia vào nếu không muốn tụt hậu. Trong

vòng 15 năm (1991 -2005), Việt Nam đã chủ động tham gia mạnh mẽ vào hội

nhập kinh thế giới, Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức nhƣ: Hiệp hội các

nƣớc Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng

(APEC), gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), và tham gia vào nhiều

thoả thuận thƣơng mại song phƣơng (FTA) và đa phƣơng (RTA), Thoả thuận

Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA)...

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội

cho sự phát triển công nghiệp Việt Nam nhƣ gia tăng các luồng chuyển giao

vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Các hiệp định thƣơng mại song phƣơng

và đa phƣơng nhằm thúc đẩy thƣơng mại chủ yếu thông qua các chính sách cắt

giảm thuế đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tiến tới hội nhập

toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đã dẫn đến xu hƣớng liên kết kinh

tế thông qua sự ra đời các tổ chức quốc tế nhƣ Tổ chức thƣơng mại thế giới

(WTO), thoả thuận thƣơng mại song phƣơng (FTA), và tự do thƣơng mại vùng

(RTA), với số lƣợng thoả thuận ngày một nhiều. Thông qua các tổ chức và thoả

thuận, quy mô lƣu thông vốn quốc tế đƣợc tăng lên một cách đáng kể tốc độ

84

mậu dịch thế giới vƣợt tốc độ tăng trƣởng kinh tế. Xu hƣớng này đã tạo ra

những cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công

nghiệp nói riêng.

3.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao chất lƣợng

tăng trƣởng công nghiệp:

Theo quan điểm của phái trọng thƣơng, tất cả các quốc gia các doanh

nghiệp đều có thể tìm cho mình một ƣu thế tƣơng đối nào đó trong một nền kinh

tế. Một khi quy mô nền kinh tế đƣợc mở rộng thì ƣu thế này càng tăng lên.

Chẳng hạn, một doanh nghiệp Việt Nam sản xuất 10 loại tivi khác nhau đều có

giá thành cao hơn tivi do các doanh nghiệp Malaysia sản xuất. Khi hội nhập

kinh tế thế giới, thông thƣơng giữa hai nƣớc thuận lợi, doanh nghiệp Malaysia

sẽ tập trung sản xuất các loại tivi có lợi nhuận cao nhất để cung cấp cho thị

trƣờng Malaysia và Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ tập trung sản xuất

những loại tivi còn lại cho cả hai thị trƣờng. Nhƣ vậy, cả hai doanh nghiệp đều

có cơ hội tăng cƣờng chuyên môn hoá sản xuất để cải tiến công nghệ của một

vài loại tivi nhất định nhằm nâng cao chất lƣợng và giảm giá thành sản phẩm.

Chuyên môn hoá sản xuất sẽ tạo điều kiện giúp nghiên cứu sâu và phát triển sản

phẩm thuận lợi hơn là phải chăm sóc đến quá nhiều mặt hàng. Bên cạnh đó, hội

nhập kinh tế sẽ giúp các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam cọ xát trên thị

trƣờng thế giới để nâng cao trình độ quản lý, công nghệ, tiếp thị, chăm sóc

khách hàng. Một khi gia nhập vào thị trƣờng thế giới, các doanh nghiệp công

nghiệp nƣớc ta muốn tồn tại và phát triển phải tự tìm tòi sáng tạo và hoàn thiện

mình để đáp ứng với nhu cầu khách hàng ngày càng đƣợc nâng cao và thoả mãn

cả các loại khách hàng vốn rất khó tính nhƣ khách hàng Nhật, Châu Âu và Bắc

Mỹ. Ngay cả chính thị trƣờng nội địa, trong tƣơng lai cũng không còn là thị

trƣờng của riêng doanh nghiệp trong nƣớc mà còn là khách hàng của các doanh

nghiệp nƣớc ngoài, của các công ty xuyên quốc gia, tập đoàn đa quốc gia. Do

vậy, các doanh nghiệp nƣớc ta sẽ luôn phải cạnh tranh một cách tích cực để tồn

tại và có thể chiếm lĩnh thị trƣờng. Điều này giúp các doanh nghiệp sản xuất và

quản lý tốt hơn.

85

Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho hàng hoá công nghiệp Việt Nam đƣợc

đối xử bình đẳng nhƣ các nƣớc khác do đó sẽ cải thiện đƣợc sức mạnh của hàng

hoá cũng nhƣ của doanh nghiệp và quốc gia. Các hoạt động xuất khẩu – nhập

khẩu đƣợc mở rộng, góp phần phát triển sản xuất trong nƣớc, tạo việc làm, tăng

thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống nhân dân.

Hội nhập sâu rộng buộc nền kinh tế phải công khai, minh bạch và bình

đẳng, thì khi đó các doanh nghiệp trong nƣớc, doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài đƣợc đối xử bình đẳng. Điều này sẽ thu hút một lƣợng lớn nguồn vốn đầu

tƣ từ nƣớc ngoài, đi kèm với nguồn vốn sẽ là trình độ khoa học công nghệ, trình

độ quản lý tiên tiến sẽ vào theo.

Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua

con đƣờng chuyển giao công nghệ, rút ngắn những bƣớc đi dò dẫm, giảm chi phí

trong công tác nghiên cứu ứng dụng, thông qua con đƣờng liên doanh, liên kết,

thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, chuyển giao công nghệ...các doanh nghiệp công

nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng

cao năng suất lao động, cải tiến chất lƣợng sản phẩm, bảo vệ thị trƣờng nội địa

và chủ động tham gia thị trƣờng quốc tế.

Ngƣời lao động Việt Nam làm việc cho các công ty nƣớc ngoài 100%

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, các công ty liên doanh sẽ học hỏi phong cách, tác phong

làm việc, chủ động, hiệu quả cao của các nhà quản lý tầm cỡ quốc tế và khu vực.

Các doanh nghiệp phải làm việc với các bạn hàng tầm cỡ quốc tế và khu vực nên

có nhiều cơ hội học hỏi văn hoá quản lý, tổ chức, đối nội, đối ngoại để nâng cao

hiệu quả kinh doanh của mình. Đây là cơ hội hết sức cần thiết và quý giá cho

một quốc gia muốn nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng và phát triển bền vững nhƣ

chúng ta.

Hệ thống pháp luật và quản lý Nhà nƣớc của chúng ta sẽ có nhiều cơ hội

đƣợc đóng góp và hoàn thiện. Khi tham gia vào một sân chơi chung, chúng ta sẽ

có dịp so sánh, cân nhắc để đặt ra những nhiệm vụ cụ thể trƣớc mắt và lâu dài,

nhìn nhận những yếu kém, bất cập để phấn đấu tự hoàn thiện mình nhằm đạt đến

một nền quản lý Nhà nƣớc hiệu quả hơn, hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm

86

minh hơn và các thể chế vững mạnh, có thể phát huy tối đa nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa.

3.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra thách thức nâng cao chất lƣợng

tăng trƣởng công nghiệp:

Những cơ hội cho thấy mặt tích cực của hội nhập, tuy nhiên, quá trình

này cũng tạo ra những thách lớn cho nền công nghiệp nƣớc nhà. Một khi hàng

rào thuế quan hạ xuống thì hàng rào phi thuế quan sẽ đƣợc dựng lên bằng cách

này hay cách khác, các quốc gia đang phát triển phải đƣơng đầu với những hàng

rào phi thuế quan rất chặt chẽ đƣợc quy định bởi luật pháp của các nƣớc sở tại.

Việt Nam phải mở cửa thị trƣờng, vai trò bảo hộ của Nhà nƣớc sẽ yếu

dần và không còn nữa. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh

nghiệp công nghiệp nói riêng buộc phải cạnh tranh không những ở thị trƣờng

quốc tế mà còn phải cạnh tranh ngay tại thị trƣờng trong nƣớc. Đối thủ tiềm

năng chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung là các doanh nghiệp đến

từ ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan vì các nƣớc này có danh mục

hàng hoá xuất khẩu giống với Việt Nam, điều kiện sản xuất cũng tƣơng đồng,

nhƣng các nƣớc đó lại có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam khoảng 2 - 3 thập

kỷ. Ngoài ra các nƣớc ASEAN đã chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang các

mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn nhƣ linh kiện điện tử, máy công cụ, thiết bị

điện tử, ôtô, xe máy...Trung Quốc có thế mạnh hơn Việt Nam về lực lƣợng lao

động dồi dào, chủ động đƣợc về mặt công nghệ, quy mô thị trƣờng lớn nên trong

quá trình sản xuất đƣợc lợi thế về mặt quy mô. Ngoài ra, các doanh nghiệp

Trung Quốc đã có tỷ lệ nội địa hoá khá cao so với Việt Nam về các mặt hàng

đang có tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu nhƣ viễn thông, vô tuyến điện, điện tử,

thiết bị y tế...Đồng thời những đối tác lớn của Trung Quốc (Hoa Kỳ, Nhật Bản,

Liên minh Châu Âu, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan...) cũng chính là những thị

trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam, Trung Quốc đổi mới kinh tế, mở cửa

trƣớc Việt Nam nên kinh nghiệm tiếp cận thị trƣờng cạnh tranh quốc tế hơn hẳn

Việt Nam.

87

Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm nhƣ giá cả, chất lƣợng, tổ chức

tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt

Nam cũng thấp hơn so với các nƣớc trong khu vực và thế giới. Trong số các mặt

hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực chƣa có nhiều mặt hàng có hàm lƣợng chất

xám, hàm lƣợng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, số ít sản phẩm đạt đƣợc tiêu

chí đó thì đa phần là những sản phẩm gia công, lắp ráp, vì vậy sản phẩm thuần

Việt đạt những tiêu chí đó là rất ít. Việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp

phải những khó khăn lớn về vốn, công nghệ và định hƣớng thị trƣờng tiêu thụ.

Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với cuộc cạnh tranh

không cân sức vì phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam là những

doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (trong khi đó chi phí đầu tƣ

ban đầu cho các doanh nghiệp công nghiệp lại rất cao) và tham gia thị trƣờng

quốc tế muộn. Trong khi vốn kinh doanh lại rất hạn chế mà khi đó phải trải rộng

phạm vi kinh doanh cả trong và ngoài nƣớc nên khó có khả năng đầu tƣ quy

trình công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm có chất lƣợng cao, cạnh tranh

với các sản phẩm ngoại có tiêu chuẩn quốc tế. Tiềm lực nghèo nàn cũng dễ dẫn

đến hạn chế tầm nhìn cho các chƣơng trình phát triển chiến lƣợc. Trình độ quản

lý và kinh nghiệm hoạt động trên thị trƣờng quốc tế của các doanh nghiệp công

nghiệp Việt Nam còn yếu, chính vì vậy doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam

đứng trƣớc nguy cơ không theo kịp yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh mở cửa

thị trƣờng hội nhập.

Tƣ tƣởng ỷ lại của các doanh nghiệp vào sự bảo hộ của nhà nƣớc còn lớn.

Nhiều ngành công nghiệp và doanh nghiệp nhà nƣớc còn coi việc hội nhập kinh

tế là việc của Nhà nƣớc, của Chính phủ. Trong khi đó các cam kết hội nhập yêu

cầu Việt Nam phải xây dựng đƣợc môi trƣờng kinh doanh cạnh tranh bình đẳng

theo hƣớng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc

ngoài, xoá bỏ những biện pháp bảo hộ, trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc

tế.

Trong xu hƣớng hội nhập hiện nay đang xuất hiện hiện tƣợng các nƣớc

công nghiệp đang có khuynh hƣớng di dời các nhà máy, các công đoạn sản xuất

88

ô nhiễm môi trƣờng, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên sang những khu vực

có luật bảo vệ môi trƣờng và giàu tài nguyên thiên nhiên của các nƣớc nghèo,

cần thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài để tạo ra công ăn việc làm cho dân mình, dễ

xuống cấp hơn. Nếu các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam không

chuẩn bị để đối phó với vấn đề nan giải này, với công nghệ xử lý môi trƣờng lạc

hậu và trình độ dân trí chƣa cao sẽ tạo ra một thiên đƣờng thu hút các công đoạn

sản xuất, các nhà máy đang có vấn đề ô nhiễm môi trƣờng. Mặt khác, với sức

cạnh tranh kém về công nghệ, các quốc gia đang phát triển nhƣ chúng ta sẽ càng

bị rút cạn các nguồn tài nguyên do tình trạng xuất các nguồn tài nguyên thô, ít

giá trị gia tăng sang các quốc gia có công nghệ chế biến trình độ cao hơn. Chính

vì vậy, ngoài các chính sách bảo vệ môi trƣờng lâu dài, khai thác và sử dụng tài

nguyên thiên nhiên một cách thích đáng trên cơ sở tính toán khoa học về tốc độ

khai thác và phục hồi đƣợc cân nhắc trong việc nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng

và đảm bảo phát triển bền vững.

3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG

NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2006 - 2020)

Trong giai đoạn 2006 - 2020, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải tiếp

tục duy trì tốc độ tăng trƣởng ấn tƣợng nhƣ giai đoạn trƣớc (1991 - 2005), bên

cạnh đó nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng và phát triển ngành hơn nữa. Phấn đấu

ngành phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tƣ theo chiều sâu,

đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng thành phần các

ngành sản xuất công nghiệp.

Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh,

chú trọng công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông

nghiệp - nông thôn, chuyển hƣớng sản xuất từ thay thế hàng nhập khẩu sang giai

đoạn xuất khẩu.

Đầu tƣ có chọn lọc để phát triển một số ngành công nghiệp trọng điểm,

nền tảng nhƣ công nghiệp sản xuất các tƣ liệu sản xuất, công nghiệp hoá dầu,

luyện kim, cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản.

89

Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao nhƣ công nghệ thông tin,

viễn thông, điện tử, phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nƣớc

và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lý (để vẫn đứng vững đƣợc trong

giai đoạn đầu và có khả năng cạnh tranh đƣợc khi hội nhập).

Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tƣ phát triển sản xuất

công nghiệp với nhiều quy mô, trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

phù hợp với định hƣớng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phƣơng, trƣớc

hết tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và

công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.

Tăng trƣởng công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trƣờng sinh thái. nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời lao động, đảm bảo sự tăng trƣởng bền

vững.

3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP GIAI

ĐOẠN (2006 - 2020)

3.3.1. Tăng cƣờng huy động nguồn vốn cho tăng trƣởng ngành

3.3.1.1. Phát triển thị trường tài chính

* Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

Với chủ trƣơng của Nhà nƣớc ta tiến hành tách biệt công tác quản lý hành

chính với quản lý sản xuất kinh doanh, với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp

ngành càng lớn mà nguồn vốn của Nhà nƣớc cho đầu tƣ có hạn, cộng với hiệu

quả kinh doanh của các doanh nghiệp không cao thì biện pháp cổ phẩn hoá các

doanh nghiệp Nhà nƣớc là cách làm hữu hiệu nhất giúp đa dạng hoá hình thức

sở hữu doanh nghiệp đồng thời có thể huy động đƣợc tối đa các nguồn lực xã

hội cho đầu tƣ phát triển. Những cách làm thế là để hiệu quả không làm thất

90

thoát vốn nhà nƣớc, không làm một bộ phận ngƣời dân thu lợi bất chính từ hoạt

động này, sau đây là một số giải pháp:

Khi tiến hành định giá tài sản doanh nghiệp phải đƣợc tổ chức tài chính

uy tín định giá, tính đúng, tính đủ, tính trung thực giá trị tài sản của doanh

nghiệp. Riêng đối với bất động sản (nhƣ quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp đa

thuê của Nhà nƣớc) cần tính đến lợi thế quyền sử dụng vào giá trị của doanh

nghiệp.

Việc mua bán cổ phần phải đƣợc công khai trên thị trƣờng, khắc phục

tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp để tránh tình trạng

thất thoát, tránh bán “lúa non“ nhƣ đã xảy ra, vừa ngầm, vừa rơi vào tay một số

tƣ nhân. Trƣớc khi cổ phần hoá cần có chế độ ƣu tiên, ƣu đãi ngƣời lao động

một cách hợp lý.

Đối với những doanh nghiệp không phải là những doanh nghiệp phát

triển sản phẩm mới trọng điểm, sản phẩm phục vụ an ninh – quốc phòng, Nhà

nƣớc không nên nắm giữ 51% hoặc trên 51% nhƣ hiện này mà bán bớt ra cho

ngƣời lao động, công chúng đầu tƣ, để những doanh nghiệp này ngày càng đại

chúng và thực sự hoạt động hiệu quả. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã tiến hành

cổ phần hoá nhƣng Nhà nƣớc vẫn nắm lƣợng cổ phần kiểm soát nên vẫn hoạt

động theo cơ chế nhƣ một doanh nghiệp nhà nƣớc, làm hạn chế tính chủ động

trong điều hành và chậm cải tiến cơ chế quản lý doanh nghiệp.

Lựa chọn những doanh nghiệp công nghiệp tốt (quy mô vốn lớn, kinh

doanh hiệu quả, chiến lƣợc phát triển rõ ràng...) đã tiến hành cổ phần hoá xin

niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán của những nƣớc phát triển nhƣ: Anh, Hoa

Kỳ, Singapore, Hồng Kông...Nhằm mục đích thông qua kênh thông tin thị

trƣờng chứng khoán của những nƣớc phát triển để quảng bá cho ngành công

nghiệp Việt Nam đồng thời tranh thủ sự chú ý mà thu hút nguồn vốn đầu tƣ gián

tiếp rất lớn tại những thị trƣờng này.

* Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trƣờng chứng khoán sẽ là kênh huy động vốn trung và dài hạn song

song tồn tại với thị trƣờng vốn vay. Có thêm thị trƣờng chứng khoán đồng nghĩa

91

với việc các doanh nghiệp có thêm sự lựa chọn cho việc huy động vốn. Doanh

nghiệp huy động vốn thông thƣờng này có những ƣu điểm nhƣ chi phi thấp, tính

cạnh tranh cao, tính tự chịu trách nhiệm cao...Để phát triển thị trƣờng cần:

Hệ thống luật pháp về chứng khoán & thị trƣờng chứng khoán cần sớm

đƣợc hoàn thiện, ban hành.

Tăng cung “hàng hoá“ cho thị trƣờng để cân bằng quan hệ cung – cầu,

tránh tình trạng thị trƣờng tăng trƣởng quá nóng do khan hiếm “hàng“ nhƣ thời

gian vừa qua. Bằng biện pháp tăng cƣờng cổ phần hoá doanh nghiệp những

doanh nghiệp nào thoả mãn điều kiện niêm yết nên khuyến khích doanh nghiệp

niêm yết trên thị trƣờng.

Đa dạng hoá các hàng hoá trên thị trƣờng cho nhà đầu tƣ lựa chọn (trái

phiếu, cổ phiếu, quyền lựa chọn, chứng chỉ quỹ...).

Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trƣờng: Tăng số lƣợng,

nâng cao chất lƣợng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng

khoán, công ty quản lý quỹ đầu tƣ. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp

trên thị trƣờng, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lƣợng các dịch vụ; đảm bảo

tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trƣờng.

Phát triển hệ thống nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc: Khuyến khích nhà

đầu tƣ có tổ chức, các định chế đầu tƣ chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán,

bảo hiểm, quỹ đầu tƣ, quỹ hƣu trí, quỹ tƣơng hỗ...) tham gia đầu tƣ trên thị

trƣờng. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tƣ chuyên nghiệp nƣớc

ngoài vào thị trƣờng Việt Nam theo lộ trình cam kết.

Uỷ ban chứng khoán Nhà nƣớc phối hợp với các ngành liên quan tập

trung hoàn thiện hệ thống pháp lý và quản lý, cải tiến bộ máy tổ chức của cơ

quan quản lý, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi về quản lý thị trƣờng chứng

khoán, thực hiện quản lý, giám sát thị trƣờng chặt chẽ đồng thời tăng cƣờng

công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức ra công chúng.

3.3.1.2. Phát triển thị trường vốn vay

Trong điều kiện hiện tại và tƣơng lai gần thị trƣờng vốn vay vẫn đóng vai

trò chủ đạo trong việc huy động vốn của doanh nghiệp công nghiệp.

92

Kiện toàn hệ thống ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và ngân hàng

thƣơng mại cổ phẩn, loại bớt những ngân hàng yếu kém (yếu về vốn, chất lƣợng

dịch vụ, dịch vụ đơn điệu...) chỉ để lại những ngân hàng thực sự mạnh đủ sức

cạnh tranh khi mở cửa thị trƣờng vốn cho ngân hàng nƣớc ngoài. Các ngân hàng

nhỏ lẻ không muốn giải tán thì có thể hợp nhất vào các ngân hàng lớn.

Đẩy mạnh cổ phần hoá các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, liên doanh

liên kết với các ngân hàng nƣớc ngoài để tranh thủ nguồn vốn, trình độ quản lý

và công nghệ.

Khuyến khích các mối quan hệ chiến lƣợc giữa ngân hàng với các doanh

nghiệp công nghiệp, để khai thác ƣu thế của nhau trong quá trình tăng trƣởng và

phát triển.

3.3.1.3. Huy động vốn trong dân cư

Thị trƣờng chứng khoán phát triển là sức hút các nguồn vốn nhàn rỗi

trong dân cƣ. Để khai thác tiếp nguồn vốn nhàn rỗi còn lại chƣa đƣợc đƣa vào

thị trƣờng chứng khoán, Chính phủ đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh

nghiệp, khuyến khích, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, hƣớng nhà đầu tƣ vào

những ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất lớn,

doanh nghiệp đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngoài.

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tƣ (miễn giảm thuế, hộ trợ

vay vốn, thành lập các trung tâm tƣ vấn – hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ)

xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp nhằm giải quyết công ăn việc làm tạo

thêm thu nhập, tạo nguồn cung cấp vật tƣ cho cơ sở sản xuất lớn.

3.3.1.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Giữ vững ổn định chính trị có ý nghĩa quyết định thu hút đầu tƣ trực tiếp

nƣớc ngoài. Nhà nƣớc phải tạo dựng mặt bằng pháp lý cho môi trƣờng đầu tƣ và

kinh doanh bình đẳng, thông thoáng giữa các loại hình doanh nghiệp của các

thành phần kinh tế khác nhau.

Xây dựng chiến lƣợc phát triển ngành công nghiệp, quy hoạch phát triển

ngành, công bố doanh mục những dự án ngành công nghiệp kêu gọi vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài.

93

Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng các yêu

cầu của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.

3.3.2. Nâng cao hiệu quả đầu tƣ.

3.3.2.1. Nguồn vốn đầu tư Nhà nước

Vấn đề thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tƣ đã đƣợc đề cập đến nhiều,

theo nhƣ dự báo trong thời gian tới nguồn vốn đầu tƣ của Nhà nƣớc cho ngành

công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu

quả đầu tƣ của Nhà nƣớc có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả Nhà nƣớc. Vì

vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tƣ vốn, chống thất thoát nguồn vốn của Nhà

nƣớc, có những giải pháp sau:

*. Xác định những ngành công nghiệp mới sẽ là trung tâm của sự phát

triển trong tƣơng lai để tập trung nguồn vốn Nhà nƣớc, nguồn lực nghiên cứu

phát triển đón đầu. Khi Nhà nƣớc đã thành công sẽ tiến hành chuyển giao công

nghệ sản xuất cho các đơn vị kinh tế.

Nhà nƣớc cần nghiên cứu, bổ xung các cơ chế, chính sách theo hƣớng

loại bỏ dần tình trạng khép kín và những tồn tại đã nêu trong quản lý đầu tƣ,

tách biệt hoạt động đầu tƣ với hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc. Các hoạt

động đầu tƣ của Nhà nƣớc phải có nhiều sự tham gia của các đối tƣợng kinh tế

để tăng tính cạnh tranh và giám sát hoạt động. Ví dụ nhƣ hoạt động thăm dò,

khai thác dầu khí, Nhà nƣớc có thể tiến hành đấu thầu tìm kiếm các đối tƣợng có

khả năng cung cấp dịch vụ thăm dò tốt nhất. Khi xác định có mỏ dầu, Nhà nƣớc

tiến hành đấu thầu đơn vị khai thác. Dầu mỏ đƣợc khai thác, Nhà nƣớc tiến hành

bán đấu giá...

Nhà nƣớc cần nâng cao năng lực công tác kế hoạch trong đó cần nâng cao

công tác quy hoạch, kiên quyết quản lý đầu tƣ theo quy hoạch đƣợc duyệt, đầu

tƣ tập trung, theo mục tiêu, theo quy hoạch và hiệu quả.

Chính phủ cần chỉ đạo điều chỉnh, bổ xung hoặc xây dựng mới các quy

hoạch, kế hoạch đầu tƣ, gắn quy hoạch với mục tiêu chiến lƣợc phát thiển kinh

tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng; phân

94

cấp, phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng bộ phận, giữa bộ phận địa

phƣơng nâng cao trách nhiệm quản lý, điều hành của các cấp.

Nhà nƣớc muốn chống thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tƣ của Nhà

nƣớc cần phải tiến hành hàng loạt các biện pháp từ khâu lập kế hoạch, dự toán,

triển khai, tiếp quản, nhƣng biện pháp quan trọng nhất là việc công khai hoá

toàn bộ hoạt động đầu tƣ bằng vốn nhà nƣớc để các thành phần kinh tế, ngƣời

dân có thể giám sát.

Đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc, Nhà nƣớc nên tiến tới xoá bao cấp, độc

quyền, nâng cao tự chủ, chịu trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nƣớc, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp nhà nƣớc cạnh tranh bình đẳng.

3.3.2.2. Nguồn vốn đầu tư ngoài khu vực Nhà nước

Muốn nâng cao hiệu quả đầu tƣ khu vực ngoài Nhà nƣớc cần khuyến

khích phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân và đầu tƣ nƣớc ngoài. Thực tế đã chứng

minh, kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên doanh liên kết

không phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh.

Nhà nƣớc cần đối xử công bằng dọc, công bằng ngang. Công bằng ngang

đối xử các doanh nghiệp nhƣ nhau không phân biệt quốc doanh hay ngoài quốc

doanh miễn là giống nhau; công bằng dọc đối xử khác nhau với những doanh

nghiệp có công nghệ, ngây ô nhiễm môi trƣờng khác nhau.

Khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đƣợc đối xử công

bằng, tạo một ’’sân chơi bình đẳng“ thì doanh nghiệp Nhà nƣớc nếu muốn tồn tại

và phát triển sẽ năng động tích cực hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh của

mình.

3.3.3. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực

Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã thu hút đƣợc lƣợng lớn

nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nhờ lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, chi phí rẻ. Lợi

thế đó sẽ mất dần trong tƣơng lai. Khi nền kinh tế và khoa học công nghệ phát

triển thì chi phí lao động tăng lên và công việc đòi hỏi ngƣời lao động cũng phải

có trình độ cao hơn để vận hành máy móc và các hoạt động kinh tế. Nâng cao

chất lƣợng tăng trƣởng phải nâng cao năng suất lao động và muốn nâng cao

95

năng suất lao động một trong các cách là nâng cao trình độ ngƣời lao động.

Đứng trƣớc yêu cầu tất yếu đó Đảng và Nhà nƣớc ta coi “giáo dục là quốc sách

hàng đầu“. Để nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng công nghiệp trong thời gian tới

Nhà nƣớc cần biến khẩu hiệu này thành hành động mạnh mẽ hơn nữa.

Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nƣớc

trong giáo dục và đào tạo; cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống

giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế. Đẩy mạnh đổi mới nội dung,

chƣơng trình và phƣơng pháp đào tạo theo hƣớng hiện đại. Gắn lý luận với thực

tiễn, gắn đào tạo với thực hành, chƣơng trình giảng dạy phải đƣợc sự tham gia

của các đối tƣợng tƣơng lai sẽ sử dụng lao động vì đối tƣợng này hiểu rõ hơn ai

hết ngƣời lao động trƣớc khi đƣợc nhận vào các đơn vị kinh tế cần phải trang bị

những kiến thức kỹ năng gì cần thiết cho công việc.

Nhà nƣớc tiến hành rà soát lại các trƣờng đạo tạo, đội ngũ giáo viên và

cán bộ quản lý tiến tới cơ cấu các đơn vị đào tạo, ngành theo hƣớng chuyển dịch

cơ cấu công nghiệp. Các biện pháp cụ thể, thứ 1: xác định rõ ràng các lĩnh vực

ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu ngƣời lao động có trình độ chuyên

môn, tay nghề để tăng cƣờng đầu tƣ, hỗ trợ; thứ 2: tiêu chuẩn hoá các tiêu chuẩn

đánh giá kết quả đào tạo của các đơn vị đào tạo hƣớng tới việc các đơn vị đào

tạo thừa nhận kết quả của nhau; thứ 3: phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên

tham gia thị trƣờng lao động.

Sau khi đã xây dựng đƣợc tiêu chuẩn đánh giá các đơn vị đào tạo Nhà

nƣớc hàng năm tiến hành xếp hạng các đơn vị đào tạo, bảng xếp hạng này phải

đƣợc công bố công khai rộng rãi để các đơn vị đào tạo cạnh tranh lành manh.

Nhà nƣớc dần dần trao quyền tự chủ (tài chính, tuyển sinh, khung chƣơng trình

đào tạo...) và tiến tới tự chủ hoàn toàn cho các đơn vị đào tạo.

Khi nền kinh tế phát trển cao, nhân lực dần trở lên khan hiếm và nhu cầu

chuyển đổi ngành nghề ngày càng cao, Nhà nƣớc khuyến khích các tỉnh thành

lập các trƣờng cộng đồng chuyên đào tạo nghệ ngắn hạn, chuyển đổi nghề cho

ngƣời lao động để tăng thu nhập cho ngƣời lao động đồng thời giải quyết vấn đề

ngành thiếu ngành thừa lao động.

96

Tăng cƣờng hợp tác với nƣớc ngoài và thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào lĩnh

vực đào tạo một cách có chọn lọc tránh biến thị trƣờng giáo dục Việt Nam là nơi

chứa chất thải giáo dục của các nƣớc phát triển. Trong thời gian vừa qua tồn tại

hiện tƣợng: Nắm bắt đƣợc nhu cầu thích ngoại nhiều trƣờng nƣớc ngoài đƣa các

chƣơng trình đào tạo lại hậu, ít có tính tƣơng thích với đặc điểm của nền kinh tế

Việt Nam, giảng viên không phải là những ngƣời thực sự giỏi,

Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục. Kêu gọi kiều bào ở hải ngoại về nƣớc

giúp đỡ chuyển giao công nghệ, giáo dục tuỳ theo khả năng mỗi ngƣời.

Nhà nƣớc tiến tới giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nƣớc trong

việc sử dụng lao động, có quyền điều chỉnh chế độ cho ngƣời lao động căn cứ

vào sự đóng góp cho doanh nghiệp của ngƣời lao động.

3.3.4. Phát triển khoa học công nghệ

Đẩy mạnh nhu cầu đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Tiếp tục cải cách cơ cấu công nghiệp theo hƣớng hiện đại, hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trƣờng theo hƣớng tạo môi trƣờng pháp lý kinh doanh cạnh tranh

bình đẳng, nhằm tạo sức ép cạnh tranh trên thị trƣờng, để doanh nghiệp chú ý tới

đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất.

Tiến hành cổ phẩn hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc, kiên quyết giảm bao cấp,

giảm bảo hộ độc quyền đối với doanh nghiệp nhà nƣớc, tăng cƣờng quản lý Nhà

nƣớc đối với hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.

Nhà nƣớc cần xây dựng lộ trình bắt buộc, khuyến khích nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài đổi mới công nghệ, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.

Nhà nƣớc xây dựng quỹ đầu tƣ mạo hiểm, dùng quỹ này đầu tƣ nắm

quyền kiểm soát các doanh nghiệp đầu tƣ, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới,

sản phẩm mới. Những công nghệ có tính cách mạng trong sản xuất trong tƣơng

lai.

Nhà nƣớc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ thông

qua các biện pháp hỗ trợ vốn, nhân lực (chuyên gia tƣ vấn, hƣớng dẫn), giảm

thuế.

97

Thông tin tuyên truyền về xu hƣớng công nghệ, thị trƣờng công nghệ đến

đƣợc với các doanh nghiệp.

Thành lập các trung tâm chuyển giao công nghệ đặc biệt các công nghệ

cốt lõi, công nghệ sạch.

3.3.5. Gắn tăng trƣởng công nghiệp với bảo vệ môi trƣờng

Công nghiệp giai đoạn (1991 – 2005) tăng trƣởng mạnh, sản lƣợng hàng

hoá làm ra càng tăng nhƣng bên cạnh đó để lại trong dân cƣ rất nhiều tiếng phàn

nàn về hiện tƣợng ô nhiễm môi trƣờng nƣớc, không khí, tiếng ồn, trong các khu

dân cƣ gần khu công nghiệp, nhà máy công nghiệp, làng nghề. Ngay từ bây giờ

phải đặt vấn đề môi trƣờng trong các chiến lƣợc phát triển công nghiệp, lựa chọn

giải pháp thiết thực làm chúng ta vẫn có đƣợc tốc độ tăng trƣởng công nghiệp ở

mức cao nhƣng môi trƣờng vẫn đƣợc đảm bảo và cải thiện. Để làm đƣợc điều đó

chúng ta phải yêu cầu lựa chọn công nghệ phù hợp, kiên quyết loại bỏ công

nghệ tiêu hao nhiều nguyên liệu (giảm dần tỷ trọng công nghệ sử dụng nguyên

liệu hoá thạch trong các xí nghiệp), bố cục hợp lý, cơ sở hạ tầng hoàn thiện, tăng

cƣờng khả năng sử dụng năng lƣợng sạch, xử lý nƣớc thải, tích cực thay đổi tình

trạng thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trƣờng nhƣ hiện nay.

Các dự án, công trình công nghiệp mới phải đánh giá tác động môi trƣờng

một cách tỷ mỷ, chính xác, tính khả thi làm căn cứ cấp giấy phép.

Nhà nƣớc sớm thành lập Công an môi trƣờng để kiểm tra, kiểm soát các

hoạt động gây ô nhiễm môi trƣờng của các doanh nghiệp. Cơ quan quản lý môi

trƣờng phạt nặng các đơn vị cố tình phớt lờ những quy định về bảo vệ môi

trƣờng.

Nhà nƣớc nên phát triển sử dụng các công cụ kiểm soát chất thải ra môi

trƣờng nhƣ thu phí thải và lệ phí thải cho mỗi đơn vị chất thải ra môi trƣờng.

Cho ra đời thị trƣờng trao đổi giấy phép thải để các doanh nghiệp có thể trao đổi

cho nhau, doanh nghiệp nào thải nhiều chất thải nhƣng chƣa có điều kiện đầu tƣ

giảm thải thì có thể mua giấy phép này trên thị trƣờng. Với việc phát hành giấy

phép thải, cơ quan quản lý môi trƣơng có nguồn thu cho hoạt động tái tạo lại

môi trƣờng đồng thời kiểm soát đƣợc lƣợng chất thải thải ra môi trƣờng.

98

3.3.6. Cải thiện môi trƣờng chính sách, pháp luật, đầu tƣ

3.3.6.1. Đổi mới công các kế hoạch

Đổi mới, nâng cao công tác kế hoạch từ công tác xây dựng chiến lƣợc

ngành công nghiệp, chƣơng trình phát triển ngành công nghiệp, quy hoạch phát

triển ngành công nghiệp, cần sớm ban hành nghị định về công tác quy hoạch

khắc phục tình trạng thiếu thống nhất giữa quy hoạch chung của cả nƣớc, quy

hoạch vùng và quy hoạch tỉnh, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng; rà soát việc

quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp, chú trọng xây dựng các khu, cụm

khu công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp

và nông thôn.

Giảm và tiến tới chấm dứt tình trạng quy hoạch treo các khu công nghiệp.

Xây dựng và cung ứng các dịch vụ khu công nghiệp chỉ đƣợc giao cho các

doanh nghiệp, đơn vị kinh tế thực sự có tiềm lực kinh tế và phù hợp với quy

hoạch phát triển ngành.

3.3.6.2. Cải cách hành chính

Nâng cao chất lƣợng lập pháp, bộ Công nghiệp với tƣ cách là bộ chủ

quản cho ngành công nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban pháp luật của

Quốc hội, Quốc hội xây dựng ban hành các văn bản pháp quy phạm pháp luật có

tính ổn định cao, phù hợp với điều kiện từng giai đoạn phát triển để thúc đẩy sự

phát triển công nghiệp.

Đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính nhà nƣớc, trọng tâm là điều chỉnh

để làm rõ và thực hiện đúng chức năng của các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong

điều kiện phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao; đi sâu cải cách thể chế,

đẩy mạnh việc phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự chịu

trách nhiệm của ngành; xoá bỏ bao cấp; đề cao trách nhiệm của từng cá nhân,

đặc biệt là trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thạo việc, chí công vô tƣ;

áp dụng các cơ chế, biện pháp ngăn chặn và xử lý, khắc phục các trƣờng hợp

cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ để nhũng nhiễu, gây bất bình cho nhân dân,

doanh nghiệp; cƣơng quyết đƣa ra khỏi bộ máy công quyền những cán bộ, công

99

chức thoái hoá, biến chất, sách nhiễu và thay thế kịp thời những ngƣời đáp ứng

đƣợc yêu cầu công việc.

Cần cải tạo tƣ duy cho một bộ phận cán bộ quản lý ngại đổi mới, ngại đấu

tranh, cạnh tranh trong điều kiện mới.

Thực hiện triệt để việc tách quản lý hành chính nhà nƣớc với quản lý sản

xuất kinh doanh.

3.3.7. Giáo dục tính tự tôn dân tộc

Tâm lý chung của ngƣời dân Việt Nam hiện nay vẫn còn mạng nặng xính

ngoại; thích sử dụng hàng hoá và dịch vụ, công nghệ, dây chuyền máy móc của

nƣớc ngoài.

Nhiều sản phẩm công nghiệp Việt Nam sản xuất ra có chất lƣợng không

thua kém gì hàng hoá có xuất xứ từ nƣớc ngoài mà giá thành lại hạ hơn mà

ngƣời tiêu dùng vẫn thờ ơ.

Dây chuyền công nghệ, máy móc sản xuất tại trong nƣớc có thể sản xuất

đƣợc cũng đảm bảo chất lƣợng, giá thành thì tốt hơn nhƣng nhiều doanh nghiệp

vẫn mất công nhập khẩu từ nƣớc ngoài.

Nhà nƣớc cần có chƣơng trình quảng bá, nâng cao tính tự tôn dân tộc,

khuyến khích ngƣời tiêu dùng với phƣơng châm “Ngƣời Việt dùng hàng Việt“.

KẾT LUẬN

Trong 15 năm (1991 – 2005) tăng trƣởng và phát triển, nền kinh tế Việt

Nam đạt đƣợc rất nhiều thành tựu trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành

100

công nghiệp. Ngành công nghiệp luôn duy trì tốc độ tăng trƣởng cao (bình quân

hàng năm giai đoạn này là 13,5%/năm), gia tăng đóng góp vào GDP của đất

nƣớc, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nhiều hàng hóa công nghiệp đáp ứng tốt

nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc, thay thế hàng nhập khẩu và đang tiến tới sản xuất

để xuất khẩu. Bên cạnh những thành tựu lớn đó không thể che dấu hết những

yếu kém của ngành công nghiệp trong giai đoạn vừa qua, chất lƣợng tăng trƣởng

còn thấp mới chỉ tăng trƣởng theo chiều rộng (tăng quy mô sản xuất, tăng các

yếu tố đầu vào…), tăng trƣởng theo chiều sâu chƣa đƣợc chú trọng vì vậy năng

suất lao động ngành tăng trƣởng chậm hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trƣởng

ngành, nhiều sản phẩm công nghiệp mới chỉ xuất khẩu thô, gia công thuê cho

các đối tác nƣớc ngoài… Ngành công nghiệp còn thiếu những sản phẩm có công

nghệ mũi nhọn có tính đột phát. Với những đánh giá trên tác giả thấy rằng ngành

công nghiệp nếu muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nƣớc giao là

đầu tàu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc thì ngành công

nghiệp còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng ngành

công nghiệp trong thời gian tới.

Sau một thời gian nghiên cứu một cách nghiêm túc, luận văn bƣớc đầu đã

đạt đƣợc một số kết quả:

Thứ nhất: Hệ thống hóa lý thuyết về tăng trƣởng và phát triển; quan điểm,

tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng tăng trƣởng ngành.

Thứ hai: Đánh giá thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng ngành công nghiệp,

các nhân tố tác động và làm nên chất lƣợng tăng trƣởng ngành công trong thời

gian (1991 – 2005). Từ những đánh giá đó rút ra bài học cho ngành công nghiệp

trong thời gian tới.

Thứ ba: Từ những quan điểm, mục tiêu phát triển ngành công nghiệp giai

đoạn (2006 – 2020), tác giả đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng tăng

trƣởng ngành công nghiệp.

Trên đây là toàn bộ nội dung của bản luận văn, mong muốn thì nhiều

nhƣng do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu cũng

nhƣ khả năng hạn chế của tác giả nên chắc chắn luận văn sẽ không thể tránh

101

khỏi những sai sót. Với tƣ cách là ngƣời cầu thị, tác giả rất mong nhận đƣợc sự

đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, cũng nhƣ những ai quan

tâm đến lĩnh vực này để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

HN, ngày ….. tháng 3 năm 2008

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ công nghiệp Việt Nam, “60năm Công Nghiệp Việt Nam", NXB

Lao đông - Xã hội, Hà Nội - 2005.

2. Bộ công nghiệp Việt Nam, "Số liệu Công Nghiệp Việt Nam 1989 -

1993", NXB Thống kế, Hà Nội - 1994.

102

3. Báo cáo chung của các nhà tài trợ cho Việt Nam, Báo cáo Phát triển

Việt Nam 2005.

4. Báo cáo chung của các nhà tài trợ cho Việt Nam, Báo cáo Phát triển

Việt Nam 2006.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Nam, Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt

Nam, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội 2006.

7. TS.KH. Nguyễn Văn Quý, Hệ thống tài khoản quốc gia- ứng dụng

trong phân tích kinh tế và trong công tác kế hoạch, NXB Thống kê,

năm 2000.

8. Tổng cục thống kê, “Số liệu Công Nghiệp Việt Nam 1986 – 1991",

NXB Thống kế, Hà Nội - 1992.

9. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB thống kê - 2006

10. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2006, NXB thống kê - 2007

11. Trần Văn Tùng (chủ biên), Mô hình tăng trƣởng kinh tế, NXB Đại học

Quốc Gia Hà Nội, 2002.

12. Tổng cục thống kê, Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát

triển (Viet Nam Industry in 20 years of Renovation Development),

NXB Thống kê, 2006.

13. Viện nghiên cứu chiến lƣợc, chính sách công nghiệp, “Công Nghiệp

Việt Nam 1945 - 2010", NXB Thống kế, HN – 2001.

14. Website:

http://www.mpi.gov.vn

http://www.undp.org.vn

http://www.nea.gov.vn

http://www.gso.gov.vn http://www.vietnam.gov.vn

103

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one