ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––– NGUYỄN VĂN ĐẬM CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––– NGUYỄN VĂN ĐẬM CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60.22.03.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN THÁI NGUYÊN - 2017
LỜ I CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứ u củ a riêng tôi, các số liê ̣u, kết quả
nghiên cứ u trong luâ ̣n văn là trung thực.
Thá i Nguyên, thá ng 4 năm 2017
Tá c giả luận văn
Nguyễn Văn Đậm
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đàm Thị Uyên đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thiện công trình này.
Tôi xin chân thành cảm ơn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm khoa Lịch sử, khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thư viện tỉnh Lạng Sơn, Sở văn hóa tỉnh Lạng
Sơn, Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn, Cục thống kê tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân huyện
Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, Phòng
văn hóa huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, Phòng văn hóa huyện Văn Lãng tỉnh Lạng
Sơn, đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Đậm
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................................. iv
Danh mục các bảng ........................................................................................................ v
Danh mục các biểu đồ ................................................................................................... vi
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................................................5
5.1. Nguồn tư liệu ...................................................................................................................................5
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................................................5
7. Bố cục luận văn ..................................................................................................................................6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN .........................................11
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ..................................................................................................11
1.2. Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính của châu Văn Uyên qua các thời kỳ lịch sử ............15
1.3. Nguồn gốc dân cư .........................................................................................................................17
1.3.1. Dân tộc Nùng .............................................................................................................................19
1.3.2. Dân tộc Tày ................................................................................................................................20
1.3.3. Dân tộc Kinh ..............................................................................................................................22
1.3.4. Dân tộc Hoa ................................................................................................................................23
Chương 2: SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỈ
XIX ......................................................................................................................................................25
2.1. Ruộng đất châu Văn Uyên qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1804) .................................................25
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất tư ....................................................................................................27
2.2. Văn Uyên qua tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) .....................................................................35
2.2.1. Tình hình ruộng đất châu Văn Uyên qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ....................................35
2.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư ....................................................................................................37
2.3. So sánh tình hình ruộng đất huyện Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
và địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840) ...................................................................................................43
Chương 3: VĂN HÓA CỦA CHÂU VĂN UYÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ..............................51
3.1. Làng bản, nhà cửa .........................................................................................................................53
iii
Làng bản ...............................................................................................................................................53
3.2. Gia đình và dòng họ ......................................................................................................................57
3.3. Ăn uống .........................................................................................................................................59
3.4. Trang phục ....................................................................................................................................61
3.5. Tín ngưỡng, tôn giáo .....................................................................................................................63
3.7. Các ngày tết và lễ hội truyền thống ...............................................................................................73
3.8. Ngôn ngữ, văn học và tri thức dân gian ........................................................................................75
KẾT LUẬN .........................................................................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................84
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP
: Đại học Sư phạm
: Giáo dục GD
: Giáo sư GS
KHXH : Khoa học Xã hội
M.s.th.t : Mẫu, sào, thước, tấc
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
TCN : Trước Công nguyên
TLĐD : Tư liệu điền dã
Tr : Trang
TS : Tiến sĩ
TTLTQG I : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
Ví dụ : 10 mẫu 1 sào 3 thước 5 tấc sẽ được viết tắt là 10.1.3.5
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các dân tộc thuộc châu Văn Uyên .............................................................. 18
Bảng 2.1: Thống kê ruộng đất châu Văn Uyên năm Gia Long 4 (1805)..................... 26
Bảng 2.2: Quy mô sở hữu ruộng đất ............................................................................ 27
Bảng 2.3: Bình quân sở hữu chủ và bình quân thửa năm Gia Long (1805) ............... 29
Bảng 2.4: Tình hình giới tính trong sở hữu tư nhân (1805) ........................................ 30
Bảng 2.5: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm (1805) ........................... 32
Bảng 2.6: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc (1805) .................................. 33
Bảng 2.7: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức sắc ................................................ 34
Bảng 2.8: Tình hình ruộng đất châu Văn Uyên năm Minh Mệnh 21 (1840) .............. 35
Bảng 2.9: Quy mô sở hữu ruộng đất ............................................................................ 37
Bảng 2.10: Bình quân số chủ và bình quân thửa năm Minh Mệnh 1840 .................... 38
Bảng 2.11: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ ............................................ 40
Bảng 2.12: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc (1840) ................................ 41
Bảng 2.13: Quy mô sở hữu ruộng đất của chức sắc thời Minh Mệnh (1840) ............. 42
Bảng 2.14: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất ở hai thời điểm lịch sử 1805 và 1840 ...... 43
Bảng 2.15: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất ở hai thời điểm lịch sử 1805 và 1840 ...... 44
Bảng 2.16: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ ................................. 47
Bảng 2.17: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc ............................................... 49
Bảng 2.18: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc ............................................... 49
Bảng 3.1: Thành phần dân tộc theo xã ....................................................................... .51
Bảng 3.2: Thống kê tỉ lệ các dân tộc chủ yếu theo xã ............................................... .52
v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư của châu Văn Uyên năm 1805 ........................ 28
Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư của châu Văn Uyên năm 1840 ........................ 37
Biểu đô 2.3: Quy mô sở hữu ruộng đất của Văn Uyên tại thời điểm 1805 và 1840 ... 45
vi
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới phía Đông Bắc của tổ quốc Việt
Nam, là địa bàn sinh sống của 7 dân tộc anh em: Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán
Chay, H’Mông. Ngay từ thời nguyên thủy, Lạng Sơn đã là địa bàn cư trú của người
Việt cổ với bằng chứng là các di chỉ từ thời đồ đá được tìm thấy ở các hang động
Thẩm Hai, Thẩm Khuyên… đã phản ánh nền văn minh sơ khai của người Việt cổ với
văn hóa Bắc Sơn, Mai Pha nổi tiếng.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, trên
mảnh đất phên dậu, địa đầu của tổ quốc có ải Pha Lũy, ải Chi Lăng ghi dấu ấn lịch
sử. Các thế hệ nhân dân các dân tộc Lạng Sơn không ngừng đứng lên kề vai sát
cánh cùng quân dân cả nước đánh bại những cuộc xâm lăng của các thế lực
phương Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc, giữ yên bờ cõi Đông
Bắc của Tổ quốc.
Văn Uyên là một châu miền núi biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược quan
trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng của tỉnh Lạng Sơn và cả nước. Đây là
địa danh lịch sử có từ lâu đời, là cửa ngõ thông thương giữa nước ta và Trung Quốc.
Vì vậy, Văn Uyên sớm trở thành nơi giao lưu kinh tế, thương mại và hoạt động đối
ngoại của tỉnh Lạng Sơn. Dưới thời Nguyễn, châu Văn Uyên cùng với Ôn Châu, Thất
Tuyền, Lộc Bình, Thoát Lãng, Yên Bác, Văn Quan hợp thành 7 châu của tỉnh Lạng
Sơn với tỉnh lị là phủ Trường Khánh. Ngày 16 tháng 12 năm 1964, Thủ tướng chính
phủ ra quyết định hợp nhất hai huyện Văn Uyên và Thoát Lãng thành huyện Văn
Lãng. Ngày 10-6-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành nghị quyết tách thị trấn Đồng
Đăng và các xã Song Giáp, Thụy Hùng, Hồng Phong, Bảo Lâm, Phú Xá, Bình Trung
sáp nhập vào huyện Lộc Bình. Vì vậy, châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX nay thuộc
địa giới hành chính của huyện Văn Lãng và huyện Cao Lộc.
Ngày nay, để đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước theo xu hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh” với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây là sự
nghiệp của toàn xã hội trong đó có đóng góp không nhỏ của nhân dân các dân tộc
1
những huyện miền núi như Văn Lãng, Cao Lộc vào sự nghiệp phát triển chung
của đất nước.
Hiểu về Văn Uyên xưa nói riêng và Lạng Sơn nói chung để có những bước đi
đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước ngày càng tươi
đẹp, xứng đáng là vùng đất địa đầu, là cửa ngõ của Tổ quốc.
Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn nửa
đầu thế kỉ XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một số công trình nghiên cứu có nội dung liên quan ít nhiều đến đề tài, có thể
kể đến như sau:
Tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” của tác
giả Vũ Huy Phúc, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 1979. Tác
giả đã hệ thống hóa những chính sách lớn về ruộng đất của nhà Nguyễn, các thiết chế
và cơ cấu ruộng đất được hình thành từ chính sách đó, đồng thời nêu ra những tác
động và hậu quả của nó đối với yêu cầu phát triển của lịch sử. Nội dung của tác phẩm
không trực tiếp đề cập đến châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn nhưng đây là một trong
những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu về chế độ ruộng đất của Việt Nam
trong nửa đầu thế kỉ XIX.
Trong cuốn “Dân tộc Nùng ở Việt Nam” của Hoàng Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, xuất bản năm 1992. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến những kinh
nghiệm trong sản và xuất, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần, với những nghi lễ
trong tang ma, cưới gả cũng như các phong tục tập quán từ xa xưa của đồng bào
Nùng nói chung. Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể về văn hóa của dân tộc
Nùng ở Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn.
Tác phẩm “ Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Nxb Giáo dục 1997. Nội
dung đã đề cập đến các yếu tố văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của các dân tộc
trên đất nước ta theo nhóm ngôn ngữ, trong đó có nhóm ngôn ngữ của các dân tộc
Nùng, Tày, Kinh, Dao.
Cũng nghiên cứu vấn đề ruộng đất thông qua tài liệu địa bạ có tác phẩm “Tình
hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn” do Trương
2
Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên, Nxb Thuận Hóa, Huế 1997. Tác phẩm đã nghiên
cứu một cách cụ thể về các chính sách ruộng đất và nông nghiệp triều Nguyễn. Cuốn
sách là tài liệu tham khảo quý, làm cơ sở để chúng tôi tìm hiểu về tình hình ruộng đất
và đời sống của châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn.
Cuốn“Địa chí Lạng Sơn”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản năm
1999. Cuốn sách đã trình bày cụ thể về kinh tế, văn hóa, xã hội của cả tỉnh Lạng Sơn
cũng như các huyện trên địa bàn tỉnh.
Cuốn “Thổ Ty Lạng Sơn trong lịch sử” của tác giả Nguyễn Quang Huynh, do Nxb
Văn hóa dân tộc xuất bản năm 2011, đã khái quát về chế độ thổ ty trong lịch sử, vai trò,
vị trí của các dòng họ phiên thần, thổ ty ở Lạng Sơn đối với quê hương, đất nước.
Cuốn sách “Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Dao Lạng Sơn” của tác giả Nông Thị Nhình, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 2000. Tác phẩm đã khái quát những giá trị âm nhạc dân gian trong văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Dao. Trong đó, tác phẩm đặc biệt đề cập đến văn hóa múa, hát Then cũng như vị trí của Then trong đời sống tâm linh của cư dân Tày Nùng ở Lạng Sơn.
Tác phẩm “Tổng tập dư địa chí Việt Nam” tập 3, phần Địa phương chí, NXb
Thanh Niên 2012 đã trình bày cụ thể về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của các địa phương trong cả nước trong đó có châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn.
Luận văn thạc sĩ “Châu Thoát Lãng tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX” của tác
giả Phùng Hoàng Đông, bảo vệ tại Đại học Sư phạm Thái Nguyên năm 2015. Luận
văn đã trình bày đặc điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất, sự phát
triển kinh tế, đặc điểm văn hóa của châu Thoát Lãng, một huyện giáp ranh của châu
Văn Uyên thời điểm nủa đầu thế kỉ XIX.
Các công trình trên hầu hết chỉ đề cập đến một khía cạnh hay vấn đề có liên
quan đến châu Văn Uyên (nay là một phần địa giới của huyện Văn Lãng và một phần
địa giới của huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn) mà chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện về châu Văn Uyên trong suốt tiến trình lịch sử cũng như trong
một giai đoạn lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, chúng tôi luôn coi thành quả của các nhà
3
nghiên cứu đi trước là những ý kiến gợi mở quý báu, tạo điều kiện để chúng tôi thực
hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này tác giả muốn góp tìm hiểu về một thời kỳ lịch sử của châu
Văn Uyên một cách chân thực và khoa học. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hơn về
tình hình sở hữu ruộng đất và văn hóa của châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn trong giai
đoạn lịch sử nửa đầu thế kỉ XIX.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tình hình ruộng đất,
kinh tế, đời sống văn hóa của cư dân châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn (trong đó tập
trung vào nghiên cứu văn hóa của các dân tộc tiêu biểu của vùng đất này là dân tộc
Tày và Nùng).
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư,
đặc điểm kinh tế - xã hội của châu Văn Uyên trong quá khứ và hiện tại. Nội dung
chính cần làm rõ là tình hình sở hữu ruộng đất và một số yếu tố văn hóa của các tộc
người chủ yếu ở châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỉ XIX.
- Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỉ XIX.
- Phạm vi không gian: Châu Văn Uyên theo địa giới lãnh thổ nửa đầu thế kỉ
XIX với 7 tổng 31 xã. Cụ thể : Tổng Vĩnh Dật có 5 xã :Vĩnh Dật, Hoa Giáp, Thượng
Hạ Lũng, Đồng Đăng, Châu Quyển; Tổng Uyên Cốt có 4 xã: Uyên Cốt, Điền Phong,
Tiền Hội, Bảo Lâm; Tổng Hành Lư có 4 xã: Hành Lư, Thanh Mật, Thủy Loan,
Thượng Cầm; Tổng Dã Nham có 4 xã: Dã Nham, Bằng Nhung, Kim Cúc, Trực Tầm;
Tổng Quang Bí có 7 xã: Quang Bí, Xuân Quang, Tuyền Hữu, Bằng Đãng, Quảng
Mạc, Hà Quảng, Yên Việt; Tổng Nhân Lý có 5 xã: Nhân Lý, Thanh Loan, Quân Lao,
Thám Xuân, Hùng Thắng; Tổng Hóa Nhân có 2 xã: Hóa Nhân, Dưỡng Mông.
4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu chung: Bao gồm một số sách và địa chí cổ: Đồng Khánh địa
dư chí, Đồng Khánh sắc chế ngự lãm, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Các sách chuyên khảo và các bài viết
đề cập đến lịch sử, văn hóa người Tày, Nùng, Kinh…của các cơ quan nghiên cứu
và các nhà khoa học.
- Nguồn tư liệu địa phương: Các bài bia ký, hương ước, gia phả của các dòng
họ. Các tư liệu văn học dân gian, tri thức dân gian….của các dân tộc ở Văn Uyên.
Trong đó, có cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn Đình tại thôn Tà Lài xã Tân Mỹ
huyện Văn Lãng.
- Nguồn tư liệu lưu trữ : Luận văn sử dụng 25 đơn vị địa bạ, trong đó có 15
đơn vị địa bạ niên đại Gia Long 4 (1805) và 10 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh
21 (1840). Các bản địa bạ đều là bản chính hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I Hà Nội. Qua sưu tầm, tất cả các xã của châu Văn Uyên đều có địa bạ, đó là cơ sở để
cho chúng tôi khôi phục lại tổ chức làng xã, kết cấu kinh tế,xã hội, đặc điểm văn hóa của
châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi vận dụng phương pháp lịch
sử, phương pháp logic để tái hiện quá khứ thông qua tư liệu, đồng thời nhìn
nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp hồi cố,
phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp điền dã, phương pháp miêu tả. Chúng
tôi đặt việc nghiên cứu châu Văn Uyên (Lạng Sơn) trong mối quan hệ với lịch sử dân
tộc nửa đầu thế kỷ XIX để thấy được tác động, ảnh hưởng giữa lịch sử địa phương
với lịch sử dân tộc.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu lịch sử đầu tiên về châu Văn Uyên trong
giai đoạn lịch sử trung đại của Việt Nam.
5
Lần đầu tiên công bố 25 tập địa bạ của châu Văn Uyên được khai thác tại
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I Hà Nội. Trên cơ sở khai thác hầu hết các thông tin trên
các địa bạ đó, so sánh đối chiếu về ruộng đất công, tư qua hai thời điểm năm 1805 và
năm 1840, từ đó rút ra một số nhận xét bước đầu về tình hình văn hóa - kinh tế - xã
hội và ruộng đất của Văn Uyên nửa đầu thế kỷ XIX.
Dựa trên những tài liệu khoa học, đề tài sẽ phân tích làm rõ tình hình kinh tế -
văn hóa - xã hội của châu Văn Uyên tỉnh Lạng sơn thời Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX,
cung cấp cho người đọc cái nhìn khoa học hơn về giá trị kinh tế, văn hóa truyền
thống của nhân dân các dân tộc nơi đây.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được xây
dựng thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về châu Văn Uyên Tỉnh Lạng Sơn.
Chương 2: Sở hữu ruộng đất của châu Văn Uyên tỉnh Lạng sơn nửa đầu
thế kỉ XIX.
Chương 3: Văn hóa của châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX.
6
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH LẠNG SƠN
(Nguồn: Địa chí Lạng Sơn)
7
CHÂU VĂN UYÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
8
BẢN ĐỒ TỈNH LẠNG SƠN
Tỉnh Lạng Sơn - Province de Lạng Sơn - The province of Lạng Sơn
Nguồn: Đồng Khánh địa dư chí
9
BẢN ĐỒ CHÂU VĂN UYÊN
Châu Văn Uyên – District montagneux de Văn Uyên - The upland district of Văn Uyên
Nguồn: Đồng Khánh địa dư chí
10
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX nay thuộc một phần địa giới hành chính
của các huyện Văn Lãng, Cao Lộc của tỉnh Lạng Sơn. Đây là một châu vùng cao
biên giới nằm ở phía Bắc của tỉnh Lạng Sơn. Theo vị trí các xã, châu Văn Uyên xưa
nằm trong tọa độ từ 21 đến 22 vĩ Bắc và trong khoảng 106 đến 107 độ kinh Đông,
châu lỵ là Đồng Đăng cách thành phố Lạng Sơn 15km về phía Đông Nam. Châu
Văn Uyên phía Đông giáp huyện Cao Lộc, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Thoát
Lãng và huyện Văn Quan, phía Nam giáp thành phố Lạng Sơn, phía Bắc giáp thị xã
Bằng Tường ,tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Đường biên giới với Trung Quốc qua 4
xã là Tân Thanh, Tân Mỹ, Đồng Đăng, Bảo Lâm.
Đồng Đăng là châu lỵ của Văn Uyên xưa. Sách “ Đồng Khánh sắc chế ngự
lãm” bản phiên âm ghi rõ “Văn Uyên châu tại tỉnh thành Tây Bắc, châu lỵ nguyên
thiết tại Đồng Đăng phố tự lai bị phỉ vị kinh thiết chí” [73, tr.37].
Sách “Đại Nam nhất thống chí” phần ghi về châu Văn Uyên cũng ghi về vị
trí của châu Văn Uyên “ Từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 51 dặm, từ phía
Nam đến phía Bắc cách nhau 70 dặm. Phía Đông đến địa giới châu Ôn 18 dặm;
phía Tây đến địa giới châu Cảm Hóa tỉnh Thái Nguyên 20 dặm; phía Nam đến địa
giới huyện Hữu Lũng tỉnh Bắc Ninh 8 dặm; phía Bắc đến ải Nam Quan châu Bằng
Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh 62 dặm”. [43, tr 1586].
Sách “Đồng Khánh sắc chế ngự lãm” trong phần cương giới cũng miêu tả
chi tiết về vị trí xưa của Văn Uyên “Nam giáp Văn Quan giới, Bắc giáp Thanh
quốc Bằng Tường châu giới, Đông giáp Ôn Châu, Thoát Lãng châu giới, Tây giáp
Thái Nguyên tỉnh, Võ Nhai huyện, Bạch Thông châu giới”. [73, tr.37].
Văn Uyên nằm gọn trong vùng máng trũng Cao - Lạng, thuộc khu vực đông
bắc Bắc Bộ. Về cơ bản Văn Uyên là vùng núi thấp với một dải tương đối bằng
theo thung lũng sông Kỳ Cùng. Địa hình đứt gãy Cao - Lạng có tác động lớn đến
11
địa hình của châu Văn Uyên, tạo thành thung lũng sông Kỳ Cùng. Lịch sử địa chất
- kiến tạo nói trên đã tạo ra trong phạm vi Văn Uyên những kiểu địa hình như: Núi
thấp, đồi, thung lũng, bồn địa và địa hình núi đá vôi cácxtơ, trong đó địa hình núi
đá vôi chiếm ưu thế. Núi thấp và cao không quá 1000m, nằm rải rác nhưng có
phần tập trung hơn về phía Tây Nam. Có hai ngọn núi là Khau Kép cao 811m và
Gia Mực 708m nằm ở phía Đông Bắc thị trấn Đồng Đăng, như là vọng gác cửa
khẩu phía Bắc quan trọng nhất của Tổ quốc .
Địa hình cácxtơ còn tạo nên nhiều loại địa hình như vòm cuốn, hang động
lớn, có khi có cả sông ngầm. Tại xã Tân Mỹ (thuộc châuVăn Uyên) có những
hang động cổ ở núi Tà Lài nổi tiếng với những hình thù thú vị. Ngày nay, đã tìm
thấy các mỏ bôxít ở phía Tây Bắc và Đông Nam Đồng Đăng, mỏ bôxít để sản xuất
xi măng ở Tà Lài.
Trải qua quá trình phong hóa và tác động của sinh học tại chỗ mà Văn Uyên
có nhiều loại đất. Đất ferarit đỏ vàng hình thành trên đá riôlít, nhiều thạch anh,
có thành phần cơ giới thô, giữ nước kém. Đất ferarit đỏ vàng hình thành trên đá
diệp thạch, có nhiều sét, ít thạch anh nên đất mịn và giữ nước tốt hơn. Đất
ferarit đỏ thẫm hoặc nâu đỏ được hình thành trên đá mac ma bazơ, đất này chứa
nhiều bazơ nên phì nhiêu, tơi xốp, thoáng khí, thấm nước tốt. Những loại đất
đồi này chủ yếu thích hợp để trồng các cây lâu năm như quế, hồi… Một số xã
có thể trồng cây ăn quả trong đó có sản phẩm hồng không hạt ở Bảo Lâm, Tân
Mỹ, Hoàng Văn Thụ… Ngoài ra, dọc các thung lũng sông suối ở Văn Uyên
cũng có loại đất phù sa tích tụ với độ phì nhiêu khá, thích hợp cho cư dân ở đây
canh tác lúa nước và các hoạt động kinh tế nông nghiệp khác.
Văn Uyên có khí hậu nhiệt đới và Á nhiệt đới gió mùa. Khí hậu ở đây có
hai đặc điểm cơ bản, một là có một mùa đông rét với nhiệt độ trung bình tháng
mười là 150C, nghĩa là thấp hơn các tháng mùa đông của các vùng phía Nam của
tỉnh 2-30C, hai là mùa mưa ngắn và ít mưa hơn ở các nơi khác, lượng mưa trung
bình hàng năm thường dưới 1500mm.
12
Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, Văn Uyên có nhiệt độ trung bình năm trên
210C, có hai mùa lạnh, khô và nóng ẩm rõ rệt. Do đặc điểm vị trí địa lý nên Văn
Uyên bị ảnh hưởng của gió mùa đông bắc sớm và mạnh nhất, gió mùa đông nam
và bão đi vào khó khăn hơn vì bị cánh cung Bắc Sơn cản trở. Thời gian có nhiệt
độ trung bình dưới 200C, là các tháng từ tháng 11 đến tháng 3, trong đó có ba
tháng lạnh nhất là tháng 12, tháng 1 và tháng 2 nhiệt độ trung bình thường dưới
150C, ban đêm còn xuống thấp đến dưới 00C. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 250C,
từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa mưa, tháng 7, tháng 8 có mưa lớn nhất. Giữa hai
mùa lạnh khô và nóng ẩm là hai tháng chuyển tiếp có thời tiết dễ chịu là tháng 4
và tháng 10 hàng năm.
Văn Uyên có hai hệ thống sông chính là Kỳ Cùng và Bắc Giang. Sông Kỳ
Cùng chảy qua địa phận của châu Văn Uyên theo hướng Nam - Tây Nam rồi đổ
về hướng bắc. Sông Kỳ Cùng cũng chính là ranh giới tự nhiên của các huyện Cao
Lộc, Văn Quan và Văn Lãng ngày nay.
Sách “Đồng Khánh địa dư chí” cũng có ghi chép về sông Kỳ Cùng “ Sông
chảy ở chỗ tiếp giáp tổng Trừ Trĩ châu Thoát Lãng, đổ vào châu hạt ở hai xã Văn
Giáp và Trung Giáp, rồi lại chảy qua địa phận tổng Phú Xá, Chu Túc huyện Văn
Quan. Dòng sông quanh co rồi lại chảy vào châu hạt tại xã Thám Xuân, chảy qua
châu Thoát Lãng, đổ vào sông Bác Đức. Một nhánh khác từ chỗ giáp giới tổng
Tân Tri huyện Võ Nhai tỉnh Thái nguyên chảy vào châu hạt chảy qua các xã Quy
Hậu, Xuân Dục tổng Hóa Nhân, các xã Bác Viên, An Lỗ tổng An Hùng, rồi chảy
đến huyện Văn Quan đổ vào sông Vân Mạc. Một nhánh từ chỗ giáp địa giới phố
Ngân Sơn tỉnh Thái Nguyên chảy vào châu hạt ở xã Xuân Viện tổng An Hùng,
chảy đến huyện Văn Quan hợp dòng với sông Vân Mạc” [64, tr.612].
Ngoài hệ thống sông Kỳ Cùng là hai con sông nhỏ là sông Kim Cúc và
sông Uy Mãnh. Sông Kim Cúc “ Ở phía Tây châu Văn Uyên 52 dặm. Đầu nguồn
từ khe Huân Phong huyện Văn Quan đến, chảy quanh co 38 dặm, đến xã Kim Cúc
huyện Văn Uyên, lại hợp với khe nhỏ Địa Linh huyện Văn Quan chảy 30 dặm rồi
đổ vào sông Bác Lãng” [43, tr.1593]. Sông Uy Mãnh “ Ở phía Tây Bắc huyện lỵ
Văn Quan 90 dặm, đầu nguồn từ xã Kim Lộ huyện Cảm Hóa tỉnh Thái Nguyên,
13
chảy 34 dặm đến châu Văn Uyên, nhận nước hai khe đèo Hàn và đèo Kì chảy suốt
từ 48 dặm đến nhập vào rồi chảy hai dặm nữa đến địa giới xã Vân Mạc huyện
Văn Quan lại chảy sáu dặm nữa thành sông Uy Mãnh, nhận nước từ hai khe Bình
Gia và Lãng Dương, chảy 47 dặm, hợp lưu với sông Bác Đức” [43, tr.1593].
Có bốn con suối chính là: Tân Mỹ, Khuổi Shin, Khuổi Rào, Thanh Long.
Hai bên bờ sông suối là những cánh đồng nhỏ, độ cao từ 3 - 10m so với mặt
nước, có thể đặt các cọn nước . Ngoài các hệ thống sông suối ra, trên địa bàn
châu Văn Uyên xưa còn có các hồ, đập lớn, nhỏ như: Nà Pàn (Hoàng Văn Thụ);
Kéo Páng (Nhạc Kỳ); Nà Piya (Tân Việt)…có khả năng phục vụ nước tưới cho
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm về địa hình, mật độ sông ngòi ít,
cùng với đó là sự tương phản của mùa mưa khô kéo dài và mùa mưa tập trung
dẫn đến tình trạng lưu lượng dòng chảy giữa mùa lũ và mùa khô chênh lệch lớn.
Lưu lượng mùa khô chỉ chiếm 10 - 20% lưu lượng năm, trong khi đó mùa mưa
thì lũ lại dâng cao đột ngột, ảnh hưởng tới giao thông và phá hoại mùa màng, nhà
cửa của cư dân. Tính chất dòng chảy như vậy gây khó khăn cho sử dụng nguồn
nước về mặt kinh tế.
Văn Uyên là châu huyện miền núi, địa hình phức tạp, không thuận lợi cho
phát triển mạng lưới giao thông. Tuy vậy, do vị trí và vai trò quan trọng của Văn
Uyên, là cửa ngõ phía Bắc thông thương với Trung Quốc, nên Văn Uyên đã có
mạng lưới các đường giao thông tương đối dày đặc. Sách Đồng Khánh sắc chế
ngự lãm trong phần “Trình lộ” có ghi chép khá tỉ mỉ về tình hình giao thông của
châu Văn Uyên như sau:
“Một đường dịch lộ theo hướng Tây Bắc từ xã Hoàng Đồng châu Thoát
Lãng vào địa phận xã Châu Quyển, qua châu lỵ Đồng Đăng, qua Lạng Uyên trạm,
giáp Thoát Lãng châu phận nhị thập …Bắc giáp Thanh quốc Nam quan thập lý.
Một đường từ châu lỵ Đồng Đăng tới Du Thôn tấn, đi khoảng nửa ngày.
Một đường nhỏ bắt đầu từ châu lỵ Đồng Đăng tới Hạ Lũng qua huyện Văn
Quan, vào địa phận Văn Uyên ở Kim Cúc bảo, tổng Dã Nham qua tổng Quang Bí,
giáp địa giới châu Ôn, hành trình một ngày rưỡi.
14
Một đường nhỏ từ châu lỵ Đồng Đăng qua tổng Hoành Lư tới Thanh Mật,
giáp Thanh quốc, hành trình một ngày.
Một đường nhỏ từ Đức Hinh phố qua huyện Văn Quan, tới An Hùng, Hóa
Nhân, giáp địa giới Thái Nguyên, hành trình hai ngày rưỡi” [73, tr.41].
Các tuyến đường này giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương đi lại
của cư dân Văn Uyên với các địa phương lân cận, cũng như buôn bán trao đổi
hàng hóa, tiếp xúc và giao lưu văn hóa của nước ta với Trung Quốc.
Ngày nay, trong địa giới Văn Uyên cũ, có mạng lưới giao thông khá thuận
tiện cho việc giao lưu buôn bán và mở mang phát triển kinh tế: đường ra cửa khẩu
Tân Thanh dài 4,5 km. Quốc lộ 1A nối với Lạng Sơn với Đồng Đăng qua địa phận
xã Phú Xá dài 15km. Quốc lộ 1B là huyết mạch giao thông quan trọng nối liền
Văn Quan với Đồng Đăng qua các xã Bình Trung, Hồng Phong. Các tuyến đường
liên xã được quan tâm đầu tư xây dựng, nối Đồng Đăng với các xã lân cận. Giữa
các thôn bản là mạng lưới đường bê tông hóa và đường mòn.
Hệ thống đường sông trên sông Kỳ Cùng cũng là một đầu mối giao thông
quan trọng trong việc giao lưu hàng hóa giữa các xã dọc triền sông với thị trấn Na
Sầm của Văn Lãng, tới tận Long Châu (Trung Quốc).
1.2. Sự thay đổi địa danh và địa giới hành chính của châu Văn Uyên
qua các thời kỳ lịch sử
Lạng Sơn xưa thời Hùng Vương nằm trong bộ Lục Hải, thời thuộc Hán là
Giao Chỉ, thuộc Đường là Giao Châu, nhà Đinh chia làm đạo, nhà tiền Lê , nhà Lý
là lộ, đến đầu thời Trần đổi thành Lạng Giang trấn. Một thời gian sau khi lên ngôi,
vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ trong cả nước thành 12 lộ phủ trong đó có tên Lạng
Châu tức Lạng Sơn. Dưới thời Trần, Lạng Sơn còn gọi là Lạng Giang trấn. Sang
đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm lược và thôn tính nước ta. Tháng 6 năm 1407, nhà
Minh lập ra 15 phủ gồm 36 châu, 181 huyện, 5 châu trực thuộc thẳng vào quận
gồm 29 huyện, Lạng Sơn lúc đó có tên là Phủ Sách.
Sau chiến thắng chống quân Minh xâm lược, Lê Lợi lên ngôi, lập ra triều
Lê. Vào năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo:
15
Tây đạo, Đông đạo, Bắc đạo, Nam đạo và Hải Tây đạo, trấn Lạng Sơn là đơn vị
hành chính thuộc Bắc đạo. Năm 1466 thời vua Lê Thánh Tông đặt là Lạng Sơn
thừa tuyên, lĩnh một phủ là Trường Khánh, 7 châu là Thất Nguyên, Văn Uyên,
Văn Lan, Ôn Châu, Thoát Lãng, Lộc Bình và An Bác.
Thời Nguyễn một lần nữa các địa danh, địa giới lại được thay đổi. Năm
Minh Mệnh thứ 12 (1831) gọi trấn Lạng Sơn thành tỉnh Lạng Sơn. Sách Đại
Nam thực lục, Chính biên Đệ Nhị kỷ ghi rõ “Tân Mão, năm Minh Mệnh thứ
12 [1831] mùa Đông, tháng Mười, ngày mồng 1 làm Lễ Đông hưởng” [47,
tr.243]. Với sự kiện này triều đình phong kiến nhà Nguyễn chia định lại địa hạt
phía Bắc, đặt thành 18 tỉnh từ Quảng Trị trở ra, trong đó, có tỉnh Lạng Sơn.
Khi thành lập tỉnh, Lạng Sơn bao gồm 1 phủ là Trường Khánh; 7 châu là:
Ôn Châu, Thất Tuyền, Lộc Bình, Thoát Lãng, Yên Bác, Văn Quan và Văn Uyên.
Địa danh “châu Văn” tức Văn Uyên được nhắc tới từ thời Lý, như ghi
chép trong Đại Nam nhất thống chí “Châu Văn tức Văn Uyên được đặt từ thời
Lý” [40, tr.58]. Trong “Ức trai dư địa chí” Nguyễn Trãi cũng viết “Văn Uyên có
đồng bạc, Thoát Lãng có voi trắng khi nào có lệnh thì tiến dâng” [39, tr.55]. Từ
những cứ liệu trên có thể thể thấy địa danh Văn Uyên đã được ghi chép trong sử
sách từ rất sớm.
Năm 1836, Minh Mệnh lại cắt 4 châu, huyện phía Bắc sông Kỳ Cùng là
châu Văn Uyên, huyện Văn Quan, huyện Thất Khê, châu Thoát Lãng thành lập
phủ mới là phủ Tràng Định. Từ 1836, Lạng Sơn chính thức có 2 phủ là phủ Tràng
Khánh, phủ Tràng Định cùng 7 châu, huyện. Cơ cấu tổ chức hành chính này được
duy trì cho đến cuối thế kỷ XIX.
Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” (các tỉnh Hà Tĩnh trở
ra) được biên soạn vào giữa đời vua Gia Long (năm 1810 đến 1819) châu Văn
Uyên có 7 tổng: Tổng Vĩnh Dật có 5 xã (Vĩnh Dật, Hoa Giáp, Thượng Hạ Lũng,
Đồng Đăng, Châu Quyển). Tổng Uyên Cốt có 4 xã (Uyên Cốt, Điền Phong, Tiền
Hội, Bảo Lâm). Tổng Hành Lư có 4 xã (Hành Lư, Thanh Mật, Thủy Loan,
Thượng Cầm).Tổng Dã Nham có 4 xã (Dã Nham, Bằng Nhung, Kim Cúc, Trực
Tầm). Tổng Quang Bí có 7 xã (Quang Bí, Xuân Quang, Tuyền Hữu, Bằng Đãng,
16
Quảng Mạc, Hà Quảng, Yên Việt). Tổng Nhân Lý có 5 xã (Nhân Lý, Thanh Loan,
Quân Lao, Thám Xuân, Hùng Thắng). Tổng Hóa Nhân có 2 xã (Hóa Nhân, Dưỡng
Mông). Các phố Khách: Đồng Đăng, Nà Hinh, Bằng Khảo, Nà Thường, Nà Phia,
quán Đồng Đăng.
Từ năm 1891, thực dân Pháp vẫn duy trì hai đơn vị hành chính châu, huyện.
Thị trấn Đồng Đăng là châu lỵ Văn Uyên. Từ 1945, đổi châu thành huyện và vẫn
giữ nguyên ranh giới hai đơn vị hành chính đó.
Tháng 8 - 1964, hai huyện Văn Uyên, Thoát Lãng hợp nhất thành huyện
Văn Lãng, huyện lỵ đặt tại thị trấn Na Sầm. Tên Văn Lãng cũng chính là ghép hai
từ “Văn” của Văn Uyên và “Lãng” của Thoát Lãng. Năm 1981, theo nghị quyết số
246/CP ngày 10 - 06 của Hội đồng chính phủ tách thị trấn Đồng Đăng và sáu xã:
Song Giáp, Thụy Hùng A, Hồng Phong, Bảo Lâm, Phú Xá, Bình Trung sáp nhập
vào huyện Cao Lộc cùng tỉnh. Đồng thời sáp nhập xã Hành Thanh, Phượng Long
thành xã Thanh Long, sáp nhập hai xã Tân Yên và Mỹ Cao thành Tân Mỹ. Theo
phân định địa giới hành chính như vậy, đồng thời trải qua tiến trình lịch sử nhiều
tên làng xã thuộc châu Văn Uyên xưa đã có sự thay đổi. Cùng với các nguồn tư
liệu điền dã, trong đó đáng tin cậy là “Bản đồ Châu Văn Uyên thời Đồng Khánh
1886 -1888”, trên cơ sở các dãy núi và đặc biệt là dòng sông Kỳ Cùng. Có thể
xác định địa phận châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX nay là địa giới hành chính
của các xã: Tân Thanh, Tân Mỹ, Hồng Thái, Hoàng Văn Thụ, Nhạc Kỳ của
huyện Văn Lãng; các xã Bình Trung, Song Giáp, Phú Xá, Thụy Hùng, Hồng
Phong, Bảo Lâm và thị trấn Đồng Đăng của huyện Cao Lộc. Như vậy, châu Văn
Uyên nửa đầu thế kỷ XIX hiện nay thuộc địa phận hai huyện Văn Lãng và Cao
Lộc của tỉnh Lạng Sơn.
1.3. Nguồn gốc dân cư
Lịch sử châu Văn Uyên gắn liền với sự xuất hiện của con người trên đất
Lạng Sơn. Ngày nay, nhân dân vùng Văn Uyên xưa còn lưu truyền những câu
truyện truyền miệng kể về nguồn gốc của người Tày. Qua các truyền thuyết và di
chỉ khảo cổ khai quật được đã chứng minh sự phát triển liên tục của con người
17
trên đất Lạng Sơn cũng như ở khu vực Văn Uyên từ thời đồ đá cũ đến sơ kỳ thời
đại kim khí.
Con người đã tụ cư ở châu Văn Uyên từ rất sớm, hình thành nên bộ lạc của
người Tày cổ mà sử sách gọi là bộ lạc Tây Âu. Trải qua quá trình lịch sử, Văn
Uyên đã tiếp nhận các tộc người từ nhiều vùng khác đến sinh sống như người
Kinh, từ đồng bằng sông Hồng lên, người Nùng, Hoa, Dao, … từ Trung Quốc
sang. Mặc dù đến Văn Uyên vào những thời điểm khác nhau nhưng đến nửa đầu
thế kỷ XIX, hầu hết các dân tộc đều có mặt tại vùng đất này.
Theo sách: Đồng khánh địa dư chí: Người Thổ và người Nùng là những cư
dân đầu tiên sinh sống tại nơi đây . Còn theo sách Đại Nam nhất thống chí thì
vùng này dòng họ Nguyễn Đình nối đời cai trị.
Trong tổng số 17 dân tộc thiểu số sống ở 6 tỉnh phía bắc Việt Nam, tại tỉnh
Lạng Sơn có 7 tộc người sinh sống, cư trú lâu dài, thuộc 4 nhóm: nhóm ngôn ngữ
Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, nhóm
ngôn ngữ Hán - Hoa.
Theo số liệu thống kê dân số của các xã trên địa bàn Văn Uyên xưa tính đến
năm 2009 có 40.933 nhân khẩu được phân bố theo các dân tộc như trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Các dân tộc thuộc châu Văn Uyên
Dân tộc
Số dân
Tỷ lệ %
Ghi chú
Nùng Tày Kinh Hoa
STT 1 2 3 4 5 Mường Sán Rìu 6 Sán Chay 7 Gia Rai 8 Dao 9 10 H mông 11
Thái
Tổng cộng
24849 9871 5827 346 12 12 4 2 2 1 2 40933
60.7065 24.1150 14.2354 0.8452 0.0293 0.0293 0.0097 0.0048 0.0048 0.0024 0.0048 100%
[Nguồn: Chi cục thống kê huyện Văn Lãng, Cao Lộc 2009]
Bảng thống kê thành phần các dân tộc huyện Văn Uyên (Bảng 1.1) cho thấy
tại Văn Uyên có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó nhiều nhất là dân tộc Nùng,
18
Tày thuộc ngữ hệ Tày – Thái, Kinh thuộc nhóm ngữ hệ Việt -Mường, Hoa thuộc
nhóm ngữ hệ Hoa - Hán.
Các dân tộc ở đây cư trú thành nhóm khá rõ rệt. Đồng bào Tày, Nùng cư trú
ở những thung lũng thấp tương đối bằng phẳng, đồng bào Kinh, Hoa sống ở các
khu vực trung tâm.
Qua các tư liệu lịch sử, truyền miệng và việc khảo sát thực tế, có thể thấy
được những nét khái quát về địa bàn cư trú, nguồn gốc, quê quán của các dân tộc
tại Văn Uyên.
1.3.1. Dân tộc Nùng
Nùng là một dân tộc ít người, dân tộc Nùng tự gọi mình là người Nùng hay
Nồng. Tộc danh lúc đầu là tên chỉ dòng họ Nông, một trong bốn dòng họ đông
người, có thế lực lớn nhất là Nông, Hoàng, Chu, Vi thống trị Tả, Hữu Giang
(Miền đất thuộc Cao Bằng và Nam Quảng Tây - Trung Quốc) dưới đời Đường.
Đứng thứ 7 về số lượng dân cư trong các dân tộc Việt Nam ( Theo “Danh mục các
thành phần dân tộc Việt Nam”, Viện dân tộc học, xuất bản năm 1979) bao gồm
nhiều nhóm địa phương khác nhau, cư trú phân tán ở vùng núi phía Bắc, tạo nên
sự phong phú, đa dạng của sắc thái văn hoá Việt Nam.
Theo Lê Quý Đôn:“Giống người Nùng đều là người mười hai thổ châu ở
Tiểu Trấn Yên Quy Thuận, Long Châu, Điền Châu, Phù Châu, Thái Bình, Lôi Tử
Thành và Hướng Vũ thuộc Trung Quốc làm nghề cày cấy, trồng trọt cùng chịu
thuế khoá, lao dịch mặc áo vằn vải xanh, cắt tóc, trắng răng, có người trú ngụ đã
đến vài ba đời, đổi theo tập tục người Nam, quan bản thổ thường cấp cho họ một
số ruộng làm khẩu phần bắt họ chịu binh xuất. Các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng và
Thái Nguyên đều có giống người này” [19, tr.391].
Một số nhóm người Nùng mang tộc danh gắn liền với tên lãnh thổ (Trung
Quốc) trước khi đến Việt Nam như các nhóm sau: Nùng An gốc ở An Kết châu Long
An ; Nùng Phàn Sình ở Vạn Thành Châu; Nùng Cháo ở Long Châu; Nùng Inh ở
Long Anh; Nùng Lòi ở Hạ Lôi; Nùng Quý Rịn gốc ở Quy Thuận (Quảng Tây).
Người Nùng ở Văn Uyên nói riêng và ở Việt Nam nói chung đã thiên di từ
Trung Quốc vào nước ta từ rất sớm: “Người Nùng ở Việt Nam có chung nguồn
19
gốc với người Nùng (nay là dân tộc Choang) ở Quảng Tây - Trung Quốc. Vào
cuối thế kỷ I trước Công nguyên, người Nùng đã có mặt ở Việt Nam nhưng thời đó
được gọi là người Tày. Những người mang tộc danh Nùng ở Việt Nam hiện nay
mới di cư từ nam Trung Quốc vào nước ta cách đây khoảng 3 thế kỷ” [19, tr.10].
Như vậy, các nhóm tộc Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang Việt
Nam từ lâu. Điều đó chứng tỏ đồng bào Nùng đã đến sinh sống ở Văn Uyên rất
sớm. Đồng bào Nùng ở Văn Uyên chủ yếu di cư từ Quảng Tây (Trung Quốc)
sang, hiện nay có khá nhiều đồng bào địa phương có anh em họ hàng từ xa xưa ở
bên Long Châu - Quảng Tây (Trung Quốc). Đến Văn Uyên dân tộc Nùng đã hợp
sức với cư dân địa phương, hòa hợp nội bộ cộng đồng, cùng với cư dân địa
phương đấu tranh chống ngoại xâm.
1.3.2. Dân tộc Tày
Tộc danh Tày có lẽ bắt nguồn từ ý của cư dân chuyên nghề cày ruộng mà
bộ nông cụ tiêu biểu là cái cày, tiếng Tày - Thái truyền thống gọi cái cày là “Mạc
Thay” hay “Thây” rồi biến âm thành Tày hay Thái. Từ thế kỷ XV, người Tày còn
được gọi là người Thổ để phân biệt giữa thổ quan địa phương với lưu quan người
Kinh từ dưới xuôi lên. Lưu quan người Kinh bị thổ hóa gọi là Thổ lưu quan. Từ
1945 trở lại đây trên các văn bản, sách báo đều thống nhất cách gọi là dân tộc Tày.
Người Tày ở Lạng Sơn nói chung cũng như Văn Uyên nói riêng chiếm số dân
đông thứ 2 sau dân tộc Nùng. Người Tày ở Văn Uyên có ba bộ phận hợp thành
trong lịch sử.
Thứ nhất, bộ phận bản địa từ thời nguyên thủy còn gọi là “Cần tày cốc đinh
mác nhả” nghĩa là “Người Tày gốc hạt đỏ”. Từ thời đại đồ đá chuyển sang thời đại
kim khí đồ đồng thau cách đây 3 - 4 nghìn năm, họ là chủ nhân của nghề nông
trồng lúa nước. Các tộc Tày - Thái ở vùng núi Việt Bắc nằm trong khởi nguyên
Tày - Thái có địa bàn cư trú rộng lớn từ nam Trung Quốc đến Đông Bắc Việt
Nam. Theo tác giả Trần Quốc Vượng: “Nghề nông trồng lúa nước đã ra đời ở các
thung lũng từ Vân Nam - Quý Châu đến Tây Bắc, Việt Bắc, vùng “cái nôi” của
các dân tộc Tày - Thái” [74, tr.55]. Khối nguyên Tày - Thái bị phân chia thành hai
ngành là ngành phía Tây và ngành phía Đông. Ngành phía Đông bị Hán đô hộ, còn
20
gọi là Man Di, Lý, Lạo hay Sinh Lão. Thời kỳ này các dòng họ cũng được hình thành
từ rất sớm như Bế, Hoàng, Chu bộ phận người Tày bản địa sinh sống hầu khắp các xã
ở châu Văn Uyên.
Thứ hai, bộ phận người Tày gốc Kinh từ miền xuôi lên: Từ thế kỷ XV trở
đi, nhà nước quân chủ Việt Nam đã phái nhiều quan chức lên trực tiếp cai trị vùng
Tày - Nùng. Nhiều viên quan khi lên đây đã đem theo gia đình và họ hàng rồi
chiêu dân lập ấp ở miền ngược, đã trở thành quý tộc địa phương, con cháu dần dần
hóa thành người Tày. Ngoài ra còn có trường hợp người Kinh lên đồn trú, đánh
giặc ngoại xâm, các thầy đồ người Kinh mang theo cả gia đình họ hàng, người dân
bị nạn đói kém, loạn lạc lên miền núi làm ăn lâu dài. Họ ở xen kẽ với người Tày
và tiếp nhận, ảnh hưởng của văn hóa Tày còn gọi là “Kinh già hóa thổ”.
Thứ ba, bộ phận người Tày ở Quảng Tây (Trung Quốc) sang: từ cuối thế kỷ
XVIII đến nửa đầu XIX, dưới sự thống trị hà khắc của nhà Thanh việc làm ăn gặp
nhiều khó khăn, phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc (1851- 1864) bị đàn
áp nặng nề, nhiều người bỏ quê sang Việt Nam tìm đất mới sinh cơ, lập nghiệp họ
hòa nhập với cư dân bản địa.
Ngoài ra, người Tày hiện nay còn có một số bộ phận nguồn gốc từ người
Nùng, Hoa…đã cố kết vào người Tày. Quá trình tộc người này diễn ra liên tục.
Trên thực tế, cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao (thế kỉ XI), nhiều người thuộc tộc
người Nùng đã theo Nùng Trí Cao vào vùng Đặc Ma (Vân Nam, Trung Quốc)
hoặc chạy trốn vào rừng hoặc đổi thành họ Nông để tránh sự truy sát của triều
Tống. Có thể tên gọi tộc họ đã chuyển hóa thành tộc danh để chỉ tộc người sinh
sống trên địa bàn lãnh thổ họ Nùng trước kia. Sau sự biến Nùng Trí Cao, người
Nùng đã hòa nhập vào cộng đồng Tày địa phương, trở thành người Tày bản địa.
Bởi tộc người Tày - Nùng có chung nguồn gốc lịch sử, chung hệ ngôn ngữ và văn
hóa về cơ bản giống nhau, nên quá trình cố kết tộc người diễn ra thuận hòa. Quá
trình đó có thể diễn ra một cách tự nhiên nhưng cũng có khi xuất phát từ những
chính sách của nhà nước.
21
Quan hệ dòng họ, gia đình của người Tày rất chặt chẽ và hòa thuận. Đứng đầu
là một trưởng họ. Ông giữ vai trò lớn trong việc quyết định các công việc của tộc
người mình. Gia đình của người Tày là gia đình phụ hệ, nơi lưu giữ những giá trị văn
hóa dân gian đặc sắc trong lễ hội mang tính đặc sắc truyền thống như cưới xin, ma
chay, sinh đẻ, hội hè, cúng bái… Đặc biệt là văn học nghệ thuật của người Tày rất
phong phú như dân ca, múa rối… thể hiện khả năng sáng tạo của quần chúng.
Người Tày cũng như người Nùng còn lưu giữ các giá trị văn hóa dân gian
đặc sắc và trong đó mang đậm màu sắc văn hóa Tày - Nùng như lễ hội lồng tồng.
Lễ hội này chứa đựng nhiều yếu tố tín ngưỡng dân gian, thể hiện khát vọng và
mong ước của con người chinh phục thiên nhiên, bảo tồn phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc.
Trong quá trình lịch sử của mình, người Tày dù là một bộ phận “Cốc đinh
nhác nhả” hay nguồn gốc Kinh ở miền xuôi lên hoặc gốc Tày, Nùng ở Trung
Quốc sang, đều đã sớm tự nguyện hòa hợp, cố kết lại với nhau thành một khối Tày
thống nhất.
1.3.3. Dân tộc Kinh
Dân tộc Kinh là dân tộc đa số ở Việt Nam với tỷ lệ dân cư đông nhất. Các
dân tộc anh em gần gũi lâu đời như người Tày ở Việt Bắc, người Thái ở Tây Bắc
gọi người Kinh là Cần Keo. Cư dân khu vực Đông Nam Á từ xa xưa gọi người
Kinh là Kiao Chi. Thời Bắc thuộc, nhà Hán phiên âm “Kiao Chi” thành “Giao
Chỉ”. Chính vì thế mà chúng đặt tên vùng đất Âu Lạc của ta thành bộ Giao Chỉ.
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, ngay từ buổi đầu
xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, các vị vua triều Lý - Trần đã thể hiện sự
đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bằng việc phong
tước, chọn phò mã trong các tộc trưởng có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số.
Thời Lê thế kỷ XV, sau khi đánh thắng giặc Minh, bờ cõi lãnh thổ toàn vẹn,
vua Lê Thái Tổ vẫn lo củng cố biên thùy miền núi:
Phương lược biên cương trù liệu trước
Nước yên dân định kế lâu dài.
22
Với tinh thần như vậy vua Lê đã cử dòng họ Nguyễn Đình nối đời cai trị
tại châu Văn Uyên. Trong cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều, các thế lực họ Mạc,
Lê, Trịnh phát triển lên khu vực miền núi, trong đó có Văn Uyên. Một số không
nhỏ người Kinh định cư lâu dài ở khu vực này và “Tày hóa”. Đến đầu thời
Nguyễn, người Kinh ở miền xuôi lên Văn Uyên ngày càng nhiều. Họ có thể là
người dân nghèo lên miền núi kiếm ăn, cụ thể là quan quân của triều đình phong
kiến, thầy địa lý hoặc người buôn bán. Quá trình di cư của người Kinh đến châu
Văn Uyên diễn ra liên tục trong lịch sử, có lúc lẻ tẻ, có lúc ồ ạt. Qua nhiều đời,
họ hòa nhận vào cộng đồng Tày địa phương, trở thành những người Tày gốc
Kinh trong dân tộc Tày.
Các hộ người Kinh ở các xã hiện nay thuộc Văn Uyên xưa chủ yếu quê ở
Thái Bình, Nam Định, Hà Tây cũ… lên đây vào những năm 60 của thế kỷ XX, khi
Đảng và Nhà nước Việt Nam phát động phong trào nhân dân miền xuôi lên tham
gia xây dựng kinh tế - văn hóa ở miền núi. Đặc biệt, đầu thế kỷ XXI, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, số lượng
người Kinh ở Lạng Sơn nói chung và trên vùng đất Văn Uyên nói riêng đã tăng
lên nhanh chóng.
Theo bảng thống kê thì hiện nay dân tộc Kinh đứng vị trí thứ 3 về dân số
sau dân tộc Nùng, Tày. Theo số liệu thống kê năm 2009, số người Kinh ở các xã
thuộc Văn Uyên xưa là 5827 người, tương đương 14,235%. Người Kinh sinh
sống rải khắp các địa bàn và thường tập trung ở các khu vực trung tâm.
1.3.4. Dân tộc Hoa
Dân tộc Hoa tự gọi mình là Hoa hay Hán. Dân tộc Hoa đã sớm phát triển
kinh tế, văn hóa của mình và nhanh chóng trở thành trung tâm văn hóa gọi là Hoa
Hạ hay Trung Hoa, từ đó gọi là dân tộc Hoa.
Từ thời nhà Tần (221 - 208 tr.Cn) với cuộc Nam chinh của Tần Thủy
Hoàng, các lực lượng người Hán (Hoa) lần đầu tiên mở rộng qui mô lãnh thổ
xuống vùng Bách Việt. Đến đời Triệu - Hán (179TCN - 220), một số lượng lớn
người Hoa lần lượt đến Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau, trong đó bộ phận
lập nghiệp lâu đời đã Việt Hóa trở thành người địa phương.
23
Trước cách mạng tháng Tám 1945, người Hoa đến Việt Nam vào nhiều
thời điểm. Họ chủ yếu làm ăn buôn bán, đặc biệt là tìm kiếm thăm dò các mỏ
kim loại quí như vàng, bạc. Hầu hết người Hoa tại đây nói thạo tiếng Việt, tiếng
Tày - Nùng. Người Hoa sống tập trung ở các phố khách như: Đồng Đăng, Kỳ
Lừa…đặc điểm của người Hoa là sống tập trung ở các khu vực có điều kiện buôn
bán, họ vừa làm ruộng vừa buôn bán, làm thêm nghề chế biến quà bánh, thức ăn
phục vụ người đi chợ như bánh cuốn, bánh bò, phở, lợn quay…điều kiện kinh tế
có phát triển hơn so với trước đây.
Tiểu kết
Châu Văn Uyên là một vùng đất rộng, núi non hiểm trở, hệ thống sông ngòi
thuận lợi cho sự phát triển nên hội tụ đầy đủ tài nguyên thiên nhiên của vùng đất
Lạng Sơn. Nơi đây không chỉ có ruộng đồng mà còn có rừng núi, sông suối và các
loại khoáng sản quý hiếm thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng và
kết hợp với kinh tế khai thác tự nhiên.
Nhờ có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, Văn Uyên sớm trở thành
nơi tập trung đông dân cư và là trung tâm chính trị, quân sự của Lạng Sơn trong
quá khứ. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thành phần dân cư, dân tộc của châu Văn
Uyên có nhiều xáo trộn. Dân cư địa phương hầu hết là nhóm ngôn ngữ Tày - Thái,
người Nùng là chủ yếu.
Trải qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử dân tộc, cũng như lịch sử
vùng đất phía bắc nơi phên dậu của tổ quốc, địa giới Văn Uyên có nhiều biến đổi.
Hiện nay, Văn Uyên xưa không còn là một đơn đơn vị hành chính riêng mà đã
sáp nhập vào địa giới của hai huyện Văn Lãng và Cao Lộc của tỉnh Lạng Sơn,
Châu lỵ Đồng Đăng xưa nay là thị trấn Đồng Đăng của huyện Cao Lộc. Trong tiến
trình phát triển của lịch sử dân tộc, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Văn Lãng,
Cao Lộc nói chung, các xã thuộc Văn Uyên xưa nói riêng luôn cố gắng, nỗ lực để
cùng chung tay xây dựng quê hương Lạng Sơn giàu mạnh, xứng đáng là của ngõ
quan trọng, là phên dậu biên giới phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam.
24
Chương 2
SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT CHÂU VĂN UYÊN TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
2.1. Ruộng đất châu Văn Uyên qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1804)
Địa bạ là văn bản chính thức về địa giới cùng diện tích và các lọai hình sở hữu
ruộng đất của làng xã, được lập trên sự khám đạc và xác nhận của chính quyền, dùng
làm cơ sở cho việc quản lý ruộng đất và thu tô thuế của nhà nước. Có thể định nhĩa một
cách tổng quát về địa bạ như vậy, tuy mỗi thời và mỗi nơi, tên gọi và quy cách địa bạ có
khác nhau [31, tr.7].
Hai sưu tập địa bạ lớn nhất của nước ta hiện nay, một được bảo quản lại Viện
Nghiên cứu Hán - Nôm và một tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I (Hà Nội). Ngoài ra, vẫn
còn một khối lượng đáng kể địa bạ rải rác lưu trữ tại các cơ quan nghiên cứu trung ương,
cũng như địa phương và nhất là trong nhân dân mà hiện nay ta vẫn chưa có điều kiện
thống kê, sưu tầm được.
Tình hình ruộng đất Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX là các địa bạ có niên đại Gia
Long 4 (1805) và Minh mệnh 21 (1840), tổng cộng có 58 đơn vị địa bạ từ mã số địa bạ
3521 đến mã số 3579. Các địa bạ trên đều là bản chính, hiện lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I - Hà Nội.
Trong quá trình tiếp cận sử dụng tài liệu địa bạ, chúng tôi tiến hành so sánh với
nguồn tư liệu khác, cố gắng phục dựng lại vài nét về tình hình ruộng đất ở Văn Uyên nửa
đầu thế kỉ XIX qua địa bạ Gia Long năm thứ 4 với những nội dung chủ yếu sau:
Phần thứ nhất, xác định địa phận của làng xã với tên gọi, vị trí hành chính thuộc
tổng, huyện, phủ, trấn hay tỉnh cùng giáp giới bốn phía nam, bắc, đông, tây.
Phần thứ hai, kê khai rõ diện tích ruộng đất của làng xã gồm có ruộng đất công và
tư, ruộng đất canh tác, ruộng đất bỏ hoang, ruộng đất chùa, của đền miếu, của các họ, đất
làm nhà ở, đất nghĩa địa, đất bãi, các loại ao đầm… Đối với ruộng đất canh tác, phân loại
theo chất lượng của đất thành loại một, loại hai, loại ba; theo cây trồng như trồng lúa,
trồng dâu, trồng mía... và theo số vụ gieo trồng mỗi năm như ruộng một vụ hay hai vụ,
vụ mùa hè hay vụ mùa thu.
25
Phần thứ ba, kê khai từng thửa ruộng đất với những thông tin về diện tích, vị trí,
giáp giới bốn phía đông, tây, nam, bắc, phân loại ruộng đất, họ tên người chủ sở hữu và
nếu người chủ sở ở xã khác (gọi là xâm canh hay phụ canh) thì ghi rõ quê quán của
người đó. Phần này chiếm đến 90% số trang của địa bạ và cho nhiều thông tin cụ thể về
tình trạng chiếm hữu ruộng đất và kết cầu kinh tế - xã hội của làng.
Phần thứ tư là phần thủ tục hành chính gồm sự xác nhận địa bạ có bao nhiêu tờ,
lời cam kết kê khai chính xác về diện tích cũng như các loại ruộng đất và cuối cùng là
ngày, tháng, năm lập địa bạ (ghi theo niên hiệu của vị vua trị vì) cùng chữ ký hay điểm
chỉ của chức dịch cấp làng xã (Lý trưởng, Hương mục, Hương trưởng…) và tổng (Cai
tổng) chữ ký và dấu của những người chịu trách nhiệm cấp phủ, huyện, trấn, hay tỉnh và
Bộ hộ. Với những nội dung trên, địa bạ là một nguồn tư liệu rất phong phú, quý giá để
nghiên cứu nông thôn và cả đô thị Việt Nam trên nhiều phương diện.
Theo số liệu của địa bạ Văn Uyên năm Gia Long 4 (1805) các loại ruộng đất
được chia như sau:
Bảng 2.1: Thống kê ruộng đất châu Văn Uyên năm Gia Long 4 (1805)
Đơn vị tính: (M.s.th.t)
Tên tổng Xã Tổng diện tích Tư điền
Nhân Lý
Vĩnh Rật
Dã Nham
Nhân Lý Quân Lao Thạch Loan Thám Xuân Hùng Thắng Châu Quyển Đồng Đăng Hoa Giáp Thượng Hạ Lũng Vĩnh Rật Bằng Nhung Kim Cúc Dã Nham Trực Tầm 11.1.4.5 6.0.3.0 9.8.4.5 7.5.6.0 7.0.7.5 24.7.9.0 12.6.4.0 24.4.9.5 14.4.1.5 16.5.1.0 23.9.6.0 22.5.0.0 30.6.3.0 11.8.9.0 11.1.4.5 6.0.3.0 9.8.4.5 7.5.6.0 7.0.7.5 24.7.9.0 12.6.4.0 29.4.9.5 14.4.1.5 16.5.1.0 23.9.6.0 22.5.0.0 30.6.3.0 11.8.9.0
228.2.8.5 228.2.8.5 Tổng cộng (14 xã)
[Nguồn:Theo thống kê 14đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805)]
Một đặc điểm đáng lưu ý trong sự phân bố ruộng đất của Văn Uyên năm 1805
chỉ có tư điền, không có tư thổ, công thổ. Những số liệu trên cho thấy ruộng đất thuộc
26
sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100% tổng diện tích ruộng đất và đều là thực trưng.
Tổng có diện tích tư điền lớn nhất là Vĩnh Vật (hơn 97 mẫu), tổng có diện tích tư điền
ít nhất là Nhân Lý (hơn 41 mẫu). Xã có diện tích tư điền lớn nhất là xã Dã Nham,
tổng Dã Nham (30.6.3.0), ít nhất là xã Quân Lao, tổng Nhân Lý (6.0.3.0). Điều này
cho thấy, tùy theo đặc điểm địa lý riêng có của từng vùng miền mà số ruộng tư được
phân bố ở các xã và các tổng trong huyện Văn Uyên có khác nhau.
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất tư
- Ruộng tư (tư điền)
Trên cơ sở phân tích 14 địa bạ châu Văn Uyên tác giả nhận thấy trong tổng số
diện tích 228.2.8.5 nêu trên thì toàn bộ là tư điền thực trưng, có phụ canh, có chủ nữ,
không có diện tích lưu hoang, không có diện tích thổ trạch viên trì. Trong đó, sự phân
bố diện tích trong các xã không đều nhau: Ở xã Dã Nham tổng Dã Nham (tổng Dã
Nham) có tổng diện tích ruộng tư điền là 30.6.3.0 chiếm 13.42% tổng diện tích, trong
khi đó xã Hùng Thắng chỉ có 7.0.7.5 chiếm 3.07% tổng diện tích. Và trong các xã,
quy mô tư hữu ruộng đất với mức độ sở hữu của các chủ là không đều nhau. Mức độ
sở hữu của các chủ được thể hiện qua bảng thống kê sau:
Bảng 2.2: Quy mô sở hữu ruộng đất
Đơn vị tính: M.s.th.t
Quy mô sở hữu Số chủ Tỷ lệ (%) Diện tích sở hữu Tỷ lệ (%)
Dưới 1 mẫu 105 51,47 58.3.3.5 25,55
1-3 mẫu 92 45,10 140.5.13.0 61,57
3-5 mẫu 5 2,45 17.5.2.0 7,67
5-10 mẫu 2 0,98 11.8.5.0 5,21
Tổng 204 100,00 228.2.8.5 100,00
[Nguồn:Theo thống kê 14 đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805)]
27
Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư của châu Văn Uyên năm 1805
Qua bảng số liệu ta thấy:
- Đa số chủ sở hữu có mức sở hữu ruộng đất dưới một mẫu và từ 1 đến 3 mẫu
với 197 chủ, chiếm 96,57% và sở hữu 198.9.1.5 diện tích.
- Có 5 chủ sở hữu từ 3 - 5 mẫu với diện tích là 17.5.2.0 chiếm 2,45% về số chủ
và 7,67 % về diện tích ruộng đất.
- Chỉ có 2 chủ sở hữu 5-10 mẫu, chiếm 0,98% về số chủ và 5,21% về diện tích
ruộng đất.
- Nếu lấy mức sở hữu 5 mẫu làm giới hạn xác định chủ ruộng đất khá giả thì số
chủ ruộng đất này là 3.43% (7 người), số ruộng mà họ sở hữu chiếm 12,88% (hơn 19
mẫu). Nhìn chung, các số liệu trên cho thấy châu Văn Uyên là một huyện có mức độ
tập trung ruộng đất không cao. Sở hữu ruộng đất của các chủ ở thời điểm này thuộc
loại vừa và nhỏ.
Sở hữu bình quân một chủ ở Văn Uyên là 1.1.2.8. Xã có mức bình quân một
chủ lớn nhất là xã Kim Cúc, tổng Dã Nham (3.2.2.1), thấp nhất là xã Nhân Lý, tổng
Nhân Lý (0.2.3.5). Cụ thể sở hữu bình quân một chủ từng xã như sau:
28
Bảng 2.3: Bình quân sở hữu chủ và bình quân thửa năm Gia Long (1805)
Đơn vị tính: M.s.th.t
Tổng
Xã
Số thửa
Số chủ
Ruộng tự ghi trong địa bàn
Diện tích có thể tích sở hữu
Bình quân 1 thửa
Bình quân sở hữu 1 chủ
Nhân Lý
Vĩnh Dật
Dã Nham
Nhân Lý Quân Lao Thạch Loan Thám Xuân Hùng Thắng Châu quyển Đồng Đăng Hoa Giáp Thượng Hạ Lũng Vĩnh Rật Bằng Nhung Kim Cúc Dã Nham Trực Tầm
11.1.4.5 6.0.3.0 9.8.4.5 7.5.6.0 7.0.7.5 24.7.9.0 12.6.4.0 24.4.9.5 14.4.1.5 16.5.1.0 23.9.6.0 22.5.0.0 30.6.3.0 11.8.9.0
Tổng
11.1.4.5 6.0.3.0 9.8.4.5 7.5.6.0 7.0.7.5 24.7.9.0 12.6.4.0 24.4.9.5 14.4.1.5 16.5.1.0 23.9.6.0 22.5.0.0 30.6.3.0 11.8.9.0 228.2.08.5 228.2.08.5
14 15 13 15 21 11 15 57 16 17 29 13 35 15 280
14 0.2.03.5 0.2.3.5 15 0.6.00.2 0.6.0.2 12 0.8.02.8 0.3.10.7 15 0.5.00.4 0.5.0.4 11 0.6.05.5 0.3.5.3 11 2.2.07.6 2.2.7.6 8 1.5.11.7 0.8.6.2 33 0.8.13.9 0.5.2.5 15 0.9.09.1 0.9.0.0 16 1.0.04.7 0.9.10.6 14 1.7.01.5 0.8.3.8 7 3.2.0 1.7.3.0 26 1.1.11.6 0.8.8.6 0.7.13.6 7 1.6.14.1 0.7.14.7 264 1.1.02.8
[Nguồn:Theo thống kê 14 đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805)]
Với 228.2.08.5 tổng số diện tích ruộng đất phân bố trên 286 thửa ruộng,
bình quân 1 thửa là 0.7.14.7. Trong đó, xã có bình quân thửa nhỏ nhất là xã Nhân
Lý (0.2.3.5). Xã có bình quân thửa lớn nhất là xã Châu Quyển, tổng Vĩnh Dật
(2.2.7.6). Qua tình hình sở hữu bình quân về ruộng đất cũng như bình quân về thửa
và phân bố ruộng đất trong các lớp sở hữu ta có thể thấy: Kết cấu sở hữu ruộng đất
ở châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX đang trong quá trình tập trung ruộng đất vào
tay giai cấp thống trị.
- Sở hữu ruộng đất của chủ nữ, phụ canh
Có 2 chủ nữ sở hữu 2.8.5.9, đó là Nguyễn Thị Khương sở hữu 8 sào tại xã Hoa
Giáp, tổng Vĩnh Rật và Nông Thị Thành sở hữu 2 mẫu tại xã Châu Quyển, tổng Vĩnh
Rật. Việc chủ nữ sở hữu ruộng đất tại châu Văn Uyên thời Gia Long chiếm tỷ lệ nhỏ
với 0,98% về số chủ và 1,23% về diện tích. Số lượng chủ nam và nữ chênh lệch nhau
rất lớn (99,02%). Đây là hiện tượng khá phổ biến trong các địa bạ thời Gia Long. Tuy
29
nhiên tỉ lệ này quá nhỏ so với 111 chủ nữ ( chiếm 10.83%)/1025 chủ sở hữu huyện
Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) nửa đầu thế kỷ XIX [75, tr.81].
Bảng 2.4: Tình hình giới tính trong sở hữu tư nhân (1805)
Đơn vị tính: M.s.th.t
Nam Nữ
Quy mô sở hữu Số người Số người Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
Dưới 1 mẫu 51,49 104 1 Tỷ lệ số nữ trong trường lớp sở hữu (%) 0,96 50
1-3 mẫu 45,05 91 1 1,10 50
3-5 mẫu 2,47 5
5-10 mẫu 0,99 2
Tổng 2 202 100% 100% 0,99%
[Nguồn:Theo thống kê14 đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805)]
Trên cơ sở phân tích nguồn tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) còn cho thấy,
châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX tồn tại hiện tượng phụ canh. Phụ canh là hiện
tượng người ngoài xã có ruộng đất trong làng, người của xã, thôn này có ruộng đất
trên địa phận của thôn, xã lân cận, cũng có khi ở một thôn thuộc tổng, huyện khác.
Tổng diện tích phụ canh của châu là 8.5.5.0. Ví dụ như: Nguyễn Đình Ngự người xã
Uyên Mịch có ruộng tại xã Đồng Đăng, tổng Vĩnh Rật sở hữu 3.3.5.0, Hoàng Đình
Trí người xã Thạch Loan tổng Nhân Lý có 6 sào tại xã Hùng Thắng, tổng Nhân Lý,
Hoàng Cổ Trung người xã Quân Lao có ruộng một mẫu tại xã Hùng Thắng tổng
Nhân Lý. Việc phụ canh có thể lý giải như sau: Do dân xã đông, trong khi diện tích
ruộng đất làng xã lại không đủ để canh tác dẫn đến việc phụ canh ở các xã lân cận.
Hoặc phải chăng do quá trình tư hữu hóa ruộng đất trên quy mô lớn diễn ra mạnh mẽ
đã dẫn đến tình trạng mua bán, cầm cố ruộng đất trở lên phổ biến tạo điều kiện cho
người có sở hữu nhỏ đi tìm kiếm thêm ruộng đất ngoài phạm vi làng xã của mình. Có
thể đây cũng là tình trạng mua bán ruộng đất mà có
30
- Chất lượng đất đai
Địa bạ còn là nguồn tư liệu để cung cấp thông tin về chất lượng ruộng đất
và thời vụ cấy cày của các làng xã. Theo địa bạ Gia Long 4 (1805), chất lượng
ruộng đất của châu Văn Uyên được chia làm ba loại: loại 1, loại 2, loại 3 và đều là
thu điền (ruộng vụ thu). Việc phân chia đẳng hạng các loại ruộng như vậy thể hiện
đặc điểm của từng loại ruộng. Ruộng hạng nhất (loại 1) là loại ruộng tốt nhất, sau
đó lần lượt đến hạng nhì (loại 2), hạng ba (loại 3). Trong tổng số là 228.2.8.5 tư
điền thực canh, châu Văn Uyên có 52.0.8.5 ruộng loại 1 (chiếm 22,79%), 62.7.8.5
ruộng loại 2 (chiếm 27,48%) và 113.4.6.5 ruộng loại 3 (chiếm 49,73%). Ruộng đất
Văn Uyên mang đặc điểm chung của vùng núi khô cằn với diện tích đất đồi lớn,
hình thức ruộng bậc thang, nương rẫy là chủ yếu, ứng với ruộng loại 3. Người dân
địa phương sử dụng phổ biến loại ruộng này để trồng các loại cây lương thực như
lúa, ngô, khoai, đậu tương… Bên cạnh đó, châu Văn Uyên vẫn có điều kiện phát
triển nông nghiệp trồng lúa nước nhờ có ruộng màu mỡ, nhiều phù sa, loại ruộng
này chiếm tới 22,79%.
- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ
Nghiên cứu địa bạ không chỉ cho chúng ta biết thông tin về vấn đề ruộng
đất của làng xã mà còn cho biết thông tin về dòng họ. Dòng họ là toàn thể những
người có cùng huyết thống với nhau thông qua hôn nhân. Mỗi dòng họ thường bắt
nguồn từ một vị thủy tổ, đó đều là những người khởi đầu cho dòng tộc tại một khu
vực nhất định. Có thể nói dòng họ là mối liên kết bền vững nhất trong tổ chức
cộng đồng làng xã Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những thông tin ghi
trong địa bạ thì chưa thể khẳng định rằng những người có cùng họ và đệm đều là
những người cùng dòng họ theo huyết thống. Với khái niệm “nhóm họ”, chúng tôi
đưa ra dùng để chỉ tập hợp những họ có cùng tên gọi đầu tiên, chẳng hạn như
nhóm họ Hoàng, nhóm họ Đinh, nhóm họ Nguyễn… Theo đó, chúng tôi đã thống
kê được các nhóm họ cũng như quy mô sở hữu như sau:
31
Bảng 2.5: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm (1805)
Đơn vị tính: M.s.th.t
STT
Họ
Số chủ
Diện tích
%
%
1. Chu 2. Dương 3. Đinh 4. Đoàn 5. Hà 6. Hoàng 7. Hứa 8. La 9. Lâm 10. Lăng 11. Lễ 12. Lệnh 13. Liêu 14. Lộc 15. Lục 16. Lương 17. Lý 18. Nguyễn 19. Nông 20. Phùng 21. Sầm 22. Thường 23. Triệu
10 6 4 4 16 83 9 1 1 1 1 4 1 2 1 4 5 16 7 8 1 7 12 204
4,92 2,94 1,96 1,96 7,84 40,69 4,41 0,49 0,49 0,49 0,49 1,96 0,49 0,98 0,49 1,96 2,45 7,84 3,43 3,92 0,49 3,43 5,88 100,00
9.1.4.0 6.6.2.1 2.9.4.5 4.2.2.0 23.3.3.0 90.8.4.5 7.5.4.0 0.1.0.0 1.1.0.0 1.2.0.0 2.5.0.0 8.3.6.0 1.1.0.0 1.4.0.0 0.5.0.0 1.6.2.5 6.2.13.5 18.5.9.0 11.6.8.0 7.5.0.0 2.0.0.0 8.7.11.0 11.1.9.5 228.2.8.5
3,99 2,89 1,27 1,84 10,21 39,79 3,29 0,04 0,44 053 1,09 3,64 0,48 0,61 0,22 0,70 2,72 8,33 5,08 3,29 0,88 3,81 4,86 100,00
Tổng
[Nguồn:Theo thống kê 14 đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805)]
Theo bảng thống kê trên ta thấy châu Văn Uyên ở thời điểm năm 1805 có 23
nhóm họ khác nhau trên tổng số 204 chủ sở hữu. Nếu tính trung bình thì mỗi nhóm
họ xấp xỉ 9 chủ sở hữu. Tuy nhiên, việc phân bố nhóm họ và diện tích sở hữu là
không đồng đều. Nhóm họ Hoàng sở hữu lớn nhất về số chủ (49 người) chiếm 40,69
% và sở hữu tới (90.8.4.5) chiếm 39,79% về diện tích. Trong khi đó, nhóm họ La chỉ
có 1 chủ, sở hữu 1 sào. Xét về bình quân sở hữu của mỗi chủ trong nhóm họ ta thấy,
nhóm họ Hoàng tuy lớn nhất về số chủ và diện tích nhưng bình quân sở hữu một chủ
chỉ có 1.0.14.1. Song, nhóm họ Lễ chỉ có 1 chủ, sở hữu 2.5.0.0 lại có bình quân cao
nhất. Như vậy, nếu đi vào xem xét cụ thể thì một nhóm họ có diện tích sở hữu lớn
nhưng chưa hẳn là sẽ có diện tích sở hữu bình quân từng người cao và ngược lại.
32
- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc.
Chức sắc là những người có chức quyền trong làng xã, là đại diện cho triều
đình nhà Nguyễn ở địa phương. Chức sắc bao gồm 2 loại là chức dịch và sắc mục.
Chức dịch là bộ phận chức sắc quản lý làng xã nằm trong hệ thống tổ chức hành
chính của nhà nước được nhà nước công nhận chính thức như lý trưởng, xã
trưởng, tả bạ, tri thu… còn sắc mục là những người được làng xã cử ra đại diện
cho cộng đồng, tiêu biểu cho bộ máy tự quản của làng xã như: Hương mục, hương
lão, dịch mục [51, tr.60].
Qua thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805) cho thấy có 63 chức sắc, bao gồm:
14 xã trưởng, 7 khán thủ, 26 thôn trưởng, 16 sắc mục.
Bảng 2.6: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc (1805)
Đơn vị tính : M.s.th.t
Số người Tỷ lệ Diện tích sở hữu Tỷ lệ Tỷ lệ bình quân Chức vị có ruộng % (m.s.th.t) % (m.s.th.t)
13 20,97 16.9.6.0 19,58 1.3.0.4 Xã trưởng
7 11,29 13.6.5.0 15,76 1.9.7.1 Khán thủ
26 41,94 33.7.5.0 39,05 1.2.14.6 Thôn trưởng
16 25,80 22.0.6.0 25,61 1.3.11.6 Sắc mục
62 95,16 86.3.7.0 100% 1.3.13.9 Tổng
(Nguồn:Theo thống kê 14 đơn vị địa bạ Gia Long 4 (1805))
Từ bảng số liệu trên ta thấy, hầu hết các chức sắc đều có ruộng nhưng mức
độ sở hữu của các chức sắc không đồng đều. Thôn trưởng là những người nhiều
nhất về số chủ (26 chủ), chiếm 41,27% và diện tích (33.7.5.0) chiếm 39,55% tổng
diện tích. Chức sắc có diện tích sở hữu ruộng đất nhỏ như khán thủ với 7 người,
chiếm 11,11% về số chủ và sở hữu 13.6.5.0 ruộng đất chiếm 15,96% tổng diện
tích. Tuy nhiên, nếu đi vào xem xét cụ thể mức sở hữu bình quân của mỗi chức sắc
thì có sự trái chiều. Với tổng số 63 chức sắc sở hữu 85.2.7.0 diện tích thì khán thủ
là những người có bình quân diện tích cao nhất (1.9.7.1). Bình quân sở hữu thấp
nhất là thôn trưởng chỉ có 1.2.14.6.
33
Bảng 2.7: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Đơn vị tính: M.s.th.t
Chức vị Số chủ < 1 mẫu 1-3 mẫu 3-5 mẫu
Không có ruộng 1 14 4 8 1 5-10 mẫu Xã trưởng
100% 7,14% 28,58% 57,14% 7,14% (%)
7 0 6 1 Khán thú
100% 85,71% 14,19 (%)
26 100% 2 7.68% 11 42,31% 11 42,31% 1 3,85% 1 3,85% Thôn trưởng (%)
16 0 3 13 Sắc mục
100% 18,75% 81,25% (%)
63 3 18 38 3 1
Tổng (%) 100% 4,76% 18,57% 60,32% 14,76% 1,59%
(Nguồn:Theo thống kê 14 đơn vị địa bạ năm 1805)
Tổng số có 63 chức sắc sở hữu 86.3.7.0. Sở hữu dưới 1 mẫu có 18 chủ và sở
hữu 10.5.7.0 (chiếm 28,57% số chủ và 12,17% về diện tích). Trong các lớp sở hữu thì
nhiều nhất từ 1-3 mẫu có 38 chức sắc (chiếm 60,32% về số chủ) và sở hữu tới
58.3.0.0 (chiếm 67,56% về diện tích). Sở hữu từ 3 -5 mẫu có 3 chủ với diện tích là
10.7.10.0 (chiếm 38,57% số chủ và 12,40% về diện tích). Chỉ có 1 chức sắc sở hữu
trên 5 mẫu (6.7.5.0). Bên cạnh đó, còn có chức sắc không có tên trong danh sách
ruộng đất, nghĩa là không có diện tích ruộng đất tư hữu, số lượng này là 3/63 chức
sắc chiếm 4,76%. Các chức sắc không có ruộng như: Thôn trưởng Hà Trung Quảng
tại xã Châu Quyển, tổng Vĩnh Rật; Thôn trưởng Hoàng Thanh Trọng ở xã Quân Lao,
tổng Nhân Lý; xã trưởng Hoàng Tống Nham ở xã Kim Cúc, tổng Dã Nham.
Những chức sắc không có ruộng có thể do những người này khi đảm nhận
chức vụ thì họ vẫn chưa trở thành người chủ sở hữu của gia đình. Theo phong tục của
người Tày, Nùng ở địa phương khi con trai kết hôn thì bố mẹ phân chia tài sản ruộng
đất cho ra ở riêng nhưng vẫn chưa tách phần sở hữu được chia ra khỏi địa bạ chung
của gia đình. Cũng có thể đây là những trường hợp đi ở rể hoặc có thể là tình trạng ẩn
lậu ruộng đất của những người nắm quyền hành trong tay. Bằng những phân tích trên
chúng ta không thể phân biệt một cách rõ ràng bộ phận chức dịch và dịch mục. Song,
34
có thể nhận thấy đội ngũ sắc mục có quyền lực kinh tế thông qua quyền sở hữu ruộng
đất tư gần tương đương so với các chức dịch. Điều này thể hiện mỗi quan hệ giữa
“làng” với “nước”, giữa “lệ làng” và “phép nước”, và thực tế cũng đã cho thấy đôi
khi “phép vua thua lệ làng”. Diện tích ruộng đất phần lớn năm trong tay đội ngũ chắc
sắc làng xã, chi phối trực tiếp đến quyền lực chính trị ở nông thôn.
2.2. Văn Uyên qua tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
2.2.1. Tình hình ruộng đất châu Văn Uyên qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Để tiếp tục tìm hiểu diễn biến tình hình ruộng đất châu Văn Uyên trong khoảng
35 năm (nửa đầu thế kỉ XIX), chúng tôi sử dụng địa bạ của 11 đơn vị làng xã niên đại
Minh Mệnh 21 (1840). Qua việc thống kê, xử lý số liệu 11 địa bạ này, các loại ruộng đất
của Văn Uyên được phân bố như sau:
Bảng 2.8: Tình hình ruộng đất châu Văn Uyên năm Minh Mệnh 21 (1840)
Đơn vị tính: M.s.th.t
Tư điền Tên tổng Xã Tổng diện tích Thực trưng Lưu hoang
Nhân Lý
Vĩnh Rật
Dã Nham
Tổng Nhân Lý Thám Xuân Hùng Thắng Đồng Đăng Châu Quyển Hạ Lũng Văn Giáp Vĩnh Rật Trực Tầm Dã Nham Bằng Phúc 12.9.14.5 8.9.0.0 8.0.9.5 14.4.0.0 28.4.7.5 16.6.1.0 33.4.0.0 19.8.0.0 13.7.0.0 34.5.7.5 26.9.2.0 217.7.12.6 12.9.14.5 8.9.0.0 8.0.9.5 14.4.0.0 29.5.0.0 16.6.1.0 33.4.0.0 19.8.0.0 13.7.0.6 34.5.7.5 26.9.2.0 218.8.5.1
1.0.7.5 1.0.7.5 [Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
Từ bảng thống kê trên, ta thấy: Cho đến năm 1840, tức là sau khi vương triều
Nguyễn tồn tại được 38 năm (1802-1840), diện tích tư điền tại Văn Uyên vẫn chiếm
100% tổng diện tích cả châu, không có tư thổ, công thổ, công điền. Theo số liệu
thống kê tỷ lệ ruộng tư trên cả nước thời Minh Mệnh là 82,92% [55, tr.159], tại châu
Văn Uyên tỷ lệ này lên tới 100%, trong đó tư điền thực trưng là 99,50% tổng diện
tích ruộng đất và 0,5% diện tích tư điền lưu hoang.
35
Qua phân tích cho thấy, diện tích tư điền ở các xã không đều cụ thể : Xã Dã
Nham, tổng Dã Nham có diện tích tư điền lớn nhất 34.5.7.5 chiếm 15.77% tổng diện
tích ruộng đất. Bên cạnh đó, xã Hùng Thắng, tổng Nhân Lý chỉ sở hữu 8.0.9.5 chiếm
3,67% tổng diện tích ruộng đất và trở thành xã có tư điền nhỏ nhất.
Diện tích tư điền lưu hoang thời Minh Mệnh là 1.0.7.5. Điều này có thể được
lý giải là do đặc điểm địa lý ở Văn Uyên đa số là ruộng bậc thang và khan hiếm nước.
Các cọn dẫn nước hầu như không đủ khả năng cung cấp nước cho ruộng đồng. Nguồn
nước chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, hoặc do chiến tranh, nạn thổ phỉ… [21,
tr.24]. Ngay sau khi bình định xong cả nước (1802), nhà Nguyễn đã rất chú ý tới vấn
đề ruộng đất, trong các chính sách ruộng đất mà nhà Nguyễn đưa ra có chính sách
khai hóa những vùng đất mới và phục hồi những vùng đất bị bỏ hoang. Những chính
sách này được thực hiện ngay từ thời Gia Long, tuy nhiên hiệu quả của nó mang lại
không cao ở khu vực miền núi. Từ năm 1802 - 1858, nhà Nguyễn đã ban hành 46
quyết định về việc khai khẩn đất hoang. Công việc khai hoang được thực hiện bằng
nhiều biện pháp dưới nhiều hình thức phong phú như: chiêu mộ, khai khẩn, đưa ra
chính sách thưởng phạt. Nhà nước chiêu mộ dân nghèo, cấp tiền, công cụ, thóc giống
đưa đến một số địa phương cần thiết để khai hoang lập nghiệp. Nhà nước cho phép
tất cả mọi người dân trong nước đều có quyền làm đơn xin khai hoang chỗ tùy thích.
Sau 3 năm, đo đạc ruộng đất khai hoang được ghi vào sổ của nhà nước [21, tr.146].
Đây là một hình thức khai hoang khá phổ biến thời bấy giờ. Để thúc đẩy việc khai
hoang mở rộng diện tích sản xuất, nhà nước ban hành lệ thưởng phạt đối với quan lại
và nhân dân sở tại, nhằm khuyến khích quan lại các địa phương và nhân dân thực
hiện khai hoang. Nếu trong địa phương cai quản để ruộng hoang nhiều thì quan sở tại
từ tỉnh cho đến cai tổng, lý trưởng đều bị phạt theo mức mà nhà nước đã quy định.
Cùng với việc đẩy mạnh chính sách khai hoang, triều Nguyễn còn chủ trương
phục hóa trên vùng đất bỏ hoang với ba hình thức như khuyến khích nhân dân tự khai
hoang, phục hóa ruộng đất làng mình, cho phép người có khả năng trưng ruộng
hoang, giao cho quan quân nơi sở tại phục hóa, khi dân lưu tán trở về thì giao lại cho
dân… Tuy việc phục hóa ít nhiều có tác dụng phục hồi sản xuất, nhưng vẫn không
khắc phục được hiện tượng ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều. Thực trạng ruộng
đất bỏ hoang hóa nhiều, các địa chủ cường hào ở các làng xã ra sức kiêm tính ruộng
36
đất, chiếm công điền làm tư điền, cùng với tình trạng thiên tai liên tiếp, và các cuộc
nổi dậy chống lại triều đình đã khiến nhân dân bỏ làng phiêu tá, ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp.
2.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư
- Ruộng tư (tư điền)
Căn cứ vào địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), có thể thấy được số lượng chủ sở
hữu của 11 xã cùng mức độ sở hữu của họ theo qui mô sở hữu như sau:
Bảng 2.9: Quy mô sở hữu ruộng đất
Đơn vị tính: M.s.th.t
Quy mô
Số chủ
Tỷ lệ (%)
Diện tích sở hữu
Tỷ lệ (%)
< 1 mẫu
101
48,79
52.5.2.1
24,12
1-3 mẫu
103
49,76
153.5.4.0
70,51
3-5 mẫu
3
1,45
11.7.6.5
5,37
Tổng
207
100%
217.7.12.6
100%
[Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư của châu Văn Uyên năm 1840
37
Trên cơ sở phân tích số liệu trên ta thấy: Tập trung sở hữu từ dưới 1 mẫu đến 3
mẫu với 204 chủ (chiếm 94,63%) và sở hữu 206.0.6.1 (chiếm 94,63%) tổng diện tích.
Chỉ có 3 chủ sở hữu quy mô từ 3 - 5 mẫu với 11.7.6.5, chiếm 1,45% về số chủ và
5,37% về diện tích.
Có 207 chủ sở hữu với tổng diện tích là 217.7.12.6 thì bình quân sở hữu một
chủ là 1.0.7.8. Với 293 thửa ruộng phân bố trên 217.7.12.6 thì bình quân sở hữu 1
thửa là 0.7.6.4. Cụ thể như sau:
Bảng 2.10: Bình quân số chủ và bình quân thửa năm Minh Mệnh 1840
Đơn vị tính: M.s.th.t
Tổng Xã Số thửa Số chủ Diện tích ghi trong địa bạ Diện tích có thể tính sở hữu Bình quân 1 thửa
12.9.14.5 12.9.14.5 0.8.1.8 15 Bình quân sở hữu 1 chủ (m.s.th.t) 0.8.9.9 16
8.9.0.0 8.9.0.0 0.5.8.4 15 0.5.14.0 16 Nhân Lý
8.0.9.5 8.0.9.5 0.3.5.3 14 0.5.11.3 24
14.4.0.0 14.4.0.0 0.7.8.6 12 1.2.0.0 19
29.5.0.0 28.4.7.5 1.8.14.5 15 1.8.14.5 15
Vĩnh Rật
16.6.1.0 33.4.0.0 19.8.0.0 13.7.0.0 34.5.7.5 16.6.1.0 33.4.0.0 19.8.0.0 13.7.0.0 34.5.7.5 0.8.11.1 0.4.9.5 0.9.6.4 0.7.9.1 0.9.8.9 18 43 20 13 25 0.9.3.3 0.7.11.5 0.9.13.5 1.0.8.0 1.3.12.3 19 72 21 18 36 Dã Nham 26.9.2.0 26.9.2.0 0.7.4.1 17 1.5.12.4 37
Nhân Lý Thám Xuân Hùng Thắng Đồng Đămg Châu Quyển Hạ Lũng Văn Giáp Vĩnh Rật Trực Tầm Dã Nham Bằng Phúc Tổng 218.8.5.1 0.7.6.4 207 217.7.12.6
1.0.7.8 293 [Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
Xét chung về bình quân số chủ và bình quân 1 thửa cho thấy xã có bình
quân sở hữu một chủ và bình quân thửa lớn nhất là xã Châu Quyển, tổng Vĩnh Rật
(18.14.5), ít nhất là xã Hùng Thắng, tổng Nhân Lý với bình quân 1 chủ là 0.5.11.3
và bình quân thửa là 0.3.5.3. Nhìn chung, bình quân sở hữu một chủ và bình quân
số thửa giữa các xã thôn ở Văn Uyên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) có sự
38
chênh lệnh lớn. Với quy mô và diện tích như vậy, có thể nói các xã thuộc huyện
Văn Uyên có diện tích ruộng đất thuộc loại vừa và nhỏ.
- Sở hữu ruộng đất của chủ nữ và phụ canh
Chủ nữ sở hữu ruộng đất sang thời Minh Mệnh đã không còn. Trong tổng số
207 chủ sở hữu thì không có chủ sở hữu nào là nữ, 100% ruộng đất có chủ sở hữu là
nam. Nếu so sánh với huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn [24] cùng thời điểm này thì diện
tích ruộng đất có chủ nữ sở hữu ở đây cũng hoàn toàn không có. Như vậy, có thể cho
thấy rằng việc nữ giới đứng tên chủ ruộng đất tại nơi đây vẫn còn rất ít.
Trong 204 chủ sở hữu ở trên, chúng tôi thống kê được diện tích phụ canh là
23.6.11.5. Cụ thể: Triệu Thành Trung người xã Nhân Lý có ruộng tại xã Hùng
Thắng, tổng Nhân Lý với diện tích là 3 sào, Hoàng Huy Lực người xã Quân Lao,
tổng Nhân Lý có ruộng tại xã Hùng Thắng, tổng Nhân Lý với diện tích 1.0.2.5,
Lương Ngọc Trung xã Thạch Loan, tổng Nhân Lý có ruộng tại xã Hùng Thắng,
tổng Nhân Lý với diện tích 1 sào.
- Chất lượng ruộng đất
Cũng như các huyện miền núi phía bắc, đến năm Minh Mệnh 21 (1840),
ruộng đất huyện Văn Uyên phần lớn là ruộng loại 3 (tam đẳng), loại ruộng khô
cằn kém màu mỡ, với diện tích là 98.0.14.6, chiếm 44,79% tổng diện tích ruộng
đất. Bên cạnh đó ruộng đất thuộc loại 1 và loại 2 (loại ruộng có phù sa, màu mỡ)
cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Trong đó, ruộng loại 1 có 46.9.13.5, chiếm 21,44%,
ruộng loại 2 có 73.7.7.0, chiếm 33,77%. Mặc dù, tại châu Văn Uyên ruộng loại 1
chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng nếu so sánh với một số nơi khác như huyện Chiêm Hóa
(tỉnh Tuyên Quang) chỉ có ruộng loại 3 (1494.3.11.3), không có loại nhất, loại nhì
[21, tr.27] thì Văn Uyên vẫn là châu có nhiều đất tốt để phát triển kinh tế nông
nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp lúa nước.
- Sử hữu ruộng đất theo nhóm họ
Cũng như trong thống kê trong địa bạ Gia Long 4(1805), ở địa bạ Minh
Mệnh 21 (1840) chúng thống kê ruộng đất của các nhóm họ. Theo đó, có 204 chủ
sở hữu tư điền của Văn Uyên thuộc 23 họ khác nhau và được phân bố như sau:
39
Bảng 2.11: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ
Đơn vị tính: M.s.th.t
STT Họ
1. Chu 2. Dương 3. Đinh 4. Đỗ 5. Đoàn 6. Đồng 7. Hà 8. Hoàng 9. Hứa 10. Khuất 11. Lâm 12. Lăng 13. Lê 14. Lễ 15. Lệnh 16. Liêu 17. Lộc 18. Lữ 19. Lương 20. Lý 21. Ngô 22. Ngụy 23. Nguyễn 24. Nông 25. Phùng 26. Thường 27. Triệu 28. Trịnh Tổng Số chủ 9 5 4 2 5 3 22 69 9 1 1 4 2 1 1 2 1 3 5 3 2 1 18 10 6 5 11 2 207 % 4,35 2,42 1,93 0,97 2,42 1,45 10,61 33,33 4,35 0,48 0,48 1,93 0,97 0,48 0,48 0,97 0,48 1,45 2,42 1,45 0,97 0,48 8,70 4,83 8,70 2,42 5,31 0,97 100% Diện tích sở hữu 8.7.7.5 5.2.7.5 3.5.2.5 1.2.3.6 5.8.5.0 2.4.1.5 22.5.6.5 76.2.11.0 10.3.1.0 0.3.0.0 1.0.0.0 4.5.7.0 2.8.0.0 2.5.1.0 0.7.1.0 1.9.2.0 0.6.0.0 4.5.5.0 2.9.0.5 3.4.5.0 2.0.0.0 1.8.0.0 17.0.6.5 12.9.8.5 5.1.0.0 6.4.11.0 9.5.6.0 1.5.3.0 217.7.12.6 % 3.99 2.39 1.61 0.55 2.66 1.10 10.61 35.00 4.73 0.14 0.46 2.07 1.29 1.15 0.32 0.87 0.28 2.07 1.33 1.56 0.92 0.83 7.81 5.93 2.34 2.94 4.36 0.69 100%
[Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
Từ bảng số liệu trên có thể nhận thấy, nhìn chung số lượng chủ sở hữu và diện
tích sở hữu giữa các nhóm họ trung bình là (204: 23) gần 9 chủ sở hữu/1 nhóm họ.
Tuy nhiên, theo thống kê chỉ có 6 nhóm họ (Chu, Hứa, Nguyễn, Hà, Triệu, Hoàng) là
có số chủ sở hữu lớn hơn chỉ số trung bình đó và thậm chí chỉ tính riêng số người
thuộc các nhóm họ Hoàng, Hà, Nguyễn, thì đã chiếm hơn nửa tổng số chủ tư điền
(115 người = 56,64%) và chiếm tới 58,33% tổng diện tích sở hữu. Bên cạnh đó có rất
nhiều nhóm họ chỉ có 1 chủ sở hữu như: nhóm họ Lục, Lâm, Liêu. Lễ, La, Sầm,
40
Lăng. Xét về mức độ sở hữu của các nhóm họ, ta thấy nhóm họ nhiều người thì có
mức sở hữu lớn hơn. Trong các nhóm họ, có nhóm họ Hoàng là nhóm họ lớn nhất về
số chủ (69 chủ), chiếm 33,33% và sở hữu 76.2.11.0, chiếm 35% về diện tích. Nhóm
họ lớn thứ hai về diện tích và số chủ là nhóm họ Hà với 22 chủ chiếm 10,61% số chủ
và sở hữu 22.5.6.5 chiếm 10,34% về diện tích. Xét về bình quân sở hữu của mỗi chủ
trong từng nhóm họ thì không phải nhóm họ nào có diện tích sở hữu lớn nhất là có
bình quân sở hữu cao hơn. Điều này thể hiện qua nhóm họ Hoàng có bình quân sở
hữu là 1.1.0.8 trong khi nhóm họ Lễ dù chỉ có 1 chủ nhưng lại có bình quân sở hữu
cao hơn (2.5.1.0).
- Tình hình sở hữu của chức sắc
Thời Minh Mệnh có sự thay đổi về bộ máy quản lý làng xã. Thông qua cải cách,
Minh Mệnh bỏ chức xã trưởng, thay bằng chức lý trưởng. Trong làng xã chỉ có hai chức:
Lý trưởng và dịch mục. Theo đó, nhà nước cho các thôn xã, các phường đều đặt một lý
trưởng, định số 50 người trở lên thì đặt thêm một phó lý trưởng. Đều lấy người vật lực,
cần cán làm, do cai tổng cùng dân bầu cử, phủ huyện xét kỹ lại, bẩm lên trấn để cấp văn
bằng, và mộc triện. Trách nhiệm của lý trưởng hết sức nặng nề, hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước nhà nước về quản lý làng xã, thực hiện mọi nghĩa vụ về tô thuế, phu phen,
tạp dịch [55, tr.25]. Ở Văn Uyên cũng vậy, chức xã trưởng được thay thế bằng chức lý
trưởng, bên cạnh đó còn có chức dịch mục, trại trưởng để giúp việc. Dịch mục, trại
trưởng là những người được dân xã cử ra, tiêu biểu cho bộ máy tự quản ở làng xã. Mặc
dù có một số thay đổi nhỏ về tên gọi nhưng trên thực tế các chức sắc này trong làng xã
vẫn là bộ phận có địa vị kinh tế và chính trị lớn.
Theo thống kê địa bạ châu Văn Uyên năm Minh Mệnh 21 (1840) cho thấy có
26 chức sắc, bao gồm: 11 lý trưởng, 14 dịch mục và 1 trại trưởng.
Bảng 2.12: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc (1840)
Đơn vị tính: M.s.th.t
Chức vị Số người Diện tích sở hữu Tỷ lệ bình quân
Tỷ lệ (%) 42,31% 53,84% 3,85% 92,31% Tỷ lệ (%) 54,74 36,70 8,56 100% 17.9.6.5 12.0.4.0 2.8.0.0 32.7.10.5 1.6.4.6 0.8.8.8 2.8.0.0 1.2.9.0 Lý trưởng Dịch mục Trại trưởng Tổng 11 14 1 26
[Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
41
Qua số liệu bảng trên ta thấy: Lý trưởng tuy có số lượng ít hơn dịch mục (11
người, chiếm 42,31%) nhưng lại có diện tích sở hữu lớn hơn (17.9.6.5, chiếm 54,74%
tổng diện tích sở hữu của các chức sắc). Còn dịch mục có số lượng nhiều hơn (14
người, chiếm 53,84 tổng số chức sắc, trong đó có 2 người không có ruộng) nhưng
diện tích sở hữu lại nhỏ hơn lý trưởng (12.0.4.0, chiếm 36,70% tổng diện tích sở hữu
của các chức sắc. Trại trưởng sở hữu ít nhất về số chủ là 1 chủ (chiếm 3,85% và diện
tích 2 mẫu 8 sào (chiếm 8,56). Chứng tỏ không phải tất cả các chức sắc đều có địa vị
kinh tế như nhau.
Với 26 chức sắc sở hữu 32.7.10.5 thì bình quân mỗi chức sắc sở hữu 1.2.9.0.
Tuy trại trưởng ít nhất về số chủ và ít nhất về sở hữu ruộng đất nhưng bình quân lại
cao nhất (2.8.0.0). Bên cạnh đó, dịch mục và lý trưởng có số chủ và diện tích ruộng
đất cao nhất nhưng bình quân sở hữu lại thấp hơn cả, trong đó dịch mục có bình quân
sở hữu diện tích thấp nhất (0.8.8.8).
Bảng 2.13: Quy mô sở hữu ruộng đất của chức sắc thời Minh Mệnh (1840)
Đơn vị tính: M.s.th.t
Chức vị Số chủ < 1 mẫu 1-3 mẫu 3-5 mẫu
Lý trưởng (%) Dịch mục (%) Trại trưởng (%) Tổng (%) 11 100% 14 100% 1 100% 26 100% Không có ruộng 2 14,29% 2 4 36,36% 7 50% 0 11 8.5.6.0 6 54,55% 5 35,71% 1 100% 12 20.1.14.5 1 9,09% 1 4.0.5.0
[Nguồn:Theo thống kê 11 đơn vị địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)]
Từ số liệu trên cho thấy: Sự phân chia ruộng đất giữa các chức sắc trong châu
là không đều. Có 11 chức sắc sở hữu ruộng đất dưới 1 mẫu chiếm 42,31% về số chủ
và sở hữu 8.5.6.0 (chiếm 25,99%) về diện tích ruộng đất. Quy mô tập trung nhiều
nhất từ 1 - 3 mẫu với 12 chủ sở hữu 20.1.14.5 (chiếm 46,15% về diện tích và 61,47%
về diện tích ruộng đất). Chỉ có 1 chức sắc là lý trưởng Hoàng Thái Đức người xã Dã
Nham, tổng Dã Nham sở hữu 4.0.5.0. Trong tổng số 26 chức sắc thì có 2 chức sắc
không có ruộng đất, chiếm 7,69% tổng số chức sắc trong toàn châu. Đó là dịch mục
42
Phan Quảng Ngọc người xã Dã Nham, tổng Dã Nham và dịch mục Hoàng Du Sơn
người xã Trực Tầm, tổng Dã Nham.
2.3. So sánh tình hình ruộng đất huyện Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX theo địa
bạ Gia Long 4 (1805) và địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840)
Trên cơ sở đi sâu phân tích địa bạ của châu Văn Uyên lập vào hai thời điểm
khác nhau (Gia Long 4 và Minh Mệnh 21) đã tái hiện một phần nào bức tranh toàn
cảnh về tình hình ruộng đất ở nơi đây trong từng thời điểm cụ thể. Để có cái nhìn rõ
nét hơn về sự thay đổi về quy mô cũng như tình hình sở hữu ruộng đất trong khoảng
35 năm nửa đầu thế kỷ XIX, chúng tôi sử dụng 16 địa bạ của 8 xã ở châu Văn Uyên
là Nhân Lý, Thám Xuân, Hùng Thắng, Châu Quyển, Đồng Đăng, Vĩnh Rật, Dã
Nham, Trực Tầm. Tám xã này có địa bạ tại hai thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh
21. Trên cơ sở so sánh số liệu, tình hình ruộng đất cụ thể như sau:
Bảng 2.14: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất
ở hai thời điểm lịch sử 1805 và 1840
Đơn vị: M.s.th.t
Gia Long Minh Mệnh
Tư điền Tên tổng Xã Tư Điền Tổng diện tích Tổng diện tích Thực trưng Lưu Hoang Nhân Lý 11.1.4.5 11.1.4.5 12.9.14.5 12.9.14.5
Nhân Lý Thám Xuân 7.5.6.0 7.5.6.0 8.9.0.0 8.9.0.0
Hùng Thắng 7.0.7.5 7.0.7.5 8.0.9.5 8.0.9.5
Châu Quyền 24.7.9.0 24.7.9.0 29.5.0.0 28.4.7.5 1.0.7.5
Vĩnh Rật Đồng Đăng 12.6.4.0 12.6.4.0 14.4.0.0 24.4.0.0
Vĩnh Rật 16.5.1.0 16.5.1.0 19.8.0.0 19.8.0.0
Dã Nham 30.6.3.0 30.6.3.0 34.5.7.5 34.5.7.5 Dã Nham Trực Tầm 11.8.9.0 11.8.9.0 13.7.0.0 13.7.0.6
122.0.14.0 122.0.14.0 141.9.2.1 140.8.9.6 1.0.7.5 Tổng 100% 100% 100% 99,3% 0,70%
(Nguồn:Theo thống kê 16 đơn vị địa bạ năm 1805, 1840)
43
Trải qua 35 năm, từ năm 1805 đến 1840, tổng diện tích ruộng đất của 8 xã đã
được mở rộng 19.8.3.1. Trong đó, toàn bộ là tư điền, không có công điền, công thổ,
không có thổ trạch viên trì. Điều này cho thấy quá trình tư hữu hóa ruộng đất vẫn
diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn này tại châu Văn Uyên đã khẳng định thêm rằng
những cố gắng của nhà Nguyễn nhằm tăng quỹ đất công trong cả nước đã không phát
huy được tác dụng là mấy. Thời Gia Long ruộng tư chiếm 100%, thời Minh Mệnh
diện tích ruộng đất này đạt gần 100% (99,3%). Nếu thời Gia Long không có diện tích
ruộng đất hoang thì sang thời Minh Mệnh có 1.0.7.5 (chiếm 0,50%) diện tích ruộng
đất tại xã Châu Quyền, tổng Vĩnh Rật.
- Tình hình tư hữu ruộng đất tư
Để thấy rõ hơn nữa sự biến đổi trong mức độ sở hữu của các chủ tư hữu,
chúng tôi lập bảng so sánh sau:
Bảng 2.15: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất
ở hai thời điểm lịch sử 1805 và 1840
Đơn vị: M.s.th.t
Năm Gia Long 4(1805)
Quy mô sở hữu
< 1 mẫu
1-3 mẫu
3-5 mẫu
Tổng Số chủ (%) 51 47,22% 55 50,93% 2 1,85% 108 100% Diện tích sở hữu (%) 27.9.4.5 22,87% 87.6.4.5 71,88% 6.4.5 5,25% 122.0.14.0 100% Năm Minh Mệnh 21(1840) Diện tích sở hữu Số chủ (%) (%) 31.1.1.6 60 22,09% 46,51% 105.7.3.0 68 75,05% 52,71% 4.0.5 1 2,86% 0,78% 140.8.9.6 129 100% 100%
[Nguồn:Theo thống kê 16 đơn vị địa bạ năm 1805, 1840]
44
Biểu đô 2.3: Quy mô sở hữu ruộng đất của Văn Uyên tại thời điểm 1805 và 1840
Qua phân tích số liệu cho thấy:
Về bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở huyện Văn Uyên thời Gia Long
(1805) là 1.1.4.5, so với bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở thời điểm Minh
Mệnh (1840) là 1.0.1.3 thì rõ ràng bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở thời Gia
Long lớn hơn 0.1.3.2. Trải qua 35 năm, từ thời Gia Long đến thời Minh Mệnh số chủ
tăng lên 21 người (108 -129), nhưng sự gia tăng đó không phân bố đồng đều cho các
lớp sở hữu. Cụ thể:
Lớp chủ sở hữu dưới 1 mẫu mẫu giảm 0,71% số chủ và 0,78% về diện tích. Về
bình quân sở hữu của một chủ giảm từ 0.5.7.1 xuống còn 0.5.2.7 (giảm 4 thước, 4 tấc).
Lớp chủ sở hữu từ 1-3 mẫu tăng 1,78% số chủ và 3,17% về diện tích. Bình
quân sở hữu giảm từ 1.5.13.9. xuống 1.5.8.2 (giảm 5 thước, 7 tấc).
Lớp chủ sở hữu từ 3-5 mẫu giảm 1,07% số chủ và 2,39% về diện tích. Bình
quân sở hữu tăng từ 3.2.2.5 lên 4.0.5.0 (tăng 0.8.2.5).
45
- Sở hữu ruộng đất của chủ nữ và phụ canh
Nếu thời Gia Long có 2 chủ nữ sở hữu 2.8.0.0 tại tổng Vĩnh Rật thì sang thời
Minh Mệnh không còn chủ nữ sở hữu.
Thời Gia Long, tổng diện tích phụ canh là 8.5.5.0. trong đó tổng Nhân Lý có
3.7.0.0 diện tích phụ canh, tổng Vĩnh Rật có 4.8.5.0 diện tích phụ canh. Sang thời Minh
Mệnh diện tích phụ canh là 23.6.11.5 tập trung chủ yếu ở tổng Nhân Lý. Trải qua 35
năm, diện tích phụ canh tăng lên 15.1.6.5. Diện tích phụ canh tăng chứng minh tình hình
ruộng đất châu Văn Uyên có chuyển biến. Quá trình tư hữu hóa ruộng đất diễn ra ngày
càng phổ biến, tạo điều kiện cho người có sở hữu nhỏ đi tìm kiếm thêm ruộng đất ngoài
phạm vi làng xã của mình. Có thể nói, hình thức phụ canh được phản ánh trong địa bạ
châu Văn Uyên không phải là hiện tượng riêng biệt của một địa phương nào mà đây là
một hiện tượng khá phổ biến ở nước ta đầu thế kỉ XIX.
- Chất lượng ruộng đất
Ở cả hai thời điểm Gia Long và Minh Mệnh cũng giống như các huyện miền núi
khác, chủ yếu là ruộng đất thuộc loại 2, loại 3 và là ruộng vụ thu (thu điền). Cụ thể là:
Thời Gia Long: Ruộng loại 1: 52.0.8.5; Ruộng loại 2: 62.7.8.5; Ruộng loại
3: 113.4.6.5.
Thời Minh Mệnh: Ruộng loại 1: 46.9.13.5; Ruộng loại 2: 73.7.7.0; Ruộng
loại 3: 98.0.14.6.
Diện tích loại 1, loại 2 tăng lên đáng kể, sang thời Minh Mệnh diện tích loại 1,2
tăng lên 8.8.3.5. Diện tích ruộng loại 3 giảm đi 15.3.6.9. Có thể đây chính là kết quả khai
hoang dưới các vị vua triều Nguyễn tiến hành mà đặc biệt là vua Minh Mệnh.
- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ
Tình hình sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ của Văn Uyên có nhiều biến đổi,
phản ánh phần nào sự biến động của xã hội đương thời. Từ những số liệu riêng lẻ về sở
hữu ruộng đất tư của từng chủ sở hữu, chúng tôi lập bảng thống kê so sánh quy mô sở
hữu ruộng đất của các nhóm họ qua 2 thời điểm lịch sử (Gia Long 4 và Minh Mệnh 21)
để thấy được sự tăng giảm của số chủ và mức độ sở hữu ruộng đất của từng nhóm họ.
Cụ thể như sau:
46
Bảng 2.16: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ Đơn vị tính: M.s.th.t
Năm Gia Long 4 (1805)
Năm Minh Mệnh 21 (1840)
STT Họ
Số chủ=% M S
th 0 4
t Tỉ lệ Số chủ=% M 8 0
9=6,98
5,74
S Th 7 7
t Tỉ lệ 5 6,18
1. Chu
7=6,48
7
2. Dương
1=0,93
0
4 2
0
0,33
2=1,55
5 1,07
1
5
7
3. Đinh
2=1,85
1
9 4
0
1,56
4. Đỗ
2=1,55
6 0,85
1
2
3
5. Đoàn
2=1,85
2
3 0
0
1,89
3=2,33
0 2,70
3
8
3
6. Hà
6=5,56
9
0 4
0
7,38
5=3,88
0 5,04
7
1
1
7. Hoàng 44=40,80 36 7 3
0 30,08 48=37,21 53
5 39,32
8
9
8. Hứa
5=4,63
8 2
3,11
6=4,65
14 0 4,69
3
0
6
6
9. Khuất
1=0,78
0 0,21
0
3
0
10. La
1=0,93
0
1 0
0
0,08
11. Lâm
1=0,93
1
0 0
0
0,82
1=0,78
0 0,71
1
0
0
12. Lăng
1=0,93
1
2 0
0
0,98
3=2,33
0 2,14
3
0
5
13. Lê
2=1,55
0 1,99
2
8
0
14. Lệnh
2=1,85
1
2 1
0
0,99
1=0,78
0 0,50
0
7
1
15. Liên
1=0,93
1
1 0
0
0,90
1=0,78
0 0,78
1
1
0
16. Lộc
2=1,85
14 0 0
0 11,48
1=0,78
0 0,43
0
6
0
17. Lữ
3=2,33
0 3,20
4
5
5
18. Lục
1=0,93
0
5 0
0
0,41
19. Lương
1=0,93
0
2 0
5
0,16
3=2,33
5 0,64
0
9
0
20. Lý
2=1,85
3
9 0
0
3,20
2=1,55
0 1,99
2
8
5
21. Ngô
2=1,55
0 1,42
2
0
0
22. Ngụy
1=0,78
0 1,28
1
8
0
23. Nguyễn
3=2,78
5
4 6
0
4,43
6=4,65
5 5,33
7
5
9
24. Nông
4=3,70
9
8 6
0
8,03
5 8,66
2
8
10=7,70
12
25. Phùng
7=6,48
6
0 0
0
4,92
0 3,62
5
1
0
6=4,65
26. Sầm
1=0,93
2
0 0
0
1,64
8
6,72
5=3,88
27. Thường
6=5,56
2 11 0
6
4
11 0 4,55
28. Triệu
8=7,41
6
1 0
5
5,00
4=3,10
2
3
5
0 1,63
29. Trịnh
2=1,55
1
5
3
0 1,07
Tổng
9
6 100%
108=100% 122 0 14 0 100% 129=100% 140 8 [Nguồn:Theo thống kê 16 đơn vị địa bạ năm 1805, 1840]
Qua phân tích số liệu trên cho thấy, số chủ và số nhóm họ đều tăng. Nếu thời
Gia Long có 23 nhóm họ với 122 số chủ thì sang thời Minh Mệnh có 26 nhóm họ với
47
129 chủ. Song đi vào xem xét cụ thể cho thấy bình quân số chủ trong các nhóm họ
năm Gia Long 4 (1805) là khoảng 5,3 người (122 : 23) trong khi bình quân số chủ trong
các nhóm họ năm Minh Mệnh (1840) là khoảng 4,9 người (129 : 26). Sang thời Minh
Mệnh đã không còn một số nhóm họ: La, Sầm, Lục, Đinh và xuất hiện thêm một số
nhóm họ khác như Trịnh, Khuất, Ngụy, Ngô, Lễ, Đỗ, Lữ. Sự thay đổi này có thể lý
giải, sau một thời gian định cư, sinh sống, cư dân nhận thấy điều kiện làm ăn khó
khăn vì “đây là miền thượng du, hiểm trở đáng cậy, rắn rết, ma quỷ thường làm tai
quái cho người, thủy thổ độc dữ hay làm khó cho người” [49, tr.25] nên họ muốn tìm
đến nơi ở mới. Hoặc cũng có thể là do tình hình chính trị, xã hội không ổn định, đến
thời Minh Mệnh nổi lên nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Tiêu biểu trong thời kì
này là cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân diễn ra từ năm 1833 -1835, hoạt động ở
nhiều tỉnh thành như Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc
Giang [49, tr.206].
Nhóm họ Hoàng vẫn đứng đầu về số chủ và diện tích. Năm Gia Long 4 (1805),
nhóm họ Hoàng chiếm 40,80% về diện tích và 30,08% về số chủ. Sang thời Minh Mệnh
số chủ họ Hoàng chiếm 37,32% số chủ và chiếm 39,32% về diện tích. Diện tích sở hữu
của nhóm họ Hoàng tăng từ 36.7.3.0 lên 53.8.9.5 (tăng 17.1.6.5). Có thể họ Hoàng là
nhóm họ lớn và có vị trí nhất định trong làng xã lúc bấy giờ.
- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Nghiên cứu nguồn địa bạ châu Văn Uyên ở cả hai thời điểm cho thấy: Dưới
thời Gia Long 4 (1805), hệ thống chức sắc gồm có sắc mục, khán thủ, thôn trưởng, xã
trưởng. Các chức dịch thời Minh Mệnh có lý trưởng, dịch mục và trại trưởng. Để thấy
được tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc ở hai thời điểm 1805 và 1840,
chúng tôi tiến hành thống kê số liệu từ 16 tập địa bạ. Cụ thể ở bảng sau:
48
Bảng 2.17: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc
Đơn vị tính: M.s.th.t
Thời Gia Long (1805)
Thời Minh Mệnh (1840)
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Chức Vị
Diện tích
Chức vị
Diện tích
chủ
(%)
(%)
chủ
(%)
(%)
Xã trưởng
7
21,88 10.8.0.0 24,16 Lý trưởng
47,06 12.8.12.5 61,24
8
Thôn trưởng
15
46,88 15.9.13.0 35,57 Dịch mục
52,94 8.1.2.0 38,76
9
Sắc Mục
8
25
13.8.14.0 31,32
Khán thủ
2
6,24
4.0.5.0
8,95
Tổng số
32
100% 44.7.2.0 100% Tổng Số
17
100% 20.9.14.5 100%
[Nguồn:Theo thống kê 16 đơn vị địa bạ năm 1805, 1840]
Có thể thấy, tổng số chức sắc thời Minh Mệnh ít hơn 15 người so với thời Gia
Long (32 - 17). Về diện tích, các chức sắc thời Gia Long sở hữu nhiều diện tích ruộng
đất hơn (44.7.2.0), thời Minh Mệnh các chức sắc chỉ sở hữu 20.9.14.5. Tại châu Văn
Uyên, các xã có địa bạ đầu thế kỉ XIX thì hầu hết các chức sắc đều có ruộng, nhưng
không đồng đều giữa các lớp sở hữu như thống kê ở bảng sau.
Bảng 2.18: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc
Đơn vị tính: M.s.th.t
Năm Gia Long 4(1805)
Năm Minh Mệnh 21 (01840)
Chức vị Số người (%)
Chức vị Số người (%)
1-3 mẫu (%)
3-5 mẫu (%)
1-3 mẫu (%)
3-5 mẫu (%)
< 1 mẫu (%)
< 1 mẫu (%)
Không ruộng đất (%)
Xã trưởng
Lý trưởng
1
Dịch mục
Thôn trưởng
Sắc mục
Khán Thú
1 0.3 5 2.7.2 6
5 7.4.0.0 9 13.2.11.0 8 13.8.14.0 2 3.10.5.0 24
3 1.9 3 1.9.2 6
4 6.9.7.5 4 6.2 8
Tổng
1
Tổng
1 3.1.0.0 1 3.1.0.0
Không ruộng đất (%) 2 2
1 4.0.5.0 1 4.0.5.0
3.0.2.0 38.6.0.0
3.8.2.0 13.1.7.5
[Nguồn:Theo thống kê 16 đơn vị địa bạ năm 1805, 1840]
Qua nghiên cứu cho thấy: Phổ biến là sở hữu từ 1 - 3 mẫu: thời Gia Long có
24 chủ sở hữu 38.6.0.0, chiếm 75% về số chủ và 86,35% về tổng diện tích. Thời
49
Minh Mệnh có 8 chủ sở hữu 13.1.5.7 chiếm 47,06% về số chủ và 62,68% về diện
tích. Chỉ có 1 chủ sở hữu quy mô từ 3 - 5 mẫu ở cả hai thời.
Giữa các lớp chủ sở hữu có sự thay đổi: Lớp chủ sở hữu dưới 1 mẫu có sự gia
tăng từ 18,74% lên 35,29% (tăng 16,55); Lớp chủ sở hữu từ 1 đến 3 mẫu có sự suy
giảm từ 75% xuống còn 47,06% (giảm 27,94%); Lớp chủ sở hữu từ 3 đến 5 mẫu gia
tăng từ 3,13% đến 5,89% (tăng 2,76%).
Bên cạnh đó, có một số chức sắc không có ruộng đất. Nếu thời Gia Long 4
(1805) có 1 chức sắc không có ruộng, chiếm 3,13% tổng số chức sắc thì sang thời
Minh Mệnh tăng lên 2 người, chiếm 11,76%.
Tiểu kết: Thông qua tư liệu địa bạ châu Văn Uyên nửa đầu thế kỉ XIX, chúng
ta có thể thấy rõ tình hình ruộng đất của một vùng miền núi vùng phía Đông Bắc
nước ta.
Ruộng đất châu Văn Uyên toàn bộ thuộc sở hữu tư nhân, không có ruộng đất
công thuộc sự quản lý của nhà nước. Phần lớn ruộng đất là tư điền thực trưng. Đến
thời Minh Mệnh xuất hiện ruộng bỏ hoang nhưng diện tích nhỏ (1.0.7.5.). Về quy mô
sở hữu tư nhân chủ yếu thuộc loại vừa và nhỏ, tập trung chủ yếu từ 1 đến 3 mẫu,
không có chủ sở hữu trên 5 mẫu. Ruộng đất thuộc sở hữu của một số nhóm họ lớn
như: Hoàng, Nguyễn, Hà. Sự chênh lệnh giữa các nhóm họ rất rõ rệt, trong các nhóm
họ thì họ Hà có số chủ và diện tích lớn nhất. Một huyện vùng núi phía Bắc như Văn
Uyên, nơi mà vai trò của các dòng họ thổ ty vẫn còn có những ảnh hưởng lớn trong
làng xã thì ruộng đất tập trung nhiều vào một nhóm họ cũng là điều dễ hiểu.
Qua nghiên cứu địa bạ còn cho chúng ta tìm hiểu thêm về chất lượng ruộng đất
châu Văn Uyên. Ruộng đất có cả 3 loại ruộng (loại 1, loại 2, loại 3), trong đó ruộng
loại 1 là 52.0.8.5( chiếm 22.79%), ruộng loại 2 là 62.7.8.5 (chiếm 27.48%), tổng
ruộng loại 1 và loại 2 chiếm hơn 50%. Điều này phản ánh chất lượng ruộng đất ở Văn
Uyên tốt hơn một số châu, huyện miền núi khác cùng thời như huyện Thoát Lãng (
Lạng Sơn), huyện Đại Từ (Thái Nguyên), Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Do ở đây có
sông Kỳ Cùng chảy qua thuận lợi cho châu Văn Uyên trong sản xuất nông nghiệp so
với các châu, huyện khác trong tỉnh Lạng Sơn nói riêng, khu vực miền núi phía Bắc
nói chung.
50
Chương 3
VĂN HÓA CỦA CHÂU VĂN UYÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
Trong số các dân tộc ở Văn Uyên, người Tày và người Nùng là cư dân sống
cùng trong một hệ sinh thái, có mối quan hệ gần gũi lâu đời về nguồn gốc và văn hóa,
tâm lý tộc người. Tộc người Tày, Nùng là những dân tộc có số dân đông đảo, có lịch
sử cư trú lâu đời ở châu Văn Uyên, vì thế nền văn hóa truyền thống của họ chiếm vị
trí chủ đạo tại đây. Vì vậy, trong một số mặt của đời sống văn hóa, chúng ta khó phân
biệt được đâu là yếu tố văn hóa Tày, đâu là yếu tố văn hóa Nùng.
Qua quá trình điền dã dân tộc học tại 12 xã thuộc Văn Uyên xưa, đồng
thời tiếp cận với số liệu do chi cục thống kê huyện Cao Lộc và Văn Lãng cung
cấp. Tác giả đã hệ thống lại các số liệu để có cái nhìn tổng quát về thành phần dân
tộc, tỉ lệ các dân tộc chủ yếu tại 12 xã thể hiện qua hai bảng số liệu sau đây.
51
Bảng 3.1: Thành phần dân tộc theo xã
Đơn vị tính: Người
STT Xã Tổng số Nùng Tày Kinh Hoa Mường Sán Sán H’mông Dao Gia Thái
Dìu Chay rai
Tân Thanh 4817 1669 1012 2113 9 4 7 1 2 1
Tân Mỹ 6865 5334 10 3 2 884 612 2
Hồng Thái 1929 1358 555 16 3
Hoàng Văn Thụ 2855 1881 926 46 4
Nhạc Kỳ 1395 932 1 454 8 5
Đồng Đăng 7312 3133 1375 2485 314 2 1 1 1 6
Bảo Lâm 2856 1785 1040 1 29 1 7
Hồng Phong 2847 1263 1359 1 1 218 2 8
Thụy Hùng 4524 3640 3 1 801 71 8 9
Phú Xá 2493 1541 763 187 2 10
Bình Trung 2053 1446 2 568 37 11
Song Giáp 987 847 1 134 5 12
4 1 2 Tổng 40.933 24849 9871 5827 346 12 12 2 2
[Nguồn: Chi cục thống kê huyện Văn Lãng và Cao Lộc 2009]
51
Bảng 3.2: Thống kê tỉ lệ các dân tộc chủ yếu theo xã
Đơn vị tính: số người/phần trăm
Dân tộc Tổng Nùng Tày Kinh Hoa
Xã ( 100%)
4817 1669 1012 2113 9 Tân Thanh
(100%) ( 34.64 %) (21.00 %) (43.86%) (0.2%)
6865 5334 884 612 10 Tân Mỹ
(100%) (77.69%) (87.35%) (8.91%) (0.1%)
1929 1358 555 16 0 Hồng Thái
(100%) (70.39%) (28.77%) (0.8%) (0%)
2855 1881 926 46 0 Hoàng Văn
(100%) (65.88%) (32.43%) (1.2%) (0%) Thụ
1395 932 454 8 0 Nhạc Kỳ
(100%) (66.81%) (32.54%) (0.57%) (0%)
7312 3133 1375 2485 314 Đồng Đăng
(100%) (42.84%) (18.80%) (33.98%) (0.43%)
2856 1785 1040 29 1 Bảo Lâm
(100%) 62.5% 36.41% 1,01% 0.03%
2847 1263 1359 218 2 Hồng Phong
(100%) 44.36% 47.73% 7.65% 0.07%
4524 3640 801 71 8 Thụy Hùng
(100%) 80.45% 18.82 0.2% 0.17%
2493 1541 763 187 2 Phú Xá
(100%) 61.81% 30.6% 7.5% 0.08%
2053 1446 568 37 Bình Trung
(100%) 70.43% 27.66% 1,8%
987 847 134 5 Song Giáp
[Nguồn: Chi cục thống kê huyện Văn Lãng và Cao Lộc 2009]
100% 85.81% 15.57% 0.5%
52
Từ hai bảng thống kê trên, có thể dễ dàng nhận thấy tộc người có số dân đông nhất
là người Nùng, chiếm 60.7 %, tiếp theo là tộc người Tày chiếm 24.1% tổng số dân. Như
vậy, tộc người Tày, Nùng chiếm 84,8% dân cư tại các xã của khu vực nghiên cứu. Xuất
phát từ lý do trên, trong chương này dẫn liệu chủ yếu chúng tôi sử dụng là văn hóa của
tộc người Tày và Nùng.
3.1. Làng bản, nhà cửa
Làng bản
Văn Uyên là nơi cư trú đông đảo, lâu đời của các tộc người Tày, Nùng - là
những dân tộc sống trong vùng rẻo thấp. Sự hình thành của làng bản chịu sự tác động,
chi phối của đặc điểm kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Các làng bản được hình
thành trên cơ sở tụ cư của nhiều gia đình, nhiều dòng họ.
Làng bản của người Tày, Nùng thường dựa lưng vào sườn núi, hoặc xây dựng
trên những đồi thấp cạnh sông, suối hay các thung lũng, có khi ở giữa cánh đồng... chỗ
tiện nhất là nơi gần nguồn nước, gần ruộng, gần các rừng cây cao ráo, khi mưa xuống
nước có thể chảy xuống ruộng đem theo phù sa, mùn làm cho đất thêm màu mỡ.
Bản được hình thành trên cơ sở nhiều yếu tố khác nhau nên mỗi bản đều có
đặc điểm riêng, không có bản nào hoàn toàn giống bản nào. Bản nhỏ có từ 10-15 nóc
nhà, bản lớn có từ 50-80 nóc nhà. Mỗi bản đều có địa vực cư trú riêng với thành phần
dân cư, đất canh tác, đất rừng, ao, suối, hồ... thuộc quyền quản lý và sử dụng của từng
bản. Ranh giới giữa các bản thường được xác định theo đường phân thủy, eo núi,
dòng chảy con suối hoặc đường sá. Địa vực của các bản được các thành viên trong
bản tôn trọng, bảo vệ.
Tên của bản được ra đời cùng với sự hình thành các bản. Tên bản thường
không văn hoa, không gắn với ý nghĩa mong muốn cầu thịnh vượng, giàu có mà
thường gắn liền với địa vực, đặc điểm riêng của từng bản. Tên bản thường đặt theo
tên đồng ruộng, bãi nương, khúc sông, đồi núi, thung lũng...
Luật tục của làng bản.
Đối với châu Văn Uyên, cư dân Tày, Nùng từ xa xưa khi chưa có những qui
định của pháp luật nhà nước thì đã có những luật tục và quy ước rõ ràng. Những luật
tục đó, ngày nay đã trở thành những quy ước ăn sâu vào gốc rễ của mỗi bản làng.
53
Ruộng nương đã gieo cấy, trong thời vụ không ai được thả trâu, bò, ngựa rông.
Nếu thả rông ăn hại của người khác thì phải đền.
Cây trồng, hoa màu, cây ăn quả không được lấy trộm của nhau, nếu cần phải
xin không sẽ là ăn cắp.
Không được chặt phá cây rừng cấm. Không được chặt khu rừng đầu nguồn
nước làm nương rẫy.
Khi săn bắn thấy đúng muông thú mới được bắn.
Ai nhặt được của rơi thì mang về nộp người gữi miếu thổ địa, của ai người đó
sẽ đến nhận.
Người già thì phải chết, khi còn sống người đó đã đổi công giúp đỡ nhiều
người, khi họ ngã xuống phải nhớ ơn họ, phải giúp đỡ gia đình làm ma chay cho họ
chu đáo. Hôm đưa ma cả làng phải nghỉ việc đồng áng, đi rừng để biểu thị lòng nhớ
nhung họ.
Khi có giã thú hay trộm cướp vào làng, nghe tiếng tù và hay hồi mõ thì người
dân trong cả làng phải góp mặt để góp sức xua đuổi.
Những quy định này được thảo luận, thông qua các dịp cúng thổ địa tại miếu
thờ thổ địa. Người ta cho rằng những lời quy định này sẽ được thần linh chứng kiến,
ai làm sai có nghĩa là làm phật ý thần linh.
Có thể nói, cùng với việc đưa bản làng vào hệ thống quản lý cần sự chú ý đến
vai trò của các luật tục, những quy ước của làng bản, giải quyết mối quan hệ giữa luật
tục và pháp luật của nhà nước. Cho đến nay đời sống xã hội của các dân tộc thiểu số
nói chung và các dân tộc Tày, Nùng ở vùng châu Văn Uyên nói riêng vẫn vận hành
và chịu sự chi phối của luật tục. Các luật tục đó, các quy ước của làng bản và đang
góp phần làm ổn định quan hệ, duy trì kỷ cương nếp sống của cộng đồng dân cư và
được các thành viên tự giác thực hiện từ bao đời nay. Rõ ràng, việc tôn trọng phong
tục tập quán các dân tộc, việc nghiên cứu và sử dụng một cách có hiệu quả, nhất là
trong điều kiện dân trí còn thấp và nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế, sẽ
có tác dụng tích cực đối với việc quản lý cộng đồng dân cư hiện nay.
Bản truyền thống của người Tày, Nùng là một cộng đồng về mặt xã hội. Quan
hệ cộng đồng là đặc trưng nổi bật trong các thôn bản. Người dân gắn bó cuộc sống
54
kinh tế, đời sống văn hóa và các quan hệ xã hội chủ yếu trên địa vực bản. Họ có
những quyền lợi chung về kinh tế, đùm bọc nhau chống giặc giã, trộm cướp, có đời
sống xã hội, tinh thần và văn hóa chung thông qua các hoạt động lễ hội, các hoạt
động tôn giáo và phong tục tập quán.
Nhà cửa
Nhà không chỉ là nơi che mưa, che nắng, tránh giá rét khi mùa đông về, mà
nhà ở còn phải phù hợp với cảnh quan núi rừng, tạo nên sự hài hòa giữa ngôi nhà với
khung cảnh thiên nhiên. Do nằm trong hệ sinh thái của khu vực nhiệt đới, độ ẩm cao,
mưa nhiều, côn trùng, thú dữ lắm, do vậy, ngôi nhà truyền thống của đồng bào Tày,
Nùng ở châu Văn Uyên là nhà sàn. Nhà sàn là một thành tố cấu thành đặc trưng văn
hóa của các tộc người trong khu vực lịch sử - dân tộc học Đông Nam Á. Nó vừa là sự
phản ánh, vừa là hệ quả của sự tác động của cảnh quan địa lý tự nhiên và sự diễn tiến
lịch sử của các loại hình kinh tế - văn hóa của cư dân trong khu vực. Nhà của người
Tày, Nùng có ba loại nhà sàn, nhà đất và nửa đất nhưng vào nửa đầu thế kỷ XIX, nhà
sàn là phổ biến và đây là loại nhà truyền thống của đồng bào. Theo Bế Huỳnh: “đầu
thế kỷ XX, người Tày, Nùng phần nhiều dùng gỗ làm nhà sàn, lợp tranh hay lợp ngói,
tùy người giàu hay nghèo. Về tường vách thì tùy tiện trá vách hay che phên. Tầng
trên người ở, tầng dưới nuôi súc vật và để công cụ” [26, tr.10].
Nhìn bên ngoài, điểm dễ nhận thấy đối với ngôi nhà sàn của người Tày, Nùng
ở Văn Uyên là nhà có kết cấu hai mái hay bốn mái. Kết cấu kỹ thuật của nhà sàn bốn
mái phức tạp hơn so với nhà sàn hai mái. Điều này thể hiện rõ ở kết cấu vì đầu hồi,
các vì kèo, cột trong bộ sườn của ngôi nhà. Bộ sườn của ngôi nhà sàn của người Tày,
Nùng có nhiều kiểu vì kèo khác nhau: kiểu vì bốn hàng cột, năm hàng cột, bảy hàng
cột. Kiểu vì bốn hàng cột gồm có bốn cột chính và một trụ ngắn ở chính giữa chống
vào nóc. Xen giữa hai cột lại có một hay hai trụ ngắn hình “quả bí” gọi là “ghé qua”.
Một số nơi còn có thêm 2 trụ ngắn (gọi là chống kèo) đứng trên xà con, nối hai cột
cái với cột con. Kiểu vì sáu hàng cột về cơ bản không khác gì vì bốn hàng cột, chỉ
thêm hai cột con ở ngoài cùng. Với kiểu vì này, có thể có hoặc không có chống kèo.
Bởi vậy, các hình trụ “quả bí” xen giữa các cột chính có thể bỏ bớt. Kiểu vì bảy hàng
cột của người Tày- Nùng ở Văn Uyên có thể coi là hoàn thiện và mang đậm tính cổ
55
truyền. Ở đây thường thấy một hoặc hai trụ ngắn hình “quả bí” đứng trên xà ngang,
có tác dụng chống kèo. Nhìn chung, sự khác biệt về chi tiết, bộ phận ở các kiểu vì kèo
có thể là do tập quán giữa các vùng hoặc nằm trong sự biến đổi và phát triển của ngôi
nhà sàn qua mỗi thờì kỳ. Vì thế ngôi nhà sàn nào giữ được nhiều đặc điểm cổ truyền
hơn thì số cột trong các bộ vì kèo cũng được giữ nguyên hơn, hoặc căn cứ cột tròn và
chôn chứ không phải vuông và kè đá như ở các vùng khác.
Một việc không thể thiếu được khi làm nhà là chọn đất, xem hướng nhà. Theo
quan niệm của đồng bào ở Văn Uyên, việc này ảnh hưởng đến công việc làm ăn, sinh
sống sau này của gia đình. Hướng nhà thường căn cứ vào địa hình, địa thế và tuổi của
thân chủ. Nếu nhà định làm nhưng lại không hợp tuổi thì đồng bào thường hoãn lại,
chờ tới khi hợp tuổi mới làm. Bên cạnh hướng nhà, thế đất có ảnh hưởng rất quan
trọng đến cuộc sống sau này, thậm chí đến cả huyết thống và giới tính gia đình. Câu
nói “nam bên phải, nữ bên trái”(po chài pạng xoa, me nhình pạng dại), có nghĩa là
nếu thế đất bên phải cao hơn bên trái thì nam giới trong gia đình sẽ mạnh hơn nữ giới
về tất cả mọi mặt và ngược lại.
Đối với ngôi nhà sàn ở Văn Uyên, cửa ra vào có thể mở ở trước hay đầu hồi.
Cửa chính là nơi thường đặt cầu thang lên xuống, cửa phụ là nơi vào bếp hay ra sàn.
Cầu thang lên xuống được làm bằng tre, gỗ, thậm trí làm bằng đá. Bậc cầu thang lên
xuống bao giờ cũng là số lẻ: 3, 5, hay 9 tùy theo ngôi nhà sàn thấp hay cao. Quan
niệm của đồng bào ở đây cầu thang bậc chẵn của thế giới âm, thế giới của ma quỷ và
người chết. Câu nói “vùng dú, củ pây” (lẻ ở, chẵn đi) có ý nghĩa như vậy.
Người Tày, Nùng bố trí, sử dụng ngôi nhà sàn khá hợp lý. Người ta tận dụng tất
cả các khoảng không gian để sử dụng như: gầm sàn để dành chứa dụng cụ sản xuất, nhốt
gia súc, trên mặt sàn người ta làm gác để đựng lương thực, đồ gia đình… Tuy nhiên, việc
nhốt gia súc dưới sàn không hợp vệ sinh cần phải khắc phục tập quán này.
Bố cục mặt sàn tùy theo tập quán có thể chia làm hai phần theo chiều ngang hay
chiều dọc tính từ cửa chính. Bàn thờ cũng là nơi có thể căn cứ vào đó để thấy rõ hơn bố
cục ngôi nhà, qua đó có thể thấy sự khác biệt giữa các vùng. Bàn thờ đặt ở gian giữa.
Nhà của người Tày, Nùng ở Văn Uyên được chia làm hai nửa. Nửa ngoài (phía trước
bàn thờ), gần cửa chính là nơi diễn ra mọi hoạt động của nam giới, đồng thời cũng là
56
nơi tiếp khách, nửa sau bàn thờ (sau bàn thờ) là gian bếp, hai gian bên cạnh là buồng
ngủ, tùy mỗi gia đình mà phòng ngủ nam bên trái hay phải.
Nhìn chung, dù bố cục mặt sàn theo chiều dọc hay ngang thì buồng nữ giới
vẫn được bố trí theo thứ tự: Buồng chị dâu ở gian đầu, rồi tiếp theo là gian của vợ
chồng con thứ… Con gái chưa chồng sẽ ở những buồng cuối cùng. Giữa buồng được
ngăn cách vách hay phên nứa.
Như vậy, nhà sàn của người Tày, Nùng mang bản sắc văn hóa tộc người đậm
nét, là kết quả của quá trình lao động và sáng tạo, là nơi chứa đựng tình cảm, mối
quan hệ ứng xử thường nhật. Ngôi nhà sàn mang dáng dấp vững chãi, thoáng đãng,
thể hiện kiến trúc truyền thống và là niềm tự hào của các dân tộc Tày, Nùng.
3.2. Gia đình và dòng họ
Trong mối quan hệ dòng họ, tổ chức dòng họ của người Tày chặt chẽ hơn tổ
chức người Nùng. Mỗi dòng họ có người trưởng họ đứng đầu, có uy tín và được họ
hàng, xã hội tôn trọng. Trưởng họ là người chỉ đạo về các nghi lễ và thờ cúng tổ tiên
trong dòng họ. Trong dòng họ của các cư dân Tày, Nùng ở Văn Uyên, tinh thần gia
tộc rất được coi trọng, họ thường giúp đỡ nhau trong sinh hoạt cũng như trong sản
xuất, bênh vực nhau trong quan hệ xã hội. Khi gia đình nào có việc đại sự như cưới
xin, tang ma, làm nhà... thì các gia đình trong dòng họ tập hợp nhau lại dưới sự chỉ
đạo của trưởng họ, mỗi người một việc cùng lo toan gánh vác công việc một cách chu
đáo. Theo tục lệ, những gia đình trong cúng một họ ít va chạm, xích mích và cãi vã,
đánh lộn nhau. Vì thế trong bản, nhất là những bản nhỏ, các gia đình đều có mối quan
hệ thân thích với nhau và sống hòa thuận.
Nguyên tắc hôn nhân của các thành viên trong dòng họ là thực hiện nguyên tắc
ngoại hôn (tức là những người cùng họ không được kết hôn với nhau trong phạm vi 7
đời). Danh xưng trong quan hệ huyết tộc và thân tộc có sự phân biệt rõ ràng. Điểm
đáng chú ý là: đối với người Tày và người Kinh thì phân anh, em theo thứ tự các
ngôi, ngược lại, ở tộc người Nùng thì ai sinh trước sẽ làm anh, làm chị.
Xét về mặt họ hàng thân thích thì các tộc người nơi đây đều có hai quan hệ họ
hàng: họ bố và họ mẹ. Họ bố là họ nội được coi là thân cận hơn cả. Từ xưa, chế độ
phụ quyền đã giữ vai trò thống trị trong xã hội của người Tày, Nùng nên ông cậu
57
không có quyền lực gì đối với các cháu ngoại. Ngược lại, các bác, các chú có vai trò
quan trọng, gần gũi cháu nội, có trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ khi cha mẹ các cháu
qua đời. Thậm chí, cháu nội có quyền thừa kế tài sản của bác, chú. Các cháu có nghĩa
vụ chăm sóc các bác, chú khi về già hay thờ cúng khi bác, chú qua đời trong trường
hợp bác, chú không có con nối dõi tông đường.
Nửa đầu thế kỷ XIX, trong gia đình người Tày, Nùng ở Văn Uyên là một gia
đình lớn gồm 3 - 4 thế hệ cùng chung sống.
Gia đình của tộc người Tày, Nùng là gia đình phụ quyền. Chủ gia đình là
người chồng, điều khiển mọi công việc sản xuất, sinh hoạt đến cúng bái, quan hệ với
bên ngoài, tham gia giải quyết các vấn đề chung của thôn bản, có trách nghiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ, dựng vợ gả chồng cho con cái … Tuy vậy, người Tày, Nùng không
chuyên quyền độc đoán, gia trưởng mà những việc lớn chồng đều tham khảo ý kiến
của vợ, người vợ có vai trò quan trọng hỗ trợ chồng trong sản xuất, quản lý gia đình,
tài sản, nuôi dạy con cái học hành.
Tính chất phụ quyền trọng gia đình người Tày, Nùng thể hiện rất rõ trong quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình như vợ phải nghe chồng, giữa con dâu và các
bậc trên có sự cách biệt nghiêm ngặt như không được ngồi ngang hàng, ăn cùng
mâm, ngồi cùng chiếu với bố, anh chồng. Đó là biểu hiện của lễ giáo phong kiến. Gia
đình người Tày, Nùng con cái lấy theo họ bố nên họ coi trọng con trai hơn: con trai
vừa là người thờ tự tổ tiên, lưu truyền huyết thống, là người có trác nghiệm chăm sóc
nuôi dưỡng bố mẹ lúc về già. Tài sản của bố mẹ thường chia đều cho các con trai. Bố
mẹ giữ lại 1 phần cho con trai nào mà bố mẹ ở cùng cho đến già, khi khuất núi có
trách nghiệm lo tang ma, tất nhiên mọi người con đều có trách nghiệm chung. Con
gái không được hưởng gia sản, trừ khi bố mẹ cho làm của hồi môn như con trâu hoặc
1 thửa ruộng (nếu lấy chồng ở gần ) để làm ăn. Nhà nào không có con trai thì cưới lấy
rể đời (khươi nạo tế, khươi thú phí) cho con gái. Con rể ở rể có khi không phải đổi
họ, nhưng các con theo họ mẹ và được hưởng gia sản, thờ phụng tổ tiên nhà mẹ.
Người Tày rất coi trọng việc giáo dục dạy dỗ con cái về đạo đức, nề nếp gia
phong, đi đứng ở trong nhà và ra ngoài xã hội. Bố mẹ không những lo cho con khi
còn nhỏ mà còn khi lớn, trưởng thành họ lo xây dựng gia đình, cơ ngơi cho các con.
58
Có như vậy khi khuất núi họ mới yên tâm. Người Tày ở Văn Uyên có nhiều họ như:
Nông, Ma, Vi, Nguyễn, Hoàng, Lý, Lâm, Bế, Hà, Đàm,… và đa số chỉ nhớ theo kiểu
cha truyền con nối, không ghi chép gia phả.
3.3. Ăn uống
Văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam còn được thể hiện
khá đậm nét qua các bữa ăn truyền thống, nó phản ánh diện mạo và đặc điểm kinh tế
của mỗi dân tộc. Xuất phát từ hoạt động kinh tế nông nghiệp trồng trọt đóng vai trò
chủ đạo và cây lúa là cây trồng chính, nên trong bữa ăn của người Tày, Nùng thì thức
ăn chính vẫn là cơm. Trong đó gạo tẻ là nguồn nguyên liệu chính. Lúa nếp không
được trồng nhiều nên chỉ được dùng trong các dịp lễ, tết, khi có khách xa đến hoặc
khi trong nhà có phụ nữ sinh con. Ngô, khoai, sắn là món ăn phụ nhưng quan trọng.
Thường ngày đồng bào ăn hai bữa chính vào buổi trưa (kin ngài) và buổi tối
(kin piầu), ngoài ra, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình mà có các bữa
ăn phụ khác, trước khi đi làm chiều đồng bào có bữa ăn phụ gọi là kin lèng. Buổi
sáng, trước khi đi làm kin dân. Trong mỗi bữa ăn phổ biến nhất là rau, cá, thịt, chế
biến bằng cách luộc, xào, nấu canh, nướng, dưa (lên men)… cơm đựng trong nồi,
thức ăn bày ra mâm gỗ. Khi ăn các thành viên trong gia đình ngồi quanh mâm, trong
khi đó bà mẹ hay chị gái ngồi cạnh nồi cơm để xới cơm cho cả nhà. Trong gia đình
nếu còn bố chồng và anh trai chồng, con dâu và em dâu thường dọn ăn riêng. Khi gia
đình có khách thì ông chủ ngồi ăn cơm với khách những người khác trong gia đình ăn
mâm riêng ở gần bếp. Hiện nay nhiều gia đình đã bình đẳng, không còn tục con dâu
hay em dâu ngồi riêng trong lúc ăn cơm.
Vào các dịp lễ tết, bữa ăn của đồng bào có phần thịnh soạn hơn. Ngoài những
món ăn hàng ngày có thêm giò, nem, chả, lạp xường…Ngoài ra, họ thường làm
những món ăn khác nhau, mang hương vị riêng. Ví như bánh chưng thường được làm
vào dịp Tết Nguyên đán hoặc khi có đám cưới. Vào 30 tháng Giêng còn gọi là lễ tết
“Đắp nọi” đồng bào gói bánh lá ngải. Ngày tết Thanh minh (3/3 Âm lịch) đồng bào
làm các loại xôi nhiều màu khác nhau từ các lá cây có màu sắc: cẩm đỏ, cẩm tím, cẩm
đen, cẩm vàng… Đặc biệt là món xôi trứng kiến (khẩu nua xáy mật) được làm từ
trứng kiến trộn với gạo nếp rồi đồ lên là món xôi không thể thiếu được trong tết
59
Thanh minh. Trong tết Đoan Ngọ (5/5 Âm lịch) hay còn gọi là ngày giết sâu bọ, đồng
bào thường làm bánh dày từ gạo nếp, dùng làm lễ cúng. Bánh tro (pẻng dứt, pẻng
đấng) được làm vào dịp hè, khi ăn chấm với mật mía, bánh được làm từ nước trong
của tro bếp ngâm với gạo nếp, khoảng vài giờ đồng hồ họ vớt ra và gói bánh, bánh
được làm bằng lá cây chít luộc nhừ, đó là loại bánh đặc trưng của đồng bào. Ngoài ra
vào những ngày rằm như Rằm tháng 7 đồng bào còn làm bánh dợm, khẩu si… Đặc
biệt là món cơm lam (khẩu lam) là món ăn rất đặc trưng của đồng bào.
Đồng bào có các cách chế biến độc đáo, ví dụ như thức ăn từ thịt lơn. Đây là
món ăn được đồng bào sử dụng phổ biến. Từ thịt lợn người ta chế biến ra các loại
món khác nhau. Thịt xào hành, tỏi, thịt “xá xíu” thịt “khâu nhục” lạp xường, thịt
nướng chân giò hầm…Mỡ lợn được đồng bào thái nhỏ và rán thành mỡ nước thường
xuyên dự trữ để xào hoặc rán dùng để chế biến các món ăn hàng ngày. Ngoài ra đồng
bào còn ăn các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng… các loại thú săn bắt được như
hươu, nai, cầy hương, nhím, sóc… họ chế biến thành nhiều món hoặc sấy khô làm
thức ăn dự trữ. Các loài cá khi đánh bắt được họ đem rán hoặc kho, hay nấu với măng
chua. Đó là món ăn phổ biến của cư dân. Nguồn thực phẩm xanh, củ, quả, hoa, lá …
là nguồn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình ở Văn Uyên.
Nhà nào cũng có mảnh vườn để trồng rau, các loại đỗ. Trên nương họ trồng các loại
bầu bí, khoai sọ…Người dân nơi đây thường ít ăn khoai luộc, các loại rau đỗ họ
thường xuyên xào với mỡ hoặc đồ (cách thủy). Ngoài ra đồng bào còn còn thích ăn
các món ăn nướng trên than hồng. Đặc biệt trong các ngày lễ hội hay ngày tết cơm
mới, mừng lúa chín, người ta có dịp thể hiện các món ăn thật là phong phú và hấp
dẫn, có đủ các màu sắc và nhiều món khác… Bởi đồng bào quan niệm, trên mâm cỗ
càng nhiều món thì vụ mùa đó được bội thu.
Thức uống quen thuộc là chè, rượu, thường ngày họ thường uống nước lã, nước
sôi để nguội, nước vối hoặc nước chè. Rượu được cất từ gạo tẻ, gạo nếp, ngô là đồ uống
phổ biến không chỉ trong ngày lễ, tết mà cả trong ngày thường.
Nhìn chung, bữa ăn thường ngày của người Tày, Nùng đơn giản, không có
nhiều món cầu kỳ. Đồng bào biết dùng những sản vật của tự nhiên để chế biến ra các
60
loại món ăn, đồ uống phù hợp với mùa, hợp với điều kiện sinh hoạt của gia đình và
cộng đồng.
3.4. Trang phục
Trang phục là một trong những biểu hiện của nền văn hóa. Trong một chừng
mực nhất định, nó phản ánh điều kiện sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và những tác động của môi trường sinh sống, sự
trao đổi và tiếp thu các yếu tố văn hóa trong khu vực.
Các dân tộc Tày, Nùng ở khu vực miền núi phía Bắc nói chung, châu Văn
Uyên nói riêng đều ưa thích màu chàm. Màu chàm được nhuộm từ cây chàm, pha
thêm củ nâu cùng vài thứ lá cây khác. Nhuộm chàm đã có nguồn gốc từ xa xưa bởi bàn
tay người phụ nữ nơi đây làm ra. Tất cả quần áo, chăn, màn, khăn, thắt lưng, tạp dề của
người Tày, Nùng đều nhuộm chàm. Trang phục của đồng bào dân tộc ở Văn Uyên rất
phong phú đa dạng, thể hiện sở thích và trình độ thẩm mỹ cao. Trang phục còn là bản sắc
riêng của từng dân tộc, là cơ sở để phân biệt các nhóm dân tộc với nhau.
- Y phục nữ giới: Gồm khăn, áo, quần, váy, tạp dề, đệm vải, xà cạp.
+ Áo: Của phụ nữ Tày, Nùng về cơ bản là giống nhau, cũng là loại áo năm
thân và bốn thân, áo dài, quần, thắt lưng, khăn đội đầu….Tuy nhiên bên cạnh sự
giống nhau đó vẫn có sự khác biệt trong màu sắc, một số chi tiết hoa văn trang trí…
Thường thì màu sắc trang trí trong trang phục của người Nùng là màu chàm, áo ngắn
hơn so với áo phụ nữ Tày…Vì vậy, người Tày được các dân tộc khác gọi là cần slử lỳ
(người áo dài), trong khi người Nùng gọi là cần slửa tẩn (người áo ngắn). Phụ nữ
Nùng mặc cả áo ngắn năm thân và bốn thân, trong đó loại áo ngắn bốn thân được
may tương tự như áo bốn thân của phụ nữ Tày: cổ áo tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo
rộng, cài hàng cúc ở nẹp áo. Có một đặc điểm chung giữa hai loại áo là được may
rộng ở phần thân và tay áo, dài quá mông, ít hay không có trang trí hoa văn.
Tuy có những nét chung như vậy nhưng trong mỗi nhóm người Nùng, có cách
trang trí, một số chi tiết cắt may và đặc biệt là tập quán sử dụng các loại áo ngắn, dài
đều có sự khác nhau nhất định. Tay áo của phụ nữ Nùng cháo ở Văn Uyên được tạo
thành bởi sự chắp nối các mảnh vải cùng màu loại khác nhau. Trong cùng một loại áo
năm thân, áo của phụ nữ Nùng cháo, Nùng Inh có độ dài lớn hơn áo của phụ nữ Nùng
61
Phàn Sình và Nùng Hua Lài. Trong cuộc sống hằng, người Nùng Inh thường mặc áo
dài, trong khi người Nùng Cháo, Nùng Phàn Sình lại thích mặc áo ngắn.
+ Quần: Của phụ nữ thường cắt theo chân què, cạp lá tọa, thuần vải chàm đen,
ống rộng, cách này có ưu điểm là phần trên của quần không trông thấy rộng, nhưng
độ mở của đũng lại rất rộng, tạo thế thoải mái cho mọi người sử dụng khi đi lại và leo
dốc. Cạp quần được khâu bằng loại vải mỏng hơn, khi mặc thì gấp cạp lại rồi dung
dây thắt lưng buộng ngang hông để giữ cho chặt.
+ Khăn: Do cách chải đầu và để tóc khác nhau mà cách đội khăn của người
Tày, Nùng ở Văn Uyên cũng khác nhau. Phụ nữ Nùng Inh vấn tóc đội khăn chàm ra
ngoài giống như cách đội của phụ nữ Kinh. Phụ nữ Nùng Phàn Sình khi đội thường
gấp khăn lại rồi quấn một vòng từ trước trán ra sau gáy… Nếu như phụ nữ Nùng Inh,
Nùng Cháo đội khăn vuông nhuộm chàm đen, thì phụ nữ Nùng Phàn Sình lại đội
khăn nền chàm có điểm những đốm trắng hoặc có sọc trắng … Cách đội khăn và
trang trí khăn khác nhau như vậy là một trong những tiêu chí cơ bản để các dân tộc
khác nhận ra các nhóm Nùng, cũng như bản thân các nhóm Nùng tự nhận biết với
nhau. Phụ nữ Nùng thường đeo tạp dề và quấn xà cạp. Tạp dề là miếng vải thường
đồng màu với quần áo, chiều dài phủ từ thắt lưng đến quá đầu gối, chiều rộng che kín
ống quần mặc bên trong. Người Nùng ở Văn Uyên có tập quán dùng xà cạp quấn từ
mắt cá chân lên tới đầu gối. Xà cạp làm từ vải bông để trắng hay nhuộm chàm để
chống lạnh, chống muỗi, vắt khi đi làm rừng hay làm ruộng, nương, và giữ cho chân
phụ nữ thon dài, trắng trẻo. Khi đi chơi chợ, thăm hỏi bà con ở xa, phụ nữ Nùng còn
đi giày vải, che ô. Đây là những đồ dùng mà người thợ thủ công có thể làm được hay
mua ở các buổi chợ phiên. Người Nùng đi đôi gốc tre già chẻ làm đôi, sửa sang sao
cho thành hình dáng vừa với đôi chân rồi đục ba lỗ để xỏ dây làm quai guốc.
Phụ nữ Nùng còn dùng nhiều loại trang sức hơn phụ nữ Tày. Đó là các loại
vòng cổ, vòng tay, trâm cài tóc, dây chuyền, bịt răng vàng, các loại vòng ta, hoa tai…
Đồ trang sức bằng bạc này không chỉ mang lại vẻ đẹp bên ngoài cho người phụ nữ
mà còn có tác dụng bảo vệ sức khỏe. Bởi theo kinh nghiệm dân gian, nếu đeo vòng
bạc thì có thể kỵ cảm gió, cảm nắng.
62
- Y phục nam giới: Về cơ bản trang phục nam giới Nùng giống như trang phục
nam giới Tày và Thái. Sự khác biệt có chăng chỉ ở một vài chi tiết nhỏ như nam giới
Nùng áo cánh bốn thân, xẻ ngực và quần may hơi khít vào người, ngắn hơn so với
quần áo của đàn ông Tày. Áo của nam giới Nùng có nhiều hàng cúc vải đính thành
từng đôi, trong khi áo người Tày ít cúc hơn…Quần nam giới cũng được cắt , khâu
thêm kiểu lá tọa, chân què. Khi lao động thường đeo thêm tấm đệm vai “vì cùn” để
mang vác đỡ hại áo.
- Y phục ngày cưới: Nhìn chung cư dân nơi đây không có kiểu y phục dùng
trong ngày cưới riêng. Chỉ khác là trong ngày cưới cô dâu chú rể ăn mặc bộ quần áo
mới cắt may bằng loại vải tốt hơn. Chiếc áo cưới của phụ nữ được trang trí bằng
miếng vải láng đen ghép chéo thêm vào thân trước bên phải cổ và tay áo. Ngày cưới
cô dâu không đeo thắt lưng, còn chú rể cầm ô đen, đi giày vải, áo chú rể được trang
trí thêm hai quả chỉ màu hai bên xẻ nách.
Quần áo nhuộm chàm, đồ trang sức phong phú đã tạo nên bộ trang phục hài
hòa với cảnh sắc tự nhiên của núi rừng, điều đó càng chứng tỏ yếu tố truyền thống
đặc trưng tộc người trong trang phục của người Tày, Nùng Văn Uyên có sức sống
mãnh liệt.
3.5. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian và là bộ
phận cốt lõi của văn hóa dân tộc. Nó được hình thành cùng với sự hình thành và phát
triển của lịch sử tộc người, có sức sống dai dẳng và mãnh liệt.
Đồng bào tin vào thuyết “vạn vật hữu linh”, cho rằng mọi hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội đều có linh hồn. Các vị thần có phúc thần và hung thần. Phúc thần
là những vị thần tốt, luôn phù hộ, che chở cho con người như ma tổ tiên, ma mụ, ma
bếp... hung thần là những loại ma xấu, thường gây hại cho con người như ma
thuồng luồng, ma rừng, ma lang thang… Tín ngưỡng của đồng bào Tày, Nùng xuất
phát từ quan niệm đa thần, do con người nhỏ bé, bất lực trước những thần bí và sức
mạnh của tự nhiên. Những thần bí và sức mạnh chưa lý giải được đều bị xem là ma.
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng tôn giáo của cư
dân châu Văn Uyên là thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa in
63
sâu vào tiềm thức của mỗi người. Họ coi đó là khuôn thước tâm linh có sức mạnh tập
hợp và răn dạy con cái tránh khỏi những cám dỗ tầm thường trong xã hội, biết trọng
tình nghĩa yêu thương đùm bọc nhau. Chính vì vậy việc thờ cúng tổ tiên được duy trì
qua nhiều thế hệ và trở thành cái cốt lõi của thuần phong mỹ tục của cư dân trong
vùng. Trong mỗi gia đình Tày, Nùng ở Văn Uyên đều có bàn thờ tổ tiên đặt giữa nhà
- nơi tôn nghiêm nhất. Tùy từng xã, từng họ mà bài trí bàn thờ khác nhau. Người chủ
gia đình mới được quyền hương khói vào những dịp tết, ngày rằm, mùng một… để
cầu xin sự bình an, may mắn cho gia đình. Đồng bào Tày, Nùng theo tộc hệ 9 đời
nhưng thờ cúng 3 đời. Từ đời thứ 4 trở đi, tổ tiên biến thành thần giữ gia súc mà đồng
bào thờ ngoài trời. Trong dịp Tết Nguyên đán, gia đình nào có bố mẹ mới chết thì lập
một bài vị riêng. Hàng ngày cúng cơm nước đến khi mãn tang.
- Thờ tổ sư: Những gia đình nào có người làm tào, mo, then, pụt đều có niềm tin
là có tổ sư cúng bái, có nhiều thiên binh, thiên tướng để diệt trừ ma quỷ bảo vệ gia đình.
- Tục thờ cúng của cộng đồng.
Mỗi xóm bản đều có hoạt động thờ cúng riêng là thờ cúng thần bản, thổ địa.
Mỗi xóm làng có một vị thần riêng để che chở, phù hộ là thần thổ địa. Dù làng bản đó
chỉ có hai, ba gia đình, người ta cũng lập miếu thờ Thổ thần. Miếu là một ngôi nhà
nhỏ, trong đó có một bát hương to để trên bàn thờ. Dân bản độ vài ba chục gia đình tụ
tập trong miếu để cúng thổ địa, cầu mùa màng, cũng như cầu cho gia súc phát
triển...Thờ cúng vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm và vào những dịp trong bản có
việc gì hệ trọng để thông báo cho thổ thần biết.
Đình là nơi thờ Thành Hoàng. Những người chết vào giờ thiêng có thể biến
thành Thổ địa, Thành hoàng. Hai vị thần này có nơi còn được coi là những vị thần
nông có nhiệm vụ bảo vệ mùa màng và gia súc. Thành hoàng thường là những người
có công giúp dân khai phá ruộng nương, xây dựng làng bản. Thông thường vài bản có
một Đình.
Hầu như làng nào ở Văn Uyên cũng có đình, đền, chùa nhỏ. Trong mỗi đình,
đền, chùa thờ các vị thần khác nhau và do tín ngưỡng của người dân trong các làng,
bản đó. Các vị thần đó được dân làng lập đền thờ bởi có công khai phá, bảo vệ dân
64
làng. Qua tìm hiểu thực tế của tác giả một số đình, đền, chùa ở Châu Văn Uyên như:
Đền Mẫu Đồng Đăng, Chùa Bụt Bay, Đền Quan Ải...
Đền Mẫu Đồng Đăng ( Đồng Đăng linh tự): Đền Mẫu nằm ở trung tâm thị trấn
Đồng Đăng thuộc huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, cách cửa khẩu Hữu Nghị 4km, cách
trung tâm thành phố Lạng sơn 15km về phía Bắc. Đây là ngôi đền lớn có giá trị đặc
biệt về kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo và lịch sử, là nơi nhân dân các dân tộc trong tỉnh,
du khách trong nước và quốc tế đến để thờ cúng, sinh hoạt văn hóa tâm linh, nguyện
cầu sự che chở của các đấng linh thiêng cho cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc,
qua đó gắn kết tinh thần cộng đồng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đền Mẫu Đồng Đăng thờ Phật và Bán Mẫu thiên nhiên. Đây là một trong
những nơi thờ tự nổi tiếng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Trước đây, đền
nằm trong mái đá sát dưới chân núi, cách đền ngày nay khoảng 300m về phía Đông
Bắc. Hiện nay vẫn còn một bia Ma Nhai kích thước 53cm x 80cm, cạnh đó có một
nghiên mực đá được chạm khắc vào năm Kỷ Tỵ triều Gia Long 1809. Đồng Đăng
linh tự gồm có 5 gian thờ: Phía trong cùng là Tam bảo, nơi thờ Phật Chuẩn Đề và
Phật bà Quan Âm gian kế tiếp phía ngoài là Tam tòa Thánh mẫu, nơi thờ Mẫu đệ nhất
Thượng thiên, Mẫu đệ nhị Thượng ngàn và Mẫu đệ tam Thoải phủ; tiếp theo là gian
thờ Sơn trang gồm Chúa Thượng ngàn ở giữa, hai bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và
Chầu Chín; gian giữa chính điện ngoài cùng thờ Chúa Liễu, hai bên là Chầu Bơ và
Chầu Lục; gian bên trái thờ Chầu đệ tứ Khâm sai, ngoài ra còn thờ quan Trần Triều
Đức Đại Vương, các thánh cô, thánh cậu….
Đền Mẫu Đồng Đăng luôn được nhân dân góp công, góp của tôn tạo. Năm
1990, nhân dân địa phương đã tu tạo lại đền theo kiểu dáng kiến trúc cũ, để làm nơi
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng. Hàng năm, vào ngày mùng 10 tháng giêng, tại đền Mẫu
lại diễn ra lễ hội đầu xuân của các dân tộc xứ Lạng. Lễ hội Đồng Đăng trước đây
được gọi là hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng). Trong lễ hội có các trò chơi như múa
sư tử, võ dân tộc, thi đấu thể dục thể thao. Đền Mẫu là ngôi đền lớn có giá trị đặc biệt
về kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo và lịch sử, là nơi nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tới
đây nguyện cầu sự che chở của các đấng linh thiêng cho cuộc sống ngày càng ấm no,
65
hạnh phúc, qua đó gắn kết tinh thần cộng đồng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc.
Nằm cách Đền Mẫu khoảng cách không xa là Đền Quan Ải, đền được xây dựng
dựa lưng vào núi, ngay trên nền khu đất được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các đoàn
xứ bộ nước ta trước khi đi xứ sang Trung Quốc. Ngày nay đền được trùng tu xây dựng
bề thế với cổng đền cao 4,5m, hai bên là hai câu đối “Tiền nhân nghĩa cả lưu muôn
thủa; Hậu thế tôn vinh tạc vĩnh hằng”. Đền chính được xây dựng với hai tầng tháp, thờ
sơn thần, thổ thần và các quan xứ nổi tiếng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Bên
cạnh đền chính là một gian nhà cấp bốn dùng cho khách hành hương sắp lễ, nghỉ ngơi
và cũng là nơi ở cho những người trông coi, hương khói cho ngôi đền.
Một ngôi chùa không thể không nhắc đến đó là chùa Tà Lài nằm trên địa
phận thôn Tà Lài xã Tân Mỹ huyện Văn Lãng ngày nay. Ngôi chùa này còn được biết
đến với nhiều tên gọi khác như: chùa Thanh Hương hay theo cách gọi của người dân
địa phương là Chùa Bụt Bay. Chùa được người dân xứ Lạng và du khách thập
phương ví như chùa Hương thứ hai bởi sự linh thiêng, cầu được ước thấy; được xây
nên bởi ông Nguyễn Đình Lộc, dòng họ Nguyễn Đình từ thế kỷ XVIII.
Lịch sử hình thành ngôi chùa này là một câu chuyện rất dài và ly kỳ. Năm
1593, vua Lê Thế Tông cử Dũng quận công Nguyễn Công Thắng lên xứ Lạng tiếp
kiến khâm sai đại thần nhà Minh, dẹp tan quân Mạc tại đây. Lúc đó, tại vùng Uyên
Cốt (nay là xã Tân Mỹ) có tên Lý Hộ Hầu chiếm cứ lập ấp, tác oai tác quái, nhiều
tướng lính đánh suốt ba năm nhưng không hạ được. Nguyễn Công Thắng dùng mưu
kế giết được Lý Hộ Hầu nên được Vua ban thưởng cho cai quản vùng đất này, lấy
toàn bộ vàng bạc, châu báu, gia tài của Lý Hộ Hầu lập cơ nghiệp tại đây, không cho
về quê cũ. Con trai trưởng của ông là Nguyễn Đình Lộc. Năm 22 tuổi, ông đã cho
dựng tấm bia tại ngã ba Đồng Đăng Hữu Nghị (Thủy môn Đình). Năm 1670, nhà
Thanh đánh bại nhà Minh lên ngôi Vua, thực hiện các chính sách giúp mở mang, xây
dựng nhiều căn cứ như chợ Kỳ Lừa, Đền Tả Phủ, chùa Diên Khánh,… Tại quê nhà,
ông cũng cho xây dựng ngôi chùa Thanh Hương (chùa Bụt Bay ngày nay). Theo các
cụ cao niên kể lại, có một đêm mưa to sấm chớp, gió giật đùng đùng. Sáng hôm sau
trời quang mây tạnh, người dân nghe thấy tiếng chuông lạ vọng ra từ núi, cho người
66
đi xem thì thấy hang trong núi xuất hiện một quả chuông. Khi sang hang Bó Chi thì
thấy mất chuông, ngổn ngang tranh tre trước mặt nên các cụ cho lập một ngôi chùa tại
đây. Vì thế lấy tên là chùa Bụt Bay [TLĐD]. Chính vì lịch sử hình thành lâu đời và
rất linh thiêng nên dù khá xa trung tâm nhưng chùa Bụt Bay vẫn là địa điểm không
thể không đến khi dân chúng hành hương trong mỗi dịp Tết đến Xuân về.
Lễ hội chùa Tà Lài tổ chức vào ngày 8 tháng Giêng hàng năm và đông nhất là
từ khoảng 9 giờ sáng kéo dài đến khoảng 16 giờ chiều gồm các hoạt động rước lễ,
cúng lễ tại chùa và các trò chơi dân gian được tổ chức thu hút đông đảo cư dân địa
phương tham dự.
Một di tích lịch sử mang giá trị lớn không chỉ về văn hóa, lịch sử mà còn mang
ý nghĩ chính trị quan trọng đó là di tích nhà bia Thủy Môn Đình. Hiện di tích nằm ở
vị trí đầu đường vào thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Nếu tính
theo chiều từ thành phố Lạng Sơn lên thì di tích nằm ở bên phía tay phải, cách mặt
đường 1A chưa đầy 50m. Bia Thủy Môn Đình là một tấm bia cổ, có niên hiệu Cảnh
Trị thứ 18 (1670) ghi công của Hữu Đô Đốc Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc, có
công tích, sự nghiệp gắn liền với vùng đất, quê hương xứ Lạng.
Bia được tìm thấy khá dày dặn, có bệ, cao hơn đầu người. Khi được phát hiện,
bia nằm kín trong bụi cây. Mặt lưng bia có ba chữ Thủy Môn Đình. Thủy Môn Đình
do quan Đô Tổng binh, Bắc quân Đô đốc phủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm
Cảnh Trị bách niên dưới thời Lê Trịnh. Mở đầu bia khắc “Ta nhờ tổ tông tích thiện,
nên từ lúc còn trẻ đã được theo vua giết giặc lập công, được phong chức giữ nơi bờ
cõi, cửa ngõ của sự bang giao, nơi hai nước có sứ giả đi lại và văn thư giao dịch. Nhờ
gặp thời Hoàng Lê thịnh trị, vạn đẹp của Chúa, thu phục được “bát man”, được giao
trọng trách trông giữ miền quan ải, trách nhiệm nặng nề, vì thế lập bia để con cháu
trông gương mà bắt chước, báo đền ơn vua, lộc nước” [TLĐD].
Ở giữa bia có một bài Minh “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn
vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”. Có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu
của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Vách đá giữa trời đất, quận sâu
nơi biên giới, ấp thiêng xứ Đồng Đăng.
67
Có thể nói, sự xuất hiện của đình, đền, chùa ở châu Văn Uyên đã cho thấy mối
liên hệ của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với thiên thần và nhân thần, với sự tồn
tại bền vững của làng quê Việt Nam dù ở đồng bằng hay núi cao.
- Ảnh hưởng của tam giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo).
Trước khi có sự xuất hiện của người Kinh, tam giáo (Đạo Phật, Đạo Nho, Đạo
Giáo) có lẽ ít ảnh hưởng đến cư dân châu Văn Uyên. Bắt đầu từ thế kỷ XV, cùng với
chính sách cai trị của nhà Minh và sự có mặt của người Kinh, Nho Giáo, Phật Giáo,
Đạo Giáo bắt đầu ảnh hưởng đến cư dân vùng này. Đặc biệt, từ thế kỷ XVII, lực
lượng người Kinh từ dưới xuôi lên với nhiều thành phần khác nhau, trong đó có
nhiều quan lại, thầy cúng, thầy đồ… họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp chịu
ảnh hưởng của Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo.
Trong hệ thống thần của Tam giáo có: Ngọc Hoàng đứng đầu, dưới có Thủy
Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn (Tức có Thái Thượng Lão
Quân), Phật Bà Quan Âm, Khổng Tử, dưới nữa là các Thiên Tôn, Ngọc Thanh -
Thượng Thanh - Thái Thanh, sau đó là một số nhân vật lịch sử, nhân vật huyền thoại
và nhiều thần địa phương, thần của nhiều tộc người. Tam giáo cho rằng, thế giới có 3
tầng trời, đất, nước, ứng với thiên đường do Ngọc Hoàng đứng đầu, địa ngục do
Diêm Vương đứng đầu, thủy phủ do Long Vương đứng đầu. Trong các lễ cúng trừ tà
ma, các thầy cúng người Tày, Nùng thường cầu viện đến 8 vị nữ thần và 7 vị tiên mà
họ cho rằng có phép màu nhiệm, nhiều thiên binh, thiên tướng.
Cư dân châu Văn Uyên cho rằng, thầy cúng là quan lại của Ngọc Hoàng, sống
ở trần gian nhưng làm quan ở bên kia thế giới, tức là giữ việc cúng bái, là mối dây
liên hệ giữa người trần và thế giới thần tiên, truyền đạt ý nguyện của con người đến
các vị thần. Những người làm nghề cúng bái ở Văn Uyên có nhiều cấp bậc khác nhau
là: Tào, Mo, Then.
Tào là thầy cúng cao nhất, thường biết nhiều chữ Hán để đọc sách cúng, kinh
kệ, sớ tấu khi hành lễ. Họ thường được các gia đình mời chủ trì đám ma, xem bói, coi
tướng số, chữa bệnh, xem đất, chọn ngày cưới xin… Thầy Tào có nhiệm vụ cấp ấn
tín, cấp sắc cho các Mo, Then trước khi hành nghề.
68
Mo còn gọi là pháp sư làm nhiệm vụ bói toán, cúng chữa bệnh, kỳ yên giải
hạn… và cũng tham gia cúng tế trong đám tang với thầy Tào.
Then (pựt) có nhiệm vụ chính là cúng bái chữa bệnh. Các gia đình còn mời
Then về làm lễ khi muốn cầu yên giải hạn vào đầu năm mới, chúc thọ, lên nhà mới,
làm đầy tháng cho trẻ nhỏ, lễ chuộc hồn người chết lên cõi tiên…Khi hành lễ, then
thường hát xướng lời dân ca nghi lễ theo kiểu ứng khẩu thành thơ và sử dụng đàn
tính. Đây chính là Then cung đình nhà Mạc đã dân gian hóa.
Tào, Mo, Then, là trung gian giữa người và thần, giúp con người truyền đạt ý
muốn của mình tới thế giới thần linh. Vì thế, họ được cư dân bản địa rất kính trọng.
Những yếu tố duy nhất của Đạo Nho, Đạo Giáo và Phật Giáo được khai thác một
cách triệt để, kết hợp các yếu tố thần linh, ma thuật của tôn giáo nguyên thủy, tôn
giáo sơ khai. Dù Tam giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tâm linh của cư dân
châu Văn Uyên nhưng không bao giờ chiếm vị trí số một. Tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên vẫn luôn chiếm vị trí quan trọng nhất.
3.6. Tục lệ
Cưới xin
Cưới xin là việc rất quan trọng trong một đời người. Vấn đề cưới vợ, gả chồng
cho con là việc hệ trọng, cả gia đình cùng quan tâm. Người Tày, Nùng xưa lấy vợ, gả
chồng thường là cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, việc cưới xin mang tính gả bán.
Do điều kiện môi trường cư trú từng vùng, từng nhóm dân cư khác nhau nên
cũng dẫn đến sự khác nhau đôi chút về nghi lễ, vật phẩm, số lượng lễ vật trong đám
cưới. Song nhìn chung về cơ bản tục lệ ở Văn Uyên vẫn tuân thủ và nghi thức chính
sau: Dạm hỏi (phẩy sam lùa), Lễ trầu cau, Lễ kê khai (pheo kê khai), Đám cưới (kin
lẩu), Lễ lại mặt.
Cư dân thường tổ chức đám cưới từ tháng 10 đến tháng 2 âm lịch, đó là lúc
nông nhàn, thóc gạo đầy đủ. Người ta tiến hành đám cưới trong hai ngày: vào
chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà trai. Với nghi lễ đón
dâu và nghi lễ nhập gia. Sau ngày cưới được ba hôm nhà trai mới làm lễ “lại mặt”.
Lễ vật của lễ lại mặt của hai vợ chồng đem theo một đôi gà, hai chai rượu và đến
làm cơm ở nhà gái.
69
Qua đây, ta thấy tục cưới xin của người Tày, Nùng ở châu Văn Uyên khá phức
tạp. Việc cưới xin mang tính mua - bán rõ ràng. Việc chuẩn bị cho một đám cưới rất
tốn kém, vì vậy đồng bào có tập quán gửi lợn, gạo trước (gọi là “pang”). Gia đình
nào có con trai từ 14 tuổi trở lên đều chuẩn bị thịt lợn để cưới vợ cho con bằng hình
thức đi gửi lợn - nghĩa là, gia đình nuôi được lợn to 60kg trở lên thì cho gia đình anh
em họ hàng hoặc hàng xóm khi gia đình họ có việc, đến khi nhà mình có việc họ lại
trả. Tục gửi lợn này rất đáng quý vì đây là một hình thức tương trợ lẫn nhau lâu dài
trong cuộc sống. Có gia đình gửi 3 -5 con lợn để cưới vợ cho con. Nhà trai chuẩn bị
đám cưới rất tốn kém, lợn từ 3 - 5 con, đem sang nhà gái từ 100 kg trở lên, 4 gánh
gạo vừa nếp, vừa tẻ, rượu trắng, gà thiến, tiền mặt... Tiền để nhà gái sắm chăn, màn,
mâm đồng, chậu thau, quần áo... Do tục thách cưới nặng nề, có nhiều gia đình nghèo,
sau khi cưới vợ cho con trai, phải trả nợ hàng chục năm mới hết.
Có thể nói, hôn nhân là một trong những nghi lễ quan trọng trong chu kỳ đời
người. Trong xã hội đồng bào Tày, Nùng nói chung và cư dân Tày, Nùng châu Văn
Uyên nói riêng thì hôn nhân chính là sự thừa nhận của cộng đồng, bản làng đối với
việc kết hôn của 2 đôi nam nữ. Ngày nay, cho dù việc đăng ký kết hôn (sự thừa nhận
của pháp luật), nhưng muốn để được cộng đồng thừa nhận thì bắt buộc phải trải qua
các nghi thức cưới xin tục lệ truyền thống. Trước đây, việc kết hôn của người Tày,
Nùng không phải là kết quả của tình yêu đôi lứa, mà là do sự sắp đặt của cha mẹ.
Hiện nay, trong xã hội người Tày, Nùng có sự thay đổi nhiều về nhận thức và
quan niệm sống. Vai trò của người phụ nữ Tày, Nùng đã có một vị trí nhất định trong
gia đình và trong xã hội, thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu, tự do yêu đương và
hôn nhân được xây dựng trên cơ sở của tình yêu đôi lứa. Không bị ràng buộc khắt khe
của các tục lệ xưa nữa. Các thủ tục, nghi lễ và các đồ sính lễ trong cưới xin đã giảm
đi nhiều, không còn phức tạp, rườm rà như trước. Nhưng vẫn bảo lưu những nét văn
hóa mang tính truyền thống tốt đẹp của đồng bào.
Ma chay
Người Tày, Nùng coi việc tang là một trong những việc lớn của đời người.
Việc tang mang ý nghĩa “nghĩa tử là nghĩa tận” rất sâu sắc. Những tập quán trong
70
tang lễ của người Tày, Nùng rất phức tạp, quy trình tang lễ cầu kỳ, tốn kém, nhưng từ
lâu đời được mọi thế hệ tôn trọng và thực hiện chặt chẽ theo sách thọ mai gia lễ.
Đồng bào Tày, Nùng cho rằng sau khi cha mẹ mất, đạo làm con phải lo việc
ma chay chu đáo. Đó là hình thức báo hiếu quan trọng nhất đối với cha mẹ. Từ đó
sinh ra những nghi lễ ma chay hết sức phức tạp và tốn kém. Tùy theo từng địa
phương, mỗi thầy mo có các nghi thức tiến hành khác nhau. Ở Văn Uyên thông
thường có các bước sau:
+ Lễ tắm rửa cho người chết: Khi người cha, mẹ qua đời con cháu túc trực bên
cạnh, báo cho họ hàng biết, đồng thời tắm rửa, mặc quần áo cho người chết. Theo tục
lệ, nam mặc 7, nữ mặc 9. Người ta lấy giấy trắng để che mặt cho người chết, bỏ vào
miệng người chết vài đồng hào và một tý gang cho người chết. Người chết để giữa
nhà được căng màn ba góc, có nơi lấy màn che bàn thờ tổ tiên để tránh uế tạp.
+ Lễ khâm liệm: Tổ chức cho người chết có hai hình thức đại liệm và tiểu liệm.
Trong hình thức đại liệm đối với nam, lấy 7 bức vải quấn thi thể, thắt thành 7
nút. Đối với nữ, dùng 9 bức vải quấn thi thể, thắt thành 9 nút. Hình thức tiểu liệm đơn
giản, có bao nhiêu vải thì quấn bấy nhiêu. Những con cháu thân thuộc nhất thường
mang đến mỗi người một bức vải khâm liệm.
+ Lễ đại siêu: Những nhà có của, trước khi nhập quan, thường làm lễ đại siêu
đưa hồn người chết ra khỏi Diêm Vương để lên thiên đường. Người chết được người
nhà vực dậy cho ngồi tên một chiếc ghế tựa, đội nón, hai chân đi giày đứng trên một
tấm vải trắng, hình dung chiếc cầu để tào lần lượt đưa hồn người chết qua thập điện
Diêm Vương để lên thiên đàng.
+ Lễ nhập quan: Thầy tào cho phép thu hồn vía người chết vào áo quan, áo quan
dù đóng kín hay trát keo cũng phải lót tro đốt từ những bó lúa cho người chết nằm, trước
khi đậy nắp quan tài, nhét quần áo người chết xung quanh.
- Lễ phát tang: Con cháu anh em đến chịu tang đeo, chít khăn trắng, các con
mặc quần áo tang màu trắng, thắt lưng bằng bẹ chuối và chống gậy, con gái, con dâu
tóc xõa đến ngang vai.
+ Lễ tế: Bữa ăn tối, ăn trưa tế vào thời gian các bữa ăn trong ngày (sáng, trưa,
chiều) do thầy tào phụ trách.
71
+ Lễ thắp đèn: Thầy tào mặc áo lễ cho nổi nhạc tang, múa chào trước bàn thờ
thánh tướng của mình bên linh cữu, lúc này nhà tang đã được chụp lên linh cữu,
quanh thềm nhà tang đặt 7 bát dầu mỡ đối với nam, 9 bát đối với nữ (bát dầu được
thay thế bằng nến). Con cháu họ hàng theo thầy tào, đi vòng quanh linh cữu, thầy tào
ngâm hát bằng tiếng quan thoại, cũng có khi là tiếng Tày, giọng điệu rầu rĩ kể công
ơn của người đã khuất, mỗi người cầm một que lửa lần lượt đốt sáng các bát dầu mỡ.
+ Lễ “xiên đàn phá ngục”: Là một tuần ăn chay cho người chết ra khỏi địa
ngục. Đồng bào cho rằng linh hồn người chết thường hay bị cầm tù ở địa ngục, nhất
là vì từ lúc sinh con các bà mẹ thường hay xuống suối giặt nên thường làm ô nhiễm
thủy phủ. Cho nên phải làm lễ phá ngục để đưa linh hồn người chết ra khỏi ngục.
+ Lễ mùng san: Tức bố thí thức ăn cho tất cả những linh hồn người chết không
có người thờ cúng. Đồng bào cho rằng càng bố thí nhiều càng làm nhẹ bớt tội đi để có
thể lên thiên đàng.
+ Lễ “mại xe”: Là lễ trao nhà tang cho người chết trước khi đưa ma.
+ Lễ đưa ma: Trước khi đưa áo quan ra cửa, thầy tào làm phép thu thập đầy
đủ hồn vía người chết để sau này khỏi quấy rầy con cháu.
+ Lễ hạ huyệt: Trước khi hạ quan tài xuống huyệt thầy tào thả một con gà
trống xuống trước để “an thần sơn” rồi để con gà nhảy lên khỏi huyệt, con cháu ngồi
xung quanh, gà nhảy về phía nào thì phía ấy được phúc lành. Người ta hạ huyệt lấp
đất, con cháu thay quần áo tang, làm cỗ bàn cúng gia tiên.
+ Lễ mở cửa mồ “khay tu mả”: Sau 3 hôm, thầy tào cùng con cháu đến mở
cửa mồ báo cho sơn thần biết thu nhận linh hồn người chết nhập hộ.
+ Lễ chuộc hồn: Sau khi an táng xong con cháu phải làm lễ chuộc hồn cho cha
mẹ, thông thường làm 3 lần: sau 40 ngày, một năm và ba năm. Lễ chuộc hồn cuối
cùng đồng nghĩa với mãn tang.
Nhìn chung đồng bào ở Văn Uyên rất coi trọng các nghi lễ trong việc tổ chức
đám hiếu, các nghi thức diễn ra cầu kỳ, phức tạp, thông thường dưới sự phụ trách của
thầy tào. Ở nửa đầu thế kỷ XIX, một đám hiếu thường kéo dài vài ngày, gây tốn kém
cho gia chủ, không đảm bảo vệ sinh…Ngày nay các nghi lễ của đám hiếu vẫn được duy
trì song đơn giản hơn và không kéo dài nữa, mặc dù ở một số vùng vẫn còn tình trạng
đám ma kéo dài 3, 4 ngày, thậm chí 1 tuần.
72
3.7. Các ngày tết và lễ hội truyền thống
- Các ngày tết:
Mỗi tộc người đầu có lễ tết riêng của mình. Các tộc người ở Văn Uyên, mỗi
năm có hai dịp tết lớn Tết Nguyên Đán và Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy). Ngoài
hai tết đó, người Tày, Nùng có bốn tết nhỏ đó là rằm tháng riêng (tết đắp nọi), thường
tân (tết cơm mới), Đoan ngọ và Thanh Minh, riêng người Nùng có them bốn lễ nhỏ
khác là tết Thiên Trung (mùng 6 tháng 6), Trùng Dương (mùng 9 tháng 9), Đông chí
và Đại hàn. Trong đề tài này, tôi chỉ đề cập đến tục lệ ăn tết Nguyên Đán và tết Trung
Nguyên của các tộc người ở châu Văn Uyên.
+ Tết Nguyên Đán: Là tết chính trong năm của các dân tộc. Người Tày, Nùng
ăn tết từ mùng 1 đến mùng ba tháng Giêng. Chuẩn bị tết gia đình nào cũng mua sắm,
trang trí lại nhà cửa, lau chùi bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị các lễ vật để dâng cúng như
lợn, gà, rượu, hoa quả, làm bánh… Đồng bào Tày, Nùng thường gói bánh chưng dài,
bánh ba góc, một số nơi gói bánh vuông của người Kinh. Từ ngày mùng 4 đến ngày
15 tháng Giêng, các gia đình ăn tết “đắp nọi”. Trong thời gian này họ đi du xuân,
tham gia các hội hè. Đầu năm có nhiều hội như vào ngày mùng 9, 10 có lễ hội lớn: Lễ
hội Lồng Tồng.
+ Tết Trung Nguyên : Là tết lớn thứ hai trong năm sau tết Nguyên Đán. Nếu
như người Tày ăn hết tết vào hai ngày 14 và 15 tháng 7 Âm lịch thì người Nùng và
Dao ăn tết vào 14 tháng 7. Vào những ngày này, nhà nào cũng làm bánh gai, bánh
rợm, còn gọi là bánh đen và bánh trắng. Bánh gai và bánh rợm được làm với hai loại
nhân là nhân đường và nhân mặn. Nếu ở miền xuôi họ làm nhân đường bằng đỗ xanh
trộn đường thì ở châu Văn Uyên ta làm bằng nhân lạc giã nhỏ trộn với đường mật
mía. Sau khi chín, bánh được xâu thành từng đôi và treo lên sào. Mỗi nhà thường làm
hai hoặc ba sào tùy theo nhu cầu của gia đình nhưng lượng bánh làm thường được
dùng trong gần một tháng. Ngoài bánh, người dân còn làm bún, ăn thịt vịt, không ăn
thịt gà. Vì thế, vào khoảng tháng 4- 5 Âm lịch hàng năm, nhà nào cũng nuôi vịt đàn
để chuẩn bị ăn tết tháng 7. Theo tục lệ, vào tết tháng 7, vợ chồng con cái phải mừng
bố mẹ vợ một đôi vịt, một chai rượu, cùng với bún, bánh và hoa quả. Đặc biệt đối với
người Nùng, tết Trung Nguyên làm “lễ tương đối lớn”…Các gia đình đều dọn cỗ
73
rượu thịt, cứ tính theo nhân khẩu của mỗi người phải ăn một con vịt, tẻ con không ăn
hết thì người lớn ăn thay.
- Lễ hội truyền thống: Đối với hầu hết các tộc người, nhất là đối với nhóm dân
cư nông nghiệp, lễ hội gữi một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và xã hội. Lễ
hội chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Lễ hội cổ truyền là
một loại văn hóa của các tộc người Việt, là nhu cầu không thể thiếu được trong đời
sống tinh thần của cư dân, nhất là của nông dân trong xã hội nông nghiệp. Sau một năm
lao động trên đồng ruộng, người dân giành ra những thời gian để cúng thần linh, đồng
thời cũng để nghỉ ngơi và vui chơi với những lễ hội truyền thống của mình.
Lễ hội của cư dân rất phong phú và đa dạng, song trong khuôn khổ của đề tài
chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu lễ hội Lồng tồng. Lễ hội Lồng tồng là lễ hội nông
nghiệp, mô tả lại những nghi lễ liên quan tới chu trình, sản xuất nông nghiệp. Lễ hội
lồng tồng là lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng được tổ chức vào
tháng Giêng Âm lịch hàng năm với mong ước cầu một năm mới mưa thuận, gió hòa,
mùa màng bội thu. Đây là dịp để bà con các dân tộc nơi đây cùng nhau vui chơi, sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ... cầu cho một năm cũ qua đi mang theo những rủi ro, bất trắc
và đón một năm mới no ấm, sung túc hơn. Nơi tổ chức lễ hội tại những ruộng tốt
nhất, to nhất. Thời gian tổ chức tùy theo từng nơi, ấn định cho phù hợp với địa hình.
Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm làng sạch sẽ, chuẩn bị
đồ ăn thức uống để đón khách. Vào ngày hội xuống đồng, ngoài đồng của bản, mỗi
gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng. Mang hàm ý phô bày sự khéo léo của
người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn truyền thống như bánh chưng,
bánh dày, chè lam, bánh bỏng.... còn thể hiện ý nghĩa ẩm thực phong phú, độc đáo và
mang nhiều giá trị tinh thần truyền thống của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn. Lễ
khấn cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt được thực hiện do các thầy tào tiến
hành. Mở đầu là không khí trang nghiêm khi người chủ lễ đọc bài khấn cám ơn Thần
nông phù hộ bản làng làm ăn no đủ, cầu cho vụ tới mưa thuận gió hoà, mùa màng bội
thu hơn nữa. Thế nên hội lồng tồng còn có tên gọi khác là hội cầu mưa, hội cầu mùa.
Lễ vật không thể thiếu gà trống thiến luộc, thịt lợn quay, xôi, bánh chưng, bánh khảo,
bánh bỏng và những quả trứng vịt luộc chấm đủ màu sắc... Tiếp đến là phần hội, vui
74
nhộn, náo nức, tiếng hát then, sli quyện với tiếng đàn tính. Các trò chơi dân gian
truyền thống đặc sắc được tổ chức: múa võ, múa sư tử, tung còn, kéo co, đi cà kheo...
Đặc sắc có lẽ chính là trò chơi ném còn. Ðể chuẩn bị cho hội tung còn, ở giữa đám ruộng
lớn được chọn làm địa điểm lễ hội, người ta dựng một cây mai hoặc tre cao từ 20 - 30m
làm cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính 50 - 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ
nhật - nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời hoặc dán một vòng tròn đồng tâm
bằng giấy mầu khác để làm tâm điểm. Tung còn đòi hỏi cả sức khỏe và sự khéo léo. Nếu
ở lễ hội nào không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan
niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn
mới thuận lợi, mưa thuận gió hòa.
Trò múa rối Tày: Không biết múa rối Tày xuất hiện ở châu Văn Uyên từ khi
nào, song có thế thấy đây là hình thức khá phổ biến của các dân tộc ở đồng bằng. Từ
thủa xa xưa, múa rối nước ở đồng bằng mang những đặc trưng đặc sắc được biểu diễn
trong các ngày lễ hội của dân làng, còn ở châu Văn Uyên rối Tày có thể thấy được
hình ảnh đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nơi đây. Có một số trò như Giáo
pháo: có một người mặc áo rách rưới để giới thiệu chương trình, sau đó là một số
hình ảnh múa rối Tày thể hiện cảnh vào mùa xuân với sự chúc tụng vua quan với
mong ước quốc thái dân an, Lễ hội Lồng Tồng được các nghệ nhân thể hiện ở những
hình ảnh cày, bừa, một số hình ảnh trong xay thóc, giã gạo.
3.8. Ngôn ngữ, văn học và tri thức dân gian
- Ngôn ngữ và chữ viết.
Theo tiến trình lịch sử, lực lượng người Kinh có mặt ở châu Văn Uyên ngày
càng đông. Đặc biệt, vào cuối thế kỷ XVI, vua tôi nhà Mạc chạy lên Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, trong đó có Văn Uyên - Lạng Sơn. Dân cư ở
Văn Uyên lúc này chủ yếu là tầng lớp vua quan, binh lính người Kinh sống cộng cư
với một bộ phận cư dân Tày, Nùng địa phương. Sau đó, khi triều Lê - Trịnh giành
thắng lợi, nhiều quan lại nhà Mạc đã thay đổi họ, hòa nhập với cộng đồng địa
phương, dần Tày hóa. Tiếp theo là bộ phận binh lính Lê - Trịnh, rồi các quan chức
người Kinh được bổ nhiệm lên vào đầu triều Nguyễn, họ lấy vợ Tày, sống theo phong
75
cách người Tày và dùng song ngữ Tày - Việt. Những dòng họ được coi là Tày gốc
hầu như không còn, hoàn toàn “Kinh già hóa thổ”. Cư dân Văn Uyên chủ yếu gốc
Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa theo Lê - Trịnh lên dẹp nhà Mạc (Thế
kỷ XVII) rồi ở lại.
Khi đóng đô ở đây, nhà Mạc đã từng bước thâm nhập vào cộng đồng người
Tày ở địa phương, ra sức mở mang nho học, đào tào nhân tài địa phương nhằm củng
cố thế lực chống lại nhà Lê - Trịnh. Nhiều nhân tài Tày địa phương đã tham gia thi cử
đỗ đạt và làm quan với nhà Mạc. Xuất phát từ nhu cầu cai trị, truyền bá tri thức cho
nhân dân bản địa mà chữ Nôm Tày ra đời. Các nhà nghiên cứu cho biết, xét về quan
hệ nguồn gốc hình thành, có thể phân loại chữ Nôm Tày thành hai loại lớn là vay
mượn và tự tạo, trong đó loại vay mượn có hai trường hợp là vay mượn từ văn bản
Hán hay Hán - Việt và vay mượn từ văn bản Nôm - Việt. Sự ra đời của chữ Nôm
không chỉ xuất phát từ nhu cầu của những tri thức người bản địa mà còn đáp ứng
yêu cầu của những tri thức miền xuôi lên công tác và sinh sống. Chữ Nôm đã trở
thành chữ viết quan trọng thông qua đó, nền văn học thành văn của người Tày mới
phát triển mạnh mẽ, để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.
- Văn học dân gian: ở vùng châu Văn Uyên rất phong phú về nội dung và đa
dạng về thể loại. Thể hiện qua các làn điệu dân ca như: Then, lượn, sli, các thể loại
truyện cổ dân gian, các thành ngữ và tục ngữ… Làn điệu dân ca có sức hấp dẫn nhất
hiện nay là điệu then, sli, lượn, hát đám cưới (hát quan làng). Phải chăng ở then có
nhiều khả năng chuyển tải tâm tư, tình cảm của đồng bào? Phải chăng, trong then có
sự phối hợp của nhiều loại hình nghệ thuật: Lời ca, âm nhạc, trang trí, diễn xuất…vừa
có khả năng có thể biểu diễn ở những nơi trang nghiêm, linh thiêng, đồng thời có thể
diễn trong nhà rất dân dã. Điều quan trọng nhất là ở nội dung của then. Nội dung của
then dành phần lớn nói về sinh hoạt, đời sống của dân tộc. Trong then cũng có nội
dung mê tín, nhưng nó chỉ chiếm một phần ba.
Giá trị nghệ thuật then rất cao, hình tượng phổ biến: Lời hát được cất lên ở
chốn rừng sâu, tiếng con ve sầu kêu rả rích làm cả đồi núi ngấm nỗi buồn man mác,
cũng có khi là tiếng than thở của cô gái xinh đẹp bất hạnh. Cô gái bị ép duyên phải tự
76
tử bằng lá ngón, hồn cô biến thành con ve sầu kêu rên rỉ, sầu bi. Hồn cô lang thang
không nhà ở, không cơm cháo:
“Không biết bản, biết nhà, quê quán
Ngày đêm những than thở khổ nhiều
Bụng đói ăn sương chiều thay bữa…”[TLĐD]
Rồi tiếng sli, lượn được cất lên rất tự nhiên trong các dịp con trai, con gái gặp
nhau ở nơi hội hè, hội chợ, đám cưới… Tiếng sli vang lên trong các phiên chợ…
Người đứng ra làm sli, lượn phải là người có giọng hát trong, vang, lại vừa có tài ứng
khẩu. Đó là dịp các chàng trai cô gái khoe sắc, khoe tài qua những bộ áo dân tộc màu
chàm và qua tiếng sli, tiếng lượn giao duyên thật mượt mà, uyển chuyển và du
dương. Vào những ngày đó, khắp các ngả đường ra vào chợ, trên các đồi sim, đồi
mua cạnh đường cái đâu đâu cũng vang lên tiếng sli đan xen vào nhau, giao thoa âm
hưởng với nhau. Tình yêu mang lại cho con người ta niềm vui, tiếng sli giao duyên
chắp thêm cánh cho tâm hồn mọi người. Điệu sli, điệu lượn mượt mà, đậm đà và mộc
mạc như màu chàm trên áo, như những rặng cây trên đồi đu đưa làm duyên trước gió,
tâm hồn người hát sli bay bổng theo âm thanh đến với bạn tình, khuấy động những
trái tim đang đợi chờ. Buổi sli được kết thúc bằng việc, từng đôi nam nữ tham gia
cuộc sli đối đáp đó tìm nơi vắng vẻ ở bên vệ đường hoặc trên các sườn đồi để nói
chuyện với nhau. Câu chuyện của các đôi rất khác nhau, nhưng có cái rất chung, đó là
câu chuyện tình cảm lứa đôi. Cuộc trò chuyện đó có khi kéo dài đến tận chiều tối. Để
kết thúc câu chuyện, kết thúc buổi gặp gỡ hết sức hấp dẫn và thú vị như vậy, họ
thường trao tặng phẩm cho nhau. Tặng phẩm thường là khăn mùi xoa, khăn mặt,
vòng tai… và điều quan trọng là họ hò hẹn nhau sẽ gặp nhau vào phiên chợ khác
hoặc chợ khác.
Điệu Slượn:
“Thân em như hoa mận hoa mơ
Yêu nhau tình đôi ta thắm thiết
Lòng yêu nhau như bát nước đầy
Yêu nhau như cá chày vực nước”
77
Điệu sli:
Nam:“ Vách núi Phù Dung mọc thắm tươi
Mùi hương bay tỏa khắp mình tôi
Phù Dung thanh quý nào ai biết
Muốn chào nhưng em lỗi với người”
Nữ: “Đi chợ đôi ta đến núi này
Tiếng chim ráo riết giữa ban ngày
Phù Dung hoa nở ai chăm sóc
Muốn chào nhưng e thẹn với người”.[TLĐD]
Thơ ca đám cưới: Hát đám cưới rất phổ biến trong đám cưới của người Tày,
Nùng trước đây. Trong đám cưới diễn ra đối xứng giữa đại diện của nhà trai với đại
diện nhà gái, người ta dùng những lời văn hoa bóng bẩy, ví von… Trong khi hành lễ
nhất cử nhất động đều thể hiện bằng thơ ca, như trình bày đồ sính lễ, trình tổ, bái tổ,
mời cơm, nộp rể, nộp dâu… mừng cô dâu chú rể.
Người ta cho rằng, đám cưới mà không có lời thơ thì rượu sẽ nhạt lắm, đám
cưới dù ồn ào đến đâu, hễ tiếng hát “thơ lâu” cất lên thì mọi vật đều im phăng phắc,
tất cả mọi người đều chăm chú lắng nghe.
Trong thơ đám cưới mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc, công của bố
mẹ, anh em họ hàng được ca ngợi, và nhấn mạnh sự hòa thuận trong đạo nghĩa
vợ chồng: “Vợ chồng ăn nói thuận hòa, thuận nhau từ củi bếp nồi niêu vui với
nhau sớm chiều công việc”. Thơ đám cưới bao giờ cũng lịch thiệp, trang nhã, lời
mời cao hơn mâm cỗ:
“Câu mừng ngon hơn thức đầy
Thức ăn ngon đã đành ngon miệng
Câu mời còn ngọt lịm cả lòng
Của mời còn ngọt hơn đường
Khác nào mật pha trong mật ngọt
Rót ra mời thơm bay ngào ngạt
Chưa uống đã thấy ngọt đến lòng” [3, tr.73].
Có thể nói hát quan làng trong đám cưới của cư dân Tày, Nùng là một dạng
thức văn hóa truyền thống giàu bản sắc, giàu tính nhân văn. Trong suốt tiến trình lễ
78
cưới, người ta đối đáp và giao tiếp bằng thơ. Lời lẽ trong hát quan làng thường rất
tình tứ nhưng cũng có khi sắc sảo, mỗi ý, mỗi lời đều có vần điệu. Nội dung các bài
hát quan làng đều nhằm răn dậy đạo đức làm người mang tính giáo dục sâu sắc. Ông
quan làng phải thực hiện năng lực ứng tác, sáng tạo để có thể xuất khẩu thành thơ,
phù hợp với mọi tình huống. Hát quan làng là kho báu chứa đựng các giá trị nhân
văn, giàu bản sắc của văn hóa truyền thống của dân tộc Tày - Nùng.
Thông qua các tình huống, thơ quan làng, pả mẻ đề cao sự sáng tạo của con
người, gợi lại thuần phong mỹ tục xưa, lồng khéo nội dung dạy bảo dâu rể ăn ở phúc
đức hiền lành, chăm chỉ làm ăn.
- Tri thức dân gian: Đồng bào châu Văn Uyên rất phong phú và đa dạng về
thể loại bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như: Lĩnh vực dự đoán thời tiết liên quan
đến sản xuất, chữa bệnh bằng các bài thuốc dân gian độc đáo, bằng những lá cây, rễ
cây rừng. Đó cũng là mối liên hệ giữa con người với thiên nhiên- với động thực vật,
trong sự hòa nhập con người vào thiên nhiên để tồn tại và phát triển.
Trong lĩnh vực dự đoán thời tiết. Sống bằng nghề nông nghiệp trồng trọt. Có
thể nói một trong những yếu tố quan trọng nhất, tác động đến hiệu quả, năng xuất cây
trồng là thời tiết. Đối với thời tiết, con người hoàn toàn như bị động và phải chịu sự
chi phối của “nhà trời”. Qua hàng ngàn đời chú theo quy luật của trời đất, cư dân đã
có những kinh nghiệm tổng kết về qui luật vận động của thời tiết ảnh hưởng đến mùa
màng trong năm.
Theo kinh nghiệm, đồng bào quan tâm đến ngày Đông chí vào hạ tuần tháng
11 Âm lịch, đồng bào thường có câu:
“Tung cày xo, co tình pò tú đảy
Tung cày nhì, co tẩu tú đai”
Nghĩa là: Đông chí đến vào thượng tuần, cây trồng trên đỉnh núi cũng được thu
hoạch, ý nói là sang năm sau, mưa gió sẽ thuận hòa, còn đông chí đến vào hạ tuần, cây
trồng ở đồng bằng cũng không được thu hoạch, ý nói năm sau sẽ hạn hán to [TLĐD].
Dự đoán định về thời tiết liên quan đến sản xuất đầu xuân, theo kinh nghiệm của
đồng bào, tiếng sấm đầu xuân là dấu hiệu cho cả năm sau. Cứ mỗi độ xuân sang, nghe
tiếng sấm đồng bào lại nói với nhau câu tục ngữ:
79
“Phạ mà bươn chiêng phiêng tí ti
Phạ mà bươn nhì tì cầm cường”
Nghĩa là trời về (tiếng sấm đầu xuân) tháng riêng, khắp nơi được mùa, trời về
tháng hai, sẽ khập khiễng được mùa (nơi được mùa, nơi không). Như vậy, theo dõi
Đông chí và ngày trời về (tiếng sấm đầu xuân), đồng bào lường hết về kết quả mùa
màng năm sau. Dự báo, tính toán trước là để có hướng sản xuất cho phù hợp với thời
tiết, cũng như kế hoạch chi tiêu cho cả năm [TLĐD].
Tri thức chữa bệnh bằng cây thuốc nam. Đồng bào cũng có thể chữa khỏi một số
bệnh mà tây y không chữa được như: Bạch cầu, xơ gan,…
Đồng bào biết rất nhiều bài thuốc chữa bệnh độc đáo bằng những lá cây, rễ cây
rừng. Phải chăng sống ở miền núi, đồng bào dần nhận thức được cái triết lý biện
chứng trong một quan hệ con người với thiên nhiên, với thực vật, động vật, trong sự
hòa nhập với thiên nhiên con người biết lợi dụng quy luật của tự nhiên, biết khai thác
cái mâu thuẫn của thiên nhiên, sự trừ khử của yếu tố thiên nhiên này với yếu tố thiên
nhiên khác, để tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Ngoài ra trong xã hội của cư dân nơi đây có nhiều trò chơi dân gian như ném
còn, múa sư tử, đánh quay, đánh yến, chọi chim…
Tiểu kết
Văn hóa của một địa phương được hình thành là kết quả lao động và sáng tạo
của cư dân vùng đất đó. Vì thế, nó chịu ảnh hưởng không nhỏ từ môi trường tự nhiên,
xã hội và hoàn cảnh lịch sử. Sự biến đổi của những yếu tố trên, ít nhiều làm biến đổi
văn hóa. Điều này được chứng minh qua tình hình văn hóa châu Văn Uyên. Những biến
động về chính trị, đặc biệt là dân cư của địa phương đã tạo ra những biến đổi về đời sống
văn hóa vật chất và tinh thần phát triển văn hóa địa phương, góp phần củng cố nền kinh
tế, văn hóa của châu Văn Uyên trong vùng Lạng Sơn. Về văn hóa: Đồng bào có một đời
sống văn hóa rất phong phú, mang nhiều nét văn hóa đặc trưng của tộc người. Ngôi nhà
sàn, những điệu hát then, những bài lượn, bài sli, những tập tục trong cưới xin, ma chay...
đã phản ánh một phần cuộc sống tinh thần của người Tày, Nùng ở Văn Uyên, đồng thời
cũng góp phần vào kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc.
80
KẾT LUẬN
1. Văn Uyên là châu miền núi của tỉnh Lạng Sơn, với vị trí địa lý quan trọng,
ngày từ xa xưa đã là cửa ngõ phía Bắc giao lưu kinh tế văn hóa của nước Việt Nam
với Trung Quốc. Với vị trí thuận lợi, đất đai tương đối màu mỡ Văn Uyên xưa là nơi
quần cư sinh sống lâu đời của các tộc người, trong đó chủ yếu là cư dân các dân tộc
Nùng, Tày, Kinh, Hán. Các dân tộc Văn Uyên mặc dù có nguồn gốc lịch sử, phong
tục tập quán, đặc điểm văn hóa khác nhau nhưng lại cùng sinh sống trên mảnh đất
Văn Uyên, đã tích cự khai phá ruộng nương, xây làng, lập bản cùng nhau lao động,
sản xuất, trao đổi kinh nghiệm…từ đó tạo nên sự đa dạng về các ngành kinh tế cũng
như đa dạng trong văn hóa tộc người nơi đây.
Văn Uyên luôn là một bộ phận của tổ quốc Việt Nam thống nhất , có vị trí đặc
biệt quan trọng về an ninh quốc phòng với Ải Nam quan để lại những dấu ấn không
phai mờ trong tiến trình lịch sử dân tộc. Cư dân các dân tộc Văn Uyên có truyền
thống yêu nước, đoàn kết, dũng cảm trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Nhà bia cùng tấm bia Thủy
Môn Đình do dòng họ Nguyễn Đình dựng tại Đồng Đăng đã ghi công đức của Hữu
Đô Đốc Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc - người có công trạng, sự nghiệp gắn liền
với vùng đất, quê hương Xứ Lạng. Bài Minh được khắc trên bia “Việt Nam hầu thiệt.
Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”đã
khẳng định vị trí vai trò quan trọng của mảnh đất Văn Uyên xưa, nơi được coi là “yết
hầu” của nước Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc.
2. Thông qua tư liệu địa bạ ở hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh
21 (1840) chúng ta có thể thấy rõ điểm nổi bật là sở hữu tư nhân . Ruộng đất châu
Văn Uyên toàn bộ thuộc sở hữu tư nhân, không có ruộng đất công thuộc sự quản lý
của nhà nước. Điều này nguyên nhân chính là do nạn chấp chiếm ruộng đất thành của
tư của các quan lại, cường hào ngày càng phổ biến và vai trò của các thổ ty miền núi
(còn gọi là Quằng) vẫn còn có những ảnh hưởng rất lớn nên mặc dù các vị vua phong
kiến Nguyễn đều có những chính sách, biện pháp để quản lý ruộng đất cũng như mở
rộng diện tích ruộng đất công khó có thể thực hiện được.
Qua thống kê địa bạ, phần lớn ruộng đất là tư điền thực trưng đến thời Minh
81
Mệnh xuất hiện ruộng bỏ hoang nhưng diện tích nhỏ. Về quy mô sở hữu tư nhân
chủ yếu thuộc loại vừa và nhỏ, tập trung chủ yếu từ 1 đến 3 mẫu, không có chủ sở
hữu trên 5 mẫu. Ruộng đất nắm trong tay một số nhóm họ, là những họ thổ ty lớn
như: Hoàng, Nguyễn, Hà. Sự chênh lệnh giữa các nhóm họ rất rõ rệt, trong các
nhóm họ Hà có số chủ và diện tích lớn nhất. Qua nghiên cứu địa bạ còn cho chúng
ta tìm hiểu thêm về chất lượng ruộng đất châu Văn Uyên. Ruộng đất khá phong
phú có cả 3 loại ruộng (loại 1, loại 2, loại 3). Tuy nhiên ruộng đất loại 1, loại 2
chiếm trên 50% cũng phản ánh điều kiện thuận lợi của Văn Uyên trong phát triển
kinh tế nông nghiệp. Đây cũng là đặc điểm riêng có của Văn Uyên so với những
châu, huyện khác trong khu vực. Ruộng đất tập trung vào một số dòng họ lớn như
Hoàng, Nguyễn, Hà...
3. Cư dân Văn Uyên có một đời sống văn hóa rất phong phú, mang nhiều
nét văn hóa đặc trưng của tộc người nơi đây. Những ngôi nhà sàn, những điệu hát
then, những bài lượn, bài sli, những tập tục trong cưới xin, ma chay... đã phản ánh
một phần cuộc sống tinh thần của người Tày, Nùng… ở Văn Uyên, đồng thời cũng
góp phần vào kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc.
Các dân tộc ở Văn Uyên đều tin vào thuyết vạn vật hữu linh, nghĩa là mọi vật
đều có linh hồn. Do bất lực trước những thần bí và sức mạnh của thiên nhiên, những
hiện tượng thần bí siêu nhiên mà chưa lý giải được đều được đồng bào ở đây xem là
ma. Họ tin vào thầy cúng có khả năng bói toán, phù phép, yểm bùa để có thể trừ được
tà ma, chữa được bệnh…..từ đó dẫn đến những việc thờ cúng, bói toán, kiêng kỵ tốn
kém, thiếu cơ sở khoa học. Tục thờ cúng tổ tiên, thờ tổ sư, thổ công thổ địa của đồng
bào Văn Uyên cũng tương tự như cư dân ở các vùng miền khác. Tín ngưỡng của các
dân tộc cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng của Tam giáo như thờ Phật, thờ Quan thế âm,
thờ thần…theo đó có một số đình, đền, chùa được xây dựng.
4. Phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, nhân dân các dân tộc ở
Văn Uyên ra sức phấn đấu, hăng hái, thi đua học tập, lao động sản xuất để phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường an ninh - quốc phòng góp phần cải thiện đời sống
vật chất cho người dân, ổn định tình hình đất nước. Hiện nay, trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
82
nhân dân các dân tộc Văn lãng, Cao Lộc nói chung, cư dân ở khu vực Văn Uyên
xưa nói chung đang phấn đấu xây dựng quê hương giàu mạnh về mọi mặt, xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xứng đáng là vùng đất
phên dậu, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1950), Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế.
3. Triều Ân (1994), Ca dao Tày- Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn (1999), Địa chí Lạng Sơn.
5. Lê Bé (2001), Trang phục cổ truyền của người Nùng ở Đông Bắc Việt
Nam, Luận án tiến sĩ lịch sử Viện dân tộc học, Hà Nội
6. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày- Nùng- Thái
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Chi cục thống kê huyện Cao Lộc (2009), Niên giám thống kê huyện Cao Lộc.
8. Chi cục thống kê huyện Văn Lãng (2009), Niêm giám thống kê huyện Văn Lãng.
9. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb GD, Hà Nội.
10. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb GD, Hà Nội.
11. Nguyễn Sinh Cúc (1991), Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Việt Nam 1976- 1990, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
12. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc trên
đất nước Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa.
13. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
14. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế- xã hội các dân tộc miền núi
Phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến
(1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb khoa học, Hà Nội.
16. GS Bế Viết Đẳng, PGS Khổng Diễn, PGS Phạm Quang Hoan, PGS
Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Anh Ngọc (1992), Các dân tộc Tày- Nùng ở
Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
17. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
84
18. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
19. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Phùng Hoàng Đông (2015), Châu Thoát Lãng tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế
kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch Sử, Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên
21. Nguyễn Thị Hà (2010), Huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) nửa đầu thế kỷ XIX,
Luận văn Thạc sĩ Lịch Sử, Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
22. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3, Nxb
Giáo dục, HN.
23. Nguyễn Thanh Huế (2015), Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Thạch An (tỉnh Cao Bằng) nửa đầu thế kỉ XIX, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
24. Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo (1996), Nguồn gốc
lịch sử tộc người ở vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Đại học Thái nguyên.
25. Nguyễn Quang Huynh (2011), Thổ ty Lạng Sơn trong lịch sử, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
26. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nguyệt tập, Tư liệu thư viện tỉnh Cao Bằng.
27. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe papin (1999), Địa
danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn Đông Bác cổ, Nxb
Văn hóa thông tin- Cục lưu trữ Nhà Nước.
28. Nguyễn Phi Khanh, Nịnh Văn Độ, Hoàng Thế Hùng (2003), Văn hóa
truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang.
29. Vũ Ngọc Khánh, (2004), Lễ hội trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
Nxb Văn hóa thông tin.
30. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hóa dân
gian Tày, Sở văn hóa- Thông tin Thái Nguyên.
31. Phan Huy Lê (2005), Địa bạ cổ Hà Nội, huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận,
Nxb Hà Nội.
32. Lã Văn Lô, Đặng Ngiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc
Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
85
33. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày- Nùng, Nxb văn hóa, Hà Nội.
34. Lời Hát Then (1974), Nxb Việt Bắc.
35. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
36. Lâm Bá Nam (1999), Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ
thế kỷ XVIII- XIX, Hội sử học Việt Nam, Hà Nội.
38. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong lịch
sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Cao Thị Nhung (2016), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên
Bác tỉnh Lạng Sơn nủa đầu thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch Sử, Đại học sư
phạm, Đại học Thái Nguyên
40. Hoàng A Páo (2007), Văn Lãng đất và người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
41. Lục Văn Pảo (1991), Thành ngữ Tày- Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí tập IV, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
44. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế.
45. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế.
46. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế.
47. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
tập V, Nxb Thuận Hóa, Huế.
48. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập I, Nxb GD, HN.
49. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb GD, HN.
50. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb GD, HN.
51. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb GD, HN.
86
52. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập V, Nxb GD, HN.
53. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VI, Nxb GD, HN.
54. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục tập VII, Nxb GD, HN.
55. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VIII, Nxb GD, HN.
56. Hoàng Quyết (1974), Truyện cổ Tày- Nùng, Nxb văn hóa, Hà Nội.
57. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, tập I, Nxb
KHXH, Hà Nội.
58. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, tập II, Nxb
KHXH, Hà Nội.
59. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và
đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
60. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định
qua tư liệu địa bạ, Hà Nội.
61. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
62. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb KHXH, Hà Nội.
63. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hóa các dân tộc, Hà Nội.
64. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philip Papin (2003), Đồng Khánh
địa dư chí, tập 3, Nxb Thế giới, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Thúy (2006), Nghề thủ công truyền thống của người Nùng ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cưú khoa học cấp bộ mã số 6C9.491- TL.258, Bảo
tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
66. Lục Thị Thùy (2014), Huyện Thất Khê (Lạng Sơn) thế kỷ XIX, Luận văn
Thạc Sỹ Lịch Sử, Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
67. Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
giữa thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Trường ĐHSP I, Hà Nội.
68. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
87
69. Đàm Thị Uyên (2008), Phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc Tày
ở Cao Bằng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ mã số B 2006- TN04- 06.
70. Đàm Thị Uyên (2010), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế- xã hội các tỉnh miền núi
phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Viện Khoa học xã hội Việt Nam- Viện sử học (1990), Nông dân và nông
thôn Việt Nam thời cận đại, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
73. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1998), Đồng Khánh sắc chế ngự lãm, tài liệu
Hán Nôm tỉnh Lạng Sơn
74. Trần Quốc Vượng (1993), Trong văn hóa dân gian Cao Bằng, Nxb Thông
tin - Văn hóa Cao Bằng
75. Trương Thị Yến (chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 5, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
88
TƯ LIỆU ĐỊA BẠ
76. Dã Nham xã địa bạ Gia Long 4,TTLTQG, KH 3544
77. Dã Nham xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3545
78. Trực Tầm xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3542
79. Trực Tầm xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3543
80. Bằng Phúc xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3541
81. Kim Cúc xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3546
82. Bằng Nhung xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3547
83. Thám Xuân xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3572
84. Thám Xuân xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3572
85. Hùng Thắng xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3574
86. Hùng Thắng xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3575
87. Nhân Lý xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3576
88. Nhân Lý xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3577
89. Thạch Loan xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3578
90. Quân Lao xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3579
91. Châu Quyển xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3540
92. Châu Quyển xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3539
93. Đồng Đăng xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3548
94. Đồng Đăng xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3549
95. Thượng Hạ Lũng xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3550
96. Hoa Giáp xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3551
97. Vĩnh Rật xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3552
98. Vĩnh Rật xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3553
99. Hạ Lũng xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3555
100. Văn Giáp xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3554
89
TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ
STT
Họ và Tên
Tuổi Nghề nghiệp
Địa chỉ
101 Nguyễn Đình An
78 Cán bộ hưu trí Thôn Tà Lài, xã Tân Mỹ,huyện Văn Lãng
102 Nguyễn Thị Kìm
82
Làm ruộng
Thôn Tà Lài, xã Tân Mỹ,huyện Văn Lãng
Khu Vườn Sái, thị trấn Đồng Đăng,huyện
103 Nông Văn Tiến
70
Làm vườn
Cao Lộc
104 Đàm thị Diệu
51
Làm ruộng
Xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng
Khu Nam Quan, Thị Trấn Đồng Đăng,
105 Lục Văn Tuấn
54
Tiểu Thương
huyện Cao Lộc
106 Vương Văn An
40 Cán bộ
Chi cục thống kê huyện Văn Lãng
107 Nguyễn Văn Hải
46 Cán bộ
Phòng Văn hóa thông tin huyện Văn Lãng
108 Vi Văn Quỳnh
48 Cán bộ
Chi cục thống kê huyện Cao Lộc
109 Chu Ngọc Định
50
Làm ruộng
Xã Phú Xá, huyện Cao Lộc
110 Hoàng Thị Hà
60 Cán bộ
UBND xã Tân Thanh,huyện Văn Lãng
111 Triệu Văn Sình
Thầy Mo
Xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc
66
112 Mã Văn Đồng
Làm ruộng
Xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng
58
90
THỐNG KÊ CỤ THỂ
- Tên làng, xã: Hùng Thắng - Tổng: Nhân Lý - Ký hiệu: 3575 - Niên hiệu: Minh Mệnh 21 (1840) - Số tờ: 08 (tờ) - Vị trí:
+ Đông: giáp xã Thạch Loan, núi đất. + Tây: giáp Thám Xuân, núi đất, châu Văn Quan. + Nam: giáp xã Lục Kì, châu Văn Quan, núi đất. + Bắc: giáp xã Quân Lao - Tổng diện tích ruộng đất: - Tư điền: 8.0.9.5 + Loại 1: 1.5.7.5 + Loại 2: 2.7.7.5 + Loại 3: 3.7.9.5
- Chức sắc: Lý trưởng: Hoàng Nho Cơ - Chủ sở hữu lớn nhất: Hoàng Viết Du (1.7.0.0) - Chủ sở hữu nhỏ nhất: Hà Viết Sĩ (0.1.0.0)
THỐNG KÊ CỤ THỂ
- Tên làng, xã: Hùng Thắng - Tổng: Nhân Lý - Ký hiệu: 3574 - Niên hiệu: Gia Long 4 (1805) - Số tờ: 07 tờ - Vị trí:
+ Đông: giáp xã Thạch Loan, núi đất. + Tây: giáp Thám Xuân, núi đất, châu Văn Quan. + Nam: giáp xã Lục Kì, châu Văn Quan, núi đất. + Bắc: giáp xã Quân Lao - Tổng diện tích ruộng đất: - Tư điền: 7.0.9.5 + Loại 1: 1.5.7.5 + Loại 2: 2.7.7.5 + Loại 3: 2.7.9.5
- Chức sắc: Xã trưởng: Hoàng Bố Lâm
Thôn trưởng: Chu Quang Vượng Hoàng Hình Chí
- Chủ sở hữu lớn nhất: Chu Quang Vượng (1.7.0.0) - Chủ sở hữu nhỏ nhất: Hà Trí Thiện (0.1.0.0)
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Phụ lục 1: Một số hình ảnh về Đình, Chùa, Đền, Miếu
Ảnh 1: Chùa Tà Lài (Tân Mỹ) Ảnh 2: Chùa Tà Lài (Tân Mỹ)
Ảnh 3: Chùa Tà Lài cổ (Tân Mỹ) Ảnh 4: Đền Mẫu (Đồng Đăng)
Ảnh 5: Đền Mẫu (Đồng Đăng) Ảnh 6: Đền Cô (Đồng Đăng)
Nguồn: Ảnh tác giả chụp
Ảnh 7: Đền Quan Ải (Đồng Đăng) Ảnh 8 : Đền Quan Ải (Đồng Đăng)
Ảnh 11: Bia Thủy Môn Đình Ảnh 10: Nhà bia Thủy Môn Đình
(Khu Vườn Sái - Đồng Đăng)
Nguồn: Ảnh tác giả chụp
Phụ lục 2: Một số hình ảnh sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng
Ảnh 1: Hầu đồng tại Đền Mẫu Đồng Đăng Ảnh 2: Xin lễ tại Đền Mẫu Đồng Đăng
Ảnh 3: Đồ làm lễ của thầy mo Ảnh 4: Thầy Mo người Nùng Phàn Sình
Ảnh 5: Cầu mùa của người Nùng Ảnh 6: Cúng thổ địa của người Tày
Ảnh 8: Lễ hội Đền Mẫu Đồng Đăng
Ảnh 7: Người dân tham dự lễ hội Tà Lài (Tân Mỹ - Văn Lãng)
Nguồn: Ảnh tác giả chụp và sưu tầm
Phụ lục 3: Một số hình ảnh về đời sống sản xuất, sinh hoạt
Ảnh 1: Trang phục phụ nữ Nùng Phàn Sình (Xã Phú Xá - Cao Lộc) Ảnh 2: Trang phục người Tày (Xã Tân Mỹ - Văn Lãng)
Ảnh 4: Nhà Sàn của người Tày
Ảnh 3: Nhà Trình Tường người Nùng Phàn Sình (xã Phú Xá - Cao Lộc)
Ảnh5: Canh tác lúa nước của người Nùng Ảnh 6: Công cụ lao động của người Tày - Nùng
Ảnh 7: Ruộng Ngô (Thụy Hùng - Cao Lộc) Ảnh 8: Cánh đồng ớt (Hoàng Văn Thụ - Văn Lãng)
Nguồn: Ảnh tác giả chụp và sưu tầm