VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC TÚ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH HIỆU
VINH DỰ NHÀ NƯỚC “BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG”
TẠI TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC TÚ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH HIỆU
VINH DỰ NHÀ NƯỚC “BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG”
TẠI TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
chính xác cao, trung thực và đáng tin cậy.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thực hiện đầy đủ tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học và Xã hội.
Tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học và Xã hội xem
xét, cho phép tôi được bảo vệ luận văn của mình.
Xin chân thành cám ơn./.
TÁC GIÁ LUẬN VĂN Trần Ngọc Tú
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH
HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG .......... 12
1.1. Cơ sở lý luận về việc thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ............................................................... 12
1.2. Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 13
1.3. Nội dung chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng ........................................................................................... 16
1.4. Nội dung thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng ............................................................................. 20
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ......................... 26
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH
HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG TẠI
TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY ............................................................... 31
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình tỉnh Quảng Nam ................................. 31
2.2. Khái quát chung về thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam .............................. 34
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam .............................. 36
Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH
HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG TẠI
TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY ............................................................... 55
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ........................................... 55
3.2. Một số giải pháp thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam ........................................... 56
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ............ 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 74
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Đánh giá kết quả người dân biết về chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng (Khảo sát 50 người) .................. 38
Bảng 2.2. Đánh giá ý kiến phản hồi của người dân về các hình thức tuyên
truyền về chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước .......................... 39
Bảng 2.3. Kết quả đánh giá của người dân về việc thực hiện chính sách danh
hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” của cán bộ thực
hiện chính sách (Khảo sát 50 người) .................................................... 42
Bảng 2.4. Đánh giá về thực hiện các giải pháp nhằm làm tốt chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ..................... 45
Bảng 3.1: Thống kê một số trường hợp tồn đọng, đề nghị thu hồi danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo công văn của Ủy
ban nhân dân một số tỉnh trong đó có tỉnh Quảng Nam ....................... 61
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành rất nhiều chính sách khen thưởng trong đó có các chính sách khen
thưởng người có công với cách mạng như Bằng Có công với nước, Huân
chương Kháng chiến, Huy chương Kháng chiến chống pháp và chống Mỹ…
đặc biệt là chính sách khen thưởng đối với những phụ nữ Việt Nam có nhiều
cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế. Chính sách khen thưởng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng đã được thực hiện từ năm 1994 thế kỷ XX cho đến
nay và sẽ còn tiếp tục thực hiện ở những năm tiếp theo, thể hiện đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc, của Nhà nước và cộng đồng xã hội,
nhằm ghi nhận, tôn vinh những bà mẹ bản thân là liệt sỹ, có chồng, con là liệt
sỹ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Năm 1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Chính phủ ban hành Nghị
định số 176-CP ngày 20 tháng 10 năm 1994, trên cơ sở đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng và truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng đợt đầu tiên cho 19.879 bà mẹ
trong cả nước, trong đó có các Bà mẹ tiêu biểu: Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Điện
Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam có 9 con, 1 rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; mẹ Phạm
Thị Ngư ở Hàm Hiệp, Hàm Thuận, Bình Thuận có 8 con là liệt sĩ, bản thân
mẹ là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; mẹ Trần Thị Mít ở Hải Phú,
Hải Lăng, Quảng Trị có 9 con là liệt sĩ; Mẹ Nguyễn Thị Rành, ở Phước Hiệp,
Củ Chi, TP Hồ Chí Minh có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân; mẹ Nguyễn Thị Dương ở Triệu Thành, Triệu Phong,
1
Quảng Trị có 8 con thì 5 con là liệt sĩ (3 người con khác là: Đại tướng Đoàn
Khuê, Trung tướng Đoàn Chương và Đại tá Đoàn Thúy. Qua các phương tiện
thông tin đại chúng và qua dư luận, nhân dân và cộng đồng xã hội rất hoan
nghênh chính sách này của Nhà nước, từ đó đã dấy lên phong trào thi đua xây
dựng “Nhà tình nghĩa”, nhận phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng đối với
với các bà mẹ còn sống, neo đơn [2].
Tiếp tục thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng, năm 2013, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục ban
hành Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm
2013 hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh; Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, và Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ
Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ngày 10
tháng 10 năm 2014 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
56/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Trên cơ sở tổng hợp các báo cáo của các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tình hình thực hiện Pháp lệnh danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tính đến ngày 22 tháng 02
năm 2018, sau hơn 04 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2013, cả nước đã có 81.687 Bà mẹ
được phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng (trong đó phong tặng 11.895 Bà mẹ, truy tặng 69.792 Bà mẹ) [2].
Nhìn chung, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã cơ bản hoàn thành
chính sách này.
Tuy nhiên, qua văn bản của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương báo cáo tình hình, kết quả thực hiện chính sách về những
trường hợp tồn đọng cuối năm 2018, cả nước hiện còn khoảng 4.500 trường
2
hợp chưa được làm thủ tục đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các trường hợp này hầu hết là vướng
mắc trong quy định về đối tượng, thủ tục hồ sơ, các địa phương gặp nhiều khó
khăn trong thực hiện. Nhiều thân dân của các bà mẹ đang làm thủ tục đề nghị
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
hoặc đã hoàn thất thủ tục đã lâu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả, tỏ ra rất
bức xúc. Họ đã viết đơn thư hoặc trực tiếp đến các cơ quan có trách nhiệm
thực hiện chính sách này để yêu câu cầ trả lời, làm rõ hoặc đề nghị đề nghị
Đoàn Đại biểu Quốc hội địa phương mình gửi câu hỏi chất vấn Chính phủ,
thành viên của Chính phủ trong các phiên chất vấn tại kỳ họp Quốc hội hoặc
làm đơn thư gửi trực thiếp Thủ tướng Chính phủ yêu cầu trả lời [3, 31].
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã thực hiện chính sách trên hết
sức nghiêm túc. Ngoài những chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng theo quy định của Trung ương, tỉnh đã huy động từ
tỉnh đến xã và các tổ chức, cá nhân tham gia tích cực vào việc thực hiện chính
sách người có công bằng những việc làm cụ thể như: Tham gia huy động,
đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa; xây nhà tình nghĩa, nhà Đại đoàn kết, các
hoạt động tri ân, công tác phối hợp giữa Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh
niên dâng hương tại các nghĩa trang; thường xuyên chăm sóc, phụng dưỡng
các Bà mẹ Việt Nam anh hùng…Đây là những việc làm rất thiết thực, cụ thể,
đã tác động một cách tích cực đến các đối tượng chính sách, đến các bà mẹ
Việt Nam anh hùng, nhằm giúp cho các đối tượng này ổn định cuộc sống và
tạo niềm tin của các đối tượng chính sách đối với Đảng và Nhà nước, góp
phần giáo dục lịch sử, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách người
có công nói chung và chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, vẫn còn một số mặt
3
hạn chế như đội ngũ cán bộ công chức được đảm nhiệm công tác lao động
thương binh xã hội, công tác thi đua khen thưởng ở cơ sở không ổn định, còn
trẻ chưa hiểu biết nhiều về chính sách, kiến thức về văn hóa lịch sử còn hạn
chế nên việc tham mưu tổ chức thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu công
tác. Thêm vào đó, điều kiện đường sá, hạ tầng thông tin còn hạn chế nên việc
phổ biến, tuyên truyền, triển khai đến từng đối tượng chính sách còn mức độ.
Bên cạnh đó, một số văn bản hướng dẫn còn chậm, thiếu đồng bộ và chưa rõ
ràng. Thủ tục hành chính trong việc xét đề nghị phong tặng, truy tặng danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn nhiều bước và gây khó
khăn cho các đối tượng khi kê khai, lập hồ sơ từ khâu xác nhận con nuôi, đối
tượng là thân nhân của liệt sỹ, người được ủy quyền làm thủ tục cho các bà
mẹ…. Công tác giám sát thiếu chặt chẽ trong quá trình xét duyệt, thẩm định
nên việc xác định đối tượng được hưởng chính sách còn chưa đúng đối tượng,
chưa đúng tiêu chuẩn theo quy định, việc chi trả chế độ chưa được giám sát
chặt chẽ….Những tồn tại, bất cập trên đây đã làm cho chính sách danh hiệu
vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” tác động đến các đối tượng
được hưởng thụ không được như định hướng chỉ đạo ban đầu của Đảng và
Nhà nước, chưa đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của nhân dân.
Từ thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam hiện nay,
làm đề tài luận văn. Hy vọng rằng, đề tài sẽ góp phần tuyên tuyền về thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở
tỉnh Quảng Nam nói riêng và trong toàn quốc noi chung trong giai đoạn hiện
nay đến được mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội nhằm chung tay cùng
Nhà nước thực hiện tốt việc chăm sóc, phụng dưỡng những Bà mẹ Việt Nam
anh hùng còn sống, quan tâm đến thân nhân của các bà mẹ đã từ trần, các chế
độ đãi ngộ đối với thân nhân của bà mẹ, giáo dục truyền thống yêu nước, tự
4
tôn dân tộc, thể hiện đạo lý “Uống nước Nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây” của dân tộc Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng là
một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, đã có nhiều công
trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết viết về vấn đề chính sách khen thưởng,
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong
đó có ít nhiều đã đề cập đến công tác này ở góc độ lý luận, chính sách,
thực tiễn...
Trong thời gian qua, với góc độ người làm công tác quản lý Nhà nước về
công tác thi đua khen thưởng, học viên đã được tiếp cận những các chính sách
của Nhà nước về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
được tiếp cận nghiên cứu của các Giáo sư, Phó Giáo sư, luận án của các tiến sỹ,
luận văn của các thạc sỹ về lĩnh vực thi đua khen thưởng, về chính sách công
và thực thi chính sách công. Trong các nghiên cứu về công tác khen thưởng đó,
cũng đã ít nhiều đã đề cập đến công tác khen thưởng danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cụ thể:
PGS.TS. Trương Quốc Bảo (2010), Sách Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen
thưởng Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [14].
Trong nghiên cứu tác giả đã đề cập đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
đề xây dựng các chính sách khen thưởng nói chung và các chính sách đãi ngộ
khen thưởng người có công với cách mạng nói riêng trong đó có chính sách đối
với Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Ths. Nguyễn Hữu Đoạt (2010) Luận văn thạc sĩ“Hoàn thiện văn bản quy
phạm pháp luật đối với công tác thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay”.
[17]. Tác giả đã đề cập đến những bất cập trong các văn bản pháp luật về thi đua
5
khen thưởng ở nước ta hiện nay. Tác giả kiến nghị các cơ quan xây dựng chính
sách thông qua các văn bản pháp luật cần nghiên cứu nhiều hơn về thực tiễn;
nhất là những chính sách đãi ngộ người có công với cách mạng để thật sự chế độ
đãi ngộ đó đem đến cho người có công với cách mạng những ấm áp; làm vơi đi
những mất mát của họ đã cống hiến cho đất nước trong sự nghiệp đấu tranh
thống nhất và bảo vệ Tổ quốc.
Ths. Trần Thị Hà (2010), Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Cơ sở lý luận
và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay". [18].
Trong nghiên cứu này, tác giả đã trình bày những thành tựu trong việc xây
dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về thi đua khen thưởng trong đó có
liên quan đến chính sách khen tưởng người cố công với cách mạng, chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tác giả cũng
đã nêu lên những bất cập còn tồn tại trong một số chính sách thi đua khen
thưởng trong đó có chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta
hiện nay. Nghiên cứu cũng đánh giá những hạn chế trong việc thực hiện chính
sách thi đua khen thưởng; đặc biệt là tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chưa cụ
thể, rõ ràng; biện pháp tổ chức, tuyên truyền pháp luật về thi đua khen
thưởng.
Tác giả Nguyễn Văn Hồi (2013) trong báo cáo tham luận tại Hội nghị
triển khai Đề án 32 của Chính phủ đã nêu rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
ta đến vấn đề an sinh xã hội trong đó có chính sách đối với người có công với
cách mạng: “Ðảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, quan tâm đến việc xây
dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể
hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Hệ thống pháp luật và chính sách an
sinh xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Đối tượng thụ hưởng
6
chính sách ngày càng mở rộng, mức trợ giúp xã hội được nâng lên theo điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã
hội ngày càng được tăng cường. Ðời sống vật chất và tinh thần của người có
công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng cần trợ giúp
xã hội được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và ổn định
chính trị - xã hội. Bên cạnh đó cần quan tâm đến các đối tượng đặc biệt như
người có công với cách mạng…” [21].
Ths. Dương Thị Thanh (2007): “Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi
đua, khen thưởng ở địa phương”; [26]. Trong luận văn thạc sĩ, tác giả đã nêu
những nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện chính sách thi đua
khen thưởng; trong đó có chính sách khen thưởng người có công cách mạng,
người tham gia kháng chiến, chính sach khen thưởng và đãi ngộ đối với Bà mẹ
Việt Nam anh hùng tại tỉnh Ninh Bình. Tác giả cho rằng cần phải đổi mới trong
việc xây dựng chính sách khen thưởng, chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng trong đó có danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Trong tổ chức thực hiện chính sách này phải hết công tâm; phải có sự giám sát
chặt chẽ của cơ quan Nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội và người dân để đảm bảo chính sách được thực hiện minh
bạch, đúng đối tượng được thụ hưởng và đúng chế độ mà Nhà nước đã quy định.
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên đều chưa nghiên cứu đi
sâu vào nội dung thực thi chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng ở một địa phương, tìm ra những vướng mắc, bất cập trong tổ
chức thực hiện, đề ra những giải pháp khắc phục để giải quyết những trường
tồn đọng. Đây là một khoảng trống cần thiết phải được nghiên cứu, phân tích,
đề ra giải pháp giải quyết triệt để những vướng mắc, tồn tại nhằm nâng cao
hiệu quả trong thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam
để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam trong những
năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh Quảng Nam hiện nay;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Giải pháp thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Trong giai đoạn 2015 - 2019.
- Về không gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về chính sách người có công đặc biệt là chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng như Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1993 và năm 2012, Nghị định 176-
CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 và Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22
tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Thông tư
liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm
2014 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội quy định, hướng dẫn tổ chức thực hiện. Các nghị định hướng quy định về
chế độ ưu đãi người có công trong đó có Bà mẹ Việt Nam anh hùng như Nghị
định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2013, Nghị định số
20/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ, Nghị định số
99/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá chính sách
Trên cơ sở tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả tiến hành
phân tích các bước trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, từ đó tiến
hành tổng hợp và đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh Quảng Nam.
9
- Phương pháp thu thập thông tin
Tiến hành thu thập và kế thừa thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan
đến đề tài nghiên cứu của cá nhân bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị quyết,
đề án, kế hoạch của Đảng, chính sách của Nhà nước ở Trung ương và địa
phương đặc biệt là của tỉnh Quảng Nam, các công trình nghiên cứu của các
giáo sư, tiến sỹ, luận văn của các thạc sỹ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống
kê…của các cơ quan liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đơn thư của công dân.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
Nhằm đánh giá khách quan, trung thực việc thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. Luận văn có sử dụng phương pháp khảo sát điều tra: xây dựng
bảng hỏi phỏng vấn thu thập thông tin lấy ý kiến của một số cán bộ, công
chức cấp huyện, cấp xã, người dân ở tỉnh Quảng Nam về thực hiện chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở các xã, phường,
thị trấn, huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; các văn bản triển
khai danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh Quảng
Nam, công văn thống kê tồn đọng các trường hợp đề nghị phong tặng, truy
tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng của một số tỉnh,
đơn thư đề nghị của công dân.
- Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào số liệu học viên thu thập được qua quá trình điều tra khảo
sát, tiến hành tổng hợp, xử lý số liệu để đảm bảo tính chính xác.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng kết hợp phương pháp thống kê, khái quát
thực tiễn, phương pháp phân tích định lượng, định tính, suy luận, diễn giải,
quy nạp trong quá trình phân tích, đánh giá thực thi chính sách danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng từ chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước trong thời gian qua.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phản ánh được thực trạng và đề xuất được một số giải pháp
thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng tại tỉnh Quảng Nam nhằm giải quyết dứt điểm 240 trường hợp còn tồn
đọng và những trường hợp tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
có 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam hiện nay.
Chương 3. Giải pháp thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam hiện nay.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ
DANH HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
1.1. Cơ sở lý luận chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Hội nghị
Trung ương lần thứ 5) đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6
năm 2012 một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020; Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ban hành Chỉ thị số 35-
CT/TW, ngày 21/5/2004 “Về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”; Bộ
Chính trị ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21 tháng 5 năm 2004 “Về việc
tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng,
tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, khen thưởng người có công cách mạng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngày 29 tháng 8 năm 1994 và Pháp lệnh
số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20 tháng 10 năm 2012, Về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
Thực hiện Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam
anh hùng” năm1993 và năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 176-
NĐ/CP ngày 23 tháng 10 năm 1994 và số Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày
22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ, Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09
tháng 4 năm 2013, Nghị định số 20/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công
cách mạng trong đó có Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ
12
Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định,
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm
2013 của Chính phủ. Điều đó đã chứng tỏ Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm
đến chính sách ngưới có công, chính sách đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
những người đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Chính sách này không chỉ
thực hiện trong một giai đoạn mà còn tiếp tục thực hiện lâu dài nhằm tôn
vinh, giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ con cháu mai sau, làm giàu
giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm chính sách công
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau của các học giả trong và
ngoài nước về chính sách công. Theo tác giả Thomas Dye (1972): Chính sách
công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hay không làm. Tác giả
William Jenkins (1978) lại cho rằng: Chính sách công là tập hợp các quyết
định liên quan với nhau do một hoặc một nhóm nhà hoạt động chính trị ban
hành, liên quan tới lựa chọn các mục tiêu và các phương tiện để đạt mục tiêu
trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền.
Tác giả Nguyễn Khắc Bình cho rằng: Chính sách công là hoạt động mà
Chính phủ chọn thực hiện hoặc không thực hiện để điều hòa các xung đột trong
xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định [15].
- PGS.TS. Đỗ Phú Hải định nghĩa về chính sách công ở Việt Nam như sau:
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan để lựa chọn mục tiêu
và những giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách
theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”. [19].
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải khái niệm: “Chính sách công là kết quả ý
chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có
13
liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải
quyết những vấn đề công trong xã hội”. [20].
- PGS.TS. Lê Chi Mai khái niệm chính sách công theo một số nội dung
sau đây:
+ Chủ thể ban hành chính sách công mang phạm vi rộng (ngành, lĩnh
vực, toàn quốc) là nhà nước do các cơ quan trong bộ máy nhà nước ban hành
và cơ quan Nhà nước và cũng có có thể trở thành chủ thể ban hành các “chính
sách tư” khi ban hành các chính sách điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ
chức mình, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó (phạm vi hẹp, nội bộ). Do đó,
các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công
cũng vừa là chủ thể ban hành chính sách tư. Sự khác biệt là ở chỗ các chính
sách tư do các cơ quan nhà nước ban hành là những chính sách nhằm giải
quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành
bên ngoài cơ quan cả về mặt vị trí địa lý cũng như chức năng, nội quy, quy
chế hoạt động của cơ quan đó. Chính sách do nhà nước ban hành gọi là chính
sách công và có thể coi là chính sách nhà nước.
+ Các quyết định này là những quyết định hành động bao gồm cả những
hoạt động thực tiễn. Nó không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính
sách mà còn bao gồm những hành động thực hiện các dự định theo ý chí của
chủ thể ban hành.
+ Chính sách công trước hết thể hiện dự định của đảng chính trị, các
nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào
đó. Nó phải bao gồm các hành động thực hiện dự định mục tiêu và mang lại
kết quả trong thực tế. Nếu có ban hành mà không thực thi thì những định
hướng đó không được coi là chính sách hoặc thất bại chính sách. [22].
Trong nghiên cứu này, học viên sử dụng khái niệm của tác giả Nguyễn
Khắc Bình.
14
1.2.2. Khái niệm thực hiện chính sách công
Như chúng ta đã biết, thực hiện chính sách công là một giai đoạn của
chu trình chính sách công. Thực hiện chính sách có vai trò quan trọng và
quyết định cho chính sách công trở thành hiện thực trong đời sống sau khi
được Nhà nước ban hành. Có nhiều định nghĩa về thực hiện chính sách công.
Tác giả Nguyễn Khắc Bình cho rằng:
“Thực hiện chính sách công là quá trình vận động, thực hiện ý chí của
nhà nước trong chính sách thành hiện thực thông qua các cơ chế quản lý, các
giải pháp với các đối tượng nhằm đạt mục tiêu đã xác định để thúc đẩy xã hội
phát triển theo định hướng”. [16].
Trong nghiên cứu đề tài này, luận văn sử dụng khái niệm của tác giả
Nguyễn Khắc Bình để thực hiện các nội dung nghiên cứu của đề tài.
1.2.3. Khái niệm danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng
Tại Điều 1 Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 1993 và Điều 1 Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng năm 2012 quy định: “Danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng để tặng hoặc truy tặng những bà mẹ có nhiều cống
hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế” [27, 30].
Khái niệm này đã được sử dụng, áp dụng trong chính sách trong quá
trình tổ chức thực hiện đối với những cá nhân có đủ điều kiện, tiêu chuẩn.
1.2.4. Khái niệm chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng
Chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
là hệ thống những văn bản chỉ đạo, quy định của Đảng và Nhà nước để tặng,
15
truy tặng những bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
1.2.5. Khái niệm thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Từ định nghĩa về thực hiện chính sách công của tác giả Nguyễn Khắc
Bình nêu trên, học viên có thể định nghĩa thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng như sau:
Thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng là quá trình vận động, thực hiện ý chí của Nhà nước trong chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng thành hiện
thực thông qua các cơ chế quản lý, các giải pháp đối với các đối tượng nhằm
đạt mục tiêu đã xác định để thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng, đảm
bảo công bằng và hài hòa lợi ích giữa các đối tượng trong xã hội”.
1.3. Nội dung chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng
Tại Khoản 1, Điều 59, Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội tôn
vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với
nước”, khẳng định quan điểm chỉ đạo của nhà nước quan tâm đến những
người có công với cách mạng, người tham gia kháng chiến 03 thời kỳ, Bà mẹ
Việt Nam anh hùng, thương binh, liệt sỹ, bệnh binh. [23].
Chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
là một chính sách thể hiện bản chất ưu việt của chế độ, xã hội ở nước ta. Từ
đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng nói chung và Chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng nói riêng như Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 6 năm 2005;
Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012 sửa đổi, bổ
16
sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Pháp
lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngày 29
tháng 8 năm 1994; Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20 tháng 10 năm
2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các chính sách đó được tổ chức thực hiện
rất tốt trong nhiểu năm qua và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Nội dung của chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng được thể hiện trong các Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự
Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1993; Nghị định số 176-CP ngày
20 tháng 10 năm 1994 quy định thi hành Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm1994; Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà
nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” sửa đổi và bổ sung năm 2012, Nghị định
số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
năm 2012; Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày
10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội; Nghị định số 31/2013 NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm
2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng; Nghị định số 20/2015 NĐ-CP ngày 14 tháng
02 năm 2015 quy định về mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công
với cách mạng. Cụ thể là:
Những trường hợp được Chủ tịch nước tặng hoặc truy tặng danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng chế độ ưu đãi theo
quy định của Nhà nước, như sau:
Đối với Bà mẹ được phong tặng (còn sống).
Thứ nhất, Khoản 1, Điều 3, Nghị định 56/2013/NĐ-CP quy định
như sau:
17
1. Bà mẹ được tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng được tặng Bằng, Huy hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, được hưởng chế
độ ưu đãi theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng và pháp luật về
ưu đãi người có công với cách mạng.
2. Bà mẹ được truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng thì thân nhân thờ cúng bà mẹ được nhận Bằng, Huy hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng, được hưởng các chế độ theo quy định của pháp luật về
thi đua, khen thưởng và pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng [9].
Thứ hai, ngoài Khoản 1, Điều 23 Nghị định 31/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng và Nghị định số 20/2015/NĐ-CP về mức trợ cấp, phụ cấp ưu
đãi đối với người có công với cách mạng thì Bà mẹ được phong tặng danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng trợ cấp một
lần bằng 20 lần mức chuẩn [10, 11].
Tại Khoản 1, Điều 1, Nghị định số 20/2015/NĐ-CP về mức trợ cấp,
phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng quy định: “Mức chuẩn
để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách
mạng theo quy định tại Nghị định này là 1.318.000 đồng.” [11].
Như vậy, số tiền mà bà mẹ được phong tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam
anh hùng được hưởng một lần là: 1.318.000 x 20 = 26.360.000 đ
Thứ ba, được hưởng phụ cấp hàng tháng từ ngày Chủ tịch nước ký
quyết định phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng.
* Trường hợp Mẹ có 1 Liệt sĩ được hưởng tổng số tiền 3.741.000 đồng, gồm:
– Trợ cấp : 1.318.000 đồng.
– Phụ cấp: 1.105.000 đồng.
18
– Trợ cấp người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình:
1.318.000 đồng.
* Trường hợp Mẹ có 2 liệt sĩ được hưởng tổng số tiền 5.059.000 đồng, gồm:
– Trợ cấp : 2.636.000 đồng.
– Phụ cấp: 1.105.000 đồng.
– Trợ cấp người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình:
1.318.000 đồng.
* Trường hợp Mẹ có từ 3 liệt sĩ trở lên được hưởng tổng số tiền, 6.377.000
đồng, gồm:
– Trợ cấp : 3.954.000 đồng.
– Phụ cấp: 1.105.000 đồng.
– Trợ cấp người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình:
1.318.000 đồng.
Các khoản chi trên đối với các bà mẹ cong sống, được phong tặng danh
hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” được trích từ nguồn
ngân sách của Nhà nước. Bên cạnh đó cón có sự phối hợp hỗ trợ của các tổ
chức mặt trận, doanh nghiệp và của cả cộng đồng trong việc phụng dưỡng,
thăm hỏi hàng tháng.
Đối với Bà mẹ được truy tặng (đã từ trần).
Thứ nhất, căn cứ khoản 2, điều 3 Nghị định 56/2013/NĐ-CP quy định
như sau: “Bà mẹ được truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng thì thân nhân thờ cúng bà mẹ được nhận Bằng, Huy hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng, được hưởng các chế độ theo quy định của pháp
luật về thi đua, khen thưởng và pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng.”. [9].
Thứ hai, khoản 4, điều 23 Nghị định 31/2013 NĐ-CP quy định: “Khi
Bà mẹ Việt Nam anh hùng chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng
19
phí; đại diện thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng ba tháng trợ cấp,
phụ cấp ưu đãi.” [10].
Như vậy, tổng cộng thân nhân thờ cúng Bà mẹ được hưởng là: 3 x
1.318.000 = 3.954.000 đồng.
Khoản 5, Điều 4 Thông tư 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm
2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng có quy định:
“Đối với bà mẹ được truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng thì khoản tiền một lần và hiện vật khen thưởng được trao cho
người chồng; nếu người chồng đã từ trần thì trao cho con hoặc vợ liệt sĩ
thường xuyên giữ trách nhiệm thờ cúng bà mẹ; trường hợp bà mẹ không còn
chồng, con thì trao cho người thân gần nhất chịu trách nhiệm thờ cúng, chăm
sóc phần mộ của bà mẹ, theo đề nghị bằng văn bản của chính quyền cấp xã
nơi bà mẹ cư trú khi còn sống.”. [7].
Tuy nhiên, chế độ về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng và người có công cách mạng lại được điều chỉnh lại mới nhất tại Nghị
định số 99/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ về trợ cấp
là hàng tháng 1.270.000 đồng cũng gây dư luận trong quần chúng nhân dân
do chi trả chậm đối với những trường hợp đang hướng theo Nghị định số
20/2015/NĐ-CP. [9].
1.4. Nội dung thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng
1.4.1. Ý nghĩa của việc tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng là công tác rất quan trọng. Thực hiện chính sách này
không chỉ giúp ổn định đời sống của đối tượng đặc biệt này mà còn góp phần
20
vào sự ổn định đời sống của các đối tượng người có công với cách mạng, giáo
dục truyền thống lịch sử, lòng yêu nước cho các thế hệ mai sau.
1.4.2. Nội dung quy trình thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
1.4.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Trong quy trình thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng, trước hết phải tiến hành xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện một cách chi tiết. Kế hoạch phải rõ ràng với các nội dung cụ thể
như sau:
- Kế hoạch tổ chức điều hành:
Đề xuất cơ quan chủ trì thực hiện; phân công cụ thể về nhiệm vụ, trách
nhiệm cho từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Ở cấp cơ sở phải phân công cụ thể
nhiệm vụ của từng cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong phân công tổ chức điều
hành chú ý không để việc chồng chéo nhiệm vụ giữa cơ quan này với cơ quan
khác hoặc các cá nhân với nhau.
- Kế hoạch cung cấp các nguồn lực:
Dự kiến về cơ sở vật chất, các công cụ, phương tiện kỹ thuật phục vụ tổ
chức thực hiện, đảm bảo cung cấp đủ nguồn lực tài chính, con người nhằm
đảm bảo việc triển khai thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng diễn ra được thuận lợi; đạt hiệu quả cao nhất.
- Kế hoạch thời gian thực hiện:
Dự trù thời gian thực hiện từng nhiệm vụ để đạt được từng mục tiêu trên
cơ sở của từng giải pháp chính sách như thời gian của các bước thực hiện
chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng từ phổ
21
biến, tuyên truyền chính sách, quá trình thực hiện đến tổng kết đánh giá và rút
kinh nghiệm thực hiện chính sách.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách:
Dự kiến về tiến độ hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức
thực hiện chính sách về quy định nội dung, quy chế về tổ chức điều hành, về
trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước; sự phối hợp với
tổ chức Đảng ở cơ sở, phân công công chức tham gia kiểm tra thực hiện chính
sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
1.4.2.2. Phổ biển, tuyên truyền chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Tuyên truyền, phổ biến chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện
chính sách của các cơ quan Nhà nước. Phổ biến, tuyên truyền làm cho các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các đối tượng chính sách và mọi người dân
nhận biết về mục đích, yêu cầu, đầy đủ, chính xác của chính sách để các bên
có liên quan tự giác tham gia thực hiện. Đồng thời giúp cho cán bộ, công
chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách; tăng cường sự giám sát của
cơ quan, tổ chức và người dân thực hiện đúng các quy định của chính sách
danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Bên cạnh đó, công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng cũng làm cho mọi đối tượng trong xã hội tích cực tham
gia, tìm kiếm, đề xuất các giải pháp phù hợp trong việc thực hiện chính sách
đãi ngộ trên.
Công tác phổ biến, tuyên truyền danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng được thể hiện nhiều hình thức như thông qua báo chí, phát
thanh, truyền hình, tổ chức hội nghị của các đoàn thể... Phổ biến, tuyên truyền
là một khâu rất quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chính sách. Phổ biến,
22
tuyên truyền chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng” phải kịp thời và hiệu quả làm đối tượng chính sách có điều kiện tiếp
cận, kê khai, thụ hưởng chính sách theo đúng các quy định trong chính sách
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
1.4.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Để thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng đúng các quy định đã được ban hành và hiệu quả tốt, phải
phân công, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước các cấp, các tổ chức
chính trị xã hội, tổ chức xã hội ở các cấp và các cá nhân tham gia.
Sự phân công phải đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, khoa học và
hợp lý, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, vai trò của cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia. Nếu làm tốt việc phân công phối hợp thực hiện thì quá trình
thực hiện chính sách sẽ diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Do đó để việc tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng có hiệu quả, cần phải có thống nhất cao về
nhận thức, về quan điểm để thực hiện từng bước mục tiêu và các giải pháp
của chính sách.
Sự phân công phối hợp tốt từ tuyên truyền, vận động, đến việc cung ứng
nguồn lực tài chính...và cơ sở vật chất đảm bảo điều kiện tốt nhất trong việc
thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng tại tỉnh Quảng Nam.
1.4.2.4. Duy trì chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng
Duy trì chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng là bước bảo đảm cho chính sách tồn tại, thực hiện liên tục và phát huy
tác dụng tốt trong đời sống xã hội. Các cơ quan Nhà nước chủ trì thực hiện
23
chính sách phải thường xuyên chỉ đạo, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân
được giao nhiệm vụ thực hiện các quy định trong chính sách; nhất là những
chế độ đãi ngộ được thụ hưởng của đối tượng trong chính sách đã được quy
định. Cơ quan nhà nước chủ trì thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng là Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội tỉnh và Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh phải
luôn đảm bảo các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất để cho việc thực hiện
chính sách được diễn ra liên tục. Trong quá trình thực hiện chính sách danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng có thể có những thay đổi
trong đời sống xã hội nhưng phải đảm bảo các quy định đãi ngộ cho các đối
tượng chính sách được thụ hưởng đúng quy định của Nhà nước trong chính
sách đã ban hành, tuyệt đối tránh sự bất công bằng giữa các đối tượng được
thụ hưởng.
1.4.2.5. Điều chỉnh, bổ sung giải pháp thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Trong quá trỉnh thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng có thể gặp phải những khó khăn do môi trường thực
tế biến động (đặc điểm vùng miền địa phương, tổ chức bộ máy, đội ngũ công
chức thay đổi). Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
tỉnh, Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh chủ trì thực hiện phải sử dụng các công
cụ quản lý nhà nước khác để làm cho các giải pháp thực hiện chính sách này
phù hợp với thực tiễn của từng địa phương và từng giai đoạn và góp phần tạo
môi trường thuận lợi cho công tác thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đạt hiệu quả. Để đảm bảo thực hiện
đúng các quy định trong chính sách, nhất là đối tượng thụ hưởng và những vật
chất và tinh thần đối tượng được thụ hưởng được hưởng trong chính sách, cơ
quan chủ trì thực hiện chính sách có thể phải phối hợp với các cơ quan nhà
24
nước khác (Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh), chính
quyền địa phương các cấp để tìm các biện pháp thích hợp kể cả biện pháp
hành chính để thực hiện chính sách này.
1.4.2.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Thông qua việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cơ quan nhà nước chủ trì
thực hiện chính sách có thể kịp thời bổ sung, hoàn thiện các giải pháp chính
sách; vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách giúp cho việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cơ quan nhà nước chủ trì thực hiện
chính sách cần phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội và người dân thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, theo dõi việc thực hiện chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Thông qua công tác kiểm tra, theo
dõi, có thể phát hiện những vi phạm, sai sót và kịp thời xử lý nghiêm khắc và
chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc trong quá trình thực hiện chính sách này
(có nhiều trường hợp phải thu hồi do man khai hồ sơ đề nghị phong tặng, truy
tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng hoặc do cố tình
chi trả chậm để gây khó khăn, sách nhiễu của công chức thực thi công vụ). Do
đó, công tác kiểm tra thực hiện chính sách trên cần được tiến hành đúng kế
hoạch, bảo đảm các yêu cầu, các nguyên tắc kiểm tra, đánh giá kết luận các vi
phạm sai sót phải chính xác và khách quan, xem xét xử lý nghiêm khắc, chấn
chỉnh ngay. Kiểm tra thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng nhằm đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu trong
việc tổ chức thực hiện chính sách, để phát hiện những hạn chế, sai sót trong
việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách để kịp thời điều chỉnh, phối
hợp một cách nhịp nhàng, độc lập giữa các cơ quan, giữa các đối tượng thực
thi chính sách, được tập trung thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu, giải
25
pháp chính sách, kịp thời khuyến khích những tích cực trong tổ chức thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
1.4.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Tùy theo từng thời điểm và tình hình địa phương, công tác tổng kết, đánh
giá rút kinh nghiệm thực hiện chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng được tổ chức hàng năm hay 06 tháng một lần. Tổng kết,
đánh giá thực hiện chính sách cần đi sâu vào công tác chỉ đạo điều hành về
thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng. Tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng cần được thực hiện đánh giá về nhiều nội dung
như: Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách; công tác chỉ đạo điều
hành; công tác tuyên truyền, phổ biến; công tác phối hợp tổ chức thực hiện;
biểu dương khen thưởng những đơn vị, cá nhân làm tốt. Bên cạnh đó cần nêu
ra tồn tại, hạn chế; những phát sinh mới trong thực tiễn cần được bổ sung đảm
bảo chính sách phù hợp với thực tiễn, kiến nghị với cấp có thẩm quyền nhằm
bổ sung, điều chỉnh chính sách trên nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách
đem lại sự hài lòng của các đối tượng thụ hưởng, của cả cộng đồng xã hội và
các tầng lớp nhân dân.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
- Nhận thức của xã hội và người dân:
Cần tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của người dân, doanh nghiệp vì
đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là vấn
đề lớn, cần sự đóng góp của người dân, người dân vừa là đối tượng trực tiếp
tham gia thực hiện chính sách, vừa trực tiếp thụ hưởng những lợi ích từ chính
sách. Nếu chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
26
hùng đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội về mục tiêu và biện pháp thừa hành
thì nó sẽ nhanh chóng đi vào lòng dân, được nhân dân và xã hội ủng hộ trong
việc thực hiện. Nếu các giải pháp chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng không thiết thực với đời sống nhân dân, không
phù hợp với điều kiện và trình độ hiện có của nhân dân, của xã hội thì trong
quá trình thực hiện sẽ gặp nhiều vướng mắc, khó thực hiện hoặc xảy ra những
kiếu kiện, khiếu nại, khiếu nại vượt cấp….hoặc bị kẻ xấu lợi dụng khai man
hồ sơ để hưởng thụ chính sách của Nhà nước gây bất bình trong xã hội,
nghiêm trọng hơn có thể là chúng kích động nói xấu chế độ, gây mất ổn định
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng:
Thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội, thể hiện trong việc Nhà
nước tổ chức nghiên cứu, hoạch định, ban hành hệ thống chính sách, chế độ
và tổ chức thực hiện (pháp lệnh, nghị định, thông tư). Trong quá trình thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thực hiện phải có đạo đức, tư
cách tốt để thực hiện công minh, đúng những quy định của nhà nước đối với
các đối tượng được ưu đãi này. Bên cạnh đó, họ phải có lòng nhân ái, tuyệt
đối không được gây phiền hà trong quá trình thực hiện chính sách này để thể
hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tỏ lòng biết ơn những người đã hy hinh
xương máu của bản thân, của gia đình, người thân vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc và
thực hiện nghĩa vụ quốc tế, nêu cao ngọn cờ chính nghĩa độc lập, tự do.
- Thực hiện đầy đủ các bước trong chu trình thực hiện chính sách công:
Chính sách này nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
có công, cho những Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thể hiện sự quan tâm, biết ơn
27
của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với sự hy sinh, cống hiến của họ cho đất
nước. Việc tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng phải nghiêm túc; các giải pháp phải thích hợp với
Quảng Nam, với từng địa phương và trong các giai đoạn khác nhau và phải
đảm bảo chắc chắn và ổn định. Trong quá trình thực hiện, đội ngũ cán bộ
được giao thừa hành công vụ đặc biệt là công chức ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội, ngành Thi đua - Khen thưởng tỉnh Quảng Nam phải thực hiện
đúng và đầy đủ các bước trong chu trình thực hiện chính sách. Quá trình thực
hiện chính sách, sớm phát hiện những bất cập để kiến nghị với cơ quan có
thẩm quyền để bổ sung, sửa đổi kịp thời những điểm bất hợp lý, góp phần
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của những người có công
với cách mạng, đặc biệt là đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng và thân nhân
của họ.
- Sự phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp
và cá nhân tại tỉnh Quảng Nam và các tỉnh trong ncar nước trong quá trình
thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng:
Các cơ quan chức năng ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, ngành
Thi đua - Khen thưởng từ trung ương đến địa phương cần phối hợp chặt chẽ
và phối kết hợp với các tổ chức, ngành có liên quan như tài chính, tư pháp,
thanh tra, công an, với tổ chức như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh các cấp, về việc chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện đặc
biệt là đối với những địa phương có khó khăn, kinh tế kém phát triển, đường
sá, hạ tầng thông tin yếu kém (huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Tây Giang,
Tiên Phước …tỉnh Quảng Nam). Nhà nước luôn đảm bảo nguồn tài chính và
cơ sở vật chất để thực hiện tốt chính sách trên. Bên cạnh đó cần sự phối hợp
28
của nhiều ngành, tổ chức, cá nhân tham gia cùng thực hiện. Sự đóng góp của
các nhà hảo tâm, của doanh nghiệp cũng góp phần thực hiện thành công chính
sách không chỉ về vật chất mà còn cả tinh thần đối với những bà mẹ được
phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người
thân của họ và chính quyền địa phương nơi bà mẹ sinh sống trong việc tri ân,
giáo dục lịch sử văn hóa cách mạng, truyền thống yêu nước.
- Môi trường thực hiện chính sách:
Yếu tố liên quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa
phương cũng ảnh hưởng đến thực hiện chính sách. Những địa phương có vị
trí thuận lợi, điều kiện kinh tế xã hội phát triển và có điều kiện tự nhiên thuận
lợi, người dân nhận thức, hiểu biết tốt về chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng sẽ tác động, thúc đẩy việc thực hiện
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng thuận
lợi, thành công. Ngược lại, những địa phương có vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, điều kiện kinh tế xã hội kém phát triển, người dân
nhận thức, hiểu biết kém về chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng sẽ kìm hãm, ngăn trở các hoạt động này, dẫn đến thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
kém hiệu quả. Qua báo cáo, trong số 240 trường hợp của tỉnh Quảng Nam còn
tồn đọng chưa giải quyết được có 56 trường hợp thuộc các huyện vùng núi đi
lại khó khăn như Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây Giang, Tiên Phước…Do đó,
địa phương ổn định, kinh tế phát triển, giao thông đảm bảo thì sẽ có điều kiện
thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng hơn (huyện Thăng Bình, thành phố Tam Kỳ, Hội An...).
29
Tiểu kết chương
Thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng là một quá trình phức tạp để thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách của Nhà nước. Để thực hiện được tốt chính sách này
chúng ta cần phải nắm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong luận văn này,
chương 1 đã đề cập đến một số cơ sở lý luận về thực hiện chính sách chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Luận văn
cũng phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là những luận
chứng khoa học làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh
Quảng Nam ở chương 2.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ DANH HIỆU
VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
TẠI TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình tỉnh Quảng Nam
Theo báo cáo giới thiệu về địa phương thì Quảng Nam là một tỉnh
thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, là vùng đất giàu truyền thống văn hóa
với hai di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Quảng
Nam còn là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú
cho đất nước, là cái nôi căn cứ địa cách mạng, làm bàn đạp tiến quân vào giải
phóng Sài Gòn khi qua Đèo Hải Vân. Với diện tích 10,438 km2 và dân số trung
bình hơn 1.480 triệu người (2015), Quảng Nam đứng thứ 6 về diện tích, thứ 19
về dân số trong số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Mật độ dân số là 142
người/km2 (đứng thứ 45/63) so với 277 người/km2 của cả nước. Năm 2008,
Quảng Nam là tỉnh đầu tiên của duyên hải Nam Trung Bộ có 2 thành phố trực
thuộc tỉnh (Tam Kỳ, Hội An).
Quảng Nam cách thủ đô Hà Nội 820 km về phía Nam, cách thành
phố Đà Nẵng 60 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 900 km về
phía Bắc theo đường Quốc lộ 1A. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế và
thành phố Đà Nẵng, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía
Tây giáp tỉnh Sekong (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào), phía Đông
giáp Biển Đông. Quảng Nam có 18 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 2
thành phố, 1 thị xã và 15 huyện với 244 xã/xã/thị trấn: 2 thành phố: Tam Kỳ
và Hội An, huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Núi Thành,
Hiệp Đức, Nông Sơn, Đại Lộc, Nam Giang, Tây Giang, Phú Ninh, Phước
31
Sơn, Tiên Phước, Đông Sơn, Nam Sơn. Tỉnh lỵ của Quảng Nam đặt tại thành
phố Tam Kỳ.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 10.438 km2. Địa hình thấp dần
từ Tây sang Đông và chia làm 3 vùng: vùng núi phía Tây, trung du ở giữa và
đồng bằng ven biển phía Đông. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nhiệt độ trung bình năm trên 25oC, lượng mưa trung bình hàng năm
đạt 2.000-2.500mm với hơn 70% tập trung vào 3 tháng mùa mưa (tháng 10,
11 và 12). Vu Gia Thu Bồn và Tam Kỳ là hai lưu vực sông chính.
Diện tích lưu vực Vu Gia và Thu Bồn (bao gồm một phần lưu vực
thuộc tỉnh Kon Tum, Quảng Ngãi, thành phố Đà Nẵng là 10,350 km², là 1
trong 10 hệ thống sông có diện tích lưu vực lớn nhất Việt Nam và lưu vực
sông Tam Kỳ là 735 km². Các sông bắt nguồn từ sườn đông của dãy Trường
Sơn, chảy chủ yếu theo hướng Tây-Đông và đổ ra biển Đông tại cửa Hàn (Đà
Nẵng), cửa Đại (Hội An) và An Hòa (Núi Thành). Ngoài hai hệ thống sông
trên, sông Trường Giang có chiều dài 47 km chảy dọc ven biển theo hướng
Bắc - Nam kết nối hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn và Tam Kỳ. Do địa hình
đồi dốc và lượng mưa lớn nên mạng lưới sông ngòi của tỉnh Quảng Nam khá
dày đặc. Mật độ sông ngòi trung bình là 0.47 km/km² cho hệ thống Vu Gia -
Thu Bồn và 0.6 km/km² cho các hệ thống sông khác.
Các sông có lưu lượng dòng chảy lớn, đầy nước quanh năm. Lưu lượng
dòng chảy trung bình năm của sông Vu Gia (tính đến thị trấn Thạnh Mỹ với
diện tích lưu vực 1,850 km²) là 127 m3/s, của sông Thu Bồn (tính đến Nông
Sơn với diện tích lưu vực 3,130 km²) là 281 m3/s. Chế độ dòng chảy của sông
ngòi có sự phân mùa rõ rệt. Dòng chảy 3 tháng mùa lũ (tháng 10, 11, 12)
chiếm 65 - 70% tổng dòng chảy cả năm trong khi dòng chảy vào mùa kiệt (từ
tháng 2 đến tháng 8) rất thấp. Hai tháng 1 và 9 là các tháng chuyển tiếp với
dòng chảy thất thường. Lưu lượng cực đại của Thu Bồn tại Nông Sơn là
32
10,600 m3/s và lưu lượng tối thiểu đo được là 15.7 m3/s trong khi đó lưu
lượng cực đại của Vu Gia tại Thạnh Mỹ là 4,540 m3/s và cực tiểu là 10.5 m3/s.
Lưu lượng lớn vào mùa mưa và thấp vào mùa khô là nguyên nhân chính gây
nên lũ lụt và hạn hán trong vùng.
Tài nguyên nước phong phú là tiền đề để phát triển thủy điện trên địa
bàn. Tính đến 2015, trên địa bàn Quảng Nam có 8 dự án thủy điện có công
suất lớn (trên 100 MW) và 35 thủy điện có công suất nhỏ. Nhiều nhà máy
thủy điện công suất lớn như Sông Tranh 2, Đăk Mi 4, A Vương, Sông Bung
2, Sông Bung 4, Sông Kôn 2... đã và đang được xây dựng góp phần cung cấp
điện cho nhu cầu ngày càng tăng của cả nước.
Rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh là kiểu sinh thái chủ đạo của
Quảng Nam. Quảng Nam là tỉnh giàu tiềm năng rừng, rừng trước đây là nơi
thuận lợi cho thực hiện chiến tranh du kích và lập căn cứ cách mạng. Hiện
nay, do bị khai thác quá mức trong một thời gian dài nên diện tích rừng
nguyên sinh còn ít. Việc đẩy mạnh trồng rừng trong những năm gần đây đã
tăng diện tích đất có rừng của Quảng Nam lên hơn 55% vào năm 2014. Đây
là một trong những địa phương có diện tích đất có rừng cao nhất cả nước.
Rừng đặc dụng Sông Thanh là khu bảo tồn lớn nhất tỉnh, nơi mà các động vật
hoang dã khu vực Trung Trường Sơn đang được bảo tồn. Nhân sâm Ngọc
Linh là cây dược liệu quý phân bố chủ yếu ở độ cao trên 1,000 m của núi
Ngọc Linh.
Quảng Nam có đường bờ biển dài 125 km, ven biển có nhiều bãi tắm
đẹp, nổi tiếng, như: Hà My (Điện Bàn), Cửa Đại (Hội An), Bình Minh (Thăng
Bình), Tam Thanh (Tam Kỳ), Bãi Rạng (Núi Thành)... Cù Lao Chàm là cụm
đảo ven bờ với hệ sinh thái phong phú được công nhận là khu dự trữ sinh
quyển của thế giới. Tính đến hết năm 2010, dân số Quảng Nam là 1.435.629
người, với mật độ dân số trung bình là 139 người/km². Thành phần các dân
33
tộc ở Quảng Nam theo cuộc tổng điều tra dân số ngày 01.04.2009, có 34 tộc
người cùng sinh sống trên địa bàn Quảng Nam trong đó đông nhất là người
Kinh (91,1%), người Cơ Tu (3,2%), người Xơ Đăng (2,7%), và người Gié
Triêng (1,3%). 29 tộc người còn lại chỉ chiếm 0,9% dân số.
Việc triển khai chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt
Nam anh hùng” tại tỉnh Quảng Nam trong những năm qua cơ bản đạt được
chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nhiều bà mẹ đủ điều kiện, tiêu chuẩn được Nhà nước
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng” và được nhân dân, xã hội thừa nhận, tôn vinh. Tuy nhiên, hiện ở Quảng
Nam còn gần 240 trường hợp tồn đọng chưa được giải quyết chủ yếu tập
trung và các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây Giang, Tiên Phước và Cù
Lao Chàm. Do điều kiện đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt ở các huyện này
nên việc tuyên truyền, phổ biến chính sách trở nên khó khăn, người dân khó
có thể tiếp cận chính sách nên khi triển khai thì chưa đảm bảo đúng thời gian
quy định. Đội ngũ công chức gồm cả ngành thi đua khen thưởng, ngành lao
động, thương binh và xã hội còn trẻ, luôn thay đổi hoặc thuyên chuyển công
tác, ít kinh nghiệm, hiểu biết lịch sử kháng chiến, kiến thức chung về địa lý,
văn hóa, kinh tế xã hội vùng miền đủ để đánh giá, hướng dẫn người dân kê
khai hồ sơ đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ
Việt Nam anh hùng”.
2.2. Khái quát chung về thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Quảng Nam là một trong số các tỉnh có số lượng bà mẹ được
phong tặng, truy tặng nhiều nhất cả nước. Theo số liệu báo cáo thống kê về
việc thực hiện chế độ Bà mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh và của Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam trong việc thực hiện Pháp lệnh
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tính đến ngày
34
26/3/2018 Quảng Nam hiện có 15.039 bà mẹ trong đó còn sống 812 bà mẹ
(tổng số bà mẹ thực hiện Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994 và Nghị định 176-CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 là
7.609) [3].
Riêng việc thực hiện Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng năm 2013, Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5
năm 2013 của Chính phủ, Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-
BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Quốc
phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì tỉnh Quảng Nam có 7.430
bà mẹ. Qua theo dõi quá trình thực hiện chính sách ưu đãi danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng của các tỉnh, thành phố, trực thuộc
Trung ương như thành phố Hà Nội, tỉnh Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định,
Lào Cai, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Quảng Trị… thì tỉnh Quảng Nam là một
trong những tỉnh làm tốt chính sách này, góp phần giáo dục truyền thống, tạo
dựng được niềm tin, sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và toàn xã hội.
Các bà mẹ còn sống được sự quan tâm chu đáo của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ, của chính quyền các cấp của tỉnh Quảng Nam, an ủi phần nào sự
mất mát, hy sinh lớn lao của những người thân trong gia đình vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và nghĩa vụ quốc tế. Những gia đình,
thân nhân của các bà mẹ được truy tặng cũng được sự quan tâm của toàn xã
hội, được thăm hỏi đầy đủ chu đáo vào dịp lễ, dịp Tết, được tạo điều kiện giải
quyết việc làm, đi học, hỗ trợ phát triển kinh tế…
Tuy nhiên, do còn vướng mắc trong quy định về đối tượng, tiêu chuẩn,
thủ tục hồ sơ dẫn đến cả nước vẫn còn trên 4500 trường hợp chưa được Nhà
nước phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng, trong đó tỉnh Quảng Nam còn hơn 240 bà mẹ, đó là một bất cập cần
phải được giải quyết, điều chỉnh. [3].
35
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam
2.3.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Thời gian qua, tỉnh Quảng Nam đã ban hành nhiều kế hoạch tổ chức
thực hiện triển khai chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng trên địa bàn. Căn cứ vào các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định
và văn bản chỉ đạo hàng năm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân tỉnh, hướng dẫn của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh, Ban Thi
đua – Khen thưởng tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố đã xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong đó, giao cho các ngành của huyện, thị xã,
thành phố và các cơ quan có liên quan tham gia thực hiện công tác triển khai
các nội dung của chính sách trên cho từng giai đoạn.
Ủy ban nhân dân cấp huyện, thị xã tiếp tục triển khai xây dựng kế
hoạch cho các xã, phường, thị trấn thực hiện cụ thể nội dung của chính sách.
Các kế hoạch cấp xã được xây dựng chi tiết, từng bước thực hiện chính sách
trên để đảm bảo tính nghiêm minh, nhân ái của chính sách. Các xã, phường,
thị trấn và các cơ quan liên quan đã triển khai thực hiện đúng với các nội
dung trong các kế hoạch đảm bảo kịp tiến độ, thời gian qui định và có hiệu
quả. Nhìn chung, công tác xây dựng kế hoạch triển khai chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã được thực hiện từ cấp
tỉnh đến cấp xã tương đối chặt chẽ và cụ thể.
2.3.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Để chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng được triển khai chính xác đến đúng người được thụ hưởng chính sách,
36
Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức với nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến
khác nhau như tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng Báo
Quảng Nam, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, tổ chức như hội nghị triển
khai, hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2012, Pháp lệnh ưu đãi người có công năm
2015; Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2012, Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ
Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Nghị định
số 20/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 và Nghị định số 99/2018/NĐ-
CP ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp
ưu đãi đối với người có công cách mạng đến các sở ngành liên quan của tỉnh
Quảng Nam đến chính sách người có công.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh, Trung
tâm trợ giúp pháp lý tỉnh phối hợp với Phòng Lao động – Thương binh và Xã
hội các huyện, thị xã, các xã tổ chức các buổi tiếp dân, tuyên truyền, trợ giúp
pháp lý xuống các xã và các điểm dân cư ở các tổ để cho nhân dân được biết.
Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh và các địa phương xây dựng chuyên mục
tuyên truyền về pháp luật, chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng.
Ngoài ra, công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn được lồng ghép ở các buổi sinh
họat chi bộ, họp dân ở các khu dân cư. Các đoàn thể cũng tham gia các hoạt
động tổ chức tuyên truyền về chính sách trên trong các cuộc họp, hội nghị của
tổ chức mình như Hội Cựu chiến binh tỉnh, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hội Nông dân Việt Nam tỉnh…
37
Nhìn chung, việc tuyên truyền về chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua triển
khai rõ ràng, đồng bộ đạt kết quả tương đối tốt. Từ khảo sát ở bảng 2.1 cho
thấy, người dân nhận thức tương đối đầy đủ về chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tuy nhiên, các nội dung chính sách
về hỗ trợ nhà ở chưa nắm đầy đủ về nội dung (nhà tình nghĩa hay nhà đại
đoàn kết).
Bảng 2.1. Đánh giá kết quả người dân biết về chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng (Khảo sát 50 người)
STT Nội dung Mức độ hài lòng Số phiếu
01 Điều dưỡng 47 94%
02 Hỗ trợ về y tế 50 100%
03 Hỗ trợ về nhà ở (nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn 30 60%
kết)
35 70% 04 Trợ cấp đột xuất
Kết quả khảo sát tại bảng 2.2 cho thấy, các hình thức tuyên truyền tại
tỉnh Quảng Nam đang thực hiện đạt hiệu quả cao. Theo đó, người dân rất hài
lòng với các kênh truyền hình, các phương tiện thông tin đại chúng tuyên
truyền về chính sách này. Tuy nhiên, hình thức mời cán bộ về báo cáo, phổ
38
biến chế độ chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng” còn có mức hài lòng thấp nhất. Điều này đặt ra vấn đề rằng tỉnh Quảng
Nam cần chú trọng hơn nữa trong công tác mời cán bộ, báo cáo viên phổ
biến chính sách, những người hướng dẫn, cầm tay chỉ việc trong thực hiện;
đặc biệt là năng lực chuyên môn và năng lực thuyết phục của cán bộ ngành
Thi đua - Khen thưởng và ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đối với
Nhân dân.
Bảng 2.2. Đánh giá ý kiến phản hồi của người dân về các hình thức
tuyên truyền về chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
“Bà mẹ Việt Nam anh hùng”
(Khảo sát 50 người)
STT Nội dung Số phiếu Mức độ hài lòng
01 Tuyên truyền thông qua các buổi hội họp 40 80%
02 50 100%
Tuyên truyền qua truyền hình, phương tiện thông tin đại chúng báo, đài
03 Mời cán bộ về báo cáo 30 60%
04 Hình thức khác (băng rôn, khẩu hiệu) 35 70%
2.3.3. Thực trạng phân công, phối hợp thực hiện chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Triển khai chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng đến người dân là công việc phức tạp cần sự nhiệt tình, trách nhiệm,
chính xác và công bằng. Do đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phân công
của cơ quan chủ trì thực hiện chính sách cụ thể là Ủy ban nhân dân tỉnh
39
Quảng Nam là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, phải có sự phối hợp và tham
gia của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp. Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy
ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan điều hành ở
từng cấp. Tuy nhiên, các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy ban nhân
dân các cấp cần thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhau, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị xã hội như Hội cựu chiến
binh, Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên… phối hợp trong việc tổ
chức thực hiện chính sách này. Ủy ban nhân dân tỉnh phân công cho Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam, Ban Thi đua – Khen thưởng
tỉnh là cơ quan giúp việc và là cơ quan thường trực thực hiện chính sách. Hai
cơ quan này chịu trách nhiệm chính từ việc hướng dẫn, thẩm định hồ sơ, thủ
tục kê khai, kiểm tra, rà soát, lập danh sách các đối tượng, quản lý hồ sơ,
không được trùng lặp và bỏ sót đối tượng, lập dự toán, lập thủ tục chi trả các
chế độ trợ cấp, thống kê, báo cáo... [2].
Phối hợp Sở Tài chính tỉnh xây dựng dự toán, cấp dự toán đảm bảo chi
trả các chế độ cho các đối tượng chính sách và đặc biết đối với Bà mẹ Việt
Nam anh hùng. Phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh, Đài Phát
thanh và Truyền hình tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh, các cơ quan có liên quan để tổ
chức phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách và các văn bản pháp
luật liên quan đến chính sách người có công cho nhân dân trên phạm vi toàn
tỉnh. Tùy theo tình hình thực tiễn để bố trí, luân chuyển cán bộ, công chức
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, ngành Thi đua - Khen thưởng từ
tỉnh đến xã đảm bảo đủ số lượng và chất lượng do Sở Nội vụ phối hợp xây
dựng tổ chức biên chế, điều động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh,
các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh phối hợp về công tác phổ biến, tuyên
truyền và vận động các hội viên, đoàn viên, các đối tượng chính sách và
nhân dân về các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước có liên quan đến
40
chính sách người có công, chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng; đồng thời trực tiếp tham gia vào các hoạt động đền ơn
đáp nghĩa đối với các đối tượng chính sách như: Phụng dưỡng, chăm sóc
những bà mẹ được phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng và những người được thụ hưởng của chính sách này.
Để việc triển khai tổ chức thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng từ tỉnh đến xã thuận lợi, hiệu quả cao, không
phiền hà, nhũng nhiễu đến các đối tượng chính sách thì mỗi ngành, mỗi tổ
chức cũng như từng cá nhân thành viên phải nghiêm túc thực thi công vụ,
chấp hành nghiêm sự phân công, phối hợp gắn với trách nhiệm công việc cụ
thể, rõ ràng.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, công tác phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh, các đoàn thể - chính trị xã hội với Ủy ban nhân dân tỉnh,
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện và Ủy
ban nhân dân các xã đôi lúc còn chưa được chặt chẽ, còn trùng nhau, chưa
thống nhất ở một số nội dung như kinh phí xây dựng sửa chữa nhà, nhà xây
mới, điều dưỡng, quà thăm hỏi nhân các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm của đất
nước cho các đối tượng chính sách, chỉnh trang phần mộ của các bà mẹ được
đã từ trần…
Kết quả khảo sát bảng 2.3 cho thấy, người dân đánh giá cán bộ thờ ơ,
không hướng dẫn chu đáo chiếm đến 20% số lượng người được phỏng vấn.
Điều này cho thấy, đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng chưa làm hài lòng người dân. Nguyên
nhân chủ yếu là do cán bộ, công chức ngành Lao động – Thương binh và Xã
hội, ngành Thi đua - Khen thưởng luôn thay đổi không ổn định hoặc mới
được luân chuyển từ bộ phận khác về chưa có kinh nghiệm, dẫn đến văn bản
41
nắm chưa được kỹ càng, cũng như thái độ, đạo đức công vụ và tinh thần phục
vụ Nhân dân chưa cao. Sự hiểu biết về kết quả quá trình giải quyết những
trường hợp trước đây, về lịch sử vùng miền, lịch sử hình thành và phát triển
của địa phương, cao trào cách mạng của từng giai đoạn dẫn đến hạn chế trong
việc hướng dẫn Nhân dân kê khai hoặc trả lời cho người dân hiểu và thực
hiện đúng quy định của pháp luật.
Bảng 2.3. Kết quả đánh giá của người dân về việc thực hiện chính sách
danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” của cán bộ
thực hiện chính sách (Khảo sát 50 người)
STT Nội dung Số phiếu Đồng ý
01 Cán bộ chưa quan tâm đến hướng dẫn chu đáo 10 20%
02 Cán bộ xã hướng dẫn tận tình, chu đáo 35 70%
03 Không biết/ Không trả lời 05 10%
2.3.4. Thực trạng việc điều chỉnh giải pháp thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đã phát
hiện những vấn đề bất cập, khó khăn, những vướng mắc trong việc tổ chức
thực hiện chính sách, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã điều chỉnh một số
giải pháp thực hiện chính sách này.
Trong nhiều năm, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo thực hiện việc chuyển
tiền trợ cấp, tiền quà nhân ngày lễ, ngày Tết, ngày thương binh liệt sĩ 27/7 do
bưu điện để chi trả đến các đối tượng thụ hưởng chính sách người có công nói
chung và chế độ về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
nói riêng. Nhưng cũng có lúc, có trường hợp ở vùng sâu vùng xa thì phải chi
trả trực tiếp do điều kiện đường sá hay do hạ tầng dịch vụ thông tin, truyền
42
thông hạn chế như huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây Giang... Chính vì
vậy, trong quá trình thực hiện việc chi trả còn chậm do khác quan nhưng vẫn
còn có trường hợp biểu hiện tiêu cực khi chi trả trực tiếp. Do đó, Ủy ban nhân
dân tỉnh cũng đã thay đổi giải pháp này bằng cách giao cho Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh và Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp
huyện phân công công chức của Sở, Phòng đến các điểm kiểm tra, giám sát
việc chi trả trực tiếp cho các đối tượng tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường,
thị trấn. Giải pháp mới này được các đối tượng hưởng thụ chính sách đồng
tình, ủng hộ [2].
Đối với những nơi vùng sâu vùng xa, giao thông không thuận tiện, Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Nam cũng tạo điều kiện bổ sung kèm theo chế độ
công vụ như hỗ trợ đi lại đối với công chức, viên chức, công tác phí khi thực
hiện chính sách ở các huyện khó khăn như Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây
Giang, Tiên Phước cao hơn những nơi đi lại thuận tiện, triển khai dễ dàng như
huyện Thăng Bình, Hội An, Tam Kỳ…
Tùy theo điều kiện tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, Ủy ban nhân dân
tỉnh tỉnh Quảng Nam đã từng bước thay đổi mức phụng dưỡng theo hướng
tăng thêm cho các mẹ Việt Nam anh hùng bên cạnh chế độ của Nhà nước quy
định. Điều đó thực sự mang lại cho các Bà mẹ Việt Nam anh có cuộc sống ổn
định về vật chất và tinh thần, đảm bảo công tác chăm sóc gia đình người có
công với cách mạng luôn luôn được quan tâm hoặc những thân nhân của các
bà mẹ được hưởng ưu đãi khác của Nhà nước khi đối với các bà mẹ từ trần
như ưu tiên giải quyết việc làm, đi học, đi xuất khẩu lao động, chữa bệnh...
2.3.5. Thực trạng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra nhằm đảm bảo chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng được tiến
43
hành đồng bộ, kịp tiến độ, đúng thời gian, mục tiêu đề ra và đúng quy định
của pháp luật. Để duy trì tốt công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sau khi ban hành
kế hoạch và các văn bản chỉ đạo, Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh, Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh Quảng Nam và
các cơ quan được phân công thực hiện chính sách ở cấp tỉnh cũng như cấp
huyện thường xuyên đôn đốc, theo dõi Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị
trấn tổ chức triển khai thực hiện các văn bản, kế hoạch của tỉnh, huyện để
đảm bảo thực hiện đúng các công việc cụ thể và tiến độ theo kế hoạch đã
được thông qua. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh phối hợp với Sở
Tài chính, Thanh tra tỉnh kiểm tra, giám sát công tác phê duyệt quyết toán,
quản lý, sử dụng ngân sách chi trả cho các đối tượng được thụ hưởng trong
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng dưới sự
giám sát của Mặt trận, các đoàn thể - chính trị xã hội và Nhân dân trên địa bàn
toàn tỉnh Quảng Nam.
2.3.6. Đánh giá tổng kết thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Ban Thi
đua – Khen thưởng tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã theo từng
giai đoạn cụ thể đã tiến hành tổng kết đánh giá việc tổ chức triển khai thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
trên địa bàn tỉnh vào dịp 27/7 hàng năm hoặc vào dịp 22/12 cuối năm. Trong
các hội nghị tổng kết đều có đánh giá khen thưởng, biểu dương, khuyến
khích, động viên, đến tập thể, đơn vị, cán bộ, công chức đã trực tiếp thực
hiện, phối hợp đạt được kết quả xuất sắc khi triển khai tổ chức thực hiện. Bên
cạnh đó, cũng chỉ ra những địa phương chưa thực hiện đúng đầy đủ các nội
dung của chính sách, những địa phương còn để có trường hợp đơn thư của
44
công dân khiếu nại, khiếu kiện và tố cáo. Tổng hợp những bất cập trong quấ
trình thực hiện để kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định trong chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Bảng 2.4. Đánh giá về thực hiện các giải pháp nhằm làm tốt chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
(Khảo sát 50 người)
STT Nội dung Số phiếu Mức độ hài lòng
01
40 80% Xây dựng kiện toàn bộ máy thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
02 Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao 45 90% nhận thức cho các đối tượng
03 45 90% Tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát về việc thực hiện chính sách
Trong Bảng 2.4 đã chỉ ra việc đánh giá của người dân về các giải pháp đã
triển khai thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng là tốt. Thực tế, tại tỉnh Quảng Nam cho thấy công tác đánh giá
tổng kết đã giúp cho các cơ quan chủ trì thực hiện chính sách thấy được
những hạn chế, bất cập trong việc triển khai thực hiện chính sách danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nguyên nhân của sự tồn đọng
240 trường hợp chưa được đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Đồng thời, đó cũng là những bài học kinh nghiệm cho các cơ quan tổ
chức thực hiện chính sách này để từ đó có những điều chỉnh về các giải pháp
45
tổ chức thực hiện chính sách này tốt hơn trong thời gian tới. Hơn thế nữa,
giúp cho cơ quan nhà nước ở địa phương có những đề xuất, kiến nghị với các
cấp có thẩm quyền để điều chỉnh, bổ sung chính sách nhằm giải quyết dứt
điểm hơn 240 trường hợp còn vướng mắc trong nhân dân.
Trong quá trình thực hiện, do còn vướng mắc quy định về đối tượng,
tiêu chuẩn, thủ tục hồ sơ dẫn đến tỉnh Quảng Nam còn hơn 240 bà mẹ (cả
nước vẫn còn trên 4500 trường hợp) chưa được Nhà nước phong tặng, truy
tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một bất
cập cần phải được giải quyết, điều chỉnh và tránh phát sinh thêm khi thực hiện
ở những năm tiếp theo. Những trường hợp tồn đọng nêu trên tại tỉnh Quảng
Nam và cả nước xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, Về giao cơ quan tham mưu thực hiện chính sách:
Việc giao Bộ Quốc phòng chủ trì, xây dựng và tham mưu Chính phủ
ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng 2012 là chưa đầy đủ. Bởi vì, Bộ Quốc phòng không phải
là cơ quan quản lý hồ sơ liệt sỹ, không quản lý chế độ người có công với cách
mạng nói chung, liệt sỹ và những bà mẹ có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đề
nghị danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng nói riêng nên
việc thu thập thông tin, tính xác thực về liệt sỹ, tình hình thực hiện chế độ liệt
sỹ, hoàn cảnh gia đình liệt sỹ chưa đầy đủ dẫn đến việc tham mưu Thủ tướng
Chính phủ, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP còn nhiều
điểm chưa sát với thực tiễn. Thêm vào đó, Bộ Quốc phòng không phải là cơ
quan quản lý Nhà nước về thi đua khen thưởng nên việc hướng dẫn đối tượng,
tiêu chuẩn, thủ tục lập hồ sơ đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo quy định của pháp luật còn nhiều
điểm chưa hợp lý và thiếu (trước đây Nghị định 176-CP ngày 23 tháng 10
46
năm 1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994 do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng tham mưu, hồ sơ đồng gửi 03 cơ quan phối
hợp trình Thủ tướng Chính phủ). Chính vì vậy, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh
Quảng Nam cũng không có sự phối hợp nào trong quá trình thực hiện Nghị
định số 56/2013NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà
nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Thông tư Liên bộ số 03/2014/TTLB-
BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm 2014.
Thứ hai, Về đối tượng (bao gồm cả tiêu chuẩn)
Tại Mục b, Mục đ, Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày
22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định về đối tượng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng:
“…b) Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sỹ và 1 con là thương binh suy
giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
…đ) Có 1 con là liệt sĩ và bản thân là thương binh suy giảm khả năng
lao động từ 81 % trở lên.
Người con là liệt sỹ là người đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng
“Tổ quốc ghi công”, bao gồm con đẻ, con nuôi theo quy định của pháp luật.
Người chồng là liệt sỹ là người đã được Thủ tướng Chính phủ tặng
Bằng “Tổ quốc ghi công” mà bà mẹ là vợ của người đó.
Thương binh quy định tại Điểm b, Điểm đ Khoản 1 Điều này là người đã
được cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận thương binh, bị suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên, bao gồm cả người còn sống và người đã từ trần.
Trường hợp bà mẹ có chồng, con tham gia hàng ngũ địch nhưng bà mẹ
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì vẫn được xem xét
47
tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước ‘‘Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”. [10]
Trường hợp quy định tại Mục b, Khoản 1, Điều 2 Nghị định số
56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 chỉ quy định người mẹ có 01 con
là liệt sỹ và 01 con là thương binh trên 81% đủ tiêu chuẩn đề nghị danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhưng không quy định đối với
trường hợp bà mẹ có 02 con là thương binh trên 81% (những thương binh này
nếu chết do vết thương tái phát thì được công nhận là liệt sỹ).
Qua quá trình triển khai thực tế, tại tỉnh Quảng Nam còn có rất nhiều
đối tượng mà Nghị định 56/2013/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP chưa bao quát đến. Những đối tượng
này cũng được thân nhân làm thủ tục đề nghị danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng nhưng chưa được Nhà nước ghi nhận, đó là:
- Bà mẹ là người nước ngoài lấy chồng Việt Nam hiện đang sinh sống,
đã từ trần tại Việt Nam (bà mẹ là người Việt gốc Hoa, người Lào,
Campuchia);
- Bà mẹ là người Việt Nam có quốc tịch nước ngoài (hai quốc tịch trở
lên), có một con độc nhất hoặc 02 con đẻ là liệt sỹ;
- Bà mẹ có chồng là liệt sỹ nhưng không có con với người đó, lại có con
duy nhất ngoài giá thú là liệt sỹ;
- Bà mẹ có nhiều con người con trong đó con đi lính Việt Nam Cộng
hòa và ít nhất có 02 con thoát ly đi cách mạng. Hai con đi tham gia cách mạng
hy sinh được công nhận là liệt sỹ, được cấp Bằng Tổ quốc ghi công.
- Bà mẹ có chồng trước là liệt sỹ và chồng sau cũng là liệt sỹ nhưng
chưa có con chung với cả 02 chồng;
- Bà mẹ có 02 con thương binh trên 81%;
48
- Bác, cô, dì, thím, mợ có công nuôi dưỡng cháu là liệt sỹ khi mồ côi bố
mẹ từ nhỏ (những người đủ điều kiện nhận liệt sỹ là con nuôi theo quy định
của pháp luật).
Thứ ba, tại Khoản 4, Điều 3 Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-
BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng 10 năm 2014 quy định về đối tượng đề nghị
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong đó có mẹ kế:
4. Trường hợp mẹ đẻ của 02 liệt sĩ đã chết khi 02 liệt sĩ đều chưa đến
tuổi thành niên, mẹ kế có công nuôi dưỡng cả 2 liệt sĩ và đã được hưởng trợ
cấp tiền tuất của 2 liệt sĩ thì mẹ kế được xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. [7]
Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính
phủ không quy định trường hợp người mẹ kế được làm thủ tục đề nghị phong
tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhưng
trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP lại quy
định đối tượng này. Trong tiêu chuẩn lại quy định mẹ kế lại phải nuôi 02 con
chồng trở lên mới được đề nghị. Điều này đã gây bức xúc trong xã hội và
nhân dân đối với những bà mẹ chỉ nuôi 01 con chồng trong trường hợp liệt sỹ
là con độc nhất của chồng bà mẹ (không có con thứ 2) thì không được đề nghị
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng. Hiện quảng Nam có trên 20 trường hợp tương tự như trên chưa
được giải quyết.
Thứ tư, Về thủ tục
Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính
phủ và Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10
tháng 10 năm 2104 chưa quy định đối tượng, thủ tục đối với:
- Những bà mẹ của liệt sỹ có đủ tiêu chuẩn nhưng đã và đang định cư ở
nước ngoài hoặc đã từ trần ở nước ngoài.
49
- Những bà mẹ từ Nam vĩ tuyến 17 từ Quảng Trị trở vào (bà mẹ có
nhiều con người con trong đó con đi lính Việt Nam Cộng hòa và ít nhất có 02
con thoát ly đi cách mạng. Hai con đi tham gia cách mạng hy sinh được công
nhận là liệt sỹ, được cấp Bằng Tổ quốc ghi công). Có trường hợp bà mẹ có 02
con đi tham gia cách mạng hy sinh được công nhận là liệt sỹ, được cấp Bằng
Tổ quốc ghi công nhưng đồng thời 02 con đi lính Cộng hòa trở thành ác ôn,
Quảng nam có khoảng 10 trường hợp như vậy.
- Những bà mẹ nuôi: Theo phong tục tập quán của Việt Nam trước đây,
việc cho, nhận con nuôi chỉ bằng sự đồng ý của bố mẹ hai bên nên không có
căn cứ để chứng minh là mẹ nuôi, con nuôi. Vì vậy, bổ sung những thủ tục để
công nhận bà mẹ nhận liệt sỹ là con nuôi trước đây theo quy định Luật con
nuôi mới được ban hành năm 2010 là không thực hiện được, căn cứ nào để
xác nhận mà bà mẹ đó là mẹ nuôi của liệt sỹ theo quy định tại Khoản 4, Điều
3 Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng
10 năm 2104.
- Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính
phủ và Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10
tháng 10 năm 2104 có quy định trong hồ sơ đề nghị phong tặng, truy tặng
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng phải có biên bản họp
ủy quyền cho người đứng tên kê khai cho bà mẹ nhưng không quy định trong
trường hợp thân nhân không thống nhất ủy quyền thì tiến hành như thế nào
mặc dù bà mẹ đủ điều kiện, tiêu chuẩn.
Thứ năm, Về chế độ
Việc thực hiện chế độ giữa bà mẹ được phong tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng khác với bà mẹ được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cụ thể:
Tại Khoản 1, Điều 1, Nghị định số 20/2015/ NĐ-CP về mức trợ cấp,
phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng quy định: “Mức chuẩn
50
để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách
mạng theo quy định tại Nghị định này là 1.318.000 đồng.”.[11]
Bà mẹ được phong tặng thì được hưởng trợ cấp hàng tháng là
1.118.000đ, bà mẹ được truy tặng thì được hưởng trợ cấp một lần là:
28.340.000đ. Điều quan trọng là các bà mẹ được phong tặng danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tuổi đã quá cao, không còn sống
được bao nhiêu lâu nữa. Hơn nữa, theo Nghị định số 99/2018/NĐ-CP ngày 12
tháng 7 năm 2018 của Chính phủ thì mà mẹ được hưởng phụ cấp hàng tháng
so sánh mức hưởng trợ cấp hàng tháng với mức trợ cấp một lần khác nhau,
mức chi trả năm 2015 cũng khác nhau. Bà mẹ Việt Nam anh hùng (hưởng trợ
cấp tiền tuất hàng tháng theo mức trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân liệt sỹ
quy định tại mục 3 Nghị định số 99/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2018
của Chính phủ là 1.270.000 đồng [11]
Thứ sáu, Các bà mẹ còn sống tùy theo hoàn cảnh cụ thể được tặng 01
ngôi nhà tình nghĩa và có người chăm sóc nếu neo đơn. Trong trường hợp bà
mẹ có con cháu ở cùng phụng dưỡng không cần có người chăm sóc và được
hưởng chế độ này (người chăm sóc bà mẹ được Nhà nước chi trả), đến khi Bà
mẹ Việt Nam anh hùng mất, con cháu cũng không được quyền sử dụng ngôi
nhà đó mà có thể bị Nhà nước thu lại sử dụng vào mục đích công cộng khác
mặc dù ngôi nhà đó có thể đã xây trên đất của gia đình, dòng họ bà mẹ (huyện
Nam Trà My, Tây Giang, Thăng Bình, Tam Kỳ).
Thứ bảy, Do đặc điểm vùng miền nên trong số hơn 4500 bà mẹ trên cả
nước trong đó có hơn 240 bà mẹ của tỉnh Quảng Nam chưa được khen thưởng
phần lớn rơi vào các xã, huyện vùng sâu, vùng xa như huyện Bắc Trà My,
Nam Trà My, Tiên Phước, Tây Giang (qua báo cáo tỉnh Quảng Nam có hơn
56 trường hợp tồn đọng tập trung ở các huyện này). Việc triển khai thực hiện
ở các huyện này chưa được tiến hành đồng bộ, gặp nhiều bất cập do điều kiện
51
đường sá đi lại khó khăn, mạng lưới thông tin kém. Thêm vào đó, do yếu tố
lịch sử, cao trào cách mạng, tình hình tương quan lực lượng giữa ta và địch
khác nhau dẫn đến những căn cứ lịch sử ở từng huyện, thị xã, xã, phường, thị
trấn khác nhau nên khi xét danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng cũng không giống nhau (do đặc điểm lịch sử cách mạng phức tạp, tỉnh
Bình Định, Quảng Trị phải bổ sung thêm cơ quan công an vào cơ quan thẩm
định hồ sơ danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng để xác
minh về thái độ chính trị của bà mẹ trước khi đề nghị phong tặng, truy tặng
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo chỉ đạo của Ủy
ban nhân dân tỉnh). [11].
Thứ tám, Về đối tượng hưởng chế độ đối với trường hợp bà mẹ truy
tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng người được
hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của chính sách này.
Tại Khoản 4, Khoản 5, Điều 4, Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-
BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Quốc
phòng và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quy định:
“4. Trường hợp bà mẹ đã từ trần, việc đề nghị truy tặng do người được
gia đình, họ tộc ủy quyền thực hiện, mà người đó không ở nơi bà mẹ cư trú
khi còn sống thì hồ sơ phải có văn bản xác nhận của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội nơi quản lý hồ sơ thương binh, liệt sĩ; văn bản của chính
quyền địa phương nơi bà mẹ cư trú khi còn sống xác nhận về việc chưa lập hồ
sơ đề nghị truy tặng và tình trạng nhân thân của bà mẹ (có mấy con, có tái
giá hay không, thái độ chính trị, việc chấp hành chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước).
5. Đối với bà mẹ được truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng thì khoản tiền một lần và hiện vật khen thưởng được trao
cho người chồng; nếu người chồng đã từ trần thì trao cho con hoặc vợ liệt sĩ
52
thường xuyên giữ trách nhiệm thờ cúng bà mẹ; trường hợp bà mẹ không còn
chồng, con thì trao cho người thân gần nhất chịu trách nhiệm thờ cúng, chăm
sóc phần mộ của bà mẹ, theo đề nghị bằng văn bản của chính quyền cấp xã
nơi bà mẹ cư trú khi còn sống..”.[7].
Quy định như vậy thiếu chặt chẽ đối với trường hợp mà người được ủy
quyền làm thủ tục kê khai, đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng không phải là người đang thờ cúng bà mẹ. Quy định
trên mới chỉ là thủ tục đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, không biết bà mẹ có được phong tặng, truy
tặng hay không mà Ủy ban nhân dân xã có văn bản đề nghị cho người thờ
cúng hưởng chế độ. Ngay cả quy định như vậy thì cũng vẫn vi phạm Luật
Thừa kế vì còn phải xác định mối quan hệ giữa người thờ cúng với những
thân nhân khác của bà mẹ ai gần hơn. [25].
Sau khi có quyết định khen thưởng của Chủ tịch nước, việc chuyển chế
độ cho ai là khó thực hiện, do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh,
thành phố của người kê khai sinh sống hay do Sở Lao động – Thương binh và
Xã hội tỉnh của người đang thờ cúng.
53
Tiểu kết chương
Qua những kết quả, số liệu, thực tế đánh giá, nhấn mạnh sự tác động
đến quá trình triển khai thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn
đi sâu đánh giá trung thực quá trình triển khai, tổ chức thực hiện chính sách
về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam một cách nghiêm túc, đảm bảo nguyên tắc, quy trình quy định
cũng như những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc; đồng thời chỉ ra
những nguyên nhân khuyết điểm trong viêc triển khai tổ chức thực hiện chính
sách người có công trên địa bàn tỉnh. Những vấn đề thực tiễn có vai trò quan
trọng trong việc đề ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhằm
khắc phục những tồn tại, hạn chế, góp phần hoàn thiện về chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng để việc thực hiện chính
sách trên trong phạm vi cả nước nói chung, địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng
được thuận lợi; góp phần thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc
Việt Nam.
54
Chương 3
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
VỀ DANH HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC BÀ MẸ VIỆT NAM
ANH HÙNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 03 tháng 6 năm/1998, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) “Về đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn mới” khẳng định: “Chặng đường hơn nửa thế kỷ qua,
những thành quả to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cách mạng
Việt Nam trong mấy chục năm qua gắn liền với việc tổ chức thực hiện có hiệu
quả phong trào thi đua ái quốc trên phạm vi cả nước”. Chỉ thị số 39-CT/TW
của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến” đẩy
mạnh các hình thức tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về ý
nghĩa, vai trò, tác dụng của các phong trào thi đua và công tác khen thưởng,
khen thưởng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người
có công với cách mạng là động lực phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng - an ninh, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa [4,5].
Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012, Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012 – 2020, đã nêu rõ 05 chủ trương của Đảng ta, cụ thể là:
1. Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
55
2. Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực
của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa
Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và
giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng.
4. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai
trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã
hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Ðồng
thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong
việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội [1].
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về chính sách ưu đãi người có
công nói chung và về Bà mẹ Việt Nam anh hùng nói riêng, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các Pháp lệnh, Nghị định, các bộ, ngành
liên quan ban hành các thông tư quy định chi tiết nhằm đưa chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống, đảm bảo công bằng cho
từng đối tượng trong xã hội được thụ hưởng.
3.2. Một số giải pháp thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến chính sách
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhận thức, trách nhiệm của các
cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng đến việc triển khai thực hiện chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chế độ chính
sách đối với người có công với cách mạng, người tham gia kháng chiến và
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” thể hiện truyền thống văn hóa “Uống nước
56
nhớ nguồn”. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân
dân các cấp của tỉnh trong việc tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả đến công
tác tuyên truyền chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng. Đồng thời, các cơ quan thông tin, báo chí truyền thông của tỉnh Quảng
Nam phối hợp chặt chẽ với các ngành Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh,
Thi đua – Khen thưởng tỉnh, chính quyền các cấp tuyên truyền chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo chiều sâu để mọi
người thấy được sự cống hiến, hy sinh của họ trong sự nghiệp cách mạng và
nghĩa vụ, tình cảm của chúng ta phải thực hiện tốt chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng. Thực hiện đầy đủ, kịp thời, chu đáo các chế độ, chính
sách hiện hành đối với người có công với cách mạng, gia đình người có công.
Tập trung xem xét, giải quyết dứt điểm những trường hợp người tham gia giải
quyết chế độ; cập nhật kịp thời những vướng mắc, bất cập của chính sách;
Tiếp tục đẩy mạnh vận động “Toàn dân chăm sóc thương bệnh binh, gia đình
liệt sĩ và người có công”. Vận động các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp, tổ
chức nhận chăm sóc, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc gia
đình người có công cách mạng có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện về việc
làm, vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao mức thu nhập, cải thiện đời sống
cho các gia đình chính sách. Quan tâm, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến hướng dẫn chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng; nắm bắt tâm tư, tình cảm, đời sống vật chất và tinh thần của
người có công, của Bà mẹ Việt Nam anh hùng và thân nhân, nhằm kịp thời
chia sẻ, động viên thân nhân cùng với gia đình tự nỗ lực phấn đấu vươn lên,
ổn định và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống. Kịp thời động viên,
biểu dương, khen thưởng những người có công với cách mạng, những tập thể,
57
cá nhân có nhiều thành tích trong phong trào thi đua “Toàn dân chăm sóc
thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng”, phụng
dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thực hiện tốt chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi sơ kết, tổng kết của địa
phương…
3.2.2. Tăng cường sự phối, kết hợp giữa các ngành và chính quyền địa
phương các cấp trong thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Để thực hiện tốt, một cách có hiệu quả về chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nếu chỉ có ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội và ngành Thi đua - Khen thưởng thực hiện thì không
thể đạt được hiệu quả tốt nhất mà cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất
giữa các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể thể từ tỉnh
đến xã trong tất cả các khâu của quá trình thực hiện chính sách. Từ thực tiễn
thực hiện chính sách người có công cách mạng, chính sách danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh cho thấy công tác này
luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh sự
phối hợp chặt chẽ của các sở ban ngành liên quan đến công tác chỉ đạo tuyên
truyền và triển khai thực hiện chính sách. Qua đó, việc thực hiện chế độ chính
sách cho đối tượng người có công với cách mạng và đặc biệt là đối với các bà
mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng đạt được nhiều kết quả. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Nam cũng đặc biệt
chú trọng đến việc cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin điều hành và quản lý, thực hiện tiếp nhận và trả kết quả giải
quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực chính sách người có công cách mạng,
chính sách danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng thông qua
58
mô hình một cửa, một cửa liên thông cũng như giải quyết đơn, đơn thư khiếu
nại chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Ngoài ra, để kịp thời xử lý việc vi phạm về chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tỉnh Quảng Nam đã chủ động phối
hợp các sở, ban, ngành liên quan thành lập đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại các địa phương xã, phường, thị trấn theo kế
hoạch, theo đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân hoặc theo chỉ đạo của Ủy
ban Các vấn đề của xã hội của Quốc hội. Có thể khẳng định rằng, nhờ sự phối
hợp nhịp nhàng của các cơ quan liên quan, việc tổ chức thực hiện chính sách
người có công tại tỉnh Quảng Nam diễn ra khẩn trương, thuận lợi và mang lại
kết quả cao.
3.2.3. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện
chính sách cho đội ngũ cán bộ công chức làm chính sách về danh hiệu
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Xây dựng và cũng cố bộ máy tổ chức, cán bộ làm công tác chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo hướng vừa có
tâm, vừa có phẩm chất đạo đức tốt, nghiệp vụ chuyên môn tốt đảm bảo việc
thực hiện chính sách, đặc biệt là chính sách đối với danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đạt hiệu quả cao. Đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác lao động thương binh và xã hội, thi đua khen thưởng ở cơ sở cần
được quan tâm hết mức như bố trí định biên, bảo hiểm y tế, phụ cấp, thù lao,
phụ cấp, trách nhiệm thực thi công vụ phù hợp theo vị trí vùng miền. Trong
tình hình thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng bao gồm cả ngành Lao
động – Thương binh và Xã hội cũng như ngành Thi đua - Khen thưởng đều có
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, tận tuỵ trong công tác.
59
Thực hiện tốt việc giao ban định kỳ (theo tháng hoặc theo quý), lãnh đạo Ủy
ban nhân dân được giao phụ trách và cán bộ công chức được giao nhiệm vụ
nhận xét đánh giá, hướng dẫn kịp thời về công tác chuyên môn. Hằng năm, từ
tỉnh đến xã cần tổ chức rà soát trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ,
công chức ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và ngành Thi đua –
Khen thưởng.
Đối với các trường hợp mới được tuyển dụng hoặc mới điều chuyển
công tác khác đến nhưng chưa được qua lớp đào tạo cơ bản, thì tỉnh Quảng
Nam cử đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ thực thi chính sách, kỹ
năng giao tiếp, tinh thần, thái độ phục vụ cho các đối tượng chính sách, bởi
người có công là đối tượng đặc thù, nên cần phải có thái độ hoà nhà, nhẹ
nhàng, nhiệt tình.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, chấn chỉnh,
xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm việc thực hiện chính sách về
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Tăng cường công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng là một khâu quan trọng của việc thực hiện
chính sách. Thực hiện các khoản chi đúng, chi đủ đến tận tay các đối tượng
chính sách, phải thường xuyên thực hiện chế độ giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán để chấn chỉnh những thiếu sót, đồng thời kiên quyết xử lý trường
hợp cố tình sai phạm như man khai thành tích, là hồ sơ giả để được hưởng chế
độ danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng (xử lý 04 trường
hợp trong toàn tỉnh Quảng Nam). Hàng năm, kiểm toán, thanh tra nhà nước
tiến hành kiểm tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh đến công tác
thu chi, cấp phát, sử dụng các loại quỹ, kinh phí cho các đối tượng Bà mẹ
Việt Nam anh hùng trên địa bàn.
60
Ngoài ra, Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và các đối tượng chính sách
người có công giám sát việc chi trả chế độ trợ cấp thường xuyên, việc tiếp
nhận, cấp phát quà từ các nguồn khác để có thông tin phát hiện chấn chỉnh
các sai phạm, nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng chính sách và
tạo niềm tin của nhân dân và các đối tượng chính sách đối với chính sách ưu
đãi người có công của Đảng và Nhà nước.
Bảng 3.1: Thống kê một số trường hợp tồn đọng, đề nghị thu hồi
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo công văn
của Ủy ban nhân dân một số tỉnh trong đó có tỉnh Quảng Nam [3, 31]:
STT Địa phương Số lượng Lý do tồn đọng hoặc thu hồi
1 Bình Định 36
- Do man khai hồ sơ về liệt sỹ (bao gồm cả con đi lính Việt Nam Cộng hòa hoặc chết do bom mìn). - Do không đủ căn cứ xác nhận liệt sỹ là con nuôi của bà mẹ. - Bà mẹ có nhiều con người con trong đó con đi lính Việt Nam Cộng hòa và ít nhất có 02 con thoát ly đi cách mạng hoặc hai con đi tham gia cách mạng hy sinh được công nhận là liệt sỹ, được cấp Bằng Tổ quốc ghi công nhưng 02 con đi lính Việt Nam Cộng hòa lại khét tiếng gian ác. - Do không đủ căn cứ xác nhận liệt sỹ là
con nuôi của bà mẹ.
2 Quảng Nam 23 - Trình chậm so với thời gian quy định
do triển khai khó khăn ở các xã thuộc
huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên
Phước…
- Thân nhân không thống nhất ủy quyền
cho người đứng ra làm thủ tục đề nghị
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
61
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
- Song trùng đề nghị phong tặng, truy
Hà Nội 07 tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ 3
Việt Nam anh hùng ở quê quán bà mẹ
sinh ra và nơi bà mẹ sinh sống hoặc thân
nhân bà mẹ đang sinh sống hoặc thờ
cúng.
- Do không đủ căn cứ xác nhận liệt sỹ là
con nuôi của bà mẹ
- Do không đủ căn cứ xác nhận liệt sỹ là
Hải Dương 08 con nuôi của bà mẹ 4
- Man khai hồ sơ khi con đẻ còn sống
(đã công nhận là liệt sỹ) nhưng không
thường trú ở tại địa phương
Thân nhân không thống nhất ủy quyền
Ninh Bình 03 cho người đứng ra làm thủ tục đề nghị 5
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
- Do không đủ căn cứ xác nhận liệt sỹ là
con nuôi của bà mẹ
Thân nhân tranh chấp việc hưởng chế độ
Cao Bằng 03 khi có quyết định truy tặng danh hiệu 6
vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng của Chủ tịch nước (cô chú bác với
cháu nội của bà mẹ…)
62
3.2.5. Tăng cường nguồn lực thực hiện chính sách về danh hiệu vinh
dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Mặc dù nguồn lực tài chính để thực hiện chế độ đối với Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, người có công và thân nhân theo Pháp lệnh ưu đãi người có công
đều do ngân sách Trung ương chi trả, song ngân sách địa phương hàng năm
vẫn phải dành khoảng kính phí thêm để tặng quà, thăm viếng, hỗ trợ nhân dịp
lễ, tết. Người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng là một đối tượng ưu đãi xã
hội đặc biệt. Vì vậy, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người có công và thân nhân
người có công phải được đảm bảo có mức sống, mức sinh hoạt bằng hoặc cao
hơn mức bình quân của người dân nơi cư trú, được thụ hưởng các thành quả
của văn hóa, y tế, giáo dục… là một việc làm cần thiết thể hiện đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc. Điều này rất quan trọng bởi vì đó chính là trực
quan sinh động nhất để người dân nhìn thấy sự tri ân của Đảng, Nhà nước đối
với những cống hiến, hy sinh, mất mát của những người có công với đất nước
nói chung. Chính vì vậy, bên cạnh nguồn ngân sách trung ương, tỉnh Quảng
Nam chủ động cân đối, bố trí thêm kinh phí để đầu tư sửa chữa, chỉnh trang các
công trình ghi công liệt sỹ trên địa bàn, nhà tình nghĩa cho các Bà mẹ Việt Nam
anh hùng còn sống, phần mộ đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã mất sao cho
mỗi công trình thành một địa chỉ văn hóa có giá trị giáo dục truyền thống yêu
nước, lịch sử lâu dài. Bên cạnh việc bổ sung thêm kinh phí từ ngân sách, cần huy
động thêm nhiều nguồn lực khác để thực hiện tốt pháp luật ưu đãi người có
công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tư kêu gọi sự hảo
tâm của các cá nhân, doanh nghiệp, các quỹ nhân đạo quốc tế…
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Một là, Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách đảm bảo đủ
phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn; đủ khả năng tham mưu cho cấp ủy
63
đảng, chính quyền thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước đối với người có công. Thường xuyên
kiểm tra và lấy ý kiến của đối tượng người có công, Bà mẹ Việt Nam anh
hùng và thân nhân để nắm bắt công tác thực hiện chính sách tại cơ sở để tổ
chức những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác này
(chủ yếu thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và ngành Thi đua -
Khen thưởng tỉnh Quảng Nam) và đội ngũ này phải được chuyên môn hóa
công tác thực hiện chính sách người có công và phải được duy trì từ cấp này
đến cấp khác không chỉ ở lĩnh vực người có công, lĩnh vực Bà mẹ Việt Nam
anh hùng mà còn ở những lĩnh vực khác (chính sách dân tộc, tài chính, an
ninh quốc phòng) để nắm bắt được toàn diện chính sách và thực thi chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng một cách có
hiệu quả nhất.
Hai là, Tiếp tục nghiên cứu đổi mới đề xuất để hoàn thiện hệ thống chính
sách ưu đãi của Nhà nước theo hướng người có công phải được khen thưởng
và đãi ngộ xứng đáng. Tỉnh Quảng Nam cần có những chính sách riêng hỗ trợ
cho người có công đặc biệt là đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống
và thân nhân của các bà mẹ đã từ trần. Qua thực tiễn, cần kiến nghị đề xuất
sửa đổi về cơ quan tham mưu bành hành văn bản quy phạm pháp luật về danh
hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đối tượng, thủ tục, chế
độ... đề nghị các cấp cấp thẩm quyền xem xét. Đề nghị bổ sung, sửa đổi một
số quy định trong Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn Pháp lệnh danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2012, Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày 10 tháng 10 năm 2014 giữa Bộ
Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Cụ thể:
- Về giao cơ quan tham mưu thực hiện chính sách:
64
Cùng với Bộ Quốc phòng, bổ sung thêm Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Bộ Tài chính, Bộ Công
an, Bộ Tư pháp vào Ban soạn thảo xây dựng chính sách, sửa đổi một số nội
dung trong Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của
Chính phủ và Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP
ngày 10 tháng 10 năm 2014 để thống nhất về thủ tục, chế độ ưu đãi giữa bà
mẹ được phong tặng và truy tặng, chế độ đối với thân nhân của bà mẹ, người
thừa kế, người thờ cúng và người được ủy quyền kê khai, đề nghị phong tặng,
truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho bà mẹ.
ở tỉnh Quảng nam căn cứ theo quy định, bổ sung Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh,
Sở Tài chính, Công an tỉnh và Sở Tư pháp cùng phối hợp thực hiện.
- Về đối tượng:
Bổ sung thêm những đối tượng sau vào Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định về đối
tượng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng để giải quyết
những trường hợp tồn đọng tại tỉnh Quảng Nam:
“…+ Bà mẹ là người Việt Nam có quốc tịch nước ngoài;
+ Bà mẹ nước ngoài có quốc tịch Việt Nam, đang sinh sống hoặc đã từ
trần tại Việt Nam;
+ Bà mẹ có chồng là liệt sỹ nhưng không có con với người đó, lại có con
duy nhất ngoài giá thú là liệt sỹ”.
+ Bà mẹ có nhiều con trong đó con đi lính Việt Nam Cộng hòa, ít nhất
có 02 con thoát ly tham gia cách mạng. Hai người con tham gia cách mạng hy
được công nhận là liệt sỹ, cấp Bằng Tổ quốc ghi công. Cá nhân bà mẹ không
làm gì có hại cho cách mạng, chính quyền, nhân dân.
+ Bà mẹ là người nước ngoài lấy chồng Việt Nam hiện đang sinh sống,
đã từ trần tại Việt Nam;
65
+ Bà mẹ có chồng trước là liệt sỹ và chồng sau cũng là liệt sỹ nhưng
chưa có con chung với cả 02 chồng;
+ Bà mẹ có 02 con là thương binh trên 81% (thương bình chết do vết
thương tái phát được công nhận là liệt sỹ);
+ Bàn mẹ có 01 con và bản thân là thương binh trên 81%;
+ Bác, cô, dì, thím, mợ có công nuôi dưỡng cháu là liệt sỹ khi mồ côi bố
mẹ từ nhỏ (là thân nhân của liệt sỹ, nhận liệt sỹ là con nuôi theo quy định của
pháp luật).
+ Bãi bỏ quy định trong Khoản 4, Điều 3 Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng 10 năm 2014 về đối
tượng là mẹ kế vì Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của
Chính phủ không quy định đối tượng mẹ kế (Thông tư trái với Nghị định).
+ Mặc dù phát sinh trong thực tế triển khai tại tỉnh Quảng Nam nhưng
không bổ sung đối tượng là bà nội, bà ngoại có công nuôi dưỡng cháu là liệt
sỹ khi mồ côi bố mẹ từ nhỏ, chị ruột có công nuôi dưỡng liệt sỹ khi mồ côi bố
mẹ từ nhỏ nhưng không được công nhận là mẹ nuôi theo quy định của Luật
Con nuôi 2012. Giải thích cho nhân dân hiểu rõ những đối tượng trên thuộc
đối tượng thân nhân của liệt sỹ được quy định tại Điều 4 Nghị định số
31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ thực hiện Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng 2012. Trường hợp đủ tiêu chuẩn thì
mẹ đẻ của liệt sỹ cũng đã được đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng rồi.
- Về thủ tục:
Bổ sung quy định về thủ tục đối với trường hợp liệt sỹ là con nuôi khi
lập hồ sơ đề nghị danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
bao gồm:
+ Giấy báo tử liệt sỹ trong đó có ghi tên bà mẹ là mẹ nuôi;
66
+ Biên bản dòng họ của liệt sỹ (hoặc biên bản dòng họ xác nhận việc
nhận nuôi liệt sỹ là đúng);
+ Xác nhận của chính quyền địa phương độ chính xác của nội dung họp
dòng họ về việc nhận liệt sỹ là con nuôi;
+ Sổ hưởng chế độ trợ cấp gia đình liệt sỹ mà bà mẹ đó đang thụ hưởng
nếu đang còn sống hoặc thân nhân của bà mẹ đang thụ hưởng trường hợp bà
mẹ đó đã từ trần (có nội dung chứng minh là mẹ muôi, là thân nhân của
liệt sỹ).
- Quy định thêm thủ tục đối với những trường hợp mẹ của liệt sỹ có đủ
tiêu chuẩn nhưng đã định cư ở nước ngoài hoặc đã định cư và từ trần ở nước
ngoài, cụ thể:
Khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng đối với trường hợp bà mẹ đó định cư ở nước ngoài, Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam, Ban Thi đua - Khen thưởng
tỉnh Quảng Nam nói riêng các và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nói chung phải tham mưu lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có văn
bản gửi Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao xác nhận với
02 nội dung:
+ Về thái độ chính trị của bà mẹ đối với Nhà nước Việt Nam;
+ Về việc chấp hành pháp luật của Nhà nước sở tại (kể cả còn sống hay
đã từ trần).
- Bổ sung thêm quy định về việc thân nhân đã có công chăm sóc Bà mẹ
Việt Nam anh hùng từ lúc còn sống đến khi từ trần được hưởng phần chế độ
của bà mẹ để lại bao gồm nhà tình nghĩa nơi để bàn thờ bà mẹ, các chế độ thờ
cúng hàng năm.
- Nghị định, Thông tư cũng như tỉnh Quảng Nam bổ sung thêm quy
định về hỗ trợ về tài chính, phương tiện trong việc triển khai chính sách này
67
đối với những vùng núi khó khăn, những nơi có yếu tố lịch sử cách mạng
phức tạp (cao trào cách mạng thay đổi theo từng giai đoạn khi bị địch khủng
bố gắt gao) những yếu tố liên quan đến điều kiện thực hiện chính sách, số
lượng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng....hoặc bổ sung quy định trách nhiệm
của cơ quan lao động, thương binh xã hội, cơ quan thi đua khen thưởng chủ
động, phối hợp tiến hành các thủ tục với những trường hợp ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn khi làm thủ tục đề nghị khen thưởng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng thay cho thân nhân bà mẹ như đối với
quy định việc kê khai khen thưởng Huân chương Độc lập cho gia đình có
nhiều liệt sỹ tại Khoản B, Khoản E, Mục V, Thông tư Liên bộ số 44/LBXH
giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Viện Huân chương, cụ thể:
“…2. Căn cứ vào những tiêu chuẩn và điều kiện khen thưởng quy định
trong Thông tư này và hồ sơ, danh sách các gia đình có nhiều liệt sĩ mà Sở
đang quản lý, Sở Thương binh và Xã hội lọc ra những gia đình dự kiến nằm
trong diện được xét khen thưởng, lập danh sách những gia đình trên của từng
huyện (quận).
Sở giao trách nhiệm cho các Phòng thương binh và xã hội huyện
(quận) căn cứ vào danh sách trên, cử cán bộ xuống tận xã (phường) phối hợp
với Uỷ ban nhân dân xã (phường), tự tay làm bản kê khai về người được đề
nghị khen thưởng, chú ý không để gia đình liệt sĩ phải làm.
Bản kê khai này làm xong phải có chữ ký của gia đình liệt sĩ, sự xác
nhận của Uỷ ban nhân dân xã (phường) và do cán bộ làm bản kê khai đó
mang về phòng thương binh và xã hội huyện (quận) kiểm tra và bổ sung tài
liệu (nếu cần) rồi nộp lên Sở Thương binh và Xã hội…
Các cơ quan thi đua khen thưởng, thương binh và xã hội cần tích cực,
chủ động phối hợp chặt chẽ sử dụng tốt các hồ sơ, tư liệu đã có để kiểm tra
những nội dung cần thiết và vận dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn và điều kiện
68
khen thưởng để bảo đảm khen chính xác. Không dược gây phiền hà cho gia
đình liệt sĩ hoặc yêu cầu gia đình liệt sĩ phải làm đơn khai báo, xin chữ ký
chứng nhận.[6].
- Bổ sung thêm một nội dung trong Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày
22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-
BNV-BLĐTBXH-BQP ngày 10 tháng 10 năm 2014 ngày 10 tháng 10 năm
2104, quy định rõ (tỉnh Quảng Nam còn có một số trường hợp bị vướng mắc):
+ Thân nhân đang thờ cúng bà mẹ được gia đình, dòng họ ủy quyền
đứng ra đại diện làm thủ tục đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng là người được hưởng chế độ của bà mẹ khi có quyết
định của Chủ tịch nước truy tặng.
+ Trong trường hợp không thống nhất việc dòng họ ủy quyền đứng ra
đại diện làm thủ tục đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng là người được hưởng chế độ của bà mẹ khi có quyết định
của Chủ tịch nước truy tặng thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách
nhiệm lập hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng cho bà mẹ. Tiền chế độ truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng được Ủy ban nhân dân xã giữa lại và chi trả, thăm
hỏi thêm hàng năm nhân ngày 27/7, Quốc Khánh và Tết cổ truyền. Trườn hợp
sau khi gia đình, dòng họ đã họp thống nhất ủy quyền người được hưởng chế
độ của bà mẹ, Ủy ban nhân dân xã sẽ chuyển toàn bộ chế độ của Bà mẹ Việt
Nam anh hùng cho người đó.
Ba là, Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa công tác chăm sóc người
có công, chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, duy trì và phát
triển nhiều hình thức hoạt động đền ơn đáp nghĩa với nội dung phong phú,
thiết thực, phù hợp với điều kiện mới. Phấn đấu trong những năm tới, phong
trào đền ơn đáp nghĩa trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và các tỉnh, thành trên cả
69
nước được toàn dân tham gia, tự nguyện quan tâm chăm sóc Bà mẹ Việt Nam
anh hùng thực sự trở thành một vấn đề tư tưởng, một vấn đề tình cảm và
những tư tưởng tình cảm này phải được quán triệt trong tất cả người dân tỉnh
Quảng Nam nói riêng và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nói
chung. Đồng thời, tiếp tục khích lệ và khơi dậy truyền thống yêu nước “Uống
nước nhớ nguồn”, “Ăn kẻ nhớ kẻ trồng cây” để mỗi công dân, mỗi cá nhân
người có công theo lời dạy của Bác đều phát huy phẩm chất tốt đẹp, nổ lực,
phấn đấu vươn lên tự ổn định cuộc sống, có những đóng góp xuất sắc trong
mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Bốn là, Tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý đối
tượng và quản lý kinh phí chi trả hàng tháng trợ cấp ưu đãi người có công, ưu
đãi Bà mẹ Việt Nam anh hùng hùng”, quản lý thông tin về thờ cúng liệt sĩ, mộ
Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng thời, phải có định hướng đào tạo đội ngũ
cán bộ nâng cao trình độ tin học để ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý
toàn diện trong việc thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng.
Tóm lại, thực hiện tốt các nội dung chủ yếu trên sẽ góp phần đổi mới,
hoàn thiện hơn trong công tác chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam. Có như vậy chúng ta mới có thể
làm vơi đi những hy sinh mất mát của những người một thời không tiếc máu
xương hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, thể hiện được trách nhiệm, đạo lý của
thế hệ sau đối với những lớp người đi trước, góp phần giáo dục truyền thống,
động viên thế hệ trẻ tỉnh tiếp tục phấn đấu cống hiến cho sự nghiệp xây dựng
bảo vệ và phát triển đất nước trong đó có tỉnh Quảng Nam.
70
Tiểu kết chương
Đã nêu lên dự báo những yếu tố tác động đến hoạt động thực thi chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh
Quảng Nam nói riêng và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nói
chung. Khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách ưu đãi đối
người có công và các giải pháp nói trên góp phần hoàn thiện thực hiện chính
sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đặc biệt là đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết
dứt điểm 240 trường hợp đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam.
71
KẾT LUẬN
Thự hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng không chỉ là mối quan tâm riêng của Đảng và Nhà nước mà còn
được sự hưởng ứng nhiệt tình từ phía người có công cũng như toàn thể cộng
đồng. Để chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước, chúng ta phải có một cách nhìn nhận
đúng đắn và khách quan trong tổng thể các chính sách của Nhà nước.
Dựa trên quan điểm nền tảng “Tất cả vì con người, do con người” thực
hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
đang ngày càng phát huy tác dụng tích cực của mình và trở nên không thể
thiếu trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở nước ta còn có hạn chế khiến nên việc thực
thi chính sách này cũng gặp những bất cập, khó khăn. Hiện trạng này xảy ra
do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng hơn cả là từ công tác
xây dựng và thực hiện chính sách. Trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thực thi chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng trở nên cấp bách như hiện nay cũng như việc đánh giá thực trạng việc
thực hiện chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh
hùng tại tỉnh Quảng Nam, luận văn này đã đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị nhằm thực hiện chính sách hiệu quả hơn.
Cũng phải nhấn mạnh việc thực hiện tốt công tác ưu đãi người có công
không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà cần sự chung tay của cả cộng
đồng, công tác chăm sóc người có công còn phải thực hiện theo qui chế Nhà
nước – người có công – cộng đồng và doanh nghiệp, cùng góp của, góp công
và góp sức. Chỉ có như vậy chính sách về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ
Việt Nam anh hùng mới thực sự mang đầy đủ ý nghĩa, là phương tiện để ghi
72
nhận và tôn vinh công lao của những người con ưu tú đã cống hiến, hy sinh vì
độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Khơi
gợi ý thức trách nhiệm của mọi tầng lớp công dân đối với xã hội, từ thế hệ
này đến thế hệ khác làm vun đắp thêm truyền thống, giá trị lịch sử, văn hóa
“Uống nước nhớ nguồn” , “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” tốt đẹp của dân tộc.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW,
(Hội nghị Trung ương V) “Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012 – 2020”, ngày 1/6/2012, Hà Nội.
2. Báo cáo tình hình thực hiện chính sách ưu đãi danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng của các tỉnh, thành phố và tỉnh
Quảng Nam.
3. Báo cáo tồn đọng khen thưởng trong đó có trường hợp đề nghị phong
tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng
của các tỉnh trong đó có tỉnh Quảng Nam.
4. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (1995), Chỉ thị
35-CT/TW, “Về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, ngày
21/5/2004, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX (2004), Chỉ thị
39-CT/TW, “Về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, khen
thưởng người có công cách mạng, ngày 21 tháng 5 năm 2004, Hà Nội.
6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Viện Huân chương (1985)
Thông tư Liên bộ số 44/TBXH –VHC/LB, ngày 8 tháng 4 năm 1985,
Hướng dẫn thực hiện chủ trương của Hội đồng Nhà nước về việc tặng
thưởng Huân chương Độc lập cho các gia đình có nhiều liệt sỹ hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng, Hà Nội.
7. Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
(2014), Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày
74
10 tháng 10 năm 2014 quy định thi hành một số điều Nghị định số
56/2013/NĐ-CP, ngày 22 tháng 5 năm 2013, Hà Nội.
8. Chính phủ (1994), Nghị định 176-CP hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng 1993,
ngày 23 tháng 10 năm 1994, Hà Nội.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 56/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2012, ngày 22 tháng 5 năm 2013, Hà Nội.
10. Chính phủ (2013), Nghị định số 31/2013/NĐ-CP thực hiện Pháp lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng năm 2012, ngày 09 tháng 4 năm 2013,
Hà Nội.
11. Chính phủ (2015), Nghị định số 20/2015/NĐ-CP về mức trợ cấp, phụ cấp
ưu đãi đối với người có công với cách mạng, ngày 14 tháng 02 năm 2015,
Hà Nội.
12. Chính phủ (2018), Nghị định số 99/2018/NĐ-CP Quy định mức trợ cấp,
phụ cấp ưu đãi đối với người có công cách mạng, ngày 12 tháng 7 năm
2018, Hà Nội.
13. Chủ tịch nước (1994), Lệnh số 36-L/CTN công bố Pháp lệnh quy định
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ngày 10/09/1994,
Hà Nội.
14. Trương Quốc Bảo (2010), Sách Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
15. Nguyễn Khắc Bình (2017), Tập bài giảng Những vấn đề cơ bản về chính
sách công.
16. Nguyễn Khắc Bình (2018), Tập bài giảng Thực hiện chính sách công.
17. Nguyễn Hữu Đoạt (2010), Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện văn bản quy phạm
pháp luật đối với công tác thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay”.
75
18. Trần Thị Hà (2010), Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Cơ sở lý luận và thực
tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay".
19. Đỗ Phú Hải (2015), Bài giảng cho lớp cao học Chính sách công là gì.
20. Nguyễn Hữu Hải (2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính sách
công, Nxb Giáo dục.
21. Nguyễn Văn Hồi (2013) Báo cáo tham luận tại Hội nghị triển khai Đề án
32 của Chính phủ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, Hà Nội.
22. Lê Chi Mai (2001), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy
trình chính sách, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
23. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
24. Quốc hội (2010), Luật Con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17 tháng 6 năm
2010, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Luật Thừa kế.
26. Dương Thị Thanh (2007), Luận văn thạc sỹ“Đổi mới quản lý nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương”.
27. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh danh hiệu vinh dự Nhà
nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994, ngày 29 tháng 8 năm 1994,
Hà Nội.
28. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh số 26/2005/PL-
UBTVQH11, Về ưu đãi người có công với cách mạng, ngày 29 tháng 6
năm 2005, Hà Nội;
29. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng, ngày 16 tháng 7 năm 2012, Hà Nội.
30. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ngày 20 tháng 10 năm 2012, Hà Nội.
76