BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------

NGUYỄN TRUNG THÀNH

ĐÁNH GIÁ DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC PPP: NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG CÁC DỰ ÁN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Chính sách công Mã số

: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Huỳnh Thế Du

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014

-i-

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu sử dụng

trong luận văn đều được dẫn nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của

tôi. Luận văn này không nhất thiết phải phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 5 năm 2014

Học viên

Nguyễn Trung Thành

-ii-

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành với sự hỗ trợ của các Quí thầy cô, Học viên Chương

trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Đầu tiên, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Quí thầy cô giảng dạy tại Chương trình

Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa

học vừa qua.

Đặc biệt, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc Thầy Huỳnh Thế Du vì đã tận tình

hướng dẫn và phản biện đề tài, giúp tôi định hướng đúng đắn trong suốt quá trình thực hiện

luận văn.

Tôi chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Xuân Thành, người đã định hướng cho tôi trong

những giai đoạn đầu hình thành đề tài luận văn.

Cuối cùng, tôi gửi lời cảm ơn đến các anh chị học viên chương trình Fulbright luôn

đồng hành với tôi trong suốt quá trình học tập và đã có những góp ý và nhận xét chân

thành giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 5 năm 2014

Nguyễn Trung Thành

-iii-

TÓM TẮT

PPP (Public-Private Partnerships) là sự hợp tác giữa khu vực công và tư, hình thức này

thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào Cơ sở hạ tầng (CSHT) nhằm giảm bớt áp lực

cho nguồn vốn của nhà nước. PPP đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, cả ở các

nước phát triển và các nước đang phát triển. Tuy vậy, bên cạnh một số dự án được đầu tư

theo hình thức này thành công thì cũng không ít các dự án đã gặp thất bại với nhiều lý do

liên quan đến cả trách nhiệm của nhà nước và nhà đầu tư.

Ở Việt Nam, tình trạng nợ công cao nên việc thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân vào

CSHT rất cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hình thức PPP đã bắt đầu được

thực hiện từ đầu những năm 1990, đầu tiên là dự án Phú Mỹ Hưng. Cho đến nay rất nhiều

dự án theo hình thức này được triển khai trên cả nước, các hình thức hợp đồng dự án chủ

yếu đã và đang được thực hiện là BOT, BT, BOO. Tuy vậy, hầu hết các dự án đã và đang

được triển khai đều gặp trục trặc như thời gian thi công kéo dài, chi phí đầu tư tăng cao,

tranh chấp hợp đồng giữa nhà nước và chủ đầu tư... Nguyên nhân của những phát sinh này

là các vấn đề liên quan đến sự lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án PPP chưa hiệu quả, trách

nhiệm của cả nhà nước đối với việc thực hiện cam kết cũng như quản lý và giám sát nhà

đầu tư thực hiện đúng hợp đồng và giải quyết các tranh chấp còn nhiều bất cập.

Cơ sở pháp lý quan trọng cho PPP dự kiến được ban hành tháng 5/2014 trên cơ sở kết

hợp Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg. Khung pháp lý này giải

quyết được hiểu nhầm về PPP và một số rào cản cho thu hút đầu tư theo hình thức PPP.

Tuy nhiên, một số vấn đề chưa có qui định rõ ràng như vẫn tồn tại qui định cho chỉ định

thầu, trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện hợp đồng cũng như giám sát của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và chưa có các qui định cụ thể đối

với các .

Khắc phục các trục trặc trên giúp các nhà đầu tư có năng lực tin tưởng tham gia vào các

dự án CSHT ở Việt Nam. Tuy nhiên, khó có thể có một khung pháp lý hoàn hảo cho tất cả

các dự án PPP. Để thành công, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các bên cho thực hiện dự

án theo hình thức này.

-iv-

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... ii

TÓM TẮT ............................................................................................................................ iii

MỤC LỤC ........................................................................................................................... iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. vi

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ..................................................................................... viii

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH ......................................................................................... ix

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................................. 1

1.1. Bối cảnh chính sách ...................................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 3

1.3. Câu hỏi nghiên cứu ....................................................................................................... 3

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 3

1.5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 4

1.6. Bố cục luận văn ............................................................................................................ 4

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÁP LÝ ................ 5

2.1. Một số khái niệm về PPP ............................................................................................. 5

2.1. Những lợi ích và thách thức của hình thức PPP đối với việc phát triển CSHT ........... 5

2.1.1. Những lợi ích của PPP ............................................................................................. 6

2.1.2. Những thách thức của PPP ........................................................................................ 7

2.2. Khung pháp lý cho đầu tư CSHT theo hình thức PPP ................................................. 7

2.3. Tổng quan các nghiên cứu về PPP ............................................................................... 8

2.3.1. Các nghiên cứu ngoài nước ....................................................................................... 8

-v-

2.3.2. Các nghiên cứu trong nước ........................................................................................ 9

CHƯƠNG 3: CÁC RÀO CẢN THU HÚT ĐẦU TƯ CSHT THEO HÌNH THỨC PPP

Ở VIỆT NAM ..................................................................................................................... 11

3.1. Rào cản chính sách về PPP ......................................................................................... 11

3.2. Rào cản từ các dự án PPP ........................................................................................... 12

3.2.1. Dự án khu đô thị Phú Mỹ Hưng ............................................................................... 12

3.2.2. Dự án BOT Cầu Bình Triệu 2 .................................................................................. 15

3.2.3. Dự án BOT Nhiệt điện Vân Phong 1 ........................................................................ 17

3.2.4. Dự án BOO Nhà máy nước Thủ Đức ....................................................................... 19

3.2.5. Dự án BOT Cầu Phú Mỹ .......................................................................................... 20

3.3. Kết luận ...................................................................................................................... 22

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ NGHỊ ĐỊNH PPP MỚI ĐỐI VỚI THU HÚT ĐẦU TƯ CƠ

SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM .......................................................................................... 23

4.1. Vấn đề ban hành chính sách ....................................................................................... 23

4.2. Vấn đề lựa chọn nhà đầu tư ........................................................................................ 23

4.3. Trách nhiệm thực hiện cam kết của nhà nước ............................................................ 25

4.4. Quản lý và giám sát nhà đầu tư .................................................................................. 27

4.5. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp .......................................................................... 29

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................ 31

5.1. Kết luận ...................................................................................................................... 31

5.2. Khuyến nghị ............................................................................................................... 31

5.3. Hạn chế của đề tài ...................................................................................................... 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 34

PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 39

-vi-

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tên Tiếng Anh Tên Tiếng Việt

ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á

BOO Built – Own – Operation Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh

BOT Built – Operation – Transfer Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao

BT Built – Transfer Xây dựng – Chuyển giao

BTO Built – Transfer – Operation Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh

Cienco Civil Engineering Construction Corporation Tổng công ty Xây dựng Công trình Giao thông

CII Ho Chi Minh City Infrastructure Investment Joint Stock Company Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

CSH Owners Chủ sở hữu

CSHT Infrastructure Cơ sở hạ tầng

CT&D Central Trading & Development

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

GPMB Giải phóng mặt bằng

IRR Internal Rate of Return Suất sinh lợi nội tại

MPI Bộ Kế hoạch và đầu tư Ministry of Planning and Investment

-vii-

NHTG Worldbank Ngân hàng thế giới

NPV Net Present Value Giá trị hiện tại ròng

ODA Official Development Assistant Hỗ trợ phát triển chính thức

PMC Phu My Company Công ty Cổ phần BOT Cầu Phú Mỹ

PMH Phú Mỹ Hưng

PPP Public-Private Partnership Hợp tác công-tư

SAWACO Saigon Water Company Công ty cấp nước Sài Gòn

TDW Thu Duc Water Nhà máy nước Thủ Đức

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh

UBND Ủy ban nhân dân

-viii-

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1-1: Nguồn vốn đầu tư cho CSHT giai đoạn 2000-2010 ........................................... 1

Bảng 1-2: Đầu tư của tư nhân vào 4 ngành CSHT giai đoạn 1990 – 2012 (triệu USD) ..... 2

Bảng 3-1: Các loại hợp đồng phổ biến của hình thức PPP ................................................ 11

-ix-

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

Hình 3-1: Bản đồ minh họa Khu đô thị Phú Mỹ Hưng ..................................................... 14

Hình 3-2: Dự án BOT Cầu Bình Triệu 2 ........................................................................... 16

Hình 3-3: Mô hình dự án BOT Nhiệt điện Vân Phong 1 .................................................. 18

Hình 3-4: Dự án BOO Nhà máy nước Thủ Đức ............................................................... 19

Hình 3-5: Dự án BOT Cầu Phú Mỹ................................................................................... 21

-1-

CHƯƠNG 1:

GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh chính sách

Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có Cơ sở hạ tầng (CSHT) kém phát

triển, báo cáo Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới giai đoạn 2013-2014 đã

xếp hạng Việt Nam đứng thứ 110/148 quốc gia về chất lượng CSHT tổng hợp, trong đó

chất lượng hệ thống Cảng biển đứng thứ 98/148; giao thông đường bộ đứng thứ 102/148

và hệ thống cung cấp điện đứng thứ 95/148. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), để đáp

ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cần phải đầu tư nhiều hơn nữa để

phát triển CSHT. Trong giai đoạn 2000-2010, tổng vốn đầu tư phát triển CSHT của Việt

Nam khoảng 9-10% GDP. Trong giai đoạn 2010-2020, mỗi năm cần từ 16-17 tỷ USD cho

phát triển CSHT, trong khi nguồn ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 50-60% nguồn vốn

này. Sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư cho CSHT trong thời gian tới tương đối lớn do nguồn

vốn từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA bị giảm sút, nên việc huy động vốn bổ sung

từ nguồn đầu tư tư nhân trong nước hết sức quan trọng, giúp giảm gánh nặng của ngân

sách nhà nước cho sự thiếu hụt nguồn vốn phát triển CSHT.

Bảng 1-1: Nguồn vốn đầu tư cho CSHT giai đoạn 2000-2010

Nguồn: MPI

Nhằm huy động nguồn vốn cho phát triển CSHT, Chính phủ khuyến khích mọi nguồn

lực trong và ngoài nước, từ các thành phần kinh tế và dưới nhiều hình thức khác nhau như:

tư nhân hóa, thu hút đầu tư nước ngoài... đặc biệt chú trọng áp dụng hình thức hợp tác

-2-

công-tư (PPP) đối với các CSHT có nguồn vốn đầu tư lớn như Cảng hàng không, Cảng

biển, sân bay mới, đường cao tốc… Theo thống kê từ NHTG, tổng số vốn đầu tư từ khu

vực tư nhân vào 4 ngành chính trong CSHT của Việt Nam là: nước và nước thải, giao

thông, viễn thông, năng lượng đạt trên 11 tỷ USD. Trong đó, ngành năng lượng chiếm đến

70% tổng nguồn vốn đầu tư từ khu vực này. Đặc biệt lĩnh vực giao thông chỉ thu hút được

hơn 1,2 tỷ USD là một con số rất khiêm tốn so với tình trạng hạ tầng giao thông kém phát

triển hiện nay.

Bảng 1-2: Đầu tư của tư nhân vào 4 ngành CSHT giai đoạn 1990 – 2012 (triệu USD)

Nguồn: NHTG, 2013

Việc kêu gọi đầu tư theo hình thức PPP để phát triển CSHT đã được thực hiện từ đầu

thập niên những năm 1990, mới nhất là Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư phát triển

các công trình CSHT thực hiện theo hình thức hợp đồng: Xây dựng – Kinh doanh –

Chuyển giao (BOT), Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (BTO), Xây dựng – Chuyển

giao (BT), đã tạo ra một làn sóng nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư CSHT. Tuy nhiên, tính

cho đến nay chỉ triển khai được khoảng 300 dự án theo các loại hợp đồng trên. Theo Quyết

định số 2310/QĐ-BGTVT ngày 21/9/2012, Bộ GTVT đã công bố 15 danh mục dự án mở

rộng quốc lộ 1A theo hình thức hợp đồng BOT năm 2012 với tổng mức đầu tư 25.220 tỷ

đồng. Các Địa phương cũng lần lượt đưa ra các danh mục đầu tư nhằm kêu gọi đầu tư vào

CSHT tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực giao thông và cấp thoát nước, TPHCM là một

-3-

trong những Địa phương kêu gọi đầu tư nhiều nhất với 42 dự án và tổng vốn đầu tư hơn

150 ngàn tỷ đồng.

Chính phủ bắt đầu thí điểm PPP với việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình

thức PPP (ban hành kèm theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg, ngày 9/11/2010, có hiệu

lực từ ngày 15/1/2011). Từ khi ban hành quyết định này đến nay đã được ba năm, được sự

ủng hộ của nhiều tổ chức tài trợ như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế

giới (NHTG)... Tuy vậy, cho đến nay chưa có một dự án nào được triển khai theo chính

sách này.

Sự tồn tại song song giữa Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg

đã tạo ra sự hiểu nhầm giữa PPP và các hợp đồng BOT, BTO, BT; trong khi các nhà làm

chính sách cũng như các nhà đầu tư ở Việt Nam đã quen với chính sách thu hút đầu tư

BOT, BTO, BT nên việc ra đời khung pháp lý PPP đã làm các nhà đầu tư lo ngại về hình

thức này. Do đó, việc tìm kiếm nhà đầu tư đang là những thách thức không nhỏ đối với các

dự án thực hiện theo hình thức PPP ở Việt Nam.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài nhằm xác định những rào cản đối với quá trình thực hiện các dự án

PPP để phát triển CSHT ở Việt Nam. Từ đó, thực hiện đánh giá dự thảo Nghị định mới về

PPP mới trên cơ sở thống nhất hai Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định

71/2010/QĐ-TTg trong việc giải quyết những rào cản trên, giúp hoàn thiện khung pháp lý

về PPP.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

(1) Đâu là những rào cản cho đầu tư CSHT theo hình thức PPP trong thời gian qua?

(2) Liệu việc ban hành nghị định PPP mới trên cơ sở thống nhất nghị định

108/2009/NĐ-CP và quyết định 71/2010/QĐ-TTg có giải quyết được những vấn đề trên

không?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề gây trở ngại đối với thu hút đầu tư theo

hình thức PPP cho sự phát triển CSHT ở Việt Nam.

-4-

Phạm vi nghiên cứu là các Nghị định, Quyết định, dự thảo Nghị định mớ và các dự án

đã và sẽ được triển khai theo hình thức PPP trên lãnh thổ Việt Nam.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định tính và nghiên cứu tình huống. Các

nghiên cứu định tính nhằm xác định các rào cản đối với các dự án đầu tư và phát triển

CSHT theo hình thức PPP ở Việt Nam và đánh giá việc hoàn thiện của dự thảo Nghị định

mới về PPP. Phân tích tình huống giúp chỉ rõ các rào cản thực tế mà các dự án đã thực hiện

gặp phải những vướng mắc cũng như các bài học liên quan giúp giải quyết tốt hơn đối với

những rào cản này.

1.6. Bố cục luận văn

Kết cấu của nghiên cứu này gồm năm chương chính:

- Chương 1 thực hiện trình bày tổng quan về bối cảnh nghiên cứu, phạm vi và mục tiêu

nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và các phương pháp nghiên cứu.

- Chương 2 trình bày một số khái niệm, vai trò, rào cản đầu tư CSHT theo hình thức

PPP.

- Chương 3 tìm hiểu quá trình phát triển các dự án PPP ở Việt Nam và phân tích các

trục trặc đối các dự án đã và đang thực hiện theo hình thức PPP ở Việt Nam.

- Chương 4 đánh giá việc khắc phục các trục trặc hiện tại của Nghị định mới nhằm thu

hút tốt hơn nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư cho CSHT theo hình thức PPP.

- Chương 5 đưa ra kết luận và đề xuất một số khuyến nghị chính sách từ kết quả nghiên

cứu đạt được cũng như những hạn chế của luận văn.

-5-

CHƯƠNG 2:

TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÁP LÝ

2.1. Một số khái niệm về PPP

PPP là hợp tác công-tư, theo đó nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu tư vào

các dịch vụ hoặc công trình công cộng. Trong PPP, nhà nước chỉ đưa ra yêu cầu cho cung

ứng dịch vụ công và khu vực tư nhân sẽ thiết kế, tài trợ, sở hữu, vận hành các phương tiện

để thỏa mãn các yêu cầu của nhà nước. Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD,

2008) đã khẳng định, PPP là thỏa thuận giữa chính phủ và đối tác tư nhân, trong đó đối tác

tư nhân có trách nhiệm cung cấp dịch vụ phù hợp với mục tiêu của chính phủ và mục tiêu

lợi nhuận của đối tác tư nhân, và sự phù hợp này tùy thuộc vào việc chuyển giao rủi ro cho

đối tác tư nhân.

Theo NHTG (2003), PPP mang một ý nghĩa rất rộng, mỗi dự án PPP liên quan đến một

sự chia sẻ rủi ro, trách nhiệm, khen thưởng và được thực hiện trong các trường hợp mang

lại lợi ích cho người nộp thuế... Hình thức PPP có thể là một phương tiện thúc đẩy phát

triển CSHT để tạo điều kiện cho sự phát triển hoặc cải thiện năng lượng, nước, giao thông,

viễn thông và công nghệ thông tin thông qua sự tham gia của các khu vực tư nhân và nhà

nước.

Các đặc điểm chủ yếu liên quan đến các hình thức hợp tác giữa khu vực công và khu

vực tư được ràng buộc bởi các mô hình hợp đồng khác nhau, các loại hợp đồng phổ biến

của hình thức PPP bao gồm: Nhượng quyền khai thác, Thiết kế – Xây dựng – Tài trợ –

Vận hành (DBFO), BOT, BTO, Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (BOO). Việc thực hiện

theo các loại hợp đồng dựa và mức độ tham gia và và chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và tư

nhân. Mô hình hợp đồng của các dự án PPP giữa nhà nước và tư nhân thể hiện ở hợp đồng

được ký kết giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp thực hiện dự án

(do các nhà đầu tư thành lập) ở phụ lục 2.

2.1. Những lợi ích và thách thức của hình thức PPP đối với việc phát triển CSHT

Có nhiều quan điểm khác nhau trong việc khẳng định vai trò của PPP đối với phát triển

CSHT ở các quốc gia, các nghiên cứu và kinh nghiệm ở các quốc gia cho thấy, PPP tuy có

mang lại một số lợi ích nhưng cũng có một số thách thức khi thực hiện hình thức này.

-6-

2.1.1. Những lợi ích của PPP

Theo ADB (2008) và các đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu khác, PPP được coi là

hình thức thu hút vốn hiệu quả để đầu tư phát triển CSHT, một số lợi ích được tích luỹ

thông qua PPP bao gồm việc tiếp cận nguồn vốn tư nhân, tăng giá trị đồng tiền, hoàn thành

dự án đúng tiến độ và cải thiện chất lượng dịch vụ. Các nghiên cứu của Hensher và Brewer

(2001), Raisbeck (2009) đã khẳng định vai trò của PPP có thể góp phần cải thiện nền kinh

tế của quốc gia. Theo Jamali (2005), Lewis và Grimsey (2004), lý do cho sự lan tỏa của

PPP là mong muốn nâng cao chất lượng dịch vụ, ổn định chi phí cung cấp dịch vụ, giảm áp

lực ngân sách và tăng hiệu quả của khu vực công không có yếu tố tư nhân hóa.

Nghiên cứu của Miller (2000) đã kết luận, việc phát triển CSHT phụ thuộc hoàn toàn

vào khu vực công ít có khả năng bền vững trong dài hạn. Khu vực công đầu tư cho CSHT

có thể gây ra các vấn đề như chậm và không hiệu quả trong quyết định, khuôn khổ tổ chức

và thể chế không tốt, thiếu cạnh tranh và hiệu quả, điều này được gọi chung là thất bại của

chính phủ. Việc phát triển CSHT phụ thuộc vào khu vực tư cũng gây ra các vấn đề như sự

bất bình đẳng trong việc phân phối các dịch vụ CSHT, đây được gọi là thất bại thị trường.

Để khắc phục cả hai thất bại của chính phủ và thất bại thị trường, một cách tiếp cận theo

hình thức PPP có thể kết hợp những thế mạnh của cả khu vực công và khu vực tư.

Theo European Commission (2003), chất lượng các dự án thực hiện theo hình thức PPP

thường tốt hơn so với các hình thức truyền thống do các qui định của PPP rõ ràng về chất

lượng cung cấp dịch vụ hay ứng dụng các công nghệ mới trong việc cung cấp dịch vụ.

Nghiên cứu của Colverson và Perera (2012) cũng đã chỉ ra lợi thế của các bên khi tham gia

vào PPP, nhà nước có lợi thế về ban hành chính sách và quản trị, trong khi lợi thế của tư

nhân là về thiết kế, xây dựng, vận hành và quản lý. Giảm áp lực ngân sách trong việc cải

thiện cơ sở vật chất và dịch vụ công cộng, khai thác nguồn tài chính từ khu vực tư nhân và

đảm bảo sử dụng hiệu quả giá trị của đồng vốn (Lewis và Grimsey, 2004). Điều quan trọng

cho PPP được thực hiện là làm tăng hiệu quả của dự án hơn là nhằm giúp giảm áp lực ngân

sách vì PPP hạn chế sự lựa chọn của các người ra quyết định trong tương lai (McQuaid và

Scherrer, 2008).

-7-

Ngoài ra, theo đánh giá của European Commission (2003), PPP còn mang lại một số lợi

ích khác như phân bổ và quản lý rủi ro hiệu quả, tiết kiệm chi phí, giảm thời gian thực hiện

dự án, ít tham nhũng…

2.1.2. Những thách thức của PPP

Theo nghiên cứu của Colverson và Perera (2012), hình thức PPP làm giảm tính cạnh

tranh do các tiêu chuẩn đặt ra đối với các dự án cao hơn so với đầu tư công thông thường

như tài chính, kinh nghiệm… làm cho chi phí đấu thầu, chuẩn bị dự án cao, trong khi thời

hạn hợp đồng kéo dài nên khó có thể tìm được các nhà đầu tư từ khu vực tư nhân đáp ứng

được các tiêu chuẩn này. Do đó nhà nước chỉ lựa chọn được một số đối tác tư nhân và sẽ

dẫn đến tình trạng độc quyền của một số nhà đầu tư đáp ứng được các tiêu chuẩn này.

Bên cạnh đó, theo đánh giá của các tác giả trên, việc áp dụng hình thức PPP có thể gây

lãng phí so với mô hình đầu tư truyền thống do các chi phí đấu thầu, đàm phán hợp đồng,

tư vấn pháp lý cao và lãi suất đi vay của khu vực tư nhân cũng cao hơn so với nhà nước đi

vay… Điều này sẽ dẫn tới việc người sử dụng dịch vụ sẽ phải trả những mức phí của mô

hình PPP cao hơn so với mô hình đầu tư công thông thường.

Đánh giá của Ministry of Municipal Affairs (1999), hình thức PPP cũng gây ra các vấn

đề mâu thuẫn, tranh chấp hợp đồng giữa nhà nước và tư nhân do tính chất dài hạn và phức

tạp của hình thức này. Ngoài ra, hình thức này còn liên quan đến quyền kiểm soát các dự

án do việc để tư nhân thực hiện các dự án CSHT có thể làm mất khả năng kiểm soát của

nhà nước đối với việc phát triển kinh tế-xã hội của dự án.

2.2. Khung pháp lý cho đầu tư CSHT theo hình thức PPP

Trong khuôn khổ pháp lý của Quỹ hỗ trợ phát triển CSHT công-tư (PPIAF) khuyến cáo,

để tận dụng lợi thế tiềm năng từ khu vực công và khu vực tư cũng như phát triển bền vững

các dự án PPP đối với CSHT, các Chính phủ cần phải:

 Xây dựng một chính sách PPP rõ ràng;

 Thiết lập một đơn vị chuyên trách về PPP;

 Áp dụng qui trình rõ ràng và xác định trách nhiệm cho việc thực hiện và phát triển

PPP;

-8-

 Thiết lập cơ chế đánh giá khuôn khổ PPP;

 Thiết lập các nguyên tắc pháp lý cho khuôn khổ PPP thông qua đạo luật PPP.

Như vậy, vấn đề thiết lập một cơ chế pháp lý cho phát triển PPP là rất quan trọng, đòi

hỏi sự nỗ lực từ các cơ quan Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách, quản lý,

cung cấp các dịch vụ rõ ràng, công khai và minh bạch để góp phần thu hút khu vực tư nhân

tham gia đầu tư vào CSHT.

2.3. Tổng quan các nghiên cứu về PPP

2.3.1. Các nghiên cứu ngoài nước

Theo tổ chức Liên Hợp Quốc (2008), các dự án PPP thường có thời gian rất dài nên sẽ

chịu nhiều rủi ro, do đó để thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân, nhà nước cần cam kết về

việc phải có yêu cầu bắt buộc đối với việc chia sẻ lợi ích, chi phí và rủi ro với khu vực tư

nhân. Estache và de Rus (2000) cho rằng, trong lĩnh vực CSHT, khung pháp lý đầy đủ và

minh bạch rất quan trọng vì vốn đầu tư lớn được cung cấp bởi các nhà đầu tư nước ngoài,

thời gian hoàn vốn kéo dài (khoảng 25 năm) làm tăng nguy cơ tranh chấp hợp đồng. Các

nhà hoạch định chính sách phải nhận thức được những mong đợi của nhà đầu tư, các rào

cản và thách thức của PPP (Hwang và Chen, 2004).

Theo nghiên cứu của Yescombe (2007), Chính phủ giữ vai trò rất quan trọng trong việc

phát triển và quản lý các dự án PPP, một cơ chế không phù hợp và/hoặc năng lực chính

phủ kém đều dẫn đến thất bại. Nhiệm vụ của các chính phủ là phải tạo lập những điều kiện

thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư tham gia vào PPP, cụ thể: môi trường đầu tư hấp dẫn, đó

là sự hài lòng của các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào môi trường dự án được triển khai.

Chính phủ cần tạo lập một môi trường đầu tư thuận lợi với điều kiện xã hội, pháp luật, kinh

tế và tài chính ổn định. Ngoài ra, theo nghiên cứu của Qiao và các tác giả (2001) khẳng

định, một khung pháp lý đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công

của PPP nhằm gia tăng niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo dự án hiệu quả, phân chia

rủi ro phù hợp và tránh những rủi ro tiềm tàng. Chính phủ cần thiết thành lập một cơ quan

trung tâm hòa giải các xung đột, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư nước ngoài với chính

quyền (Khulumane, 2008). Tích cực tham gia trong suốt vòng đời dự án để đảm bảo đáp

ứng các mục tiêu của Chính phủ, đó là khẳng định của Gildenhuys và Knipe (2000).

-9-

Nghiên cứu của Jongyearn Lee thuộc trung tâm Đầu tư hạ tầng công tư (PIMAC) của

Viện phát triển Hàn quốc cho thấy, kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc huy động và sử

dụng vốn là sự hỗ trợ của chính phủ cho các dự án PPP. Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành

các chính sách hỗ trợ tài chính và chia sẻ các rủi ro cho các dự án PPP bằng các Cơ chế

thuế, thu hồi đất, trợ giá xây dựng, chia sẻ rủi ro đảm bảo doanh thu tối thiểu, thanh toán

khi hoàn thành sớm. Sự hỗ trợ của chính phủ theo từng loại dự án. Ngoài ra, yếu tố quyết

định cho thành công cho các dự án là khung thể chế hợp lý (Qui trình triển khai rõ ràng và

minh bạch theo qui định của đạo luật PPP và hướng dẫn triển khai, tăng cường khả năng

tiên lượng cho dự án và xác định rõ vai trò của các cơ quan khác nhau trong chính phủ)...

Australia là quốc gia có nhiều kinh nghiệm đối với hình thức PPP với khung chính sách

vững chắc được áp dụng đồng bộ cho các cơ quan chính phủ ở các Bang với các tài liệu

hướng dẫn chi tiết, áp dụng nguyên tắc phân bổ rủi ro chặt chẽ (các hợp đồng PPP nhận

diện tất cả các rủi ro của dự án, phân bổ rủi ro công khai và tối ưu). Bên cạnh đó, theo mô

hình này không có tìm kiếm mô hình PPP cho các dự án mà dựa trên so sánh các phương

pháp mua sắm truyền thống với phương án PPP. Các qui trình đấu thầu đối với các dự án

PPP đã sử dụng chiến lược tăng cường hiệu quả (cắt giảm chi phí chuẩn bị đấu thầu, tuân

thủ chặt chẽ các qui định về thời gian, chuẩn hóa hợp đồng và giảm số lượng tài liệu hồ sơ

cần nộp khi đấu thầu), chiến lược hóa hiệu quả kinh tế (lập danh sách 3 nhà thầu đủ tiêu

chuẩn, duy trì động lực cạnh tranh càng lâu nếu không xác định được nhà thầu ưu tiên duy

nhất sau giai đoạn đánh giá hồ sơ thầu), chiến lược tăng cường minh bạch và công bằng,

tăng cường trách nhiệm giải trình, phân bổ thông tin một cách công bằng và bình đẳng, bảo

mật vị thế cạnh tranh của từng đơn vị dự thầu và quản lý các xung đột lợi ích giữa các bên

dự thầu như thái độ độc lập không thiên vị đối với các nhà thầu, lập kế hoạch đảm bảo sự

trung thực, kiểm toán hành vi gian lận.

2.3.2. Các nghiên cứu trong nước

Một số nghiên cứu trong nước về áp dụng hình thức PPP tại Việt Nam thực hiện trên

nhiều lĩnh vực khác nhau như hạ tầng giao thông đường bộ, cấp nước. Hầu hết các nghiên

cứu này đã chỉ ra những rào cản đối với việc đầu tư CSHT ở Việt Nam.

Nghiên cứu của Phan Thị Bích Nguyệt (2013) về bài toán vốn cho phát triển CSHT

giao thông đô thị tại TPHCM, đã phân tích tính hiệu quả của việc áp dụng hình thức PPP là

-10-

giải quyết nhu cầu thiếu vốn đầu tư vào CSHT nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

của TPHCM. Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra những bất cập trong việc triển khai

các dự án PPP, đó là sự thiếu hụt về cơ sở pháp lý khi triển khai thí điểm hình thức này

theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, cơ chế chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa các bên không rõ

ràng.

Tác giả Huỳnh Thị Thúy Giang (2012) khi nghiên cứu về PPP để phát triển CSHT giao

thông đường bộ ở Việt Nam đã nghiên cứu các mô hình thực nghiệm về PPP ở các nước

trên thế giới để tìm hiểu các nhân tố mang đến thành công cũng như các rào cản đối với

hình thức này và đã chỉ ra một số cách thức để thu hút nguồn vốn cho phát triển giao thông

Việt Nam như cơ sở pháp lý minh bạch, chia sẻ rủi ro giữa các bên…

Nghiên cứu của Hoàng Thị Kim Chi về hợp tác công-tư trong lĩnh vực cấp nước ở

TPHCM cho thấy, các quy định còn nhiều bất cập, còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình

triển khai thực hiện. Ngoài ra, chính quyền các cấp còn chưa quan tâm đến việc đảm bảo

lợi ích cho nhà đầu tư nên làm cho các nhà đầu tư không mặn mà đối với các dự án PPP

trong lĩnh vực cấp nước ở TPHCM.

Những nghiên cứu và bài học về PPP trên đây cho thấy, để phát triển hình thức PPP đòi

hỏi cần phải có khung pháp lý rõ ràng và minh bạch, môi trường ổn định, cơ chế chia sẻ lợi

ích và rủi ro rõ ràng... Ngoài ra, cần có các chính sách hỗ trợ linh hoạt cho các dự án PPP

nhằm mang lại hiệu quả cho cả khu vực công lẫn khu vực tư, giúp cho khu vực tư tự tin

đầu tư vào các dự án CSHT có thời gian thu hồi vốn dài, rủi ro cao.

-11-

CHƯƠNG 3:

CÁC RÀO CẢN THU HÚT ĐẦU TƯ CSHT

THEO HÌNH THỨC PPP Ở VIỆT NAM

Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển, đầu tư cho CSHT là hết sức cần

thiết để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội. Trong điều kiện thiếu vốn đầu tư

như hiện nay, theo các chuyên gia trong và ngoài nước, hình thức PPP phù hợp cho chính

sách phát triển CSHT. Tuy vậy, quá trình thực hiện việc đầu tư theo hình thức này ở Việt

Nam, không những gặp phải rào cản từ các chính sách về PPP mà còn thực tế còn bị các

rào cản thực tế từ việc triển khai các dự án theo hình thức này.

3.1. Rào cản chính sách về PPP

Khung pháp lý mới nhất về PPP được ban hành mới nhất và cho đến nay vẫn còn hiệu

lực là Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình

thức Hợp đồng BOT, BTO, BT. Song song với Nghị định này là Quyết định số

71/2010/QĐ-TTg ban hành ngày 9/11/2010 về thí điểm đầu tư theo hình thức PPP.

Bảng 3-1: Các loại hợp đồng phổ biến của hình thức PPP

Hợp đồng

BTO

BOT

DBFO

BOO

Dịch vụ/Quản lý

Nhượng quyền khai thác/Cho thuê

Nhà nước

Nhà nước

Nhà nước Nhà nước Nhà nước

Tư nhân

Sở hữu

1 – 5

20 – 30

20 – 30

25 - 30

8 - 15 hoặc lâu hơn

Không thời hạn

Kỳ hạn (năm)

Nhà nước

Nhà nước

Tư nhân

Tư nhân

Tư nhân

Tư nhân

Trách nhiệm đầu tư

Tư nhân

Tư nhân

Tư nhân

Tư nhân

Tư nhân

Trách nhiệm vận hành

Nhà nước/Tư nhân

Nguồn: Ủy ban kinh tế-xã hội Châu Á Thái Bình Dương Liên Hợp Quốc (UNESCAP)

-12-

Theo UNESCAP cho thấy, hình thức PPP có nhiều loại hợp đồng tùy thuộc vào trách

nhiệm cũng quyền lợi giữa nhà nước và nhà đầu tư, điều này được thể hiện ở bảng bên trên.

Từ đó có thể khẳng định rõ BOT, BTO... chỉ là những loại hợp đồng khác nhau của hình

thức PPP.

Sự tồn tại nhầm lẫn trên tính cho đến nay đã hơn 3 năm và hệ quả là từ khi đưa vào

triển khai thí điểm Quyết định 71/2010/QĐ-TTg hoàn toàn chưa được triển khai mà chỉ có

một số dự án đang được kêu gọi đầu tư theo hình thức này, chỉ có duy nhất dự án đường

cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết với tổng mức đầu tư gần 1 tỷ USD, mới chỉ có một nhà đầu

tư đăng ký thực hiện dự án là Bitexco và đang tiếp tục tìm thêm nhà đầu tư để thực hiện dự

án này, dự kiến được triển khai vào quí 3/2015. Điều này cho thấy các nhà đầu tư vẫn chưa

thực sự yên tâm khi tham gia đầu tư vào CSHT theo hình thức PPP ở Việt Nam. Việc thực

hiện các dự án theo hợp đồng BOT, BTO, BT cho đến nay đã hơn 20 năm, nhưng cũng chỉ

đạt khoảng 300 dự án. Trong khi đó, một địa phương như TPHCM huy động hàng năm

khoảng 40 dự án theo hình thức này, nên khung chính sách về PPP chưa đủ hấp dẫn các

nhà đầu tư góp vốn phát triển CSHT ở Việt Nam.

Vấn đề không nhận thức rõ về PPP cho thấy, việc nhà nước không thống nhất được

chính sách này đã và đang tạo ra những rào cản cho các nhà đầu tư muốn tham gia đầu tư

cho CSHT.

3.2. Rào cản từ các dự án PPP

Cho đến nay, bên cạnh một số dự án PPP được đánh giá thành công nhưng hầu hết là

thất bại. Dựa trên những lợi ích đạt được của nhà nước, nhà đầu tư và người dân, tác giả

thực hiện phân tích một số dự án để xác định các trục trặc thực tế đã làm cho dự án PPP

hoàn thành hay không hoàn thành đúng như mong muốn của các bên. Các trục trặc của các

dự án chính là các rào cản trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư vào CSHT theo hình thức

này trong tương lai.

3.2.1. Dự án khu đô thị Phú Mỹ Hưng

Dự án khu đô thị Phú Mỹ Hưng (PMH) được hình thành và đầu những năm 90 của thế

kỷ 20, được coi là một trong những dự án đầu tiên ở Việt Nam thực hiện theo hình thức

PPP, cơ chế phát triển của dự án này thực hiện theo mô hình hợp đồng đổi đất lấy hạ tầng.

-13-

Theo đánh giá của các chuyên gia tại Hội thảo khoa học 20 năm xây dựng và phát triển khu

đô thị PMH, cho đến nay dự án này đã gặp phải một số trục trặc ảnh hưởng đến cuộc sống

của người dân như ngập nước vào mùa mưa. Tuy nhiên về tổng thể, đây được đánh giá là

một dự án PPP thành công vì đã đáp ứng được các yêu cầu đặt ra đối với các vấn đề liên

quan đến lợi ích đạt được của nhà nước và tư nhân và của người dân. Trong dự án này, nhà

nước đã thu được một mô hình đô thị kiểu mẫu, các con đường hiện đại, sự hài lòng của

người dân… và đặc biệt góp phần thúc đẩy phát triển các vùng ven. Tư nhân đạt được lợi

ích từ dự án là lợi nhuận thu được từ dự án, niềm tin của Nhà nước. Đối với người dân là

việc hưởng thụ được một môi trường sống đáp ứng đầy đủ các tiện nghi hiện đại.

Để đạt được những thành tựu trên, đầu tiên phải kể đến vai trò của nhà nước đối việc

thực hiện dự án, nhà nước đã thấy được vai trò quan trọng của dự án này đối với việc phát

triển kinh tế - xã hội nên đã rất quan tâm đến dự án. Điều này đã được minh chứng bằng

việc UBND TPHCM đã ban hành Quyết định số 749/1994/QĐ-TTg ngày 8/12/1994 về

việc thực hiện xây dựng một khu đô thị đa chức năng kiểu mẫu ở phía nam thành phố bao

gồm trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ, công nghiệp, khoa học, văn hóa, giáo dục,

cư trú, giải trí... tạo động lực cho sự phát triển phía nam và đông nam Thành phố. Bên cạnh

đó, Chính phủ, các Bộ ngành và UBND TPHCM đã tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính

sách trong điều kiện thiếu nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện hợp tác công-tư như vấn đề

GPMB, để chủ đầu tư có thể hoàn thành các hạng mục dự án được giao trong thời gian

sớm nhất; nhà nước cũng tập trung tháo gỡ các khó khăn đối với nhà đầu tư trong các giai

đoạn thực hiện dự án như nhanh chóng tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến tiền sử

dụng đất của khách hàng PMH năm 2009 là một minh chứng. Quan trọng hơn, chính

quyền TPHCM còn thực hiện nhiều hỗ trợ liên quan như cải các thủ tục hành chính nhanh,

điều chỉnh qui hoạch và xây dựng các con đường nối liền liên quan đến dự án để định hình

hướng phát triển triển kinh tế-xã hội về phía nam… Việc chọn đúng nhà đầu tư trong thời

điểm chưa có các chính sách hướng dẫn cụ thể về PPP cũng là vai trò rất quan trọng của

nhà nước, lựa chọn nhà đầu tư có năng lực thực hiện dự án đảm bảo thành công cho dự án.

Trong dự án này năng lực tài chính của nhà đầu tư đã thể hiện đây là một tập đoàn lớn có

nguồn tài chính tốt. Năng lực chuyên môn thể hiện việc họ có kinh nghiệm xây dựng thành

công các khu công nghiệp, đặc biệt là xây dựng thành công khu chế xuất Tân thuận. Bên

-14-

cạnh đó, trước khi thực hiện dự án họ cũng đã thực hiện kỹ lưỡng các khảo sát, nghiên cứu

khả thi chi tiết dự án.

Nguồn: Công ty TNHH phát triển Phú Mỹ Hưng

Hình 3-1: Bản đồ minh họa Khu đô thị Phú Mỹ Hưng

Vai trò của nhà đầu tư cũng quan trọng, đó là tầm nhìn và cam kết cho sự thành công

của dự án. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã ban hành một số điều luật cho phép đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên hoàn toàn chưa có chính sách hướng dẫn đầu tư các dự

án theo hình thức PPP. Ngoài ra, Việt Nam mới chuyển đổi nền kinh tế và các chính sách

ban hành chưa rõ ràng nên có nhiều rủi ro với nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước

ngoài, nên đây là rào cản không nhỏ đối với nhà đầu tư thực hiện dự án này. Trong điều

kiện như vậy, nhà đầu tư CT&D sẵn sàng tham gia vào một dự án lớn thể hiện nhà đầu tư

có tầm nhìn và kinh nghiệm tốt để thực hiện dự án. Cam kết của nhà đầu tư trong dự án

này là tạo niềm tin đối với nhà nước bằng các dự án đã thực hiện và xây dựng những qui

hoạch chi tiết dự án và thực hiện đúng với những hạng mục CSHT đã đề cập trong hợp

đồng.

Như vậy, bài học cho sự thành công của dự án PMH cho thấy trong bối cảnh các chính

sách về PPP hoàn toàn chưa được ban hành, nhưng với sự nỗ lực có trách nhiệm giữa hai

bên nhà nước và tư nhân đã góp phần lớn vào thành công cho dự án này. Từ dự án này cho

-15-

thấy, nhà đầu tư có thể tin tưởng vào sự thành công của dự án với sự cam kết hỗ trợ mạnh

mẽ từ phía nhà nước. Tuy vậy, nhà đầu tư cũng cần phải có thực lực mới thúc đẩy dự án

hoàn thành.

3.2.2. Dự án BOT Cầu Bình Triệu 2

Dự án được khởi công từ tháng 2/2001 theo hình thức BOT tức là trễ gần 5 năm so với

dự kiến ban đầu, chủ đầu tư thực hiện là tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5

(Cienco 5) với tổng vốn đầu tư dự án là 341,9 tỉ đồng và dự kiến hoàn tất sau hai năm.

Thực tế cho thấy dự án này đã gặp phải rất nhiều trục trặc như vấn đề GPMB, nhà đầu tư

không đủ năng lực về tài chính, nhà nước thay đổi qui hoạch… Từ những vấn đề này làm

cho dự án không hoàn thành đúng tiến độ nên gây thiệt hại cho cả nhà nước, nhà đầu tư và

người dân.

Vấn đề thiệt hại cho nhà nước có thể thấy rõ là dự án không đảm bảo đúng tiến độ nên

làm tăng chi phí đầu tư (thực tế đây là tiền thuế của người dân), làm thất thoát nguồn vốn,

thực tế tổng mức đầu tư cho đến nay đã tăng 5,8 lần. Ngoài ra, mong muốn của nhà nước

cũng không được thực hiện là xây dựng Cầu phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân và

phát triển kinh tế xã hội của vùng… Thiệt hại cho nhà đầu tư là nguồn vốn bỏ ra không thu

hồi được theo dự kiến ban đầu, điển hình là nhà đầu tư Cienco 5 đã phải từ bỏ dự án giữa

chừng. Đối với người dân là sự không hài lòng vì quá trình thi công kéo dài làm cho sinh

hoạt của họ không được như mong muốn.

Những vấn đề gây nên những bất cập trên do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do nhà

nước và nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết của mình theo hợp đồng BOT. Về phía

nhà nước đó là vấn đề thay đổi qui hoạch sau khi hợp đồng đã được ký kết, điều này có thể

thấy ở việc năm 2002 TPHCM đã điều chỉnh dự án mở rộng quốc lộ 13 một năm sau khi

khởi công dự án, đã làm tăng tổng mức đầu tư từ 341 lên 1.600 tỷ đồng và thời gian thu hồi

vốn từ 11 lên 25 năm, làm tăng mức độ rủi ro cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, trách nhiệm

GPMB của nhà nước không được thực hiện nghiêm túc làm cho dự án bị đình trệ không

thể thi công được vì vướng vấn đề giải tỏa, cho đến nay việc này vẫn chưa được giải quyết

xong. Chỉ định nhà đầu tư không đủ năng lực thực hiện dự án cũng là một trong những

nguyên nhân gây nên tình trạng làm cho dự án bị chậm trễ, đó là việc UBND TPHCM chỉ

định Cienco 5 làm nhà đầu tư thực hiện dự án và họ đã bỏ dở dự án giữa chừng. Việc tìm

-16-

kiếm đối tác khác để tiếp tục thực hiện hợp đồng cũng không được nhà nước thực hiện có

trách nhiệm, thương thảo hợp đồng quá lâu cũng là nguyên nhân dẫn đến dự án bị kéo dài,

làm tăng chi phí của cả nhà đầu tư lẫn nhà nước. Ngoài ra, việc nhà nước không cho nhà

đầu tư thu phí để thu hồi vốn theo hợp đồng BOT cũng là vấn đề nan giải ảnh hưởng thời

gian thu hồi vốn của nhà đầu tư, đó là việc nhà đầu tư Công ty Cổ phần đầu tư hạ tầng Kỹ

thuật thành phố Hồ Chí Minh (CII) đã nhiều lần xin xây trạm thu phí thu hồi vốn sửa chữa

cầu Bình Triệu 1 (là một tiểu dự án trong dự án này) nhưng chưa được sự chấp thuận của

nhà nước với lý do đã có quá nhiều trạm thu phí.

Đối với trách nhiệm nhà đầu tư là việc từ bỏ dự án giữa chừng, vi phạm hợp đồng BOT.

Việc từ bỏ này đã làm cho nhà nước phải mất công chỉ định nhà đầu tư khác để tiếp tục

thực hiện dự án, đó là CII. Việc này làm gián đoạn thời gian thi công và mất uy tín của nhà

nước trong con mắt người dân vì không lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực về tài chính

và kinh nghiệm.

Nguồn: Tuổi trẻ Online

Hình 3-2: Dự án BOT Cầu Bình Triệu 2

Qua việc triển khai dự án này cho thấy, các rào cản đối với việc thu hút đầu tư là trách

nhiệm của nhà nước đối với cam kết thực hiện hợp đồng BOT như việc GPMB, thay đổi

qui hoạch, chỉ định nhà đầu tư, đàm phán hợp đồng kéo dài và cản trở việc thu hồi vốn của

-17-

nhà đầu tư. Ngoài ra, rào cản thu hút đầu tư còn liên quan đến trách nhiệm của nhà đầu tư

không đủ năng lực bỏ dở dự án, việc này ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước không giám

sát và lựa chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực thực hiện dự án. Đây là một trong những

rào cản lớn để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thực hiện các dự án

PPP.

3.2.3. Dự án BOT Nhiệt điện Vân Phong 1

Dự án này được tập đoàn Sumitomo đề nghị đầu tư từ năm 2006, được Thủ tướng

Chính phủ chỉ định liên doanh giữa tập đoàn Sumitomo góp vốn 72% và Công ty cổ phần

đầu tư Hà nội (Hanoiinco) góp vốn 28% từ năm 2009 thực hiện dự án, tổng mức đầu tư

cho dự án là 2,126 tỷ USD, công suất 2.640MW với thời gian thu hồi vốn 25 năm.

Đối với dự án này, một số trách nhiệm của phía nhà nước đã được thực hiện rất nghiêm

túc, cụ thể đối với việc GPMB, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ứng chi 150/200 tỷ đồng tiền

đền bù giải tỏa cho các hộ dân và đầu tư 135 tỷ đồng hoàn thành CSHT Khu tái định cư

Ninh Thủy để di dời dân, giao đất cho dự án này… Bên cạnh đó, nhà nước cũng đã nhân

nhượng một số điều khoản trong hợp đồng như giảm giá thuê đất, bảo lãnh chuyển đổi

ngoại tệ… và thúc giục nhà đầu tư nhiều lần ký kết hợp đồng BOT để triển khai dự án. Tuy

vậy, cũng có một số vấn đề trục trặc liên quan đến trách nhiệm của nhà nước là chỉ định

nhà đầu tư thực hiện dự án không thông qua đấu thầu (thực tế nhà đầu tư đã yêu cầu được

thực hiện dự án này và được nhà nước chấp thuận). Việc này dẫn đến kết quả là nhà đầu tư

không chịu bất kỳ áp lực cạnh tranh nào trong vấn đề thực hiện dự án trên, nên vẫn chưa

chịu ký kết hợp đồng dù nhà nước đã có nhiều nhượng bộ đối với hợp đồng này. Ngoài ra,

năng lực đàm phán của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng còn nhiều hạn chế nên

làm kéo dài việc ký kết hợp đồng (cho đến nay hợp đồng vẫn chưa được ký kết), gây thiệt

hại cho các bên liên quan. Vấn đề khác là việc nhà đầu tư đưa ra dự án này và đệ trình cho

nhà nước phê duyệt dự án, trong khi trách nhiệm này thuộc về phía nhà nước, vì lý do này

mà phía nhà nước không nắm rõ tính hiệu quả của dự án, đây cũng là những bất cập gây

khó khăn cho nhà nước trong quá trình đàm phán hợp đồng.

Trách nhiệm quan trọng nhất đối với việc dự án này chưa được triển khai thuộc về nhà

đầu tư, đó là việc họ không chịu ký kết hợp đồng để triển khai dự án mà vẫn tiếp tục đòi

hỏi thêm một số yêu cầu khác như bảo lãnh 100% doanh thu chuyển đổi ngoại tệ trong khi

-18-

nhà nước chỉ cam kết 30%, tăng giá bán điện cho Tập đoàn điện lực Việt Nam. Tuy nhiên,

theo kết quả thẩm định của tác giả Lê Bảo Bình (2013), dự án không có khả thi về mặt tài

chính với giá trị hiện tại ròng (NPV) của CSH bằng -649 triệu USD và NPV tổng đầu tư

bằng -742 triệu USD với lý do chính là chi phí đầu tư cao và giá mua điện của tập đoàn

Điện lực Việt Nam thấp, giá than nguyên liệu đầu vào nhập khẩu cao hơn nhiều so với giá

than trong nước cung cấp cho các dự án nhiệt điện khác (chênh lệch khoảng 113,87

USD/tấn), đây có thể là vấn đề chính của nhà đầu tư đang chần chừ chưa muốn ký hợp

đồng. Việc chậm triển khai dự án gây lãng phí cho cả nhà nước và đầu tư, đặc biệt là người

dân không ổn định được cuộc sống của họ.

Nguồn: baodautu.vn

Hình 3-3: Mô hình dự án BOT Nhiệt điện Vân Phong 1

Qua việc triển khai dự án này cho thấy, tuy đã có sự hỗ trợ của nhà nước đối với vấn đề

liên quan đến trách nhiệm của nhà nước, nhưng việc không thống nhất được hợp đồng

BOT làm cho dự án kéo dài và khả năng sẽ tiếp tục làm tăng chi phí do nhà nước lựa chọn

nhà đầu tư không thông qua đấu thầu và không có một khung pháp lý đàm phán vững chắc

ban đầu dẫn đến những trục trặc trong đàm phán các hợp đồng BOT và làm cho thời hạn

triển khai dự án kéo dài. Đây cũng là một trong những lo ngại của nhà đầu tư.

-19-

3.2.4. Dự án BOO Nhà máy nước Thủ Đức

Năm 1997, dự án Nhà máy nước Thủ Đức được cấp giấy phép đầu tư theo hình thức

hợp đồng BOT, chủ đầu tư là Tập đoàn Lyonnaise des Eaux. Tháng 8/2003, sau một thời

gian dài bị đình trệ (1997-2003) do không được triển khai theo đúng kế hoạch, dựa án

được thanh lý, chuyển đổi sang mô hình hợp đồng BOO. Đây là dự án PPP được thực hiện

theo mô hình hợp đồng BOO, nên nhà đầu tư tự xây dựng, sở hữu và vận hành, có quyền

không chuyển giao dự án cho nhà nước. Vấn đề trục trặc đối với dự án này là GPMB chậm

trễ, tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà thầu thực hiện dự án và làm cho dự án kéo dài thời

gian thi công, gây lãng phí cho cả nhà nước và nhà đầu tư. Quan trọng hơn, người dân phải

mong mỏi chờ đợi những tiện ích mang lại từ dự án này, đó là hàng ngàn hộ dân ở Quận 7

và huyện Nhà Bè không được sử dụng nước sạch.

Nguồn: Công ty Cổ phần BOO nước Thủ Đức

Hình 3-4: Dự án BOO Nhà máy nước Thủ Đức

Trong hợp đồng BOO, trách nhiệm của phía nhà nước là phải GPMB đúng thời hạn

nhằm giúp nhà đầu tư thi công đúng như cam kết với nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước đã

thực hiện không đúng với cam kết của mình, ở đây là UBND Quận 9 đã chậm trễ trong

việc thực hiện trách nhiệm của mình dù đã được UBND TPHCM thúc dục nhiều lần, hậu

quả là chủ đầu tư mỗi ngày thất khu khoảng 750 triệu đồng từ tiền thu bán nước (theo tính

toán của chủ đầu tư). Ngoài ra, việc quản lý không sát sao của nhà nước đối với việc thực

hiện dự án của nhà đầu tư như: lựa chọn nhà thầu, sử dụng nguồn vốn đầu tư (chi trả cho

-20-

việc thu hồi đất, mua sắm vật tư...), nên đã làm phát sinh tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà

thầu, gây thiệt hại cho tất cả các bên, đặc biệt là mất lòng tin đối với nhà đầu tư.

Tránh nhiệm của nhà đầu tư là vấn đề sử dụng vốn đầu tư sai mục đích và chi trả cho

GPMB, không đúng như cam kết trong hợp đồng BOT gây nên tranh chấp giữa nhà đầu tư

và nhà thầu. Thực tế cho thấy, theo xác minh của thanh tra Chính phủ, chủ đầu tư đã tuỳ

tiện sử dụng gần 858 ngàn USD trong tổng số 5,7 triệu USD trả cho nhà thầu thi công dự

án. Điều này cho thấy, nhà đầu tư đã không làm tròn trách nhiệm của mình.

Như vậy, cũng như các dự án trên, rào cản cho các nhà đầu tư việc không thực hiện

đúng cam kết của nhà nước và nhà đầu tư đã gây khó khăn cho các bên trong việc thực

hiện đúng tiến độ dự án nên làm phát sinh các chi phí. Trách nhiệm của nhà nước trong dự

án này là vấn đề GPMB và giám sát nhà đầu tư thực hiện theo hợp đồng BOT không được

chặt chẽ, từ đó làm phát sinh những vấn đề trên. Đây là những trục trặc mà hầu như dự án

nào cũng gặp phải và là rào cản lớn đối với thu hút đầu tư CSHT ở Việt Nam.

3.2.5. Dự án BOT Cầu Phú Mỹ

Dự án BOT Cầu Phú Mỹ theo dự kiến được khởi công vào tháng 2/2005 và dự kiến

hoàn thành vào năm 2009, khai thác sử dụng trong vòng 26 năm với tổng mức đầu tư theo

hợp đồng BOT là 1.807 tỷ đồng. Đại diện cho đối tác nhà nước là UBND TP HCM và đối

tác tư nhân là Công ty Cổ phần BOT Cầu Phú Mỹ (PMC), là liên doanh của 5 doanh

nghiệp trong nước. Trên thực tế, dự án được khởi công xây dựng vào tháng 2/2007 và chỉ

trong vòng 2 năm dự án đã hoàn thành, chất lượng được đánh giá tốt so với các dự án khác

được xây dựng cùng thời điểm này. Dự án này mang lại lợi ích cho người dân là giúp giảm

chi phí đi lại cho họ khi di chuyển từ Quận 2 sang Quận 7. Tuy vậy, dự án này không

những không mang lại lợi ích cho nhà nước và nhà đầu tư mà còn gây ra sự bất đồng giữa

hai bên.

Trục trặc của dự án này là vấn đề tranh chấp hợp đồng BOT sau khi đã xây dựng xong

dự án, tranh chấp này liên quan đến cả trách nhiệm của nhà nước và nhà đầu tư. Trách

nhiệm của nhà nước là việc cam kết thực hiện xây dựng CSHT kết nối trong giai đoạn

2006 – 2009, việc làm này góp phần làm tăng lưu lượng xe qua cầu Phú Mỹ và giúp chia

sẽ bớt gánh năng chi phí cho nhà đầu tư theo hợp đồng BOT. Tuy nhiên, việc này đã không

thực hiện đúng theo thời hạn đã cam kết, do vấn đề GPMB bị chậm và do năng lực thiết kế

-21-

các CSHT kết nối còn nhiều hạn chế nên làm trễ tiến độ thi công các công trình kết nối.

Bên cạnh đó, việc dự báo không đúng lưu lượng xe qua cầu đã làm giảm doanh thu đối với

dự án này. Theo dự báo, tổng lượng xe các loại qua cầu năm 2012 đạt khoảng 15.600 ngàn

lượt xe, nhưng thực tế khảo sát của chuyên gia Hoàng Văn Thắng, lưu lượng xe hàng năm

chỉ đạt khoảng 10.016 ngàn lượt xe, tức là chỉ chiếm khoảng 64% so với dự kiến. Điều này

đã làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của dự án và là một trong những vấn đề liên quan

đến tranh chấp giữa hai bên.

Nguồn: Công ty Cổ phần đầu tư Cầu Phú Mỹ

Hình 3-5: Dự án BOT Cầu Phú Mỹ

Ngoài ra, cam kết của nhà đầu tư trong dự án này cũng không được thực hiện nghiêm

túc. Theo hợp đồng BOT thì nhà đầu tư phải góp vốn CSH 30% so với tổng mức đầu tư,

tức là phải góp 542 tỷ đồng từ nguồn vốn tự có của nhà đầu tư. Tuy nhiên PMC đã thực

hiện không đúng cam kết này mà thực hiện vay ở các Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt

Nam và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín, lấy quyền thu phí dự án Cầu

Phú Mỹ làm thế chấp nên không có tài sản đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của dự án,

điều này làm vi phạm nguyên tắc đầu tư theo hình thức PPP. Từ việc vi phạm cam kết này

đã dẫn tới việc nhà nước phải đứng ra trả nợ các khoản vay nước ngoài do nhà nước bảo

lãnh.

-22-

Như vậy, tuy dự án Cầu Phú Mỹ đã hoàn thành trước thời hạn và có chất lượng tốt,

chứng tỏ năng lực cũng như kinh nghiệm kỹ thuật trong thực hiện dự án. Tuy nhiên những

bất cập của dự án này là những vấn đề tranh chấp liên quan đến thực hiện cam kết của nhà

nước là đảm bảo CSHT kết nối, dự báo đúng lưu lượng xe qua cầu và cam kết của nhà đầu

tư là đảm bảo nguồn vốn CSH đóng góp cho thực hiện dự án trong việc tuân thủ hợp đồng

BOT của dự án này. Những vấn đề trên gây lo ngại cho nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt

Nam có thể gặp phải rủi ro về tranh chấp với nhà nước trong quá trình thực hiện dự án.

3.3. Kết luận

Các nhà đầu tư thực hiện dự án PPP ở Việt Nam gặp nhiều rào cản, đó là rào cản về

mặt chính sách và rào cản trong quá trình thực hiện các dự án. Đối với rào cản về mặt

chính sách, chủ yếu là sự nhầm lẫn giữa Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định

71/2010/QĐ-TTg. Đối với các dự án PPP, bên cạnh một số dự án thành công như Phú Mỹ

Hưng, hầu hết các dự án đều gặp trục trặc, tạo ra các rào cản cho các nhà đầu tư muốn thực

hiện các dự án theo hình thức này ở Việt Nam. Các rào cản liên quan đến các dự án PPP

chủ yếu do nhà nước chưa làm tròn vai trò và trách nhiệm của mình như GPMB, lựa chọn

nhà đầu tư không đủ năng lực, không đủ năng lực đàm phán, quản lý và giám sát nhà đầu

tư… Từ đó dẫn tới các dự án được thực hiện không đúng thời hạn và xảy ra tranh chấp...

Những vấn đề này gây thiệt hại cho cả nhà nước, nhà đầu tư và người dân, đặc biệt làm

làm giảm hình ảnh của nhà nước trong mắt các nhà đầu tư thực sự và khó thu hút đầu tư

theo hình thức này.

-23-

CHƯƠNG 4:

ĐÁNH GIÁ NGHỊ ĐỊNH PPP MỚI ĐỐI VỚI THU HÚT ĐẦU TƯ

CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

Việc ban hành nghị định mới là cần thiết trong điều kiện Chính phủ cần thu hút nguồn

vốn đầu tư từ khu vực tư nhân cho CSHT như hiện nay. Dự thảo Nghị định mới về PPP

dựa trên cơ sở hợp nhất Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng

BOT, BTO, BT và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về thí điểm đầu tư theo hình thức PPP

đã chính thức được MPI đưa ra lấy ý kiến công luận và theo lịch trình sẽ được phê duyệt

trong năm 2014.

Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả sử dụng các khuyến cáo của PPIAF đối với việc

xây dựng chính sách PPP rõ ràng. Dựa trên cơ sở vai trò của nhà nước đối với quá trình

ban hành và thực hiện chính sách về PPP và kết hợp với những trục trặc của các dự án đã

và đang được thực hiện, tác giả thực hiện đánh giá việc hoàn thiện bản dự thảo Nghị định

mới để khắc phục những trục trặc trên, giúp hoàn thiện vai trò của nhà nước đối với vấn đề

ban hành chính sách, lựa chọn nhà đầu tư, trách nhiệm thực hiện cam kết của nhà nước,

quản lý giám sát nhà đầu tư, giải quyết tranh chấp, nhằm góp phần thu hút đầu tư cho các

dự án PPP.

4.1. Vấn đề ban hành chính sách

Như đã nói ở trên, việc tồn tại hai khung pháp lý về PPP đã gây nên hiều nhầm cho các

nhà đầu tư và thực tế đã chứng minh không một nhà đầu tư nào đã triển khai dự án theo

Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, đây là điều không mong muốn của những nhà làm chính

sách khi ban hành những khung pháp lý này. Sự kết hợp hai khung pháp lý trên khắc phục

những hạn chế của các trục trặc nói trên cũng như thống nhất một qui định chung trong thu

hút đầu tư phát triển CSHT theo hình thức PPP, tránh những hiểu nhầm đối với chính sách

này như trước đây, đúng theo cách hiểu của quốc tế.

Việc này có thể mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư không những trong nước mà cả

ngoài nước về việc thống nhất các chính sách về PPP, thúc đẩy việc thu hút tốt hơn nguồn

vốn cũng như kinh nghiệm của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

4.2. Vấn đề lựa chọn nhà đầu tư

-24-

Việc chỉ định thầu mà không thực hiện đấu thầu cạnh tranh trước đây đã gây nên những

tình trạng không lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực về tài chính, kinh nghiệm xây dựng

CSHT. Từ những vấn đề của các dự án trên cho thấy, các dự án được chỉ định thầu đều

mang tính cấp thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng liên quan và các nhà đầu

tư thường dựa vào việc này để được chỉ định thực hiện dự án. Tuy nhiên việc này làm mất

đi khả năng lựa chọn được nhà đầu tư tốt cũng như so sánh hiệu quả của hình thức PPP so

với các hình thức đầu tư công khác, các dự án này thường chịu sự rủi ro về năng lực của

nhà đầu tư đối với việc hoàn thành dự án. Hậu quả của những vấn đề này là thời gian thực

hiện các dự án PPP bị kéo dài và làm tăng chi phí, gây thất thoát tiền của nhà nước cũng

như của các nhà đầu tư thực hiện dự án. Rất nhiều dự án chỉ định nhà đầu tư đã bị thất bại

do các nhà đầu tư không đủ năng lực quản lý và thực hiện dự án, điển hình như dự án Cầu

Bình Triệu 2.

Dự thảo Nghị định mới về PPP đã qui định hình thức lựa chọn nhà đầu tư dựa trên đấu

thầu hoặc chỉ định thầu nếu chỉ có duy nhất một nhà đầu tư đăng ký dự thầu, như vậy bản

dự thảo mới này vẫn không có nhiều thay đổi và nguy cơ vẫn sẽ xảy ra đối với việc không

lựa chọn được nhà đầu tư ưng ý. Ngoài ra, không qui định rõ thời gian đấu thầu làm phát

sinh chi phí đấu thầu. Điều này cũng gây nghi ngại cho các nhà đầu tư nếu tham gia dự

thầu các dự án không được công khai, minh bạch do việc chỉ định thầu gây ra và khả năng

mang tới thất bại cho dự án PPP khó tránh khỏi. Do đó, những trục trặc liên quan đến năng

lực nhà đầu tư sẽ khó khắc phục do vẫn tồn tại việc chỉ định thầu cho các dự án PPP.

Theo kinh nghiệm của Australia, qui trình dự thầu đối với các dự án này là sử dụng các

sáng kiến cắt giảm chi phí chuẩn bị đấu thầu, tuân thủ chặt chẽ các qui định về thời gian

đấu thầu, chuẩn hóa hợp đồng và giảm số lượng hồ sơ cần nộp khi đấu thầu. Ngoài ra, họ

còn tích cực tìm kiếm các nhà đầu tư thông qua các buổi thuyết trình và hội thảo, lập danh

sách rút ngắn 3 nhà đầu tư đủ tiêu chuẩn và duy trì động lực cạnh tranh nếu không thể xác

định được nhà đầu tư ưu tiên sau giai đoạn đánh gia hồ sơ dự thầu.

Dự án nhà máy điện Laibin B của Trung Quốc là dự án đầu tiên được thực hiện theo

hình thức BOT, dự án này được đánh giá là dự án PPP thành công nhờ quá trình đấu thầu

cạnh tranh để lựa chọn nhà đầu tư tư nhân, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào việc ký kết

các hợp đồng, nhiều ưu đãi từ Chính phủ, trong đó Chính phủ không đảm bảo doanh thu và

lợi nhuận cho dự án mà chỉ tạo các điều kiện thuận lợi để đối tác tư nhân tự vận động để

-25-

nâng cao hiệu quả, và cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý. Vì những lý do đó, đã có 31 hồ sơ đã đệ

trình các hồ sơ dự thầu để sơ tuyển, trong đó có 23 công ty tư nhân, 8 tập đoàn trong đó

bao gồm cả các công ty nổi tiếng trên thế giới.

Các kinh nghiệm quốc tế ở trên cho thấy, việc đấu thầu rất quan trọng, quá trình đấu

thầu thông qua nhiều phương pháp để tìm kiếm nhà đầu tư. Ngoài ra, Chính phủ cũng công

khai đảm bảo nhiều ưu đãi cho dự án đã giúp thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia dự

thầu, đặc biệt tuân thủ thời gian dự thầu và thực tế nhờ công tác đấu thầu công khai và

minh bạch đã giúp họ tìm được nhà đầu tư ưng ý, đây là yếu tố quan trọng cho sự thành

công của dự án.

4.3. Trách nhiệm thực hiện cam kết của nhà nước

Việc không qui định rõ ràng trách nhiệm của các bên, đặc biệt của khu vực nhà nước

dẫn đến nguy cơ các bên không thực hiện đúng cam kết hợp đồng trong quá trình triển khai

dự án. Thực tế đã chứng minh các dự án được thực hiện ở Việt Nam thường bị thất bại chủ

yếu do trách nhiệm của nhà nước không được thực hiện nghiêm túc.

Vấn đề đầu tiên liên quan đến trách nhiệm của nhà nước là cam kết trong vấn đề thực

hiện trách nhiệm của mình đối với dự án không được thực hiện nghiêm túc, điển hình cho

những vấn đề trên có thể kể đến dự án cầu Bình Triệu 2, Cầu Phú Mỹ... Trong những dự án

trên sự cam kết của nhà nước đối với các hợp đồng PPP không được thực hiện nghiêm túc

như cam kết về thời gian GPMB, cam kết về thời gian làm đường dẫn lên cầu (như dự án

cầu Phú Mỹ), dẫn đến việc làm tăng thời gian hoàn thành dự án, làm tăng chi phí dự án...

Năng lực hạn chế của các cơ quan nhà nước liên quan đàm phán hợp đồng gây nên tình

trạng đàm phán các dự án kéo dài và gây thiệt hại cho phía nhà nước dẫn đến thất bại của

dự án, trường hợp của dự án Nhiệt điện Vân Phong 1 là một trong những điển hình cho vấn

đề này. Việc này có khả năng làm cho nhà đầu tư chán nản và gây ảnh hưởng xấu đối với

việc thu hút đầu tư.

Vấn đề dự báo cũng là những bất cập đối với các dự án, nhà nước chưa làm đúng vai

trò trong việc đánh giá tầm vóc, những phát sinh của dự án và hệ quả làm tăng tổng chi phí

đầu tư, điều này có thể thấy rõ ở các dự án Cầu Bình Triệu 2. Vấn đề dự báo còn liên quan

đến việc thẩm định tính khả thi của dự án, trong dự án Cầu Phú Mỹ, do không đánh giá

-26-

đúng lưu lượng xe qua cầu nên làm giảm khả năng thu hồi vốn cho dự án, đây là một trong

những điều lo ngại của nhà đầu tư.

Trong bản dự thảo Nghị định mới đã có qui định về trách nhiệm của nhà nước đối với

việc thiết lập và đánh giá các nghiên cứu tiền khả thi và khả thi đối với dự án. Có điểm mới

trong Nghị định này là các việc phân quyền rõ ràng hơn giữa Trung ương và Địa phương

trong việc thẩm định các nghiên cứu khả thi, việc này giúp đẩy nhanh quá trình chuẩn bị

dự án. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ cho nhà đầu tư đa dạng hơn như ưu đãi thuế,

thuê đất... Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến thực hiện các cam kết của nhà nước, chế tài

xử phạt đối với vi phạm hợp đồng BOT của nhà nước chưa được qui định cụ thể và chưa

thay đổi đáng kể so với những khung pháp lý trước đây. Những vấn đề này sẽ gây tâm lý lo

lắng cho nhà đầu tư, nên họ không có động cơ để tham gia đầu tư vào các dự án PPP.

Theo kinh nghiệm thực hiện một số dự báo trong các dự án PPP ở các nước như dự án

hầm Cross City Tunnel của Australia, dự báo lưu lượng giao thông giai đoạn 2006-2016 là

khoảng 73.000 lượt xe/năm, nhưng thực tế chỉ đạt 30.000 lượt xe/năm. Như vậy, đây

không phải là vấn đề trong nước mà thực tế một số dự án của các nước khác cũng gặp phải

tình trạng này.

Thực tế qua việc triển khai dự án Cảng Busan New Port đã chứng tỏ Hàn Quốc đã rất

thành công trong việc thực hiện dự án PPP. Bài học rút ra cho sự thành công từ dự án này

là sự cam kết của Chính phủ trong việc đảm bảo thành công cho dự án, Chính phủ cung

cấp những hỗ trợ về pháp lý và CSHT cần thiết tạo thuận lợi cho việc triển khai dự án.

Don Muang Tollway là một dự án BOT đường trên cao kết nối giữa vùng trung tâm của

Bangkok với sân bay quốc tế Don Muong. Vào cuối năm 1988, Bộ Giao Thông và Liên lạc

Thái Lan thông qua Vụ Đường cao tốc, đã mời thầu đối với việc thực hiện một cầu cạn

được nâng cao trên đường cao tốc Viphavadi-Rangsit Highway. Mặc dù đã thỏa thuận sẽ di

dời những cầu dẫn trên đoạn đường song song cạnh tranh với đường thu phí này, nhưng

Chính phủ đã không thực hiện thỏa thuận của mình trong vòng hơn hai năm. Mặt khác, Bộ

Giao thông và Liên lạc không cho phép tăng mức phí cho tới khi các cầu dẫn mới được

hoàn thành. Mức phí dự kiến tăng khi đó là từ 20 đến 30 Bạt. Hậu quả là, lưu lượng giao

thông và doanh thu đều thấp hơn dự báo (doanh thu từ thu phí đã giảm gần 30% so với dự

báo). Nhà đầu tư đứng trước nguy cơ phá sản và vào tháng 10/1996, công ty xây dựng

-27-

đường đã không còn khả năng trả nợ, do vậy Chính phủ đã bị yêu cầu bồi thường một

khoản tiền lớn (3 tỷ Bạt) để tài trợ cho các khoản vốn vay của công ty.

Dự án QE2 Darford Bridge là một minh chứng thành công cho việc đầu tư vào CSHT

theo hình thức PPP ở Anh vào những năm 90 của thế kỷ 20. Điểm quan trọng cho sự thành

công của dự án này là Chính phủ cho phép liên doanh của các doanh nghiệp tư nhân nhằm

đảm bảo nguồn tài chính cho việc thực hiện dự án, liên doanh này là các doanh nghiệp của

nhà nước và đối tác nhượng quyền có uy tín trong xây dựng, quản lý, thiết kế, cấp vốn.

Như vậy, kinh nghiệm thực hiện các dự án của các nước trên thế giới cho thấy, hiệu

quả và tính bền vững của dự án PPP phụ thuộc lớn và việc thực hiện cam kết và các hỗ trợ

của Chính phủ. Tuy vậy, công việc dự báo trong các dự án PPP khó chính xác, nên dễ gây

thiệt hại cho cả nhà nước và nhà đầu tư. Do đó, cần có những cơ chế đánh giá chính xác

hơn và chia sẻ rủi ro để hạn chế những phát sinh này.

4.4. Quản lý và giám sát nhà đầu tư

Quá trình thực hiện các dự án trên cho thấy, vai trò quản lý và giám sát các nhà đầu tư

của nhà nước còn nhiều bất cập, điều này dẫn tới nhiều phát sinh như nhà đầu tư góp vốn

CSH không đúng theo hợp đồng BOT, sử dụng nguồn vốn và lựa chọn nhà thầu của nhà

đầu tư gây tranh chấp giữa nhà thầu và nhà đầu tư...

Điển hình là việc các nhà đầu tư đưa ra các dự án, sau đó đệ trình cho các cơ quan nhà

nước ký và triển khai dự án, trong khi công việc này là của nhà nước như việc xác định

những dự án cần thiết để thực hiện trước, mà điều này thường chỉ được thực hiện bởi các

nhà đầu tư nên dễ dẫn tới việc các nhà đầu tư thường chỉ đưa ra những dự án mang lại lợi

ích cho mình và chưa chắc khả thi về mặt kinh tế - xã hội. Vấn đề này gây ra hiện tượng

đầu tư các dự án tràn lan và không hiệu quả, đặc biệt là ở các Địa Phương. Những rủi ro

này làm cho các nhà đầu tư tư nhân không mặn mà với các dự án PPP ở Việt Nam, đặc

biệc là khu vực FDI.

Quá trình quản lý và kiểm soát nhà đầu tư còn liên quan đến vấn đề góp vốn CSH để

thực hiện dự án, đây là vấn đề quan trọng đảm bảo nguồn tài chính cho việc thực hiện dự

án đúng thời hạn. Tuy nhiên vai trò này của nhà nước đã bị buông lỏng, điều này đã dẫn

đến các dự án không đảm bảo đúng tiến độ như dự án BOO Nhà máy nước Thủ Đức, hay

-28-

tranh chấp hợp đồng như dự án Cầu Phú Mỹ. Việc này không những gây thiệt hại cho các

bên mà còn làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không yên tâm khi đầu tư các dự án PPP

Quá trình giám sát nhà đầu tư trong việc tìm kiếm những nhà thầu có năng lực còn

nhiều hạn chế, việc quản lý lỏng lẻo đã làm cho các nhà đầu tư tự ý chỉ định thầu phụ mua

sắm thiết bị, thực hiện dự án nên không đảm bảo thời hạn thi công, chất lượng công trình,

tăng chi phí... Ngoài ra, việc này còn liên quan đến tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà thầu

do liên quan đến tiến độ và chất lượng các công trình, điều này có thể thấy rõ trong dự án

BOO Nhà máy nước Thủ Đức.

Qui định hợp đồng đối với các dự án PPP của bản dự thảo mới đã chặt chẽ hơn trong

việc xác định trách nhiệm ràng buộc của chủ đầu tư về trách nhiệm đối với tiến độ dự án,

thời hạn hoạt động của doanh nghiệp dự án, bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện dự án… Tuy

nhiên, chưa có những qui định xử lý cụ thể đối với các nhà đầu tư không thực hiện đúng

trách nhiệm. Vì lý do này nên khi có các dự án tốt thì nhà đầu tư tham gia nhiều, nhưng

trong quá trình thực hiện có rủi ro cao, nhà đầu tư sẽ thoái thác trách nhiệm này cho nhà

nước mà không chịu trách nhiệm gì. Quan trọng hơn, qui định trách nhiệm quản lý và giám

sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư vẫn chưa cụ thể và chưa có chế tài

đối với các cơ quan trên sẽ khó ràng buộc được trách nhiệm của họ.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, Chính phủ đánh giá tính khả thi của dự án chặt

chẽ, đồng thời so sánh với các phương án đầu tư công thông thường xem cách làm nào

hiệu quả hơn. Sau đó, lập kế hoạch và qui hoạch cụ thể đối với các dự án PPP trong cả

nước, đệ trình Quốc hội xem xét và quyết định. Ngoài ra, Chính phủ cũng chọn các đối tác

tư nhân phù hợp như có năng lực tài chính, có danh tiếng, quản trị tốt... nhằm giảm thiểu

rủi ro cho dự án như các tập đoàn Huyndai, Hanjin và rút ra các kinh nghiệm từ các dự án

trước đó để giảm chi phí cho các dự án sau.

Kinh nghiệm ở dự án Cầu Dartford QE2 của Anh cho thấy, để làm giảm khả năng rủi

ro cho nhà nước do nhà đầu tư không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, Chính phủ

Anh ban đầu đã chọn đối tác tư nhân có danh tiếng với năng lực chuyên môn tốt và nguồn

tài chính dồi dào để thực hiện dự án theo đúng kế hoạch và ngân sách đã đề ra.

Từ những kinh nghiệm trên cho thấy, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản

lý và giám sát nhà đầu tư cũng rất quan trọng cho sự thành công hay thất bại của dự án PPP.

-29-

Ràng buộc trách nhiệm của các nhà đầu tư bằng hợp đồng nhưng không ràng buộc trách

nhiệm của nhà nước trong việc quản lý và giám sát các nhà đầu tư sẽ khó đảm bảo dự án

thực hiện đúng theo cam kết.

4.5. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp

Bài học ở dự án BOT Cầu Phú Mỹ cho thấy, các dự án đã thực hiện theo hình thức PPP

ở Việt Nam có thể gặp trục trặc ở bất cứ khâu nào, kể cả sau khi dự án được xây dựng

xong và đã được đưa vào khai thác. Bất cập của dự án này là cả phía nhà nước và nhà đầu

tư không thực hiện đúng theo hợp đồng đãcam kết. Từ sự không thực hiện cam kết của hai

bên tất yếu dẫn tới tranh chấp, vì bên nào cũng có lý do của mình. Cho đến nay vấn đề

tranh chấp này vẫn chưa được các bên giải quyết một cách thỏa đáng.

Bản dự thảo Nghị định mới đã qui định giải quyết tranh chấp tại điều 70, các tranh chấp

sẽ được giải quyết thông qua hòa giải, tòa án theo luật pháp của Việt Nam, hoặc Hội đồng

trọng tài do hai bên thỏa thuận thành lập và quan trọng là phù hợp với các điều ước quốc tế

mà Việt Nam là thành viên. Điều này tương đối rõ ràng và phù hợp các qui định của luật

pháp quốc tế. Tuy vậy, một số vấn đề còn liên quan đến giải quyết các tranh chấp như các

ràng buộc đối với lỗi của các bên chưa có qui định rõ ràng, nên khi tranh chấp xảy ra

không được giải quyết thỏa đáng.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để hạn chế những tranh chấp xảy ra, cần phải có cơ chế

quản lý hợp đồng nhượng quyền để đảm bảo các bên tham gia hợp đồng thực hiện đúng

cam kết của mình như các hợp đồng phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, quản lý tài sản...

Tuy nhiên, nghiên cứu của Guasch (2004) cho thấy, ngay cả khi các bên đã có những nỗ

lực để không xảy ra tranh chấp thì tranh chấp vẫn xảy ra do tính chất dài hạn và phức tạp

của dự án PPP. Nhà nước cần phải đảm bảo uy tín của mình khi có những tranh chấp xảy

ra, những lỗi thuộc về phí nhà nước thì phải điều chỉnh và sẵn sàng đền bù thiệt hại do phía

nhà nước gây ra và không chấp nhận những sửa đổi điều khoản liên quan đến trách nhiệm

của khu vực tư nhân.

Theo kinh nghiệm của Chi-lê, đối với các dự án giao thông thu phí theo cơ chế PPP,

tranh chấp được giải quyết thành công bằng hội đồng chuyên gia gồm ba thành viên: một

do cơ quan quản lý nhà nước đề cử, một do chủ đầu tư đề cử và người thứ ba được đề cử

-30-

trên cơ sở đồng thuận của cả hai bên. Nếu hai bên không đồng ý được thành viên thứ ba thì

thành viên này sẽ do tòa án chỉ định

Như vậy, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, phải hạn chế tranh chấp đối với các dự án và

có những cơ chế rõ ràng để giải quyết những tranh chấp tương tự như dự án này để giúp

cho nhà đầu tư yên tâm đầu tư CSHT theo hình thức PPP.

-31-

CHƯƠNG 5:

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Khung pháp lý về PPP còn gặp rất nhiều trục trặc để có thể thu hút tốt hơn nguồn vốn

đầu tư cho khu vực tư nhân. Các rào cản xảy ra đối với hầu hết các dự án ở Việt Nam là

vấn đề chỉ định thầu, cam kết thực hiện theo đúng hợp đồng, tranh chấp... Những vấn đề

này xảy ra chủ yếu do phí nhà nước chưa hoàn thành vai trò của mình, điều này tạo ra các

rào cản đối với thu hút đầu tư theo hình thức này. Vì thế, các nhà đầu tư e ngại và không

mặn mà đối với việc đầu tư vào CSHT theo hình thức này.

Việc ban hành nghị định mới về PPP phần nào giải quyết được những bất cập về mặt

chính sách, làm hoàn thiện hơn đối với việc đầu tư vào CSHT theo hình thức này, đặc biệt

tránh sự hiểu nhầm về đầu tư theo hình thức này. Bên cạnh đó, còn một số vướng mắc cần

thiết phải thiết lập cụ thể hơn nhằm góp phần tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, khó có thể tạo ra một khung pháp lý hoàn hảo cho PPP, có khung pháp lý

tốt nhưng nếu không thay đổi thể chế theo hướng khuyến khích các bên tham gia thực hiện

đúng trách nhiệm của mình thì dự án không thể thành công. Các dự án chỉ thành công khi

có sự tham gia hỗ trợ lẫn nhau giữa nhà nước và nhà đầu tư.

5.2. Khuyến nghị

Nhằm hoàn thiện khung chính sách đầu tư CSHT theo hình thức PPP, cần phải thực

hiện:

 Đối với vấn đề đấu thầu, cần thực hiện công khai, minh bạch các dự án mời thầu và

thực hiện đấu thầu rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời cần

có những qui định cụ thể đối với việc giám sát của nhà nước liên quan đến vấn đề này. Qui

định rõ thời hạn đấu thầu đối với từng dự án cụ thể để tìm được nhà đầu tư ưng ý và giảm

bớt chi phí đấu thầu các dự án. Khung pháp lý hướng dẫn cho việc lựa chọn nhà đầu tư

cũng cần có hướng đấu thầu chứ không lựa chọn hình thức chỉ định thầu, việc này giúp

giảm rủi ro cho thất bại các dự án PPP.

 Đối với trách nhiệm của nhà nước, cần phải có những qui định bắt buộc đối với việc

thực hiện vai trò của nhà nước trong các dự án PPP, các qui định này phải thật cụ thể để

-32-

tránh gây thiệt hại đối với nhà đầu tư mà do lỗi của phía nhà nước, những nội dung này cần

đưa vào hợp đồng. Qui định rõ ràng và công khai các trách nhiệm của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền đối với các dự án PPP và cần qui định trách nhiệm đối với lựa chọn

đầu tư các dự án không hiệu quả. Đặc biệt, cần phải có những qui định cụ thể đối với

những đền bù đối với thiệt hại nhà đầu tư khi những lỗi do trách nhiệm từ phía nhà nước.

Ngoài ra, cần có hình thức hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như kêu gọi liên doanh... để đảm

bảo nguồn vốn, kinh nghiệm cho thực hiện các dự án lớn.

 Trách nhiệm quản lý và giám sát của nhà nước đối với nhà đầu tư cũng cần phải

được thực hiện nghiêm túc, cần có những qui định chế tài cụ thể đối với việc giám sát và

quản lý của nhà nước đối với nhà đầu tư. Đặc biệt, cần lựa chọn những nhà đầu tư có năng

lực cả về chuyên môn lẫn tài chính để làm giảm rủi ro cho việc quản lý và giám sát của nhà

nước.

 Đối với vấn đề tranh chấp hợp đồng giữa nhà nước và nhà đầu tư, cần phải có

những qui định và hướng dẫn cụ thể đối với việc ký kết ràng buộc hợp đồng, để khi xảy ra

những tranh chấp, các bên không bị lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề trên. Những

qui định trên cần phải công khai và minh bạch, điều này sẽ góp phần làm yên tâm cho các

nhà quản lý nhà nước và nhà đầu tư không bị lúng túng khi xử lý những vụ việc tương tự

như dự án Cầu Phú Mỹ.

Việc giải quyết một số vướng mắc trên giúp hoàn thiện thêm khung pháp lý cho đầu tư

vào CSHT theo hình thức PPP, từ đó nhằm thúc đẩy tốt hơn mục tiêu thu hút nguồn vốn từ

khu vực tư nhân.

5.3. Hạn chế của đề tài

Đề tài là chưa đánh giá sự khác nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp

tư nhân khi tham gia dự án PPP.

Đề tài chưa giải thích được tại sao các dự án PPP tập trung nhiều vào ngành năng

lượng, viễn thông mà ít tập trung vào các ngành giao thông và nước.

Đề tài đang còn vướng mắc trong vấn đề đánh giá ưu và khuyến điểm của các loại hợp

đồng của các dự án PPP tại Việt Nam.

-33-

Đề tài cũng chưa đi sâu vào vấn đề chỉ định thầu của các nhà đầu tư đối với các nhà

thầu, đây đang là vấn đề quan trọng làm chậm trễ việc thực hiện của các dự án PPP , do nhà

thầu không đủ năng lực thi công.

-34-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Acemoglu, D. và Robinson, J. A., Nguyễn Thị Kim Chi biên dịch, Vũ Thành Tự

Anh hiệu đính (2013), Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của Quyền lực,

Thịnh vượng và Nghèo đói.

2. ADB (2008), Sổ tay mối quan hệ Nhà nước-Tư nhân.

3. Ngọc Ẩn (2010), “Cầu đường Bình Triệu 2: 10 năm chưa xong!”, Tuổi trẻ Online,

truy cập ngày 10/07/2010 tại địa chỉ:

http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/389301/cau-duong-binh-trieu-2-10-nam-chua-

xong.html#ad-image-0.

4. Lê Bảo Bình (2013), Thẩm định dự án nhiệt điện Vân Phong 1, Luận văn Thạc sỹ

Chính sách công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP. Hồ Chí Minh.

5. Hoàng Thị Kim Chi (2013), Hợp tác công-tư trong lĩnh vực cấp nước ở Thành phố

Hồ Chí Minh.

6. Chính phủ (2009), Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 Về đầu tư theo

hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng -

Chuyển giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao.

7. Chính phủ (2014), Bản dự thảo về đầu tư theo hình thức đối tác công-tư.

8. Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Hình thức hợp tác công - tư (Public private

partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

9. Lee, J. (2013), Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong huy động và sử dụng vốn hợp tác

công tư: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

10. Trịnh Mạnh Linh (2013), “Tìm vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng”, Tạp chí Kinh tế

và Dự báo, số 7/2013.

11. Vũ Minh (2014), “Sẽ khởi công đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết trong quý

III/2015”, Bizline Online, truy cập ngày 15/03/2014 tại địa chỉ:

-35-

http://bizlive.vn/dia-oc/se-khoi-cong-duong-cao-toc-dau-giay-phan-thiet-trong-quy-

12. An Nhi (2013), “PPP: Vì sao vẫn “tắc”?”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, truy cập ngày

iii2015-118453.html.

02/08/2013 tại địa chỉ:

http://kinhtevadubao.com.vn/xuc-tien-dau-tu/ppp-vi-sao-van-tac-1346.html.

13. Nhóm phóng viên thanh niên online (2013), “Phú Mỹ Hưng tổng kết kinh nghiệm

biến “đầm lầy” thành khu đô thị hiện đại”, Thanh niên Online, truy cập ngày

17/05/2013 tại địa chỉ:

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130515/phu-my-hung-tong-ket-kinh-

nghiem-bien-dam-lay-thanh-khu-do-thi-hien-dai.aspx.

14. Phan Thị Bích Nguyệt (2013), PPP – Lời giải cho bài toán vốn để phát triển cơ sở

hạ tầng giao thôngđô thị tại TP. Hồ Chí Minh.

15. Rosengard, J., Bùi Văn và Huỳnh Thế Du (2007), Chi trả cho các dịch vụ hạ tầng

đô thị: Nghiên cứu so sánh tài chính đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thượng Hải

và Jakarta.

16. Nguyễn Xuân Thành (2013), Tranh chấp trong hoạt động đối tác công-tư tại việt

nam: nghiên cứu tình huống dự án bot cầu phú mỹ và kinh nghiệm quốc tế.

17. Nguyễn Xuân Thành (2008), Nghiên cứu tình huống: Dự án nhà máy nước BOO

Thủ Đức.

18. Hoàng Văn Thắng (2013), Tái cấu trúc dự án BOT Cầu Phú Mỹ, Luận văn Thạc sỹ

Chính sách công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP. Hồ Chí Minh.

19. Bích Thảo (2013), “Dự án BOT cầu Phú Mỹ: Quản lý chặt hợp đồng để giảm thiểu

tranh chấp”, Đấu thầu Online, truy cập ngày 29/11/2013 tại địa chỉ:

http://muasamcong.vn/danh-muc-tin/Detail/du-an-bot-cau-phu-my-quan-ly-chat-

hop-dong-de-giam-thieu-tranh-chap.

20. Phạm Dương Phương Thảo (2013), Kinh nghiệm triển khai mô hình đầu tư công –

tư (PPP) trên thế giới để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị.

-36-

21. Thiên Thuận và Vân Anh (2012), ““Cái bắt tay” giữa nhà nước và tư nhân”, Dân trí

Online, truy cập ngày 25/08/2012 tại địa chỉ:

http://dantri.com.vn/kinh-doanh/cai-bat-tay-giua-nha-nuoc-va-tu-nhan-633783.htm.

22. Mai Thị Thu, Nguyễn Văn Phúc, Đặng Ngọc Trâm, Nguyễn Đoan Trang (2013),

Phương thức đối tác công - tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế

tại Việt Nam, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.

23. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 Về

việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.

24. Yescombe, E. R., Nguyễn Thị Kim Chi biên dịch, Đỗ Thiên Anh Tuấn hiệu đính

(2013), “Chương 1: Hợp tác nhà nước – tư nhân là gì?” và “Chương 2: PPPs:

Những lập luận ủng hộ và chống đối”, Hợp tác công-tư: Những nguyên lý chính

sách và tài chính.

Tiếng Anh

25. Australian Centre for Public Infrastructure, University of Melbourne and

Melbourne University Private (2005), PPPs in Australia.

26. Australian Centre for the Governance and Management of Urban Transport

(GAMUT), University of Melbourne (2010), Sydney Cross City Tunnel, Australia.

27. Bureau of Planning, Department of Highways (2008), Privatization of Highway

Infrastructure in Thailand, Thailand.

28. Colverson và Perera (2012), Harnessing the Power of Public Private Partnerships:

The Role of Hybrid Financing Strategies in Sustainable Development.

29. Department of Economic Affairs (2011), National Public Private Partnership

Policy, Ministry of Finance, Government of India.

30. European Commission (2003), Guidelines for Successful Public Private

Partnerships.

31. EIB (2003), Public-private partnerships for transport infrastructure projects.

-37-

32. Estache, A. and de Rus, G. (2000), Privatization and Regulation of Transport

Infrastructures: Guidelines for Policymakers and Regulators, WBI Development

Studies.

33. European Commission (2003), Guidelines for Successful Public-Private

Partnerships.

34. Farquharson, E., de Mastle, C. T., Yescombe, E. R. et al. (2011), How to Engage

with the Private Sector in Public-Private Partnerships in Emerging Markets,

PPIAF and World Bank.

35. Gildenhuys, J. S. H. and Knipe, A. (2000), The Organisation of Government: An

Introduction, Pretoria: van Schailk.

36. Guasch, J. L. (2004), Granting and Renegotiating Infrastructure Concessions -

Doing it Right, WBI Development Studies.

37. Hemming, Richard et al. (2006), Public Private Partnership, Government

Guarantees, and Fiscal Risk, International Monetary Fund, Washington DC.

38. HM Treasury (2006), PFI: strengthening long-term partnerships.

39. John B.M (2000), Principles of Public and Private Infrastructure Delivery, Boston:

Kluwer Academic Publishers.

40. KDI & ADB (2011), Public-Private Partnership Infrastructure Projects: Case

Studies from the Republic of Korea.

41. Kwak Y. H., Chih, Y. Y. and Ibbs, C. W. (2009), Towards a Comprehensive

Understanding of PublicPrivate Partnerships forInfrastructure Development.

42. Li, B., Akintoye, A., Edwards, & Hardcastle (2005), The allocation of risk in

PPP/PFI construction projects in the UK, International Journal of Project

Management.

43. Ministry of Municipal Affairs (1999), Public Private Partnership: A Guide for

Local Government, British Columbia-Canada.

44. PPIAF (2012), Public-Private Partnerships Reference Guide.

-38-

45. PPIAF (2012), Developing a Public-Private Partnership Framework: Policies and

PPP Units.

46. Qiao, L., Wang, S. Q., Tiong et al. (2001), “Framework for Critical Success Factors

of BOT Projects in China”, Journal of Project Finance.

47. Siahaan, T. S. (2013), After a Series of Delays, Govt Steps in on entral Java Power

Project, Jakarta Globe.

48. The WorldBank (2003), World Bank Group Private Sector Development Strategy

Implementation Progress Report, Washington, D.C.

49. World Bank & Ministry of Finance (2010), Public Private Partnership Projects in

India – Compendium of Case Studies, India.

50. WB/PPIAF (2007), Experts Panels in regulation of Infrastructure in Chile; A

Jadresic, Working Paper No 2.

-39-

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Khung phân tích rào cản cho thu hút đầu tư CSHT theo hình thức PPP

-40-

Phụ lục 2: Mô hình hợp đồng trong mỗi dự án PPP:

-41-

Phụ Lục 3: Đầu tư của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng giai đoạn 1990-2012 (triệu USD)

Năm Giao thông Viễn thông Năng lượng Nước và nước thải

1990 0 0 0 0

1991 0 0 0 0

1992 0 0 0 0

1993 0 0 0 0

1994 0 10 0 0

1995 0 0 256 0

1996 0 15 0 205

1997 0 70 0 110

1998 38,8 0 0 0

1999 0 0 0 39,5

2000 20 0 130 0

2001 154 0 0 87

2002 0 20 0 1780

2003 7 0 230 412

2004 0 0 70 0

2005 92 0 0 93,2

2006 0 133 681,7 0

2007 0 267 645 367,36

2008 0 365 0 170,3

2009 0 200 267 349,3

2010 0 155 0 943,05

2011 0 0 0 2770,27

2012 0 0 0 168,8

Tổng 311,8 1235 2279,7 7495,78

Nguồn: NHTG