VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DIỄM PHÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DIỄM PHÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số : 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS ĐẶNG THỊ HOA

HÀ NỘI – năm 2020

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với

đề tài “Thực hiện chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam” ngoài sự cố gắng của bản thân, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, những

lời động viên từ gia đình, thầy cô và bạn bè.

Lời đầu tiên, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đặng

Thị Hoa là người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm

trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo ở Học viện khoa học xã hội

đã tận tình truyền đạt các kiến thức bổ ích trong suốt khóa học.

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của lãnh đạo Phòng Bảo vệ,

chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh

Quảng Nam đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình,

bạn bè đã luôn bên cạnh quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và

nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” là kết quả của quá trình học tập,

nghiên cứu khoa học của bản thân với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Đặng Thị

Hoa người hướng dẫn khoa học. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là

trung thực. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Trần Thị Diễm Phúc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH

SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM Ở VIỆT NAM .................................... 12

1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................. 12

1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu và khung phân tích............................................... 15

1.3. Hệ thống chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ................................................. 20

1.4. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em . 25

1.5. Ý nghĩa và yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ, chăm

sóc trẻ em .............................................................................................................. 28

CHƯƠNG 2. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .............................................................. 32

2.1. Giới thiệu về trẻ em ở Quảng Nam và khái quát chung về địa bàn nghiên

cứu ........................................................................................................................ 32

2.2. Chính sách và thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng

Nam ...................................................................................................................... 42

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TỈNH

QUẢNG NAM ..................................................................................................... 69

3.1. Quan điểm, định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em ..................................................................................................... 69

3.2. Giải pháp ........................................................................................................ 72

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVCSGDTE

Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em

BVCSTE

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em

BVTE

Bảo vệ trẻ em

HCĐB

Hoàn cảnh đặc biệt

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1:Tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam .......................................................... 33

Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2016 và 2019 ............. 34

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi

đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Trong Di chúc thiêng liêng trước

lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một

việc rất quan trọng và cần thiết”. Trong những năm qua, thấm nhuần lời dạy

của Bác Hồ kính yêu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi nhiệm vụ bảo vệ và

chăm sóc trẻ em là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược con

người, góp phần tạo ra nguồn nhân lực cho quá trình đẩy mạnh sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam là nước Châu Á đầu tiên và nước thứ hai trên thế giới ký và

phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, là nước tích cực thực hiện cam

kết, hợp tác với quốc tế nhằm cải thiện phúc lợi cho trẻ em trong điều kiện thu

nhập bình quân đầu người còn thấp. Trong đó, Quyền của trẻ em là một trong

4 nhóm quyền quan trọng được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc

về Quyền trẻ em năm 1989 (quyền sống còn, quyền phát triển, quyền bảo vệ

và quyền tham gia).

Điều 37, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia

đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về

trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột

sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” [20]. Quy định

của Hiến pháp 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Trẻ em (2016), có hiệu lực

thi hành vào 1/6/2017 đã quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ em;

các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của

cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện

quyền và bổn phận của trẻ em. Theo quy định của Luật Trẻ em, trẻ em có quy

định quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục và quyền được bảo vệ

1

để không bị bạo lực.

Trên thực tế, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng diễn biến phức tạp,

gia tăng về mức độ, số lượng vụ việc. Theo số liệu thống kê của Tổng cục

Cảnh sát Phòng chống tội phạm (Bộ Công an) cho thấy, mặc dù chỉ là phần

nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600-1.800 vụ xâm hại trẻ

em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, thì số trẻ em là nạn

nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%),

tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm

tới 13,2%. Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp được công khai làm rung

động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những đứa trẻ và sự xuống

cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng thành (Vũ Hải Việt,

2015).

Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016

giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm

171 em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị xâm hại tình dục: 1.397 em, so với

năm 2016 tăng 186 trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư

nguồn lực cho trẻ em (Đặng Hoa Nam, 2018). Theo Tổng Cục Cảnh sát, đối

tượng xâm hại tình dục trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình

thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như

người thân, ruột thịt, thầy giáo, hàng xóm…

Thực trạng trên cho thấy, thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em

ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp bách. Bên cạnh việc thực thi các quy

định của pháp luật, thực hiện Công ước về quyền trẻ em và các chính sách

chăm sóc, bảo vệ trẻ em đang là một vấn đề thời sự, đòi hỏi cả cộng đồng cần

chung tay thay đổi nhận thức, xây dựng một môi trường sống lành mạnh, an

toàn cho trẻ em.

Quảng Nam là tỉnh nằm ở vùng nam Trung Bộ với 9 huyện miền núi/18

2

huyện, thị xã, thành phố; là địa bàn gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của

chiến tranh, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra. Là tỉnh nghèo, đời sống,

thu nhập của người dân còn thấp, sự chênh lệch mức sống giữa các vùng là

một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt còn cao như: trẻ em mồ côi, trẻ em

khuyết tật, trẻ em phải lao động sớm, trẻ em bị lạm dụng, trẻ em sống trong

các hộ gia đình nghèo…Bên cạnh đó, nhận thức về quyền trẻ em và ý thức

chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của một bộ phận

cha mẹ, giáo viên, cán bộ làm công tác trẻ em và người dân chưa tốt. Sự thay

đổi quan niệm về đạo đức, sự buôn thả của một bộ phận dân cư về lối sống vị

kỷ đã làm tha hóa các mối quan hệ gia đình và xã hội. Các vấn đề nêu trên

đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết đối với công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em tại Quảng Nam.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em

trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức: Môi trường sống

tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu an toàn, lành mạnh đối với trẻ em, làm gia tăng

nguy cơ tai nạn thương tích và hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Việc tuân thủ,

chấp hành pháp luật của nhiều chủ thể pháp luật chưa thực hiện tốt. Nhiều cha

mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ được

trách nhiệm bảo vệ con em, thiếu kiến thức, kỹ năng về Bảo vệ trẻ em. Nhiều

gia đình sao nhãng việc chăm sóc con hoặc lúng túng trong xử trí, không kịp

thời hoặc không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em đến các cơ quan chức

năng. Sự xuống cấp đạo đức, tha hóa, biến chất về lối sống của một bộ phận

xã hội làm gia tăng tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em, đặc biệt là các hành vi

xâm hại tình dục trẻ em; tình trạng trẻ em lạm dụng đồ chơi công nghệ,

nghiện games, điện tử vẫn còn diễn biến phức tạp; khu vui chơi, giải trí cho

trẻ em còn thiếu và không đồng bộ, một số địa phương chưa quy hoạch, bố trí

3

đất để xây dựng các điểm vui chơi, giải trí cho trẻ em; đội ngũ làm công tác

trẻ em cấp xã, phường, thị trấn thường xuyên thay đổi, đội ngũ Cộng tác viên

ở một số nơi không có nên gặp khó khăn trong việc kịp thời phát hiện và đề

nghị xử lý các vụ việc vi phạm quyền trẻ em.

Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu một

cách toàn diện, sâu rộng, đầy đủ và có hệ thống về chính sách bảo vệ, chăm

sóc trẻ em, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế để đề xuất các quan điểm

và giải pháp thực hiện phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh Quảng Nam.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, học viên chọn đề tài: "Thực hiện

chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm đề

tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Những năm gần đây, vấn đề bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em vẫn luôn

được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm, chú trọng. Đã có nhiều

bài viết trên sách báo, tạp chí, bài luận văn, đề tài khoa học, công trình nghiên

cứu về vấn đề bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em. Trong phạm vi nghiên cứu luận

văn này, tác giả lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết

tiêu biểu có liên quan đến đề tài:

- Các công trình nghiên cứu về thực trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em

Đánh giá về thực trạng chăm sóc và bảo vệ trẻ em hiện nay, đã có nhiều

công trình nghiên cứu liên quan đến việc hỗ trợ trẻ em phòng chống bạo lực

gia đình, xâm hại tình dục, … Báo cáo chuyên đề can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị

bạo lực thông qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567 khảo sát trong

giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 5/2017 cho biết, trong tổng số 698 ca trẻ em

bị bạo lực có tới 91,7% bị bạo lực thân thể, trẻ em từ 0-10 tuổi chịu bạo lực

nhiều nhất, chiếm 56,9%. Tỷ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất

(63,2%), đứng thứ hai là trẻ bị bạo lực trong trường học (20,1%) (Đặng Hoa

4

Nam, 2017) [18].

Nguyên nhân trẻ em bị xâm hại thường được cho từ hai phía, trước hết

là từ gia đình. Gia đình và trường học là hai môi trường có ảnh hưởng đặc biệt

quan trọng tới sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ. Thế nhưng, tỷ lệ

trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất (63,2%), đứng thứ hai là trẻ bị bạo

lực trong trường học (20,1%), trong khi đây là hai môi trường ảnh hưởng lớn

đến sự phát triển của trẻ em. Trong bối cảnh hiện nay, gia đình, đặc biệt là cha

mẹ và những người thân thiếu hụt kiến thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh

lý ở từng lứa tuổi của trẻ em, không biết cách hướng dẫn trẻ về các nguy cơ

và kỹ năng tự bảo vệ mình. Không giáo dục cho trẻ có ý thức về bảo vệ mình

khỏi bị xâm hại tình dục (Đặng Nam, 2007; Đặng Bích Thủy, 2010) [34]. Bên

cạnh đó, trẻ em được tiếp xúc hàng ngày với mạng xã hội, phim ảnh liên quan

đến các hành vi quan hệ tình dục, xâm hại tình dục mà không được hướng

dẫn, chỉ bảo kịp thời (Nguyễn Phương Thảo và cộng sự, 2008; Nguyễn

Quỳnh Hoa, 2005) [28]. Trong khi đó, nhiều gia đình bố mẹ ly thân, di cư dẫn

tới trẻ em gặp nhiều nguy cơ gặp các hành vi xâm hại và bị bỏ bê, không được

chăm sóc (Đặng Nam, 2007).

- Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em

Mặc dù hệ thống văn bản luật pháp và chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ

em được ban hành khá đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, những yếu kém trong

khung pháp lý bảo vệ trẻ em trong gia đình hay kẽ hở trong hệ thống pháp lý

về phòng chống lạm dụng tình dục trẻ em cũng là những yếu tố tác động đến

tình trạng xâm hại tình dục trẻ em. Một trong những khiếm khuyết của khung

pháp lý ở Việt Nam là chưa có điều khoản bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức

lạm dụng (thể chất, tinh thần và tình dục) trong môi trường gia đình. Khung

pháp lý chưa có điều khoản quy định tách hẳn trẻ ra khỏi gia đình trong các

trường hợp bị cha mẹ lạm dụng nghiêm trọng. Điều 13 của Luật BVCSGD trẻ

5

em đã công nhận không ai có quyền buộc đứa trẻ sống tách khỏi cha mẹ trừ

khi sự tách biệt đó là vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Tuy vậy, luật không công nhận

các trường hợp trẻ bị tách khỏi cha mẹ do bị lạm dụng hay vì các lợi ích tốt

nhất của trẻ (Đặng Bích Thủy, 2010).

Ở Việt Nam, hiện tượng trẻ em bị bạo lực xảy ra tương đối phổ biến

trong gia đình, số liệu của MIC năm 2014 cho thấy, gần 68,4% trẻ em độ tuổi

từ 1-14 được báo cáo là đã từng bị cha mẹ hoặc người chăm sóc bạo lực ở

nhà. Khoảng 20% trẻ em gái và trẻ em trai 8 tuổi nói rằng các em bị trừng

phạt thân thể ở trường (Innocenti 2016).

Một số nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp nhằm “Hoàn thiện hệ thống

bảo vệ trẻ em ở Việt Nam” (Nguyễn Hải Hữu, 2011). Đề tài đã phân tích khá

sâu sắc và toàn diện lý luận về hệ thống BVTE, trong đó đề tài đã đưa ra một

số khái niệm, thuật ngữ về trẻ em như: trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, BVTE

và các hoạt động BVTE, đồng thời đề tài đã đánh giá thực trạng hệ thống

BVTE, trẻ em có HCĐB và việc cung cấp dịch vụ BVTE ở Việt Nam. Qua

đó, đề tài đã đưa ra định hướng, phương pháp tiếp cận và giải pháp hoàn thiện

hệ thống BVTE [14].

+ Tác giả Phạm Thị Hải Hà, năm 2016 “Quản lý nhà nước về bảo vệ

quyền của trẻ em ở Việt Nam”. Về mặt lý luận, đề tài đã đưa ra được quan

niệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em,đồng thời xác định rõ vai

trò, các nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt Nam;

Bên cạnh đó, đề tài đã chỉ ra các hạn chế trong quản lý nhà nước về bảo vệ

quyền của trẻ em ở Việt Namvà đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý

nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt Nam, trong đó chú trọng xây

dựng và tổ chức triển khai kế hoạch, chiến lược, chương trình hành động

thống nhất và đồng bộ về bảo vệ quyền của trẻ em; hoàn thiện và tổ chức chỉ

đạo thực hiện nghiêm pháp luật và chính sách về bảo vệ quyền của trẻ em;

6

thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về

quyền của trẻ em [11].

+ Tác giả Lã Văn Bằng, năm 2019 “Thực hiện Pháp luật về bảo vệ trẻ

em ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài đã phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và

thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em, đánh giá thực trạng tình hình

thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những ưu

điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm

thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam trong thời gian đến [3].

+ Luận văn thạc sĩ quản lý công “Thực hiện chính sách đối với trẻ em

khuyết tật ở Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Hà (2016). Luận văn đã đưa ra thực

trạng trẻ em khuyết tật và các chính sách đối vơi trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực

hiện chính sách ở Việt Nam. Từ đó đưa ra quan điểm, định hướng và giải

pháp để hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật tại

Việt Nam [12].

+ Luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ

emtừ thực tiễn thành phố Hà Nội ” của Mai Thị Chi (2016). Luận văn đã đưa

ranhững tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em ở

thành phố Hà Nội. Cũng như chỉ rõ các yếu kém, trách nhiệm của các chủ thể

tham gia vào việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó luận văn

đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của thành phố Hà Nội

[9].

+ Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh An Giang (2012) do tổ chức

UNICEF phối hợp với UNBD tỉnh An Giang thực hiện. Báo cáo này đã đi sâu

phân tích các nhóm quyền của trẻ em, các chế đô, chính sách đối với trẻ em,

năng lực và trách nhiệm của các cấp, ngành trong việc triển khai thực hiện

công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đồng thời đưa ra các khuyến nghị và giải

7

pháp để triển khai thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong

thời gian đến [1].

+ Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh Lào Cai (2015) do tổ chức

UNICEF phối hợp với UNBD tỉnh Lào Cai thực hiện. Báo cáo này phân tích

và cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình trẻ em tỉnh Lào Cai; trong đó

phân tích sâu các vấn đề của trẻ em đang tồn tại, những rào cản trong bối cảnh

đặc thù của một tỉnh phía Bắc có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, đồng thời

đưa ra các giải pháp và khuyến nghị để thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm

sóc trẻ em tại tỉnh Lào Cai [2].

Tóm lại, các nghiên cứu nói trên đã làm rõ về tình hình trẻ em nói

chung và trẻ em có HCĐB nói riêng, các chính sách, pháp luật đối với trẻ em

Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể nào về chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Do đó trong đề tài này, tác giả

đi sâu tìm hiểu thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, những yếu tố ảnh

tác động đến vệc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em hiện nay, từ đó

đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ, chăm

sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện

chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đề

xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện hiệu quả chính sách này đến

năm 2025.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em.

+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

8

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân

trong thực hiện chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-

2020.

+ Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo vệ, chăm

sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến nay để qua đó

nêu lên những vấn đề tích cực, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách.

Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2016 đến nay là

vì: Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn

2016-2020, là năm Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa

XIII thông qua Luật trẻ em và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/6/2017.Thời gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực để

thực hiện có hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung và trẻ em

có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng, góp phần thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI đã đề ra.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp

luật của nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Luận văn sẽ được tiếp cận theo

hướng hệ thống hóa lý luận việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

9

tỉnh Quảng Nam từ khâu hoạch định, xây dựng, thực thi đến đánh giá chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em với sự tham gia của các chủ thể chính sách.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích

các nguồn tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước,

Bộ, Ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, sách báo,

các báo cáo, tài liệu thống kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở Việt Nam

nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng. Đồng thời, tác giả cũng tìm hiểu, thu

thập nội dung từ một số nhà nghiên cứu chuyên sâu có liên quan đến bảo vệ,

chăm sóc trẻ em.

- Phương pháp phân tích chính sách: Luận văn sẽ phân tích, đánh giá

đánh giá tính toàn vẹn, tính khả thi, tính thống nhất và hiệu quả của chính

sách nhằm ngày càng hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tế.

- Phương pháp thống kê: Là phương pháp thu thập số liệu, tính toán

các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân

tích, dự đoán và đề ra các quyết định.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách công, Luận văn sẽ nghiên

cứu, nêu một số quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp triển khai thực

hiện hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các Ban, ngành có

liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạch định chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn

10

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và

phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận nghiên cứu về chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện Chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

11

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH

BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM Ở VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Trẻ em

Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi

nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người

chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần

được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý

trước cũng như sau khi ra đời.

Tuân theo nguyên lý phát triển của chủ nghĩa duy vật, sự phát triển của

con người cũng trải qua nhiều giai đoạn đó là những giai đoạn lứa tuổi. Tính

chất đặc thù của mỗi giai đoạn là cơ sở để xác định ranh giới giữa trẻ em và

người lớn, các quốc gia trên thế giới đều căn cứ vào tiêu chí duy nhất là độ

tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi được xác định là trẻ em ở mỗi quốc gia lại có sự khác

nhau vì còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) năm 1989

định nghĩa trẻ em là những người dưới 18 tuổi.

Ở Việt Nam, theo Luật BVCSGDTE năm 2004 xác định “Trẻ em là công

dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo quy định này, những trẻ em dưới mưới sáu

tuổi và là công dân Việt Nam mới được hưởng đầy đủ các quyền và bổn phận

của trẻ em.

Luật Trẻ em năm 2016 quy định: "Trẻ em là người dưới 16 tuổi". Qua

khái niệm này, chúng ta thấy có sự thay đổi so với trước đây, đó là tất cả trẻ

em dưới mười sáu tuổi, không phân biệt là công dân Việt Nam hay người có

quốc tịch, người không có quốc tịch ở lãnh thổ Việt Nam đều được bảo vệ,

chăm sóc giáo dục như nhau.

12

1.1.2. Bảo vệ trẻ em

BVTE là trách nhiệm của nhà nước, gia đình và mọi công dân trong xã

hội đối với việc đảm bảo an toàn cho trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột và sao

nhãng, bao gồm cả việc loại bỏ những nguy cơ gây tổn hại và ngăn chặn các

yếu tố đang gây tổn hại cho trẻ. BVTE là những dịch vụ được cung cấp bởi

các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp hướng tới việc can thiệp khẩn cấp và

giúp đỡ các em đang có nguy cơ hoặc đã bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng

nhằm ngăn chặn, giúp phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ em [6].

Luật Trẻ em năm 2016 đưa ra định nghĩa về BVTE như sau: "Bảo vệ trẻ

em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an

toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em;

trợ giúp trẻ em có HCĐB" [21].

Như vậy, với cách tiếp cận về BVTE theo từng cấp độ cụ thể từ bảo đảm

môi trường sống an toàn cho trẻ em đến việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý

hành vi xâm hại trẻ em và trợ giúp khi trẻ em rơi vào HCĐB, Luật Trẻ em đã

đưa ra được khái niệm khá toàn diện về BVTE.Trẻ em không phân biệt gái,

trai, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội …đều được bảo

vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền lợi theo quy định của pháp

luật.

1.1.3. Chăm sóc trẻ em

Chăm sóc trẻ em là sự đáp ứng nhu cầu phát triển tâm, sinh lý của trẻ

em; cụ thể hơn là đáp ứng nhu cầu phát triển thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo

đức và xã hội của trẻ; Hiểu một cách đơn giản Chăm sóc trẻ em là hoạt động

nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ nhỏ.

Bất cứ một trẻ em nào, từ khi mới lọt lòng mẹ đến tuổi trưởng thành đều

cần sự chăm sóc về thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo đức và xã hội.

1.1.4. Chính sách công

13

Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm

vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với

các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lí sự phát

triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách

công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết

định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm chọn các mục tiêu cụ thể với

giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu

xác định của Đảng chính trị cầm quyền” [13].

1.1.5. Chính sách bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em

Từ quan niệm về “chính sách công” và “bảo vệ, chăm sóc trẻ em” nêu

trên chúng ta có thể định nghĩa về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em như

sau: Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là tập hợp các quyết định có liên

quan tới việc lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo mục tiêu nhà nước đã xác định.

Việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là việc thực hiện hóa

cácquyết định chính trị về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây là khâu đặc biệt quan

trọng trong chu trình chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nó có nhiệm vụ

hiện thực hóa các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của nhà nước vào cuộc

sống.

1.1.6. Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Là một khâu hợp thành chu trình chính sách, thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em có vị trí rất quan trọng. Chu trình chính sách nếu khuyết

thiếu công đoạn này thì sẽ bị đứt gãy, không thể tồn tại vì thực hiện chính

sách có vai trò trung tâm, kết nối các bước trong chu trình chính sách thành

một hệ thống hoàn chỉnh.

Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em để từng bước

thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách

14

bảo vệ, chăm sóc trẻ em có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong

đời sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực hiện chính sách này cho thấy

muốn đạt được mục tiêu của chính sách thì phải thông qua việc thực hiện

chính sách, và các mục tiêu của chính sách thì cần phải có quan hệ với nhau

và ảnh hưởng đến các mục tiêu chung.

Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn để khẳng định được

tính đúng đắn, tính hợp lý của chính sách. Chính sách này khi triển khai rộng

rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, và khi chính sách được xã

hội chấp nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của chính sách.

Như chúng ta đều biết chính sách là do sự góp sức của một tập thể và

do tập thể đó hoạch định mà nên. Tuy vậy trong quá trình hoạch định chính

sách chúng ta cũng không tránh khỏi những ý kiến, những góp ý mang tính

chất chủ quan, điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả chung trong quá trình

thực hiện chính sách. Do vậy, khi chính sách được thực thi thì những người

hoạch định chính sách cần nghiên cứu, xem xét và rút kinh nghiệm. Trên cơ

sở đó, thực hiện chỉnh sửa để chính sách ngày một đúng đắn, hoàn thiện hơn.

1.2. Quy trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội

và vận dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách công. Đó là

cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch

định đến xây dựng chính sách, thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham

gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em trải qua 07 bước sau:

- Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em

Tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là quá trình phức

tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch,

15

chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một

cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các

cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải

xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm những nội dung cơ bảnsau:

Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến

về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách;

số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; những dự kiến về

cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lí và công chức thực thi; cơ chế tác động

giữa các cấp thực thi chính sách.

Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về

các cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; các nguồn lực tài chính.

Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là kiến về thời gian

duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên

truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu

cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

Thứ tư, kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến về tiến

độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.

Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách

nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước

tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật

cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

- Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Sau khi bản kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

16

được thông qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển

khai thực hiện theo kế hoạch.

Một là, trong quá trình thực hiện chính sách phải truyên truyền vận

động nhân dân tham gia thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phổ

biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi

người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu

rõ về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về

tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lí

của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền chính sách còn giúp cho mỗi

cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính

chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích

cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách

và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được

giao.

Hai là, chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ

em bao gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm

vụ. Đội ngũ này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kĩ năng trong

việc tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đảm bảo

chính sách khi được phổ biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực,

khách quan.

Ba là, đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính bảo vệ, chăm sóc trẻ

embao gồm:

- Những công dânđược tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng

chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

- Những công dân bị tác động gián tiếp bởi chính sách bảo vệ, chăm

sóc trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính sách hiệu quả.

- Những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách bảo vệ,

17

chăm sóc trẻ em.

Bốn là, phương tiện và cách thức tuyên truyền: Tuyên truyền là một

trong những hoạt động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân

và toàn xã hội trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nội dung

tuyên truyền phải đa dạng về cách thức và phong phú về hình thức đáp ứng

được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.

- Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc

trẻ em

Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì

chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách,

đảm bảo phát huy được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và

tác động đến chính sách.

- Bước 4: Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là toàn bộ hoạt động đảm

bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội. Đồng

thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi

và môi trường thực hiện chính sách.

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc

trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường công tác tuyên

truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia

thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do

môi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công

cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính

sách, đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh

mới.

- Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

18

Trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em, do tác

động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Do đó, việc điều chỉnh

chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ

chức thực hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm

quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lí và tình hình

thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều

chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp,

cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lí nhà nước các

ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện

sao cho có hiệu quả, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.

- Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách vệ, chăm

sóc trẻ em

Đôn đốc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là hoạt động của

cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện, thông qua các công cụ

hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong

thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể

nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi

phạm quy định trong quá trình thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

- Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em

Đánh giá, tổng kết trong tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá

trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các

đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về

chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương

đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính

trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực

19

thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong các cơ quan nhà nước là kế

hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng ở bước một của

phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan

nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét

tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách công của các tổ

chức chính trị và xã hội với Nhà nước.

1.3. Hệ thống chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc

trẻ em

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trong những truyền thống

tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được gìn giữ, tôn trọng và phát huy. Trẻ em

luôn được coi là nhân tố quan trọng trong đường lối, chiến lược phát triển con

người của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm

sự quan tâm đặc biệt cho những chủ nhân nhỏ tuổi của đất nước vì "Ngày nay

các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế

giới" [16]. Người còn căn dặn: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi

ích trăm năm thì phải trồng người" [17].

Trong suốt tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở thời

kỳ cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cho đến thời kỳ xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay thì vấn đề BVTE luôn được

Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và thể hiện trong chủ trương, đường lối

lãnh đạo của Đảng.Các chủ trương, chính sách của Đảng về BVTE được quy

định trong nhiều văn kiện nhưng đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày

28/6/2000 Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ

sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn

chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em. Có biện pháp giải quyết tốt

20

một số mục tiêu quan trọng như: Tích cực phòng chống tình trạng dụ dỗ trẻ

em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại, trẻ em làm

trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [4].

Ngày 5/11/2012 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20/CT-TW về việc

“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và

bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”. Trong đó, yêu cầu các cấp ủy đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể phải quan tâm giáo dục

pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và BVTE; phê phán, lên án

các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em vào hoạt động

tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa đổi, bổ

sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và

BVTE.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược

đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lọt sức lao động và những hành vi khác vi phạm

quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) [20].

Luật BVCSGDTE năm 2004 thay thế cho Luật BVCSTE năm 1991 và

kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ em nhưng

đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và văn kiện

quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát

sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng

yêu cầu thực tiễn đề ra.

Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thay đổi,

sựhội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới

tácđộng đến công tác BVCSTE. Vì thế, Luật BVCSGDTE năm 2004 đã bộc

lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát

sinh, đặc biệt là vấn đề về BVCSTE. Vì vậy, ngày 05 tháng 4 năm 2016,

Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em gồm 7 chương với 106 điều

21

(tăng 46 điềuso với Luật 2004)

Luật trẻ em 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy định về quyền, bổn

phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách

nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực

hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Để cụ thể hóa thực hiện Luật trẻ em, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ

quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình BVTE giai đoạn

2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai

đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em. Đồng

thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăngcường giải

pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Ngày 26/5/2020 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg

về việc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ

trẻ em. Đây là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào

cuộc chăm lo cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn

định và lâu dài của đất nước.

Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của

Đảng, Chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị

trí và tầm quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát

triển đất nước theo hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm về bảo vệ,

chăm sóc trẻ em đã hướng tới đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, trách

nhiệm bảo vệ, chăm sóc trẻ em là của toàn thể các cấp đảng, chính quyền, tổ

chức chính trị xã hội và của toàn thể xã hội.[11]

1.3.2. Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Có thể nói, chính sách về BVCSTE đang hướng tới mục tiêu tạo môi

trường an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ theo ba cấp

22

độ phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Có thể đánh giá những điểm mạnh trong việc

hoàn thiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam trong những năm

gần đây như sau:

Thứ nhất, chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em chuyển từ xây dựng luật

pháp, chính sách, chương trình đến từng nhóm đối tượng trẻ em yếu thế trong

xã hội sang xây dựng khung pháp lý toàn diện.

Chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước kia chỉ tập trung giải quyết

hậu quả, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tuy nhiên trong

những năm gần đây đã chú trọng đến việc chủ động phòng ngừa, can thiệp

sớm, loại bỏ những nguy cơ cho mọi trẻ em trước khi bị tổn hại. Đặc biệt,

Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020 (Quyết định

1555/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2012) đã đưa ra khung

chương trình, chính sách đầu tư cho trẻ em trung hạn và dài hạn nhằm hướng

tới một khung chính sách toàn diện cho trẻ em.

Thứ hai, xây dựng được hệ thống chính sách và chương trình toàn diện

theo hướng tiếp cận từ đáp ứng nhu cầu trẻ em sang đảm bảo quyền cho mọi

trẻ em trong xã hội.

Các đối tượng được hưởng chính sách xã hội không chỉ bó hẹp trong 14

nhóm trẻ em có HCĐB quy định trong Luật trẻ em 2016 mà mở rộng ra các

nhóm có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế -

xã hội còn khó khăn, nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội cho trẻ em

còn rất hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; mức trợ cấp trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt còn thấp, chưa bảo đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã

hội cơ bản như giáo dục, chăm sóc sức khỏe; chênh lệch các chỉ số về an sinh

xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của

cả nước còn lớn. Do đó, hướng tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách chưa

thể đảm bảo quyền của trẻ em ngay được mà chỉ tập trung chính vào đáp ứng

23

nhu cầu cho trẻ.

Thứ ba, định hướng chính sách phát triển xã hội về lĩnh vực BVCSTE

đến năm 2020

Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa

XI, một số vấn đề có liên quan đế chính sách phát triển xã hội liên quan đến

BVCSTE như sau:

- Về trợ giúp xã hội trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: tiếp tục mở

rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ

cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây

dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác

định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính

sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát

triển mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến

khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc

trẻ mồ côi, người khuyết tật.

- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em,

đặc biệt trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em dân

tộc thiểu số:

a) Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Tăng số lượng học sinh trong các trường

dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường bán trú; xây dựng và củng cố nhà trẻ

trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm non

cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt là

đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

b) Bảo đảm y tế tối thiểu: Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân

ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà

mẹ và trẻ em.

24

c) Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo:Triển khai đầy đủ, kịp thời các chương

trình tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ em; xây

dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng

cao sức khỏe, tầm vóc thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số; thực hiện đồng bộ

các giải pháp tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các

hộ nghèo trong đó có trẻ em được tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở

tuyến Trung ương thông qua chính sách BHYT; quan tâm đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực y tế, có cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu là người

dân tộc thiểu số ở địa phương.

d) Bảo đảm nước sạch: Chương trình “Nước sạch học đường” đang

ngày càng nhận được sự quan tâm và đồng hành của nhiều doanh nghiệp, cá

nhân trong và ngoài nước với muốn mang nguồn nước sạch uống trực tiếp đạt

chuẩn quốc gia đến học sinh và giáo viên của các trường học khó khăn, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng, miền trên cả nước góp phần mang lại

sức khỏe và cuộc sống tốt đẹp hơn cho trẻ em Việt Nam.

e) Bảo đảm thông tin.

- Đảm bảo Quyền trẻ em cho mọi trẻ em được sống trong môi trường

an toàn, lành mạnh và thân thiện; Giảm thiểu bất bình đẳng về mức sống, về

cơ hội phát triển giữa các nhóm trẻ em khác nhau; Tập trung giải quyết những

vấn đề bức xúc trong xã hội liên quan đến ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc

lột, xao nhãng trẻ em, mại dâm trẻ em, trẻ em nghiên ma túy, vi phạm phát

luật... đảm bảo ổn định trật tự xã hội.

1.4. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em

Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ và thể chế bảo vệ, chăm sóc trẻ em

là yếu tố quan trọng trong hoạch định, xây dựng chính sách. Đây là yếu tố có

25

tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và gắn liền với

mỗi vấn đề chính sách, tổ chức thực thi chính sách. Nếu vấn đề của chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đơn giản, liên quan đến ít đối tượng thì công tác

tổ chức thực hiện chính sách sẽ thuận lợi hơn nhiều. Nếu là vấn đề bức xúc thì

sẽ được nhà nước và xã hội ưu tiên nguồn lực để giải quyết theo mục tiêu đã

định hướng. Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố khách quan có ảnh

hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận

lợi hay khó khăn.

Môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện

chính sách, nếu có một môi trường tốt thì chính sách sẽ dễ dàng thực hiện và

ngược lại nếu có một môi trường không thuận lợi sẽ làm cho việc thực hiện

chính sách gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả.

Sự tham gia phối hợp giữa các đối tượng thực hiện chính sách và đối

tượng thụ hưởng chính sách là một trong những tác nhân gây ảnh hưởng đến

chính sách tuy nhiên rất ít địa phương quan tâm, chú trọng; lợi ích của các đối

tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách phải đồng nhất với nhau.

Nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách mâu thuẫn với lợi

ích của đối tượng thụ hưởng thì thực hiện chính sách sẽ khó khăn, thậm chí

còn thất bại và ngược lại nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện

chính sách đồng nhất với đối tượng thụ hưởng thì chính sách sẽ được thực

hiện dễ dàng hơn. Nhìn chung mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta cơ bản là đồng thuận.

Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

được hiểu là thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm có được trong mối quan hệ

so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm được thể hiện trên

các phương diện chính trị, xã hội, kinh tế v.v... về cả quy mô và năng lực.

Quy trình thực hiện chính sách được bắt đầu từ việc tuyên truyền vận

26

động về chính sách và thực hiện chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền vận

động thực hiện chính sách tốt sẽ củng cố thêm lòng tin của người dân vào

chính sách của nhà nước, tăng cường tính tự giác thực hiện chính sách của đối

tượng thụ hưởng và đối tượng tham gia tổ chức thực hiện chính sách. Phân

công phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, của các cấp chính

quyền địa phương cũng có vai trò quan trọng trong tổ chức thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em... Do đó trong tổ chức thực hiện chính bảo vệ,

chăm sóc trẻ em phải thực hiện đúng và đầy đủ các bước trong quy trình tổ

chức thực hiện chính sách.

Vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Năng lực thực thi của

cán bộ công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức

công vụ, thiết kế tổ chức, phân tích, dự báo… để có thể chủ động ứng phó

được với những tình huống phát sinh. Với chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

thì năng lực thực hiện chính sách của cán bộ công chức là kiến thức, kỹ năng

và tinh thần trách nhiệm của họ trong thực hiện nhiệm vụ. Để có thể thực hiện

chính sách một cách hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức thực hiện

chính sách phải nắm vững kiến thức chuyên môn, am hiểu mục tiêu, nội dung,

nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính sách đồng

thời phải có kỹ năng thực tế, phổ biến tuyên truyền chính sách, có tinh thần,

thái độ trách nhiệm trong thực hiện chính sách.

Để các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách chính bảo vệ,

chăm sóc trẻ em hoạt động có hiệu quả thì nhà nước phải chú trọng đầu tư

nguồn lực vật chất cả về số lượng và chất lượng. Nguồn lực ở đây được hiểu

là nhân lực, đồng thời nó cũng là chế độ tiền lương, các ưu đãi đối với đội ngũ

cán bộ công chức trực tiếp thực hiện chính sách. Những điều kiện về vật chất

có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện chính sách, nó giúp cho thực hiện

27

chính sách được thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể

triển khai những ý tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ

cán bộ công chức thực hiện chính sách yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm

vụ được giao góp phần đạt được mục tiêu đã đề ra của chính sách.

1.5. Ý nghĩa và yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em

1.5.1. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

- Biến chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em thành hiện thực: Chính sách

là công cụ để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng. Do đó, thực hiện

chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em chính là việc chuyển những ý tưởng,

những định hướng của Đảng và Nhà nước thành những hành động, những

việc làm, những giải pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra. Trên cơ sở

đó có cácgiải pháp phù hợpđể thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

- Khẳng định tính đúng đắn của chính sách: Chính sách chỉ thật sự có

hiệu lực, hiệu quả thực hiện khi được toàn xã hội thừa nhận, đặc biệt là sự

thừa nhận của các đối tượng được hưởng lợi từ chính sách.

- Giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh:Thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em là căn cứ xác thực nhất để có thể đánh giá tính hiện thực,

hiệu quả, phù hợp và các tác động của chính sách trong việc đáp ứng nhu cầu

phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện chính sách ta có thể thấy rõ được

những ưu điểm, hạn chế của chính sách mang lại, từ đó có những điều chỉnh

để hoàn thiện chính sách nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực

hiện chính sách ở nước ta.

1.5.2. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em

- Thực hiện đúng mục tiêu chính sách

Mỗi chính sách đều hướng đến mục tiêu nhất định. Mục tiêu của chính

28

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh

và thân thiện cho trẻ em, thực hiện ngày còn tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ

em; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; hỗ trợ

phục hồi, hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại. Việc

thực hiện chính sách này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình và toàn xã hội đối với công

tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

- Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách

Khi thực hiện một chính sách thì phải đảm bảo tính hệ thống được quy

định trong chủ trương của Đảng, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai

thực hiện của Nhà nước và bắt buộc đối tượng triển khai thực hiện chính sách

phải tuân thủ theo các quy định hiện hành, điều này được thể hiện rõ nhất ở sự

phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ quan cấp trên

và cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong công tác.

Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần phải bảo đảm tính hệ

thống, nghĩa là phải thực hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ đặt ra.

- Đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện

chính sách

Thực hiện chính sách theo đúng pháp luật, đúng nội dung hướng dẫn

theo quy định tại các văn bản hướng dẫn của Nhà nước, đồng thời phải thực

hiện một cách khoa học, hợp lý để chính sách phát huy hiệu quả của nó. Trong

tổ chức thực hiện chính sách công nếu đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, khoa

học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách

của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố niềm tin của các đối

tượng được thụ hưởng chính sách đối với Nhà nước.

- Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách

Trong quá trình thực thi chính sáchthường tồn tại nhiều nhóm lợi ích

29

trong xã hội và nhà nước là người bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ

chức. Thông thường, nhà nước thường sử dụng chính sách công để đảm bảo về

lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội. Điều này sẽ

góp phần củng cố niềm tin của người dân vào các chính sách Nhà nước thông

qua chính sách công. Có thể nói, để cho các đối tượng thụ hưởng chính sách có

được những lợi ích thật sự là yêu cầu quan trọng trong quá trình thực thi chính

sách công.

Tiểu kết Chương 1

Tại Chương 1, trên cơ sở lý thuyết về chính sách công đã được học,

luận văn đã tổng hợp những vấn đề lý luận chung về thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam, làm rõ những khái niệm về trẻ em, bảo vệ

trẻ em, chăm sóc trẻ em…, nêu những quan điểm, hệ thống lại các chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Đảng và Nhà nước ta.

Chương 1 cũng nêu các bước tổ chức thực hiện chính sách, những yêu

cầu cơ bản, các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách, các phương

pháp trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Đây là cơ sở pháp lý, là điều kiện tiền đề để các Bộ, ban ngành, đoàn

thể Trung ương, các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em. Thông qua kết quả thực hiện hằng năm, sơ kết, tổng kết,

đánh giá rút kinh nghiệm, đề xuất Đảng và Nhà nước bổ sung, điều chỉnh để

chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ngày càng tốt hơn, trẻ em được hưởng thụ

nhiều hơn.

Cơ sở lý luận nghiên cứu của Chương 1 này sẽ là tiền đề quan trọng để

tác giả phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc

trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

30

31

CHƯƠNG 2

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng kinh tế trọng điểm của miền

Trung, có diện tích tự nhiên 10.574 km2 (khu vực miền núi 7.760,7km2,

chiếm 73,4%); phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào và tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và phía

Bắc giáp thành phố Đà Nẵng; có15 huyện, 01 thị xã và 02 thành phố, trong đó

có 9 huyện miền núi là Nam Giang, Phước Sơn, Tây Giang, Đông Giang, Bắc

Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức và Nông Sơn và 9 huyện, thị,

thành đồng bằng: huyện Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn, Thăng Bình, Núi

Thành và Phú Ninh, thị xã Điện Bàn, thành phố Tam Kỳ, thành phố Hội An.

Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang

Đông, hình thành ba vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng

bằng và ven biển; bị chia cắt theo các lưu vực sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam

Kỳ có mối quan hệ bền chặt về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đa dạng

với các hệ sinh thái đồi núi, đồng bằng, ven biển [10, tr.7].

Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, chỉ có 2 mùa

là mùa khô và mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc.

Nhiệt độ trung bình năm 20 – 210C, không có sự cách biệt lớn giữa các tháng

trong năm. Lượng mưa trung bình 2.000 – 2.500 mm nhưng phân bố không

đều theo thời gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng, mưa

tập trung vào các tháng 9 – 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm; mùa mưa

trùng với mùa bão, nên các cơn bão đổ vào miền Trung thường gây ra lở đất,

32

lũ quét ở các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây Giang, Đông Giang, Nam

Giang và ngập lụt ở các huyện đồng bằng [10].

2.1.2. Đặc điểm của trẻ em ở Quảng Nam

Tính đến cuối năm 2019, tỉnh Quảng Nam có 410.644 hộ gia đình, tổng

số hộ nghèo: 38.112 hộ, tỷ lệ 9,28%, trong đó hộ nghèo về thu nhập

là37.784hộ, chiếm tỷ lệ 9,20%; hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội

cơ bản có 328 hộ, chiếm tỷ lệ 0,08%; số hộ cận nghèo là 18.590 hộ, chiếm tỷ

lệ 4,53%. Tổng số trẻ em dưới 16 tuổi là 361.915 trẻ chiếm 24,10% tổng dân

số toàn tỉnh (Nam: 188.643 trẻ, chiếm 52,12%; Nữ: 173.272 trẻ, chiếm

47,88%). Toàn tỉnh có 19.109 trẻemhoàn cảnh đặc biệt chiếm tỷ lệ 5,28%,

trong đó 1.587 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; 6.151 trẻ em khuyết tật; 4

trẻ em bị nhiễm HIV; 48.749 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ rơi

vào hoàn cảnh đặc biệt chiếm tỷ lệ 13,47% tổng số trẻ em toàn tỉnh, trong đó

34.432 em sống trong gia đình hộ nghèo.Số trẻ em được hưởng chính sách trợ

giúp hằng tháng của nhà nước là 4.597 em [24].

Là địa bàn gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai,

bão lũ thường xuyên xảy ra; đời sống, thu nhập của người dân còn thấp, sự

chênh lệch mức sống giữa các vùng là một trong các nguyên nhân chủ yếu

khiến tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt

còn cao. Cụ thể bảng 2.1

Bảng 2.1:Tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam

TE có

STT

Đơn vị

Tổng số

Nam

Nữ

HCĐB

TE có nguy cơ rơi vào HCĐB

1

Tam Kỳ

28.287

14.837

13.450

652

784

2 Hội An

21.366

11.270

10.096

2015

608

3 Điện Bàn

50.658

26.559

24.099

1652

1178

4 Đại Lộc

32.565

17.129

15.436

1125

1916

33

TE có nguy

TE có

cơ rơi vào

STT

Đơn vị

Tổng số

Nam

Nữ

HCĐB

HCĐB

5 Duy Xuyên

27.476

12.648

14.828

982

1250

6 Núi Thành

34.750

18.272

16.478

1037

1680

7 Quế Sơn

16.152

8.544

7.608

815

2967

8 Nông Sơn

7.215

3.526

3.689

315

3750

9 Hiệp Đức

9.613

5.153

4.460

694

1037

10 Bắc Trà My

12.408

6.520

5.888

852

8779

11 Nam Trà My

13.019

7.452

5.567

975

4149

12 Tiên Phước

17.466

9.058

8.408

2569

2568

13 Phước Sơn

9.081

4.761

4.320

842

4032

14 Nam Giang

8.200

4.182

4.018

698

2430

15 Đông Giang

8.611

4.443

4.168

747

4214

16 Tây Giang

6.960

3.663

3.297

632

4476

17 Phú Ninh

18.193

9.261

8.932

1472

1429

1315

18 Thăng Bình

39.895

21.365

18.530

1502

Tổng cộng

361.915 188.643

173.272

19.362

48.749

Nguồn: Số liệu báo cáo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam

năm 2019

Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2016 và 2019

Mục tiêu

STT

Nội dung

ĐVT

2016

2019

2025

1

Tổng số trẻ em

Người 425.100 361.915

221,052 188.643

- Nam

204,048 173.272

- Nữ

2

Trẻ em có HCĐB

Người 24.151

19.109

5,73%

5,28%

Dưới

Tỷ lệ

%

5%

3

Trẻ em có nguy cơ rơi vào HCĐB Người 58.761

48.749

Tỷ lệ

%

13,94% 13,47%

Nguồn: Số liệu báo cáo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam

34

năm 2016 và 2019

2.1.3. Nhu cầu bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, toàn xã

hội và chính bản thân trẻ em trong việc đảm bảo cho mọi trẻ em được sống

trong môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện và tạo điều kiện tốt nhất để

trẻ em được bảo vệ, phát triển toàn diện. Chính vì vậy đòi hỏi nhu cầu bảo vệ,

chăm sóc trẻ em tại cộng đồng là rất cần thiết. Ngoài các chính sách hỗ trợ

của Trung ương, các tổ chức phi chính phủ; hằng năm tỉnh Quảng Nam đã

trích ra một phần kinh phí phân bổ cho Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh, cùng với các

nguồn lực khác từ xã hội hóa góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm

sóc trẻ em như: đã xây dựng được một số khu vui chơi, hồ bơi và dạy bơi cho

trẻ để phòng chống tai nạn đuối nước; mở các lớp dạy nghề, tạo việc làm cho

trẻ em lang thang cơ nhỡ; phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực

hiện chương trình 01 phút dành cho trẻ em; hỗ trợ học bổng cho trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt khó, học giỏi….

Gia đình đóng vai trò rất quan trọng, là tổ ấm của mỗi người, là tế bào

của xã hội; đồng thời cũng là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống, là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục

nhân cách của đứa trẻ từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Do đó, nhu cầu bảo

vệ, chăm sóc trẻ em tại gia đình rất quan trọng; bằng các chính sách như hỗ

trợ sinh kế cho gia đình của trẻ có hoàn cảnh khó khăn và hỗ trợ cho trẻ tái

hòa nhập cộng đồng và trường học thông qua hệ thống giáo dục không chính

quy giúp trẻ bắt kịp với chương trình học ở trường. Bên cạnh đó, thông qua

Trung tâm công tác xã hội của tỉnh kết nối với gia đình trẻ để tuyên truyền,

nâng cao trách nhiệm làm cha, mẹ, giáo dục chăm sóc con cháu của mình

chăm ngoan, nên người.

Việc triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương và của tỉnh đã

35

và đang mang lại nhiều hiệu quả thiết thực đối với trẻ em. Hiện nay, toàn tỉnh

có 4.597 trẻ được hưởng chính sách trợ giúp của Nhà nước theo quy định tại

Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp

đối với đối tượng xã hội, trong đó trẻ không có nguồn nuôi dưỡng là 465 em;

trẻ em nhiễm HIV là 4 em; trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng là 1082 em, trẻ em

khuyết tật nặng là 3046 em; trẻ em mồ côi được nhận nuôi là 156 em. Trên địa

bàn tỉnh hiện có 08 cơ sở trợ giúp trẻ em, trong đó có 02 cơ sở của Nhà nước

(Trung tâm Bảo trợ xã hội Quảng Nam và Làng Hòa Bình Quảng Nam) và 06

cơ sở của tư nhân. Các cơ sở này có chức năng tiếp nhận, chăm sóc, nuôi

dưỡng, phục hồi chức năng tập trung các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội trên

địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật; tiếp nhận và nuôi dưỡng tạm thời

các đối tượng cần chăm sóc khẩn cấp; kết nối và cung cấp dịch vụ công tác xã

hội cho các đối tượng xã hội đang nuôi dưỡng và trong cộng đồng; thực hiện

chuyển đối tượng đủ điều kiện trở về gia đình, tái hòa nhập cộng đồng; được

phép huy động, tiếp nhận, sử dụng hiệu quả, đúng quy định của pháp luật các

hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức đến thăm và trao tặng tại đơn vị; tổ chức dạy

văn hóa; liên kết, phối hợp tổ chức dạy nghề; tổ chức các hoạt động văn hóa

thể thao và các hoạt động khác để giúp đối tượng phát triển toàn diện về thể

chất, trí tuệ và nhân cách. Hiện nay, có 476 trẻ em mồ côi không nơi nương

tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm chất độc hóa học được

chăm sóc, nuôi dưỡng tại các Trung tâm trên. Trẻ em sống tại các cơ sở bảo trợ

xã hội được học hòa nhập cộng đồng, được bảo vệ, chăm sóc theo quy định của

Luật trẻ em. Đặc biệt, làng trẻ em SOS tại thành phố Đà Nẵng ngoài chương

trình nuôi trẻ tập trung còn thực hiện hỗ trợ cho 231 trẻ em Quảng Nam có

hoàn cảnh khó khăn tại cộng đồng. Bên cạnh đó, các mô hình chăm sóc trẻ em,

các văn phòng tư vấn, điểm tư vấn cộng đồng và trường học tại các địa phương

triển khai thực hiện đồng bộ nhằm hạn chế tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh

36

đặc biệt.

2.1.4. Bộ máy quản lý phụ trách triển khai thực hiện chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em

Tỉnh Quảng Nam đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình Bảo

vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 (Quyết định 769/QĐ-UBND ngày 01/3/2016

của UBND tỉnh và kiện toàn Ban chỉ đạo tại Quyết định số 1975/QĐ-UBND

ngày 27/6/2018 của UBND tỉnh) gồm 24 thành viên do đồng chí Phó Chủ tịch

Ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban. Thành phần Ban chỉ đạo bao gồm các

cơ quan: Văn phòng Ủy ban nhân tỉnh, Lao động - Thương binh và Xã hội;

Giáo dục và Đào tạo; Y tế; Công an; Tư pháp; Tài chính; Thông tin và Truyền

thông; Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; Tỉnh Đoàn

có trách nhiệm quản lý, điều phối và thực hiện các hoạt động Bảo vệ trẻ em.

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan tham mưu giúp UBND

tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Bảo vệ, chăm sóc trẻ

em và bình đẳng giới đã bố trí 05 công chức thực hiện công tác trẻ em và bình

đẳng giới tại Phòng Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới, thuộc Sở; có

01 Trung tâm Công tác xã hội thực hiện chức năng tham vấn, tư vấn, tiếp

nhận, nuôi dưỡng khẩn cấp các đối tượng bị bạo lực, xâm hại, bỏ rơi. Mô hình

Trung tâm công tác xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ

em, đảm bảo các yếu tố về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã góp

phần rất lớn trong việc trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ

em bị xâm hại nói riêng.

Tại các huyện, thị xã, thành phố: 18/18 huyện, thị xã, thành phố và

244/244 xã, phường, thị trấn thành lập, kiện toàn và xây dựng quy chế hoạt

động của Ban bảo vệ trẻ em. Đội ngũ cán bộ phụ trách trẻ em các cấp gồm

266 người; đội ngũ cộng tác viên thôn, bản, khối phố hiện có 1.244 người.

Các huyện, thị xã, thành phố cập nhật danh sách trẻ em và trẻ em có hoàn

37

cảnh đặc biệt vào phần mềm quản lý thông tin trẻ em online; có biện pháp

quản lý trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt để

động viên, thăm hỏi và hỗ trợ kịp thời dưới nhiều hình thức (trao học bổng,

hỗ trợ sinh kế...); chỉ đạo Trung tâm Công tác xã hội trẻ em và các điểm tư

vấn tại trường học, cộng đồng thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ

em. Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã có

nhiều chuyển biến tích cực với những nội dung hoạt động chuyển hướng theo

các quyền cơ bản của trẻ em được quy định. Các giải pháp hoạt động được

triển khai, nhằm mang lại cho trẻ em cuộc sống an toàn, lành mạnh [23]

Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ủy ban nhân

dân tỉnh rà soát các chính sách, quy định của tỉnh liên quan đến công tác

phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát tổ chức bộ máy, cán bộ làm

công tác bảo vệ trẻ em. Qua đó, giúp UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, đoàn

thể xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác truyền thông, nắm bắt tình hình,

chủ động phát hiện những hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em, có biện pháp ngăn

chặn hiệu quả, không để xảy ra các vụ việc nghiêm trọng. Thực hiện tốt việc

xử lý các thông tin về bạo lực, xâm hại trẻ em, về vi phạm quyền trẻ em trên

địa bàn để điều tra, xử lý đối tượng vi phạm kịp thời, nhanh chóng, nghiêm

minh, đảm bảo các quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em.

Bên cạnh đó, phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền

phòng, chống tai nạn thương tích, xâm hại trẻ em tới các tầng lớp nhân dân;

triển khai thí điểm mô hình Địa chỉ tin cậy - Nhà tạm lánh an toàn tại các

huyện, thị xã, thành phố để sẵn sàng tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị xâm hại.

Tăng cường công tác quảng bá Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, Đường

dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em của Trung tâm công tác xã hội Quảng Nam

18001581 để mọi người dân và trẻ em liên hệ miễn phí khi có nhu cầu; phối

hợp, kết nối với Tổng đài trong việc tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ em

38

bị bạo lực, xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt qua đó hầu hết đã nắm bắt

được các thông tin liên quan đến xâm hại trẻ em và phối hợp với các cơ quan

chức năng giải quyết kịp thời, đúng quy định pháp luật.

2.1.5. Thể chế bộ máy hoạch định và xây dựng, triển khai thực hiện

chính sách

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức đoàn thể

xã hội, các hội đặc thù thông qua các chương trình, chiến lược, chính sách,

Nghị quyết và Chỉ thị.

Quốc hội thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà

nước, trong các cơ quan của Quốc hội có một số ủy ban trực tiếp liên quan

đến trẻ em như: ủy ban văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng, ủy ban

các vấn đề xã hội, ủy ban kinh tế và ủy ban tài chính ngân sách.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý Nhà

nước đối với vấn đề trẻ em, cùng với các bộ, ngành liên quan khác có vai trò

chủ chốt trong lĩnh vực trẻ em như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng

Chương trình, dự án và tham mưu cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ

đạo, điều hành các nội dung liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

UBND các địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các

vấn đề về trẻ em; xây dựng các chương trình trẻ em tại địa phương, các kế

hoạch hành động phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn,

trung hạn và dài hạn tại địa phương.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng và tổ chức phong trào “Toàn dân

chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em”. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh chỉ đạo và thực hiện tốt các hoạt động thanh thiếu niên nhi đồng.

Ngoài ra, còn có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội; trong

đó gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ trẻ em, cùng với

nhà trường, giáo dục hình thành nhân cách, trang bị kiến thức, kỹ năng cần

39

thiết cho trẻ phát triển toàn diện.

2.1.6. Bộ máy quản lý nhà nước và triển khai thực hiện chính sách

40

Nhìn sơ đồ ta thấy bộ máy quản lý nhà nước và triển khai thực hiện chính

sách ở đây có 3 cấp hành chính là: UBND tỉnh, huyện, thị xã, thành phố và xã,

phường, thị trấn. Còn thôn, khối phố là cánh tay nối dài tổ chức thực hiện nhiệm

vụ của xã, phường, thị trấn giao theo quy định của Nhà nước.

41

Việc triển khai thực hiện chính sách: Khi một chính sách được chính phủ

ban hành, UBND tỉnh báo cáo Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND tỉnh biết

để có sự chỉ đạo. Về phần tổ chức thực hiện UBND tỉnh ban hành Chỉ thị/Quyết

định/Kế hoạch để chỉ đạo và thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện gồm Lãnh đạo

UBND tỉnh và đại diện lãnh đạo một số Sở, ban, ngành đoàn thể cơ quan cấp tỉnh

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Theo sơ đồ thì việc quản lý nhà nước chỉ

đạo từ UBND tỉnh đến huyện, thị xã, thành phố; xã, phường, thị trấn chỉ đạo thôn,

khối phố là 3 cấp quản lý và chỉ đạo xuyên suốt. Ngoài nhiệm vụ hướng dẫn, quản

lý về chuyên môn nghiệp vụ của Ban chỉ đạo còn có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra

để tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách ở nhóm thực hiện và người thụ

hưởng. Kết quả từ người thụ hưởng chính sách sẽ phản ảnh được sự lãnh đạo, chỉ

đạo của bộ máy quản lý.

2.2. Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Định hướng chỉ đạo, xây dựng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ

em

Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng

Nam luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng xã hội đặc biệt

quan tâm, xem đây là một trong những mục tiêu xuyên suốt trong tiến trình

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời, Tỉnh ủy, HĐND, UBND cũng

đã ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình, các dự án, xây dựng tổ

chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ

chức, cung cấp dịch vụ liên quan nhằm mục tiêu BVCSTE. Với việc triển khai

thực hiện Quyết định 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Chương trình Bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020, UBND tỉnh

ban hành Quyết định 190/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 phê duyệt Chương

trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu “Xây

dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện cho mọi trẻ em, thực

42

hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em; chủ động phòng ngừa,

loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; hỗ trợ phục hồi, hòa nhập cho trẻ

em hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại.”Để thực hiện được mục tiêu đề ra,

Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 - 2020 được triển khai với nội

dung trọng tâm là: Tiếp tục củng cố hệ thống bảo vệ trẻ em đủ năng lực

phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ gây tổn hại đến trẻ em, trợ giúp, phục

hồi cho trẻ em bị tổn hại. Các hoạt động của Chương trình bao gồm:

Một là, nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ

em cho chính quyền các cấp, các tổ chức, gia đình, nhà trường, cộng đồng xã

hội và bản thân trẻ em thông qua việc tổ chức các hình thức truyền thông phù

hợp với từng vùng, miền, từng nhóm đối tượng.

Hai là, củng cố hệ thống tổ chức, nhân lực và nâng cao năng lực cho

đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc

trẻ em đáp ứng với nhu cầu của công tác bảo vệ trẻ em.

Ba là, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên

nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em.

Bốn là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá

thực hiện Chương trình đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý trẻ em nói

chung, đánh giá và phát hiện kịp thời các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt, trẻ em có nguy cơ bị xâm hại nói riêng, làm cơ sở để xác định các biện

pháp trợ giúp phù hợp, hiệu quả.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách, tạo hành lang pháp lý

và các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và vận hành hệ thống cung cấp

dịch vụ bảo vệ trẻ em ở các cấp. Xây dựng danh mục tiêu chuẩn, quy

trình tiếp nhận và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Hoàn thiện thể chế về bảo

vệ trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính.

43

2.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của

Quảng Nam

2.2.2.1. Các chính sách của Trung ương hiện đang triển khai thực hiện

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Hiện nay, các chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đều hướng tới

việc xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách và pháp luật đảm bảo thực

hiện quyền trẻ em nhưng đồng thời cũng phải tạo môi trường sống an toàn,

lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của trẻ em, chủ động phòng ngừa, ngăn

chặn và hạn chế tình trạng trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, xâm hại, sao nhãng…

Chính vì thế, sự ra đời của các chính sách là cơ sở pháp lý cao nhất để triển

khai thực hiện hiệu quả các mục tiêu vì trẻ em. Một số chính sách về BVTE

đã và đang triển khai thực hiện tại Quảng Nam như:Chỉ thị về việc tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối vơi công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ

trẻ em trong tình hình mới (Chỉ thị số 20 /CT-TW ngày 05/11/2012 của Bộ

Chính trị); Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 – 2020 (Quyết

định số 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ); Chương

trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai đoạn

2016-2020 (Quyết định số 1235/QĐ-TTg ngày 03/8/2015 của Thủ tướng

Chính phủ); Chương trình phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn

2016 – 2020 (Quyết định số 234/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng

Chính phủ); Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ em giai đoạn

2016-2020 (Quyết định số 1023/QĐ-TTg ngày 07/6/2016 của Thủ tướng

Chính phủ); Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi

HIV/AIDS giai đoạn 2014 – 2020 (Quyết định số 570/QĐ-TTg ngày

22/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ); Quy định Tiêu chuẩn xã, phường, thị

trấn phù hợp với trẻ em (Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ); Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị tim bẩm sinh

44

(Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng Chính

phủ); Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc,

giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025 (Quyết định số 1438/QĐ-TTg

ngày 29/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án vận động nguồn lực xã

hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và

miền núi giai đoạn 2019-2025 (Quyết định 588/QĐ-TTg ngày 17/5/2019 của

Thủ tướng Chính phủ);Chỉ thị về việc tăng cường các giải pháp phòng, chống

bạo lực, xâm hại trẻ em(Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng

Chính phủ)….; đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm thực hiện

tốt các quy định về BVTE, tạo cơ hội cho trẻ em được phát triển toàn diện,

bình đẳng về thể chất, trí tuệ và tinh thần; để trẻ em trở thành những chủ nhân

tương lai của đất nước.

2.2.2.2. Các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở tỉnh Quảng Nam

Trong những năm qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Chương trình

quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020. Tỉnh

ủy, HĐND, UBND đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện

công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh, cụ thể:

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và

bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị

cán bộ chủ chốt của tỉnh để quán triệt Chỉ thị 20-CT/TW và ban hành Kế

hoạch số 69-KH/TU ngày 06/02/2013 để triển khai thực hiện Chỉ thị; đồng

thời chỉ đạo các huyện, thị, thành ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện

Chỉ thị đến các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị.

UBND tỉnh tổ chức họp giao ban Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình

bảo vệ trẻ em tỉnh theo Quy chế, qua đó đánh giá tình hình trẻ em để kịp thời

chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác Bảo vệ, chăm

45

sóc trẻ em; tổ chức Hội nghị triển khai Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh

Quảng Nam giai đoạn 2016-2020, Kế hoạch triển khai Chương trình thúc đẩy

quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai đoạn 2016-2020,

công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em năm 2016; tổ chức Hội nghị tổng kết Đề án

“Vận động đóng góp xây dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh giai đoạn 2009-

2015”; Hội nghị triển khai Quyết định số 3612/QĐ-UBND ngày 17/10/2016

của UBND tỉnh phê duyệt Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ

em trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 và Kế hoạch số 201/KH-UBND

ngày 13/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam về thực hiện Chương trình bảo

vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2017; Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện

Chương trình Bảo vệ trẻ em và Bình đẳng giới tỉnh Quảng Nam năm 2018 và

2019; Hội nghị đánh giá giữa kỳ Chương trình Bảo vệ trẻ em và Thúc đẩy

Quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2016-2020. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện

công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh: Kế hoạch số 1928/KH-

UBND ngày 29/5/2013 về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW và Kế hoạch số 69-

KH/TU của Tỉnh ủy; Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 06/3/2013 về phê

duyệt chương trình hành động vì trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-

2020; Quyết định số 4434/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 về thực hiện chương

trình hành động vì trẻ em bị ảnh hưởng bới HIV/AIDS tỉnh Quảng Nam giai

đoạnh 2014-2020; Quyết định số 4575/QĐ-UBND ngày 31/10/2014 về thực

hiện xây dựng xã, phường đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em giai đoạn 2014-

2020; Quyết định 190/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 phê duyệt Chương trình

Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 340/KH-

UBND ngày 22/01/2016 triển khai Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của

trẻ em vào các vấn đề về trẻ giai đoạn 016-2020; Quyết định 769/QĐ-UBND

ngày 01/3/2016 thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo thực hiện

46

Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Quyết

định 1903/QĐ-UBND ngày 01/6/2016 ban hành Quy chế hoạt động của Ban

Chỉ đạo thực hiện Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2016-2020; Quyết định 1983/QĐ-UBND ngày 09/6/2016 ban hành Đề án Vận

động đóng góp Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;

Quyết định số 3612/QĐ-UBND ngày 17/10/2016 phê duyệt Chương trình

phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-

2020; Kế hoạch số 431/KH-UBND ngày 21/01/2018 hỗ trợ trẻ em khuyết tật

tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng tỉnh Quảng

Nam giai đoạn 2019-2025; Quyết định 1975/QĐ-UBND ngày 27/6/2018 về

việc kiện toàn Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban chỉ đạo thực hiện Chương

trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số

5575/KH-UBND ngày 20/9/2019 vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các

xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Quảng

Nam giai đoạn 2019-2025; Kế hoạch số 7748/KH-UBND ngày 25/12/2019

triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ

tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, trình tự đánh giá và công

nhận xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số

2355/KH-UBND ngày 27/4/2020 của UBND tỉnh hành động phòng, chống

bạo lực, xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2020-2025.

Hằng năm, UBND tỉnh đều ban hành Kế hoạch thực hiện chương trình bảo vệ

trẻ em, các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện các hoạt động Tháng hành

động vì trẻ em, Ngày Quốc tế thiếu nhi (01/6), Tết Trung thu…

Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh

đã ban hành các văn bản hướng dẫn cấp huyện, thị xã, thành phố triển khai

thực hiện chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020,

cụ thể:

47

+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ động tham mưu trình

UBND tỉnh, đôn đốc, hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực

hiện chương trình BVTE, cụ thể hằng năm ban hành các văn bản hướng dẫn

triển khai thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như nhiều kế

hoạch, Công văn để triển khai thực hiện các hoạt động: Kế hoạch số 865/KH-

LĐTBXH ngày 04/7/2016 hội tổ chức Hội thảo bàn về các vấn đề liên quan

đến hỗ trợ tư pháp cho trẻ em tỉnh Quảng Nam; Kế hoạch số 560/KH-

LĐTBXH ngày 26/4/2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về tổ

chức Tháng hành động Vì trẻ em năm 2017 với chủ đề “Triển khai Luật trẻ

em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em”; Công văn 548/LĐTBXH-

BVCSTE&BĐG ngày 27/4/2018 tăng cường công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ

em; Kế hoạch số 828/KH-LĐTBXH ngày 12/6/2018 Tổ chức Lễ hưởng ứng

“Chấm dứt bạo lực thân thể trẻ em trong gia đình và trường học - cần BẠN,

cần TÔI, cần CẢ THẾ GIỚI”; Kế hoạch số 263/KH-LĐTBXH ngày

04/3/2019 Tổ chức Hội nghị đánh giá và chia sẻ kinh nghiệm xây dựng các

mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em trong trường học và cộng đồng

từ năm 2016 đến nay; Kế hoạch số 589/KH-LĐTBXH ngày 24/4/2019 về tổ

chức Tháng hành động Vì trẻ em năm 2019 với chủ đề “Chung tay vì trẻ em

nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số”;Kế hoạch số 955/KH-LĐTBXH ngày

18/6/2019 gặp mặt, tuyên dương và tổ chức đưa đoàn Đại biểu trẻ em vượt

khó, học giỏi nhiều năm liền đi thăm quan Hà Nội và báo công với Bác Hồ;

Kế hoạch số 1284/KH-LĐTBXH ngày 12/8/2019 tổ chức hội thảo lập kế

hoạch triển khai thực hiện khuyến nghị của trẻ em tại Diễn đàn trẻ em năm

2019; Kế hoạch số 1288/KH-LĐTBXH ngày 12/8/2019 về thực hiện mô hình

hỗ trợ, can thiệp để giảm thiểu lao động trẻ em năm 2019; Kế hoạch số

1820/KH-LĐTBXH ngày 22/10/2019 về tập huấn nâng cao năng lực về kiến

thức phòng, ngừa lao động trẻ em...

48

+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh đoàn

Quảng Nam ban hành các kế hoạch:Kế hoạch phối hợp số 65-KHLT/TĐTN-

SLĐTB&XH ngày 27/4/2017 giữa Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và

Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức chương trình “Hãy lên tiếng phòng, chống

bạo lực, xâm hại trẻ em” 2017; Kế hoạch phối hợp số 637/KHPH-

SLĐTB&XH-TĐTN ngày 12/5/2017 giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã

hội và Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ em; Kế

hoạch phối hợp số 775/KHPH-SLĐTB&XH-TĐTN ngày 02/6/2017 giữa Sở

Lao động – Thương binh và Xã hội và Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức

Diễn đàn trẻ em năm 2017 với chủ đề “Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo

lực, xâm hại trẻ em”; Kế hoạch phối hợp số 729/KHPH-SLĐTB&XH-TĐTN

ngày 16/5/2019 giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và Tỉnh Đoàn

Quảng Nam về tổ chức Diễn đàn trẻ em năm 2019 với chủ đề “Trẻ em với các

vấn đề về trẻ em”.

+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với các Sở, ngành

ban hành Công văn liên tịch số 1041/CVLT-MTTQVN-LĐLD-LĐTBXH

ngày 03/8/2016 về việc triển khai vận động xây dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em giai

đoạn 2016-2020; Kế hoạch liên ngành số 937/KHLN/LĐTBXH-YT-GTVT-

CA-VHTTDL-GD&ĐT-TTTT- ĐTNCSHCM-HLHPN-HND ngày 14/6/2019

kế hoạch phối hợp liên ngành phòng, chống đuối nước trẻ em đến năm 2020.

+ Sở Giáo dục và Đào tạo ban hành các văn bản, cụ thể:Kế hoạch

số1652/KH-SGDĐT ngày 27/10/2016 về việc triển khai công tác tuyên

truyền, giáo dục đạo đức lối sống, phòng, chống “Bạo lực học đường” năm

học 2016-2017; Kế hoạch số 1655/KH-SGDĐT ngày 28/10/2016 về việc thực

hiện chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy năm 2016; Kế

hoạch số 174/KH-SGDĐT ngày 06/02/2020 về công tác phòng, chống bạo

lực, xâm hại trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông

49

trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; Kế hoạch số 629/KH-SGDĐT ngày

24/3/2020 về phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em

trong các cơ sở giáo dục giai đoạn 2020-2025; Công văn số 2021/SGDĐT-

CTHSSV-PV ngày 15/12/2017 về việc tăng cường phòng, chống tai nạn

thương tích, đuối nước trong học sinh; Công văn số 140/SGDĐT-HSSVPC

ngày 06/9/2019 tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng các

dịch vụ đưa, đón học sinh bằng xe ôtô; Công văn số 1443/SGDĐT-HSSVPC

ngày 12/9/2019 tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trường học và phòng,

chống xâm hại trẻ em; Công văn 1834/SGDĐT-HSSVPC ngày 28/10/2019 về

xây dựng trường học an toàn phòng, chống giảm nhẹ rủi ro thiên tai năm học

2019-2020.

2.2.3. Kết quả triển khai thực hiện chính sách

Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã có nhiều

chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quan trọng:

2.2.2.1. Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội

* Hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Ban

Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Quảng Nam xây dựng

thực hiện trang tin Vì trẻ em, phát sóng chương trình 01 phút Vì trẻ em,

chuyên mục “Kết nối những mảnh đời”; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền

Luật Trẻ em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ

quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em; Kế hoạch số 69-KH/TU ngày

06/02/2013 của Tỉnh ủy Quảng Nam “về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng

đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”;

Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng

cường chỉ đạo phòng chống tai nạn thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ

em; Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng

cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em…; tiếp nhận và cấp

50

hơn 1.000 quyển tài liệu tập huấn công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em; cấp hơn

6.403 tài liệu, tờ rơi về bảo vệ trẻ em, quyền tham gia trẻ em cho các xã,

phường, thị trấn; in và treo 1.050pano, khẩu hiệu, băng rol, phướn tuyền

truyền nhân các ngày chủ điểm: Tết nguyên đán, Tháng hành động Vì trẻ em,

quốc tế thiếu nhi 01-6; theo dõi và tiếp nhận hơn 1.000 tài liệu về các chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp cho các địa phương, đơn vị…; tổ chức

thành công cuộc thi tìm hiểu Luật Trẻ em với tổng số bài dự thi tham gia là

63.528 bài (các Sở, ban ngành, hội đoàn thể 18.135 bài; các huyện, thị xã,

thành phố: 45.393 bài). Thông qua cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ em đã giúp cho

đội ngũ công chức, viên chức, người lao động, học sinh, sinh viên và nhân

dân nắm và hiểu rõ hơn về Luật Trẻ em, nâng cao nhận thức, tinh thần trách

nhiệm của mình trong việc thực hiện Luật Trẻ em. Đồng thời, tổ chức Lễ phát

động Tháng hành động vì trẻ em từ ngày 01/6-30/6; tặng quà cho trẻ em có

hoàn cảnh khó khăn và trao tặng điểm vui chơi cho trẻ em tại các vùng khó

khăn. Từ 2016 đến nay, đã trao tặng 12 điểm vui chơi và 02 bể bơi cho trẻ em

tại các Trường có điều kiện khó khăn trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí trên

892 triệu đồng; trao tặng 9.494 suất quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

nhân dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì trẻ em, Ngày Quốc tế thiếu nhi

(01/6), Tết Trung Thu... với tổng kinh phí trên 4,2 tỷ đồng.

* Sở Giáo dục và Đào tạo đã chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối

sống, kĩ năng sống cho học sinh. Theo đó, Sở đã tổ chức Hội thảo chuyên đề

“Giáo dục đạo đức và pháp luật trong trường phổ thông trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam”; hằng năm tổ chức Hội thi hùng biện “Câu chuyện tình huống

đạo đức và pháp luật” cho học sinh cấp THCS và THPT; Phối hợp với Đài

Phát thanh - Truyền hình tỉnh tổ chức tốt Chương trình “Học trò xứ Quảng”

dành cho học sinh cấp THPT tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến nay (chương

trình phát sóng trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Nam-QRT); Biên

51

soạn và đưa vào giảng dạy 02 bộ tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật dành

cho cấp THCS và THPT; tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật,

tìm hiểu về an toàn giao thông cho học sinh trên địa bàn tỉnh với hàng ngàn

lượt học sinh tham gia. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục còn tổ chức lồng ghép

nội dung truyền thông của Chương trình vào các chương trình bảo vệ, chăm

sóc và giáo dục trẻ em ở các cấp, các ngành; các hoạt động ngoại khóa của

nhà trường; tổ chức các chiến dịch truyền thông vào các ngày Quốc tế thiếu

nhi 01/6, Tháng hành động vì trẻ em, Tết Nguyên đán, Tết Trung thu… nhằm

vận động toàn xã hội ủng hộ việc thực hiện quyền tham gia của trẻ em.

* Tỉnh Đoàn Quảng Nam tổ chức chương trình “Khăn hồng tình

nguyện”, chăm sóc trẻ em gặp khó khăn với kinh phí hơn 100 triệu đồng. Bên

cạnh đó vào các dịp lễ như Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì trẻ em, Tết

Trung thu… đều tổ chức các hoạt động nhằm vận động toàn xã hội ủng hộ

việc thực hiện quyền tham gia của trẻ em; Phối hợp với các Sở: Giáo dục và

Đào tạo, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Hội Văn học - Nghệ thuật tổ chức

Hội thi Mỹ thuật thiếu nhi tỉnh Quảng Nam lần thứ XI năm 2018 với chủ đề

vẽ về những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của quê hương, thu hút trên

110 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố tham gia. Ngoài ra, Hội đồng

Đội các huyện, thị xã, thành phố đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động vui

chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống, sinh hoạt

giao lưu ước tính thu hút trên 50.000 trẻ em tham gia… nhằm góp phần hạn

chế trẻ em sa đà vào các trò chơi mang tính bạo lực, nguy hiểm và các tệ nạn

xã hội tại địa phương; năm 2019 tổ chức 19 buổi gặp mặt, đối thoại giữa lãnh

đạo địa phương với trẻ em thu hút trên 5.400 em thiếu nhi tham gia.

* Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, tổ chức Lễ phát động hưởng ứng chủ đề

năm 2019 “An toàn cho phụ nữ và trẻ em” với gần 300 đại biểu tham dự. Tổ

chức Tọa đàm “Phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em” vào dịp kỷ

52

niệm ngày Gia đình Việt Nam 28/6 với hơn 110 đại biểu đại diện lãnh đạo các

cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, cán bộ thường trực Hội Liên hiệp

phụ nữ cấp tỉnh, huyện, thị xã, thành phố và học sinh trường THCS Nguyễn

Du, thành phố Tam Kỳ đại diện cho học sinh trên địa bàn tỉnh tham dự. Tổ

chức 48 lớp tập huấn lồng ghép tuyên truyền công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

em với hơn 4.650 lượt cán bộ, hội viên, phụ nữ tham dự về nội dung phòng,

chống tai nạn thương tích; kỹ năng phòng, tránh xâm hại tình dục trẻ em; an

toàn giao thông; phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; vận động

hội viên phụ nữ cho con tham gia các lớp học bơi, chấp hành nghiêm các quy

định của pháp luật khi tham gia giao thông, vận động xây dựng “Gia đình 5

không, 3 sạch”; tổ chức các diễn đàn “Trẻ em với các vấn đề phòng, chống tai

nạn, thương tích” (tại huyện Nông Sơn), “Chung tay phòng, chống bạo lực gia

đình”, “phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em” (tại huyện Hiệp Đức và Núi

Thành), “Chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, phòng chống xâm hại tình dục trẻ

em và cách nhận biết sự phát triển tâm sinh lý của tre em ở tuổi dậy thì (tại

huyện Quế Sơn). Vận động và trao tặng hơn 2.115 xuất quà trị giá gần 1,4 tỷ

đồng; tổ chức hoạt động “Tiếp sức cho trẻ em đến trường” đã trao hơn 4.524

suất học bổng khoảng 2,5 tỷ đồng cho trẻ em nghèo vượt khó vươn lên trong

học tập; trao tặng khu vui chơi cho trẻ em tại Trường Phổ thông Dân tộc bán

trú Gari, huyện Tây Giang trị giá 200 triệu đồng… Bên cạnh đó, Hội LHPN

các cấp chủ động phối hợp tham gia thực hiện công tác bảo vệ trẻ em do

ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp triển khai.

* Các huyện, thị xã, thành phố đã đẩy mạnh truyền thông về Luật trẻ

em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều của Luật trẻ em và các chương trình, kế hoạch có liên

quan; tổ chức treo 1.985 băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền; đăng tải trên 1.060

tin, bài viết, chuyên mục trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình huyện, thị

53

xã, thành phố; phát trên 2.800 bản tin trên hệ thống loa phát thanh xã,

phường, thị trấn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú về trẻ em. Đến nay,

18/18 huyện, thị xã, thành phố đã triển khai thực hiện tốt các hoạt động truyền

thông về công tác Bảo vệ trẻ em.

Nhìn chung, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động xã hội về bảo

vệ, chăm sóc trẻ em; phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em, tai nạn thương tích,

quyền tham gia của trẻ em... được quan tâm, chú trọng thực hiện với nhiều

hình thức phong phú, đa dạng và đảm bảo ngày càng phù hợp giữa nội dung

tuyên truyền với nhu cầu của các nhóm đối tượng xã hội, qua đó phát huy

được hiệu quả thiết thực; nhận thức, trách nhiệm của cán bộ làm công tác trẻ

em các cấp, gia đình, cha mẹ, trẻ em và cộng đồng xã hội về công tác bảo vệ

trẻ em; phòng, ngừa, xử lý việc bạo lực, xâm hại trẻ em được cải thiện hơn;

vai trò của các hội đoàn thể trong công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức

cho cộng đồng được thể hiện ngày càng cao; với các hình thức trên đã có

khoảng trên 90% người dân được tiếp cận thông tin về công tác Bảo vệ, chăm

sóc trẻ em.

Xác định công tác hỗ trợ, can thiệp trẻ em khi có nguy cơ bị xâm hại

thuộc chức năng quản lý, thực hiện của cấp cơ sở đặc biệt là cấp xã, phường,

thị trấn. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với tổ chức Tầm nhìn

thế giới tại Việt Nam tổ chức 11 lớp tập huấn đào tạo giảng viên nguồn cho

hơn 450 cán bộ là thành viên Ban bảo vệ trẻ em cấp huyện; chủ trì, hướng dẫn

các địa phương thực hiện quy trình can thiệp, trợ giúp trẻ em bị xâm hại kịp

thời theo đúng quy định của Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016;

Nghị định số 56/2017/NĐ - CP ngày 09/5/2017của Chính phủ quy định chi tiết

một số điều của Luật trẻ em.

Từ năm 2016 – 2019, các địa phương, đơn vị đã hỗ trợ và can thiệp cho

96 trường hợp trẻ em bị xâm hại áp dụng theo Thông tư 23/2010/TT-

54

BLĐTBXH của Bộ Lao động và Xã hội trước đây và Nghị định 56/2017/NĐ-

CP ngày 09/5/2017 hiện nay.

2.2.2.2. Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác

viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Hằng năm, trên cơ sở nhu cầu và năng lực của cán bộ phụ trách trẻ em

các cấp, cộng tác viên làm công tác trẻ em; nhận thức, trách nhiệm của cha

mẹ, người chăm sóc trẻ, cộng đồng và trẻ em về công tác Bảo vệ trẻ em tại

các địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng kế hoạch,

chương trình, nội dung tập huấn phù hợp cho từng nhóm đối tượng.

Từ năm 2016 đến nay, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức

120 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em

các cấp, cha mẹ, người chăm sóc trẻ và trẻ em về kỹ năng phòng chống bạo

lực, xâm hại, phòng ngừa tai nạn thương tích, giảm thiểu lao đông trẻ em,

quyền tham gia của trẻ em; tập huấn kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng

đồng cho trẻ em các Trường Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh; tập huấn Luật

Trẻ em, Nghị định 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều của Luật Trẻ em, các văn bản mới của Trung ương, tỉnh

liên quan đến trẻ em và các chuyên đề về trẻ em với hơn 7.035 người tham

dự; phối hợp với tổ chức Tầm nhìn thế giới tại Việt Nam tổ chức 11 lớp tập

huấn đào tạo giảng viên nguồn cho hơn 450 cán bộ là thành viên Ban Bảo vệ

trẻ em cấp tỉnh, cấp huyện. Ngoài ra tỉnh còn cử cán bộ tham gia các lớp đào

tạo, bồi dưỡng, tập huấn do Trung ương, các chương trình, dự án tổ chức hằng

năm.

Các huyện, thị xã, thành phố hằng năm đã tổ chức tập huấn nâng cao

năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em cấp xã, cộng tác viên, cha mẹ, người

chăm sóc trẻ và trẻ em với các nội dung về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Nhìn chung, nguồn nhân lực để thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

55

em từ tỉnh đến cơ sở luôn được quan tâm, kiện toàn, củng cố và bổ sung; hình

thành mạng lưới hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng; đội ngũ làm công tác

trẻ em các cấp được tập huấn, bồi dưỡng, trang bị và cập nhật kịp thời các quy

định của pháp luật, kiến thức, kỹ năng phù hợp để thực hiện tốt và đáp ứng

nhu cầu, nhiệm vụ bảo vệ trẻ em tại cơ sở. Tuy nhiên, nhân lực làm công tác

bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp huyện, xã hầu hết là kiêm nhiệm chưa có cán bộ

hoạt động chuyên trách, thường xuyên thay đổi nên đã ảnh hưởng không nhỏ

đến công tác tham mưu thực hiện công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa

phương. Bên cạnh đó chế độ, chính sách của người làm công tác trẻ em cấp

xã còn thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ đang đảm nhận nên chưa tạo

động lực cho người làm công tác trẻ em cấp xã tận tâm, nhiệt huyết với công

việc.

2.2.2.3. Tổ chức cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em

Trung tâm Công tác xã hội Quảng Nam là đơn vị có nhiệm vụ tiếp

nhận, hỗ trợ, can thiệp khi trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, xâm hại hoặc bị bạo

lực, xâm hại thông qua Tổng đài đường dây nóng 18001581 và Tổng đài điện

thoại Quốc gia bảo vệ trẻ em - 111 để tiếp nhận thông tin, thông báo các vấn

đề liên quan đến trẻ em, đặc biệt là thông tin, thông báo, tố giác các vụ việc

trẻ em bị xâm hại, bạo lực; thực hiện quy trình kết nối với trẻ em hoặc gia

đình và các cơ quan tại địa phương, hướng dẫn, theo dõi việc lập kế hoạch hỗ

trợ, can thiệp theo quy định của Luật Trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP

của Chính phủ để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kịp thời, phù hợp; tổ chức tham

vấn, trị liệu rối nhiễu tâm trí, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể chất cho trẻ

em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực tiếp cận với

các dịch vụ giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội khác. Tư vấn và trợ giúp đối tượng

thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức

phù hợp khác để bảo vệ, trợ giúp đối tượng; tìm kiếm, sắp xếp các hình thức

56

chăm sóc phù hợp bảo đảm cho trẻ em sớm phục hồi và ổn định cuộc sống.

Mạng lưới các loại hình dịch vụ bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm xây

dựng và hoạt động ngày càng hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ

em theo 3 cấp độ từ phòng ngừa trẻ em bị xâm hại, trẻ em rơi vào hoàn cảnh

đặc biệt nhằm phát hiện và giảm thiểu các nguy cơ dẫn đến trẻ em bị xâm hại,

trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; can thiệp, trợ giúp trẻ em và gia đình trẻ

em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi,

hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đến nay trên địa bàn

tỉnh có 06 Văn phòng tư vấn trẻ em cấp huyện, thành phố (Tam Kỳ, Hội An,

Núi Thành, Tiên Phước, Đông Giang, Quế Sơn) và Trung tâm Công tác xã hội

thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; 20 điểm tư vấn cộng đồng và 12

điểm tư vấn trường học để tổ chức các hoạt động tham vấn, tư vấn nhằm trợ

giúp cho trẻ em và gia đình các em có điều kiện tiếp cận các dịch vụ phúc lợi

xã hội liên quan. Trong thời gian qua, các điểm tư vấn đã tư vấn, tham vấn, trị

liệu phục hồi tâm lý, thể chất cho 1.548 em; trợ giúp cho 9.858 trẻ em có hoàn

cảnh đặc biệt tiếp cận với các dịch vụ; trợ giúp nâng cao năng lực cho 6.570

lượt cha mẹ; trợ giúp nâng cao kỹ năng tự bảo vệ cho 22.720 trẻ em; 518 trẻ

em được quản lý và can thiệp theo quy trình quản lý ca.

Duy trì 19 mô hình trợ giúp trẻ em tại 19 xã, phường, thị trấn của 16

huyện, thị xã, thành phố như: Mô hình phòng ngừa và trợ giúp trẻ em lang

thang, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại

các huyện Đại Lộc, Quế Sơn và Phú Ninh; Mô hình phòng ngừa, trợ giúp trẻ

em bị xâm hại, bị bạo lực, trẻ em làm trái pháp luật tại các huyện, thành phố:

Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn, Núi Thành, Thăng Bình, Đông Giang, Phú Ninh,

Tiên Phước, Nam Giang, Bắc Trà My, Hiệp Đức, Duy Xuyên; mô hình trợ

giúp trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và mắc bệnh hiểm nghèo

tại 02 huyện Nông Sơn, Phước Sơn; mô hình kết nối dịch vụ chăm sóc trẻ em

57

bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và trẻ em khuyết tật tại huyện Tiên Phước, Phú

Ninh. Ngoài ra, các huyện, thị xã, thành phố đã thành lập các mô hình nhận

đỡ đầu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm giúp các em vượt qua khó khăn

vươn lên trong cuộc sống như Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp nhận đỡ đầu

thường xuyên cho 312 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không nơi

nương tựa với số tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng/tháng; tại huyện Tiên

Phước hằng năm có 170-175 trẻ em được nhận đỡ đầu, hỗ trợ kinh phí học

tập, bút, sách, vỡ, sữa…

2.2.2.4. Công tác Bảo vệ trẻ em

Công tác Bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm thực hiện ở cả 3 cấp

độ. Thứ nhất, bảo vệ trẻ em ở cấp độ phòng ngừa được quan tâm thực hiện

thông qua các hoạt động xây dựng môi trường sống an toàn, phù hợp đối với

mọi trẻ em, truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nâng cao nhận thức, thay

đổi hành vi về bảo vệ, chăm sóc trẻ em thông qua nhiều hình thức, phù hợp

với từng nhóm đối tượng.

Tháng hành động vì trẻ em được tổ chức hằng năm với mục đích tăng

cường truyền thông, vận động xã hội, thúc đẩy phong trào "Toàn dân chăm

sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em", đã tập trung cho các chủ đề BVTE. Năm 2016,

với chủ đề “Vì một cuộc sống an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích cho

trẻ em”.Năm 2017, với chủ đề "Triển khai Luật Trẻ em và phòng, chống bạo

lực, xâm hại trẻ em". Năm 2018, với chủ đề "Vì cuộc sống an toàn, lành mạnh

cho trẻ em trong thế giới công nghệ số". Năm 2019 với chủ đề “Chung tay vì

trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số”. Năm 2020 với chủ đề “Chung tay bảo

vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em”.

Công tác truyền thông đã làm thay đổi nhận thức của cán bộ làm công tác

BVTE các cấp, cha, mẹ, trẻ em nói riêng và các nhóm xã hội nói chung về

phòng ngừa, xử trí việc bạo lực, xâm hại trẻ em có sự cải thiện. Hệ thống

58

BVTE cũng đã có thể nắm bắt kịp thời các yếu tố có nguy cơ gây tổn hại cho

trẻ em hoặc trẻ em rơi vào HCĐB trên cơ sở hoạt động của mạng lưới cộng

tác viên thôn bản cũng như tiêu chí nhận dạng các nhóm đối tượng, vấn đề

gây tổn hại cho trẻ em. Bằng nguồn lực địa phương, những trẻ em có nguy cơ

và các yếu tố nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em cũng đã được cung cấp các dịch

vụ trợ giúp phù hợp như tư vấn, tham vấn, trị liệu tâm lý; trợ giúp dịch vụ y

tế, giáo dục, phúc lợi xã hội cho các đối tượng trẻ em có HCĐB. Tính đến

tháng 3/2020, kinh phí huy động cho thực hiện chương trình BVTE trên 39 tỷ

đồng, trong đó ngân sách trung ương trên 2 tỷ, ngân sách địa phương trên 6

tỷ, huy động Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh trong giai đoạn từ 2016-2019 được trên

31 tỷ đồng. Với nguồn kinh phí trên và với sự cố gắng của các địa phương và

đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em chương trình đã triển

khai được nhiều hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em.

Thứ hai, bảo vệ trẻ em ở cấp độ hỗ trợ nhằm phát hiện, giảm thiểu các

nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em và nguy cơ dẫn đến trẻ em rơi vào HCĐB

được quan tâm trước những tác động tiêu cực đến trẻ em trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh thực hiện quy trình kết

nối với trẻ em hoặc gia đình nạn nhân và các cơ quan, dịch vụ có liên quan tại

địa phương hướng dẫn, theo dõi việc lập kế hoạch hỗ trợ, can thiệp theo quy

định của Luật trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP để cung cấp các dịch

vụ hỗ trợ kịp thời, phù hợp, bảo đảm cho trẻ em sớm phục hồi và ổn định

cuộc sống. Từ năm 2016 đến nay, Trung tâm Công tác xã hội tỉnh đã kịp thời tư

vấn, tham vấn, trị liệu phục hồi tâm lý, thể chất cho 438 trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực; Trợ giúp cho 37 trẻ em có hoàn cảnh

đặc biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y

tế, phúc lợi xã hội khác; Trợ giúp nâng cao năng lực cho trên 4.000 lượt cha

59

mẹ/người chăm sóc trẻ về bảo vệ trẻ em/kỹ năng làm cha mẹ.

Mô hình Trung tâm công tác xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ

bảo vệ trẻ em, đảm bảo các yếu tố về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã

góp phần rất lớn trong việc trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ

em em bị xâm hại nói riêng. Công tác tiếp nhận thông tin, theo dõi, xử lý các

vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em tại nhiều địa phương được thực hiện nghiêm

túc. Các trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại phần lớn đều được các địa

phương lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thực hiện hỗ trợ, can thiệp theo quy

định của Nghị định số 56/2017/NĐ-CP. Tại nhiều địa phương, 100% trẻ em bị

bạo lực, xâm hại được hỗ trợ, can thiệp, được cung cấp các dịch vụ chăm sóc

sức khỏe, trợ giúp xã hội, hỗ trợ giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp,

hỗ trợ sử dụng các dịch vụ trợ giúp pháp lý, tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch

vụ BVTE khác.

Thứ ba, bảo vệ trẻ em ở cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ

được áp dụng đối với trẻ em và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn

hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em

có hoàn cảnh đặc biệt. Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giảm 0,6% (từ

5,88% năm 2015 xuống còn 5,28% năm 2019); tăng 7,7 % tỷ lệ trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc (từ 80% năm 2015 tăng lên 87,7% năm

2019). Các hình thức chăm sóc trẻ em có HCĐB đa dạng và phù hợp hơn với

nhu cầu của từng nhóm đối tượng, hầu hết trẻ em có HCĐB, nhất là nhóm trẻ

em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS,

trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em nghiện ma túy đã nhận được sự quan tâm

chăm sóc của Nhà nước và xã hội thông qua các chính sách trợ cấp xã hội, trợ

giúp tiếp cận y tế, giáo dục, học nghề, phẫu thuật chỉnh hình phục hồi chức

năng, trợ giúp cai nghiện ma túy tại cộng đồng, chăm sóc thay thế bởi các gia

đình hoặc nuôi dưỡng ở các cơ sở bảo trợ xã hội công lập, ngoài công lập.

60

Toàn tỉnh duy trì 19 mô hình trợ giúp trẻ em tại 16 xã, phường, thị trấn của 16

huyện, thành phố; các hoạt động xây dựng mô hình đã được triển khai hiệu

quả với nhiều hình thức như hướng dẫn kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ mình

cho trẻ em, sinh hoạt nhóm trẻ em (các xã thực hiện Mô hình đã tổ

chức 80 buổi sinh hoạt nhóm cho 2.620 em); hỗ trợ cho trẻ em trong trường

hợp khẩn cấp; tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng;

tổ chức các buổi truyền thông tư vấn, tham vấn cho các đối tượng cán bộ

thôn, xã, cha mẹ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt... đã góp phần can thiệp và

quản lý trường hợp đối với trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị xâm hại tình dục; kết

nối dịch vụ hỗ trợ về y tế, giáo dục trong việc hỗ trợ cho trẻ bị bạo lực, bị xâm

hại khi trở lại trường học; hỗ trợ trẻ em vi phạm pháp luật được học nghề.

Bên cạnh đó, Công an tỉnh triển khai thực hiện 05 mô hình điểm: “Câu

lạc bộ phòng chống tội phạm, trường học không có tội phạm, tệ nạn xã hội và

chấp hành nghiêm chỉnh Luật giao thông”, “thực hiện 04 quản đối với từng

em, đó là quản lý về thời gian - quản lý về tiền bạc - quản lý về hành vi - quản

lý về mối quan hệ bạn bè của các em”, “quản lý giáo dục trẻ em làm trái pháp

luật”, “không có chồng con vi phạm pháp luật”, “chung một ước mơ”. Xây

dựng mới 01 mô hình “Phòng ngừa, trợ giúp người chưa thành niên vi phạm

pháp luật tại cộng đồng”; tiếp tục nghiên cứu xây dựng một mô hình mới tại

huyện Nam Trà My.

2.2.2.5. Công tác Chăm sóc trẻ em

Triển khai thực hiện tốt chương trình khám sàng lọc sơ sinh nhằm phát

hiện sớm và điều trị các bệnh suy giáp bẩm sinh và thiếu men G6PD; tỷ lệ trẻ

em được tiêm chủng tạo miễn dịch cơ bản đạt 100%; trẻ em làm giấy khai

sinh đúng hạn đạt trên 95%; trẻ em dưới 06 tuổiđược cấp thẻ Bảo hiểm y tế

miễn phíđạt 97%; Triển khai tiêm chủng an toàn và đủ 10 loại vaccin để tạo

miễn dịch cơ bản cho trẻ dưới 12 tháng tuổi đạt trên 95%; toàn tỉnh duy trì

61

bền vững thành quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván trẻ sơ sinh. Tỷ lệ

trẻ em suy dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể nhẹ cân giảm từ 13,61% năm 2016

xuống còn 10,80% cuối năm 2019 (giảm 2,81% so với đầu kỳ); tỷ lệ trẻ suy

dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể thấp còi giảm từ 27,04% năm 2016 xuống còn

23,50% cuối năm 2019 (giảm 3,54% so với đầu kỳ); 100% trẻ em là học sinh

cấp I được cung cấp đủ liều thuốc tẩy giun theo quy định.

Phối hợp với bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng, Bệnh tim Hà Nội, Bệnh

viện Mắt Đà Nẵng tổ chức khám sàng lọc tim bẩm sinh, các bệnh về mắt cho

tất cả các đối tượng trẻ em tại các huyện, thị xã, thành phố và vận động các tổ

chức hỗ trợ phẫu thuật cho các trẻ bị bệnh tim khi có chỉ định phẫu thuật của

bệnh viện. Toàn tỉnh, 18/18 huyện, thị xã, thành phố tổ chức khám bệnh sàng

lọc miễn phí, lập hồ sơ trẻ bị bệnh tim bẩm sinh thuộc đối tượng quy định tại

Quyết định 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng và Quyết định

số 2051/QĐ-UBND ngày 2/7/2014 của UBND tỉnh quy định chính sách hỗ

trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh trên địa bàn tỉnh, đã hỗ trợ

phẫu thuật được 24 trường hợp. Ngoài ra, vận động hỗ trợ kinh phí phẫu thuật

cho hơn 121 em mắc bệnh tim bẩm sinh; phẫu thuật chỉnh hình tật sứt môi, hở

hàm ếch, bệnh lý vùng hàm mặt cho 81 trẻ, chỉnh hình dị tật tay cán vá, chân

vòng kiền, xơ hóa cơ delta cho 29 trẻ.

2.2.2.6. Các hoạt động vui chơi giải trí và thực hiện quyền tham gia trẻ

em

Quyền tham gia của trẻ em ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh, trẻ

em ngày càng có điều kiện bày tỏ và phát huy ý kiến, nguyện vọng và tham

gia vào các hoạt động như diễn đàn trẻ em, tọa đàm lấy ý kiến, tham gia các

hoạt động vui chơi, giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao...; Định kỳ 02

năm/lần, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh Đoàn Quảng

Nam và các ngành liên quan tổ chức Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh. Thông qua

62

diễn đàn, các em nêu lên những quan điểm, ý kiến, nguyện vọng và gửi đến

lãnh đạo tỉnh những thông điệp ý nghĩa, thiết thực của trẻ em, trên cơ sở đó

lãnh đạo tỉnh và các Sở, ban, ngành, hội, đoàn thể của tỉnh đã tiếp nhận thông

điệp của trẻ em, lắng nghe và trả lời thấu đáo các câu hỏi của trẻ em. Đối với

những vấn đề cần thời gian và nguồn lực để giải quyết, các đồng chí lãnh đạo

tỉnh cam kết sẽ tiếp tục xem xét, giải quyết sau khi Diễn đàn kết thúc.

Năm 2016, 01 đại diện trẻ em huyện Nông Sơn được cử tham dự Diễn

đàn trẻ em ASEAN lần thứ IV với chủ đề "Một ASEAN, một tầm nhìn vì trẻ

em" từ ngày 19-24/6/2016 tại Hà Nội.

Năm 2017, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh

Đoàn tổ chức Tháng hành động Vì trẻ em và Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh với chủ

đề: “Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em”, với sự tham

gia của 114 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố và các trung tâm nuôi

dưỡng trẻ em trên địa bàn tỉnh; qua Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh chọn 04 em tiêu

biểu tham dự Diễn đàn trẻ em cấp quốc gia tại Hà Nội; tổ chức nói chuyện

chuyên đề về vấn đề phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em và Luật trẻ em,

vấn đề tảo hôn; tổ chức cuộc thi vẽ tranh với chủ đề: “Hãy lên tiếng để bảo vệ

trẻ em khỏi xâm hại, bạo lực” cho trẻ em tại huyện Thăng Bình và Đông

Giang.

Năm 2019, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh

đoàn Quảng Nam và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới tổ chức thành công Diễn đàn

trẻ em năm 2019 với chủ đề “Trẻ em với các vấn đề về trẻ em” với sự tham

gia của 114 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố và các trung tâm nuôi

dưỡng trẻ em trên địa bàn tỉnh và lựa chon 04 em tiêu biểu tham dự Diễn đàn

trẻ em quốc gia lần thức VI năm 2019 tại Hà Nội.

Toàn tỉnh hiện có 103 khu văn hóa, vui chơi cho trẻ em (kể cả tư

nhân); 18 huyện, thị xã, thành phố; 244 xã, phường, thị trấn; 13 thôn, khối

63

phố có điểm vui chơi cho trẻ em. Xây dựng 03 mô hình Hội đồng trẻ em gồm:

Điện Bàn, Nông Sơn và Tam Kỳ, thành lập và duy trì sinh hoạt 913 Câu lạc

bộ quyền tham gia của trẻ em thu hút hơn 9.430 trẻ em tham gia như: Câu lạc

bộ Tiếng Anh, Câu lạc bộ tin học, Câu lạc bộ TDTT, Câu lạc bộ âm nhạc,

Câu lạc bộ Kỹ năng sống, Câu lạc bộ Kỹ năng mềm cho học sinh bao gồm: Vệ

sinh dinh dưỡng của người Việt, cách sống đẹp, tự tin trước đám đông, kỹ

năng thuyết trình, phòng tránh bạo lực học đường......., các nội dung sinh hoạt

về các chủ đề như Quyền trẻ em, Luật trẻ em, bảo vệ môi trường, kỹ năng

sống, kỹ năng phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em...Thông qua hoạt động

của các câu lạc bộ này đã lồng ghép vào các buổi sinh hoạt tuyên truyền về

quyền trẻ em, tham gia công tác xã hội, đặc biệt là thu thập thông tin về trẻ

trên địa bàn tỉnh nhằm phát hiện những điều bất thường để có biện pháp can

thiệp, ngăn chặn kịp thời. Khi sinh hoạt tại câu lạc bộ các em được học tập,

vui chơi, ca hát, phát biểu ý kiến, thảo luận, diễn kịch, vẽ tranh, được rèn

luyện các kỹ năng sống, phát triển trí tuệ và đặc biệt là được sinh hoạt trong

một sân chơi lành mạnh để thể hiện những khả năng của mình.

100% Ban Chỉ đạo hoạt động hè các cấp trên địa bàn tỉnh có kế hoạch tổ

chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hội thi, cuộc thi vẽ tranh theo chủ

đề, tham quan, dã ngoại, cắm trại... tạo ra những sân chơi bổ ích, thiết thực

thu hút đông đảo các em thiếu nhi và học sinh tham gia, giúp các em rèn

luyện kỹ năng, phát triển tư duy, tránh xa các tệ nạn xã hội, giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc.

2.3.3. Hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em Quảng

Nam

2.3.3.1. Những thành tựu đã đạt được và nguyên nhân

Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã đạt được các kết quả đáng khích

như tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc tăng, tỷ lệ trẻ em có

64

nguy cơ lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em lao động trong điều kiện

nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm giảm, 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

thuộc đối tượng trợ giúp xã hội của Nhà nước được hưởng các chế độ theo

quy định, các vụ việc vi phạm quyền trẻ em được giải quyết kịp thời, nhiều

giải pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh được triển khai

thực hiện tốt, trẻ em ngày càng được sống trong môi trường an toàn, lành

mạnh và phát triển toàn diện hơn; đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nâng cao

năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em từ huyện, thị, thành phố đến xã,

phường, thị trấn và cộng tác viên thôn, bản, tổ chức nhiều đợt tuyên truyền

nhằm nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành cũng như người dân, cha mẹ

và trẻ em về chính sách pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

em, qua đó có khoảng trên 90% người dân được tiếp cận thông tin về công tác

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Ban Bảo vệ trẻ em từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn,

củng cố và triển khai hoạt động luôn đạt hiệu quả; công tác thực hiện quyền

tham gia của trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, đuối nước và phòng

ngừa giảm thiểu lao động trẻ em đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; trẻ

em được tham gia nhiều hơn trong các hoạt động, sự kiện; các hoạt động Vì

trẻ em nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/6, Tết Trung thu, Tháng hành động vì

trẻ em luôn được quan tâm; các hoạt động vui chơi, giải trí cho trẻ em luôn

được đầu tư xây dựng và hoạt động hiệu quả; hoạt động truyền thông, tư vấn

hỗ trợ cho trẻ em được đẩy mạnh.

Các mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em, phòng chống tai nạn

thương tích và phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em luôn được xây dựng,

duy trì và hoạt động hiệu quả; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ngày càng được

quan tâm, bảo vệ hơn. Việc huy động các nguồn lực xã hội, các tổ chức, cá

nhân… dành cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và thực hiện các mục tiêu

65

vì trẻ em được chú trọng. Việc xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ

em được triển khai thực hiện hiệu quả, đến cuối năm 2018 có 223/244 xã,

phường, thị trấn được công nhận xã, phường phù hợp với trẻ em (đạt tỷ lệ

91%; tăng 10,3% so với năm 2016) theo Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg

ngày 30/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ; Năm 2019, thực hiện theo Quyết

định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ, có 187/244

xã, phường, thị trấn được công nhận xã, phường phù hợp với trẻ em đạt tỷ lệ

76,64%.

Triển khai thực hiện tốt chương trình khám sàng lọc sơ sinh nhằm phát

hiện sớm và điều trị các bệnh suy giáp bẩm sinh và thiếu men G6PD; tỷ lệ trẻ

em được tiêm chủng tạo miễn dịch cơ bản đạt 100%; trẻ em làm giấy khai

sinh đúng hạn đạt trên 95%; trẻ em dưới 06 tuổiđược cấp thẻ Bảo hiểm y tế

miễn phíđạt trên 97%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể nhẹ cân và

thấp còi, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 01 tuổi giảm hàng năm.

2.3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quyết liệt trong lãnh đạo,

chỉ đạo, thiếu chủ động, sâu sát, kiểm tra, giám sát, đặc biệt là ở cấp xã,

phường. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ, chăm

sóc trẻ em chưa thường xuyên và rộng khắp, thiếu chiều sâu, chủ yếu tập

trung vào những dịp cao điểm; chưa có tài liệu tuyên truyền về chính sách,

pháp luật, kiến thức về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phù hợp cho các

đối tượng khác nhau, đặc biệt là đối với gia đình và cộng đồng dân cư. Một số

quy định của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có tính

khả thi cao, chưa cụ thể và còn bất cập. Việc ban hành văn bản hướng

dẫn dưới luật cụ thể về một số nhóm trẻ em còn chậm. Việc triển khai thực

hiện các chương trình, đề án về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em còn

nhiều khó khăn và hạn chế.

66

Chăm sóc sức khỏe trẻ em: gánh nặng bệnh tật và tử vong trẻ sơ sinh

còn cao; tính bền vững của chương trình tiêm chủng cho trẻ em chưa được

đảm bảo; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn cao;

tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì đang tăng nhanh ở các thành phố lớn; cán bộ y

tế chuyên ngành nhi khoa còn thiếu và yếu; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế

còn thiếu thốn nhất là tuyến cơ sở.

Về giáo dục trẻ em: chương trình học của học sinh còn nặng dạy về

kiến thức mà thiếu dạy kỹ năng sống; cơ sở vật chất trường lớp, dụng cụ học

tập, sân chơi cho học sinh còn thiếu, sự phân bổ giáo viên không đồng đều

giữa các cấp học cũng như giữa các vùng, miền; chất lượng giáo dục mầm

non vẫn còn khoảng cách khá xa giữa thành thị và nông thôn, miền núi; thiếu

sự quan tâm, chăm sóc, tư vấn về sức khỏe tinh thần cho học sinh, đặc biệt là

ở cấp THCS và THPT.

Về bảo vệ trẻ em: Hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em còn chậm

củng cố; đặc biệt ở cấp huyện, xã nên tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục,

bạo lực, tai nạn thương tích, bị lạm dụng sức lao động có xu hướng tăng thời

gian gần đây; cấu trúc hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em thiếu tính đồng bộ,

thống nhất, chưa có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và còn khác biệt giữa các

vùng, miền.

Về bảo đảm vui chơi, giải trí và thực hiện quyền tham gia của trẻ em: Điều

kiện vật chất như sân chơi, bãi tập, khu vui chơi giải trí, mạng lưới thư viện,

các thiết chế văn hóa, thể thao hầu như còn thiếu, nhất là ở cấp xã, phường,

thị trấn; việc thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em gặp nhiều khó khăn;

công tác quản lý thông tin trên mạng chưa hiệu quả; sự tham gia của trẻ em

vào các hoạt động xã hội còn hạn chế, quyền tham gia của trẻ em còn mang

tính hình thức.

Cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em cấp huyện, xã còn kiêm nhiệm,

67

không ổn định; đội ngũ cộng tác viên thôn, bản chưa được quan tâm bố trí, hỗ

trợ kinh phí, chưa được đào tạo, tập huấn thường xuyên để trang bị, bổ sung

kiến thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại cơ sở.

Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong tổ chức triển khai thực

hiện các nội dung về trẻ em ở nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức và

thiếu thường xuyên. Việc lồng ghép các chương trình, đề án về chăm sóc,

giáo dục và bảo vệ trẻ em hiệu quả chưa cao. Công tác thu thập thông tin số

liệu còn nhiều bất cập, còn thiếu sự tin cậy và tính đồng bộ giữa các bộ,

ngành.

Tiểu kết Chương 2

Chương 2 đã cung cấp những thông tin cơ bản nhất về tình hình trẻ em,

nhu cầu của trẻ em, nêu được thực trạng, hiệu quả của quá trình xây dựng và

thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam. Qua phân tích

thực trạng thực hiện chính sách trên, ta thấy việc thực thi chính sách bảo vệ,

chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả tích

cực như cho công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm

công tác trẻ em các cấp được quan tâm thực hiện tốt; các hoạt động truyền

thông, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành cũng như người dân, cha

mẹ và trẻ em về chính sách pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc

trẻ em được đẩy mạnh; ban Ban Bảo vệ trẻ em các cấp được kiện toàn và duy

trì hiệu quả hoạt động của các Mô hình Bảo vệ trẻ em...

Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện chính sách vẫn còn nhiều hạn

chế, bất cập; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh

đặc biệt còn ở mức cao; việc bảo vệ trẻ em theo 3 cấp độ thực hiện chưa đồng

bộ, hiệu quả. Do đó, những kết quả,thực trạng của chương 2 là cơ sở để tác

giả đưa ra những mục tiêu, giải pháp để triển khai thực hiện tốt chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

68

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM

TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Quan điểm, định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

3.1.1. Về quan điểm thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở

Quảng Nam

Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi đặc biệt, là chủ nhân tương lai của

nước nhà, vì vậy, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tạo điều kiện thuận lợi

cho sự phát triển toàn diện của trẻ không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của gia

đình, của Nhà nước mà còn của toàn xã hội.

Đối với tỉnh Quảng Nam, quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu

trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay; trẻ em được đặt vào

vị trí Trung tâm trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh. Hội nghị Tỉnh ủy

Quảng Nam, lần thứ 7, khóa XXI đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày

25/4/2017 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Nam

đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 đã nêu “Phát triển giáo dục là nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đầu tư cho giáo dục là đầu tư

cho phát triển bền vững và được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hộicủa tỉnh, là trách nhiệm của cả hệ thống chính

trị và của toàn xã hội”.

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và

bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị

69

cán bộ chủ chốt của tỉnh để quán triệt Chỉ thị 20-CT/TW và ban hành Kế

hoạch số 69-KH/TU ngày 06/02/2013 để triển khai thực hiện Chỉ thị; đồng

thời chỉ đạo các huyện, thị, thành ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện

Chỉ thị đến các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị.

Với những quan điểm nêu trên, thì định hướng quan điểm trọng tâm để

thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đến năm 2030 là:

Đặt mục tiêu phát triển trẻ em vào trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh

tế-xã hội của địa phương; ưu tiên nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu

về trẻ em. Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được thực hiện trên cơ

sở quyền và bổn phận của trẻ em gắn với trách nhiệm thực hiện và phối hợp

thực hiện các quyền trẻ em của các chủ thể nhà nước, gia đình, nhà trường và

xã hội một cách cụ thể.

Bảo đảm trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần,

đạo đức và các mối quan hệ xã hội ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc đời;

được tham gia vào các hoạt động đời sống xã hội phù hợp với độ tuổi và sự

trưởng thành. Công tác trẻ em cần được thay đổi từ phương pháp tiếp cận theo

đối tượng sang tiếp cận hệ thống đồng bộ và toàn diện, từ tiếp cận theo nhu

cầu sang tiếp cận dựa trên quyền được bảo đảm an sinh xã hội. Bảo đảm trẻ

em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, giảm thiểu các nguy cơ

bị tổn hại; phòng ngừa, phát hiện sớm và hỗ trợ, can thiệp kịp thời khi có

nguy cơ hoặc bị xâm hại.

Việc bảo vệ chăm sóc trẻ em giai đoạn 2021-2030 tập trung vào những

vấn đề quan trọng và được xác định trong kế hoạch thực hiện chương trình

nghị sự phát triển bền vững đến 2030 (SDGs) của Thủ Tướng Chính phủ,

trong bộ chỉ số xếp hạng quyền trẻ em và có tác động mạnh đến sự phát triển

toàn diện của trẻ em, không tản mạn dàn trải để tập trung nguồn lực thực hiện

có hiệu quả các mục tiêu đặt ra.

70

3.1.2. Về định hướng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở

Quảng Nam

- Mục tiêu tổng quát:

Đẩy mạnh việc phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ trẻ em

3 cấp độ, đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em cấp độ 2 và cấp độ 3; Tăng cường

khả năng tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em của trẻ em tại gia đình, cộng đồng,

trường học, cơ sở y tế, cơ sở cung cấp dịch vụ và quá trình tố tụng hình sự.

Giảm dần trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị bạo lực, xâm hại và có nguy

cơ bị bạo lực, xâm hại; Thúc đẩy việc thực hiện các quyền của trẻ em theo

quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

- Mục tiêu cụ thể: [27]

+ Giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xuống dưới 5% so với tổng

số trẻ em; trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được quản lý và có

các biện pháp can thiệp, trợ giúp kịp thời.

+Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục

hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển lên 90% vào năm 2025.

+ 100% gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và trẻ em được nâng

cao nhận thức, thay đổi hành vi và trang bị kỹ năng về bảo vệ trẻ em.

+ 100% cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp, cán bộ

làm việc tại các trung tâm, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và công tác

viên thôn, bản, khối phố được tập huấn các văn bản mới của Trung ương về

công tác trẻ em.

+ Tỷ lệ xã, phường có điểm vui chơi dành cho trẻ em đạt 100% vào

năm 2025.

+ Tỷ lệ xã, phường đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em lên

80% vào năm 2025 theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ

tướng Chính phủ.

71

+ 100% trẻ em bị bạo lực, xâm hại được tư vấn pháp luật, tham gia tố

tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng các

cấp.

+ 100% xã, phường, thị trấn hình thành nhóm thường trực bảo vệ trẻ

em, bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em.

+ 100% huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện có hiệu quả các

mô hình thúc đẩy quyền tham gia trẻ em, trong đó có 50% địa phương thực

hiện ít nhất 02 mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về

trẻ em (01 mô hình Diễn đàn trẻ em và 01 mô hình khác).

3.2. Giải pháp thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở

Quảng Nam

3.2.1. Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông nhằm thay đổi nhận

thức, hành vi về bảo vệ trẻ em

Đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về

BVCSTE với mục đích nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy Đảng,

chính quyền các cấp trong xây dựng và thực hiện chương trình BVTE ở địa

phương; nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác trẻ em, gia đình, cộng

đồng và bản thân trẻ em trong việc BVCSTE, thực hiện quyền trẻ em, góp phần

thực hiện có hiệu quả các mục tiêu Vì trẻ em của tỉnh Quảng Nam.Để đạt được

mục đích truyền thông trên, cần tập trung thực hiện các hình thức sau:

Một là, đa dạng hóa nội dung và mở rộng các hình thức tuyên truyền

thông qua các đợt cao điểm“Tháng hành động vì trẻ em”, “Ngày toàn dân đưa

trẻ đến trường”, “Ngày vi chất dinh dưỡng trẻ em”, “Diễn đàn quyền trẻ em”;

tổ chức các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu, cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ

em…nhằm đưa ra các giải pháp thực hiện hiệu quả các chính sách về bảo vệ,

chăm sóc trẻ em.

Hai là, phối hợp với các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền,

72

phổ biến chính sách pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; biên tập và in ấn các

tài liệu, tờ rơi truyền thông về BVCSTE như: phòng chống tai nạn thương tích,

bạo lực, xâm hại trẻ em, các quy định của pháp luật về xử lý các hành vi vi

phạm trẻ em…; xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, chương

trình 01 phút vì trẻ em trên các phương tiện truyền thông tại địa phương.

Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật trẻ em; Nghị

định 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều của Luật trẻ em; Chỉ thị 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo

vệ trẻ em trong tình hình mới; Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020 của Thủ

tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền

trẻ em và bảo vệ trẻ em… nhằm nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của

các cấp, các ngành, gia đình, nhà trường, cộng đồng và toàn xã hội về công

tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Bốn là, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em các cấp, cho

các thành viên gia đình, cộng đồng, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người

trực tiếp làm việc với trẻ em và trẻ em về các kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ

em, đặc biệt về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Giáo dục kỹ năng kỹ

năng sống cho trẻ em nhằm giúp các em ý thức được trách nhiệm của mình

đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và có kỹ năng bảo vệ mình trước các

nguy cơ bị bạo lực, xâm hại.

Năm là, tăng cường công tác truyền thông, quảng bá, phối hợp, kết nối

với Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111), Tổng đài Trung tâm

Công tâm Công tác xã hội Quảng Nam (số 18001581) để mọi người dân và

trẻ em liên hệ miễn phí khi có nhu cầu; tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ

em bị bạo lực, xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

73

3.2.2. Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm

công tác bảo vệ trẻ em các cấp.

Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác

bảo vệ trẻ em các cấp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để triển khi thực

hiện hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Để hoàn thiện được giải

pháp này, cần tập trung vào các nội dung sau:

Một là, tiếp tục kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Bảo

vệ trẻ em các cấp, trong đó ưu tiên kiện toàn, củng cố tổ chức phối hợp liên

ngành về trẻ em các cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 94 của Luật trẻ em.

Bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã trong số các công chức cấp xã

hoặc người hoạt động không chuyên trách thuộc quyền quản lý của UBND

cấp xã.

Hai là, Củng cố, kiện toàn Ban bảo vệ trẻ em các c ấp. Riêng đối với

cấp xã, phường, thị trấn trong Ban bảo vệ trẻ em thành lập nhóm thường trực

Bảo vệ, trẻ em và ban hành quy chế hoạt động để giúp UBND, chủ tịch

UBND cấp xã chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc việc giải quyết các vấn đề về trẻ

em, đặc biệt là công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em tại cơ sở. Kiện

toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ phụ trách công tác trẻ em các xã,

phường, thị trấn; xây dựng đội ngũ cộng tác viên thôn, bản, khối phố tham gia

làm tốt công tác bảo vệ trẻ em tại cộng đồng dân cư.

Ba là, Trung tâm Công tác xã hội Quảng Nam tiếp tục tăng cường hoạt

độngtruyền thông tư vấn, kết nối dịch vụ, bảo vệ trẻ em bị bạo lực, xâm hại

trongtrường hợp khẩn cấp và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ

em tại trung tâm và cộng đồng.

Bốn là, nghiên cứu, xây dựng chương trình, tài liệu và tổ chức bồi

dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em của các ban, ngành, địa phương (nhất là đối với cán bộ công

74

tác ở xã, phường, thị trấn) và đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ

em trong tình hình mới.

Năm là, Phối hợp với Tổ chức Tầm nhìn Thế giới duy trì hệ thống Bảo

vệ trẻ em các cấp; tranh thủ các nguồn lực vận động từ các tổ chức kinh tế, xã

hội để mở các lớp đào tạo, tập huấn giảng viên nguồn về các kiến thức, kỹ năng

Bảo vệ trẻ em.; xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, các dịch vụ bảo vệ,

chăm sóc trẻ em để thực hiện các mục tiêu vì trẻ em của tỉnh Quảng Nam.

3.2.3. Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên

nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em

Một là, Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em nhằm đáp

ứng nhu cầu hỗ trợ trẻ em ở 3 cấp độ là phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp. Việc

cung cấp dịch vụ này phải đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu quả đáp ứng

được điều kiện và nhu cầu cần bảo vệ của trẻ em. Duy trì hoạt động của

Trung tâm Công tác xã hội trẻ em, các văn phòng tư vấn trẻ em, điểm tư vấn

cộng đồng, điểm tư vấn trường học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung

cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.

Hai là, Tạo môi trường thuận lợi để thực hiện toàn diện quyền trẻ em;

thúc đẩy mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và giáo dục

trẻ em; tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng

thời mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ

em; lồng ghép, đưa các nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào kế

hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các cấp, các ngành, cụ thể hóa bằng các chỉ

tiêu và gắn với nguồn lực nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Ưu tiên

hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em vùng

nông thôn nghèo, vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.

Ba là, Xây dựng và nhân rộng mô hình hiệu quả về bảo vệ, chăm sóc

75

trẻ em dựa vào cộng đồng; mô hình thúc đẩy sự tham gia của trẻ em...; đảm

bảo cho mọi trẻ em, đặc biệt là trẻ em có nguy cơ cao bị hạn chế phát triển

bình thường về thể chất, tinh thần, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tiếp cận các

dịch vụ này thuận lợi, hiệu quả.

Bốn là, duy trì và phát huy tốt vai trò, chức năng của các Văn phòng tư

vấn trẻ em, điểm tư vấn cộng đồng và điểm tư vấn trường học; xây dựng và

nhân rộng các mô hình bảo vệ trẻ em, mô hình thúc đẩy quyền tham gia của

trẻ em tại cộng đồng tạo điều kiện cho trẻ em bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, trao

đổi, đối thoại về các vấn đề liên quan đến trẻ em tại địa phương; đẩy mạnh

việc xây dựng mô hình Ngôi nhà an toàn, Trường học an toàn, Cộng đồng an

toàn nhằm cải tạo môi trường sống bảo đảm an toàn phòng, chống bạo lực,

xâm hại và tai nạn, thương tích cho trẻ em.

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Để triển khai thực hiện hiệu quả những giải pháp này, cần triển khai

thực hiện các nội dung sau:

Một là, Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,

chính quyền,các Sở, ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em trong tình hình mới;đặc biệt là ở cấp cơ sở, trong đó cần

chú trọng công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; chỉ đạo lồng ghép

các chỉ tiêu về thực hiện quyền trẻ em vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội tại địa phương, đơn vị; huy độngvà sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

đầu tư nhằm bảo đảm quyền trẻ em, tạo môi trường sống an toàn và lành

mạnh cho trẻ em.

Hai là, Tăng cường phối hợp liên ngành, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn

thực hiện pháp luật, chính sách về trẻ em ở địa phương; đặc biệt là công tác

kiểm tra việc thực hiện quyền trẻ em ở các điểm có đông trẻ em như trường

76

học, nhóm trẻ gia đình, Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em, các cơ sở nuôi dưỡng

trẻ em dân lập... ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm quyền trẻ em

trên địa bàn tỉnh. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có

thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Ba là, hình thành được cơ chế phối hợp liên ngành và mạng lưới xã hội

về bảo vệ trẻ em, phòng chống bạo lực, xâm hại tình dục giữa Ngành Lao

động –Thương binh và Xã hội và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc

thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng, chống bạo lực, xâm hại

tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh.

3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa trong thực hiện chính

sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa trong thực hiện chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ

thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình

hình mới nêu rõ “Đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ

trẻ em theo hướng nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cộng đồng

dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội. Khuyến khích sự đóng góp của các

doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cho các hoạt động và công trình dành cho

trẻ em”. Chính vì vây, để thực hiện tốt giải pháp này cần tập trung vào những

nội dung sau:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người

dân, và toàn xã hội đối với công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em.

Xây dựng các chương trình đào tạo, huấn luyện, hỗ trợ cho các bậc phụ

huynh, cha, mẹ, người chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em nắm tiếp cận được cách

chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các

chương trình, kế hoạch, các mục tiêu cụ thể phù hợp với từng địa phương

77

nhằm nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và xã hội trong

việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Hai là, phát động phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa ở khu dân cư” nhằm thúc đẩy các tầng lớp nhân dân có trách

nhiệm tham gia xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện với trẻ

em. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các đoàn thể xã hội

bằng các hoạt động cụ thể như tổ chức diễn đàn trẻ em tại trường học; tọa

đàm trao đổi kinh nghiệm, giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các trường…..

Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách thúc đẩy xã hội hóa

công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Vận động và tạo điều kiện cho các đoàn

thể, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế tham gia bảo vệ,

chăm sóc trẻ em; Ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, khuyến khích

sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cho các hoạt động và

công trình dành cho trẻ emđặc biệt là các công trình, dự án trợ giúp trẻ em mồ

côi, khuyết tật dựa vào cộng đồng.

Bốn là, Từng bước mở rộng chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã

hội nhằm tạo cơ hội cho mọi trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục dưới

các hình thức khác nhau, ưu tiên nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và có

nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; củng cố và phát triển hệ thống cung cấp

dịch vụ, chăm sóc trẻ em; xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho

trẻ em; nâng cao mức trợ cấp xã hội và mở rộng đối tượng thụ hưởng đối với

trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo cơ hội để trẻ em phục hồi và hòa nhập cộng

đồng.

Năm là, Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá kết quả thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em hàng năm, giữa kỳ và cuối kỳ; phát

hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quyền trẻ em.

78

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 đã nêu quan điểm, định hướng của tỉnh Quảng Nam đối với

công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong thời gian qua. Để nâng cao hiệu quả

việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên cơ sở cụ thể hóa

những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, định hướng phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh và tình hình thực tế của địa phương. Luận văn đề xuất 5

giải pháp chính sách gồm (Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông nhằm thay

đổi nhận thức, hành vi về bảo vệ trẻ em; Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao

năng lực cho đội ngũ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp; Phát triển hệ thống

cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu

cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em; Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong

việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Tăng cường hợp tác quốc tế

và xã hội hóa trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em) nhằm hoàn

thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Những giải pháp của tác giả đề

ra sẽ góp phần khắc phục những hạn chế của những chính sách đã được ban

hành, nhằm thực hiện đạt các mục tiêu, chỉ tiêu vì trẻ em trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam.

79

KẾT LUẬN

Sự nghiệp Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và

toàn xã hội. Đầu tư cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em là đầu tư cho phát triển

nguồn nhân lực trong tương lai góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Từ những vấn đề lý luận về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam

trong những năm qua, thực trạng thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh

Quảng Nam đạt được từ 2016-2020 cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn có nhiều

chủ trương, chính sách ưu tiên dành cho trẻ em, tạo mọi điều kiện để trẻ em được

phát triển toàn diện và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em. Các chính

sách bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và

Nhà nước ta đối với trẻ em, trẻ em được hưởng thụ nhiều chính sách và đạt được

những kết quả tích cực; việc ban hành các chính sách, đề án, chương trình với mục

đích xây dựng hành lang pháp lý chuẩn mực, là cơ sở cho việc bảo đảm và thúc đẩy

có hiệu quả việc thực hiện các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; nhận thức của

cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được

nâng lên, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội của

đất nước. Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu của chính sách còn nhiều hạn chế,

bất cập cần phải khắc phục nhất là đối với cấp cơ sở.

Với tỉnh Quảng Nam, việc ban hành và triển khai thực hiện các chính sách bảo

vệ, chăm sóc trẻ em luôn được Đảng, Chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam

quan tâm, chỉ đạo và đạt được một số kết quả đáng kể như: tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh

đặc biệt giảm 0,45% (từ 5,73% cuối năm 2016 xuống còn 5,28% năm 2019); tỷ lệ

trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc tăng 3,1% (từ 84,6% cuối năm 2016

lên 87,7% năm 2019); 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thuộc đối tượng trợ giúp

xã hội của Nhà nước được hưởng các chế độ theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP

ngày 21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã

hội. Việc xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em được thực hiện có hiệu quả, đến

cuối năm 2018 có 223/244 xã, phường, thị trấn được công nhận xã, phường, thị trấn

phù hợp với trẻ em đạt tỷ lệ 91% tăng 10,3% so với năm 2016; các hoạt động Vì trẻ

80

em đã được đầu tư hiệu quả, tập trung; hoạt động tập huấn nâng cao năng lực và

truyền thông, tư vấn được đẩy mạnh; các vụ việc vi phạm quyền trẻ em được giải

quyết kịp thời; hình thành được hệ thống Bảo vệ trẻ em từ tỉnh đến huyện, thị xã,

thành phố và xã, phường, thị trấn…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn những khó khăn, tồn tại như: Một số địa

phương chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cộng tác viên

làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, dẫn đến nhiều xã/phường/thị trấn không có

mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, vì vậy gây khó khăn

trong việc theo dõi, nắm bắt tình hình, thu thập số liệu về bảo vệ, chăm sóc trẻ em

tại địa phương, chưa kịp thời phát hiện, can thiệp các vụ việc vi phạm quyền trẻ em

trên địa bàn; tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại, tai nạn thương tích, vi phạm pháp

luật có chiều hướng gia tăng do nhận thức của cha mẹ, gia đình, xã hội đối với việc

bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa cao; Khu vui chơi, giải trí dành cho trẻ em còn thiếu

và hoạt động chưa hiệu quả nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn. Kinh phí hỗ trợ từ

ngân sách của Nhà nước dành cho công tác Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

chưa đáp ứng được yêu cầu; còn nhiều huyện, xã chưa bố trí được khoản ngân sách

cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Với tinh thần đó, năm 2020 là năm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào năm 2021, công tác Bảo vệ, chăm sóc

trẻ em sẽ được bổ sung điều chỉnh về chế độ, chính sách phù hợp tốt hơn trong điều

kiện nền kinh tế của đất nước đang phát triển. Về tổ chức bộ máy, mạng lưới làm

công tác BVCSTE sẽ được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm hơn, tạo điều

kiện thuận lợi cho công tác BVCSTE tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói

chung sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giai đoạn 2021-2025.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh An Giang (2012), UNICEF phối hợp với

UNBD tỉnh An Giang;

2. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh Lào Cai (2015), UNICEF phối hợp với

UNBD tỉnh Lào Cai;

3. Lã Văn Bằng (2019), Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam hiện

nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Học

viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;

4. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/06/2000 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ,

chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội;

5. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ

em trong tình hình mới, Hà Nội;

6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội UNICEF (2009), Xây dựng môi trường

bảo vệ trẻ em Việt Nam, Hà Nội;

7. Chính phủ (2013), Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định

chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội;

8. Chính phủ (2017), Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi

tiết một số điều của Luật trẻ em, Hà Nội;

9. Mai Thị Chi (2016), Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em từ thực tiễn thành phố

Hà Nội, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công, Viện hàn lâm khoa

học xã hội Việt Nam, Hà Nội;

10. Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam (2017), Quảng Nam 20 năm một chặng đường

phát triển, tr.10-11;

11. Phạm Thị Hải Hà (2016), Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ e em ở Việt

Nam, Luận án tiến sĩ quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội;

12. Nguyễn Ngọc Hà (2016), Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt

Nam, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý công, Học viện hành chính quốc

gia, Hà Nội;

13. Đỗ Phú Hải (2014), Khái niệm chính sách công, Tạp trí lý luận chính trị, số 2;

14. Nguyễn Quỳnh Hoa (2005), Về vấn đề lạm dụng trẻ em ở nước ta hiện nay,

Khoa học về Phụ nữ Vol.3: pp.23-31.

15. Nguyễn Hải Hữu (Chủ nhiệm) (2011), Hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em ở Việt

Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã

hội.

16. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 299-

301;

17. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.228;

18. Đặng Hoa Nam (2017), https://baomoi.com/hon-63-cac-vu-bao-luc-tre-em-dien-

ra-trong-moi-truong-gia-dinh/c/24040263.epi

19. Phòng Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới, Sở Lao động – Thương binh

và Xã hội (2020), Báo cáo số 19 /BC-BVCSTE&BĐG ngày 25/5/2020 đánh giá

công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020; kế

hoạch giai đoạn 2021-2025;

20. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013, Hà Nội;

21. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 2016, Hà Nội;

22. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2017), Báo cáo số

125/BC-LĐTBXH ngày 20/7/2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

tỉnh Quảng Nam;

23. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2019), Báo cáo số

193/BC-LĐTBXH ngày 23/9/2019, Báo cáo thực hiện chính sách, pháp luật về

phòng, chống xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (từ ngày

01/01/2015-30/6/2019);

24. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2019), Báo cáo số

248/BC-LĐTBXH ngày 21/12/2019 báo cáo kết quả công tác bảo vệ, chăm sóc

trẻ em năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020;

25. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2020), Báo cáo số

113/BC-LĐTBXH ngày 14/5/2020 báo cáo kết quả thực hiện thực hiện Chương

trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

giai đoạn 2016-2020;

26. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2020), Báo cáo số

129/BC-LĐTBXH ngày 27/5/2020 báo cáo kết quả thực hiện Chương trình thúc

đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2016-2020;

27. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam (2020), Báo cáo số

163/BC-LĐTBXH ngày 23/6/2020, Báo cáo thực hiện Chương trình Bảo vệ trẻ

em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;

28. Nguyễn Phương Thảo, Trần Quý Long, và Trần Mai Hương (2008), Tổng quan

nghiên cứu về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam trong những năm

gần đây, Đề tài cấp Viện, Viện Gia đình và Giới.

29. Nguyễn Phương Thảo (2009), Nghiên cứu về trừng phạt thân thể và tinh thần

trẻ em ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Số 6/2009. Quyển 19.

30. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 phê

duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020, Hà Nội;

31. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 565/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 phê

duyệt Chương trình mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn

2016-2020, Hà Nội;

32. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chị thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăng

cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, Hà Nội;

33. Thủ tướng Chính phủ (2020), Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020 về việc tăng

cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, Hà Nội;

34. Đặng Bích Thủy (2010), Một số vấn đề cơ bản về trẻ em Việt Nam. Đề tài cấp

Bộ của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.

35. Tỉnh ủy Quảng Nam (2013), Kế hoạch 69-KH/TU ngày 06/2/2013 thực hiện Chỉ

thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình

hình mới”;

36. UBND tỉnh Quảng Nam (2013), Quyết định 716/QĐ-UBND ngày 06/3/2013

phê duyệt Chương trình hành động vì trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-

2020;

37. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định 190/QĐ-UBND ngày 15/01/2016

phê duyệt Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;

38. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Kế hoạch số 340/KH-UBND ngày 22/01/2016

triển khai Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về

trẻ giai đoạn 016-2020;

39. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định 769/QĐ-UBND ngày 01/3/2016

thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban Chỉ đạothực hiện Chương trình Bảo

vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;

40. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định 1903/QĐ-UBND ngày 01/6/2016

ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình Bảo vệ

trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;

41. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định số 3612/QĐ-UBND ngày

17/10/2016 phê duyệt Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ em

trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020;

42. UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Kế hoạch số 5575/KH-UBND ngày 20/9/2019

vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng

dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2019-2025;

43. UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Kế hoạch số 7748/KH-UBND ngày 25/12/2019

triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, trình tự đánh giá và công nhận xã,

phường, thị trấn phù hợp với trẻ em trên địa bàn tỉnh;

44. UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Kế hoạch số 2355/KH-UBND ngày 27/4/2020

của UBND tỉnh hành động phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2020-2025.