VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIỀU NGA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI

TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020

0

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIỀU NGA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI

TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VŨ QUỲNH ANH

HÀ NỘI, năm 2020

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bình đẳng giới là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu,

được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải

quyết để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội. Vấn đề Bình đẳng giới luôn được Đảng và Nhà nước

dành sự quan tâm đặc biệt. Những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng giới

của Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi

nhận, đánh giá cao. Do đó, ngày càng nhiều phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực

và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chính vì vậy, bình đẳng

giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện

các Mục tiêu Thiên niên kỷ, góp phần thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã

hội và phát triển bền vững.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ

trương, chính sách, pháp luật, chiến lược nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của phụ nữ như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật

phòng chống bạo lực gia đình, một số luật và các văn bản khác dưới luật có

liên quan. Ngoài ra, còn có những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành

với mục đích nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho tất cả mọi người, đảm bảo sự

công bằng trên nhiều lĩnh vực như chính trị, y tế, giáo dục, lao động, việc

làm… Qua nhiều năm tổ chức thực hiện chính sách về bình đẳng giới thì vai

trò, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và vấn đề bình đẳng giới đã được cải

thiện và đạt được những kết quả khả quan, tiến bộ đáng kể. Đội ngũ tri thức

nữ đang ngày càng phát triển mạnh mẽ về chất lượng và số lượng, phụ nữ

tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động sản xuất, số lượng nữ tham gia

quản lý nhà nước tăng lên. Phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết các cơ

quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp.

2

Tuy nhiên, trên thực tế tại quận Sơn Trà cho thấy, tuy số lượng phụ nữ

tham gia quản lý nhà nước tăng lên, song tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đảng, chính

quyền, đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn còn thấp, chưa ổn định, cán bộ nữ chủ

yếu vẫn giữ vị trí cấp phó, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp vẫn thấp hơn nam

giới, thu nhập bình quân của lao động nữ vẫn thấp hơn so với lao động nam,

phụ nữ thường tham gia vào các công việc không chính thức và dễ bị tổn

thương, công tác tuyên truyền, giáo dục về giới, bình đẳng giới còn chưa linh

hoạt, chưa tổ chức thường xuyên, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng và

từng khu vực. Bên cạnh đó, tư tưởng của một bộ phận người dân đều coi nam

giới là trụ cột gia đình, xem công việc gia đình hiển nhiên là trách nhiệm của

người phụ nữ, tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra…

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện chính

sách bình đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” để

làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công, nhằm đánh giá được

một cách đầy đủ và khoa học việc thực hiện chính sách bình đẳng giới trên

địa bàn quận Sơn Trà. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm tăng

cường thực hiện chính sách bình đẳng giới trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong việc khẳng

định Quyền con người của nữ giới. Có thể nói, mục tiêu bình đẳng giới hiện là

một trong những mối quan tâm đặc biệt của các quốc gia nói riêng và cộng

đồng quốc tế nói chung. Ngay từ thời điểm năm 1955, Liên hợp quốc đã

thống nhất quan điểm và thông qua Chương trình hành động giới, lồng ghép

giới tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ, lần thứ tư tại Bắc Kinh (Trung Quốc); vào

năm 1979 tiếp tục thông qua Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân

biệt đối xử đối với phụ nữ và Mục tiêu Thiên niên kỷ thứ ba cũng nhằm thúc

đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Đại hội đồng Liên hợp quốc

cũng đã quyết định đặt ra nhiều ngày lễ quốc tế, nhiều sự kiện trọng đại vì

3

mục tiêu bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Điều này cho thấy sự ưu

tiên đặc biệt của cộng đồng quốc tế về vấn đề bình đẳng giới.

Việt Nam là một trong những quốc gia sớm dành cho công tác bình

đẳng giới những ưu tiên nhất định. Cụ thể, trong Hiến pháp đầu tiên của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Hiến pháp năm 1946, tại Điều 9 đã đề cập đến

quyền bình đẳng nam nữ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương

diện” [15]. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc, Người cũng trăn trở về

vai trò và vị trí của người phụ nữ: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch

thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có thêm nhiều phụ

nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải

cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự

cho phụ nữ”. Và vấn đề này đã được thể chế hóa thành các văn bản Luật như

Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Bình đẳng giới năm 2006

hay ban hành các chương trình hành động như: Chương trình hành động quốc

gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020, Chương trình hành động

quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020,... để đảm bảo quyền lợi cho

người phụ nữ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, lao động, y tế, giáo dục và

ngay chính trong gia đình của họ. Vì vậy, việc nghiên cứu về quyền bình đẳng

giới là một trong những đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu

nhằm khẳng định vị thế của người phụ nữ, tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều

công trình, nghiên cứu khoa học, luận văn, bài báo... viết về các chính sách

bình đẳng giới đăng trên nhiều tạp chí như: Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Tạp

chí Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Xã hội học... Một số đề tài nghiên cứu tiêu

biểu là: Tác giả Lê Thị Quý [11] với nghiên cứu “Bình đẳng giới ở Việt Nam

hiện nay”, nghiên cứu nêu lên quan niệm về bình đẳng giới ở Việt Nam, quá

trình phát triển nhận thức, những thành tựu và thách thức của bình đẳng giới

Việt Nam. GS.TS Đặng Cảnh Khanh và GS.TS Lê Thị Quý [7] với Giáo trình

về Gia đình học. NXB Lý luận chính trị, 2007, Tái bản năm 2009. Qua cuốn

4

giáo trình này, nhóm tác giả cũng nêu được thực trạng gia đình Việt Nam

trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm rõ khía cạnh giới

trong gia đình và xã hội; những vấn đề về quản lý nhà nước về gia đình. Cuối

cùng, nhóm tác giả đã nêu lên những định hướng giải pháp và điều kiện thực

hiện những giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam phù hợp với yêu cầu của

giai đoạn hiện nay.

Tác giả Dương Kim Anh (2016) có nghiên cứu về “Phụ nữ tham chính:

cơ hội và thách thức” [5], tác giả đã đánh giá thực trạng phụ nữ tham chính

trên thế giới và Việt Nam, làm rõ những thuận lợi và khó khăn của phụ nữ

tham chính ở Việt Nam, đồng thời đưa ra 4 lý do cơ bản cần thiết phải có

nhiều nữ giới trong các vị trí lãnh đạo, quản lý đó là vì sự công bằng, vì lợi

ích, vì kinh nghiệm và vì sự phát triển bền vững của đất nước. Như vậy, việc

tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là hết sức cần thiết, nhằm đảm

bảo tiếng nói đại diện, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của nữ giới.

Một công trình nghiên cứu khác là Báo cáo nghiên cứu hướng tới bình

đẳng giới ở Việt Nam: “Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ”, báo cáo

đã phân tích sự bất bình đẳng trong việc phân phối các nguồn lực sản xuất ở

nhiều nhóm phụ nữ và nam giới khác nhau, sự phân chia lao động theo giới và

việc dễ bị tổn thương hơn của phụ nữ trong điều kiện làm việc và trả lương.

Nghiên cứu đánh giá khung chính sách của Việt Nam và đưa ra các khuyến

nghị để thực hiện tốt hơn tiềm năng của phụ nữ và giúp sinh kế của họ đảm

bảo hơn, cho dù họ là những người nông dân sản xuất với quy mô nhỏ, lao

động giúp việc gia đình được trả lương hay công nhân nhà máy. Nghiên cứu

này có giá trị tham khảo lớn, giúp tác giả luận văn nhìn nhận ra được tình hình

bình đẳng giới nói chung, nhưng nội dung chuyên sâu về thực hiện chính sách

bình đẳng giới lại chưa được đề cập.

Tác giả Phạm Thi Lê Dung (2017), Luận văn thạc sỹ chuyên ngành

Chính sách công, “Thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn tỉnh

5

Quảng Ngãi” [14]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về thực hiện chính

sách BĐG tại Việt Nam, đánh giá việc thực hiện chính sách BĐG tại tỉnh

Quảng Ngãi và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

thực hiện chính sách BĐG ở tỉnh Quảng Ngãi.

Một nghiên cứu khác liên quan trực tiếp đến bình đẳng giới tại thành

phố Đà Nẵng là đề tài “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn

thành phố Đà Nẵng” do Lê Thị Thu Hường (2016) làm tác giả đề tài [10].

Tuy nhiên, đề tài này chỉ nghiên cứu về những lý luận và thực trạng thực hiện

pháp luật về bình đẳng giới, đồng thời đưa ra những giải pháp thực hiện pháp

luật về bình đẳng giới từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã có liên quan nhất định đến

đề tài luận văn về chính sách Bình đẳng giới. Nhiều đề tài, luận văn nghiên

cứu về thực hiện chính sách bình đẳng giới ở các tỉnh, thành. Tuy nhiên, vẫn

chưa có đề tài nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về thực hiện chính sách bình

đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà. Vì vậy học viên chọn đề tài “Thực hiện

chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”

với mong muốn góp phần đánh giá đúng thực trạng, đề ra giải pháp hoàn thiện

giải pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà trong thời gian

tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực tiễn công tác thực hiện chính sách bình đẳng giới trên

địa bàn quận Sơn Trà, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt

chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách bình đẳng

giới.

- Tìm hiểu thực trạng thực hiện chính bình đẳng giới tại quận Sơn Trà,

TP Đà Nẵng.

6

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao việc thực hiện chính sách bình

đẳng giới tại quận Sơn Trà trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của của luận văn:

- Thực tiễn thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà.

- Các chủ thể quản lý và thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận

Sơn Trà.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian:

Đề tài thực hiện khảo sát tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

- Phạm vi về thời gian:

Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn

quận Sơn Trà trong 5 năm trở lại đây và đề xuất một số giải pháp chủ yếu

hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn

Trà trong những năm tới.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết

học MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam, các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia, ký kết về quyền bình đẳng

nam, nữ; bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Lý thuyết chính sách công được vận dụng để tìm hiểu về thực tiễn thực

hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà dưới nhiều góc độ khác nhau,

từ đó hoàn thiện hơn nữa việc thực hiện chính sách về bình đẳng giới tại quận

Sơn Trà.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

7

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này bao

gồm: Phương pháp phân tích tài liệu sẵn có, phương pháp điều tra xã hội học

(phỏng vấn sâu).

- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: Khai thác và phân tích thông

tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các chính

sách, luật, văn bản pháp luật về giới, bình đẳng giới tại Việt Nam; các công

trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê về việc thực hiện chính sách

bình đẳng giới tại Việt Nam.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 21 đối

tượng có liên quan đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới, trong đó:

khối Đảng: 5 người, gồm Bí thư Quận ủy, 2 đồng chí Quận ủy viên và 2 đồng

chí Bí thư Đảng ủy phường. Khối Chính quyền: tác giả chọn phỏng vấn 2 cán

bộ quận kiêm nhiệm phó ban vì sự tiến bộ phụ nữ quận và 4 cán bộ phường

phụ trách công tác bình đẳng giới và Hội liên hiệp phụ nữ: 10 người, trong đó

1 cán bộ Hội phụ nữ quận, 5 cán bộ Hội phụ nữ phường và 4 cán bộ chi hội

phụ nữ khu dân cư.

6. Ý nghĩa của đề tài

- Về mặt lý luận, đề tài làm phong phú thêm chủ đề nghiên cứu về

chính sách công, đặc biệt trong một lĩnh vực cụ thể là thực hiện chính sách

BĐG.

- Về mặt thực tiễn: những phân tích, đánh giá và kiến nghị của luận văn

là cơ sở cho Quận trong việc nhìn nhận lại quá trình tổ chức thực hiện chính

sách bình đẳng giới ở quận Sơn Trà và giúp Quận hoàn thiện hơn quá trình

thực hiện chính sách bình đẳng giới của quận. Ngoài ra, những kết quả của

luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về tổ chức

thực hiện chính sách bình đẳng giới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận; luận văn được kết cấu thành ba chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bình đẳng

8

giới ở nước ta hiện nay.

- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn

quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

- Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà.

9

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Các khái niệm về giới, bình đẳng giới, chính sách bình đẳng

giới và thực hiện chính sách bình đẳng giới

1.1.1. Khái niệm về giới

Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam

giới và phụ nữ, xã hội tạo ra và giành cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ

nữ và nam giới với các đặc điểm giới khác nhau. Đặc điểm giới rất đa dạng và

có thể thay đổi được, nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi

mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam giới và phụ nữ. Tại khoản 1 Điều

5 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò

của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [20].

1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới

Theo Điều 26 của Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân nam, nữ

bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình

đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển

toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối

xử về giới [19].

Một cách hiểu khác đầy đủ hơn và tương đối phổ biến thì bình đẳng

giới là nam giới và nữ giới đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như

nhau. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng giới năm

2006:

“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo

điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng

đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”

[20].

10

Bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những điều

kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội

để tham gia đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của

cộng đồng trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; không có nghĩa

nam giới và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng và sự khác

biệt của họ được thừa nhận, được coi trọng như nhau.

1.1.3. Khái niệm chính sách bình đẳng giới

Chính sách bình đẳng giới là tập hợp các Quyết định, Nghị định của Nhà

nước có liên quan về bình đẳng giới gồm các công cụ, mục tiêu, giải pháp

nhằm làm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ về vai trò, vị trí, điều kiện, cơ

hội phát huy năng lực, thụ hưởng thành quả của sự phát triển.[23]

1.1.4. Khái niệm thực hiện chính sách bình đẳng giới

Thực hiện chính sách bình đẳng giới là toàn bộ quá trình chuyển hoá

cách ứng xử của chủ thể thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt

được mục tiêu, định hướng và phát triển về bình đẳng giới.

Tổ chức thực thi chính sách bình đẳng giới là một quá trình hành động

gồm nhiều bước khác nhau với những phương pháp và nội dung khác nhau

nhằm làm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ về vai trò, vị trí, điều kiện, cơ

hội phát huy năng lực, thụ hưởng thành quả của sự phát triển, nâng cao vị thế

của người phụ nữ trong các lĩnh vực có nguy cơ bất bình đẳng cao hoặc còn

bất bình đẳng.

Tổ chức thực thi chính sách bình đẳng giới là bước hiện thực hoá chính

sách bình đẳng giới vào đời sống xã hội, nó tác động đến mọi tầng lớp nhân

dân với mục tiêu thay đổi nhận thức và các hành vi ứng xử với phụ nữ theo

chiều hướng tích cực. [23]

1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng và các chính sách bình đẳng giới

1.2.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bình

đẳng giới

11

Bình đẳng giới là sự tôn trọng, tạo điều kiện cho cả nam và nữ cùng phát

triển, cùng nhau cống hiến cho xã hội và đáp ứng các nhu cầu của cá nhân.

Luật Bình đẳng giới ra đời và đi vào cuộc sống, từng bước xóa bỏ sự phân

biệt đối xử giữa nam và nữ, tạo cơ hội cho nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội.

Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại,

đặc biệt là trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện này. Đây chính

là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình

đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng, là tiền

đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục

trẻ em, góp phần tăng chất lượng cuộc sống của các thành viên gia đình, giải

phóng phụ nữ và xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.

Thực thi chính sách bình đẳng giới nhằm khẳng định tính đúng đắn của

chính sách về bình đẳng giới, một khi chính sách được triển khai thực hiện

rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính đúng đắn của chính sách được khẳng

định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thụ

hưởng chính sách.

Thực hiện chính sách bình đẳng giới là một khâu hợp thành chu trình

chính sách về bình đẳng giới. Thực thi chính sách bình đẳng giới sau khi thực

hiện chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực. Tổ chức

thực thi chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách về bình

đẳng giới và từng bước thực hiện mục tiêu của chính sách bình đẳng giới

trong mục tiêu chung của quốc gia.

Chính sách bình đẳng giới được hoạch định bởi nhiều chủ thể và trong

những điều kiện nhất định. Hoạch định chính sách bình đẳng giới có thể bị tác

động bởi nhiều yếu tố như cơ chế của hệ thống cơ quan hoạch định, lợi ích

của các chủ thể hoạch định chính sách, thể chế chính trị của quốc gia, ý chí

chủ quan của chủ thể đứng đầu,tác động của các nhóm lợi ích… Những yếu tố

này không những ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách bình đẳng

12

giới, mà còn tác động qua nhiều quá trình như: dự báo, phân tích, lựa chọn để

có được mục tiêu, biện pháp chính sách bình đẳng giới.

Thực hiện chính sách bình đẳng giới sẽ góp phần bổ sung, điều chỉnh

và hoàn thiện chính sách bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn. Kết quả

thực hiện chính sách bình đẳng giới là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách

khách quan, chính xác và khoa học về hiệu quả và chất lượng của chính sách

bình đẳng giới. Chính sách bình đẳng giới được triển khai thực hiện đúng sẽ

làm tăng độ tin tưởng của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà

nước.

1.2.2. Các chính sách bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước Việt

Nam

Ngay khi ra đời, Đảng ta sớm xác định nam nữ bình quyền là một trong

10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay, Đảng luôn đề

cao vai trò của phụ nữ và đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về công tác

phụ nữ, như: Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng

cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 37-CT/TW

ngày 16-5-1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Đặc

biệt Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-4-2007 về công tác

phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước xác định: “Xây dựng, phát

triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là

yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ

của Đảng” [2], thể hiện cụ thể trong việc xây dựng và thực hiện Đề án tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ

của phụ nữ trong tình hình mới (Thông báo số 196-TB/TW ngày 16-3-2015).

Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định phải “nâng cao trình độ mọi mặt và

đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều

kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật

pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ

13

thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội” (6,

tr163)

Về phía Nhà nước, địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam đã được quy

định trong Hiến pháp 1946: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi

phương diện” (Điều 9); “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi

phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6) và “Mọi công dân đều bình

đẳng trước pháp luật” (Điều 7)... [15]. Luật Bình đẳng giới (2006) xác định:

Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,

phát huy vai trò trong xã hội. Bộ luật nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới và

xác định 8 lĩnh vực cần tập trung thực hiện bình đẳng giới là: chính trị, kinh

tế, giáo dục - đào tạo, y tế, gia đình, khoa học và công nghệ, văn hóa thông

tin, thể dục thể thao. Trong đó, bình đẳng giới trong chính trị (Điều 11) gồm:

bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, hoạt động xã hội; trong tham gia

xây dựng và thực hiện quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ

quan, tổ chức; trong việc tự ứng cử đại biểu quốc hội, HĐND, ứng cử vào cơ

quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính

trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Nam

nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm

vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức. [20]

Điều 7 Luật Bình đẳng giới quy định về các chính sách của Nhà nước

về bình đẳng giới như sau:

- Các biện pháp của Nhà nước trong việc bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ

đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong Quốc hội, Hội đồng

nhân dân các cấp là một ví dụ về việc bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực

chính trị tại thời điểm hiện nay.

- Để thực hiện chính sách áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ

phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Nhà

nước cần thực hiện nhiều biện pháp như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật; phát triển kinh tế xã hội; huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội,

14

cộng đồng dân cư và công dân; nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ

quan Nhà nước…

- Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo

điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. Những chính sách này được

thể hiện tương đối rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước ta

về hôn nhân và gia đình, pháp luật về lao động, về doanh nghiệp, về bảo hiểm

xã hội… Ví dụ, quy định người sử dụng lao động không được sử dụng lao

động nữ làm những việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại

có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con là một trong những chính

sách bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ.

- Các hoạt động của cơ quan, tổ chức trong việc tạo điều kiện cho lao

động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con; dành nguồn

tài chính cho các hoạt động bình đẳng giới… được Nhà nước khuyến khích và

tạo điều kiện.

Chính sách bình đẳng giới luôn được ghi nhận trong các Hiến pháp, tư

tưởng bình đẳng giới được tiếp tục cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật

của Nhà nước như Bộ luật lao động; Luật hôn nhân và gia đình; Bộ luật hình

sự; Bộ luật dân sự; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật khoa học và công nghệ; Luật

khiếu nại, tố cáo; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật đầu tư; Luật

doanh nghiệp, Luật cán bộ công chức… và nhiều văn bản quy phạm pháp luật

khác như các quyết định, nghị định của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ; các

thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan.

1.3. Nội dung, phương pháp và các chủ thể thực hiện chính sách

bình đẳng giới

1.3.1. Nội dung các bước thực hiện chính sách bình đẳng giới

Quy trình thực thi chính sách được xem là những nguyên lý khoa học

được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, ý

nghĩa to lớn đối với các quá trình thực thi chính sách. Trước khi thực thi,

chính sách được phổ biến rộng rãi đến mọi đối tượng và toàn dân để họ nhận

15

thức được đầy đủ ý nghĩa và mục tiêu của chính sách. Kết hợp các hoạt động

tuyên truyền, phổ biến chính sách với vận động thực thi sẽ giúp cho các đối

tượng chính sách nêu cao tinh thần tự nguyện, tự giác trong thực hiện chính

sách. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tổ chức thực thi chính

sách hiệu quả hơn. Đồng thời, sẽ giúp cho tất cả mọi người dân nhận thức

được rằng việc thực hiện chính sách bình đẳng giới là một chính sách đúng

đắn và mang lại hiệu quả cao. Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hóa

chính sách nên các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần

đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển khai thực hiện, tuân

thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:

- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Kế hoạch triển khai thực thi chính sách bình đẳng giới bao gồm những

nội dung cơ bản sau đây:

+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành

+ Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực hỗ trợ

+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện

+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách

+ Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách

nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước

tham gia tổ chức, điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỹ luật

cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách… Dự kiến kế hoạch và điều

chỉnh kế hoạch thực hiện chính sách bình đẳng giới ở cấp nào do lãnh đạo cấp

đó quyết định.

- Tuyên truyền, phổ biến chính sách bình đẳng giới

Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền, vận động

nhân dân tham gia thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách

bình đẳng giới tốt sẽ giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân

tham gia thực thi chính sách hiểu rõ về tính đúng đắn của chính sách trong

điều kiện, hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách… để họ tự

16

giác thực hiện nhằm tạo sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp xã hội. Đồng

thời, còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi

nhận thức được đầy đủ quy mô, tính chất, trình độ của chính sách với đời

sống xã hội, để chủ động tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện

mục tiêu chính sách.

Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách bình đẳng giới cần phải được

thực hiện thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc,

trao đổi với các đối tượng tiếp nhận và gián tiếp qua các phương tiện thông tin

đại chúng.

- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách.

Chính sách bình đẳng giới được thực thi trên phạm vi rộng lớn, vì thế

số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Đồng thời,

các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách bình đẳng giới diễn ra cũng rất

phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian. Vì vậy, muốn tổ chức thực

thi chính sách bình đẳng giới có hiệu quả thì phải tiến hành phân công, phối

hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương để họ

chủ động tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới.

- Duy trì chính sách bình đẳng giới:

Duy trì chính sách là làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác

dụng trong môi trường thực tế. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các cơ quan nhà

nước-người chủ động tổ chức thực thi chính sách phải thường xuyên quan tâm

tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham

gia thực thi chính sách. Nếu việc thực hiện chính sách bình đẳng giới gặp phải

những khó khăn do môi trường thực tế biến động, thì các cơ quan nhà nước sử

dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi

cho việc thực thi chính sách bình đẳng giới. Chủ động điều chỉnh chính sách

bình đẳng giới cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương, mỗi

đơn vị.

17

Để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan nhà nước có thể kết

hợp sử dụng các biện pháp hành chính để duy trì chính sách; bên cạnh đó,

tăng cường thực hiện dân chủ để người dân mạnh dạn tham gia quản lý xã hội,

trong đó tự giác chấp hành chính sách và tham gia tìm kiếm, đề xuất các giải

pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới một cách hiệu quả.

- Điều chỉnh chính sách bình đẳng giới

Chính sách bình đẳng giới trong quá trình thực thi do tác động của

nhiều yếu tố sẽ bộc lộ sự bất cập. Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần

thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực thi chính sách. Nó

được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày

càng phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu quản lý.

Hoạt động điều chỉnh chính sách phải chính xác, hợp lý, nếu không sẽ

làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả,

thậm chí không tồn tại được.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bình đẳng giới.

Thực thi chính sách bình đẳng giới diễn ra trên địa bàn rộng, do nhiều

cơ quan, tổ chức và các cá nhân tham gia. Trình độ, năng lực tổ chức điều

hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, bên

canh đó các điều kiện về văn hóa, xã hội, môi trường, kinh tế, chính trị ở các

địa phương không giống nhau; do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phải tiến hành theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách bình đẳng

giới. Ngoài ra, công tác kiểm tra, đôn đốc này còn giúp cho các đối tượng

thực thi chính sách biết được những tồn tại, hạn chế của mình để điều chỉnh,

bổ sung, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính

sách bình đẳng giới.

- Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm.

Đánh giá tổng kết được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo,

điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối

tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính

18

sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở để đánh giá

tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành, thực thi chính sách trong các cơ quan

nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng.

Bên cạnh đó, còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia

thực hiện chính sách bao gồm đối tượng hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp từ

chính sách.

1.3.2. Các phương pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới

- Phương pháp hành chính:

Phương pháp này được dùng có hiệu quả trong việc thực hiện chính

sách bình đẳng giới trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, xử phạt

hành vi vi phạm trong các Luật về bình đẳng giới, vi phạm quyền con người.

- Phương pháp kinh tế:

Đây là phương pháp có tác động rất nhanh, hiệu quả có thể nhìn thấy rõ

ràng, nhanh chóng; là cách thức tác động lên các đối tượng tham gia thực hiện

chính sách bình đẳng giới bằng lợi ích vật chất. Phù hợp với các chính sách

bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, lao động việc làm…

- Phương pháp kết hợp:

Phương pháp kết hợp này thường mang lại hiệu quả đa chiều, có nhiều

yếu tố tích cực và mang tính bền vững khi sử dụng phương pháp kết hợp giữa

tuyên truyền và giáo dục, và cũng thường xuyên sử dụng hành chính và kinh

tế để giải quyết vấn đề. Phương pháp này tập trung thực hiện chính sách bình

đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và phòng chống bạo lực gia

đình…

- Phương pháp giáo dục, thuyết phục:

Phương pháp này hiệu quả đem lại khá chậm nhưng lại chắc, nó đòi hỏi

người thực hiện cần phải có kỹ năng tuyên truyền, vận động tốt. Khi sử dụng

phương pháp này cần sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị; đặc biệt là

đối với các Hội - đoàn thể tại cộng đồng dân cư đóng vai trò rất lớn.

1.3.3. Các chủ thể thực hiện chính sách bình đẳng giới

19

- Chính phủ

Chính phủ chỉ đạo, tổ chức thực hiện pháp luật; chỉ đạo, tổ chức công

tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; việc lồng

ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo

thẩm quyền. Phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp

phụ nữ Việt Nam, chỉ đạo các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân về bình đẳng giới.

- Các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới

Các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, cụ thể là Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội có trách nhiệm xây dựng và trình Chính phủ ban

hành hoặc ban hành, hướng dẫn thực hiện chính sách bình đẳng giới theo

thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời tham gia đánh giá việc

thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong việc xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết

khiếu nại, tố cáo về thực hiện chính sách bình đẳng giới; tổng kết, báo cáo

Chính phủ việc thực hiện Mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

- Các bộ và cơ quan ngang bộ

Các Bộ và cơ quan ngang Bộ tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp

luật

hiện hành để bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc

trình cơ quan có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ, ban hành mới văn bản

quy phạm

pháp luật nhằm thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực mà

mình quản lý. Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước đánh giá thực trạng

thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình quản lý; thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thực

hiện chính sách bình đẳng giới.

- Uỷ ban nhân dân các cấp

UBND các cấp xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về

20

bình đẳng giới tại địa phương; tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở

địa phương; trình Hội đồng nhân dân ban hành hoặc ban hành văn bản quy

phạm pháp luật về thực hiện bình đẳng giới theo thẩm quyền; tổ chức, chỉ đạo

các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về chính sách và pháp luật về bình đẳng

giới cho nhân dân trên địa bàn; thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thực hiện chính sách bình đẳng

giới.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia

góp ý xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia quản lý

nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, vận

động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện chính sách bình đẳng giới; tham

gia giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng giới.

- Hội liên hiệp phụ nữ các cấp

Hội liên hiệp phụ nữ các cấp ngoài việc tham gia tổ chức thực hiện

chính sách bình đẳng giới như là một thành viên của Ủy ban MTTQ Việt Nam

đã được nêu ở trên thì Hội liên hiệp phụ nữ còn tổ chức các hoạt động hỗ trợ

trực tiếp hay gián tiếp cho phụ nữ trên nhiều lĩnh vực nhằm góp phần thực

hiện chính sách bình đẳng giới. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan

bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia lãnh đạo, quản lý các cơ

quan trong hệ thống chính trị; phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội,

đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em gái theo quy định của pháp luật.

Thực hiện phản biện xã hội đối với việc tổ chức thực hiện chính sách về bình

đẳng giới.

- Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội.

Trong hoạt động cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -

xã hội cần xác định thực trạng, xây dựng và bảo đảm thực hiện chính sách

bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức mình. Triển khai kế hoạch thực hiện

21

chính sách bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động

do mình quản lý. Bảo đảm sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức,

người lao động nam, nữ trong việc thực hiện pháp luật, chương trình, kế

hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan đến thực hiện

chính sách bình đẳng giới.

- Gia đình

Tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận thức,

hiểu biết, tham gia các hoạt động về bình đẳng giới. Chăm sóc sức khoẻ sinh

sản và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền làm mẹ an toàn. Đối xử công

bằng, tạo cơ hội giữa con trai, con gái như nhau trong học tập, lao động và

tham gia các hoạt động khác. Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ,

phân công công việc gia đình hợp lý

- Tất cả mọi công dân

Tất cả mọi người cần học tập nâng cao hiểu biết; nhận thức về giới và

bình đẳng giới. Giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng giới của cộng

đồng, của các cơ quan, tổ chức và của tất cả mọi người. Phê phán, ngăn chặn

các hành vi phân biệt đối xử về giới.

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình

đẳng giới

Ở Việt Nam, quá trình tổ chức thực thi chính sách diễn ra trong thời

gian dài và có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân; do đó kết quả tổ chức

thực thi chính sách bình đẳng giới cũng sẽ chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố

như:

* Các nhân tố chủ quan

- Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực thi chính sách bình đẳng

giới. Để thực hiện chính sách trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện

nay, Nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất và nhân sự, trong

đó nguồn lực vật chất cần tăng nhanh về cả số lượng lẫn chất lượng.

22

- Năng lực thực thi chính sách của cán bộ - công chức trong bộ máy

quản lý nhà nước. Đây là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả

thực thi chính sách bình đẳng giới. Năng lực thực thi của cán bộ - công chức

là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, năng lực

thực tế, năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ

động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong tương lai… Năng

lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở khả năng

thực hiện các quy trình và thủ tục hành chính để giải quyết các mối quan hệ

giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội có liên quan

đến thực hiện chính sách bình đẳng giới.

- Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi

chính sách bình đẳng giới. Trên thực tế, quy trình thực thi chính sách bình

đẳng giới được bắt đầu từ việc tuyên truyền, vận động về chính sách và thực

thi chính sách. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ củng cố thêm lòng tin của

người dân vào chính sách bình đẳng giới của nhà nước.

- Sự đồng tình ủng hộ của người dân: là nhân tố có vai trò đặc biệt

quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách bình đẳng giới. Đây là vấn

đề hết sức lớn lao bởi việc thực hiện các mục tiêu chính sách không chỉ do cơ

quan nhà nước làm, mà phải có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong

xã hội.

* Các yếu tố khách quan

Tính chất vấn đề cũng như môi trường thực thi chính sách công là yếu

tố khách quan làm cho chính sách công thực thi tốt trong thực tiễn, hoặc cản

trở, gây khó khăn trong quá trình thực thi chính sách. Môi trường thực thi

chính sách bình đẳng giới là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế,…

Môi trường thực thi chính sách chứa đựng toàn bộ các thành phần vật chất,

phi vật chất tham gia thực hiện chính sách như các nhóm lợi ích có được từ

23

chính sách trong xã hội, các điều kiện vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế, bầu

không khí chính trị, xã hội trật tự, quan hệ quốc tế mở rộng.

Việc thành công của chính sách bình đẳng giới do nhiều yếu tố cấu

thành, nhân tố cấu thành. Do đó, để cho việc thực thi chính sách bình đẳng

giới thực hiện được đúng mục tiêu quản lý thì cần phải phối hợp các yếu tố,

bộ phận, đối tượng tác động và liên quan. Hoạt động phân công, phối hợp

diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách bình đẳng giới một cách chủ động,

sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực,

hiệu quả chính sách bình đẳng giới.

Chính sách bình đẳng giới được thực thi trên phạm vi không gian rất

rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương vì thế số lượng các đối tượng cá

nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao

gồm các đối tượng tác động của chính sách bình đẳng giới, công dân thực

hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước. Bên cạnh đó, các hoạt động

nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách bình đẳng giới diễn ra cũng hết sức

phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian. Chúng đan xen nhau, thúc

đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật. Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính

sách bình đẳng giới có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các

cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia

thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính

sách bình đẳng giới

24

Tiểu kết chương 1

Kết quả nghiên cứu tại chương 1, đã đề cập đến những vấn đề lý luận

cơ bản nhất về bình đẳng giới và thực hiện chính sách về bình đẳng giới: các

khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bình đẳng

giới. Trong phần này, luận văn đã làm rõ và phân tích các bước thực hiện, các

chủ thể thực hiện, các phương pháp thực hiện và các nhân tố ảnh hưởng đến

việc thực hiện chính sách bình đẳng giới. Đây là những vấn đề lý luận làm cơ

sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới

trên địa bàn quận Sơn Trà và các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách

bình đẳng giới sẽ được trình bày ở những chương tiếp theo.

25

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI

TẠI QUẬN SƠN TRÀ

2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình

đẳng giới tại quận Sơn Trà

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và đối tượng thụ hưởng chính sách

Quận Sơn Trà là trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch của thành phố Đà

Nẵng. Quận Sơn Trà được thành lập năm 1997 trên cơ sở tách từ quận Ba cũ

thành hai quận Sơn Trà và quận Ngũ Hành Sơn. Sơn Trà có diện tích tự nhiên

59,32 km2 và dân số vào khoảng 158.374 người [21]. Là một quận có ba mặt

giáp sông, biển: Phía Bắc và Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp sông Hàn,

phía Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn. Quận Sơn Trà có 7 phường: Mân Thái,

An Hải Tây, Phước Mỹ, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại Hiên Đông và Thọ

Quang với 515 tổ dân phố. Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội

của quận Sơn Trà phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch

mạnh theo hướng kinh tế đô thị với tỷ trọng các ngành tăng lên và có xu

hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng

ngành nông lâm - thủy sản, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, văn minh, đời

sống nhân dân ngày càng được cải thiện, văn hóa - xã hội được quan tâm

đúng mức, triển khai thực hiện tốt và có những chuyển biến tích cực, quốc

phòng - an ninh được giữ vững. Chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được

nâng cao, tỷ lệ nữ tham chính ngày càng tăng. Yếu tố về đặc điểm tự nhiên và

đối tượng thụ hưởng chính sách cũng được tác giả tiến hành phỏng vấn sâu,

kết quả như sau:

“Đặc thù của quận Sơn Trà vừa có núi, vừa có sông, vừa có biển, cùng

với tốc độ đô thị hóa, quận Sơn Trà đang là điểm đến vui chơi, giải trí của rất

nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, thu hút các doanh nghiệp đến đầu

tư tại quận Sơn Trà, do đó thu hút một lượng lớn người lao động về làm việc

trên địa bàn quận. Bên cạnh đó, vì có 3 mặt giáp sông và biển cho nên đời

26

sống của nhân dân trong đó có phụ nữ chủ yếu làm nghề biển, công nhân lao

động và buôn bán nhỏ lẻ và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn ăn sâu vào tư

tưởng của một bộ phận người dân do đó nhận thức của cộng đồng, xã hội và

gia đình tại địa phương về BĐG còn nhiều hạn chế” (PVS, nữ, Trưởng phòng

văn hóa - thông tin quận Sơn Trà)

Thực tế, quận Sơn Trà có nhiều thay đổi về quy hoạch đô thị, từ mảnh

đất hoang sơ với những ngôi nhà chồ mọc lên trên sông, những chiếc phà bắc

qua sông Hàn, những làng nghề đánh bắt cá ven biển, giờ đây tốc độ đô thị

hóa diễn ra nhanh từ khi có chủ trương giải tỏa đền bù, chỉnh trang đô thị, đặc

biệt trong giai đoạn từ năm 2010 tới nay đã thu hút nhiều doanh nghiệp đến

đầu tư sản xuất, kinh doanh, từ đó đã thu hút một lượng lớn lao động từ các

quận, huyện, thành phố, tỉnh khác đến làm việc và sinh sống. Đồng thời, vị trí

địa lý có 3 mặt giáp sông và biển nên đời sống của nhân dân trong đó có phụ

nữ chủ yếu làm nghề biển và công nhân lao động và buôn bán nhỏ lẻ, do đó

nhận thức của cộng đồng, xã hội và gia đình tại địa phương về BĐG còn

nhiều hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là tư tưởng trọng nam khinh nữ ăn

sâu trong nếp nghĩ của đại bộ phận dân cư ở đây. Đây chính là rào cản dẫn

đến suy nghĩ, thái độ và hành động kìm hãm phụ nữ, không thông cảm, chia

sẻ, giúp đỡ, thiếu lòng tin vào tài năng của phụ nữ cũng như khả năng lãnh

đạo, chưa đề cao vai trò của phụ nữ trong việc tham gia các hoạt động, lĩnh

vực trong xã hội...

“Đối với các chị là chi hội trưởng, chi hội phó phụ nữ thì nhiều chị còn

chưa tự tin khi đứng trước đám đông, chưa tự tin tham gia tuyên truyền về

bình đẳng giới hoặc tuyên truyền về bảo vệ trẻ em… Nhiều chị em hội viên

phụ nữ thì còn ngại ngùng, tự ti khi tham gia các hoạt động do phường và

quận tổ chức” (PVS, nữ, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường Thọ Quang)

Đồng thời, trình độ dân trí của phụ nữ ở quận Sơn Trà không đồng đều

cũng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn

quận. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy: “Chị em phụ nữ đa số là làm

27

biển, công nhân lao động và buôn bán nhỏ lẻ nên việc tham gia các phong

trào Hội rất khó khăn, mời họ đi đâu họ cũng biện lý do để không đi” (PVS,

nữ, Chi hội trưởng phụ nữ Tân An, phường Mân Thái)

2.1.2. Năng lực thực hiện chính sách bình đẳng giới

Để đánh giá năng lực này, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu ba nhóm đối

tượng gồm Quận ủy và Đảng ủy phường với số lượng là 5 người, UBND quận

và phường với số lượng 6 người và Hội liên hiệp phụ nữ quận và phường với

10 người.

Về năng lực xây dựng và triển khai kế hoạch

Trong thời gian qua, thực hiện các chỉ đạo ở trên, UBND quận Sơn Trà

cũng đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bình

đẳng giới trên địa bàn quận. Đồng thời cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo thành

các chương trình hành động cụ thể để dễ thực hiện.

“Sau khi nhận được văn bản chỉ đạo của cấp trên, Đảng ủy phường

cũng đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo UBND, UBMT và các ban nhành đoàn thể

từ phường đến khu dân cư xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

bình đẳng giới, các vấn đề liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái trên địa bàn

phường một cách cụ thể từ phường đến cơ sở”. (PVS, nam, Bí thư Đảng ủy

phường Mân Thái)

“Đối với Hội LHPN quận đã xây dựng kế hoạch về triển khai thực

hiên Nghị quyết 11-NQ/TW và chỉ đạo Hội LHPN 7/7 phường xây dựng kế

hoạch triển khai thực hiện nghị quyết trong toàn thể cán bộ, hội viên phụ nữ.

Bên cạnh đó, Hội LHPN quận cũng đã làm rất tốt việc xây dựng các chương

trình hành động, kế hoạch cụ thể để thực hiện công tác bình đẳng giới, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho chị em phụ nữ”. (PVS, nữ, Chủ tịch Hội LHPN

quận Sơn Trà)

Với kết quả này cho thấy cả 3 đơn vị đều đánh giá cao năng lực xây

dựng kế hoạch và triển khai thực hiện chính sách bình đẳng giới của lãnh đạo

28

quận Sơn Trà là rất tốt. Họ đã cụ thể hóa thành những chương trình hành động

riêng của từng đơn vị theo tình hình, đặc điểm của đơn vị mình.

Về năng lực phối hợp trong việc thực hiện chính sách bình đẳng giới,

kết quả phỏng vấn như sau:

“Chúng tôi cảm thấy công tác phối hợp rất khó khăn, vì hầu như các

hoạt động đều do Hội phụ nữ chủ động là chính. Việc thì nhiều, chỉ tiêu đưa

ra của cấp trên cũng nhiều nên toàn chạy theo chỉ tiêu, nhiều khi bỏ bê con

cái, gia đình để lo hoàn thành công việc”. (PVS, nữ, Chủ tịch Hội LHPN

phường An Hải Đông)

Từ kết quả trên cho thấy, công tác phối hợp tổ chức thực hiện chính

sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà trong những năm qua tuy có triển khai

nhưng hiệu quả chưa cao, hoạt động chính vẫn do Hội liên hiệp phụ nữ chủ

động phối hợp là chính, các đơn vị khác chủ yếu thực hiện theo nhiệm vụ

chuyên môn của đơn vị mình.

Về năng lực tuyên truyền, phổ biến trong việc thực hiện chính sách

bình đẳng giới, kết quả phỏng vấn như sau:

Trong thời gian qua, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ quận đã tập trung đẩy

mạnh công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, đa dạng để nâng

cao nhận thức của toàn xã hội đối với hoạt động bình đẳng giới, vì sự tiến bộ

của phụ nữ”, quận đã làm rất tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách

bình đẳng giới đến với người dân bằng các công cụ như tổ chức các buổi tọa

đàm, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, các pano, băng rôn… tuy

nhiên có cái khó là hiện nay cán bộ làm công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ

của phụ nữ từ quận đến cơ sở đều kiêm nhiệm cho nên còn hạn chế về mặt

chuyên môn để tuyên truyền.

“Công tác tuyên truyền trong thời kỳ công nghệ 4.0 cũng là một thách

thức đối với cán bộ Hội phụ nữ, trong khi mạng xã hội ngày càng phát triển

mạnh, người ta có thể ngồi ở nhà để lướt facebook thì cũng có thể biết nhiều

thông tin, nếu mời họ đến dự buổi tuyên truyền mà nội dung không hay thì lần

29

sau họ không tham gia nữa, do đó các cấp hội phụ nữ luôn phải thay đổi các

hình thức tuyên truyền cho sinh động, phong phú, đồng thời luôn có những

phần quà trong phần giao lưu bằng những câu hỏi để kích thích chị em tham

gia, nói chung là công tác tuyên truyền ngày nay rất khó” (PVS, nữ, Chủ tịch

Hội LHPN phường Phước Mỹ)

Với kết quả phỏng vấn như trên, có thể nói năng lực tuyên truyền, phổ

biến chính sách bình đẳng giới trong những năm qua đã được quận thực hiện

rất tốt với vai trò chủ đạo của Hội liên hiệp phụ nữ quận và phường. Từ công

tác tuyên truyền thường xuyên các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà

nước về công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, phòng chống bạo

lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, phòng chống xâm hại trẻ em qua môi trường

mạng… nên các chị em cũng đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi đứng trước đám

đông, tuy nhiên vẫn còn một số cán bộ chi hội chưa mạnh dạn, thiếu tự tin vì

mới được củng cố hoặc do phụ trách kiêm nhiệm nhiều công việc nên nhiệm

vụ chuyên môn luôn đặt lên hàng đầu… Ngoài ra, các cấp Hội còn thường

xuyên tham gia các hoạt động về bình đẳng giới do thành phố tổ chức.

Về năng lực duy trì và thực hiện chính sách bình đẳng giới, kết quả

phỏng vấn như sau:

“Theo tôi nghĩ, chủ thể để duy trì chính sách không phải là cấp cơ sở

mà chúng tôi chỉ làm theo chỉ đạo của cấp trên và làm hết sức những gì có thể

theo chỉ đạo của Trung ương, thành phố và quận để đảm bảo thực hiện tốt

công tác bình đẳng giới như đối với Đảng thì luôn tạo điều kiện trong công

tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ…” (PVS, nam, Bí

thư Đảng ủy phường Thọ Quang, quận Sơn Trà)

Hàng năm, Ủy ban nhân dân quận đều triển khai kế hoạch thực hiện

Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và

vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới” trên địa bàn quận, nhằm tăng

cường sự chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự phối hợp hiệu quả giữa các

phòng, ban, ngành, mặt trận, đoàn thể đối với công tác bình đẳng giới và vì sự

30

tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ

và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, ngành, địa phương có bất

bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới. Củng cố, nâng cao chất

lượng, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến

bộ của phụ nữ. Vận động toàn xã hội cùng góp sức tích cực thực hiện hiệu

quả luật pháp, chính sách, chương trình về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của

phụ nữ.

“Đối với Hội liên hiệp phụ nữ quận và phường thì việc duy trì thực

hiện chính sách là thường xuyên với các hoạt động được tổ chức cụ thể như

tọa đàm, ngày hội, hội thi, sinh hoạt chuyên đề, tuyên truyền… tuy nhiên, kinh

phí hoạt động thì ít mà hoạt động phong trào thì quá nhiều lại không có tiền,

nên nhiều khi cũng không muốn làm” (PVS, nữ, Chủ tịch Hội LHPN quận Sơn

Trà)

Từ kết quả phỏng vấn trên cho thấy, năng lực duy trì việc triển khai

thực hiện chính sách bình đẳng giới ở cả ba nhóm khảo sát là tốt, tuy nhiên về

phía khối Đảng chỉ tập trung cho 1 mảng công tác cán bộ nữ, đối với khối

chính quyền thì hàng năm đều xây dựng kế hoạch nhưng công tác triển khai

thực hiện chủ yếu vẫn là Hội liên hiệp phụ nữ, còn các ngành khác thì theo

quy định phải thực hiện lồng ghép bình đẳng giới vào hoạt động của đơn vị

nhưng đa số các ngành ít thực hiện.

2.1.3. Sự đồng tình ủng hộ của người dân

Trong những năm qua, công tác triển khai thực hiện chính sách bình

đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà đã có những chuyển biến tích cực, cùng

với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân cũng được nâng lên

một cách rõ rệt thông qua các chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hỗ

trợ kiến thức về xây dựng gia đình hạnh phúc, kỹ năng, hỗ trợ phương tiện

sinh kế, vay vốn làm ăn, giới thiệu việc làm, học nghề, hỗ trợ khởi nghiệp… .

Công tác tuyên truyền được triển khai đến tận khu dân cư giúp người dân nắm

được các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về các

31

vấn đề liên quan đến bình đẳng giới để thực hiện. Từ đó, ý thức của người dân

về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình ngày càng được nâng lên.

Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận người dân vẫn còn bị ảnh hưởng của tư

tưởng trọng nam khinh nữ nên vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình xảy ra, năm

2019 có 4 trường hợp bạo lực gia đình xảy ra, tuy nhiên kết quả này đã giảm

nhiều so với các năm trước. Trong thời gian qua, chính sách bình đẳng giới

cũng đã được quận Sơn Trà cụ thể hóa bằng những nội dung, việc làm cụ thể

phù hợp với điều kiện thực tế của quận đem lại lợi ích cho nhân dân, được

nhân dân đồng tình ủng hộ thực hiện.

2.2. Thực trạng, kết quả tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng

giới tại quận Sơn Trà

2.2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới tại

quận Sơn Trà

2.2.1.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

Sau khi có Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số

2146/QĐ-UBND ngày 22/3/2011 của UBND thành phố về việc ban hành

Chiến lược về Bình đẳng giới thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011-2020,

chương trình hành động số 17-CTr/TU, ngày 08/8/2007 về thực hiện Nghị

quyết số 11 của Bộ Chính trị; trong những năm qua, Quận ủy Sơn Trà đã xây

dựng Kế hoạch số 10-KH/QU, ngày 05/11/2007 về triển khai thực hiện Nghị

quyết 11 và tổ chức Hội nghị quán triệt đến toàn thể cán bộ chủ chốt của cấp

quận.

“Sau khi có Nghị quyết 11, Quận ủy đã xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện và chỉ đạo cho UBND, UBMT, các ngành, Hội đoàn thể từ quận đến

cơ sở triển khai xây dựng các kế hoạch và chương trình hành động một cách

cụ thể nhất. Chúng tôi đã bám sát các văn bản chỉ đạo của Trung ương và

thành phố Đà Nẵng để xây dựng các kế hoạch, làm rất tốt vai trò chỉ đạo của

32

mình trong việc triển khai thực hiện chính sách bình đẳng giới” (PVS, nam -

Bí thư Quận ủy Sơn Trà)

UBND quận đã ban hành các Kế hoạch thực hiện như: Kế hoạch số

36/KH-UBND ngày 09/02/2018 của Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà về Đề án

“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự

tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”; Kế hoạch số 84/KH-UBND ngày

21/4/2017 về triển khai thực hiện Đề án “Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực

trên cơ sở giới giai đoạn 2016 -2020, tầm nhìn đến năm 2030” trên địa bàn

quận Sơn Trà, UBND quận đã ban hành Quyết định số 993/2005/QĐ-UBND

ngày 15 tháng 11 năm 2005 về việc ban hành Quy chế quy định trách nhiệm

của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp của quận Sơn Trà tham gia quản lý nhà nước;

Quyết định số 4304/QĐ-UBND ngày 06 tháng 9 năm 2016 về Quy chế phối

hợp công tác giữa Uỷ ban Nhân dân quận Sơn Trà với Hội Liên hiệp Phụ nữ

quận Sơn Trà, nhằm triển khai thực hiện các nội dung có liên quan theo tinh

thần Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ ban

hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực

hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về

công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ quy

định trách nhiệm của Bộ, ngành, UBND các cấp trong việc bảo đảm cho các

cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước; định kỳ chính

quyền làm việc với Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ quận theo tinh thần

Nghị định 56/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ quy

định trách nhiệm của Bộ, ngành, UBND các cấp trong việc bảo đảm cho các

cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

“Hằng năm, Ủy ban nhân dân quận ban hành kế hoạch bình đẳng giới

và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đến các phòng, ngành, đơn vị có liên

quan; Hướng dẫn, đôn đốc các phường xây dựng kế hoạch bình đẳng giới; Tổ

33

chức hội nghị tập huấn kiến thức về giới và bình đẳng giới cho đội ngũ cộng

tác viên và cán bộ, công chức làm công tác bình đẳng giới ở các phòng, ban,

ngành quận và UBND các phường”. (PVS, nam, Phó Ban Vì sự tiến bộ phụ

nữ quận Sơn Trà)

Kế hoạch số 149/KH-UBND ngày 11/9/2017, số 189/KH-UBND ngày

14/11/2018 của Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà về triển khai Tháng hành động

vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2017, 2018; Kế

hoạch số 99/KH-UBND, ngày 22/5/2017 về việc tổ chức Hội thi tuyên truyền

Phòng chống tai nạn thương tích và xâm hại trẻ em năm 2017; Kế hoạch số

116/KH-UBND ngày 07/6/2018 về tổ chức Diễn đàn trẻ em năm 2018 với chủ

đề “phòng chống bạo lực thân thể trẻ em”, Kế hoạch số 118/KH-BQL ngày

24/10/2018 về triển khai thực hiện Dự án bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên

khỏi nguy cơ bị xâm hại tình dục qua môi trường mạng năm 2018.

Song song với việc ban hành các văn bản, chính sách để chăm lo, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho phụ nữ và trẻ em, Hội liên hiệp

phụ nữ quận cũng đã tham mưu Quận ủy, UBND quận triển khai nhiều hoạt

động hỗ trợ phụ nữ gắn với thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận

động như: Kế hoạch số 28/KH-UBND ngày 20/02/2019 về triển khai thực

hiện Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” trên địa bàn

quận; Kế hoạch số 153/KH-UBND ngày 30/8/2019 về thực hiện Đề án

“Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số

vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027” trên địa bàn quận;

Kế hoạch số 78/KH-UBND, ngày 12/5/2020 về triển khai thực hiện Đề án

“Bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội liên hiệp phụ nữ các cấp và chi hội trưởng

phụ nữ giai đoạn 2019-2025” trên địa bàn quận Sơn Trà. Tính chủ động trong

việc xây dựng các văn bản chỉ đạo thực hiện chính sách bình đẳng giới đã tạo

điều kiện thuận lợi cho các ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt các

chính sách về bình đẳng giới.

34

“Trong những năm qua, Hội LHPN quận cũng đã tham mưu cho Quận

ủy, UBND quận ban hành các văn bản hỗ trợ phụ nữ trên nhiều lĩnh vực như

kinh tế, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số

vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ, Đề án “Bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội

liên hiệp phụ nữ các cấp và chi hội trưởng phụ nữ cũng như các hoạt động hỗ

trợ phụ nữ gắn với phong trào thi đua của Hội phụ nữ” (PVS, nữ, Chủ tịch

Hội liên hiệp phụ nữ quận Sơn Trà)

Theo đó, về phía Hội LHPN quận: Căn cứ Chương trình hành động số

24 ngày 30/10/2007 của Hội LHPN thành phố thực hiện Nghị quyết 11, Hội

LHPN quận đã xây dựng kế hoạch số 139/KH-BTV, ngày 02/11/2007 về triển

khai thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW và chỉ đạo cho Hội LHPN 7/7 phường

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết trong toàn thể cán bộ, hội

viên phụ nữ, đồng thời Hội cũng đã chủ động tham mưu Đảng uỷ các phường

xây dựng kế hoạch tổ chức quán triệt Nghị quyết 11-NQ/TW đến cán bộ chủ

chốt của địa phương.

Bên cạnh đó, Hội LHPN quận đã xây dựng kế hoạch số 16/KH-BTV

ngày 08/3/1913 về giám sát việc thực hiện công tác đào tạo cán bộ nữ năm

2013. Đồng thời hàng năm Hội đã chủ động tham mưu Thường trực Quận ủy

tổ chức gặp mặt, tọa đàm cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý nhằm trao đổi về Kỹ

năng, phương pháp, lãnh đạo quản lý.

2.2.1.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền chính sách bình đẳng giới

Trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, công tác tuyên truyền, phổ biến,

triển khai các chính sách, pháp luật trên địa bàn quận Sơn Trà đã được quan

tâm thực hiện thường xuyên, liên tục với tư duy đổi mới, thiết thực và khoa

học hơn nhằm làm cho cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh

pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hằng năm trên cơ sở Kế

hoạch của UBND thành phố Đà Nẵng, UBND quận Sơn Trà đã tập trung chỉ

đạo, hướng dẫn, tổ chức phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, công

35

chức, viên chức, nhân dân, hội viên các đoàn thể nhiều nội dung pháp luật

mới được ban hành đối với các lĩnh vực về giới, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ

em, phòng chống bạo lực gia đình… Quận đã thường xuyên tổ chức các họat

động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức phong

phú như: tập huấn, tọa đàm, hội nghị, tổ chức hội thi, nói chuyện chuyên đề

pháp luật. Chú trọng thường xuyên đến các văn bản luật được Quốc hội thông

qua như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo vệ, chăm

sóc và giáo dục trẻ em, Luật Lao động, Luật Công chức, Luật Bảo hiểm y tế,

Luật Bảo hiểm xã hội, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Pháp lệnh

Dân số và các pháp lệnh khác v.v. và các nội dung khác có liên quan mật thiết

đến đời sống, sinh hoạt hàng ngày của nhân dân.

* Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách với các hình thức đa dạng

và phong phú như: Tuyên truyền miệng, tuyên truyền cổ động trực quan và

Tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng.

Tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền được sử dụng phổ biến,

rộng rãi thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm, các lớp tập huấn và một số

hoạt động khác và được tổ chức thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, các

ngành, đoàn thể quận và phường cũng thường xuyên lồng ghép việc phổ biến

tuyên truyền pháp luật trong các nội dung tuyên truyền khác như phong trào

“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc” phong trào “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hoá”.

Trong những năm qua, các ngành, hội đoàn thể từ quận đến phường tập

trung tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền về thực hiện chính sách, pháp luật

hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.

Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới nhằm nâng cao

nhận thức giới và bình đẳng giới, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị

trí, trách nhiệm của xã hội và từng gia đình trong việc thực hiện công tác

phòng chống bạo lực trên cơ sở giới và bình đẳng giới. Công tác phổ biến,

tuyên truyền về giới và bình đẳng giới được đưa vào chương trình giáo dục

36

trong nhà trường, trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cộng đồng,

thông qua các chương trình học tập, các buổi tập huấn, các ấn phẩm, pano,

băng rôn, cờ phướn, các chương trình phát thanh, truyền hình và các hội thi,

hội diễn… Đồng thời, Phòng Văn hóa và Thông tin đã phối hợp với Trung

tâm Văn hóa - Thông tin và Thể thao thực hiện tốt công tác tuyên truyền cổ

động trực quan với 180 panô, 270 phướn; xây dựng 30 Tiết mục “Tìm hiểu

văn bản, chính sách mới” giới thiệu các kế hoạch, văn bản chỉ đạo của quận;

thực hiện hơn 250 tin, bài, 22 chuyên đề phản ánh kết quả thực hiện từ quận

đến cơ sở trên sóng truyền thanh và Trang thông tin điện tử quận về công tác

tổ chức các hoạt động phục vụ phụ nữ và trẻ em; Hưởng ứng Ngày Quốc tế

xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em; Thực hiện bình đẳng trong gia đình

để xóa bỏ bạo lực gia đình… [25, tr6]. Ngoài ra, quận Sơn Trà còn tổ chức

biểu dương các gương người tốt việc tốt, gương điển hình tiên tiến trong công

tác phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, phụ nữ phát triển kinh tế,

trong các phong trào thi đua yêu nước.

Thường xuyên tuyên truyền bằng xe loa về các chính sách thực hiện

bình đẳng giới và giới, các chính sách hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tham

gia giải quyết một số vấn đề xã hội có liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái…

Đồng thời, tuyên truyền đề án: “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức

phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, và đề án

“Tuyên truyền, giáo dục năm triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt” đến với hội viên

phụ nữ và trẻ em gái trên địa bàn quận.

“Đối với Hội phụ nữ từ quận đến cơ sở cũng đã tổ chức nhiều hoạt

động tuyên truyền bằng nhiều hình thức khác nhau như hội thi, hội diễn văn

nghệ về các chủ đề “Gia đình yêu thương”, “Gia đình hạnh phúc”, tọa đàm

“Yêu thương và chia sẻ để giữ gìn hạnh phúc gia đình”… qua đó nhằm nâng

cao kiến thức cho các gia đình về phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực đối

với phụ nữ và trẻ em gái; luật bình đẳng giới, luật hôn nhân gia đình, quyền

trẻ em, phòng chống xâm hại trẻ em qua môi trường mạng… và kỹ năng xây

37

dựng gia đình hạnh phúc, no ấm, bình đẳng, tiến bộ. Và nhiều hoạt động thiết

thực khác để có thể giúp cho hội viên phụ nữ hiểu về các chính sách liên quan

đến bình đẳng giới cho phụ nữ và trẻ em trên địa bàn quận”. (PVS, nữ, Chủ

tịch Hội liên hiệp phụ nữ quận Sơn Trà)

Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách bình đẳng giới trên địa bàn

quận Sơn Trà trong thời gian qua đã được duy trì thường xuyên và đạt nhiều

kết quả đáng khích lệ.

“Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách

liên quan đến giới và bình đẳng giới được triển khai tổ chức thực hiện tốt qua

nhiều kênh như qua trang thông tin điện tử, đài truyền thanh quận và phường,

các hoạt động giao lưu, văn hóa văn nghệ, sân khấu hóa, các hoạt động tập

huấn kiến thức, tuyên truyền tại khu dân cư… như vậy chính sách về bình

đẳng giới mới đến được với người dân, giúp người dân dễ hiểu và thực hiện”

(PVS, nữ, cán bộ làm công tác bình đẳng giới phường Mân Thái, quận Sơn

Trà)

Các thành viên trong Ban vì sự tiến bộ phụ nữ từ quận đến phường đã

tích cực tổ chức triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền phong phú, đa dạng,

sôi nổi, góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà

nước đi vào cuộc sống. Nhận thức pháp luật của cán bộ và nhân dân có

chuyển biến rõ rệt, nhất là trong đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình, tệ

nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái được kiểm soát, an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, góp phần tạo thành công chung trong

việc thực hiện chính sách bình đẳng giới. Tuy nhiên, việc triển khai tuyên

truyền chính sách bình đẳng giới vẫn chưa đồng bộ, chưa có sự phối hợp chặt

chẽ giữa các ngành, đoàn thể mà chủ yếu hoạt động chính vẫn là Hội liên hiệp

phụ nữ quận chủ động tổ chức thực hiện như ý kiến được phỏng vấn sau:

“Trong công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng

giới: tuy được các cấp uỷ Đảng quan tâm và chỉ đạo nhưng phần lớn vẫn do

các cấp Hội phụ nữ chủ động tổ chức tuyên truyền, sự tham gia của các

38

ngành đoàn thể khác trong công tác này còn hạn chế. Mặt khác, những định

kiến về giới trong cộng đồng xã hội vẫn còn tồn tại từ lâu nên việc thay đổi và

nâng cao nhận thức về bình đẳng giới đòi hỏi lâu dài, bền bỉ. Ngoài ra, trình

độ đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về giới và bình đẳng giới đối với

các cấp Hội cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế.” (PVS, nữ, Chủ tịch Hội liên hiệp

phụ nữ phường An Hải Bắc)

2.2.1.3. Thực trạng phân công, phối hợp thực thi chính sách bình đẳng

giới

Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ quận Sơn Trà đã tham mưu UBND quận xây

dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bình đẳng giới và phân công

nhiệm vụ cụ thể cho các Phòng, ban ngành và đoàn thể quận và phường như

sau:

Phòng Nội vụ chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Quận ủy, phòng Lao

động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan

Tham mưu thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức về giới và lồng

ghép giới trong công tác tổ chức cán bộ và trong chính sách phát triển nguồn

nhân lực một cách có hiệu quả. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng trình

độ chuyên môn, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ, … cho cán bộ nữ trẻ;

quan tâm, ưu tiên, tạo điều kiện cử cán bộ, công chức, viên chức, lao động nữ

tham gia các lớp học.

Phòng tài chính quận chủ trì, phối hợp với Phòng Lao động, Thương

binh và Xã hội quận

Tham mưu bố trí ngân sách để tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng

giới theo dự toán hàng năm. Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, địa phương lập

dự toán ngân sách và sử dụng kinh phí phân bổ cho hoạt động bình đẳng giới

đảm bảo đúng mục đích và có hiệu quả theo quy định.

Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội quận chủ trì phối hợp với Sở

Lao động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan

39

- Giảm chi phí tiếp cận việc làm và thời gian tìm việc của người lao

động thông qua việc phối hợp xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao

động, tư vấn về việc làm và về cơ hội đầu tư. Thực hiện các biện pháp nhằm

đáp ứng nhu cầu của nữ giới và nam giới tham gia bảo hiểm tự nguyện và các

loại hình bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN), chú ý nhóm dễ bị tổn thương

(như lao động di cư, lao động nghèo).

- Bảo đảm các điều kiện để phụ nữ được bình đẳng về cơ hội tham gia

sản xuất kinh doanh, các chương trình vay vốn tín dụng, thông tin thị trường,

thông tin về luật pháp, chính sách và các nguồn tài trợ nước ngoài. Thực hiện

các chính sách đối với phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, phụ nữ bị bạo lực gia

đình nhằm ổn định cuộc sống.

- Nâng cao tay nghề, kỹ năng, cách quản lý, kinh doanh phát triển tiểu

thủ công nghiệp, chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng cũng như phát

triển các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư ở vùng di dời giải tỏa,

tái định cư. Thực hiện đầy đủ các chính sách đào tạo nghề cho các đối tượng

đặc thù; chính sách hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt

là cơ sở thu hút nhiều lao động nữ. Nâng cao hiệu quả các chương trình tín

dụng ưu đãi của Ngân hàng chính sách xã hội, đặc biệt là các chương trình

cho vay hộ nghèo và giải quyết việc làm. Huy động thêm các nguồn vốn khác

để cho vay giải quyết việc làm và giảm nghèo; tranh thủ các dự án viện trợ

của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức nước ngoài để hỗ trợ sinh kế cho

phụ nữ nghèo tạo việc làm vươn lên thoát nghèo.

Phòng Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và

các đơn vị có liên quan

- Tham mưu, đề xuất các cấp tiếp tục thực hiện kịp thời chế độ chính

sách cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong mối tương quan bình

đẳng giới, đồng thời có chính sách thu hút giáo viên tiểu học và mầm non là

nam giới.

40

- Lồng ghép nội dung về bình đẳng giới vào giảng dạy trong các trường

học từ phổ thông đến trung cấp chuyên nghiệp, tạo điều kiện để học sinh được

tiếp cận các chương trình giáo dục giới tính, các kiến thức giáo dục về sức

khỏe sinh sản vị thành niên.

- Thực hiện lồng ghép giới trong các chính sách, chương trình, kế

hoạch của ngành giáo dục, đặc biệt có chính sách đặc thù cho trẻ em gái, nữ

sinh; xây dựng cơ sở dữ liệu có tách biệt theo giới tính ở các cấp học, bậc học.

Trung tâm Y tế chủ trì phối hợp với phòng Y tế

Tiếp tục tham mưu UBND thành phố, UBND quận đầu tư cơ sở chăm

sóc sức khỏe phụ nữ; tăng cường nhân lực, cơ sở vật chất cho trạm y tế tuyến

phường. Củng cố và phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe, sức khỏe sinh sản -

kế hoạch hóa gia đình nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ

cán bộ ngành y tế. Xây dựng kế hoạch tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho lao

động nữ trong các ngành, nghề nặng nhọc, độc hại theo danh mục quy định

của Bộ Y tế và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Thực hiện lồng ghép

trong các chính sách, chương trình, kế hoạch của ngành y tế.

Phòng Văn hóa và Thông tin chủ trì, phối hợp với Đài truyền thanh

quận, Trung tâm Văn hóa - Thể thao quận

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về giới trên các phương tiện thông

tin đại chúng với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối

tượng và từng khu vực. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra các hoạt động và sản

phẩm văn hóa, thông tin từ góc độ giới. Nâng cao nhận thức về giới cho người

sản xuất các sản phẩm văn hóa, thông tin.

Phòng Văn hóa và Thông tin chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan,

UBND các phường

Đẩy mạnh việc xây dựng gia đình văn hóa, trong đó nhấn mạnh tiêu chí

bình đẳng giới trong gia đình. Có mô hình tư vấn, địa chỉ tin cậy thí điểm hỗ

trợ cho trường hợp bị bạo lực gia đình. Xây dựng và thực hiện thí điểm mô

hình tư vấn, hỗ trợ phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới và buôn bán người;

41

duy trì và nhân rộng mô hình câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ gia

đình không có bạo lực; thu hút sự tham gia tích cực của nam giới vào các hoạt

động này, nhân rộng các mô hình thành công.

Phòng Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan

Tiếp tục vận động thành lập mới và củng cố đội ngũ cộng tác viên, tình

nguyện viên tham gia công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Tổ

chức các đợt tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng ghép giới cho

thành viên Ban vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp, cán bộ công chức làm công tác

bình đẳng giới ở các phòng ban chuyên môn thuộc quận.

Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam quận và các tổ chức thành viên, Hội

LHPN quận

Tham gia tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, giáo dục về chính sách bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức

cho người dân, hội viên; hướng dẫn người dân, hội viên thực hiện và giám sát

việc quản lý nhà nước về bình đẳng giới.

UBND các phường

Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, cung cấp địa chỉ tin cậy về bạo

lực gia đình đến từng hộ gia đình, chị em phụ nữ. [27, tr6-8]

Nhìn chung, việc phân công phối hợp thực hiện chính sách bình đẳng

giới trên địa bàn quận Sơn Trà đã được nêu khá rõ ràng, cụ thể, phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ và chuyên môn của từng đơn vị, từng ngành. Sự phân

công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp, các ngành, các đơn vị để các đơn vị tự chủ

động tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới và có cơ chế phối hợp một

cách chặt chẽ để tránh tình trạng chồng chéo công việc hay bỏ sót không ai

chịu trách nhiệm.

“Chúng tôi thường xuyên chủ động phối hợp với các ngành chức năng,

Mặt trận và các đoàn thể tổ chức các hoạt động nhằm tuyên truyền, giáo dục

hướng dẫn hội viên phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc thông qua các buổi

sinh hoạt chi, tổ, CLB, các hội thi, giao lưu, các buổi toạ đàm, hội

42

thảo…đồng thời vận động HVPN tích cực thực hiện phong trào thi đua “Phụ

nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn kết

với việc đăng ký xây dựng gia đình văn hoá tại khu dân cư”. (PVS, nữ, Chủ

tịch Hội LHPN phường An Hải Tây)

“Công tác phân công phối hợp được phân công như vậy, nhưng hoạt

động vẫn do Hội phụ nữ chủ động phối hợp với các đơn vị, các ngành là

chính; các đơn vị khác chỉ thực hiện theo nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị

mình. Còn đối với Cấp ủy Đảng và chính quyền thì chủ yếu là công tác chỉ

đạo” (PVS, nữ, Chủ tịch Hội LHPN phường Thọ Quang)

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện chính sách bình

đẳng giới tại quận Sơn Trà thì việc phối hợp giữa các ngành, các đơn vị còn

chưa chặt chẽ, đồng bộ, công tác phối hợp còn mang tính hình thức. Do đó,

chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,

gia đình trong các quy định của pháp luật về bình đẳng giới. Các ngành, các

đơn vị thường tổ chức thực hiện dựa trên kế hoạch đã được xây dựng trước;

trong khi đó, trong quá trình thực hiện chính sách bình đẳng giới thì việc phối

hợp giữa các đơn vị thực hiện với người dân để thực hiện việc giám sát, phản

biện lại rất khó thực hiện và ít có hiệu quả.

2.2.1.4. Thực trạng tổ chức và phát triển Hội liên hiệp phụ nữ

Xác định vai trò chủ chốt của Hội liên hiệp phụ nữ trong công tác thực

hiện chính sách bình đẳng giới, lãnh đạo quận Sơn Trà đã tập trung chỉ đạo

Hội LHPN quận xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, làm nòng cốt trong việc

thực hiện chính sách bình đẳng giới của quận. Từ đó, công tác cán bộ Hội

luôn được Quận ủy quan tâm, chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch đảm bảo

nguồn kế cận, nâng cao chất lượng cán bộ Hội chủ chốt ở cấp phường, đồng

thời xây dựng đề án nhân sự đảm bảo công tác nhân sự đủ trình độ, tiêu

chuẩn, chất lượng Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ quận

nhiệm kỳ 2011-2016 và 2016-2021. Tổng số UVBCH: năm 2007: 19 cán bộ

43

nữ, năm 2017: 21 cán bộ nữ, UV Ban Thường vụ: năm 2007: 05 cán bộ nữ,

năm 2017: 07 cán bộ nữ

Công tác xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức Hội được các cấp Hội

quan tâm, Để tổ chức Hội thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng

cốt trong công tác vận động phụ nữ, các cấp Hội đã không ngừng đổi mới nội

dung, phương thức hoạt động, kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao chất

lượng hiệu quả hoạt động Hội. Trong 10 năm qua tổ chức hội đã phát triển

được 7.298 hội viên phụ nữ đến nay tổng hội viên 19.556/25.014 phụ nữ từ 18

tuổi trở lên. Phát huy vai trò của đội ngũ hội viên nòng cốt trong phong trào

của hội năm 2007 có 1.354 HVPN đến nay có 3.819 HVPN. Đồng thời, củng

cố và phát triển chi, tổ hội phụ nữ từ năm 2007 có 85 chi hội, 348 tổ hội đến

nay có 173 chi hội. Cán bộ Chi hội: năm 2007: 172 cán bộ nữ, năm 2017: 346

cán bộ nữ. Hiện nay, Cán bộ Hội tham gia Bí thư, Phó Bí thư, Trưởng Ban

công tác Mặt trận, Tổ tưởng, Tổ phó dân phố là 231 cán bộ nữ. Trong 5 năm

qua, Hội phụ nữ từ quận đến phường đã thành lập được 47 CLB có 1.172

thành viên với đa dạng mô hình như: CLB gia đình hạnh phúc, CLB phòng

chống bạo lực gia đình, CLB xa nhà, CLB thể dục thể thao, CLB tiểu thương,

CLB sống xanh,v.v… nhằm thu hút phụ nữ đến với tổ chức hội.[9, tr2]

Nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị, kỹ năng nghiệp vụ công tác

Hội và phương pháp vận động phụ nữ, hằng năm quận hội phối hợp với Trung

tâm Bồi dưỡng chính trị quận tổ chức các lớp tập huấn dành cho đội ngũ cán

bộ Hội, báo cáo viên, tuyên truyền viên, hội viên nòng cốt, tiêu biểu của Hội,

bên cạnh đó, Hội LHPN phường thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng

nghiệp vụ công tác Hội theo từng chuyên đề, tọa đàm tìm giải pháp, kinh

nghiệm của các cô các chị cán bộ Hội qua các nhiệm kỳ, tham gia dự sinh

hoạt điểm, sinh hoạt theo chuyên đề... từ đó trình độ đội ngũ cán bộ Hội được

nâng cao tại 36 lớp cho 3250 lượt cán bộ tham dự.

Thực hiện kế hoạch hành động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ thành phố,

quận bằng nhiều hình thức lồng ghép tuyên truyền, sinh hoạt, Hội thi, hội thảo

44

với nội dung về giới và bình đẳng giới…, chương trình giáo dục pháp luật và

trợ giúp pháp lý cho hội viên phụ nữ; tuyên truyền Luật hôn nhân gia đình,

Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình và các văn bản pháp

luật có liên quan đến phụ nữ. Các hoạt động tuyên truyền đều có sự tham gia

tích cực của các cấp Hội phụ nữ trong công tác vận động nhân dân và hội viên

phụ nữ.

Cùng với việc chủ động, tham mưu với các cấp uỷ Đảng trong việc triển

khai quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ thông qua

Nghị quyết 11, trong thời gian qua, các cấp Hội đã tích cực tổ chức nhiều hoạt

động nhằm tuyên truyền giáo dục, góp phần từng bước nâng cao nhận thức về

giới và bình đẳng giới, về công tác phụ nữ thông qua nhiều hình thức đa dạng

phong phú.

Đối với cán bộ, hội viên phụ nữ và cộng đồng, Hội đã tổ chức nhiều

buổi sinh hoạt, hội thảo, toạ đàm, hái hoa dân chủ, phát tờ rơi, xây dựng tiểu

phẩm để tuyên truyền nhằm giúp HVPN cũng như cộng đồng nâng cao hiểu

biết về giới và bình đẳng giới, về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà

nước có liên quan đến phụ nữ.

Đối với cán bộ lãnh đạo cấp uỷ đảng, chính quyền các ban ngành đoàn

thể, Hội liên hiệp phụ nữ quận đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động nhằm

tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giới và công tác phụ nữ thông qua các

hoạt động như: Hội thảo “Giới và lồng ghép giới trong hoạch định chính

sách”, tổ chức ngày hội “Bình đẳng giới”, hội thảo “Nâng cao vị thế người

phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình”, toạ đàm “Vai trò của phụ

nữ trong gia đình và ngoài xã hội”, “Giới và gia đình”… Qua các hoạt động

đó, từng bước nhận thức về giới của các cấp lãnh đạo, các ngành, cán bộ hội

viên phụ nữ cũng như cộng đồng được nâng cao, có sự nhìn nhận, đánh giá

khẳng định vai trò của phụ nữ trong xã hội.

Chủ động phối hợp với các ngành chức năng, Mặt trận và các đoàn thể

tổ chức các hoạt động nhằm tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn hội viên phụ

45

nữ xây dựng gia đình hạnh phúc thông qua các buổi sinh hoạt chi, tổ, câu lạc

bộ, các hội thi, giao lưu, các buổi toạ đàm, hội thảo…đồng thời vận động

HVPN tích cực thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao

động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn kết với việc đăng ký xây

dựng gia đình văn hoá tại khu dân cư.

Tuy nhiên, “Trình độ của chị em hội viên phụ nữ không đồng đều cho

nên chúng tôi phải thay đổi phương thức hoạt động liên tục cho phù hợp với

từng đối tượng hội viên phụ nữ. Các hoạt động phải thiết thực làm cho chị em

cảm thấy dễ hiểu và có lợi thì chị em mới tham gia” (PVS, nữ, Chủ tịch Hội

LHPN phường Phước Mỹ)

Mặt khác, cùng với việc tổ chức các buổi tuyên truyền, Hội LHPN quận

đã tích cực xây dựng các mô hình câu lạc bộ về gia đình nhằm hướng dẫn phụ

nữ tổ chức tốt cuộc sống gia đình với tổng số CLB hiện nay là 47 CLB có

1.172 thành viên với các tên gọi như: CLB gia đình hạnh phúc, CLB tiểu

thương, CLB xa nhà, CLB thể thao, CLB sống xanh... Thực hiện chương trình

“Phụ nữ với ngày pháp luật”, Hội liên hiệp phụ nữ quận đã chọn ngày 05

hằng tháng là “Ngày pháp luật”, kịp thời phổ biến những chính sách, pháp

luật mới đến đội ngũ cán bộ Hội chủ chốt ở cơ sở, qua đó đội ngũ cán bộ Hội

đã tham gia tích cực công tác hoà giải tại khu dân cư, nhất là các vụ việc có

liên quan đến phụ nữ. [9, tr4-5]

Trong chương trình hoạt động, các cấp Hội phụ nữ đã chủ động phối

hợp với các ngành chức năng làm tốt các công tác về phòng chống bạo lực gia

đình, các tệ nạn xã hội, về môi trường, dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm

sóc sức khoẻ trẻ em, phụ nữ… để góp phần hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình

hạnh phúc.

Hội LHPN đã tổ chức nhiều mô hình hoạt động thiết thực giúp phụ nữ

xây dựng gia đình hạnh phúc là công tác hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo, phát triển

kinh tế gia đình. Trong những năm qua, các cấp Hội đã chủ động tổ chức và

tích cực tham mưu với Đảng, phối hợp với Chính quyền, Mặt trận và các ban

46

ngành, đoàn thể để triển khai thực hiện nhiều hoạt động như hỗ trợ vay vốn,

trao phương tiện sinh kế, học bổng, sửa chữa nhà, mua bảo hiểm y tế, hỗ trợ

chi phí chữa bệnh, thuốc men, hướng dẫn học nghề, giới thiệu việc làm… cho

chị em phụ nữ nghèo, khó khăn qua đó giúp chị em thoát nghèo, cải thiện

cuộc sống, xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc. Bên cạnh đó, cũng quan tâm

chú ý hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế như đề xuất chính quyền, các ngành liên

quan tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp nữ, ưu tiên

hỗ trợ vốn mở rộng sản xuất cho những cơ sở có đông lao động nữ, tổ chức

các lớp tập huấn về định hướng làm ăn, hỗ trợ xây dựng ý tưởng khởi nghiệp

cho phụ nữ khởi sự kinh doanh, thành lập một số mô hình nhằm giúp những

chị em nghèo có việc làm, tăng thu nhập như: Học nghề làm nấm, dịch vụ

giúp việc gia đình và giới thiệu lao động nữ đến học tại các trung tâm dạy

nghề, phối hợp tổ chức các lớp học nghề cho lao động nữ với các nghề phù

hợp như nấu ăn, làm bánh, cắm hoa…

2.2.2. Kết quả thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà

2.2.2.1. Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế và phối hợp thực

hiện chính sách bình đẳng giới

Với cấp quận: UBND quận Sơn Trà đã ban hành Quyết định số

3640/QĐ-UBND, ngày 01/8/2017 về việc Tổ chức lại Ban “Vì sự tiến bộ của

phụ nữ” quận Sơn Trà. Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ quận do Chủ tịch

UBND quận làm Trưởng Ban và 03 phó ban gồm công chức, viên chức phòng

Tài chính - kế hoạch - Phó ban trực, Chủ tịch Hội LHPN quận, và Trưởng

phòng lao động Thương binh - xã hội quận kiêm nhiệm công tác bình đẳng

giới và vì sự tiến bộ phụ nữ.

Với cấp phường: Trưởng Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ phường do Chủ

tịch UBND phường đảm nhiệm và 2 phó ban phụ trách công bình đẳng giới,

vì sự tiến bộ của phụ nữ do công chức Văn phòng - thống kê UBND phường -

Phó ban trực và Chủ tịch Hội LHPN phường kiêm nhiệm; thành viên là đại

diện Lãnh đạo các phòng, ban, ngành, hội đoàn thể liên quan. Kinh phí triển

47

khai thực hiện Luật bình đẳng giới, hằng năm Ban vì sự tiến bộ cấp quận lập

gửi Phòng Tài chính để tham mưu UBND quận bố trí kinh phí trong dự toán

kế hoạch hằng năm theo quy định; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, tổng

hợp tình hình thực hiện và định kỳ báo cáo cho cấp trên.

2.2.2.2. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị

Quan điểm “nam - nữ bình quyền” đã được khẳng định trong Cương

lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Quan điểm của Đảng

ta về phụ nữ tham chính cũng được thể hiện rõ qua các văn bản quy phạm

pháp luật về công tác cán bộ nữ của qua các thời kỳ. Nghị quyết số 11-

NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: xây dựng, phát

triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là

yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ

của Đảng. [2]

Quán triệt quan điểm của Đảng, nguyên tắc bình đẳng nam nữ được thể

chế hóa trong Hiến pháp và hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà

nước Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho phụ nữ tham gia chính trị. Quy định về

bình đẳng giới và không phân biệt đối xử trong lĩnh vực chính trị được thể

hiện trong Hiến pháp năm 2013. Luật Bình đẳng giới và Chiến lược Quốc gia

về Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Chương trình quốc gia về bình đẳng

giới giai đoạn 2011-2015, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn

2016-2020 đã được ban hành. Các cơ quan, tổ chức hoạt động về bình đẳng

giới và vì sự tiến bộ của nữ giới đang từng bước được hoàn thiện. Trong

những năm qua, đối với quận Sơn Trà, công tác bình đẳng giới trong lĩnh vực

chính trị luôn được Quận ủy quan tâm chỉ đạo, đem lại kết quả nhất định như

sau:

Bảng 2.1: Số lượng cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ,

Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư quận và phường.

48

Tăng/giảm Nhiệm Nhiệm so với STT Tên đơn vị kỳ 2015- Tỷ lệ kỳ 2020- Tỷ lệ nhiệm kỳ 2020 2025 trước

Ban chấp hành

1 Đảng bộ quận 7/36 19,4% 6/35 17,1% -2,3%

Sơn Trà

Ban Thường vụ

2 Quận ủy Sơn 2/12 16,7% 3/11 27,3% 10,6%

Trà

Bí thư Quận ủy 3 0/1 0% 1/1 100% 100% Sơn Trà

Phó Bí thư

4 Quận ủy Sơn 1/2 50% 0/2 0% -50%

Trà

Ban chấp hành 38/100 5 Đảng bộ 38% 39/104 37,5% -0,5%

phường

Ban Thường vụ 6 8/35 22,9% 8/35 22,9% 0% Đảng ủy

7 Bí thư Đảng ủy 1/7 14,3% 1/7 14,3% 0%

Phó Bí thư 8 6/14 42,9% 5/14 35,7% -7,2% Đảng ủy

Nguồn: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ quận Sơn Trà khóa V

và kết quả Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Sơn Trà lần thứ VI, nhiệm kỳ 2020-

2025 diễn ra từ ngày 16/7-18/7/2020)

Số liệu thể hiện ở Bảng 1 cho thấy: Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy quận và

phường nhiệm kỳ 2020-2025 tuy có giảm so với nhiệm kỳ 2015-2020, tuy

49

nhiên cả 2 nhiệm kỳ đều vượt so với chỉ tiêu đề ra, đảm bảo 15% tỷ lệ nữ

tham gia cấp ủy Đảng.

Theo số liệu thống kê, Ủy viên Ban Thường vụ cấp phường, nhiệm kỳ

2020 - 2025 là 8/35, tỷ lệ 22,9% (bằng với nhiệm kỳ trước). Có 1 đồng chí Bí

thư, 5 đồng chí Phó Bí thư; 4 Phó Chủ tịch UBND. Ủy viên Ban Thường vụ

quận, 3/11 người, tỷ lệ 27,3%; tăng 10,6% so với nhiệm kỳ 2015-2020, có 01

đồng chí nữ giữ vị trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp quận (Bí thư Quận ủy: 01;

Chủ tịch HĐND Quận: 01); Đến nay, tổng số đảng viên nữ trong toàn quận là

1.847/5.220 (đạt 35,4%).

Bảng 2.2: Số lượng nữ tham gia đại biểu HĐND quận và phường,

nhiệm kỳ 2016-2021

STT Tên đơn vị Số lượng nữ Tỷ lệ

Hội đồng nhân dân cấp quận 10/37 27% 1

Hội đồng nhân dân cấp phường 71/193 36,8% 2

Nguồn: Báo cáo năm 2016 của Quận ủy Sơn Trà

Như vậy, nữ đại biểu HĐND ở cấp phường đạt chỉ tiêu Nghị quyết 11-

NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra, còn lại tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp quận

chưa đạt so với Nghị quyết (35%). Tuy nhiên, tỷ lệ này ở quận Sơn Trà cao

hơn ở cả hai cấp phường và quận so với tỷ lệ chung của cả nước (tỷ lệ nữ đại

biểu Quốc hội khóa XIV là 26,7%).

Bảng 2.3: Số lượng nữ trong cơ quan nhà nước

STT Tên đơn vị Số lượng nữ Tỷ lệ

Cán bộ nữ trong cơ quan quận 104/227 41,1% 1

Cán bộ nữ trong khối phường 95/291 32,6% 2

Nguồn: Báo cáo Kết quả thực hiện Nghị quyết 11 của Quận ủy Sơn Trà

50

Qua số liệu về đại biểu HĐND, nữ cấp ủy và cán bộ nữ trong toàn quận

như trên đã cho thấy phụ nữ đã có mặt hầu hết trong Cấp ủy, HĐND các cấp.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch cán bộ nữ được quan tâm thường

xuyên. Trong 05 năm qua, tỷ lệ nữ được đào tạo trên đại học (Thạc sĩ) ở địa

bàn quận là 32/82 người, chiếm 39%; bên cạnh đó, tỷ lệ cán bộ nữ ở quận Sơn

Trà được cử đi học các lớp lý luận chính trị chiếm 63,4% trên tổng số cán bộ

được cử đi học (97/153). Có 13/25 cán bộ nữ được bổ nhiệm, giới thiệu ứng

cử lần đầu và giữ chức danh cao hơn, chiếm tỷ lệ 52%. Tỷ lệ cán bộ nữ lãnh

đạo, quản lý các phòng, ban, ngành thuộc quận chiếm tỷ lệ 37,83%, tăng

6,67% so với thời điểm đầu năm 2016; trong đó có 5 đơn vị cấp trưởng là nữ.

Tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý 7 phường tăng 9,6%; 7/7 phường đều có cán

bộ nữ giữ một trong các chức danh Thường trực Đảng ủy, HĐND, UBND và

trong Ban Thường vụ Đảng ủy và nhiều cán bộ nữ trẻ tuổi đã được bổ nhiệm

vào các vị trí chủ chốt của các ban, ngành, đoàn thể. Cụ thể, nhiệm kỳ 2015-

2020, Ban Chấp hành Đảng bộ quận có 19,4% nữ, độ tuổi từ 40 tuổi trở xuống

chiếm 60%; lãnh đạo trưởng, phó các phòng, ban, ngành 171 người; có

35,08% nữ, độ tuổi từ 40 trở xuống 45,02%; Ban Chấp hành Đảng bộ các

phường 100 người, trong đó 38% nữ, độ tuổi từ 35 trở xuống 32,08%. Trong

số 101 cán bộ, công chức được quy hoạch vào các chức danh chủ chốt 7

phường, có 40,6% nữ, 50,5% từ 35 tuổi trở xuống.

Quận Sơn Trà đã chủ động rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ nói

chung, trong đó chú trọng đến công tác quy hoạch cán bộ nữ nhiệm kỳ 2010 -

2015 và 2015-2020 cấp quận và cơ sở đảm bảo cơ cấu, số lượng, tiêu chuẩn,

điều kiện; quy hoạch cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị cơ cấu theo 03 độ tuổi;

thực hiện tốt phương châm “động” và “mở” trong quy hoạch, khắc phục tình

trạng quy hoạch khép kín, cục bộ địa phương, chú trọng mở rộng quy hoạch

cán bộ nữ tại các địa phương, đơn vị khó khăn về nguồn cán bộ nữ. Công khai

công tác và kết quả quy hoạch cho tập thể và cá nhân cán bộ trong diện quy

hoạch được biết. Qua quy hoạch đã còn nhiều trường hợp được quy hoạch

51

vượt cấp vào cấp ủy, Ban Thường vụ và các chức danh chủ chốt cấp quận.

[25, tr2]

Đồng thời, để chuẩn bị nhân sự nhiệm kỳ 2020-2025, Quận ủy sơn Trà

đã quy hoạch 32 cán bộ nữ vào Ban Chấp hành Đảng bộ quận, trong đó quy

hoạch 4 cán bộ nữ vào Ban Thường vụ Quận ủy. Vào năm 2019, tất cả cán bộ,

công chức của quận Sơn Trà đều đã được chuẩn hóa về trình độ chuyên môn

và chính trị. Bên cạnh đó, ở hầu hết các đơn vị sự nghiệp, các phòng ban

chuyên môn của quận đều có từ 1-2 cán bộ nữ.

Với kết quả đạt được như trên, có thể khẳng định, công tác thực hiện

chính sách BĐG về chính trị ở quận Sơn Trà đã có bước tiến mới, nhìn chung

đội ngũ cán bộ, công chức nữ của quận Sơn Trà và các phường đã được trẻ

hóa và bảo đảm trình độ chuyên môn lẫn chính trị. Kế hoạch hành động Chiến

lược quốc gia về bình đẳng giới, công tác cán bộ nữ trên địa bàn quận có sự

chuyển biến tích cực; công tác tuyển dụng, quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi

dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà

nước, hội, đoàn thể từng bước được quan tâm. Tỷ lệ cán bộ nữ ưu tú được tín

nhiệm tham gia các chức danh chủ chốt ngày càng tăng, góp phần tạo điều

kiện cho đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý có điều kiện đóng góp khả năng,

trí tuệ vào sự nghiệp phát triển chung của quận.

2.2.2.3. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao

động, việc làm

Để thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế - yếu tố mang tính

quyết định, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác đối với

nữ. Phụ nữ là đối tượng chính trong nhóm lao động có thu nhập thấp, dễ rơi

vào tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp, có điều kiện việc làm bấp bênh

hơn nam giới. Phụ nữ cũng chiếm phần lớn trong nhóm làm công việc của gia

đình không được trả lương, trong khu vực của nền kinh tế “phi chính thức”

như: Giúp việc gia đình, lao động tại gia, bán hàng rong,… Theo Điều 12,

Luật Bình đẳng giới: Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế là: “Nam, nữ bình

52

đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh

doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn

vốn, thị trường và nguồn lao động”. Trên cơ sở đó, vấn đề giải quyết việc

làm, tạo điều kiện phát triển kinh tế cho lao động nữ được quận Sơn Trà quan

tâm triển khai thực hiện.

Tính đến cuối năm 2019, số người trong độ tuổi lao động ở quận Sơn

Trà là 103.116 người (nữ 50.024 người, chiếm 48,5%).[21, tr87]. Tổng số hộ

nghèo của quận tính đến đầu năm 2020 là 2.031 hộ nghèo, trong đó có 957 hộ

do phụ nữ làm chủ hộ, chiếm tỷ lệ 47,1% tổng số hộ nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp

của lao động nữ trong độ tuổi lao động ở quận năm 2019 giảm còn 3,88%

(năm 2015: 4,15%) [21, tr87]. Số doanh nghiệp trên địa bàn quận tính đến

cuối năm 2019: 3.822 doanh nghiệp; trong đó, tỷ lệ nữ giám đốc, chủ doanh

nghiệp trên địa bàn quận là 33,8% %. Từ năm 2015 đến năm 2019, toàn quận

giải quyết việc làm cho 33.802 lao động, đạt 102,4% so với Nghị quyết Đại

hội nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra (bình quân mỗi năm giải quyết cho 6.760 lao

động/năm). Trong 5 năm (2015-2019) số lượt hộ nghèo được vay vốn 1.661

hộ, với số tiền 55,4 tỷ đồng, đạt 100% tỷ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ

được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. [21, tr38].

Trong đó, việc làm cho phụ nữ được quan tâm và đạt những kết quả

trên các mặt về thông tin tuyên truyền và tổ chức thực hiện có hiệu quả các

mô hình phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động nữ với các hình

thức như: Tổ chức các lớp tập huấn về chính sách pháp luật lao động cho

doanh nghiệp có đông lao động nữ, xây dựng hệ thống thông tin về thị trường

lao động, tư vấn về việc làm; tổ chức các hội chợ, Đề án hỗ trợ phụ nữ khởi

nghiệp,... Qua đó, nâng tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo tại quận năm 2019 là

60,67% %; tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 33,8% % (mục tiêu Chiến lược

quốc gia về bình đẳng giới đạt 35% vào năm 2020); tỷ lệ hộ nghèo có nhu cầu

vay vốn ưu đãi đạt 100% (mục tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đạt

100% vào năm 2020), kết quả trên góp phần thực hiện tốt việc giảm khoảng

53

cách giới trong lĩnh vực kinh tế và tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo

đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.

Các hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh

tế mang lại hiệu quả như: Trong những năm qua, Hội LHPN quận đã tổ chức

ngày hội “Phụ nữ Sơn Trà - Sáng tạo khởi nghiệp”, hàng năm đều hỗ trợ các

ý tưởng khởi nghiệp được tham gia thi đạt nhiều giải cao do Trung ương Hội

tổ chức, tổ chức các lớp tập huấn khởi sự kinh doanh cho các chị em mới bắt

đầu kinh doanh, phối hợp tổ chức các lớp học nghề cho lao động nữ với các

nghề phù hợp như nấu ăn, làm bánh, cắm hoa, pha chế, dịch vụ giúp việc gia

đình và giới thiệu lao động nữ đến học tại các trung tâm dạy nghề; hỗ trợ

thành lập các nhóm sinh kế kinh doanh hàng nông sản sạch-an toàn, dịch vụ

nấu ăn, dịch vụ vệ sinh công nghiệp… đã góp phần hỗ trợ cho các chị phụ nữ

nghèo có công ăn việc làm, phát triển kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động

nữ trên địa bàn quận Sơn Trà cũng có xu hướng giảm nhẹ.

Trong gia đình, nhiều phụ nữ không chỉ bó hẹp việc làm của họ trong

công việc gia đình mà đã tham gia làm kinh doanh, làm cán bộ, sự phân công

lao động trong gia đình gần tiến bước tới sự cân bằng cho cả nam và nữ, bước

đầu đã có sự chuyển biến, áp lực công việc gia đình đối với phụ nữ đang có

xu hướng giảm. Tuy vậy, vẫn còn không ít sự bất bình đẳng giới về lao động

trong các gia đình còn xảy ra khá phổ biến như thời gian làm việc của phụ nữ

thường nhiều hơn nam giới, trung bình thời gian làm việc của nam giới

khoảng từ 8-9 giờ/ngày, trong khi phụ nữ phải làm từ 13-14 giờ/ngày. Bên

cạnh đó, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, là người đại diện ngoài xã

hội và có quyền quyết định các vấn đề lớn. Chính điều này đã làm cản trở nữ

tham gia vào các hoạt động xã hội và cơ hội cho họ có địa vị, thu nhập bình

đẳng như nam giới. Đồng thời, làm hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em

gái.

2.2.2.4. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và

đào tạo

54

Trong những năm qua, đối với quận Sơn Trà, mục tiêu nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa

nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đạt được những kết quả như

sau: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tiểu học đến trường đạt 100%; không có học

sinh tiểu học, trung học cơ sở bỏ học do hoàn cảnh khó khăn, 100% học sinh

tiểu học được học 2 buổi/ ngày, tỷ lệ học sinh nữ khá, giỏi, trúng tuyển đại

học, cao đẳng ngày càng cao.[21, tr9]. Duy trì 7/7 phường đạt chuẩn phổ cập

giáo dục mầm non 5 tuổi, 7/7 phường phổ cập giáo dục tiểu học và trung học

cơ sở đạt chuẩn mức độ 3 (tăng 1 bậc so với năm 2015); công tác xóa mù chữ

đạt mức độ 2 (tăng 1 bậc so với năm 2015). Đến nay, bậc học mầm non đã có

7/8 trường mầm non công lập đạt chuẩn quốc gia - tỷ lệ 87,5% (tăng 1 so với

năm 2015); bậc tiểu học đã có 9/12 trường đạt chuẩn - tỷ lệ 75%, bậc trung

học cơ sở đã có 2/8 trường đạt chuẩn quốc gia (không tăng, không giảm so

với năm 2015) [21, tr37]. Các cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện tốt công

tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Sau 10

năm thực hiện chính sách bình đẳng giới, tính đến nay, số lượng nữ trong tổng

số người được đào tạo trên đại học tại địa bàn quận là 28/68 người, trong đó

Thạc sỹ: 28/67, chiếm 41,79%; Tiến sĩ 0/1, chiếm 0%. Tỷ lệ nữ giáo viên đạt

chuẩn và vượt chuẩn ngày càng cao, được tăng cường về số lượng và chất

lượng, cụ thể: Mầm non đạt chuẩn và trên chuẩn (tỷ lệ 99,8%); Tiểu học (tỷ lệ

99,5%); Trung học cơ sở (99,6%); Giáo dục thường xuyên (tỷ lệ 100%). Thực

hiện nhiều giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo

hướng phát huy tích cực, sáng tạo của học sinh gắn với giáo dục kỹ năng sống

thông qua hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm, qua

đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện [21, tr9]. Bậc mầm non

đảm bảo chỉ số và tỉ lệ trên 99%, bậc tiểu học trên 99% học sinh hoàn thành

chương trình, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS các năm qua đều đạt trên 95%,

tỷ lệ học sinh đỗ vào lớp 10 duy trì trên 75%, chất lượng giải quốc gia, thành

phố luôn có vị thứ cao so với mặt bằng chung [21, tr37].

55

2.2.2.5. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế

Nhằm bảo đảm BĐG giữa nam và nữ trong tiếp tận và thụ hưởng dịch

vụ chăm sóc sức khỏe. Trong thời gian qua, quận Sơn Trà đã ban hành hành

các văn bản triển khai Chiến lược Dân số, sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-

2020, tích cực triển khai thực hiện đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng

giới tính khi sinh và tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm kiểm soát tỷ số giới

tính khi sinh. Kết quả đạt được thể hiện trên một số nội dung sau: Lãnh đạo

các cấp có sự quan tâm đáng kể trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân,

đặc biệt là chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em; quan tâm, hỗ trợ kinh phí

cho Hội LHPN thực hiện Đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt giai

đoạn 2010-2015”. Mạng lưới Y tế được đầu tư xây dựng và phát triển khá

toàn diện, cơ sở hạ tầng được nâng cấp theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa,

100% phường đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đội ngũ cán bộ y tế không ngừng

nâng cao về y đức và chuyên môn nghiệp vụ [21, tr10]. Có 2/7 Trạm y tế có

bác sĩ, 5/7 Trạm Y tế được tăng cường bác sĩ và 100% Trạm y tế có nữ hộ

sinh hoặc y sĩ sản-nhi. Các bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân phát triển cũng có

những đóng góp tích cực vào việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tỷ lệ sản

phụ sinh con tại các cơ sở y tế cao nên đảm bảo an toàn, hạn chế thấp nhất rủi

ro cho thai phụ và thai nhi. Đồng thời, thường xuyên hỗ trợ phụ nữ mang thai

được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.

Chất lượng công tác dân số, gia đình và trẻ em được nâng lên. Triển khai tốt

chiến dịch truyền thông, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản và

kế hoạch hóa gia đình. Trong 5 năm qua đã tổ chức thăm khám cho hơn

94.539 lượt bà mẹ, trẻ em, các chương trình tiêm chủng mở rộng được thực

hiện thường xuyên và liên tục tại Trạm Y Tế 7 phường. Tỷ suất sinh bình

quân giảm 0,2%o/năm. Đã có 100% các cơ sở y tế cam kết không thông báo

giới tính thai nhi; Trong các năm qua, tỷ số giới tính khi sinh được đảm bảo

bình quân 106 bé trai/100 bé gái, cụ thể thể hiện ở bảng sau:

56

Bảng 2.4. Tỷ số giới tính khi sinh

Tỷ số giới tính khi sinh (trai/gái) Năm

2015 106/100

2016 107/100

2017 105/100

2018 106/100

2019 106/100

Nguồn: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ quận Sơn Trà khóa

V

Tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng

lây nhiễm HIV từ mẹ sang con năm 2019 là 1.895/1993 người, đạt tỷ lệ 95%

(năm 2018: 98,7%, năm 2017: 99,41%, năm 2016: 96,3%, năm 2015: 96,1%)

[25, tr5]. Kết quả trên cho thấy ngành y tế đã tạo điều kiện cho phụ nữ mang

thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang

con. Kết quả, tỷ lệ phá thai năm 2019: 0,9% (năm 2016 là 5,1%), không có tử

vong bà mẹ liên quan đến thai sản với tỷ lệ 0/100.000 trẻ, vượt chỉ tiêu đề ra

[25, tr5]. Ngoài ra, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau khi sinh

được cán bộ y tế can thiệp >95%. Nhìn chung, qua 10 năm triển khai thực

hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế, chất lượng khám, chữa

bệnh, bước đầu có chuyển biến tích cực hơn; chất lượng chăm sóc sức k, tác

dân số - kế hoạch hóa gia đình, tinh thần phục vụ đối với bệnh nhân ngày

càng được nâng lên.

2.2.2.6. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học

và công nghệ

57

Trong điều kiện tình hình chính trị, kinh tế xã hội của đất nước ổn định

và ngày càng phát triển, là cơ hội hàng đầu đảm bảo cho phụ nữ phấn đấu tiến

bộ, bình đẳn; phụ nữ có nhiều cơ hội thuận lợi để phát huy tốt vai trò và vị thế

của mình, Trong thời kỳ công nghệ 4.0 với sự phát triển của khoa học kỹ thuật

đã giúp cho phụ nữ giảm bớt thời gian nội trợ của mình. Do đó, phụ nữ có

nhiều thời gian để học tập nâng cao trình độ và tham gia các hoạt động xã hội

khác nhau. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ

cũng là một rào cản đòi hỏi người phụ nữ phải không ngừng học tập để tiếp

cận với những kỹ thuật mới, đảm bảo cho phụ nữ vẫn tham gia đầy đủ vào các

hoạt động của lĩnh vực khoa học công nghệ. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có

tầm nhìn chiến lược theo quan điểm bình đẳng giới, có các chính sách đặc biệt

trong quá trình chuyển đổi cơ chế ngành nghề kinh tế - kỹ thuật nhằm xoá

định kiến giới tính trong việc phân công nghề nghiệp trong các cơ sở sử dụng

lao động, giáo dục, đào tạo, …

2.2.2.7. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong các lĩnh vực văn

hóa và thông tin

Phòng văn hóa thông tin quận đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn liên

quan định hướng công tác tuyên truyền về BĐG bằng các hình thức đa dạng,

phong phú, phù hợp với các đối tượng tiếp nhận thông tin, thông qua các hoạt

động này, các sản phẩm văn hóa, thông tin về BĐG đã tăng lên, Đài Phát

thanh quận đã có hơn 250 bài viết, phóng sự, tin bài phản ánh về đề tài phụ

nữ, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới…

Đồng thời, Phòng VHTT quận đã phối hợp tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn

các văn bản quy định trong lĩnh vực hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ

văn hóa công cộng cho hơn 200 hộ kinh doanh trên địa bàn quận. Trên địa

bàn quận hiện nay, Đài truyền thanh quận đã xây dựng và đang thực hiện mỗi

tháng 2 chương trình nâng cao nhận thức về BĐG, mỗi chương trình có thời

lượng 15 phút. Trong quá trình kiểm tra, rà soát các cơ sở kinh doanh sản

phẩm văn hóa, thông tin thì theo thực tế những năm qua, chưa phát hiện có

58

sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới. Vì vậy, chỉ tiêu giảm 65%

các sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới không thể đánh giá

được. [25, tr7] Đặc biệt, gắn việc triển khai thực hiện việc xây dựng, sửa đổi

quy ước, hương ước tổ dân phố đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới vào quá

trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

trên toàn quận nhằm tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn quận có

nhận thức đúng về bình đẳng giới trong thời kì mới; lồng ghép đưa công tác

BĐG vào tiêu chuẩn xét, công nhận các danh hiệu Tổ dân phố văn hóa, Gia

đình văn hóa. Tham mưu Ban chỉ đạo quận tổ chức Lễ phát động tháng hành

động vì bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới nhân ngày Thế

giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ 25/11; Phòng LĐ-TB&XH tham mưu

UBND quận tổ chức Lễ phát động “Tháng hành động vì trẻ em”, tổ chức Hội

thi tìm hiểu “Luật Trẻ em và phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em”; Hội thi

“Phòng chống tai nạn thương tích và xâm hại trẻ em”, tổ chức Diễn đàn trẻ

em với chủ đề phòng chống bạo lực thân thể trẻ em. Phòng Văn hóa và Thông

tin quận treo 200 panô chiến lược; 480 băng rôn, phướn khẩu hiệu tuyên

truyền trên các tuyến đường chính các khu dân cư trên địa bàn quận, cấp phát

hơn 600 cuốn Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản chỉ đạo thực

hiện trong cộng đồng dân cư. [25, tr6]

2.2.2.8. Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong gia đình

Trong những năm qua, các ngành, hội đoàn thể từ quận đến phường tập

trung tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền về thực hiện chính sách, pháp luật,

hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới góp

phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của xã hội và từng gia

đình trong việc thực hiện công tác phòng chống bạo lực trên cơ sở giới, trong

đó nổi bật một số hoạt động cụ thể như sau: UBND quận tổ chức Hội thi

“Tuyên truyền phòng, chống tai nạn thương tích và xâm hại trẻ em”, tổ chức

Diễn đàn trẻ em với chủ đề phòng chống bạo lực thân thể trẻ em thu hút hơn

600 lượt trẻ em tham gia. Phòng LĐTBXH phối hợp Hội LHPN tổ chức tuyên

59

truyền về phòng ngừa bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái tại 5 phường với

gần 700 người tham gia. Phòng LĐTBXH phối hợp các ngành tổ chức 100

buổi tập huấn, tư vấn cộng đồng về công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em, với các

nội dung như: tập huấn về ngôi nhà an toàn, tuyên truyền phòng chống tai nạn

thương tích trẻ em, phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em phòng, chống

xâm hại, bạo lực và kỹ năng BVCSTE tại cộng đồng cho hơn 5.000 lượt đối

tượng là trẻ em, phụ huynh, người chăm sóc trẻ và giáo viên mầm non nhóm

lớp độc lập tư thục trên địa bàn quận.

Phối hợp với Chương trình phát triển Vùng đô thị Sơn Trà tổ chức tập

huấn về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em và phòng, chống bạo lực thân

thể trẻ em và phương pháp kỷ luật tích cực cho ban bảo vệ trẻ em và phụ trách

các câu lạc bộ trẻ em tại trường học và khu dân cư với hơn 5.000 lượt trẻ và

phụ huynh; tổ chức tuyên truyền về phòng chống bạo lực trẻ em và phòng

chống xâm hại tình dục trẻ em qua môi trường mạng, phát 1.600 tờ rơi tuyên

truyền về số điện thoại tổng đài Quốc gia về bảo vệ trẻ em 111. Liên đoàn

Lao động quận tổ chức trên 50 hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

Luật Hôn nhân gia đình, luật bình đẳng giới, phòng, chống quấy rối tình dục

tại nơi làm việc tại khu công nghiệp, cơ quan.

Phòng Văn hóa - Thông tin tổ chức hơn 50 buổi tuyên truyền về chính

sách phòng chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới cho hội viên các đoàn

thể phường thu hút hơn 7.000 lượt người. Cấp phát các sách và đĩa về Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình và văn bản chỉ đạo về công tác gia đình về các

tổ dân phố để phổ biến, tuyên truyền trong cộng đồng dân cư. Đồng thời, phối

hợp Sở Văn hóa và Thể thao, Hội Liên Hiệp Phụ nữ quận, UBND 7 phường

triển khai Chỉ thị 11/CT-TTg về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống

trong gia đình; Tuyên truyền Ngày Gia đình Việt Nam (28/6); Ngày Quốc tế

hạnh phúc (20/3); Ngày Truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình,

hưởng ứng Ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (25/11)

60

Phòng Tư pháp cùng các cơ quan, đơn vị thành viên Hội đồng tổ chức 7

hội nghị tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng

giới, tham mưu UBND quận phổ biến Luật Trẻ em năm 2016... Đồng thời,

phối hợp Phòng Tài chính - Kế hoạch, Hội Liên hiệp Phụ nữ quận tổ chức tập

huấn Luật bình đẳng giới và Luật phòng chống bạo lực gia đình cho gần 220

người là cán bộ công chức quận làm chuyên trách bình đẳng giới và cán bộ

công chức, cộng tác viên vì sự tiến bộ phụ nữ của 7 phường trên địa bàn quận,

nhằm trang bị kiến thức về giới, bình đẳng giới, nâng cao công tác tuyên

truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và luật phòng, chống bạo lực gia đình cho

cộng tác viên Ban VSTBPN quận. Biên soạn, in ấn 02 trang tin, 03 tờ gấp có

nội dung về Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Nghị định số 110/2009/NĐ-

CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bạo lực gia đình và

Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hàng năm, thường xuyên phối hợp tổ

chức 3 đợt trợ giúp pháp lý cho hơn 100 trường hợp tại UBND phường.

Công an quận đã tham mưu cho UBND quận kế hoạch triển khai thực

hiện về “Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em và tội

phạm trong lứa tuổi vị thành niên” trên địa bàn quận, chỉ đạo các phòng, ban,

ngành, hội, đoàn thể thực hiện tốt công tác phối hợp trong nắm thông tin, phát

hiện, tố giác, đấu tranh với những hành vi xâm hại, bạo hành trẻ em.

UBND các phường tổ chức trên 200 buổi tuyên truyền với 15.000 lượt

người tham dự gồm các nội dung: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; các

văn bản liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, luật bình đẳng giới, nạn

cờ bạc, số đề, ma túy, tác hại của các chất kích thích; đặc biệt tọa đàm và

tuyên truyền về quyền trẻ em cho các em trong lứa tuổi vị thành niên. Hội

Liên Hiệp Phụ nữ các phường tổ chức các buổi giao lưu như Ngày Gia đình

Việt Nam, Ngày Phụ Nữ Việt Nam, Ngày Quốc Tế Phụ nữ, nhằm nâng cao

nhận thức của mọi người trong công tác bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực

61

gia đình, phụ nữ và trẻ em. Hiện nay tại địa bàn các phường đã thành lập Câu

lạc bộ quyền trẻ em.

Hiện nay, toàn quận đã thành lập 7 CLB gia đình hạnh phúc, 5 Câu lạc

bộ phòng chống Bạo lực gia đình, 8 nhóm Phòng chống bạo lực gia đình và

80 địa chỉ tin cậy. Hoạt động của các mô hình trên đã kịp thời tiếp nhận,

nhanh chóng can thiệp và hòa giải các hành vi bạo lực gia đình; thành viên

trong câu lạc bộ tích cực trong các hoạt động tuyên truyền về kiến thức xây

dựng gia đình hạnh phúc, bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

bằng các hình thức tuyên truyền, sinh hoạt giao lưu, Hội thi, tọa đàm… Bên

cạnh đó, quận còn hướng dẫn các phường kịp thời củng cố và bổ sung các

thành viên tổ hòa giải ở cơ sở, đồng thời tổ chức tập huấn về kiến thức pháp

luật và kỹ năng hòa giải, tuyên truyền cho đội ngũ này. Đến nay trên địa bàn

quận có 515 tổ hòa giải với 3.018 hòa giải viên, tuyên truyền nội dung Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật Bình đẳng giới. Hướng dẫn các

phường kịp thời củng cố và bổ sung các thành viên tổ hòa giải ở cơ sở, đồng

thời tổ chức tập huấn về kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải, tuyên truyền

cho đội ngũ này. Đến nay trên địa bàn quận có 515 tổ hòa giải với 3.018 hòa

giải viên, tuyên truyền nội dung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật

Bình đẳng giới. [25, tr8]

Năm 2019, trên địa bàn quận có 4 vụ bạo lực gia đình (giảm 4 vụ so với

năm 2018, giảm 14 vụ so với năm 2017) và 100% nạn nhân bạo lực gia đình

được tư vấn về pháp lý, sức khỏe, được các cơ quan, đoàn thể, địa phương

giúp đỡ tại chỗ hoặc đưa đi khám bệnh, chăm sóc sức khỏe (đạt chỉ tiêu đề ra,

kế hoạch 2020 là 100%); 90% số người gây bạo lực gia đình được tư vấn về

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình (vượt chỉ tiêu đề ra, kế hoạch

2020 là 85%). [25, tr8]

2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng

giới tại quận Sơn Trà

2.3.1. Ưu điểm trong thực hiện chính sách về bình đẳng giới

62

Nhìn chung, trong thời gian qua các ngành, các cấp đã tham gia triển

khai tốt công tác bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà, góp phần nâng cao

nhận thức của chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức và người dân về

giới và bình đẳng giới. Cả hệ thống chính trị quận đã có rất nhiều nỗ lực phát

triển kinh tế - xã hội và thực hiện các mục tiêu tiến bộ xã hội, trong đó phải kể

đến việc thực hiện chính sách về BĐG, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới

và phát triển con người. Sự phối hợp giữa các ngành, đoàn thể ngày càng

đồng bộ và hiệu quả hơn trong việc triển khai các Kế hoạch, Đề án có liên

quan đến công tác bình đẳng giới nhằm đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động và

hiệu quả tuyên truyền, đồng thời có sự tham gia của các tổ chức khác như Tổ

chức Tầm nhìn Thế giới cũng đã hỗ trợ tích cực cả về trang bị kiến thức, kỹ

năng và kinh phí cho các hoạt động có liên quan. Khái quát kết quả quá trình

thực hiện chính sách về BĐG trên địa bàn quận, có thể nhận thấy những ưu

điểm sau:

Thứ nhất, các cấp ủy, chính quyền từ quận đến phường đã ban hành

nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện kịp thời, phù hợp với điều

kiện cụ thể của địa phương, cụ thể hóa các mục tiêu về BĐG trong các lĩnh

vực; việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BĐG tại quận Sơn Trà

phần lớn đáp ứng được yêu cầu đề ra.... Qua đó, giúp cho mọi người dân hiểu

và thực hiện tốt, đặc biệt trong việc lồng ghép vào các hoạt động khác, thông

qua đó tạo cho người dân ý thức tự giác thực hiện, tham gia thực hiện nhằm

tạo sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp xã hội, đồng thời họ cũng có thể

tham gia vào quá trình giám sát thực hiện chính sách về BĐG; sự phân công,

phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trên địa bàn quận khá cụ thể, phù hợp với

nhiệm vụ, chức năng và chuyên môn của từng ngành, từng đơn vị, tạo sự chủ

động tổ chức thực hiện pháp luật BĐG và có cơ chế phối hợp một cách cụ thể,

chặt chẽ. Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức từ quận

đến phường và đặc biệt là nhân dân đã được nâng lên rõ rệt.

63

Thứ hai, kết quả đạt được lớn nhất trong việc thực hiện chính sách về

BĐG thời gian qua đã đạt được kết quả đáng khích lệ, đa số các nội dung thực

hiện chính sách về BĐG đã đạt được chỉ tiêu đề ra:

- Trong lĩnh vực chính trị: Trong thời gian qua, công tác cán bộ nói

chung và cán bộ nữ nói riêng được Ban Thường vụ Quận ủy Sơn Trà đặc biệt

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Các quy định về công tác cán bộ được

triển khai trên nguyên tắc bình đẳng giới và ưu tiên giới thiệu cán bộ nữ để

quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý. Chủ động

xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển cán bộ nữ trong quy hoạch để cán

bộ nữ có cơ hội tiếp cận thực tế, tích lũy kinh nghiệm và phát huy, nâng cao

năng lực, tạo điều kiện chuẩn bị nguồn cán bộ nữ cho nhiệm kỳ tiếp theo, tỷ lệ

nữ giữ chức vụ quản lý tương đối cao và có sự gia tăng nhất định điều đó thể

hiện được vai trò, khả năng của phụ nữ tham gia tổ chức chính trị - xã hội,

công tác quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ

lãnh đạo nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, hội, đoàn thể được quan tâm,

phát triển cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ cán bộ nữ ưu tú được tín nhiệm

tham gia các chức danh chủ chốt ngày càng tăng.

- Trong lĩnh vực kinh tế, lao động: Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư

các doanh nghiệp vào quận, đồng thời cải cách thủ tục hành chính thông

thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động; bên cạnh đó, phối

hợp xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động, tư vấn về việc làm và

về cơ hội đầu tư, do đó đã giảm chi phí tiếp cận việc làm và thời gian tìm việc

của người lao động. Từ đó, giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao

động, việc làm, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo đối với các nguồn

lực kinh tế, thị trường lao động. Góp phần đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo theo

hướng có chất lượng và hiệu quả, cải thiện từng bước điều kiện sống, nâng

cao chất lượng cuộc sống cho các hộ nghèo trên địa bàn quận Sơn Trà.

64

- Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: cũng đạt được nhiều kết quả đáng

ghi nhận, trong đó 7/7 phường đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục bậc

trung học cơ sở. Từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ

trong đào tạo bậc đại học, sau đại học ngày càng gần nhau, cán bộ công chức

viên chức nữ được đào tạo trên đại học trên địa bàn quận ngày càng tăng.

Quận thường xuyên chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ,

công chức, viên chức nữ. Nhờ vậy chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức nữ quận không ngừng được nâng cao.

- Trong lĩnh vực y tế: công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa

bàn quận nói chung, ngành y tế đã có sự quan tâm hơn trong việc chăm sóc

phụ nữ, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bà mẹ và trẻ em, công tác

dân số - kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền rộng rãi; đảm bảo kiểm soát

mất cân bằng giới tính khi sinh.

- Trong các lĩnh vực văn hóa và thông tin: quận Sơn Trà tập trung đẩy

mạnh công tác tuyên truyền về bình đẳng giới, định kiến giới. Công tác kiểm

tra và thu hồi các sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới đã được

chú trọng và tổ chức thực hiện đạt kết quả, đã lồng ghép đưa công tác BĐG

vào tiêu chuẩn xét, công nhận các danh hiệu Gia đình văn hóa, Tổ dân phố

văn hóa.

- Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình: cũng được quận chỉ đạo đem

lại nhiều kết quả với nhiều giải pháp đồng bộ như thành lập các CLB gia đình

hạnh phúc, câu lạc bộ phòng chống Bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy tại

cộng đồng…, đồng thời thực hiện tốt công tác tư vấn về pháp lý, sức khỏe,

bạo lực gia đình, kiến thức xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển kinh tế,

phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội… đã dần loại bỏ sự phân biệt đối xử

giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, quá trình thực hiện chính

sách BĐG tại quận Sơn Trà trong thời gian qua còn có những hạn chế sau:

65

Thứ nhất, một số cấp ủy, cơ quan, tổ chức trong lãnh đạo, chỉ đạo còn

chưa thực sự coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; việc kiểm

tra, đôn đốc, nắm tình hình công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa sâu sát, còn

mang tính hình thức; công tác chỉ đạo, điều hành ở một số địa phương, đơn vị

chưa thực sự sâu sát; chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vị trí, vai trò

của công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Các hình thức tuyên

truyền về BĐG trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh,

truyền hình, báo chí… chưa có nhiều hình thức phong phú để thu hút người

dân và chưa thường xuyên, liên tục

Thứ hai, các nội dung thực hiện chính sách BĐG còn những hạn chế

nhất định, tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: Trong lĩnh vực chính trị,

tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong hệ thống

chính trị ở quận vẫn còn thấp, thiếu tính bền vững, cán bộ nữ chủ yếu vẫn giữ

vị trí cấp phó. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ thời gian qua vẫn còn

thiếu chủ động, nhất là những lĩnh vực theo đúng chuyên ngành để bố trí theo

vị trí việc làm và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức có mặt còn hạn chế;

trong lĩnh vực kinh tế, lao động, thu nhập bình quân của lao động nữ vẫn thấp

hơn so với lao động nam, chênh lệch về tỷ lệ nam nữ tham gia hoạt động kinh

tế, tham gia quản lý, lãnh đạo ở các cấp trong hoạt động kinh tế còn khá cao,

tỷ lệ lao động nữ chưa qua đào tạo còn nhiều; trong lĩnh vực văn hóa, thể dục

thể thao, công tác tuyên truyền, giáo dục về giới trên các phương tiện thông

tin đại chúng còn chưa linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng và từng

khu vực, Đời sống kinh tế của nhân dân trên địa bàn còn thấp, đa số lao động

nghề biển, chung cư xã hội, chung cư thu nhập thấp tập trung xây dựng trên

địa bàn quận nhiều, dẫn đến công tác vận động, tuyên truyền giáo dục người

dân trong hoạt động bình đẳng giới còn hạn chế, kết quả không cao. Việc triển

khai chiến dịch truyền thông trong Tháng hành động vì bình đẳng giới và

phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới (từ ngày 15/11 đến 15/12) chưa có các

hoạt động mang tính quy mô, chủ yếu là các hoạt động tập huấn nâng cao

66

năng lực và tuyên truyền tại khu dân cư. Hoạt động tuyên truyền về bình đẳng

giới tổ chức chưa thường xuyên, liên tục, chủ yếu tập trung trong tháng hành

động, đối tượng tham gia chủ yếu là nữ. Nguồn kinh phí cho hoạt động bình

đẳng giới tại quận và phường còn hạn chế; trong lĩnh vực gia đình: nhận thức

về giới cũng như về BĐG chưa được thực hiện một cách triệt để và đồng đều

ở các lĩnh vực, tỷ lệ nữ bị bạo lực gia đình vẫn còn, tỷ lệ bạo lực hiện hành

trong nhóm người trẻ tuổi cao hơn và giảm dần theo độ tuổi, thời gian tham

gia công việc gia đình của nữ so với nam vẫn còn cao hơn nhiều.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào thực hiện chính sách

về BĐG thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ; việc đầu tư

nguồn lực cho việc thực hiện chính sách về BĐG chưa tương xứng với nội

dung, công việc... Chất lượng hoạt động lồng ghép giới trong hoạt động xây

dựng văn bản quy phạm pháp luật cũng như hoạt động thực hiện của các cơ

quan, đơn vị, tổ chức hiệu quả chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa xây dựng

được bộ công cụ lồng ghép giới tại địa phương...

Thứ tư, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ từ quận đến cơ sở tuy đã được

kiện toàn song chất lượng và hoạt động còn hạn chế, cán bộ làm công tác

BĐG cấp quận và phường đều là cán bộ kiêm nhiệm nên việc tham mưu, giúp

việc cơ quan thường trực Ban còn nhiều hạn chế, còn lúng túng trong lồng

ghép vấn đề BĐG trong xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch,

chế độ công tác chưa duy trì hoạt động thường xuyên…

Nguyên nhân của hạn chế:

Thứ nhất, pháp luật hiện hành về BĐG còn tồn tại những hạn chế nhất

định:

Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất là quan niệm về trí thức nữ,

cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của phụ nữ còn nhiều

tranh luận khác nhau; xuất phát từ sự hình thành, đặc điểm của nguồn lực trí

thức nữ cũng là nguyên nhân làm cho bình đẳng giới về chính trị trong phạm

vi cả nước nói chung và địa phương nói riêng chưa được thực hiện tốt. Bên

67

cạnh đó, hầu hết quy định trong các văn bản luật liên quan đến bình đẳng giới

trên lĩnh vực chính trị đều không bị ràng buộc bởi các điều khoản chế tài nào

nếu như không thực hiện hoặc thực hiện không đạt chỉ tiêu đề ra.

Thứ hai, năng lực quản lý nhà nước của các tổ chức, cơ quan có chức

năng quản lý nhà nước về thực hiện chính sách BĐG còn có những hạn chế

nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu: trước hết là năng lực của chưa đủ

mạnh và thiếu hệ thống, đặc biệt là trong các lĩnh vực thu thập thông tin, phân

tích giới, báo cáo và giám sát công tác thực hiện chính sách về BĐG để hướng

tới đạt được BĐG thực chất và bền vững trong mọi hoạt động của đời sống xã

hội.

Thứ ba, nhận thức của một bộ phận phụ nữ còn mang tính thụ động,

chưa tự tin khẳng định vị thế bình đẳng của mình trong xã hội, nhất là phụ nữ

ở vùng ven biển. Bên cạnh đó, nhận thức của gia đình, xã hội và cộng đồng tại

địa phương về BĐG còn nhiều hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất vẫn là tư

tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu trong nếp nghĩ của đại bộ phận nhân dân,

đây chính là rào cản dẫn đến suy nghĩ, thái độ và hành động kìm hãm phụ nữ,

thiếu lòng tin vào tài năng của phụ nữ cũng như khả năng lãnh đạo, không

thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ, chưa đề cao vai trò của phụ nữ trong việc tham

gia các hoạt động, lĩnh vực trong xã hội...

Thứ tư, một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nữ còn thụ động,

chưa thật sự cố gắng vươn lên, chưa tự rèn luyện nâng cao trình độ chuyên

môn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

68

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận văn đã tập trung đánh giá thực trạng thực hiện chính

sách bình đẳng giới trên địa bàn quận trong thời gian qua trên các phương

diện: tổ chức bộ máy thực hiện chính sách về bình đẳng giới, đặc biệt đã phân

tích đánh giá thực tiễn thực hiện các nội dung chính sách về bình đẳng giới

trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, lao động việc làm, y tế, gia

đình... đồng thời phân tích làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện

chính sách về bình đẳng giới tại quận Sơn Trà dưới các khía cạnh về đặc điểm

tự nhiên, kinh tế, xã hội. Đồng thời, khái quát những ưu điểm, hạn chế và

nguyên nhân. Qua đó, cho thấy thực hiện chính sách về bình đẳng giới có nội

dung rất đa dạng, phong phú, thực hiện chính sách về bình đẳng giới sẽ bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, vì lợi ích cộng đồng, góp phần phát

triển kinh tế - xã hội của quận. Tuy nhiên, quá trình phân tích, đánh giá cũng

đã chỉ ra những bất cập, hạn chế nhất định như: nội dung thực hiện chính sách

bình đẳng giới trên các lĩnh vực ở địa phương còn nhiều hạn chế, chính sách

về bình đẳng giới còn có những quy định mang tính chung, chưa cụ thể, khó

thực hiện trên thực tế. Do vậy, cần thiết phải có các giải pháp để thực hiện các

mục tiêu về bình đẳng giới đã được Đảng, nhà nước và địa phương xác định;

đây cũng chính là cơ sở để tác giả đề xuất các giải pháp tại chương 3 của luận

văn.

69

CHƯƠNG 3

KHUYẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI

3.1. Các khuyến nghị về tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng

giới

Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền quận Sơn Trà,

thành phố Đà Nẵng đã ban hành nhiều văn bản, chính sách, triển khai nhiều

hoạt động phong phú, thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp phụ

nữ vươn lên trong học tập, lao động, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến

bộ, hạnh phúc và tích cực tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong đó, việc tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ - nhất là trong vai

trò lãnh đạo và ra quyết định, không chỉ để thực hiện quyền bình đẳng của

phụ nữ, mà còn tạo cơ hội bình đẳng để phụ nữ đóng góp vào việc thay đổi

chính sách Nhà nước ở mọi cấp độ, hướng tới bình đẳng, công bằng, tăng

phúc lợi nhiều hơn cho mọi người và cho xã hội.

Từ thực tế về bình đẳng giới hiện nay, tác giả đưa ra 6 khuyến nghị

nhằm thúc đẩy thực hiện chính sách bình đẳng giới.

Thứ nhất là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong việc

thúc đẩy triển khai có hiệu quả Chương trình, chiến lược quốc gia về bình

đẳng giới trong những năm tiếp theo.

Thứ hai, thông qua các luật để cải thiện hơn nữa khung pháp lý liên

quan đến vấn đề giới và tôn trọng các cam kết quốc tế có liên quan; tăng

cường trách nhiệm của Nhà nước, các cấp, các ngành và giám sát chặt chẽ

việc thực hiện các chính sách và quy định liên quan, lồng ghép giới và các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quận.

Thứ ba, tăng cường tham vấn phụ nữ để đảm bảo tiếng nói của tất cả

các nhóm phụ nữ được lắng nghe, đặc biệt là phụ nữ khuyết tật, phụ nữ

nghèo, khó khăn, nhóm phụ nữ yếu thế trong xã hội… nhằm bảo đảm không

70

có phụ nữ nào bị bỏ lại phía sau trong sự phát triển bền vững của đất nước,

của thành phố Đà Nẵng, của quận Sơn Trà.

Thứ tư, đề nghị thành lập và tổ chức thực hiện có hiệu quả các mô hình

nhóm phụ nữ như nữ cán bộ công chức, nữ tiểu thương, nữ công nhân lao

động…, và tăng cường hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm giữa các Nhóm để thúc

đẩy tiếng nói và hành động chung về bình đẳng giới.

Thứ năm, thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan, coi phụ nữ là

động lực thúc đẩy và là mục tiêu của phát triển bền vững, coi đó không chỉ là

vấn đề công bằng xã hội mà còn là một phương tiện hiệu quả để thu hút triệt

để tiềm năng của phụ nữ cho sự phát triển toàn diện của xã hội.

Thứ sáu, nêu cao vai trò chủ đạo của Hội liên hiệp phụ nữ trong thực

hiện chính sách bình đẳng giới. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,

tăng cường đi cơ sở, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho hội viên

phụ nữ.

3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng giới

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc của

các ngành đoàn thể đối với việc thực hiện chính sách bình đẳng giới

Thời gian qua, công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ quận

Sơn Trà luôn được các cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ,

đạt nhiều kết quả thiết thực; từng bước tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận

thức, hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của

phụ nữ, tầm quan trọng của công tác phụ nữ, nhất là trong giai đoạn cách

mạng mới hiện nay.

Để công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đạt kết quả cao

hơn trong thời gian tới, đối với các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa thực hiện chính sách,

pháp luật có liên quan đến phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, phụ nữ là công nhân

lao động…phù hợp với thực tiễn của quận để tạo bước chuyển biến tích cực

71

trong công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ; đồng thời tăng

cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước ở lĩnh vực này.

Quan tâm hơn đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và tạo điều

kiện cho cán bộ nữ phấn đấu để bảo đảm tiêu chuẩn phân công, bố trí, tăng tỷ

lệ cán bộ nữ trên các lĩnh vực, nhằm thực hiện đạt yêu cầu mục tiêu Nghị

quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) đề ra.

3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề về bình

đẳng giới

Trong thời gian tới, để pháp luật về bình đẳng giới ngày càng có hiệu

lực, hiệu quả, thiết nghĩ cần tiếp tục thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền Luật Bình đẳng giới để nâng cao

nhận thức và ý thức trách nhiệm trong thực hiện chính sách bình đẳng giới

cho cộng đồng, giúp họ hiểu được trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới

không chỉ là của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình, các cơ

quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và của toàn xã hội.

Thứ hai, cần phải tạo điều kiện và có sự đầu tư nhiều hơn đối với công

tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho cấp cơ sở vì đây là cấp gần

dân nhất, những chính sách đề ra có thực hiện được hay không cũng từ cơ sở.

Thứ ba, việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới trong cộng đồng

dân cư cần được thực hiện thường xuyên, liên tục để các chủ trương mới đến

được với tất cả phụ nữ và cộng đồng. Tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai

trò, vị thế của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên cơ sở này

sẽ giúp cả giới nam và giới nữ xoá bỏ những tư tưởng phong kiến, lạc hậu ăn

sâu trong tâm trí người dân, đồng thời, cần có nhiều chương trình, dự án để

lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho bình

đẳng giới được thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn.

Thứ tư, chú trọng việc nêu gương điển hình, gương người tốt việc tốt

trong thực hiện bình đẳng giới qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục; đồng

72

thời, đối với những vụ việc vi phạm về bình đẳng giới, bạo lực gia đình cần

đưa ra phê bình, tạo dư luận xã hội công khai qua công tác tuyên truyền tại

khu dân cư.

Thứ năm, phân bổ thêm kinh phí hoạt động để phục vụ cho công tác

triển khai thực hiện chính sách bình đẳng giới ở các lĩnh vực được đảm bảo.

Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực từ các tổ chức phi

chính phủ như Tổ chức Tầm Nhìn Thế Giới nhằm thu hút các nguồn tài chính

hỗ trợ cho công tác bình đẳng giới.

3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực thi chính sách

bình đẳng giới.

Trước hết, cần kiện toàn hệ thống ban vì sự tiến bộ phụ nữ và cán bộ

làm công tác bình đẳng giới cấp quận và phường.

Tạo điều kiện để phụ nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ, nghiên cứu khoa học, tiếp cận với khoa học, công nghệ đáp ứng yêu

cầu hội nhập và phát triển; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng

cao; quan tâm tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, hoàn thiện các quy định về

công tác cán bộ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ trong quy

hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển đối với một số cán bộ nữ giữ chức vụ

lãnh đạo, quản lý phù hợp trong từng giai đoạn.

3.2.4. Tăng cường vai trò giám sát, phản biện của Hội liên hiệp phụ

nữ quận

Cần tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện

chính sách bình đẳng giới tại các đơn vị, địa phương; tăng cường công tác

giám sát của Mặt trận và các ngành đoàn thể đối với việc thực hiện các chính

sách về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Lãnh đạo quận cần tạo điều

kiện cho Hội liên hiệp phụ nữ thực hiện tốt nhiệm vụ phản biện xã hội của

mình để có thể can thiệp kịp thời những bất công đối với phụ nữ và trẻ em gái

trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng,

xây dựng chính quyền…

73

Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe phụ nữ,

quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em; kiên quyết đấu tranh phòng

chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh các hành vi bạo lực, mua bán,

xâm hại phụ nữ và trẻ em gái; Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi

phạm trong thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, bình đẳng

giới, gia đình và trẻ em;

3.2.5. Tăng cường hỗ trợ cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ

Cấp ủy Đảng chủ trì làm việc với Hội Liên hiệp phụ nữ cùng cấp và tổ

chức đối thoại trực tiếp với phụ nữ để giải quyết kịp thời những khó khăn,

vướng mắc và những vấn đề đặt ra trong công tác phụ nữ ở cơ quan, đơn vị,

địa phương; Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp phát huy vai trò nòng cốt trong

công tác phụ nữ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết

thực, chuyên nghiệp, đa dạng hóa hình thức tập hợp, hướng về cơ sở, gắn với

các vấn đề thiết thân của phụ nữ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp nói

riêng và Chi hội trưởng Phụ nữ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm

huyết với công tác phụ nữ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sâu sát

cơ sở, hội tụ đầy đủ năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo quản lý, đáp ứng

yêu cầu đổi mới về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ

công tác hội, công tác xã hội hoặc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu

theo vị trí việc làm, lĩnh vực công tác cán bộ cho 100% công chức Hội Liên

hiệp Phụ nữ cấp quận, phường. 100% Chi hội trưởng Phụ nữ được bồi dưỡng

nghiệp vụ công tác hội.

Hỗ trợ thêm chi phí tiền lương cho cán bộ không chuyên trách đối với

Hội phụ nữ cấp phường (mức lương hiện nay của Phó Chủ tịch Hội LHPN

phường: 1.698.600đ/cán bộ), mức lương quá thấp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến

tư tưởng và hiệu quả công việc. Bên cạnh đó, đối với cán bộ chi hội phụ nữ

khu dân cư thì chỉ có Chi hội trưởng có phụ cấp 500.000đ/tháng, còn chi hội

phó thì không có. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động tại cơ sở được triển khai

74

tốt, rất cần sự quan tâm hỗ trợ kinh phí phụ cấp cho các đối tượng nêu trên để

họ có thêm động lực cống hiến cho xã hội.

3.2.6. Đề xuất, kiến nghị xây dựng chiến lược bình đẳng giới giai

đoạn 2021-2030

Đối với UBND thành phố Đà Nẵng

- Cần cân đối, bố trí kinh phí để thực hiện công tác bình đẳng giới tại cơ

sở đảm bảo chất lượng và đạt hiệu quả cao.

- Tăng mức lương hàng tháng đối với cán bộ không chuyên trách và bổ

sung phụ cấp cho chi hội phó phụ nữ khu dân cư.

Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo

- Đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học

trong các nhà trường. Xây dựng tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo, chỉ dẫn

nguồn, phổ biến, tập huấn cho giáo viên phương pháp tích hợp giảng dạy về

giới tính, giới, sức khỏe sinh sản, tình dục và bình đẳng giới vào các môn Tự

nhiên, Xã hội, Sinh học, Giáo dục công dân. Lồng ghép giáo dục phòng chống

bạo lực trên cơ sở giới vào nội dung, chương trình giảng dạy trong nhà

trường, nhất là đối với các môn Đạo đức, Giáo dục công dân.

- Triển khai các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho cả nam giới và

phụ nữ ở các cương vị quản lý trong ngành giáo dục về tầm quan trọng của

bình đẳng giới.

Đối với Sở Thông tin và Truyền thông

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm tăng cường sự lãnh

đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đối với công

tác trẻ em, giới và bình đẳng giới qua đó nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng

viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về quan điểm, chủ

trương của Ðảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với trẻ em, giới và

bình đẳng giới từ đó quan tâm chăm lo, giáo dục, dành những điều tốt đẹp

nhất cho trẻ em, phòng chống bạo lực thân thể trẻ em và bạo lực gia đình.

75

- Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng tháng, quý, năm một

cách cụ thể, sát hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị; chỉ đạo các bộ phận

liên quan chủ động tham mưu, triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ công tác theo

lĩnh vực phụ trách; tích cực cộng tác với Trang Thông tin điện tử quận đăng

tải, phản ảnh các hoạt động nổi bật từ quận đến cơ sở về công tác trẻ em,

công tác bình đẳng giới tạo động lực và sức lan tỏa trong phong trào thi đua...

Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

- Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao nhận thức cho

lãnh đạo, cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước theo hướng hỗ trợ thông

tin khoa học, hiểu đúng, hiểu sâu sắc, toàn diện về bình đẳng giới; kỹ năng tạo

cơ hội bình đẳng giới rõ ràng có tính đến đặc thù giới tính trong chính sách,

pháp luật.

Đối với lãnh đạo quận Sơn Trà

- Cần quan tâm hơn nữ đối với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ làm công tác tham mưu về bình đẳng giới. Và

đề nghị nên phân bổ 1 cán bộ chuyên trách công tác bình đẳng giới để đảm

bảo cho các hoạt động vì bình đẳng giới được triển khai nhanh chóng và hiệu

quả hơn.

- Ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia tích

cực vào các hoạt động kinh tế, xã hội góp phần nâng cao vị thế của người phụ

nữ trong xã hội.

- Tiếp tục triển khai và xây dựng các mô hình, các hoạt động truyền

thông nâng nhận thức về bình đẳng giới phù hợp với từng nhóm đối tượng,

từng địa bàn dân cư, hướng dẫn lồng ghép giới trong các lĩnh vực để thực hiện

tốt chính sách bình đẳng giới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.

76

Tiểu kết Chương 3

Ở chương 3, tác giả đưa ra 6 khuyến nghị nhằm thúc đẩy thực hiện

chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà như nâng cao vai trò lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy triển khai có hiệu quả Chương

trình, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, thông qua các luật để cải thiện

hơn nữa khung pháp lý liên quan đến vấn đề giới, tăng cường tham vấn phụ

nữ để đảm bảo tiếng nói của tất cả các nhóm phụ nữ được lắng nghe, đặc biệt

là phụ nữ khuyết tật, phụ nữ nghèo, khó khăn, nhóm phụ nữ yếu thế trong xã

hội… đề nghị thành lập và tổ chức thực hiện có hiệu quả các mô hình nhóm

phụ nữ như nữ cán bộ công chức, nữ tiểu thương, nữ công nhân lao động…,

và tăng cường hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm giữa các nhóm để thúc đẩy tiếng

nói và hành động chung về bình đẳng giới, thúc đẩy sự tham gia của các bên

liên quan, coi phụ nữ là động lực thúc đẩy và là mục tiêu của phát triển bền

vững, nêu cao vai trò chủ đạo của Hội liên hiệp phụ nữ trong thực hiện chính

sách bình đẳng giới. Từ các khuyến nghị nêu trên, tác giả đưa ra 5 giải pháp

bao gồm: giải pháp tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc

của các ngành đoàn thể đối với việc thực hiện chính sách bình đẳng giới; tăng

cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề về bình đẳng giới; xây dựng

đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực thi chính sách bình đẳng giới; tăng cường

vai trò giám sát, phản biện của Hội liên hiệp phụ nữ quận và tăng cường hỗ

trợ cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ.

77

KẾT LUẬN

Xác định công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ là một

nhiệm vụ quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nên đây là

vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Có thể nói, bình đẳng giới

không chỉ có ý nghĩa đối với phụ nữ, mà còn đem lại ý nghĩa lớn lao đối với

sự phát triển của xã hội. Đối với phụ nữ, bình đẳng giới làm thay đổi vị thế

của họ, tạo ra cơ hội để họ thoát khỏi những cản trở, đem hết khả năng của

mình cống hiến cho sự phát triển của gia đình và xã hội. Đối với xã hội, bình

đẳng giới góp phần thực hiện sự phát triển, tiến bộ của xã hội, bởi con người

(cả nam và nữ) thực sự được xem là mục tiêu và động lực của sự phát triển.

Giai đoạn 2010-2020, được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền

và sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên trong Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cả

quận, việc thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, chính sách bình

đẳng giới tại quận Sơn Trà đã được triển khai thực hiện tương đối chặt chẽ, cơ

bản đạt các mục tiêu đề ra. Các ngành, các địa phương tích cực vận động

nguồn lực, có cách làm sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế nên việc lồng

ghép các nội dung bình đẳng giới và thực hiện Luật bình đẳng giới vào kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội được các ngành, các địa phương chú trọng.

Công tác bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục đào tạo,

y tế, văn hóa và thông tin, lĩnh vực gia đình đạt được kết quả đáng khích lệ,

hầu hết đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác xây dựng tổ chức Hội vững mạnh với đội

ngũ cán bộ Hội ngày càng tự tin, năng động, sáng tạo luôn được các cấp Hội

phụ nữ từ quận đến cơ sở triển khai thực hiện tốt.

Việc thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2010-

2020 trên địa bàn quận Sơn Trà tiếp tục được sự quan tâm, vào cuộc của các

cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng dân cư nên đạt được một số kết quả.

Đội ngũ cán bộ phụ trách công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ

được phân công, bố trí ở tất cả các đơn vị, địa phương. Các cấp, các ngành có

78

những bước tiến trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, có nhiều

sáng kiến, đề xuất, tập hợp, vận động các tầng lớp phụ nữ thi đua học tập, lao

động, sản xuất, công tác, đồng thời chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng của phụ nữ; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp

phần nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của phụ nữ; giảm nghèo, tăng thu

nhập, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trẻ em… Đó là những yếu tố tích cực

thúc đẩy công tác bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn, góp phần rút ngắn

khoản cách giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khẳng định,

với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó vai trò nòng

cốt là tổ chức Hội Phụ nữ, hoạt động bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ

đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực

hiện chính sách bình đẳng giới trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế, bất

cập nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay như vẫn còn một

vài đơn vị thiếu sự quan tâm của lãnh đạo, thiếu sự phối hợp, công tác quy

hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ chủ chốt cấp phường ở một vài nơi chưa

được quan tâm, tỷ lệ cán bộ nữ được đào tạo trình độ cao cấp lý luận chính trị

còn ít. Công tác tuyên truyền tuy đã có sự đầu tư thay đổi về mặt nội dung lẫn

hình thức nhưng vẫn chưa thật sự thu hút đông đảo phụ nữ và người dân tham

gia, việc duy trì thực hiện chính sách còn bị động. Bên cạnh đó cán bộ phụ

trách công tác bình đẳng giới hầu hết là kiêm nhiệm nên cũng ảnh hưởng đến

công tác tổ chức, triển khai thực hiện chính sách. Một bộ phận phụ nữ còn an

phận, chưa tự tin tham gia vào các hoạt động xã hội để khẳng định bản thân.

Trên cơ sở điều kiện thực tế của quận, để khắc phục những tồn tại nêu

trên, tác giả đã đề xuất 6 khuyến nghị, 5 giải pháp thực hiện chính sách bình

đẳng giới với mong muốn tiếp tục tăng cường hơn nữa việc thực hiện chính

sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà. Và để thực hiện có hiệu quả nội dung

này trong thời đến, đòi hỏi các cấp, các ngành phải đổi mới nhận thức và

phương pháp tổ chức thực hiện, triển khai thực hiện tốt pháp luật, các chính

sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện, tăng

79

cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong thực hiện luật pháp, chính

sách liên quan đến phụ nữ, bình đẳng giới, gia đình và trẻ em. Tăng cường sự

lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự tham gia của các ngành đoàn thể đối với việc

thực hiện chính sách bình đẳng giới; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo

dục các vấn đề về bình đẳng giới; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực

thực thi chính sách bình đẳng giới; tăng cường vai trò giám sát, phản biện của

Hội liên hiệp phụ nữ quận; Tăng cường hỗ trợ cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ,

tạo điều kiện để phụ nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ,

nghiên cứu khoa học, tiếp cận với khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu hội

nhập và phát triển; quan tâm tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, hoàn thiện các

quy định về công tác cán bộ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ

trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển đối với một số cán bộ nữ giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý phù hợp trong từng giai đoạn. Hội Liên hiệp phụ nữ

các cấp phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, đổi mới nội dung,

phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, chuyên nghiệp, đa dạng hóa

hình thức tập hợp, hướng về cơ sở, gắn với các vấn đề thiết thân của phụ nữ,

tích cực tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng,

xây dựng chính quyền; đồng thời bản thân người phụ nữ phải vươn lên, rèn

luyện đức tính tự tin để có bản lĩnh vượt qua định kiến giới và hướng đến mục

tiêu tự khẳng định mình… Từ đó, nâng cao được vai trò, vị trí của phụ nữ

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy công tác bình đẳng

giới ngày càng hiệu quả hơn.

80