VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ DIỄM PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI – năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ DIỄM PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 834.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐẶNG THỊ HOA
HÀ NỘI – năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với
đề tài “Thực hiện chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam” ngoài sự cố gắng của bản thân, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, những
lời động viên từ gia đình, thầy cô và bạn bè.
Lời đầu tiên, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đặng
Thị Hoa là người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo ở Học viện khoa học xã hội
đã tận tình truyền đạt các kiến thức bổ ích trong suốt khóa học.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của lãnh đạo Phòng Bảo vệ,
chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
Quảng Nam đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình,
bạn bè đã luôn bên cạnh quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” là kết quả của quá trình học tập,
nghiên cứu khoa học của bản thân với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Đặng Thị
Hoa người hướng dẫn khoa học. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Trần Thị Diễm Phúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH
SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM Ở VIỆT NAM .................................... 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................. 12
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu và khung phân tích............................................... 15
1.3. Hệ thống chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ................................................. 20
1.4. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em . 25
1.5. Ý nghĩa và yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ, chăm
sóc trẻ em .............................................................................................................. 28
CHƯƠNG 2. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .............................................................. 32
2.1. Giới thiệu về trẻ em ở Quảng Nam và khái quát chung về địa bàn nghiên
cứu ........................................................................................................................ 32
2.2. Chính sách và thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng
Nam ...................................................................................................................... 42
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM TỈNH
QUẢNG NAM ..................................................................................................... 69
3.1. Quan điểm, định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em ..................................................................................................... 69
3.2. Giải pháp ........................................................................................................ 72
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVCSGDTE
Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em
BVCSTE
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
BVTE
Bảo vệ trẻ em
HCĐB
Hoàn cảnh đặc biệt
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:Tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam .......................................................... 33
Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2016 và 2019 ............. 34
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi
đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Trong Di chúc thiêng liêng trước
lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và cần thiết”. Trong những năm qua, thấm nhuần lời dạy
của Bác Hồ kính yêu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi nhiệm vụ bảo vệ và
chăm sóc trẻ em là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược con
người, góp phần tạo ra nguồn nhân lực cho quá trình đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam là nước Châu Á đầu tiên và nước thứ hai trên thế giới ký và
phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, là nước tích cực thực hiện cam
kết, hợp tác với quốc tế nhằm cải thiện phúc lợi cho trẻ em trong điều kiện thu
nhập bình quân đầu người còn thấp. Trong đó, Quyền của trẻ em là một trong
4 nhóm quyền quan trọng được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc
về Quyền trẻ em năm 1989 (quyền sống còn, quyền phát triển, quyền bảo vệ
và quyền tham gia).
Điều 37, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về
trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột
sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” [20]. Quy định
của Hiến pháp 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Trẻ em (2016), có hiệu lực
thi hành vào 1/6/2017 đã quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ em;
các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện
quyền và bổn phận của trẻ em. Theo quy định của Luật Trẻ em, trẻ em có quy
định quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục và quyền được bảo vệ
1
để không bị bạo lực.
Trên thực tế, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng diễn biến phức tạp,
gia tăng về mức độ, số lượng vụ việc. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Cảnh sát Phòng chống tội phạm (Bộ Công an) cho thấy, mặc dù chỉ là phần
nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600-1.800 vụ xâm hại trẻ
em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, thì số trẻ em là nạn
nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%),
tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm
tới 13,2%. Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp được công khai làm rung
động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những đứa trẻ và sự xuống
cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng thành (Vũ Hải Việt,
2015).
Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016
giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm
171 em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị xâm hại tình dục: 1.397 em, so với
năm 2016 tăng 186 trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư
nguồn lực cho trẻ em (Đặng Hoa Nam, 2018). Theo Tổng Cục Cảnh sát, đối
tượng xâm hại tình dục trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình
thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như
người thân, ruột thịt, thầy giáo, hàng xóm…
Thực trạng trên cho thấy, thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em
ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp bách. Bên cạnh việc thực thi các quy
định của pháp luật, thực hiện Công ước về quyền trẻ em và các chính sách
chăm sóc, bảo vệ trẻ em đang là một vấn đề thời sự, đòi hỏi cả cộng đồng cần
chung tay thay đổi nhận thức, xây dựng một môi trường sống lành mạnh, an
toàn cho trẻ em.
Quảng Nam là tỉnh nằm ở vùng nam Trung Bộ với 9 huyện miền núi/18
2
huyện, thị xã, thành phố; là địa bàn gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của
chiến tranh, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra. Là tỉnh nghèo, đời sống,
thu nhập của người dân còn thấp, sự chênh lệch mức sống giữa các vùng là
một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt còn cao như: trẻ em mồ côi, trẻ em
khuyết tật, trẻ em phải lao động sớm, trẻ em bị lạm dụng, trẻ em sống trong
các hộ gia đình nghèo…Bên cạnh đó, nhận thức về quyền trẻ em và ý thức
chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của một bộ phận
cha mẹ, giáo viên, cán bộ làm công tác trẻ em và người dân chưa tốt. Sự thay
đổi quan niệm về đạo đức, sự buôn thả của một bộ phận dân cư về lối sống vị
kỷ đã làm tha hóa các mối quan hệ gia đình và xã hội. Các vấn đề nêu trên
đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết đối với công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em tại Quảng Nam.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức: Môi trường sống
tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu an toàn, lành mạnh đối với trẻ em, làm gia tăng
nguy cơ tai nạn thương tích và hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Việc tuân thủ,
chấp hành pháp luật của nhiều chủ thể pháp luật chưa thực hiện tốt. Nhiều cha
mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ được
trách nhiệm bảo vệ con em, thiếu kiến thức, kỹ năng về Bảo vệ trẻ em. Nhiều
gia đình sao nhãng việc chăm sóc con hoặc lúng túng trong xử trí, không kịp
thời hoặc không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em đến các cơ quan chức
năng. Sự xuống cấp đạo đức, tha hóa, biến chất về lối sống của một bộ phận
xã hội làm gia tăng tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em, đặc biệt là các hành vi
xâm hại tình dục trẻ em; tình trạng trẻ em lạm dụng đồ chơi công nghệ,
nghiện games, điện tử vẫn còn diễn biến phức tạp; khu vui chơi, giải trí cho
trẻ em còn thiếu và không đồng bộ, một số địa phương chưa quy hoạch, bố trí
3
đất để xây dựng các điểm vui chơi, giải trí cho trẻ em; đội ngũ làm công tác
trẻ em cấp xã, phường, thị trấn thường xuyên thay đổi, đội ngũ Cộng tác viên
ở một số nơi không có nên gặp khó khăn trong việc kịp thời phát hiện và đề
nghị xử lý các vụ việc vi phạm quyền trẻ em.
Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu rộng, đầy đủ và có hệ thống về chính sách bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế để đề xuất các quan điểm
và giải pháp thực hiện phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh Quảng Nam.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, học viên chọn đề tài: "Thực hiện
chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, vấn đề bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em vẫn luôn
được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm, chú trọng. Đã có nhiều
bài viết trên sách báo, tạp chí, bài luận văn, đề tài khoa học, công trình nghiên
cứu về vấn đề bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em. Trong phạm vi nghiên cứu luận
văn này, tác giả lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết
tiêu biểu có liên quan đến đề tài:
- Các công trình nghiên cứu về thực trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em
Đánh giá về thực trạng chăm sóc và bảo vệ trẻ em hiện nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu liên quan đến việc hỗ trợ trẻ em phòng chống bạo lực
gia đình, xâm hại tình dục, … Báo cáo chuyên đề can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị
bạo lực thông qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567 khảo sát trong
giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 5/2017 cho biết, trong tổng số 698 ca trẻ em
bị bạo lực có tới 91,7% bị bạo lực thân thể, trẻ em từ 0-10 tuổi chịu bạo lực
nhiều nhất, chiếm 56,9%. Tỷ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất
(63,2%), đứng thứ hai là trẻ bị bạo lực trong trường học (20,1%) (Đặng Hoa
4
Nam, 2017) [18].
Nguyên nhân trẻ em bị xâm hại thường được cho từ hai phía, trước hết
là từ gia đình. Gia đình và trường học là hai môi trường có ảnh hưởng đặc biệt
quan trọng tới sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ. Thế nhưng, tỷ lệ
trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất (63,2%), đứng thứ hai là trẻ bị bạo
lực trong trường học (20,1%), trong khi đây là hai môi trường ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của trẻ em. Trong bối cảnh hiện nay, gia đình, đặc biệt là cha
mẹ và những người thân thiếu hụt kiến thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh
lý ở từng lứa tuổi của trẻ em, không biết cách hướng dẫn trẻ về các nguy cơ
và kỹ năng tự bảo vệ mình. Không giáo dục cho trẻ có ý thức về bảo vệ mình
khỏi bị xâm hại tình dục (Đặng Nam, 2007; Đặng Bích Thủy, 2010) [34]. Bên
cạnh đó, trẻ em được tiếp xúc hàng ngày với mạng xã hội, phim ảnh liên quan
đến các hành vi quan hệ tình dục, xâm hại tình dục mà không được hướng
dẫn, chỉ bảo kịp thời (Nguyễn Phương Thảo và cộng sự, 2008; Nguyễn
Quỳnh Hoa, 2005) [28]. Trong khi đó, nhiều gia đình bố mẹ ly thân, di cư dẫn
tới trẻ em gặp nhiều nguy cơ gặp các hành vi xâm hại và bị bỏ bê, không được
chăm sóc (Đặng Nam, 2007).
- Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em
Mặc dù hệ thống văn bản luật pháp và chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ
em được ban hành khá đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, những yếu kém trong
khung pháp lý bảo vệ trẻ em trong gia đình hay kẽ hở trong hệ thống pháp lý
về phòng chống lạm dụng tình dục trẻ em cũng là những yếu tố tác động đến
tình trạng xâm hại tình dục trẻ em. Một trong những khiếm khuyết của khung
pháp lý ở Việt Nam là chưa có điều khoản bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức
lạm dụng (thể chất, tinh thần và tình dục) trong môi trường gia đình. Khung
pháp lý chưa có điều khoản quy định tách hẳn trẻ ra khỏi gia đình trong các
trường hợp bị cha mẹ lạm dụng nghiêm trọng. Điều 13 của Luật BVCSGD trẻ
5
em đã công nhận không ai có quyền buộc đứa trẻ sống tách khỏi cha mẹ trừ
khi sự tách biệt đó là vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Tuy vậy, luật không công nhận
các trường hợp trẻ bị tách khỏi cha mẹ do bị lạm dụng hay vì các lợi ích tốt
nhất của trẻ (Đặng Bích Thủy, 2010).
Ở Việt Nam, hiện tượng trẻ em bị bạo lực xảy ra tương đối phổ biến
trong gia đình, số liệu của MIC năm 2014 cho thấy, gần 68,4% trẻ em độ tuổi
từ 1-14 được báo cáo là đã từng bị cha mẹ hoặc người chăm sóc bạo lực ở
nhà. Khoảng 20% trẻ em gái và trẻ em trai 8 tuổi nói rằng các em bị trừng
phạt thân thể ở trường (Innocenti 2016).
Một số nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp nhằm “Hoàn thiện hệ thống
bảo vệ trẻ em ở Việt Nam” (Nguyễn Hải Hữu, 2011). Đề tài đã phân tích khá
sâu sắc và toàn diện lý luận về hệ thống BVTE, trong đó đề tài đã đưa ra một
số khái niệm, thuật ngữ về trẻ em như: trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, BVTE
và các hoạt động BVTE, đồng thời đề tài đã đánh giá thực trạng hệ thống
BVTE, trẻ em có HCĐB và việc cung cấp dịch vụ BVTE ở Việt Nam. Qua
đó, đề tài đã đưa ra định hướng, phương pháp tiếp cận và giải pháp hoàn thiện
hệ thống BVTE [14].
+ Tác giả Phạm Thị Hải Hà, năm 2016 “Quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền của trẻ em ở Việt Nam”. Về mặt lý luận, đề tài đã đưa ra được quan
niệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em,đồng thời xác định rõ vai
trò, các nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt Nam;
Bên cạnh đó, đề tài đã chỉ ra các hạn chế trong quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền của trẻ em ở Việt Namvà đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt Nam, trong đó chú trọng xây
dựng và tổ chức triển khai kế hoạch, chiến lược, chương trình hành động
thống nhất và đồng bộ về bảo vệ quyền của trẻ em; hoàn thiện và tổ chức chỉ
đạo thực hiện nghiêm pháp luật và chính sách về bảo vệ quyền của trẻ em;
6
thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về
quyền của trẻ em [11].
+ Tác giả Lã Văn Bằng, năm 2019 “Thực hiện Pháp luật về bảo vệ trẻ
em ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài đã phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em, đánh giá thực trạng tình hình
thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam trong thời gian đến [3].
+ Luận văn thạc sĩ quản lý công “Thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Hà (2016). Luận văn đã đưa ra thực
trạng trẻ em khuyết tật và các chính sách đối vơi trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực
hiện chính sách ở Việt Nam. Từ đó đưa ra quan điểm, định hướng và giải
pháp để hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật tại
Việt Nam [12].
+ Luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ
emtừ thực tiễn thành phố Hà Nội ” của Mai Thị Chi (2016). Luận văn đã đưa
ranhững tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em ở
thành phố Hà Nội. Cũng như chỉ rõ các yếu kém, trách nhiệm của các chủ thể
tham gia vào việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó luận văn
đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của thành phố Hà Nội
[9].
+ Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh An Giang (2012) do tổ chức
UNICEF phối hợp với UNBD tỉnh An Giang thực hiện. Báo cáo này đã đi sâu
phân tích các nhóm quyền của trẻ em, các chế đô, chính sách đối với trẻ em,
năng lực và trách nhiệm của các cấp, ngành trong việc triển khai thực hiện
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đồng thời đưa ra các khuyến nghị và giải
7
pháp để triển khai thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong
thời gian đến [1].
+ Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tỉnh Lào Cai (2015) do tổ chức
UNICEF phối hợp với UNBD tỉnh Lào Cai thực hiện. Báo cáo này phân tích
và cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình trẻ em tỉnh Lào Cai; trong đó
phân tích sâu các vấn đề của trẻ em đang tồn tại, những rào cản trong bối cảnh
đặc thù của một tỉnh phía Bắc có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, đồng thời
đưa ra các giải pháp và khuyến nghị để thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm
sóc trẻ em tại tỉnh Lào Cai [2].
Tóm lại, các nghiên cứu nói trên đã làm rõ về tình hình trẻ em nói
chung và trẻ em có HCĐB nói riêng, các chính sách, pháp luật đối với trẻ em
Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể nào về chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Do đó trong đề tài này, tác giả
đi sâu tìm hiểu thực trạng công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, những yếu tố ảnh
tác động đến vệc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em hiện nay, từ đó
đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ, chăm
sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện hiệu quả chính sách này đến
năm 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
8
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân
trong thực hiện chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-
2020.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo vệ, chăm
sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến nay để qua đó
nêu lên những vấn đề tích cực, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách.
Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2016 đến nay là
vì: Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn
2016-2020, là năm Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII thông qua Luật trẻ em và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/6/2017.Thời gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực để
thực hiện có hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung và trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng, góp phần thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI đã đề ra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Luận văn sẽ được tiếp cận theo
hướng hệ thống hóa lý luận việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
9
tỉnh Quảng Nam từ khâu hoạch định, xây dựng, thực thi đến đánh giá chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em với sự tham gia của các chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích
các nguồn tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước,
Bộ, Ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, sách báo,
các báo cáo, tài liệu thống kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở Việt Nam
nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng. Đồng thời, tác giả cũng tìm hiểu, thu
thập nội dung từ một số nhà nghiên cứu chuyên sâu có liên quan đến bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
- Phương pháp phân tích chính sách: Luận văn sẽ phân tích, đánh giá
đánh giá tính toàn vẹn, tính khả thi, tính thống nhất và hiệu quả của chính
sách nhằm ngày càng hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tế.
- Phương pháp thống kê: Là phương pháp thu thập số liệu, tính toán
các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân
tích, dự đoán và đề ra các quyết định.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách công, Luận văn sẽ nghiên
cứu, nêu một số quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp triển khai thực
hiện hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các Ban, ngành có
liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạch định chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
10
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận nghiên cứu về chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện Chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH
BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi
nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người
chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần
được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý
trước cũng như sau khi ra đời.
Tuân theo nguyên lý phát triển của chủ nghĩa duy vật, sự phát triển của
con người cũng trải qua nhiều giai đoạn đó là những giai đoạn lứa tuổi. Tính
chất đặc thù của mỗi giai đoạn là cơ sở để xác định ranh giới giữa trẻ em và
người lớn, các quốc gia trên thế giới đều căn cứ vào tiêu chí duy nhất là độ
tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi được xác định là trẻ em ở mỗi quốc gia lại có sự khác
nhau vì còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) năm 1989
định nghĩa trẻ em là những người dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam, theo Luật BVCSGDTE năm 2004 xác định “Trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo quy định này, những trẻ em dưới mưới sáu
tuổi và là công dân Việt Nam mới được hưởng đầy đủ các quyền và bổn phận
của trẻ em.
Luật Trẻ em năm 2016 quy định: "Trẻ em là người dưới 16 tuổi". Qua
khái niệm này, chúng ta thấy có sự thay đổi so với trước đây, đó là tất cả trẻ
em dưới mười sáu tuổi, không phân biệt là công dân Việt Nam hay người có
quốc tịch, người không có quốc tịch ở lãnh thổ Việt Nam đều được bảo vệ,
chăm sóc giáo dục như nhau.
12
1.1.2. Bảo vệ trẻ em
BVTE là trách nhiệm của nhà nước, gia đình và mọi công dân trong xã
hội đối với việc đảm bảo an toàn cho trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột và sao
nhãng, bao gồm cả việc loại bỏ những nguy cơ gây tổn hại và ngăn chặn các
yếu tố đang gây tổn hại cho trẻ. BVTE là những dịch vụ được cung cấp bởi
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp hướng tới việc can thiệp khẩn cấp và
giúp đỡ các em đang có nguy cơ hoặc đã bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng
nhằm ngăn chặn, giúp phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ em [6].
Luật Trẻ em năm 2016 đưa ra định nghĩa về BVTE như sau: "Bảo vệ trẻ
em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an
toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em;
trợ giúp trẻ em có HCĐB" [21].
Như vậy, với cách tiếp cận về BVTE theo từng cấp độ cụ thể từ bảo đảm
môi trường sống an toàn cho trẻ em đến việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý
hành vi xâm hại trẻ em và trợ giúp khi trẻ em rơi vào HCĐB, Luật Trẻ em đã
đưa ra được khái niệm khá toàn diện về BVTE.Trẻ em không phân biệt gái,
trai, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội …đều được bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền lợi theo quy định của pháp
luật.
1.1.3. Chăm sóc trẻ em
Chăm sóc trẻ em là sự đáp ứng nhu cầu phát triển tâm, sinh lý của trẻ
em; cụ thể hơn là đáp ứng nhu cầu phát triển thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo
đức và xã hội của trẻ; Hiểu một cách đơn giản Chăm sóc trẻ em là hoạt động
nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ nhỏ.
Bất cứ một trẻ em nào, từ khi mới lọt lòng mẹ đến tuổi trưởng thành đều
cần sự chăm sóc về thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo đức và xã hội.
1.1.4. Chính sách công
13
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm
vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với
các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lí sự phát
triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách
công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm chọn các mục tiêu cụ thể với
giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu
xác định của Đảng chính trị cầm quyền” [13].
1.1.5. Chính sách bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em
Từ quan niệm về “chính sách công” và “bảo vệ, chăm sóc trẻ em” nêu
trên chúng ta có thể định nghĩa về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em như
sau: Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là tập hợp các quyết định có liên
quan tới việc lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo mục tiêu nhà nước đã xác định.
Việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là việc thực hiện hóa
cácquyết định chính trị về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây là khâu đặc biệt quan
trọng trong chu trình chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nó có nhiệm vụ
hiện thực hóa các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của nhà nước vào cuộc
sống.
1.1.6. Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Là một khâu hợp thành chu trình chính sách, thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em có vị trí rất quan trọng. Chu trình chính sách nếu khuyết
thiếu công đoạn này thì sẽ bị đứt gãy, không thể tồn tại vì thực hiện chính
sách có vai trò trung tâm, kết nối các bước trong chu trình chính sách thành
một hệ thống hoàn chỉnh.
Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em để từng bước
thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách
14
bảo vệ, chăm sóc trẻ em có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực hiện chính sách này cho thấy
muốn đạt được mục tiêu của chính sách thì phải thông qua việc thực hiện
chính sách, và các mục tiêu của chính sách thì cần phải có quan hệ với nhau
và ảnh hưởng đến các mục tiêu chung.
Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn để khẳng định được
tính đúng đắn, tính hợp lý của chính sách. Chính sách này khi triển khai rộng
rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, và khi chính sách được xã
hội chấp nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của chính sách.
Như chúng ta đều biết chính sách là do sự góp sức của một tập thể và
do tập thể đó hoạch định mà nên. Tuy vậy trong quá trình hoạch định chính
sách chúng ta cũng không tránh khỏi những ý kiến, những góp ý mang tính
chất chủ quan, điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả chung trong quá trình
thực hiện chính sách. Do vậy, khi chính sách được thực thi thì những người
hoạch định chính sách cần nghiên cứu, xem xét và rút kinh nghiệm. Trên cơ
sở đó, thực hiện chỉnh sửa để chính sách ngày một đúng đắn, hoàn thiện hơn.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội
và vận dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách công. Đó là
cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch
định đến xây dựng chính sách, thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham
gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em trải qua 07 bước sau:
- Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em
Tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là quá trình phức
tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch,
15
chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một
cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các
cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải
xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm những nội dung cơ bảnsau:
Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến
về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách;
số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; những dự kiến về
cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lí và công chức thực thi; cơ chế tác động
giữa các cấp thực thi chính sách.
Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về
các cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; các nguồn lực tài chính.
Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là kiến về thời gian
duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên
truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu
cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
Thứ tư, kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến về tiến
độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.
Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước
tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật
cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Sau khi bản kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
16
được thông qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển
khai thực hiện theo kế hoạch.
Một là, trong quá trình thực hiện chính sách phải truyên truyền vận
động nhân dân tham gia thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phổ
biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi
người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu
rõ về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về
tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lí
của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền chính sách còn giúp cho mỗi
cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính
chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích
cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách
và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được
giao.
Hai là, chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ
em bao gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm
vụ. Đội ngũ này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kĩ năng trong
việc tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đảm bảo
chính sách khi được phổ biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực,
khách quan.
Ba là, đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính bảo vệ, chăm sóc trẻ
embao gồm:
- Những công dânđược tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng
chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Những công dân bị tác động gián tiếp bởi chính sách bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính sách hiệu quả.
- Những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách bảo vệ,
17
chăm sóc trẻ em.
Bốn là, phương tiện và cách thức tuyên truyền: Tuyên truyền là một
trong những hoạt động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân
và toàn xã hội trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nội dung
tuyên truyền phải đa dạng về cách thức và phong phú về hình thức đáp ứng
được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.
- Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì
chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách,
đảm bảo phát huy được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và
tác động đến chính sách.
- Bước 4: Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là toàn bộ hoạt động đảm
bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội. Đồng
thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi
và môi trường thực hiện chính sách.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia
thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do
môi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công
cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính
sách, đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh
mới.
- Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
18
Trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em, do tác
động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Do đó, việc điều chỉnh
chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ
chức thực hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lí và tình hình
thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều
chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp,
cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lí nhà nước các
ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện
sao cho có hiệu quả, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
- Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách vệ, chăm
sóc trẻ em
Đôn đốc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện, thông qua các công cụ
hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong
thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể
nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi
phạm quy định trong quá trình thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em
Đánh giá, tổng kết trong tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá
trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các
đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về
chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực
19
thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong các cơ quan nhà nước là kế
hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng ở bước một của
phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan
nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét
tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách công của các tổ
chức chính trị và xã hội với Nhà nước.
1.3. Hệ thống chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trong những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được gìn giữ, tôn trọng và phát huy. Trẻ em
luôn được coi là nhân tố quan trọng trong đường lối, chiến lược phát triển con
người của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm
và
sự quan tâm đặc biệt cho những chủ nhân nhỏ tuổi của đất nước vì "Ngày nay
các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế
giới" [16]. Người còn căn dặn: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người" [17].
Trong suốt tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở thời
kỳ cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cho đến thời kỳ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay thì vấn đề BVTE luôn được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và thể hiện trong chủ trương, đường lối
lãnh đạo của Đảng.Các chủ trương, chính sách của Đảng về BVTE được quy
định trong nhiều văn kiện nhưng đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày
28/6/2000 Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ
sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn
chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em. Có biện pháp giải quyết tốt
20
một số mục tiêu quan trọng như: Tích cực phòng chống tình trạng dụ dỗ trẻ
em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại, trẻ em làm
trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [4].
Ngày 5/11/2012 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20/CT-TW về việc
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”. Trong đó, yêu cầu các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể phải quan tâm giáo dục
pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và BVTE; phê phán, lên án
các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em vào hoạt động
tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và
BVTE.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược
đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lọt sức lao động và những hành vi khác vi phạm
quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) [20].
Luật BVCSGDTE năm 2004 thay thế cho Luật BVCSTE năm 1991 và
kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ em nhưng
đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và văn kiện
quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát
sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đề ra.
Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thay đổi,
sựhội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới
tácđộng đến công tác BVCSTE. Vì thế, Luật BVCSGDTE năm 2004 đã bộc
lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát
sinh, đặc biệt là vấn đề về BVCSTE. Vì vậy, ngày 05 tháng 4 năm 2016,
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em gồm 7 chương với 106 điều
21
(tăng 46 điềuso với Luật 2004)
Luật trẻ em 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy định về quyền, bổn
phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực
hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Để cụ thể hóa thực hiện Luật trẻ em, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình BVTE giai đoạn
2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai
đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em. Đồng
thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăngcường giải
pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Ngày 26/5/2020 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg
về việc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ
trẻ em. Đây là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào
cuộc chăm lo cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn
định và lâu dài của đất nước.
Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của
Đảng, Chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị
trí và tầm quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát
triển đất nước theo hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm về bảo vệ,
chăm sóc trẻ em đã hướng tới đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc trẻ em là của toàn thể các cấp đảng, chính quyền, tổ
chức chính trị xã hội và của toàn thể xã hội.[11]
1.3.2. Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Có thể nói, chính sách về BVCSTE đang hướng tới mục tiêu tạo môi
trường an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ theo ba cấp
22
độ phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Có thể đánh giá những điểm mạnh trong việc
hoàn thiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam trong những năm
gần đây như sau:
Thứ nhất, chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em chuyển từ xây dựng luật
pháp, chính sách, chương trình đến từng nhóm đối tượng trẻ em yếu thế trong
xã hội sang xây dựng khung pháp lý toàn diện.
Chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước kia chỉ tập trung giải quyết
hậu quả, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tuy nhiên trong
những năm gần đây đã chú trọng đến việc chủ động phòng ngừa, can thiệp
sớm, loại bỏ những nguy cơ cho mọi trẻ em trước khi bị tổn hại. Đặc biệt,
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020 (Quyết định
1555/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2012) đã đưa ra khung
chương trình, chính sách đầu tư cho trẻ em trung hạn và dài hạn nhằm hướng
tới một khung chính sách toàn diện cho trẻ em.
Thứ hai, xây dựng được hệ thống chính sách và chương trình toàn diện
theo hướng tiếp cận từ đáp ứng nhu cầu trẻ em sang đảm bảo quyền cho mọi
trẻ em trong xã hội.
Các đối tượng được hưởng chính sách xã hội không chỉ bó hẹp trong 14
nhóm trẻ em có HCĐB quy định trong Luật trẻ em 2016 mà mở rộng ra các
nhóm có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế -
xã hội còn khó khăn, nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội cho trẻ em
còn rất hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; mức trợ cấp trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt còn thấp, chưa bảo đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã
hội cơ bản như giáo dục, chăm sóc sức khỏe; chênh lệch các chỉ số về an sinh
xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của
cả nước còn lớn. Do đó, hướng tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách chưa
thể đảm bảo quyền của trẻ em ngay được mà chỉ tập trung chính vào đáp ứng
23
nhu cầu cho trẻ.
Thứ ba, định hướng chính sách phát triển xã hội về lĩnh vực BVCSTE
đến năm 2020
Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI, một số vấn đề có liên quan đế chính sách phát triển xã hội liên quan đến
BVCSTE như sau:
- Về trợ giúp xã hội trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: tiếp tục mở
rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ
cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây
dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác
định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính
sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát
triển mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến
khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc
trẻ mồ côi, người khuyết tật.
- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em,
đặc biệt trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em dân
tộc thiểu số:
a) Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Tăng số lượng học sinh trong các trường
dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường bán trú; xây dựng và củng cố nhà trẻ
trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm non
cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt là
đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
b) Bảo đảm y tế tối thiểu: Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân
ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em.
24
c) Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo:Triển khai đầy đủ, kịp thời các chương
trình tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ em; xây
dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng
cao sức khỏe, tầm vóc thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số; thực hiện đồng bộ
các giải pháp tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các
hộ nghèo trong đó có trẻ em được tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở
tuyến Trung ương thông qua chính sách BHYT; quan tâm đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực y tế, có cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu là người
dân tộc thiểu số ở địa phương.
d) Bảo đảm nước sạch: Chương trình “Nước sạch học đường” đang
ngày càng nhận được sự quan tâm và đồng hành của nhiều doanh nghiệp, cá
nhân trong và ngoài nước với muốn mang nguồn nước sạch uống trực tiếp đạt
chuẩn quốc gia đến học sinh và giáo viên của các trường học khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng, miền trên cả nước góp phần mang lại
sức khỏe và cuộc sống tốt đẹp hơn cho trẻ em Việt Nam.
e) Bảo đảm thông tin.
- Đảm bảo Quyền trẻ em cho mọi trẻ em được sống trong môi trường
an toàn, lành mạnh và thân thiện; Giảm thiểu bất bình đẳng về mức sống, về
cơ hội phát triển giữa các nhóm trẻ em khác nhau; Tập trung giải quyết những
vấn đề bức xúc trong xã hội liên quan đến ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc
lột, xao nhãng trẻ em, mại dâm trẻ em, trẻ em nghiên ma túy, vi phạm phát
luật... đảm bảo ổn định trật tự xã hội.
1.4. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em
Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ và thể chế bảo vệ, chăm sóc trẻ em
là yếu tố quan trọng trong hoạch định, xây dựng chính sách. Đây là yếu tố có
25
tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và gắn liền với
mỗi vấn đề chính sách, tổ chức thực thi chính sách. Nếu vấn đề của chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đơn giản, liên quan đến ít đối tượng thì công tác
tổ chức thực hiện chính sách sẽ thuận lợi hơn nhiều. Nếu là vấn đề bức xúc thì
sẽ được nhà nước và xã hội ưu tiên nguồn lực để giải quyết theo mục tiêu đã
định hướng. Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố khách quan có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận
lợi hay khó khăn.
Môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
chính sách, nếu có một môi trường tốt thì chính sách sẽ dễ dàng thực hiện và
ngược lại nếu có một môi trường không thuận lợi sẽ làm cho việc thực hiện
chính sách gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả.
Sự tham gia phối hợp giữa các đối tượng thực hiện chính sách và đối
tượng thụ hưởng chính sách là một trong những tác nhân gây ảnh hưởng đến
chính sách tuy nhiên rất ít địa phương quan tâm, chú trọng; lợi ích của các đối
tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách phải đồng nhất với nhau.
Nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách mâu thuẫn với lợi
ích của đối tượng thụ hưởng thì thực hiện chính sách sẽ khó khăn, thậm chí
còn thất bại và ngược lại nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện
chính sách đồng nhất với đối tượng thụ hưởng thì chính sách sẽ được thực
hiện dễ dàng hơn. Nhìn chung mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta cơ bản là đồng thuận.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
được hiểu là thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm có được trong mối quan hệ
so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm được thể hiện trên
các phương diện chính trị, xã hội, kinh tế v.v... về cả quy mô và năng lực.
Quy trình thực hiện chính sách được bắt đầu từ việc tuyên truyền vận
26
động về chính sách và thực hiện chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền vận
động thực hiện chính sách tốt sẽ củng cố thêm lòng tin của người dân vào
chính sách của nhà nước, tăng cường tính tự giác thực hiện chính sách của đối
tượng thụ hưởng và đối tượng tham gia tổ chức thực hiện chính sách. Phân
công phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, của các cấp chính
quyền địa phương cũng có vai trò quan trọng trong tổ chức thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em... Do đó trong tổ chức thực hiện chính bảo vệ,
chăm sóc trẻ em phải thực hiện đúng và đầy đủ các bước trong quy trình tổ
chức thực hiện chính sách.
Vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Năng lực thực thi của
cán bộ công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức
công vụ, thiết kế tổ chức, phân tích, dự báo… để có thể chủ động ứng phó
được với những tình huống phát sinh. Với chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
thì năng lực thực hiện chính sách của cán bộ công chức là kiến thức, kỹ năng
và tinh thần trách nhiệm của họ trong thực hiện nhiệm vụ. Để có thể thực hiện
chính sách một cách hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức thực hiện
chính sách phải nắm vững kiến thức chuyên môn, am hiểu mục tiêu, nội dung,
nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính sách đồng
thời phải có kỹ năng thực tế, phổ biến tuyên truyền chính sách, có tinh thần,
thái độ trách nhiệm trong thực hiện chính sách.
Để các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách chính bảo vệ,
chăm sóc trẻ em hoạt động có hiệu quả thì nhà nước phải chú trọng đầu tư
nguồn lực vật chất cả về số lượng và chất lượng. Nguồn lực ở đây được hiểu
là nhân lực, đồng thời nó cũng là chế độ tiền lương, các ưu đãi đối với đội ngũ
cán bộ công chức trực tiếp thực hiện chính sách. Những điều kiện về vật chất
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện chính sách, nó giúp cho thực hiện
27
chính sách được thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể
triển khai những ý tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ
cán bộ công chức thực hiện chính sách yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm
vụ được giao góp phần đạt được mục tiêu đã đề ra của chính sách.
1.5. Ý nghĩa và yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em
1.5.1. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
- Biến chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em thành hiện thực: Chính sách
là công cụ để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng. Do đó, thực hiện
chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em chính là việc chuyển những ý tưởng,
những định hướng của Đảng và Nhà nước thành những hành động, những
việc làm, những giải pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra. Trên cơ sở
đó có cácgiải pháp phù hợpđể thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Khẳng định tính đúng đắn của chính sách: Chính sách chỉ thật sự có
hiệu lực, hiệu quả thực hiện khi được toàn xã hội thừa nhận, đặc biệt là sự
thừa nhận của các đối tượng được hưởng lợi từ chính sách.
- Giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh:Thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em là căn cứ xác thực nhất để có thể đánh giá tính hiện thực,
hiệu quả, phù hợp và các tác động của chính sách trong việc đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện chính sách ta có thể thấy rõ được
những ưu điểm, hạn chế của chính sách mang lại, từ đó có những điều chỉnh
để hoàn thiện chính sách nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực
hiện chính sách ở nước ta.
1.5.2. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em
- Thực hiện đúng mục tiêu chính sách
Mỗi chính sách đều hướng đến mục tiêu nhất định. Mục tiêu của chính
28
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh
và thân thiện cho trẻ em, thực hiện ngày còn tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ
em; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; hỗ trợ
phục hồi, hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại. Việc
thực hiện chính sách này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình và toàn xã hội đối với công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách
Khi thực hiện một chính sách thì phải đảm bảo tính hệ thống được quy
định trong chủ trương của Đảng, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai
thực hiện của Nhà nước và bắt buộc đối tượng triển khai thực hiện chính sách
phải tuân thủ theo các quy định hiện hành, điều này được thể hiện rõ nhất ở sự
phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ quan cấp trên
và cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong công tác.
Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần phải bảo đảm tính hệ
thống, nghĩa là phải thực hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ đặt ra.
- Đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện
chính sách
Thực hiện chính sách theo đúng pháp luật, đúng nội dung hướng dẫn
theo quy định tại các văn bản hướng dẫn của Nhà nước, đồng thời phải thực
hiện một cách khoa học, hợp lý để chính sách phát huy hiệu quả của nó. Trong
tổ chức thực hiện chính sách công nếu đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, khoa
học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách
của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố niềm tin của các đối
tượng được thụ hưởng chính sách đối với Nhà nước.
- Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách
Trong quá trình thực thi chính sáchthường tồn tại nhiều nhóm lợi ích
29
trong xã hội và nhà nước là người bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ
chức. Thông thường, nhà nước thường sử dụng chính sách công để đảm bảo về
lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội. Điều này sẽ
góp phần củng cố niềm tin của người dân vào các chính sách Nhà nước thông
qua chính sách công. Có thể nói, để cho các đối tượng thụ hưởng chính sách có
được những lợi ích thật sự là yêu cầu quan trọng trong quá trình thực thi chính
sách công.
Tiểu kết Chương 1
Tại Chương 1, trên cơ sở lý thuyết về chính sách công đã được học,
luận văn đã tổng hợp những vấn đề lý luận chung về thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam, làm rõ những khái niệm về trẻ em, bảo vệ
trẻ em, chăm sóc trẻ em…, nêu những quan điểm, hệ thống lại các chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Đảng và Nhà nước ta.
Chương 1 cũng nêu các bước tổ chức thực hiện chính sách, những yêu
cầu cơ bản, các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách, các phương
pháp trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Đây là cơ sở pháp lý, là điều kiện tiền đề để các Bộ, ban ngành, đoàn
thể Trung ương, các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em. Thông qua kết quả thực hiện hằng năm, sơ kết, tổng kết,
đánh giá rút kinh nghiệm, đề xuất Đảng và Nhà nước bổ sung, điều chỉnh để
chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ngày càng tốt hơn, trẻ em được hưởng thụ
nhiều hơn.
Cơ sở lý luận nghiên cứu của Chương 1 này sẽ là tiền đề quan trọng để
tác giả phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
30
31
CHƯƠNG 2
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng kinh tế trọng điểm của miền
Trung, có diện tích tự nhiên 10.574 km2 (khu vực miền núi 7.760,7km2,
chiếm 73,4%); phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào và tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và phía
Bắc giáp thành phố Đà Nẵng; có15 huyện, 01 thị xã và 02 thành phố, trong đó
có 9 huyện miền núi là Nam Giang, Phước Sơn, Tây Giang, Đông Giang, Bắc
Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức và Nông Sơn và 9 huyện, thị,
thành đồng bằng: huyện Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn, Thăng Bình, Núi
Thành và Phú Ninh, thị xã Điện Bàn, thành phố Tam Kỳ, thành phố Hội An.
Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang
Đông, hình thành ba vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng
bằng và ven biển; bị chia cắt theo các lưu vực sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam
Kỳ có mối quan hệ bền chặt về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đa dạng
với các hệ sinh thái đồi núi, đồng bằng, ven biển [10, tr.7].
Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, chỉ có 2 mùa
là mùa khô và mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc.
Nhiệt độ trung bình năm 20 – 210C, không có sự cách biệt lớn giữa các tháng
trong năm. Lượng mưa trung bình 2.000 – 2.500 mm nhưng phân bố không
đều theo thời gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng, mưa
tập trung vào các tháng 9 – 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm; mùa mưa
trùng với mùa bão, nên các cơn bão đổ vào miền Trung thường gây ra lở đất,
32
lũ quét ở các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tây Giang, Đông Giang, Nam
Giang và ngập lụt ở các huyện đồng bằng [10].
2.1.2. Đặc điểm của trẻ em ở Quảng Nam
Tính đến cuối năm 2019, tỉnh Quảng Nam có 410.644 hộ gia đình, tổng
số hộ nghèo: 38.112 hộ, tỷ lệ 9,28%, trong đó hộ nghèo về thu nhập
là37.784hộ, chiếm tỷ lệ 9,20%; hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản có 328 hộ, chiếm tỷ lệ 0,08%; số hộ cận nghèo là 18.590 hộ, chiếm tỷ
lệ 4,53%. Tổng số trẻ em dưới 16 tuổi là 361.915 trẻ chiếm 24,10% tổng dân
số toàn tỉnh (Nam: 188.643 trẻ, chiếm 52,12%; Nữ: 173.272 trẻ, chiếm
47,88%). Toàn tỉnh có 19.109 trẻemhoàn cảnh đặc biệt chiếm tỷ lệ 5,28%,
trong đó 1.587 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; 6.151 trẻ em khuyết tật; 4
trẻ em bị nhiễm HIV; 48.749 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt chiếm tỷ lệ 13,47% tổng số trẻ em toàn tỉnh, trong đó
34.432 em sống trong gia đình hộ nghèo.Số trẻ em được hưởng chính sách trợ
giúp hằng tháng của nhà nước là 4.597 em [24].
Là địa bàn gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai,
bão lũ thường xuyên xảy ra; đời sống, thu nhập của người dân còn thấp, sự
chênh lệch mức sống giữa các vùng là một trong các nguyên nhân chủ yếu
khiến tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
còn cao. Cụ thể bảng 2.1
Bảng 2.1:Tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam
TE có
STT
Đơn vị
Tổng số
Nam
Nữ
HCĐB
TE có nguy cơ rơi vào HCĐB
1
Tam Kỳ
28.287
14.837
13.450
652
784
2 Hội An
21.366
11.270
10.096
2015
608
3 Điện Bàn
50.658
26.559
24.099
1652
1178
4 Đại Lộc
32.565
17.129
15.436
1125
1916
33
TE có nguy
TE có
cơ rơi vào
STT
Đơn vị
Tổng số
Nam
Nữ
HCĐB
HCĐB
5 Duy Xuyên
27.476
12.648
14.828
982
1250
6 Núi Thành
34.750
18.272
16.478
1037
1680
7 Quế Sơn
16.152
8.544
7.608
815
2967
8 Nông Sơn
7.215
3.526
3.689
315
3750
9 Hiệp Đức
9.613
5.153
4.460
694
1037
10 Bắc Trà My
12.408
6.520
5.888
852
8779
11 Nam Trà My
13.019
7.452
5.567
975
4149
12 Tiên Phước
17.466
9.058
8.408
2569
2568
13 Phước Sơn
9.081
4.761
4.320
842
4032
14 Nam Giang
8.200
4.182
4.018
698
2430
15 Đông Giang
8.611
4.443
4.168
747
4214
16 Tây Giang
6.960
3.663
3.297
632
4476
17 Phú Ninh
18.193
9.261
8.932
1472
1429
1315
18 Thăng Bình
39.895
21.365
18.530
1502
Tổng cộng
361.915 188.643
173.272
19.362
48.749
Nguồn: Số liệu báo cáo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam
năm 2019
Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2016 và 2019
Mục tiêu
STT
Nội dung
ĐVT
2016
2019
2025
1
Tổng số trẻ em
Người 425.100 361.915
221,052 188.643
- Nam
204,048 173.272
- Nữ
2
Trẻ em có HCĐB
Người 24.151
19.109
5,73%
5,28%
Dưới
Tỷ lệ
%
5%
3
Trẻ em có nguy cơ rơi vào HCĐB Người 58.761
48.749
Tỷ lệ
%
13,94% 13,47%
Nguồn: Số liệu báo cáo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam
34
năm 2016 và 2019
2.1.3. Nhu cầu bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, toàn xã
hội và chính bản thân trẻ em trong việc đảm bảo cho mọi trẻ em được sống
trong môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện và tạo điều kiện tốt nhất để
trẻ em được bảo vệ, phát triển toàn diện. Chính vì vậy đòi hỏi nhu cầu bảo vệ,
chăm sóc trẻ em tại cộng đồng là rất cần thiết. Ngoài các chính sách hỗ trợ
của Trung ương, các tổ chức phi chính phủ; hằng năm tỉnh Quảng Nam đã
trích ra một phần kinh phí phân bổ cho Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh, cùng với các
nguồn lực khác từ xã hội hóa góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm
sóc trẻ em như: đã xây dựng được một số khu vui chơi, hồ bơi và dạy bơi cho
trẻ để phòng chống tai nạn đuối nước; mở các lớp dạy nghề, tạo việc làm cho
trẻ em lang thang cơ nhỡ; phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực
hiện chương trình 01 phút dành cho trẻ em; hỗ trợ học bổng cho trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt khó, học giỏi….
Gia đình đóng vai trò rất quan trọng, là tổ ấm của mỗi người, là tế bào
của xã hội; đồng thời cũng là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống, là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục
nhân cách của đứa trẻ từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Do đó, nhu cầu bảo
vệ, chăm sóc trẻ em tại gia đình rất quan trọng; bằng các chính sách như hỗ
trợ sinh kế cho gia đình của trẻ có hoàn cảnh khó khăn và hỗ trợ cho trẻ tái
hòa nhập cộng đồng và trường học thông qua hệ thống giáo dục không chính
quy giúp trẻ bắt kịp với chương trình học ở trường. Bên cạnh đó, thông qua
Trung tâm công tác xã hội của tỉnh kết nối với gia đình trẻ để tuyên truyền,
nâng cao trách nhiệm làm cha, mẹ, giáo dục chăm sóc con cháu của mình
chăm ngoan, nên người.
Việc triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương và của tỉnh đã
35
và đang mang lại nhiều hiệu quả thiết thực đối với trẻ em. Hiện nay, toàn tỉnh
có 4.597 trẻ được hưởng chính sách trợ giúp của Nhà nước theo quy định tại
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp
đối với đối tượng xã hội, trong đó trẻ không có nguồn nuôi dưỡng là 465 em;
trẻ em nhiễm HIV là 4 em; trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng là 1082 em, trẻ em
khuyết tật nặng là 3046 em; trẻ em mồ côi được nhận nuôi là 156 em. Trên địa
bàn tỉnh hiện có 08 cơ sở trợ giúp trẻ em, trong đó có 02 cơ sở của Nhà nước
(Trung tâm Bảo trợ xã hội Quảng Nam và Làng Hòa Bình Quảng Nam) và 06
cơ sở của tư nhân. Các cơ sở này có chức năng tiếp nhận, chăm sóc, nuôi
dưỡng, phục hồi chức năng tập trung các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật; tiếp nhận và nuôi dưỡng tạm thời
các đối tượng cần chăm sóc khẩn cấp; kết nối và cung cấp dịch vụ công tác xã
hội cho các đối tượng xã hội đang nuôi dưỡng và trong cộng đồng; thực hiện
chuyển đối tượng đủ điều kiện trở về gia đình, tái hòa nhập cộng đồng; được
phép huy động, tiếp nhận, sử dụng hiệu quả, đúng quy định của pháp luật các
hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức đến thăm và trao tặng tại đơn vị; tổ chức dạy
văn hóa; liên kết, phối hợp tổ chức dạy nghề; tổ chức các hoạt động văn hóa
thể thao và các hoạt động khác để giúp đối tượng phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ và nhân cách. Hiện nay, có 476 trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm chất độc hóa học được
chăm sóc, nuôi dưỡng tại các Trung tâm trên. Trẻ em sống tại các cơ sở bảo trợ
xã hội được học hòa nhập cộng đồng, được bảo vệ, chăm sóc theo quy định của
Luật trẻ em. Đặc biệt, làng trẻ em SOS tại thành phố Đà Nẵng ngoài chương
trình nuôi trẻ tập trung còn thực hiện hỗ trợ cho 231 trẻ em Quảng Nam có
hoàn cảnh khó khăn tại cộng đồng. Bên cạnh đó, các mô hình chăm sóc trẻ em,
các văn phòng tư vấn, điểm tư vấn cộng đồng và trường học tại các địa phương
triển khai thực hiện đồng bộ nhằm hạn chế tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh
36
đặc biệt.
2.1.4. Bộ máy quản lý phụ trách triển khai thực hiện chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em
Tỉnh Quảng Nam đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình Bảo
vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 (Quyết định 769/QĐ-UBND ngày 01/3/2016
của UBND tỉnh và kiện toàn Ban chỉ đạo tại Quyết định số 1975/QĐ-UBND
ngày 27/6/2018 của UBND tỉnh) gồm 24 thành viên do đồng chí Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban. Thành phần Ban chỉ đạo bao gồm các
cơ quan: Văn phòng Ủy ban nhân tỉnh, Lao động - Thương binh và Xã hội;
Giáo dục và Đào tạo; Y tế; Công an; Tư pháp; Tài chính; Thông tin và Truyền
thông; Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; Tỉnh Đoàn
có trách nhiệm quản lý, điều phối và thực hiện các hoạt động Bảo vệ trẻ em.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan tham mưu giúp UBND
tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Bảo vệ, chăm sóc trẻ
em và bình đẳng giới đã bố trí 05 công chức thực hiện công tác trẻ em và bình
đẳng giới tại Phòng Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới, thuộc Sở; có
01 Trung tâm Công tác xã hội thực hiện chức năng tham vấn, tư vấn, tiếp
nhận, nuôi dưỡng khẩn cấp các đối tượng bị bạo lực, xâm hại, bỏ rơi. Mô hình
Trung tâm công tác xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ
em, đảm bảo các yếu tố về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã góp
phần rất lớn trong việc trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ
em bị xâm hại nói riêng.
Tại các huyện, thị xã, thành phố: 18/18 huyện, thị xã, thành phố và
244/244 xã, phường, thị trấn thành lập, kiện toàn và xây dựng quy chế hoạt
động của Ban bảo vệ trẻ em. Đội ngũ cán bộ phụ trách trẻ em các cấp gồm
266 người; đội ngũ cộng tác viên thôn, bản, khối phố hiện có 1.244 người.
Các huyện, thị xã, thành phố cập nhật danh sách trẻ em và trẻ em có hoàn
37
cảnh đặc biệt vào phần mềm quản lý thông tin trẻ em online; có biện pháp
quản lý trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt để
động viên, thăm hỏi và hỗ trợ kịp thời dưới nhiều hình thức (trao học bổng,
hỗ trợ sinh kế...); chỉ đạo Trung tâm Công tác xã hội trẻ em và các điểm tư
vấn tại trường học, cộng đồng thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ
em. Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã có
nhiều chuyển biến tích cực với những nội dung hoạt động chuyển hướng theo
các quyền cơ bản của trẻ em được quy định. Các giải pháp hoạt động được
triển khai, nhằm mang lại cho trẻ em cuộc sống an toàn, lành mạnh [23]
Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ủy ban nhân
dân tỉnh rà soát các chính sách, quy định của tỉnh liên quan đến công tác
phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát tổ chức bộ máy, cán bộ làm
công tác bảo vệ trẻ em. Qua đó, giúp UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, đoàn
thể xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác truyền thông, nắm bắt tình hình,
chủ động phát hiện những hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em, có biện pháp ngăn
chặn hiệu quả, không để xảy ra các vụ việc nghiêm trọng. Thực hiện tốt việc
xử lý các thông tin về bạo lực, xâm hại trẻ em, về vi phạm quyền trẻ em trên
địa bàn để điều tra, xử lý đối tượng vi phạm kịp thời, nhanh chóng, nghiêm
minh, đảm bảo các quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Bên cạnh đó, phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền
phòng, chống tai nạn thương tích, xâm hại trẻ em tới các tầng lớp nhân dân;
triển khai thí điểm mô hình Địa chỉ tin cậy - Nhà tạm lánh an toàn tại các
huyện, thị xã, thành phố để sẵn sàng tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị xâm hại.
Tăng cường công tác quảng bá Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, Đường
dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em của Trung tâm công tác xã hội Quảng Nam
18001581 để mọi người dân và trẻ em liên hệ miễn phí khi có nhu cầu; phối
hợp, kết nối với Tổng đài trong việc tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ em
38
bị bạo lực, xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt qua đó hầu hết đã nắm bắt
được các thông tin liên quan đến xâm hại trẻ em và phối hợp với các cơ quan
chức năng giải quyết kịp thời, đúng quy định pháp luật.
2.1.5. Thể chế bộ máy hoạch định và xây dựng, triển khai thực hiện
chính sách
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức đoàn thể
xã hội, các hội đặc thù thông qua các chương trình, chiến lược, chính sách,
Nghị quyết và Chỉ thị.
Quốc hội thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà
nước, trong các cơ quan của Quốc hội có một số ủy ban trực tiếp liên quan
đến trẻ em như: ủy ban văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng, ủy ban
các vấn đề xã hội, ủy ban kinh tế và ủy ban tài chính ngân sách.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý Nhà
nước đối với vấn đề trẻ em, cùng với các bộ, ngành liên quan khác có vai trò
chủ chốt trong lĩnh vực trẻ em như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng
Chương trình, dự án và tham mưu cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo, điều hành các nội dung liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
UBND các địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các
vấn đề về trẻ em; xây dựng các chương trình trẻ em tại địa phương, các kế
hoạch hành động phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn tại địa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng và tổ chức phong trào “Toàn dân
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em”. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh chỉ đạo và thực hiện tốt các hoạt động thanh thiếu niên nhi đồng.
Ngoài ra, còn có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội; trong
đó gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ trẻ em, cùng với
nhà trường, giáo dục hình thành nhân cách, trang bị kiến thức, kỹ năng cần
39
thiết cho trẻ phát triển toàn diện.
2.1.6. Bộ máy quản lý nhà nước và triển khai thực hiện chính sách
40
Nhìn sơ đồ ta thấy bộ máy quản lý nhà nước và triển khai thực hiện chính
sách ở đây có 3 cấp hành chính là: UBND tỉnh, huyện, thị xã, thành phố và xã,
phường, thị trấn. Còn thôn, khối phố là cánh tay nối dài tổ chức thực hiện nhiệm
vụ của xã, phường, thị trấn giao theo quy định của Nhà nước.
41
Việc triển khai thực hiện chính sách: Khi một chính sách được chính phủ
ban hành, UBND tỉnh báo cáo Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND tỉnh biết
để có sự chỉ đạo. Về phần tổ chức thực hiện UBND tỉnh ban hành Chỉ thị/Quyết
định/Kế hoạch để chỉ đạo và thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện gồm Lãnh đạo
UBND tỉnh và đại diện lãnh đạo một số Sở, ban, ngành đoàn thể cơ quan cấp tỉnh
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Theo sơ đồ thì việc quản lý nhà nước chỉ
đạo từ UBND tỉnh đến huyện, thị xã, thành phố; xã, phường, thị trấn chỉ đạo thôn,
khối phố là 3 cấp quản lý và chỉ đạo xuyên suốt. Ngoài nhiệm vụ hướng dẫn, quản
lý về chuyên môn nghiệp vụ của Ban chỉ đạo còn có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra
để tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách ở nhóm thực hiện và người thụ
hưởng. Kết quả từ người thụ hưởng chính sách sẽ phản ảnh được sự lãnh đạo, chỉ
đạo của bộ máy quản lý.
2.2. Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Định hướng chỉ đạo, xây dựng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ
em
Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng
Nam luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng xã hội đặc biệt
quan tâm, xem đây là một trong những mục tiêu xuyên suốt trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời, Tỉnh ủy, HĐND, UBND cũng
đã ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình, các dự án, xây dựng tổ
chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ
chức, cung cấp dịch vụ liên quan nhằm mục tiêu BVCSTE. Với việc triển khai
thực hiện Quyết định 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình Bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020, UBND tỉnh
ban hành Quyết định 190/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 phê duyệt Chương
trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu “Xây
dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện cho mọi trẻ em, thực
42
hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em; chủ động phòng ngừa,
loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; hỗ trợ phục hồi, hòa nhập cho trẻ
em hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại.”Để thực hiện được mục tiêu đề ra,
Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 - 2020 được triển khai với nội
dung trọng tâm là: Tiếp tục củng cố hệ thống bảo vệ trẻ em đủ năng lực
phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ gây tổn hại đến trẻ em, trợ giúp, phục
hồi cho trẻ em bị tổn hại. Các hoạt động của Chương trình bao gồm:
Một là, nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ
em cho chính quyền các cấp, các tổ chức, gia đình, nhà trường, cộng đồng xã
hội và bản thân trẻ em thông qua việc tổ chức các hình thức truyền thông phù
hợp với từng vùng, miền, từng nhóm đối tượng.
Hai là, củng cố hệ thống tổ chức, nhân lực và nâng cao năng lực cho
đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em đáp ứng với nhu cầu của công tác bảo vệ trẻ em.
Ba là, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên
nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em.
Bốn là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá
thực hiện Chương trình đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý trẻ em nói
chung, đánh giá và phát hiện kịp thời các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, trẻ em có nguy cơ bị xâm hại nói riêng, làm cơ sở để xác định các biện
pháp trợ giúp phù hợp, hiệu quả.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách, tạo hành lang pháp lý
và các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và vận hành hệ thống cung cấp
dịch vụ bảo vệ trẻ em ở các cấp. Xây dựng danh mục tiêu chuẩn, quy
trình tiếp nhận và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Hoàn thiện thể chế về bảo
vệ trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính.
43
2.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của
Quảng Nam
2.2.2.1. Các chính sách của Trung ương hiện đang triển khai thực hiện
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Hiện nay, các chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đều hướng tới
việc xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách và pháp luật đảm bảo thực
hiện quyền trẻ em nhưng đồng thời cũng phải tạo môi trường sống an toàn,
lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của trẻ em, chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn và hạn chế tình trạng trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, xâm hại, sao nhãng…
Chính vì thế, sự ra đời của các chính sách là cơ sở pháp lý cao nhất để triển
khai thực hiện hiệu quả các mục tiêu vì trẻ em. Một số chính sách về BVTE
đã và đang triển khai thực hiện tại Quảng Nam như:Chỉ thị về việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối vơi công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em trong tình hình mới (Chỉ thị số 20 /CT-TW ngày 05/11/2012 của Bộ
Chính trị); Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 – 2020 (Quyết
định số 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ); Chương
trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai đoạn
2016-2020 (Quyết định số 1235/QĐ-TTg ngày 03/8/2015 của Thủ tướng
Chính phủ); Chương trình phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn
2016 – 2020 (Quyết định số 234/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng
Chính phủ); Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ em giai đoạn
2016-2020 (Quyết định số 1023/QĐ-TTg ngày 07/6/2016 của Thủ tướng
Chính phủ); Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS giai đoạn 2014 – 2020 (Quyết định số 570/QĐ-TTg ngày
22/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ); Quy định Tiêu chuẩn xã, phường, thị
trấn phù hợp với trẻ em (Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ); Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị tim bẩm sinh
44
(Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng Chính
phủ); Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025 (Quyết định số 1438/QĐ-TTg
ngày 29/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án vận động nguồn lực xã
hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và
miền núi giai đoạn 2019-2025 (Quyết định 588/QĐ-TTg ngày 17/5/2019 của
Thủ tướng Chính phủ);Chỉ thị về việc tăng cường các giải pháp phòng, chống
bạo lực, xâm hại trẻ em(Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng
Chính phủ)….; đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm thực hiện
tốt các quy định về BVTE, tạo cơ hội cho trẻ em được phát triển toàn diện,
bình đẳng về thể chất, trí tuệ và tinh thần; để trẻ em trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước.
2.2.2.2. Các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở tỉnh Quảng Nam
Trong những năm qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Chương trình
quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020. Tỉnh
ủy, HĐND, UBND đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện
công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị
cán bộ chủ chốt của tỉnh để quán triệt Chỉ thị 20-CT/TW và ban hành Kế
hoạch số 69-KH/TU ngày 06/02/2013 để triển khai thực hiện Chỉ thị; đồng
thời chỉ đạo các huyện, thị, thành ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện
Chỉ thị đến các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị.
UBND tỉnh tổ chức họp giao ban Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình
bảo vệ trẻ em tỉnh theo Quy chế, qua đó đánh giá tình hình trẻ em để kịp thời
chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác Bảo vệ, chăm
45
sóc trẻ em; tổ chức Hội nghị triển khai Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2016-2020, Kế hoạch triển khai Chương trình thúc đẩy
quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai đoạn 2016-2020,
công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em năm 2016; tổ chức Hội nghị tổng kết Đề án
“Vận động đóng góp xây dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh giai đoạn 2009-
2015”; Hội nghị triển khai Quyết định số 3612/QĐ-UBND ngày 17/10/2016
của UBND tỉnh phê duyệt Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ
em trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 và Kế hoạch số 201/KH-UBND
ngày 13/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam về thực hiện Chương trình bảo
vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam năm 2017; Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện
Chương trình Bảo vệ trẻ em và Bình đẳng giới tỉnh Quảng Nam năm 2018 và
2019; Hội nghị đánh giá giữa kỳ Chương trình Bảo vệ trẻ em và Thúc đẩy
Quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2016-2020. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh: Kế hoạch số 1928/KH-
UBND ngày 29/5/2013 về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW và Kế hoạch số 69-
KH/TU của Tỉnh ủy; Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 06/3/2013 về phê
duyệt chương trình hành động vì trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-
2020; Quyết định số 4434/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 về thực hiện chương
trình hành động vì trẻ em bị ảnh hưởng bới HIV/AIDS tỉnh Quảng Nam giai
đoạnh 2014-2020; Quyết định số 4575/QĐ-UBND ngày 31/10/2014 về thực
hiện xây dựng xã, phường đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em giai đoạn 2014-
2020; Quyết định 190/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 phê duyệt Chương trình
Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 340/KH-
UBND ngày 22/01/2016 triển khai Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của
trẻ em vào các vấn đề về trẻ giai đoạn 016-2020; Quyết định 769/QĐ-UBND
ngày 01/3/2016 thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo thực hiện
46
Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Quyết
định 1903/QĐ-UBND ngày 01/6/2016 ban hành Quy chế hoạt động của Ban
Chỉ đạo thực hiện Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2016-2020; Quyết định 1983/QĐ-UBND ngày 09/6/2016 ban hành Đề án Vận
động đóng góp Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020;
Quyết định số 3612/QĐ-UBND ngày 17/10/2016 phê duyệt Chương trình
phòng ngừa, giảm thiểu Lao động trẻ em trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-
2020; Kế hoạch số 431/KH-UBND ngày 21/01/2018 hỗ trợ trẻ em khuyết tật
tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2019-2025; Quyết định 1975/QĐ-UBND ngày 27/6/2018 về
việc kiện toàn Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban chỉ đạo thực hiện Chương
trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số
5575/KH-UBND ngày 20/9/2019 vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các
xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2019-2025; Kế hoạch số 7748/KH-UBND ngày 25/12/2019
triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, trình tự đánh giá và công
nhận xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số
2355/KH-UBND ngày 27/4/2020 của UBND tỉnh hành động phòng, chống
bạo lực, xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2020-2025.
Hằng năm, UBND tỉnh đều ban hành Kế hoạch thực hiện chương trình bảo vệ
trẻ em, các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện các hoạt động Tháng hành
động vì trẻ em, Ngày Quốc tế thiếu nhi (01/6), Tết Trung thu…
Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh
đã ban hành các văn bản hướng dẫn cấp huyện, thị xã, thành phố triển khai
thực hiện chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020,
cụ thể:
47
+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ động tham mưu trình
UBND tỉnh, đôn đốc, hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực
hiện chương trình BVTE, cụ thể hằng năm ban hành các văn bản hướng dẫn
triển khai thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như nhiều kế
hoạch, Công văn để triển khai thực hiện các hoạt động: Kế hoạch số 865/KH-
LĐTBXH ngày 04/7/2016 hội tổ chức Hội thảo bàn về các vấn đề liên quan
đến hỗ trợ tư pháp cho trẻ em tỉnh Quảng Nam; Kế hoạch số 560/KH-
LĐTBXH ngày 26/4/2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về tổ
chức Tháng hành động Vì trẻ em năm 2017 với chủ đề “Triển khai Luật trẻ
em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em”; Công văn 548/LĐTBXH-
BVCSTE&BĐG ngày 27/4/2018 tăng cường công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ
em; Kế hoạch số 828/KH-LĐTBXH ngày 12/6/2018 Tổ chức Lễ hưởng ứng
“Chấm dứt bạo lực thân thể trẻ em trong gia đình và trường học - cần BẠN,
cần TÔI, cần CẢ THẾ GIỚI”; Kế hoạch số 263/KH-LĐTBXH ngày
04/3/2019 Tổ chức Hội nghị đánh giá và chia sẻ kinh nghiệm xây dựng các
mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em trong trường học và cộng đồng
từ năm 2016 đến nay; Kế hoạch số 589/KH-LĐTBXH ngày 24/4/2019 về tổ
chức Tháng hành động Vì trẻ em năm 2019 với chủ đề “Chung tay vì trẻ em
nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số”;Kế hoạch số 955/KH-LĐTBXH ngày
18/6/2019 gặp mặt, tuyên dương và tổ chức đưa đoàn Đại biểu trẻ em vượt
khó, học giỏi nhiều năm liền đi thăm quan Hà Nội và báo công với Bác Hồ;
Kế hoạch số 1284/KH-LĐTBXH ngày 12/8/2019 tổ chức hội thảo lập kế
hoạch triển khai thực hiện khuyến nghị của trẻ em tại Diễn đàn trẻ em năm
2019; Kế hoạch số 1288/KH-LĐTBXH ngày 12/8/2019 về thực hiện mô hình
hỗ trợ, can thiệp để giảm thiểu lao động trẻ em năm 2019; Kế hoạch số
1820/KH-LĐTBXH ngày 22/10/2019 về tập huấn nâng cao năng lực về kiến
thức phòng, ngừa lao động trẻ em...
48
+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh đoàn
Quảng Nam ban hành các kế hoạch:Kế hoạch phối hợp số 65-KHLT/TĐTN-
SLĐTB&XH ngày 27/4/2017 giữa Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và
Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức chương trình “Hãy lên tiếng phòng, chống
bạo lực, xâm hại trẻ em” 2017; Kế hoạch phối hợp số 637/KHPH-
SLĐTB&XH-TĐTN ngày 12/5/2017 giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã
hội và Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ em; Kế
hoạch phối hợp số 775/KHPH-SLĐTB&XH-TĐTN ngày 02/6/2017 giữa Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội và Tỉnh Đoàn Quảng Nam về tổ chức
Diễn đàn trẻ em năm 2017 với chủ đề “Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo
lực, xâm hại trẻ em”; Kế hoạch phối hợp số 729/KHPH-SLĐTB&XH-TĐTN
ngày 16/5/2019 giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và Tỉnh Đoàn
Quảng Nam về tổ chức Diễn đàn trẻ em năm 2019 với chủ đề “Trẻ em với các
vấn đề về trẻ em”.
+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với các Sở, ngành
ban hành Công văn liên tịch số 1041/CVLT-MTTQVN-LĐLD-LĐTBXH
ngày 03/8/2016 về việc triển khai vận động xây dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em giai
đoạn 2016-2020; Kế hoạch liên ngành số 937/KHLN/LĐTBXH-YT-GTVT-
CA-VHTTDL-GD&ĐT-TTTT- ĐTNCSHCM-HLHPN-HND ngày 14/6/2019
kế hoạch phối hợp liên ngành phòng, chống đuối nước trẻ em đến năm 2020.
+ Sở Giáo dục và Đào tạo ban hành các văn bản, cụ thể:Kế hoạch
số1652/KH-SGDĐT ngày 27/10/2016 về việc triển khai công tác tuyên
truyền, giáo dục đạo đức lối sống, phòng, chống “Bạo lực học đường” năm
học 2016-2017; Kế hoạch số 1655/KH-SGDĐT ngày 28/10/2016 về việc thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy năm 2016; Kế
hoạch số 174/KH-SGDĐT ngày 06/02/2020 về công tác phòng, chống bạo
lực, xâm hại trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông
49
trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; Kế hoạch số 629/KH-SGDĐT ngày
24/3/2020 về phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em
trong các cơ sở giáo dục giai đoạn 2020-2025; Công văn số 2021/SGDĐT-
CTHSSV-PV ngày 15/12/2017 về việc tăng cường phòng, chống tai nạn
thương tích, đuối nước trong học sinh; Công văn số 140/SGDĐT-HSSVPC
ngày 06/9/2019 tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng các
dịch vụ đưa, đón học sinh bằng xe ôtô; Công văn số 1443/SGDĐT-HSSVPC
ngày 12/9/2019 tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trường học và phòng,
chống xâm hại trẻ em; Công văn 1834/SGDĐT-HSSVPC ngày 28/10/2019 về
xây dựng trường học an toàn phòng, chống giảm nhẹ rủi ro thiên tai năm học
2019-2020.
2.2.3. Kết quả triển khai thực hiện chính sách
Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã có nhiều
chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quan trọng:
2.2.2.1. Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội
* Hằng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Quảng Nam xây dựng
thực hiện trang tin Vì trẻ em, phát sóng chương trình 01 phút Vì trẻ em,
chuyên mục “Kết nối những mảnh đời”; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền
Luật Trẻ em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em; Kế hoạch số 69-KH/TU ngày
06/02/2013 của Tỉnh ủy Quảng Nam “về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng
đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”;
Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường chỉ đạo phòng chống tai nạn thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ
em; Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em…; tiếp nhận và cấp
50
hơn 1.000 quyển tài liệu tập huấn công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em; cấp hơn
6.403 tài liệu, tờ rơi về bảo vệ trẻ em, quyền tham gia trẻ em cho các xã,
phường, thị trấn; in và treo 1.050pano, khẩu hiệu, băng rol, phướn tuyền
truyền nhân các ngày chủ điểm: Tết nguyên đán, Tháng hành động Vì trẻ em,
quốc tế thiếu nhi 01-6; theo dõi và tiếp nhận hơn 1.000 tài liệu về các chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp cho các địa phương, đơn vị…; tổ chức
thành công cuộc thi tìm hiểu Luật Trẻ em với tổng số bài dự thi tham gia là
63.528 bài (các Sở, ban ngành, hội đoàn thể 18.135 bài; các huyện, thị xã,
thành phố: 45.393 bài). Thông qua cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ em đã giúp cho
đội ngũ công chức, viên chức, người lao động, học sinh, sinh viên và nhân
dân nắm và hiểu rõ hơn về Luật Trẻ em, nâng cao nhận thức, tinh thần trách
nhiệm của mình trong việc thực hiện Luật Trẻ em. Đồng thời, tổ chức Lễ phát
động Tháng hành động vì trẻ em từ ngày 01/6-30/6; tặng quà cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn và trao tặng điểm vui chơi cho trẻ em tại các vùng khó
khăn. Từ 2016 đến nay, đã trao tặng 12 điểm vui chơi và 02 bể bơi cho trẻ em
tại các Trường có điều kiện khó khăn trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí trên
892 triệu đồng; trao tặng 9.494 suất quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
nhân dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì trẻ em, Ngày Quốc tế thiếu nhi
(01/6), Tết Trung Thu... với tổng kinh phí trên 4,2 tỷ đồng.
* Sở Giáo dục và Đào tạo đã chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối
sống, kĩ năng sống cho học sinh. Theo đó, Sở đã tổ chức Hội thảo chuyên đề
“Giáo dục đạo đức và pháp luật trong trường phổ thông trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam”; hằng năm tổ chức Hội thi hùng biện “Câu chuyện tình huống
đạo đức và pháp luật” cho học sinh cấp THCS và THPT; Phối hợp với Đài
Phát thanh - Truyền hình tỉnh tổ chức tốt Chương trình “Học trò xứ Quảng”
dành cho học sinh cấp THPT tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến nay (chương
trình phát sóng trên Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Nam-QRT); Biên
51
soạn và đưa vào giảng dạy 02 bộ tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật dành
cho cấp THCS và THPT; tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật,
tìm hiểu về an toàn giao thông cho học sinh trên địa bàn tỉnh với hàng ngàn
lượt học sinh tham gia. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục còn tổ chức lồng ghép
nội dung truyền thông của Chương trình vào các chương trình bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em ở các cấp, các ngành; các hoạt động ngoại khóa của
nhà trường; tổ chức các chiến dịch truyền thông vào các ngày Quốc tế thiếu
nhi 01/6, Tháng hành động vì trẻ em, Tết Nguyên đán, Tết Trung thu… nhằm
vận động toàn xã hội ủng hộ việc thực hiện quyền tham gia của trẻ em.
* Tỉnh Đoàn Quảng Nam tổ chức chương trình “Khăn hồng tình
nguyện”, chăm sóc trẻ em gặp khó khăn với kinh phí hơn 100 triệu đồng. Bên
cạnh đó vào các dịp lễ như Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì trẻ em, Tết
Trung thu… đều tổ chức các hoạt động nhằm vận động toàn xã hội ủng hộ
việc thực hiện quyền tham gia của trẻ em; Phối hợp với các Sở: Giáo dục và
Đào tạo, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Hội Văn học - Nghệ thuật tổ chức
Hội thi Mỹ thuật thiếu nhi tỉnh Quảng Nam lần thứ XI năm 2018 với chủ đề
vẽ về những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của quê hương, thu hút trên
110 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố tham gia. Ngoài ra, Hội đồng
Đội các huyện, thị xã, thành phố đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động vui
chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống, sinh hoạt
giao lưu ước tính thu hút trên 50.000 trẻ em tham gia… nhằm góp phần hạn
chế trẻ em sa đà vào các trò chơi mang tính bạo lực, nguy hiểm và các tệ nạn
xã hội tại địa phương; năm 2019 tổ chức 19 buổi gặp mặt, đối thoại giữa lãnh
đạo địa phương với trẻ em thu hút trên 5.400 em thiếu nhi tham gia.
* Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, tổ chức Lễ phát động hưởng ứng chủ đề
năm 2019 “An toàn cho phụ nữ và trẻ em” với gần 300 đại biểu tham dự. Tổ
chức Tọa đàm “Phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em” vào dịp kỷ
52
niệm ngày Gia đình Việt Nam 28/6 với hơn 110 đại biểu đại diện lãnh đạo các
cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, cán bộ thường trực Hội Liên hiệp
phụ nữ cấp tỉnh, huyện, thị xã, thành phố và học sinh trường THCS Nguyễn
Du, thành phố Tam Kỳ đại diện cho học sinh trên địa bàn tỉnh tham dự. Tổ
chức 48 lớp tập huấn lồng ghép tuyên truyền công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em với hơn 4.650 lượt cán bộ, hội viên, phụ nữ tham dự về nội dung phòng,
chống tai nạn thương tích; kỹ năng phòng, tránh xâm hại tình dục trẻ em; an
toàn giao thông; phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; vận động
hội viên phụ nữ cho con tham gia các lớp học bơi, chấp hành nghiêm các quy
định của pháp luật khi tham gia giao thông, vận động xây dựng “Gia đình 5
không, 3 sạch”; tổ chức các diễn đàn “Trẻ em với các vấn đề phòng, chống tai
nạn, thương tích” (tại huyện Nông Sơn), “Chung tay phòng, chống bạo lực gia
đình”, “phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em” (tại huyện Hiệp Đức và Núi
Thành), “Chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, phòng chống xâm hại tình dục trẻ
em và cách nhận biết sự phát triển tâm sinh lý của tre em ở tuổi dậy thì (tại
huyện Quế Sơn). Vận động và trao tặng hơn 2.115 xuất quà trị giá gần 1,4 tỷ
đồng; tổ chức hoạt động “Tiếp sức cho trẻ em đến trường” đã trao hơn 4.524
suất học bổng khoảng 2,5 tỷ đồng cho trẻ em nghèo vượt khó vươn lên trong
học tập; trao tặng khu vui chơi cho trẻ em tại Trường Phổ thông Dân tộc bán
trú Gari, huyện Tây Giang trị giá 200 triệu đồng… Bên cạnh đó, Hội LHPN
các cấp chủ động phối hợp tham gia thực hiện công tác bảo vệ trẻ em do
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp triển khai.
* Các huyện, thị xã, thành phố đã đẩy mạnh truyền thông về Luật trẻ
em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật trẻ em và các chương trình, kế hoạch có liên
quan; tổ chức treo 1.985 băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền; đăng tải trên 1.060
tin, bài viết, chuyên mục trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình huyện, thị
53
xã, thành phố; phát trên 2.800 bản tin trên hệ thống loa phát thanh xã,
phường, thị trấn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú về trẻ em. Đến nay,
18/18 huyện, thị xã, thành phố đã triển khai thực hiện tốt các hoạt động truyền
thông về công tác Bảo vệ trẻ em.
Nhìn chung, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động xã hội về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em; phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em, tai nạn thương tích,
quyền tham gia của trẻ em... được quan tâm, chú trọng thực hiện với nhiều
hình thức phong phú, đa dạng và đảm bảo ngày càng phù hợp giữa nội dung
tuyên truyền với nhu cầu của các nhóm đối tượng xã hội, qua đó phát huy
được hiệu quả thiết thực; nhận thức, trách nhiệm của cán bộ làm công tác trẻ
em các cấp, gia đình, cha mẹ, trẻ em và cộng đồng xã hội về công tác bảo vệ
trẻ em; phòng, ngừa, xử lý việc bạo lực, xâm hại trẻ em được cải thiện hơn;
vai trò của các hội đoàn thể trong công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
cho cộng đồng được thể hiện ngày càng cao; với các hình thức trên đã có
khoảng trên 90% người dân được tiếp cận thông tin về công tác Bảo vệ, chăm
sóc trẻ em.
Xác định công tác hỗ trợ, can thiệp trẻ em khi có nguy cơ bị xâm hại
thuộc chức năng quản lý, thực hiện của cấp cơ sở đặc biệt là cấp xã, phường,
thị trấn. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với tổ chức Tầm nhìn
thế giới tại Việt Nam tổ chức 11 lớp tập huấn đào tạo giảng viên nguồn cho
hơn 450 cán bộ là thành viên Ban bảo vệ trẻ em cấp huyện; chủ trì, hướng dẫn
các địa phương thực hiện quy trình can thiệp, trợ giúp trẻ em bị xâm hại kịp
thời theo đúng quy định của Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016;
Nghị định số 56/2017/NĐ - CP ngày 09/5/2017của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật trẻ em.
Từ năm 2016 – 2019, các địa phương, đơn vị đã hỗ trợ và can thiệp cho
96 trường hợp trẻ em bị xâm hại áp dụng theo Thông tư 23/2010/TT-
54
BLĐTBXH của Bộ Lao động và Xã hội trước đây và Nghị định 56/2017/NĐ-
CP ngày 09/5/2017 hiện nay.
2.2.2.2. Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác
viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Hằng năm, trên cơ sở nhu cầu và năng lực của cán bộ phụ trách trẻ em
các cấp, cộng tác viên làm công tác trẻ em; nhận thức, trách nhiệm của cha
mẹ, người chăm sóc trẻ, cộng đồng và trẻ em về công tác Bảo vệ trẻ em tại
các địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng kế hoạch,
chương trình, nội dung tập huấn phù hợp cho từng nhóm đối tượng.
Từ năm 2016 đến nay, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức
120 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em
các cấp, cha mẹ, người chăm sóc trẻ và trẻ em về kỹ năng phòng chống bạo
lực, xâm hại, phòng ngừa tai nạn thương tích, giảm thiểu lao đông trẻ em,
quyền tham gia của trẻ em; tập huấn kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng
đồng cho trẻ em các Trường Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh; tập huấn Luật
Trẻ em, Nghị định 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật Trẻ em, các văn bản mới của Trung ương, tỉnh
liên quan đến trẻ em và các chuyên đề về trẻ em với hơn 7.035 người tham
dự; phối hợp với tổ chức Tầm nhìn thế giới tại Việt Nam tổ chức 11 lớp tập
huấn đào tạo giảng viên nguồn cho hơn 450 cán bộ là thành viên Ban Bảo vệ
trẻ em cấp tỉnh, cấp huyện. Ngoài ra tỉnh còn cử cán bộ tham gia các lớp đào
tạo, bồi dưỡng, tập huấn do Trung ương, các chương trình, dự án tổ chức hằng
năm.
Các huyện, thị xã, thành phố hằng năm đã tổ chức tập huấn nâng cao
năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em cấp xã, cộng tác viên, cha mẹ, người
chăm sóc trẻ và trẻ em với các nội dung về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Nhìn chung, nguồn nhân lực để thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
55
em từ tỉnh đến cơ sở luôn được quan tâm, kiện toàn, củng cố và bổ sung; hình
thành mạng lưới hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng; đội ngũ làm công tác
trẻ em các cấp được tập huấn, bồi dưỡng, trang bị và cập nhật kịp thời các quy
định của pháp luật, kiến thức, kỹ năng phù hợp để thực hiện tốt và đáp ứng
nhu cầu, nhiệm vụ bảo vệ trẻ em tại cơ sở. Tuy nhiên, nhân lực làm công tác
bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp huyện, xã hầu hết là kiêm nhiệm chưa có cán bộ
hoạt động chuyên trách, thường xuyên thay đổi nên đã ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác tham mưu thực hiện công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa
phương. Bên cạnh đó chế độ, chính sách của người làm công tác trẻ em cấp
xã còn thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ đang đảm nhận nên chưa tạo
động lực cho người làm công tác trẻ em cấp xã tận tâm, nhiệt huyết với công
việc.
2.2.2.3. Tổ chức cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em
Trung tâm Công tác xã hội Quảng Nam là đơn vị có nhiệm vụ tiếp
nhận, hỗ trợ, can thiệp khi trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, xâm hại hoặc bị bạo
lực, xâm hại thông qua Tổng đài đường dây nóng 18001581 và Tổng đài điện
thoại Quốc gia bảo vệ trẻ em - 111 để tiếp nhận thông tin, thông báo các vấn
đề liên quan đến trẻ em, đặc biệt là thông tin, thông báo, tố giác các vụ việc
trẻ em bị xâm hại, bạo lực; thực hiện quy trình kết nối với trẻ em hoặc gia
đình và các cơ quan tại địa phương, hướng dẫn, theo dõi việc lập kế hoạch hỗ
trợ, can thiệp theo quy định của Luật Trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP
của Chính phủ để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kịp thời, phù hợp; tổ chức tham
vấn, trị liệu rối nhiễu tâm trí, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể chất cho trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực tiếp cận với
các dịch vụ giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội khác. Tư vấn và trợ giúp đối tượng
thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức
phù hợp khác để bảo vệ, trợ giúp đối tượng; tìm kiếm, sắp xếp các hình thức
56
chăm sóc phù hợp bảo đảm cho trẻ em sớm phục hồi và ổn định cuộc sống.
Mạng lưới các loại hình dịch vụ bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm xây
dựng và hoạt động ngày càng hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ
em theo 3 cấp độ từ phòng ngừa trẻ em bị xâm hại, trẻ em rơi vào hoàn cảnh
đặc biệt nhằm phát hiện và giảm thiểu các nguy cơ dẫn đến trẻ em bị xâm hại,
trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; can thiệp, trợ giúp trẻ em và gia đình trẻ
em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi,
hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đến nay trên địa bàn
tỉnh có 06 Văn phòng tư vấn trẻ em cấp huyện, thành phố (Tam Kỳ, Hội An,
Núi Thành, Tiên Phước, Đông Giang, Quế Sơn) và Trung tâm Công tác xã hội
thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; 20 điểm tư vấn cộng đồng và 12
điểm tư vấn trường học để tổ chức các hoạt động tham vấn, tư vấn nhằm trợ
giúp cho trẻ em và gia đình các em có điều kiện tiếp cận các dịch vụ phúc lợi
xã hội liên quan. Trong thời gian qua, các điểm tư vấn đã tư vấn, tham vấn, trị
liệu phục hồi tâm lý, thể chất cho 1.548 em; trợ giúp cho 9.858 trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt tiếp cận với các dịch vụ; trợ giúp nâng cao năng lực cho 6.570
lượt cha mẹ; trợ giúp nâng cao kỹ năng tự bảo vệ cho 22.720 trẻ em; 518 trẻ
em được quản lý và can thiệp theo quy trình quản lý ca.
Duy trì 19 mô hình trợ giúp trẻ em tại 19 xã, phường, thị trấn của 16
huyện, thị xã, thành phố như: Mô hình phòng ngừa và trợ giúp trẻ em lang
thang, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại
các huyện Đại Lộc, Quế Sơn và Phú Ninh; Mô hình phòng ngừa, trợ giúp trẻ
em bị xâm hại, bị bạo lực, trẻ em làm trái pháp luật tại các huyện, thành phố:
Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn, Núi Thành, Thăng Bình, Đông Giang, Phú Ninh,
Tiên Phước, Nam Giang, Bắc Trà My, Hiệp Đức, Duy Xuyên; mô hình trợ
giúp trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và mắc bệnh hiểm nghèo
tại 02 huyện Nông Sơn, Phước Sơn; mô hình kết nối dịch vụ chăm sóc trẻ em
57
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và trẻ em khuyết tật tại huyện Tiên Phước, Phú
Ninh. Ngoài ra, các huyện, thị xã, thành phố đã thành lập các mô hình nhận
đỡ đầu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm giúp các em vượt qua khó khăn
vươn lên trong cuộc sống như Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp nhận đỡ đầu
thường xuyên cho 312 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không nơi
nương tựa với số tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng/tháng; tại huyện Tiên
Phước hằng năm có 170-175 trẻ em được nhận đỡ đầu, hỗ trợ kinh phí học
tập, bút, sách, vỡ, sữa…
2.2.2.4. Công tác Bảo vệ trẻ em
Công tác Bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm thực hiện ở cả 3 cấp
độ. Thứ nhất, bảo vệ trẻ em ở cấp độ phòng ngừa được quan tâm thực hiện
thông qua các hoạt động xây dựng môi trường sống an toàn, phù hợp đối với
mọi trẻ em, truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nâng cao nhận thức, thay
đổi hành vi về bảo vệ, chăm sóc trẻ em thông qua nhiều hình thức, phù hợp
với từng nhóm đối tượng.
Tháng hành động vì trẻ em được tổ chức hằng năm với mục đích tăng
cường truyền thông, vận động xã hội, thúc đẩy phong trào "Toàn dân chăm
sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em", đã tập trung cho các chủ đề BVTE. Năm 2016,
với chủ đề “Vì một cuộc sống an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích cho
trẻ em”.Năm 2017, với chủ đề "Triển khai Luật Trẻ em và phòng, chống bạo
lực, xâm hại trẻ em". Năm 2018, với chủ đề "Vì cuộc sống an toàn, lành mạnh
cho trẻ em trong thế giới công nghệ số". Năm 2019 với chủ đề “Chung tay vì
trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số”. Năm 2020 với chủ đề “Chung tay bảo
vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em”.
Công tác truyền thông đã làm thay đổi nhận thức của cán bộ làm công tác
BVTE các cấp, cha, mẹ, trẻ em nói riêng và các nhóm xã hội nói chung về
phòng ngừa, xử trí việc bạo lực, xâm hại trẻ em có sự cải thiện. Hệ thống
58
BVTE cũng đã có thể nắm bắt kịp thời các yếu tố có nguy cơ gây tổn hại cho
trẻ em hoặc trẻ em rơi vào HCĐB trên cơ sở hoạt động của mạng lưới cộng
tác viên thôn bản cũng như tiêu chí nhận dạng các nhóm đối tượng, vấn đề
gây tổn hại cho trẻ em. Bằng nguồn lực địa phương, những trẻ em có nguy cơ
và các yếu tố nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em cũng đã được cung cấp các dịch
vụ trợ giúp phù hợp như tư vấn, tham vấn, trị liệu tâm lý; trợ giúp dịch vụ y
tế, giáo dục, phúc lợi xã hội cho các đối tượng trẻ em có HCĐB. Tính đến
tháng 3/2020, kinh phí huy động cho thực hiện chương trình BVTE trên 39 tỷ
đồng, trong đó ngân sách trung ương trên 2 tỷ, ngân sách địa phương trên 6
tỷ, huy động Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh trong giai đoạn từ 2016-2019 được trên
31 tỷ đồng. Với nguồn kinh phí trên và với sự cố gắng của các địa phương và
đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em chương trình đã triển
khai được nhiều hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
Thứ hai, bảo vệ trẻ em ở cấp độ hỗ trợ nhằm phát hiện, giảm thiểu các
nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em và nguy cơ dẫn đến trẻ em rơi vào HCĐB
được quan tâm trước những tác động tiêu cực đến trẻ em trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Trung tâm Công tác xã hội tỉnh thực hiện quy trình kết
nối với trẻ em hoặc gia đình nạn nhân và các cơ quan, dịch vụ có liên quan tại
địa phương hướng dẫn, theo dõi việc lập kế hoạch hỗ trợ, can thiệp theo quy
định của Luật trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP để cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ kịp thời, phù hợp, bảo đảm cho trẻ em sớm phục hồi và ổn định
cuộc sống. Từ năm 2016 đến nay, Trung tâm Công tác xã hội tỉnh đã kịp thời tư
vấn, tham vấn, trị liệu phục hồi tâm lý, thể chất cho 438 trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực; Trợ giúp cho 37 trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y
tế, phúc lợi xã hội khác; Trợ giúp nâng cao năng lực cho trên 4.000 lượt cha
59
mẹ/người chăm sóc trẻ về bảo vệ trẻ em/kỹ năng làm cha mẹ.
Mô hình Trung tâm công tác xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ
bảo vệ trẻ em, đảm bảo các yếu tố về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã
góp phần rất lớn trong việc trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ
em em bị xâm hại nói riêng. Công tác tiếp nhận thông tin, theo dõi, xử lý các
vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em tại nhiều địa phương được thực hiện nghiêm
túc. Các trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại phần lớn đều được các địa
phương lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thực hiện hỗ trợ, can thiệp theo quy
định của Nghị định số 56/2017/NĐ-CP. Tại nhiều địa phương, 100% trẻ em bị
bạo lực, xâm hại được hỗ trợ, can thiệp, được cung cấp các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, trợ giúp xã hội, hỗ trợ giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp,
hỗ trợ sử dụng các dịch vụ trợ giúp pháp lý, tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch
vụ BVTE khác.
Thứ ba, bảo vệ trẻ em ở cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ
được áp dụng đối với trẻ em và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn
hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt. Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giảm 0,6% (từ
5,88% năm 2015 xuống còn 5,28% năm 2019); tăng 7,7 % tỷ lệ trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc (từ 80% năm 2015 tăng lên 87,7% năm
2019). Các hình thức chăm sóc trẻ em có HCĐB đa dạng và phù hợp hơn với
nhu cầu của từng nhóm đối tượng, hầu hết trẻ em có HCĐB, nhất là nhóm trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS,
trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em nghiện ma túy đã nhận được sự quan tâm
chăm sóc của Nhà nước và xã hội thông qua các chính sách trợ cấp xã hội, trợ
giúp tiếp cận y tế, giáo dục, học nghề, phẫu thuật chỉnh hình phục hồi chức
năng, trợ giúp cai nghiện ma túy tại cộng đồng, chăm sóc thay thế bởi các gia
đình hoặc nuôi dưỡng ở các cơ sở bảo trợ xã hội công lập, ngoài công lập.
60
Toàn tỉnh duy trì 19 mô hình trợ giúp trẻ em tại 16 xã, phường, thị trấn của 16
huyện, thành phố; các hoạt động xây dựng mô hình đã được triển khai hiệu
quả với nhiều hình thức như hướng dẫn kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ mình
cho trẻ em, sinh hoạt nhóm trẻ em (các xã thực hiện Mô hình đã tổ
chức 80 buổi sinh hoạt nhóm cho 2.620 em); hỗ trợ cho trẻ em trong trường
hợp khẩn cấp; tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng;
tổ chức các buổi truyền thông tư vấn, tham vấn cho các đối tượng cán bộ
thôn, xã, cha mẹ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt... đã góp phần can thiệp và
quản lý trường hợp đối với trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị xâm hại tình dục; kết
nối dịch vụ hỗ trợ về y tế, giáo dục trong việc hỗ trợ cho trẻ bị bạo lực, bị xâm
hại khi trở lại trường học; hỗ trợ trẻ em vi phạm pháp luật được học nghề.
Bên cạnh đó, Công an tỉnh triển khai thực hiện 05 mô hình điểm: “Câu
lạc bộ phòng chống tội phạm, trường học không có tội phạm, tệ nạn xã hội và
chấp hành nghiêm chỉnh Luật giao thông”, “thực hiện 04 quản đối với từng
em, đó là quản lý về thời gian - quản lý về tiền bạc - quản lý về hành vi - quản
lý về mối quan hệ bạn bè của các em”, “quản lý giáo dục trẻ em làm trái pháp
luật”, “không có chồng con vi phạm pháp luật”, “chung một ước mơ”. Xây
dựng mới 01 mô hình “Phòng ngừa, trợ giúp người chưa thành niên vi phạm
pháp luật tại cộng đồng”; tiếp tục nghiên cứu xây dựng một mô hình mới tại
huyện Nam Trà My.
2.2.2.5. Công tác Chăm sóc trẻ em
Triển khai thực hiện tốt chương trình khám sàng lọc sơ sinh nhằm phát
hiện sớm và điều trị các bệnh suy giáp bẩm sinh và thiếu men G6PD; tỷ lệ trẻ
em được tiêm chủng tạo miễn dịch cơ bản đạt 100%; trẻ em làm giấy khai
sinh đúng hạn đạt trên 95%; trẻ em dưới 06 tuổiđược cấp thẻ Bảo hiểm y tế
miễn phíđạt 97%; Triển khai tiêm chủng an toàn và đủ 10 loại vaccin để tạo
miễn dịch cơ bản cho trẻ dưới 12 tháng tuổi đạt trên 95%; toàn tỉnh duy trì
61
bền vững thành quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván trẻ sơ sinh. Tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể nhẹ cân giảm từ 13,61% năm 2016
xuống còn 10,80% cuối năm 2019 (giảm 2,81% so với đầu kỳ); tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể thấp còi giảm từ 27,04% năm 2016 xuống còn
23,50% cuối năm 2019 (giảm 3,54% so với đầu kỳ); 100% trẻ em là học sinh
cấp I được cung cấp đủ liều thuốc tẩy giun theo quy định.
Phối hợp với bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng, Bệnh tim Hà Nội, Bệnh
viện Mắt Đà Nẵng tổ chức khám sàng lọc tim bẩm sinh, các bệnh về mắt cho
tất cả các đối tượng trẻ em tại các huyện, thị xã, thành phố và vận động các tổ
chức hỗ trợ phẫu thuật cho các trẻ bị bệnh tim khi có chỉ định phẫu thuật của
bệnh viện. Toàn tỉnh, 18/18 huyện, thị xã, thành phố tổ chức khám bệnh sàng
lọc miễn phí, lập hồ sơ trẻ bị bệnh tim bẩm sinh thuộc đối tượng quy định tại
Quyết định 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng và Quyết định
số 2051/QĐ-UBND ngày 2/7/2014 của UBND tỉnh quy định chính sách hỗ
trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh trên địa bàn tỉnh, đã hỗ trợ
phẫu thuật được 24 trường hợp. Ngoài ra, vận động hỗ trợ kinh phí phẫu thuật
cho hơn 121 em mắc bệnh tim bẩm sinh; phẫu thuật chỉnh hình tật sứt môi, hở
hàm ếch, bệnh lý vùng hàm mặt cho 81 trẻ, chỉnh hình dị tật tay cán vá, chân
vòng kiền, xơ hóa cơ delta cho 29 trẻ.
2.2.2.6. Các hoạt động vui chơi giải trí và thực hiện quyền tham gia trẻ
em
Quyền tham gia của trẻ em ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh, trẻ
em ngày càng có điều kiện bày tỏ và phát huy ý kiến, nguyện vọng và tham
gia vào các hoạt động như diễn đàn trẻ em, tọa đàm lấy ý kiến, tham gia các
hoạt động vui chơi, giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao...; Định kỳ 02
năm/lần, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh Đoàn Quảng
Nam và các ngành liên quan tổ chức Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh. Thông qua
62
diễn đàn, các em nêu lên những quan điểm, ý kiến, nguyện vọng và gửi đến
lãnh đạo tỉnh những thông điệp ý nghĩa, thiết thực của trẻ em, trên cơ sở đó
lãnh đạo tỉnh và các Sở, ban, ngành, hội, đoàn thể của tỉnh đã tiếp nhận thông
điệp của trẻ em, lắng nghe và trả lời thấu đáo các câu hỏi của trẻ em. Đối với
những vấn đề cần thời gian và nguồn lực để giải quyết, các đồng chí lãnh đạo
tỉnh cam kết sẽ tiếp tục xem xét, giải quyết sau khi Diễn đàn kết thúc.
Năm 2016, 01 đại diện trẻ em huyện Nông Sơn được cử tham dự Diễn
đàn trẻ em ASEAN lần thứ IV với chủ đề "Một ASEAN, một tầm nhìn vì trẻ
em" từ ngày 19-24/6/2016 tại Hà Nội.
Năm 2017, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh
Đoàn tổ chức Tháng hành động Vì trẻ em và Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh với chủ
đề: “Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em”, với sự tham
gia của 114 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố và các trung tâm nuôi
dưỡng trẻ em trên địa bàn tỉnh; qua Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh chọn 04 em tiêu
biểu tham dự Diễn đàn trẻ em cấp quốc gia tại Hà Nội; tổ chức nói chuyện
chuyên đề về vấn đề phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em và Luật trẻ em,
vấn đề tảo hôn; tổ chức cuộc thi vẽ tranh với chủ đề: “Hãy lên tiếng để bảo vệ
trẻ em khỏi xâm hại, bạo lực” cho trẻ em tại huyện Thăng Bình và Đông
Giang.
Năm 2019, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh
đoàn Quảng Nam và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới tổ chức thành công Diễn đàn
trẻ em năm 2019 với chủ đề “Trẻ em với các vấn đề về trẻ em” với sự tham
gia của 114 trẻ em đến từ 18 huyện, thị xã, thành phố và các trung tâm nuôi
dưỡng trẻ em trên địa bàn tỉnh và lựa chon 04 em tiêu biểu tham dự Diễn đàn
trẻ em quốc gia lần thức VI năm 2019 tại Hà Nội.
Toàn tỉnh hiện có 103 khu văn hóa, vui chơi cho trẻ em (kể cả tư
nhân); 18 huyện, thị xã, thành phố; 244 xã, phường, thị trấn; 13 thôn, khối
63
phố có điểm vui chơi cho trẻ em. Xây dựng 03 mô hình Hội đồng trẻ em gồm:
Điện Bàn, Nông Sơn và Tam Kỳ, thành lập và duy trì sinh hoạt 913 Câu lạc
bộ quyền tham gia của trẻ em thu hút hơn 9.430 trẻ em tham gia như: Câu lạc
bộ Tiếng Anh, Câu lạc bộ tin học, Câu lạc bộ TDTT, Câu lạc bộ âm nhạc,
Câu lạc bộ Kỹ năng sống, Câu lạc bộ Kỹ năng mềm cho học sinh bao gồm: Vệ
sinh dinh dưỡng của người Việt, cách sống đẹp, tự tin trước đám đông, kỹ
năng thuyết trình, phòng tránh bạo lực học đường......., các nội dung sinh hoạt
về các chủ đề như Quyền trẻ em, Luật trẻ em, bảo vệ môi trường, kỹ năng
sống, kỹ năng phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em...Thông qua hoạt động
của các câu lạc bộ này đã lồng ghép vào các buổi sinh hoạt tuyên truyền về
quyền trẻ em, tham gia công tác xã hội, đặc biệt là thu thập thông tin về trẻ
trên địa bàn tỉnh nhằm phát hiện những điều bất thường để có biện pháp can
thiệp, ngăn chặn kịp thời. Khi sinh hoạt tại câu lạc bộ các em được học tập,
vui chơi, ca hát, phát biểu ý kiến, thảo luận, diễn kịch, vẽ tranh, được rèn
luyện các kỹ năng sống, phát triển trí tuệ và đặc biệt là được sinh hoạt trong
một sân chơi lành mạnh để thể hiện những khả năng của mình.
100% Ban Chỉ đạo hoạt động hè các cấp trên địa bàn tỉnh có kế hoạch tổ
chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hội thi, cuộc thi vẽ tranh theo chủ
đề, tham quan, dã ngoại, cắm trại... tạo ra những sân chơi bổ ích, thiết thực
thu hút đông đảo các em thiếu nhi và học sinh tham gia, giúp các em rèn
luyện kỹ năng, phát triển tư duy, tránh xa các tệ nạn xã hội, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc.
2.3.3. Hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em Quảng
Nam
2.3.3.1. Những thành tựu đã đạt được và nguyên nhân
Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã đạt được các kết quả đáng khích
như tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc tăng, tỷ lệ trẻ em có
64
nguy cơ lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em lao động trong điều kiện
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm giảm, 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
thuộc đối tượng trợ giúp xã hội của Nhà nước được hưởng các chế độ theo
quy định, các vụ việc vi phạm quyền trẻ em được giải quyết kịp thời, nhiều
giải pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh được triển khai
thực hiện tốt, trẻ em ngày càng được sống trong môi trường an toàn, lành
mạnh và phát triển toàn diện hơn; đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nâng cao
năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em từ huyện, thị, thành phố đến xã,
phường, thị trấn và cộng tác viên thôn, bản, tổ chức nhiều đợt tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành cũng như người dân, cha mẹ
và trẻ em về chính sách pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em, qua đó có khoảng trên 90% người dân được tiếp cận thông tin về công tác
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Ban Bảo vệ trẻ em từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn,
củng cố và triển khai hoạt động luôn đạt hiệu quả; công tác thực hiện quyền
tham gia của trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, đuối nước và phòng
ngừa giảm thiểu lao động trẻ em đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; trẻ
em được tham gia nhiều hơn trong các hoạt động, sự kiện; các hoạt động Vì
trẻ em nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/6, Tết Trung thu, Tháng hành động vì
trẻ em luôn được quan tâm; các hoạt động vui chơi, giải trí cho trẻ em luôn
được đầu tư xây dựng và hoạt động hiệu quả; hoạt động truyền thông, tư vấn
hỗ trợ cho trẻ em được đẩy mạnh.
Các mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em, phòng chống tai nạn
thương tích và phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em luôn được xây dựng,
duy trì và hoạt động hiệu quả; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ngày càng được
quan tâm, bảo vệ hơn. Việc huy động các nguồn lực xã hội, các tổ chức, cá
nhân… dành cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và thực hiện các mục tiêu
65
vì trẻ em được chú trọng. Việc xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ
em được triển khai thực hiện hiệu quả, đến cuối năm 2018 có 223/244 xã,
phường, thị trấn được công nhận xã, phường phù hợp với trẻ em (đạt tỷ lệ
91%; tăng 10,3% so với năm 2016) theo Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg
ngày 30/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ; Năm 2019, thực hiện theo Quyết
định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ, có 187/244
xã, phường, thị trấn được công nhận xã, phường phù hợp với trẻ em đạt tỷ lệ
76,64%.
Triển khai thực hiện tốt chương trình khám sàng lọc sơ sinh nhằm phát
hiện sớm và điều trị các bệnh suy giáp bẩm sinh và thiếu men G6PD; tỷ lệ trẻ
em được tiêm chủng tạo miễn dịch cơ bản đạt 100%; trẻ em làm giấy khai
sinh đúng hạn đạt trên 95%; trẻ em dưới 06 tuổiđược cấp thẻ Bảo hiểm y tế
miễn phíđạt trên 97%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 05 tuổi thể nhẹ cân và
thấp còi, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 01 tuổi giảm hàng năm.
2.3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quyết liệt trong lãnh đạo,
chỉ đạo, thiếu chủ động, sâu sát, kiểm tra, giám sát, đặc biệt là ở cấp xã,
phường. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em chưa thường xuyên và rộng khắp, thiếu chiều sâu, chủ yếu tập
trung vào những dịp cao điểm; chưa có tài liệu tuyên truyền về chính sách,
pháp luật, kiến thức về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phù hợp cho các
đối tượng khác nhau, đặc biệt là đối với gia đình và cộng đồng dân cư. Một số
quy định của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có tính
khả thi cao, chưa cụ thể và còn bất cập. Việc ban hành văn bản hướng
dẫn dưới luật cụ thể về một số nhóm trẻ em còn chậm. Việc triển khai thực
hiện các chương trình, đề án về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em còn
nhiều khó khăn và hạn chế.
66
Chăm sóc sức khỏe trẻ em: gánh nặng bệnh tật và tử vong trẻ sơ sinh
còn cao; tính bền vững của chương trình tiêm chủng cho trẻ em chưa được
đảm bảo; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn cao;
tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì đang tăng nhanh ở các thành phố lớn; cán bộ y
tế chuyên ngành nhi khoa còn thiếu và yếu; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế
còn thiếu thốn nhất là tuyến cơ sở.
Về giáo dục trẻ em: chương trình học của học sinh còn nặng dạy về
kiến thức mà thiếu dạy kỹ năng sống; cơ sở vật chất trường lớp, dụng cụ học
tập, sân chơi cho học sinh còn thiếu, sự phân bổ giáo viên không đồng đều
giữa các cấp học cũng như giữa các vùng, miền; chất lượng giáo dục mầm
non vẫn còn khoảng cách khá xa giữa thành thị và nông thôn, miền núi; thiếu
sự quan tâm, chăm sóc, tư vấn về sức khỏe tinh thần cho học sinh, đặc biệt là
ở cấp THCS và THPT.
Về bảo vệ trẻ em: Hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em còn chậm
củng cố; đặc biệt ở cấp huyện, xã nên tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục,
bạo lực, tai nạn thương tích, bị lạm dụng sức lao động có xu hướng tăng thời
gian gần đây; cấu trúc hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em thiếu tính đồng bộ,
thống nhất, chưa có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và còn khác biệt giữa các
vùng, miền.
Về bảo đảm vui chơi, giải trí và thực hiện quyền tham gia của trẻ em: Điều
kiện vật chất như sân chơi, bãi tập, khu vui chơi giải trí, mạng lưới thư viện,
các thiết chế văn hóa, thể thao hầu như còn thiếu, nhất là ở cấp xã, phường,
thị trấn; việc thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em gặp nhiều khó khăn;
công tác quản lý thông tin trên mạng chưa hiệu quả; sự tham gia của trẻ em
vào các hoạt động xã hội còn hạn chế, quyền tham gia của trẻ em còn mang
tính hình thức.
Cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em cấp huyện, xã còn kiêm nhiệm,
67
không ổn định; đội ngũ cộng tác viên thôn, bản chưa được quan tâm bố trí, hỗ
trợ kinh phí, chưa được đào tạo, tập huấn thường xuyên để trang bị, bổ sung
kiến thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại cơ sở.
Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong tổ chức triển khai thực
hiện các nội dung về trẻ em ở nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức và
thiếu thường xuyên. Việc lồng ghép các chương trình, đề án về chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em hiệu quả chưa cao. Công tác thu thập thông tin số
liệu còn nhiều bất cập, còn thiếu sự tin cậy và tính đồng bộ giữa các bộ,
ngành.
Tiểu kết Chương 2
Chương 2 đã cung cấp những thông tin cơ bản nhất về tình hình trẻ em,
nhu cầu của trẻ em, nêu được thực trạng, hiệu quả của quá trình xây dựng và
thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam. Qua phân tích
thực trạng thực hiện chính sách trên, ta thấy việc thực thi chính sách bảo vệ,
chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả tích
cực như cho công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm
công tác trẻ em các cấp được quan tâm thực hiện tốt; các hoạt động truyền
thông, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành cũng như người dân, cha
mẹ và trẻ em về chính sách pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em được đẩy mạnh; ban Ban Bảo vệ trẻ em các cấp được kiện toàn và duy
trì hiệu quả hoạt động của các Mô hình Bảo vệ trẻ em...
Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện chính sách vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh
đặc biệt còn ở mức cao; việc bảo vệ trẻ em theo 3 cấp độ thực hiện chưa đồng
bộ, hiệu quả. Do đó, những kết quả,thực trạng của chương 2 là cơ sở để tác
giả đưa ra những mục tiêu, giải pháp để triển khai thực hiện tốt chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
68
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM
TỈNH QUẢNG NAM
3.1. Quan điểm, định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
3.1.1. Về quan điểm thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở
Quảng Nam
Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi đặc biệt, là chủ nhân tương lai của
nước nhà, vì vậy, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển toàn diện của trẻ không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của gia
đình, của Nhà nước mà còn của toàn xã hội.
Đối với tỉnh Quảng Nam, quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay; trẻ em được đặt vào
vị trí Trung tâm trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh. Hội nghị Tỉnh ủy
Quảng Nam, lần thứ 7, khóa XXI đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày
25/4/2017 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Nam
đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 đã nêu “Phát triển giáo dục là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển bền vững và được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hộicủa tỉnh, là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị và của toàn xã hội”.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị
69
cán bộ chủ chốt của tỉnh để quán triệt Chỉ thị 20-CT/TW và ban hành Kế
hoạch số 69-KH/TU ngày 06/02/2013 để triển khai thực hiện Chỉ thị; đồng
thời chỉ đạo các huyện, thị, thành ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện
Chỉ thị đến các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị.
Với những quan điểm nêu trên, thì định hướng quan điểm trọng tâm để
thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đến năm 2030 là:
Đặt mục tiêu phát triển trẻ em vào trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội của địa phương; ưu tiên nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu
về trẻ em. Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được thực hiện trên cơ
sở quyền và bổn phận của trẻ em gắn với trách nhiệm thực hiện và phối hợp
thực hiện các quyền trẻ em của các chủ thể nhà nước, gia đình, nhà trường và
xã hội một cách cụ thể.
Bảo đảm trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần,
đạo đức và các mối quan hệ xã hội ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc đời;
được tham gia vào các hoạt động đời sống xã hội phù hợp với độ tuổi và sự
trưởng thành. Công tác trẻ em cần được thay đổi từ phương pháp tiếp cận theo
đối tượng sang tiếp cận hệ thống đồng bộ và toàn diện, từ tiếp cận theo nhu
cầu sang tiếp cận dựa trên quyền được bảo đảm an sinh xã hội. Bảo đảm trẻ
em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, giảm thiểu các nguy cơ
bị tổn hại; phòng ngừa, phát hiện sớm và hỗ trợ, can thiệp kịp thời khi có
nguy cơ hoặc bị xâm hại.
Việc bảo vệ chăm sóc trẻ em giai đoạn 2021-2030 tập trung vào những
vấn đề quan trọng và được xác định trong kế hoạch thực hiện chương trình
nghị sự phát triển bền vững đến 2030 (SDGs) của Thủ Tướng Chính phủ,
trong bộ chỉ số xếp hạng quyền trẻ em và có tác động mạnh đến sự phát triển
toàn diện của trẻ em, không tản mạn dàn trải để tập trung nguồn lực thực hiện
có hiệu quả các mục tiêu đặt ra.
70
3.1.2. Về định hướng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở
Quảng Nam
- Mục tiêu tổng quát:
Đẩy mạnh việc phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ trẻ em
3 cấp độ, đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em cấp độ 2 và cấp độ 3; Tăng cường
khả năng tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em của trẻ em tại gia đình, cộng đồng,
trường học, cơ sở y tế, cơ sở cung cấp dịch vụ và quá trình tố tụng hình sự.
Giảm dần trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị bạo lực, xâm hại và có nguy
cơ bị bạo lực, xâm hại; Thúc đẩy việc thực hiện các quyền của trẻ em theo
quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
- Mục tiêu cụ thể: [27]
+ Giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xuống dưới 5% so với tổng
số trẻ em; trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được quản lý và có
các biện pháp can thiệp, trợ giúp kịp thời.
+Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục
hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển lên 90% vào năm 2025.
+ 100% gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và trẻ em được nâng
cao nhận thức, thay đổi hành vi và trang bị kỹ năng về bảo vệ trẻ em.
+ 100% cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp, cán bộ
làm việc tại các trung tâm, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và công tác
viên thôn, bản, khối phố được tập huấn các văn bản mới của Trung ương về
công tác trẻ em.
+ Tỷ lệ xã, phường có điểm vui chơi dành cho trẻ em đạt 100% vào
năm 2025.
+ Tỷ lệ xã, phường đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em lên
80% vào năm 2025 theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 03/01/2019 của Thủ
tướng Chính phủ.
71
+ 100% trẻ em bị bạo lực, xâm hại được tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng các
cấp.
+ 100% xã, phường, thị trấn hình thành nhóm thường trực bảo vệ trẻ
em, bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em.
+ 100% huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện có hiệu quả các
mô hình thúc đẩy quyền tham gia trẻ em, trong đó có 50% địa phương thực
hiện ít nhất 02 mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về
trẻ em (01 mô hình Diễn đàn trẻ em và 01 mô hình khác).
3.2. Giải pháp thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở
Quảng Nam
3.2.1. Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông nhằm thay đổi nhận
thức, hành vi về bảo vệ trẻ em
Đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về
BVCSTE với mục đích nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp trong xây dựng và thực hiện chương trình BVTE ở địa
phương; nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác trẻ em, gia đình, cộng
đồng và bản thân trẻ em trong việc BVCSTE, thực hiện quyền trẻ em, góp phần
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu Vì trẻ em của tỉnh Quảng Nam.Để đạt được
mục đích truyền thông trên, cần tập trung thực hiện các hình thức sau:
Một là, đa dạng hóa nội dung và mở rộng các hình thức tuyên truyền
thông qua các đợt cao điểm“Tháng hành động vì trẻ em”, “Ngày toàn dân đưa
trẻ đến trường”, “Ngày vi chất dinh dưỡng trẻ em”, “Diễn đàn quyền trẻ em”;
tổ chức các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu, cuộc thi tìm hiểu Luật trẻ
em…nhằm đưa ra các giải pháp thực hiện hiệu quả các chính sách về bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
Hai là, phối hợp với các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền,
72
phổ biến chính sách pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; biên tập và in ấn các
tài liệu, tờ rơi truyền thông về BVCSTE như: phòng chống tai nạn thương tích,
bạo lực, xâm hại trẻ em, các quy định của pháp luật về xử lý các hành vi vi
phạm trẻ em…; xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, chương
trình 01 phút vì trẻ em trên các phương tiện truyền thông tại địa phương.
Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật trẻ em; Nghị
định 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật trẻ em; Chỉ thị 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo
vệ trẻ em trong tình hình mới; Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền
trẻ em và bảo vệ trẻ em… nhằm nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của
các cấp, các ngành, gia đình, nhà trường, cộng đồng và toàn xã hội về công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Bốn là, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác trẻ em các cấp, cho
các thành viên gia đình, cộng đồng, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người
trực tiếp làm việc với trẻ em và trẻ em về các kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ
em, đặc biệt về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Giáo dục kỹ năng kỹ
năng sống cho trẻ em nhằm giúp các em ý thức được trách nhiệm của mình
đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và có kỹ năng bảo vệ mình trước các
nguy cơ bị bạo lực, xâm hại.
Năm là, tăng cường công tác truyền thông, quảng bá, phối hợp, kết nối
với Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111), Tổng đài Trung tâm
Công tâm Công tác xã hội Quảng Nam (số 18001581) để mọi người dân và
trẻ em liên hệ miễn phí khi có nhu cầu; tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ
em bị bạo lực, xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
73
3.2.2. Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm
công tác bảo vệ trẻ em các cấp.
Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác
bảo vệ trẻ em các cấp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để triển khi thực
hiện hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Để hoàn thiện được giải
pháp này, cần tập trung vào các nội dung sau:
Một là, tiếp tục kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Bảo
vệ trẻ em các cấp, trong đó ưu tiên kiện toàn, củng cố tổ chức phối hợp liên
ngành về trẻ em các cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 94 của Luật trẻ em.
Bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã trong số các công chức cấp xã
hoặc người hoạt động không chuyên trách thuộc quyền quản lý của UBND
cấp xã.
Hai là, Củng cố, kiện toàn Ban bảo vệ trẻ em các c ấp. Riêng đối với
cấp xã, phường, thị trấn trong Ban bảo vệ trẻ em thành lập nhóm thường trực
Bảo vệ, trẻ em và ban hành quy chế hoạt động để giúp UBND, chủ tịch
UBND cấp xã chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc việc giải quyết các vấn đề về trẻ
em, đặc biệt là công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em tại cơ sở. Kiện
toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ phụ trách công tác trẻ em các xã,
phường, thị trấn; xây dựng đội ngũ cộng tác viên thôn, bản, khối phố tham gia
làm tốt công tác bảo vệ trẻ em tại cộng đồng dân cư.
Ba là, Trung tâm Công tác xã hội Quảng Nam tiếp tục tăng cường hoạt
độngtruyền thông tư vấn, kết nối dịch vụ, bảo vệ trẻ em bị bạo lực, xâm hại
trongtrường hợp khẩn cấp và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ
em tại trung tâm và cộng đồng.
Bốn là, nghiên cứu, xây dựng chương trình, tài liệu và tổ chức bồi
dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em của các ban, ngành, địa phương (nhất là đối với cán bộ công
74
tác ở xã, phường, thị trấn) và đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ
em trong tình hình mới.
Năm là, Phối hợp với Tổ chức Tầm nhìn Thế giới duy trì hệ thống Bảo
vệ trẻ em các cấp; tranh thủ các nguồn lực vận động từ các tổ chức kinh tế, xã
hội để mở các lớp đào tạo, tập huấn giảng viên nguồn về các kiến thức, kỹ năng
Bảo vệ trẻ em.; xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, các dịch vụ bảo vệ,
chăm sóc trẻ em để thực hiện các mục tiêu vì trẻ em của tỉnh Quảng Nam.
3.2.3. Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên
nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em
Một là, Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em nhằm đáp
ứng nhu cầu hỗ trợ trẻ em ở 3 cấp độ là phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp. Việc
cung cấp dịch vụ này phải đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu quả đáp ứng
được điều kiện và nhu cầu cần bảo vệ của trẻ em. Duy trì hoạt động của
Trung tâm Công tác xã hội trẻ em, các văn phòng tư vấn trẻ em, điểm tư vấn
cộng đồng, điểm tư vấn trường học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung
cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Hai là, Tạo môi trường thuận lợi để thực hiện toàn diện quyền trẻ em;
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em; tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng
thời mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ
em; lồng ghép, đưa các nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các cấp, các ngành, cụ thể hóa bằng các chỉ
tiêu và gắn với nguồn lực nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Ưu tiên
hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em vùng
nông thôn nghèo, vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.
Ba là, Xây dựng và nhân rộng mô hình hiệu quả về bảo vệ, chăm sóc
75
trẻ em dựa vào cộng đồng; mô hình thúc đẩy sự tham gia của trẻ em...; đảm
bảo cho mọi trẻ em, đặc biệt là trẻ em có nguy cơ cao bị hạn chế phát triển
bình thường về thể chất, tinh thần, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tiếp cận các
dịch vụ này thuận lợi, hiệu quả.
Bốn là, duy trì và phát huy tốt vai trò, chức năng của các Văn phòng tư
vấn trẻ em, điểm tư vấn cộng đồng và điểm tư vấn trường học; xây dựng và
nhân rộng các mô hình bảo vệ trẻ em, mô hình thúc đẩy quyền tham gia của
trẻ em tại cộng đồng tạo điều kiện cho trẻ em bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, trao
đổi, đối thoại về các vấn đề liên quan đến trẻ em tại địa phương; đẩy mạnh
việc xây dựng mô hình Ngôi nhà an toàn, Trường học an toàn, Cộng đồng an
toàn nhằm cải tạo môi trường sống bảo đảm an toàn phòng, chống bạo lực,
xâm hại và tai nạn, thương tích cho trẻ em.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Để triển khai thực hiện hiệu quả những giải pháp này, cần triển khai
thực hiện các nội dung sau:
Một là, Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền,các Sở, ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em trong tình hình mới;đặc biệt là ở cấp cơ sở, trong đó cần
chú trọng công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; chỉ đạo lồng ghép
các chỉ tiêu về thực hiện quyền trẻ em vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương, đơn vị; huy độngvà sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
đầu tư nhằm bảo đảm quyền trẻ em, tạo môi trường sống an toàn và lành
mạnh cho trẻ em.
Hai là, Tăng cường phối hợp liên ngành, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn
thực hiện pháp luật, chính sách về trẻ em ở địa phương; đặc biệt là công tác
kiểm tra việc thực hiện quyền trẻ em ở các điểm có đông trẻ em như trường
76
học, nhóm trẻ gia đình, Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em, các cơ sở nuôi dưỡng
trẻ em dân lập... ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm quyền trẻ em
trên địa bàn tỉnh. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Ba là, hình thành được cơ chế phối hợp liên ngành và mạng lưới xã hội
về bảo vệ trẻ em, phòng chống bạo lực, xâm hại tình dục giữa Ngành Lao
động –Thương binh và Xã hội và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc
thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng, chống bạo lực, xâm hại
tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh.
3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa trong thực hiện chính
sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa trong thực hiện chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ
thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình
hình mới nêu rõ “Đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em theo hướng nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cộng đồng
dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội. Khuyến khích sự đóng góp của các
doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cho các hoạt động và công trình dành cho
trẻ em”. Chính vì vây, để thực hiện tốt giải pháp này cần tập trung vào những
nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người
dân, và toàn xã hội đối với công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em.
Xây dựng các chương trình đào tạo, huấn luyện, hỗ trợ cho các bậc phụ
huynh, cha, mẹ, người chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em nắm tiếp cận được cách
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các
chương trình, kế hoạch, các mục tiêu cụ thể phù hợp với từng địa phương
77
nhằm nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và xã hội trong
việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Hai là, phát động phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” nhằm thúc đẩy các tầng lớp nhân dân có trách
nhiệm tham gia xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện với trẻ
em. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các đoàn thể xã hội
bằng các hoạt động cụ thể như tổ chức diễn đàn trẻ em tại trường học; tọa
đàm trao đổi kinh nghiệm, giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các trường…..
Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách thúc đẩy xã hội hóa
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Vận động và tạo điều kiện cho các đoàn
thể, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế tham gia bảo vệ,
chăm sóc trẻ em; Ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, khuyến khích
sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cho các hoạt động và
công trình dành cho trẻ emđặc biệt là các công trình, dự án trợ giúp trẻ em mồ
côi, khuyết tật dựa vào cộng đồng.
Bốn là, Từng bước mở rộng chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội nhằm tạo cơ hội cho mọi trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục dưới
các hình thức khác nhau, ưu tiên nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và có
nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; củng cố và phát triển hệ thống cung cấp
dịch vụ, chăm sóc trẻ em; xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho
trẻ em; nâng cao mức trợ cấp xã hội và mở rộng đối tượng thụ hưởng đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo cơ hội để trẻ em phục hồi và hòa nhập cộng
đồng.
Năm là, Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em hàng năm, giữa kỳ và cuối kỳ; phát
hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quyền trẻ em.
78
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 đã nêu quan điểm, định hướng của tỉnh Quảng Nam đối với
công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong thời gian qua. Để nâng cao hiệu quả
việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên cơ sở cụ thể hóa
những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, định hướng phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh và tình hình thực tế của địa phương. Luận văn đề xuất 5
giải pháp chính sách gồm (Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông nhằm thay
đổi nhận thức, hành vi về bảo vệ trẻ em; Củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao
năng lực cho đội ngũ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp; Phát triển hệ thống
cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu
cầu cần sự bảo vệ của mọi trẻ em; Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong
việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Tăng cường hợp tác quốc tế
và xã hội hóa trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em) nhằm hoàn
thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Những giải pháp của tác giả đề
ra sẽ góp phần khắc phục những hạn chế của những chính sách đã được ban
hành, nhằm thực hiện đạt các mục tiêu, chỉ tiêu vì trẻ em trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
79
KẾT LUẬN
Sự nghiệp Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và
toàn xã hội. Đầu tư cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em là đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực trong tương lai góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ những vấn đề lý luận về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam
trong những năm qua, thực trạng thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh
Quảng Nam đạt được từ 2016-2020 cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn có nhiều
chủ trương, chính sách ưu tiên dành cho trẻ em, tạo mọi điều kiện để trẻ em được
phát triển toàn diện và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em. Các chính
sách bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và
Nhà nước ta đối với trẻ em, trẻ em được hưởng thụ nhiều chính sách và đạt được
những kết quả tích cực; việc ban hành các chính sách, đề án, chương trình với mục
đích xây dựng hành lang pháp lý chuẩn mực, là cơ sở cho việc bảo đảm và thúc đẩy
có hiệu quả việc thực hiện các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; nhận thức của
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được
nâng lên, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu của chính sách còn nhiều hạn chế,
bất cập cần phải khắc phục nhất là đối với cấp cơ sở.
Với tỉnh Quảng Nam, việc ban hành và triển khai thực hiện các chính sách bảo
vệ, chăm sóc trẻ em luôn được Đảng, Chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam
quan tâm, chỉ đạo và đạt được một số kết quả đáng kể như: tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt giảm 0,45% (từ 5,73% cuối năm 2016 xuống còn 5,28% năm 2019); tỷ lệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc tăng 3,1% (từ 84,6% cuối năm 2016
lên 87,7% năm 2019); 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thuộc đối tượng trợ giúp
xã hội của Nhà nước được hưởng các chế độ theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP
ngày 21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã
hội. Việc xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em được thực hiện có hiệu quả, đến
cuối năm 2018 có 223/244 xã, phường, thị trấn được công nhận xã, phường, thị trấn
phù hợp với trẻ em đạt tỷ lệ 91% tăng 10,3% so với năm 2016; các hoạt động Vì trẻ
80
em đã được đầu tư hiệu quả, tập trung; hoạt động tập huấn nâng cao năng lực và
truyền thông, tư vấn được đẩy mạnh; các vụ việc vi phạm quyền trẻ em được giải
quyết kịp thời; hình thành được hệ thống Bảo vệ trẻ em từ tỉnh đến huyện, thị xã,
thành phố và xã, phường, thị trấn…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn những khó khăn, tồn tại như: Một số địa
phương chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cộng tác viên
làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, dẫn đến nhiều xã/phường/thị trấn không có
mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, vì vậy gây khó khăn
trong việc theo dõi, nắm bắt tình hình, thu thập số liệu về bảo vệ, chăm sóc trẻ em
tại địa phương, chưa kịp thời phát hiện, can thiệp các vụ việc vi phạm quyền trẻ em
trên địa bàn; tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại, tai nạn thương tích, vi phạm pháp
luật có chiều hướng gia tăng do nhận thức của cha mẹ, gia đình, xã hội đối với việc
bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa cao; Khu vui chơi, giải trí dành cho trẻ em còn thiếu
và hoạt động chưa hiệu quả nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn. Kinh phí hỗ trợ từ
ngân sách của Nhà nước dành cho công tác Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
chưa đáp ứng được yêu cầu; còn nhiều huyện, xã chưa bố trí được khoản ngân sách
cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Với tinh thần đó, năm 2020 là năm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào năm 2021, công tác Bảo vệ, chăm sóc
trẻ em sẽ được bổ sung điều chỉnh về chế độ, chính sách phù hợp tốt hơn trong điều
kiện nền kinh tế của đất nước đang phát triển. Về tổ chức bộ máy, mạng lưới làm
công tác BVCSTE sẽ được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm hơn, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác BVCSTE tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói
chung sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giai đoạn 2021-2025.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO