VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,

TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Hà Nội - 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,

TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. ĐOÀN KIM THẮNG

Hà Nội - 2021

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử xã hội loài người nói chung vận động theo hướng tiến bộ, mỗi giai

đoạn vận động và phát triển của xã hội có thể theo những xu hướng khác nhau,

nhưng xét đến cùng, đều là những nấc thang của sự tiến bộ xã hội (TBXH).

Tiến bộ xã hội được đánh giá thông qua sự phát triển con người, là khả

năng đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của con người ngày càng cao.

Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, dân tộc, không phải tất cả mọi nhu cầu của con

người đều đã được đáp ứng do trình độ phát triển kinh tế, do sự hạn chế bởi

các thể chế chính trị, sự tồn tại các quan điểm mâu thuẫn nhau… Bên cạnh

đó, ở nhiều quốc gia lại tồn tại tình trạng bất bình đẳng, nghèo đói, dịch bệnh,

thiên tai địch họa, khủng hoảng kinh tế... Do vậy, việc đáp ứng nhu cầu vật

chất, tinh thần, đảm bảo cho sự phát triển hài hòa của sự TBXH vẫn còn hạn

chế ở những mức độ khác nhau.

Để khắc phục những hạn chế đó, các quốc gia đã sử dụng nhiều cách

thức khác nhau để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó an sinh xã hội

(ASXH) được coi như cách thức cơ bản góp phần thúc đẩy sự phát triển và

TBXH. An sinh xã hội được xem là một “giá đỡ”, một “lưới an toàn” để tăng

cường khả năng ngăn ngừa, chống đỡ, giảm nhẹ, khắc phục những rủi ro gặp

phải trong cuộc sống, đảm bảo cho các cá nhân, các giai tầng xã hội có điều

kiện, cơ hội phát triển.

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở

rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa

các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các

quốc gia trên thế giới.

Trên địa bàn thành phố Long Xuyên, các vấn đề về ASXH luôn là vấn

1

đề mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược và lâu dài được Thành ủy,

các cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố, các xã, phường quan tâm triển

khai. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020

đã chỉ rõ: “Quản lý phát triển xã hội bền vững, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã

hội. Ưu tiên đầu tư cho phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững;

hỗ trợ phát triển vùng khó khăn, vùng dân tộc. Trong đó, có các bước đột phá

chiến lượng là từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thực hiện tốt

chính sách người có công cách mạng, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế; quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đẩy mạnh quảng

bá, phát huy bản sắc đặc trưng, khơi dậy truyền thống văn hóa, con người An

Giang. Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh trong xã hội. Gắn phát triển

văn hóa với phát triển du lịch”.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thực hiện chính sách ASXH

trên cả nước nói chung, tỉnh An Giang nói chung vẫn còn nhiều bất cập, hạn

chế như: chất lượng việc làm chưa bền vững, tỷ lệ thất nghiệp còn cao; tỷ lệ

hộ tái nghèo cao; việc đào tạo nghề ở trình độ cao đạt chỉ tiêu tạo việc làm và

giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao; thực hiện

mức trợ cấp xã hội còn thấp, chưa tập trung, còn chồng chéo, hiệu quả chưa

cao. Theo báo cáo đáng giá công tác giảm nghèo của Bộ lao động - Thương

binh và Xã hội tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ năm 2020: Tình trạng phát

sinh nghèo còn cao, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số, vùng thường xuyên thiên tai, bão lũ. Trong đó, giai đoạn 2016-2019, mỗi

năm phát sinh gần 22% hộ nghèo so với tổng số hộ thoát nghèo. Tỷ lệ tái

nghèo bình quân vẫn còn 4,09% so với tổng số hộ thoát nghèo. Vùng đồng bào

dân tộc thiểu số vẫn có tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhiều nơi còn tới trên 50%.

Trong số hộ nghèo thì tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số chiếm trên 58%,....

Để nhận diện những tồn tại, khó khăn trong thực hiện chính sách

ASXH tại tỉnh An Giang, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách an sinh

2

xã hội trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang” để làm luận

văn tốt nghiệp cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đã có rất nhiều công trình, bài viết, luận án,… nghiên cứu về ASXH

dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn, có thể kể đến các công trình nghiên cứu

sau:

Hệ thống ASXH ở nước ta gồm 5 trụ cột cơ bản là hệ thống chính sách,

giải pháp và các chương trình phát triển thị trường lao động; phát triển hệ

thống bảo hiểm; thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền

vững; xây dựng thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với những người có công;

phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và hệ thống dịch vụ xã hội.

Cuốn Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam của Viện Khoa học và Lao

động xã hội (ILSSA) phối hợp với Dự án Hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam, do

Tổ chức GIZ thực hiện dưới sự uỷ quyền của Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát

triển Đức (BMZ) xây dựng, xuất bản năm 2011. Với gần 200 thuật ngữ

ASXH sắp xếp theo thứ tự ABC bằng tiếng Việt và song ngữ Việt - Anh,

cuốn sách không chỉ đem lại sự thuận tiện trong tra cứu mà còn giúp độc giả

có một cái nhìn tổng quát về mối liên hệ giữa các trụ cột trong hệ thống

ASXH ở Việt Nam cùng các chương trình, chính sách có liên quan thông qua

sơ đồ về hệ thống ASXH.

Tác giả Dương Văn Thắng với bài Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh

sáng Đại hội XI của Đảng đã cho rằng, “an sinh” là một từ Hán-Việt. An -

trong chữ “an toàn”, sinh - trong chữ “sinh sống”, an sinh có thể hiểu là “an

toàn sinh sống”. Nói một cách khái lược: Xã hội an sinh là xã hội mà mọi

người được an toàn sinh sống, hay là có cuộc sống an toàn. Nói ngắn gọn,

ASXH là một tấm lưới che chắn, bảo đảm an toàn cho xã hội và con người, là

nhân tố bảo đảm cho việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững. An sinh xã hội

3

là trụ cột của hệ thống chính sách xã hội, Hệ thống ASXH gồm các cơ chế,

chính sách, giải pháp nhiều tầng, nấc nhằm bảo vệ cho mọi thành viên trong

xã hội không bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa bởi tác động tiêu cực của các

loại rủi ro. An sinh xã hội có ba chức năng chính là phòng ngừa rủi ro, hạn

chế rủi ro và khắc phục rủi ro.

Tại Hội thảo khoa học - thực tiễn “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn”. Các bài tham luận đã làm rõ nội hàm khái niệm ASXH;

kết cấu, các trụ cột chính của hệ thống ASXH nói chung, của hệ thống ASXH ở

Việt Nam nói riêng; xác định thành tố, trụ cột nào là quan trọng nhất cần tập

trung xây dựng và củng cố. Hội thảo đã làm rõ những thành tựu, hạn chế, những

vấn đề đang đặt ra cần giải quyết để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống

ASXH ở nước ta sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Đồng thời, phân

tích những quan điểm định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng,

hoàn thiện hệ thống ASXH trong thời kỳ đổi mới đất nước, những giải pháp đột

phá, khả thi cần thực hiện trong quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống ASXH ở

nước ta hiện nay và đến năm 2020.

Trong bài Tiếp cận an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay trên quan điểm

phát triển bền vững, tác giả Nguyễn Thị Nga đã nhấn mạnh rằng, trong thực

tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp cận nên hiện nay

còn có nhiều quan điểm khác nhau về ASXH, nhưng tựu trung lại, dù tiếp cận

dưới giác độ nào đi chăng nữa, thì về bản chất, ASXH là vấn đề vừa có tính

kinh tế, vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo rất sâu sắc. Nhà nước có vai

trò quan trọng trong bảo đảm ASXH, đối tượng bảo đảm ASXH là đông đảo

các tầng lớp dân cư.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu việc thực hiện ASXH trên địa bàn thành phố Long Xuyên,

4

tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020, thông qua đó đề xuất các phương hướng

và giải pháp thực hiện chính sách ASXH thành phố Long Xuyên đến năm

2025.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích để làm rõ những kết quả đạt được, những khó khăn tồn tại

trong quá trình thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Long Xuyên.

- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ASXH thành phố Long

Xuyên giai đoạn 2016-2020.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp thực hiện chính sách ASXH

thành phố Long Xuyên từ nay đến năm 2025.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến

việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An

Giang hiện nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nội dung: Nghiên cứu về thực hiện an sinh xã hội tại thành phố

Long Xuyên.

Phạm vi không gian: Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang

Phạm vi thời gian: phần thực trạng tập trung nghiên cứu giai đoạn 2016 đến

2020; đề xuất giải pháp thực hiện tốt chính sách ASXH giai đoạn 2021 - 2025.

5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận

Đề tài nghiên cứu của luận văn được tiến hành trên cơ sở những nguyên

lý, lý luận Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa

5

Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản

Việt Nam về ASXH và thực hiện chính sách ASXH; các Nghị quyết của Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố

Long Xuyên; đồng thời sử dụng số liệu thực tế, tham khảo các tài liệu có liên

quan và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn là phân tích - tổng

hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, logíc - lịch sử v.v.. Những

phương pháp này tùy theo từng vấn đề trong mỗi chương mà có sự vận dụng

linh hoạt nhằm hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận

- Cung cấp những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH trong

bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi.

- Nhận diện sự cần thiết khách quan, phân tích những khó khăn hạn chế

trong quá trình thực hiện ASXH ở nước ta hiện nay.

- Khái quát thực tiễn và những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện

ASXH ở một số nước trên thế giới và Việt Nam.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

- Đây là đề tài mang tính tổng kết thực tiễn, phù hợp với quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong suốt chặng đường đổi

mới, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập.

- Việc nghiên cứu đề tài sẽ cung cấp những luận cứ khoa học để các cơ

quan, ban ngành chức năng của tỉnh An Giang, cũng như thành phố Long

Xuyên tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách ASXH. Ngoài ra, đây là

những thông tin khoa học giúp các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, chính

6

quyền địa phương tham khảo nhằm đảm bảo thực hiện tốt ASXH trong

những năm tới.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách

ASXH.

Chương 2: Tổ chức thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố

Long Xuyên giai đoạn 2016-2020.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính

7

sách ASXH trên địa bàn thành phố Long Xuyên giai đoạn 2021-2025.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

1.1. Cơ sở lý luận; Khái niệm, nội dung, vai trò chính sách an sinh

xã hội.

1.1.1. Cơ sở lý luận và cách tiếp cận nghiên cứu.

Nghiên cứu này vận dụng cách tiếp cận quyền con người để tìm hiểu

thực tiễn hưởng lợi từ các chính sách ASXH lẫn thực tiễn cung cấp các dịch

vụ ASXH đang diễn ra ở địa bàn nghiên cứu. Tiếp cận quyền con người sử

dụng các tiêu chuẩn về quyền được hưởng lợi từ chính sách ASXH của người

dân, qua đó làm cơ sở xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc làm

điều kiện, khuôn khổ cho hoạt động hướng đến thúc đẩy đạt được quyền được

hưởng lợi từ chính sách ASXH của người dân. Cách tiếp cận quyền con người

được vận dụng nhằm phân tích nhu cầu hưởng lợi từ các chính sách ASXH

của người dân, cũng như nhu cầu mở rộng việc thực hiện chính sách này

nhằm phân tích, so sánh, lượng giá chúng.

1.1.2. Khái niệm

1.1.2.1. An sinh xã hội

Hệ thống cấu thành an sinh xã hội, gồm:

Thứ nhất, hệ thống BHXH (hưu trí, bảo hiểm y tế, chế độ trợ cấp,

BHXH ngắn hạn).

Thứ hai, hệ thống trợ giúp xã hội (trợ cấp xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ xã

hội nhóm yếu thế,…).

Thứ ba, hệ thống trợ cấp xã hội chung - Universal Social Benefit (trợ cấp

gia đình, dịch vụ y tế công cộng, trợ cấp Người cao tuổi,…).

8

Thứ tư, hệ thống trợ cấp tư nhân (Private Benefit System).

Bên cạnh đó, còn có nhiều nhận định dưới các góc độ khác nhau:

Thuật ngữ “An sinh xã hội” đã xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 70

của thế kỷ XX trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số

học giả Sài Gòn.

Đảm bảo ASXH là một yêu cầu của sự phát triển bền vững, là mục tiêu

hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng là một đòi hỏi cấp thiết đối với

nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhận

thức rất sớm về chính sách ASXH và tiếp cận nó từ góc độ: quyền con người.

Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện chính sách ASXH, kế thừa và

phát triển quan điểm lãnh đạo của các kỳ đại hội trước, Đại hội XII của Đảng

tiếp tục khẳng định thực hiện một nền ASXH toàn dân.

Đại hội XII khẳng định bảo đảm ASXH là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm trong thời kỳ mới: “…Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết… bảo đảm an sinh xã hội, nâng

cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững” và chỉ rõ định hướng đảm bảo

ASXH “tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xă hội phù hợp với quá tŕnh phát

triển kinh tế - xă hội”, “mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an

sinh xã hội tới mọi người dân, hướng tới mục tiêu thực hiện an sinh xã hội toàn

dân”, “khuyến khích nâng cao khả năng tự đảm bảo an sinh xã hội của mỗi người

dân”. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện đảm bảo ASXH và phát huy khả

năng tự đảm bảo ASXH của mình.

Cuốn Thuật ngữ An sinh xã hội Việt Nam của Viện Khoa học và Lao

động xã hội (ILSSA) phối hợp với Dự án Hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam, do

Tổ chức GIZ thực hiện dưới sự uỷ quyền của Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát

triển Đức (BMZ) xây dựng, xuất bản năm 2011, định nghĩa: ASXH là hệ

thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã hội/trợ giúp xã

9

hội) và tư nhân (các chế độ không theo luật định hoặc của tư nhân) nhằm

giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của

người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập,

bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội [15, tr 10].

Trên cơ sở phân tích các quan điểm về ASXH đã có, theo tác giả khái

niệm làm việc trong luận văn này được sử dụng là: An sinh xã hội là mạng

lưới các chương trình, hệ thống chính sách cụ thể từ nhà nước hoặc các tổ

chức xã hội nhằm trợ giúp, hỗ trợ, bảo vệ cá nhân và toàn xã hội, đặc biệt là

các cá nhân gặp phải rủi ro hay khó khăn trong cuộc sống, bảo đảm mức

sống tối thiểu và góp phần nâng cao đời sống của họ, từ đó, thúc đẩy sự phát

triển và tiến bộ xã hội.

1.1.2.2. Chính sách an sinh xã hội

Chính sách ASXH là văn bản quy định pháp quy cụ thể của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền được ra quyết định này, trong đó quy định đảm bảo

ASXH cho từng đối tượng hoặc nhóm người cụ thể (chính sách người có

công, thương binh, liệt sỹ, những người tham gia kháng chiến, người nhiễm

chất độc da cam) hoặc chính sách hỗ trợ về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đối

với người nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi.

Về cấu trúc của ASXH: Có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác

nhau, theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tê, thì một hệ thống

ASXH phải có tối thiểu 3 phần cơ bản, tương ứng với 3 chức năng chính của

ASXH gồm:

Thứ nhất, bao gồm các dự án, kế hoạch, đề án có tính chất phòng ngừa,

rủi ro. Đây là tầng trên của hệ thống ASXH.

Thứ hai, những chính sách, những chương trình giảm thiểu rủi ro, đây

là tầng thứ hai gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại, rủi ro của hệ thống

ASXH có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng trong tầng này là

10

các hình thức bảo hiểm, dựa trên các nguyên tắc đóng, hưởng như: BHYT,

BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, nhóm chính sách này là rất nhạy cảm, nếu phù

hợp thì sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực

cho nhà nước, tang độ bao phủ hệ thống. Ngược lại nếu chính sách không phù

hợp, người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng.

Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro bao gồm cách

chính sách chương trình về cứu trợ, trợ giúp xã hội.

Ở Việt Nam, cấu trúc ASXH bao gồm 5 trụ cột: BHXH, BHYT, Bảo

hiểm thất nghiệp, Cứu trợ xã hội, Trợ giúp và ưu đãi xã hội. Xét về thực chất

5 trụ cột này thực hiện 3 chức năng chiến lược của hệ thống ASXH là: phòng

ngừa rủi ro; giảm thiểu rủi ro; và khắc phục rủi ro. So với mô hình phổ biến

trên thế giới, hệ thống ASXH ở Việt Nam có một phần đặc thù, đó là chính

sách ưu đãi xã hội (ƯĐXH).

An sinh xã hội được tất cả các nước trên Thế giới cũng như Liên hợp

quốc thừa nhận quyền của con người trong mọi thời đại và mọi chế độ xã hội

vì nó có mục tiêu và bản chất tốt đẹp. Mục tiêu của ASXH là tạo ra lưới an

toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội khi bất kỳ một thành viên

nào trong cộng đồng không may gặp phải rủi ro hoặc lâm vào tình cảnh yếu

thế. Bản chất của ASXH thể hiện ở chỗ: “ASXH là một chính sách xã hội có

mục tiêu cụ thể và chính sách này thường được cụ thể hóa bởi luật pháp,

chương trình quốc gia và nó còn tồn tại trong tiềm thức của mỗi con người,

mỗi cộng đồng dân tộc”.

An sinh xã hội của các nước thường được chia ra thành các “lưới” khác

nhau: (i) Lưới thứ nhất, thường che chắn và bảo vệ cho người lao động và

dòng họ; (ii) Lưới thứ hai, bảo vệ cho những đối tượng được ưu tiên; (iii)

Lưới thứ ba, che chắn bảo vệ cho mọi thành viên trong xã hội. Việc chia ra

các lưới ASXH là rất cần thiết, vì nó liên quan đến nhiều vấn đề khi ban hành

11

chính sách, cũng như tổ chức thực hiện cách chính sách.

1.1.2.3. Thực hiện chính sách an sinh xã hội

Thực thi chính sách an sinh xã hội chính là quá trình chủ thể chính sách

băng những phương tiên, công cụ, giải pháp; sử dụng hệ thống các cơ quan,

nguồn lực để cụ thể hóa những chính sách có giá trị trên thực tế.

1.1.3. Nội dung cơ bản của chính sách an sinh xã hội

1.1.3.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế

Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là những bộ phận quan

trọng nhất trong hệ thống ASXH, đã được thể chế hóa bằng Luật BHXH, tại

kỳ họp thứ 9 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI thông qua

ngày 29/6/2006 và được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XIII

ngày 20 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm

2016 (trừ quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 2 có hiệu lực từ ngày

01 tháng 01 năm 2018); Luật BHYT được Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 4

thông qua ngày 14/11/2008 được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội

khoá XIII ngày 20 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng

01 năm 2015).

BHYT là một hình thức bảo hiểm do Nhà nước tổ chức thực hiện nhằm

chăm sóc sức khỏe cho người tham gia theo quy định của pháp luật, không vì

mục đích lợi nhuận.

- Đối tượng tham gia BHYT: toàn bộ người dân trong xã hội.

- Điều kiện và các dịch vụ được hưởng: các đối tượng phải tham gia

đóng bảo hiểm y tế theo quy định và được cấp thẻ bảo hiểm y tế, BHYT chủ

yếu cung cấp thuốc, chi trả các chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia

bảo hiểm.

12

- Mức hưởng BHYT: theo quy định của Luật bảo hiểm y tế.

Các chế độ BHXH, BHYT bắt buộc theo luật định hiện nay ở nước ta

bao gồm:

+) Bảo hiểm xã hội bắt buộc: (a) Ốm đau; (b) Thai sản; (c) Tai nạn lao

động, bệnh nghề nghiệp; (d) Hưu trí; (đ) Tử tuất.

+) Bảo hiểm xã hội tự nguyện: (a) Hưu trí; (b) Tử tuất

+) Bảo hiểm hưu trí.

+) Bảo hiểm y tế bắt buộc.

1.1.3.2. Chính sách trợ giúp xã hội

+ Trợ giúp xã hội thường xuyên là hình thức TGXH bằng tiền hoặc

hiện vật. TGXHTX là sự trợ giúp của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cộng

đồng về vật chất và tinh thần cho những đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó

khăn (gọi là đối tượng bảo trợ xã hội) không tự lo được cuộc sống (một hoặc

nhiều năm) để họ ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng xã hội và phát triển.

TGXHTX được xem là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên hệ

thống chính sách TGXH ở nước ta.

+ Trợ giúp xã hội đột xuất là hình thức TGXH do nhà nước và cộng

đồng giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc những biến

cố khác mà đời sống của họ bị đe doạ về lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn

cất và phục hồi sản xuất nếu không có sự giúp đỡ khấn cấp.

1.1.3.3. Chính sách ưu đãi xã hội.

Ưu đãi xã hội (ƯĐXH) là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất lẫn tinh thần

của Nhà nước và cộng đồng đối với những người có công với dân, với nước

và một số thành viên trong gia đình họ trong các lĩnh vực, được các quy phạm

pháp luật điều chỉnh.

13

1.1.3.4. Vấn đề giải quyết việc làm.

Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải

nâng cao chất lượng việc làm. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến

vấn đề giải quyết việc làm, người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh thứ hai của

nó là vấn đề tạo ra việc làm.

Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và

đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất

từ trước đến nay. Nguồn lao động dồi dào trong điều kiện nền kinh tế chưa

phát triển đã tạo ra sức ép rất lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm. Do vậy,

đòi hỏi phải bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân

lực phù hợp với xu thế mới. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ an

sinh xã hội, giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho NLĐ sớm quay trở lại thị

trường, bảo đảm đủ lực lượng lao động khi bước vào giai đoạn tăng cường

sản xuất kinh doanh. Tập trung hỗ trợ người SDLĐ đào tạo, đào tạo lại NLĐ

đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh kết nối cung-cầu lao động trong nước, gắn

với thị trường lao động quốc tế.

1.1.4. Vai trò của chính sách an sinh xã hội

Thứ nhất, ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội thông qua phát triển

kinh tế, góp phần giải phóng người lao động, tạo thế ổn định về chính trị, văn

hóa - xã hội.

Hệ thống ASXH mạnh là động lực cho phát triển bền vững về kinh tế,

tạo thế ổn định về chính trị, văn hoá - xã hội. Khi tạo dựng được hệ thống

ASXH đa tầng, linh loạt, diện bao phủ rộng khắp sẽ giải phóng người lao

động và phát triển LLSX, đầu tư phát triển cho những khu vực khó khăn, thu

hẹp khoảng cách trình độ LLSX giữa các vùng trong cả nước, mở rộng hệ

thống ASXH, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ hai, ASXH góp phần thực hiện quyền con người - một biểu hiện

14

cao nhất của chế độ chính trị xã hội vì mục tiêu tiến bộ xã hội.

Với sự phát triển của xã hội, vai trò của con người ngày càng được đề

cao và khẳng định như là trung tâm, động lực và mục tiêu của phát triển.

Trong đó, quyền có việc làm, thu nhập, nhà ở, được học hành, được chăm sóc

sức khỏe, dùng nước sạch, được sống trong môi trường an toàn, được tạo mọi

điều kiện mưu cầu hạnh phúc…đã trở thành các quyền cơ bản, thiết thực và

có ý nghĩa cao nhất đối với con người trong quan niệm phổ cập, toàn diện về

nhân quyền. Ðó cũng là nguyên nhân để ASXH trở thành một trong các trách

nhiệm của nhà nước, là thước đo, chỉ báo tập trung, tin cậy, cũng như thiết

thực nhất về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nói chung,

về quyền con người nói riêng.

Thứ ba, ASXH góp phần hoàn thiện chức năng xã hội của nhà nước

theo hướng tiến bộ xã hội.

Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, được sinh ra trên

một cơ sở kinh tế nhất định; đồng thời nhà nước tác động trở lại đối với cơ sở

kinh tế, đối với sự phát triển kinh tế của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển

khác nhau, nhà nước có vai trò khác nhau đối với kinh tế. Hiện nay, nhà nước

tham gia trực tiếp vào việc điều tiết vĩ mô đối với sản xuất, phân phối, tạo

dựng môi trường thuận lợi, dân chủ, công bằng, minh bạch, nhằm bảo đảm

cho nền kinh tế và sự phát triển của xã hội có tính ổn định, hiệu quả.

Thứ tư, ASXH góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của tiến bộ xã hội.

Trong thời đại ngày nay, những quan niệm về vai trò, vị trí của ASXH

trong phát triển nói chung và TBXH nói riêng liên tục thay đổi. Nếu như

trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của ASXH chỉ đơn thuần là phương tiện,

là yếu tố nhân văn, văn hoá, đạo đức…thì hiện nay, sự nhận thức trên hoàn

toàn khác. An sinh xã hội với hệ thống các chính sách đã thực sự trở thành

mục tiêu của sự phát triển và tiến bộ xã hội, với phương châm hành động

15

“phát triển vì con người và cho con người”.

1.1.5. Tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội

1.1.5.1. Chủ thể thực hiện chính sách an sinh xã hội

Quốc hội: Ban hành các văn bản mang tính định khung cơ bản như:

Luật, Bộ luật...

Chính phủ: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức

năng quản lý nhà nước mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi cả

nước. Chính phủ xây dựng các chiến lược an sinh xã hội của đất nước trong

từng giai đoạn, trong đó có chính sách BHXH, BHYT, ưu đãi xã hội và ban

hành các văn bản chỉ đạo, điều hành các cơ quan, ban ngành thực hiện chức

năng của mình về chính sách ASXH.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Bộ đề ra chiến lược phát

triển, xây dựng, thực hiện và phối hợp thực hiện các kế hoạch liên quan đến

chính sách BHXH, BHYT, bảo trợ xã hội.

Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Quyết

định cơ chế thực hiện giải pháp, bố trí nguồn lực tài chính đảm bảo thực hiện

chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, biện pháp xóa đói, giảm nghèo,

ưu đãi người có công với cách mạng.

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Quản lý nhà nước về

mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, thành phố, trong đó

bao hàm cả lĩnh vực an sinh - xã hội.

Sở Lao động -Thương binh & Xã hội: Tổ chức triển khai thực hiện

quản lý nhà nước về công tác BHXH, BTXH, ưu đãi xã hội.

1.1.5.2. Yêu cầu thực hiện chính sách an sinh xã hội của Việt Nam

- Yêu cầu thực hiện đúng mục tiêu chính sách

Chính sách ASXH là chính sách lớn. Phát triển an sinh xã hội là chính

16

sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, góp phần quan

trọng tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng, tạo sự đồng

thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng

cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.

- Yêu cầu đảm bảo tính hệ thống trong tổ chức thực hiện chính sách

ASXH.

Các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đã nhận thức đúng vai trò,

vị trí của chính sách ASXH, thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các

ngành, các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc ban hành các văn

bản hướng dẫn đảm bảo đồng bộ, đầy đủ, kịp thời. Quốc hội, Chính phủ; Bộ

LĐ - TB&XH đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan.

- Yêu cầu về việc bảo đảm tính pháp lý trong tổ chức thực hiện chính

sách ASXH.

Trong quá trình thực hiện Luật BHXH, BHYT, Pháp lệnh ưu đãi người

có công với cách mạng,... Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành

liên quan đã tổ chức các đoàn đánh giá, theo dõi và hướng dẫn, kịp thời tháo

gỡ những khó khăn, vướng mắc để đảm bảo việc thực hiện.

- Yêu cầu bảo đảm lợi ích cho đối tượng hướng tới của chính sách

ASXH.

Bảo đảm lợi ích cho đối tượng hướng tới của chính sách thể hiện quan

điểm nhất quán của chính sách, mục tiêu của chính sách.

1.2 Các bước thực hiện chính sách an sinh xã hội

Quy trình tổ chức thực hiện chính sách ASXH gồm các bước sau:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch

Ban hành kế hoạch thực hiện chính sách. Kế hoạch phải dự trù các nội

17

dung, chi phí, nguồn lực để thực thi chính sách trong thực tiễn.

Bước 2: Các nội dung của chính sách phải được tuyên truyền rộng rãi,

Việc tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, với nhiều kênh phong phú

và đa dạng.

Hiệu quả truyền thông chính sách không chỉ quyết định sự thành công

của từng chính sách riêng lẻ mà còn góp phần bảo đảm năng lực điều hành

của Chính phủ cũng như năng lực cầm quyền của Đảng. Việc nâng cao hiệu

quả truyền thông chính sách càng có ý nghĩa hơn khi chính phủ đương nhiệm

làm việc quyết liệt với tinh thần kiến tạo và hành động. Truyền thông chính

sách là quá trình chủ thể chính sách tiếp cận, gắn kết công chúng thông qua

phương thức, phương tiện truyền thông phù hợp nhằm làm cho công chúng

hiểu biết và ủng hộ chính sách. Ở một mức độ cao hơn, truyền thông chính

sách nhằm xây dựng đồng thuận xã hội như nguồn lực để thực hiện thành

công chính sách. Đồng thuận xã hội là trạng thái đa số công chúng đạt được

sự đồng tình, nhất trí đối với chính sách có tác động đến lợi ích của họ. Đồng

thuận xã hội đạt được khi công chúng đồng tâm, đồng lòng quy tụ theo một hệ

giá trị, hệ mục tiêu và lợi ích chung.

Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách: Thực tế, chính sách

an sinh xã hội có diện bao phủ lớn, đồi hỏi phải có nhiều chủ thể tham gia; do

đó đòi hỏi phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Bước 4: Duy trì chính sách:

Duy trì chính sách chính là việc thực hiện chính sách trong thời gian ổn

định. Việc duy trì chính sách chính là khẳng định sự đúng đắn của chính sách,

chính sách đi vào cuộc sống.

Bước 5: Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu

ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu.

Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính

18

sách ban đầu.

Bước 6: Kiêm tra, giám sát trong quá trình thực hiện chính sách.

Kiểm tra, giám sát là công cụ của hoạt động quản lý, Nhờ có kiểm tra,

giám sát ,ới thấy thực tế hiệu quả của chính sách, các vấn đề nảy sinh trong

thực tiễn thực hiện chính sách.

Bước 7: Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm:

Tổng kết, đánh giá chính sách giúp cho các cơ quan quản lý nhìn nhận

những vấn đề cần rút kinh nghiệm, những cách làm hay, giải pháp tốt sẽ được áp

dụng để đem lại hiệu quả cao hơn.

1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực hiện

chính sách an sinh xă hội

Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đã trải qua 30 năm (1986 - 2016). Đây

là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện, thay đổi cả

nhận thức về phát triển lẫn mô hình phát triển, xác lập thể chế, chính sách và

cơ chế quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế, tạo động lực mới cho phát triển

bằng cách giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng mọi tiềm năng của xã

hội ra khỏi những rào cản, những sự kìm hãm gây ách tắc, trì trệ để phát triển.

Từ đó, tạo ra những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt

Nam theo hướng TBXH.

Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đã thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát

triển lý luận trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội

một cách khoa học. Trong quan điểm của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam

không giải quyết vấn đề TBXH một cách riêng lẻ mà luôn gắn TBXH với

19

công bằng xã hội.

Giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng ta cho rằng “mục tiêu của

chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát

huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hoà giữa

phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với

tiến bộ xã hội” thực sự là bước tiến lớn về lý luận của Đảng ta.

Để đạt được mục tiêu này, dĩ nhiên, sự tăng trưởng về mặt kinh tế, sự

tiến bộ về mặt kinh tế - kỹ thuật là hết sức quan trọng và không thể thiếu

được. Tuy nhiên, nếu chỉ riêng có tăng trưởng về mặt kinh tế, sự tiến bộ về

mặt kỹ thuật và công nghệ không thôi thì chưa đủ đảm bảo để làm cho đất

nước ta trở nên văn minh hơn, nhân dân ta trở nên hạnh phúc hơn. Sự tiến bộ

về mặt kinh tế không thể nào tách rời sự tiến bộ về mặt văn hoá - xã hội, về sự

phát triển con người với hệ thống chính sách xã hội hợp thực tiễn và khoa học

của nó. Bởi vậy, tiến bộ về mặt văn hoá - xã hội cần được quan tâm đúng

mức. Chính vì vậy, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải

gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt

quá trình phát triển”; “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội

trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt

các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế”.

Văn kiện Đại hội XI tiếp tục phát triển những vấn đề lý luận về TBXH,

công bằng xã hội, ASXH: “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, cải thiện điều kiện

chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “An sinh xã hội cơ bản

được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện”.

Dựa trên các quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng. Nhà nước ta đã

20

ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa các chính sách an sinh xã hội như:

Luật BHXH, Luật BHYT, Pháp lệnh Ưu đãi người có công; Pháp lệnh số

04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa

13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách

mạng; Quyết định số 22/2013/QĐ-TTG ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính

phủ về Hỗ trợ Người có công với cách mạng về nhà ở; Nghị quyết số 63/NQ-

CP ngày 25/7/2017 của Chính phủ về việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở

đối với người có công với cách mạng theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTG

này 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định 1722/QĐ-TTg ngày

2/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia

giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 135/1998/QĐ-

TTG ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương

trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng

sâu, vùng xa.

Kết luận số 92-KL/TW ngày 05/11/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục

thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính

sách xã hội giai đoạn 2012-2020, tập trung: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

quán triệt, thể chế hoá Nghị quyết, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm

cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân

về chính sách xã hội. Xác định rõ chính sách xã hội chăm lo cho người dân là

nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên của Đảng, Nhà nước, các

cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội; đặt con người vào trung tâm

chính sách; phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển, bảo đảm tiến bộ và

công bằng xã hội; phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp, đoàn kết, "tương

thân, thương ái" của dân tộc ta. Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn

diện, bao trùm và bền vững. Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng

cao hiệu quả trong tổ chức thực hiện. Đặc biệt, quan tâm chính sách ưu đãi

người có công với cách mạng, bảo đảm người có công và gia đình người có

21

công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của

dân cư trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp

cận với chuẩn nghèo đa chiều, nhất là ở địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình mục

tiêu quốc gia theo hướng toàn diện, bao trùm, bền vững.

Tiểu kết Chương 1

Chương 1 đã làm rõ những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận chung của

chính sách ASXH dưới góc độ là khoa học Chính sách công, trong đó nêu rõ

cách tiếp cận Quyền con người trong nghiên cứu của đề tài và làm sáng tỏ các

khái niệm liên quan đến thực hiện chính sách ASXH như: khái niệm An sinh

xã hội, Chính sách an sinh xã hội; Thực hiện chính sách an sinh xã hội; Các

bước thực hiện chính sách; Chủ thể thực hiện chính sách; Nội dung chính

sách an sinh xã hội; Các yêu cầu cần bảo đảm trong thực hiện chính sách an

xã hội,… Bên cạnh đó, các văn bản pháp quy như Văn kiện Đại hội Đảng XII

và các Nghị quyết chủa Chính phủ,… Đây là nền tảng cơ sở lý luận quan

trọng giúp tác giả luận văn làm căn cứ để phân tích thực trạng thực hiện chính

22

sách an sinh xã hội tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Chương 2

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI

ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách an sinh xã

hội trên địa bàn thành phố Long Xuyên

2.1.1 Đặc điểm tự nhiên

Thành phố Long Xuyên cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 185 km

về phía tây nam, thành phố Cần Thơ khoảng 60 km về phía tây bắc và cách

biên giới Campuchia 55 km. Thành phố nằm bên bờ sông Hậu và có vị trí địa

lý: Phía đông giáp huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp qua một đoạn nhỏ sông

Hậu và huyện Chợ Mới; Phía tây giáp huyện Thoại Sơn; Phía nam giáp

quận Thốt Nốt và huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ; Phía bắc giáp

huyện Châu Thành.

Theo thống kê năm 2019, thành phố có diện tích 114,96 km², dân số là

272.365 người, mật độ dân số đạt 2.369 người/km². Thành phố Long Xuyên

có diện tích nội thành là 24,4 km², chiếm khoảng 19,08% diện tích đất tự

nhiên thành phố. Là một trong những trung tâm đô thị lớn của vùng đồng

bằng sông Cửu Long.

Thành phố Long Xuyên có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao

gồm 11 phường: Bình Đức, Bình Khánh, Đông Xuyên, Mỹ Bình, Mỹ

Hòa, Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Quý, Mỹ Thạnh, Mỹ Thới, Mỹ Xuyên và 2

xã: Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Khánh.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Long Xuyên được phê duyệt là trung tâm tăng trưởng kinh tế, thương

23

mại, dịch vụ của vùng đồng bằng tại khu vực Nam sông Hậu. Đồng thời, TP

Long Xuyên cũng là trung tâm đào tạo, chuyển giao công nghệ, chế biến thủy

sản, nông sản, có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đối với

tỉnh An Giang và vùng ĐBSCL. Nhiều công trình, dự án trọng điểm đã được

đầu tư và đưa vào sử dụng, diện mạo TP ngày càng khang trang hơn. Nhiều

khu đô thị mới, hiện đại được hình thành, các khu trung tâm thương mại và

chợ đã đưa vào hoạt động. TP Long Xuyên đã nâng cấp, mở rộng đồng bộ

168 tuyến đường nội ô TP, đã tạo kết nối không gian đô thị...

Thành phố Long Xuyên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa

học kỹ thuật của tỉnh An Giang có vị trí chiến lược, là điểm giao thoa giữa 2

khu vực năng động của vùng đô thị trung tâm và tứ giác Long Xuyên. Thành

phố đồng thời nằm trong trung tâm của vùng tam giác phát triển Thành phố

Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Phnom Penh (Campuchia).

Thành phố Long Xuyên có lợi thế kết nối thuận lợi với các vùng của

quốc gia, quốc tế, nằm trên điểm giao của các tuyến giao thông trọng yếu của

vùng Đồng bằng sông Cửu Long và chỉ cách sân bay quốc tế Cần Thơ khoảng

60 km.

Thành phố cũng có điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp dựa

trên lợi thế có Cảng Mỹ Thới là Cảng hoạt động có hiệu quả thứ 2 ở vùng

Đồng bằng sông Cửu Long, có thể tiếp nhận tàu 10.000 DWT, đang mở rộng

kho bãi nâng công suất cảng lên 3,5 triệu tấn/năm.

Với thế mạnh thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, thành phố Long

Xuyên hiện là đô thị có tỷ trọng thương mại dịch vụ (chiếm 81,5% trong cơ

cấu kinh tế), cao nhất trong hệ thống 12 đô thị tỉnh lỵ của vùng Đồng bằng

sông Cửu Long. Ngành Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, thì: Ở

TP. Long Xuyên có khoảng 90 nhà máy xay xát, lau bóng gạo, 08 nhà máy

chế biến thủy sản, 01 nhà máy chế biến nông sản và rau quả xuất khẩu Bình

24

Khánh và 01 nhà máy thức ăn gia súc Afiex. Các cơ sở chế biến nước mắm và

nước chấm có tiếng như: Vị Hương, Cửu Long, Miền Tây Mitaco, Hương

Sen,... Ngoài ra, nơi đây hiện có 14 ngành nghề truyền thống đang tồn tại,

gồm: se nhang, làm bánh tráng, làm lưỡi câu, làm len, đồ sắt, làm dầm chèo,

đan lát, chằm nón, dệt, đóng xuồng ghe, làm cẩm thạch,... đã hình thành từ

hàng chục năm nay.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố Long Xuyên đã và đang hình thành

một số khu đô thị mới như: khu đô thị Sao Mai, khu đô thị Golden City, khu

đô thị Diamond City (Tây Sông Hậu), khu đô thị Tây Nam Long Xuyên, khu

đô thị FLC An Giang,.. Các công trình phục vụ công cộng và cơ sở kỹ thuật

hạ tầng đô thị được đầu tư, xây dựng đồng bộ, ngày càng hoàn thiện trên

nhiều lĩnh vực. Nhiều dự án trọng điểm được triển khai và đẩy nhanh tiến độ

thực hiện, thu hút các tập đoàn lớn như T&T, FLC, TMS,...

- Tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Long Xuyên

Năm 2016, qua thống kê, rà soát, toàn thành phố có 1.567 hộ nghèo đa

chiều với 5.474 nhân khẩu (chiếm 2.14% so với tổng số dân trên địa bàn); số

hộ cận nghèo trong toàn thành phố là 2.787 hộ với 10.163 nhân khẩu (chiếm

3.8% so với tổng số dân trên địa bàn). Trong đó, có 500 hộ chưa có nhà ở,

hiện đang ở nhà thuê hoặc ở nhờ (chiếm gần 11.5% so với tổng số hộ nghèo

và cận nghèo trên toàn thành phố hiện nay) (Niên giám thống kê tỉnh An

Giang năm 2016).

Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2016-2020 đã đặt ra

nhiệm vụ như sau: phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo trong toàn thành phố từ

2.14% đầu năm 2016 đến cuối năm 2020 không còn hộ nghèo theo chuẩn

quốc gia; giảm tỷ lệ hộ cận nghèo từ 3.8% vào đầu năm 2016, xóa hộ nghèo

theo chuẩn nghèo quốc gia vào cuối năm 2020. Để đạt được chỉ tiêu trên,

thành phố sẽ tập trung mọi nguồn lực để 100% hộ nghèo, cận nghèo được cấp

25

thẻ bảo hiểm y tế; được hỗ trợ tiền điện sinh hoạt đầy đủ và kịp thời; học sinh,

sinh viên thuộc hộ nghèo, cận nghèo được miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi

phí học tập theo quy định của Chính phủ; 100% người nghèo, cận nghèo trong

độ tuổi lao động có nhu cầu học nghề đều được hỗ trợ đào tạo nghề và giới

thiệu việc làm phù hợp;100% hộ nghèo, cận nghèo đủ điều kiện, chí thú làm

ăn có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ vay vốn để sản

xuất, kinh doanh từ Ngân hàng Chính sách Xã hội; nếu có nhu cầu trợ giúp

pháp lý họ sẽ được trợ giúp miễn phí; được hỗ trợ cất, sửa nhà đại đoàn kết

theo quy định... và nhiều chính sách hỗ trợ khác. Trong đó, đối tượng được

Kế hoạch hướng tới là hộ nghèo, cận nghèo trong toàn thành phố theo số liệu

thống kê, rà soát của chuẩn hiện hành, trong đó ưu tiên cho người nghèo, cận

nghèo thuộc các đối tượng người cao tuổi, người khuyết tật, chủ hộ là nữ. Và

địa phương nào có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao sẽ được ưu tiên thực hiện

trước nhằm bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người

nghèo và cận nghèo trong toàn thành phố, từ đó tạo mọi điều kiện để họ ổn

định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững.

2.1.3. Nguồn lực tài chính

Năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của

Long Xuyên đạt mức 30.542 tỷ đồng, chiếm 28% giá trị của tỉnh. Tốc độ tăng

tưởng GDP giai đoạn 2017 - 2019 đạt mức 10,25%. Kinh tế phát triển, thu nhập

bình quân đầu người ở thành phố tăng cao, đạt mức 132 triệu đồng/người/năm.

Cũng trong năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 0,03%. Tổng thu ngân

sách khoảng 1.329 tỷ đồng, chi ngân sách là 1.253 tỷ đồng.

Đồng thời để thực hiện thành công mục tiêu xóa nghèo vào năm 2020,

thành phố sẽ huy động tối đa mọi nguồn lực với tổng nguồn vốn dự kiến trong

5 năm trên 153 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương là 109,3 tỷ đồng;

ngân sách tỉnh là 15 tỷ đồng; thành phố là 5,2 tỷ đồng; vận động xã hội hóa là

26

23,6 tỷ đồng.

2.1.4. Trình độ nhận thức của người dân

Sự phát triển của hệ thống chính sách ASXH phụ thuộc vào nhận thức

chung về Giảm nghèo; Chính sách ưu đãi Người có công với cách mạng của

xã hội….Thực tế, nếu chính sách nhận được sự ủng hộ của đối tượng thụ

hưởng thì sẽ rất thuận lợi trong việc triển khai, bảo đảm tính hiệu quả.

2.2. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội trên

địa bàn thành phố Long Xuyên

2.2.1. Khái quát việc thực hiện An sinh xã hội trên địa bàn thành phố

Long Xuyên

Thực hiện Kế hoạch số 418/KH-UBND của UBND tỉnh An Giang về

việc thực hiện chính sách đảm bảo an sinh xã hội giai đoạn 2016-2020 trên

địa bàn tỉnh An Giang. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan

thường trực Tổ tư vấn đảm bảo ASXH, tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo,

điều hành việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Triển khai và thực hiện tốt

chương trình giảm nghèo; việc làm, phát triển nguồn nhân lực dạy nghề, kế

hoạch trợ giúp ngýời cao tuổi, các ðối týợng bảo trợ xã hội, trẻ em đặc biệt

khó khăn, người khuyết tật, phòng chống tệ nạn xã hội.

Ban Thường vụ Thành ủy Long Xuyên đã ban hành Chỉ thị số 06 về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an sinh xã hội và giảm

nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Trên cơ sở Chỉ thị của Ban Thường vụ

Thành ủy, ngày 12/4/2016, UBND thành phố cũng ban hành Kế hoạch thực

hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững thành phố Long

Xuyên giai đoạn 2016-2020 tiến tới xóa hộ nghèo vào cuối năm 2020 với mục

tiêu cụ thể như: đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo và

phát sinh hộ nghèo mới; từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống của

người nghèo; thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị

27

và nông thôn; tập trung mở rộng thực hiện xã hội hóa đối với công tác giảm

nghèo; triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội; tăng cường

khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở,… cho

người nghèo; bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em nghèo tiến tới xóa nghèo

bền vững.

Với mục tiêu trên, thành phố đã đề ra những chỉ tiêu chủ yếu cần thực

hiện trong giai đoạn 2016 - 2020 như sau: phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo trong

toàn thành phố từ 2.14% đầu năm 2016 đến cuối năm 2020 không còn hộ

nghèo theo chuẩn quốc gia; giảm tỷ lệ hộ cận nghèo từ 3.8% vào đầu năm

2016 xuống còn dưới 3% vào cuối năm 2020. Để đạt được chỉ tiêu trên, thành

phố sẽ tập trung mọi nguồn lực để 100% hộ nghèo, cận nghèo được cấp thẻ

bảo hiểm y tế; được hỗ trợ tiền điện sinh hoạt đầy đủ và kịp thời; học sinh,

sinh viên thuộc hộ nghèo, cận nghèo được miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi

phí học tập theo quy định của Chính phủ; 100% người nghèo, cận nghèo trong

độ tuổi lao động có nhu cầu học nghề đều được hỗ trợ đào tạo nghề và giới

thiệu việc làm phù hợp; 100% hộ nghèo, cận nghèo đủ điều kiện, trí thú làm

ăn có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ vay vốn để sản

xuất, kinh doanh từ Ngân hàng Chính sách Xã hội; nếu có nhu cầu trợ giúp

pháp lý họ sẽ được trợ giúp miễn phí; được hỗ trợ cất, sửa nhà đại đoàn kết

theo quy định,... và nhiều chính sách hỗ trợ khác. Trong đó, đối tượng được

Kế hoạch hướng tới là hộ nghèo, cận nghèo trong toàn thành phố theo số liệu

thống kê, rà soát của chuẩn hiện hành, trong đó ưu tiên cho người nghèo, cận

nghèo thuộc các đối tượng người cao tuổi, người khuyết tật, chủ hộ là nữ. Và

địa phương nào có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao sẽ được ưu tiên thực hiện

trước nhằm bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người

nghèo và cận nghèo trong toàn thành phố, từ đó tạo mọi điều kiện để họ ổn

định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra khá

cao đòi hỏi các cấp, các ngành từ thành phố đến phường, xã phải đề ra nhiều

28

giải pháp thiết thực và triển khai một cách đồng bộ, tích cực nhằm mang lại

hiệu quả cao nhất như: tăng cường vai trò lãnh đạo và trách nhiệm của các cấp

ủy Đảng, chính quyền trong thực hiện các hoạt động về giảm nghèo; đẩy

mạnh công tác tuyên truyền về chương trình giảm nghèo của thành phố đến

các cấp, các ngành và các tầng lớp dân cư nhằm góp phần thay đổi, tạo sự

chuyển biến về nhận thức của người dân đối với công tác giảm nghèo; vận

động người nghèo, cận nghèo phát huy khả năng của bản thân, chủ động phấn

đấu vươn lên, không trông chờ, ỷ lại vào nhà nước; huy động mọi nguồn lực

đầu tư cho công tác giảm nghèo; phát động rộng rãi phong trào ủng hộ “Quỹ

Vì người nghèo” đến mọi tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp nhân dân nhằm

huy động tốt nguồn lực cộng đồng để hỗ trợ cho người nghèo; kịp thời biểu

dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công

tác giảm nghèo của thành phố.

Với các mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp cụ thể, thiết thực, thành phố đã

phân công trách nhiệm cho từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị và

xem đó là chỉ tiêu để xét thi đua cho từng năm. Để thực hiện thành công mục

tiêu xóa nghèo vào năm 2020, thành phố sẽ huy động tối đa mọi nguồn lực

với tổng nguồn vốn dự kiến trong 5 năm trên 153 tỷ đồng. Trong đó, Ngân

sách Trung ương là 109,3 tỷ đồng; Ngân sách tỉnh là 15 tỷ đồng; thành phố là

5,2 tỷ đồng và vận động xã hội hóa là 23,6 tỷ đồng. Do đó, bên cạnh sự quan

tâm, hỗ trợ của Trung ương, Tỉnh và sự quyết tâm của các cấp ủy Đảng, chính

quyền từ thành phố đến phường, xã rất mong sự chung tay, góp sức của các tổ

chức, cá nhân và toàn xã hội để thành phố cùng quan tâm, chăm lo, hỗ trợ cho

hộ nghèo, cận nghèo; góp phần thực hiện thành công chính sách an sinh xã

hội của địa phương và kế hoạch xóa nghèo giai đoạn 2016 - 2020 mà thành

phố đã đề ra, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội thành phố ngày càng phát triển

và đến năm 2020, Long Xuyên sẽ trở thành đô thị trực thuộc tỉnh theo Nghị

29

quyết Đại hội Đảng bộ thành phố đã đề ra.

2.2.2. Việc thực hiện ASXH trên địa bàn thành phố Long Xuyên giai

đoạn 2016-2019.

2.2.2.1. Thực trạng công tác bảo hiểm xã hội

a. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội

Trong những năm qua, số người tham gia BHXH liên tục tăng, nhận

diện trên được minh họa qua bảng 2.1 sau:

Bảng 2.1. Số người tham gia bảo hiểm xã hội

Tốc độ Năm Năm Năm Năm PTBQ Các chỉ tiêu

2016 2017 2018 2019 (%/năm)

1. BHXH bắt buộc 14.587 15.423 15.162 18.004 6,90

2. BHXH tự nguyện 4.308 7.042 6.958 6.082 15,39

Nguồn: BHXH TP Long Xuyên, tổng hợp năm 2019

Tổng cộng 18.895 19.465 21.120 24.086 7,21

Qua bảng 2.1 có thể thấy, năm 2016 toàn tỉnh có khoảng 14.587 người

tham gia BHXH thì đến hết năm 2019 con số tham gia BHXH là 24.086

người, tăng bình quân chung là 7,21%/năm.

Thực tế, có thể nói trong thời gian qua công tác truyền thông luôn

được BHXH Long Xuyên chú trọng, coi đây là một trong những giải pháp

quan trọng thúc đẩy phát triển đối tượng cả loại hình bắt buộc và tự nguyện.

An Giang là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước tổ chức

công tác rà soát, phân loại đối tượng chưa tham gia BHXH, BHYT để từ đó

30

có các giải pháp tuyên truyền, vận động đối tượng phù hợp.

Mức độ bao phủ của BHXH: có tăng lên nhưng còn thấp, tính đến

năm 2013, trong tổng số 218.558 người trong độ tuổi lao động thuộc diện

tham gia BHXH thì mới chỉ có 24.086 người tham gia, chiếm tỷ lệ 13,4%.

Thu bảo hiểm xã hội: tăng lên khá nhanh và vững. Năm 2016, mới chỉ

có 45.361 triệu đồng thì đến năm 2019 con số này là 107.535 triệu đồng,

tăng 2,24 lần so với năm 2019. Thu BHXH tăng là do số người tham gia

tăng, mức lương làm căn cứ đóng BHXH và mức đóng cũng tăng theo luật

định. Tình trạng nợ đọng và trốn đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao

động còn lớn, năm 2013 là 4,2 tỷ đồng chiếm 4,55% số phải thu theo kế

hoạch.

b. Công tác chi trả bảo hiểm xã hội

- Trong các năm qua, số người được nhận chi trả BHXH tăng lên rất

nhanh ở tất cả các nhóm đối tượng hưởng. Năm 2016, toàn tỉnh chỉ có

13.216 người hưởng BHXH thì đến năm 2019 là 18.200 người, tăng 34.984

người, gấp gần 1,5 lần so với năm 2019 và có tốc độ tăng bình quân năm là

13,9%.

- Mức chi trả BHXH: tăng mạnh qua các năm, từ 54.002 triệu đồng

năm 2016 lên 63.029 triệu đồng năm 2019, tốc độ tăng bình quân là

1,27%/năm. Nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ chi lớn nhất là nhóm hưu trí và tử

tuất, mặc dù số người hưởng của nhóm đối tượng này chỉ chiếm 20,95%

nhưng số tiền chi trả chiếm đến 80,62% tổng số chi trả BHXH toàn tỉnh.

Bảng 2.2. Mức độ tác động của bảo hiểm xã hội bắt buộc

Nội dung ĐVT 2016 2017 2018 2019

31

1. Mức lương hưu bình Tr.đ/ng/th 2,251 2,295 2,905 3,216 quân

2. Mức chi tiêu bình quân Tr.đ/ng/th 2,45 2,76 3,05 3,55

Nguồn: Tính toán dựa vào nguồn số liệu của BHXH thành phố Long Xuyên

3. Mức độ tác động (1/2) % 92 83 95 91

Qua bảng 2.2 cho thấy, mức độ tác động BHXH có biến động tăng

giảm không ổn định, giảm mạnh vào năm 2016, từ 92% năm 2016 xuống

còn 83% năm 2017 và tăng lên 95% năm 2018 nhưng đến năm 2019 lại

giảm xuống 91%. Trong đó, mức độ tác động đối với người lao động của

khu vực sản xuất thường thấp hơn mức độ tác động chung.

- Mức độ bền vững về tài chính trên toàn thành phố: là tương đối tốt

thể hiện ở việc cân đối thu - chi quỹ BHXH của thành phố luôn dương. Tuy

nhiên, tỷ lệ giữa tổng số chi/tổng số thu có xu hướng biến động tăng dần

trong năm 2017 sang năm 2018 (năm 2017 là 57,71% thì đến năm 2019

tăng lên 62,39%). Ngoài khoản chi trả từ quỹ BHXH thì hàng năm tỉnh còn

phải sử dụng nguồn từ NSNN để chi trả các chế độ BHXH, chiếm 40%

trong tổng chi này.

2.2.2.2. Thực trạng công tác bảo hiểm y tế

Số người tham gia bảo hiểm y tế có sự tăng nhanh các năm qua. Điều

đó thể hiện ở bảng 2.3 dưới đây:

Bảng 2.3. Số người tham gia BHYT trên địa bàn thành phố

các năm (2016-2019)

Đối tượng 2016 2017 2018 2019

- Làm công ăn lương 10.164 18.521 15.120 13.086

- Đối tượng chính sách 5.268 5.920 5.608 5.436

32

- Nghèo, cận nghèo 28.317 39.229 42.056 32.356

- Học sinh, sinh viên 10.960 10.916 17.474 15.579

- BHYT tự nguyện khác 25.307 37.968 30.590 43.112

Nguồn: Bảo hiểm xã hội tại thành phố Long Xuyên, năm 2019

Tổng số 85.016 98.554 117.848 127.569

Qua bảng 2.3 cho thấy, năm 2016 số người tham gia BHYT là 85.016

người thì đến năm 2019 là 127.569 người, tăng 22.553 người. Cùng với việc

mở rộng các đối tượng BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện cũng tăng khá

nhanh, từ 25.307 người ở năm 2016 thì đến năm 2019 tăng lên đến 43.112

người, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,21%/năm.

- Mức độ bao phủ BHYT: hướng tới BHYT toàn dân, tỉnh đã triển khai

nhiều biện pháp để tăng diện bao phủ, kết quả thể hiện qua bảng 2.4 như sau:

Bảng 2.4. Mức độ bao phủ bảo hiểm y tế trên địa bàn

Năm Năm Năm Năm Đối tượng 2016 2017 2018 2019

1. Số người tham gia BHYT 895.016 978.554 1.117.848 1.127.569

2. Dân số (người) 1.427.911 1.437.719 1.449.000 1.461.164

Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu của BHXH thành phố Long Xuyên, năm 2019

3. Mức độ bao phủ (1/2) (%) 62,68 68,06 77,14 77,17

Qua bảng 2.4 cho thấy, Long Xuyên đã cơ bản bao phủ được phần lớn

số dân trên toàn tỉnh với số người tham gia năm 2019 là 127.569 người, chiếm

77,17%. Tuy nhiên, BHYT vẫn còn chưa bao phủ được nhiều người trong

nhóm đối tượng làm nông nghiệp, lâm nghiệp và hộ kinh doanh cá thể.

Công tác thu BHYT tăng nhanh qua các năm: Năm 2016, thu BHYT là

33

30.150 triệu đồng và tới năm 2019 thì số thu là 74.393 triệu đồng tăng hơn

gấp đôi so với 2016. Do số người tham gia tăng và do điều chỉnh tiền lương.

Nhưng còn một số thẻ BHYT đối tượng chính sách được cấp trùng lặp đã dẫn

đến việc thu đúng, thu đủ vào nguồn quỹ BHYT các năm qua chưa chính xác.

Kinh phí chi trả cho các chế độ BHYT ở trong 4 năm gần đây có sự gia

tăng lớn: Năm 2016 là 32.068 triệu đồng thì đến năm 2019 là 79.657 triệu

đồng, phần lớn là chi cho nhóm hưởng ưu đãi xã hội và nhóm BHYT tự

nguyện. Nguyên nhân do số đối tượng hưởng ưu đãi xã hội lớn, có sức khỏe

yếu và do những người có bệnh nặng sẽ tích cực tham gia BHYT tự nguyện.

- Mức độ tác động của công tác BHYT, số người tham gia, số lượt

KCB bằng thẻ BHYT tăng cho thấy mức độ tác động của BHYT đã tăng lên.

Tuy nhiên, chất lượng KCB còn thấp, chưa đạt sự mong đợi của người tham

gia.

2.2.2.3. Thực trạng công tác cứu trợ xã hội

a. Cứu trợ thường xuyên

Số lượng người thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên của thành phố

khá đông và tăng dần qua các năm. Năm 2016, số người được cứu trợ thường

xuyên là 7.904 người, chiếm 4,76% dân số thì năm 2019 tăng lên 8.507

người, chiếm 5,15% dân số.

Mức cứu trợ thường xuyên: kinh phí dùng để trợ cấp cho các đối tượng

này cũng tăng qua các năm, từ 17.161 triệu đồng năm 2016 lên 21.272 triệu

đồng năm 2019. Điều đó cho thấy công tác cứu trợ đang được chú trọng hơn.

b. Cứu trợ đột xuất

- Đối tượng cứu trợ đột xuất: Đối tượng tăng giảm biến động theo sự

ảnh hưởng tác động của thiên tai bảo lũ hàng năm. Năm 2016 số được cứu trợ

là 10.133 đối tượng, đến năm 2019 là 5.731 đối tượng. Chủ yếu là những

34

người bị đói do thiếu lương thực, do trong năm 2016 biến đổi khí hậu trên địa

bàn rất lớn làm cho nông dân bị thiệt hại do mất mùa nặng. Những năm tiếp

theo, tình hình kinh tế đã dần ổn định nên công tác cứu trợ cũng giảm đi đáng

kể.

- Mức cứu trợ đột xuất tùy thuộc vào các nguồn cứu trợ của các tổ chức

xã hội và nguồn ngân sách của địa phương. Quy định trong giai đoạn này, mức

trợ cấp đột xuất đối với HGĐ có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng:

6.000.000 đồng/hộ; mức trợ giúp cứu đói: 15 kg gạo/người/tháng,...

Thực tế những năm qua, đối tượng bị thiệt hại do thiên tai cần cứu trợ

rất lớn nhưng sự hỗ trợ của Nhà nước có hạn, riêng về dân sinh mức độ hỗ trợ

chỉ bằng 10% thiệt hại để đảm bảo ổn định cuộc sống và sản xuất trước mắt cho

hộ bị thiệt hại nặng, mức độ tác động của TGXH còn rất thấp.

2.2.2.4. Thực trạng hoạt động ưu đãi xã hội

Vai trò của ưu đãi xã hội Là một bộ phận của hệ thống an sinh xã hội,

ưu đãi xã hội có vai trò hết sức quan trọng, thực hiện sứ mệnh bảo vệ một số

thành viên đặc thù của xã hội. Không những thế, nó còn thể hiện thái độ, tình

cảm của đất nước, của dân tộc, của thế hệ con cháu đối với những người đã

cống hiến hy sinh cho đất nước. Chính vì vậy, ưu đãi xã hội có vai trò trên

mọi bình diện của đời sống xã hội : kinh tế, chính trị, xã hội và pháp lý. Sự

ưu đãi với những người có công sẽ không chỉ là sự hỗ trợ về mặt đời sống vật

chất cũng như tinh thần cho họ nó còn tạo sự tin tưởng vào chế độ xã hội tốt

đẹp, là nguồn động viên khích lệ đối với thành viên khác trong xã hội sẵn

sàng xả thân vì nước khi đất nước gặp hoàn cảnh khó khăn.

Ưu đãi xã hội là sự thể hiện truyền thống " đền ơn đáp nghĩa ", là sự sự báo

đáp công ơn những người xả thân vì đất nước vì dân tộc. Chế độ ưu đãi xã hội

không chỉ góp phần nâng cao đời sống vật chất cho những người có công mà

còn giúp họ hòa đồng vào xã hội. Chế độ ưu đãi xã hội ( đặt biệt là chế độ ưu

35

đãi trợ cấp ) có vai trò hết sức quan trọng nhằm bảo đảm và nâng cao đời sống

cho người có công. Đặc biệt, đối với những người không còn khả năng lao

động cũng như không còn ai để nương tựa thì các khoản trợ cấp từ chế độ ưu

đãi có thể được coi là nguồn thu nhập chủ yếu từ đời sống của họ. Sự kính

trọng, biết ơn, những ưu tiên, ưu đãi đối với những người có công không chỉ

là tấm lòng của những người dân mà còn được Nhà nước và toàn xã hội chính

thức công nhận. Đây không chỉ đơn thuần là sự thể chế các chính sách về ưu

đãi mà còn là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền ưu đãi của người có

công được thực hiện trên thực tế.

Hiện nay, Long Xuyên có 5.338 đối tượng được hưởng các chính sách

ưu đãi, chiếm trên 4% dân số toàn tỉnh. Trong 12 nhóm đối tượng hưởng thì

tập trung chủ yếu ở 3 nhóm lớn đó là người hưởng chính sách như thương

binh; nhóm trợ cấp tuất cho thân nhân người có công với cách mạng và nhóm

người có công giúp đỡ cách mạng.

Kinh phí từ ngân sách dùng để chi trả ưu đãi người có công rất lớn và

tăng qua các năm. Năm 2016 là 47.139 triệu đồng chiếm 7,23 % thu ngân

sách trên địa bàn; năm 2019 là 76.110 triệu đồng chiếm 14,09 %. Việc chi trả

thời gian qua tương đối tốt, nhưng thủ tục xét công nhận đối tượng còn chậm,

phức tạp; còn nhiều trường hợp kẻ xấu lợi dụng khe hở trong chính sách để

trục lợi và còn khoảng 14 % hộ gia đình người có công thuộc diện hộ nghèo

và cận nghèo.

2.2.2.5. Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo

Kết quả cơ bản chương trình mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2016 -

2019: Hầu hết các mục tiêu đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Thành phố

tiếp tục triển khai và ban hành mới nhiều cơ chế, chính sách giảm nghèo đặc

thù góp phần hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tập trung vào những xã

có tỷ lệ hộ nghèo cao. Chương trình có nội dung chủ yếu tiếp tục hỗ trợ đầu tư

36

kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh ở các xã nghèo theo tiêu

chí xây dựng nông thôn mới. Ngoài ra còn có các chương trình khác như giải

quyết việc làm, giáo dục, y tế, tín dụng ưu đãi, khuyến nông, hỗ trợ pháp lý,…

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn

2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội

* Thành công

Công tác ASXH thông qua Bảo hiểm xã hội: các đối tượng tham gia

ngày càng tăng về số lượng, mức độ bao phủ cũng tăng liên tục qua các năm.

Chất lượng thụ hưởng ASXH thông qua BHXH ngày càng nâng cao.

Công tác ASXH thông qua BHYT ngày càng tăng nhanh về số lượng

tham gia ở tất cả các hình thức. Diện bao phủ của BHYT ngày càng lớn. Quỹ

KCB bằng BHYT đã tạo nguồn tài chính đáng kể góp vào sự nghiệp bảo vệ

chăm sóc sức khỏe nhân dân, giúp cho người có thẻ BHYT giảm được gánh

nặng tài chính, tránh được những rủi ro về sức khỏe.

Công tác ASXH thông qua ƯĐXH đã và đang được chú trọng giải quyết

cơ bản những đối tượng được ưu đãi sau chiến tranh. Công tác chăm sóc đời

sống cho đối tượng được tiến hành thường xuyên và từng bước đi vào nề nếp;

đã mua 100% BHYT cho đối tượng hưởng ƯĐXH.

Công tác ASXH thông qua cứu trợ xã hội thời gian qua đã kịp thời đến

đối tượng cần trợ giúp, số người trong diện trợ cấp gia tăng, kinh phí bảo trợ

cũng tăng lên do được huy động từ nhiều nguồn.

Công tác ASXH thông qua XĐGN đã được sự quan tâm của lãnh đạo các

cấp, đã cơ bản giảm được số lượng và tỷ lệ hộ nghèo theo chỉ tiêu đề ra. Đời

sống của người dân vùng nghèo được cải thiện đáng kể.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện chính sách an sinh

37

xã hội trên địa bàn thành phố Long Xuyên

Mức độ bao phủ BHXH ở khối ngoài nhà nước còn thấp. Tình trạng nợ

đọng và trốn đóng BHXH vẫn diển ra. Mức đóng góp chưa cao do không dựa

vào thu nhập thực tế. Việc quản lý đối tượng hưởng BHXH còn gặp khó khăn.

Tỷ lệ bao phủ BHYT chưa phản ánh đúng thực tế và chưa đạt yêu cầu

của mô hình BHYT hiện đại là hướng tới bao phủ toàn dân. Thủ tục thanh

toán khi KCB bằng BHYT còn phức tạp, rườm rà. Mất cân đối thu - chi.

Đa số bộ phận cán bộ làm công tác cứu trợ xã hội còn thiếu năng lực;

việc phối hợp giữa các ban ngành chưa chặt chẽ; mức độ tác động cứu trợ xã

hội còn thấp.

Thủ tục công nhận NCC còn phức tạp, tiến độ xác nhận còn chậm. Nhiều

gia đình chính sách còn nằm trong diện nghèo hoặc cận nghèo.

Chất lượng thực sự của XĐGN chưa cao, nguy cơ tái nghèo cao.

2.3.3. Nguyên nhân

- Trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội: do chú trọng lợi ích kinh tế nên các

doanh nghiệp tìm cách trốn đóng BHXH bằng nhiều hình thức khác nhau; do

nhu cầu trước mắt “thu nhập và việc làm” mà người lao động không dám yêu

cầu chủ sử dụng lao động đóng BHXH; do công tác quản lý và thống kê về

thu nhập, việc làm chưa sát với yêu cầu của việc tham gia BHXH; do chưa có

những biện pháp tốt để huy động đối tượng tham gia đầy đủ, chưa tổ chức tốt

triệt để công tác thu; do các hình thức kinh doanh của khu vực ngoài nhà nước

và ở nông thôn rất khó quản lý.

- Nguyên nhân của những hạn chế trong lĩnh vực Bảo hiểm y tế

+ Nhóm nguyên nhân từ cơ quan quản lý: công tác thống kê đối tượng

tham gia BHYT chưa thường xuyên; chưa có biện pháp tốt để huy động đối

tượng tham gia BHYT tự nguyện; chưa kiểm soát tốt đối tượng miễn, giảm

38

phí khi cấp thẻ BHYT để loại trừ trường hợp bị trùng lặp; việc giám sát chi

của đội ngũ cán bộ giám định BHYT còn yếu; công tác thông tin tuyên truyền

về BHYT còn chưa tốt.

+ Nhóm nguyên nhân từ chủ thể cung cấp dịch vụ: đạo đức, trình độ

chuyên môn của một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt; dịch vụ y tế cho các bệnh

nhân sử dụng thẻ BHYT chưa cao; do sự phân bổ không đều các cơ sở y tế

trên địa bàn tỉnh; do không có ràng buộc đối với cán bộ y tế trong khám và

điều trị dẫn đến tình trạng lạm dụng quỹ.

+ Nhóm nguyên nhân từ chủ thể tham gia, thụ hưởng: chưa nhận thức

đầy đủ tầm quan trọng, quyền lợi và trách nhiệm tham gia BHYT và đa số

nhân dân có mức thu nhập thấp.

- Nguyên nhân hạn chế trong công tác ưu đãi xã hội: D o các thành

viên trong gia đình chính sách thường có sức khỏe yếu và có ít kinh nghiệm

sản xuất kinh doanh,... nên việc lao động sản xuất gặp nhiều khó khăn; một số

cán bộ làm công tác ưu đãi xã hội đối với người có công thiếu năng lực nên

việc thực hiện chưa tốt.

- Nguyên nhân hạn chế trong công tác cứu trợ xã hội: do năng lực cán

bộ thực thi còn yếu, tiêu chí xác định đối tượng chính sách cứu trợ quá chặt;

mức trợ cấp còn quá thấp, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, hội và đoàn

thể,… chưa tốt.

- Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác XĐGN: do sự điều

chỉnh về chuẩn nghèo chậm; sự tự chủ về hoạt động XĐGN của tỉnh bị giới

hạn trong các chính sách chung của Trung ương; do tiềm lực kinh tế thấp; sự

không công tâm khách quan của một bộ phận cán bộ làm công tác XĐGN.

Tiểu kết Chương 2

Chương 2, mô tả một cách chi tiết về điểm nghiên cứu là thành phố

39

Long Xuyên, tỉnh An Giang với những đặc trưng về vị trí địa lý, tình hình dân

số, kinh tế - xã hội và văn hóa của địa phương. Nội dung chủ yếu của chương

này là phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH tại thành phố

Long Xuyên giai đoạn 2011-2020; những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực

hiện chính sách ASXH ở địa phương. Những thành tựu, cũng như những hạn

chế tồn tại cùng với nguyên nhân đã được đề cập trên cơ sở nghiên cứu, đánh

giá một cách toàn diện, khách quan, trung thực tình hình thực hiện chính sách

ASXH thông qua các nội dung như: chính sách bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế;

cứu trợ xã hội; ưu đãi xã hội, xóa đói giảm nghèo,… trên địa bàn thành phố. Đây

là những vấn đề thực tiễn có vai trò quan trọng trong việc đề ra phương hướng

và các nhóm giải pháp (sẽ được trình bày ở chương 3) nhằm khắc phục những

tồn tại, hạn chế, góp phần hoàn thiện và thực hiện tốt hơn chính sách ASXH tại

địa bàn thành phố Long Xuyên, cũng như bài học cho tỉnh An Giang và phạm vi

40

cả nước.

Chương 3

GIẢI PHÁP THỰC TIỄN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

LONG XUYÊN GIAI ĐOẠN 2021 - 2025

3.1. Quan điểm thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn

thành phố Long Xuyên.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, thể chế hoá Nghị quyết,

nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, nhất là người

đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về chính sách xã hội. Xác định rõ

chính sách xã hội chăm lo cho người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách

nhiệm thường xuyên của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, tổ chức, cá

nhân và toàn xã hội; đặt con người vào trung tâm chính sách; phát triển kinh

tế phải gắn liền với phát triển, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy

truyền thống văn hoá tốt đẹp, đoàn kết, "tương thân, thương ái" của dân tộc ta.

Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững.

Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả trong tổ chức

thực hiện. Đặc biệt, quan tâm chính sách ưu đãi người có công với cách

mạng, bảo đảm người có công và gia đình người có công với cách mạng có

mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.

Tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp cận với chuẩn nghèo

đa chiều, nhất là ở địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia theo

hướng toàn diện, bao trùm, bền vững.

Khẩn trương thể chế hoá và triển khai có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị

lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về cải cách chính sách bảo

hiểm xã hội. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, phù hợp, đa dạng,

41

đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân; nhất

là bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với khu vực nông nghiệp, lao động phi

chính thức; làm thay đổi nhận thức và thói quen của người dân tham gia bảo

hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội linh hoạt, phù hợp, đáp

ứng kịp thời nhu cầu cơ bản của các nhóm yếu thế, người dân và cộng đồng bị

rủi ro do thiên tai, dịch bệnh; ưu tiên hơn nữa đối với vùng sâu, vùng xa, biên

giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng thường xuyên chịu tác

động của thiên tai và biến đổi khí hậu.

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, xây dựng và

nâng cao chất lượng xã hội học tập, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.

Chú trọng đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực gắn với quá trình cơ cấu lại

nền kinh tế. Phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ,

hiện đại và hội nhập; phát triển việc làm bền vững, đẩy mạnh chuyển dịch lao

động khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức; quan tâm giải quyết

việc làm cho thanh niên, lao động trung niên, lao động yếu thế và lao động

nữ. Quan tâm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ. Thực

hiện chăm sóc sức khoẻ và bảo hiểm y tế toàn dân; nâng cao chất lượng dân

số, chất lượng y tế cơ sở và y tế dự phòng. Nâng cao hiệu quả thực hiện các

chương trình nhà ở xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá nhà ở cho người di cư, người

dân vùng chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu; bảo đảm nước sạch

cho người dân nông thôn. Nâng cao chất lượng thông tin truyền thông cho

vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo.

Phát triển hệ thống dịch vụ xă hội đa dạng, linh hoạt cả về chất lượng

và số lượng theo hướng chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiếp cận

của các nhóm đối tượng, nhất là đối tượng yếu thế, người di cư và dân tộc

thiểu số. Phát triển mạng lưới dịch vụ chăm sóc xã hội tại cộng đồng; phát

huy vai trò của gia đình; phát triển đội ngũ chuyên nghiệp làm công tác xã

42

hội. Tổng kết, nhân rộng các mô hình chăm sóc, trợ giúp xã hội.

Hiện đại hoá hệ thống quản lý đá ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây

dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Hoàn thiện chính sách xã hội

đồng bộ, khắc phục chồng chéo, trùng lắp. Nâng cao hiệu quả quản lý và tổ

chức thực hiện chính sách xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,

thống nhất số hoá cơ sở dữ liệu; phát triển hệ thống quản lý và các ứng dụng

công nghệ thông tin; có cơ chế quản lý, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và

thông tin; xây dựng mã số an sinh xã hội. Cải cách tài chính đối với chính

sách xã hội trên cơ sở quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, thanh toán điện tử

thông qua hệ thống hoá, trên nền tảng cơ sở dữ liệu tập trung.

Tăng cường nguồn lực thực hiện chính sách xã hội. Nhà nước giữ vai

trò chủ đạo, bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách xã hội tương xứng với khả

năng, điều kiện phát triển kinh tế, bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu cho

người dân; trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Có cơ chế, chính sách

khuyến khích, huy động sự tham gia, đóng góp của cộng đồng xã hội, các doanh

nghiệp và người dân. Động viên, khuyến khích các đối tượng khó khăn, gia đình

chính sách chủ động, tích cực vươn lên thoát nghèo và làm giàu.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã

hội trên địa bàn thành phố Long Xuyên

3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã

hội về ý nghĩa tầm quan trọng của chính sách an sinh xã hội và thực hiện

chính sách an sinh xã hội

Phải nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của truyền thông chính sách;

Phải chống “lợi ích nhóm” trong truyền thông chính sách; Các cơ quan chức

năng cần nhận thức rõ ràng hơn về vai trò rất quan trọng của báo chí trong

quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách. Truyền thông chính sách là quá

trình chủ thể chính sách tiếp cận, gắn kết công chúng thông qua phương thức,

43

phương tiện truyền thông phù hợp nhằm làm cho công chúng hiểu biết và ủng

hộ chính sách. Ở một mức độ cao hơn, truyền thông chính sách nhằm xây

dựng đồng thuận xã hội như nguồn lực để thực hiện thành công chính sách.

Đồng thuận xã hội là trạng thái đa số công chúng đạt được sự đồng tình, nhất

trí đối với chính sách có tác động đến lợi ích của họ. Đồng thuận xã hội đạt

được khi công chúng đồng tâm, đồng lòng quy tụ theo một hệ giá trị, hệ mục

tiêu và lợi ích chung.

Công tác tuyên truyền, vận động phải thực sự đa dạng, phong phú và

phù hợp với từng loại hình, đối tượng trong hệ thống ASXH như: Tuyên

truyền nội dung và mục tiêu của chương trình “ASXH; tuyên truyền các chủ

trương, chế độ chính sách và các loại hình bảo hiểm để người dân hiểu biết và

lựa chọn - đặc biệt là về các Luật Bảo hiểm để mọi người lao động và nhân dân

hiểu rõ trách nhiệm, quyền lợi và chủ động tham gia BHXH, BHYT; tuyên

truyền, động viên các doanh nghiệp tích cực tham gia thực hiện trách nhiệm

ASXH; tuyên truyền về các chế độ chính sách đối với người bị nhiễm chất độc

hóa học, người tàn tật và về các tấm gương nạn nhân vươn lên hòa nhập trong

cuộc sống; tuyên truyền quốc tế để vận động nhiều nguồn lực và sự đồng thuận

trong trợ giúp các nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật khắc phục khó khăn

vươn lên hòa nhập trong cuộc sống; nêu gương và vinh danh người có nhiều công

lao đóng góp trong việc thực hiện các hoạt động vì mục đích ASXH,…

Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nghèo thành thị và nông

thôn, phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số

thường ít có thời gian, điều kiện để tiếp xúc với phương tiện truyền thông đại

chúng, tọa đàm; vì vậy việc tuyên truyền, vận động tốt nhất là thông qua các

Tổ dân phố tại các khu dân cư. Cùng với các biện pháp tuyên truyền, vận

động, thành phố cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh, chế tài

bằng pháp luật của chính quyền đối với các doanh nghiệp cố tình sai phạm,

không chịu thực hiện trách nhiệm xã hội của mình (như chây lì trong việc

44

đóng BHXH, BHYT cho người lao động).

Trong chu trình của chính sách, mặc dù truyền thông có các nhiệm vụ ở

mỗi giai đoạn khác nhau nhưng đều đóng vai trò quan trọng trong tất cả các

giai đoạn đó. Sự tham gia của truyền thông nhằm tạo sự đồng thuận trong xã

hội, tập hợp được mọi người dân đứng về phía chính sách, chính quyền, làm

cho nhân dân thống nhất từ nhận thức đến thái độ và hành vi.

Để thực hiện vai trò tổ chức của các cấp chính quyền, cần nâng cao trình

độ nhận thức và hiểu biết về pháp luật, về chủ trương, đường lối thực hành

ASXH, năng lực quản lý, tổ chức và vận động của cán bộ chính quyền cơ sở,

các cán bộ dân vận, giúp cho các đối tượng này có đủ khả năng để tuyên

truyền, vận động và giải thích, tư vấn cho người dân.

Cần đề cao vai trò vận động, tập hợp và tổ chức của Mặt trận và các tổ

chức CT - XH khác trong việc thực hiện các mục tiêu ASXH. ASXH là chủ

trương lớn của Đảng, chính quyền thành phố, tuy nhiên việc triển khai thực hiện

chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của người dân (trừ các loại bảo hiểm bắt buộc). Vì

vậy, việc tập hợp, lôi kéo được người dân tích cực tham gia đóng vai trò then chốt

trong việc đảm bảo thành công cho các chương trình. Chính các tổ chức đoàn thể

xã hội, trong đó đứng đầu là MTTQ, sẽ đóng vai trò là người chủ trì tổ chức các

hoạt động xã hội từ thiện trên địa bàn toàn thành phố. Muốn vậy, cần tăng cường

năng lực quản lý điều hành, tổ chức cho Mặt trận (có cơ sở vật chất tốt, có con

người năng động, có tài tổ chức, có khả năng vận động và thu hút các nhà hảo

tâm tham gia): Nên chia các hoạt động quyên góp từ thiện ra thành 02 nhóm,

nhóm các hoạt động thường xuyên và các hoạt động theo sự kiện. Đối với các

hoạt động có tính chất ổn định, thường xuyên, Mặt trận nên đứng ra là người chủ

trì, điều phối nhằm thống nhất đầu mối thực hiện để tránh chồng chéo, dẫm đạp

nhau. Đối với các hoạt động mang tính chất sự kiện, Mặt trận tham gia đối với tư

cách là người điều phối và giám sát, các tổ chức hoặc cá nhân thực hiện sẽ chịu

45

trách nhiệm tổ chức thực hiện. Mặt trận cần tiếp tục phát huy các hoạt động đồng

hành với các hội đoàn thể, tôn giáo (nhất là Phật giáo) trong các hoạt động

thiện nguyện.

Nghiên cứu các hình thức khen thưởng đối với những tổ chức, các nhân

làm tốt công tác ASXH. Do vậy, việc nghiên cứu để sớm ban hành một số danh

hiệu cho việc khen tặng, vinh danh các nhà hoạt động từ thiện, hoạt động tài trợ,

trợ giúp và cứu tế xã hội có tính khích lệ cao là cần thiết. Lãnh đạo chính quyền

thành phố nên bố trí thời gian gặp mặt các thành phần nhiệt tình tham gia các

chương trình ASXH tại các địa phương để khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất về

tinh thần và thủ tục hành chính để phát huy khả năng của các đối tượng này.

3.2.2. Tăng cường huy động các nguồn lực để hỗ trợ trực hiện chính

sách an sinh xã hội

Có thể nói, các điều khoản quy định về sự tham gia của các chủ thể xã

hội đã giúp cho công tác trợ giúp đột xuất ở nước ta trong những năm gần đây

đạt được nhiều kết quả thiết thực. Công tác chỉ đạo khắc phục được triển khai

nhanh, kịp thời mỗi khi sự cố xảy ra. Nhiều địa phương, cán bộ làm rất tốt

công tác tổ chức điều hành sự đóng góp của các nguồn lực xã hội. Huy động

được sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội và cá nhân tham gia vào

công tác cứu trợ. Chẳng hạn, khi trận lũ lụt lịch sử vào đầu tháng 10/2010 trà

vào các tỉnh miền Trung, nhiều cá nhân, cộng đồng và tổ chức chính trị xã hội

trong và ngoài nước đã tích cực tham gia quyên góp và ủng hộ vật chất và

tinh thần cho người dân vùng lũ lụt.

Tuy nhiên, một số địa phương, cán bộ đã tham gia và thực hiện không

tốt chức năng được giao, dẫn đến nhiều sai phạm trong quá trình thực hiện

cứu trợ, gây bức xúc cho nhân dân.

Một bất cập khác vẫn đang tồn tại hiện nay là tình trạng chồng chéo

trong cách làm cứu trợ. Thực tế cho thấy nhiều nơi, nhiều địa phương, cán bộ

làm rất tốt công tác điều hành phân phối tiền, hàng cứu trợ của các cá nhân, tổ

46

chức phi nhà nước ủng hộ cho những nơi, những gia đình, cá nhân gặp nạn.

Tuy nhiên, một số nơi vẫn để xảy ra tình trạng mạnh ai người nấy phân phát

hàng, tiền cứu trợ nên không kiểm soát được và dẫn đến chuyện thiếu công

bằng, kẻ ít người nhiều, nơi có, nơi không.

3.2.3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về an sinh xã hội

Quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực

hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường

xuyên, lâu dài, liên tục để từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm

mục tiêu bảo đảm tốt ASXH, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời

sống cho người dân. Cụ thể:

Một là, tiếp tục bảo đảm mục tiêu, định hướng ASXH đến năm 2025.

Theo đó, cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân, bảo đảm cho

người dân tiếp cận đến các chính sách việc làm, giảm nghèo, tham gia BHXH,

hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ

xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), từng

bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng của nhân dân.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp

bảo đảm ASXH. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

về ASXH, trong đó cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Cứu trợ xã

hội, Luật Ưu đãi xã hội,... nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về

ASXH cộng đồng nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện

đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ ASXH.

Phối hợp đồng bộ chính sách ASXH với các chính sách kinh tế - xã hội

khác, như chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện

các chương trình hỗ trợ tích cực, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm

nghèo bền vững,…

Ba là, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và

47

thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị

thường xuyên, lâu dài, liên tục, trên cơ sở đó chủ động đề ra các giải pháp phù

hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt ASXH, không ngừng nâng cao đời sống cho

người dân. Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao

nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ

trương của Đảng và Nhà nước về các chính sách ASXH.

Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo nên nguồn lực to lớn

của toàn xã hội vì mục tiêu bảo đảm an sinh cho người dân, đồng thời có cơ

chế phát huy sự tham gia của xã hội và người dân trong việc thực hiện. Tiếp

tục rà soát, đánh giá các chính sách ASXH trên từng lĩnh vực để hoàn thiện,

sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối

quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính

sách trợ giúp xã hội

3.2.4. Hoàn thiện và tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu an sinh

xã hội đến năm 2025

- Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo

Đảm bảo 100% người nghèo đang còn trong chương trình cũng như

những hộ nghèo đã thoát nghèo trong 02 năm tiếp theo được cấp thẻ bảo hiểm

y tế. Đề xuất thành phố và trích ngân sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho người bị

bệnh hiểm nghèo, người mắc bệnh nặng có điều kiện hoàn cảnh khó khăn,...

Tăng cường củng cố mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư hoàn thiện cơ sở vật

chất cho các Trạm y tế của các phường, xã; luân chuyển cán bộ y tế, y bác sĩ

của tuyến trên tăng cường cho tuyến phường, xã. Hoạt động này lồng ghép

với “Đề án nâng cấp Trạm y tế cơ sở đạt chuẩn quốc gia” để đẩy mạnh các

hoạt động xã hội hoá chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng.

Bên cạnh công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo cần tăng cường

các giải pháp thực hiện công tác dân số kế hoạch hoá gia đình như: Đẩy mạnh

48

và nâng cao hiệu quả công tác truyền thông dân số, vận động toàn dân, đặc

biệt là các hộ nghèo trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh dân

số nhằm làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, tâm lý, tập quán sinh con;

Tăng cường lồng ghép các hoạt động truyền thông về dân số - kế hoạch hóa

gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản với các hoạt động truyền thông trong

chương trình y tế dự phòng của ngành y tế nhằm tăng hiệu quả sử dụng các

nguồn lực cũng như kết quả thực hiện chương trình.

- Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo

Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, phát huy hiệu quả các phong

trào học tập cộng đồng, xây dựng “Gia đình học tập”, “Tộc họ hiếu học”,...

- Chính sách hỗ trợ nhà ở, điện, nước sinh hoạt

Trợ giúp cho hộ nghèo chưa có nhà ở ổn định hoặc nhà tạm bợ, hư

hỏng nặng có nhà ở ổn định để tập trung lao động sản xuất và vươn lên thoát

nghèo. Tập trung huy động các nguồn lực hỗ trợ xây mới và sửa chữa nhà hư

hỏng nặng và công trình vệ sinh đảm bảo hộ nghèo có nhà ở theo "3 cứng"

(mái cứng, tường cứng, nền cứng) có công trình vệ sinh phù hợp.

Tăng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước để bổ sung vốn vay cho ngân

hàng chính sách xã hội để cho hộ nghèo vay sử dụng vào các mục đích như:

Xây dựng, sửa chữa nhà ở, xây dựng sửa chữa công trình vệ sinh, công trình

điện, nước,...

Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc hỗ trợ xây dựng và

sửa chữa nhà ở công trình vệ sinh, điện, nước cho hộ nghèo.

3.2.5. Tập trung làm tốt công tác giảm nghèo bên vững ở thành phố

Long Xuyên

Phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền địa

phương, mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong việc xây dựng chương

49

trình, kế hoạch thực thi chính sách giảm nghèo: Đảng bộ thành phố luôn chú

trọng công tác giảm nghèo, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chương

trình hành động hằng năm của Đảng bộ. Những chủ trương phát triển về KT -

XH của Thành ủy đều lồng ghép sự phát triển về KT - XH với chính sách

ASXH và công tác giảm nghèo bền vững. HĐND thành phố đã có Nghị

quyết về Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020, đây là nhiệm vụ lớn

song song với nhiệm vụ xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm

2016-2020. Trong thời gian tới, UBND thành phố cần nghiên cứu ban hành

các chính sách hỗ trợ cho các địa phương, hộ nghèo để tạo điều kiện phát

triển kinh tế, tăng thu nhập và thu hưởng các dịch vụ xã hội nhiều chiều. Ban

Chỉ đạo giảm nghèo thành phố cần xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng năm,

giúp UBND triển khai thực hiện và Sở LĐ - TB và XH (cơ quan thường trực

Ban Chỉ đạo) theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện;

đồng thời thực thi một số chính sách bảo trợ xã hội có hiệu quả. Chính

quyền các địa phương cần phát huy vai trò ở cơ sở, tổ chức gặp mặt đối thoại

với hộ nghèo để biết rõ nguyên nhân nghèo của từng hộ để có giải pháp thích

hợp cho từng hộ cụ thể. Ủy ban MTTQ với vai trò vận động, giám sát; chủ trì

huy động “Quỹ Vì người nghèo” để tập trung trợ giúp nhà ở cho hộ nghèo

đảm bảo 100% nhà ở người nghèo không có nhà tạm, nhà dột nát và xuống

cấp nặng; cùng với các đoàn thể vận động nguồn lực trực tiếp trợ giúp hộ

nghèo để vượt qua khó khăn.

Tiếp tục có những giải pháp cơ bản giúp người nghèo tiếp cận với các

dịch vụ xã hội: Hỗ trợ y tế: Trên cơ sở đánh giá xác định dịch vụ y tế thuộc

các tuyến dịch vụ y tế của thành phố, rà soát công tác dịch vụ y tế để đảm

bảo mọi người dân được thụ hưởng, không để cho người nghèo không được

tiếp cận với dịch vụ y tế. Mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người

thuộc hộ nghèo, người thuộc hộ đã thoát nghèo trong thời hạn 02 năm, chi

phí khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế 100% nhà nước chi trả. Tích cực vận

50

động các tổ chức nhân đạo, từ thiện khám chữa bệnh miễn phí và lồng ghép

các chương trình y tế quốc gia để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và người

nghèo. Hỗ trợ giáo dục: Thực hiện chính sách miễn học phí cho trẻ em học

mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ (hoặc người giám hộ trực tiếp

nuôi dưỡng) thuộc diện hộ nghèo; chính sách này được tiếp tục hưởng 02

năm sau khi thoát nghèo. Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ

em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ (hoặc người giám hộ trực

tiếp nuôi dưỡng) thuộc diện hộ nghèo; chính sách này áp dụng đối với đối

tượng vẫn còn nằm trong chương trình nghèo. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá

giáo dục, vận động các tổ chức, hội đoàn thể tạo điều kiện cho con hộ nghèo

đến trường bằng nhiều hình thức: hỗ trợ học bỗng, dụng cụ học tập, sách, vở,

phương tiện đi lại. Hỗ trợ nhà ở: Các hộ chưa có nhà ở ổn định, nhà tạm, nhà

hư hỏng nặng được xây mới, sửa chữa hoặc đề xuất để thành phố xem xét bố

trí thuê chung cư với giá ưu đãi đối với những hộ bức xúc về nhà ở theo kế

hoạch chung của thành phố. Ủy ban MTTQ thành phố và Sở LĐ - TB&XH

cần phối hợp với các địa phương thẩm tra thực trạng nhà tạm, nhà hư hỏng

nặng của hộ nghèo lập kế hoạch thực hiện xây nhà tình thương và nâng cấp sửa

chữa nhà hằng năm. Xây dựng hoàn thành, quyết toán và thanh toán với ngân

sách 60% kinh phí; 40% chi từ Quỹ Vì người nghèo của thành phố.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp giúp người nghèo phát triển sản xuất,

tăng thu nhập nâng cao mức sống cho người nghèo để vươn lên thoát nghèo

bền vững: Giải quyết việc làm và dạy nghề: Các địa phương điều tra nắm

chắc danh sách lao động trong độ tuổi và con em hộ nghèo, phân loại lao

động có nhu cầu học nghề, lao động đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào doanh

nghiệp, lao động chỉ hỗ trợ bằng các chính sách tạo việc làm tại chỗ. Trên cơ

sở đó phối hợp chặt chẽ với Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội thành

phố, BQL Khu công nghiệp và chế xuất ưu tiên giới thiệu lao động vào làm

việc trong các doanh nghiệp, hỗ trợ học nghề theo Đề án giảm nghèo và Đề

51

án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm của UBND thành phố.

Thực hiện Dự án dạy nghề cho hộ nghèo trong độ tuổi lao động chưa qua đào

tạo, theo các hình thức dạy nghề gắn với tạo việc làm, dạy nghề gắn với giáo

dục định hướng cho người nghèo đi xuất khẩu lao động, dạy nghề để chuyển

đổi nghề từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác và người nghèo đi học

nghề được miễn tiền học phí, hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại. Thành phố tiếp tục

ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp đối với lao

động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố Long Xuyên phù

hợp với từng thời điểm để khuyến khích lao động hộ nghèo học nghề. Ngành

Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tốt sàn giao dịch việc làm, tổ

chức các buổi tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, các phiên chợ việc

làm và tuyển sinh dạy nghề di động về các địa phương để cho người nghèo

tiếp cận, kết nối với doanh nghiệp giải quyết việc làm hiệu quả. Hỗ trợ tín

dụng: Bằng các hình thức cho hộ nghèo vay vốn từ các nguồn khác nhau với

điều kiện ưu đãi về lãi xuất, thời hạn, có sự hướng dẫn sử dụng vốn một cách

hiệu quả. Đảm bảo 100% hộ nghèo được vay vốn (vốn vay hộ nghèo và vốn

vay học sinh - sinh viên) tại Ngân hàng Chính sách xă hội để sản xuất, kinh

doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, đồng thời rà soát các thủ tục, cơ chế

cho vay, thu nợ đảm bảo đúng kỳ hạn, quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả, tạo

điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo tiếp cận với nguồn vốn vay; ngoài nguồn

vốn của Ngân hàng chính sách xã hội, cần tiếp tục huy động nguồn vốn tự

giúp đỡ của các đoàn thể, của các cơ quan, đơn vị và cá nhân, vốn từ ngân

sách thành phố hàng năm nhằm đáp ứng nhu cầu vay phát triển sản xuất của

hộ nghèo. Hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm cho

hộ nghèo.

UBND các phường, xã nhân rộng, phổ biến các mô hình, kinh nghiệm

về công tác giảm nghèo trong những năm qua, đặc biệt các mô hình giúp

người nghèo vươn lên thoát nghèo có hiệu quả và bền vững. Chủ động, linh

52

hoạt, cải tiến nội dung, hình thức phổ biến, hướng dẫn các lớp tập huấn cho

hộ nghèo phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, thời gian và sự nhận thức của

từng hộ nghèo, giúp cho họ có cơ hội tìm việc làm và ổn định đời sống; mở

rộng dạy nghề định hướng và hỗ trợ xuất khẩu lao động.

Nhân rộng mô hình giảm nghèo: Nhân rộng, phổ biến các mô hình,

kinh nghiệm giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo có hiệu quả, đặc biệt là mô

hình Hội đoàn thể giúp hộ nghèo làm kinh tế, hỗ trợ xoá nhà tạm, hỗ trợ cải

thiện điều kiện sinh hoạt, hỗ trợ khám chữa bệnh. Tổ chức cho hộ nghèo

tham quan những mô hình hiệu quả cao; cán bộ tham gia chương trình nghiên

cứu các mô hình thích hợp để phổ biến cho người nghèo ở địa phương. Ưu

tiên nguồn kinh phí để tập trung phát triển các làng nghề truyền thống nhằm

giải quyết công ăn việc làm, tổ chức lại sản xuất bằng nhiều mô hình khác

nhau như tổ hợp kinh tế, góp vốn liên kết để các nhóm hỗ trợ cho hộ nghèo

có điều kiện sản xuất, đảm bảo thu nhập ổn định cho các hộ nghèo.

Nâng cao hiệu quả việc thực hiện các giải pháp truyền thông, giám sát

đánh giá và nâng cao năng lực: Chính sách trợ giúp pháp lý: Phát triển các

dịch vụ công, thành lập các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí cho

những hộ nghèo có nhu cầu về các lĩnh vực đất đai, nhà ở, thừa kế, hộ khẩu,

hộ tịch, hôn nhân gia đình, chế độ chính sách, bảo hiểm xã hội, lao động việc

làm. Công tác truyền thông, giáo dục: Các cấp, các ngành, đoàn thể thường

xuyên thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho

người nghèo, tránh sự ỷ lại, tự ty, tự vươn lên thoát nghèo; đồng thời vận

động toàn xã hội, tộc họ, tổ nhóm giúp đỡ, đỡ đầu cùng với các chính sách

của nhà nước hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập ổn định

đời sống. Xây dựng bản tin chương trình giảm nghèo phát sóng định kỳ 01

tuần/lần trên sóng phát thanh các phường, xã; tuyên truyền giáo dục ý thức

53

cho bản thân hộ nghèo tự lực vươn lên thoát nghèo bền vững.

Đảm bảo tốt điều kiện về nguồn lực tài chính: Ngoài ngân sách của

trung ương, thành phố và ngân sách thành phố bố trí để thực hiện Đề án giảm

nghèo; cần huy động nguồn kinh phí từ các tổ chức phi Chính phủ, đơn vị, tổ

chức, cá nhân để ưu tiên hỗ trợ cho những địa phương có nhiều hộ nghèo,

khó khăn, không đủ nguồn lực để thực hiện chương trình. Triển khai thực

hiện Đề án giảm nghèo đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch, có sự

tham gia của người dân, sự giám sát của Uỷ ban MTTQVN và các đoàn thể.

Để đảm bảo cho giảm nghèo bền vững, tiếp tục thực hiện một số chính sách

hỗ trợ trong thời hạn 2 năm đối với hộ sau khi thoát nghèo như y tế, giáo dục,

tín dụng, trợ cấp xã hội. Những hộ nghèo không có lao động, không nguồn

thu nhập, chỉ có đối tượng bảo trợ xã hội được lập danh sách theo dõi riêng;

kết hợp trợ giúp theo diện bảo trợ của ngân sách kết hợp với vận động các tổ

chức, hội đoàn thể hỗ trợ lâu dài. Cương quyết đưa ra khỏi chương trình

những hộ không chịu làm ăn, chây lười, mắc tệ nạn xã hội không chịu khắc

phục và cố ý vi phạm Pháp lệnh Dân số.

3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, chấn chỉnh,

xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm việc thực hiện chính sách an sinh

xã hội

Việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Long Xuyên trong thời

gian qua đã tạo được sự đồng thuận xã hội lớn trong đa số quần chúng nhân

dân là do Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ các cấp đã nghiêm chỉnh thực hiện

Quyết định số 31/2011/QĐ TTg ngày 02 tháng 06 năm 2011 của TTgCP quy

định việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định

pháp luật về an sinh xã hội (Quyết định này quy định về công khai, minh

bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về BHXH, BHYT;

trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; ưu đãi đối với người có công; vận động,

tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân

54

dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh

nhân mắc bệnh hiểm nghèo; hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và cơ sở

bảo trợ xã hội; các chương trình xã hội). Cụ thể: Trên lĩnh vực nhà ở xã

hội, thành phố đã công bố rộng rãi các tiêu chí và kết quả để người dân được

biết và giám sát thực hiện, đồng thời có phản hồi, nêu rõ lý do cụ thể cho các

đối tượng không được giải quyết được biết; thiết lập kênh thông tin và công

bố danh sách các đối tượng được giải quyết nhà ở xã hội lên các phương tiện

thông tin đại chúng tại các website của UBND thành phố, Sở Xây dựng, Công

ty Quản lý nhà chung cư để kiểm tra, giám sát, tránh trường hợp được xem

xét giải quyết nhiều lần. Trên lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; MTTQ

Việt Nam thành phố phối hợp với Sở Tư pháp tuyên truyền sâu rộng Quyết

định số 1126/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp ngày 26 tháng 05 năm 2016 Ban hành

Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho

người có công, vùng thường xuyên bị thiên tai. UBND thành phố cũng đã ban

hành Quyết định số 32 /2015/QĐ-UBND ngày 09 tháng 11 năm 2015 quy

định việc quản lý, sử dụng vốn uỷ thác của ngân sách thành phố tại Chi nhánh

Ngân hàng CSXH trong việc cho vay hỗ trợ hộ nghèo và các đối tượng chính

sách khác nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội của

thành phố (Đối tượng vay vốn là hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn địa

phương và hộ đã thoát nghèo nhưng cần có thêm 03 năm liên tiếp để ổn định và

thoát nghèo bền vững; hộ gia đình bị thu hồi đất do di dời, giải tỏa trên địa bàn

thành phố; hộ gia đình có thành viên đã chấp hành xong hình phạt tù và trở về

địa phương sinh sống, đã thực sự cải tạo tiến bộ, có ý thức rõ ràng trong việc

quyết tâm hoàn lương, có hoàn cảnh gia đình khó khăn và có nhu cầu vay vốn

nhằm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng - gọi tắt là đối tượng hoàn

lương). Ban văn hóa - xã hội của HĐND thành phố, thanh tra chính quyền,

ngành LĐ - TB và XH thường xuyên thành lập các đoàn công tác thanh tra,

kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý đối với việc cấp thẻ BHYT cho hộ

55

nghèo trên địa bàn thành phố và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về

BHXH, BHYT,…

Có thể thấy rằng; việc xây dựng, thiết kế các chương trình liên quan

đến ASXH rất tốt; nhưng trên thực tế nhiều khi triển khai không đạt được

mục tiêu đặt ra ban đầu. Một trong những nguyên nhân của thực trạng đó là

do những trở ngại từ quá trình thực thi chính sách - trong đó có trở ngại từ

chủ thể thực thi chính sách. Cụ thể, nếu việc thực hiện chính sách không kịp

thời, không đồng bộ; thiếu công bằng, công khai, minh bạch; không đúng

đối tượng và định mức,… sẽ gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đơn

cử, như việc đánh giá hộ nghèo còn có sai phạm như: không thực hiện đầy đủ

việc xác định, lập danh sách các hộ gia đình cần rà soát theo hướng dẫn quy

trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận

đa chiều, không có biên bản họp dân, hoặc không niêm yết kết quả bình xét

công khai…

Để đảm bảo tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về ASXH đúng

mục đích, đúng đối tượng; ngăn chặn những sai phạm và phòng, chống tham

nhũng, lãng phí thì việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

quy định pháp luật về ASXH là rất cần thiết. Việc kiểm tra nhằm nắm bắt kịp

thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định pháp luật

về ASXH, phòng ngừa vi phạm pháp luật và xem xét, đánh giá hiệu quả việc

thực hiện quy định pháp luật về ASXH; việc giám sát nhằm theo dõi, xem xét,

đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức thực hiện, đảm

bảo tính chính xác, kịp thời, hiệu quả việc thực hiện quy định pháp luật về

ASXH. Các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố có trách nhiệm

thường xuyên theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo

đảm việc thực hiện các quy định về ASXH được áp dụng đúng đối tượng, chế

độ, tiêu chuẩn, định mức; kịp thời phòng ngừa sai phạm trong quá trình thực

hiện. MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội, các cơ quan

56

truyền thông, báo chí trên địa bàn thành phố giám sát theo quy định của pháp

luật nhằm đảm bảo mục tiêu và hiệu quả của việc thực hiện các quy định pháp

luật về ASXH. Công dân, cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phản ánh kịp thời,

trung thực những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quy định pháp luật về

ASXH.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở những quan điểm, định hướng, mục tiêu và các giải pháp

của Đảng và Nhà nước về chính sách ASXH nói chung, cũng như qua thực

tiễn tình hình thực hiện chính sách ASXH (BHXH, BHYT, Ưu đãi xã hội người

có công, xóa đói giảm nghèo…) trên địa bàn thành phố Long Xuyên trong thời

gian qua. Nội dung chương 3, đã nêu lên các nhóm giải pháp chính nhằm khắc

phục những tồn tại, hạn chế qua thực tế thực hiện chính sách ASXH tại địa bàn

nghiên cứu, nhằm tổ chức thực hiện chính sách ASXH đạt hiệu quả cao hơn

trong các giai đoạn tiếp theo. Các giải pháp đã nêu, sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả thực hiện chính sách ASXH; nhằm không ngừng nâng cao thu nhập, chất

lượng cuộc sống của người dân, góp phần vào thực hiện đồng bộ và có hiệu

quả chương trình xây dựng thành phố Long Xuyên sớm trở thành đô thị loại I

57

trong tương lai gần.

KẾT LUẬN

Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ASXH

trong từng bước và từng chính sách phát triển là chủ trương lớn của Đảng,

Nhà nước ta. ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu

khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã

hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi

trường nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân

dân.

Luận văn “Thực hiện chính sách an sinh xã hội tại thành phố Long

Xuyên” đã khái quát một cách cụ thể các vấn đề về khái niệm, để từ đó vận

dụng và thực hiện chính sách ASXH vào thực tiễn một cách cụ thể và đồng bộ

hơn. Luận văn đã chỉ ra thực trạng thực hiện chính sách ASXH tại thành phố

Long Xuyên, đồng thời đi sâu nghiên cứu tìm ra các giải pháp phù hợp với

điều kiện thực tế của thành phố và xu thể phát triển của đất nước nhằm nâng

cao hiệu lực, hiệu quả trong quá trình thực hiện chính sách ASXH trên địa

bàn thành phố.

Nghiên cứu chính sách ASXH từ thực tiễn thành phố, một đơn vị hành

chính trực thuộc tỉnh An Giang, luận văn đã đi từ việc nghiên cứu lý luận đến

việc đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực hiện chính sách, từ đó nghiên

cứu, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách ASXH mà cụ thể là

chính sách giảm nghèo và chính sách đối với người có công với cách mạng

trên địa bàn thành phố có hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Đóng góp của luận văn là việc nghiên cứu thực tiễn công tác đảm bảo

ASXH trên địa bàn thành phố, dưới góc độ tác giả là người quản lý cấp cơ sở,

trực tiếp thực hiện các chính sách, nên việc đánh giá sát với thực tế diễn ra tại

địa bàn thành phố Long Xuyên. Những giải pháp luận văn đã trình bày ở

58

Chương 3 góp phần hoàn thiện chính sách ASXH mà cụ thể là chính sách

BHXH, BHYT, Ưu đãi người có công, xóa đói giảm nghèo trên địa bàn thành

59

phố trong thời gian tới./.