VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT TÙNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT TÙNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN KHẮC BÌNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam kết những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là khách quan, trung thực và chưa hề được sử dụng trong các nghiên cứu
khác. Mọi sự tham khảo, giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm ơn,
thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc và được phép công bố.
Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Viết Tùng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Khắc Bình, Khoa Chính
sách công - Học viện Khoa học xã hội.
Trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên Ban tổ chức
Huyện uỷ, Phòng Nội vụ huyện, Đảng uỷ các xã, thị trấn trong huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, anh, chị, em, bạn bè đã hỗ
trợ, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Viết Tùng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ ............................. 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài ................................................... 9
1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ...... 20
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN BA
VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................... 38
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì ................................... 38
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã tại huyện Ba Vì ................................................................... 47
2.3. Đánh giá chung ................................................................................ 56
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................... 62
3.1. Phương hướng .................................................................................. 62
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội .... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Biên chế cán bộ, công chức cấp xã ................................................. 43
Bảng 2.2. Cơ cấu về trình độ chuyên môn ...................................................... 44
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu giới tính CBCC ................................... 45
Bảng 2.4. Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị ................................................ 45
Bảng 2.5. Cơ cấu về độ tuổi ............................................................................ 46
Bảng 2.6. Mức độ đánh giá về tính thiết thực của tổng kết đánh giá thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ............................... 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã (gọi chung cho chính quyền xã, phường, thị trấn) có
một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn chỉnh
của nhà nước ta. Chính quyền cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở và
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân và là cơ quan thực hiện nhiệm vụ
hành chính nhà nước quản lý xã hội trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc
phòng, kinh tế, văn hóa xã hội ở cơ sở. Chính quyền cấp xã thực hiện đảm bảo
cho các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống, phục vụ việc phát
triển kinh tế - xã hội ở ở cơ sở; góp phần vào sự nghiệp xây dựng phát triển đất
nước.
Ở cấp cơ sở, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức quan trọng
trong xây dựng, hoàn thiện và vận hành bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt
động thi hành công vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người gần
dân, sát dân nhất, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không đều thông qua đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã. Vì vậy, yêu cầu đội ngũ cán bộ công chức có đủ phẩm chất đạo
đức, năng lực chuyên môn là đòi hỏi có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt
cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ. Có đường lối, nhiệm vụ
chính trị đúng đắn mà không có đội ngũ cán bộ tốt thì cũng không trở thành hiện
thực. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức luôn được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm chú ý đào tạo, bồi dưỡng và có những chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Cán bộ, công chức là một trong bốn yếu tố cấu thành nền hành chính nhà
nước, khi đội ngũ cán bộ, công chức được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ
1
bản sẽ góp phần xây dựng được nền hành chính nhà nước hiện đại.
Thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, trong các
giai đoạn phát triển của đất nước Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã nhằm mục đích nâng cao chất lượng thực hiện công vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đây là
một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị trong công
tác cải các hành chính cũng như phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta. Thời gian gần đây, Nhà nước đã ban hành các
chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (trong đó có cán bộ, công
chức cấp xã) được thể hiện trong các Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày
25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025, Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức với mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức,
kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ,
công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản
lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát
triển của đất nước. Thực hiện chính sách trên, các tổ chức Đảng ở các cấp, các
cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội đã và đang tổ chức thực hiện tốt
những nội dung của chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức nói chung và đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói riêng để thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước ở chính quyền cấp cơ sở.
Trong những năm qua, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã ban hành một số
chương trình, đề án đào tạo cán bộ xã phường, thị trấn nhằm triển khai tổ chức
thực hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, phường,
thị trấn. Sau khi được học tập, nghiên cứu về chính sách công và qua thực tiễn
2
tại huyện Ba Vì, tác giả thấy rằng trong quá trình triển khai thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã còn một số vấn đề đặt ra, cần phải
được nghiên cứu làm rõ thêm nhằm góp phần tăng cường thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách khoa học và hiệu quả.
Với những kiến thức đã học được tại Học viện và trải qua kinh nghiệm
thực tiễn trong công tác ở địa phương, học viên chọn đề tài “Thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội” để làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp trình độ
thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn đề cao công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ và xem đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, then chốt xuyên suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, Đảng ta đã xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cũng như thực hiện chính sách đào tạo, cán bộ cán bộ,
công chức trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả, cụ thể
như:
Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn khu vực Đồng bằng Sông Cửu
Long giai đoạn 2007-2015” [32] của tác giả Vũ Xuân Khoan đã cho thấy tính
cấp thiết của công tác xây dựng qui hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã, phường, thị trấn không chỉ đối với Đồng bằng Sông Cửu Long mà còn
cấp thiết với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong cả nước. Trong phần các
giải pháp thực hiện, tác giả đã đề cập và phân tích tương đối sâu sắc về xây dựng
và tổ chức thực hiện tốt những chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã theo từng giai đoạn phát triển của đất nước và vận dụng thực
hiện các chính sách đó một cách linh hoạt trong điều kiện của từng vùng miền
với những đặc thù riêng biệt nhằm góp phần nâng cao năng lực thực hiện công
3
vụ của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở nước ta trong giai đoạn mới.
Với tiêu đề: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ sau
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị” [27] của tác giả Trần Thị
Hạnh tại Tạp chí Cộng sản (năm 2015) đã đánh giá sâu về những tiến bộ đã đạt
được về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã kể từ khi các địa phương
trong cả nước quán triệt Nghị quyết của Đảng về nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức nói chung trong đó có cán bộ, công chức cấp xã trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước.
Tác giả Nguyễn Hoàn Hải (2012), “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức - từ thực tiễn thành phố Hậu Giang” [23], luận văn
Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả của
luận văn đã khái quát lý luận chung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức; làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức do thực hiện chưa tốt các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Trên cơ sở lý luận, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng công
tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại thành phố Hậu
Giang làm cơ sở đề xuất 8 giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách này để nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại thành phố này trong
những năm tiếp theo.
Trong Luận văn thạc sĩ Chính sách công, “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức từ thực tiễn Bộ Khoa học và Công nghệ” [21] của Nguyễn Thị
Hà; tác giả đã làm sáng tỏ các cơ sở lý luận về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ở Việt Nam và việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức tại cơ quan và Bộ Khoa học và Công nghệ.
Tác giả Tân Thị Thanh trong luận văn thạc sĩ: “Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Hạ Long, thành phố Quảng
Ninh” [39], đã nêu các khái niệm về cán bộ, công chức nói chung và cán bộ,
công chức cấp xã nói riêng. Tác giả cũng đi sâu nêu và phân tích cơ sở lý luận về
quy trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và
4
các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách này. Bên cạnh đó, tác giả cũng
phân tích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã tại các phường của thành phố Hạ Long, thành phố Quảng Ninh.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, phường trong những năm sắp tới ở
địa phương.
Trong cuốn sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức” [35] của tác giả Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã đưa ra những luận điểm khoa học trong việc
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành ở nước ta hiện nay. Trong nghiên
cứu này, nhiều vấn đề được tác giả khẳng định như: về vị trí, vai trò nhân tố
quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng về cán bộ và công tác cán bộ;
về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong mối quan
hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế phát triển của thời đại; về trách nhiệm của các
cấp chủ thể thực hiện chính sách; nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, hệ thống
chính trị; về quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp trong chính sách xây
dựng đội ngũ cán bộ của Nhà nước; đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Tác giả Trần Văn Trung (2015):‘Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ
vùng Tây Bắc Việt Nam hiện nay’[42], luận án tiến sỹ quản lý hành chính công.
Đề tài tập trung phân tích thực hiện chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả
nguồn nhân lực trẻ trong sự phát triển kinh tế vùng miền; nhất là ở những vùng
miền núi khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề phát
triển nguồn nhân lực trẻ tại chỗ ở những khu vực khó khăn thì cần phải thực hiện
tốt chính sách phát triển nhân lực. Bên cạnh đó phải thực hiện tốt cả chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Trong nghiên cứu tác giả cũng
phân tích đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở các nơi này cũng là một yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện thành công chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ ở
5
khu vực miền núi. Do đó bên cạnh thực hiện chính sách phát triển nhân lực trẻ
thì đồng thời phải thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở
những nơi này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và thực trạng thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội để đề xuất
một số giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác lập cơ sở lý luận trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong những năm qua.
- Trên cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đề xuất những giải pháp
để thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Các xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Nguồn số liệu để phân tích thực trạng trong nghiên cứu này
tác giả thu thập trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2017 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng một số phương pháp sau để nghiên cứu đề tài này:
* Phương pháp thống kê - phân tích
+ Thu thập tài liệu thứ cấp: Thu thập số liệu từ các tài liệu, báo cáo đã công khai
6
và số liệu chính thức trên website của UBND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
+ Thu thập tài liệu sơ cấp: Số liệu phục vụ cho nghiên cứu luận văn được
tác giả thu thập thông qua nghiên cứu, khảo sát, điều tra nghiên cứu trực tiếp một
số đối tượng có liên quan.
* Phương pháp tổng hợp - so sánh
- Phương pháp phân tích: phân tích các số liệu trong các báo cáo liên quan
đến tình hình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
của đơn vị hành chính cấp xã, các phòng ban chuyên môn giúp việc cho UBND
huyện, các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị-xã hội ở huyện Ba Vì.
- Phương pháp so sánh: sử dụng so sánh để đối chiếu số liệu giữa các kỳ
và năm thực hiện chính sách này của các xã, thị trấn, các cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện và các tổ chức Đảng, tổ chức
chính trị-xã hội trong huyện Ba Vì.
* Phương pháp điều tra xã hội học
+ Đối tượng điều tra: Một số cán bộ, công chức cấp xã và một số người
dân đang sống trên địa bàn huyện.
+ Nội dung: Điều tra về phản ánh chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã; việc thực hiện chính sách này để đánh giá toàn diện về thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa bàn khảo sát.
- Ngoài ra, trong nghiên cứu này, tác giả cũng sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu bổ trợ khác để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm, các nội dung
lý luận cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã; nêu và phân tích các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Về thực tiễn: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn về thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội, Luận văn nêu lên thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi
7
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và đề xuất một số giải pháp thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội. Đây có thể được xem như là những tài liệu kinh nghiệm thực
tiễn cho các nhà quản lý, chủ thể tổ chức thực hiện chính sách ở các cơ quan
hành chính nhà nước, địa phương tham khảo trong lĩnh vực tổ chức thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương
mình; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính của luận văn chia làm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
8
trong những năm tới.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm cán bộ và công chức
a. Khái niệm cán bộ
Thuật ngữ cán bộ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Có nhiều
cách hiểu về thuật ngữ cán bộ; có thể kể đến một số định nghĩa sau:
“Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức
và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng
sự phát triển của tổ chức” [36]
“Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy cán bộ là cái
gốc của mọi việc”[34, Tr.8]
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, thì “Cán bộ được hiểu là công
dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [36]
Từ các định nghĩa trên, tác giả sử dụng trong nghiên cứu này định nghĩa
về cán bộ như sau: thuật ngữ “cán bộ” dùng để chỉ những người giữ chức danh
bầu cử, bổ nhiệm, điều động để làm việc trong các tổ chức chính trị - xã hội,
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Luật cán bộ,
công chức.
b. Khái niệm công chức
Thuật ngữ “công chức” được hiểu phổ biến trên thế giới từ thế kỷ XIX, là
9
những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong
một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước
ngoài, đã được xếp vào một ngạch và có hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính định nghĩa công chức là: “Người được
tuyển dụng và bổ nhiệm vào làm việc trong một cơ quan của nhà nước ở Trung ương
hay ở địa phương, làm việc thường xuyên, toàn bộ thời gian, được xếp vào hệ thống
ngạch bậc, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có tư cách pháp lý khi thi hành
công vụ của nhà nước” [38, tr.9].
Ở nước ta, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Công chức là
công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương, cấp thành phố, cấp huyện, cấp xã; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[36, Điều 4].
c. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì:
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ cấp xã), là công
dân Việt Nam, được bầu giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội”[36, Điều 4].
“Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước”[36, Điều 4].
10
d. Các chức danh cán bộ, công chức cấp xã
Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của Chính phủ về
quy định chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì:
- Cán bộ cấp xã gồm các chức vụ sau:
+ Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ: Là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở
Đảng bộ, chi bộ (nơi chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị trấn; chịu trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi
bộ; cùng tập thể lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên
địa bàn.
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân: Là cán bộ chuyên trách của
Hội đồng nhân dân cấp xã; chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã
hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân: Là cán bộ chuyên trách lãnh đạo
Uỷ ban nhân dân cấp xã; chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban
nhân dân và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh đã được phân công trên địa bàn.
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam; Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội
nông dân Việt Nam (áp dụng đối với cấp xã có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp và có tổ chức Hội); Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam: Là cán bộ
chuyên trách đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội của xã, phường, thị trấn; chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ tổ chức đoàn thể và chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Công chức cấp xã gồm các chức danh sau:
+ Trưởng công an;
11
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng – thống kê;
+ Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã) hoặc
Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp – hộ tịch;
+ Văn hoá – xã hội.
Nhiệm vụ chung của công chức: Làm công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp xã; tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý Nhà nước về
lĩnh vực công tác (Địa chính, Tài chính, Tư pháp, Công an, Quân sự, Văn hoá -
Xã hội, Văn phòng) và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã giao.
e. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã
Tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã theo Quyết định số 04/2004/QĐ-
BNV, ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ quy định thì cụ thể như sau:
* Tiêu chuẩn chung
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Công tâm thạo việc, tận tụy với dân. Có ý
thức kỷ luật trong công tác.
- Trung thực, không cơ hội; giữ mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân
dân và có uy tín, tín nhiệm với nhân dân.
- Có trình độ lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, năng lực chuyên môn phù
hợp, đủ sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
* Tiêu chuẩn cụ thể
12
- Trình độ chuyên môn
+ Đối với chức danh Bí thư Đảng ủy, Phó bí thư Đảng uỷ xã: Tại khu vực
đồng bằng và đô thị yêu cầu phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên.
Đối với khu vực miền núi, phải được học qua các lớp bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên); nếu tham gia giữ chức vụ lần
đầu, ít nhất phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã trải qua các lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế.
+ Đối với chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND xã: Đối với khu vực
đồng bằng, phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Với khu vực miền
núi phải qua các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn tương đương trình độ sơ
cấp trở lên với các chuyên ngành phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh tế - xã
hội của địa phương. Đã tham gia các lớp bồi dưỡng quản lý Nhà nước, quản lý
kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
+ Đối với chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã: Ở khu vực đồng
bằng, ít nhất phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Đối với khu vực
miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương đương trình độ sơ
cấp trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở
lên với các chuyên ngành phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của
địa phương. Đã được học qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính
Nhà nước, quản lý kinh tế.
+ Đối với chức danh Chủ tịch Ủy ban MTTQ và trưởng các đoàn thể
chính trị - xã hội cấp xã: Đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
tương đương trình độ sơ cấp trở lên trong lĩnh vực công tác mà cán bộ đang đảm
nhiệm.
+ Đối với chức danh công chức xã: Có trình độ chuyên môn từ Trung cấp
trở lên và phù hợp với chức danh công chức.
- Trình độ lý luận:
+ Đối với các chức danh Bí thư Đảng ủy, Phó bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch,
Phó chủ tịch HĐNĐ, UBND: Yêu cầu có trình độ Trung cấp lý luận trở lên.
+ Đối với Chủ tịch Ủy ban MTTQ và trưởng các đoàn thể chính trị -xã
13
hội: Yêu cầu có trình độ Sơ cấp lý luận trở lên.
+ Đối với các chức danh công chức: Yêu cầu có trình độ Sơ cấp lý luận
trở lên. Riêng Trưởng công an và Xã đội trưởng phải có trình độ Trung cấp lý
luận trở lên.
Trên cơ sở tiêu chuẩn yêu cầu, các cơ quan chức năng có căn cứ để hoạch
định chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban hành chính sách đào tạo, bồi
dưỡng. Từ đó, các chủ thể tham gia thực hiện chính sách xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với yêu cầu tình hình thực tiễn.
1.1.2. Khái niệm đào tạo cán bộ, công chức và chính sách đào tạo cán
bộ, công chức
a. Khái niệm đào tạo cán bộ, công chức
Theo quy định tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/3/2010 của
Chính phủ thì khái niệm đào tạo cán bộ, công chức là:
“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ
năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”; “Bồi dưỡng là hoạt động trang
bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”
Từ đó chúng ta có thể hiểu đào tạo cán bộ, công chức và bồi dưỡng cán
bộ, công chức như sau:
Đào tạo cán bộ, công chức là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống
những kiến thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học cho cán bộ,
công chức.
Bồi dưỡng cán bộ, công chức là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao
kiến thức, kỹ năng làm việc của cán bộ, công chức.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm trang bị kiến thức về lý luận
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; kỹ năng quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học
cho đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 (Điều 47) thì: Căn cứ vào tiêu
chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý; tiêu chuẩn của ngạch cán bộ, công
chức và yêu cầu nhiệm vụ mà lựa chọn nội dung chương trình, hình thức, thời
14
gian đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho phù hợp.
b. Khái niệm chính sách, chính sách công và chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Khái niệm Chính sách
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trên những lĩnh
vực cụ thể nào đó và trong một thời gian nhất định. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa…”[38]
Theo Vũ Cam Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế
hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu
đãi một hoặc một số nhóm xã hội; kích thích vào động cơ hoạt động của họ
nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một
hệ thống xã hội”.[16]
Khái niệm chính sách công
Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra rất nhiều định
nghĩa khác nhau về chính sách công.
Theo tác giả Hồ Việt Hạnh thì: “Chính sách công là những quyết định của
chủ thể được trao quyền lực công để giải quyết vấn đề vì lợi ích chung của cộng
đồng” [26]
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm như sau:
Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không
thực hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển
theo định hướng nhất định. [5]
Trong luận văn này, để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, chúng tôi sử dụng khái
niệm về chính sách công của tác giả Nguyễn Khắc Bình.
Trên cơ sở các quan điểm về chính sách công nêu trên, có thể nêu ra quan
niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã như sau: Chính
15
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động của nhà nước về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được thể hiện bằng các văn bản quy
phạm pháp luật nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ
trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức công vụ để phục vụ cho công cuộc phát
triển đất nước.
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là toàn
bộ quá trình chuyển ý chí của Nhà nước trong chính sách trên thành hiện thực.
Tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là
một khâu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời
nhằm đưa chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã vào thực tiễn
cuộc sống.
Để tăng uy tín, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của nhà nước trong
quá trình quản lý xã hội thì cần phải nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán
bộ, công chức. Thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho các nhóm đối tượng hưởng thụ chính
sách. Như vậy, để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã theo yêu cầu quản lý nhà nước thì tổ chức thực hiện
chính sách là tất yếu, khách quan.
1.1.3. Nội dung của Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
Trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội của đất nước, Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Những năm gần
đây, Nhà nước thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức và ban hành nhiều chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức (trong đó có cán bộ, công chức cấp xã) được thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật như: Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày
25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
16
công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP
ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức.
Nội dung chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã gồm:
1.1.3.1. Mục tiêu
- Trang bị kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị; kỹ năng, phương pháp
thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị vững vàng và năng lực đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân,
sự nghiệp phát triển của đất nước.
- Phấn đấu trong giai đoạn 2016-2025 tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có phẩm chất chính trị, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
1.1.3.2. Các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
a) Đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước
(1) Về đào tạo
- Từ điều kiện thực tế và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng,
miền để đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cho cán bộ, công chức cấp xã
cho phù hợp.
- Khuyến khích tự học và đào tạo trình độ sau đại học cho cán bộ, công
chức cấp xã phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ; gắn đào tạo cán bộ, công chức
cấp xã với quy hoạch sử dụng lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn
nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế trong giai đoạn mới của đất nước.
(2) Về bồi dưỡng
- Bồi dưỡng Lý luận chính trị: Bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị theo
tiêu chuẩn quy định của Nhà nước cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, cho các
17
chức danh cán bộ, công chức cấp xã; Cập nhật nội dung các văn kiện, nghị
quyết, đường lối, chủ trương của Đảng; cập nhật nâng cao trình độ lý luận chính
trị theo quy định trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
- Bồi dưỡng Kiến thức quản lý nhà nước: Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh công chức, chức vụ lãnh đạo, quản
lý ở cấp xã. Cập nhật thường xuyên kiến thức, kỹ năng, phương pháp quản lý,
phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao. Cập nhật kiến thức pháp luật mới,
văn hóa công sở, nâng cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của
người cán bộ, công chức ở cơ sở.
- Thực hiện các chương trình về bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng - an
ninh theo quy định của Nhà nước cho cán bộ, công chức cấp xã.
- Cập nhật và nâng cao kiến thức, năng lực công vụ trong bối cảnh hội
nhập quốc tế của đất nước.
- Bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ, tin học theo tiêu chuẩn quy định của
Nhà nước; Bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức cấp xã đang công tác
tại vùng có đồng bào dân tộc sinh sống.
b) Đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài:
Đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở trong nước, trong
trường hợp cần thiết; nhất là những nội dung quản lý ở Việt Nam chưa được đào tạo,
bồi dưỡng thì có thể cử cán bộ, công chức cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài
với các nội dung như: Quản lý, điều hành các chương trình kinh tế-xã hội; Quản lý
hành chính công; Quản lý nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực; Xây dựng tổ chức và
phát triển nguồn nhân lực; Chính sách công, dịch vụ công; Kiến thức hội nhập quốc
tế đối với các nước đang phát triển..v.v..
c) Các hình thức đào tạo
Về đào tạo tập trung: đây là hình thức đào tạo mà cán bộ, công chức cấp
xã phải dành toàn bộ thời gian cho học tập và nghiên cứu theo quy định của
chương trình tại từng cơ sở đào tạo. Thời gian cán bộ, công chức cấp xã học tập
trung nhiều hay ít nhằm bảo đảm việc học tập, nghiên cứu do cơ sở đào tạo quy
18
định. Trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 2 năm, trình độ cao đẳng tập trung học
3 năm. Tùy theo khối ngành và cơ sở đào tạo trình độ đại học mà có thời gian
học tập trung từ 4 năm trở lên; trình độ thạc sĩ phải có từ 2 năm trở lên.
Về đào tạo bán tập trung: đây là hình thức đào tạo mà cán bộ, công chức
cấp xã vừa công tác vừa theo học một số buổi trong tuần hoặc một số ngày trong
tháng; cán bộ, công chức cấp xã được tạo điều kiện học tập xen kẽ với làm việc
tại cơ sở. Đối với hình thức đào tạo này, cán bộ, công chức cấp xã sẽ bố trí được
thời gian để làm việc chuyên môn, nhưng tổng thời gian dành cho học tập và
nghiên cứu phải bằng thời gian đào tạo theo hình thức tập trung tại cơ sở đào tạo.
Trong thời gian theo học, cán bộ, công chức cấp xã không bị gián đoạn thời gian
làm việc quá lâu, không làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức và giải quyết
công việc của cán bộ, công chức cấp xã đảm nhiệm tại địa phương vì sẽ có ngày
học, ngày làm việc, hoặc tuần học, tuần làm việc.
Về đào tạo vừa làm vừa học: đây là một hình thức đào tạo được thực hiện
phổ biến ở nước ta trong thời gian trước đây cũng như hiện nay. Cán bộ, công
chức cấp xã tham gia học tập theo chương trình này rất thuận lợi. Các chương
trình đào tạo được xây dựng dựa trên yêu cầu của từng ngành cụ thể; đáp ứng
các yêu cầu về nội dung giống như chương trình đào tạo hệ chính quy cùng trình
độ của cơ sở đào tạo. Thời gian cán bộ, công chức cấp xã hoàn thành một chương
trình theo hình thức vừa làm vừa học này phải dài hơn so với chương trình đó ở
cùng trình độ hệ chính quy từ nửa năm đến một năm của cùng một ngành đào tạo
tại cùng một cơ sở đào tạo.
Về đào tạo trực tuyến: đây là hình thức đào tạo mới trong thời đại 4.0 và
nó phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của cán bộ, công chức cấp xã dưới
sự hướng dẫn, tổ chức và cung ứng tài liệu của các cơ sở đào tạo. Cùng với sự
phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin và sự tiện lợi trong quá trình học tập
thì hình thức đào tạo, bồi dưỡng từ xa với sự hỗ trợ của các phương tiện nghe
nhìn rất phát triển và cũng được coi là một hình thức đào tạo, bồi dưỡng đang
được chú ý. Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng từ xa là tạo cơ hội cho cán bộ,
công chức cấp xã đang làm việc, hoặc không có cơ hội đến cơ sở đào tạo thường
19
xuyên được học tập, nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức cần thiết để phục vụ
cho việc thực hiện công vụ ở cơ sở. Cán bộ, công chức cấp xã theo hình thức này
chủ yếu là tự học, tự giác, kiên trì, quyết tâm qua giáo trình, băng hình, phần
mềm vi tính, bằng việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn cá nhân, phát thanh,
truyền hình, các tổ hợp truyền thông đa phương tiện, mạng Internet dưới sự tổ
chức của cơ sở đào tạo mà cán bộ, công chức cấp xã đang tham gia học tập.
Tùy điều kiện thực tế của từng cán bộ, công chức cấp xã, người học có
thể chọn lựa hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện của mình để
giúp họ vừa có thể dễ dàng tham gia học tập trau dồi, rèn luyện kiến thức, vừa có
thể hoàn thành công vụ được giao tại cơ sở.
d) Tổ chức thực hiện chính sách
Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia,
trường chính trị thành phố, huyện, trường của Bộ, ngành; đào tạo chuyên môn
trình độ từ cử nhân trở lên tại các trường đại học; đào tạo bồi dưỡng ở nước
ngoài với chuyên môn phù hợp với Việt Nam. Các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở Trung ương và địa phương phối hợp với cơ sở đào tạo bồi dưỡng tổ
chức thực hiện chính sách này với các nhiệm vụ và quyền hạn của mình đã được
quy định trong chính sách.
đ) Khuyến khích cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số; cán
bộ, công chức công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa học tập nâng cao trình độ, năng lực
chuyên môn. Những cán bộ, công chức cấp xã ở những nơi này khi tham gia các
khóa đào tạo bồi dưỡng được nhà nước hỗ trợ toàn phần chi phí đào tạo và hỗ trợ
một phần sinh hoạt phí trong thời gian học tập.
e) Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã. Ngoài ra còn có kinh phí của cơ quan nhà nước cử cán bộ, công chức cấp
xã đi học; đóng góp của doanh nghiệp và cán bộ, công chức đi học.
20
1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1. Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã
Chủ thể trực tiếp thực hiện chính sách: chủ thể trực tiếp thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là các cơ quan, đơn vị, tổ chức có
chức năng quản lý nhà nước về cán bộ, công chức như Bộ nội vụ; Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, Sở nội vụ; Uỷ ban nhân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã, cán
bộ, công chức cấp xã, cơ quan tổ chức của Đảng ở các cấp ở địa phương. Đây là
các cơ quan có trách nhiệm thực hiện nội dung của chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Ngoài ra, còn bao gồm cả đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã là những đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chính sách đào tạo, bồi
dưỡng.
Chủ thể gián tiếp thực hiện chính sách: Là các cơ quan có trách nhiệm
phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách. Cụ thể, trong thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức có sự phối hợp của các cơ quan liên quan
như: Bộ giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính, Sở Tài chính,
Phòng tài chính, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng, các tổ chức chính trị-xã hội ở địa
phương và các bộ ngành có liên quan khác. Chính sự phối kết hợp một cách chặt
chẽ, nhịp nhàng của nhiều chủ thể mang tính liên ngành đó đã đưa chính sách đi
vào cuộc sống. Do đó, để chính sách đạt được các mục tiêu đề ra và hiệu quả cao
thì cần phải có sự phân công, phối hợp thực hiện nhịp nhàng của các cơ quan,
đơn vị có liên quan.
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã
Theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/8/2003 của Thủ tướng
Chính phủ, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy
hoạch, kế hoạch xây dựng phát triển đội ngũ công chức của cơ quan, đơn vị; tiêu
chuẩn của từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch, chức danh công
21
chức và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của công chức.
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ, thì
nguyên tắc đào tạo bồi dưỡng công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức vụ lãnh
đạo, quản lý, tiêu chuẩn của ngạch công chức, căn cứ vào vị trí việc làm và nhu cầu
xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của đơn vị, cơ quan; đảm bảo tính tự chủ của
cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức đào tạo
bồi dưỡng; đề cao vai trò tự học và tôn trọng việc lựa chọn chương trình bồi dưỡng
theo vị trí việc làm của công chức; bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
Hình thức, thời gian, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và tiêu chuẩn chức danh, chức vụ
lãnh đạo, quản lý, tiêu chuẩn ngạch công chức.
1.2.3. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã
a. Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là cách thức sử dụng lợi ích vật chất nhằm tác động
lên các đối tượng tham gia thực hiện chính sách. Thực chất đây là phương pháp
dùng các lợi ích vật chất tác động, động viên, khuyến khích, thúc đẩy các đối
tượng chính sách tham gia quá trình thực hiện chính sách một cách tích cực, đây
là phương pháp có tác dụng rất mạnh so với các phương pháp khác. Với chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì phương pháp này giúp cho cán bộ,
công chức cấp xã hăng hái tham gia các khóa học để nâng cao năng lực thực hiện
công vụ của mình. Người tham gia học tập tốt có thể được khen thưởng bằng vật
chất hoặc hỗ trợ một phần kinh phí khi tham gia đào tạo hoặc tham gia các khóa bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
b. Phương pháp tuyên truyền, thuyết phục
Phương pháp tuyên truyền, thuyết phục là cách thức sử dụng các ý tưởng
để các cán bộ, công chức cấp xã có ý thức được trách nhiệm của mình trong việc
tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng từ đó tác động lên các đối tượng
22
và quá trình chính sách bằng. Ý thức đầy đủ về mục tiêu chính sách sẽ giúp cho
các cán bộ, công chức cấp xã tham gia một cách tự nguyện vào thực hiện các mục
tiêu chung. Phương pháp này được tiến hành thông qua tuyên truyền, giáo dục, giải
thích, hướng dẫn về chính sách đào tạo, cán bộ, công chức và những lợi ích về vật
chất và tinh thần mà chính sách mang lại nhằm tác động đến ý thức, trách nhiệm
của mỗi cán bộ, công chức để thúc đẩy họ tích cực và trách nhiệm hơn trong quá
trình thực hiện chính sách này; góp vào nâng cao năng lực thực hiện công vụ của
chính bản thân đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
c. Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là cách thức cơ quan, tổ chức tác động trực tiếp
lên đối tượng và quá trình thực hiện chính sách bằng quyền lực nhằm đạt được
mục đích đề ra. Phương pháp này có tính quyền lực, bắt buộc và đảm bảo
nghiêm kỷ cương trong quá trình thực hiện chính sách. Trong quá trình thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã sử dụng phương pháp
kinh tế và giáo dục thuyết phục. Một số trường hợp sử dụng phương pháp kinh tế
và phương pháp tuyên truyền, thuyết phục không mang lại hiệu quả mà phải dùng
phương pháp hành chính. Những cán bộ, công chức cấp xã được cử đi học nếu
không thực hiện tốt nhiệm vụ học tập có thể bị khiển trách, trả về địa phương; phải
bồi hoàn kinh phí. Những người thuộc diện phải đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
nếu không chấp hành điều động có thể bị xem xét kỷ luật tùy vào mức độ vi phạm
để xử lý theo quy định trong chính sách, pháp luật về cán bộ công chức của Nhà
nước.
d. Phương pháp kết hợp
Phương pháp kết hợp là phương pháp tác động lên đối tượng là cán bộ,
công chức cấp xã trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã bằng tổng thể các phương pháp trên để để triển khai thực hiện
chính sách này có hiệu quả. Phương pháp này được xây dựng bằng cách kết hợp
cả ba phương pháp nêu trên theo một trình tự, quy mô nhất định. Về nguyên tắc,
tùy theo điều kiện cụ thể, phương pháp kết hợp có một cấu trúc hình thể nhất
23
định. Các cơ quan, nhà quản lý xem xét, kết hợp các phương pháp trên cho hiệu
quả, phù hợp với yêu cầu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã của địa phương.
1.2.4. Những yêu cầu cơ bản trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
a. Yêu cầu thực hiện mục tiêu
Để đạt được những mục tiêu trực tiếp, các cơ quan, tổ chức nhà nước, các
cán bộ, công chức tham gia chính sách có những hoạt động cụ thể để thực hiện
chính sách. Nó là nhiệm vụ xuyên suốt và là yêu cầu quan trọng nhất trong quá
trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Giải
quyết được vấn đề chính sách chính là đạt được mục tiêu chính sách. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có đủ trình độ và năng lực, phẩm chất
đạo đức đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công cho người dân ở cơ sở; phục vụ
sự nghiệp phát triển địa phương và đất nước chính là mục tiêu của chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phải đạt
được mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là yêu
cầu cơ bản nhất trong quá trình thực hiện chính sách này.
b. Yêu cầu bảo đảm tính hệ thống
Tính hệ thống trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: Hệ thống trong tổ chức
bộ máy thực hiện chính sách; Hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách;
Hệ thống trong điều hành, phối hợp thực hiện; yêu cầu bảo đảm tính hệ thống
trong tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao. Để đảm bảo yêu cầu này cần
phải sử dụng đồng bộ, hiệu quả các công cụ chính sách với các công cụ quản lý nhà
nước khác. Nếu yêu cầu này được đảm bảo trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ là cơ sở trực tiếp cho việc đạt được mục tiêu đề
ra.
c. Yêu cầu bảo đảm tính khoa học và pháp lý trong thực hiện chính sách
Đây là một yêu cầu quan trọng, nó buộc các cơ quan tổ chức, đơn vị có
24
trách nhiệm tổ chức thực hiện phải bảo đảm pháp lý và tính khoa học một cách
phù hợp trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã. Việc chấp hành các quy định về thực hiện chính sách để đảm bảo
tính tập trung, thống nhất trong chấp hành chính sách chính là tính pháp lý trong
tổ chức thực hiện chính sách. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu này cần phải có
một hệ thống bộ máy cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý chính sách gọn nhẹ; đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực tổ chức thực hiện chính sách. Yêu cầu này
đòi hỏi trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách phải phối hợp chặt chẽ, nhịp
nhàng giữa các bộ phận quản lý chính sách; phải chủ động, năng động, tìm kiếm
việc thu hút các nguồn lực, các chương trình hướng đến thực hiện mục tiêu chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Đồng thời việc tổ chức thực
hiện chính sách một cách khoa học và hợp lý sẽ giúp việc thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách thuận lợi.
d. Yêu cầu đảm bảo lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Ngày nay, có rất nhiều nhóm lợi ích cùng tôn tại và nhà nước là người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức và các cá nhân; cụ thể là cán bộ, công
chức và công chức cấp xã…Nhà nước xem xét, ban hành và tổ chức thực hiện
chính sách hướng đến đối tượng nào thì nhóm đối tượng đó được thụ hưởng.
Tương tự như vậy, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được
ban hành thì chỉ những ai là cán bộ, công chức cấp xã theo quy định mới là đối
tượng thụ hưởng chính sách. Đây cũng chính là yêu cầu xác định đúng đối tượng
được đào tạo, bồi dưỡng; trong quá trình thực hiện chính sách phải đảm bảo lợi
ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng chính của chính sách, tránh việc thực
hiện mang tính hình thức, thiếu khách quan vì như vậy sẽ không giải quyết được
vấn đề yêu cầu quan trọng trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã.
1.2.5. Các bước thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
25
chức cấp xã
a. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là quá
trình diễn ra trong thời gian dài, phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải có kiến thức
chuyên môn, hiểu biết sâu, kỹ năng và thái độ của cán bộ, công chức trong xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách. Kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là một công cụ rất quan trọng để giúp các cơ
quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã vào thực tiễn một cách chủ động. Xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã bao gồm các nội
dung: Phải có kế hoạch tổ chức điều hành; có kế hoạch cung cấp các nguồn lực
vật chất cho thực hiện chính sách; có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc công tác thực
hiện chính sách; dự kiến xây dựng nội quy, quy chế về tổ chức, quy chế về điều
hành thực hiện chính sách. Kế hoạch triển khai được xây dựng chính xác, cụ thể
thì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã gặp nhiều
thuận lợi và có kết quả cao nhất.
b. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã
Công tác phổ biến, tuyên truyển chính sách đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa
vai trò rất quan trọng không chỉ đối với cơ quan quản lý nhà nước mà cả đối
tượng thực hiện chính sách khi triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã theo kế hoạch. Khi làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến sẽ giúp cho những đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiểu rõ mục đích, yêu cầu, tính đúng đắn của
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta; từ đó, họ tự giác, tự nguyện thực hiện theo yêu cầu của chính sách. Đồng thời
giúp cho mỗi cán bộ, công chức tham gia thực hiện có trách nhiệm lớn lao của
mình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
26
nhận thức được tính chất, quy mô của chính sách từ đó nỗ lực tìm kiếm các giải
pháp thực hiện các mục tiêu và triển khai chính sách có hiệu quả. Công tác tuyên
truyền, phổ biến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã đạt hiệu quả cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải hiểu mục tiêu, yêu
cầu, nội dung, nhiệm vụ của chính sách; phải nhận thức được đầy đủ vai trò của
công tác phổ biến, tuyên truyền đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách. Trên
cơ sở đó có sự lựa chọn các kỹ năng, biện pháp phổ biến, tuyên truyền cho phù
hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương.
c. Công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có tác động rất
lớn, hướng tới nhiều tập thể và cá nhân tham gia thực hiện bao gồm cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở thực hiện chính sách và đối tượng thụ
hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Bên cạnh đó,
từng mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cũng
phong phú, phức tạp về không gian và thời gian tổ chức thực hiện. Bởi vậy,
muốn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một
cách có hiệu quả đòi hỏi cần có sự phân công, phối hợp chặt chẽ trong thực hiện
giữa các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, chính quyền địa phương, cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng và đội ngũ cán bộ, công chức. Công tác phân công, phối hợp
thực hiện chính chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thông
thường có sự tham gia của các cơ quan như: Nội vụ, Tài chính, Đài truyền
thanh,… Hoạt động này cần chú ý tới đặc điểm, thế mạnh của từng cá nhân, cơ
quan, đơn vị trong phối hợp thực hiện chính sách để tránh tình trạng trùng lặp,
chồng chéo; phân công không rõ trách nhiệm hoặc phân công cho đối tượng
không đủ năng lực thực hiện chính sách. Thực tiễn chứng minh rằng hiệu quả,
kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phụ
thuộc rất lớn vào năng lực thực hiện, khả năng phối hợp giữa các bên thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Do đó, để tổ chức thực
27
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có hiệu quả cần
phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, cơ quan, cá nhân theo
thẩm quyền đã được quy định trong chính sách hoặc các quy định khác của Nhà
nước…
d. Công tác duy trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
Duy trì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có ý nghĩa
vô cùng quan trọng và nó bảo đảm cho chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã tồn tại và thực hiện trong thời gian dài không bị gián đoạn. Để
có thể duy trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
theo mục tiêu đã được xác định, chúng ta cần phải thường xuyên kiểm tra quá
trình thực hiện, đánh giá công việc trong quá trình thực hiện và đề xuất các giải
pháp phù hợp với thực tiễn ở từng địa phương và trong từng giai đoạn cụ thể
nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã. Đồng thời cơ quan thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã phải luôn luôn kiểm tra để nắm bắt được điểm mạnh, điểm yếu trong
quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; từ
đó có những điều chỉnh những giải pháp tổ chức thực hiện để duy trì chính sách.
Ngoài ra, phải chú ý quan tâm đánh giá thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã để các đối tượng thực hiện chính sách biết được những
hạn chế trong quá trình thực hiện, từ đó có nhận thức đúng về vị trí, quyền lợi,
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong thực hiện chính sách. Việc kiểm tra,
đánh giá nhằm chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã giúp duy trì, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
hiện mục tiêu. Căn cứ điều kiện thực tế, trong quá trình tổ chức thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cấp xã, các cơ quan, tổ chức và cá nhân cán bộ, công
chức thực hiện chính sách cần có những tham mưu, đề xuất các giải pháp nhằm
duy trì chính sách. Bởi trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã do môi trường thực hiện luôn biến đổi hoặc gặp những
28
khó khăn, tác động nhất định. Do đó, khi thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cấp xã đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kiến thức nhất định để có thể tạo lập được một môi trường thuận lợi
nhất cho quá trình thực hiện chính sách trong điều kiện thực tế của địa phương.
e. Việc điều chỉnh các giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã
Do môi trường thực hiện chính sách luôn thay đổi so với môi trường trước
và sau khi ban hành chính sách nên việc điều chỉnh các giải pháp tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động cần
thiết trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã. Theo đó, quá trình điều chỉnh giải pháp tổ chức thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được hiện thực bởi
những cơ quan có thẩm quyền nhằm điều chỉnh các giải pháp thực hiện chính
sách phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã thì cơ quan đó được quyền điều
chỉnh, bổ sung chính sách. Trên thực tế, các cơ quan các cấp, các ngành theo
chức năng và nhiệm vụ được phân công trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã có thể chủ động đưa ra các giải pháp để thực hiện có hiệu
quả chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Hoạt động điều
chỉnh giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã cần phải chính xác và hợp lý nếu không sẽ làm chệch hướng mục tiêu chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đã đề ra. Trong trường hợp đó
coi như việc thực hiện chính sách này không đạt yêu cầu. Do vậy, khi thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã yêu cầu đội ngũ cán bộ,
công chức phải có trình độ và kỹ năng tốt để có thể đề xuất các biện pháp, giải pháp
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách hiệu
quả, bảo đảm mục tiêu của chính sách không được thay đổi.
f. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
29
cán bộ, công chức cấp xã
Để các chủ thể thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã nêu cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo
định hướng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì các cơ
quan, đơn vị, cán bộ, công chức có thẩm quyền theo quy định thực hiện các hoạt
động theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã thông qua công cụ đảm bảo trong quá trình thực hiện như nội
quy, quy chế, quy định…. Từ thực tiễn, có thể thấy trong quá trình tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã không phải cá
nhân, cơ quan, đơn vị nào cũng làm đúng, làm tốt; vì thế cần có hoạt động đôn
đốc, theo dõi, kiểm tra để vừa có thể thúc đẩy các chủ thể nỗ lực hơn nữa trong
thực hiện chính, vừa có thể phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những hành vi vi
phạm trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp pháp nhằm chấn chỉnh công tác tổ
chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã góp phần
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ, công chức cần phải có kiến
thức sâu, hiểu mục tiêu, đối tượng thụ hưởng của chính sách và các quy định,
giải pháp thực hiện chính sách. Cần nắm chắc, chính xác các quy định trong kế
hoạch thực hiện chính sách, các quy chế, nội quy trong thực hiện chính sách. Để
thực hiện tốt việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải thu thập đầy đủ các nguồn thông tin,
các dữ liệu phản ánh về quá trình triển khai, kết quả thực hiện chính sách từ các
cơ quan, tổ chức; từ đó, phân tích, xử lý thông tin một cách chính xác, hạn chế
những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách. Kiểm
tra, đôn đốc thực hiện chính sách vừa kịp thời bổ sung, hoàn thiện giải pháp tổ
chức thực hiện chính sách, giúp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của chính sách đào
30
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
g. Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ có thể
đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã; trong đó đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi chính sách
hết hiệu lực do cơ quan ban hành chính sách chủ trì thực hiện. Việc đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách có ý nghĩa rất quan trọng; là hoạt
động để đưa ra những kết luận, đánh giá về sự điều hành và chấp hành của các
đối tượng liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Cụ thể, hoạt động đánh giá, tổng kết về chỉ đạo,
điều hành và chấp hành thực hiện các giải pháp để tổ chức chức thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nhằm vào đối tượng là các cơ
quan nhà nước, các ngành, tổ chức có liên quan trong quá trình ban hành và thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Cơ sở để đánh giá,
tổng kết là các kế hoạch được giao và căn cứ vào những nội quy, quy chế đã
được xây dựng để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã. Bên cạnh đó, phải kết hợp sử dụng một số các văn bản quy phạm, văn
bản liên tịch để xem xét, đánh giá tình hình phối hợp thực hiện chính sách; phải
chú trọng xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của các đối tượng cán bộ, công chức tham gia quá trình thực
hiện…. nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu của chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Ngoài các tiêu chí ra, để tổng kết, đánh
giá chính xác còn phải căn cứ vào các nguyên tắc đó là công bằng, khách quan
và toàn diện. Công tác đánh giá, tổng kết phải chỉ ra được các ưu điểm, nhược
điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã; từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đào tạo,
31
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Có nhiều yếu tố liên quan đến các tổ chức, cá nhân trong thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; do vậy, kết quả tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố khách quan và chủ quan.
a. Yếu tố khách quan
Tính chất của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có nội dung
phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phức tạp ở chỗ không chỉ số lượng
cán bộ, công chức rất lớn mà còn do đặc thù, tính chất công việc, đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ, công chức cấp xã rất đa dạng, phong phú và khác nhau ở từng
địa phương, vùng miền. Cán bộ, công chức làm việc trong các lĩnh vực sự
nghiệp công khác nhau đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp tương ứng, không có khuôn mẫu chung cho tất cả các ngành nghề, lĩnh
vực sự nghiệp công. Chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của công
chức sự nghiệp y tế càng khác xa với chuyên môn nghiệp vụ của công chức sự
nghiệp quản lý đô thị, đất đai hay về trật tự an ninh và công chức sự nghiệp
khác. Vì vậy, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho cán bộ, công chức cấp xã cũng rất khác nhau; do đó, nội dung, kiến
thức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, trang bị cũng đòi hỏi phải khác nhau và
phù hợp với từng ngành, nghề, lĩnh vực nơi cán bộ, công chức công tác. Đây
chính là biểu hiện rõ nhất tính phức tạp của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã; nó gây phức tạp cho việc xây dựng và tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Do tính phức tạp
của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nên trong tổ
chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải
32
chú ý đến tác động ảnh hưởng của nó để chủ động tìm kiếm các giải pháp khắc
phục mới cho kết quả và hiệu quả mong muốn; nhất là đặc điểm đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, đặc điểm vùng miền.
Môi trường thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã chịu
ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc
phòng ở địa phương. Môi trường thực hiện chính sách chứa đựng toàn bộ thành
phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã như các đối tượng được thụ hưởng từ chính sách, tình
hình an ninh chính trị ở địa phương, sự phát triển sản xuất kinh doanh ở địa
phương, trật tự xã hội hay quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh, giáo dục y tế; hệ thống các cơ quan nhà nước tham gia thực
hiện chính sách với nhiệm vụ quyền hạn khác nhau cũng ảnh hưởng đến quá
trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở
địa phương.
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã: Thể hiện trong sự thống nhất về lợi ích hay mức độ
phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của các đối tượng thụ hưởng cũng như tham gia thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương. Trong tổ
chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã có sự
khác nhau giữa các chế độ đãi ngộ, phụ cấp cho các đối tượng khác nhau về
vùng miền, dân tộc thiểu số, hoặc có thể về chuyên môn đào tạo. Vì vậy, cần có
sự thống nhất, phối hợp giữa các đối tượng hưởng thụ và người thực hiện chính
sách để đảm bảo tính minh bạch, công bằng, đúng đối tượng, đúng các quy định
trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
ở địa phương.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức cấp xã: Thực lực và tiềm năng của mỗi nhóm đối tượng chính sách có
33
được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác trong thụ hưởng
chính sách. Tiềm lực của cán bộ, công chức cấp xã hiện nay nhìn chung có nhiều
thuận lợi cho việc thực hiện chính sách này; tuy nhiên đối với cán bộ, công chức
cấp xã ở vùng miền núi, vùng xa xôi hẻo lánh, cán bộ công chức người dân tộc
thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Do đó, ngoài các chế độ đãi ngộ dành cho đối
tượng này đã được quy định trong chính sách, các cơ quan nhà nước ở địa
phương cần có cơ chế chính sách đặc thù để huy động các nguồn lực để tạo điều
kiện về vật chất cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở những nơi này có điều
kiện thuận lợi để yên tâm tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng.
Đặc tính của đối tượng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã: Do tính chất đặc trưng nghề nghiệp, đặc điểm dân tộc, văn hóa vùng
miền và là cán bộ cơ sở nên cán bộ, công chức đa phần là những cán bộ, công
chức có gia đình ở địa phương nên không muốn tham gia đào tạo dài ngày xa gia
đình. Hơn nữa họ cũng có không nhiều cơ hội tiếp xúc với những vấn đề mới của
khoa học tiên tiến nên năng lực tiếp thu có những hạn chế nhất định. Tính địa
phương, cục bộ và những thói quen, phong tục tập quán ở làng xã cũng ảnh
hưởng đến các đối tượng này tham gia học tập. Vì vậy, đây là mặt khó khăn mà
các cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã cần chú trọng quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã ở nước ta hiện nay để cho chính sách này được thực hiện tốt và
đạt được mục tiêu đã đề ra.
b. Yếu tố chủ quan
Một là, các yếu tố thuộc về cơ quan, tổ chức, do cán bộ, công chức chủ
động chi phối đến quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã nên nó ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện. Thành công của
chính sách Thành công của một chính sách phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và
sự hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Khả năng và sự hoạt động của cơ quan và cán
bộ thực hiện chính sách đó, thông thường là các cơ quan trong bộ máy hành
34
chính nhà nước ở địa phương - những người chủ yếu và trực tiếp thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Việc thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã luôn luôn đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ
các bước trong quy trình thực hiện chính sách công. Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thiếu hay không đúng quy trình các
bước này thì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ không
đạt kết quả tốt, sẽ không đạt được mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã.
Hai là, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan chủ trì và
phối hợp tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã tham gia thực hiện chính sách này. Năng lực của đội ngũ này thể hiện
trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, năng lực
tổ chức tuyên truyền, năng lực huy động nguồn lực, năng lực phối hợp hoạt
động, năng lực quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, …v.v. trong quá
trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta
hiện nay. Muốn năng lực của đội ngũ này tham gia thực hiện chính sách trên tốt
trước hết đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách phải được lựa
chọn, được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lý luận về chính sách công và
đi sâu vào nội dung thực hiện chính sách công và các kiến thức chuyên ngành bổ
trợ khác.
Ba là, điều kiện vật chất cho quá trình thực hiện chính sách đối với cán
bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã. Điều kiện vật chất là một trong những yếu tố quan trọng cho quá
trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Về điều
kiện vật chất này đã được Nhà nước lên kế hoạch từ trước khi ban hành chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện chính sách này có thể có những biến động. Do đó các cơ quan nhà nước chủ trì
thực hiện chính sách này phải luôn quan tâm, tăng cường các nguồn lực vật chất và
35
nhân lực để thực hiện chính sách; nhất là ở những vùng khó khăn cần có sự hỗ trợ
các đối tượng thụ hưởng chính sách để chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã thực hiện đúng tiến độ đã quy định.
Bốn là, sự hưởng ứng của các đối tượng thụ hưởng chính sách và các đối
tượng liên quan. Đây là nhân tố có vai trò quan trọng quyết định sự thành công
hay thất bại của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Nhìn
chung các cán bộ công chức cấp xã đều mong muốn được tham gia các khóa đào
tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên trên thực tế có những
nơi; nhất là vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công chức, cán bộ
cấp xã người dân tộc thiểu số cũng không thiết tha với việc đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn của mình bởi họ không muốn xa nhà, có
thể do hoàn cảnh kinh tế, có khi do sợ mất vị trí công tác, chức vụ..v.v. Do đó,
để chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đạt được mục tiêu đề
ra, công tác tuyên truyền, hay tìm các giải pháp hỗ trợ động viên về vật chất và
tinh thần để học tham gia thực hiện chính sách này là vô cùng quan trọng.
Tiểu kết Chương 1
Tại chương này, tác giả đi sâu nghiên cứu, làm rõ một số nội dung những
vấn đề có tính lý luận về cán bộ, công chức cấp xã; chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức cấp xã ở Việt Nam hiện nay. Các nội dung đó bao gồm: các khái niệm
như cán bộ, công chức; cán bộ, công chức cấp xã; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức; Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Bên cạnh đó, Chương 1
cũng phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Phần lớn nội dung chương này đề đến nội dung của chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và quy trình các bước thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay và các yếu tố
36
khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Những phân tích về các nội dung trên để
làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Đây là cơ sở quan trọng, có ý nghĩa định hướng
cho việc đi sâu phân tích thực trạng ở Chương 2 và đưa ra các giải pháp ở
37
Chương 3 trong nghiên cứu này.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Ba Vì là huyện xa trung tâm, cửa ngõ phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội. Với tổng
diện tích 424km2, dân số hơn 291 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh,
Mường, Dao); toàn huyện có 30 xã và 01 thị trấn, trong đó có 07 xã miền núi, một
xã ở bãi giữa sông Hồng. Phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ,
phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và phía Đông giáp thị xã Sơn Tây.
Địa hình của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia
thành 3 tiểu vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi gò và vùng đồng bằng ven
sông Hồng.
Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm chính, nhóm đất vùng đồi núi
và nhóm vùng đồng bằng. Nhóm đất vùng đồi núi có 18.478 ha (chiếm 58,9%
đất đai của huyện); nhóm đất vùng đồng bằng có 12.892 ha (chiếm 41,1% diện
tích đất đai toàn huyện). Theo số liệu thống kê năm 2018, diện tích rừng toàn
huyện có 9.684 ha, trong đó: rừng sản xuất 3.170 ha, rừng phòng hộ 78 ha và
6.436 ha rừng đặc dụng. Diện tích rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở vùng núi Ba
Vì từ độ cao 400m trở lên. Hệ động thực vật Ba Vì rất đa dạng, phong phú; hiện
nay các nhà thực vật học Việt Nam ước khoảng 2.000 loại, gồm nhiều loại gỗ
quý hiếm như lát hoa, kim giao sến mật, sồi, dẻ gai....
Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng
khí hậu nhiệt đới gió mùa; có mạng lưới thủy văn hết sức độc đáo, xung quanh
gần như được bao bọc bởi hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Đà; có một
hệ thống đường giao thông thuỷ, bộ rất thuận lợi nối liền các tỉnh Tây Bắc với
38
đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Từ Trung tâm huyện theo Quốc
lộ 32 đi Sơn Tây về Hà Nội và các thành phố đồng bằng Bắc bộ hoặc ngược lại
đi các tỉnh Tây Bắc. Đồng thời cũng từ trung tâm huyện lỵ theo sông Hồng
ngược Trung Hà theo sông Lô, sông Thao lên Tây Bắc, hoặc theo sông Đà đi
Hoà Bình - cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc. Với những lợi thế về giao thông
đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế,
văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển
kinh tế với cơ cấu đa dạng: nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp.
Bên cạnh những thuận lợi trên, với địa lý có sông, có núi, có đồng bằng và
diện tích lớn như vậy cũng là những trở ngại trong quá trình thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện.
2.1.2. Văn hóa, truyền thống
Theo số liệu thống kê, đến năm 2018, huyện Ba Vì đã có 69 di tích lịch sử
văn hoá được xếp hạng các loại. Những di tích này đều có lịch sử, kiến trúc độc
đáo gắn liền với tên tuổi các vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như: đền
thờ Tản Viên Sơn thánh; đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đỉnh núi Ba Vì, khu
di tích K9…. Một số di tích có tầm cỡ quốc gia như: Đình Tây Đằng, Đình Chu
Quyến, là 2 di tích được xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia; Đình Thụy
Phiêu được các nhà khoa học đánh giá là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt
Nam có niên đại 1531- thời Nhà Mạc.
Người dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, cần cù, sáng tạo trong lao
động, kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm nhất là trong hai cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ đổi
mới, huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ
và vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Những
thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã được Đảng và Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, Huân
39
chương lao động hạng nhất thời kỳ đổi mới. [31]
Truyền thống văn hóa này đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền
các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã của huyện Ba Vì trong thời gian qua.
2.1.3. Về Kinh tế xã hội
Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố
Hà Nội, sự nỗ lực của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì đã phấn đấu
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII (2015-
2020), các mục tiêu cơ bản đạt và vượt Nghị quyết đề ra. Tổng giá trị sản xuất
năm 2019 đạt 30.240 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch, tăng 11,5% so với năm
2018. Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 10.210 tỷ đồng, bằng 96 % KH,
tăng 2,7% so với năm 2018; Nhóm ngành dịch vụ - du lịch đạt 13.050 tỷ đồng,
bằng 102% KH, tăng 16,7% so với năm 2018; Công nghiệp - xây dựng đạt 6.980
tỷ đồng, bằng 102% KH, tăng 16% so với năm 2018. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm
nghiệp, thủy sản: 33,8%; Dịch vụ, thương mại, du lịch: 43,2%; Công nghiệp, xây
dựng: 23,0 %. Hết năm 2019 đã có 18/30 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, chiếm tỷ
lệ 60% số xã (số liệu báo cáo đến hết năm 2019).
Chính sách xã hội, lao động việc làm, nông nghiệp, nông thôn, nông dân
được quan tâm giải quyết, hàng năm tạo việc làm mới cho khoảng 3.800 lao
động; sự nghiệp giáo dục được quan tâm đã có 55/111 trường trên địa bàn đạt
chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 49,1%. Công tác y tế: đã có 31/31 trạm Y tế xã có Bác
sỹ, 31/31 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Về văn hóa đã có 172/213 làng đạt danh
hiệu văn hóa, chiếm 80,7%; hàng năm, có hơn 87% số gia đình đạt danh hiệu Gia
đình văn hóa. Phong trào thể dục thể thao tiếp tục được quan tâm, phát triển.
Cải cách hành chính có sự tiến bộ, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội
được giữ vững; công tác quân sự quốc phòng được đảm bảo. Công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn có sự chỉ đạo tập trung;
hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được củng cố, không có đơn vị yếu kém, đảm
40
bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra. Đây là
những yếu tố thuận lợi trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã của địa phương trong thời gian qua.
2.1.4. Đội ngũ cán bộ, công chức
Xác định nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh
tế-xã hội, những năm qua huyện Ba Vì luôn chú trọng đến đầu tư phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức nói
riêng. Huyện Ba Vì đề ra mục tiêu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thực thi công vụ,
phục vụ nhân dân.
Tổng số đơn vị hành chính của huyện gồm 31 xã, thị trấn. Tổng số cán bộ,
công chức cấp xã là 653 người. [31]
Trình độ học vấn của đội ngũ công chức cấp xã: Công chức có 334 người.
- Trưởng công an: 31 người (là công an chính quy). Trong đó: Trung cấp:
21, Đại học 10. LLCT: Trung cấp: 31.
- Chỉ huy trưởng quân sự: 31 người. Trong đó: Trung cấp: 28 người, Cao
đẳng: 02, Đại học: 01 người. LLCT: Trung cấp: 31.
- Văn phòng - thống kê: 60 người; Trong đó: Trung cấp 12, Cao đẳng 04,
Đại học là 44.
- Tài chính - Kế toán: 40 người. Trong đó: Trung cấp 05, Cao đẳng 01,
Đại học 34.
- Địa chính - Xây dựng: 59 người. Trong đó: Trung cấp 03, Cao đẳng 12,
Đại học 43, Thạc sỹ 01.
- Tư pháp - Hộ tịch: 51 người. Trong đó: Trung cấp 02, Đại học 49.
- Văn hóa - Xã hội: 62 người. Trong đó: TB-XH: 29 người (TC 3, CĐ 1,
ĐH 24, ThS: 01; VH-TT: 33 người ( TC 7, CĐ 1, ĐH 25).
Trình độ học vấn của đội ngũ Cán bộ cấp xã: cán bộ có 319 người.
- Bí thư Đảng ủy: 31 người, trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp
41
01, Đại học 28, Thạc sỹ: 01. LLCT: Trung cấp: 29, Cao cấp: 02.
- Phó Bí thư thường trực Đảng ủy: 31 người, trong đó: Trình độ chuyên
môn: Trung cấp 02, Đại học 29 người. LLCT: Trung cấp 29, Cao cấp 01; Cử
nhân: 01.
- Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã: 30 người (01 xã Bí thư kiêm Chủ tịch
UBND). Trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp: 01, Đại học: 29.
- Phó Chủ tịch HĐND xã: 31 người.
- Phó Chủ tịch UBND xã: 41 người.
- Chủ tịch MTTQ xã: 31 người.
- Chủ tịch Hội phụ nữ xã: 31 người.
- Chủ tịch Hội nông dân xã: 31 người.
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã: 31 người.
- Bí thư Đoàn thanh niên xã: 31 người.
Trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp: 11, Cao đẳng: 11, Đại học:
204, Thạc sỹ: 01. LLCT: Sơ cấp 13, Trung cấp 211, Cao cấp 02, Cử nhân 01.
Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững
vàng, năng lực chuyên môn cao, tận tụy với công việc, ngoài các yếu tố khác
nhau của công tác tổ chức cán bộ thì còn phải có các loại hình đào tạo, bồi
dưỡng hiệu quả, phù hợp cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung.
Sự thành công hay thất bại của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước hoặc do cơ quan, tổ chức vạch ra có vai trò quyết định, rất quan trọng của
cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức phải được quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng về năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức
phục vụ nhân dân vì họ là những người trực tiếp thực hiện các chính sách, kế
hoạch của cơ quan, tổ chức; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông
tin,...) giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp và người dân.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng,
góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác,
42
chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; hướng tới
mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn;
đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng được xác định trong Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm
xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết
các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng.
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
huyện Ba Vì có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả quan trọng
bước đầu. Đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) cơ bản có bản có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lĩnh chính trị vững vàng, năng động và sáng
tạo; tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Năng lực hoạt động thực tiễn, kiến thức chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công
chức được nâng cao, từng bước thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, đóng
góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Bảng 2.1. Biên chế cán bộ, công chức cấp xã
Tổng số cán bộ, công chức STT Tên Xã, trị trấn
43
Khánh Thượng Minh Quang Ba Vì Ba Trại Tản Lĩnh Yên Bài Vân Hòa Cẩm Lĩnh Thuần Mỹ Sơn Đà Tòng Bạt Phú Sơn Đồng Thái Vạn Thắng Phú Đông Cổ Đô Phú Cường Phong Vân Tản Hồng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. Cán bộ 10 11 10 11 11 10 10 10 10 10 10 11 10 11 10 10 10 10 11 Công chức 12 10 10 14 13 11 13 10 10 10 10 11 10 11 9 9 10 11 11
20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. Châu Sơn Chu Minh Cam Thượng Thụy An Vật Lại Phú Châu Đông Quang Tây Đằng Tiên Phong Thái Hòa Phú Phương Minh Châu 10 10 10 10 10 10 10 11 10 10 10 10 10 9 11 12 14 11 9 12 12 11 9 9
Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019
2.1.5. Chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ cấp xã của Huyện
Tổng số: 653 cán bộ, công chức tính đến thời điểm năm 2019 về trình độ
và cơ cấu như sau:
- Về trình độ chuyên môn
Bảng 2.2. Cơ cấu về trình độ chuyên môn
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
THPT
STT
SL % SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
0 0 03 0,46 444 67,99 52 7,97 154 23,58 0 0
Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019
Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của
Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán
bộ, cán bộ cấp cơ sở thì trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
tại huyện Ba Vì qua bảng số liệu đảm bảo được tiêu chuẩn học vấn theo quy định
và ở mức trung bình so với mặt bằng chung của cấp xã trên địa bàn thủ đô Hà
Nội; các chức danh lãnh đạo như Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã đều có trình độ chuyên môn tốt
nghiệp đại học trở lên; các chức danh trưởng đầu ngành có chuyên môn tốt
44
nghiệp từ trung cấp trở lên. Nó là những thuận lợi, quyết định trực tiếp tới khả
năng tiếp thu và thực hiện các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu giới tính CBCC
Nam Tỷ lệ % Nữ Tỷ lệ %
66,46 434 219 33,54
Tổng (người) 653 Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019
Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba Vì có trình độ chuyên
môn đại học chiếm 67,99%; cán bộ công chức có trình độ chuyên môn cao đẳng
chiếm 7,97%, có trình độ trung cấp chiếm 23,58%; có trình độ chuyên môn cao
học chiếm 0,46%; không còn cán bộ công chức có trình độ THPT. Về cơ bản,
đội ngũ cán bộ công chức của huyện đều được chuẩn hóa theo chức danh.
- Trình độ lý luận chính trị
Bảng 2.4. Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị
Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo
STT SL % SL % SL % SL %
06 0,92 297 45,48 350 53,6 0 0
Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019
Việc học tập lý luận chính trị được đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức
tốt, coi là quyền lợi và nhiệm vụ chính trị của bản thân. Trong quá trình đánh
giá, sử dụng, bổ nhiệm và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức thì kết
quả học tập lý luận chính trị - hành chính là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên
được xét đến. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thuộc huyện Ba Vì cơ bản đảm
bảo quy định tiêu chuẩn về trình độ chính trị theo quy định. Điều này thể hiện sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của huyện Ba Vì đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn huyện, qua đó
góp phần nâng cao uy tín, bản lĩnh của người cán bộ, công chức trong việc dẫn
45
dắt nhân dân, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
- Trình độ quản lý nhà nước của cán bộ công chức trên địa bàn huyện Ba
Vì chưa thực sự cao trong khi nền hành chính hiện nay đều áp dụng cơ chế một
cửa, một cửa liên thông, thực hiện cải cách hành chính, đòi hỏi phải nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu về chất lượng
cung ứng và thái độ phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
* Về trình độ tin học và ngoại ngữ
Trình độ tin học CBCC cấp xã đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ tương đối
cao (84%); tỷ lệ CBCC cấp xã qua đào tạo trình độ ngoại ngữ ( tối thiểu
trình độ A) chiếm tỷ lệ khá cao 67,99%.
- Về cơ cấu:
Bảng 2.5. Cơ cấu về độ tuổi
Tuổi dưới 35 Tuổi từ 35-49 Tuổi từ 50 trở lên STT SL % SL % SL %
147 22,51 320 49 186 28,49
Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019
Đến năm 2019, về tổng thể thì cơ cấu độ tuổi này là hợp lý, cơ bản đảm
bảo tính ổn định, có sự kế thừa, thuận lợi trong công tác cán bộ và thực thi công
vụ tại cơ sở.
Đánh giá chung:
Một là, đa số đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba Vì được sinh
ra và lớn lên tại địa phương, do đó tác phong làm việc còn bị ảnh hưởng chi phối
bởi tác phong nông nghiệp, bảo thủ, khó tiếp thu cái mới; thiếu sự công bằng,
giải quyết công việc mang tính cảm tính; trình độ chuyên môn, tin học còn chưa
cao. Do ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng, vai trò cá nhân không được đề cao,
cán bộ công chức cấp xã trông chờ, chưa chủ động, ý thức trách nhiệm trong
công việc chưa cao.
Hai là, nhận thức của phần lớn đội ngũ cán bộ công chức cấp xã huyện Ba
Vì đều nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của bản thân; luôn có ý thức tự
46
học, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; có tinh thần
trách nhiệm trong thực hiện công vụ, luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đây
là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện tốt chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ
công chức cấp xã; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp
xã của huyện Ba Vì trong bối cảnh mới của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số
cán bộ công chức cấp xã tinh thần trách nhiệm chưa cao, né tránh, đùn đẩy, ngại
va chạm, chưa mềm dẻo, linh hoạt, lười học tập, nghiên cứu, cập nhật kiến thức
mới làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả công việc của địa phương.
Ba là, trong những năm qua, mặc dù được huyện quan tâm đầu tư trong
việc học tập nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công
chức cấp xã, song số lượng cử đi học hàng năm vẫn còn hạn chế. So với yêu cầu
chuẩn cán bộ về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ thì nhiều cán bộ công
chức cấp xã vẫn chưa đáp ứng tiêu chuẩn này.
Một số cán bộ, công chức còn hạn chế về trình độ hiểu biết kinh tế, pháp
luật, tin học, ngoại ngữ, kỹ năng hoạt động công tác đảng, đoàn; một số còn
hoạt động theo tư duy cũ, , nặng tính hành chính, sự vụ, ngại học tập, thiếu năng
động, linh hoạt, chưa sâu sát thực tế cơ sở. Khả năng nghiên cứu, tham mưu, đề
xuất, định hướng còn hạn chế.
Cần phải có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kịp thời cho số công
chức trẻ mới được tuyển dụng để bổ sung thêm kinh nghiệm thực tiễn, kinh
nghiệm và năng lực nghiên cứu, tổng hợp, tham mưu về công tác đảng, đoàn.
Những năm gần đây cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực trong việc
tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, phân công công việc cho cán bộ công chức cấp xã.
Trước đây, việc tuyển chọn những người đã được đào tạo đầy đủ rất khó khăn,
thậm chí tuyển chọn rồi bố trí đưa đi đào tạo, bồi dưỡng thì những năm gần đây,
công tác tuyển dụng cán bộ công chức cấp xã của huyện đã được chú trọng hơn
về chất lượng.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
47
chức cấp xã tại huyện Ba Vì
2.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã
Với mục tiêu xây dựng cơ quan hành chính kỷ cương, liêm chính, hành
động và phục vụ thì các cấp uỷ, chính quyền và nhất là đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ngày càng cần phải nâng cao trình độ, năng lực cũng như thái độ
phục vụ nhân dân, Thành Ủy Hà Nội đã có Thông báo kết luận số 596-TB/TU,
ngày 15-6-2013 của Thành ủy Hà Nội về chủ trương công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã đến năm 2015 và những năm tiếp theo. Hàng năm
Thành ủy đã chỉ đạo các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cụ thể cho từng năm, từng gia đoạn phù hợp với đặc
điểm, tình hình của địa phương.
Tiếp theo đó, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội
theo thông báo tại công văn số 09/VP-NC ngày 04/01/2016 của Văn phòng UBND
Thành phố giao cho Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng
Đề án “Đào nguồn nhân lực chất lượng cao Thành phố giai đoạn 2016 - 2020” và các
văn bản: Công văn số 827/UBND-NC ngày 16/02/2016 của UBND Thành phố về
việc triển khai Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016
- 2025; Thực hiện Thông báo sô 467/TB-ƯBND ngày 06/12/2016 của UBND Thành
phố thông báo kết luận tại phiên họp tập thể UBND Thành phố về nội dung “Đề án
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành
phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020”.
Năm 2017, Thành phố đã ban hành chỉ thị về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cho cấp xã trên toàn thành phố nhằm nâng cao năng lực thực hiện công
vụ cho đội ngũ này. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã đã được Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện các các văn bản của Thành
phố về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, Ủy ban
nhân dân Huyện Ba Vì đã xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện chính sách đào tạo,
48
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện.
Trong các văn bản nêu trên của Thành phố đều có kế hoạch tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cho từng khu vực;
trong đó có huyện Ba Vì. Trên cơ sở chỉ đạo của Thành phố Hà Nội huyện Ba Vì
đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức và triển khai tới các xã trong huyện.
Đây là hệ điều kiện giúp cấp uỷ, chính quyền cấp xã của huyện Ba Vì xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ
tiêu chuẩn theo quy định, và đủ trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ công vụ.
Sau khi khảo sát 300 cán bộ, công chức cấp xã, kết quả cho thấy 100%
cấp uỷ, chính quyền cấp xã hàng năm có xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Song, trong quá trình xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã còn để xảy ra việc xây
dựng kế hoạch một cách hình thức, thiếu khoa học, chưa hợp lý; phân công phối
hợp còn chung chung, chưa thực sự rõ ràng, đôi khi còn chồng chéo, không rõ
trách nhiệm của tập thể, cá nhân làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách
2.2.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã.
Sau khi lập kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, các cấp uỷ,
chính quyền của huyện Ba Vì tập trung làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền
chính sách để chính sách được phổ biến một cách rộng rãi nhất, các cơ quan, đơn
vị, cá nhân dễ dàng tiếp cận. Để thực hiện phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện
đã chỉ đạo Ban tổ chức Huyện uỷ chủ trì phối hợp với Phòng Văn hoá thông tin;
Phòng nội vụ; Đài truyền thanh huyện; cấp uỷ, chính quyền các xã, thị trấn tổ
chức thông tin, phổ biến, tuyên truyền, theo dõi với các nhiệm vụ cụ thể.Cấp uỷ,
chính quyền đã chỉ đạo tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: thực hiện thông
qua việc đăng tải trên hệ thống cổng thông tin điện tử của huyện, đài phát thanh
của huyện, đài phát thanh của các xã thực hiện tiếp âm; Phổ biến, tuyên truyền
49
thông qua các hội nghị để triển khai, quán triệt tới đảng viên, cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị….; ngoài ra, còn giao cho các tổ chức đoàn thể chính trị
xã hội như Hội phụ nữ; Hội nông dân; Đoàn thanh niên các cấp... tổ chức các hội
nghị để quán triệt, triển khai cho đoàn viên, hội viên nắm được chính sách về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát 300 cán bộ, công chức cấp xã cho thấy
rằng 100% cán bộ, công chức cấp xã đều nắm được chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã. Có 97% cán bộ, công chức cấp xã nắm được chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức là do cấp uỷ, chính quyền cấp xã triển khai, 03% cán bộ,
công chức cấp xã nắm được qua các kênh thông tin khác. Đồng thời qua điều tra,
khảo sát cho thấy số cán bộ, công chức đánh giá công tác phổ biến, tuyên truyền
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở mức “Rất tốt”; là 91 người, chiếm
30,3%; số cán bộ, công chức đánh giá ở mức “Tốt” là 199 người, chiếm 66,3 %; số
cán bộ, công chức đánh giá ở mức “Bình thường” là 10 người, chiếm 3,33%; không
có cán bộ, công chức nào đánh giá ở mức “Chưa đạt”.
Nhìn chung, cấp uỷ, chính quyền các cấp của huyện Ba Vì đã quan tâm,
chú trọng công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã và yêu cầu thực hiện với các hình thức tuyên truyền khác nhau,
đảm bảo quán triệt, triển khai đầy đủ tới đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó
vẫn còn một số hạn chế trong việc phổ biến, tuyên truyền tại một số xã như triển
khai còn hình thức, đưa tin chưa cụ thể, rõ ràng hoặc đưa tin mang tính chất lồng
ghép nhiều nội dung dẫn đến các đối tượng có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng không
nắm được chính sách, không biết mình có phải đối tượng thụ hưởng chính sách hay
không…
2.2.3. Thực trạng phân công, phối hợp tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Huyện Ba Vì được thực hiện một cách tương đối tốt việc phân công, phối
hợp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Ban Tổ chức Huyện uỷ chủ trì phối hợp với Phòng Nội vụ huyện đã tham mưu
50
cho Huyện uỷ, UBND huyện xây dựng kế hoạch, thông báo chiêu sinh tới các xã
trên địa bàn huyện. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tiếp nhận hồ sơ tuyển sinh, lập
danh sách cán bộ, công chức đủ tiêu chuẩn báo cáo với cấp có thẩm quyền cử
cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng. Phân công cán bộ trực tiếp theo dõi công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trực tiếp liên hệ, phối hợp chặt chẽ với các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng của Thành phố như Trường đào tạo Cán bộ Lê Hồng
Phong, Trung tâm chính trị huyện theo dõi số lượng, tình hình học tập, việc chấp
hành nội quy, quy chế đào tạo, bồi dưỡng của các học viên. Kịp thời phối hợp
với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc
phát sinh trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng; nhất là cho một số đối tượng là
người dân tộc thiểu số.
Phòng Nội vụ huyện được giao nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp kết quả đào
tạo, bồi dưỡng, định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện, Sở Nội vụ. Thường
xuyên cập nhật văn bằng, chứng chỉ vào hồ sơ quản lý sau khi cán bộ, công chức
hoàn thành các lớp đào tạo, bồi dưỡng; chủ động tham mưu cho Uỷ ban nhân
dân huyện thành lập các hội đồng xét chuyển ngạch lương cho cán bộ, công
chức, đảm bảo quyền lợi cho họ sau khi tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng.
Thực hiện các quy định, hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân thành phố, Sở
tài chính thì phòng Tài chính kế hoạch huyện có hướng dẫn việc sử dụng kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng cho cấp uỷ, chính quyền và cán bộ, công chức được cử đi
đào tạo, bồi dưỡng nhằm hỗ trợ kinh phí kịp thời cho cán bộ, công chức.
Đảng uỷ, chính quyền cấp xã có trách nhiệm rà soát, lựa chọn đúng đối
tượng để cử đi đào tạo, bồi dưỡng; kịp thời báo cáo kết quả cử cán bộ, công chức
đi đào tạo, bồi dưỡng với Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ để theo dõi. Chủ động
phối hợp chặt chẽ với thành phố và cấp huyện để kiểm tra, giám sát việc học tập
của cán bộ, công chức; giải quyết các vướng mắc phát sinh. Chủ động tìm các
nguồn lực, tạo điều kiện hỗ trợ cán bộ, công chức tham gia quá trình đào tạo,
bồi dưỡng.
Qua điều tra, khảo sát thực tế, số cán bộ, công chức đánh giá công tác
51
phân công, phối hợp trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng của cấp
uỷ, chính quyền cấp xã ở mức “Rất tốt” là 56 người, chiếm 18,6%; mức “Tốt” là
206 người, chiếm 68,6%; mức “Bình thường” là 34 người, chiếm 11,3%; mức
“Chưa đạt” là 04 người, chiếm 1,33%
Như vậy, tại huyện Ba Vì trong kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đều có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp tổ
chức thực hiện; trong đó gắn trách nhiệm chủ trì và trách nhiệm phối hợp thực
hiện giữa các cơ quan, đơn vị.
2.2.4. Thực trạng duy trì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã.
Trong môi trường thực tế của huyện Ba Vì, chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã được duy trì, thực hiện thường xuyên và phát huy tác
dụng rõ nét. Hằng năm, theo chương trình, kế hoạch thành phố và huyện thực
hiện chiêu sinh hai lần vào tháng 3 và tháng 8; do vậy, chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã ngày càng được nâng lên qua các năm; thực hiện công vụ
một cách có hiệu quả, góp phần cải cách thủ tục hành chính và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của huyện. Các địa phương nghiêm chỉnh đánh giá kết quả
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để xác định những
yếu tố ảnh hưởng đến chính sách, trên cơ sở đó kịp thời phản ánh, đề xuất giải
pháp thực hiện chính sách một cách hiệu quả.
Ngoài ra, các xã cũng tiến hành rà soát việc phân bổ các nguồn lực để bảo đảm
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được duy trì hiệu quả và đảm
bảo kế hoạch, lộ trình thời gian mà chính sách đề ra.
Qua khảo sát tình hình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã, có thể thấy rằng việc duy trì thực hiện chính sách được chính
quyền cấp huyện và cấp xã thường xuyên quan tâm; không để gián đoạn thực
hiện chính sách này. Ngoài ra, để cán bộ, công chức có đủ tiêu chuẩn theo quy
định các cấp uỷ, chính quyền còn cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở
52
ngoài huyện hoặc ngoài thành phố khi cán bộ, công chức có nhu cầu và thực tiễn
công tác thực hiện công vụ cần thiết như các chuyên ngành các cơ sở đào tạo ở
Hà Nội không có hoặc ít đào tạo ngắn hạn.
2.2.5. Thực trạng điều chỉnh giải pháp thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại
huyện Ba Vì thời gian qua cho thấy một số giải pháp thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức công chức cấp xã trong những năm qua còn có
những hạn chế, bất cập. Sự hạn chế, bất cập này thể hiện ở chỗ lựa chọn các
chuyên ngành đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã chưa phù hợp
thực tế với mọi vùng ngay cả Ba Vì là huyện thuộc Thủ đô Hà Nội. Có cán bộ,
công chức được cử đi đào tạo nhưng không phù hợp với chức danh, nên khi
tuyển dụng lại hoặc luân chuyển công tác gặp một số khó khăn, bất cập nhất
định. Một mặt do tính chất phức tạp của vấn đề quản lý xã hội ở cơ sở, mặt khác
do một số nội dung của chính sách chưa cụ thể và chưa sát thực tế, như quy định
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp trong khi các cơ sở đào tạo bồi dưỡng trên cùng địa bàn không đáp ứng
được. Trên cơ sở đó trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các phòng,
ban liên quan đã kịp thời kiến nghị, đề xuất với UBND Thành phố điều chỉnh
giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; đặc biệt là điều chỉnh các
chuyên ngành đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa
phương huyện Ba Vì vừa có đô thị, vừa có nông thôn và miền núi. Từ đó, chính
quyền địa phương cũng chủ động rà soát, điều chỉnh một số giải pháp thực hiện
chính sách cho phù hợp với cơ sở; điều chỉnh việc lựa chọn các chuyên ngành,
trình độ cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng theo hướng đảm bảo lợi ích cho cán bộ,
công chức cấp xã. Trên cơ sở những hạn chế, bất cấp trong thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, Uỷ ban nhân dân huyện đã kịp thời điều chỉnh nội dung, giải
pháp, xây dựng một số cơ chế của chính sách đặc thù của huyện. Trên cơ sở đó,
53
chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã hướng tới những chuyên ngành cần thiết, phù
hợp với yêu cầu tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã theo quy định
của pháp luật; các nội dung đào tạo đã được điều chỉnh với nhu cầu thực tế.
Đồng thời điều chỉnh mức hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn.
Có thể nói, các giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của thành phố Hà Nội nói chung và huyện Ba Vì nói riêng đã
có sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đảm bảo quyền
và lợi ích của các đối tượng thụ hưởng chính sách. Tuy nhiên việc điều chỉnh
này còn chậm và đôi khi chưa được quan tâm đúng mức.
2.2.6. Thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
trên địa bàn huyện Ba Vì được theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên và kịp
thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách; đồng thời đổi mới công tác tổ
chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục
tiêu chính sách. Muốn làm tốt công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thì phải hiểu rõ mục tiêu của
chính sách, đối tượng thụ hưởng, các quy định trong kế hoạch thực hiện chính
sách và các quy chế, giải pháp thực hiện chính sách.
Thực tế, tại huyện Ba Vì, Ban Tổ chức Huyện ủy chủ trì phối hợp với
Phòng Nội vụ huyện xây dựng kế hoạch tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đối với các xã; thành lập các
Đoàn kiểm tra với nội dung kiểm tra tập trung vào việc xây dựng kế hoạch; triển
khai thực hiện kế hoạch, duy trì thực hiện chính sách; rà soát tiêu chuẩn đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã…từ đó chỉ ra các nội dung đã đạt được, những hạn chế
cần khắc phục trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của địa phương. Ngoài ra, Ban Tổ chức Huyện uỷ cử cán bộ phối hợp với
các cơ sở đào tạo trong thành phố theo dõi, kiểm tra quá trình học tập của các
54
học viên, kịp thời thông báo bằng văn bản về cấp uỷ, chính quyền địa phương
nơi cử cán bộ, công chức đi đào tạo những trường hợp vi phạm quy chế, quy
định trong đào tạo, những trường hợp bị xoá tên, bỏ học, xin nghỉ, xin bảo lưu…
Huyện Ba Vì đã được duy trì khá tốt công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Định kỳ sơ,
tổng kết, kịp thời chỉ ra những ưu điểm, hạn chế đối với các chủ thể tham gia
thực hiện chính sách, đồng thời nghiêm khắc phê bình, nhắc nhở, xem xét xử lý
đối với các chủ thể tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng để xảy ra vi
phạm. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vi phạm trong tổ chức
thực hiện chính sách có lúc còn chậm, chưa kịp thời nên có ảnh hưởng nhất định
đến hiệu quả thực hiện chính sách.
2.2.7. Thực trạng đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Trong chu trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã thì bước đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách
cũng là bước quan trọng và cũng là bước cuối cùng của chu trình.
Sau một thời gian triển khai Đề án thí điểm đào tạo 1000 công chức nguồn
làm việc tại xã, phường, thị trấn giai đoạn 2012-2015 của Thành phố và Đề án
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020 của UBND thành phố Hà Nội, các cơ
quan chủ trì thực hiện chính sách ở huyện Ba Vì đã chỉ đạo các xã, phường, thị
trấn tiến hành tổng kết đánh giá từng giai đoạn thực hiện đề án. Việc tổng kết,
đánh giá hàng năm đã được các cấp từ huyện đến cơ sở thực hiện một cách
nghiêm túc, hiệu quả. Có thể nói đây là công tác tổng kết thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã theo từng giai đoạn và ở từng khu
vực của huyện với sự chỉ đạo của Huyện ủy và UBND huyện và sự phối hợp của
các ngành, tổ chức chính trị xã hội tại địa phương.
Định kỳ, khi tổ chức các hội nghị tổng kết năm, triển khai thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của địa phương, các xã đồng thời tổ chức lồng ghép đánh giá
55
việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; có thể kể
đến một số hội nghị như: Hội nghị tổng kết công tác Đảng; Hội nghị cán bộ,
công chức; Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng; Hội nghị tổng kết
công tác đào tạo, bồi dưỡng…. Trong các hội nghị này, những vấn đề liên quan
đến thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được đưa
ra đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm nhằm thực hiện chính sách này hiệu quả
hơn trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, tại huyện Ba Vì việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có địa phương thực
hiện chưa được nền nếp, còn hình thức, chưa sâu, chưa đánh giá được hiệu quả
và hiệu lực của thực hiện chính sách này một cách đầy đủ, khoa học.
Bảng 2.6. Mức độ đánh giá về tính thiết thực của tổng kết đánh giá thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Số ý kiến điều tra Tỷ lệ (%) Mức độ
Rất thiết thực 18 5,14
Khá thiết thực 138 39,43
Ít thiết thực 167 47,72
Không thiết thực 27 7,71
Tổng số 350 100
Nguồn: Số liệu điều tra
2.3. Đánh giá chung
a. Ưu điểm
- Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Ba vì luôn coi thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là việc làm thường xuyên của công
tác cán bộ và là một nội dung quan trọng trong chương trình cải cách hành chính
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, Huyện uỷ, Uỷ ban
nhân dân huyện đã quan tâm, chỉ đạo việc triển khai thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, chỉ tiêu được giao; cấp uỷ, chính quyền xã đã có
56
cơ chế, chế độ hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp xã tích cực tham
gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng một cách hiệu quả. Trong giai đoạn từ năm
2016-2019 huyện Ba vì đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng được một số lượng lớn
cán bộ, công chức cấp xã. Cụ thể đã đào tạo, bồi dưỡng 2.165 lượt cán bộ, công
chức cấp xã. Đây là kết quả của quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba vì.
- Trong việc triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã, cấp uỷ, chính quyền, tập thể lãnh đạo các địa phương, cơ
quan, đơn vị đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng có tính quyết định đến việc thực hiện
thành công mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của
huyện Ba vì.
- Trong tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã nhìn chung đã thực hiện được các bước và bảo đảm cơ bản các yêu cầu trong
tổ chức thực hiện chính sách. Các giải pháp phù hợp đã được các chủ thể tham gia
thực hiện chính sách chủ động lựa chọn và huy động các nguồn lực, có cả những
nguồn lực xã hội hóa vào tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức. Chính vì vậy, tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm qua đã đạt được những kết quả
nhất định, đã làm thay đổi chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã một cách
căn bản…
- Nội dung, chương trình đào tạo từng bước được đổi mới, hình thức đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức đa dạng, phong phú, kết hợp đào tạo tập trung với mở
rộng các hình thức đào tạo khác. Kết hợp giữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
nhà trường với rèn luyện trong thực tiễn và bố trí sử dụng cán bộ.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ được
tăng cường, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy và học tập được hiện
đại hóa một bước. Các trường của thành phố đã chú trọng việc xây dựng đội ngũ
giảng viên cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng, quan tâm đến việc phát triển đội
ngũ giảng viên trẻ, chú trọng xây dựng cả phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực
57
chuyên môn và phương pháp dạy học cho giảng viên.
b. Hạn chế, bất cập
- Một số ít cấp ủy, chính quyền cấp xã chưa chú trọng đúng mức đến việc
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cán bộ kế cận; chưa
thường xuyên rà soát, quy hoạch cán bộ, bổ sung kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; chưa gắn đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán bộ. Một số cán bộ
sau khi ra trường trở về địa phương chưa được bố trí công tác hoặc có bố trí
nhưng công việc chưa phù hợp với chuyên môn được đào tạo, gây lãng phí trong
đào tạo.
- Một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã do chưa nhận thức đúng tầm quan
trọng của việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, còn lấy kinh nghiệm để làm việc, vì vậy động cơ, mục đích, thái độ đi đào
tạo, bồi dưỡng chưa đúng, chưa tích cực, không có động lực phấn đấu. Chưa coi
việc đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, là nghĩa vụ và
quyền lợi mà lại xem đó là "bắt phải đi học", do đó coi mục đích đào tạo là có đủ
bằng cấp, chứng chỉ để hoàn thành tiêu chuẩn chức danh, được xếp lương, nâng
ngạch...
- Một số ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, công chức cấp xã. Nội dung một số chương trình, phương pháp đào tạo có
lĩnh vực còn chưa phù hợp, chưa sát với đối tượng, nặng về lý thuyết, hạn chế kỹ
năng thực hành; chất lượng đào tạo chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Một bộ
phận giáo viên còn hạn chế kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn. Trang thiết bị, cơ
sở vật chất phục vụ việc dạy và học đã xuống cấp, còn nhiều khó khăn. Sự phối
kết hợp giữa các chủ thể tham gia thực hiện chính sách nhất là cơ sở đào tạo với các
địa phương trong việc chọn cử cán bộ đi đào tạo chưa thường xuyên; sơ kết, tổng
kết các chương trình, khóa đào tạo chưa chặt chẽ. Việc phân bổ, quản lý kinh phí đào
tạo theo kiểu xin cho; có đơn vị thực hiện chưa đúng quy định, để xảy ra sai phạm.
- Việc thực hiện đúng quy định của chính sách trong đó có đối tượng cán bộ đi
đào tạo, bồi dưỡng còn có nhiều trường hợp chưa theo quy hoạch, yêu cầu và nhiệm vụ
của địa phương, còn chạy theo số lượng. Việc theo dõi, quản lý cán bộ được cử đi đào
58
tạo, bồi dưỡng của huyện ủy, uỷ ban nhân dân huyện có lúc, có việc chưa chặt chẽ;
thông tin hai chiều giữa cấp ủy, chính quyền với nhà trường chưa thường xuyên; chưa
quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ dự nguồn sau đào tạo. Số lượng cán bộ cử đi đào tạo,
bồi dưỡng không đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu đề ra.
- Trong giai đoạn hiện nay Nhà nước ban hành chính sách sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức thể hiện ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, có sự
chồng chéo về nội dung. Cho nên việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã còn bộc lộ một số điểm chưa phù hợp như: tạo sức ì cho cán
bộ cơ sở vì có sự bao cấp của Nhà nước, cán bộ được đào tạo theo đề án nhưng
không phù hợp với công việc, một số ít cán bộ chưa được xếp lương theo bằng cấp
đã được đào tạo, gây lãng phí trong đào tạo.
c. Nguyên nhân của các hạn chế, bất cập
* Nguyên nhân khách quan
- Nhận thức của cán bộ công chức về mục tiêu của chính sách còn hạn
chế. Cán bộ chủ yếu vừa học vừa làm nên thời gian tập trung dành cho việc học
tập và nghiên cứu không nhiều nên thái độ thực hiện chính sách chưa cao. Mặt
khác chất lượng cán bộ được cử đi học đa số có trình độ giáo dục phổ thông,
chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị còn thấp nên nhận thức về hưởng thụ từ
chính sách này rất hạn chế và là nguyên nhân hưởng không nhỏ trong quá trình
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng này.
- Khi thực hiện Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ một số công
chức cấp xã có trình độ chuyên môn trung cấp đã được bố trí phù hợp với vị trí
công tác nên có tư tưởng thỏa mãn không muốn học tiếp để nâng cao trình độ;
một số người học xong cao đẳng, đại học khi bố trí công tác không đúng chuyên
môn lại quay lại tiếp tục học trung cấp dẫn đến làm giảm hiệu lực, hiệu quả của
chính sách này.
- Cấp xã có đặc thù riêng, khó khăn hơn so với các cấp khác trong công
tác bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ: chủ yếu cán bộ trưởng thành từ cơ sở thôn,
xóm, do nhân dân bầu, việc luân chuyển, sắp xếp cán bộ sang ngang hay lên cấp
59
huyện là rất khó... Do đó một số cán bộ dự nguồn sau khi đã được đào tạo xong
nhưng chưa được bố trí công tác, phải chờ đợi lâu nên bỏ việc, gây lãng phí
trong đào tạo dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách có nơi còn thấp.
* Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức về vai trò và mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng của
một số cấp uỷ đảng, chính quyền chưa đúng mức; còn có quan niệm cán bộ,
công chức cấp xã đã được bầu, bổ nhiệm, tuyển dụng rồi thì chỉ cần trình độ
chuyên môn và lý luận chính trị trung cấp là đủ điều kiện công tác ở mọi vị trí
của cấp xã, không cần đào tạo, bồi dưỡng cao hơn. Từ đó, cấp ủy, chính quyền
thiếu sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
kế cận, trong nguồn quy hoạch nên kết quả thực hiện chính sách còn hạn chế
- Công tác xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ ở các địa phương chưa sát. Việc phổ biến, tuyên truyền, vận động thực hiện
chính sách có lúc còn hình thức, chưa thực chất. Công tác đôn đốc, kiểm tra còn
thiếu quyết liệt, việc xử lý những đơn vị không đạt chỉ tiêu được giao chưa
nghiêm, chưa tạo được tính chủ động, tự giác.
- Việc lựa chọn cử cán bộ dự nguồn cán bộ, công chức cấp xã đi đào tạo
chưa chặt chẽ; cơ sở đào tạo và địa phương cử cán bộ đi học còn chạy theo số
lượng, sở thích của cán bộ, chưa gắn kế hoạch đào tạo, chọn cử cán bộ đi học với
quy hoạch và yêu cầu bố trí, sử dụng cán bộ.
- Chất lượng đầu vào của học viên còn thấp (do tuổi tác, trình độ văn hoá
hạn chế); trong quá trình học tập, học viên vừa học, vừa làm nên kết quả học tập
chưa cao; vẫn còn một số học viên chưa chấp hành đúng nội quy, quy định của
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
- Đôi lúc sự thông tin hai chiều, việc phối hợp giữa Huyện ủy, Ủy ban
nhân dân huyện và cơ sở đào tạo chưa thật sự nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả
chưa cao; việc tham mưu đề xuất, tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện
chính sách chưa kịp thời, đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, công
chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.
- Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có lúc chưa căn cứ vào nhu cầu thực tiễn
60
của người học, của xã hội còn nặng về chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng, chưa năng
động, tích cực, chủ động trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng
như mở rộng ngành nghề cho phù hợp với các chức danh cán bộ, công chức; có
ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với đối tượng.
- Việc phối hợp giữa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với cơ quan chủ trì thực
hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong công tác quản
lý chỉ tiêu phân bổ, kế hoạch đào tạo, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nội dung
chương trình, đầu vào, đầu ra của cán bộ, công chức cấp xã thiếu chặt chẽ dẫn
đến việc quản lý, theo dõi số lượng cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng
chưa được thống nhất cao; số lượng đào tạo, bồi dưỡng khi tổng kết thống kê còn
chênh lệch giữa cấp huyện và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Tiểu kết chương 2
Trong chương này, tác giả giới thiệu các đặc điểm chủ yếu của huyện Ba
Vì, thành phố Hà Nội, phân tích thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của huyện Ba Vì. Trên cơ sở đó tập trung tìm hiểu về thực
trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của
huyện Ba Vì từ khâu xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đến
đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, phân tích kết quả thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Từ đó, đưa ra những nhận định, đánh
giá các yêu cầu trong tổ chức thực hiện; các chủ thể tham gia thực hiện; chỉ ra
những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì. Những phân tích đánh giá trên sẽ là
cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Ba Vì; góp phần vào việc
61
thực hiện mục tiêu chính sách này trên toàn thành phố Hà Nội và cả nước.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phương hướng
a) Yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức,
3.1.1. Sự cần thiết
hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa nền hành chính đòi hỏi phải có đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính chuyên nghiệp, có tri thức và năng lực quản lý
nhà nước về pháp luật, hành chính, xã hội, kinh tế thị trường, kỹ năng thực thi
công vụ, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ nhân dân; cần có đội ngũ viên
chức có đạo đức nghề nghiệp, trình độ, năng lực chuyên môn cao đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công; chú trọng đến khu vực
cấp cơ sở.
Nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, mọi vấn đề đặt ra đều mang tính toàn cầu,
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có trình độ, năng lực, chủ động, sáng tạo, nhạy bén với sự thay đổi; nắm
vững những kiến thức, thành tựu và kinh nghiệm của các nước tiên tiến và biết
vận dụng phù hợp, có hiệu quả vào điều kiện cụ thể của Thành phố; đội ngũ cán
bộ công chức của Thành phố cần thiết phải có sự nhận thức chung, thống nhất để
b) Những bất cập của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là cán
cùng đồng hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Thủ đô.
bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Mặc dù được Đảng, Nhà nước và Thành phố quan tâm, đưa ra những chủ
trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức nhưng hiện nay hoạt động này vẫn còn một số hạn ché,
62
nhược điểm cần được khắc phục.
Một là, công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Hai là, hệ thống chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng mới được xây
dựng, ban hành đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên một số nội dung đào tạo, bồi
dưỡng chưa phù họp, chưa gắn với thực tế yêu cầu công việc nên hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng chưa cao; chưa có nhiều chương trình đào tạo tổng hợp, tiên tiến,
chất lượng.
Ba là, đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức trong nước thường xuyên được tập huấn, cập nhật nâng cao trình
độ nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn; tỷ lệ giảng viên thỉnh giảng còn thấp.
Bốn là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước
ngoài đạt tỷ lệ thấp so với Kế hoạch, một số lớp chất lượng chưa cao, còn manh
mún, ứng dụng kết quả đào tạo vào thực tiễn của Thành phố còn hạn chế.
Năm là, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, công chức, viên
chức đã bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
c) Yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức.
bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Ngày 18/10/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.
Mục tiêu của Đề án là xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm,
năng động, minh bạch, hiệu quả. Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trước hết
phải có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, hiện đại. Việc đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao, chẩt lượng cao cần đi trước một bước. Đại hội đại biểu
lần thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội đã xác định: “Đẩy mạnh phát triển kinh
tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với cơ cấu lại kinh tế Thủ đô bảo
đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 8,5%
đến 9%”.
63
3.1.2. Cơ sở chính trị - pháp lý về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
a) Quan điểm chỉ đạo và các Nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ công chức
cấp xã.
l) Hội nghị lần thứ 3 (khóa VIII), Trung ương Đảng đã ban hành Nghị
quyết về Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đã
chỉ rõ “Mỗi cán bộ, công chức cần phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng”.
2) Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của của bộ máy nhả nước, trong đó về đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đã chỉ rõ: “Đổi mới phương
thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với
thực tế hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng
cao kỹ năng hành chính.
3) Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp
tục đẩy mạnh Chiến lược cán bộ đến năm 2020 đã xác định: “Mục tiêu cần đạt
được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và
năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xấ hội và bảo
vệ Tổ quốc...”. Để đạt được mục tiêu đề ra, Hội nghị đã đưa ra nhiệm vụ và giải
pháp đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là phải “Tạo chuyển biến sâu sắc
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, tiêu chuẩn chức danh
cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo quản
lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ
trong giai đoạn mới... Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế”.
4) Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương lần thứ
64
8 Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đảo tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tể, đã chỉ ra nhiệm vụ cấp bách: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”.
5) Nghị quyết Đại hội lần thử XII của Đảng, trong Mục tiêu, nhiệm vụ tổng
quát phát triển đất nước 5 năm, giai đoạn 2016 - 2020 có viết: “Thực hiện đồng
bộ các cơ chể, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xấ hội”.
6) Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương
b) Các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ công chức; trong đó có đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã và các văn bản của thành phố về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
l) Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015.
2) Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008; Nghị định 18/2010/NĐ-CP
ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Thông tư số
03/2011/TT-BNV ngày 25/01/2011 của Bộ Nội vụ, hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP.
hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020.
3) Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong
nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
4) Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016
-2025;
5) Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng
65
Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; trong đó Sở Nội vụ có chức năng,
nhiệm vụ tham mưu giúp UBND Thành phố quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, cán bộ, công chức cấp xã (nguồn nhân lực trong khu vực
công).
6) Nghị định 101/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 9 năm 2017 về
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
7) Các Nghị quyết, Quyết định của HĐND, UBND Thành phố về đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực:
- Nghị quyết 14/2013/NQ-HĐND ngày 17/7/2013 của Hội đồng nhân dân
Thành phố về chính sách trọng dụng nhân tài trong xây dựng, phát triển Thủ đô;
- Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khoá XVII, nhiệm kỳ
2015-2020 đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp là tập trung chỉ đạo làm tốt công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ. Phải căn cứ vào yêu cầu công việc, vị trí công tác để sắp
xếp, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảm bảo tính kế thừa, từng bước trẻ hoá đội
ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Quyết định số 7363/QĐ-UBND của ngày 31/12/2016 của UBND Thành
phố ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dường cán bộ, công chức, viên chức năm
2017;
+ Đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự cấp xã khóa 2015 - 2017;
+ Đào tạo Trưởng công an xã theo Quyết định số 4793/QĐ-UBND ngày
23/9/2015 của UBND Thành phố về việc đào tạo lớp trung cấp Trưởng công an
xã khóa V (2015 -2017);
+ Đào tạo nguồn công chức cấp xã khóa III và Khóa IV (2014 - 2018).
3.1.3. Kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian vừa qua tại huyện Ba Vì
Trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm gần, UBND huyện là cơ quan chủ trì
thực hiện chính sách này đã phối hợp với các ngành, tổ chức trong huyện,
UBND cấp xã tổng kết đánh giá công tác tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
66
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong từng giai đoạn. Kết quả thực hiện
chính sách trên đã nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của địa
phương; góp phần thực hiện công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của huyện
trong những năm qua. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại Ba Vì vẫn còn một số bất cập. Thành
công và bất cập trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã của thời gian trước đây là bài học kinh nghiệm thực tiễn để xây
dựng những giải pháp thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn huyện Ba Vì trong những năm sắp tới để nâng cao năng lực
thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện và Thành phố Hà Nội trong giai
đoạn mới.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
3.2.1. Đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về ý nghĩa, tầm
quan trọng của tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã
Từ thực tiễn triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã trong những năm qua của thành phố Hà Nội nói chung và
huyện Ba Vì nói riêng cho thấy có nhiều nguyên nhân của những hạn chế, bất
cấp trong tổ chức thực hiện chính sách dẫn đến không đảm bảo thực hiện mục
tiêu chính sách; song có một trong những lý do chính là nhận thức của lãnh đạo,
nhất là của những người có thẩm quyền, có trách nhiệm trong thực hiện chính
sách chưa thực sự sâu sắc và đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Qua quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
nói chung, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói
riêng thời gian qua cho thấy tầm quan trọng của khâu tổ chức thực hiện chính
sách trong quy trình chính sách. Khẳng định rõ tầm quan trọng tất yếu khách
67
quan và vai trò quyết định của tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã trong bảo đảm thực hiện thành công mục tiêu chính
sách. Do đó, để nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì cần phải đổi mới nhận thức của đội ngũ cán
bộ, công chức thực thi công vụ cũng như đối tượng cán bộ, công chức cấp xã
được hưởng thụ chính sách về ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực hiện
chính sách. Việc đổi mới, nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phải được thể
hiện rõ ở việc thái độ và hành động của cán bộ, công chức trong lập kế hoạch
thực hiện, xác định đúng mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và các phương pháp, giải
pháp trong tổ chức thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, phải tuân thủ, thực hiện
đúng và đầy đủ nội dung, nhiệm vụ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện
chính sách. Phải bảo đảm thực hiện đúng các yêu cầu và lựa chọn hợp lý các
phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với thực tiễn của từng địa
phương và từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau của địa phương
và đất nước.
Để mục tiêu của chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
trở thành hiện thực thì cần phải đổi mới nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ ý
nghĩa, tầm quan trọng và vai trò quyết định của tổ chức thực hiện chính sách; tạo
sự chuyển biến và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chuyên nghiệp có trình độ,
năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu công việc và cung
cấp đầy đủ các dịch vụ công phục vụ nhân dân ở cơ sở; góp phần vào sự nghiệp
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của huyện và thành phố Hà Nội.
3.2.2. Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã
- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Đảng và Nhà nước, của thành phố Hà
Nội để thực hiện tốt các quy trình về công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm đúng
nguyên tắc, phương châm và yêu cầu về quy hoạch cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; làm tốt việc đánh giá cán bộ trước
68
khi xây dựng quy hoạch và rà soát, bổ sung quy hoạch hằng năm; việc giới thiệu
nguồn quy hoạch phải thực hiện rộng rãi, dân chủ, công khai ở các ngành, địa
phương. Điều này làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện. Công tác quy hoạch cán
bộ cấp xã cần được sự phối hợp của các cơ quan có liên quan ở xã, thị trấn, các
đoàn thể chính trị xã hội để đảm bảo tính minh bạch, công khai và dân chủ. Xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
ở huyện sẽ được khoa học, sát với thực tiễn tình hình cán bộ, công chức ở từng
xã nếu công tác quy hoạch được đổi mới với những nội dung sau:
- Trên cơ sở xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng địa phương,
từng ngành và thực trạng cán bộ hiện nay, định kỳ hằng năm các cơ quan, đơn vị
được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã phải rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã đã được phê duyệt
trước khi xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã để vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trước mắt, vừa chuẩn bị đội ngũ
cán bộ cho giai đoạn tiếp theo của từng địa phương.
- Công tác kiểm tra, rà soát, bổ sung quy hoạch, các cấp uỷ, UBND xã kết
hợp với các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương đánh giá, phân tích chất lượng
đảng viên với nhận xét, đánh giá, phân loại để xem xét, rà soát đưa ra khỏi quy
hoạch những cán bộ không có có tư tưởng thỏa mãn, thiếu ý thức phấn đấu trong
công tác và học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, mất uy tín trong Đảng, trong
đơn vị và nhân dân; đồng thời bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có
triển vọng trong kế hoạch đào tạo bồi dưỡng.
- Tập trung nâng cao chất lượng cán bộ trong quy hoạch và các chức danh
lãnh đạo, quản lý ở cấp xã. Khi lựa chọn cán bộ, công chức đưa vào quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ lý luận chính trị,
chuyên môn đã được đào tạo và độ tuổi theo quy định, đảm bảo tính kế thừa, có
69
sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ; phấn đấu đạt hệ số quy hoạch, cơ cấu độ
tuổi, tỉ lệ theo quy định; thực hiện đảm bảo việc công khai thông báo đến tổ chức
đảng, đơn vị quản lý cán bộ và người được quy hoạch biết.
- Người được đưa vào quy hoạch phải đảm bảo các tiêu chí về phẩm chất
chính trị, trình độ chuyên môn, đạo đức lối sống, triển vọng phát triển theo quy
định và phù hợp với yêu cầu thực tế của địa phương; không quy hoạch một cán
bộ quá nhiều chức danh hoặc một chức danh quá nhiều người; kiên quyết không
quy hoạch cán bộ chưa đạt chuẩn về trình độ học vấn; đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý không cơ cấu lại trong quy hoạch giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ bổ nhiệm
(10 năm).
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết
Thành ủy khóa XVI về công tác cán bộ. Đưa ra các giải pháp khắc phục yếu
kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ; làm tốt công tác nhận xét, đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, sử dụng cán bộ, nhất là người dân
tộc thiểu số nhằm đảm bảo cơ cấu hợp lý ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Với
đặc thù Ba Vì là huyện có xã miền núi và có đồng bào dân tộc thiểu số, do đó,
việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đảm bảo tính kế thừa,
liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong
từng giai đoạn, cấp uỷ cơ sở phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng cán
bộ người dân tộc thiểu số một cách hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan, đơn vị, địa phương; từ đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. Lãnh đạo huyện, trước hết là
Ban Thường vụ Huyện uỷ phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, chú ý kiểm tra
các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp Nghị quyết đề ra đối với công tác cán bộ người dân tộc thiểu số; mạnh dạn
lựa chọn, sử dụng những cán bộ người dân tộc thiểu số trẻ, có triển vọng phát
triển ở các cơ quan, đơn vị cấp huyện luân chuyển, bố trí vào các chức danh lãnh
đạo, quản lý cấp xã; thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, tạo môi trường làm việc tốt
để cán bộ người dân tộc thiểu số phát huy năng lực, sở trường công tác, tạo cơ
70
hội để họ rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Xây dựng kế hoạch, tuyển dụng,
bố trí cán bộ người dân tộc thiểu số. Để dần thay thế số cán bộ, công chức không
đạt chuẩn, không có khả năng đào tạo, bồi dưỡng cần phải nắm chắc nguồn sinh
viên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học để bố trí, giới thiệu về công tác ở các xã; đối
tượng tuyển dụng phải đảm bảo quy trình, tiêu chuẩn theo quy định.
Với đặc thù của các xã có đồng bào dân tộc thiểu số, thì việc quy hoạch đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, bảo đảm số lượng, chất lượng là biện pháp
lâu dài. Do đó, phải chủ động phát hiện cán bộ từ cơ sở, mạnh dạn sử dụng cán
bộ trẻ, có triển vọng phát triển, đạt chuẩn về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ,
chính trị; đồng thời khuyến khích, thu hút sinh viên là người dân tộc thiểu số tốt
nghiệp đại học, cao đẳng trở về địa phương công tác nhằm đào tạo, bồi dưỡng và
đưa vào nguồn quy hoạch để xây dựng nguồn kế cận sử dụng về sau.
3.3.3. Thực hiện đúng các yêu cầu trong tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì
Trong thực hiện chính sách công nói chung và trong tổ chức thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng cần đảm bảo
thực hiện đúng đầy đủ các yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách
công. Xuất phát từ thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã nói ở huyện Ba Vì trong thời gian còn có lúc, có nơi trong quá
trình thực hiện chính sách chưa đảm bảo các yêu cầu của thực hiện chính sách
này. Việc bảo đảm những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là để đạt được các mục tiêu chính
sách, và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã; đó là các yêu cầu thực hiện mục tiêu chính sách, bảo đảm tính hệ
thống, tính khoa học, pháp lý và hợp lý. Thực chất các yêu cầu này là các
nguyên tắc bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ
thể thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa
phương.
Bảo đảm thực hiện mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
71
chức cấp xã là để chính sách được thực hiện trên thực tế phù hợp với thực tiễn về
công tác cán bộ và thực tiễn thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu về nguồn nhân lực cho bộ
máy chính quyền, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội ở địa phương. Bên cạnh
đó, đảm bảo mục tiêu chính sách là nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có cơ cấu, số lượng hợp lý, có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phục vụ người dân, phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tính hệ thống trong thực hiện chính sách là yêu cầu bảo đảm thực hiện
đồng bộ hệ thống, thực hiện mục tiêu chính sách phải gắn liền với thực hiện các
công cụ chính sách; hệ thống các phương pháp, biện pháp tổ chức điều hành thực
hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, huy động, sử dụng
đồng bộ hệ thống bộ máy và đội ngũ trong tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Tính khoa học, tính hợp lý và tính pháp lý phải đảm bảo trong tổ chức
thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là để chính
sách được thực hiện một cách nghiêm túc, tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu
quả cao; đảm bảo lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng chính sách là để đạt được
mục tiêu của chính sách. Chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
có ý nghĩa khi lợi ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng được đảm bảo và
nghĩa vụ của họ phải thực hiện trong chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã. Trong thời gian qua, các yêu cầu trong thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thuộc huyện Ba Vì chưa được đảm bảo, thực
hiện tốt, chưa đầy đủ; vì vậy, trong thời gian tới cần phải thực hiện đúng, đầy đủ các
yêu cầu chủ yếu đối với thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã tại các đơn vị này.
3.3.4. Sử dụng hợp lý các phương pháp trong tổ chức thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Cách thức chủ thể tham gia thực hiện chính sách sử dụng để tổ chức, triển
72
khai thực hiện chính sách được gọi là phương pháp thực hiện chính sách. Hiệu
quả tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng phụ thuộc phần nhiều vào việc lựa
chọn đúng, lựa chọn hợp lý các phương pháp trong tổ chức thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã
hội ở địa phương, phù hợp với điều kiện làm việc, điều kiện kinh tế của người
học, phù hợp với định hướng công tác cán bộ lâu dài của huyện Ba Vì. Ngoài ra,
lựa chọn đúng phương pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã còn tác động trực tiếp đến việc đạt được mục tiêu chính sách
cũng như hiệu quả của chính sách này.
Để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có
hiệu quả cao cần phải lựa chọn các phương pháp như: Trong thực tiễn ở Ba Vì
khi thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thời gian
qua cho thấy đôi khi sử dụng phương pháp chưa mềm dẻo và chưa linh hoạt còn
nặng sử dụng phương pháp hành chính; coi đi đào tạo bồi dưỡng là một nhiệm
vụ bắt buộc của người cán bộ, công chức ở cơ sở. Thực tế, có những cán bộ,
công chức có hoàn cảnh gia đình khó khăn không thể xa gia đình để tham gia
khóa học. Do đó khi bắt buộc họ đi, họ không yên tâm học tập và chắc chắn kiến
thức tiếp thu từ khóa học sẽ rất hạn chế. Do vậy, để chính sách được thực hiện có
hiệu quả, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã cần linh hoạt vận dụng các phương pháp thực hiện chính sách một
cách linh hoạt và phù hợp với từng đối tượng hoặc từng hoàn cảnh của mỗi xã,
thị trấn trên địa bàn huyện. Vì đây là chính sách được thực hiện lâu dài và ở tất
cả các xã, thị trấn trong huyện, có quy mô lớn, tính chất phức tạp, đối tượng thụ
hưởng chính sách nhiều, đa dạng và các đặc điểm, đặc thù chuyên biệt. Nếu lựa
chọn và sử dụng hợp lý các phương pháp thực hiện chính sách công như phương
pháp hành chính, phương pháp tuyên truyền vận động, phương pháp kinh tế hoặc
kết hợp tất cả các phương pháp nói trên chắc chắn sẽ cho hiệu quả cao trong tổ
73
chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của
huyện Ba Vì trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mới của địa phương và
Thủ đô.
3.3.5. Nâng cao năng lực và đề cao trách nhiệm của các chủ thể tham
gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách
ảnh hướng rất lớn đến chất lượng hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Hay có thể hiểu, chất lượng, hiệu quả của việc
thực hiện chính sách phụ thuộc vào năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã tham gia thực hiện chính sách. Do đó, muốn nâng cao
hiệu quả, chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải có các giải pháp
đồng bộ để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tham gia
thực hiện chính sách. Để nâng cao năng lực, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công
chức tại huyện Ba Vì hiện nay cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
- Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải đặc biệt chú ý đến chất lượng
chuyên môn, hướng đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nắm vững kiến
thức trên nhiều lĩnh vực, đồng thời có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức chính trị cao
để họ nhận thức được sự cần thiết trong việc bảo đảm các yêu cầu trong việc
thực hiện chính sách.
- Định kỳ rà soát, đánh giá lại hệ thống các yêu cầu phải bảo đảm trong
việc thực hiện chính sách để cập nhật các yêu cầu mới cần bảo đảm hoặc loại trừ
các yêu cầu không còn phù hợp với tình hình thực tế để thực hiện chính sách
được linh hoạt, phù hợp.
- Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế về thực hiện và kiểm tra,
giám sát việc đảm bảo các yêu cầu trong quá trình thực hiện chính sách.
- Xây dựng các chính sách đãi ngộ thoả đáng; đãi độ tốt thì không chỉ hấp
dẫn được cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn giỏi mà còn giúp người cán
bộ gìn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình; do đó góp phần thực hiện chính
74
sách có hiệu quả tốt hơn.
3.3.6. Đầu tư các nguồn lực để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì
Các cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách phải tăng cường các
nguồn lực và kinh phí cho thực hiện chính sách để chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện một cách hiệu quả tốt nhất; khi nguồn
lực và kinh phí dồi dào thì sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện chính sách và hoàn
thành mục tiêu chính sách một cách tốt nhất. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế xã
hội nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, việc bổ sung các nguồn lực để thực hiện
chính sách còn gặp khó khăn, do vậy cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải
pháp sau:
- Rà soát, kiểm tra lại các nguồn lực sẵn có để có sự đánh giá, phân bổ các
nguồn lực một cách hợp lý, hiệu quả.
- Huy động các nguồn lực xã hội hóa, thu hút nguồn lực của cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước để tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
75
bộ, công chức một cách tốt nhất.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý luận đã đề cập ở Chương 1 và đánh gia thực trạng thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì trong
những năm qua mà tác giả đã trình bày ở Chương 2, trong Chương 3, tác giả đã
đưa ra những giải pháp để hoàn thiện thực hiện chính sách này trong thời gian
tiếp theo. Với những kết quả đạt được, bên cạnh những hạn chế, khuyết điểm và
nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, dựa trên tình
hình thực tiễn hiện nay, tác giả đã đưa ra những quan điểm và mục tiêu đạo tạo,
bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp xã một cách cụ thể, rõ ràng, có lộ trình
thực hiện; qua đó đề ra nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện tốt chính sách. Luận
văn cũng đưa ra những giải pháp, trong đó chú trọng đến việc nâng cao nhận
thức của toàn bộ các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị,
coi đây là một giải pháp quan trọng nhất để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Ba Vì; coi trọng công tác quy hoạch cán
bộ; xây dựng kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; tăng
cường đầu tư các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; xây dựng
đội ngũ quản lý, đội ngũ giảng viên và đổi mới nội dung, phương pháp giảng
dạy; các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp
76
xã và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách.
KẾT LUẬN
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ năng lực, trình độ,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới thì thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là
yếu tố quyết định.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều
thách thức đòi hỏi chúng ta phải tích cực chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức
nói chung và cán bộ công chức cấp xã nói riêng không chỉ là nhiệm vụ trước mắt
mà còn là nhiệm vụ lâu dài; vì vậy, đào tạo cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu
công việc là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo cán
bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” đã tập trung
giải quyết được các vấn đề sau: Đề tài đã trình bày có hệ thống các lý luận có
liên quan đến thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức cấp xã. Đây cũng là
cơ sở lý luận để phân tích, nhận định, đánh giá thực trạng của đào tạo cán bộ
công chức cấp xã của huyện Ba Vì; Luận văn đã phân tích thực trạng đội ngũ cán
bộ công chức để xác định nhu cầu cần đào tạo của cán bộ công chức cấp xã
huyện Ba Vì đáp ứng nhu cầu của công việc. Từ đó Luận văn đã phân tích đánh
giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức và các nhân tố ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba
Vì. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán
bộ công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, luận văn cũng mạnh
dạn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công
chức cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm tới. Hy vọng những nghiên cứu
này sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phục vụ phát triển
kinh tế xã hội của huyện Ba Vì, Hà Nội; góp phần thực hiện chính sách xây dựng
77
nông thôn mới của Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận 37-KL/TW ngày 02 tháng 02
năm 2009 của Hội nghị lần thứ 9 (Khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020;
2. Ban Thường vụ Thành Hà Nội (2002), Đề án số 26-ĐA/TU, ngày 08-4-2002
về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao đẳng, đại học
3. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (2013), Báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện đề án số 26-ĐA/TU, ngày 08-4-2002 về đào tạo cán bộ xã, phường, thị
trấn có trình độ cao đẳng, đại học
4. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (2017), Báo cáo số 150-BC/TU, ngày 30-
10-2017 về tổng kết thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Nguyễn Khắc Bình. (2016) Tập bài giảng Những vấn đề cơ bản về chính
sách công-Học viện Khoa học xã hội.
6. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 03/2011/TTBNV ngày 25 tháng 01 năm 2011
của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức;
7. Bộ Nội vụ (2014), Quyết định 104/2005/QĐ-BNV ngày 03 tháng 10 năm
2005 của Bộ trưởng bộ Nội vụ về việc ban hành quy chế cử cán bộ, công
chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
8. Các văn bản pháp luật của Thành phố Hà Nội liên quan đến cán bộ, công
chức; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
9. Ngô Thành Can (2008), “Nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/2008
10. Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì
11. Chính phủ (2003), Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21-10-2003 về chế
78
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn
12. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22-10-2009 về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05-3-2010 về đào
tạo, bồi dưỡng công chức
14. Chính phủ (2011), Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05-12-2011 về công
chức xã, phường, thị trấn
15. Phan Văn Dựng (2016), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ
thực tiễn thành phố Cao Bằng, Luận văn thạc sỹ chính sách công, Học viện
Khoa học xã hội
16. Vũ Cao Đàm. (2011) Sách Khoa học Chính sách - Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật
21. Nguyễn Thị Hà (2016), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ
thực tiễn Bộ Khoa học và công nghệ, Luận văn thạc sĩ chính sách công, Học
viện Khoa học xã hội
22. Đỗ Phú Hải (2013), Đề tài cấp cơ sở: Đánh giá chính sách công tại Việt Nam:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội
23. Nguyễn Hoàn Hải (2012), luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công “Nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - từ thực tiễn thành
79
phố Hậu Giang”, Học viện Hành chính Quốc gia
24. Nguyễn Hữu Hải (2016), Chính sách công những vấn đề cơ bản, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
25. Nguyễn Hữu Hải và Th.S Lê Văn Hòa (2013) Đại cương về phân tích chính
sách công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
26. Hồ Việt Hạnh. (2017), Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội.
27. Trần Thị Hạnh, Với tiêu đề: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị” tại Tạp chí
Cộng sản (năm 2015)
28. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2015), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngành nội vụ ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ chính sách công,
Học viện Khoa học xã hội
29. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Tập V đến tập X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Xuân Hội (2015), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
từ thực tiễn huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội, Luận văn thạc sỹ chính sách
công, Học viện Khoa học xã hội
31. Huyện ủy Ba Vì (2019), Báo cáo số 468-BC/HU, ngày 26/12/2019 về Kết quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2019, phương hướng, nhiệm vụ năm 2020
32. Vũ Xuân Khoan (2007) Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng qui hoạch đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2007-2015”
33. Nguyễn Thị La (2015), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trong quá
trình cải cách hành chính, Học viện Hành chính quốc gia
34. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 1. NXB Chính trị quốc gia
35. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Trong cuốn sách “Cơ sở lý
luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ,
công chức
80
37. Từ điển bách khoa Việt Nam
38. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
39. Tân Thị Thanh (2018), Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã thành phố Hạ Long, thành phố Quảng Ninh, Luận văn
Thạc sĩ Chính sách công, Học viện chính sách và phát triển
40. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức giai đoạn 2011-2015
41. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025
42. Trần Văn Trung (2015):‘Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây
Bắc Việt Nam hiện nay’, luận án tiến sỹ quản lý hành chính công. Học viện
Hành chính quốc gia.
43. Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì (2019), Báo cáo số 331/BC-UBND, ngày
16/12/2019 về đánh giá kết quả công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế
81
huyện năm 2019, phương hướng năm 2020