BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Thị Oanh
KHẢO SÁT NHỮNG CUỘC CHIA LY
TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA VÀ NGÔN NGỮ VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Thị Oanh
KHẢO SÁT NHỮNG CUỘC CHIA LY
TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA VÀ NGÔN NGỮ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, tài
liệu trích dẫn, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Oanh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự trợ giúp và hướng dẫn tận tình cũng như sự động viên, giúp đỡ của PGS.TS
Lê Thu Yến. Tôi xin kính gửi lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất đến Cô!
Tiếp theo đó, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, các Thầy Cô giáo trong khoa Ngữ
Văn cùng các Thầy Cô phòng Sau Đại Học, Thư viện trường là những nơi đã
luôn tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu, tìm hiểu và tra cứu cũng như
tham khảo tài liệu để phục vụ cho quá trình hoàn thành luận văn.
Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè đã luôn quan tâm, chia
sẻ, động viên và giúp đỡ để tôi hoàn thành công việc học tập và nghiên cứu đề
tài luận văn này!
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2018
Học viên
Vũ Thị Oanh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................ 9
1.1. Bối cảnh lịch sử thời kỳ trung đại Việt Nam .............................................. 9
1.2. Sự hình thành và phát triển của văn học trung đại .................................... 12
1.3. Giới thiệu những tác phẩm thơ ca có nội dung chia ly ............................. 18
1.3.1. Khái niệm về thơ ................................................................................. 18
1.3.2. Thống kê các bài thơ có nội dung chia ly ........................................... 19
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 24
Chương 2. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG .................................................. 25
2.1. Thơ ca chia ly thể hiện trong mối quan hệ với gia đình ........................... 25
2.1.1. Thơ ca chia ly trong quan hệ vợ chồng ............................................... 25
2.1.2. Thơ ca chia ly trong quan hệ anh em .................................................. 37
2.2. Thơ ca chia ly thể hiện trong quan hệ xã hội ............................................ 40
2.2.1. Thơ ca chia ly trong tình bạn .............................................................. 40
2.2.2. Thơ ca chia ly trong tình yêu đôi lứa .................................................. 52
2.2.3. Thơ ca chia ly trong các mối quan hệ khác. ....................................... 57
2.3. Thơ ca chia ly thể hiện tình cảm đối với quê hương đất nước ................. 61
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 70
Chương 3. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ........................................... 71
3.1. Về thể thơ .................................................................................................. 71
3.1.1. Đường luật .......................................................................................... 71
3.1.2. Cổ phong ............................................................................................. 74
3.1.3. Truyện thơ Nôm .................................................................................. 76
3.2. Về ngôn ngữ. ............................................................................................. 77
3.2.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ .................................................................. 77
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng câu ....................................................................... 99
3.3. Giọng điệu ............................................................................................... 112
3.3.1. Giọng điệu trầm buồn u hoài ............................................................ 113
3.3.2. Giọng điệu cảm thông ....................................................................... 120
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 124
KẾT LUẬN ................................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 128
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quay ngược trở về quá khứ, thời kỳ văn học trung đại Việt Nam do bị ảnh
hưởng bởi yếu tố lịch sử nên đất nước ta thường xuyên xảy ra những cuộc chiến
tranh tàn khốc. Từ đó dẫn đến tình cảnh con người phải trải qua những cuộc ly
biệt, vì thế trong thơ ca trung đại, nỗi sầu chia ly cũng là một trong những chủ
đề chính được quan tâm bên cạnh những chủ đề khác. Chia ly tự nó đã gợi nên
một nỗi buồn man mác, sâu thẳm, nó xảy ra như tất yếu của cuộc đời: có hội ngộ
rồi lại ly biệt, có sum vầy rồi lại chia ly… Trong thơ ca chia ly, những mạch
nguồn cảm xúc cứ dạt dào như một dòng chảy không ngừng, chính nó tạo nên
những vần thơ đẹp đến mượt mà, óng ả. Trong cuộc sống có muôn vàn những
cung bậc cảm xúc, là yêu ghét, là nhớ nhung và cũng là sầu thương của sự ly
biệt. Nó như một nốt nhạc trầm buồn vang lên khiến cho tâm hồn đang xao động
bỗng nhiên trầm lắng.
Liên quan đến việc giảng dạy ở phổ thông có rất nhiều những tác phẩm
thơ ca đã nhắc đến chia ly. Ví như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Khóc
Tổng Cóc của Hồ Xuân Hương, Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến hay
Tống biệt hành của Thâm Tâm...vv. Thì công trình này cũng sẽ là nguồn tư liệu
để phục vụ cho việc giảng dạy cũng như là một tài liệu tham khảo đáng quý. Đề
tài “Khảo sát những cuộc chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam” là một sự cố
gắng vô cùng lớn khai thác triệt để những cuộc chia ly xung quanh những mối
quan hệ trong cuộc sống xã hội ngày đó. Nó giúp cho những thế hệ sau có thể
hiểu sâu sắc hơn về những vấn đề trong thơ ca giai đoạn này. Đây cũng là một
đề tài rất thú vị nhưng lại chưa có nhiều người nghiên cứu.
Vì tất cả những lý do trên, tôi đã chọn “Khảo sát những cuộc chia ly
trong thơ ca trung đại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. Với đề tài
này tôi khao khát được tìm hiểu, khai phá nét đẹp tâm hồn của con người ẩn
chứa đằng sau những cuộc chia ly. Từ đó, góp phần đánh giá toàn diện hơn các
2
giá trị nhân văn của của những tác phẩm đồng thời rút ra những bài học quý báu
về tình cảm của con người với con người.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu và khảo cứu, người viết thấy rằng việc nghiên cứu những
cuộc chia ly trong thơ ca văn học trung đại Việt Nam không phải là một vấn đề
mới. Do đó, khi tiến hành việc tìm hiểu lịch sử vấn đề người viết gặp nhiều
thuận lợi cũng như không ít những khó khăn. Trước hết, thuận lợi là đã có rất
nhiều nhà nghiên cứu văn học đề cập đến nội dung chia ly. Đây có lẽ là những
tài liệu quý giá để người viết có thể dễ dàng nắm bắt vấn đề để nghiên cứu đề tài
luận văn của mình. Về mặt khó khăn, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì hiện nay
chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào khảo sát một cách toàn diện
về vấn đề chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam. Quá trình tiến hành nghiên
cứu đề tài “Khảo sát những cuộc chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam” chúng
tôi đã thu thập được những nhận xét hết sức tinh tế quý báu, cụ thể như sau:
Trong dòng thơ đi sứ có khía cạnh của những cuộc tiễn biệt, cụ thể trong
bài nghiên cứu “Thơ đi sứ, khúc ca của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu” của
tác giả Mai Quốc Liên được in trong Tạp chí văn học, số 3- 1979, trong bài viết
của mình tác giả đã hệ thống được những tác phẩm thơ ca trong dòng thơ đi sứ
thời Trần cho đến thời Nguyễn, đây là một tư liệu rất quý để người viết có được
những tác phẩm thơ ca chia ly cho bài viết của mình.
Trong cuốn Diện mạo thơ Đường, Lê Đức Niệm - Nxb văn hoá thông tin
Hà Nội (1995), tác giả đã viết về sự biến chuyển của cuộc đời, hướng người đọc
đến lý thuyết vô thường và khẳng định nó hiện hữu ở tất cả mọi sự vật hiện
tượng trong đời sống. Quan niệm đó đã gợi mở cho chúng tôi về cảm hứng ly
biệt, từ đó dễ dàng diễn giải những lý thuyết nhân sinh quan trong các mối quan
hệ trong đề tài.
Năm 2012, cuốn Văn học dân gian Việt Nam, nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam do nhóm tác giả Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Chu Xuân Diên – Võ Quang
3
Nhơn. Công trình này đã giới thiệu một cách tổng quát về những thành tựu sưu
tập tư liệu trong đó có nhắc đến tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca Việt Nam.
Đặc biệt ở chương 3 các thể loại văn học dân gian Việt Nam đã bàn tới tinh thần
đấu tranh để bảo vệ tình yêu cũng như hạnh phúc lứa đôi. Công trình nhận định
“Thường thì ca dao, dân ca Việt Nam miêu tả tình yêu đau khổ bên cạnh những
nguyên nhân chủ quan (trai gái không hợp nết nhau) có nói đến những nguyên
nhân khách quan, những nguyên nhân xã hội, do chế độ gia trưởng độc đoán và
những tệ lậu, tục lệ khắt khe trong xã hội gây ra” [36, tr. 450]. Đây là công trình
giúp ích phần nào cho người viết trong quá trình tìm kiếm khảo sát những vấn
đề về xã hội dẫn đến những cuộc chia ly trong đời sống.
Cũng trong năm 2012, luận văn thạc sĩ văn học của Nguyễn Thị Thanh
Diễm với đề tài “Những thành tựu của thơ đi sứ thời Nguyễn” cũng có đề cập
đến vấn đề chia ly thông qua đề tài của mình. Trong luận văn của mình, Nguyễn
Thị Thanh Diễm đã có một tiểu mục nhỏ đề cập đến vấn đề ly biệt trong thời
gian đi sứ, tác giả đã viết: “Ở nơi đất khách quê người, nỗi niềm thương nước
nhớ nhà sớm chiều da diết. Tình điệu này trở thành điệp khúc miên man vang
vọng mãi trong thơ đi sứ thời Nguyễn, tạo nên bao thi tứ đẹp” [14, tr. 49].
Năm 2015, trong cuốn Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ
XVIII), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam do nhóm tác giả Đinh Gia Khánh (chủ
biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương đã thống kê khá nhiều những tác phẩm
thơ ca trung đại. Trong đó, có một số nhận định về ly biệt “Mọi vật, mọi việc
luôn luôn biến động, vô thường. Con người cũng không thoát khỏi lẽ vô thường
ấy được. Vì không hiểu rằng vô thường, biến động là tất yếu của pháp tướng mà
lại có sự vĩnh hằng, ổn định cho nên mới đau khổ, sợ hãi” [33, tr. 57].
Trên website http://khoavanhoc.edu.vn/ ngày 18/03/2015 có đăng bài viết
của PGS.TS Nguyễn Bá Thành với tựa đề “Nỗi buồn tha hương và mặc cảm lưu
lạc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”. Tác giả đã tinh chọn những tác phẩm có nội
dung ly biệt tập hợp thành một bài viết tiêu biểu mang nội dung chia ly.
4
Năm 2016, cuốn Hợp tuyển công trình nghiên cứu văn học dân gian và văn
học trung đại Việt Nam, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội của GS.TS Lã
Nhâm Thìn - GS.TS Vũ Anh Tuấn (đồng chủ biên), trường đại học Sư phạm Hà
Nội khoa Ngữ văn. Trong đó, có một số bài tác giả nhắc đến ly biệt và hội ngộ,
đặc biệt là nhóm truyện thơ Nôm “Trong hệ thống truyện Nôm, chúng ta cũng
gặp nhiều nhân vật nữ gặp nhiều cơn tai biến phải trở thành kẻ tu hành” [70, tr.
325]. Tuy nhiên, điểm hạn chế ở công trình là mới dừng lại ở phần truyện Nôm
mà chưa có sự mở rộng ra các thể loại khác.
Cũng trên website https://bienxua.wordpress.com/ ngày 25/11/2017 có
đăng bài viết của Ngự Thuyết có tựa đề “Biệt ly trong thơ” đã ít nhiều đề cập
đến nội dung ly biệt trong thơ xưa và nay. Trong bài viết của mình, Ngự Thuyết
đã có sự so sánh đối chiếu rất cụ thể giữa thơ xưa với thơ hiện đại xung quanh
nội dung ly biệt.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu chúng tôi nhận thấy có rất nhiều công trình,
bài viết về vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết những bài viết đều chỉ khái quát
chung về vấn đề chia ly trong thơ ca nói chung cũng như thơ ca trung đại nói
riêng mà chưa có một công trình riêng biệt nào khảo cứu toàn diện đề tài thơ ca
chia ly trung đại. Trên cơ sở tiếp thu những nhận định quý giá trên, chúng tôi
mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu đề tài: Khảo sát những cuộc chia ly trong thơ ca
trung đại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đi sâu vào nghiên cứu các cuộc chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam,
điều kiện tiên quyết là khảo sát các cuộc chia ly trong toàn bộ quá trình phát
triển thơ ca trung đại. Hơn nữa, nội dung này trong thơ ca trung đại cần có sự
đối chiếu giữa những cuộc chia ly để tìm ra những điểm chung. Chính vì vậy,
luận văn chủ yếu đi sâu vào khai thác và phân tích các cuộc chia ly trong thơ ca
từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Về văn bản để khảo sát và phân tích chúng tôi nghiên cứu dựa trên những
5
bài thơ của rất nhiều các tác giả trải dài qua từng giai đoạn như: Nguyễn Du, Đặng
Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thông,
Ngô Thì Nhậm, Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Lý, Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Tùng Thiện Vương…
Hầu hết trong những tác giả đó, nội dung chia ly chiếm phần lớn, người viết sẽ
dựa vào những văn bản nằm trong các công trình như:
- Thơ chữ Hán Nguyễn Du, do Nhà xuất bản Văn học – Văn nghệ chịu trách
nhiệm in ấn và xuất bản. Với Nguyễn Khuyến có tập
- Thơ Nguyễn Khuyến, do tác giả Ngân Hà biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin.
- Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam (2005), Hợp tuyển ngâm khúc Việt Nam, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội.
Quá trình tổng hợp và phân loại những bài thơ được đề cập trong nghiên cứu
này chủ yếu dựa trên những bộ sách mang tính tổng hợp:
- Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X – XIX) do Nhà xuất bản
Giáo dục phát hành.
- Tổng tập các tác phẩm của một số tác giả có vị trí quan trọng trong tiến trình
văn học trung đại và một số công trình có liên quan.
Những tác phẩm chúng tôi chọn đều ở giai đoạn thơ ca trung đại, đó là những
tác phẩm tiêu biểu, dung lượng lớn và phổ cập với tất cả những ai nghiên cứu thơ
ca văn học đều có thể nắm bắt để hiểu được ý nghĩa mà tác giả muốn đưa ra. Để cụ
thể hơn, thống nhất từ những quan điểm nêu trên chúng tôi chọn lọc và nghiên cứu
dựa trên những tác phẩm thơ ca, thống kê sơ bộ ban đầu người viết tìm kiếm hơn
100 bài thơ viết về nội dung chia ly trong các mối quan hệ của thời đại đó. Ví dụ
như : Lưu biệt Hoàng Liên Phương (Cao Bá Quát), Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam
quy (Nguyễn Thông), Tống nhân (Nguyễn Du), Lưu biệt Nguyễn Đại Lang
(Nguyễn Du), Lưu biệt cựu khế Hoàng (Nguyễn Du), An Giang tống Trần Tử Mẫn
Phú yên quản đạo (Nguyễn Thông)... Và còn rất nhiều các bài thơ khác mà nội
dung chính luận văn sẽ trình bày.
6
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện đề tài này chúng tôi sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp
khoa học khác nhau, trong đó có những phương pháp cơ bản như sau:
Phương pháp Lịch sử - xã hội
Xuất phát từ mối quan hệ giữa lịch sử và văn học cũng như quan điểm tổng
quan về con người, vì thế khi tìm hiểu về những cuộc chia ly thể hiện trong thơ
ca trung đại chúng tôi không thể không nhìn nhận vấn đề trong mối tương quan
giữa bối cảnh lịch sử và sự phát triển của xã hội.
Phương pháp hệ thống
Để có một cái nhìn bao quát về vấn đề nghiên cứu người viết đã sử dụng
phướng pháp hệ thống. Ở đây, vấn đề chia ly trong thơ ca trung đại được đặt vào
mối tương quan với lịch sử xã hội cũng như những tiến trình trong văn học trung
đại. Bên cạnh đó, phương pháp này giúp ích rất nhiều cho người viết trong việc
hệ thống hóa được những tài liệu có liên quan và sắp xếp thành những tiểu mục
cụ thể.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Với đề tài này đây có lẽ là phương pháp quan trọng nhất giúp người viết
nhìn nhận vấn đề trong sự khai thác những khía cạnh chi tiết để nắm bắt được
bản chất của đề tài. Đây còn là phương pháp giúp người viết tổng quát lại vấn đề
một cách rõ ràng, từ đó đi đến những nhận xét bước đầu về những cuộc chia ly
trong thơ ca trung đại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Trong luận văn này, chúng tôi đặt ra mục tiêu phải khảo sát và tìm hiểu sâu
sắc các cuộc chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam. Đạt được mục tiêu trên,
luận văn này sẽ mang lại những cái nhìn mới cho những người nghiên cứu sau
này về vấn đề chưa được khai thác một cách chuyên biệt.
Kết quả thu được từ công trình sẽ là nguồn tài liệu vô cùng phong phú và
hữu ích có thể được sử dụng để giảng dạy vào việc tiếp nhận những tinh thần
7
của các nhà thơ trung đại đương thời trong nội dung chia ly.
6. Kết cấu luận văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn.
6. Kết cấu của luận văn.
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Trong chương 1 của luận văn, chúng tôi chủ yếu trình bày về bối cảnh lịch
sử cũng như khái quát về lý thuyết của thơ ca thời kỳ trung đại. Bên cạnh đó các
giai đoạn hình thành và phát triển cũng được xây dựng chi tiết trong chương
này, các tác giả cũng như những bài thơ mang nội dung chia ly được sử dụng
trong luận văn cũng được giới thiệu một cách cụ thể.
Chương 2. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Ở chương này, người viết đi sâu vào phân tích diễn biến tâm trạng và
nguyên nhân xảy ra những cuộc chia ly xuyên suốt những mối quan hệ của cuộc
sống như: những cuộc chia ly giữa vợ chồng, chia ly giữa những người anh em,
chia ly giữa những người bạn, giữa tình yêu đôi lứa, chia ly với quê hương đất
nước hay chia ly ở nhiều mối quan hệ khác trong xã hội. Thông qua đó, chúng ta
sẽ tìm thấy được những giá trị, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
qua trong từng sáng tác của các tác giả xưa để lại.
Chương 3. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Trong nội dung ở chương 3, luận văn tập trung tìm hiểu những đặc điểm
8
nghệ thuật văn học thông qua các tác phẩm thơ ca mà chúng tôi sử dụng để khảo
sát. Các phương diện được chúng tôi khai thác như: tìm hiểu về thể thơ, phân
tích về cách sử dụng ngôn ngữ. Những hình ảnh, những điển cố xuất hiện nhiều
lần trong thơ ca chia ly trung đại cũng như nghệ thuật sử dụng câu, sự biến
chuyển của giọng điệu cũng được chúng tôi khảo sát kỹ lưỡng. Để từ đó thấy rõ
và làm nổi bật lên được hình thức nghệ thuật văn học trong thơ ca trung đại.
9
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Để có thể đi sâu tìm hiểu nội dung thơ ca chia ly trung đại, ở chương này
người viết tập trung khai thác yếu tố lịch sử cũng như những vấn đề về lý thuyết
của văn học trung đại. Bởi thơ ca giai đoạn này ít nhiều bị ảnh hưởng yếu tố thời
đại, nó diễn biến ra sao và tác động đến đời sống văn học như thế nào, chính vì
vậy người viết không thể bỏ qua yếu tố quan trọng này.
1.1. Bối cảnh lịch sử thời kỳ trung đại Việt Nam
Thời kỳ lịch sử nằm sau cổ đại và trước cận đại, "thời kỳ ở giữa" theo nghĩa
tiếng Anh "Midle Age", hay tiếng Pháp "Moyen Age" là thời kỳ trung đại. Văn
học trung đại Việt Nam để chỉ về một loại hình văn học đã phát triển và tồn tại
trong thời kỳ trung đại Việt Nam (từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX). Bối cảnh
lúc bấy giờ theo sử học ghi chép lại, vào năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng, từ dấu mốc lịch sử vang dội đó dân tộc ta như
được thay da đổi thịt, mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới đó chính là 2 tiếng
độc lập rất đỗi thiêng liêng. Chấm dứt được hơn 1000 năm phong kiến Bắc
thuộc, điều đó cũng tạo điều kiện tiên quyết cho bộ máy nhà nước phong kiến
Việt Nam đầu tiên được khai thiên lập địa và phát triển. Kể từ đó, đất nước ta
khởi sáng một giai đoạn quá đỗi hào hùng với nhiều chiến công vang dội lẫy
lừng và hiển hách của các triều đại: Đinh, Tiền, Lê, Lý, Trần… Cụ thể, các giai
đoạn được chia theo từng thời kỳ như sau:
- Giai đoạn từ thế kỷ X - XV
Đây được xem là giai đoạn mở đầu khi độc lập của nước nhà được khôi
phục sau hơn một ngàn năm chịu ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Trong
thời kỳ lịch sử này, đất nước ta bước đầu đã đạt những thành quả về xây dựng
đất nước cũng như giữ nước hết sức to lớn, chính điều đó đã mang lại ý nghĩa
lịch sử trọng đại cho nước nhà. Trong giai đoạn này, giai cấp phong kiến đã phát
huy được đúng vai trò của mình là đoàn kết được các thể chế chính trị cũng như
10
các chính sách văn hóa, giáo dục… Dưới triều đại Lê Thánh Tông, đất nước ta
đã trở thành một đất nước hùng mạnh ở nửa sau thế kỷ XV. Nhưng niềm vui
không kéo dài quá lâu, chỉ trong khoảng bốn trăm năm sự nghiệp xây dựng đất
nước luôn bị lung lay bởi các thế lực thù địch với hai lần chống Tống, ba lần
chống Nguyên và giặc Minh xâm lược. Chiến công lừng lẫy của Lê Lợi đã phá
tan ách thống trị của giặc Minh từ đó khẳng định vững chắc nền độc lập của dân
tộc.
- Giai đoạn kế tiếp từ thể kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII
Thời kỳ này nền kinh tế có những bước phát triển mới nhưng mâu thuẫn
giai cấp phong kiến và nhân dân ngày càng gay gắt. Chính điều đó dẫn đến một
số cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thế kỷ XVI và nhiều cuộc nội chiến giữa các
tập đoàn phong kiến các thế kỷ XVI, XVII. Đau lòng nhất là hai cuộc nội chiến
phi nghĩa giữa Mạc - Lê thế kỷ XVI, rồi Trịnh - Nguyễn thế kỷ XVII đã làm hao
người, tốn của xã hội, nhân dân đã khổ ải nay lại bị rơi vào cảnh lầm than cơ cực
đất nước ta chính thức rơi vào thời kỳ bị tạm thời chia cắt. Về lịch sử văn hóa xã
hội Đại Việt thế kỷ XVIII nổi lên có ba hiện tượng lịch sử ảnh hưởng trực tiếp ít
hoặc nhiều đến sự phát triển của văn hóa, văn học thời đại đó là:
- Chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng.
- Khởi nghĩa nông dân bùng nổ một cách mạnh mẽ.
- Cuối cùng là Nguyễn Huệ hai lần chống quân xâm lược và bè lũ tay sai
đều thắng lợi vẻ vang thần tốc.
Riêng về lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế nước nhà lúc này vô cùng yếu ớt,
nông nghiệp bị đình trệ, bên cạnh đó công thương lại bị kìm hãm. Cũng như thế,
trong tình trạng phá sản tầng lớp nông dân rơi vào cảnh kiệt quệ, mất mùa dẫn
đến đói kém triền miên, đó chính là tình cảnh xã hội thế kỷ XVIII. Thế nhưng,
buồn thay bọn phong kiến quan lại không những không tìm ra chính sách biện
pháp hữu hiệu tích cực mà còn ngày càng phản động, mục nát. Chính từ đó, các
cuộc khởi nghĩa bắt đầu bùng lên từ mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến địa
11
chủ.
- Giai đoạn thứ ba từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Theo sử sách ghi lại thì đây được xem là thời kỳ sôi động, đầy sóng trào về
mặt lịch sử. Chế độ phong kiến cũng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng vô cùng
trầm trọng, ở nhiều nơi các phong trào nông dân khởi nghĩa rầm rộ từ giữa thế
kỷ XVIII. Triều đình phong kiến không thể nào dập tắt. Phải kể đến đó là phong
trào khởi nghĩa Tây Sơn do anh em Nguyễn Huệ lãnh đạo đã lật đổ các tập đoàn
phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê rồi sau đó đánh thắng ngoại xâm trong
Nam ngoài Bắc. Nhưng triều đại Tây Sơn thành lập được mười bốn năm thì bị
Nguyễn Ánh lật đổ, từ đó triều Nguyễn được thiết lập với nhiều chính sách bảo
thủ đưa đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
- Giai đoạn nửa cuối thế kỷ thứ XIX.
Tháng 9 năm 1858 thực dân Pháp đã chính thức đem quân xâm lược nước
ta, đầu tiên giặc Pháp tiến vào Đà Nẵng rồi sau đó di chuyển vào Nam, đau đớn
hơn là đã chiếm được ba tỉnh miền Đông. Không chỉ thế lần lượt ba tỉnh miền
Tây cũng bị chiếm đóng, hành động nhanh gọn lẹ ấy của thực dân Pháp như
sóng xô bờ, ồ ạt mạnh mẽ. Thừa thắng xông lên, không dừng lại mà thực dân
Pháp còn chiếm đánh cả Trung Bộ, Bắc Bộ và uy hiếp được phong trào Cần
vương. Buồn thay, ngay thời điểm đó triều đình Huế lại bạc nhược chủ động cầu
hòa để rồi đầu hàng. Nhân dân ta với tinh thần yêu nước đoàn kết một lòng từ
Nam ra Bắc từ miền xuôi đến miền ngược đã gương cao ý chí tinh thần quyết
tâm chiến đấu chống trả quyết liệt. Đất nước ta chìm ngập trong khói lửa chiến
tranh, các phong trào kháng chiến phát triển rầm rộ.
Có thể nhận thấy tình hình lịch sử của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ vô
cùng nhiễu nhương đầy những biến động. Các cuộc chiến tranh nổ ra ở khắp các
vùng miền đưa con người vào những cuộc chia ly khổ ải, từ đó chủ đề chia ly
xuất hiện trên khắp các trang thơ. Chủ đề ly biệt trong thơ ca trung đại nhuốm
đầy tâm trạng u sầu buồn thương, lưu luyến, bịn rịn. Các cảnh chia ly xảy ra trên
12
tất cả những mối quan hệ từ vợ chồng cho đến những tình thân bằng hữu, tất cả
đều chất chứa niềm thương nỗi buồn của người với người dành cho nhau.
1.2. Sự hình thành và phát triển của văn học trung đại
Văn học thời kỳ trung đại, là tập hợp những tác phẩm văn học kéo dài hàng
ngàn năm từ thế kỷ thứ X đến cuối thế kỷ XIX.
Từ thời Bắc thuộc do sự giao thoa văn hóa cũng như tác động của các thể
chế phong kiến những tác phẩm chữ Hán của người Việt từ đó đã được hình
thành. Hán học đã truyền bá vào nước ta và dần tạo được chỗ đứng, đây cũng
chính là thời kỳ các tầng lớp nho sĩ Việt Nam được hình thành từ các lò Hán
học. Những tác giả đầu tiên sử dụng chữ Hán để khai sinh ra những tác phẩm
văn học viết cũng chính là tầng lớp này.
Văn học viết ra đời là một sự tất yếu và điều đó tạo nên ý nghĩa hết sức lớn
lao cho nền văn học nước nhà. Sau khi hình thành, văn học trung đại đã có một
quá trình lâu dài, trải qua hàng chục thế kỷ phát triển. Và trên tiến trình ấy,
những chủ đề có tính chất thời đại, các cột mốc có tính chất tiêu biểu cùng với
các tác giả tác phẩm, văn học có thể phân chia thành những chặng đường phát
triển tương ứng với trình tự thời gian như sau:
- Thứ nhất văn học thế kỷ X đến hết thế kỷ XV
Trong giai đoạn này các tác giả văn học hầu hết là vua quan, các nhà sư và
nhiều nhất là các nhà nho đỗ đạt. Từ thời Lý Trần đến thời Lê sơ các tác phẩm
được viết bằng chữ Hán đều có sự bình ổn và cứng cáp nhất là cuối thế kỷ, bởi
vào thời gian này văn học chữ Hán phát triển rực rỡ. Minh chứng cho điều đó là
các tác phẩm của các tác gia nổi tiếng như: Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu,
Mãn Giác thiền sư, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông,
Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Phi Khanh,
Nguyễn Húc, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bảo,
Thái Thuận và lớn nhất phải kể đến nhà văn đại thi hào Nguyễn Trãi. Không thể
không kể đến những tác phẩm có giá trị vô giá đi cùng năm tháng là những tác
13
phẩm như: Nam quốc sơn hà, Quốc tộ, Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Tụng giá
hoàn kinh sư, Thuật hoài, Bạch Đằng giang phú, Cảm hoài, Phú núi Chí Linh,
Bình Ngô đại cáo…
Chữ Nôm cũng đã bắt đầu len lỏi, xuất hiện trong thời kỳ này. Đây được
xem là một bước ngoặt vô cùng ý nghĩa với nền văn học của nước nhà. Theo đó
vào khoảng cuối thế kỷ XIII văn học chữ Nôm chính thức ra đời với các tác gia
lớn như: Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu An, Trần Nhân Tông… nhưng
những tác phẩm để lại có số lượng không nhiều hầu như chỉ còn những bài ca,
phú, nổi bật nhất là những thành tựu văn học của Nguyễn Trãi.
Có thể nói rằng văn học thời kỳ này có chủ đề mang tính chất thời đại là:
Khẳng định nền độc lập dân tộc của nước nhà. Bởi nền văn học ấy đã được khai
sinh trong một giai đoạn đầy những biến động, chịu sự tác động vô cùng mạnh
mẽ của quá trình xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm đầy đau thương
gian khổ.Văn học thường phát triển rầm rộ xoay quanh các cuộc kháng chiến.
Tác phẩm và ngôn từ văn học giai đoạn này vẫn còn vang vọng âm hưởng sử thi,
hùng ca, biện thuyết như: hịch, cáo, thư, chiếu, phú… nhằm thể hiện bằng ngôn
ngữ nghệ thuật cảm hứng yêu nước, anh hùng, ái ưu, nhân nghĩa của nhiều thế
hệ tác gia. Lực lượng vẫn là các tăng lữ, quý tộc, quan chức và nho thần. Trong
vài thế kỷ đầu, tác giả hầu như là các nhà sư: Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu,
Vạn Hạnh thiền sư, Mãn Giác thiền sư, Diệu Nhân ni sư…vv. Điều này là dễ
hiểu bởi lúc này Phật giáo đang chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị
của đất nước ta. Một số tác giả ngoài nhà chùa lúc bấy giờ như Lý Thái Tổ, Lý
Thái Tông, Lý Thường Kiệt… cũng sùng tín đạo Phật và để lại các tác phẩm
chịu ảnh hưởng của Phật Giáo.
Sang đời Trần ngoài lực lượng sáng tác thiền sư, cư sĩ còn có các quý tộc, vua
quan, tướng lĩnh như: Trần Thánh Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải,
Phạm Ngũ Lão…giữa giai đoạn này thì có Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Phan Sư Mạnh…
14
Văn học thế kỷ X - XV đã Việt hóa được nhiều thể loại văn học cổ Trung Hoa
nhưng dựa trên tinh thần phát triển ngôn ngữ văn học, đặc biệt là chữ Nôm. Văn
học thời kỳ này đã khoác lên mình tinh thần của dân tộc và chủ nghĩa anh hùng
sáng ngời.
- Thứ hai là văn học ở thế kỷ XVI và nửa đầu thế kỷ XVIII
Sang đến giai đoạn này, có sự biến chuyển khá mạnh mẽ của đội ngũ sáng
tác và quan trong nhất là nội dung sáng tác cũng đã có sự thay đổi về tính chất.
Giai đoạn này, văn học đều được ghi nhận về sự phát triển cả chữ Hán và chữ
Nôm. Các giả văn học lớn nhất phải kể đến như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Hàng, Hoàng Sĩ Khải, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Đào Duy Từ, Nguyễn
Cư Trinh, Mạc Thiên Tích, Nguyễn Tông Quai…Và nhất định phải nói đến
những cư sĩ ẩn dật như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ.
Những tác phẩm do họ viết ra đã phơi bày những tệ lậu của xã hội phong
kiến đương thời, những tác phẩm giữ gìn tiết giáo, đạo đức của những người tri
thức ở ẩn. Nếu nhắc đến thành tựu của thơ văn chữ Hán chủ yếu là ở truyện ký
và tiêu biểu nhất là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ , thì thơ Nôm lại có một
thành tựu hoàn toàn mới mẻ đa dạng về thể loại và vô cùng phong phú về nội
dung, nhiều tác phẩm được viết dưới các thể loại như: ca trù, vè, khúc ngâm,
diễn ca lịch sử, truyện Nôm…
Văn học giai đoạn này có hai bộ phận chính là chữ Hán và chữ Nôm cả hai đều
có những bước phát triển mới đặc biệt là chữ Nôm. Trong văn học thế kỷ này,
bộ phận viết theo thể tài thơ phú của văn học cổ Trung Quốc có số lượng lớn,
thơ Nôm được viết theo luật Đường, hoặc luật Đường pha lục ngôn, tức Hàn
luật, tiếp theo là thể thơ lục bát và song thất lục bát…
Ngược lại, trong giai đoạn này văn học chữ Hán lại không có sự phát triển
mạnh mẽ như văn học chữ Nôm song số lượng vẫn chiếm rất nhiều và có những
thành tựu mới. Nhìn chung văn học chữ Hán thế kỷ XVI - XVII không có sự
phát triển mạnh mẽ thành tựu chủ yếu xoay quanh sự nghiệp của một vài tác gia
15
lớn như: Đặng Minh Khiêm, Nguyển Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc
Khoan.
Về cảm hứng chủ đề văn học, giai đoạn này văn học vẫn giữ những cảm
hứng chủ đạo như cảm hứng dân tộc trước hết là tình cảm yêu nước và tự hào
dân tộc, cảm hứng ẩn dật cũng là một trong số những cảm hứng chủ đạo của hầu
hết các tác gia văn học ở thế kỷ này như: Nguyễn Hàng, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Dữ… Quan trọng hơn cả, cảm hứng nhân văn đã được hiện hình ở một
số tác phẩm, minh chứng cho điều đó có thể nói đến những tác phẩm đã đề cập
đến nhu cầu giải phóng tình cảm, khao khát yêu đương và thân phận của những
người phụ nữ xưa nay đều được xem là thấp cổ bé họng trong xã hội. Tóm lại,
trong thời kỳ này, văn học chữ Nôm có sự phát triển mạnh mẽ vững chắc, thành
tựu của nó là ngâm khúc và truyện thơ.
- Thứ ba là văn học từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Giai đoạn này văn học chữ Hán đã có sự phát triển về nội dung hiện thực,
và thành công hơn về mảng truyện ký như: Thượng kinh ký sự, Hoàng Lê nhất
thống chí, Vũ trung tùy bút…
Giai đoạn này chữ Nôm cũng phát triển rực rỡ không kém thăng hoa nhất là hai
thể loại khúc ngâm và truyện thơ. Khúc ngâm có: Chinh phụ ngâm, Cung oán
ngâm khúc, Ai tư vãn, Tự tình khúc… Truyện thơ thì có Hoa tiên, Sơ kính tân
trang, Truyện Kiều, Phan Trần, Truyện Lục Vân Tiên…
Trong giai đoạn này, khởi sắc nhất và cũng là tín hiệu đáng mừng cho nội
dung sáng tác là một trào lưu chủ nghĩa nhân đạo mới được đề cập khá sôi nổi.
Phải kể đến là văn học đã tố cáo được chế độ phong kiến hèn hạ chà đạp đời
sống con người, văn học cũng đã đề cao được quyền sống của con người như
giải phóng tình cảm riêng tư, tình yêu đôi lứa được tự do, hạnh phúc cá nhân và
quyền sống của người phụ nữ cũng đc đề cập một cách gay gắt mãnh liệt.
Niềm hân hoan đó tưởng như lâu dài, nhưng tình thế đã thay đổi một cách
chóng mặt khi triều Nguyễn dựng lại nền thống trị vào đầu thế kỷ XIX. Văn học
16
chữ Hán lúc này dấy lên với những tư tưởng nho giáo bảo thủ, văn học chữ Nôm
từ đó bị thu hẹp nội dung nhân đạo. Những thành tựu lớn được ghi nhận là
những sáng tác của Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Nguyễn Công Trứ…
Bao quát chung, văn học ở thế kỷ này có những đội ngũ sáng tác vô cùng
lớn mạnh, nhiều vốn sống và giàu tri thức cũng như sự trải nghiệm thực tế cuộc
đời. Về tác giả ở giai đoạn này không thể không kể đến Nguyễn Du, Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Huy Tự, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Ngô Thì
Nhậm, Phan Huy Ích, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao
Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Nguyễn Công Trứ… Các tác phẩm của những tác
giả trên đạt đến trình độ chuẩn mực cả về hình thức lẫn nội dung, có những tác
phẩm được xem là kiệt tác.
- Thứ tư là văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Âm hưởng chủ đạo bao trùm là tinh thần yêu nước và chống giặc ngoại
xâm. Lúc này, người nông dân được đề cao trong văn học và đó cũng chính là
nét mởi mẻ mà văn học trước đó chưa xuất hiện. Âm hưởng của thơ văn thời kỳ
này, ngoài tính chất hoành tráng vốn có của văn chương chiến đấu còn có thêm
tính chất bi hùng qua những cuộc kháng chiến gian khổ, hy sinh nhiều đau xót.
Các tác giả lớn của văn học thời kỳ này có Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích… Đặc biệt trong số đó là
Nguyễn Đình Chiểu ngọn cờ đầu của văn học yêu nước chống thực dân Pháp.
Tựu trung lại, phần phần lớn các tác phẩm thơ ca trong giai đoạn trung đại
Việt Nam thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phong cách thơ Đường của
Trung Quốc. Thơ trung đại được ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến
đang phát triển cực thịnh, chính vì điều đó khiến cho thơ ca như một bức tranh
họa nên thực tế lịch sử xã hội phong kiến từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Không chỉ thế, những sự thay đổi đó dẫn đến thân phận, cuộc sống của con
người đương thời cũng xáo trộn. Những cảm hứng không thể tách rời và đi
xuyên qua các giai đoạn thơ ca trung đại Việt Nam không thể không nhắc đến
17
cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Nội dung thơ ca trung đại Việt Nam
hầu hết đều nêu cao tinh thần yêu nước, các cuộc chiến tranh, nội chiến cứ liên
tục xảy ra khiến cho tinh thần đời sống của người dân đến các bậc nho sĩ các nhà
hiền tài các nhà thơ nhà văn đều có chung một tinh thần một ý chí bảo vệ chủ
quyền của dân tộc, và luôn gương cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó. Bên
cạnh đó, thơ ca còn bộc lộ và ca ngợi hào khí chiến thắng để từ đó nói lên khát
vọng thanh bình, đất nước thu về một cõi, thái bình thịnh trị… Nhưng nội dung
thơ ca không chỉ dừng lại ở một mảng màu tổ quốc ấy, mảnh đất thơ ca trung đại
nhiều phù sa còn mang đến cho thế hệ đời sau nhiều nguồn cảm hứng và nội
dung khác. Đó là tinh thần yêu thiên nhiên, hòa mình với đất trời và vũ trụ, gắn
bó với làng quê bến nước, các áng thơ như hòa quyện vào những dòng sông, vào
đất trời tự nhiên để thấy được sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, để thấy
tinh thần của các nhà thơ nhẹ nhàng thanh nhã. Cùng với đó, thơ ca trung đại
còn nhiều mảng màu mà các nhà nghiên cứu vẫn mải miết khám phá đó là tình
yêu thương, tình cảm thiết tha dành cho bạn bè, tình cảm gia đình, tình anh em
cha mẹ… Những thứ tình cảm nồng ấm ấy cứ như ngọn lửa phập phồng trong
mỗi áng thơ. Thơ ca trung đại còn đề cao khát vọng cá nhân (Con người được
thơ ca nhắc đến không còn giữ lại cảm xúc cho riêng mình mà tự nhiên bộc lộ
cảm xúc, biết khát khao đi tìm hạnh phúc cho riêng mình...).
Thơ ca còn nói về vấn đề thủy chung son sắt vợ chồng, tình yêu đôi lứa cá
nhân và mong ước được đoàn tụ cùng những người thân yêu. Như phần đầu đã
nhắc đến các tác giả thơ văn trung đại hầu hết là những người có ảnh hưởng rất
lớn trong sự phát triển của xã hội nước nhà khi đó, họ đều là những người có địa
vị trong xã hội, có trí thức, trình độ cao, bên cạnh đó thơ ca thời kỳ này còn bị
ảnh hưởng bởi thơ ca cổ điển.
Thơ ca biến chuyển theo dòng xoay của vận mệnh dân tộc, khi đất nước
lâm nguy, ngòi bút của các tác giả đều hướng về vận mệnh của đất nước (Xót xa
cho cảnh người bị đàn áp, căm thù giặc ngoại xâm, ý chí tiêu diệt kẻ thù…). Và
18
đến khi đất nước giành được độc lập hòa bình thì nội dung lại hướng về con
người, yêu thiên nhiên, tự hào với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lúc bi
tráng khi lại vô cùng hào hùng tha thiết. Đọc thơ ca trung đại chúng ta còn cảm
nhận phảng phất đâu đó là là tình thương người, thương dân, tinh thần từ bi bác
ái rất cao đẹp.
1.3. Giới thiệu những tác phẩm thơ ca có nội dung chia ly
1.3.1. Khái niệm về thơ
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi [28] định nghĩa về thơ như sau: “Thơ là hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng những cảm xúc mạnh
mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. Thơ còn là
hình thức nghệ thuật mà từ chính là chất liệu chính để tạo ra những bài thơ. Một
câu thơ là một hình thức câu cô đọng mà có thể truyền đạt được một hoặc nhiều
hình ảnh có ý nghĩa cho người đọc và hoàn chỉnh về cấu trúc ngữ pháp. Tính cô
đọng trong số lượng từ tính tượng hình và tính nhạc trong thơ khiến thơ trở
thành một hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Thơ ca trung đại Việt Nam kéo
dài từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, trong đó có thơ trữ tình (Đường luật, cổ
phong, song thất lục bát…) bên cạnh đó còn có truyện thơ Nôm với nội dung vô
cùng phong phú.
Khái niệm chia ly
Nói đến chia ly người ta thường nghĩ về một sự cách xa giữa những con
người có mối quan hệ tình cảm gắn bó như vợ với chồng, cha mẹ với con cái,
đôi lứa yêu nhau hoặc những người bạn thân. Theo đó, “Từ điển Tiếng Việt” của
Viện ngôn ngữ học do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên định nghĩa “Chia ly” có
nghĩa là “rời xa nhau, mỗi người một ngả, không còn được chung sống với nhau
nữa”. Dựa trên yếu tố đó, người viết tìm hiểu và chọn lọc những bài thơ có nội
dung chia ly hết sức rõ nét trải dài từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX và những
cuộc chia ly ấy xảy ra trong tất cả các mối quan hệ trong xã hội.
19
1.3.2. Thống kê các bài thơ có nội dung chia ly
Sau đây là những bài thơ có nội dung chia ly được người viết thống kê và
sắp xếp theo thời kỳ và thể loại.
Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XV
1. Tâm không, Viên Chiếu thiền sư (Thất ngôn tứ tuyệt)
2. Thị đệ tử, Vạn Hạnh thiền sư (Thất ngôn tứ tuyệt)
3. Thị tịch kệ, Diệu Nhân ni sư (Tứ ngôn)
4. Thị tật, Quảng Nghiêm
5. Vãn Quãng Trí thiền sư, Đoàn Văn Khâm ( Thất ngôn bát cú)
6. Linh Châu Ngân Giang dịch, Nguyễn Trung Ngạn (Thất ngôn cổ phong)
7. Bắc sứ sơ độ Lô giang, Nguyễn Trung Ngạn (Thất ngôn tứ tuyệt)
8. Quy hứng, Nguyễn Trung Ngạn (Thất ngôn tứ tuyệt)
9. Tống Trung sứ Vũ Thích Chi, Nguyễn Phi Khanh (Thất ngôn bát cú)
10. Tống thái trung đại phu Lê Dung Trai bắc hành, Nguyễn Phi Khanh (Thất
ngôn bát cú)
11. Tống thái học sinh Nguyễn Hán Anh quy Hồng Châu, Nguyễn Phi Khanh
(Thất ngôn bát cú)
12. Tống kinh sư doãn Nguyễn công vi Hành doanh chiêu thảo sứ, Nguyễn Phi
Khanh (Thất ngôn bát cú)
13. Tống hành nhân Đỗ Tòng Chu, Nguyễn Phi Khanh (Thất ngôn bát cú)
14. Tống Long Nham quy Diễn Châu, Trần Nguyên Đán (Thất ngôn bát cú)
15. Tống bình tây đô đốc Trang Định đại vương phụng chiếu chinh Chiêm
Thành, Trần Nguyên Đán (Thất ngôn bát cú)
16. Ký tặng Nhị Khê kiểm chính Nguyễn Ứng Long, Trần Nguyên Đán (Thất
ngôn bát cú)
17. Thu khuê oán, Nguyễn Húc (Thất ngôn bát cú)
18. Đồ trung ký Thao giang Hà thứ sử, Trình Thiêm Hiến, Nguyễn Trãi (Thất
ngôn bát cú)
20
19. Thôn xá thu châm, Nguyễn Trãi (Thất ngôn bát cú)
20. Thanh minh, Nguyễn Trãi (Thất ngôn bát cú)
21. Tự thán, Nguyễn Trãi (Đường luật biến thể)
22. Thần Phù hải khẩu, Nguyễn Trãi (Thất ngôn bát cú)
23. Qui Côn Sơn chu trung tác, Nguyễn Trãi (Thất ngôn bát cú)
24. Cảm hoài, Đặng Dung (Thất ngôn bát cú)
25. Phụng sứ lưu biệt thân đệ, Doãn Ân Phủ (Thất ngôn bát cú)
Giai đoạn từ thế kỷ XVI và nửa đầu thế kỷ XVIII
26. Hương Miệt Hành, Khuyết danh (Thất ngôn cổ phong)
27. Chính định lữ dạ, Trương Hảo Hiệp (Thất ngôn bát cú)
28. Tân Ninh châu thành tức sự, Trương Hảo Hiệp (Thất ngôn bát cú)
29. Đặng lạc đường tảo phiếm, Trương Hảo Hiệp (Thất ngôn bát cú)
30. Khóc Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Kiều
31. Khuê ai lục, Ngô Thì Sĩ
32. Chu trung độc tọa hữu hoài (Một mình ngồi trong thuyền tưởng nhớ), Ngô
Thì Sĩ
33. Thập tư kỳ 1, Ngô Thì Sĩ 34. Thập tư kỳ 10, Ngô Thì Sĩ
Giai đoạn nửa cuối XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
35. Bát muộn, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
36. Ký giang bắc Huyền Hư tử, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
37. Xuân nhật ngẫu hứng, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
38. Thu nhật ký hứng, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
39. Thu chí, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
40. Sơ thu cảm hứng, Nguyễn Du (Thất ngôn tứ tuyệt)
41. Tái du Tam Điệp sơn, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
42. Mạc phủ tức sự, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
43. Ức gia huynh, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
21
44. Độ Long Vĩ giang, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
45. Sơn cư mạn hứng, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
46. Xuân dạ, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
47. Tương giang dạ bạc, Nguyễn Du (Song thất lục bát)
48. Thu chí, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
49. Thu dạ kỳ 1, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
50. Ngẫu thư công quán bích, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
51. Mạn hứng, Nguyễn Du (Cổ phong)
52. Lưu biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 1, 2, 3, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
53. Tổ sơn đạo trung, Nguyễn Du (Thất ngôn bát cú)
54. Đăng nhạc dương lâu, Nguyễn Du (Ngũ ngôn bát cú)
55. Hiểu quá Hương Giang, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
56. Ức tử, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
57. Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
58. Hàn dạ tức sự, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
59. Phó Nam cung, xuất giao môn biệt chư đệ tử, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát
cú)
60. Đoan dương, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
61. Ký Lê Bảo Xuyên Trấn Tây quân thứ, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
62. Châu Long tự ức biệt kỳ 1, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
63. Châu Long tự ức biệt kỳ 2, Cao Bá Quát (Ngũ ngôn bát cú)
64. Chu hành há Thanh Khê nhân cố nhân ký biệt tòng du chư đệ tử, Cao Bá
Quát (Ngũ ngôn bát cú)
65. Biệt Phạm Đôn Nhân lang trung, Cao Bá Quát (Ngũ ngôn bát cú)
66. Tiếp nội thư tín ký hàn y bút điều sổ sự, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
67. Trà giang thu nguyệt ca, Cao Bá Quát (Thất ngôn bát cú)
68. Trệ vũ chung dạ cảm tác, Cao Bá Quát (Cổ phong)
69. Chinh nhân phụ, Cao Bá Quát (Thất ngôn tứ tuyệt)
22
70. Lưu biệt Hoàng Liên Phương, Cao Bá Quát (Ngũ ngôn cổ phong)
71. Khóc tổng cóc, Hồ Xuân Hương (Thất ngôn tứ tuyệt)
72. Khấp Vĩnh Tường Quan, Hồ Xuân Hương (Thất ngôn tứ tuyệt)
73. Bỏ vợ lẽ cảm tác, Nguyễn Công Trứ (Thất ngôn bát cú)
74. Thoại Khanh, Châu Tuấn (Truyện thơ Nôm)
75. Lâm Sanh, Xuân Nương (Truyện thơ Nôm)
76. Truyện Hoa Tiên, Khuyết Danh (Truyện thơ Nôm)
77. Truyện Ngọc Kiều Lê, Lý Văn Phức (Truyện thơ Nôm)
78. Phạm Công - Cúc Hoa, Khuyết danh (Truyện thơ Nôm)
79. Phạm Tải Ngọc Hoa, Khuyết danh (Truyện thơ Nôm)
80. Quan âm thị kính, Nguyễn Cấp (Truyện thơ Nôm)
81. Tống khách hồi Trường An kiêm ký chư cố nhân, Tùng Thiện Vương (Ngũ
ngôn bát cú)
82. An Giang tống Trần Tử Mẫn Phú Yên quản đạo, Tùng Thiện Vương (Thơ
mới năm chữ)
83. Dạ hoài hữu văn kỳ bệnh sổ nguyệt hỉ, Tùng Thiện Vương (Thất ngô bát cú)
84. Mô ngư nhi, Tùng Thiện Vương (Từ phẩm)
85. Tống nhân Bắc du, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
86. Tống nhân Nam hành, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
87. Lưu biệt nhị muội, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
88. Tống biệt - Phú đắc Quan san nguyệt, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
89. Hoài Nguyễn Phương đình học sĩ, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn tứ tuyệt)
90. Tống khách vãng Hà Nội, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
91. Viễn cư hữu hoài, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
92. Tống Nguyễn Vũ Thiện Bích nhân thành tiến sĩ hậu thỉnh giả hoàn hương,
Tùng Thiện Vương (Thất ngôn bát cú)
93. Dạ bạc hoài hữu văn kỳ bệnh sổ nguyệt hỉ, Tùng Thiện Vương (Thất ngôn
bát cú)
23
94. Hoa tiên, Nguyễn Huy Tự (Truyện thơ)
95. Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn (Ngâm khúc)
96. Ai Tư Vãn, Ngọc Hân Công chúa (Song thất lục bát)
97. Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ (Song thất lục bát)
98. Sơ kính tân trang, Phạm Thái (Song thất lục bát)
99. Truyện Kiều, Nguyễn Du (Lục bát)
100. Vạn trạo ca hữu cảm, Nguyễn Tư Giản 101. Nghi câu khách trung thất tịch, Lê Quang Định (Thất ngôn bát cú)
102. Tiên khảo húy nhật cảm tác, Đoàn Nguyễn Tuấn (Thất ngôn bát cú)
103. Hoài nội kỳ 1, Ngô Thì Nhậm (Thất ngôn bát cú)
104. Khóc Bằng Phi, Tự Đức (Thất ngôn bát cú)
105. Phụng họa gia tỷ Nguyệt Đình sơn cư nhạn vịnh kiến ký chi tác, Mai Am 106. Tiễn quan trấn thủ, Phan Huy Ích
107. Tiên tỷ húy nhật cảm hoài, Phan Huy Ích
108. Khốc tiên phần, Lê Quang Định
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
109. Thu dạ lữ hoài ngâm, Đinh Nhật Thận (Song thất lục bát)
110. Ký nội, Phan Thanh Giản (Thất ngôn bát cú)
111. Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông, Trịnh Hoài Đức (Thất ngôn bát cú)
112. Thường Cam, Nguyễn Tư Giản (Ngũ ngôn tứ tuyệt)
113. Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến (Ngũ ngôn cổ phong)
114. Điệu nội, Khóc vợ, Nguyễn Khuyến (Thất ngôn tứ tuyệt)
115. Tống nội tử Ngô Vũ Khanh Nam qui, Nguyễn Thông (1827-1894)
24
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã trình bày những nội dung cơ bản của lý thuyết về văn học
cũng như lịch sử trong suốt thời kỳ trung đại. Có nhiều cách hiểu cũng như cách
phân chia giai đoạn trong thời kỳ này nhưng luận văn đã thống nhất và chọn ra
một cách phân loại mang tính bao quát và hàm súc nhất. Trong đó, khẳng định
hai vấn đề rất quan trọng của đề tài đó là hệ thống lại một cách rõ nét nhất về
lịch sử cũng như văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Tiếp theo đó là tình
hình của thơ ca trung đại Việt Nam nói chung trong toàn bộ thời kỳ. Vị trí, vai
trò cũng như sự tác động của thơ ca đến tình hình văn học chung của nước nhà
cũng được gợi mở ở chương này.
Trong chương 1 là sự kết hợp hài hòa của lý thuyết giữa văn và sử để đưa
ra một kết luận chung nhất có tính cô đọng, khái quát lên được những vấn đề
chính về văn học thời kỳ trung đại. Chương 1 cũng đã giới thiệu sơ lược và
thống kê số lượng bài thơ mang nội dung chia ly, tất cả đều được trình bày cụ
thể, rõ ràng. Với những nội dung nêu trên, chương 1 sẽ tạo tiền đề cho việc phân
tích một cách chi tiết những vấn đề chính xảy ra ở những cuộc chia ly trong thơ
ca trung đại. Trong mỗi giai đoạn, thơ ca lại mang một dấu ấn rất riêng biệt, để
hiểu sâu sắc hơn về nội dung chia ly cũng như tinh thần và thái độ của các nhà
thơ với đề tài này như thế nào luận văn sẽ tiến hành khảo sát trong chương 2.
25
Chương 2. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Thơ ca chia ly thể hiện trong mối quan hệ với gia đình
2.1.1. Thơ ca chia ly trong quan hệ vợ chồng
Để có thể kết duyên vợ chồng thì giữa 2 người phải có một mối nhân duyên
sâu đậm, trong cuộc sống có rất nhiều những mối nhân duyên nhưng có lẽ nhân
duyên vợ chồng là một mối duyên phận sâu sắc nhất. Thơ ca trung đại có rất
nhiều những bài thơ gợi nhớ về tình cảm vợ chồng, trong cuộc sống hàng ngày,
trải qua những giai đoạn cùng nhau đồng cam cộng khổ từ đó khiến cho tình
cảm vợ chồng trở nên mặn nồng hơn.
Quay ngược trở về thời gian của quá khứ có thể thấy rằng hoàn cảnh lịch sử
như một tác nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống vợ chồng. Những
cuộc chiến tranh xảy ra liên miên, người chồng phải đi xa xứ làm tròn nhiệm vụ
với vua với nước là một trong nhiều những nguyên nhân khiến cho vợ chồng
phải xa cách. Nói về thứ tình cảm thiêng liêng ấy, có rất nhiều những tác phẩm
đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm và rõ nét. Rõ ràng ta
thấy, tình nghĩa vợ chồng cũng là một đạo nghĩa mà ai cũng phải trân trọng giữ
gìn. Cảnh biệt ly mỗi người một nơi dường như được khắc họa một cách sâu sắc
hơn, rõ nét hơn khi chàng trai mà cũng chính là người chồng phải đi chinh chiến
ở một nơi xa đã được rất nhiều các tác giả thời kỳ này nhắc đến. Nó như một
bức tranh tường tận những nét vẽ về khung cảnh chia ly giữa vợ chồng. Những
tâm sự nỗi niềm của người ở lại, những nỗi nhớ mong khắc khoải, sự lo âu về
tương lai mịt mù, sự cô đơn trống vắng… Một trong số đó là bài Chinh nhân
phụ của Cao Bá Quát. (Lương nhân phục vị qui./ Tự quân tái ly biệt,/ Tận nhật
lý ty ky/ Quân hành vị đương phản,/ Vị quân tài chiến y...)
26
…Chàng ơi sao không về ngay
Từ buổi đôi ta xa cách
Trọn ngày thiếp giữ khung tơ
Chàng đi chiến chinh xa lắc
Thiếp may áo lính đợi chờ…
(Chinh nhân phụ, Đoàn Thị Điểm)
Tràn ngập trong trích đoạn thơ trên là nỗi lòng của người vợ ở lại trông
ngóng đợi chờ, câu hỏi tu từ “Chàng đi sao không về ngay?” như tỏ rõ nỗi niềm
mong ngóng của người vợ trông đợi chồng. Chiến tranh là nơi con người ta phải
đối đầu với những hiểm nguy, tuy chiến tranh có lẽ không phải là nguồn cảm
hứng chính cho các nhà thơ nhưng nó vô tình tạo ra một không gian chia ly đầy
những màu sắc. Bên cạnh góc độ ngợi ca của sự hào hùng trong chiến tranh thì
những cuộc chia ly vì người chồng phải đi chinh chiến còn gợi mở một góc
khuất đó là những mất mát đau thương chia lìa đầy khắc khoải. Người ở lại bộc
bạch nỗi niềm tâm sự, cảm hứng ngợi ca lúc này được hoán đổi thay thế bằng
những nỗi niềm tâm sự của người chinh phụ vò võ nơi khuê phòng chờ người
chồng chinh chiến trở về. Người vợ phải hy sinh, phải dâng hiến tuổi thanh xuân
cũng chính là quãng đời đẹp nhất của mình cho sự chia ly xa cách. Qua đó người
đọc có thể thấy rõ phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam khi chồng đi chinh
chiến chỉ biết giữ trọn lời hẹn ước thủy chung son sắt chờ mong người chồng
sớm quay trở về.
Nội dung chia ly vì chiến tranh loạn lạc không thể không nhắc đến bài thơ
mà xuyên suốt từ đầu đến cuối như một bức họa đầy những mảng màu của chiến
tranh. Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán do Đặng Trần Côn sáng tác
khoảng đầu thế kỷ XVIII, quay ngược lại vòng xoay của lịch sử đây là thời kỳ
nhiễu nhương của xã hội phong kiến. Sử sách đã ghi lại rằng Lê - Mạc đánh
nhau chưa xong thì đến Trịnh - Nguyễn phân tranh đẩy nước ta vào tình cảnh
chia làm hai nửa, ở khắp các nơi nông dân đứng dậy tạo ra các cuộc khởi nghĩa.
27
Đất nước ta lúc đó chỉ có một khung cảnh biệt ly: cha mẹ xa con, anh em phải ly
tán, vợ phải xa chồng. Người chồng phải xa gia đình vì tiếng gọi của chiến
tranh. Không chỉ những người hy sinh trong trận chiến mà những người ở lại
cũng chính là nạn nhân, họ phải chịu đựng nỗi sầu muộn mong nhớ thương với
người chồng. Mở đầu bài thơ như một lời oán trách:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Là một câu hỏi tu từ vốn đã có câu trả lời, vì đâu mà có chiến tranh để
người người phải chia ly cách trở. Người viết đã tự nhận phận “má hồng” nhiều
nỗi truân chuyên trắc trở, nay lại thêm cảnh chia ly vì chinh chiến. Từ câu thơ
thứ 26 đến câu thơ thứ 32 đã khắc họa buổi chia ly đầy bịn rịn của người thiếp:
…Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa…
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Cảnh nàng tiễn chàng ra trận mà đầy những xúc cảm, bao trùm lấy đoạn
thơ là không khí u buồn. Những câu thơ tiếp theo tác giả đã không ngần ngại mà
bộc lộ một cách rõ ràng sự vô nghĩa của chiến tranh đây có lẽ là số ít những bài
thơ đề cao tình yêu và khát khao đoàn tụ của đôi lứa đó cũng chính là điều mà
thơ văn trước đây rất ít khi đề cập đến. Nàng trong bài thơ dường như thấm thía
tình cảnh bơ vơ vò võ cô đơn. Tuổi xuân cứ thế qua đi và ngày đoàn tụ dường
như xa xôi lắm. Trong khúc ngâm này tác giả dường như đã thành công trong
nghệ thuật miêu tả tâm lý. Cảm xúc nổi bật mà người đọc có thể thấy rất rõ là
28
nỗi sầu nhớ, nhịp của bài thơ cũng muốn ngưng đọng vì nỗi cô đơn ngập tràn.
Đoạn ngâm không chỉ dừng lại ở nỗi nhớ thương chia ly xa cách mà sau buổi
đưa tiễn chia ly đầy quyến luyến, bịn rịn, người vợ trở về khuê phòng, nối tiếp
đó là tâm trạng lo lắng bất an cho người chồng của mình ở nơi chiến trường đầy
hiểm nguy. Nàng bồn chồn, day dứt không nguôi những tâm trạng chồng chất,
khiến cho cuộc sống của nàng thêm phần khổ sở, những từ ngữ gợi lên cho
người đọc cảm xúc buồn đau: “muôn sầu nghìn não”, “biếng cầm kim, biếng
đưa thoi… mặt biếng tô, miệng biếng nói”, “ngẩn ngơ lòng”, “sụt sùi”, “sầu
ôm nặng”, “buồn chứa đầy”…
Khúc ngâm là lời tâm tình đầy xúc cảm của người chinh phụ, tác phẩm đã
nói lên tiếng nói của biết bao cô gái biết bao người vợ phải chịu cảnh cô đơn
buồn tẻ sống thấp thỏm lo âu cho người chồng nơi chiến trường. Người chinh
phụ nào có ước mơ gì cao sang, chỉ hoài mong cảnh được đoàn tụ vợ chồng, gia
đình êm ấm. Hạnh phúc dung dị mà sao lại khó khăn quá đỗi, sau những ngày
mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng, nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng
và cất những lời oán trách qua bao uất ức nghẹn ngào. Qua tâm trạng của người
vợ, khúc ngâm cũng là tiếng nói oán trách chiến tranh phong kiến đã giày xéo
lên hạnh phúc lứa đôi. Chính từ đó cho ta thấy rõ xã hội thời kỳ phong kiến cũng
như các cuộc chiến tranh, những cuộc nội chiến liên miên tàn khốc đã đẩy đời
sống đôi lứa hạnh phúc thành một cuộc sống cô đơn buồn tẻ, hiu quạnh.
Vẫn xuôi theo dòng chia ly mỗi người một phương, vợ chồng phải mỗi
người một ngả:
(Hồi bất đương sơ diệp dữ canh,/ Toại nhân phú quý lụy khuê khanh./ Lý
nguy sỉ ngã tiền phiên ngộ,/ Huề ấu liên quân thử nhật hành.)
Hối hận vì khi xưa không đi cày để vợ đưa cơm,
Chỉ bởi giầu sang mà để lụy cho nàng.
Gặp phải nguy nan, thẹn cho ta đã sai lầm,
Dắt díu con thơ, thương cho nàng ngày nay phải ra đi.
(Hoài nội kỳ 1, Ngô Thì Nhậm)
29
Sử sách ghi lại rằng Ngô Thì Nhậm là một nhân vật sống trong hoàn cảnh
đất nước đang lâm vào thế hỗn loạn lâm nguy, nhưng cung cách sống của ông
thì vô cùng cao đẹp. Ông là một người luôn đặt niềm tin vào thiên mệnh, con
người ông thấm nhuần tư tưởng nho giáo, bài thơ Hoài nội kỳ 1 cũng phần nào
họa nên con người cao đẹp sống vì tình cảm đạo lý, ông tự hối hận và hổ thẹn
cho bản thân mình mà “để lụy cho nàng” để bổ trợ cho khung cảnh chia ly đó
tác giả không quên chèn vào khung cảnh của đất trời “Tháng 8 mùa thu”, tháng
8 có lẽ là thời điểm trời vào thu đẹp nhất, người đọc vì thế có thể cảm nhận cảnh
vật vì sự chia ly mà cũng u sầu theo, một khung trời chia ly đầy khắc khoải,
cảnh chia ly ấy khẽ khàng nhưng đủ sức chạm vào trái tim của người đọc cả một
bài thơ 8 câu thôi mà chất chứa đầy ắp những ân tình vợ chồng. Người ở xót xa
người đi, kẻ mong người chờ, người ở lại nào có vui sướng gì. Tác giả khắc
khoải đêm cũng như ngày nỗi lòng tương tư đêm canh ba vẫn còn trăn trở, đêm
của những tâm sự ngổn ngang. Câu kết của bài thơ như một lời tự thuật “Một
mảnh tình chung sắt với son”. Hình ảnh tình cảm vợ chồng hiện lên cao đẹp,
vượt qua được tình cảm riêng tư nhỏ nhoi của bản thân mà vươn tới những ý
nghĩa cao lớn hơn, người vì chí nam nhi, kẻ vì tình cảm son sắt mà thành. Cả bài
thơ chỉ như một lời thở than khẽ khàng nhưng đủ làm cho người đọc thông cảm
và thấu hiểu. Tiếp sau đó, Ngô Thì Nhậm còn sáng tác Hoài nội kỳ 2 cũng đầy
ắp những tâm sự, đọc Hoài nội kỳ 2 như đọc một lời tâm tình tri ân, sự chia ly ở
đây nổi lên không thật sự sâu đậm, chỉ mờ nhạt thôi nhưng lại là sự chia ly đầy
cao cả. Vì lẽ sống, vì một lý do nào đó mà Ngô Thì Nhậm phải rời xa gia đình,
người ở lại là người vợ lúc này hiện rõ nét là người phụ nữ đáng trân trọng.
Nàng ở lại vẫn son sắt giữ tấm lòng thủy chung, sự chia ly cũng như một tác
nhân tạo nên những nỗi niềm, gợi nhớ về quá khứ cao đẹp “Từng trải tuyết
sương nghìn núi tốt”. Theo đạo Phật, vợ chồng cũng chính là nghiệp quả là mối
lương duyên cao đẹp mà thành, hình ảnh chia ly trong bài thơ này đẹp đẽ lạ kỳ.
Sự chia ly của vợ chồng thường khiến người đọc có một nỗi buồn u uẩn, khắc
30
khoải nhớ mong. Ở đây lại hiện hữu một chí khí cao đẹp của người đi và kẻ ở.
Trong bài Trệ vũ chung dạ cảm tác (Mưa dầm suốt đêm cảm tác) của Cao Bá
Quát đã xuất khẩu thành những áng thơ ca tình nồng về sự chia cách giữa chính
ông và người vợ:
(Thiên biên chinh khách khuê trung phụ,/ Hà xứ tương tư bất đoạn hồn.)
Kẻ ở chân trời và người ở chốn phòng khuê
Đã nhớ nhau thì ai ở đâu mà tâm hồn chẳng tan nát.
(Trệ vũ chung dạ cảm tác, Cao Bá Quát)
Có thể thấy, Cao Bá Quát đã viết được những vần thơ thấm đậm chất tình
trong đó, ông như tâm sự nỗi lòng, thơ của ông không khó hiểu mà rất gần gũi
thân quen với những gì xảy ra quanh cuộc sống hàng ngày. Lời bài thơ thể hiện
rõ trái tim ấm nóng thấm đượm tình cảm mà ông dành cho người vợ, người ở
chốn này, kẻ ở chốn kia vì xa nhau mà tâm hồn giằng xé như nát tan tâm can,
thơ ông như chan chứa lai láng những tâm sự. Đọc đến một bài thơ khác cũng
viết về đề tài ly biệt của Cao Bá Quát, mở đầu bài thơ Tiếp nội thư tín ký hàn y
bút điều sổ sự ta đã thấy nước mắt của Cao Bá Quát rơi khi đọc thư người vợ nơi
quê nhà gửi đến: (Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề/ Thử dạ tàn hồn nhiễu tú
khuê…)
Dưới đèn thơ đọc lệ muôn hàng
Đêm mộng phòng khuê dạ vấn vương…
(Tiếp nội thư tín ký hàn y bút điều sổ sự, Cao Bá Quát)
Giọt lệ của Cao Bá Quát như minh chứng cho việc ông cũng thấu hiểu nỗi
buồn nhớ của vợ mình ở nơi quê nhà. Người vợ hiền khiến ông rơi nước mắt ấy
chắc hẳn là một người vợ có phẩm hạnh cao đẹp khiến cho Cao Bá Quát da diết
nhớ thương khôn nguôi.
Những nhà thơ, những kẻ sĩ ấy đâu chỉ có buồn riêng cho nỗi buồn của
chính mình, mà là buồn cho số phận hẩm hiu đôi nơi cách trở. Để rồi những vần
thơ cứ chìm sâu trong nỗi chia ly, trong u uẩn khắc khoải, những day dứt khôn
31
tả khi tình cảm dang dở, nước nhà lâm nguy.
Những bài thơ chia ly vợ chồng trong thơ ca trung đại Việt Nam phần nào
tái hiện lại tình cảm sâu sắc của vợ chồng, rõ ràng, tình cảm ấy hiện lên rất cao
đẹp qua những cuộc chia ly. Có thể thấy thơ ca là phương tiện sắc bén nhất thuật
lại cho nhân thế đời sau thấu hiểu những tâm tư của thời đại cũ. Có những cặp
vợ chồng vì sứ mệnh cao cả với nước non mà đành chịu cảnh đôi người đôi ngả.
Phan Thanh Giản đã có những sáng tác với nội dung như thế. Theo sử sách ghi
lại, sau khi đỗ chức quan ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Mỹ. Vào tháng 8
năm ấy ông được triệu ra Huế làm Hàn Lâm viện biên tu, ông đã sáng tác bài thơ
Ký nội:
…Đường mây cười kẻ ham dong duỗi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên lòng hỡi lòng ?
(Ký nội, Phan Thanh Giản)
Toàn bộ lời bài thơ cũng chính là nỗi lòng của Phan Thanh Giản. Chỉ với
tám câu thơ nhưng ông đã miêu tả trọn vẹn hoàn cảnh vợ chồng của chính mình.
Ngay từ khi kết nghĩa se duyên vợ chồng, ông đã phải dong duỗi tứ xứ vì lòng
luôn giữ trọn cho non sông đất nước, vâng mệnh nhận nhiệm vụ cao cả. Cũng
chính vì lẽ đó mà đẩy người vợ vào cảnh xa chồng, đêm đêm chịu đựng nỗi lạnh
lùng phủ kín tâm can.
Nước ta tồn tại dưới các triều đại phong kiến từ thế kỷ X - XIX từ hưng
thịnh đến suy vong, vì lẽ đó thơ ca trung đại Việt Nam cũng mang trong mình
vô vàn những dòng cảm xúc khác biệt. Xen lẫn những cuộc chia ly là bóng dáng
của lòng yêu nước đồng nghĩa với tấm lòng trung với vua “trung quân ái quốc”.
Lời bài thơ chỉ đơn giản là lời từ biệt người vợ yêu dấu để vâng mệnh vua
32
nhưng ở đây không chỉ đơn giản là lời tuân lệnh mà là cả sự trân trọng bằng cả
tấm lòng. Rõ ràng, xen vào ý nghĩa của bài thơ là bóng hình của lòng yêu nước.
Giữa mênh mông ý nghĩa lời bài thơ như lời giãi bày tâm tư dành cho núi non
đất nước mà vợ chồng cha con phải chia lìa.
Tình cảm vợ chồng không thể nào không nguôi nhớ khi những nhà thơ phải xa
vợ để đi sứ, cụ thể trong một sáng tác của nhà thơ Trịnh Hoài Đức đã để lại áng
thơ cảm tình chan chứa về tình cảm vợ chồng:
Sứ giả vất vả lần chần mãi nơi quán trạm,
Người vợ nghèo ốm cách biệt phương trời xa.
(Lữ thứ hoa triêu, Trịnh Hoài Đức)
Hình ảnh người vợ hiện lên với vẻ khắc khổ, để hiểu rằng chính sự xa cách
đó là nguyên nhân chính khiến cho những người vợ ở nơi quê nhà phải thêm gánh
vác phần việc của người chồng. Những bài thơ đi sứ đã bộc lộ nhiều nỗi nhớ
thương của các thi nhân, tình cảm dành cho gia đình cứ da diết trong nhớ mong.
Bài thơ Tại Ngô Châu giang thứ, nghĩ sứ thần phụ ngâm thị phó sứ quan
(Khi đậu thuyền trên sông miền Ngô Châu, làm lời ngâm của vợ sứ thần đưa
trình quan phó sứ) của Bùi Quỹ:
Chàng vì cầm cờ tiết đi như bay,
Thiếp trông bụi đường, lòng thương man mác.
Vì nước cũng biết rằng phận chàng đã định;
Nhớ chồng khôn ngăn tình thiếp như ngây.
Ngày mà chàng đang trên đường thăm hỏi nước người;
Chính là khi thiếp lặng lẽ ở chốn buồng the
Bấy nay chàng với thiếp sống trong cảnh quan nghèo,
Mong hãy xong việc công mà sớm trở về.
Cả bài thơ như một bầu trời tâm sự, nghĩ cả cho thiếp mà cũng nghĩ cả cho
chàng. Chàng vì chí lớn, mệnh nước mà phải ra đi, nàng trông theo mà thương
nhớ ngập tràn… Cảnh chàng thì dong duỗi trên đường ra đi, nàng ở chốn buồng
33
the mà nhớ mong đến cảnh vật xung quanh cũng trở nên đìu hiu.
Nguyễn Trãi cũng đã để lại những áng thơ văn về sự ly biệt của những người
chinh phụ. Trong bài Thôn xá thu châm (Tiếng chày đập vải mùa thu trong xóm)
ông viết nên những vần thơ đầy hờn trách của người chinh phụ khi chàng ở nơi ải
xa. (Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh/ Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình/
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,/ Tổng tương ly hận nhập thu thanh.)
Từ đâu vẳng đến khắp sống tiếng nện thình thình?
Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây
(Như) một nỗi ta thán của người chinh phụ có chồng đang ở chốn
Tiêu quan
Cả một niềm ly hận như thấm vào tiếng thu.
(Thôn xá thu châm, Nguyễn Trãi)
Chỉ là tiếng chày đập vải thôi nhưng Nguyễn Trãi đã thấu hiểu nỗi lòng
người chinh phụ qua nhịp đập ấy. Phải là người sâu sắc và tinh tế lắm mới có thể
thấu hiểu lòng người như tác giả bài thơ. Qua tiếng chày, ông hiểu người vợ
đang chất chứa nỗi niềm oán hận khi phải đơn chiếc sống cuộc đời quạnh hiu để
chồng đi chinh chiến nơi chiến trường hiểm trở. Nỗi sầu ly biệt không phải được
chính người vợ nói thành lời mà lại được thể hiện qua nhịp đập của tiếng chày.
Những áng thơ đi sâu vào miêu tả tâm trạng một cách tinh tế khắc họa nỗi
lòng thổn thức sâu kín của nỗi chia ly, không thể nào không nói đến Nguyễn
Húc. Đọc thơ ông luôn thấy những nỗi buồn không hình dạng cứ phảng phất đó
đây. Trong bài Thu khuê oán (lời than thở của kẻ phòng khuê) tác giả khắc họa
được nỗi lòng thổn thức sâu kín của các cô gái trong chốn buồng the:
Lá rụng song tây, lạnh ngõ mai
Giường lan người đẹp giấc đang say.
Tan mơ, cắt lụa may tay áo,
Cắt nhỏ lời thu gửi tới ai.
(Thu khuê oán, Nguyễn Húc)
34
Những ý thơ độc đáo mà có lẽ Nguyễn Húc là người hiếm thấy ở các nhà thơ
trung đại dám bộc lộ rõ dấu ấn cá nhân và sự sáng tạo trong các bài thơ. Nhất là
những bài thơ về tình cảm lứa đôi, mưu cầu hạnh phúc cho chính bản thân mình.
Để viết tiếp những dòng thơ về chia ly vợ chồng phải kể đến bài Khóc bằng
phi của Tự Đức:
Ới Thị Bằng ơi đã hết rồi
Ới tình, ới nghĩa, ới nhân duyên
Trưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn đứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài chứ chẳng thôi.
Vua Tự Đức được biết đến là một vị vua rất nổi tiếng về am hiểu văn chương,
những sáng tác của ông gồm nhiều thể loại và đề tài khác nhau. Một trong
những bài thơ trữ tình mà ông để lại thì Khóc bằng phi là một tác phẩm mang
đến nhiều cảm xúc cho người đọc. Mạch nguồn cảm xúc của bài thơ diễn ra hết
sức tự nhiên xuất phát từ tâm hồn ông. Ông viết bài thơ này chỉ ngay sau khi Thị
Bằng Phi đột ngột qua đời, lời bài thơ chính là nỗi niềm thương tiếc xót xa. Liên
tục là 3 từ “ới” như tiếng kêu thảm thiết vì thương nhớ Bằng Phi. Cả bài thơ
chính là tình ý tha thiết cũng như tâm trạng dằn vặt tiếc thương không sao tả hết
của chính nhà vua dành cho người ông hết mực yêu mến.
Bàn về thơ ca chia ly trung đại không thể không nhắc đến hai bài thơ khóc
chồng của Hồ Xuân Hương, lần thứ nhất Hồ Xuân Hương khóc Tổng Cóc:
Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
(Khóc Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương)
35
Hồ Xuân Hương viết bài thơ này chính là viết cho thân phận của chính
mình, không phải viết cho người quá cố. Tổng Cóc và Hồ Xuân Hương gặp
nhau khi ông lều chõng đi thi, bài thơ là sự nuối tiếc một mối nhân duyên dang
dở do chế độ của xã hội cũ. Bài thơ mang đến nhiều bất ngờ cho người đọc ở
chỗ đọc qua tưởng như bà viết cho người đã khuất nhưng thực tế ông Tổng Cóc
vẫn còn sống chứ không phải đã chết như nhiều người hiểu lầm.
Lần thứ hai khi Hồ Xuân Hương Khóc ông Phủ Vĩnh Tường
(Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi,/ Cái nợ ba sinh đã trả rồi...)
Có thể thấy trong hai bài thơ thấp thoáng nỗi đau của chia ly, tình yêu bị
chia sẻ khi không được sự cảm thông của xã hội thời bấy giờ khiến cho con
người càng ngập chìm trong nỗi sầu bi.
Những dòng thơ biệt ly vợ chồng, không thể nào không nhắc đến Ngô Thì
Sĩ được biết đến với Khuê ai lục. Đây là một tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm
17 bài thơ được viết ngay sau khi vợ ông qua đời. Có lẽ vì vậy bài nào cũng gợi
cho người đọc nỗi sầu bi chua xót cho sự chia lìa. Trong một bài thơ Ngô Thì Sĩ
đã bày tỏ lòng mình với người vợ đã khuất:
Yêu thương ở cùng nhau thế mà bỗng dưng mất nhau
Tiết trời nóng lạnh cứ tuần tự thay đổi
Người thì chôn vùi tấm thân ngọc dưới nấm mồ lặng lẽ
Người thì lên thuyền một mình trên sông dài xa xăm...
(Chu trung độc tọa hữu hoài, Ngô Thì Sĩ)
Nỗi xót xa, đau đớn khi người vợ mà ông hết mực yêu thương đã ra đi mãi
mãi. Đọc bài thơ có thể thấy ông vật vã trong cơn u mê của cõi lòng. Ông không
biết gửi gắm lòng mình vào đâu, đành tựa vào những áng thơ để rồi tập Khuê ai
lục được ra đời trong hoàn cảnh đó. Tiếp theo của những tháng ngày khổ sở tâm
can ấy Ngô Thì Sĩ đã có sự biến chuyển tâm lý. Nhìn lại những kỷ vật cũ của
người vợ tâm trạng ông luyến tiếc, cô đơn trống trải khi giờ đây không còn ai
cùng mình đèn sách, cầm ca:
36
(Tư quân vô kế hiệu quân thư,/ Tự tích hàng hàng mật hựu sơ./ Lễ huấn chí
kim di quyển trật,/ Bất văn phiên nghĩa tự đương sơ.)
Nhớ nàng không có cách nào, đành đem sách của nàng ra hiệu
chỉnh,
Bút tích nàng từng hàng từng hàng, chỗ mau chỗ thưa.
Sách dạy về lễ nghĩa ngày nay còn lại đó,
Nhưng chẳng còn nghe lời dịch nghĩa như ngày xưa.
(Thập tư kỳ 1, Ngô Thì Sĩ)
Hay trong Thập tư kỳ 10:
(Tư quân vô kế mộng tầm quân,/ Tương kiến thời vô nhật dạ phân./ Sát
hận tầm thường vọng khế thoát,/ Thông thông kỷ hoạch tự ân cần.)
Nhớ nàng không có cách nào, đành tìm nàng trong mộng,
Những lúc gặp nhau không phân biệt ngày hay đêm.
Hận là trong lúc gần gũi ngắn ngủi đó đã quên mất sự ly biệt,
Vội vàng có mấy khi bày tỏ được nỗi ân cần.
Nối tiếp dòng thơ ly biệt này, có một thi sĩ nữ đã để lại nhiều áng thơ thấm
đẫm nước mắt với nỗi đau mất chồng mất con đó là Mai Am. Trong bài thơ
Phụng họa gia tỷ Nguyệt Đình sơn cư nhàn vịnh kiến chi ký tác:
(Thi tụng nguyên linh hoàn nại độc./ Cầm đàn biệt hạc bất thành thanh/ Kết
ly khổ tự tư đồng huyệt/ Di cốt nan quy cựu kiến oanh.)
Nguyên linh thơ gượng ngâm câu vận
Biệt hạc đàn không dậy tiếng tơ
Kết tóc khổ mong chung mộ huyệt
Xây lăng khôn nhặt nắm xương thừa.
Bằng những câu thơ với lời thơ hết sức nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa bên trong
đó là nỗi đau đớn tột cùng khi người chồng của bà đã chết mà không tìm thấy
xác. Chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng người đọc cũng có thể thấy rõ tấm lòng mà
bà dành cho người chồng quá cố của mình.
37
Trong một cuộc đưa tiễn khác bà viết:
(Đông phong bất giải lưu xuân trú/ Cánh tác phi hoa tống khách châu.)
Gió xuân chẳng biết cầm xuân lại
Còn thổi hoa bay đến tiễn người.
Thơ của Mai Am vừa tha thiết trăn trở lại nhớ nhung da diết, và cũng là cái
nhìn tinh tế trước những biến chuyển của cuộc đời. Cũng có lúc cảm giác như
những âm ĩ đớn đau của ly biệt như ngấm ngầm xé nát tâm can của người phụ
nữ có cái nhìn tinh tường về cuộc đời.
Những tác phẩm chia ly vợ chồng đều bộc lộ được những cảm xúc hết sức
đậm đà, khắng khít. Đôi câu thơ sau của Nguyễn Kiều cũng cho người đọc thấy
những điều đó:
…Đào chưa tươi đã khô
Quế đang thơm đã rũ
Rừng sâu, bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát, châu chìm, lòng tôi quặn nhớ…
Tóm lại, qua những bài thơ thể hiện nỗi sầu chia ly vợ chồng ta có thể thấy
được tình cảm nồng ấm gắn bó bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Mỗi cuộc tiễn
đưa, mỗi cảnh ly biệt đều là những tiếng lòng chất chứa những đau đớn nhớ
thương. Cũng qua những bài thơ mà các thi nhân xưa để lại, người đọc càng
thấy rõ hơn nét đẹp truyền thống về đạo lý vợ chồng của thế hệ xưa, đẹp đẽ nhất
có lẽ là tình nghĩa sắt son vợ chồng.
2.1.2. Thơ ca chia ly trong quan hệ anh em
Những dòng thơ chia ly ấy, bên cạnh các cuộc chia ly giữa vợ chồng còn có
những cuộc chia ly khác mang đậm nỗi thớ thương khắc khoải giữa tình thân
của những người thương yêu trong gia đình đó là tình cảm anh em. Những tác
phẩm văn học, cụ thể là loại hình thơ ca đã phần nào tô vẽ được những cuộc chia
ly đầy màu sắc. Tuy trong kho tàng lưu trữ thơ ca trung đại vẫn còn hạn chế
những nội dung về anh em ly biệt nhưng chỉ điểm xuyết một vài bài thơ đã
38
khiến cho người đọc thẩm thấu về nỗi niềm chia ly giữa những người anh em.
Nguyễn Đề đã viết lên tâm trạng cũng như khẳng định lòng mình khi xa
cách trong một bài thơ. (Nhất niên tiểu biệt ưng vô kỷ,/ Lưỡng địa tương tư
lượng bất thù./ Hình ảnh tuy dao đàm tiếu cận,/ Mộng hồn dạ dạ hướng Quỳnh
Châu.)
…Một năm tạm biệt, chắc chẳng là bao?
Đôi nơi nhớ nhau hẳn không khác nhau
Hình bóng tuy xa, tiếng nói cười gần
Hồn mộng đêm đêm, hướng về Quỳnh Châu.
(Ký đồng hoài đệ Thanh Hiên Tố Như tử, Nguyễn Đề)
Với tình cảm luôn thường trực trong lòng thi một năm xa cách có lẽ sẽ sớm
trôi qua nhanh, ông tin rằng dù là hai phương trời ly biệt nhưng tấm lòng luôn
hướng về nhau. Người thì xa đó nhưng tiếng nói tiếng cười vẫn như ở cạnh bên.
Quay ngược lại dòng lịch sử, thế kỷ XVIII - XIX con người cá nhân có sự
bùng phát rất lớn. Bài thơ là cả một nỗi lòng vương vấn lúc chia ly nhớ mong
khắc khoải “Một năm tạm biệt chắc chẳng là bao/ Đôi nơi nhớ nhau hẵn không
khác nhau/ Hình bóng tuy xa, tiếng nói cười gần”. Tác giả như tự động viên bản
thân mình rằng một năm không quá dài, tự an ủi mình thời gian sẽ trôi qua
nhanh đôi nơi dù xa cách nhưng tấm lòng anh em thì trước sau như một. Những
câu thơ như hơi thở nhớ thương bóng hình của người thân, sự khẳng định không
vì xa cách mà đổi thay, xa nhau là thế nhưng lời thơ cũng cho ta thấy rõ tâm thế
của người chia ly cao đẹp và đáng quý biết bao. Còn với Nguyễn Du ta không
khó để bắt gặp những vần thơ mà ngay ở đó tỏ rõ sự tan tác chia lìa, dễ dàng bắt
gặp trong các bài thơ bởi có lẽ trải dài trong cuộc đời ông là những cuộc chia ly
đầy u sầu, trong bài Quỳnh hải nguyên tiêu ông viết “Hồng lĩnh vô gia, huynh đệ
tán” (chốn non hồng không còn nhà anh em tan tác), Nguyễn Du tự thấy mình
như một vị khách mãi lưu lạc phiêu du nơi chân trời góc bể luôn muốn tìm chốn
bình yên để trở về. Trong Thanh Hiên Thi tập (tập thơ Thanh Hiên) tập thơ chữ
39
Hán đầu tiên của Nguyễn Du, tập thơ này như lời tâm sự, một tập nhật ký ghi lại
những cảm xúc tâm sự của chính nhà thơ khi ông lang thang chân trời góc bể.
Thời gian đó, gia đình ông sống dưới chế độ Lê - Trịnh, trong giai đoạn đầu của
tập thơ, còn được đặt tên Mười năm gió bụi có bài thơ Ức gia huynh. (Lục Tháp
thành nam hệ nhất quan,/ Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan./ Cùng tưu lam
chướng tam niên thú,/ Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn./ Nhất biệt bất tri hà xứ
trú?/ Trùng phùng đương tác tái sinh khan./ Hải thiên mang diểu thiên sư lý,/
Thần phách tương cầu mộng diệc nan!)
Chức quan buộc chân anh ở phía nam thành Lục Thá.
Đi vào đó ban đêm phải vượt đèo Hải Vân, đá lởm chởm,
Anh ở nơi hẻo lánh đầy khí độc ấy ròng rã đã ba năm trời
Tiết tháng hai lạnh lẽo chắc nhớ hoa khói quê nhà lá.
Kể từ khi từ biệt nay không biết đích xác nơi nào,
Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau.
(Ức gia huynh, Nguyễn Du)
Tùng Thiện Vương cũng có những bài thơ chia ly xa cách, trong đó có bài
Lưu biệt nhị muội, Tùng Thiện Vương là một nhà thơ lớn có rất nhiều những
đóng góp cho thơ ca trung đại Việt Nam, ông cũng nổi tiếng với những tác phẩm
thơ ca tống tiễn:
Vội vàng việc vua đã gần đến ngày ra đi
Anh em tình sâu nghĩa nặng lưu luyến chia tay chậm
Ngày mai trông mong nhau ở chốn nào,
Núi Thương Sơn như một chấm soi bên sông lúc chiều tối.
(Lưu biệt nhị muội, Tùng Thiện Vương)
Tùng Thiện Vương làm bài thơ này trướckhi khởi hành để từ biệt hai người
em gái của mình. Không quá hân hoan với cảm xúc được sung chức mà ngược
lại, gần đến ngày ra đi lòng ông lại buồn nỗi buồn cách trở xa xôi. Ông giãi bày
tâm sự với lòng thương yêu các em một cách trìu mến, ông tự hỏi rằng rồi mai
40
đây anh em sẽ gặp nhau, biết tìm nhau nơi đâu? Tâm trạng hòa cùng với cảnh
núi non đất trời gợi bao ý niệm buồn nhớ của người chuẩn bị phải ra đi, chia ly
với những người em bao nhiêu năm quấn quýt không rời.
Những bài thơ chia ly như một bức tranh miêu tả hiện thực cuộc sống bao
trùm lấy khắp xã hội Việt Nam khi đó. Biết làm sao khi nước nhà cứ lâm vào
cảnh thù trong giặc ngoài, khung cảnh chia ly cứ ẩn hiện lên những mối quan hệ
mà ngỡ như không thể rời xa. Không những vậy, xã hội khi đó vẫn kêu gọi
những con người có chí lớn, những tâm hồn muốn bay cao cho giấc mộng công
danh được thỏa nguyện. Tấm lòng của người quân tử vẫn y nguyên như lời thề
son sắt thủy chung vợ chồng, như nghĩa tình anh em keo sơn gắn bó dù xa cách
nhưng lòng luôn hướng về ngày đoàn tụ, dù cách trở nhưng tấm lòng vẫn trước
sau như một, tinh thần ấy, dù chia ly cũng không thể quật ngã, đời sau nhìn lại
bỗng thấy trân quý biết bao.
2.2. Thơ ca chia ly thể hiện trong quan hệ xã hội
2.2.1. Thơ ca chia ly trong tình bạn
Khác với tình cảm vợ chồng, anh em, tình cảm bạn bè lại có những sắc thái
riêng biệt. Thời kỳ trung đại cũng là thời kỳ mà mỗi con người đều thấm đẫm
nhiều tư tưởng đạo lý cao đẹp của các hiền nhân xưa để lại. Nối tiếp dòng thơ
chia ly ấy, là những cảm xúc khác khi trong xã hội có biết bao mối quan hệ thân
tình mà bạn bè là một trong những mỗi quan hệ ấy. Sau “tam cương, sau ngũ
thường” con người xưa khi đó không quên đến ngũ luân. Ngũ luân có nghĩa là:
“Quân thần hữu nghĩa, phụ tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự,
bằng hữu hữu tín”. Có thể thấy tình cảm bạn bè là thứ tình cảm luôn được nhắc
đến trong các nghĩa tình phải có trong luân thường đạo lý làm người, có lẽ vì
vậy các nhà thơ đã ưu ái dành những áng thơ cho bạn bè, khiến cho số lượng của
chúng rất nhiều.
Trong dòng thơ tống tiễn bạn, Tùng Thiện Vương cũng là một nhà thơ để
lại số lượng bài thơ khá nhiều:
41
Đưa ai Nam Phố lệ như tơ,
Bạn thẳng sang đông tôi ngẩn ngơ.
Xin nhắn: cố nhân mòn mỏi hết.
Lạc Dương xưa khác với bây giờ.
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Lời bài thơ đúng như một lời tiễn biệt, tác giả thể hiện tâm trạng của bản
thân mình trước lúc chia tay, cảm giác buồn mênh mang, một nỗi buồn khó gọi
tên khiến ông cảm thấy “ngẩn ngơ”. Đây là một cuộc tiễn đưa một người bạn
của ông về lại phương Bắc, ông lấn cấn chần chừ bởi không muốn cảnh chia tay
diễn ra nhanh chóng. Cũng như các nhà thơ khác, Tùng Thiện Vương là một
trong những tác giả lớn phải chịu nhiều cảnh biệt ly trong cuộc đời của mình,
những bài thơ tống tiễn của ông đều mang những tâm trạng khác nhau, nhiều
hương vị và cảm xúc khác biệt. (Quan sơn thu dạ nguyệt mình thì,/ Ảnh nhập ly
diên động khách bi./ Minh nhật ngũ canh tàn mộng giác,/ Bình phân lưỡng địa
chiều tương ti (tư).)
Nơi đèo ải, đêm thu lúc trăng sáng
Bóng soi vào tiệc tiễn đưa, động lòng khách buồn rầu
Ngày mai, giấc mộng năm canh tàn, tỉnh thức
Chia đều hai mảnh đất, rọi nỗi nhớ mong nhau.
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Có thể nhìn thấy cảnh tượng trong bài thơ hiện lên hết sức trữ tình, trong
khung cảnh nơi quan ải, ánh trăng sáng rọi mọi thứ trong một đêm tiết trời vào
thu, ánh trăng len lõi vào tận nơi tiệc diễn ra. Ánh trăng đó khiến cho mọi thứ
trở nên dịu nhẹ và lãng mạn hơn, khung cảnh khiến cho những người chia tay
cảm thấy lòng buồn mênh mang, khiến cho cả chủ và khách phải động lòng.
Trong thơ của Tùng Thiện Vương ta hay bắt gặp cảnh tượng nay hội ngộ bên
chén rượu, bên bàn tiệc đầy ắp tiếng cười của sự đoàn tụ nhưng ngày mai lại là
cảnh tiễn biệt kẻ ở người đi đầy lưu luyến bịn rịn. Nó cho ta cảm thấy cuộc sống
42
như một chuỗi những tháng ngày có hội họp rồi lại tan rã, có vui rồi lại buồn và
không có cuộc chia ly nào là dễ dàng, là khiến cho những người trong cuộc cảm
thấy dễ chịu trong tâm can.
Tùng Thiện Vương là một nhà thơ để lại rất nhiều tình cảm trong thơ dành
cho những người bạn, ông thường xuyên gửi lời đến những người bạn nơi
phương xa:
Cỏ xuân non mơn mởn, dương liễu rủ xuống
Đưa tiễn khách qua sườn núi lúc chiều tà
Về đến Trường An các bạn thân nếu hỏi nhau
Đừng nói mặt buồn như lúc ra đi.
(Tống khách hồi Trường An kiêm ký chư cố nhân, Tùng Thiện Vương)
Ông tiễn đưa những người bạn của mình nhưng cũng không quên nhắn gửi
lời đến những người bạn thân quen ở Trường An. Cảm xúc buồn rầu là vậy
nhưng ông lại không muốn mọi người phiền lo cho mình, cho thấy ông là một
người sống rất tình cảm và không muốn để ai vì mình mà phải lo lắng buồn khổ.
Thậm chí những khi vui vẻ nhàn nhã dạo bước trong khung cảnh đẹp đẽ
của đất trời của sự yên bình bên dòng sông khi trời đã vào đêm. Ông vẫn nghĩ
đến những người bạn:
Bạn thân cách trở quan san,
Song ngư ngày đêm chìm.
Làm sao có thể hướng vọng về quê bạn?
Nghìn dặm chiều tối mây sẫm màu.
(Dạ hoài hữu văn kỳ bệnh số nguyệt hỉ, Tùng Thiện Vương)
Không chỉ những lúc tiễn biệt cảm xúc của ông mới dâng trào về người bạn
của mình, ngay cả những khi lòng đang không vướng bận chỉ là những lúc bản
thân dạo bước trong đêm bên sông hữu tình ông vẫn hướng lòng mình về người
bạn của mình.
Xuôi theo dòng thơ tống tiễn của Tùng Thiện Vương, người đọc dễ dàng để
bắt gặp những cảnh đưa tiễn người Nam kẻ Bắc:
43
Tiễn anh ra Bắc cũng như một mình bước đi nước ngoài
Lòng buồn như túi không đáy nghĩ đến Triệu Châu
Một khúc ca ly biệt lòng nao nao dứt áo chia tay
Ba ly rượu tiễn biệt tình cũ xa xôi…
(Tống nhân Bắc du, Tùng Thiện Vương)
Hay một bài thơ khác lại là tiễn đưa bạn về xứ Nam, cũng như những lần
tiễn biệt với bạn bè, ông đều mở tiệc rượu trước lúc bạn lên đường:
Đầy nhà tiếng đàn tiếng sáo cùng cất lên,
Cây liễu mùa thu trước cửa, ngựa trắng hí
Đêm nay xin bạn đừng uống say
Vì sáng mai còn phải đi đến nơi khỉ kêu loạn xị.
(Tống nhân Nam hành, Tùng Thiện Vương)
Đây là một bài thơ đưa tiễn mang hương vị buồn sầu, cảnh tượng diễn ra
trong một buổi tiệc rượu có tiếng sáo tiếng đàn, bên cạnh đó là hình ảnh cây liễu
rũ trước cửa trong khung cảnh đất trời đang vào thu. Nó khiến cho người đọc dễ
dàng hình dung ra một không gian có con người, có cảnh vật đất trời. Hình ảnh
cây liễu dễ dàng bắt gặp trong các bài thơ cổ, nó chính là hình ảnh ước lệ của
thơ cổ điển phương Đông. Hình ảnh cây liễu mong manh đượm buồn tượng
trưng cho sự chia ly, nhắc đến liễu người ta thường cảm thấy buồn rầu hiu hắt.
Những bài thơ tống tiễn bạn bè của Tùng Thiện Vương phần nào làm rõ bức
tranh chia ly trong xã hội đương thời khi đó.
Xã hội Việt Nam khi ấy tràn đầy những nhiễu nhương biến động, thời đại
mà con người sống bằng tình cảm cao đẹp ấy không thể không nhắc đến mối
quan hệ giữa những người bạn. Tình bạn trong thơ ca trung đại Việt Nam vẫn
đẹp qua năm tháng, vẫn ý nghĩa nguyên vẹn, vì sự bất hòa trong xã hội tất yếu
mà đưa con người đến những thế cảnh gian truân.
Cao Bá Quát cũng đã có những áng thơ thể hiện tình cảm của mình cho bạn
bè đầy nồng ấm tình thương. (Dĩ tứ niên lai bất tương kiến,/ Kiến thì liên ngã
44
cánh liên quân./ Mang mang thân thế tri hà liễu,/ Hạo hạo càn khôn tích tạm
phân./ Vạn lý ức quy sầu Tử Mỹ,/ Nhất quan đa bệnh sấu Hưu Văn./ Minh thần
khước vọng giang kiều lộ,/ Nam lĩnh vân liên bắc lĩnh vân.)
Xa nhau kể đã bốn năm chầy,
Gặp mặt, thương mình, xót bạn đây.
Thân thế mịt mờ bao thuở hết?
Đất trời man mác tạm chia tay.
Xa quê, Tử Mỹ buồn muôn dặm,
Lên chức, Hưu Văn bệnh héo gầy.
Mai mốt trông vời sông cách trở,
Non nam núi bắc, một trời mây.
(Biệt Phạm Đôn Nhân lang trung, Cao Bá Quát)
Lời thơ như chất đầy nỗi lòng của buổi chia tay, không chỉ con người mà
ngay cả đất trời cũng có thể cảm nhận được nỗi buồn này, ông buồn cho số kiếp
của mình của bạn, buồn cho thân thế phải lưu lạc khắp nơi cho cảnh cách trở
người với người. Không buồn sao được khi con người ta không thể được sống
cùng những người bạn chí cốt. Xa nhau biệt ly tận bốn năm trời, tác giả thể hiện
nỗi xót thương ngày gặp lại, ông cũng tự nói rằng chính thân thế cứ mông lung
mịt mù mãi nơi chân trời góc bể, biết làm sao cho hết những tháng ngày ấy.
Thân có tài nhưng mãi phiêu du không chốn định thân, cảm giác chông
chênh khi bạn và mình mỗi người một ngã thì tài đến mấy cũng cảm thấy tâm
hồn cô đơn. “Thân thế mịt mờ bao thuở hết?” nó cũng như lời oán giận xã hội
nhiễu nhương khiến cho bao thân phận con người phải lâm vào cảnh mịt mùng
không lối thoát. Cảnh xa quê, cảnh đất trời ngập tràn một màu khói lam buồn
của sự chia ly làm sao nói cho hết, lời thơ chất chứa đầy ắp những cách trở, Nam
Bắc không thể thu lại một cõi để con người không phải sống trong cảnh chia ly.
Trong Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự, Cao Bá Quát cũng thể hiện nỗi lòng
trống trải khi không có bạn bên cạnh, điều đó dễ cho ta thấy cụ là người sống đề
45
cao tình thân bạn bè, trong thơ ông dễ dàng bắt gặp những tình cảm ấm nóng
giữa bạn bè, ông trân trọng và giữ gìn biết bao nhiêu mối quan hệ tốt đẹp ấy.
“Bạn bè bốn biển, không có người vụng về/ Tâm sự trăm năm, biết cùng ai
bày tỏ/ Tình cảm dạt dào, tạ ơn ánh trăng chiếu cây cau/ Từng làm bạn cùng
khách ẩn dật đi về, với mộng mơ cô độc”. Bạn bè lưu lạc khắp các phương trời
góc bể, mỗi người trú ngụ một phương, biết làm sao khi lòng cần một người bạn
để thỏa lòng tâm sự, nỗi niềm cứ chất chứa mà không biết giải bày cùng ai. Ông
nhớ lại thủa còn được hàn huyên đi về có nhau, giờ đây ai cũng mang tâm trạng
cô độc. Lần tìm về tiểu sử của cụ Cao Bá Quát, có thể thấy cuộc đời của cụ là
một chuỗi những tháng ngày phải chịu cảnh ly tán, ông sinh ra trong hoàn cảnh
nghèo khó nhưng tấm lòng và nghĩa khí của ông lại cao đẹp ngút trời.
Cao Bá Quát mang trong mình một dòng máu cao đẹp của nghĩa khí nam
nhi, thơ ông chan chứa những tình cảm nồng hậu dành cho những điều xảy ra
xung quanh mình. Cũng chính vì lẽ đó, ông không thể hòa mình vào thế nhiễu
nhương của xã hội. Nhiều hơn cả trong phẩm chất tình cảm của con người Cao
Bá quát có lẽ phải nói đến là tình bằng hữu, khi tìm hiểu thơ ông chúng ta dễ
dàng bắt gặp đến tình bạn, ông rất nhiều lần nhắc đến tình cảm bè bạn. Bạn của
ông bao gồm cả những người giao tiếp xã hội lẫn những người bạn tâm giao tri
kỷ, ông có thể được xem là một người quảng giao rất được bạn bè quý mến.
Không dễ gì chiếm hữu được tình cảm lớn của bạn bè như Cao Bá Quát, để có
được tình cảm đó có lẽ là nhờ sự thân thiện, chân thành và cái tình toát lên từ
chính tâm hồn cao đẹp của ông. Cũng như quy luật của cuộc đời hội họp rồi chia
ly, thơ của ông khi viết về tình bạn cũng vậy dù bất cứ lúc nào, khi đưa tiễn chia
biệt hay khi sum vầy thì tinh thần ông vẫn luôn ngập tràn xúc cảm. Nói về thơ
chia ly, Cao Bá Quát đã để lại rất nhiều những áng thơ ngập tràn tâm trạng, thậm
chí thơ ông còn có thể viết riêng về mảng đề tài tiễn biệt. Đọc thơ tiễn biệt của
ông luôn có một tâm trạng nặng trĩu khi giây phút chia tay đến rồi mà người ở
vẫn không muốn rời xa. Những câu thơ cho thấy lòng ông cũng xáo trộn không
46
kém khi ngẫm lại sự ly biệt trong cuộc đời: (… Ở đời người ta cảm nhau vì ý
khí,/ Sum họp hay chia phôi mình có tính lấy được đâu…)
Ông dường như tự động viên chính bản thân mình, tự chiêm nghiệm ra
những triết lý đạo đức sống ở đời và hiểu ra sự sum họp hay chia phôi không thể
do bản thân mình mà thành. Đó có thể được xem là một lời tự an ủi để bản thân
mạnh mẽ bước tiếp trên con đường xa cách những người bằng hữu. Cao Bá Quát
nhiều lần tỏ bày cảm xúc nhớ thương bạn bè, ông nhớ lại lúc chia tay, đếm
ngược thời gian ly biệt cùng bạn trong bài Châu Long tự ức biệt 1 (Nhớ chuyện
chia tay ở chùa Châu Long kỳ 1). (Nhất biệt vi tam hữu,/ Trùng lai cận lục tuần./
Gian nan câu tác khách,/ Tịch mịch bán thương xuân./ Lữ mộng kinh tiêu vũ,/
Ly tư cách mã trần./ Ý lan sầu bất ngữ,/ Sổ biến nhãn trung nhãn.)
Một lần ba bạn giã từ
Đến nay cũng đã gần ư sáu tuần…
Gió mưa mộng khách thêm sầu
Bụi trần gió ngựa nếm mùi chia phôi.
(Châu Long tự ức biệt 1, Cao Bá Quát)
Có thể thấy đề tài ly biệt được Cao Bá Quát lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong
thơ ông nhưng có một điều cho thấy rằng ông không hề cô đơn hay nỗi nhớ
mong chỉ đến từ một phía, thơ ông cho thấy rõ sự tương tác nhớ mong của đôi
bên bạn bè dù ở hai phương trời cách trở. Theo lẽ thường tình trong cuộc tiễn
biệt, người ra đi thường mang tâm trạng u sầu nặng nề hơn kẻ ở lại nhưng ta lại
thấy trong thơ Cao Bá Quát dù đi hay ở ông cũng chất chứa nỗi niềm tâm sự trĩu
nặng tâm can.
Cách biệt lâu rồi đã bốn năm
Gặp nhau thương bạn lại thương mình
Đất trời man mác mùi ly biệt
Thân thế mơ màng hận nỗi trôi…
(Biệt Phạm Đôn Nhân lang trung, Cao Bá Quát)
47
Tâm trí ông dường như thường nghĩ đến cảnh ly biệt, mọi tâm sự của ông
cứ quẩn quanh hội ngộ đến chia ly. Cảm giác xa bạn bao năm trời cách trở, khi
hội ngộ không chỉ thương cho bản thân mình mà ông còn thương cho cả người
bạn xa cách ấy. Xung quanh ông ngập tràn không gian ly biệt, tình cảm của ông
cứ dâng trào đến độ khó kìm nén được. Cao Bá Quát làm thơ chia ly, cách trở
nhưng lại mang phong cách hết sức nhẹ nhàng, mà không nặng nề những ưu tư
trăn trở. Nỗi nhớ bạn khi nhìn cảnh vật, khi thấy trăng thanh, khi đang hòa tâm
hồn cùng gió mát… tất cả mọi hoạt động trong cuộc sống đều khiến ông nghĩ về
bạn bè ở nơi xa cách. Khi ông tiễn bạn lệ có khi rơi đầm đìa đến ướt khăn, ông
lại ngậm ngùi buồn thương mà không nói thành lời. Tấm lòng ông dành cho bạn
bè trước sau như một, tình cảm dù có xa xôi cách trở vẫn không thay đổi. Ông
nhớ đến để rồi tâm trạng lại tràn ngập cô đơn, buồn day dứt không nguôi:
Người đi đầu bạc chưa về lại
Tiếng ốc buồn đưa nẻo Hán giang
(Gửi Lê Bảo Xuyên đi quân thứ ở Trấn Tây, Cao Bá Quát)
Những người bạn tâm giao luôn hướng về nhau dù xa xôi vạn dặm, khi chia
ly mọi cảnh vật xung quanh dường như cũng u sầu theo. Những bài thơ tống tiễn
của Cao Bá Quát dành cho những người bạn cho thấy tâm hồn cao đẹp và đạo
đức sáng ngời của ông. Chính vì lẽ đó bạn bè cũng dành rất nhiều tình cảm cho
ông thể hiện qua những khi ông đau ốm, bệnh tật… bạn bè đều đến thăm nom,
trò chuyện. Tình cảm bạn bè luôn được Cao Bá Quát trân quý và vun đắp kể cả
những khi chia ly, xa cách hàng vạn dặm. Khung cảnh hội ngộ thì hiếm thấy mà
chỉ thấy mịt mờ chia ly nhưng chân tình ông dành cho những người bằng hữu
vẫn vậy không đổi dời. Thậm chí có ngày trăm lần ông nghĩ về bạn, lúc chia tay
khi tiễn đưa ông đều tỏ bày xúc cảm mãnh liệt da diết không nguôi.
Nối tiếp những dòng chia ly ấy có thể nhắc đến Nguyễn Du, Nguyễn Du
cũng như Cao Bá Quát, tự do thể hiện tình cảm cá nhân của mình với thế sự
xoay vần. Cụ thể, Nguyễn Du có chùm bài thơ chia tay với Nguyễn Đại Lang.
48
Sau thời gian gặp gỡ quý báu, Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang đã chia tay nhau
ở Liễu Châu. Đó chính là hoàn cảnh sáng tác chùm bài thơ tiễn biệt chia ly
Nguyễn Đại Lang. Sau những tháng ngày bị bệnh tật hành hạ thân thể, ông đã
viết nên những vần thơ chia ly người anh kết nghĩa, ra đời vào khoảng tháng tư
năm 1788. (Ngã thả phù giang khứ,/ Tống quân quy cố khâu. Càn khôn dư thảo
ốc,/ Phong vũ túc cô chu./ Thu dạ ngư long trập,/ Thâm sơn mi lộc du./ Hưu kỳ
bất thậm viễn,/ Tương kiến tại trung châu.)
Tôi cùng qua sông
Đưa anh về nơi ở cũ.
Cả đất trời chỉ còn lại mái nhà tranh,
Khi mưa gió thì nằm trong chiếc thuyền côi
Đêm thu cá rồng ẩn nấp,
Hươu nai nhởn nhơ trong rừng sâu.
Ngày vui không còn xa lắm nữa,
Sẽ gặp nhau ở trung châu
(Biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 1, Nguyễn Du)
Đây là buổi tiễn đưa Đại Lang về lại quê hương cũ, cảnh chia ly dường
như xảy ra hết sức nhẹ nhàng, ông dùng tài năng thơ ca của mình để diễn tả lại
cảnh vật đất trời khi đó. Bài thơ không cho người đọc thấy cảnh buồn rầu khi
chia ly.
Mà lại tạo cho người đọc cảm giác vui vẻ hân hoan vì dự đoán tương lai sẽ
có ngày gặp lại. Nguyễn Du dùng hình ảnh “Hươu nai nhởn nha trong rừng
sâu”, ở đây là một hình ảnh ẩn dụ cho sự tự do. Hươu, Nai là những con vật vốn
được sống nơi rừng xanh với cuộc sống không bị gò ép mà tự do bay nhảy an
nhiên với đất trời. Đọc đến đây người đọc như được bừng sáng cùng niềm vui
của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ hiện rất đẹp với một niềm tin vào ngày mai tươi
mới. Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang đã từng kết nghĩa anh em “sinh tử” có
nhau, theo đúng tục lệ của lễ, khi kết nghĩa hai người sẽ phải rót chung hai chén
rượu tượng trưng cho chén sinh, chén tử. Hai người kết nghĩa, mỗi người phải
49
cắt ba giọt máu vào hai ly rượu, sau đó sẽ cùng nhau gọi tên, thề nguyện cùng
trời đất và các vị thần nguyện sống chết cùng nhau. Qua đó, ta có thể hiểu rõ
mối quan hệ này. Nguyễn Du rất trân trọng và giữ gìn nghĩa tình anh em với Đại
Lang, vì thế mà mỗi lần chia ly đưa tiễn Đại Lang, Nguyễn Du thường viết ra
những vần thơ lưu truyền lại cho hậu thế. Trong Biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 2 (Từ
biệt anh Nguyễn kỳ 2) cảm xúc của ông như được tăng thêm nhiều lần, lúc này
có thể thấy rõ tâm trạng không còn hân hoan như Biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 1
nữa, lúc này cảm xúc chia ly như mạnh mẽ hơn. (Tống quân quy cố khâu,/ Ngã
diệc phù Giang Hán./ Thiên lý bất tương văn,/ Nhất tâm vị thường gián./ Dạ hắc
sài hổ kiêu,/ Nguyệt minh hồng nhạn tán./ Lưỡng địa các tương vương./ Phù vân
ưng bất đoạn.)
Tiễn anh về nơi ở cũ rồi,
Tôi cũng lại qua sông.
Cách nhau nghìn dặm vắng tin nhau,
Lòng không hề nguôi nhớ.
Đêm tối sói hổ hoành hành,
Trăng sáng hồng nhạn tan tác.
Hai ta ở hai nơi, thường ngóng tin nhau,
Ước gì đám mây trôi trên trời không bao giờ đứt đoạn.
(Biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 2, Nguyễn Du)
Lần này tâm trạng của Nguyễn Du có phần u sầu hơn trước, cảnh người đi
kẻ ở hiện dần lên qua mỗi câu thơ một cách buồn trĩu, nặng lòng với tâm thế của
người tiễn đưa. Trong bài thơ này, tác giả tuy không miêu tả nhiều đến cảnh vật
nhưng tâm trạng nặng nề của nhân vật chính đã khiến cho không gian của bài
thơ được bao trùm bởi một màu sắc u buồn. Chính tác giả cũng khẳng định rằng
tấm lòng sẽ vẫn vậy, không khi nào nguôi nhớ về người anh kết nghĩa. Ông ước
tình cảm ấy như những đám mây, luôn bên nhau tạo thành một khối không rời,
không đứt đoạn. Nguyễn Du là như thế, nhìn đến cảnh vật ông lại nghĩa đến cảm
xúc tâm trạng của chính mình. Nhìn đám mây bay, nhìn vầng trăng sáng thì lòng
50
ông vẫn không quên ví von với tâm tư tình cảm của chính mình. Tấm lòng của
ông không hề dấu diếm mà bày tỏ rất đỗi chân tình. Sự xa cách nghìn dặm khiến
cho tin nhau như biệt tích, chỉ là tình cảm với người anh kết nghĩa mà Nguyễn
Du để lại những vần thơ hết sức cao đẹp, thanh tao. Kết thúc chùm bài thơ chia
ly từ biệt người anh, Nguyễn Du đã để lại cho nhân thế một lời oán trách xã hội
loạn lạc khiến cho con người phải sống trong cảnh lý tán:
Anh về thì tôi cũng đi,
Hai ta cùng sống trong buổi loạn lạc.
Sống hay chết, tình bạn vẫn nguyên,
Còn hay mất, tiết khí vẫn giồng nhau.
Dưới ánh trăng, cửa tre để ngỏ
Trong gió thu, anh đi đầu đội nón rách.
Nghìn dặm không trông thấy nhau,
Chỉ thấy mây trôi mờ mịt chân trời
(Biệt Nguyễn Đại Lang kỳ 3, Nguyễn Du)
Bài thơ như một lời thở than về xã hội, con người ta vì buổi loạn lạc
mà nghìn dặm không thấy nhau". Nhưng cũng chính vì hoàn cảnh đó, có thể
thấy tình cảm mà những con người sống trong thời đại ấy rất trân quý nhau.
Tình bạn, tình anh em kết nghĩa dù có cách trở ly biệt mỗi người một chân trời
thì mãi mãi vẫn không thay đổi.
Nối tiếp những dòng thơ chia ly bạn bè, Nguyễn Thông cũng từng để lại
những câu thơ chất chứa tâm sự:
Tháng năm dồn lạnh khắp thành
Ngậm ngùi tiễn bước chân anh lên đường.
Có nhà mà phải tha hương,
Bệnh nhiều, nhiệm sở anh thường đổi thay.
Mâm cong, Đại Lãnh đường mây
Cù Mông vịnh biển tròn quây tuyệt vời
51
Lên cao gặp Nhạn lạc loài
Mong hàng thư gửi phương trời nhớ nhau
(Giang tống Trần Tử Mẩn Phú Yên quản đạo, Nguyễn Thông)
Tâm trạng của Nguyễn Thông dường như là buồn rầu, ngậm ngùi cho cảnh
chia ly. Năm tháng trôi qua chỉ thấy thân thể lạnh lẽo, làm sao có thể ấm cúng
được khi mỗi người một ngã không biết ngày đoàn tụ. Đúng như cổ văn có câu
“đắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận” (ở đời có được một người tri kỷ thì không còn
gì ân hận nữa). Và lẽ dĩ nhiên ở đời, không ai muốn mình phải độc bước trên
muôn nẻo đường đời làm kẻ cô độc, ai ai cũng khao khát được kết giao với mọi
người, kiếm tìm một tri ân.
Nguyễn Trãi cũng nằm trong số những nhà thơ trân trọng nghĩa tình bằng
hữu, mỗi lần ly biệt ông đều ghi lại cảm xúc của mình vào trong thơ. Trong bài
Đồ trung ký Thao giang Hà thứ sử, trình thiêm hiến (Trên đường đi viết gửi thứ
sử họ Hà và thêm hiến họ trình ở Thao giang) ông tỏ bày nỗi niềm trong khung
cảnh chia ly:
Sau khi giã biệt nhau ở Thao giang rồi, ý tình dằng dặc,
Cạn chén rượu, bàn cầu văn, nhớ bạn cũ đã cùng nhau ngao du…
(Đồ trung ký Thao giang Hà thứ sử, trình thiêm hiến, Nguyễn Trãi)
Những người bạn ngày đêm tâm tình ngao du sơn thủy, nay phải chia cắt
mỗi người một nơi khiến cho Nguyễn Trãi nhớ thương về bạn. Cuối bài thơ ông
hỏi “Liệu bên trời có còn nhớ đến bạn cũ nữa không?” Câu hỏi vang lên khiến
cho lòng người đọc như trùng xuống, bên kia trời có nhớ hay không? Còn bên
đây trời thì nỗi nhớ cứ thường trực không buông bỏ phút giây nào.
Với những áng thơ ca đầy những cảm xúc chân tình, các tác giả đã giải bày
được tâm tư tình cảm của mình với những người bạn thông qua khung cảnh của
sự chia ly. Qua đó ta càng thêm cảm nhận rõ tình cảm bạn bè là một thứ tình cảm
thường thấy và nổi bật nhất trong xã hội lúc bấy giờ, và đây là thứ tình cảm dễ
dàng tỏ bày nhất trong xã hội lúc bấy giờ cũng là mảng đề tài xuất hiện với tần số
52
rất nhiều trong thơ ca trung đại Việt Nam khi đó.
2.2.2. Thơ ca chia ly trong tình yêu đôi lứa
Có lẽ tình yêu là một khái niệm đa nghĩa, nó là trạng thái cảm xúc mãnh liệt
mà khó có thể định nghĩa một cách rõ ràng và cụ thể. Tình yêu được xuất phát từ
bản năng của con người là sự giao thoa cảm xúc trong lần gặp gỡ của đôi lứa có
tâm hồn đồng điệu khát vọng hướng tới một hạnh phúc chung bền vững. Trong
thơ ca, tình yêu vẫn luôn giữ một vị trí đặc biệt ý nghĩa ở mọi giai đoạn văn học,
từ văn học dân gian cho đến văn học viết…
Thơ ca như một địa hạt phản ánh những điều thực tại diễn ra trong cuộc
sống, và tình yêu lại như một dòng chảy không ngừng, đem đến cho con người
mọi mạch nguồn của xúc cảm. Trong đó, giai đoạn trung đại thơ ca đã đóng góp
một phần rất lớn những tác phẩm mà chủ đề tình yêu đôi lứa được lên ngôi.
Những tuyệt tác về tình yêu được ghi chép lại truyền cho hậu thế những cảm nhận
khác biệt về mọi cung bậc trong tình yêu. Tuy nhiên, trong thơ ca trung đại các
trang thơ về tình yêu đôi lứa lại có số lượng hạn hẹp ở một số giai đoạn bởi sự tác
động của chế độ phong kiến khiến cho tình cảm con người cá nhân như bị gạt bỏ
nhường chỗ cho những tình cảm khác mang tính thời đại và cộng đồng. Trước
thời kỳ của thơ ca trung đại, đề tài tình yêu lại là một chủ đề sôi nổi, được bày tỏ
hết sức tự nhiên trong văn học dân gian. Văn học truyền miệng như một mảnh đất
màu mỡ nuôi dưỡng tình cảm cá nhân, những con người đang yêu, thể hiện tình
yêu một cách dung dị nhưng không kém phần mạnh mẽ táo bạo, gạt bỏ sự tù túng
trong giới hạn nội dung, đưa con người đến những cảm xúc rất thật chân thành và
trong sáng.
Đến với thơ ca thời kỳ trung đại, mảnh đất về tình yêu đôi lứa lại bị thu hẹp,
mãi đến thế kỷ XV-XVI thì tình yêu đôi lứa mới như được nhen nhóm trở lại với
những tác phẩm truyện Nôm rất đặc trưng. Truyện thơ Nôm được xem là một bộ
phận vô cùng độc đáo và quan trọng trong nền văn học nước nhà. Nó ra đời ngay
khi thời kỳ phong kiến khủng hoảng chính vì thế, ý thức hệ của con người như
53
được dâng cao quyền cá nhân được nhiều tác giả quan tâm đặc biệt là tình yêu đôi
lứa. Khát vọng yêu đương đã bắt đầu đi vào sâu bên trong nội dung của từng tác
phẩm.
Chẳng những thế mà trong bản thảo để lại của Thánh Tông hoàng đế đã viết
lên những vần thơ đậm chất yêu đương, nhớ nhung tha thiết:
Nhớ ai như cắt như mài
Dẫu mài không dứt, dẫu chùi không phai
Cắt mài lòng những nhớ ai
Cao cao hơn núi, dài dài hơn sông
(Thánh Tông di thảo)
Có thể nói tình yêu đôi lứa là một trạng thái tâm lý phức tạp nhưng lại hết
sức thú vị, đặc biệt với mỗi cá nhân con người. Chính vì thế, đọc lên những vần
thơ về tình yêu đôi lứa như càng làm say lòng người đọc. Trong Toàn Việt thi lục
có một bài thơ được sáng tác vào đời Trần, đã được Lê Quý Đôn xếp vào những
bài thơ khuyết danh. Đó là bài Hương miệt hành (bài hành về chuyện chiếc giày
thơm), trong đó có đoạn:
Một mình nàng bước tới nơi
Hẹn người mà lại bóng người vắng không!
Trên cầu gương nguyệt bóng lồng,
Dưới cầu nước chảy lạnh lùng xiết bao!
Người buồn cảnh cũng đeo sầu,
Lòng đau khôn nói lệ rào rạt sa.
Đồng hồ giọt lậu canh tà,
Trách ai ngăn cản cho ta nhỡ nhàng
Chiếc giày lưu lại bên đường,
Gửi người gửi cả tình thương cho người
(Hương miệt hành, Khuyết Danh)
Trong truyện thơ trên, nhân vật Lý Quốc Hoa đã cho người đọc thấy tình yêu
54
như là lẽ sống, là hơi thở của chính mình. Chỉ vì không thấy người yêu đã khóc
ngất đi, tiếng nói tình yêu trong truyện thơ như được dâng trào mãnh liệt, thiết tha
nhưng đậm chất nhân văn, lý lẽ sống ở đời. Đoạn thơ như là lời tâm tình của cô
gái dành cho nhân vật họ Lý, những tưởng chàng bị ngăn cách không đến nơi hẹn
làm cho cảm xúc biệt ly trở thành cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích. Cảnh vật lúc
này hữu tình xiết bao khi trên trời cao thì có trăng sáng, dưới dòng sông thì nước
chảy êm đềm vậy mà người không đến làm cho người con gái u sầu buồn đau, lệ
rơi thành hàng. Có thể thấy tác phẩm như một sự giải phóng tình cảm cá nhân của
con người lúc bấy giờ và đó cũng được xem là một tiến trình phát triển hết sức tự
nhiên của thơ ca thời kỳ nhiễu nhương biến động của chế độ phong kiến.
Trong các truyện Nôm, tình yêu đôi lứa trải qua muôn vàn cay đắng, chia ly
từ biệt, gặp rất nhiều những trắc trở chông gai. Những biến cố trong tình yêu ấy bị
gây nên bởi thế lực của bọn vua chúa, quan lại. Người háo danh, kẻ háo sắc hoặc
tư thù cá nhân khiến cho đôi lứa phải rẽ làm đôi ngã. Không chỉ dừng lại ở đó,
nguyên nhân của những cuộc chia cắt lại đến chính từ những người trong cuộc, sự
ngăn cản chia cách từ gia đình xuất phát một phần vì tư tưởng phải “môn đăng
hậu đối”, khiến cho đôi lứa yêu nhau khó mà kết duyên trọn vẹn.
Thông qua truyện Nôm về tình yêu đôi lứa, ta có thể thấy được con người ở
thời đại nào cũng trân trọng tình cảm, luôn khao khát hướng tới một cuộc sống
sum vầy viên mãn của tình yêu trai gái. Tình yêu là đề tài không mới trong thơ ca
nhưng lại luôn có một sức hút và cảm hứng mãnh liệt. Trong truyện thơ Nôm đã
dấy lên một luồng gió mới, mang cảm hứng đến cho văn chương. Cảm hứng về
tình yêu trai gái, vượt qua mọi rào cản, khó khăn, đấu tranh vì lẽ phải trong tình
cảm cá nhân. Sâu sắc hơn, những câu truyện về tình yêu cho thấy con người luôn
cùng nhau đồng sức đồng lòng vượt qua mọi biến cố, đứng lên trên mọi rào cản
để giữ gìn hạnh phúc cho riêng mình. Đó là một lẽ sống vô cùng cao đẹp và đáng
trân quý mà những truyện thơ Nôm mang đến cho người đọc. Không những thế, ở
đó ta còn thấy nỗi niềm cá nhân, khao khát hạnh phúc riêng tư được thể hiện hết
55
sức rõ ràng.
Nhắc đến những truyện thơ viết về tình yêu không thể không kể đến chuyện
tình đã lấy đi nhiều nước mắt của người đọc đó là truyện thơ Phạm Công Cúc
Hoa. Thời gian trở lại đây qua nghiên cứu bản chữ Nôm của truyện thuộc sỡ hữu
của linh mục Nguyễn Hữu Triết có thông tin vô cùng quan trọng khi trên bìa sách
có in dòng chữ “Dương Minh Đức Thị Trứ” (tác giả Dương Minh Đức Thị).
Truyện thơ Phạm Công Cúc Hoa có khối lượng câu thơ đồ sộ lên đến 4.610
câu thơ lục bát. Tình yêu của hai người đi theo đúng quy luật của tự nhiên, đến từ
hai tâm hồn đồng điệu có chung nhịp đập trái tim, tình cảm của nàng từ mến
thương được chuyển hóa thành nhung nhớ khi đôi nơi xa cách:
Người hiếu nghĩa nghĩ mà thương
Lâu dần lại thấy vấn vương trong lòng
Xa rồi nhớ nhớ mong mong
Chập chờn mơ tưởng tơ hồng cùng ai
(Phạm Công – Cúc Hoa)
Tình cảm của nàng Cúc Hoa là một tình cảm chân thành, nàng thấy nét đẹp
trong con người Phạm Công, dù hoàn cảnh khó khăn nhưng Phạm Công lại là một
chàng trai hiếu học, chính vì điều đó làm cho nàng Cúc Hoa như càng thêm say
đắm kính trọng. Từ những phút giây gặp gỡ ban đầu, đến những cảm mến lâu dần
bên trong, đôi lứa cứ say đắm mà nhớ nhung nhau khi không được đoàn tụ sum
vầy.
Trong Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du cũng cho ta thấy những mối
duyên tình sâu nặng mà con người ta cứ phải xoay vần với chia ly cách biệt. Để
cảm nhận được vị ngọt của hội ngộ không biết bao nhiêu lần Thúy Kiều và Kim
Trọng phải chia ly nhau để rồi nhớ thương khắc khoải. Thúy Kiều chơi đàn như
một người nghệ sĩ tài hoa, nhưng hiểu hết được tiếng đàn của nàng chắc lẽ chỉ có
thể là Kim Trọng:
56
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Trong nỗi nhớ khi xa cách, nàng Kiều thốt lên:
Nhớ lời nguyện ước
Xa xôi ai có thấu tình ai chăng?
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Sự đa dạng về cảm xúc trong nỗi niềm chia ly của tình yêu đôi lứa luôn dạt
dào, Kim Trọng và Thúy Kiều như minh chứng cho một tình yêu đẹp đẽ, chung
thủy dù cách xa:
Buồn trông phong cảnh quê người
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Hay những mộng tưởng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Những tâm trạng, biểu cảm thể hiện những cung bậc khác nhau mà Nguyễn
Du đã tài tình đưa vào trong thơ của mình. Nguyễn Du diễn tả tâm trạng của nàng
Kiều một cách tài tình khi trái tim nàng đang ngập tràn trong cảm xúc yêu đương
mong nhớ. Những câu truyện tình trong thơ ca trung đại luôn mang đến một xúc
cảm mãnh liệt bởi đôi lứa muốn đến với nhau phải vượt qua rất nhiều rào cản. Bởi
lẽ, dưới thời đại phong kiến con người bị ràng buộc rất nhiều lễ giáo, sự hà khắc
của những luật lệ khiến hạnh phúc cá nhân mỗi con người như bị bóp nghẹt, như
một vũng bùn càng cố vẫy vùng thì con người lại càng bị nhấn chìm sâu hơn.
Trong truyện thơ Nôm, chúng ta không chỉ thấy hình ảnh chàng trai có tình cảm
trước mà ngược lại, chính các cô gái lại không ngần ngại tỏ bày nỗi niềm yêu
đương của lòng mình.
57
Nói đến truyện thơ về tình yêu, những trang thơ viết về mối tình của Tống
Trân - Cúc Hoa cũng đã để lại nhiều rung động cho người đọc về một tình yêu
đẹp. Tình cảm của nàng công chúa nước Tần dành cho chàng trai nghèo Tống
Trân khiến cho người đọc thêm phần cảm phục. Tuy thân phận là một công chúa
mang trong mình dòng máu cao sang nhưng vì tình yêu, nàng không quản ngại
khó khăn gian khổ để tìm cách gặp lại người mình yêu:
Chẳng tham chức trọng quyền cao,
Chẳng tham đài cát ra vào làm chi.
Xin cho quân sĩ thuyền bè,
Đưa con sang mấy thỏa thê cùng chồng.
(Tống Trân – Cúc Hoa, Khuyết danh)
Vì yêu mà nàng chấp nhận bỏ mọi cái cao sang quyền quý để được sống với
tình yêu của mình. Những lời của nàng vừa mạnh mẽ dứt khoát lại vừa mang
nhiều ưu tư trĩu nặng. Những hành động của nàng đã vượt qua mọi ranh giới rào
cản của đạo lý phong kiến, nàng bất chấp tất cả để đi tìm người mình yêu và
muốn trao gửi cả cuộc đời.
Thông qua các truyện thơ Nôm viết về tình yêu đôi lứa, ta nhận thấy sau
mỗi câu truyện dù là đoàn tụ viên mãn hay chia ly cách trở thì tình yêu vẫn luôn
có sức lôi cuốn vô cùng mạnh mẽ. Càng chia ly, càng khó khăn để đến với nhau
thì đôi lứa lại càng như được tiếp thêm sức mạnh để vượt mọi gian khó tìm về với
nhau. Cảm hứng chia ly trong tình yêu cứ thấm đẫm trong từng trang thơ, mỗi
một cung bậc lại mang một màu sắc riêng. Thông qua đó để thấy được nhiều
thông điệp mà các tác giả như muốn gửi gắm đến người đọc hãy trân trọng tình
yêu mà chúng ta đang có, hãy cũng nhau đồng hành vượt qua mọi nguy biến để
giữ gìn hạnh phúc của chính mình.
2.2.3. Thơ ca chia ly trong các mối quan hệ khác
Bên cạnh những mối quan hệ trên, thơ ca thời trung đại còn để lại cho người
đọc những áng thơ chia ly với những mối quan hệ khác như chia ly giữa những vị
58
sứ thần, chia ly giữa những bậc đồng môn, chia ly với các bậc vua chúa…
Người Việt Nam từ xưa đến nay có rất nhiều truyền thống cao đẹp trong đó
là trọng đạo trọng văn. Và đó cũng chính là thế mạnh để các nhà thơ thời kỳ trung
đại đưa vào nội dung sáng tác của mình để những áng thơ trở thành những đạo lý
tốt đẹp lưu truyền mãi về sau. Chức năng cơ bản của văn học trung đại vẫn là
“văn dĩ tải đạo” và tất nhiên trong đó đạo làm người là một trong số những đạo
lý đẹp đẽ mà thơ ca trung đại đã truyền tải được. Trong Nho gia thì trung, hiếu,
tiết thuộc thập nghĩa nó nằm trong mối quan hệ hai chiều như: Quân nhân, thần
trung (Vua hiền, tôi trung) Phụ tử, tử hiếu (Cha hiền, con hiếu thảo) Phu nghĩa,
phụ chính (Chồng có nghĩa, vợ vâng phục) Huynh lương, đệ đễ (Anh hiền lương,
các em thương kính).
Có thể thấy thơ ca trung đại góp phần rất lớn vào trật tự tôn ti trong xã hội
nên nội dung chủ yếu thường nói về trách nhiệm và bổn phận của kẻ dưới đối với
bề trên. Trong thời kỳ trung đại, phẩm chất bậc nhất của người quân tử phải nói
đến chữ Trung, đây là chữ Trung trong quan niệm của Khổng Mạnh và nó đã trở
thành một tư tưởng lớn mà bất cứ ai sống trong thời đại này cũng tinh tường đó là
“Trung quân ái quốc” nghĩa là trung với vua là yêu nước. Có rất nhiều áng thơ
văn của các thi sĩ đã thể hiện chữ Trung này cũng như để bày tỏ tình cảm của
mình với đất nước. Nhắc đến nội dung này phải kể đến một số tên tuổi quen thuộc
trong hệ thống thi nhân trung đại như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu…
Trong thời kỳ đi sứ thời Nguyễn, tình cảm với vua được thể hiện rõ nét nhất
khi các sứ thần phải chia ly nhà vua xa sứ làm tròn sứ mệnh cho nước nhà. Dân
tộc ta từ ngàn năm trước đã phải đương đầu với giặc ngoại xâm và có lẽ chính vì
thế mà tình yêu dành cho quê hương, chí lớn dành cho đất nước nghĩa nặng dành
cho nhà vua luôn tuôn trào trong dòng máu của mỗi người.
Ở thời kỳ trung đại, tinh thần tự hào dân tộc, yêu quê hương đất nước cũng
chính là tình cảm gắn liền với nhà vua. Trong dòng thơ chia ly của hành trình đi
59
sứ, tình cảm ấy đã được khắc họa rõ nét bằng những vần thơ cao đẹp, ý nghĩa.
Trong hoàn cảnh phải chia lìa đất nước lên đường làm nhiệm vụ, nỗi lòng
của các nhà đi sứ luôn ngổn ngang, ngậm ngùi. Vì sứ mệnh bang giao cao cả, ý
nghĩa sâu nặng nên tình cảm dành cho nhà vua càng lúc lại càng canh cánh trong
lòng. Những áng thơ văn dành cho nhà vua như những bản tình ca sâu nặng ân
tình những nghĩa khí. Trong một sáng tác khi làm quan ở triều, Nguyễn Trãi đã tỏ
bày nỗi lòng của mình, người một đời ưu tiên cho sứ mệnh với nhà vua, đất nước
trong bài Bảo kính cảnh giới: “Nhớ chúa lòng còn đơn một tấc/ Âu thì tóc đã bạc
mười phân”.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều những bài thơ chia ly, tống tiễn với các mối
quan hệ khác trong xã hội trung đại Việt Nam khi đó. Có thể nhắc đến như:
Vào đời Trần, Nguyễn Phi Khanh đã dể lại rất nhiều những vần thơ viết về
nội dung chia ly tiễn biệt. Với một loạt bài thơ như: Tống Trung sứ Vũ Thích
Chi (Tiễn sứ thần Trung Quốc là Vũ Thích Chi), Tống thái trung đại phu Lê
Dung Trai bắc hành (Tiễn quan thái trung đại phu Lê Dung Trai đi sứ phương
Bắc), Tống thái học sinh Nguyễn Hán Anh quy Hồng Châu (Tiễn thái học sinh
Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu), Tống kinh sư doãn Nguyễn công vi Hành
doanh chiêu thảo sứ (Tiễn quân sư doãn họ Nguyễn đi nhậm chức Hành doanh
chiêu thảo sứ), Tống hành nhân Đỗ Tòng Chu (Tiễn quan hành nhân Đỗ Tòng
Chu). Trong một bài thơ ông đã bộc bạch:
Bên áng mây năm sắc xuất hiện ngôi sao sứ thần,
Khí tiết trung nghĩa lẫm liệt dọi sáng lòng người.
Xuân tới trạm Mai, vó ngựa trong sương vội vã,
Tuyết quang Hoài Thủy, tiết ngọc trong sáng.
Trời đất có Bắc có Nam, tầm mắt thênh thang,
Núi sông chỗ bằng chỗ hiểm, tấc lòng trung trinh.
Hôm nay ân cần tiễn biệt ngài,
Chén rượu khôn ngăn mối tình vạn dặm.
(Tiễn sứ thần Trung Quốc là Vũ Thích Chi, Nguyễn Phi Khanh)
60
Đúng như tinh thần thơ ca đời Trần, ông hòa mình với vũ trụ, Nguyễn Phi
Khanh ví von vị sứ thần như một ngôi sao sáng trên bầu trời, ông ca ngợi khí tiết
của vị sứ thần ấy đẹp đẽ đến độ có thể soi sáng vào lòng người. Một bài thơ
mang đầy niềm tự hào vị sứ thần với “tấc lòng trung trinh”. Tâm thế tiễn biệt
một cách trân trọng ân cần cũng đã nói lên tấm lòng trân trọng của Nguyễn Phi
Khanh với vị sứ thần Vũ Thích Chi. Trong một bài thơ khác, từ những vần thơ
tiễn biệt của mình Nguyễn Phi Khanh đã vô tình vẽ lên một bức tranh lịch sử
vào thời gian ông sống. Khi đó, giặc Chiêm như vẫy vùng hoành hành khắp nơi,
dân chúng ai ai cũng oán giận. Với tình thế đó, quân sư họ Nguyễn đã đi nhậm
chức để dẹp loạn trừ giặc mang lại bình yên cho dân chúng bằng tấm lòng của
mình, Nguyễn Phi Khanh đã viết những dòng thơ tràn đầy khí thế hào hùng. Một
lần đưa tiễn quan hành nhân Đỗ Tòng Chu, Nguyễn Phi Khanh cũng đã để lại
những dòng thơ chia ly đầy thương nhớ:
Gió xuân bến cần, mùa thu cung quế,
Còn nhớ như in bạn cùng đi thi nơi khoa trường.
Nay ông lại ra đi làm chức hành nhân,
Riêng tôi ở lại làm thuộc viên của Sảnh.
Trạm Ngũ Lĩnh mây quang, hào hứng lên ngựa,
Mặt Ngũ Hồ tuyết ráo, êm ái xuống thuyền.
Lúc tiễn biệt, bậc trượng phu cần chi rơi lệ,
Chỉ cười nhìn nhau, vỗ vào bao gươm có khoái là đủ.
(Tống nhân Đỗ Tòng Chu, Nguyễn Phi Khanh)
Cả bài thơ như một cuốn nhật ký thu nhỏ, đủ đầy cả quá khứ và hiện tại với
người bạn nay đã ra làm chức quan lớn. Bài thơ không mang màu sắc u buồn mà
hào sảng với niềm vui đưa tiễn bạn khi nhận chức quan mới. Không khác những
bài thơ đưa tiễn khác của mình, Nguyễn Phi Khanh vẫn đưa vào trong thơ những
cảnh vật của cuộc sống như gió, mùa thu, mặt hồ… Tất cả như một bức tranh
hữu tình có cảnh vật và cả con người. Chỉ ví dụ điển hình qua hai bài thơ trong
61
một loạt những bài thơ có nội dung tống tiễn, có thể thấy tuy viết về tình cảm cá
nhân nhưng những bài thơ vẫn đậm chất thời đại Lý Trần. Thơ ca cũng như văn
học đời Trần thể hiện rõ lòng yêu mến cảnh thiên nhiên đất trời vạn vật, thiên
nhiên đời Trần đã khác hơn với đời Lý khi khung cảnh thiên nhiên đã thực tế
hơn, gần gũi hơn với con người. Cũng qua khung cảnh thiên nhiên ấy, các tác
giả đã bộc lộ tình cảm của mình với những diễn biến xảy ra trong cuộc sống. Có
thể nói, thiên nhiên hiện ra rất tươi đẹp trong thơ ca đời Trần điều đó cũng cho
thấy các nhà thơ đã gần gũi, hòa mình và gắn bó với thiên thiên.
Ngoài Nguyễn Phi Khanh trong tổng số 51 bài thơ để lại Trần Nguyên Đán
cũng có những tác phẩm thơ viết về khung cảnh chia ly như: Tống Long Nham
quy Diễn Châu (Tiễn Long Nham về Diễn Châu), Tống bình tây đô đốc Trang
Định đại vương phụng chiếu chinh Chiêm Thành (Tiễn bình tây đô đốc Trang
Định, đại vương phụng chiếu đánh chiêm thành), Ký tặng Nhị Khê kiểm chính
Nguyễn Ứng Long (Gửi tặng kiểm chính Nguyễn Ứng Long ở Nhị Khê)…
Tóm lại, dù là chia ly với vua hay với các bậc quan thần trong chiều thì các
tác giả cũng đã cho thấy tấm lòng chân tình của mình dành cho những người họ
yêu mến. Càng phải xa cách nhau thì lại càng bộc lộ rõ những trái tim nhân văn
cao đẹp và đây cũng là một chủ đề lớn trong văn học trung đại - cảm hứng nhân
đạo.
2.3. Thơ ca chia ly thể hiện tình cảm đối với quê hương đất nước
Trong lòng mỗi người con dân tộc Việt Nam, quê hương là nơi giữ một vị
trí hết sức quan trọng, thiêng liêng đó là đất nước xứ sở, nơi mình sinh ra và
trưởng thành, tình yêu quê hương đất nước ấy cũng chính là truyền thống cao
đẹp và đáng quý của dân tộc Việt Nam. Các nhà thơ cũng đã dành rất nhiều tâm
tư của mình gửi vào các trang thơ thể hiện tình yêu thương với quê hương đất
nước. Khi ra đi, khi không còn được ở nơi mình đã sinh ra và lớn lên, phải sống
ở một vùng trời xa xôi lạ lẫm con người ta càng ý thức được tình yêu dành cho
quê hương lớn đến nhường nào. Trong một bài thơ của Nguyễn Du, đọc lên từng
62
câu chữ người đọc có thể thấu hiểu cùng tác giả nỗi đau xa quê nhà, nhớ thương
mong ngóng trông về quê hương:
…Đất trời huyết chiến máu còn tanh,
Quê hương binh lửa xa ngàn khóc
Bè bạn đèn khuya thư mấy hàng.
Rồng cá lặng lờ đêm vắng vẻ
U hoài trăm mối dạ tơ vương.
(Bát muộn, Nguyễn Du)
Lời bài thơ như một tiếng thở than khi trông về quê hương đất nước, trải
dài nội dung của bài thơ là một hình ảnh tang thương, u ám khói bụi chiến tranh.
Nguyễn Du đau cho nỗi đau quê nhà nỗi đau này xen lẫn sự bất lực, bất lực
trước cảnh nhà lầm than mà bản thân không làm gì được.
Cũng trong một bài thơ khác trong tập thơ Thanh Hiên thi tập được ra đời
trong giai đoạn “Dưới chân núi hồng” (1796-1802). Nguyễn Du có một bài thơ
khác trong đó cũng diễn tả tâm trạng đau đớn khi phải rời xa quê nhà:
Ngoảnh nhìn quê hương nước mắt rơi
Gió tây thổi suốt dọc đường
Vừa qua sông Long Vĩ
Đã thành người đất khách…
(Độ long vĩ giang, Nguyễn Du)
Đọc những dòng thơ này của Nguyễn Du không thể nào không cảm nhận
một nỗi buồn vương vấn khắp từ đầu đến cuối bài. Nỗi buồn hiện dần lên từng
câu thơ với tâm trạng phải xa cách quê hương, cảnh tượng kẻ tiễn người đi nước
mắt rơi khiến cho người đọc cảm nhận rõ tâm trạng của nhà thơ. Tấm lòng của
Nguyễn Du thật đáng quý. Vào thời đại Nguyễn Du sống, cảnh loạn lạc, dân
chúng lầm than triều đình thì trì trệ khiến cho ông cũng như các nhà thơ khác
không thể im lặng mà phải thốt lên những vần thơ đau đời, từ đó họ trải lòng với
cuộc đời, trăn trở cho số phận chìm nổi của đất nước và của con người dân
63
chúng khi đó. Nguyễn Du đã để lại rất nhiều các bài thơ thể hiện tấm lòng của
mình với quê nhà, trong giai đoạn “Mười năm gió bụi” (1786-1795) ông đã viết:
Cách Trường An nghìn dặm về phía na,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh mây núi che kín cổng tre
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt,
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hẳn tin tức
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?
(Sơn cư mạn hứng, Nguyễn Du)
Tiếng lòng về quê hương về cả những người anh em thân thương của
Nguyễn Du được viết thành lời, như một sự giải bàydù đi đến nơi nào thì lòng
ông vẫn canh cánh hướng về quê hương, về người thân của mình.
Trong xã hội đương thời khi ấy, có rất nhiều lý do để các nhà thơ các nhà
nho sĩ phải xa cách quê hương, cũng có rất nhiều các nhà thơ khác đã để lại
những lời thơ về nỗi niềm với quê hương của mình. Quê hương không chỉ còn là
một đề tài để các nhà thơ khai phá mà nó đã trở thành cảm hứng cho biết bao thi
sĩ, rất dễ để bắt gặp trong thơ Nguyễn Du hình ảnh quê hương đất nước bởi tâm
hồn nhạy cảm dễ rung động trước mọi biến động của cuộc sống, bằng tài năng
thiên bẩm trong thơ ca, bằng ngòi bút sắc bén nhưng lại dễ đi vào lòng người
ông đã ghi lại tình cảm chân thành của mình với quê hương đất nước bằng
những áng văn thơ như thế.
Có thể thấy tình cảm mà ông dành cho quê hương luôn xuất hiện với cảm
hứng u hoài, dường như tuổi thơ cũng như cuộc đời bôn ba khắp nơi của ông đã
ảnh hưởng không nhỏ đến tâm trạng khi dành cho quê hương mình:
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày.
64
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm
Ở đất khách lâu năm ngồi dưới bóngđèn mà rơi lệ
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng
Ở đó phía ngoài thôn Nam Đài.
Tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Đất trời, thiên nhiên trong bài thơ hiện lên không mang vẻ tươi tắn rực rỡ
mà lại nhạt nhòa sắc màu, có lẽ bởi tâm trạng của nhà thơ đang u sầu khiến cho
cảnh vật không hiện lên được màu sắc tươi xanh. Mở đầu bài thơ là hình ảnh
đầy u tối của đất trời vào đêm, ông thấy mù mịt không tìm ra được sự tươi sáng
như khi đất trời vào xuân. Lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh bóng liễu trong
thơ ông, hình ảnh cây liễu rất quen thuộc với người phương Đông. Như đã biết
thơ ca văn học thời kỳ này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi thi pháp văn chương cổ
điển và những nhà thơ luôn có sự gắn bó hữu tình với vạn vật trong thiên nhiên.
Cây liễu là hình ảnh biểu trưng và hội tụ nhiều điều ẩn dụ phía sau nó, nó có thể
là biểu tượng của thời gian, có thể chỉ trạng thái tâm hồn của con người. Các nhà
thơ thường tìm đến thiên nhiên để giãi bày cảm xúc tâm sự. Không những thế,
dương liễu trong thơ Đường xưa còn là biểu tượng của sự chia ly, sắc liễu hiu
hiu dưới con gió nhẹ đưa dường như gợi cho con người nỗi buồn da diết. Các
nhà thơ trung đại Việt Nam cũng dành cho liễu một sự ưu ái hết mực nên chúng
ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh liễu trong những cuộc chia ly, Nguyễn Du
cũng là một trong những tác giả thường xuyên sử dụng hình ảnh cây liễu để nói
lên lòng mình:
…Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành dương quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời…
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
65
Trong dòng thơ chia ly, không thể không nhắc đến giai đoạn các nhà thơ
phải đi sứ rời xa quê hương, chính tình cảnh đó đã minh chứng thêm tình cảm cao
đẹp mà các thi nhân dành cho quê hương đất nước của mình. Khi phải xa xứ, đối
mặt với những điều xa lạ, áo gấm làm quan không làm nguôi đi nỗi nhớ nhà:
E rằng tiết lành kéo dài thêm cảnh ly biệt,
Hãy mượn gối trở về quê hương trong giấc mộng.
(Nghi Câu khách trung thất tịch – Lê Quang Định)
Đúng là khi càng xa càng thấy nhớ, khi ta ở khó mà cảm nhận hết được cái
linh thiêng gắn bó với từng cảnh vật. Nhưng khi phải rời xa nơi thân thuộc ấy thì
mọi thứ trở nên có hồn. Các nhà thơ cứ đau đáu hướng về quê nhà, mà càng
trông càng thấy xa xăm mịt mù. Nỗi nhớ quê nhiều đến nỗi phải mong chờ đến
giấc mộng để được trở về quê nhà. Trong dòng thơ đi sứ, có rất nhiều những tác
giả đã để lại những áng thơ văn như xuyên thấu vào lòng người. Đọc một tấm
chân tình sâu đậm về quê hương:
Suốt đêm, tiếng thanh la không ngớt.
Ta ngồi bên ngọn đèn cô đơn cho đến sáng.
Xa nước mấy tuần, lòng như chết.
Dọc đường gặp toàn người lạ.
Ở chân núi bùn ngập đến bung ngựa
Quái vật ẩn nấp hai bên bờ suối lâu ngày thành tinh.
Đến đây, tình cảm người viễn khách đã vô hạn rồi.
Huống chi cuộc hành trình đến Yên sơn (kinh đô) còn vạn dặm.
(Mạc phủ tức sự - Nguyễn Du)
Các nhà thơ đi sứ thời Nguyễn đã để lại cho đời sau những áng thơ đầy
cảm xúc tâm trạng, tình cảm cao đẹp ấy đã được thơ ca vang thành lời, chỉ mới
đi một đoạn đường thôi mà lòng Nguyễn Du đã như chết. Đường đi chỉ gặp
những khuôn mặt xa lạ, khung cảnh con người như đổi khác khiến cho nhà thơ
như chới với lạc lõng khiến cho lòng nhớ quê càng thêm da diết.
66
Trong bài thơ Chính định lữ dạ - Trương Hảo Hiệp tâm trạng nhớ quê
hương của nhà thơ như xuyên qua cả không gian thời gian:
Đường chia nhiều ngã nam, bắc đông tây,
Đi đến đâu cũng một niềm hoài cổ và nhớ quê nhà
(Chính định lữ dạ, Trương Hảo Hiệp)
Trước khi đi xa, lòng của các nhà thơ luôn nặng trĩu những tâm sự, mà lúc
này chủ yếu là nỗi bịn rịn với quê nhà. Tình yêu ấy to lớn biết chừng nào khiến
cho mỗi câu thơ như một nỗi niềm mà người đọc thấu vào từng câu chữ, thậm
chí chính tình yêu ấy đã hóa cho tâm hồn nhà thơ như được tiếp thêm sức mạnh
để sớm hồi hương trở về với quê nhà. Có những nỗi nhớ niềm thương quê hương
đẹp đẽ dạt dào những cảm xúc:
Ruột vò chín khúc như con sông quanh co
Từ biệt nước Nam ra đi quan san dằng dặc
(Nhâm Tuất niên mạnh đông …, kỳ I – Ngô Nhâm Tĩnh)
Tác giả miêu tả lòng mình ngổn ngang như tơ vò trăm mối, rối ren với cảnh
xa nước, nhìn về phía trước mà thấy núi non còn hàng hàng. Dường như thường
trực trong tâm thức của mỗi nhà thơ là bóng dáng quê nhà:
Bến biệt nhau đã chia màu sắc mới
Vời trông phía trời xa chẳng thấy quê hương
(Tương gia dạ bạc – Nguyễn Du)
Mới ở quê hương đó mà thoắt mắt đã ở phương trời xa khác, mới gần gũi
đó mà đã trở thành xa lạ. Nỗi nhớ mong quê hương của mỗi nhà thơ như một
bản tình ca đẹp mà không ý tứ nào nữa có thể diễn đạt. Thậm chí, những cành
hoa, ngọn cỏ áng mây cũng trở nên có hồn có sức khi các nhà thơ thổi lòng mình
vào từng cảnh vật:
Xuân về, còn làm khách nơi quê người
Biết nhờ ai gởi cành mai báo tin đẹp
(Cửu khách Chân Lạp – Trịnh Hoài Đức)
67
Mùa xuân tượng trưng cho mùa của đoàn viên, vậy mà tác giả vẫn còn rong
ruổi nơi đất khách khiến cho xuân như mất đi ý vị vui vầy. Tác giả muốn gởi
lòng mình vào cành mai để thể hiện tình yêu và nỗi nhớ, quê hương như bến đợi
có kẻ chờ mà lòng tha hương luôn muốn quay về.
Có thế thấy tình yêu quê hương là một thứ tình cảm hết sức tự nhiên đến từ
tâm hồn cao đẹp của các nhà thơ, Cao Bá Quát cũng là một trong số những nhà
thơ dành rất nhiều tình cảm của mình cho quê nhà. Ông có lẽ vì xa quê hương,
lưu lạc nơi đất khách nhiều lần cũng như thói ngao du sơn thủy của mình nên
cách trở quê nhà là điều dễ gặp. Và trong những lần tha hương ấy, tình cảm của
ông luôn day dứt, khôn nguôi trong bài Đoan dương ông bày tỏ:
Quê nhà vời vợi, ly biệt song thân,
Chức quan vướng vịu bận bịu, xa cách một anh.
(Đoan dương, Cao Bá Quát)
Có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn phải xa người thân vào dịp tết, quê nhà xa
vời vợi mà thấy buồn cho tấm thân. Xa quê, là nỗi buồn xa cách khiến Cao Bá
Quát chơi vơi nơi đất lạ:
Lòng vợi vợi từ biệt quê nhà
Đi trên con đường thăm thẳm.
(Phó Nam cung, xuất giao môn biệt chư đệ tử, Cao Bá Quát)
Khi nỗi buồn cứ dấy lên trong lòng, cũng là lúc tâm trạng con người như
được thúc bách. Thời gian cảnh vật lúc này tất cả đều trở thành một chất xúc tác
vô cùng mạnh mẽ khiến cho những tình cảm chất chứa sâu ở bên trong đều được
tác giả trút bầu tâm sự:
Buồn nhớ quê tới sáng
(Hàn dạ tức sự, Cao Bá Quát)
Cao Bá Quát thường xuyên hướng lòng mình về với quê hương, ông tự dày
vò bản thân khiến cho thời gian như dài thêm đằng đẵng. Đất khách xa ngàn
dặm cứ thế trải dài ra trước mắt ông khiến cho ông cảm thấy ngày được trở về
68
quê nhà sao xa vời quá. Nhớ quê hương mà không thể nào cất bước quay về,
tình yêu quê hương của ông càng cao đẹp bao nhiêu thì tâm hồn ông càng khổ
đau bấy nhiêu bởi ông luôn trong mặc cảm không làm được gì cho quê hương
đất nước.
Cũng như Cao Bá Quát, Nguyễn Trãi đã để lại những vần thơ chất chứa
tâm trạng khi phải xa quê đi sứ. Nào có niềm vui nào trọn vẹn khi thân thế nổi
trôi nơi đất khách, nhớ về quê hương mà lòng không chút khuây khỏa:
Từ khi lưu lạc quê người đến nay
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã ra mấy lần rồi
Xa nhà nghìn dặm, không được săn sóc phần mộ tổ tiên,
Mười năm qua bà con quen biết đã tiêu tan hết…
(Thanh Minh, Nguyễn Trãi)
Nguyễn Trãi là một vì sao sáng về tấm lòng trung với vua luôn làm tròn
nhiệm vụ triều đình ban giao. Thế nhưng làm sao tránh khỏi những lúc bùi ngùi
khi nhớ về quê hương nơi có bà con tổ tiên dòng tộc. Hình ảnh Nguyễn Trãi
ngồi bấm đốt ngón tay tính thời gian xa quê khiến cho người đọc ngậm ngùi
thương xót cho cảnh tha hương biền biệt. Người ta chỉ vui khi hội ngộ, còn chia
ly thì chỉ khiến lòng người thêm nhớ mong da diết. Ông không chỉ nhớ mong
quê hương mà còn nghĩ về phần mộ của tiên tổ, tự trách mình không săn sóc
khói hương cho những người đã khuất. Cuối bài thơ, ông mượn rượu để giải sầu,
nhờ men say của rượu để gạt đi nỗi nhớ quê nhà da diết: “Hãy cầm lấy chén
rượu mà gượng uống/ Đừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà”. Ở đây,
Nguyễn Trãi uống rượu, nhưng lại là “gượng uống”, điều đó cho thấy chính tác
giả đang ép bản thân mình làm điều mà tự thân không muốn, cố gắng gượng
uống để tiêu sầu. Nỗi nhớ nhà của Nguyễn Trãi không phải bất chợt mà là “ngày
ngày”, khiến cho người đọc cảm nhận nỗi nhớ ấy luôn thường trực ngày qua
ngày ẩn hiện trong sinh hoạt của nhà thơ. Không ít lần Nguyễn Trãi nhớ về quê
hương mà lòng cứ đau đáu không nguôi, trong bài Qui Côn Sơn chu trung tác
69
(Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác) ông viết :
Mười năm phiêu bạt bềnh bồng
Nhớ nhà như bóng cờ rung đêm ngày
Lòng quê gửi mộng bấy nay,
Rửa mồ tiền bối lệ đầy máu đau
Búa rìu thời loạn tránh sao!
Chút tình dặm khách gửi vào núi sông…
(Qui Côn Sơn chu trung tác, Nguyễn Trãi)
Những bài thơ chia ly của Nguyễn Trãi thường ấn định thời gian một cách
rõ ràng, chứng tỏ ông luôn mong nhớ về chốn quê nhà mà ngồi đếm thời gian
trôi. Đọc những câu thơ từ đáy lòng của tác giả có thể cảm nhận nỗi nhớ đến đau
đớn trong tâm can. Hình ảnh lệ, máu được Nguyễn Trãi đưa vào khiến cho bài
thơ thêm phần gợi tả. Ông cũng hiểu thời buổi loạn lạc này thì cảnh biệt ly làm
sao tránh khỏi, nhưng không vì thế mà ngăn được nỗi lòng của người thi sĩ khi
nặng lòng nhớ về quê nhà, xót thương cho thân phận nổi trôi bềnh bồng.
Có thể nói rằng nỗi nhớ nhung da diết quê hương của các nhà thơ dù là đi
sứ hay chỉ là cách trở địa lý bởi công cán riêng tư cũng là một tình cảm cao đẹp
biết bao. Đất nước như là bến mong bến chờ của người đi xa, để mỗi lần nhớ về
quê hương có lúc nước mắt lại rơi, để nỗi nhớ thương ấy khiến cho mái đầu
xanh như hóa bạc. Xuyên xuốt quãng đường xa xứ, hình bóng quê nhà như một
ánh sáng đẹp soi rọi tâm hồn mỗi nhà thơ để nhắc nhở ngày trở về đoàn tụ với
quê hương. Tình yêu quê hương của mỗi nhà thơ không ai giống nhau, có người
nhớ nỗi nhớ bình dị, có người nhớ nhung khắc khoải phủ kín tâm hồn, có người
lệ rơi hàng đêm, tất cả những tấm chân tình ấy thơ ca đã khắc họa rất rõ nét
khiến cho người đời sau thêm thán phục tấm lòng cao đẹp với đất nước của các
thi sĩ.
70
Tiểu kết chương 2
Qua việc chỉ ra được những cuộc chia ly trong xã hội Việt Nam trải dài
thừ thế kỷ X đến thế kỷ XIX ta nhận thấy được tình cảm cũng như tâm hồn của
các nhà thơ nói riêng và con người Việt Nam nói chung. Ở đây, con người phải
sống trong cảnh ly biệt, phải chia xa người thân cho đến những bằng hữu sáng
tối vui vầy có nhau. Cũng ở đó, những cặp vợ chồng còn chưa cảm nhận hết hơi
ấm sum họp thì đã phải nếm trải sự cô đơn hiu quạnh khi mỗi người một phương
trời …vv. Chính những cuộc chia ly đó lại vô tình hiện ra những tấm chân tình
cao cả mà con người dành cho nhau. Chương 2 cũng đã nêu lên được những tình
cảm thiêng liêng, sự đồng cảm và tinh thần đồng loại mà con người dành cho
nhau. Dễ dàng bắt gặp trong chương 2 hình ảnh vợ chồng u sầu vì xa cách, anh
em bạn bè thương nhớ không nguôi vì chia lìa. Hình ảnh các cặp đôi yêu nhau
phải đau đớn xót xa vì đôi người đôi ngả. Hay trái tim của những con người xa
xứ một lòng một dạ hướng về quê nhà.
Thông qua việc phân tích toàn bộ những cuộc chia ly, chương 2 đã mở
rộng ra cách hiểu về tâm tư tình cảm của con người ở thời đại xưa, cụ thể là
trong hoàn cảnh ly biệt. Bên cạnh đó khơi cho người đọc những tâm thế cao đẹp
cũng như những tâm hồn nhân văn đầy ắp tình người nồng ấm. Chính vì thế mà
nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tự sự: “Một dân tộc yêu thơ như nước ta, nếu thực
sự ai cũng học hỏi được những sự tinh túy từ thơ ca thì sẽ bớt đi rất nhiều
những ứng xử hung hăng, bạo lực với đồng loại và môi trường sống như hiện
tại”. Đó cũng chính là những ý nghĩa mà chương 2 muốn gửi gắm cũng như
hướng đến người đọc.
71
Chương 3. CHIA LY TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Về thể thơ
3.1.1. Đường luật
Trong thơ ca, bất cứ thể loại nào cũng có nguồn gốc cũng như quá trình
hình thành và phát triển của nó. Qua quá trình khảo sát cũng như nghiên cứu về
đề tài chia ly trong thơ ca trung đại Việt Nam người viết thấy rằng, số lượng thể
thơ xuất hiện và chiếm tỉ lệ cao nhất là thể thơ Đường luật, bên cạnh đó vẫn có
sự xen lẫn với một vài thể thơ khác nhưng tỉ lệ không nhiều.
Cụ thể:
Thất ngôn bát Ngũ ngôn bát Thể thơ cổ Các thể thơ Tổng số cú cú phong khác 116 bài thơ 67 bài 16 bài 11 bài 22 bài
Trong văn học, hầu hết các thể loại thơ văn của Trung Quốc đều được
người Việt tiếp nhận và có sức ảnh hưởng vô cùng lớn trong đó thơ Đường luật
là một trong những thể thơ có sức ảnh hưởng hết sức lớn lao và có vị trí vô cùng
trang trọng trong thơ ca Việt Nam. Theo những thống kê của các nhà nghiên cứu
thì giai đoạn thơ ca trung đại tồn tại và phát triển thì riêng thể thơ Đường luật
chiếm hầu như là đa số trong tổng số các thể thơ mà các thi nhân sử dụng. Nó
chiếm lĩnh đến ¾ số bài thơ ra đời trong giai đoạn này.
Khác hẳn với thể thơ Cổ phong hay Cổ thể trước đó, nếu 2 thể thơ này
không có niêm luật chặt chẽ nhất định nào thì thơ Đường luật lại có một hệ
thống qui tắc hết sức nghiêm ngặt, phức tạp và chuẩn mực, chúng được thể hiện
ở những điều như: Luật, niêm, vần, đối và bố cục, càng về sau càng ít người sử
dụng thể loại này để sáng tác bởi tính nghiêm ngặt của nó. Về hình thức thể thơ
Đường luật có các dạng thức theo sơ đồ trình bày như sau:
72
Dạng thức chính
Biến thể
Thất ngôn bát cú
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Ngũ ngôn bát cú
Các dạng khác…
Thất ngôn tứ tuyệt
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Theo sơ đồ trên, thơ Đường luật có các dạng như “Thất ngôn bát cú” (có
tám câu, mỗi câu có bảy chữ) và đây là dạng thức chuẩn nhất, bên cạnh đó nó có
các biến thể như “Thất ngôn tứ tuyệt” (có bốn câu mỗi câu có bảy chữ), “ngũ
ngôn tứ tuyệt” (có bốn câu mỗi câu có năm chữ), “ngũ ngôn bát cú” (có tám câu
mỗi câu có năm chữ). Các nhà thơ trung đại Việt Nam sáng tác thơ văn bằng
tiếng Hán và sử dụng thể thơ theo thơ Đường luật và tuân thủ nghiêm chỉnh
hoàn toàn các quy tắc của thể thơ này. Theo thống kê, các nhà thơ sử dụng thể
Thất ngôn và ngũ ngôn là chiếm số lượng nhiều hơn cả, có lẽ bởi vì nó được cho
là một thể thơ hết sức phổ biến cũng như những ưu điểm về lối diễn đạt mang
đến hiệu quả rất lớn trong ý đồ biểu đạt của nhà thơ. Các thi gia sử dụng lối thơ
này để biểu đạt nỗi lòng riêng tư của mình cũng như tỏ bày cảm xúc cùng với
tâm trạng hòa quyện với thiên nhiên. Thơ Đường luật đã thể hiện được chất
nghiêm trang cổ kính của mình ở rất nhiều khía cạnh. Mỗi một bài thơ Đường
đều có kết cấu hoàn chỉnh, những kết cấu có quan hệ nội tại vô cùng chặt chẽ
bằng những quy định niêm, luật, vần, đối và bố cục. Những tác phẩm thơ ca
được sáng tác theo thể Đường luật đều có mối quan hệ thống nhất giữa nội tâm
bên trong con người và thế giới thực tại khách quan. Theo đó, con người luôn
khao khát hòa nhập với thiên nhiên, luôn mang nhiều cảm hứng với trời đất gió
trăng. Dù là diễn tả tâm trạng con người một cách ý nhị tinh tế hay chỉ là diễn tả
73
một khoảnh khắc nào đó thì cũng vô cùng nghiêm trang. Tuy nhiên có thể thấy
thơ Đường luật không hề khô khan, gò bó mà vô cùng mềm mại, uyển chuyển.
Những rung động của tâm hồn thi sĩ với cảnh vật, âm thanh đầy ấn tượng bên
ngoài khiến cho các vần thơ như một dòng mạch cảm xúc đầy tinh tế. Các nhà
thơ đã gửi gắm vào đó không ít những tâm sự về nỗi niềm chia ly tạo cho người
đọc sự đồng cảm, thể thơ ngũ ngôn và thất ngôn có lẽ là 2 thể thơ mà các nhà
thơ dùng để nói lên lòng mình nhiều hơn cả. Bài Tống ca giả qui Hà Nội (Tiễn
ca nữ về Hà Nội) là một bài thơ đưa tiễn, nói về cảnh chia ly được Tùng Thiện
Vương viết như sau:
Khói, trăng hồ Tây (giống như) Dương Châu xưa
Nhà nhà ca múa chẳng đeo sầu
Này chia biệt biết anh khó quên đi được
Nhà của Kỳ vương hoa mùa thu rụng.
(Tiễn ca nữ về Hà Nội, Tùng Thiện Vương)
Bài thơ hài hòa cả về tâm trạng cảm xúc bên trong của chủ thể lẫn những
cảnh vật bên ngoài. Bài thơ nói về tình cảm mà Tùng Thiện Vương dành cho
những nàng cung nữ, những người mà xã hội đương thời không đề cao mà coi rẻ
chỉ cho đó là “xướng ca vô loài”. Ông tỏ niềm thương xót, cảm thông cho những
thân phận ấy, đây cũng chính là chủ nghĩa nhân đạo mà Vương đã thể hiện được
rất rõ trong thơ mình.
Cũng là cảnh chia ly, trong biệt trùng mây xa cách Tùng Thiện Vương luôn
nghĩ về bạn mình với một niềm mong nhớ thiết tha:
Sông trong lá rụng nước nổi sóng
Nhớ lại nơi ly biệt tiễn bạn quí ra đi
Sau khi ly biệt núi khe đường xa vô hạn
Nơi đất khách có khúc ca buồn về cảnh chia xa
(Hoài Nguyễn Phương Đình học sĩ, Tùng Thiện Vương)
Hay một lời hỏi thăm khi tiễn bạn về quê:
74
Tiễn anh nhờ chuyển lời
Hỏi thiền viện Bắc Lâm
Trăng trong hồ Hoàn Kiếm
Năm qua tròn được mấy
(Tống khách vãng Hà Nội, Tùng Thiện Vương)
Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt chỉ vẻn vẹn bốn câu nhưng Thiện
Vương đã tài tình đến mức miêu tả trọn vẹn cả cảnh vật và tâm tư của mình. Tác
giả hoài niệm về cảnh cũ để rồi nhớ lại người xưa, một mối duyên bằng hữu sâu
lắng nhẹ nhàng mà không kém phần da diết.
Tóm lại, có thể thấy thể thơ Đường luật mà các thi sĩ sử dụng để viết lên
những sáng tác của mình khiến cho người đọc cảm nhận được muôn hình muôn
vẻ mọi cảm xúc trong thơ. Những quy định khắt khe về niêm luật đã được các
nhà thơ tài tình biến hóa bằng những hình ảnh, âm thanh vô cùng gần gũi quen
thuộc khiến cho các vần thơ trở nên uyển chuyển mềm mại và dễ đi vào lòng
người.
3.1.2. Cổ phong
Đây cũng là một thể thơ mà các nhà thơ trung đại sử dụng để sáng tác bên
cạnh thể thơ Đường luật. Thơ cổ phong còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể thi đây là
một thuật ngữ dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung Quốc. Nhìn chung, thể
thơ cổ phong có một vài những đặc điểm thuộc tính nhận dạng như sau: thể thơ
này không có tính nghiêm ngặt về niêm luật đối như thể thơ Đường luật, số câu
thơ không quy định một cách chặt chẽ cũng như số chữ/từ trong một bài thơ. Có
thể sử dụng tạp ngôn như tứ ngôn, ngũ ngôn hoặc lục ngôn đan cài vào nhau tạo
nên những câu thơ dài ngắn khác nhau.
Cụ thể về đặc tính thơ cổ phong như sau:
Số chữ trong mỗi câu thơ trong thể thơ này thường là ngũ ngôn (5 chữ)
hoặc thất ngôn (7 chữ), số câu phải có từ bốn câu trở lên trong mỗi bài thơ,
thông thường là tứ tuyệt (4 câu) hoặc bát cú (8 câu). Riêng về vần thì thể thơ này
75
có thể linh hoạt sử dụng nhiều vần hoặc một vần nguyên cả bài. Thể thơ này
không bắt buộc về đối tùy theo người sáng tác có thể tùy ý. So với thể Đường
luật thì đây lại là một thể thơ dễ dàng hơn trong quy định niêm luật, không quá
nghiêm ngặt về cách gieo vần hay luật bằng trắc.
Trong những sáng tác của mình, Cao Bá Quát sử dụng khá nhiều thể thơ cổ
phong để nói lên tâm trạng của lòng mình:
Gần tối nhớ bạn, bạn không tới
Mở tung vạt áo, mượn đón gió lành
Qua cầu, bỗng liên tiếp có tiếng giày
Vào nhà, lại nghiêng chén lúc nào cũng đầy rượu
Bạn bè bốn biển, không có người vụng về
Tâm sự trăm năm biết cùng ai bày tỏ
Tình cảm dạt dào tạ ơn ánh trăng chiếu cây cau
Từng làm bạn cùng khách ẩn dật đi về, với mộng mơ cô độc
(Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự, Cao Bá Quát)
Từng lời tâm sự trong bài hết sức nhẹ nhàng dung dị, nhưng lại truyền tải
được rất nhiều cảm xúc chất chứa trong lòng nhà thơ. Cảnh vật và tâm tư như
hòa quyện, kết lại thành một bức tranh đẹp về nỗi mong nhớ về bạn bè nơi
phương xa.
Bài Tiên khảo húy nhật cảm tác của Đoàn Nguyễn Tuấn cũng là thể thơ cổ
phong đầy thanh thoát, mạch chảy như một dòng suối nhẹ nhàng, tự nhiên dung
dị:
Ngắm cảnh xem di cảo
Ruột gan đau như dần
(Tiên khảo húy nhật cảm tác, Đoàn Nguyễn Tuấn)
Vì đặc trưng của thể loại thơ cổ phong khiến cho các câu thơ rất thanh
thoát, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người.
76
3.1.3. Truyện thơ Nôm
Trong luận văn sử dụng khá nhiều số lượng những truyện thơ Nôm, đây là
thể loại truyện thơ được viết bằng chữ Nôm và thường được viết theo thể thơ lục
bát. Theo quy luật của sự phát triển của các thể loại trong văn học trung đại Việt
Nam truyện thơ Nôm ra đời là một điều tất yếu. Truyện Nôm khai thác rất sâu
sắc những vấn đề nổi trội xảy ra xung quanh cuộc sống. Ở đề tài chia ly, dường
như thể loại này lại càng dễ dàng đi sâu để khai thác hết những tâm tư ước
nguyện của con người. Khát vọng bảo vệ hạnh phúc cá nhân được thể loại này
truyền tải hết sức mạnh mẽ. Vấn đề vợ chồng hay những vấn đề liên quan đến
tình yêu gia đình ngay giữa thời kỳ nhiễu nhương hỗn loạn của chế độ phong
kiến cũng là nội dung rất lớn mà truyện thơ Nôm đã truyền tải được. Truyện thơ
Nôm đã phần nào nói lên được tiếng nói cá nhân mà bấy lâu nay bị che lấp bởi
lễ giáo phong kiến. Những giai đoạn trước do ý thức hệ phong kiến còn quá
nặng nề, khiến con người bị ràng buộc, bóp nghẹt trong những khuôn khổ hà
khắc nay đã được cởi mở minh chứng là những truyện thơ Nôm đầy chất nhân
văn cao đẹp về tinh yêu giữa con người với con người.
Về hình thức, truyện thơ Nôm đều có một kết cấu cơ bản rất giống nhau đó
là truyện thường diễn ra theo một trình tự thời gian nhất định, người kể đứng ở
ngôi thứ ba và câu truyện thường ở dạng quá khứ.
Ngôn ngữ của truyện thơ Nôm thường sử dụng từ ngữ hết sức đời thường,
như khi Thể Loan tiễn Vân Tiên lên kinh ứng thí cũng nhờ ca dao mà gửi lời
đến chàng:
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn
(Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
Hay truyền tải về nỗi nhớ sự xa cách mà không biết khi nào có thể đoàn tụ
trở lại:
77
Từ đây một đất một trời,
Biết mình có được thấy mình nữa không,
Dù người lòng có đoái trông
Hoa đào khi với gió đông khác nào.
(Truyện Ngọc Kiều Lê, Lý Văn Phức)
Nhìn chung lại, với số lượng rất lớn, truyện thơ Nôm có nội dung hết sức
đột phá nhưng khá tinh tế. Nó đã biểu hiện rất đặc sắc truyền thống nhân đạo và
truyền tải tâm tư tình cảm của con người Việt Nam từ thời đại xa xưa đến tận
ngày nay.
Tựu trung lại, thể loại trong thơ ca nói riêng và với văn học trung đại nói
chung là nơi xác định rất rõ tính chất chức năng cũng như tính quy phạm theo
từng thời đại. Các tác giả và những sáng tác của họ thường gắn liền với một vài
thể loại nhất định, từ đó thể hiện rõ tâm tư, thái độ cảm xúc và tư tưởng của
mình cho các biến động của đời sống. Cũng chính từ thể loại, chúng ta có thể
thấy nó chi phối rất lớn đến việc phát triển ý tưởng cũng như cảm quan của tác
giả đến chính tác phẩm của mình.
3.2. Về ngôn ngữ.
3.2.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ
3.2.1.1. Sử dụng điển cố điển tích
Điển cố là một biện pháp tu từ được sử dụng rất nhiều trong văn học cổ
cũng như trong thơ ca trung đại, nó còn là một hình thức nghệ thuật vô cùng độc
đáo để từ đó các nhà thơ có thể xây dựng hình ảnh nghệ thuật, lôi cuốn người
đọc, dễ dàng để bộc lộ tâm tư tình cảm của mình một cách sâu sắc hơn. Nguồn
gốc để các nhà văn khai thác điển cố hầu hết là các sử tích từ thời Xuân Thu –
Chiến Quốc đã được sử sách lưu truyền lại cũng như các tích sử nổi tiếng khác.
Vậy định nghĩa về điển cố là gì? Điển cố cũng có thể gọi với tên gọi khác là điển
tích là những tích truyện xưa, những tích đó gắn liền và thường kể về những anh
hùng liệt sĩ, những tấm gương hiếu thảo, những truyện có tính triết lý nhân văn
78
hay những tấm gương đạo đức trong lịch sử và thường là lịch sử của Trung
Quốc. Điển cố thường có nhiều cấp độ nghĩa nhưng lớn nhất là tính lịch sử và
tính biểu trưng. Những trạng thái cảm xúc của con người những tình cảm thiêng
liêng và cao đẹp thường được các nhà thơ gắn liền với những biểu tượng khác
nhau. Những điển cố đã ăn sâu vào tiềm thức, như là những biểu tượng kinh
điển của thơ ca văn học cổ mang một chức năng như ánh đèn soi rọi phản chiếu
hiện thực làm sáng tỏ ý tứ mà các nhà thơ muốn giải bày.
Có những điển cố hết sức gần gũi thân quen đã được Nguyễn Du sử dụng
rất ngọt ngào trong đoạn Kiều thất hứa với hẹn ước của Kim Trọng vì phải bán
mình chuộc cha:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Hình ảnh trúc mai được nhắc đến trong câu thơ là một loài cây có thân hình
ngay thẳng, chính vì hình dáng của cây mà Nguyễn Du đã mượn hình ảnh ấy để
tượng trưng cho tấm lòng không đổi, son sắt giữ vẹn lời thề. Trong Cung oán
ngâm khúc của Đặng Trần Côn cũng sử dụng những điển cố gắn liền với tích
xưa:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
(Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần Côn)
2 câu thơ trên đã được tác giả lấy từ nguyên tác“Sầu tự hải, Khắc như
niên” (Sầu như biển, khắc như năm), nó tượng trưng cho nỗi buồn của người
chinh phụ, một nỗi buồn vô hạn, dài đằng đẵng. Không những thế, trong Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng sử dụng rất nhiều những điển cố rất quen
thuộc:
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
79
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
“Ngàn dâu” ở đây do chữ “mạch thượng tang” và nó cũng mang tên một
khúc hát cổ của thời Xuân Thu gắn liền với một tích truyện về tình cảm vợ
chồng: Có một cặp vợ chồng, người vợ tên là La Phu xinh đẹp hơn người, chồng
nàng là chiến sĩ hải hồ, hai vợ chồng thắm thiết quấn quýt bên nhau nhưng rồi
chàng phải xách kiếm sang nước Tần và hai vợ chồng phải chia ly nhau từ đó,
hẹn ước mong chờ ngày trở về. Từ đó, nàng La Phu một mình nơi quê nhà, cô
đơn trống vắng chỉ biết hái dâu chăn tằm dệt vải, chính vì xa chồng cảm xúc hiu
quạnh khiến cảm xúc trong nàng cứ chất chưa và từ đó nàng đã làm nên những
bài thơ tình cảm nhớ thương. Nhưng cuộc đời nào ngờ, trong một lần hái dâu
nàng đã được Triệu vương đem lòng say đắm lấy làm thê thiếp. Vì ý vua nàng
không thể chối từ, lòng đau như cắt ngồi vào bàn cầm đàn lên gảy những khúc
ca ly biệt trong đó có khúc “Mạch thượng tang” ngụ ý muốn bày tỏ lòng mình.
Triệu Vương nghe thấy liền hiểu ý sâu xa trong khúc ca của nàng đành để nàng
La Phu trở về. Từ đó khúc ca ấy để tả lại mối tình chung thủy son sắt của người
vợ dành cho người chồng mỗi khi xa cách. Bắt gặp rất nhiều những nét chuyển
biến tài tình của tác giả trong khúc ngâm, Đặng Trần Côn còn rất tài tình biến
hóa những điển cố xa xưa của Trung Quốc vào thơ ca của mình, khiến cho văn
học của nước nhà như được khoác lên mình một màu áo mới. Sự chia ly ban đầu
chỉ là cách mấy ngàn dâu, giờ đây đã tăng lên tột bậc về không gian:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Thật xót xa thương cảm khi người ở Bến Tiêu Tương, kẻ ở chốn Hàm
80
Dương. Hàm Dương – Tiêu Tương cũng chính là bút phát ước lệ của văn
chương cổ điển xưa ở Trung Quốc. Nó là những địa danh để chỉ về độ xa cách…
Hay trong một tác phẩm vô cùng ý nghĩa nói về tình cảm vua tôi của Phạm
Nhân Khánh có tên Phụng Bắc sứ cung độ Hy Lăng đại tường nhật hữu cảm
(Cảm xúc khi phụng mệnh đi sứ phương Bắc, nhân gặp ngày đại tường của Hy
Lăng), bài thơ có kết cấu vô cùng chặt chẽ nói lên tấm lòng trung thành và tình
cảm của tác giả với vua Duệ Tông. Những câu thơ gợi nhớ về ân tình xưa mà
vua dành cho chính nhà thơ, sự gợi nhớ trong tâm tưởng này nó cũng như tấm
lòng biết ơn nhớ mãi không quên của ông dành cho đấng bề trên. Chính vì có
những ân tình ấy để giờ đây khi phải xa cách chốn quê nhà, biệt ly với vua mà
lòng ông không nguôi nỗi nhớ, bùi ngùi xúc động. Lời của toàn bộ bài thơ vô
cùng dễ hiểu và đi vào lòng người nhưng duy có câu cuối “Trướng vọng
Thương Ngô lệ mãn cân” (Buồn trông núi Thương Ngô nước mắt đầm khăn) có
đôi chút khó hiểu khi tác giả đưa hình ảnh núi “Thương Ngô” vào trong câu thơ.
Bởi lẽ, núi Thương Ngô không thuộc địa phận nước Nam mà thuộc về phần đất
của Trung Quốc ở tình Hồ Nam và núi này chính là một điển tích rất quen thuộc
của người dân Trung Quốc xưa. Theo tích xưa, khi vua Thuấn về phía Nam đi
tuần thú và đau buồn hơn cả ông đã mất mạng ở chính chân núi Thương Ngô,
phần mộ của ông cũng được an táng chính tại nơi này. Có lẽ vì tích này khiến
cho Phạm Nhân Khánh nhớ về Duệ Tông khi đi đánh chiếm Chiêm Thành cũng
không may bỏ mạng ở phía Nam. Kết của bài thơ có hình ảnh núi “Thương Ngô”
như một tiếng kêu xé lòng, đau đớn nhớ nhung đấng bề trên bài thơ vừa là sự
tưởng nhớ, vừa tình cảm day dứt khôn nguôi thể hiện tấm lòng trung hiếu của
ông với vua Duệ Tông. Tâm trạng của những người đi sứ luôn tràn đầy cảm xúc,
khi phải xa quê hương ở chốn non xa vạn dặm thì thế giới riêng tư của mỗi nhà
thơ như được khơi gợi khiến cho các áng thơ văn thời kỳ này càng thấm thêm
nhiều nỗi niềm. Vào đời Trần, cũng trong hoàn cảnh phải tuân lệnh vua mà đi
sứ, Doãn Ân Phủ đã ghi lại hoàn cảnh và cảm xúc khi ấy bằng những câu thơ
81
mượt mà sâu đậm ý nghĩa:
Một người đi về phương bắc, một người về nam,
Chiếc bóng bâng khuâng gửi trên yên ngựa.
Ngoài ải xa mây nhiều, chim hồng nhạn lẻ loi,
Đầu đồng bằng gió mạnh, con tích linh lo lắng.
Bao phen đêm mưa, liền giường cùng nhau trò chuyện,
Muôn hộc tình buồn nhớ quê hương, mượn chén rượu uống cho
khuây khỏa.
Ta đi cầm cờ tiết mao, người về coi việc gối quạt,
Xưa nay trung, hiếu khó toàn vẹn được cả hai.
(Phụng sứ lưu biệt thân đệ, Doãn Ân Phủ)
Xuyên suốt bài thơ là khúc ca u buồn cách biệt anh em tình thân mỗi người
phải hùng cứ một phương. Tinh thần của con người trung đại đã được thơ ca
khắc họa một cách hết sức rõ nét, tình cảm dành cho quê hương vua tôi sâu đậm,
tình huynh đệ khắc khoải trong tâm trí mỗi khi lâm vào cảnh ly biệt. “Ngoài xa
mây nhiều chim hồng nhạn lẻ loi” một câu thơ gợi cho người đọc nhiều tâm
trạng khác nhau. Buổi chiều tà con người ta luôn hướng về những điều thân
thuộc, luôn muốn được quay trở về đoàn tụ với người thân trong gia đình, ấy
vậy mà chủ thể lại đang phải lẻ bóng, cô đơn một mình nơi đất khách. Tác giả sử
dụng hình ảnh “chim hồng nhạn”, một loài thủy điểu (loài chim sống dưới
nước) nó cũng là tên của một loài chim trong kinh điển Trung Hoa. Chúng
thường về phía Nam tránh rét đến mùa xuân lại trở về phương Bắc, một nét đặc
trưng của loài chim này là mỗi khi bay thường bay thành đàn và vô tình tạo
thành dáng chữ nhân, trật tự bay của chúng thích hợp với nguyên tắc của người
Hồng Kông nên loài chim này người ta thường nhắc đến luân lý trật tự sống ở
đời. Hơn thế nữa, nó cũng là loài chim tượng trưng cho tình yêu son sắt bền
chặt, nó là những biểu trưng to lớn cho nhiều ý nghĩa sống trong xã hội. Tác giả
đã sử dụng điển tích “chim hồng nhạn” để ví von cho tình cảm của mình, dù
82
phải đi xa thế nhưng tấm lòng luôn hướng về người em ở lại, còn người em thì
trăn trở lo âu cho người đi cách biệt hai phương trời. Tình cảm anh em hiện lên
cứ quấn quýt bên nhau không muốn rời, xen lẫn là những kỷ niệm trong quá khứ
khiến cho tình thân thêm bền chặt, lòng thêm nhung nhớ. Tình cảm của Doãn
Ân Phủ hiện lên cao đẹp như ánh trăng đêm rằm, chiếu sáng mọi tâm hồn trong
nỗi nhớ yêu thương. Nhà thơ thể hiện sự tài tình khi sử dụng điển tích khiến cho
ý nghĩa càng thêm sâu đậm, và cũng thể hiện sự tài hoa của chính các thi nhân.
Hình ảnh chim Nhạn thường xuyên lặp đi lặp lại trong thơ ca trung đại, nhất là
với nội dung chia ly. Nguyễn Trãi đã nhiều lần đưa hình ảnh chim Nhạn vào
trong thơ mình để ví von cho nỗi buồn tha hương trong bài Thần phù hải khẩu
(Của biển thần phù): “Cố quốc qui tâm lạc nhạn biên” (Lòng mong về quê cũ
theo cánh Nhạn sa)…
Xuôi theo dòng thơ chia ly, cách sử dụng điển cố điển tích của mỗi nhà thơ
lại khác nhau, cũng vẫn là tình yêu dành cho quê hương đất nước người thân
nhưng mỗi điển tích sử dụng lại mang một sức diễn tả khác nhau. Nguyễn Trung
Ngạn cũng là một thi nhân thường xuyên vận những điển tích vào trong thơ của
mình khiến cho thơ ông như bác học hơn, sâu xa và triết lý hơn:
Ù ù gió bấc mây kéo đen sì
Bóng ngọc thiềm đã lặn, trời tối mù mịt
Chia tay với cố nhân, kẻ về Nam, người đi Bắc
Từ đây bức thư nhạn cá không còn biết tin tức gì
Cái chăn chiên rách mỏng gặp trời rét không thể ngủ được
Mấy cành hoa mai ở trước cửa sổ tức là bạn cố tri
Lồng lộng phương trời mê man hàng nhạn…
(Linh Châu Ngân giang dịch, Nguyễn Trung Ngạn)
Cả bài thơ là nỗi nhớ quê hương với cố nhân nơi quê nhà, tác giả đã sử
dụng rất nhiều điển tích trong bài thơ này. Cả thảy có 12 câu thơ thế nhưng tác
giả đã sử dụng đến hơn bốn điển tích, và đây đều là những điển tích hết sức
83
quen thuộc với thơ ca thời trung đại, như “nhạn bạch”, “minh kê khách”, “cảo
ngô”… Những điển tích này thường được sử dụng trong hoàn cảnh ly biệt quê
hương, chia ly người thân nơi đất khách, tác dụng của chúng thường làm tăng
thêm tính cảm xúc, thể hiện mạnh mẽ tình cảm nhớ thương mong ngóng trông
chờ của người đi cũng như kẻ ở.
Không chỉ dừng lại ở những xúc cảm đó, âm hưởng tinh thần của những
người đi sứ thời xưa còn là âm điệu rất đỗi vẻ vang hào hùng và đầy khí phách.
Cũng là chia ly nhưng chia ly ở thời kỳ của những nhà thơ thơ đi sứ vào thế kỷ
X–XIV là những cuộc chia ly của những người trí thức mang trong mình những
trọng trách lớn lao của đất nước, nên ở đó con người mang đầy những khí
phách. Nguyễn Trung Ngạn đã để lại những tác phẩm mang nội dung như thế:
Tạm biệt Kinh thành đi sứ Hoa,
Bên đình dừng ngựa nắng chưa tà.
Một chén rượu từ biệt chia hứng khách,
Phía Đông sông Lô là chân trời.
(Bắc sứ sơ độ Lô giang, Nguyễn Trung Ngạn)
Chỉ vẻn vẹn với bốn câu thơ nhưng tác giả đã vẽ nên cả một không gian
chia ly hết sức hào hùng, khung cảnh vô cùng đơn sơ giản dị, cuộc chia ly diễn
ra cũng hết sức nhẹ nhõm thế nhưng đâu đó vẫn là âm hưởng của nỗi buồn xa
xứ. Phải chăng đó là sự đối lập tâm trạng mà giai đoạn này ta thường bắt gặp
trong các sáng tác của các nhà đi sứ. Hiểu được trọng trách của mình, thấm
nhuần được đạo lý với đất nước với đấng vua bề trên nên các nhà đi sứ thường
giữ vững tâm thế của đấng nam nhi chi chí bản lĩnh kiên cường tiến về phía
trước để hoàn thành nhiệm vụ với đất nước. Đó là cuộc chia tay giữa những nhà
đi sứ với nhau, một cuộc tiễn đưa đẹp đẽ mà không hề có chất bi lụy trong khúc
ca chia ly này. Tác giả đã sử dụng điển cố “sứ tiết” để nói lên tâm thế của mình.
3.2.1.2. Cách lựa chọn hình ảnh
Thuật ngữ biểu tượng nghệ thuật được sử dụng rất nhiều trong văn học,
84
việc tìm hiểu về thuật ngữ này đóng góp một phần rất lớn trong việc hiểu đúng
bản chất về xây dựng hình ảnh trong thơ ca nói riêng và văn học nói chung.
Trong bất cứ một tác phẩm thơ ca nào cũng xuất hiện những hình ảnh mang đặc
trưng biểu tượng nghệ thuật, đó cũng chính là thế giới mà tác giả sử dụng có ngụ
ý. Biểu tượng được hiểu là hình ảnh, ký tự tượng trưng cho ý tưởng hoặc một
thực thể vật chất hoặc một quá trình gây nhiều ấn tượng với người đọc. Chính từ
đó, nó mang nhiều biểu tượng rất hàm súc và cô đọng nhưng lại có khả năng
khơi mở rất lớn với người đọc. Biểu tượng nghệ thuật còn được hiểu là tất cả
những hình ảnh nghệ thuật mà những hình ảnh đó có tần suất lặp đi lặp lại nhiều
lần trong thơ, và sự lặp lại đó cũng chính là ngụ ý mà tác giả muốn biểu đạt về
nghệ thuật theo chính thế giới quan của nhà thơ. Trong thơ ca, có rất nhiều
những tác phẩm sử dụng biểu tượng hình ảnh, qua đó thấy được các nhà thơ như
muốn giãi bày tâm sự bằng một cách khác mà không phải là cách giải bày trực
tiếp. Có thể nói rằng ý nghĩa của việc sử dụng biểu tượng nghệ thuật là một sự
tiến triển lớn trong đời sống cảm nhận của nhà thơ cũng như người đọc. Những
tác phẩm thơ ca chứa đựng nhiều biểu tượng nghệ thuật tạo ra những tầng lớp ý
nghĩa vô cùng sâu sắc. Trong luận văn này, người viết đề cập đến những biểu
tượng nghệ thuật là hình ảnh của cây liễu, ánh trăng, giọt lệ. Theo khảo sát số
lượng bài thơ có hình ảnh cây liễu, ánh trăng, giọt lệ trên tổng số 107 bài thơ
được thống kê như sau:
Tổng số Hình ảnh cây liễu Hình ảnh ánh trăng Hình ảnh giọt lệ
116 bài thơ
33 bài 30 bài 23 bài
Hình ảnh cây liễu
Trong thơ ca chia ly trung đại xuất hiện nhiều lần hình ảnh của thiên nhiên
mà mỗi lần bắt gặp là mỗi lần gợi lên nhiều tâm trạng đó là hình ảnh của cây
liễu. Hình ảnh bóng liễu rũ xuống như thấm đượm vào tâm hồn thi ca của mỗi
85
thi sĩ. Cũng như ta đã biết thơ Đường thường gắn bó sâu sắc với thiên nhiên cây
cỏ, những hình ảnh thân quen gần gũi ấy đều được biến hóa thành những biểu
tượng hết sức đẹp đẽ gợi nhiều cảm xúc trong thơ. Hình ảnh cây liễu là hình ảnh
vô cùng quen thuộc, nó hiện lên như bóng dáng của một người con gái, nó tượng
trưng cho nhiều ý niệm của cuộc sống và còn là biểu tượng nghệ thuật trong thơ
ca nhất là thơ ca thời trung đại. Những nhà thơ thời trung đại thường hay mượn
những hình ảnh xung quanh mình để gửi gắm nỗi lòng tâm trạng, những hình
ảnh đó không xa vời với cuộc sống thực tế mà ngược lại rất gần gũi thân quen.
Hình ảnh cây liễu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca trung đại nhất là với thơ ca
chia ly, tống tiễn:
Cỏ xuân non mơn mởn, dương liễu rủ xuống,
Đưa tiễn khách qua sườn núi lúc chiều tà.
Về đến Trường An các bạn thân nếu hỏi nhau
Đừng nói mặt buồn như lúc ra đi.
(Tống khách hồi Trường An kiêm ký chư cố nhân, Tùng Thiện Vương)
Khung cảnh trong bài thơ của Tùng Thiện Vương có cây cỏ xanh tươi,
nhưng bóng liễu lại rũ xuống như báo một tâm trạng buồn, sự miêu tả bóng dáng
của liễu tạo nên không khí u sầu thương nhớ. Trong một lần tiễn đưa khác, một
người bạn của ông xin nghỉ phép về quê, ông cũng đã dùng những câu thơ của
lòng mình để ghi lại khung cảnh chia ly ấy:
Hoa mộc vườn Lương tợ tuyết rơi,
Oanh về cố ý đậu cây ngơi.
Gió xuân làm liễu tươi màu biếc,
Đưa tiễn tình nhân đắc ý hồi
(Tống Nguyễn Vũ, Thiện Bích nhân, thành tiến sĩ hậu
thỉnh giả hoàn hương, Tùng Thiện Vương)
Đúng như phong cách của thơ Đường, thiên nhiên và con người như hòa
vào làm một, con người mượn thiên nhiên để giải bày cảm xúc, chia sẻ tâm
86
trạng. Chỉ với vẻn vẹn bốn câu thơ mà đã xuất hiện năm hình ảnh cây cỏ hoa lá
chim muông. Hình ảnh hoa rụng, hình ảnh chim Oanh đậu bên cây xen vào đó là
gió xuân làm nổi bật màu xanh tươi của liễu. Những hình ảnh đan xen vào nhau
tựa như một bức tranh mùa xuân có đầy đủ cảnh vật nhưng nó đối lập với tâm
trạng của nhà thơ, khung cảnh ấy mà phải tiễn đưa, chia ly thì thật u buồn biết
bao. Bài thơ cho thấy trái tim ông luôn ấm nóng, chân tình và tha thiết đối với
bạn bè mình. Cứ mỗi lần đưa tiễn người thân bạn bè, Tùng Thiện Vương lại ghi
dấu ấn sâu đậm bằng những áng thơ văn, súc tích mà đầy cảm xúc, dường như
trong những lần đưa tiễn ấy, bóng liễu lại không thể không xuất hiện :
Đầy nhà tiếng đàn tiếng sáo cùng cất lên
Cây liễu mùa thu trước cửa, ngựa trắng hí
Đêm nay xin bạn đừng uống say
Vì sáng mai còn phải đi đến nơi khỉ kêu loạn xạ
(Tống nhân Nam hành, Tùng Thiện Vương)
Phải chăng liễu đứng đó như chứng kiến, như là vật minh chứng cho khúc
biệt ly của ông dành cho người thân bè bạn. Trong buổi tiệc rượu chia tay để
ngày mai bạn lên đường, dù khung cảnh lúc ấy chưa phải là lúc chia ly chỉ đang
là buổi tiệc rượu nhưng ông cũng cho người đọc hiểu rằng lòng ông đã nghĩ đến
ngày mai, đến lúc mỗi người một phương trời mà nhắc nhở bạn mình. Lời nhắc
khéo léo giữ mình để có sức khỏe cho buổi ly biệt sáng hôm sau. Rất nhiều lần
ta bắt gặp hình ảnh cây liễu trong thơ của Tùng Thiện Vương, không biết chỉ là
vô tình hay hữu ý mà tần xuất ấy lặp đi lặp lại nhiều lần trong các sáng tác của
ông. Khi chia tay, lúc ly biệt, khi tưởng nhớ thì ông lại ưu ái cho bóng liễu xen
vào các vần thơ như một hình bóng gắn liền với tâm trạng:
Chống gậy nghĩ đâu đâu
Bóng thụ mát như nước,
Dáng vân mỏng tựa thu.
Thùy dương nửa mẫu lặng,
87
Chim hót một âm sầu.
Bạn cũ bận công cán,
Đêm nay khó ngoái đầu.
(Viễn cư hữu hoài, Tùng Thiện Vương)
Lại một bức tranh nữa được Tùng Thiện Vương vẽ nên bằng chính những
câu thơ của mình, thiên nhiên lại hiện lên hài hòa trong từng nét vẽ. Có cuộc chia
ly nào không để lại vấn vương, có nỗi sầu biệt ly nào không day dứt người đi kẻ
ở. Nỗi nhớ nhung ấy cứ dập dìu trong tâm trí của nhà thơ khiến cho cảnh vật cũng
như thấm nỗi thương nhớ. Lúc này liễu lại có tên gọi khác là Thùy dương, và
đúng như tâm trạng của tác giả, thùy dương đứng lặng im, chim thì chỉ hót những
nốt sầu trầm buồn. Tất cả hiện lên tâm sự của người trong cuộc cũng chính là tác
giả khiến cho người đọc vì thế mà cảm thấy hiu hắt, u buồn theo.
Nối tiếp bóng dáng của cây liễu trong khung cảnh đưa tiễn ấy không thể
không nhắc đến Nguyễn Du, người mà trong mỗi một áng thơ để lại đều là
những sản phẩm tinh thần quý báu. Mỗi hình ảnh xuất hiện trong thơ ông đều để
lại một ý nghĩa sâu sắc:
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày.
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm
Ở đất khách lâu năm ngồi dưới bóngđèn mà rơi lệ
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng
Ở đó phía ngoài thôn Nam Đài. Tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Không khí của bài thơ bật lên là một sắc khí u ám, tịch mịch, một nỗi sầu bi
không lối thoát khiến cho người đọc như lạc vào mê cung của sự u tối. Cảnh vật
có liễu, có trăng có tiếng sóng nhưng mọi thứ chỉ như bổ trợ cho tâm hồn đang
88
héo úa, không niềm vui, cô đơn một cõi của nhà thơ. Liễu hiện lên với trạng thái
âm u, khiến người đọc không khỏi xót xa cho tinh thần của Nguyễn Du lúc này.
Một tinh thần cô quạnh, ông ví cuộc đời ông như chìm trong bóng đêm u tối
khiến cho cả bài thơ chìm vào khoảng không gian bi lụy.
Trong Truyện Kiều, liễu cũng đôi lần xuất hiện và dường như với Nguyễn
Du, liễu là một cảnh vật tượng trưng cho những điều u sầu, khắc khoải. Với ông
liễu thường gắn với khung cảnh chia ly, mà có cảnh chia ly nào mà không buồn
thương nhung nhớ.
…Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành dương quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời…
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Không hề khó để tìm thấy bóng liễu trong mỗi khúc chia ly:
“Quân đưa chàng ruổi trên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này trăng”
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Hay:
“Lúc ngoảnh lại thấy màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Cũng xuất hiện trong một khúc ngâm, liễu ở trong khúc ngâm này cũng là
dáng liễu ấy nhưng nỗi buồn thì lại càng sâu nặng. Trong Thu dạ lữ hoài ngâm
của Đinh Nhật Thận, liễu vẫn ở đó, vẫn nơi đó nhưng mang trong mình một hình
thái khác, một tâm hồn khác. Phải chăng đây là trạng thái của liễu, hay là trạng
thái của chính tác giả áp vào cho liễu? Có lẽ là cả hai, bởi rằng lòng tác giả đang
u sầu thương nhớ quê nhà thì làm sao cành liễu có thể xanh tươi mơn mởn được:
…Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
89
Chim Hoàng Anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.
(Thu dạ lữ hoài ngâm, Đinh Nhật Thận)
Liễu như là người bạn tâm giao, đồng hành với mọi biển chuyển tâm trạng
của tác giả, khi người vui thì liễu cũng như ca khúc ca sum vầy, thân lá như tràn
đầy sức sống, khi người buồn liễu cũng chẳng buồn bung lá xanh tươi, mà âu
sầu theo tiếng kêu của ve. Tác giả còn ưu ái cho liễu cả những hoạt động như
một con người thực thụ, liễu cũng biết vui, biết buồn cũng có tâm trạng. Tác giả
liên tưởng hình ảnh của đôi mày như là lá liễu, cũng đúng như thế bởi hình dáng
của liễu gần như tương ứng với hình dạng của đôi chân mày hiện hữu trên khuôn
mặt mỗi người. Mùa thu đến cũng là lúc phải chia tay với mùa hè, tiếng ve kêu
ngày nào giờ đây phải chia ly trong sầu thương nuối tiếc. Tác giả liên tưởng rất
sâu sắc từ sự xa cách của chính mình mà nghĩ đến sự biến chuyển của không
gian và thời gian khiến cho cả khúc ngâm như một vòng tuần hoàn của ly biệt,
thương nhớ.
Phải chăng liễu là biểu tượng của khúc ca tiễn biệt, trong thơ ca trung đại
liễu mang trong mình rất nhiều ý nghĩa. Hầu hết những bài thơ Đường mang nội
dung chia ly, tống tiễn đều có hình bóng của liễu, dù là liễu xanh hay liễu rũ
xuống cũng là biểu tượng của cảnh biệt ly, chẳng thế mà người xưa đã có câu
“duy hữu thùy dương quản biệt ly” (Chỉ có liễu rũ là biết chuyện ly biệt). Và
không biết từ đâu mà thành, mỗi thi nhân ưu ái cho liễu những áng thơ chia ly
như thế, để mỗi lần nhắc đến liễu là như một dấu hiệu của sự xa cách. Có lẽ vì
vậy mà liễu đã tự mang cho mình một biểu trưng nghệ thuật hết sức biểu cảm và
trở thành một nguồn cảm hứng dạt dào cảm xúc của các nhà thơ. Có lẽ sẽ là
thiếu sót không nhỏ nếu các áng thơ chia ly không xuất hiện hình bóng của liễu,
liễu u hoài, liễu cô đơn, liễu rũ, liễu mong manh trong gió... Các nhà thơ đã nhân
cách hóa để liễu như một nhân vật chính trong buổi đưa tiễn và trở thành một
90
hình ảnh có hồn và thổi chính hồn ấy vào trong mỗi áng thơ ca, khiến cho thơ ca
chia ly mượt mà, gợi hình và sâu đậm hơn.
Hình ảnh ánh trăng
Trong thơ ca trung đại có rất nhiều những thi liệu quen thuộc bắt nguồn từ
thiên nhiên mà các tác giả đã gửi gắm vào trong mỗi tác phẩm của mình. Ánh
trăng bàng bạc làm say lòng biết bao thi nhân, dường như trăng đã trở thành một
người bạn tâm giao mỗi khi có nỗi niềm muốn gửi gắm, không những thế trăng
còn được thấy như một vẻ đẹp tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Vầng trăng hiện lên như một sự đánh thức những cảm xúc thầm kín sâu bên
trong mỗi con người khiến cho trăng có một sức hút rất đặc biệt mỗi khi hiện
hữu. Với các thiền gia trăng là biểu tượng của bát nhã thì với các thi sĩ trăng lại
là người bạn tâm giao, người đưa đường dẫn lối cho tâm hồn được cởi mở. Có lẽ
vì vậy, với thơ ca trung đại hình ảnh vầng trăng trên cao nhưng lại rất đỗi gần
gũi, thân quen, nó chiếm lĩnh tâm hồn của mỗi thi nhân tạo nên những áng thơ
mượt mà sâu lắng.
Với thơ ca chia ly, ắt hẳn không thể thiếu vắng hình ảnh vầng trăng trên
cao vằng vặc sáng nhưng lại chất chứa một nỗi cô đơn u sầu. Vầng trăng cứ lẻ
bóng cô đơn một mình trên bầu trời tối đen khiến cho những con người ở trong
hoàn cảnh chia ly vì thế mà càng sầu thêm. Trong toàn bộ khúc “Chinh phụ
ngâm” ta thấy hình ảnh ánh trăng xuyên suốt cả một bầu trời thương nhớ, hình
ảnh ánh trăng lúc này được ví như hình ảnh của người chinh phụ cô đơn 1 cõi
trông nhớ người chồng đi chinh chiến nơi chiến trường đầy hiểm nguy, gian
khổ. Người chinh phụ ví lòng mình chung thủy như bóng trăng, một mình một
chốn luôn dõi theo bóng chàng:
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi thiên san
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Bóng trăng lúc này như một vật để minh chứng cho tấm lòng son sắt đợi
91
chờ của người phụ nữ trông theo người mình yêu thương đợi chờ. Tiếp theo đó,
ánh trăng lại được nhắc đến như một sự định vị “Đêm trăng này nghỉ mát
phương nao?”, ánh trăng như một sự báo nhắc về thời gian, gợi cho người đọc
một cảm giác gần gũi thân thuộc. Tiếp đến, ánh trăng lại hiện lên, nhưng ở đây
ánh trăng tỏ một vẻ bao la rộng lớn “xông pha gió bãi ngàn trăng”. Xuyên suốt
mạch bài thơ đều xuất hiện ánh trăng, nó dường như là biểu tượng cho nhiều
những cảm xúc của người trong cuộc, lúc cô đơn, khi thương nhớ, lúc lại hiện
hữu như đúng bản chất của ánh trăng là soi đường dẫn lối. Rồi có lúc, trăng lại
hiện lên với hình ảnh rệu rã bởi lẽ lòng người chinh phụ lúc này đã bị nỗi nhớ,
nỗi cô đơn bao trùm, khiến cho ánh trăng vì thế thế mà u sầu theo:
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn)
Ngoài tên gọi là trăng, trong khúc ngâm trăng còn được gọi với tên gọi
khác là nguyệt. Đỉnh điểm hình ảnh ánh trăng hiện hữu lên là khúc thơ:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.
Khúc thơ như mở ra một không gian nội tâm của nhân vật chính. Nguyệt,
hoa cứ thế lồng vào nhau như thể hiện tâm hồn của người chinh phụ. Lúc này
người phụ nữ lòng rối ren trăm ngõ, cảm xúc cô đơn, chống trải cứ ùa về xen lẫn
cùng với thiên nhiên có hoa có nguyệt, mọi thứ cảm xúc đó khiến cho lòng nàng
đau xiết. Trong 476 câu thơ mà ánh trăng đã góp mặt 8 lần, trăng lúc này không
chỉ là biểu tượng của thiên nhiên mà mang nhiều những vị trí khác nhau, trăng
vừa là ánh sáng soi đường, vừa là tâm trạng cảm xúc của nhân vật.
Trăng còn góp mặt trong một tác phẩm rất thành công của đại thi hào
Nguyễn Du đó là Truyện Kiều, trăng hiện lên rất nhiều lần đẹp đến mê mẩn,
92
trăng lúc này như biểu tượng của tâm hồn, trăng thấm đượm mọi cảm xúc. Có
lúc trăng hiện lên viên mãn đẹp khác lạ, nhưng có lúc trăng lại khơi mọi nỗi
buồn chia ly từ biệt:
Trăng thề còn đó trơ trơ
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Cũng như trong Chinh phụ ngâm, trăng trong Truyện Kiều cũng hiện lên
như một biểu tượng cho tâm hồn người phụ nữ, cho mối nhân duyên mà vì nhiều
lẽ phải chia ly cách trở, trăng lúc này hiện lên với màu sắc u buồn nhung nhớ.
Trong Truyện Kiều, có lẽ chính nàng là người mang nặng ân tình với nhiều mối
lương duyên, mỗi mối lương duyên lại mang một khúc sầu ly biệt khác nhau. Là
lời hẹn ước đẹp đẽ đồng điệu đến rất tự nhiên từ hai tâm hồn nhưng vì hoàn cảnh
phải cách biệt thì với nàng Kiều lại là một mối ân nghĩa sâu nặng nhưng mang
nhiều trắc trở của chia ly khắc khoải:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Vầng trăng hiện lên nhưng chia đôi làm hai ngã, hai phương trời tách biệt,
như lời oán hờn, vừa là lời than vãn của sự chia ly tiếc nuối. Một nửa vầng trăng
nơi khuê phòng gối chiếc thể hiện sự trống vắng hiu quạnh, nửa vầng trăng như
theo chân chàng đi muôn dặm đường cách biệt. Trăng trong Truyện Kiều hiện
lên với một nỗi buồn u uẩn, chia ly không lối thoát, không ngày ước hẹn, không
buổi hội ngộ. Người và ánh trăng giao hòa vào nhau, tâm hồn bình lặng chan
hòa cùng cảnh vật. Vầng trăng của vũ trụ cũng hiện lên như quy tụ nhiều xúc
cảm, đánh thức mọi giác quan của con người mà ở đó quy tụ những buồn vui
nhân thế của nhân vật. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du vầng trăng hiện lên
với nhiều ý nghĩa, trăng không vô tri vô giác trên bầu trời mà trăng chính là cội
nguồn của suối nguồn cảm xúc. Trăng trong thơ của Nguyễn Du còn có khả
năng gợi mở về tương lai, nhắc nhở về quá khứ. Nguyễn Du là một trong những
93
nhà thơ mà trong cuộc đời ông rất nhiều phen truân chuyên, khổ ải của bước
đường gió bụi. Sinh ra và lớn lên trong buổi loạn lạc, gia đình ly tán, anh em
mỗi người một phương. Khi phải xa xứ đi về nơi đất khách, quê nhà có lẽ là nơi
ông cảm thấy đau đáu nhất khi tìm về, có lẽ vì vậy Nguyễn Du luôn canh cánh
một nỗi nhớ quê hương:
Lâu năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn,
Nghìn dặm nhớ quê, lòng gửi theo vầng trăng
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Ông nhớ về quê hương mà lệ phải tuôn, khẳng định lòng mình như vầng
trăng soi sáng, biết gửi nỗi niềm cho ai đây khi chỉ mình ông với ánh trăng lẻ loi
cô độc. Không chỉ là nỗi nhớ với quê hương, với Nguyễn Du có lẽ thấm nỗi đau
ly biệt khi còn tấm bé nên ông càng trân trọng hơn những mối quan hệ ân tình
sâu nặng, trong mỗi lần chia ly ông lại gửi ánh trăng vào vần thơ của mình nó
như thể hiện sự đơn độc:
Xin giữ lấy một mảnh trăng ở phía nam sông.
Đêm đến thường soi lòng hai ta.
(Lưu biệt Nguyễn đại lang I, Nguyễn Du)
Trong nội dung chia ly, những bài thơ tống tiễn không thể nào thiếu hình
bóng của trăng, tác giả mượn trăng để bày tỏ nỗi lòng. Đó là vầng trăng sáng của
buổi tiệc chia ly, trăng như ánh đèn rọi soi mọi thứ sáng tỏ:
Nơi quan ải, đêm thu lúc trăng sáng
Bóng (trăng) chiếu vào bữa tiệc tiễn đưa, khách động lòng sầu
Qua hôm sau, hết năm canh tỉnh giấc mộng
Chia đều 2 phần đất rọi nhớ nhau
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Trăng là ngọn nguồn của cảm xúc nhất lại là cảm xúc của những người cô
đơn, trống vắng phải xa cách nơi quê nhà, xa cách người thân yêu. Bất cứ một
bài thơ nào, một sáng tác nào của tác giả vào giai đoạn trung đại ta cũng dễ dàng
94
bắt gặp hình ảnh ánh trăng. Lại càng không khó với những khúc ca chia ly, Đinh
Nhật Thận cũng góp phần không nhỏ vào đó những ánh trăng mang màu nhung
nhớ, u sầu:
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
(Thu dạ lữ hoài ngâm, Đinh Nhật Thận)
Không ai có thể định vị được trăng đã xuất hiện tự khi nào, chỉ biết rằng
nguồn cảm hứng vô tận mà các thi nhân dành cho trăng là vĩnh cữu. Trăng hiện
lên hài hòa với cảm xúc của nhà thơ, nhãn quan của nhà thơ khi nhìn về trăng,
cảm nhận ánh trăng không chỉ đơn thuần là vầng sáng trên cao chiếu soi mọi
cảnh vật đêm tối mà nó đã trở thành một biểu tượng cao đẹp thanh tao của nghệ
thuật. Mọi mạch nguồn cảm xúc trong đêm đều được khai tỏ, là nhớ thương, là
khắc khoải, là u sầu, là niềm vui lúc hội ngộ đều có hình ảnh của ánh trăng, như
một vật minh chứng cho mọi hoạt động của con người nơi trần thế dương gian.
Trong thơ ca trung đại, ánh trăng không hề xa lạ mà gần gũi thân quen, trăng
theo bước đường của mỗi thi sĩ văn nhân, trong địa hạt của thơ ca này trăng
được thỏa sức tung hoành, bày tỏ những đặc tính riêng của mình mà vô tình hay
hữu ý đều là những mạch nguồn cảm xúc của con người trong dòng thơ ca chia
ly. Trăng len vào mạch nguồn của những người chinh phụ phải chia ly chồng đi
chinh chiến khi mà lòng còn phấp phới yêu thương, tim còn bồi hồi những xúc
cảm, những vầng trăng như xẻ làm đôi, mỗi nơi một phương trời khiến cho trăng
chỉ là vầng trăng khuyết. Hay nỗi lòng của người cung nữ vò võ mong chờ một
ân phước của người mình thương nhưng lại phải cô đơn một góc phòng trông
chờ vào buổi hội tụ. Còn gì buồn hơn lúc này khi trăng len lõi vào nơi cô phòng,
ánh sàng mờ mờ, huyền ảo như cắt cứa sâu hơn vào tấm lòng của những người
cung nữ xưa. Có thể thấy rằng, trong các tác phẩm thơ ca trung đại, trăng có một
95
vị trí rất đặc biệt, vô cùng ý nghĩa và quan trọng trong việc bày tỏ nỗi lòng của
những con người sống trong cảnh ly biệt, chia ly cách trở mà cũng chính là
những nhân vật trữ tình. Và trăng cũng chính là không gian trữ tình khiến cho
thơ ca tràn đầy những mạch nguồn cảm xúc, mang đậm những gam màu tâm
trạng cũng như thấm sâu vào tình cảm của con người.
Hình ảnh giọt lệ
Hình ảnh mà người viết cảm nhận sâu sắc nhất trong nội dung chia ly là
những giọt lệ, tần xuất của nó xuất hiện khá nhiều lần trong thơ. Các nhà thơ
thường khóc cho thân phận chính bản thân mình, rơi lệ vìnhiều lẽ trái ngang ly
biệt trong cuộc đời. Theo quan niệm của xã hội phong kiến xưa luôn cho rằng,
đã là bậc quân tử, đấng nam nhi thì không cho phép giọt lệ được rơi trên đôi
mắt, cũng như quan niệm “anh hùng vô lệ”. Nhưng những cảm xúc của một con
người khi dâng trào thì khó mà dấu được và biểu hiện của nó chính là lúc nước
mắt rơi. Với Nguyễn Du, rất nhiều lần ông rơi lệ vì những cảnh éo le trong cuộc
sống xung quanh ông, với 250 bài thơ mà tác giả đã rơi lệ 17 lần, nhiều nhất là
những lần ông đi sứ phải xa rời quê hương, khi trông về quê nhà, nghĩ về vận
mệnh của đất nước mà xót xa đau lòng, giọt lệ cứ thế không ngừng tuôn:
Trang tử binh tiền thiên lý lệ
(Quê hương binh lửa xa ngàn khóc)
(Bát muộn, Nguyễn Du)
Cố quốc hồi đầu lệ
(Ngoảnh nhìn quê hương nước mắt rơi)
(Độ long vĩ giang, Nguyễn Du)
Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của một người con nhớ về nơi
“chôn nhau cắt rốn”, giọt nước mắt của xúc cảm lớn lao, của tình thương không
chỉ của riêng mình. Những giọt lệ chia ly không ngừng rơi trong những áng thơ
ca ông để lại cho đời, trong một tác phẩm khác, chỉ cần nghe tiếng Nhạn đầu
mùa kêu lòng ông đã không thôi nhớ về quê nhà, về người thân của mình:
96
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ
(Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng biệt ly từ bao năm)
(Sơn cư mạn hứng, Nguyễn Du)
Cũng vẫn là dòng thơ ly biệt quê hương, lại bắt gặp cảnh tượng rơi lệ của
ông khi đường xa cách trở mờ mịt quê nhà
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ
(Ở đất khách lâu năm ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ)
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Ông tủi thân, thương cho phận mình cứ long đong chìm nổi, tự cho mình là
thân khách không biết đâu là nhà mà phải rơi lệ. Trong My trung mạn hứng cảnh
“gia quốc lệ” (lệ rơi vì nợ nước tình nhà) cũng được ông ghi lại một cách rõ nét.
Những lần rơi lệ của Nguyễn Du thường gắn với cảnh chia ly nhất là với quê
hương đất nước, điều đó cho thấy ông là con người giàu tình cảm, trân trọng nơi
mình sinh ra, yêu quê hương, thương nhớ nước nhà. Một tinh thần sáng ngời,
đẹp đẽ của một người con đất Việt. Bên cạnh Nguyễn Du, còn có Cao Bá Quát,
ông thường khóc vì nỗi nước nhà, vì cảnh biệt ly đau thương, trong rất nhiều
những sáng tác để lại, theo khảo sát có đến 31 lần ông rơi nước mắt vì nhiều lẽ,
nước mắt rơi vì thương mình thương bạn, nước mắt rơi vì mộng mị chia ly…
Cũng có lần ông rơi lệ vì nỗi nhớ quê nhà, trong bài thơ Dư hốt ư mộng trung
vãng thám Tuần phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã
giả, nhân ký tuần phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm tử kỳ, ông đã viết:
Phiêu phiêu thùy lệ hướng nam mai
(Dòng dòng nhỏ lệ nhớ mù u)
Trong một lần phải đi xứ sang Trung Quốc, đứng ở nơi đất khách quê
người, lòng dạ ông trống trải hiu quạnh nghĩ đến cảnh xa quê hương vạn dặm
mà lòng dâng lên xúc cảm buồn thương lại gặp cơn gió tây khiến giọt lệ tuôn
trào:
97
Tây phong hồi thủ lệ phân vân
(Gió tây ngoảnh lại lệ đầm khăn)
(Dữ hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu bút
dữ chi, Cao Bá Quát).
Cũng như những nhà thơ khác, mỗi giọt lệ rơi là cả một tấm chân tình mà
tác giả bộc bạch gửi gắm, những cảm xúc mạnh mẽ, những tâm tư u hoài, những
nỗi lòng chất chứa để mỗi khi rơi lệ là một lần lòng xót xa buồn bã:
Ngưu y lang tạ lệ thành băng
(Lệ rơi thấm áo ngự hàn giá băng)
(Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát, Cao Bá Quát).
Như những tài liệu để lại thì Cao Bá Quát là một nhân vật có nhiều khí
tiết mạnh mẽ của một đấng nam nhi chân chính, của khí tiết cứng cỏi thế mà
cũng không thể tránh được những lúc lệ phải rơi bởi chăng cảm xúc không phân
biệt nam nhi hay nữ giới, nó là những gì xuất phát từ đáy lòng được thể hiện một
cách tự nhiên không gò ép. Làm sao cảm xúc lại có thể gò ép khi nó xuất phát từ
tiềm thức của trái tim. Trong tâm tình khi xa nhà của Cao Bá Quát, ông giải bày
tâm tư một cách tự nhiên như những dòng suối cứ tuôn trào những dòng bọt
trắng xóa, tinh thần ông lúc này rối như tơ, thương có mối tình thân với quê nhà,
với những người có máu mủ ruột thịt, làm sao dòng lệ không tuôn khi nghe tin
người thân của mình qua đời mà thân lại đang phiêu dạt nơi chốn xa, chẳng bởi
thế mà nước mắt lại tuôn rơi:
Phủ ngưỡng lệ triêm ức
(Bao phen lệ sụt sùi)
(Đắc gia thư nhị nhật tác, Cao Bá Quát).
Thơ ca trung đại luôn thể hiện cảm xúc của con người một cách hết sức tự
nhiên, khi lòng dạ buồn các thi nhân kiếm tìm đến thiên nhiên, nhưng cảnh lại
càng đeo sầu, lòng lại càng sầu theo và nếu như thiếu vắng những hình ảnh giọt
lệcũng giống như liễu mà thiếu đi sắc xanh, trăng mà thiếu đi ánh sáng. Những
98
thi nhân đã chứng kiến nỗi sầu biệt ly, trải qua những cuộc chia ly đầy ắp tâm
trạng cảm xúc, chính họ phải trải qua những sắc thái hợp tan khiến lòng sầu bi u
uẩn. Biết bao hoàn cảnh khiến cho những giọt lệ phải rơi, cảm xúc tâm trạng của
người cô phụ trong một sáng tác của Phạm Thái cũng đã thấy giọt lệ hiện lên
đầy sầu thảm:
Gió thu hiu hắt khóm phương tùng,
Thổi rụng hàng châu ngoẹn má hồng.
(Đề tòa Nghĩa lư của nàng Long Cơ II, Phạm Thái)
Gió thu lúc này đúng như trạng thái của nó, gió thu có khi nào vui trong thơ
đâu mà lúc nào cũng sầu hiu hắt, lệ tràn bờ mi khiến cho một cơn gió thu có thể
làm rơi giọt lệ đang đong đầy ấy. Hình ảnh giọt lệ thường xuyên và lặp đi lặp lại
trong các sáng tác của Nguyễn Du, tấm lòng của người thi nhân không chỉ buồn
đau cho nỗi đau của chính mình mà còn chất chứa cho quê hương khi ở nơi xa
xôi. Khi tác giả phải chìm nổi ở nơi đất khách, làm thân cô lựu lẻ bóng khiến
cho nỗi sầu nhớ quê nhà cứ dằng co dày vặt mãi tâm can của người thi sĩ:
Tang tử binh tiền thiên lý lệ
(Giọt lệ nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương)
(Bát Muộn, Nguyễn Du)
Giọt lệ rơi xuống vì nỗi dang dở của cuộc đời, vì chiến binh triền miên ở
nơi quê hương bao yêu dấu của nhà thơ. Một đất nước đang ở trong tình thế hỗn
chiến, điêu tàn mà bản thân thì lại không thể làm gì chỉ biết trông theo nhớ về
quê hương với tâm trạng ngập tràn cảm xúc:
Tứ hải phong trần gia quốc lệ
(Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì nợ nước tình nhà)
(My trung mạn hứng, Nguyễn Du)
Hay những giọt lệ nghĩa tình mà các thi nhân dành cho bạn bè cũng được
thơ ca ghi lại, cuộc sống nhiều xoay vần biến chuyển nay hội ngộ rồi mai lại
chia ly khiến cho các nhà thơ với tâm hồn đầy những xúc cảm mãnh liệt rơi lệ:
99
Đưa ai nam phố lệ như tơ
Bạn thẳng sang đông tôi ngẩn ngơ,
Xin nhắn: cố nhân mòn mỏi hết
Lạc dương xưa khác với bây giờ
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Có thể thấy rằng, hình ảnh giọt nước mắt hiện lên trong thơ ca chia ly trung
đại vô cùng đẹp đẽ, nhưng giọt nước mắt rơi bởi những cảm xúc hết sức con
người, xuất phát từ tấm lòng cao đẹp vì nỗi chia ly mà những giọt lệ phải tuôn
rơi. Giọt lệ như sự kết tinh của cảm xúc và cuộc đời thật, nó là hình ảnh của sự
tự nhiên nhân bản chất nhất mà ai ai cũng có khi phải đối diện với những chuyện
vui buồn trong cuộc đời. Hình ảnh này khiến cho những dòng thơ ca như ngập
chìm trong sự mềm mại, nó khiến cho những dòng thơ không còn khô cằn mà
trở nên mượt mà sâu sắc.
3.2.2. Về nghệ thuật sử dụng câu
3.2.2.1. Câu trần thuật
Đây là một loại câu phổ biến trong thơ ca nói chung và thơ ca có nội dung
chia ly nói riêng bởi các thi nhân thường sử dụng loại câu này để miêu tả những
điều diễn ra xung quanh mình, nhiều nhất là khung cảnh thiên nhiên hữu tình,
những điều trông thấy xung quanh cuộc sống. Các nhà thơ thời đó thường dựa
mình vào thiên nhiên để nói hộ lòng mình, hiện thực những gì diễn ra đều được
các thi nhân tái hiện bằng loại câu trần thuật. Trong thơ, mỗi khi xuất hiện loại
câu này như xuất hiện một sự thông báo để miêu tả cảm xúc cũng như khung
cảnh diễn ra những cuộc ly biệt nhiều màu sắc. Với mỗi lần chia ly, các thi nhân
đều ghi lại những diễn biến trong khoảnh khắc ấy những điều tận mắt chứng
kiến, và cả những nỗi niềm mà tâm trạng cảm xúc mang lại. Với đề tài chia ly,
hầu hết các câu trần thuật đều ở dạng quá khứ, hiện tại và ít khi bắt gặp câu trần
thuật ở dạng tương lai, với câu trần thuật ở dạng quá khứ thì đây là dạng thức
thường bắt gặp ở các bài thơ bởi các tác giả thường hoài niệm về những kỷ niệm
100
đã qua, viết lên như một trang nhật ký những điều đã xảy ra trong quá khứ để
hiện tại u hoài nhớ thương. Người đọc thường nhận biết dạng thức này qua cách
biểu đạt của tác giả. Ví như trái tim của Nguyễn Du nghẹn ngào nhớ về quê nhà
khi ông chìm nổi ở nơi đất khách, ông bàng hoàng day dứt khi quá khứ chỉ là
những cảnh hoang tàn u dại:
Bụi trần mười năm che tối thềm ngọc
Thành phủ trăm năm một nửa thành gò hoang.
(Bát muộn, Nguyễn Du)
Nếu với chia ly, quá khứ là nơi để các thi sĩ hoài niệm thương nhớ thì hiện
tại lại thì những điều mà diễn biến xung quanh nó tác động chính vào tâm trạng
của nhà thơ. Các tác giả sử dụng câu trần thuật hiện tại để miêu tả những sự kiện
diễn ra liên tiếp trong cuộc sống thường ngày:
Xa biết người ở phòng khuê khó vượt được cảnh nghèo
Đêm nay trước đèn chắc đang học chắp gai.
(Giang thượng thư hoài, Trương Hảo Hiệp)
Hay trong bài Quỳnh Hải nguyên tiêu, Nguyễn Du có viết:
Còn ta thì ở Hồng Lĩnh, không nhà cửa, anh em thì tan tác.
Với đại thi hào Nguyễn Du, các câu thơ trần thuật miêu tả lại cảm xúc tâm trạng
hay những diễn biến xung quanh cuộc sống của ông dường như rất dễ bắt gặp,
những khi ông ở nơi chân trời góc bể, hay lúc nỗi nhớ anh em quê hương cứ bủa
vây lấy tâm hồn ông để ông họa thành những vần thơ sâu đậm:
Quê nhà xa ngàn dặm, lòng gửi vầng trăng.
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Rời Trường An đi mãi không ngừng
Lòng nhớ quê ở tận chân trời.
(Ký giang bắc Huyền Hư tử, Nguyễn Du)
Một sáng tác của Cao Bá Quát cũng nói đến sự cách trở, xa xôi về cảnh vật
đất trời vào đông và nói về chính nỗi lòng mình khiến cho người đọc dễ dàng
101
nhận thấy những điều mà tác giả hữu ý ghi vào trong bài thơ Ức tử:
Một mùa đông đất trời xa cách,
Tội tình khổ đau chính vì xa quê nhà.
(Ức tử, Cao Bá Quát)
Cùng với nỗi đau ấy tình cảm của các tác giả còn được bộc lộ và thể hiện
một cách sâu đậm bằng những nỗi niềm xót xa khi xa cách. Cảnh vật thiên nhiên
cũng được tác giả đưa vào khiến cho những vần thơ thêm mềm mại uyển chuyển
cùng với tâm tình của chính mình:
Cỏ xuân non mơn mởn, dương liễu rủ xuống
Đưa tiễn khách qua sườn núi lúc chiều tà.
(Tống khách hồi Trường An kiêm ký chư cố nhân, Cao Bá Quát)
Vẫn xuôi theo dòng thơ tống biệt ấy, Vương Duy đã ghi lại hết sức rõ nét
những biển chuyển xảy ra xung quanh ông khi cảnh chia ly diễn ra. Một bữa tiệc
chia tay có cây cỏ, có tiếng sáo, có bạn bè bằng hữu bên cạnh khiến cho người
đọc dễ dàng hình dung ra khung cảnh khi ấy:
Đầy nhà tiếng đàn sáo cùng cất lên
Cây liễu mùa thu trước cửa, ngựa trăng hí…
(Tống nhân nam hành, Tùng Thiện Vương)
Là khung cảnh của một bữa tiệc nhưng có tiệc nào buồn bằng tiệc chia ly,
dù khung cảnh nhiều những sự vật hữu tình, gây nhiều xúc cảm nhưng hầu như
là một xúc cảm buồn thương, bịn rịn lưu luyến. Đúng với phong vị của thơ
Đường, Vương Duy đã vẽ nên một bức tranh có cảnh vật, có hình ảnh, có hình
bóng của con người nhưng ẩn sau đó là cả một nỗi niềm tâm trạng. Câu trần
thuật ở đây đã làm tròn đúng nhiệm vụ của mình là ghi chép lại những điều diễn
ra ngay thời điểm hiện tại. Hay cũng một sáng tác khác cũng của Vương Duy,
ông lại một lần nữa sử dụng những khung cảnh hiện tại để đưa vào thơ mình,
khiến cho sự hình dung về buổi tiễn đưa của người đọc không mờ ảo mà lại rõ
ràng và sáng tỏ:
102
Nơi quan ải, đêm thu lúc trăng sáng
Bóng trăng chiếu vào bữa tiệc tiễn đưa, khách động lòng sầu…
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Thông qua những tác phẩm thơ xuất hiện hình thức câu trần thuật hiện tại,
có thể thấy ý nghĩa thông báo thông tin của loại câu này hết sức mạnh mẽ, nó
khiến cho người đọc có sự hình dung rõ nét cũng như hiểu những thông tin mà
nhà thơ muốn kể lại đúng theo một lộ trình mà điển hình những cuộc chia ly:
Ù ù gió bấc mây kéo đen sì,
Bóng ngọc thiềm đã lặn, trời tối mịt.
(Linh châu Ngân giang dịch, Nguyễn Trung Ngạn)
Chỉ mở đầu với hai câu thơ miêu tả khung cảnh lúc chia ly mà người đọc
có thể hình dung được cảnh vật khi ấy, bầu trời bao trùm bởi những đám mây
đen, trời tối mịt mù tạo cho người đọc cảm giác sợ hãi rất hiu quạnh. Hay trong
bài thơ Xuân nhật ngẫu hứng, Nguyễn Du đã vô cùng tài tình miêu tả lại cảnh
vật diễn ra xung quanh mình:
Bây lâu khí trời xấu, cửa đóng kín,
Quanh quẩn hết mùa nực lại đến mùa rét.
Ta thì phải giã từ năm cũ ở nơi đất khách quê người?
Chẳng hay xuân từ đâu đến Quỳnh Hải,
Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ Nam
Và thấy chúa xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh.
Có ông già hàng xóm, tay cầm nậm rượu và hai quả cam đi
về phía miếu đầu thôn,
Chắc là đang say, không thấy trở về.
(Xuân nhật ngẫu hứng, Nguyễn Du)
Ta có thể dễ dàng nhận thấy cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên hiện thực
mà ông đã miêu tả rất ngắn gọn bao gồm cả không gian và thời gian. Không khí
trong bài thơ trơ trụi một cảm xúc u buồn, thời gian cứ thế trôi đi, hết mùa hạ lại
103
đến mùa đông, con người trong thơ như không màng đến sự đổi thay của đất
trời, một tâm trạng ơ thờ mặc kệ mọi thứ bởi giờ đây lòng ông cũng chính là
lòng của tác giả đang đau đớn khi phải cách xa quê hương, xuân còn gì ý nghĩa,
còn gì đẹp tươi khi không được đoàn tụ với quê nhà mà phải một mình chốn đất
khách tha phương. Những câu thơ sau đó tác giả miêu tả lại những gì diễn ra
xung quanh cuộc sống của mình, đây là một dạng câu trần thuật hiện tại. Những
gì mà cuộc sống hiện hữu, thực tế sinh động đều được các nhà thơ ghi nhận và
biến chuyển thành những vần thơ đẹp đẽ sang trọng, câu trần thuật là loại câu
góp phần rất lớn vào thành công đó của các thi nhân. Có lẽ đây là loại câu dễ
bày tỏ lòng mình nhất khi xã hội Việt Nam còn e ngại trong việc nói hết tâm tư
của lòng mình, các tác giả như mượn khung cảnh diễn ra xung quanh, dù là quá
khứ hiện tại hay tương lai cũng dễ dàng xuất chúng thành thơ.
Tình cảm buồn thương pha với khung cảnh đẹp đẽ luôn thường trực trong
thơ Tùng Thiện Vương. Một bức tranh thiên nhiên đẹp đến nao lòng, nhưng lại
pha trộn với khung cảnh chia ly khiến cho thiên nhiên như có hồn có sắc hơn.
Dù không đứng ở nơi đó, không tường mắt chứng kiến thế nhưng bằng ngòi bút
tài tình Tùng Thiện Vương đã miêu tả lại khung cảnh hết sức trữ tình. Những lúc
tiễn biệt lại là lúc ông ghi lại cảnh vật xung quanh mình, mọi thứ dù là nhỏ nhất
cũng như góp phần cho một bức tranh hiện thực của quá khứ thêm phần
sinh động:
Nơi quan ải, đêm thu lúc trăng sáng
Bóng (trăng) chiếu vào bữa tiệc tiễn đưa, khách động lòng sầu
Qua hôm sau, hết năm canh, tỉnh giấc mộng
Chia đều 2 phần đất rọi nỗi nhớ nhau
(Tống biệt, Tùng Thiện Vương)
Người đọc có thể dễ dàng hình dung ra khung cảnh khi ấy, một đêm vào
trời thu, trong trẻo với ánh trăng vằng vặc sáng. Ánh trăng ấy chiếu cả vào bữa
tiệc khiến cho mọi vật thêm hữu tình. Có lẽ vì vậy mà khiến cho người khách
104
phải động lòng sầu biệt bởi chỉ hết năm canh nữa thôi là mỗi người sẽ chia về
hai ngã, hai phần đất nhưng lòng thì không nguôi nỗi nhớ. Khúc biệt ly, thơ ca
tống tiễn được Tùng Thiện Vương sáng tác rất nhiều cũng có lẽ bởi ông là người
trân trọng tình cảm bạn bè đúng như cương thường đạo lý khi ấy. Mỗi lần tiễn
biệt là một khúc ca chia ly đầy nỗi sầu nhung nhớ. Mọi cảnh vật hiện lên như
một sự mình chứng, cây cũng có hồn, chim ca cũng thành tiếng, dòng sông cũng
như lãng đãng theo cảm xúc của ông. Thơ ông hòa trộn từ tâm hồn cảm xúc đến
cảnh vật thiên nhiên:
Nửa mẫu thùy dương tĩnh lặng
Tiếng chim kêu u buồn
(Viễn cư hữu hoài, Tùng Thiện Vương)
Là liễu, là tiếng chim kêu, nhắc đến liễu là gợi cho người đọc đến nỗi buồn
chia ly, liễu rũ, liễu tĩnh lặng như khiến cho khung cảnh thêm sầu. Có tiếng
chim đó, nhưng lại là tiếng chim u buồn, tất cả hòa trộn lại làm cho lòng người ở
lại như lẻ loi nhung nhớ đến người bạn đang ở nơi xa chinh chiến.
Nỗi nhớ niềm thương dành cho người thân cứ dấy lên trong mỗi nhà thơ,
với Nguyễn Tư Giản cũng vậy, ông cũng để lại những bài thơ nói về cảnh chia
ly, nhớ thương quê nhà:
Non xanh trùng điệp, một lá buồm giương,
Điệu mới đò đưa ngày nghe mấy bận.
Dưới trăng vẳng khúc “khoan lới hò khoan”.
(Vạn trạo ca hữu cảm, Nguyễn Tư Giản)
Nhà thơ có sự gắn bó vô cùng chặt chẽ suốt bao năm làm quan nơi kinh
thành Phú Xuân, có lẽ vì vậy mọi cảnh vật, những hoạt động diễn ra nơi đó như
ăn vào tâm can máu thịt của nhà thơ khiến cho lòng ông chộn rộn khi nhớ về quê
nhà, nơi có tiếng hò trên sông. Non xanh nước biếc, trăng rọi soi sáng kèm với
tiếng hò như một bản tình ca về thiên nhiên quê hương đất nước để những người
đi xa nao lòng mỗi khi nhớ về. Và câu trần thuật được sử dụng trong bài thơ đã
105
làm trọn vẹn chức năng của mình bởi nó thể hiện một sự thông báo hoàn chỉnh
đến người đọc nội dung thông tin mà tác giả muốn hướng đến. Theo thống kê
trên tổng số 116 bài thơ thì có đến 72 bài sử dụng câu trần thuật.
3.2.2.2. Câu cảm thán
Trong những khúc thơ chia ly, câu cảm thán chiếm số lượng rất nhiều bởi
các nhà thơ thường xuyên bộc lộ cảm xúc có thể là sự hy vọng vui mừng khi
nghĩ đến ngày hội ngộ, cũng có khi lại là tiếng thở than cho niềm đau nỗi buồn.
Nội dung chia ly này hầu như được sáng tác bởi các tác giả giàu lòng thương
mến, thấm tình yêu thương và chất chứa những cảm xúc u hoài, thương nhớ.
Phải chăng đây là loại câu thích hợp nhất để biểu lộ tình cảm của chủ thể trữ
tình, nó là phương tiện chủ yếu để đưa những cảm xúc chân thật khó nói thành
câu của tác giả. Trong câu cảm thán xuất hiện rất nhiều các từ ngữ đầy cảm xúc
như: ôi, quá, lắm, chao, chà… thể hiện mọi cung bậc cảm xúc của nhà thơ khi
vui, khi buồn, khi đau xót, khi ngạc nhiên. Nếu câu trần thuật xuất hiện nhiều để
miêu tả những gì xảy ra xung quanh tác giả thì câu cảm thán lại là những diễn
biến tâm trạng của nhà thơ. Tác giả dễ dàng thể hiện tâm trạng cảm xúc của
mình với nỗi buồn chia ly, với khoảnh khắc ly biệt hai phương trời.
Đó cũng có thể là những lời than vãn về chế độ để cuộc sống của đôi vợ
chồng phải cách xa đôi ngã trong Chinh phụ ngâm:
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Đây là lời oán hờn cho chế độ phong kiến khiến con người ta phải ra nông
nổi mỗi người một phương chia cắt hạnh phúc đầm ấm sum vầy của gia đình. Sự
có mặt của loại câu này khiến cho ý thơ như tăng trào thêm nhiều xúc cảm mạnh
mẽ, trong khúc ngâm, người chinh phụ phải mượn gió đông để gửi những cảm
xúc nhớ thương cho người chồng của mình nhắc đến gió đông lại trong khung
cảnh cô đơn đợi chờ, khiến cho câu thơ như được bao trùm trong một không
106
gian lạnh lẽo, hiu quạnh:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non yên
“Nghìn vàng” như một cách nói khác của tấm lòng thủy chung son sắn một
lòng mong ngóng đợi chờ tin tức cũng như ngày người chồng ở nơi xa trở về.
Câu thơ như cắt cứa vào trái tim của những người cảm nhận được nỗi hiu quạnh
ấy, vừa có gió, vừa có hơi lạnh của mùa đông khiến cho nỗi cô đơn càng sâu
đậm, câu thơ có thêm động từ “xin” càng khiến cho người đọc cảm nhận rõ tấm
lòng tha thiết của người chinh phụ muốn gửi lòng mình đến người chồng đang đi
đánh trận.
Nỗi nhớ thương ấy, cứ đè nặng trong lòng tiếng lòng tha thiết triền miên
qua ngày tháng, cả một nỗi nhớ mênh mang chiếm lấy tâm hồn người vợ:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Sự cách xa nghìn trùng được câu thơ khắc họa rất rõ nét, biển trời kia cứ
thăm thẳm còn lòng nàng thì cứ đau đáu một nỗi buồn thương nhớ không nguôi.
Khúc ngâm như một cuốn nhật ký tâm trạng đã nói lên được nội tâm cũng như
khát khao của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến không biết ngày được
trở về đoàn tụ sum vầy, nó còn là cả tấm lòng son sắt của người phụ nữ Việt,
bên cạnh đó xen lẫn vào những khúc ca tâm trạng là lòng oán hờn chê trách
những cuộc chiến tranh khiến cho gia đình phải ly biệt.
Hay trong những cuộc đi sứ, các tác giả giải bày lòng mình trong những
tình thế khó khăn, câu cảm thán lại như một sự trợ giúp đắc lực khiến cho câu
thơ thêm phần biểu cảm. Trong quá trình đi sứ gặp những cảnh gian nan, khó
khăn vất vả khiến cho các nhà thơ hình dung cảnh tượng ly biệt sẽ kéo dài thêm:
E rằng tiết lành kéo dài thêm cảnh ly biệt,
Hãy mượn gối trở về quê hương trong giấc mộng.
(Nghi Câu khách trung thất tịch – Lê Quang Định)
107
Người đi sứ đã phải mang biết bao trọng trách trên vai mình, ấy thế nhưng
nỗi cô đơn, ly biệt với quê nhà nào ai thấu hiểu. Tình cảnh càng khó khăn thì
nhà thơ càng thấy nhớ nhà với nỗi nhớ day dứt khi lòng đang cô quạnh ở nơi đất
khách, duy chỉ có cách tìm về với gối chăn để được sống trong giấc mộng, tìm
về với những điều bình yên khi còn ở quê hương. Tâm trạng những nhà thơ đi sứ
phải chia ly với quê nhà, người thân yêu khiến lòng cứ ngậm ngùi không kể xiết,
tâm trạng thì ngổn ngang những cảm xúc cùng với những bộn bề của hiện thực.
Các nhà thơ trung đại tuy ít nhưng cũng đã cố gắng bộc bạch cảm xúc lòng
mình, những tâm trạng kín đáo đã được gợi mở.
Với những nhà thơ trung đại, rất nhiều tư tưởng của các thi nhân thấm đẫm
tư tưởng Khổng Mạnh, bên cạnh những tình cảm cao đẹp dành cho vua chúa,
quê hương tình thân thì còn cả tình cảm với những bạn bè thân hữu. Các nhà thơ
rất trân trọng tình bạn có lẽ vì vậy những áng thơ ca dành cho bạn bè xuất hiện
rất nhiều, các nhà thơ cũng cởi lòng bộc bạch tâm trạng tình cảm thiết tha dành
cho bạn bè. Tùng Thiện Vương là một nhà thơ rất tiêu biểu cho những sáng tác
mang cảm xúc của tình bạn, nhất là những lúc tống tiễn, chia ly:
Bạn thân cách trở quan san
Song ngư ngày đêm chìm
Làm sao có thể hướng vọng về quê bạn…
(Dạ bạc hoài hữu văn kỳ bệnh sổ nguyệt hỉ, Tùng Thiện Vương)
Tác giả trăn trở với sự cách trở núi non, quê bạn thì cách xa phương trời
làm sao có thể trông theo, đây là một bài thơ nói về nỗi nhớ nhung chia ly với
người bạn cũ đang đau bệnh của tác giả. Vậy mà vì xa cách ông lại không thể ở
bên hỏi han chăm sóc khiến cho lòng thi nhân áy náy đau buồn, câu cảm thán
trong hệ thống những khúc ca chia ly này là tiếng thở than khẽ khàng cho niềm
đau cho nỗi buồn ly biệt, không khí trong các tác phẩm là sự quẩn quanh của
những nỗi niềm xa cách cứ trùng điệp đó cũng chính là tâm trạng của chủ thể trữ
tình.
108
Có thể thấy câu cảm thán như là chiếc cầu nối để chuyển tải những cảm
xúc của các thi nhân, nó còn được sử dụng để biểu lộ nhiều trạng thái cảm xúc
của con người. Có khi là niềm hân hoan của hạnh phúc hội ngộ, có khi lại là
tiếng than thở cho niềm đau nỗi sầu. Thơ chia ly lại là những khúc ca trầm buồn
đằng đẵng những nỗi buồn, niềm đau. Với các nhà thơ khi viết về chia ly, từng
câu chữ ẩn kín trong đó là những cung bậc cảm xúc, việc xuất hiện những câu
cảm thán giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tái họa lên những nỗi
niềm của nhà thơ. Và thiên nhiên cũng vậy, chính thiên nhiên đã tác động một
phần rất lớn đến tâm trạng của các nhà thơ. Mùa thu sang cũng là lúc tâm hồn
thi sĩ như được hòa quyện hòa len lõi vào từng âm sắc của cuộc sống. Mùa thu
thường buồn, những khi thu trút lá vàng rơi khẽ khàng trong cơn gió nhẹ khiến
cho con người cứ nhức nhối nỗi buồn ly biệt, cách trở:
Gió tây mới vừa thổi đến người chưa được về nhà
Chợt cảm thấy trời đã rất lạnh
Sống núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn
Thân thế nơi đất khách gởi nơi đám mây nổi
Sáng nay chợ kinh sợ cho qua tuổi già
Đêm qua nghe tiếng thu ở chốn nào
Tự cười đầu bạc vụng thu xếp
Đầy sân lá vàng rụng rơi tơi bời
(Thu ký nhật hứng 1, Nguyễn Du)
Cả bài thơ như một nỗi buồn không có điểm dừng, lòng đau đớn khôn xiết
khi đầu đã điểm tóc bạc, nay mùa thu lại về càng làm cho lòng dạ Nguyễn Du
như vò võ một âm điệu buồn không lối thoát. Với đặc điểm câu cảm thán thường
có những từ ngữ rất phổ biến đi kèm: vô hạn thương tâm, trù trướng…
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
(Buồn rầu vì tháng ngày trôi giục mái đầu bạc thêm)
(Thu chí, Nguyễn Du)
109
Vô hạn thương tâm nhất dạ trung
(Trong một đêm xiết bao nỗi lòng)
(Sơ thu cảm hứng, Nguyễn Du)
Dễ dàng nhận thấy câu cảm thán đóng một vài trò rất lớn trong việc khắc
họa tâm tư tình cảm của tác giả, với hơn 116 bài thơ thì đã có đến 89 bài thơ có
số câu cảm thán. Nó rất phù hợp để bộc lộ tâm trạng chủ thể trữ tình, những cảm
xúc chất chứa khó gọi tên đã được câu cảm thán giải thoát một cách tài tình.
3.2.2.3. Câu nghi vấn
Trong thơ chữ Hán, số lượng câu nghi vấn được các tác giả sử dụng rất
nhiều lần, những câu nghi vấn ấy đều chất chứa một tâm trạng nỗi niềm riêng.
Riêng với nỗi sầu ly biệt, nhà thơ cũng là những người lữ khách phiêu du khắp
chốn chân trời luôn trăn trở, đau đáu trông về quê nhà. Với 250 bài thơ chữ Hán
của Nguyễn Du, số lượng câu nghi vấn được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
Chỉ cần trông theo cánh chim nhạn, Nguyễn Du đã gởi trọn nỗi nhớ trông
về quê hương để rồi thốt lên một câu hỏi đầy xót xa:
Tin tức gửi về quê làm sao đưa đến bên chim nhạn?
(Hàm Đan tức sự, Nguyễn Du)
Là một người trải qua nhiều cuộc bể dâu, chìm nổi ở đời, Nguyễn Du luôn
đau đớn trước nỗi niềm tha hương mà ông chính là người lữ khách phải phiêu
dạt đi muôn nơi. Nỗi buồn trong những câu nghi vấn mà ông tự đặt ra cho chính
bản thân mình:
Nỗi sầu cố hương biết tính sao đây?
(Tái du Tam điệp sơn, Nguyễn Du)
Hay:
Cỏ bồng bềnh gió mạnh bay lìa gốc.
Phiêu dạt cuối cùng sẽ đến đâu?
(Tự thán, Nguyễn Du)
Với chốn quê hương, ông như dành trọn tấm lòng, những năm tháng sống
110
hòa cùng cùng thiên nhiên có bầu có bạn đã trở thành những ký ức đẹp trong
tâm hồn ông, để khi nhớ về lòng lại day dứt những nỗi niềm không nguôi, lòng
lại trăn trở:
Người đi đường ngoảnh lại
Nỗi sầu cố hương biết tính sao đây?
(Tái du Tam Điệp sơn, Nguyễn Du)
Nguyễn Du luôn nghĩ về lẽ đời và triết lý nhân sinh được mất. Tâm hồn đa
cảm của ông luôn gợi cho ông những nỗi thương tâm cho chính mình. Thân thế
cứ nổi trôi khiến cho ông cảm nhận cuộc đời mình không có gì khởi sắc, tương
lai vẫn là một điều nghi vấn. Nhà thơ luôn ngoảnh nhìn quá khứ, những tháng
năm êm đềm khi ông được sum vầy bên gia đình cho đến những lúc ông cô
quạnh một mình nơi xứ lạ cô đơn hiu quạnh để rồi những áng thơ như biết đồng
cảm cho cảnh ngộ và nỗi đau của nhà thơ.
Trong những đêm tịch mịch, chỉ cần một ánh sáng leo lắt nhỏ nhoi của ánh
đèn khuya cũng làm dậy lên tâm trạng thổn thức thương nhớ quê hương của các
thi sĩ. Trong dòng thơ đi sứ của mình, Phan Huy Ích dành một phần tình yêu cho
quê hương đất nước:
Bên ánh đèn khuya tịch mịch
Lòng nhớ quê không ngăn được, biết làm sao?
(Phú đắc Như thử lương dạ hà, Phan Huy Ích)
Ông yêu quê hương biết bao, câu hỏi Lòng nhớ quê không ngăn được, biết
làm sao? như xoáy vào tâm can nhà thơ, một câu hỏi khó có câu trả lời. Có
những nhà thơ chỉ cần nghe tiếng lá rụng rơi cũng đủ đánh thức trái tim thổn
thức nhớ về quê nhà :
Đêm qua những chiếc lá đỏ rụng xuống bờ sông,
Chẳng biết có trôi về đến nước Việt Nam ta không?
(Tân Ninh châu thành tức sự, Trương Hảo Hiệp)
Có nỗi sầu chia ly khác cũng đầy những đau đớn khi mà các sứ giả đang
111
phải làm thân nơi đất khách đến ngày giỗ của cha mẹ mà không thắp nổi một
nén nhang bởi cách trở ngàn dặm trường. Đau đớn và đồng cảm cùng với nỗi
niềm ấy, Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết lên những áng thơ như một sự chia sẻ :
Ngắm cảnh xem di cảo
Ruột gan đau như dần
Hôm nay, hôm nào nhỉ?
(Tiên khảo húy nhật cảm tác, Đoàn Nguyễn Tuấn)
Câu nghi vấn xuất hiện rất nhiều lần trong thơ ca sầu thương ly biệt bởi nó
như một sự trăn trở, một sự oán trách hờn dỗi trong lòng mỗi nhân vật khi không
biết vì đâu mà phải chịu đựng cảnh chia ly :
Vì đâu nên nỗi dở dang?
Nghĩ mình mình lại nên thương nỗi mình!
(Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
(Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Trong một bài thơ khác được sáng tác bởi Bùi Quỹ, qua lời tâm tình của
người vợ mà tình cảm vợ chồng hiện dần lên như một bản nhạc tình ca trầm
buồn. Buồn vì là vợ chồng đó nhưng lại cách trở, vắng bóng nhau:
Phấn son nào phải thiếp không?
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
(Tại Ngô Châu giang thứ, Bùi Quỹ)
Cũng có khi câu nghi vấn được các nhà thơ đặt ra để biểu lộ tình cảm da
diết, nhớ thương, câu hỏi có sức khơi gợi cho người đọc một cách mạnh mẽ:
Chẳng hay những khóm cúc ở giậu đông nhà ta,
Đã nở mấy đóa hoa vàng tô điểm cho mùa thu?
(Trịnh Châu đồ trung trùng cửu tức sự, Ngô Thì Nhậm)
Trong Ai tư vãn, bài thơ dài 164 câu thơ cũng chính là khúc ca ly biệt với
112
người chồng sáu năm gắn bó do Ngọc Hân công chúa viết thì có đến 13 câu nghi
vấn. Những câu nghi vấn được sử dụng rất nhiều lần: “Trách nhân duyên mờ lỡ
cớ sao?”, “phương pháp nào đổi được cùng chăng?”, “kể sum vầy đã mấy năm
nay?”, “biết cậy ai dập nỗi bi thương?”, “nguồn cơn xin ngỏ cho hay được
lành?”, “cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?”, “tình cô đơn ai kẻ xét đâu?”, “bụng
ai hoài vội ghẻ vì đâu?”, “nỗi sinh cơ có thấu cho không?”, “Di mưu sao nỡ
quên lòng đoái hương?”, “kẻ sơ còn thế huống gì người thân?”, “Tấc lòng
thảm thiết chín trời biết chăng?”, “cuộc đời là thế biết hầu nài sao?”. Những
câu nghi vấn ấy khiến cho người đọc thấu hiểu hơn nỗi lòng của công chúa,
Ngọc hân hỏi trời, trách nhân duyên vì cớ làm sao đưa đẩy nàng đến với nỗi đau
quá lớn này.
Có 52 bài thơ có câu nghi vấn trên tổng số 116 bài thơ được khảo sát.
Với những dẫn chứng cụ thể bằng những câu nghi vấn trên, có thể nhận
thấy đây là loại câu xuất hiện khá thường xuyên. Nó làm cho mạch nguồn cảm
xúc của bài thơ như được đẩy lên cao trào, khiến cho người đọc có thể tương tác
cùng với nhà thơ. Những câu hỏi khó có câu trả lời cũng chính như nỗi lòng của
tác giả. Tâm trạng của nhà thơ biểu hiện trên từng câu chữ và sự biến chuyển
linh hoạt của dạng câu nghi vấn đã nói lên điều đó. Có những câu hỏi hướng đến
đối tượng cụ thể, nhưng cũng có những câu hỏi như một sự nuối tiếc, châm
biếm, ngậm ngùi. Nhưng tóm lại, dù ở dạng thức nào thì câu nghi vấn vẫn góp
một phần rất lớn vào thành công của một tác phẩm thơ ca.
3.3. Giọng điệu
Đặc trưng của văn học là nghệ thuật ngôn từ (bao gồm từ và mỹ từ), một
tác phẩm thành công hay không thì nó phải có hồn. Điều đó phụ thuốc rất nhiều
yếu tố giọng và ngữ điệu, bởi ý vị của một tác phẩm thơ ca có sâu lắng, có mượt
mà dễ đi vào lòng người hay không chính nhờ yếu tố đó. Có ý, có từ nhưng
không có giọng điệu thì tác phẩm như thiếu linh hồn, ở những áng thơ hay thì
chính giọng điệu đã mở ra ý nghĩa quyết định sự cảm nhận cảm hứng chủ đạo và
113
nội dung của toàn tác phẩm. Giọng điều cũng là một trong những thành tố không
thể thiếu được trong việc xây dựng và triển khai những xúc cảm mãnh liệt,
những tư tưởng nhân văn của các thi nhân. Và cũng để hình thành nên hình thức
nghệ thuật của một tác phẩm thơ ca cũng cần có những phương tiện cơ bản là
giọng điệu, nó là một trong số những điều kiện cần và đủ để minh chứng cho
những tài năng cũng như những đóng góp riêng về sự thành công trong sáng tác
của mỗi tác giả. Trong thơ ca văn học thì người thi sĩ, những người sáng tác ra
những áng văn chương nghệ thuật phải để lại cho các tác phẩm của mình những
giọng điệu hết sức phong phú. Chính vì sự quan trọng đó, người viết quyết định
đi sâu vào tìm hiểu giọng điệu trong những tác phẩm thơ ca mang nội dung chia
ly.
3.3.1. Giọng điệu trầm buồn u hoài
Trong luận văn này, thơ ca nói về những cuộc chia ly trong đời sống xã hội
đương thời, những tình cảm sâu đậm, chất chứa dành cho bạn bè, người thân.
Những nỗi niềm rất riêng của các nhà thơ cũng là những cung bậc cảm xúc mà
họ chính là người phải trải qua. Những cuộc ly biệt đầy u hoài nhớ thương,
những bộc bạch về cảm xúc yêu thương cho mình hay chỉ là viết lại những cung
bậc trầm bổng của con người đều được thơ ca thể hiện rấttài tình. Và những áng
thơ ấy cứ miên man một nỗi sầu bi, dần dần thấm vào tâm can người tiếp nhận
để từ đó hiểu rõ tâm hồn và trái tim đã sầu đa cảm của các nhà thơ. Không khó
để bắt gặp trong dòng thơ chia ly này giọng điệu đầy chữ tình thấm đẫm cảm
xúc yêu thương mong nhớ. Các nhà thơ trải qua từng cung bậc khi thì sầu muộn
lẻ bóng, lúc lại dạt dào yêu thương. Khi cô đơn họ tìm về với ánh trăng, cây cỏ
hoa lá, họ tìm đến thiên nhiên như cần lắm một người bạn tri ân để giải tỏa nỗi
niềm thầm kín của lòng mình. Chẳng vì thế mà thơ ca và cảnh vật như hòa vào
làm một, tấm lòng của các nhà thơ chân tình sâu sắc mỗi khi có hình bóng của
thiên nhiên trong thơ mình.
Trong bài thơ Xuân dạ của đại thi hào Nguyễn Du, lời thơ như khoác lên
114
tấm áo mang màu sắc của sự ngậm ngùi trước cảnh chia ly với người thân. Quê
hương đó, anh em bạn bè tình thân ở đó nhưng cứ xa vời vợi, khiến ông rơi lệ
khi nhớ về:
Trời tối đen, tìm đâu thấy ảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày,
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm.
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ.
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
(Xuân dạ, Nguyễn Du)
Giọng điệu buồn thương u hoài như chính là tiếng lòng của mỗi nhà thơ,
của trái tim và của nỗi niềm tâm sự. Những cảm xúc tâm trạng của chủ thể trữ
tình khiến cho chính tâm hồn của những khách thể như được cảm nhận và hòa
vào chung cùng một nhịp đập.
Với tình yêu quê hương, các tác giả cũng dành một giọng điệu hết sức trìu
mến, trữ tình nhưng vẫn đong đầy nỗi buồn man mác. Chính sự xa cách như một
chất men khiến cho con người ta thấy mảnh đất ta từng sống, từng ở bỗng trở
nên ý nghĩa biết nhường nào.
Vào thời đi sứ thời Nguyễn cũng chính là lúc các tác giả để lại cho người
đọc hằng hà những bài thơ chan chứa những tình cảm sâu đậm. Bài thơ Nhâm
tuất niên mạnh đông kỳ I của Ngô Nhân Tĩnh tác giả bày tỏ lòng mình:
Ruột vò chín khúc như con sông quanh co,
Từ biệt nước Nam ra đi, quan san dằng dặc.
(Nhâm Tuất niên mạnh đông kỳ I, Ngô Nhân Tĩnh)
Các nhà thơ khi đối diện với những cuôc chia ly phải trải nghiệm với cô
đơn, lẻ bóng nơi đất khách vì xa sứ khiến cho tâm hồn họ luôn nhạy bén với
115
những xúc cảm. Nó làm cho những áng thơ ca như đậm đà những mạch nguồn
cảm xúc. Giọng thơ lúc buồn khi thương nhớ chính là tâm trạng thổn thức trông
mong về chốn quê hương, về anh em bè bạn nơi được sum vầy tụ họp trong bình
yên giản dị. Các tác giả biến chuyển tài tình khiến cho giọng điệu buồn thương
không chỉ mang màu sắc u uẩn mà chất chứa trong đó là những suối nguồn cảm
xúc yêu thương.
Con người ở mỗi triều đại khác nhau đều phải chịu sự chi phối của lịch sử
điều đó tạo nên những tâm tính khác biệt và cũng là những cá tính rất khác nhau.
Nguồn cảm hứng của các nhà thơ đến từ tâm trạng có lúc vui, có khi buồn hay
những niềm say mê hứng khởi trong cuộc sống. Nguồn cảm hứng vô tận ấy
được thể hiện bằng rất nhiều cách khác nhau cũng như những giọng điệu hết sức
đặc biệt. Có khi hùng tráng, có khi phẫn uất, có khi lại là lời than vãn u sầu. Tất
cả tạo nên một đa thanh sâu sắc trong nội dung chia ly với tình cảm đất nước –
một nét đẹp vô cùng đáng tự hào của những con người dân tộc Việt Nam.
Ở một nội dung khác, xuyên suốt trong khúc Chinh phụ ngâm cũng tràn
ngập giọng điều buồn bã đôi lúc xen lẫn oán hờn chế độ đã gây ra những cuộc
chia ly giữa vợ chồng:
Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước vui vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Tâm trạng của người chinh phụ chìm ngập trong nỗi buồn thương mong
nhớ, giọng điệu buồn thương mong nhớ ấy được lặp đi lặp lại trong từng câu
thơ.
Cũng là tình cảm vợ chồng, trong bài thơ Trệ vũ chung dạ cảm tác (Mưa
dầm suốt đêm cảm tác), Cao Bá Quát đã nói về tình cảm của ông cùng người vợ
xa cách ở quê nhà với giọng điệu u buồn, thương nhớ:
116
Kẻ ở chân trời và người ở chốn phòng khuê,
Đã nhớ nhau thì ai ở đâu mà tâm hồn chẳng tan nát.
(Trệ vũ chung dạ cảm tác, Cao Bá Quát)
Ông vốn đã phải xa gia đình, xa vợ con khi con còn tấm bé, có lẽ vì vậy
cảm xúc của ông luôn trào dâng khi nỗi nhớ thương ùa về. Tiết trời vào đông mà
ông không được đoàn tụ vui vầy bên gia đình khiến cho lòng ông như đau xót:
Một mùa đông đất trời xa cách,
Tội tình, khổ đau chính vì xa quê nhà.
(Ức Tử, Cao Bá Quát)
Không những là cảm xúc xa xôi nhớ mong mà đâu đó còn xen lẫn cảm xúc
tự trách bản thân mình cứ lênh đênh xa xôi cách trở để vào đêm đông lòng đau
đớn nhớ về quê nhà.
Giọng điệu buồn thương dễ dàng bắt gặp trong các sáng tác viết về nỗi cách
trở, nó như một chất liệu không thể thiếu tạo nên nhiều thi vị cho thơ ca. Với
Nguyễn Du, ai cũng thấu đạt nỗi nhớ quê nhớ người thân của ông khi phải ở nơi
đất khách:
Dưới bóng trăng một mảnh lòng nhớ quê
Tiếng nhạn đầu mùa khơi lại dòng lệ biệt ly
Em trai em gái nơi quê nhà bặt hẳn tin tức,
Chẳng thấy một bức thư báo bình an.
(Sơn cư mạn hứng, Nguyễn Du)
Thế giới của bài thơ là cả một bầu trời tâm trạng buồn bã, hình ảnh con
người chủ thể trong bài thơ hiện lên với trạng thái cô độc, lẻ loi ở chốn xa quê
nhà. Chính vì tình cảnh đó ông cứ mong ngóng đợi chờ tin tức của người thân
nơi quê nhà, nhưng sự đời có lẽ thường như thế, càng trông mong đợi chờ lại
càng hụt hẫng chơi vơi.
Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, xuyên xuốt khúc ngâm
là giọng điệu buồn thương, oán hờn cho thân phận hẩm hiu phải lẻ bóng chốn
117
phòng không:
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn
Tình buồn cảnh lại vô duyên
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.
(Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều)
Với những tiếng lòng buồn thương, đau đớn khi lòng cô đơn trống vắng,
nỗi lòng da diết nhớ về quê nhà thì bài thơ Thu dạ lữ hoài ngâm - Đinh Nhật
Thận (Khúc ngâm đêm thu của người lữ khách) cũng là một khúc ca sầu bi
như thế.
… Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng…
(Thu dạ lữ hoài ngâm, Đinh Nhật Thận)
Từng câu từng chữ trong khúc ngâm là cả một nỗi buồn mênh mang không
điểm dừng: Quạnh quẽ, quằn quại, đìu hiu, tiêu điều, đêm thu lặng”, “sụt sùi”
hay “Não lòng đất khách ngậm ngùi người xưa”… Xuyên suốt khúc ngâm như
những giọt lệ thấm đẫm nỗi hiu quạnh, ông đã khai thác rất nhiều cung bậc cảm
xúc trong lòng đi kèm với nó là khung cảnh trời đất, cỏ cây hoa lá, tâm trạng
lòng người như thế hỏi mấy ai thấy cảnh vật tươi đẹp rộn ràng? Hoa cũng muốn
tàn, cỏ cây cũng như héo úa “Bằng nay cúc đã hoa thâu/ Liễu kia cũng nghĩ âu
sầu vì ve”... “Bằng nay làn đã rỏ sương/ Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu”,
biểu hiện cảm xúc của Đinh Nhật Thận không chỉ có một mạch cảm xúc ở hiện
118
tại, mà nó là cảm xúc đa chiều, ông tưởng nhớ về ngày hoa lá cây cỏ còn tươi tốt
khi mình chưa thành kẻ lữ khách, và giờ ông ngậm ngùi buồn nhớ khi cũng
những cây cỏ hoa lá đó nhưng lại héo tàn hết cả. Lòng người và cảnh vật hòa
quyện cộng hưởng thành một cảm xúc mảnh liệt, cao trào của khúc ngâm có lẽ
là lúc tác giả phơi bày ra cõi lòng mình “Lòng quạnh quẽ sông càng quạnh quẽ/
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu”… “Thân đất khách não lòng tâm sự…” Đúng vậy,
giọng điệu buồn thương bao trùm lấy cảm xúc của những thi nhân, là giai điệu
chính trong những khúc ca chia ly, cách trở quan san, là chiếc thuyền chuyền tải
mọi mạch nguồn xúc cảm từ ưu tư đến nỗi niềm trắc ẩn sâu kín bên trong tâm
hồn:
Xa nước mấy tuần lòng như chết
(Mạc phủ tức sự, Nguyễn Du)
Chỉ một câu thơ thôi nhưng đủ nói lên một tâm hồn đang sống mà như chết
của Nguyễn Du, chỉ là xa nước thôi mà lòng ông như không còn sức sống. Đây
không phải là tấm lòng ủy mị, yếu đuối mà ngược lại, là một tấm lòng đẹp đẽ
với chính quê hương mình, câu thơ mang âm hưởng buồn đau không lối thoát.
Nỗi u buồn ấy của Nguyễn Du được tái hiện rất nhiều lần qua các sáng tác của
chính ông:
Người nương chốn chân trời, một chức quan cột chặt
Đêm mưa nghe tiếng mưa sầm sập khắp mặt đất,
Trên một chiếc giường, nỗi buồn đơn côi chọi lại cái rét đêm xuân
(Ngẫu thư Công Quán bích II, Nguyễn Du)
Bài thơ là lời tâm sự khi Nguyễn Du đang trong lúc làm quan ở xứ Huế. Dù
làm quan, dù được phong chức tước và theo thường lệ sẽ được cấp nhà công để
ở nhưng lòng ông nào có vui vẻ gì. Ông thấy đơn côi trong chính nơi mình ở bởi
phải xa vợ xa con ở chốn quê nhà. Bài thơ như một lời thở than buồn đau cho sự
cô đơn mà ông phải chịu đừng ngày qua ngày không chút niềm vui. Những khi
ốm đau bệnh tật Nguyễn Du thấy “ngán” thay cho mình:
119
Ngán cho người du khách mỏi mệt nơi ven trời,
Cả năm nằm ốm nơi bế sông Tuế Giang
(Thu dạ I, Nguyễn Du)
Đắm chìm trong những câu thơ là giọng điệu buồn bã u sầu cho thân thế
nổi trôi, lúc đau ốm mà vẫn phải một mình mỏi mệt nơi chân trời không người
thân bên cạnh. Không chỉ đau riêng cho mình, mà nỗi đau đời cũng cứ thế mà
song hành khi nước nhà vẫn đang chìm ngập trong những cảnh đau thương:
Một khi áo xiêm không tìm đâu thấy,
Cỏ trong khói sương đôi bờ khiến lòng khôn xiết bi thương
Trăm năm cuộc đời có biết bao nhiêu chuyện đau lòng,
Ngày gần đây Tràng An đã khác xưa nhiều, không còn như trước
(Giang đình hữu cảm, Nguyễn Du)
Chỉ trong bốn câu thơ mà những từ ngữ thể hiện nỗi buồn đau như được tác
giả nhấn mạnh:“Lòng khôn xiết bi thương”, “đau lòng”. Cụ Nguyễn Du đau
đớn vì những điều dang dở ở đời, những ngang trái bất công của xã hội thời
nhiễu nhương hỗn loạn.
Với Cao Bá Quát, nỗi u buồn cũng thường thấy trong thơ của ông, theo
quan niệm của mình, ông cho rằng thơ là để giãi bày những tâm tư chất chứa sâu
trong nỗi lòng, không những vậy thơ ông thường xuyên nói về nỗi đau của chính
cuộc đời ông. Xa vợ mất con, lưu lạc tù đày… những nỗi đau làm sao kể xiết.
Có lẽ vì thế mà thơ ông luôn bị nhấn chìm trong những nỗi buồn u uẩn không lối
thoát:
Đường trần dằng dặc đôi con mắt đã mỏi,
Tình xa man mác, một roi ngựa trở về.
(Hiểu quá Hương giang, Cao Bá Quát)
Giọng điệu trong thơ ông cứ như thế buồn đau, u uẩn cho thân thế bệnh tật,
nổi trôi giữa cuộc đời:
Đều là những kẻ chịu nhiều gian khó,
120
Sống im lìm nửa tuổi xuân đau thương.
(Châu Long tự ức biệt, Cao Bá Quát)
Tựu trung lại, giọng điệu buồn thương u hoài vẫn được cho là giọng điệu
chính trong nội dung thơ ca chia ly trung đại, nó âm thầm len lõi qua từng mạch
cảm xúc của nhà thơ khiến cho các câu thơ như chất chứa nỗi niềm sâu đậm. Nó
gợi mở những tâm hồn đáng quý, trân trọng những mạch nguồn cảm xúc yêu
thương của con người dành cho mọi thứ diễn ra xung quanh mình đây cũng có
thể cho rằng nó thuộc bản chất của cảm hứng nhân đạo trong văn học giai đoạn
này.
3.3.2. Giọng điệu cảm thông
Đi sâu vào mạch nguồn giọng điệu của những bài thơ về chia ly có lẽ phải
nhắc đến giọng điệu cảm thông. Đây cũng là giọng điệu chủ đạo xuyên suốt
hành trình thơ ca về tình yêu lứa đôi nhưng đều phải trải qua những khó khăn
biến cố, hy sinh mà chế độ hà khắc của xã hội đương thời mang lại. Biểu lộ cảm
thông được thể hiện qua những câu cảm thán và những ngữ cảm hết sức gần gũi
dễ cảm nhận. Các tác giả đã thể hiện thái độ đồng cảm sẻ chia bằng hàng loạt
các từ ngữ cảm thán để những mạch nguồn cảm xúc trong mỗi bài thơ luôn mềm
mại uyển chuyển. Những từ ngữ như: Dẫu sao, biết bao, thương thay, chẳng,
quản gì, tiếc gì… Đã giúp các tác giả dễ dàng miêu tả những tâm trạng rối bời,
những xúc cảm đau đáu trước những nỗi truân chuyên của cuộc đời. Trong
truyện Thạch Sanh, tác giả đã viết:
Nỗi niềm công chúa thương thay
Trông sau vắng bạn ngày rày hóa câm!
(Thạch Sanh, Khuyết danh)
Trong truyện thơ Nôm viết về tình yêu lứa đôi, những từ ngữ mang nhiều
nỗi niềm thương cảm này xuất hiện rất nhiều lần. Mỗi lần xuất hiện lại như một
lần vang lên sự xót xa tiếc nuối cho hoàn cảnh éo le của một kiếp người.
Các tác giả đau đớn những nỗi chia ly, sự hy sinh vì tình yêu mà không ngại
121
bỏ cả tính mạng. Cảm thông trước những số phận đó, giọng điệu cảm thông vang
lên, thấm đẫm vào từng câu thơ khiến cho người đọc như sống cùng nhân vật:
Xót người thui thủi phương trời
Hồng nhan khi đã ra người cửu nguyên
…Thương ôi! Sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh!
Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Phạm Tải – Ngọc Hoa, Khuyết danh)
Hay những khi đôi lứa phải xa cách nhau, sống trong cảnh thương nhớ
mong chờ mà héo mòn thể xác. Các tác giả như bắt được từng khoảnh khắc tâm
trạng của nhân vật để viết lên những vần thơ như cắt cứa vào tâm can người đọc.
Những lần nguyệt đã ba đông
Ngọc Hoa than khóc cùng chồng thương thay !
(Phạm Tải – Ngọc Hoa, Khuyết danh)
Hay tình cảm của Nàng Cúc Hoa đã bị cảm phục trước tấm lòng hiếu
nghĩa, tốt bụng, giọng điệu như đồng cảm, như muốn sẻ chia những nỗi niềm đã
vang lên chan chứa tình:
Người hiếu nghĩa nghĩ mà thương
Lâu dần lại thấy vấn vương trong lòng.
(Phạm Công – Cúc Hoa, Khuyết danh)
Thể hiện thái độ đồng cảm, các tác giả xót xa cho chính những nhân vật
phải trải qua lắm tai ương, gian khổ mà vẫn phải chịu đựng cảnh chia lìa. Những
bất công mà con người phải chịu đựng, những ngang trái mà đôi lứa phải trải
qua… Tất cả đã được những dòng thơ như họa nên một bức tranh đầy bi ai khổ
sở. Hàng loạt các từ cảm thán được sử dụng tạo cho cảm xúc trong thơ luôn
dâng trào mạnh mẽ. Người đọc được tác động bởi chính những dòng thơ thương
cảm với những cảm xúc hết sức con người, những giọng thơ chứa đựng nỗi xót
xa đầy da diết.
122
Giọng điệu cảm thông được sử dụng rất nhiều trong các sáng tác của những
người phải xa quê, của những sứ thần mang trọng trách cao cả với đất nước. Hay
những tâm hồn cao đẹp của thi sĩ khi trông thấy những biến cố thương tâm mà
nước nhà phải chịu đựng, con người phải vượt qua khiến cho những dòng thơ
như day dứt, chất chứa đầy những nỗi đau trăn trở mà con người phải nếm trải.
Trong sáng tác Hoàng Hà cơ dân dục tử hành của Bùi Dị, ta thấy một bức tranh
tiều tụy của cảnh vật và con người nhưng thấp thoáng đâu đó vẫn có sự cảm
thông cho những kiếp sống khổ sở:
Mạ không đẻ được lúa chết khô,
Nhân dân bỏ nhà đi phương xa kiếm ăn kể có hàng ngàn.
Những người già khọm sống sót còn chưa đến lúa chết,
Những nhà nghèo, cha con khó mà đoàn tụ cùng nhau
Bán con cho người khác, tuy có đau xót vì biệt ly,
Song còn hơn trông nhau mà chết đói!
Khá thương thay!
Nam hay Bắc đều là dân của nhà vua,
Thân tay đây với muôn vật đều là anh em cùng nhau chung sống.
Bệnh tật, ghẻ lở, đau ngứa vốn có quan hệ với nhau;
Ai dám bảo rằng mối tình thân của kẻ nọ người kia có cách trở.
(Hoàng Hà cơ dân dục tử hành, Bùi Dị)
Chính những niềm thương cho nhân thế, cho những kiếp sống ở đời đã
khơi nguồn cho sự cảm nhận về những mất mát, khổ đau của thời đại các thi sĩ
đang sống. Nguyễn Du cũng là một tác giả tiêu biểu cho tâm hồn đồng cảm với
những kiếp sống lầm than trong cảnh nghèo đói tang tóc bi thương. Hay ông đau
cho cái hữu hạn ở đời, niềm vui thì ngắn ngủi mà nỗi buồn thì không kể xiết
thành lời:
Đời người trăm năm, thương thay như chớp mắt,
Tuổi già vui chơi, tiếc từng giây.
(Mạn hứng, Nguyễn Du)
123
Nguyễn Du đồng cảm với sự éo le của niềm vui và nỗi sầu, ông ví sự đối
lập của thời gian trong đời người nhanh như chớp mắt.
Với giọng điệu cảm thông, trong một sáng tác để lại nhiều nước mắt cho
người đọc của mình, Ngọc Hân công chúa đã tự cảm thương cho chính mình.
Điều đó thể hiện rất rõ qua những vần thơ đầy đau khổ. Cả một bài thơ dài 164
câu thơ, những từ ngữ biểu đạt tâm trạng tự xót xa cho chính mình được lặp đi
lặp lại nhiều lần: “Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu quạnh hiu”, “thương ơi
vắng vẻ giữa trời tuyết sa”, “đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao”…
Hay trong Thu dạ lữ hoài ngâm (Khúc ngâm đêm thu của người lữ khách)
của Đinh Nhật Thận, tác giả như cảm thông cho chính phận mình phải làm thân
lữ khách, những từ ngữ thể hiện rõ sự thông cảm đó như “thương thay” được lặp
lại rất nhiều lần trong bài thơ “Thương thay có đêm chờ nửa gối”, “thương
thay những ngóng tin sớm ấy”…
Suy cho cùng, tâm hồn cảm thông của các nhà thơ bắt nguồn từ sự thương
người, đau đời. Đó cũng chính là biểu hiện của những trái tim sáng ngời đạo lý
cao đẹp của tinh thần nhân văn tương thân tương ái của người Việt Nam từ bao
đời xưa cho đến tận ngày nay. Đó là nét đẹp cao cả mà muôn đời sau cần gìn giữ
phát huy để xây dựng nên vẻ đẹp của con người nhân văn.
124
Qua nghiên cứu đề tài “Khảo sát những cuộc chia ly trong thơ ca trung
Tiểu kết chương 3
đại Việt Nam”, chương 3 đã đưa ra được những kết quả sau. Trong chương này,
người viết đi sâu vào tìm hiểu và khai thác triệt để các giá trị nghệ thuật của thơ
ca trung đại. Những đặc trưng về thể loại, ngôn từ, giọng điệu được tìm hiểu một
cách chi tiết thông qua từng tác phẩm. Qua việc chỉ ra những yếu tố nghệ thuật
đó người đọc có thể thấy được giá trị về nghệ thuật cũng như tư tưởng của
những tác phẩm thơ ca chia ly.
Trước hết, các nhà thơ đã rũ bỏ những khuôn thước khô khan của văn học
cổ để hòa mình với thiên nhiên một cách chân thành, thực tế. Người đọc có thể
thấy rõ được khung cảnh thiên nhiên hữu tình, sống động, bên cạnh đó, cái tôi
cũng đã được bộc lộ rất rõ thể hiện qua cách các tác giả sử dụng từ ngữ hình ảnh
để biểu đạt cảm xúc riêng tư của mình. Hơn thế nữa, chương 3 đã cho thấy sự
biến hóa tài tình về cách sử dụng các điển cố, điển tích. Với những nội dung đó,
hy vọng người đọc sẽ dễ dàng tiếp cận và hiểu sâu sắc hơn những tác phẩm thơ
ca thời kỳ trung đại trải dài từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
125
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, văn chương đặc biệt là thơ ca là món ăn tinh thần mà
với mỗi người khó có thể thiếu được. Thơ ca là sự sáng tạo mới mẻ dựa trên nền
tảng những gì cuộc sống diễn ra nhưng đầy tính hiện thực nhân văn sâu sắc. Thơ
ca cũng là nơi các nhà thơ gieo cho đời những mầm giống tư tưởng đẹp đẽ sáng
ngời, để những ý nghĩa trong mỗi tác phẩm của các thi sĩ tồn tại mãi mãi với
nhân loại. Thơ ca chia ly trung đại Việt Nam là một mảnh đất nhiều màu mỡ cả
về nội dung lẫn hình thức. Các nhà thơ đã thể hiện tấm lòng chân thành trong
tình cảm qua các mối quan hệ thường thấy trong cuộc sống hàng ngày, những
khắc khoải ưu tư, những trông ngóng đợi chờ, những cảm xúc chân thành mà
say đắm thấm đẫm những rung cảm của những trái tim ấm nóng mà người với
người dành cho nhau. Thơ chia ly của các nhà thơ thể hiện thái độ tình cảm sống
sâu nặng ân tình tha thiết, những ước mong tưởng chừng như giản dị, đơn sơ
được đoàn tụ, được quây quần hội ngộ bên nhau, dưới mái nhà xưa cũ, được
sống với quê hương đất nước mà lòng ko phải đau đáu khi nhớ về. Các nhà thơ
tự do bày tỏ tình cảm chân thành, xót thương cho những khổ đau, ly biệt mà
conngười cũng như đất nước phải gánh chịu, những hoài mong, những căm
phẫn, những ước muốn được các thi ca bày tỏ với nỗi niềm.
Các nhà thơ xuất thân từ những hoàn cảnh khác nhau, sang giàu có, nghèo
túng có, bình yên có bể dâu trăm phần cũng không ít, nhưng các nhà thơ như
đứng trên cùng một mặt trận, như cùng chung những cảm xúc khi viết về chia ly.
Các nhà thơ được tiếp xúc, được chứng kiến thậm chí tự thân trải qua những mất
mát đau thương, những khổ đau bất hạnh do ly biệt mà thành khiến cho các vần
thơ như cùng chung một nhịp đập của xúc cảm. Phải thừa nhận rằng, các nhà thơ
khi cho ra đời những bài thơ có nội dung chia ly là đã có những nét tiến bộ rất
đáng được công nhận với các đề tài khác, bởi nó nói lên được tiếng lòng, vẽ nên
126
được bức tranh thời đại đương thời khi ấy, tiếng gọi của lương tri cứ thôi thúc
người đọc tìm hiểu và hiểu hơn những khổ đau, những nỗi sầu mà người người
phải chịu đựng khi ấy. Thơ của các thi sĩ rõ ràng và mạch lạc đi đúng theo
khuynh hướng chủ nghĩa nhân đạo, dù ở chốn quan trường, dù được thong dong
nơi bốn bể chân trời, dù hưởng vinh hoa phú quý ở một nơi nào đó thì lòng vẫn
hướng về quê hương, về những người thân đang lầm lũi nơi quê nhà. Một nét
đẹp đáng trân trọng của những nhà thơ khi xuất nên những vần thơ thương nhớ.
Nếu như trước đây, thơ ca trung đại chỉ quanh quẩn với nội dung chung của đất
nước, hòa với thiên nhiên hoa lá hướng về đạo lý nhân sinh thì giờ đây, ý thức
cá nhân đã len lõi và manh nha trong thơ ca văn học trung đại. Nguồn nước
trong lành ấy đã chảy thành dòng khi các nhà thơ có chung nhịp cảm xúc, họ
thoải mái bộc lộ cái tôi trữ tình với đầy đủ những hỉ nộ sân si của kiếp người.
Nỗi sầu cá nhân không bị lãng quên mà giờ đây đã trở thành nội dung chính
trong các sáng tác thơ. Họ có chung những nỗi buồn, có cùng điểm nhìn trước
cuộc đời bể dâu trăm mối, trước những cảnh ly biệt u hoài khắc khoải. Hơn thế
nữa, các nhà thơ đã cho thấy tài năng thơ ca của mình qua các sáng tác đi vào
lòng người. Những thành tựu về nội dung cũng như những gặt hái về nghệ thuật
đã được minh chứng rất rõ nét, các nhà thơ đã viết tiếp những trang thơ với sự
kế thừa của các bậc hiền tài đi trước, các thể loại, bút pháp trữ tình cũng như tự
sự được các nhà thơ sử dụng một cách nhuần nhuyễn, tinh tế. Cách biến hóa
ngôn ngữ, sử dụng những hình ảnh ước lệ, những sáng tạo hết sức mới lạ khiến
cho thơ ca chia ly như một bó hoa đầy những sắc hương lưu lại cho nhân thế.
Thơ ca chia ly trung đại đã vượt qua được khuôn khổ sáo rỗng có phần khô khan
cứng nhắc trước đó, bước nhảy vượt bậc đó khiến cho thơ ca trung đại như mềm
mại nền nã mà gần gũi sâu sắc hơn với tất cả quần chúng khi đó cho đến những
người nghiên cứu sau này. Chính vì những điều đó khiến cho thơ ca chia ly
trung đại như dễ đi vào lòng người, thấm vào từng mạch nguồn của cảm xúc.
Giá trị của những áng thơ ca đó dễ dàng phổ cập với tất cả người dân trong xã
127
hội cái thời mà chữ Hán khó có khả năng tiếp cận. Những sáng tác đó xứng đáng
được ca ngợi vẻ vang, được trân trọng và giữ gìn bởi đó cũng chính là tiếng nói
của con người, của thời đại nhân nghĩa có lối sống văn minh và cao đẹp, họ đề
cao tình cảm giữa các mối quan hệ, giữa quê hướng đất nước. Nó để lại trong
lòng người đọc những xúc cảm thanh cao, nhưng thanh âm trong trẻo mà lòng
người cao đẹp để lại cho hậu thế sau này. Những tâm hồn ấy phải được trân
trọng và đáng để nhân thế sau học hỏi cũng như giữ gìn và phát huy, nó góp
phần không nhỏ vào việc đề cao quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân.
Nó cũng chính là một tiếng nói mà dễ dàng đi vào lòng người, dù không cần
những đạo lý quá nặng nề nhưng hiệu quả mà nó để lại lại hết sức lớn lao. Thơ
ca chia ly đã nói lên nét đẹp của con người Việt Nam thời trung đại, trọng ân
tình, giữ gìn đạo lý, yêu quê hương đất nước và luôn hướng về những điều thân
thuộc nhất với mỗi người. Đó là một nét đẹp cao cả từ trong tâm hồn mà bằng
những áng thơ các nhà thơ đã nói lên được tất cả. Không cầu kỳ hoa lá, không
xáo mòn xa rời thực tế mà gần gũi đến nao lòng. Những áng thơ chia ly đã góp
một phần rất lớn vào quyền sống, quyền khát khao mưu cầu hạnh phúc trong
mỗi cuộc đời con người. Với đóng góp của mỗi thi nhân như từng viên gạch tạo
dựng nên một thế giới đầy màu sắc và tươi đẹp. Với thơ ca, cuộc sống như tràn
đầy năng lượng, với thơ ca nhiệm vụ của nó cũng là làm sáng tỏ sự thật ẩn nấp
sau những gì cuộc sống diễn ra. Và như thế, thơ ca không thể tách rời với cuộc
sống hiện thực. Thơ ca cũng góp phần gieo vào tâm hồn mỗi người những suy
nghĩ thực tế nhưng sâu sắc đầy ý vị giúp tanhìn ra chính mình và những gì
diễnra ngay cuộc sống chúng ta sống.
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arixtôt (2007), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Lao động: Trung tâm Văn hóa Ngôn
ngữ Đông Tây.
2. Đào Duy Anh (4/1962), Sự cần thiết chỉnh lí tài liệu trong công tác nghiên
cứu và phiên dịch, Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội.
3. Lương An (1981), “Miên Thẩm – một nhà thơ hoàng tộc tiến bộ giữa thế kỷ
XIX”, Tạp chí văn học số 3.
4. Lại Nguyên Ân (1997), “Các thể tài chức năng trong văn học trung đại Việt
Nam”, Tạp chí Văn học.
5. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
6. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy Thơ văn cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Đổng Chi (1993), Việt Nam cổ văn học sử, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
8. Nguyễn Thị Chiến (1993), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm
tài tử giai nhân, Luận án PTS. KH Ngữ văn, Trường Đại học Tổng Hợp,
Hà Nội.
9. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tượng Văn - Sử - Triết bất phân trong văn
học Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí văn học.
10. Thiều Chửu (2000), Hán Việt tự điển, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh.
11. Trương Chính (1997), VHVNTĐ, tuyển tập Trương Chính (tập 1), Nxb
Hà Nội.
12. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Xuân Diệu (2012), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
129
14. Nguyễn Thị Thanh Diễm (2012), Những thành tựu của thơ đi sứ thời
Nguyễn, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ
Chí Minh
15. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội.
16. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
17. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb
Văn học.
18. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,
Hà Nội.
19. Nguyễn Kim Đính (6/1958), “Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn
từ”, Tạp chí văn học số 5.
20. Nguyễn Kim Đính (1960), Truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa, Nxb Văn hóa,
Viện Văn hóa.
21. Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Công – Cúc Hoa, Nxb Viện Văn hóa.
22. Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ Trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí
Minh.
23. Bùi Công Hùng (1994), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học
xã hội.
24. Cao Xuân Huy, Mai Quốc Liên (1978), Thơ văn Ngô Thì Nhậm, Nxb Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội.
25. Hồ Sĩ Hiệp (1995), Thơ Đường, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
26. Kiều Thu Hoạch (1996), Truyện Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình
thành và bản chất thể loại, Luận án PTS. KH Ngữ văn, Trường Đại học
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, tái bản lần thứ 1.
130
28. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa.
29. Nguyễn Mạnh Hùng (2000), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
30. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Tiến trình văn học trung đại, Nxb ĐH Quốc gia
Hà Nội.
31. I.S.Lisecich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Nxb Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh.
32. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Lê Cao Cường (1978), Văn học Việt Nam
thế kỷ X-XVIII, Nxb Đại học và Trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội.
33. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979), Văn học Việt Nam
thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
34. Đinh Gia Khánh (1997), Điển cố văn học, Nxb Khoa học xã hội.
35. Đinh Gia Khánh (1990), “Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam”, Tạp chí
Văn hóa dân gian.
36. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2013), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
37. Nguyễn Khuyến (2005), Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Nguyễn Trọng Khánh (2008), Sổ tay từ ngữ Hán Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
39. Đặng Thanh Lê (1/1992), “Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong
mối quan hệ khu vực”, Tạp chí Văn học.
40. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luân (1990), Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế
kỷ XIX, Tập 2, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
42. Nguyễn Lộc (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
131
43. Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
44. Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
45. Mai Quốc Liên (1979), “Thơ đi sứ, khúc ca của lòng yêu nước và ý chí chiến
đấu”, Tạp chí Văn học (số 3).
46. Nguyễn Du toàn tập (T.1, T.2), Mai Quốc Liên và các dịch giả khác, Nxb
Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H. 1996.
47. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương ở Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
48. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
49. Tạ Ngọc Liễn (1994), “Về tính dân tộc trong thơ cổ trung đại Việt Nam”,
Tạp chí văn học (số 11).
50. NICULIN.N.I, Văn học Việt Nam từ thời trung cổ đến hiện đại (thế kỷ X-
XIX), Phòng Khoa học công nghệ và sau Đại học, Trường Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh.
51. Nguyễn Đăng Na, Đinh Thị Khang, Trần Quang Minh, Nguyễn Phong Lam,
Lã Nhâm Thìn,(2005, 2007), Giáo trình trung đại Việt Nam tập 1, tập 2,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
52. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, tái bản lần 2.
53. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể
loại), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và tình người, Nxb Khoa
học xã hội.
55. Bùi Mạnh Nhị (1984), Bức tranh thế giới con người Trung cổ, Nxb
Văn nghệ.
132
56. Lạc Nam (1993), Tìm hiểu các thể thơ từ cổ phong đến thơ luật, Nxb Văn
học, Hà Nội.
57. Nguyễn Đăng Na (2005), Văn học trung đại Việt Nam - Tập 1, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
58. Lê Hoài Nam (1960), “Phạm Tải Ngọc Hoa – một truyện Nôm khuyết danh
có giá trị”, Tạp chí Văn hóa số 8.
59. Hoàng Phê (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
60. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb
Đà Nẵng.
61. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hân (2006), Đại cương Lịch
sử Việt Nam (toàn tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam (2005), Hợp tuyển ngâm khúc Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
63. Nguyễn Hữu Sơn (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Nguyễn Hữu Sơn (1998), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục.
65. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học và xã hội.
66. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Hội nhà văn Việt Nam,
Hà Nội.
67. Bùi Duy Tân (1976), “Vấn đề thể loại trong văn học Việt Nam thời cổ”, Tạp
chí Văn học.
68. Bùi Duy Tân (1984), Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm Văn học Trung
đại Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Bùi Duy Tân (1992), Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và
văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận – cách tân – sáng tạo, Nxb
Văn học.
133
70. Lã Nhâm Thìn, Vũ Anh Tuấn (2016), Hợp tuyển công trình nghiên cứu văn
học dân gian Việt Nam và văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
71. Đào Thị Thu Thủy (2010), Khúc ngâm song thất lục bát – những chặng
đường phát triển nghệ thuật, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
72. Hoàng Trinh (1984), “Những truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong thơ
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (số 2).
73. Hoài Thanh (1960), “Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán”,
Tạp Chí văn nghệ, tháng 3.
74. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật. Nxb Giáo dục.
75. Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang, Vũ Thanh (2012), Giáo trình Văn học Việt
Nam trung đại, Nxb Giáo dục Việt Nam.
76. Lê Mạnh Thất (1997), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb TP. Hồ Chí Minh,
Tp. Hồ Chí Minh.
77. Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong mắt người xưa, Nxb hội nhà văn,
Hà Nội.
78. Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát – con người và tư tưởng, Nxb
KHXH, Hà Nội.
79. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb
Khoa học xã hội.
80. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX,
Nxb Giáo dục.
81. Trần Nho Thìn (1994), “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà Nho và thực tại trong
văn chương thời cổ”, Tạp chí Văn học (số 2).
82. Trần Nho Thìn (2003, 2008, 2009), Văn học trung đại dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục.
83. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
134
84. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Phúc
(2008), Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ X – Cuối thế kỉ XIX), Nxb
Giáo dục.
85. Đoàn Thị Thu Vân (1993) “Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý –
Trần”, Tạp chí văn học.
86. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ
trung đại, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
87. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam
(1978), Lịch sử Văn học Việt Nam tập 3, Nxb Giáo dục.
88. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển của lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
89. Hoàng Hữu Yên (1992), Giảng văn văn học trung đại Việt Nam (tập 1), Nxb
Giáo dục.
90. Lê Thu Yến (1993), Cao Bá Quát – một tiếng thơ về lòng chung thủy, Kỷ
yếu Khoa Ngữ Văn trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh.
91. Lê Thu Yến (2003), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb
Giáo dục.
92. Lê Thu Yến (2015), “Kiểu tác gia Nguyễn Du và hành trình khắc khoải đi
tìm mình”, Tạp chí Khoa học ĐH Sư phạm TPHCM (Số 7), tr. 68-80.
Websites
93. Theo Báo Người lao động (2015), “Thơ giúp xã hội nhân văn hơn”,
https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/tho-giup-xa-hoi-nhan-van-hon-
20150305221552463.htm
94. Theo văn học Việt Nam (2013), “Bàn về vai trò của thơ ca với cuộc sống”,
http://vanhocvn.com/1250-ban-ve-vai-tro-cua-tho-ca-voi-cuoc-song.html
95. Nguyễn Bá Thành (2013), “Nỗi buồn tha hương và mặc cảm lưu lạc trong
thơ chữ Hán – Nguyễn Du”,
http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/1301-ni-bun-tha-hng-va-mc-cm-
135
lu-lc-trong-th-ch-han-nguyn-du
96. Ngự Thuyết (2017), “Biệt ly trong thơ”,
https://bienxua.wordpress.com/2017/12/25/biet-ly-trong-tho/