ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ HUẾ
CHÈO TÂN THỜI TRONG TIẾN TRÌNH
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC SÂN KHẤU VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Trần Ngọc Vương
Hà Nội-2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 14
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 14
7. Bố cục luận văn ........................................................................................... 15
Chương 1. SỰ RA ĐỜI CỦA CHÈO TÂN THỜI VÀ TÁC GIẢ
NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ - NGƯỜI CHỦ SOÁI CỦA CHÈO TÂN THỜI
......................................................................................................................... 16
1.1 Sự ra đời của chèo tân thời ..................................................................... 16
1.1.1 Điều kiện lịch sử xã hội của cuộc cách tân chèo tân thời ..................... 16
1.1.2 Mục đích cách tân của chèo tân thời ..... Error! Bookmark not defined.
1.2 Tác giả Nguyễn Đình Nghị - người chủ soái của chèo tân thời .... Error!
Bookmark not defined.
1.3 Xác định khái niệm ................................. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết ............................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2. NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ CÁCH TÂN KỊCH
BẢN CHÈO TÂN THỜI ............................... Error! Bookmark not defined.
2.1 Về âm nhạc trong chèo tân thời ............. Error! Bookmark not defined.
2.2 Múa trong chèo tân thời ......................... Error! Bookmark not defined.
2.3 Mỹ thuật trong chèo tân thời ................. Error! Bookmark not defined.
2.4 Sân khấu và sàn diễn trong chèo tân thờiError! Bookmark not
defined.
2.5 Diễn xuất trong chèo tân thời ................. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết ............................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 3. NHỮNG CÁCH TÂN VỀ KỊCH BẢN CHÈO TÂN THỜI VÀ
Ý NGHĨA CỦA CỦA NÓ ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN
HỌC SÂN KHẤU VIỆT NAM (CHÈO) ..... Error! Bookmark not defined.
3.1 Những cách tân của kịch bản chèo tân thờiError! Bookmark not
defined.
3.1.1 Đề tài và nội dung trong chèo tân thời .. Error! Bookmark not defined.
3.1.2 Chủ đề tư tưởng trong chèo tân thời ...... Error! Bookmark not defined.
3.1.3 Tích trò trong kịch bản chèo tân thời .... Error! Bookmark not defined.
3.1.4 Nhân vật trung tâm trong kịch bản chèo tân thờiError! Bookmark not
defined.
3.1.5 Bố cục màn, lớp và ngôn ngữ ................. Error! Bookmark not defined.
3.2 Ý nghĩa của kịch bản chèo tân thời trong tiến trình hiện đại hóa của
văn học chèo ................................................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết ............................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 20
PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chèo là một hình thức nghệ thuật sân khấu mang đậm bản sắc văn hóa của
dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng mấy trăm năm, nghệ thuật chèo không ngừng vận
động kế thừa và phát triển. Bên cạnh những đóng góp về mặt nghệ thuật biểu diễn
trên sân khấu thì chèo còn có một vai trò vô cùng lớn trong việc phân định và phát
triển của kịch bản chèo, mà chúng ta còn gọi là văn học sân khấu chèo nói riêng,
nằm trong văn học sân khấu nói chung.
Thực tế tiến trình phát triển của nền sân khấu truyền thống Việt Nam, trong
đó có kịch bản văn học từ cổ trung đại cho đến nay, lúc hưng thịnh, lúc ngấp ngoải
thì vẫn thấy ở đó luôn có sự tìm tòi, đổi mới. Sự đổi mới này nằm trong yêu cầu
chung, là duy trì, kế thừa và phát triển sân khấu truyền thống. Nhất là cho đến ngày
hôm nay, khi mà “thời của các giá trị cũ đã mất tính tuyệt đối. Các giá trị mới thì
lòe nhòe. Nó là những giá trị của buổi giao thời, phải qua gạn lọc mới trở thành
giá trị thực sự để chấn hưng dân tộc” (Nguyễn Khải - Hà Nội trong mắt tôi).
Chúng tôi nghiên cứu Chèo tân thời trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu
Việt Nam với mục đích nhằm tái hiện lại diện mạo quá trình phát triển của văn học
sân khấu chèo từ khi có sự biến đổi từ chiếu chèo (chèo sân đình) sang sân khấu
chèo văn minh, chèo cải lương mà chúng tôi tạm gọi nó là chèotân thời. Sở dĩ
chúng tôi chọn giai đoạn chèotân thời để nghiên cứu vì nhận thấy rằng đây là một
cái mốc hết sức quan trọng của tiến trình phát triển chèo. Kể từ đây, chủ nghĩa hiện
thực dần xâm nhập làm biến đổi chèo (nhất là về mặt kịch bản), trong một xã hội
thực dân nửa phong kiến. Ở đó, chèo không chịu bó mình trong “khuôn vàng thước
ngọc” mà trái lại chèo luôn hướng tới sự tìm tòi sáng tạo và làm mới mình nhằm
đáp ứng nhu cầu của công chúng ở mỗi thời kỳ khác nhau. Công bằng mà nói,
những tìm tòi sáng tạo (cách tân) ấy có điểm được và điểm chưa được, chứ không
4
phải là hoàn toàn tốt cả hoặc hoàn toàn xấu cả. Ở giai đoạn chèo tân thời, trong
một bối cảnh xã hội rối ren, phức tạp mà chèo vẫn gắng tồn tại, mà không chỉ tồn
tại, nó còn có nhiều cách tân đáng lưu ý và kịch bản chèo tân thời không nằm ngoài
vấn đề trên. Cho nên chúng tôi chọn đề tài này với hy vọng luận văn có thể nhìn
nhận đánh giá được ít nhiều về chèo tân thời mà chủ yếu là ở mặt kịch bản - một
thành tố quan trọng của vở diễn chèo.
Thông qua đề tài về Chèo tân thời trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân
khấu Việt Nam chúng tôi muốn đóng góp một tiếng nói nhỏ bé trong việc bảo tồn
và phát huy những giá trị của nghệ thuật chèo trong đời sống văn hóa đương đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu sự xuất hiện của chèo tân thời, mô tả và tái hiện lại lịch
sử phát triển từ chèo sân đình sang sân khấu chèo tân thời; các yếu tố có liên quan
đến sự cách tân chèo tân thời; những cách tân kịch bản chèo tân thời so với chèo cổ.
Nêu được ý nghĩa của bước chuyển từ chèo cổ đến những cách tân của chèo tân thời,
làm cho chèo tân thời mang tính chất của thời kỳ mới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựng lại diện mạo của chèo tân thời những năm đầu thế kỷ XX.
Xét phương diện hiện đại hóa ở kịch bản chèo giai đoạn chèo tân thời. Có
thể nói rằng, khi xét sự hiện đại hóa ở kịch bản chèo tân thời về thực chất là xét
bước chuyển (kế thừa và biến đổi) từ truyền thống với những cách tân khi so với
kịch bản chèo cổ. Chính bước chuyển này đã làm cho kịch bản chèo tân thời có
một diện mạo hết sức mới mẻ và mang tính chất thời đại mới. Vì thế, để làm sáng
tỏ vấn đề chúng tôi sẽ tiến hành phân tích và so sánh một số yếu tố cần thiết, có
5
liên quan đến cách tân kịch bản chèo tân thời như: sự xuất hiện sàn diễn - rạp hát,
âm nhạc, múa, mỹ thuật, diễn xuất... Và cái chính là phân tích được phần nào sự kế
thừa và biến đổi tạo nên sự cách tân chèo tân thời ở các mặt: đề tài, chủ đề tư
tưởng, bố cục, nhân vật, ngôn ngữ...so với kịch bản chèo cổ truyền thống. Nêu ra
được một số ý nghĩa của việc giữ gìn truyền thống và cách tân chèo tân thời, mang
tính chất mới của thời kì này.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến ngày hôm nay, vấn đề nghiên cứu về chèo không hẳn là ít đối với giới
nghiên cứu khoa học xã hội, nhất là giới nghiên cứu sân khấu dân tộc tập trung ở Viện
Sân khấu (nay là Viện Sân khấu - Điện ảnh), các Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam.... Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn học thì mảng nghiên
cứu về văn học sân khấu nói chung và văn học chèo nói riêng còn chưa dành vào đó
nhiều sự quan tâm, nhất là giai đoạn văn học sân khấu chèo ở đầu thế kỳ XX, khi mà
văn hóa - văn học của chúng ta bị ảnh hưởng trực tiếp trước sự ra đời của chữ quốc
ngữ - của hệ thống tri thức Tây học và một số loại hình văn hóa khác được du nhập
đặc biệt là sân khấu Pháp.
Có thể dẫn ra một số tư liệu chính có liên quan đến đề tài như sau:
Đầu thế kỉ XX, cùng với phong trào chèo văn minh, chèo cải lương đã xuất
hiện một số bài viết và công trình của các tác giả như: Nguyễn Học Đạo, Lê Kim
Giang, Chu Ngọc Phi, Paulus Của, Nguyễn Thúc Khiêm.... Những công trình này
chủ yếu là sưu tầm, sáng tác và giới thiệu các tác phẩm chèo. Nổi bật là công trình
Khảo cứu về hát tuồng và chèo của Nguyễn Thúc Khiêm được đăng tải trên Tạp chí
Nam Phong từ năm 1928. Công trình này bước đầu đưa ra những tìm tòi nghiên cứu
kiến giải về nguồn gốc sự hình thành của tuồng và chèo. Bên cạnh đó là sự xuất hiện
của tác giả Nguyễn Đình Nghị cùng với những cải cách của ông như: kỹ thuật biên
6
kịch, kỹ thuật đạo diễn, diễn viên... đã làm cho chèo có sự chuyển biến về mọi mặt.
Nguyễn Đình Nghị - từ một người làm hậu đài → nhắc vở → ông trùm lớn của
ngành chèo ở nửa đầu thế kỳ XX, ông để lại 60 kịch bản chèo cải lương (tân thời)
gồm cả các vở soạn lại và các vở do ông sáng tác.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công thì công việc nghiên cứu chèo nói
chung, trong đó có chèo tân thời được lưu ý nhiều hơn. Các tác giả nghiên cứu về
chèo được kể đến trong giai đoạn này là: Hoàng Ngọc Phách, Huỳnh Lý, Đỗ Bằng
Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Lộng Chương, Cao Kim Điển, Trần Huyền Trân, Trần Bảng,
Hà Văn Cầu, Hoàng Kiều, Trần Việt Ngữ, Tất Thắng, Trần Trí Trắc, Phạm Duy
Khuê, Trần Minh Phượng, Trần Đình Ngôn..... và dưới đây là một số công trình
tiêu biểu của họ:
Công trình Chèo và tuồng được xuất bản 1958 của tác giả Huỳnh Lý và
Hoàng Ngọc Phách. Hai tác giả đã có sự nhìn nhận chèo dưới góc độ là một hiện
tượng Văn học và cụ thể các ông tập trung vào ba điểm chính: Thứ nhất là sơ lược
quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật chèo. Thứ hai là tính chất và giá trị
nghệ thuật trong chèo. Thứ ba là giới thiệu bốn vở chèo cổ: Quan Âm Thị Kính,
Lưu Bình - Dương Lẽ, Tống Trân Cúc Hoa, Trương Viên. Ngoài ra tác giả còn đề
cập và đã đưa ra năm tính chất của chèo và có bàn về một số nét về văn bản, về
nghệ thuật diễn xuất như: “chèo với tính chất diễn tích, tính trào lộng, hý kịch, tính
chất phê phán hiện thực, chèo gây nhiều cảm xúc mạnh mẽ, văn chương trong chèo
có những đặc sắc của ca dao và dân ca” [54]. Tuy dung lượng viết của hai tác giả
về chèo còn chưa nhiều nhưng nó đã phần nào làm nổi bật sự phát hiện và những
giá trị văn học trong chèo.
Tú Mỡ với công trình Bước đầu viết chèoxuất bản năm 1960, tác giả đã đặt
vấn đề tìm hiểu về chèo với những nội dung chính sau: “Nguồn gốc và tính chất
7
của chèo, phần này tác giả tập chung giải quyết câu hỏi như: Chèo sinh ra từ đâu?,
ai là người đầu tiên viết chèo?, quá trình phát triển của chèo, cách soạn một vở
chèo”. Ngoài ra, cuốn sách đưa ra được bốn đặc điểm của chèo cổ là: “Trước khi
diễn có hát dạo đầu, có vai giáo đầu trước khi vào tích, chèo diễn theo lối kể
chuyện, tích chèo nào cũng có vai hề” [58]. Trong công trình đóng góp của Tú Mỡ,
thành công mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề mang tính khái quát.
Bài viết Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc đã được đăng trên tạp chí
Phê bình mới của Pháp vào tháng 3 năm 1963, và được sử dụng nhiều trên đài phát
thanh Tiếng nói Việt Nam. Ngoài ra,Giáo sư Trần Bảng còn có nhiều bài viết, bài
nghiên cứu chuyên sâu về chèo đã được đăng trên Tạp chí văn hóa - Nghệ thuật,
cuối cùng được ông tổng hợp lại thành cuốn Chèo - một hiện tượng sân khấu dân
tộc năm 1963. Năm 1999, cuốn sách lại được Viện Sân khấu tái bản với tên gọi Khái
luận về chèo. Cuốn sách bao gồm có 6 chương với các tiêu đề: “Chèo - Một hiện
tượng sân khấu dân tộc, chèo - sân khấu tự sự, chèo - sân khấu ước lệ, chèo - nghệ
thuật ngẫu hứng, chèo - phương pháp xây dựng xử lí và chuyển hóa mô hình, chèo -
vấn đề bảo tồn và phát triển” [6]. Khái luận về chèo không chỉ cung cấp cho người
đọc những kiến thức về nghệ thuật chèo - một hình thức nghệ thuật quý giá của dân
tộc mà còn nêu lên những vấn đề mang tính lí luận rất có giá trị đối với người học,
nghiên cứu và quản lí. Hiện nay cuốn Khái luận về chèo đã và đang được cán bộ
trường Sân khấu điện ảnh chọn làm giáo trình trong quá trình giảng dạy.
Tác giả Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều với công trình nghiên cứu Tìm hiểu
sân khấu chèoxuất bản năm 1964, đã chọn các cứ liệu lịch sử và chọn so sánh một
số hình thức diễn xướng dân gian của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ thì cũng đã
đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc nghệ thuật chèo: “Bắt nguồn từ những hình
thức cổ sơ có trước thời Đinh, Lê, Lý. Bao gồm những làn dân ca, điệu vũ đầy màu
sắc và sức sống (hãy còn mang dấu tích tôn giáo) và những làn hát nói kể chuyện
8
phong phú, sinh động của những đội hát rong, chèo được hình thành với hai tính
chất chủ yếu là tính tích diễn và tính ứng diễn, để trở thành một loại sân khấu độc
đáo, tuy còn thô sơ, vào khoảng thế kỉ XIV cuối đời Trần” [70, tr. 54]. Đóng góp
của tác giả trong công trình này là đã nhìn nhận về đối tượng nghiên cứu đã được
mở rộng hơn.
Công trình Qúa trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo của Hà
Văn Cầu được in thành sách năm 1964 đã trở thành một trong những công trình
nghiên cứu về chèo đươc đánh giá rất cao. Có rất nhiều ý kiến, quan điểm trong
công trình của ông đã được các học giả - giới nghiên cứu sau này có sự kế thừa và
phát huy thêm. Tuy nhiên, trong công trình này có điểm mà người ta cần lưu ý là:
mặc dù tác giả bàn về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo,
nhưng thực tế cho thấy các vở chèo được nhiều nhà nghiên cứu cũng như quần
chúng nhân dân yêu thích lại chính là những vở chèo được coi là diễn theo lối chèo
sân đình trong Tuyển tập chèo cổ của của Hà Văn Cầu [12]. Bởi vậy, có lẽ chúng
ta nên nhìn nhận lại và bàn thêm về quá trình mà tác giả cho biến đổi của nghệ
thuật chèo.
Công trình Tìm hiểu sân khấu chèo của Vũ Khắc Khoan do Lửa Thiêng Sài
Gòn xuất bản năm 1974, bao gồm 119 trang và được chia làm 4 chương. Với
phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh đồng thời dựa trên những cứ
liệu lịch sử và khảo cổ học và cùng với những tài liệu có liên quan Vũ Khắc Khoan
đã đưa ra khái niệm về kịch nghệ: “Kịch nghệ là một nghệ thuật có tính tổng hợp
nhằm mục đích trình diễn nghĩa là hiện tại hóa một câu chuyện bằng sự hiện diện
của diễn viên trước sự hiện diện của tác giả” [49, tr. 17]. Đồng thời ông cho rằng
nguồn gốc của chèo “là một nền ca vũ cổ sơ của dân tộc, thường được biểu diễn trong
những dịp tang lễ thời trước, lời ca than vãn, điệu vũ hình dung những động tác của
chèo, chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người chết sang thế giới bên kia và “Chèo
9
ở gốc của nó chỉ thị một động tác chèo thuyền” [49, tr. 76]. Vũ Khắc Khoan đã lựa
chọn cách chia sự hình thành của sân khấu chèo thành 3 thời kì khác nhau như: thời kì
phôi thai, thời kì chuyển tiếp và thời kì hình thành. Theo ông, thời kì phôi thai của
chèo kéo dài khoảng 5 thế kỉ và được tính từ thế kỉ IV trước công nguyên đến thế kỉ I
sau công nguyên. Thời kì chuyển tiếp kéo dài khoảng 10 thế kỉ và được tính từ thế kỉ I
cho đến thế kỉ X. Và cuối cùng là thời kì hình thành từ thế kỉ X - đến thế kỉ XIX. Về
đặc tính của chèo, Vũ Khắc Khoan đưa ra một số đặc tính đó là: đặc tính tự sự, đặc
tính hài hước, đặc tính giáo dục phụ nữ.
Công trình Về nghệ thuật chèo của nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ. Đây là
một công trình Nghiên cứu khoa học cấp bộ, bao gồm 770 trang, do Viện âm nhạc
xuất bản năm 1996. Nội dung bao gồm có 3 phần: “Nguồn gốc và quá trình hình
thành chuyển hóa và phát triển của chèo; Từ chiếu diễn 3 mặt ngoài bước vào sân
khấu hộp; Nắm vững nghệ thuật cổ để xây dựng chèo mới” [77]. Đây là công trình
nghiên cứu công phu của tác giả Trần Việt Ngữ. Chúng tôi đánh giá đây gần như là
cuốn biên niên sử chặng đường hình thành và biến đổi của nghệ thuật chèo, đặc
biệt là những biến động của nghệ thuật chèo sau cách mạng tháng Tám 1945.
Lượng kiến thức sâu sắc về chèo kết hợp sự trân trọng trong quá trình nghiên cứu
cùng những nhận xét thành công và nhược điểm của một số tác phẩm chèo mới
tiêu biểu, tác giả công trình Về nghệ thuật chèo đã đưa ra những kết luận có tính
khoa học cho việc phát triển nghệ thuật chèo. Tóm lại, đây là công trình khoa học
rất có giá trị cho việc tìm hiểu và nghiên cứu nghệ thuật chèo.
Công trình Kịch bản chèo từ dân gian đến bác học của Trần Đình Ngôn,
công trình này nguyên là Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Tiến sĩ Trần Đình Ngôn
được xuất bản năm 1996. Công trình Kịch bản chèo từ dân gian đến bác học
baogồm 202 trang, được chia ra làm 3 chương gồm: Chương 1: Yếu tố dân gian và
yếu tố bác học trong quá trình hình thành và phát triển của kịch bản chèo. Trong
10
chương này, tác giả Trần Đình Ngôn đã nghiên cứu yếu tố dân gian trong chèo,
dựa trên các tư liệu như: chèo đưa linh, huyết hồ phú, huyết hồ trò, từ thức, Phan
Trần, Quan Âm Thị Kính.... Và có tham khảo các tư liệu của các tác giả như Hà
Văn Cầu và Trần Bảng....để đưa ra kết luận: “Trong giai đoạn sơ khai của sân
khấu chèo nói chung và kịch bản chèo nói riêng, các nghệ sĩ dân gian đã sáng tác
theo phương thức dân gian tổng hợp từ văn học dân gian, nghệ thuật diễn xướng
dân gian, trò nhại dân gian và múa hát dân gian để tạo nên một hình thức sân
khấu dân gian Việt Nam đó là chèo. Trong cái thủa ban đầu này, sân khấu chèo
trong đó có phần cốt lõi của nó là kịch bản đã được cấu thành bởi yếu tố dân gian
và chỉ một mà thôi! Bởi vì toàn bộ các sự kiện, tình tiết, nhân vật, lời văn trong
kịch bản đều được nhận thức, đánh giá và chọn lọc theo tư duy dân gian của các
nghệ nhân xưa, và được trình bày bằng phong cách dân gian tiếp thu từ trò nhại,
múa hát và dân gian và văn học dân gian” [61, tr. 26]. Đồng thời tác giả Trần Đình
Ngôn đã phân tích sự xuất hiện yếu tố bác học trong quá trình phát của nghệ thuật
chèo. Ông cũng đề cập tới xu hướng bác học hóa kịch bản chèo và sự kết hợp cần
thiết giữa yếu tố dân gian và bác học trong kịch bản chèo những năm gần đây.
Chương 2: Sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản chèo.
Tác giả đã đi sâu vào phân tích những vấn đề như: Sự kết hợp giữa yếu tố dân gian
và yếu tố bác học trong xây dựng nhân vật, trong văn học. Tác giả chỉ ra mối quan
hệ cơ giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong những mối quan hệ trên như là
mối quan hệ tất yếu trong chèo. Nó góp phần làm cho nghệ thuật chèo thêm đặc
sắc. Chương 3: Vấn đề kết hợp yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản
chèo mới. Tác giả đi vào những tổng kết, phân tích kịch bản chèo cổ tới chèo cải
lương, kịch bản chèo giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Đặc biệt là
kịch bản chèo từ những năm cuối thế kỉ XX. Ông đã chỉ ra mối liên hệ có tính chất
kế thừa những giá trị nghệ thuật truyền thống. Đặc biệt là việc cần thiết phải có sự
kết hợp giữa hai yếu tố dân gian và bác học trong kịch bản chèo. Tác giả cho thấy
11
sự “bác học hóa dân gian” trong quá trình sáng tác hiện nay, người sáng tác hiện
nay cần phải tu dưỡng nâng cao trình độ. Tác giả kết luận: “Sự kết hợp giữa yếu tố
dân gian và yếu tố bác học là mối quan hệ hữu cơ nằm trong tổ chức kết cấu vật
chất của kịch bản chèo cho nên nếu gạt bỏ nó ra khỏi tổ chức kết cấu của một kịch
bản thì kịch bản đó không thể trở thành một kịch bản chèo thực thụ” [61, tr. 169].
Ở đây, có một công trình chúng tôi quan tâm hơn cả đó là công trình của Lê
Thanh Hiền được sưu tầm và biên soạn 2006 Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Kịch
bản chèo 1900 - 1945, Quyển sáu - tập 1, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin in
[35, 36, 37]. Công trình này đã có rất nhiều ý kiến bàn về chèo cải lương và kịch
bản chèo cải lương.
Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau của
nghệ thuật chèo như: từ nguồn gốc, quá trình hình thành, đặc điểm, khuynh hướng
phát triển....và đều ít nhiều có liên quan trực tiếp đến vấn đề mà chúng tôi quan
tâm, đó chính là chèo tân thời những năm đầu thế kỉ XX.
Tuy nhiên, cũng phải thấy việc nghiên cứu về chèo tân thời trong tiến trình
văn học sân khấu Việt Nam thì hầu như chưa được đề cập đến. Chúng tôi hy vọng
sẽ đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình đối với việc dựng lên một bức
tranh chèo văn minh và chèo cải lương (chèo tân thời) vào những năm đầu của thế
kỷ XX, để từ đó thấy được giá trị của nó trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân
khấu Việt Nam (chèo).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
12
Bảy vở chèo cổ tiêu biểu là những vở được lấy trong Tuyển tập chèo cổ do Hà
Văn Cầu tuyển chọn như:Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ,
Kim Nham, Chu Mãi Thần, Tôn Mạnh - Tôn Trọng, Từ Thức 1[30].
Kịch bản chèo 1900 - 1945, tác giả đại diện là Nguyễn Đình Nghị với 60 tác
phẩm chính của ông mà chúng tôi có phụ lục kèm thêm ở phần tham khảo. Tuy
nhiên, cũng phải thấy ngoài Nguyễn Đình Nghị, ở chèo tân thời còn có một số tác
giả khác ví dụ Nguyễn Thúc Khiêm với các kịch bản chèo như: Cái kiến kiện củ
khoai (1928), Chuột sa chĩnh gạo (1928), Hà Đông sư tử hống (1928), Nuôi bạn
thay chồng (1928), Tống Trân Cúc Hoa (1928), Trót nặng lời thề (1930), Nghĩa
bộc báo cừu (1930), Bích Câu kỳ ngộ (1933); vànhững ca khúc chèo: Giấc mộng
lầu hồng (1928), Hát làm ruộng (1928), Hát Chầu văn cải lương (1928), Bài ca
năm mới (1929), Nam nữ xướng ca (1929).... Nhưng trong điều kiện của luận văn
chúng tôi chưa đề cập tới được. Có chăng chỉ là lấy ở đó một số ví dụ để liên hệ
trong quá trình triển khai luận văn của mình. Riêng đối với tác giả Nguyễn Đình
Nghị, chúng tôi nhận thấy ông là người đóng góp với chèo tân thời ở nhiều phương
diện như: diễn viên, là đạo diễn, là chỉ đạo nghệ thuật, viết vở nhưng ở đây chúng
tôi chủ yếu chỉ bàn về những kịch bản tiêu biểu của ông mà thôi.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu chèo tân thời và ý nghĩa của nó trong
văn học sân khấu Việt Nam hiện đại hóa được thể hiện ở các mặt sau:
- Bối cảnh xã hội, mục đích cách tân, sự mở đầu, phát triển và kết thúc của
chèo tân thời 1Là người sưu tầm và chú thích các vở, GS Hà Văn Cầu cho biết: vở Quan Âm Thị Kính là kịch bản do nghệ nhân An Văn Mược và Phạm Hồng Lô thuộc chiếng chèo Ninh Bình đọc và chép vào nửa cuối năm 1956. Vở Lưu Bình Dương Lễ lời trò do cụ Trịnh Thị Lan đọc và có bổ sung của cụ Nguyễn Văn Thịnh năm 1956, có đối chiếu với kịch bản Nôm của Thư viện khoa học Trung ương (kí hiệu AB. 146, AB. 640). Vở Kim Nham do hai chiếng chèo Nam và chiếng chèo Đông, tác giả An Văn Mược, Phạm Hồng Lô, Nguyễn Mầm, Nguyễn Văn Tích cung cấp vào tháng 6 - 1956.... Tuyển tập chèo cổ, 1976, Hà Văn Cầu tuyển chọn, NXB Văn hóa, (tr. 43 - 77 - 141 ).
13
- Đề tài và nội dung phản ánh
- Tác giả
- Chủ đề tư tưởng
- Nhân vật trung tâm
- Ngôn ngữ kịch bản
- Màn, lớp
- Ý nghĩa, bài học của chèo tân thời đối với sự phát triển chèo
Về thời gian: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về giai đoạn chèo tân thời từ
(1913 - 1945).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ mục tiêu của luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp liên ngành: lịch sử, văn hóa học, nghệ thuật học được dùng
để tiếp cận, nhằm nhận thức, tìm hiểu và khai thác đối tượng.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống hay quan điểm hệ thống, phương pháp
nghiên cứu văn hóa dân gian.
- Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, thu thập và xử lý
thông tin thứ cấp.
6. Đóng góp của luận văn
Dựng lại được diện mạo và quá quá trình phát triển chèotân thời.
Nêu được sự kế thừa và biến đổi về mặt phản ánh hiện thực và hình thức biểu
hiện của kịch bản chèo tân thời so với chèo cổ theo hướng hiện đại hóa.
14
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được chia thành 3 chương chính:
Chương 1. Sự ra đời của chèo tân thời và tác giả Nguyễn Đình Nghị - người
chủ soái của chèo tân thời.
Chương 2: Những yếu tố liên quan đến sự cách tân kịch bản chèo tân thời.
Chương 3: Những cách tân về kịch bản chèo tân thời và ý nghĩa của nó đối
tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu Việt Nam (chèo).
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số bảng biểu và tranh ảnh để giới thiệu
về loại hình sân khấu chèo, đặc biệt là các tư liệu về giai đoạn chèo tân thời (chèo
văn minh, chèo cải lương).
15
Chương 1:
SỰ RA ĐỜI CỦA CHÈO TÂN THỜI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ -
NGƯỜI CHỦ SOÁI CỦA CHÈO TÂN THỜI
1.1 Sự ra đời của chèo tân thời
1.1.1 Điều kiện lịch sử xã hội của cuộc cách tân chèo tân thời
Do hoàn cảnh lịch sử, cụ thể là về điều kiện kinh tế xã hội của nước ta thời
thực dân Pháp thống trị, nghệ thuật chèo ở đầu thế kỉ XX đã rơi vào tình trạng bế
tắc và có nguy cơ mai một. Nhiều làng quê nghèo đói đến mức chỉ có thể làm cúng
bái tế Thành hoàng làng mà thôi, còn về phần lễ hội thì hầu như không mở được.
Đó là tình trạng của các gánh hát chèo ngày càng không được đón mời như trước
đó. Hoàn cảnh lịch sử xã hội đưa đẩy khiến cho một số nghệ sĩ chèo dân gian đã
mạnh dạn đưa phường gánh ra chốn thành thị nhưng cũng không được đón chào
bởi thị hiếu khán giả đô thị không ưa chuộng lối hát và diễn của chèo sân đình. Mặt
khác, lúc này văn hóa Pháp cũng du nhập vào Việt Nam theo những người Pháp,
cùng với chính sách đồng hóa dưới chiêu bài “khai hóa văn minh” của thực dân
Pháp khiến cho môi trường văn hóa ở các đô thị biến đổi. Trong điều kiện mới của
sự tiếp biến văn hóa mà trong đó có mặt tiêu cực nhiều hơn mặt tích cực, chèo
muốn tồn tại ở các đô thị nhất là ở Hà Nội - nơi có đông khán giả xem diễn trò thì
phải chấp nhận một cuộc cách tân. Về phía khán giả, bên cạnh mặt tiêu cực là chịu
ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, cũng có mặt tích cực là đòi hỏi sân khấu chèo
không thể chỉ dừng lại ở việc giáo huấn chung chung, mà phải phản ánh được đời
sống xã hội và con người đương thời. Đòi hỏi chính đáng này thôi thúc những nghệ
sĩ chèo đầu thế kỷ XX phải tiến hành một cuộc cách tân chèo. Để thích ứng với
hoàn cảnh đó, một số người có mong muốn chấn hưng nghệ thuật dân tộc, đồng
thời là sự tiếp nhận các cái mới được du nhập đã đề xướng phong trào “chèo văn
16
minh”, đưa các phường chèo sân đình vào diễn ở các rạp hát bằng cách bổ sung
trang trí bằng phông cảnh. Tuy nhiên, chèo văn minh cũng vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu thưởng thức của khán giả thị dân. Vì vậy mà soạn giả Nguyễn Đình Nghị
đã đề xướng và trực tiếp làm chủ soái của phong trào “chèo cải lương”. Chèo cải
lương rộ hẳn lên và thu được nhiều thành quả trong vòng 10 năm với hàng mấy
chục vở diễn do Nguyễn Đình Nghị và một số cây bút đương thời sáng tác kịch bản
mới, cùng với việc chỉnh lí và cải biên các vở chèo cổ theo lối diễn của chèo cải
lương. Chính sự đổi thay này đã đánh dấu một giai đoạn chuyển hóa nghệ thuật
nhiều mặt của sân khấu chèo trong quá trình thích ứng từ xã hội phong kiến lạc hậu
qua xã hội phong kiến nửa thực dân.
1.1.1.1 Sự xuất hiện sàn diễn - rạp hát, đặc biệt là những rạp hát ở Hà Nội
Trước đây, chèo chỉ thường diễn ở sân đình. Giai đoạn chèo tân thời thì chèo
chuyền từ sân đình ở nông thôn ra các vùng đô thị lớn trong đó có Hà Nội. Trong
môi trường đô thị, cùng với nó là sự thay đổi về tầng lớp thưởng thức có cả tư sản,
tiểu tư sản và tầng lớp tri thức, thị dân và nhất là dân nghèo thành thị buôn thúng
bán mẹt. Điều đó cho thấy hình thức chiếu chèo như ở nông thôn không còn phù
hợp với thị hiếu của họ nữa. Cho nên rất cần có sự thay đổi. Sự thay đổi này cũng
chính là bước chuyển từ chiếu diễn sân đình lên sàn diễn - rạp hát. Danh từ “rạp
hát” là dùng để chỉ những địa điểm biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật có mái
che, có tường vây quanh và do tài chủ quản lí. Nó rất khác với hình thức chỉ là mấy
chiếc chiếu trải ở sân đình làm nơi diễn chèo cổ. Nói là rạp hát nhưng nhìn chung
lúc đầu vẫn còn rất đơn giản và nó được hoàn thiện theo thời gian phát triển của
nghệ thuật chèo. Qua những ghi chép của nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ trong
công trình Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lương, xuất bản năm 1995, Nxb Văn hóa
Hà Nội chúng tôi xin được dẫn ra đây một số rạp hát tiêu biểu của chèo tân thời:
17
Rạp hát Đồng Lạc đài:Năm 1908, một số nhân sĩ hợp tác với mấy nhà buôn
mua đất ở ngõ Sầm Công và xây dựng rạp Đồng Lạc đài. Rạp này khá lớn và chứa
được hơn trăm khán giả, có sân khấu, sàn diễn xây cao lên hơn nền hàng chục
gạch, sát đầu hồi nhóm nhạc ngồi một bên, ông Thơ và người sửa nghề sửa soạn
một bên, có tách khỏi khán đài với khán giả, có treo tấm màu đỏ hoặc xanh để kéo
lên khi bắt đầu vào diễn.
Rạp Sán Nhiên Đài là nơi được đánh giá rất cao về tầm quan trọng cho sự phát
triển của nghệ thuật chèo tân thời. Nó là nơi đầu tiên ứng dụng đưa chèo từ sân khấu
sân đình vào sân khấu hộp và đưa khán giả xem diễn từ đối tượng là những người
nông dân lao động tiến ra thành thị với một số lượng khán giả rất đa dạng từ tầng lớp
tư sản có tiền cho đến những vú em hay con sen.
Cuối năm 1916 - đầu năm 1917 hội Sán Nhiên mới xây xong và khai trương trụ sở
và cũng là rạp hát. Đây là rạp hát đầu tiên xây dựng quy mô bắt chước cách bố trí
nội thất của nhà hát Tây - đúng theo kiểu sân khấu hộp, có cung cách tổ chức đào
tạo, làm ăn quy củ từ các khâu. Đây là hội đánh dấu bước chuyển mới của sân
khấu chèo Hà Nội. Hội Sán Nhiên khi được đem ra so sánh với Quảng Lạc Đài (của
nhóm Phú Trọng, được xây dựng vào cuối năm 1915 ngay trên nền rạp Hàng
Buồm cũ) thì có phần hơn hẳn cả về sức chứa lẫn tiện nghị và trang trí mặt ngoài:
Sán Nhiên Đài có hướng quay mặt ra ngõ Mã Mây (Phố Đào Duy Từ), tòa
nhà có diện tích khá rộng (12m*25m), cao gần 5m. Từ hè đường khách bước lên
ba bậc xây, đi qua 3 cổng, vòm cuốn: cao 2,8m - ngang 1,6m vào khu gian trống,
có tường ngăn với khán trường. Trên cổng giữa vắt ngang một khung đắp vữa cao
gần 1m đắp 3 chữ nho đậm nét: “Sán Nhiên Đài”. Cổng giữa thẳng vào sát tường
ngăn là quầy bán vé một bên và bên kia đặt bảng quảng cáo tiết mục. Hai đầu
tường trỗ hai cửa ra và vào rạp. Hai đầu hai trống xây hai cầu thang lên gác, một
18
lối bước vào phòng Hội đồng, chỗ ban Quản trị làm việc hàng ngày hoặc họp Đại
hội đồng thường niên bằng một lối đi hành lang trên gác.
Khán trường chia ra làm 3 khu và chênh nhau độ cao từ 30cm, xuôi xuống
sân khấu.
- Khu đầu tiên, cao nhất, đặt 12 hàng ghế gỗ lim có tựa, chia ra 2 dãy, mỗi
bên đặt 6 chỗ ngồi mỗi hàng đóng liền chắc vào nhau và giành cho những người
mua vé hàng 3.
- Khu thứ hai, dành cho vé hạng 2, gồm 8 hàng ghế có mây tựa và chia ra làm 2
dãy và mỗi bên 6 ghế buộc dính vào nhau để khách không xê dịch được.
- Khu thứ ba là khu tiếp cận gần sân khấu, dành cho vé hạnh nhất, bao gồm 6
hàng ghế mây có tựa và đặt thành 2 dãy, mỗi bên 5 ghế rời. Hành lang trên gác đặt
16 ghế mấy và mỗi hàng là 3 ghế, hành lang này được làm bằng gỗ và kéo dài tới
nửa khu vé hạng nhất. Hành lang dưới nhà và phía cuối là chỗ của những khách mua
vé hạng đứng. Rạp bình thường chứa gần 400 khán giả.
Căn cứ vào các tài liệu ghi chép của tác giả Trần Việt Ngữ về Nguyễn Đình
Nghị và chèo cải lương chúng tôi xin được tóm tắt lại sự ra đời và quá trình phát
triển của các rạp hát thời kỳ chèo tân thời như sau:
Bảng 1:1 Bảng tóm tắt sự ra đời và quá trình phát triển của các rạp hát thời
kỳ chèo tân thời
Tiêu
chí Rạp Sán Nhiên Đài Rạp Đồng
Lạc Sán Nhiên Đài Sán Nhiên Đài Cải lương hý
giai đoạn chèo giai đoạn chèo
19
văn minh cải lương viện
Thời
gian 1908 1913 8/ 1923 7/1927 thành
lập
Ngõ Sầm Hàng Buồm Hàng Buồm 42 Hàng Bạc
Công (phố (1913)
Đào Duy Từ Ngõ Mã Mây phố Địa ngày nay) Đào Duy Từ chỉ (1917)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
2. Trần Bảng (1979), Chèo - sân khấu ước lệ, Tạp chí nghiên cứu văn hóa nghệ
thuật (số 2).
3. Trần Bảng (1979), Chèo - sân khấu tự sự, Tạp chí Sân khấu, (số 3).
4. Trần Bảng (1963), Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc, Nxb Hội sân
khấu, Hà Nội.
5. Trần Bảng (1999), Khái luận về chèo, Viện sân khấu, Trường Đại học Sân
khấu - Điện ảnh xuất bản, Hà Nội.
6. Becton Brếch (1993), Bàn về sân khấu tự sự, Hội nghị sân khấu Việt Nam, Hà
Nội.
7. Hà Văn Cầu (1961), Múa chèo, Văn nghệ (số 47).
20
8. Hà Văn Cầu (1961), Nguyễn Đình Nghị người mở đầu cho phong trào Chèo
cải lương, Văn nghệ (4).
9. Hà Văn Cầu (1964), Tìm hiểu phương pháp viết chèo, Nxb Văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội.
10. Hà Văn Cầu (1964), Qúa trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo,
Ban nghiên cứu chèo, Hà Nội.
11. Hà Văn Cầu (1973), Hề - Chèo chọn lọc, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
12. Hà Văn Cầu (1976), Tuyển tập chèo cổ (sưu tầm và giới thiệu), Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
13. Hà Văn Cầu (1977), Mấy vấn đề trong kịch bản chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
14. Hà Văn Cầu (1999), Từ chèo cổ đến chèo hiện đại, Văn hóa nghệ thuật (số 1).
15. Hà Văn Cầu (2000), Lại nói về hiện đại hóa chèo, Văn hiến, (số 2).
16. Hà Văn Cầu (2001), Chèo truyền thống và chèo hiện đại, Văn hóa nghệ thuật
(số 11).
17. Hà Văn Cầu (2005), Lịch sử nghệ thuật chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
18. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 5, Nxb Văn
học, Hà Nội.
19. Trương Chính, Phong Chân (1993), Tiếng cười dân gian Việt Nam in lần 3,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Hoàng Chương (1986), Mấy vấn đề về sân khấu truyền thống, Viện sân khấu,
Hà Nội.
21. Hoàng Chương (1993), Đi tìm vẻ đẹp sân khấu dân tộc, Viện sân khấu, Hà
Nội.
22. Lộng Chương (1963),Cần viết lại một số tích chèo cũ, Nghiên cứu Văn học
(số 2).
23. Lộng Chương (1966), Bàn về phép tự sự trong chèo, Tuần báo văn nghệ ngày
24/6/1966.
21
24. Chu Xuân Diên - Lương Văn Đăng - Phương Tri (Biên soạn - 1993), Tục ngữ
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Từ điển Bách Khoa toàn thư tập 1 (A - D), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển
bách khoa Việt Nam.
26. Thành Diệp bổ sung và hiệu chỉnh - Lê Thanh Hiền sưu tầm và biên soạn (2006),
Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển 6 - tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Thành Diệp bổ sung và hiệu chỉnh - Lê Thanh Hiền sưu tầm và biên soạn (2006),
Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển 6 - tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Thành Diệp bổ sung và hiệu chỉnh - Lê Thanh Hiền sưu tầm và biên soạn (2006),
Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển 6 - tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Nguyễn Đức Đàn (1985), Các trào lưu trường phái kịch phương Tây hiện đại,
Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật xuất bản, Hà Nội.
30. Cát Điền (1995), Vai trò của văn học dân gian với sân khấu truyền thống,
Nxb Văn học, Hà Nội.
31. Cao Kim Điển (1961), Nghệ thuật chèo cổ truyền, Báo quân đội nhân dân, (số
26).
32. Đạm Hà (1966), Về trang trí sân khấu chèo, Văn hóa, (số 9).
33. Bùi Đức Hạnh (2002), Bàn về làn điệu chèo mới, Viện Sân khấu, Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Thu Huyền (2013), Tục ngữ - ca dao truyền thống trong kịch bản
chèo hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội.
35. Lê Thanh Hiền sưu tập (1996), Tổng luận Nghệ thuật chèo nửa sau thế kỷ XX,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
36. Lê Thanh Hiền (sưu tầm và biên soạn)(2006), Văn học Việt Nam thế kỷ XX:
Kịch bản chèo 1900 - 1945, Quyển sáu - tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
37. Lê Thanh Hiền (sưu tầm và biên soạn) (2006), Văn học Việt Nam thế kỷ XX:
22
Kịch bản chèo 1945 - 2000, Quyển sáu - tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
38. Thu Hiền (1992), Chèo truyền thống sẽ ra sao?, Báo Hà Nội mới, ngày 18/4.
39. Bùi Huy Hiếu (1964), Nghệ thuật trang trí sân khấu chèo, Báo Văn nghệ, (số
72).
40. Phạm Thị Thu Hoài (2005), Khảo sát các nhà nghiên cứu sân khấu về quá
trình bác học hóa chèo, Khoa luận chuyên ngành Văn học, Đại học khoa học
xã hội và Nhân văn Hà Nội.
41. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
42. Trần Đình Hượu (2001), Về đặc sắc văn hóa Việt Nam, (trích đăng), Văn hóa
nghệ thuật, (số 6).
43. Nguyễn Khải (26/5/1994), Hà Nội trong mắt tôi - Xuân 1994/ Ký sự/ Báo Lao
Động.
44. Thành Đăng Khánh (1998), Lịch sử kịch hát Trung Quốc, Viện Sân khấu, Hà
Nội.
45. Vũ Ngọc Khánh biên soạn (1994), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
46. Đinh Gia Khánh (1980), Văn học dân gian trong thời kì Đại Việt - Lịch sử văn
học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Thúc Khiêm (1928), Các bài hát chèo, Nhà in Mai Du Lân.
48. Nguyễn Thúc Khiêm (1930), Khảo cứu hát tuồng và hát chèo, Nam Phong (số
141).
49. Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb Lửa Thiêng, Sài
Gòn.
50. Hoàng Kiều (1974), Sử dụng làn điệu chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
51. Hoàng Kiều (1985), Lại bàn về biện pháp phát triển chèo, Những vấn đề sân
23
khấu, Viện Sân khấu, Hà Nội.
52. Hoàng Kiều - Hà Hoa (2007), Những làn điệu cổ chọn lọc, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
53. Đặng Văn Lung (1977), Thêm một giả thuyết về nguồn gốc nghệ thuật chèo,
Văn hóa nghệ thuật,(số 1).
54. Huỳnh Lý - Hoàng Ngọc Phách (1958), Chèo và tuồng, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
55. Tào Mạt (Nguyễn Đăng Thục) (1986), Bài ca giữ nước - Bộ ba chèo lịch sử,
Nxb Sân khấu, Hà Nội.
56. Tào Mạt (1995), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
57. Tú Mỡ (1952), Hát chèo, Ngành Văn nghệ xuất bản, Việt Bắc.
58. Tú Mỡ (1960), Bước đầu viết chèo, Nxb Phổ thông (Bộ văn hóa), Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Nội (1966), Đặc điểm kịch nói và chèo, Văn hóa số (số 7).
60. Trần Đình Ngôn (1981), Một vấn đề của Chèo cần được quan tâm, Tạp chí
nghiên cứu nghệ thuật, (số 5).
61. Trần Đình Ngôn (1996), Kịch bản chèo từ dân gian đến bác học, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
62. Trần Đình Ngôn (1996), Yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản
chèo, Luận án Tiến sĩ Văn học dân gian, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội.
63. Trần Đình Ngôn (2011), Những nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật chèo,
Nxb Thời đại, Hà Nội.
64. Trần Đức Ngôn (1999), Sân khấu truyền thống - con đường tồn tại và phát
triển, Văn hóa nghệ thuật (số 4).
65. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Bùi Văn Nguyên và tác giả khác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam - tập 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24
67. Bùi Văn Nguyên (1991), Việt Nam truyện cổ - triết lí và tình thương, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Hoàng Nghĩa dịch (1994), Cách thưởng thức văn nghệ của người Hy Lạp cổ,
Văn hóa nghệ thuật, (số 6).
69. Nguyễn Đình Nghi (1995), Sân khấu Kịch Việt Nam trên đường tìm về truyền
thống, Tạp chí Sân khấu, (số 171).
70. Trần Việt Ngữ - Hoàng Kiều (1964), Bước đầu tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb
Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
71. Trần Việt Ngữ - Hoàng Kiều (1967), Bước đầu tìm hiểu tiếng cười trong chèo
cổ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Trần Việt Ngữ (1970), Âm nhạc trong nghệ thuật chèo, Tư liệu Viện sân khấu.
73. Trần Việt Ngữ (1980), Cách viết một vở chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
74. Trần Việt Ngữ (1983), Về những đặc điểm nghệ thuật của chèo cổ, Nghiên
cứu nghệ thuật, (số 3).
75. Trần Việt Ngữ (1983), Lại bàn vấn đề người làm chủ chèo cổ, Nghiên cứu văn
học, (số 4).
76. Trần Việt Ngữ (1995), Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lương, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
77. Trần Việt Ngữ (1996), Về nghệ thuật chèo, Viện Âm nhạc Việt Nam, Hà Nội.
78. Trần Việt Ngữ (2001), Thực trạng sân khấu chèo qua hội diễn cuối cùng của
thế kỉ XX, Văn hóa nghệ thuật (số 4).
79. Trần Việt Ngữ (2015), Về nghệ thuật chèo - Quyển 2, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
80. Nhiều tác giả (1970), Mấy vấn đề về nghệ thuật chèo, Viện sân khấu - Sở văn
hóa thông tin Thái Bình xuất bản, Hà Nội.
81. Nhiều tác giả sưu tầm (1987), Một trăm chuyện vui sân khấu, Hà Nội.
82. Nhiều tác giả (1995), Nguyễn Đình Nghị và sự phát triển nghệ thuật chèo,
25
Nxb Sân khấu, Hà Nội.
83. Nhiều tác giả (1995), Thực trạng Chèo hôm nay, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
84. Nhiều tác giả (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển
học.
85. Nguyễn Thị Nhung (1985), Một số vấn đề cơ bản trong việc phát triển sân khấu
truyền thống chèo, Những vấn đề sân khấu, Viện Sân khấu, Hà Nội.
86. Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội in lần thứ 8, Hà Nội.
87. Hoàng Ngọc Phách - Huỳnh Lý (1958), Chèo và Tuồng, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
88. Phạm Mạnh Phan (1944), Nguyễn Đình Nghị, Báo Tri Tân, (số 166)
89. Lê Chí Quế - Võ Quang Nhơn - Nguyễn Hùng Vĩ (1990), Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
90. Đình Quang (1960), Một vài ý nghĩ về hình thức nghệ thuật trong các vở ca
kịch dân tộc, Văn học, (số 33).
91. Đình Quang (1983), Phương pháp sân khấu Bectôn Brech, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
92. Đình Quang (2001), Văn học nghệ thuật Thăng Long - Hà Nội, quá khứ và
hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Đình Quang (2003), Về đặc trưng Tuồng, Chèo truyền thống và hướng phát
triển, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
94. Mịch Quang (1995), Âm nhạc và sân khấu kịch hát dân tộc, Nxb Sân khấu, Hà
Nội.
95. Mịch Quang (2000), Kinh dịch với nghệ thuật truyền thống, Nxb Sân khấu,
Hà Nội.
96. Dân Quốc (2002), Mỹ thuật chèo truyền thống Việt Nam, Công trình nghiên
cứu khoa học cấp bộ - Bộ Văn hóa thông tin.
26
97. Nguyễn Văn Thành (1995), Vua Chổm - Một thành công mới của nhà hát
chèo, Tạp chí Sân khấu, (số 170).
98. Tất Thắng (1993), Kịch hát truyền thống nhận thức từ một phía, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
99. Tất Thắng (1994), Di sản sân khấu và đạo đức truyền thống, Nxb Sân khấu,
Hà Nội.
100. Tất Thắng (1997), Tính trò diễn của sân khấu truyền thống Việt Nam, Văn
học, (số 3).
101. Tất Thắng (2001), Đi tìm bản sắc dân tộc trong chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
102. Tất Thắng (2007), Nghệ thuật chèo nhận thức từ một phía, Nxb Văn học, Hà
Nội.
103. Tất Thắng (2001), Đi tìm bản sắc dân tộc trong chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
104. Bùi Thiết (1993), Từ điển lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
105. Đoàn Thị Tình (1996), Những vấn đề trang phục sân khấu truyền thống
(Tuồng và Chèo), Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật học, Viện Văn hóa - Nghệ thuật
Việt Nam.
106. Hoàng Tiến Tựu (1984), Văn học dân gian Việt Nam - tập 2, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
107. Nguyễn Hữu Tiến (1916), Tựa bản Tuồng Đông A Song Phụng, Đông Kinh
ấn quán Hà Nội.
108. Từ tiếng hát chèo năm ấy (1974), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
109. Tổng luận nghệ thuật chèo nửa sau thế kỷ XX - Tập 1 (1996), Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
110. Chu Văn Thức (1958), Tham luận hội thảo khoa học về chèo, Những vấn đề
sân khấu, Viện Sân khấu, Hà Nội.
111. Trần Huyền Trân (1957), Trương Viên (Chèo cổ cải biên), Nxb Phổ thông, Hà
Nội.
27
112. Trần Huyền Trân (1957), Quan Âm Thị Kính (Chèo cổ) (sưu tầm và cải biên),
Nxb Phổ thông, Hà Nội.
113. Đôn Truyền (2001), Đến với nhạc chèo, Nxb Viện Sân khấu, Hà Nội.
114. Xuân Trình (1995), Những lời không nói trên sân khấu, Nxb Sân khấu, Hà
Nội.
115. Nguyễn Thanh Vân (2002), Những sự kiện sân khấu Việt Nam qua thư tịch
cổ, Viện Sân khấu và Nxb Sân khấu, Hà Nội.
116. Bùi Thanh Vân (2011), Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật chèo cổ
ở Vùng Đồng bằng bắc bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch, Luận văn
Thạc sĩ Du lịch, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
117. Nhóm Nguồn Việt (1974), Hát Chèo của dân tộc Việt Nam, Đường Sáng, Sài
Gòn.
118. Trần Quốc Vượng - Phan Kế Hoành (1984), Tiếp cận tổng thể với cội nguồn
và diễn tiến của sân khấu cổ truyền Việt Nam, Sân khấu, (số 1).
119. Trần Quốc Vượng - Đinh Xuân Lâm (1996), Về nguồn gốc và lịch sử của
tuồng chèo Việt Nam, Tạp chí Văn học (số 4).
120. Trần Quốc Vượng chủ biên (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
121. Trần Quốc Vượng (2006), Môi trường con người và văn hóa, Nxb Văn hóa
thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.
122. Văn minh đại Việt (2005), Nxb Văn hóa thông tin - Viện văn hóa thông tin,
Hà Nội.