VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIẾT TÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIẾT TÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN KHẮC BÌNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam kết những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này

là khách quan, trung thực và chưa hề được sử dụng trong các nghiên cứu

khác. Mọi sự tham khảo, giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm ơn,

thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc và được phép công bố.

Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Viết Tùng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Khắc Bình, Khoa Chính

sách công - Học viện Khoa học xã hội.

Trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên Ban tổ chức

Huyện uỷ, Phòng Nội vụ huyện, Đảng uỷ các xã, thị trấn trong huyện Ba Vì,

thành phố Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.

Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, anh, chị, em, bạn bè đã hỗ

trợ, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Viết Tùng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO

TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ ............................. 9

1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài ................................................... 9

1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ...... 20

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,

BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN BA

VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................... 38

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì ................................... 38

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã tại huyện Ba Vì ................................................................... 47

2.3. Đánh giá chung ................................................................................ 56

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG

CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................... 62

3.1. Phương hướng .................................................................................. 62

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội .... 67

KẾT LUẬN .................................................................................................... 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Biên chế cán bộ, công chức cấp xã ................................................. 43

Bảng 2.2. Cơ cấu về trình độ chuyên môn ...................................................... 44

Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu giới tính CBCC ................................... 45

Bảng 2.4. Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị ................................................ 45

Bảng 2.5. Cơ cấu về độ tuổi ............................................................................ 46

Bảng 2.6. Mức độ đánh giá về tính thiết thực của tổng kết đánh giá thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ............................... 56

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính quyền cấp xã (gọi chung cho chính quyền xã, phường, thị trấn) có

một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn chỉnh

của nhà nước ta. Chính quyền cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở và

là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân và là cơ quan thực hiện nhiệm vụ

hành chính nhà nước quản lý xã hội trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc

phòng, kinh tế, văn hóa xã hội ở cơ sở. Chính quyền cấp xã thực hiện đảm bảo

cho các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống, phục vụ việc phát

triển kinh tế - xã hội ở ở cơ sở; góp phần vào sự nghiệp xây dựng phát triển đất

nước.

Ở cấp cơ sở, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức quan trọng

trong xây dựng, hoàn thiện và vận hành bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt

động thi hành công vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người gần

dân, sát dân nhất, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không đều thông qua đội ngũ cán bộ công

chức cấp xã. Vì vậy, yêu cầu đội ngũ cán bộ công chức có đủ phẩm chất đạo

đức, năng lực chuyên môn là đòi hỏi có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt

cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là cái gốc của mọi công

việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ. Có đường lối, nhiệm vụ

chính trị đúng đắn mà không có đội ngũ cán bộ tốt thì cũng không trở thành hiện

thực. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức luôn được Đảng, Nhà nước ta quan

tâm chú ý đào tạo, bồi dưỡng và có những chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn,

mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.

Cán bộ, công chức là một trong bốn yếu tố cấu thành nền hành chính nhà

nước, khi đội ngũ cán bộ, công chức được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ

1

bản sẽ góp phần xây dựng được nền hành chính nhà nước hiện đại.

Thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, trong các

giai đoạn phát triển của đất nước Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã nhằm mục đích nâng cao chất lượng thực hiện công vụ của đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đây là

một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị trong công

tác cải các hành chính cũng như phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn phát

triển kinh tế - xã hội của nước ta. Thời gian gần đây, Nhà nước đã ban hành các

chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (trong đó có cán bộ, công

chức cấp xã) được thể hiện trong các Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày

25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025, Nghị định số

101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức với mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức,

kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ,

công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản

lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát

triển của đất nước. Thực hiện chính sách trên, các tổ chức Đảng ở các cấp, các

cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội đã và đang tổ chức thực hiện tốt

những nội dung của chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức nói chung và đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói riêng để thực hiện thắng

lợi các nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước ở chính quyền cấp cơ sở.

Trong những năm qua, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã ban hành một số

chương trình, đề án đào tạo cán bộ xã phường, thị trấn nhằm triển khai tổ chức

thực hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, phường,

thị trấn. Sau khi được học tập, nghiên cứu về chính sách công và qua thực tiễn

2

tại huyện Ba Vì, tác giả thấy rằng trong quá trình triển khai thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã còn một số vấn đề đặt ra, cần phải

được nghiên cứu làm rõ thêm nhằm góp phần tăng cường thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách khoa học và hiệu quả.

Với những kiến thức đã học được tại Học viện và trải qua kinh nghiệm

thực tiễn trong công tác ở địa phương, học viên chọn đề tài “Thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Ba Vì,

thành phố Hà Nội” để làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp trình độ

thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn đề cao công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ và xem đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, then chốt xuyên suốt quá trình

lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, Đảng ta đã xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cũng như thực hiện chính sách đào tạo, cán bộ cán bộ,

công chức trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả, cụ thể

như:

Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn khu vực Đồng bằng Sông Cửu

Long giai đoạn 2007-2015” [32] của tác giả Vũ Xuân Khoan đã cho thấy tính

cấp thiết của công tác xây dựng qui hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã, phường, thị trấn không chỉ đối với Đồng bằng Sông Cửu Long mà còn

cấp thiết với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong cả nước. Trong phần các

giải pháp thực hiện, tác giả đã đề cập và phân tích tương đối sâu sắc về xây dựng

và tổ chức thực hiện tốt những chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã theo từng giai đoạn phát triển của đất nước và vận dụng thực

hiện các chính sách đó một cách linh hoạt trong điều kiện của từng vùng miền

với những đặc thù riêng biệt nhằm góp phần nâng cao năng lực thực hiện công

3

vụ của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở nước ta trong giai đoạn mới.

Với tiêu đề: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ sau

Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị” [27] của tác giả Trần Thị

Hạnh tại Tạp chí Cộng sản (năm 2015) đã đánh giá sâu về những tiến bộ đã đạt

được về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã kể từ khi các địa phương

trong cả nước quán triệt Nghị quyết của Đảng về nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ công chức nói chung trong đó có cán bộ, công chức cấp xã trong giai

đoạn phát triển mới của đất nước.

Tác giả Nguyễn Hoàn Hải (2012), “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức - từ thực tiễn thành phố Hậu Giang” [23], luận văn

Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả của

luận văn đã khái quát lý luận chung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức; làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức do thực hiện chưa tốt các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức. Trên cơ sở lý luận, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng công

tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại thành phố Hậu

Giang làm cơ sở đề xuất 8 giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách này để nâng

cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại thành phố này trong

những năm tiếp theo.

Trong Luận văn thạc sĩ Chính sách công, “Chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức từ thực tiễn Bộ Khoa học và Công nghệ” [21] của Nguyễn Thị

Hà; tác giả đã làm sáng tỏ các cơ sở lý luận về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ở Việt Nam và việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ công chức tại cơ quan và Bộ Khoa học và Công nghệ.

Tác giả Tân Thị Thanh trong luận văn thạc sĩ: “Thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thành phố Hạ Long, thành phố Quảng

Ninh” [39], đã nêu các khái niệm về cán bộ, công chức nói chung và cán bộ,

công chức cấp xã nói riêng. Tác giả cũng đi sâu nêu và phân tích cơ sở lý luận về

quy trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và

4

các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách này. Bên cạnh đó, tác giả cũng

phân tích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã tại các phường của thành phố Hạ Long, thành phố Quảng Ninh.

Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp tổ chức thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, phường trong những năm sắp tới ở

địa phương.

Trong cuốn sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức” [35] của tác giả Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã đưa ra những luận điểm khoa học trong việc

xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành ở nước ta hiện nay. Trong nghiên

cứu này, nhiều vấn đề được tác giả khẳng định như: về vị trí, vai trò nhân tố

quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng về cán bộ và công tác cán bộ;

về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong mối quan

hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế phát triển của thời đại; về trách nhiệm của các

cấp chủ thể thực hiện chính sách; nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, hệ thống

chính trị; về quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp trong chính sách xây

dựng đội ngũ cán bộ của Nhà nước; đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.

Tác giả Trần Văn Trung (2015):‘Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ

vùng Tây Bắc Việt Nam hiện nay’[42], luận án tiến sỹ quản lý hành chính công.

Đề tài tập trung phân tích thực hiện chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả

nguồn nhân lực trẻ trong sự phát triển kinh tế vùng miền; nhất là ở những vùng

miền núi khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề phát

triển nguồn nhân lực trẻ tại chỗ ở những khu vực khó khăn thì cần phải thực hiện

tốt chính sách phát triển nhân lực. Bên cạnh đó phải thực hiện tốt cả chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Trong nghiên cứu tác giả cũng

phân tích đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở các nơi này cũng là một yếu tố ảnh

hưởng đến việc thực hiện thành công chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ ở

5

khu vực miền núi. Do đó bên cạnh thực hiện chính sách phát triển nhân lực trẻ

thì đồng thời phải thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở

những nơi này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và thực trạng thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội để đề xuất

một số giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn mới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Xác lập cơ sở lý luận trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã.

- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong những năm qua.

- Trên cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đề xuất những giải pháp

để thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại

huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Các xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Về thời gian: Nguồn số liệu để phân tích thực trạng trong nghiên cứu này

tác giả thu thập trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2017 – 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng một số phương pháp sau để nghiên cứu đề tài này:

* Phương pháp thống kê - phân tích

+ Thu thập tài liệu thứ cấp: Thu thập số liệu từ các tài liệu, báo cáo đã công khai

6

và số liệu chính thức trên website của UBND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

+ Thu thập tài liệu sơ cấp: Số liệu phục vụ cho nghiên cứu luận văn được

tác giả thu thập thông qua nghiên cứu, khảo sát, điều tra nghiên cứu trực tiếp một

số đối tượng có liên quan.

* Phương pháp tổng hợp - so sánh

- Phương pháp phân tích: phân tích các số liệu trong các báo cáo liên quan

đến tình hình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

của đơn vị hành chính cấp xã, các phòng ban chuyên môn giúp việc cho UBND

huyện, các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị-xã hội ở huyện Ba Vì.

- Phương pháp so sánh: sử dụng so sánh để đối chiếu số liệu giữa các kỳ

và năm thực hiện chính sách này của các xã, thị trấn, các cơ quan hành chính nhà

nước, cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện và các tổ chức Đảng, tổ chức

chính trị-xã hội trong huyện Ba Vì.

* Phương pháp điều tra xã hội học

+ Đối tượng điều tra: Một số cán bộ, công chức cấp xã và một số người

dân đang sống trên địa bàn huyện.

+ Nội dung: Điều tra về phản ánh chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã; việc thực hiện chính sách này để đánh giá toàn diện về thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa bàn khảo sát.

- Ngoài ra, trong nghiên cứu này, tác giả cũng sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu bổ trợ khác để hoàn thành luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm, các nội dung

lý luận cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã; nêu và phân tích các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Về thực tiễn: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn về thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành

phố Hà Nội, Luận văn nêu lên thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi

7

dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và đề xuất một số giải pháp thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì,

thành phố Hà Nội. Đây có thể được xem như là những tài liệu kinh nghiệm thực

tiễn cho các nhà quản lý, chủ thể tổ chức thực hiện chính sách ở các cơ quan

hành chính nhà nước, địa phương tham khảo trong lĩnh vực tổ chức thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương

mình; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước trong những năm tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính của luận văn chia làm 3

chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

8

trong những năm tới.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,

BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.1.1. Khái niệm cán bộ và công chức

a. Khái niệm cán bộ

Thuật ngữ cán bộ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Có nhiều

cách hiểu về thuật ngữ cán bộ; có thể kể đến một số định nghĩa sau:

“Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị

nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức

và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng

sự phát triển của tổ chức” [36]

“Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho

dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo

cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy cán bộ là cái

gốc của mọi việc”[34, Tr.8]

Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, thì “Cán bộ được hiểu là công

dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo

nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức

chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [36]

Từ các định nghĩa trên, tác giả sử dụng trong nghiên cứu này định nghĩa

về cán bộ như sau: thuật ngữ “cán bộ” dùng để chỉ những người giữ chức danh

bầu cử, bổ nhiệm, điều động để làm việc trong các tổ chức chính trị - xã hội,

được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Luật cán bộ,

công chức.

b. Khái niệm công chức

Thuật ngữ “công chức” được hiểu phổ biến trên thế giới từ thế kỷ XIX, là

9

những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong

một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước

ngoài, đã được xếp vào một ngạch và có hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính định nghĩa công chức là: “Người được

tuyển dụng và bổ nhiệm vào làm việc trong một cơ quan của nhà nước ở Trung ương

hay ở địa phương, làm việc thường xuyên, toàn bộ thời gian, được xếp vào hệ thống

ngạch bậc, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có tư cách pháp lý khi thi hành

công vụ của nhà nước” [38, tr.9].

Ở nước ta, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Công chức là

công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh

trong cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở

Trung ương, cấp thành phố, cấp huyện, cấp xã; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân

đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân

quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ

quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự

nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã

hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng

lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý

của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị

sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[36, Điều 4].

c. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã

Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì:

“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ cấp xã), là công

dân Việt Nam, được bầu giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng

nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức

chính trị - xã hội”[36, Điều 4].

“Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức

danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân xã, trong biên chế và hưởng

lương từ ngân sách nhà nước”[36, Điều 4].

10

d. Các chức danh cán bộ, công chức cấp xã

Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của Chính phủ về

quy định chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì:

- Cán bộ cấp xã gồm các chức vụ sau:

+ Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ: Là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở

Đảng bộ, chi bộ (nơi chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị trấn; chịu trách

nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi

bộ; cùng tập thể lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực

hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên

địa bàn.

+ Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân: Là cán bộ chuyên trách của

Hội đồng nhân dân cấp xã; chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã

hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.

+ Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân: Là cán bộ chuyên trách lãnh đạo

Uỷ ban nhân dân cấp xã; chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban

nhân dân và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc

phòng, an ninh đã được phân công trên địa bàn.

+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam; Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội

nông dân Việt Nam (áp dụng đối với cấp xã có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm

nghiệp và có tổ chức Hội); Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam: Là cán bộ

chuyên trách đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã

hội của xã, phường, thị trấn; chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực

hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ tổ chức đoàn thể và chủ

trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Công chức cấp xã gồm các chức danh sau:

+ Trưởng công an;

11

+ Chỉ huy trưởng quân sự;

+ Văn phòng – thống kê;

+ Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã) hoặc

Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn);

+ Tài chính - kế toán;

+ Tư pháp – hộ tịch;

+ Văn hoá – xã hội.

Nhiệm vụ chung của công chức: Làm công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban

nhân dân cấp xã; tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý Nhà nước về

lĩnh vực công tác (Địa chính, Tài chính, Tư pháp, Công an, Quân sự, Văn hoá -

Xã hội, Văn phòng) và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân cấp xã giao.

e. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã

Tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã theo Quyết định số 04/2004/QĐ-

BNV, ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ quy định thì cụ thể như sau:

* Tiêu chuẩn chung

- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương

- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết

đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Công tâm thạo việc, tận tụy với dân. Có ý

thức kỷ luật trong công tác.

- Trung thực, không cơ hội; giữ mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân

dân và có uy tín, tín nhiệm với nhân dân.

- Có trình độ lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng,

chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, năng lực chuyên môn phù

hợp, đủ sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

* Tiêu chuẩn cụ thể

12

- Trình độ chuyên môn

+ Đối với chức danh Bí thư Đảng ủy, Phó bí thư Đảng uỷ xã: Tại khu vực

đồng bằng và đô thị yêu cầu phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên.

Đối với khu vực miền núi, phải được học qua các lớp bồi dưỡng kiến thức

chuyên môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên); nếu tham gia giữ chức vụ lần

đầu, ít nhất phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã trải qua các lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế.

+ Đối với chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND xã: Đối với khu vực

đồng bằng, phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Với khu vực miền

núi phải qua các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn tương đương trình độ sơ

cấp trở lên với các chuyên ngành phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh tế - xã

hội của địa phương. Đã tham gia các lớp bồi dưỡng quản lý Nhà nước, quản lý

kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.

+ Đối với chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã: Ở khu vực đồng

bằng, ít nhất phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Đối với khu vực

miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương đương trình độ sơ

cấp trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở

lên với các chuyên ngành phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của

địa phương. Đã được học qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính

Nhà nước, quản lý kinh tế.

+ Đối với chức danh Chủ tịch Ủy ban MTTQ và trưởng các đoàn thể

chính trị - xã hội cấp xã: Đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ

tương đương trình độ sơ cấp trở lên trong lĩnh vực công tác mà cán bộ đang đảm

nhiệm.

+ Đối với chức danh công chức xã: Có trình độ chuyên môn từ Trung cấp

trở lên và phù hợp với chức danh công chức.

- Trình độ lý luận:

+ Đối với các chức danh Bí thư Đảng ủy, Phó bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch,

Phó chủ tịch HĐNĐ, UBND: Yêu cầu có trình độ Trung cấp lý luận trở lên.

+ Đối với Chủ tịch Ủy ban MTTQ và trưởng các đoàn thể chính trị -xã

13

hội: Yêu cầu có trình độ Sơ cấp lý luận trở lên.

+ Đối với các chức danh công chức: Yêu cầu có trình độ Sơ cấp lý luận

trở lên. Riêng Trưởng công an và Xã đội trưởng phải có trình độ Trung cấp lý

luận trở lên.

Trên cơ sở tiêu chuẩn yêu cầu, các cơ quan chức năng có căn cứ để hoạch

định chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban hành chính sách đào tạo, bồi

dưỡng. Từ đó, các chủ thể tham gia thực hiện chính sách xây dựng kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với yêu cầu tình hình thực tiễn.

1.1.2. Khái niệm đào tạo cán bộ, công chức và chính sách đào tạo cán

bộ, công chức

a. Khái niệm đào tạo cán bộ, công chức

Theo quy định tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/3/2010 của

Chính phủ thì khái niệm đào tạo cán bộ, công chức là:

“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ

năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”; “Bồi dưỡng là hoạt động trang

bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”

Từ đó chúng ta có thể hiểu đào tạo cán bộ, công chức và bồi dưỡng cán

bộ, công chức như sau:

Đào tạo cán bộ, công chức là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống

những kiến thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học cho cán bộ,

công chức.

Bồi dưỡng cán bộ, công chức là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao

kiến thức, kỹ năng làm việc của cán bộ, công chức.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm trang bị kiến thức về lý luận

chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; kỹ năng quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học

cho đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 (Điều 47) thì: Căn cứ vào tiêu

chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý; tiêu chuẩn của ngạch cán bộ, công

chức và yêu cầu nhiệm vụ mà lựa chọn nội dung chương trình, hình thức, thời

14

gian đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho phù hợp.

b. Khái niệm chính sách, chính sách công và chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Khái niệm Chính sách

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “Chính sách là những chuẩn tắc cụ

thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trên những lĩnh

vực cụ thể nào đó và trong một thời gian nhất định. Bản chất, nội dung và

phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ

chính trị, kinh tế, văn hóa…”[38]

Theo Vũ Cam Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế

hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu

đãi một hoặc một số nhóm xã hội; kích thích vào động cơ hoạt động của họ

nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một

hệ thống xã hội”.[16]

Khái niệm chính sách công

Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra rất nhiều định

nghĩa khác nhau về chính sách công.

Theo tác giả Hồ Việt Hạnh thì: “Chính sách công là những quyết định của

chủ thể được trao quyền lực công để giải quyết vấn đề vì lợi ích chung của cộng

đồng” [26]

Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm như sau:

Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không

thực hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển

theo định hướng nhất định. [5]

Trong luận văn này, để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, chúng tôi sử dụng khái

niệm về chính sách công của tác giả Nguyễn Khắc Bình.

Trên cơ sở các quan điểm về chính sách công nêu trên, có thể nêu ra quan

niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã như sau: Chính

15

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động của nhà nước về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được thể hiện bằng các văn bản quy

phạm pháp luật nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ

trình độ, năng lực chuyên môn, đạo đức công vụ để phục vụ cho công cuộc phát

triển đất nước.

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là toàn

bộ quá trình chuyển ý chí của Nhà nước trong chính sách trên thành hiện thực.

Tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là

một khâu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, đồng thời

nhằm đưa chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã vào thực tiễn

cuộc sống.

Để tăng uy tín, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của nhà nước trong

quá trình quản lý xã hội thì cần phải nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán

bộ, công chức. Thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho các nhóm đối tượng hưởng thụ chính

sách. Như vậy, để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã theo yêu cầu quản lý nhà nước thì tổ chức thực hiện

chính sách là tất yếu, khách quan.

1.1.3. Nội dung của Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã

Trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội của đất nước, Nhà nước đã ban

hành nhiều chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Những năm gần

đây, Nhà nước thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức và ban hành nhiều chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức (trong đó có cán bộ, công chức cấp xã) được thể hiện trong các văn bản quy

phạm pháp luật như: Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính

phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày

25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

16

công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP

ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức.

Nội dung chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã gồm:

1.1.3.1. Mục tiêu

- Trang bị kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị; kỹ năng, phương pháp

thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, góp phần

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt,

có bản lĩnh chính trị vững vàng và năng lực đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân,

sự nghiệp phát triển của đất nước.

- Phấn đấu trong giai đoạn 2016-2025 tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về

chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã có phẩm chất chính trị, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ

nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

1.1.3.2. Các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

a) Đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước

(1) Về đào tạo

- Từ điều kiện thực tế và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng,

miền để đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cho cán bộ, công chức cấp xã

cho phù hợp.

- Khuyến khích tự học và đào tạo trình độ sau đại học cho cán bộ, công

chức cấp xã phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ; gắn đào tạo cán bộ, công chức

cấp xã với quy hoạch sử dụng lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn

nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế trong giai đoạn mới của đất nước.

(2) Về bồi dưỡng

- Bồi dưỡng Lý luận chính trị: Bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị theo

tiêu chuẩn quy định của Nhà nước cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, cho các

17

chức danh cán bộ, công chức cấp xã; Cập nhật nội dung các văn kiện, nghị

quyết, đường lối, chủ trương của Đảng; cập nhật nâng cao trình độ lý luận chính

trị theo quy định trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

- Bồi dưỡng Kiến thức quản lý nhà nước: Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng

quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh công chức, chức vụ lãnh đạo, quản

lý ở cấp xã. Cập nhật thường xuyên kiến thức, kỹ năng, phương pháp quản lý,

phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao. Cập nhật kiến thức pháp luật mới,

văn hóa công sở, nâng cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của

người cán bộ, công chức ở cơ sở.

- Thực hiện các chương trình về bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng - an

ninh theo quy định của Nhà nước cho cán bộ, công chức cấp xã.

- Cập nhật và nâng cao kiến thức, năng lực công vụ trong bối cảnh hội

nhập quốc tế của đất nước.

- Bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ, tin học theo tiêu chuẩn quy định của

Nhà nước; Bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức cấp xã đang công tác

tại vùng có đồng bào dân tộc sinh sống.

b) Đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài:

Đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở trong nước, trong

trường hợp cần thiết; nhất là những nội dung quản lý ở Việt Nam chưa được đào tạo,

bồi dưỡng thì có thể cử cán bộ, công chức cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài

với các nội dung như: Quản lý, điều hành các chương trình kinh tế-xã hội; Quản lý

hành chính công; Quản lý nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực; Xây dựng tổ chức và

phát triển nguồn nhân lực; Chính sách công, dịch vụ công; Kiến thức hội nhập quốc

tế đối với các nước đang phát triển..v.v..

c) Các hình thức đào tạo

Về đào tạo tập trung: đây là hình thức đào tạo mà cán bộ, công chức cấp

xã phải dành toàn bộ thời gian cho học tập và nghiên cứu theo quy định của

chương trình tại từng cơ sở đào tạo. Thời gian cán bộ, công chức cấp xã học tập

trung nhiều hay ít nhằm bảo đảm việc học tập, nghiên cứu do cơ sở đào tạo quy

18

định. Trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 2 năm, trình độ cao đẳng tập trung học

3 năm. Tùy theo khối ngành và cơ sở đào tạo trình độ đại học mà có thời gian

học tập trung từ 4 năm trở lên; trình độ thạc sĩ phải có từ 2 năm trở lên.

Về đào tạo bán tập trung: đây là hình thức đào tạo mà cán bộ, công chức

cấp xã vừa công tác vừa theo học một số buổi trong tuần hoặc một số ngày trong

tháng; cán bộ, công chức cấp xã được tạo điều kiện học tập xen kẽ với làm việc

tại cơ sở. Đối với hình thức đào tạo này, cán bộ, công chức cấp xã sẽ bố trí được

thời gian để làm việc chuyên môn, nhưng tổng thời gian dành cho học tập và

nghiên cứu phải bằng thời gian đào tạo theo hình thức tập trung tại cơ sở đào tạo.

Trong thời gian theo học, cán bộ, công chức cấp xã không bị gián đoạn thời gian

làm việc quá lâu, không làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức và giải quyết

công việc của cán bộ, công chức cấp xã đảm nhiệm tại địa phương vì sẽ có ngày

học, ngày làm việc, hoặc tuần học, tuần làm việc.

Về đào tạo vừa làm vừa học: đây là một hình thức đào tạo được thực hiện

phổ biến ở nước ta trong thời gian trước đây cũng như hiện nay. Cán bộ, công

chức cấp xã tham gia học tập theo chương trình này rất thuận lợi. Các chương

trình đào tạo được xây dựng dựa trên yêu cầu của từng ngành cụ thể; đáp ứng

các yêu cầu về nội dung giống như chương trình đào tạo hệ chính quy cùng trình

độ của cơ sở đào tạo. Thời gian cán bộ, công chức cấp xã hoàn thành một chương

trình theo hình thức vừa làm vừa học này phải dài hơn so với chương trình đó ở

cùng trình độ hệ chính quy từ nửa năm đến một năm của cùng một ngành đào tạo

tại cùng một cơ sở đào tạo.

Về đào tạo trực tuyến: đây là hình thức đào tạo mới trong thời đại 4.0 và

nó phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của cán bộ, công chức cấp xã dưới

sự hướng dẫn, tổ chức và cung ứng tài liệu của các cơ sở đào tạo. Cùng với sự

phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin và sự tiện lợi trong quá trình học tập

thì hình thức đào tạo, bồi dưỡng từ xa với sự hỗ trợ của các phương tiện nghe

nhìn rất phát triển và cũng được coi là một hình thức đào tạo, bồi dưỡng đang

được chú ý. Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng từ xa là tạo cơ hội cho cán bộ,

công chức cấp xã đang làm việc, hoặc không có cơ hội đến cơ sở đào tạo thường

19

xuyên được học tập, nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức cần thiết để phục vụ

cho việc thực hiện công vụ ở cơ sở. Cán bộ, công chức cấp xã theo hình thức này

chủ yếu là tự học, tự giác, kiên trì, quyết tâm qua giáo trình, băng hình, phần

mềm vi tính, bằng việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn cá nhân, phát thanh,

truyền hình, các tổ hợp truyền thông đa phương tiện, mạng Internet dưới sự tổ

chức của cơ sở đào tạo mà cán bộ, công chức cấp xã đang tham gia học tập.

Tùy điều kiện thực tế của từng cán bộ, công chức cấp xã, người học có

thể chọn lựa hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện của mình để

giúp họ vừa có thể dễ dàng tham gia học tập trau dồi, rèn luyện kiến thức, vừa có

thể hoàn thành công vụ được giao tại cơ sở.

d) Tổ chức thực hiện chính sách

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã tại

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia,

trường chính trị thành phố, huyện, trường của Bộ, ngành; đào tạo chuyên môn

trình độ từ cử nhân trở lên tại các trường đại học; đào tạo bồi dưỡng ở nước

ngoài với chuyên môn phù hợp với Việt Nam. Các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ở Trung ương và địa phương phối hợp với cơ sở đào tạo bồi dưỡng tổ

chức thực hiện chính sách này với các nhiệm vụ và quyền hạn của mình đã được

quy định trong chính sách.

đ) Khuyến khích cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số; cán

bộ, công chức công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,

vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa học tập nâng cao trình độ, năng lực

chuyên môn. Những cán bộ, công chức cấp xã ở những nơi này khi tham gia các

khóa đào tạo bồi dưỡng được nhà nước hỗ trợ toàn phần chi phí đào tạo và hỗ trợ

một phần sinh hoạt phí trong thời gian học tập.

e) Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng

Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã. Ngoài ra còn có kinh phí của cơ quan nhà nước cử cán bộ, công chức cấp

xã đi học; đóng góp của doanh nghiệp và cán bộ, công chức đi học.

20

1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

1.2.1. Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã

Chủ thể trực tiếp thực hiện chính sách: chủ thể trực tiếp thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là các cơ quan, đơn vị, tổ chức có

chức năng quản lý nhà nước về cán bộ, công chức như Bộ nội vụ; Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh, Sở nội vụ; Uỷ ban nhân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã, cán

bộ, công chức cấp xã, cơ quan tổ chức của Đảng ở các cấp ở địa phương. Đây là

các cơ quan có trách nhiệm thực hiện nội dung của chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức. Ngoài ra, còn bao gồm cả đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã là những đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chính sách đào tạo, bồi

dưỡng.

Chủ thể gián tiếp thực hiện chính sách: Là các cơ quan có trách nhiệm

phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách. Cụ thể, trong thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức có sự phối hợp của các cơ quan liên quan

như: Bộ giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính, Sở Tài chính,

Phòng tài chính, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng, các tổ chức chính trị-xã hội ở địa

phương và các bộ ngành có liên quan khác. Chính sự phối kết hợp một cách chặt

chẽ, nhịp nhàng của nhiều chủ thể mang tính liên ngành đó đã đưa chính sách đi

vào cuộc sống. Do đó, để chính sách đạt được các mục tiêu đề ra và hiệu quả cao

thì cần phải có sự phân công, phối hợp thực hiện nhịp nhàng của các cơ quan,

đơn vị có liên quan.

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã

Theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/8/2003 của Thủ tướng

Chính phủ, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy

hoạch, kế hoạch xây dựng phát triển đội ngũ công chức của cơ quan, đơn vị; tiêu

chuẩn của từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch, chức danh công

21

chức và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của công chức.

Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ, thì

nguyên tắc đào tạo bồi dưỡng công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức vụ lãnh

đạo, quản lý, tiêu chuẩn của ngạch công chức, căn cứ vào vị trí việc làm và nhu cầu

xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của đơn vị, cơ quan; đảm bảo tính tự chủ của

cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức. Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức đào tạo

bồi dưỡng; đề cao vai trò tự học và tôn trọng việc lựa chọn chương trình bồi dưỡng

theo vị trí việc làm của công chức; bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.

Hình thức, thời gian, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và tiêu chuẩn chức danh, chức vụ

lãnh đạo, quản lý, tiêu chuẩn ngạch công chức.

1.2.3. Các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã

a. Phương pháp kinh tế

Phương pháp kinh tế là cách thức sử dụng lợi ích vật chất nhằm tác động

lên các đối tượng tham gia thực hiện chính sách. Thực chất đây là phương pháp

dùng các lợi ích vật chất tác động, động viên, khuyến khích, thúc đẩy các đối

tượng chính sách tham gia quá trình thực hiện chính sách một cách tích cực, đây

là phương pháp có tác dụng rất mạnh so với các phương pháp khác. Với chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì phương pháp này giúp cho cán bộ,

công chức cấp xã hăng hái tham gia các khóa học để nâng cao năng lực thực hiện

công vụ của mình. Người tham gia học tập tốt có thể được khen thưởng bằng vật

chất hoặc hỗ trợ một phần kinh phí khi tham gia đào tạo hoặc tham gia các khóa bồi

dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

b. Phương pháp tuyên truyền, thuyết phục

Phương pháp tuyên truyền, thuyết phục là cách thức sử dụng các ý tưởng

để các cán bộ, công chức cấp xã có ý thức được trách nhiệm của mình trong việc

tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng từ đó tác động lên các đối tượng

22

và quá trình chính sách bằng. Ý thức đầy đủ về mục tiêu chính sách sẽ giúp cho

các cán bộ, công chức cấp xã tham gia một cách tự nguyện vào thực hiện các mục

tiêu chung. Phương pháp này được tiến hành thông qua tuyên truyền, giáo dục, giải

thích, hướng dẫn về chính sách đào tạo, cán bộ, công chức và những lợi ích về vật

chất và tinh thần mà chính sách mang lại nhằm tác động đến ý thức, trách nhiệm

của mỗi cán bộ, công chức để thúc đẩy họ tích cực và trách nhiệm hơn trong quá

trình thực hiện chính sách này; góp vào nâng cao năng lực thực hiện công vụ của

chính bản thân đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

c. Phương pháp hành chính

Phương pháp hành chính là cách thức cơ quan, tổ chức tác động trực tiếp

lên đối tượng và quá trình thực hiện chính sách bằng quyền lực nhằm đạt được

mục đích đề ra. Phương pháp này có tính quyền lực, bắt buộc và đảm bảo

nghiêm kỷ cương trong quá trình thực hiện chính sách. Trong quá trình thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã sử dụng phương pháp

kinh tế và giáo dục thuyết phục. Một số trường hợp sử dụng phương pháp kinh tế

và phương pháp tuyên truyền, thuyết phục không mang lại hiệu quả mà phải dùng

phương pháp hành chính. Những cán bộ, công chức cấp xã được cử đi học nếu

không thực hiện tốt nhiệm vụ học tập có thể bị khiển trách, trả về địa phương; phải

bồi hoàn kinh phí. Những người thuộc diện phải đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

nếu không chấp hành điều động có thể bị xem xét kỷ luật tùy vào mức độ vi phạm

để xử lý theo quy định trong chính sách, pháp luật về cán bộ công chức của Nhà

nước.

d. Phương pháp kết hợp

Phương pháp kết hợp là phương pháp tác động lên đối tượng là cán bộ,

công chức cấp xã trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã bằng tổng thể các phương pháp trên để để triển khai thực hiện

chính sách này có hiệu quả. Phương pháp này được xây dựng bằng cách kết hợp

cả ba phương pháp nêu trên theo một trình tự, quy mô nhất định. Về nguyên tắc,

tùy theo điều kiện cụ thể, phương pháp kết hợp có một cấu trúc hình thể nhất

23

định. Các cơ quan, nhà quản lý xem xét, kết hợp các phương pháp trên cho hiệu

quả, phù hợp với yêu cầu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã của địa phương.

1.2.4. Những yêu cầu cơ bản trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

a. Yêu cầu thực hiện mục tiêu

Để đạt được những mục tiêu trực tiếp, các cơ quan, tổ chức nhà nước, các

cán bộ, công chức tham gia chính sách có những hoạt động cụ thể để thực hiện

chính sách. Nó là nhiệm vụ xuyên suốt và là yêu cầu quan trọng nhất trong quá

trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Giải

quyết được vấn đề chính sách chính là đạt được mục tiêu chính sách. Xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có đủ trình độ và năng lực, phẩm chất

đạo đức đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công cho người dân ở cơ sở; phục vụ

sự nghiệp phát triển địa phương và đất nước chính là mục tiêu của chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phải đạt

được mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là yêu

cầu cơ bản nhất trong quá trình thực hiện chính sách này.

b. Yêu cầu bảo đảm tính hệ thống

Tính hệ thống trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: Hệ thống trong tổ chức

bộ máy thực hiện chính sách; Hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách;

Hệ thống trong điều hành, phối hợp thực hiện; yêu cầu bảo đảm tính hệ thống

trong tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao. Để đảm bảo yêu cầu này cần

phải sử dụng đồng bộ, hiệu quả các công cụ chính sách với các công cụ quản lý nhà

nước khác. Nếu yêu cầu này được đảm bảo trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ là cơ sở trực tiếp cho việc đạt được mục tiêu đề

ra.

c. Yêu cầu bảo đảm tính khoa học và pháp lý trong thực hiện chính sách

Đây là một yêu cầu quan trọng, nó buộc các cơ quan tổ chức, đơn vị có

24

trách nhiệm tổ chức thực hiện phải bảo đảm pháp lý và tính khoa học một cách

phù hợp trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã. Việc chấp hành các quy định về thực hiện chính sách để đảm bảo

tính tập trung, thống nhất trong chấp hành chính sách chính là tính pháp lý trong

tổ chức thực hiện chính sách. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu này cần phải có

một hệ thống bộ máy cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý chính sách gọn nhẹ; đội

ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực tổ chức thực hiện chính sách. Yêu cầu này

đòi hỏi trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách phải phối hợp chặt chẽ, nhịp

nhàng giữa các bộ phận quản lý chính sách; phải chủ động, năng động, tìm kiếm

việc thu hút các nguồn lực, các chương trình hướng đến thực hiện mục tiêu chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Đồng thời việc tổ chức thực

hiện chính sách một cách khoa học và hợp lý sẽ giúp việc thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách thuận lợi.

d. Yêu cầu đảm bảo lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Ngày nay, có rất nhiều nhóm lợi ích cùng tôn tại và nhà nước là người bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức và các cá nhân; cụ thể là cán bộ, công

chức và công chức cấp xã…Nhà nước xem xét, ban hành và tổ chức thực hiện

chính sách hướng đến đối tượng nào thì nhóm đối tượng đó được thụ hưởng.

Tương tự như vậy, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được

ban hành thì chỉ những ai là cán bộ, công chức cấp xã theo quy định mới là đối

tượng thụ hưởng chính sách. Đây cũng chính là yêu cầu xác định đúng đối tượng

được đào tạo, bồi dưỡng; trong quá trình thực hiện chính sách phải đảm bảo lợi

ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng chính của chính sách, tránh việc thực

hiện mang tính hình thức, thiếu khách quan vì như vậy sẽ không giải quyết được

vấn đề yêu cầu quan trọng trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã.

1.2.5. Các bước thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

25

chức cấp xã

a. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là quá

trình diễn ra trong thời gian dài, phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải có kiến thức

chuyên môn, hiểu biết sâu, kỹ năng và thái độ của cán bộ, công chức trong xây

dựng kế hoạch thực hiện chính sách. Kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là một công cụ rất quan trọng để giúp các cơ

quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã vào thực tiễn một cách chủ động. Xây dựng kế hoạch triển khai thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã bao gồm các nội

dung: Phải có kế hoạch tổ chức điều hành; có kế hoạch cung cấp các nguồn lực

vật chất cho thực hiện chính sách; có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc công tác thực

hiện chính sách; dự kiến xây dựng nội quy, quy chế về tổ chức, quy chế về điều

hành thực hiện chính sách. Kế hoạch triển khai được xây dựng chính xác, cụ thể

thì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã gặp nhiều

thuận lợi và có kết quả cao nhất.

b. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã

Công tác phổ biến, tuyên truyển chính sách đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa

vai trò rất quan trọng không chỉ đối với cơ quan quản lý nhà nước mà cả đối

tượng thực hiện chính sách khi triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã theo kế hoạch. Khi làm tốt công tác tuyên

truyền, phổ biến sẽ giúp cho những đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiểu rõ mục đích, yêu cầu, tính đúng đắn của

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay ở nước

ta; từ đó, họ tự giác, tự nguyện thực hiện theo yêu cầu của chính sách. Đồng thời

giúp cho mỗi cán bộ, công chức tham gia thực hiện có trách nhiệm lớn lao của

mình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

26

nhận thức được tính chất, quy mô của chính sách từ đó nỗ lực tìm kiếm các giải

pháp thực hiện các mục tiêu và triển khai chính sách có hiệu quả. Công tác tuyên

truyền, phổ biến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã đạt hiệu quả cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải hiểu mục tiêu, yêu

cầu, nội dung, nhiệm vụ của chính sách; phải nhận thức được đầy đủ vai trò của

công tác phổ biến, tuyên truyền đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách. Trên

cơ sở đó có sự lựa chọn các kỹ năng, biện pháp phổ biến, tuyên truyền cho phù

hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương.

c. Công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã

Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có tác động rất

lớn, hướng tới nhiều tập thể và cá nhân tham gia thực hiện bao gồm cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở thực hiện chính sách và đối tượng thụ

hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Bên cạnh đó,

từng mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cũng

phong phú, phức tạp về không gian và thời gian tổ chức thực hiện. Bởi vậy,

muốn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một

cách có hiệu quả đòi hỏi cần có sự phân công, phối hợp chặt chẽ trong thực hiện

giữa các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, chính quyền địa phương, cơ sở đào

tạo, bồi dưỡng và đội ngũ cán bộ, công chức. Công tác phân công, phối hợp

thực hiện chính chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thông

thường có sự tham gia của các cơ quan như: Nội vụ, Tài chính, Đài truyền

thanh,… Hoạt động này cần chú ý tới đặc điểm, thế mạnh của từng cá nhân, cơ

quan, đơn vị trong phối hợp thực hiện chính sách để tránh tình trạng trùng lặp,

chồng chéo; phân công không rõ trách nhiệm hoặc phân công cho đối tượng

không đủ năng lực thực hiện chính sách. Thực tiễn chứng minh rằng hiệu quả,

kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phụ

thuộc rất lớn vào năng lực thực hiện, khả năng phối hợp giữa các bên thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Do đó, để tổ chức thực

27

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có hiệu quả cần

phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, cơ quan, cá nhân theo

thẩm quyền đã được quy định trong chính sách hoặc các quy định khác của Nhà

nước…

d. Công tác duy trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã

Duy trì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có ý nghĩa

vô cùng quan trọng và nó bảo đảm cho chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã tồn tại và thực hiện trong thời gian dài không bị gián đoạn. Để

có thể duy trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

theo mục tiêu đã được xác định, chúng ta cần phải thường xuyên kiểm tra quá

trình thực hiện, đánh giá công việc trong quá trình thực hiện và đề xuất các giải

pháp phù hợp với thực tiễn ở từng địa phương và trong từng giai đoạn cụ thể

nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã. Đồng thời cơ quan thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã phải luôn luôn kiểm tra để nắm bắt được điểm mạnh, điểm yếu trong

quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; từ

đó có những điều chỉnh những giải pháp tổ chức thực hiện để duy trì chính sách.

Ngoài ra, phải chú ý quan tâm đánh giá thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã để các đối tượng thực hiện chính sách biết được những

hạn chế trong quá trình thực hiện, từ đó có nhận thức đúng về vị trí, quyền lợi,

trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong thực hiện chính sách. Việc kiểm tra,

đánh giá nhằm chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã giúp duy trì, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực

hiện mục tiêu. Căn cứ điều kiện thực tế, trong quá trình tổ chức thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cấp xã, các cơ quan, tổ chức và cá nhân cán bộ, công

chức thực hiện chính sách cần có những tham mưu, đề xuất các giải pháp nhằm

duy trì chính sách. Bởi trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã do môi trường thực hiện luôn biến đổi hoặc gặp những

28

khó khăn, tác động nhất định. Do đó, khi thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cấp xã đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, kiến thức nhất định để có thể tạo lập được một môi trường thuận lợi

nhất cho quá trình thực hiện chính sách trong điều kiện thực tế của địa phương.

e. Việc điều chỉnh các giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã

Do môi trường thực hiện chính sách luôn thay đổi so với môi trường trước

và sau khi ban hành chính sách nên việc điều chỉnh các giải pháp tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động cần

thiết trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã. Theo đó, quá trình điều chỉnh giải pháp tổ chức thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được hiện thực bởi

những cơ quan có thẩm quyền nhằm điều chỉnh các giải pháp thực hiện chính

sách phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã thì cơ quan đó được quyền điều

chỉnh, bổ sung chính sách. Trên thực tế, các cơ quan các cấp, các ngành theo

chức năng và nhiệm vụ được phân công trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã có thể chủ động đưa ra các giải pháp để thực hiện có hiệu

quả chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Hoạt động điều

chỉnh giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã cần phải chính xác và hợp lý nếu không sẽ làm chệch hướng mục tiêu chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đã đề ra. Trong trường hợp đó

coi như việc thực hiện chính sách này không đạt yêu cầu. Do vậy, khi thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã yêu cầu đội ngũ cán bộ,

công chức phải có trình độ và kỹ năng tốt để có thể đề xuất các biện pháp, giải pháp

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã một cách hiệu

quả, bảo đảm mục tiêu của chính sách không được thay đổi.

f. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

29

cán bộ, công chức cấp xã

Để các chủ thể thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã nêu cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo

định hướng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì các cơ

quan, đơn vị, cán bộ, công chức có thẩm quyền theo quy định thực hiện các hoạt

động theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã thông qua công cụ đảm bảo trong quá trình thực hiện như nội

quy, quy chế, quy định…. Từ thực tiễn, có thể thấy trong quá trình tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã không phải cá

nhân, cơ quan, đơn vị nào cũng làm đúng, làm tốt; vì thế cần có hoạt động đôn

đốc, theo dõi, kiểm tra để vừa có thể thúc đẩy các chủ thể nỗ lực hơn nữa trong

thực hiện chính, vừa có thể phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những hành vi vi

phạm trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp pháp nhằm chấn chỉnh công tác tổ

chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã góp phần

hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ, công chức cần phải có kiến

thức sâu, hiểu mục tiêu, đối tượng thụ hưởng của chính sách và các quy định,

giải pháp thực hiện chính sách. Cần nắm chắc, chính xác các quy định trong kế

hoạch thực hiện chính sách, các quy chế, nội quy trong thực hiện chính sách. Để

thực hiện tốt việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải thu thập đầy đủ các nguồn thông tin,

các dữ liệu phản ánh về quá trình triển khai, kết quả thực hiện chính sách từ các

cơ quan, tổ chức; từ đó, phân tích, xử lý thông tin một cách chính xác, hạn chế

những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách. Kiểm

tra, đôn đốc thực hiện chính sách vừa kịp thời bổ sung, hoàn thiện giải pháp tổ

chức thực hiện chính sách, giúp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của chính sách đào

30

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

g. Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ có thể

đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã; trong đó đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi chính sách

hết hiệu lực do cơ quan ban hành chính sách chủ trì thực hiện. Việc đánh giá,

tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách có ý nghĩa rất quan trọng; là hoạt

động để đưa ra những kết luận, đánh giá về sự điều hành và chấp hành của các

đối tượng liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Cụ thể, hoạt động đánh giá, tổng kết về chỉ đạo,

điều hành và chấp hành thực hiện các giải pháp để tổ chức chức thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nhằm vào đối tượng là các cơ

quan nhà nước, các ngành, tổ chức có liên quan trong quá trình ban hành và thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Cơ sở để đánh giá,

tổng kết là các kế hoạch được giao và căn cứ vào những nội quy, quy chế đã

được xây dựng để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã. Bên cạnh đó, phải kết hợp sử dụng một số các văn bản quy phạm, văn

bản liên tịch để xem xét, đánh giá tình hình phối hợp thực hiện chính sách; phải

chú trọng xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của các đối tượng cán bộ, công chức tham gia quá trình thực

hiện…. nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu của chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Ngoài các tiêu chí ra, để tổng kết, đánh

giá chính xác còn phải căn cứ vào các nguyên tắc đó là công bằng, khách quan

và toàn diện. Công tác đánh giá, tổng kết phải chỉ ra được các ưu điểm, nhược

điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã; từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đào tạo,

31

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Có nhiều yếu tố liên quan đến các tổ chức, cá nhân trong thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; do vậy, kết quả tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ chịu ảnh hưởng

của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố khách quan và chủ quan.

a. Yếu tố khách quan

Tính chất của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có nội dung

phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phức tạp ở chỗ không chỉ số lượng

cán bộ, công chức rất lớn mà còn do đặc thù, tính chất công việc, đạo đức nghề

nghiệp của cán bộ, công chức cấp xã rất đa dạng, phong phú và khác nhau ở từng

địa phương, vùng miền. Cán bộ, công chức làm việc trong các lĩnh vực sự

nghiệp công khác nhau đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề

nghiệp tương ứng, không có khuôn mẫu chung cho tất cả các ngành nghề, lĩnh

vực sự nghiệp công. Chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của công

chức sự nghiệp y tế càng khác xa với chuyên môn nghiệp vụ của công chức sự

nghiệp quản lý đô thị, đất đai hay về trật tự an ninh và công chức sự nghiệp

khác. Vì vậy, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp cho cán bộ, công chức cấp xã cũng rất khác nhau; do đó, nội dung, kiến

thức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, trang bị cũng đòi hỏi phải khác nhau và

phù hợp với từng ngành, nghề, lĩnh vực nơi cán bộ, công chức công tác. Đây

chính là biểu hiện rõ nhất tính phức tạp của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã; nó gây phức tạp cho việc xây dựng và tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Do tính phức tạp

của vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nên trong tổ

chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải

32

chú ý đến tác động ảnh hưởng của nó để chủ động tìm kiếm các giải pháp khắc

phục mới cho kết quả và hiệu quả mong muốn; nhất là đặc điểm đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã, đặc điểm vùng miền.

Môi trường thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã chịu

ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc

phòng ở địa phương. Môi trường thực hiện chính sách chứa đựng toàn bộ thành

phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã như các đối tượng được thụ hưởng từ chính sách, tình

hình an ninh chính trị ở địa phương, sự phát triển sản xuất kinh doanh ở địa

phương, trật tự xã hội hay quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực

sản xuất kinh doanh, giáo dục y tế; hệ thống các cơ quan nhà nước tham gia thực

hiện chính sách với nhiệm vụ quyền hạn khác nhau cũng ảnh hưởng đến quá

trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở

địa phương.

Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã: Thể hiện trong sự thống nhất về lợi ích hay mức độ

phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của các đối tượng thụ hưởng cũng như tham gia thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương. Trong tổ

chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã có sự

khác nhau giữa các chế độ đãi ngộ, phụ cấp cho các đối tượng khác nhau về

vùng miền, dân tộc thiểu số, hoặc có thể về chuyên môn đào tạo. Vì vậy, cần có

sự thống nhất, phối hợp giữa các đối tượng hưởng thụ và người thực hiện chính

sách để đảm bảo tính minh bạch, công bằng, đúng đối tượng, đúng các quy định

trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

ở địa phương.

Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

công chức cấp xã: Thực lực và tiềm năng của mỗi nhóm đối tượng chính sách có

33

được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác trong thụ hưởng

chính sách. Tiềm lực của cán bộ, công chức cấp xã hiện nay nhìn chung có nhiều

thuận lợi cho việc thực hiện chính sách này; tuy nhiên đối với cán bộ, công chức

cấp xã ở vùng miền núi, vùng xa xôi hẻo lánh, cán bộ công chức người dân tộc

thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Do đó, ngoài các chế độ đãi ngộ dành cho đối

tượng này đã được quy định trong chính sách, các cơ quan nhà nước ở địa

phương cần có cơ chế chính sách đặc thù để huy động các nguồn lực để tạo điều

kiện về vật chất cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở những nơi này có điều

kiện thuận lợi để yên tâm tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng.

Đặc tính của đối tượng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã: Do tính chất đặc trưng nghề nghiệp, đặc điểm dân tộc, văn hóa vùng

miền và là cán bộ cơ sở nên cán bộ, công chức đa phần là những cán bộ, công

chức có gia đình ở địa phương nên không muốn tham gia đào tạo dài ngày xa gia

đình. Hơn nữa họ cũng có không nhiều cơ hội tiếp xúc với những vấn đề mới của

khoa học tiên tiến nên năng lực tiếp thu có những hạn chế nhất định. Tính địa

phương, cục bộ và những thói quen, phong tục tập quán ở làng xã cũng ảnh

hưởng đến các đối tượng này tham gia học tập. Vì vậy, đây là mặt khó khăn mà

các cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã cần chú trọng quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã ở nước ta hiện nay để cho chính sách này được thực hiện tốt và

đạt được mục tiêu đã đề ra.

b. Yếu tố chủ quan

Một là, các yếu tố thuộc về cơ quan, tổ chức, do cán bộ, công chức chủ

động chi phối đến quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã nên nó ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện. Thành công của

chính sách Thành công của một chính sách phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và

sự hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Khả năng và sự hoạt động của cơ quan và cán

bộ thực hiện chính sách đó, thông thường là các cơ quan trong bộ máy hành

34

chính nhà nước ở địa phương - những người chủ yếu và trực tiếp thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Việc thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã luôn luôn đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ

các bước trong quy trình thực hiện chính sách công. Thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thiếu hay không đúng quy trình các

bước này thì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã sẽ không

đạt kết quả tốt, sẽ không đạt được mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã.

Hai là, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan chủ trì và

phối hợp tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã tham gia thực hiện chính sách này. Năng lực của đội ngũ này thể hiện

trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, năng lực

tổ chức tuyên truyền, năng lực huy động nguồn lực, năng lực phối hợp hoạt

động, năng lực quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, …v.v. trong quá

trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta

hiện nay. Muốn năng lực của đội ngũ này tham gia thực hiện chính sách trên tốt

trước hết đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách phải được lựa

chọn, được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lý luận về chính sách công và

đi sâu vào nội dung thực hiện chính sách công và các kiến thức chuyên ngành bổ

trợ khác.

Ba là, điều kiện vật chất cho quá trình thực hiện chính sách đối với cán

bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã. Điều kiện vật chất là một trong những yếu tố quan trọng cho quá

trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Về điều

kiện vật chất này đã được Nhà nước lên kế hoạch từ trước khi ban hành chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên trong quá trình thực

hiện chính sách này có thể có những biến động. Do đó các cơ quan nhà nước chủ trì

thực hiện chính sách này phải luôn quan tâm, tăng cường các nguồn lực vật chất và

35

nhân lực để thực hiện chính sách; nhất là ở những vùng khó khăn cần có sự hỗ trợ

các đối tượng thụ hưởng chính sách để chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã thực hiện đúng tiến độ đã quy định.

Bốn là, sự hưởng ứng của các đối tượng thụ hưởng chính sách và các đối

tượng liên quan. Đây là nhân tố có vai trò quan trọng quyết định sự thành công

hay thất bại của chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Nhìn

chung các cán bộ công chức cấp xã đều mong muốn được tham gia các khóa đào

tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên trên thực tế có những

nơi; nhất là vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công chức, cán bộ

cấp xã người dân tộc thiểu số cũng không thiết tha với việc đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn của mình bởi họ không muốn xa nhà, có

thể do hoàn cảnh kinh tế, có khi do sợ mất vị trí công tác, chức vụ..v.v. Do đó,

để chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đạt được mục tiêu đề

ra, công tác tuyên truyền, hay tìm các giải pháp hỗ trợ động viên về vật chất và

tinh thần để học tham gia thực hiện chính sách này là vô cùng quan trọng.

Tiểu kết Chương 1

Tại chương này, tác giả đi sâu nghiên cứu, làm rõ một số nội dung những

vấn đề có tính lý luận về cán bộ, công chức cấp xã; chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

công chức cấp xã ở Việt Nam hiện nay. Các nội dung đó bao gồm: các khái niệm

như cán bộ, công chức; cán bộ, công chức cấp xã; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức; Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Bên cạnh đó, Chương 1

cũng phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Phần lớn nội dung chương này đề đến nội dung của chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và quy trình các bước thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay và các yếu tố

36

khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Những phân tích về các nội dung trên để

làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Đây là cơ sở quan trọng, có ý nghĩa định hướng

cho việc đi sâu phân tích thực trạng ở Chương 2 và đưa ra các giải pháp ở

37

Chương 3 trong nghiên cứu này.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Ba Vì là huyện xa trung tâm, cửa ngõ phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội. Với tổng

diện tích 424km2, dân số hơn 291 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh,

Mường, Dao); toàn huyện có 30 xã và 01 thị trấn, trong đó có 07 xã miền núi, một

xã ở bãi giữa sông Hồng. Phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ,

phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và phía Đông giáp thị xã Sơn Tây.

Địa hình của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia

thành 3 tiểu vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi gò và vùng đồng bằng ven

sông Hồng.

Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm chính, nhóm đất vùng đồi núi

và nhóm vùng đồng bằng. Nhóm đất vùng đồi núi có 18.478 ha (chiếm 58,9%

đất đai của huyện); nhóm đất vùng đồng bằng có 12.892 ha (chiếm 41,1% diện

tích đất đai toàn huyện). Theo số liệu thống kê năm 2018, diện tích rừng toàn

huyện có 9.684 ha, trong đó: rừng sản xuất 3.170 ha, rừng phòng hộ 78 ha và

6.436 ha rừng đặc dụng. Diện tích rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở vùng núi Ba

Vì từ độ cao 400m trở lên. Hệ động thực vật Ba Vì rất đa dạng, phong phú; hiện

nay các nhà thực vật học Việt Nam ước khoảng 2.000 loại, gồm nhiều loại gỗ

quý hiếm như lát hoa, kim giao sến mật, sồi, dẻ gai....

Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng

khí hậu nhiệt đới gió mùa; có mạng lưới thủy văn hết sức độc đáo, xung quanh

gần như được bao bọc bởi hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Đà; có một

hệ thống đường giao thông thuỷ, bộ rất thuận lợi nối liền các tỉnh Tây Bắc với

38

đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Từ Trung tâm huyện theo Quốc

lộ 32 đi Sơn Tây về Hà Nội và các thành phố đồng bằng Bắc bộ hoặc ngược lại

đi các tỉnh Tây Bắc. Đồng thời cũng từ trung tâm huyện lỵ theo sông Hồng

ngược Trung Hà theo sông Lô, sông Thao lên Tây Bắc, hoặc theo sông Đà đi

Hoà Bình - cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc. Với những lợi thế về giao thông

đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế,

văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển

kinh tế với cơ cấu đa dạng: nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp.

Bên cạnh những thuận lợi trên, với địa lý có sông, có núi, có đồng bằng và

diện tích lớn như vậy cũng là những trở ngại trong quá trình thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện.

2.1.2. Văn hóa, truyền thống

Theo số liệu thống kê, đến năm 2018, huyện Ba Vì đã có 69 di tích lịch sử

văn hoá được xếp hạng các loại. Những di tích này đều có lịch sử, kiến trúc độc

đáo gắn liền với tên tuổi các vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như: đền

thờ Tản Viên Sơn thánh; đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đỉnh núi Ba Vì, khu

di tích K9…. Một số di tích có tầm cỡ quốc gia như: Đình Tây Đằng, Đình Chu

Quyến, là 2 di tích được xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia; Đình Thụy

Phiêu được các nhà khoa học đánh giá là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt

Nam có niên đại 1531- thời Nhà Mạc.

Người dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, cần cù, sáng tạo trong lao

động, kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm nhất là trong hai cuộc

kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ đổi

mới, huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ

và vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Những

thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã được Đảng và Nhà nước phong

tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, Huân

39

chương lao động hạng nhất thời kỳ đổi mới. [31]

Truyền thống văn hóa này đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền

các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã của huyện Ba Vì trong thời gian qua.

2.1.3. Về Kinh tế xã hội

Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố

Hà Nội, sự nỗ lực của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì đã phấn đấu

thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII (2015-

2020), các mục tiêu cơ bản đạt và vượt Nghị quyết đề ra. Tổng giá trị sản xuất

năm 2019 đạt 30.240 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch, tăng 11,5% so với năm

2018. Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 10.210 tỷ đồng, bằng 96 % KH,

tăng 2,7% so với năm 2018; Nhóm ngành dịch vụ - du lịch đạt 13.050 tỷ đồng,

bằng 102% KH, tăng 16,7% so với năm 2018; Công nghiệp - xây dựng đạt 6.980

tỷ đồng, bằng 102% KH, tăng 16% so với năm 2018. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm

nghiệp, thủy sản: 33,8%; Dịch vụ, thương mại, du lịch: 43,2%; Công nghiệp, xây

dựng: 23,0 %. Hết năm 2019 đã có 18/30 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, chiếm tỷ

lệ 60% số xã (số liệu báo cáo đến hết năm 2019).

Chính sách xã hội, lao động việc làm, nông nghiệp, nông thôn, nông dân

được quan tâm giải quyết, hàng năm tạo việc làm mới cho khoảng 3.800 lao

động; sự nghiệp giáo dục được quan tâm đã có 55/111 trường trên địa bàn đạt

chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 49,1%. Công tác y tế: đã có 31/31 trạm Y tế xã có Bác

sỹ, 31/31 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Về văn hóa đã có 172/213 làng đạt danh

hiệu văn hóa, chiếm 80,7%; hàng năm, có hơn 87% số gia đình đạt danh hiệu Gia

đình văn hóa. Phong trào thể dục thể thao tiếp tục được quan tâm, phát triển.

Cải cách hành chính có sự tiến bộ, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội

được giữ vững; công tác quân sự quốc phòng được đảm bảo. Công tác xây dựng

Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn có sự chỉ đạo tập trung;

hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được củng cố, không có đơn vị yếu kém, đảm

40

bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra. Đây là

những yếu tố thuận lợi trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã của địa phương trong thời gian qua.

2.1.4. Đội ngũ cán bộ, công chức

Xác định nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh

tế-xã hội, những năm qua huyện Ba Vì luôn chú trọng đến đầu tư phát triển và

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức nói

riêng. Huyện Ba Vì đề ra mục tiêu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thực thi công vụ,

phục vụ nhân dân.

Tổng số đơn vị hành chính của huyện gồm 31 xã, thị trấn. Tổng số cán bộ,

công chức cấp xã là 653 người. [31]

Trình độ học vấn của đội ngũ công chức cấp xã: Công chức có 334 người.

- Trưởng công an: 31 người (là công an chính quy). Trong đó: Trung cấp:

21, Đại học 10. LLCT: Trung cấp: 31.

- Chỉ huy trưởng quân sự: 31 người. Trong đó: Trung cấp: 28 người, Cao

đẳng: 02, Đại học: 01 người. LLCT: Trung cấp: 31.

- Văn phòng - thống kê: 60 người; Trong đó: Trung cấp 12, Cao đẳng 04,

Đại học là 44.

- Tài chính - Kế toán: 40 người. Trong đó: Trung cấp 05, Cao đẳng 01,

Đại học 34.

- Địa chính - Xây dựng: 59 người. Trong đó: Trung cấp 03, Cao đẳng 12,

Đại học 43, Thạc sỹ 01.

- Tư pháp - Hộ tịch: 51 người. Trong đó: Trung cấp 02, Đại học 49.

- Văn hóa - Xã hội: 62 người. Trong đó: TB-XH: 29 người (TC 3, CĐ 1,

ĐH 24, ThS: 01; VH-TT: 33 người ( TC 7, CĐ 1, ĐH 25).

Trình độ học vấn của đội ngũ Cán bộ cấp xã: cán bộ có 319 người.

- Bí thư Đảng ủy: 31 người, trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp

41

01, Đại học 28, Thạc sỹ: 01. LLCT: Trung cấp: 29, Cao cấp: 02.

- Phó Bí thư thường trực Đảng ủy: 31 người, trong đó: Trình độ chuyên

môn: Trung cấp 02, Đại học 29 người. LLCT: Trung cấp 29, Cao cấp 01; Cử

nhân: 01.

- Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã: 30 người (01 xã Bí thư kiêm Chủ tịch

UBND). Trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp: 01, Đại học: 29.

- Phó Chủ tịch HĐND xã: 31 người.

- Phó Chủ tịch UBND xã: 41 người.

- Chủ tịch MTTQ xã: 31 người.

- Chủ tịch Hội phụ nữ xã: 31 người.

- Chủ tịch Hội nông dân xã: 31 người.

- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã: 31 người.

- Bí thư Đoàn thanh niên xã: 31 người.

Trong đó: Trình độ chuyên môn: Trung cấp: 11, Cao đẳng: 11, Đại học:

204, Thạc sỹ: 01. LLCT: Sơ cấp 13, Trung cấp 211, Cao cấp 02, Cử nhân 01.

Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững

vàng, năng lực chuyên môn cao, tận tụy với công việc, ngoài các yếu tố khác

nhau của công tác tổ chức cán bộ thì còn phải có các loại hình đào tạo, bồi

dưỡng hiệu quả, phù hợp cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung.

Sự thành công hay thất bại của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước hoặc do cơ quan, tổ chức vạch ra có vai trò quyết định, rất quan trọng của

cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức phải được quan tâm đào tạo, bồi

dưỡng về năng lực công tác, kỹ năng nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức

phục vụ nhân dân vì họ là những người trực tiếp thực hiện các chính sách, kế

hoạch của cơ quan, tổ chức; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông

tin,...) giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp và người dân.

Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, công chức là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng,

góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác,

42

chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; hướng tới

mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn;

đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng được xác định trong Chương trình tổng thể

cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm

xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết

các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng.

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của

huyện Ba Vì có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả quan trọng

bước đầu. Đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) cơ bản có bản có

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lĩnh chính trị vững vàng, năng động và sáng

tạo; tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Năng lực hoạt động thực tiễn, kiến thức chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công

chức được nâng cao, từng bước thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, đóng

góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Bảng 2.1. Biên chế cán bộ, công chức cấp xã

Tổng số cán bộ, công chức STT Tên Xã, trị trấn

43

Khánh Thượng Minh Quang Ba Vì Ba Trại Tản Lĩnh Yên Bài Vân Hòa Cẩm Lĩnh Thuần Mỹ Sơn Đà Tòng Bạt Phú Sơn Đồng Thái Vạn Thắng Phú Đông Cổ Đô Phú Cường Phong Vân Tản Hồng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. Cán bộ 10 11 10 11 11 10 10 10 10 10 10 11 10 11 10 10 10 10 11 Công chức 12 10 10 14 13 11 13 10 10 10 10 11 10 11 9 9 10 11 11

20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. Châu Sơn Chu Minh Cam Thượng Thụy An Vật Lại Phú Châu Đông Quang Tây Đằng Tiên Phong Thái Hòa Phú Phương Minh Châu 10 10 10 10 10 10 10 11 10 10 10 10 10 9 11 12 14 11 9 12 12 11 9 9

Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019

2.1.5. Chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ cấp xã của Huyện

Tổng số: 653 cán bộ, công chức tính đến thời điểm năm 2019 về trình độ

và cơ cấu như sau:

- Về trình độ chuyên môn

Bảng 2.2. Cơ cấu về trình độ chuyên môn

Tiến sỹ

Thạc sỹ

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

THPT

STT

SL % SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

0 0 03 0,46 444 67,99 52 7,97 154 23,58 0 0

Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019

Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của

Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán

bộ, cán bộ cấp cơ sở thì trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã

tại huyện Ba Vì qua bảng số liệu đảm bảo được tiêu chuẩn học vấn theo quy định

và ở mức trung bình so với mặt bằng chung của cấp xã trên địa bàn thủ đô Hà

Nội; các chức danh lãnh đạo như Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ

tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã đều có trình độ chuyên môn tốt

nghiệp đại học trở lên; các chức danh trưởng đầu ngành có chuyên môn tốt

44

nghiệp từ trung cấp trở lên. Nó là những thuận lợi, quyết định trực tiếp tới khả

năng tiếp thu và thực hiện các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nước.

Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu giới tính CBCC

Nam Tỷ lệ % Nữ Tỷ lệ %

66,46 434 219 33,54

Tổng (người) 653 Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019

Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba Vì có trình độ chuyên

môn đại học chiếm 67,99%; cán bộ công chức có trình độ chuyên môn cao đẳng

chiếm 7,97%, có trình độ trung cấp chiếm 23,58%; có trình độ chuyên môn cao

học chiếm 0,46%; không còn cán bộ công chức có trình độ THPT. Về cơ bản,

đội ngũ cán bộ công chức của huyện đều được chuẩn hóa theo chức danh.

- Trình độ lý luận chính trị

Bảng 2.4. Cơ cấu về trình độ lý luận chính trị

Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo

STT SL % SL % SL % SL %

06 0,92 297 45,48 350 53,6 0 0

Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019

Việc học tập lý luận chính trị được đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức

tốt, coi là quyền lợi và nhiệm vụ chính trị của bản thân. Trong quá trình đánh

giá, sử dụng, bổ nhiệm và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức thì kết

quả học tập lý luận chính trị - hành chính là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên

được xét đến. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thuộc huyện Ba Vì cơ bản đảm

bảo quy định tiêu chuẩn về trình độ chính trị theo quy định. Điều này thể hiện sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của huyện Ba Vì đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng

trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn huyện, qua đó

góp phần nâng cao uy tín, bản lĩnh của người cán bộ, công chức trong việc dẫn

45

dắt nhân dân, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.

- Trình độ quản lý nhà nước của cán bộ công chức trên địa bàn huyện Ba

Vì chưa thực sự cao trong khi nền hành chính hiện nay đều áp dụng cơ chế một

cửa, một cửa liên thông, thực hiện cải cách hành chính, đòi hỏi phải nâng cao

hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu về chất lượng

cung ứng và thái độ phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

* Về trình độ tin học và ngoại ngữ

Trình độ tin học CBCC cấp xã đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ tương đối

cao (84%); tỷ lệ CBCC cấp xã qua đào tạo trình độ ngoại ngữ ( tối thiểu

trình độ A) chiếm tỷ lệ khá cao 67,99%.

- Về cơ cấu:

Bảng 2.5. Cơ cấu về độ tuổi

Tuổi dưới 35 Tuổi từ 35-49 Tuổi từ 50 trở lên STT SL % SL % SL %

147 22,51 320 49 186 28,49

Nguồn: Phòng Nội vụ Ba Vì năm 2019

Đến năm 2019, về tổng thể thì cơ cấu độ tuổi này là hợp lý, cơ bản đảm

bảo tính ổn định, có sự kế thừa, thuận lợi trong công tác cán bộ và thực thi công

vụ tại cơ sở.

Đánh giá chung:

Một là, đa số đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba Vì được sinh

ra và lớn lên tại địa phương, do đó tác phong làm việc còn bị ảnh hưởng chi phối

bởi tác phong nông nghiệp, bảo thủ, khó tiếp thu cái mới; thiếu sự công bằng,

giải quyết công việc mang tính cảm tính; trình độ chuyên môn, tin học còn chưa

cao. Do ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng, vai trò cá nhân không được đề cao,

cán bộ công chức cấp xã trông chờ, chưa chủ động, ý thức trách nhiệm trong

công việc chưa cao.

Hai là, nhận thức của phần lớn đội ngũ cán bộ công chức cấp xã huyện Ba

Vì đều nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của bản thân; luôn có ý thức tự

46

học, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; có tinh thần

trách nhiệm trong thực hiện công vụ, luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đây

là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện tốt chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ

công chức cấp xã; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp

xã của huyện Ba Vì trong bối cảnh mới của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số

cán bộ công chức cấp xã tinh thần trách nhiệm chưa cao, né tránh, đùn đẩy, ngại

va chạm, chưa mềm dẻo, linh hoạt, lười học tập, nghiên cứu, cập nhật kiến thức

mới làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả công việc của địa phương.

Ba là, trong những năm qua, mặc dù được huyện quan tâm đầu tư trong

việc học tập nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công

chức cấp xã, song số lượng cử đi học hàng năm vẫn còn hạn chế. So với yêu cầu

chuẩn cán bộ về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ thì nhiều cán bộ công

chức cấp xã vẫn chưa đáp ứng tiêu chuẩn này.

Một số cán bộ, công chức còn hạn chế về trình độ hiểu biết kinh tế, pháp

luật, tin học, ngoại ngữ, kỹ năng hoạt động công tác đảng, đoàn; một số còn

hoạt động theo tư duy cũ, , nặng tính hành chính, sự vụ, ngại học tập, thiếu năng

động, linh hoạt, chưa sâu sát thực tế cơ sở. Khả năng nghiên cứu, tham mưu, đề

xuất, định hướng còn hạn chế.

Cần phải có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kịp thời cho số công

chức trẻ mới được tuyển dụng để bổ sung thêm kinh nghiệm thực tiễn, kinh

nghiệm và năng lực nghiên cứu, tổng hợp, tham mưu về công tác đảng, đoàn.

Những năm gần đây cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực trong việc

tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, phân công công việc cho cán bộ công chức cấp xã.

Trước đây, việc tuyển chọn những người đã được đào tạo đầy đủ rất khó khăn,

thậm chí tuyển chọn rồi bố trí đưa đi đào tạo, bồi dưỡng thì những năm gần đây,

công tác tuyển dụng cán bộ công chức cấp xã của huyện đã được chú trọng hơn

về chất lượng.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

47

chức cấp xã tại huyện Ba Vì

2.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã

Với mục tiêu xây dựng cơ quan hành chính kỷ cương, liêm chính, hành

động và phục vụ thì các cấp uỷ, chính quyền và nhất là đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã ngày càng cần phải nâng cao trình độ, năng lực cũng như thái độ

phục vụ nhân dân, Thành Ủy Hà Nội đã có Thông báo kết luận số 596-TB/TU,

ngày 15-6-2013 của Thành ủy Hà Nội về chủ trương công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã đến năm 2015 và những năm tiếp theo. Hàng năm

Thành ủy đã chỉ đạo các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cụ thể cho từng năm, từng gia đoạn phù hợp với đặc

điểm, tình hình của địa phương.

Tiếp theo đó, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội

theo thông báo tại công văn số 09/VP-NC ngày 04/01/2016 của Văn phòng UBND

Thành phố giao cho Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng

Đề án “Đào nguồn nhân lực chất lượng cao Thành phố giai đoạn 2016 - 2020” và các

văn bản: Công văn số 827/UBND-NC ngày 16/02/2016 của UBND Thành phố về

việc triển khai Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016

- 2025; Thực hiện Thông báo sô 467/TB-ƯBND ngày 06/12/2016 của UBND Thành

phố thông báo kết luận tại phiên họp tập thể UBND Thành phố về nội dung “Đề án

nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành

phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020”.

Năm 2017, Thành phố đã ban hành chỉ thị về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cho cấp xã trên toàn thành phố nhằm nâng cao năng lực thực hiện công

vụ cho đội ngũ này. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã đã được Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện các các văn bản của Thành

phố về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, Ủy ban

nhân dân Huyện Ba Vì đã xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện chính sách đào tạo,

48

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện.

Trong các văn bản nêu trên của Thành phố đều có kế hoạch tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cho từng khu vực;

trong đó có huyện Ba Vì. Trên cơ sở chỉ đạo của Thành phố Hà Nội huyện Ba Vì

đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức và triển khai tới các xã trong huyện.

Đây là hệ điều kiện giúp cấp uỷ, chính quyền cấp xã của huyện Ba Vì xây

dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ

tiêu chuẩn theo quy định, và đủ trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ công vụ.

Sau khi khảo sát 300 cán bộ, công chức cấp xã, kết quả cho thấy 100%

cấp uỷ, chính quyền cấp xã hàng năm có xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức. Song, trong quá trình xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã còn để xảy ra việc xây

dựng kế hoạch một cách hình thức, thiếu khoa học, chưa hợp lý; phân công phối

hợp còn chung chung, chưa thực sự rõ ràng, đôi khi còn chồng chéo, không rõ

trách nhiệm của tập thể, cá nhân làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách

2.2.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã.

Sau khi lập kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, các cấp uỷ,

chính quyền của huyện Ba Vì tập trung làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền

chính sách để chính sách được phổ biến một cách rộng rãi nhất, các cơ quan, đơn

vị, cá nhân dễ dàng tiếp cận. Để thực hiện phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện

đã chỉ đạo Ban tổ chức Huyện uỷ chủ trì phối hợp với Phòng Văn hoá thông tin;

Phòng nội vụ; Đài truyền thanh huyện; cấp uỷ, chính quyền các xã, thị trấn tổ

chức thông tin, phổ biến, tuyên truyền, theo dõi với các nhiệm vụ cụ thể.Cấp uỷ,

chính quyền đã chỉ đạo tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: thực hiện thông

qua việc đăng tải trên hệ thống cổng thông tin điện tử của huyện, đài phát thanh

của huyện, đài phát thanh của các xã thực hiện tiếp âm; Phổ biến, tuyên truyền

49

thông qua các hội nghị để triển khai, quán triệt tới đảng viên, cán bộ, công chức

trong hệ thống chính trị….; ngoài ra, còn giao cho các tổ chức đoàn thể chính trị

xã hội như Hội phụ nữ; Hội nông dân; Đoàn thanh niên các cấp... tổ chức các hội

nghị để quán triệt, triển khai cho đoàn viên, hội viên nắm được chính sách về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát 300 cán bộ, công chức cấp xã cho thấy

rằng 100% cán bộ, công chức cấp xã đều nắm được chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ cấp xã. Có 97% cán bộ, công chức cấp xã nắm được chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức là do cấp uỷ, chính quyền cấp xã triển khai, 03% cán bộ,

công chức cấp xã nắm được qua các kênh thông tin khác. Đồng thời qua điều tra,

khảo sát cho thấy số cán bộ, công chức đánh giá công tác phổ biến, tuyên truyền

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở mức “Rất tốt”; là 91 người, chiếm

30,3%; số cán bộ, công chức đánh giá ở mức “Tốt” là 199 người, chiếm 66,3 %; số

cán bộ, công chức đánh giá ở mức “Bình thường” là 10 người, chiếm 3,33%; không

có cán bộ, công chức nào đánh giá ở mức “Chưa đạt”.

Nhìn chung, cấp uỷ, chính quyền các cấp của huyện Ba Vì đã quan tâm,

chú trọng công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã và yêu cầu thực hiện với các hình thức tuyên truyền khác nhau,

đảm bảo quán triệt, triển khai đầy đủ tới đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó

vẫn còn một số hạn chế trong việc phổ biến, tuyên truyền tại một số xã như triển

khai còn hình thức, đưa tin chưa cụ thể, rõ ràng hoặc đưa tin mang tính chất lồng

ghép nhiều nội dung dẫn đến các đối tượng có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng không

nắm được chính sách, không biết mình có phải đối tượng thụ hưởng chính sách hay

không…

2.2.3. Thực trạng phân công, phối hợp tổ chức thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Huyện Ba Vì được thực hiện một cách tương đối tốt việc phân công, phối

hợp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Ban Tổ chức Huyện uỷ chủ trì phối hợp với Phòng Nội vụ huyện đã tham mưu

50

cho Huyện uỷ, UBND huyện xây dựng kế hoạch, thông báo chiêu sinh tới các xã

trên địa bàn huyện. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tiếp nhận hồ sơ tuyển sinh, lập

danh sách cán bộ, công chức đủ tiêu chuẩn báo cáo với cấp có thẩm quyền cử

cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng. Phân công cán bộ trực tiếp theo dõi công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trực tiếp liên hệ, phối hợp chặt chẽ với các cơ

sở đào tạo, bồi dưỡng của Thành phố như Trường đào tạo Cán bộ Lê Hồng

Phong, Trung tâm chính trị huyện theo dõi số lượng, tình hình học tập, việc chấp

hành nội quy, quy chế đào tạo, bồi dưỡng của các học viên. Kịp thời phối hợp

với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc

phát sinh trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng; nhất là cho một số đối tượng là

người dân tộc thiểu số.

Phòng Nội vụ huyện được giao nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp kết quả đào

tạo, bồi dưỡng, định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện, Sở Nội vụ. Thường

xuyên cập nhật văn bằng, chứng chỉ vào hồ sơ quản lý sau khi cán bộ, công chức

hoàn thành các lớp đào tạo, bồi dưỡng; chủ động tham mưu cho Uỷ ban nhân

dân huyện thành lập các hội đồng xét chuyển ngạch lương cho cán bộ, công

chức, đảm bảo quyền lợi cho họ sau khi tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng.

Thực hiện các quy định, hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân thành phố, Sở

tài chính thì phòng Tài chính kế hoạch huyện có hướng dẫn việc sử dụng kinh

phí đào tạo, bồi dưỡng cho cấp uỷ, chính quyền và cán bộ, công chức được cử đi

đào tạo, bồi dưỡng nhằm hỗ trợ kinh phí kịp thời cho cán bộ, công chức.

Đảng uỷ, chính quyền cấp xã có trách nhiệm rà soát, lựa chọn đúng đối

tượng để cử đi đào tạo, bồi dưỡng; kịp thời báo cáo kết quả cử cán bộ, công chức

đi đào tạo, bồi dưỡng với Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ để theo dõi. Chủ động

phối hợp chặt chẽ với thành phố và cấp huyện để kiểm tra, giám sát việc học tập

của cán bộ, công chức; giải quyết các vướng mắc phát sinh. Chủ động tìm các

nguồn lực, tạo điều kiện hỗ trợ cán bộ, công chức tham gia quá trình đào tạo,

bồi dưỡng.

Qua điều tra, khảo sát thực tế, số cán bộ, công chức đánh giá công tác

51

phân công, phối hợp trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng của cấp

uỷ, chính quyền cấp xã ở mức “Rất tốt” là 56 người, chiếm 18,6%; mức “Tốt” là

206 người, chiếm 68,6%; mức “Bình thường” là 34 người, chiếm 11,3%; mức

“Chưa đạt” là 04 người, chiếm 1,33%

Như vậy, tại huyện Ba Vì trong kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đều có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp tổ

chức thực hiện; trong đó gắn trách nhiệm chủ trì và trách nhiệm phối hợp thực

hiện giữa các cơ quan, đơn vị.

2.2.4. Thực trạng duy trì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã.

Trong môi trường thực tế của huyện Ba Vì, chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã được duy trì, thực hiện thường xuyên và phát huy tác

dụng rõ nét. Hằng năm, theo chương trình, kế hoạch thành phố và huyện thực

hiện chiêu sinh hai lần vào tháng 3 và tháng 8; do vậy, chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức cấp xã ngày càng được nâng lên qua các năm; thực hiện công vụ

một cách có hiệu quả, góp phần cải cách thủ tục hành chính và thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội của huyện. Các địa phương nghiêm chỉnh đánh giá kết quả

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để xác định những

yếu tố ảnh hưởng đến chính sách, trên cơ sở đó kịp thời phản ánh, đề xuất giải

pháp thực hiện chính sách một cách hiệu quả.

Ngoài ra, các xã cũng tiến hành rà soát việc phân bổ các nguồn lực để bảo đảm

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được duy trì hiệu quả và đảm

bảo kế hoạch, lộ trình thời gian mà chính sách đề ra.

Qua khảo sát tình hình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã, có thể thấy rằng việc duy trì thực hiện chính sách được chính

quyền cấp huyện và cấp xã thường xuyên quan tâm; không để gián đoạn thực

hiện chính sách này. Ngoài ra, để cán bộ, công chức có đủ tiêu chuẩn theo quy

định các cấp uỷ, chính quyền còn cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở

52

ngoài huyện hoặc ngoài thành phố khi cán bộ, công chức có nhu cầu và thực tiễn

công tác thực hiện công vụ cần thiết như các chuyên ngành các cơ sở đào tạo ở

Hà Nội không có hoặc ít đào tạo ngắn hạn.

2.2.5. Thực trạng điều chỉnh giải pháp thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại

huyện Ba Vì thời gian qua cho thấy một số giải pháp thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức công chức cấp xã trong những năm qua còn có

những hạn chế, bất cập. Sự hạn chế, bất cập này thể hiện ở chỗ lựa chọn các

chuyên ngành đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã chưa phù hợp

thực tế với mọi vùng ngay cả Ba Vì là huyện thuộc Thủ đô Hà Nội. Có cán bộ,

công chức được cử đi đào tạo nhưng không phù hợp với chức danh, nên khi

tuyển dụng lại hoặc luân chuyển công tác gặp một số khó khăn, bất cập nhất

định. Một mặt do tính chất phức tạp của vấn đề quản lý xã hội ở cơ sở, mặt khác

do một số nội dung của chính sách chưa cụ thể và chưa sát thực tế, như quy định

yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo tiêu chuẩn chức danh nghề

nghiệp trong khi các cơ sở đào tạo bồi dưỡng trên cùng địa bàn không đáp ứng

được. Trên cơ sở đó trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các phòng,

ban liên quan đã kịp thời kiến nghị, đề xuất với UBND Thành phố điều chỉnh

giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; đặc biệt là điều chỉnh các

chuyên ngành đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa

phương huyện Ba Vì vừa có đô thị, vừa có nông thôn và miền núi. Từ đó, chính

quyền địa phương cũng chủ động rà soát, điều chỉnh một số giải pháp thực hiện

chính sách cho phù hợp với cơ sở; điều chỉnh việc lựa chọn các chuyên ngành,

trình độ cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng theo hướng đảm bảo lợi ích cho cán bộ,

công chức cấp xã. Trên cơ sở những hạn chế, bất cấp trong thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng, Uỷ ban nhân dân huyện đã kịp thời điều chỉnh nội dung, giải

pháp, xây dựng một số cơ chế của chính sách đặc thù của huyện. Trên cơ sở đó,

53

chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã hướng tới những chuyên ngành cần thiết, phù

hợp với yêu cầu tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cấp xã theo quy định

của pháp luật; các nội dung đào tạo đã được điều chỉnh với nhu cầu thực tế.

Đồng thời điều chỉnh mức hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn.

Có thể nói, các giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của thành phố Hà Nội nói chung và huyện Ba Vì nói riêng đã

có sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đảm bảo quyền

và lợi ích của các đối tượng thụ hưởng chính sách. Tuy nhiên việc điều chỉnh

này còn chậm và đôi khi chưa được quan tâm đúng mức.

2.2.6. Thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

trên địa bàn huyện Ba Vì được theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên và kịp

thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách; đồng thời đổi mới công tác tổ

chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục

tiêu chính sách. Muốn làm tốt công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thì phải hiểu rõ mục tiêu của

chính sách, đối tượng thụ hưởng, các quy định trong kế hoạch thực hiện chính

sách và các quy chế, giải pháp thực hiện chính sách.

Thực tế, tại huyện Ba Vì, Ban Tổ chức Huyện ủy chủ trì phối hợp với

Phòng Nội vụ huyện xây dựng kế hoạch tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đối với các xã; thành lập các

Đoàn kiểm tra với nội dung kiểm tra tập trung vào việc xây dựng kế hoạch; triển

khai thực hiện kế hoạch, duy trì thực hiện chính sách; rà soát tiêu chuẩn đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã…từ đó chỉ ra các nội dung đã đạt được, những hạn chế

cần khắc phục trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức của địa phương. Ngoài ra, Ban Tổ chức Huyện uỷ cử cán bộ phối hợp với

các cơ sở đào tạo trong thành phố theo dõi, kiểm tra quá trình học tập của các

54

học viên, kịp thời thông báo bằng văn bản về cấp uỷ, chính quyền địa phương

nơi cử cán bộ, công chức đi đào tạo những trường hợp vi phạm quy chế, quy

định trong đào tạo, những trường hợp bị xoá tên, bỏ học, xin nghỉ, xin bảo lưu…

Huyện Ba Vì đã được duy trì khá tốt công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Định kỳ sơ,

tổng kết, kịp thời chỉ ra những ưu điểm, hạn chế đối với các chủ thể tham gia

thực hiện chính sách, đồng thời nghiêm khắc phê bình, nhắc nhở, xem xét xử lý

đối với các chủ thể tham gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng để xảy ra vi

phạm. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vi phạm trong tổ chức

thực hiện chính sách có lúc còn chậm, chưa kịp thời nên có ảnh hưởng nhất định

đến hiệu quả thực hiện chính sách.

2.2.7. Thực trạng đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Trong chu trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã thì bước đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách

cũng là bước quan trọng và cũng là bước cuối cùng của chu trình.

Sau một thời gian triển khai Đề án thí điểm đào tạo 1000 công chức nguồn

làm việc tại xã, phường, thị trấn giai đoạn 2012-2015 của Thành phố và Đề án

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020 của UBND thành phố Hà Nội, các cơ

quan chủ trì thực hiện chính sách ở huyện Ba Vì đã chỉ đạo các xã, phường, thị

trấn tiến hành tổng kết đánh giá từng giai đoạn thực hiện đề án. Việc tổng kết,

đánh giá hàng năm đã được các cấp từ huyện đến cơ sở thực hiện một cách

nghiêm túc, hiệu quả. Có thể nói đây là công tác tổng kết thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã theo từng giai đoạn và ở từng khu

vực của huyện với sự chỉ đạo của Huyện ủy và UBND huyện và sự phối hợp của

các ngành, tổ chức chính trị xã hội tại địa phương.

Định kỳ, khi tổ chức các hội nghị tổng kết năm, triển khai thực hiện các

nhiệm vụ chính trị của địa phương, các xã đồng thời tổ chức lồng ghép đánh giá

55

việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; có thể kể

đến một số hội nghị như: Hội nghị tổng kết công tác Đảng; Hội nghị cán bộ,

công chức; Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng; Hội nghị tổng kết

công tác đào tạo, bồi dưỡng…. Trong các hội nghị này, những vấn đề liên quan

đến thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được đưa

ra đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm nhằm thực hiện chính sách này hiệu quả

hơn trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, tại huyện Ba Vì việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có địa phương thực

hiện chưa được nền nếp, còn hình thức, chưa sâu, chưa đánh giá được hiệu quả

và hiệu lực của thực hiện chính sách này một cách đầy đủ, khoa học.

Bảng 2.6. Mức độ đánh giá về tính thiết thực của tổng kết đánh giá thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Số ý kiến điều tra Tỷ lệ (%) Mức độ

Rất thiết thực 18 5,14

Khá thiết thực 138 39,43

Ít thiết thực 167 47,72

Không thiết thực 27 7,71

Tổng số 350 100

Nguồn: Số liệu điều tra

2.3. Đánh giá chung

a. Ưu điểm

- Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Ba vì luôn coi thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là việc làm thường xuyên của công

tác cán bộ và là một nội dung quan trọng trong chương trình cải cách hành chính

nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, Huyện uỷ, Uỷ ban

nhân dân huyện đã quan tâm, chỉ đạo việc triển khai thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, chỉ tiêu được giao; cấp uỷ, chính quyền xã đã có

56

cơ chế, chế độ hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp xã tích cực tham

gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng một cách hiệu quả. Trong giai đoạn từ năm

2016-2019 huyện Ba vì đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng được một số lượng lớn

cán bộ, công chức cấp xã. Cụ thể đã đào tạo, bồi dưỡng 2.165 lượt cán bộ, công

chức cấp xã. Đây là kết quả của quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba vì.

- Trong việc triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã, cấp uỷ, chính quyền, tập thể lãnh đạo các địa phương, cơ

quan, đơn vị đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng có tính quyết định đến việc thực hiện

thành công mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của

huyện Ba vì.

- Trong tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã nhìn chung đã thực hiện được các bước và bảo đảm cơ bản các yêu cầu trong

tổ chức thực hiện chính sách. Các giải pháp phù hợp đã được các chủ thể tham gia

thực hiện chính sách chủ động lựa chọn và huy động các nguồn lực, có cả những

nguồn lực xã hội hóa vào tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức. Chính vì vậy, tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm qua đã đạt được những kết quả

nhất định, đã làm thay đổi chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã một cách

căn bản…

- Nội dung, chương trình đào tạo từng bước được đổi mới, hình thức đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức đa dạng, phong phú, kết hợp đào tạo tập trung với mở

rộng các hình thức đào tạo khác. Kết hợp giữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong

nhà trường với rèn luyện trong thực tiễn và bố trí sử dụng cán bộ.

- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ được

tăng cường, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy và học tập được hiện

đại hóa một bước. Các trường của thành phố đã chú trọng việc xây dựng đội ngũ

giảng viên cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng, quan tâm đến việc phát triển đội

ngũ giảng viên trẻ, chú trọng xây dựng cả phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực

57

chuyên môn và phương pháp dạy học cho giảng viên.

b. Hạn chế, bất cập

- Một số ít cấp ủy, chính quyền cấp xã chưa chú trọng đúng mức đến việc

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cán bộ kế cận; chưa

thường xuyên rà soát, quy hoạch cán bộ, bổ sung kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ; chưa gắn đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán bộ. Một số cán bộ

sau khi ra trường trở về địa phương chưa được bố trí công tác hoặc có bố trí

nhưng công việc chưa phù hợp với chuyên môn được đào tạo, gây lãng phí trong

đào tạo.

- Một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã do chưa nhận thức đúng tầm quan

trọng của việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn, còn lấy kinh nghiệm để làm việc, vì vậy động cơ, mục đích, thái độ đi đào

tạo, bồi dưỡng chưa đúng, chưa tích cực, không có động lực phấn đấu. Chưa coi

việc đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, là nghĩa vụ và

quyền lợi mà lại xem đó là "bắt phải đi học", do đó coi mục đích đào tạo là có đủ

bằng cấp, chứng chỉ để hoàn thành tiêu chuẩn chức danh, được xếp lương, nâng

ngạch...

- Một số ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với tiêu chuẩn chức danh cán

bộ, công chức cấp xã. Nội dung một số chương trình, phương pháp đào tạo có

lĩnh vực còn chưa phù hợp, chưa sát với đối tượng, nặng về lý thuyết, hạn chế kỹ

năng thực hành; chất lượng đào tạo chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Một bộ

phận giáo viên còn hạn chế kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn. Trang thiết bị, cơ

sở vật chất phục vụ việc dạy và học đã xuống cấp, còn nhiều khó khăn. Sự phối

kết hợp giữa các chủ thể tham gia thực hiện chính sách nhất là cơ sở đào tạo với các

địa phương trong việc chọn cử cán bộ đi đào tạo chưa thường xuyên; sơ kết, tổng

kết các chương trình, khóa đào tạo chưa chặt chẽ. Việc phân bổ, quản lý kinh phí đào

tạo theo kiểu xin cho; có đơn vị thực hiện chưa đúng quy định, để xảy ra sai phạm.

- Việc thực hiện đúng quy định của chính sách trong đó có đối tượng cán bộ đi

đào tạo, bồi dưỡng còn có nhiều trường hợp chưa theo quy hoạch, yêu cầu và nhiệm vụ

của địa phương, còn chạy theo số lượng. Việc theo dõi, quản lý cán bộ được cử đi đào

58

tạo, bồi dưỡng của huyện ủy, uỷ ban nhân dân huyện có lúc, có việc chưa chặt chẽ;

thông tin hai chiều giữa cấp ủy, chính quyền với nhà trường chưa thường xuyên; chưa

quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ dự nguồn sau đào tạo. Số lượng cán bộ cử đi đào tạo,

bồi dưỡng không đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu đề ra.

- Trong giai đoạn hiện nay Nhà nước ban hành chính sách sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức thể hiện ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, có sự

chồng chéo về nội dung. Cho nên việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã còn bộc lộ một số điểm chưa phù hợp như: tạo sức ì cho cán

bộ cơ sở vì có sự bao cấp của Nhà nước, cán bộ được đào tạo theo đề án nhưng

không phù hợp với công việc, một số ít cán bộ chưa được xếp lương theo bằng cấp

đã được đào tạo, gây lãng phí trong đào tạo.

c. Nguyên nhân của các hạn chế, bất cập

* Nguyên nhân khách quan

- Nhận thức của cán bộ công chức về mục tiêu của chính sách còn hạn

chế. Cán bộ chủ yếu vừa học vừa làm nên thời gian tập trung dành cho việc học

tập và nghiên cứu không nhiều nên thái độ thực hiện chính sách chưa cao. Mặt

khác chất lượng cán bộ được cử đi học đa số có trình độ giáo dục phổ thông,

chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị còn thấp nên nhận thức về hưởng thụ từ

chính sách này rất hạn chế và là nguyên nhân hưởng không nhỏ trong quá trình

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng này.

- Khi thực hiện Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ một số công

chức cấp xã có trình độ chuyên môn trung cấp đã được bố trí phù hợp với vị trí

công tác nên có tư tưởng thỏa mãn không muốn học tiếp để nâng cao trình độ;

một số người học xong cao đẳng, đại học khi bố trí công tác không đúng chuyên

môn lại quay lại tiếp tục học trung cấp dẫn đến làm giảm hiệu lực, hiệu quả của

chính sách này.

- Cấp xã có đặc thù riêng, khó khăn hơn so với các cấp khác trong công

tác bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ: chủ yếu cán bộ trưởng thành từ cơ sở thôn,

xóm, do nhân dân bầu, việc luân chuyển, sắp xếp cán bộ sang ngang hay lên cấp

59

huyện là rất khó... Do đó một số cán bộ dự nguồn sau khi đã được đào tạo xong

nhưng chưa được bố trí công tác, phải chờ đợi lâu nên bỏ việc, gây lãng phí

trong đào tạo dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách có nơi còn thấp.

* Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức về vai trò và mục tiêu của chính sách đào tạo, bồi dưỡng của

một số cấp uỷ đảng, chính quyền chưa đúng mức; còn có quan niệm cán bộ,

công chức cấp xã đã được bầu, bổ nhiệm, tuyển dụng rồi thì chỉ cần trình độ

chuyên môn và lý luận chính trị trung cấp là đủ điều kiện công tác ở mọi vị trí

của cấp xã, không cần đào tạo, bồi dưỡng cao hơn. Từ đó, cấp ủy, chính quyền

thiếu sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ

kế cận, trong nguồn quy hoạch nên kết quả thực hiện chính sách còn hạn chế

- Công tác xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ ở các địa phương chưa sát. Việc phổ biến, tuyên truyền, vận động thực hiện

chính sách có lúc còn hình thức, chưa thực chất. Công tác đôn đốc, kiểm tra còn

thiếu quyết liệt, việc xử lý những đơn vị không đạt chỉ tiêu được giao chưa

nghiêm, chưa tạo được tính chủ động, tự giác.

- Việc lựa chọn cử cán bộ dự nguồn cán bộ, công chức cấp xã đi đào tạo

chưa chặt chẽ; cơ sở đào tạo và địa phương cử cán bộ đi học còn chạy theo số

lượng, sở thích của cán bộ, chưa gắn kế hoạch đào tạo, chọn cử cán bộ đi học với

quy hoạch và yêu cầu bố trí, sử dụng cán bộ.

- Chất lượng đầu vào của học viên còn thấp (do tuổi tác, trình độ văn hoá

hạn chế); trong quá trình học tập, học viên vừa học, vừa làm nên kết quả học tập

chưa cao; vẫn còn một số học viên chưa chấp hành đúng nội quy, quy định của

các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.

- Đôi lúc sự thông tin hai chiều, việc phối hợp giữa Huyện ủy, Ủy ban

nhân dân huyện và cơ sở đào tạo chưa thật sự nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả

chưa cao; việc tham mưu đề xuất, tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện

chính sách chưa kịp thời, đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, công

chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng.

- Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có lúc chưa căn cứ vào nhu cầu thực tiễn

60

của người học, của xã hội còn nặng về chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng, chưa năng

động, tích cực, chủ động trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng

như mở rộng ngành nghề cho phù hợp với các chức danh cán bộ, công chức; có

ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với đối tượng.

- Việc phối hợp giữa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với cơ quan chủ trì thực

hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong công tác quản

lý chỉ tiêu phân bổ, kế hoạch đào tạo, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nội dung

chương trình, đầu vào, đầu ra của cán bộ, công chức cấp xã thiếu chặt chẽ dẫn

đến việc quản lý, theo dõi số lượng cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng

chưa được thống nhất cao; số lượng đào tạo, bồi dưỡng khi tổng kết thống kê còn

chênh lệch giữa cấp huyện và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.

Tiểu kết chương 2

Trong chương này, tác giả giới thiệu các đặc điểm chủ yếu của huyện Ba

Vì, thành phố Hà Nội, phân tích thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của huyện Ba Vì. Trên cơ sở đó tập trung tìm hiểu về thực

trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của

huyện Ba Vì từ khâu xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đến

đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, phân tích kết quả thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Từ đó, đưa ra những nhận định, đánh

giá các yêu cầu trong tổ chức thực hiện; các chủ thể tham gia thực hiện; chỉ ra

những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì. Những phân tích đánh giá trên sẽ là

cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Ba Vì; góp phần vào việc

61

thực hiện mục tiêu chính sách này trên toàn thành phố Hà Nội và cả nước.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phương hướng

a) Yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức,

3.1.1. Sự cần thiết

hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa nền hành chính đòi hỏi phải có đội

ngũ cán bộ, công chức hành chính chuyên nghiệp, có tri thức và năng lực quản lý

nhà nước về pháp luật, hành chính, xã hội, kinh tế thị trường, kỹ năng thực thi

công vụ, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ nhân dân; cần có đội ngũ viên

chức có đạo đức nghề nghiệp, trình độ, năng lực chuyên môn cao đáp ứng yêu

cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công; chú trọng đến khu vực

cấp cơ sở.

Nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, mọi vấn đề đặt ra đều mang tính toàn cầu,

đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải có bản lĩnh chính trị vững

vàng, có trình độ, năng lực, chủ động, sáng tạo, nhạy bén với sự thay đổi; nắm

vững những kiến thức, thành tựu và kinh nghiệm của các nước tiên tiến và biết

vận dụng phù hợp, có hiệu quả vào điều kiện cụ thể của Thành phố; đội ngũ cán

bộ công chức của Thành phố cần thiết phải có sự nhận thức chung, thống nhất để

b) Những bất cập của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là cán

cùng đồng hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Thủ đô.

bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Mặc dù được Đảng, Nhà nước và Thành phố quan tâm, đưa ra những chủ

trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức nhưng hiện nay hoạt động này vẫn còn một số hạn ché,

62

nhược điểm cần được khắc phục.

Một là, công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Hai là, hệ thống chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng mới được xây

dựng, ban hành đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên một số nội dung đào tạo, bồi

dưỡng chưa phù họp, chưa gắn với thực tế yêu cầu công việc nên hiệu quả đào

tạo, bồi dưỡng chưa cao; chưa có nhiều chương trình đào tạo tổng hợp, tiên tiến,

chất lượng.

Ba là, đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức trong nước thường xuyên được tập huấn, cập nhật nâng cao trình

độ nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn; tỷ lệ giảng viên thỉnh giảng còn thấp.

Bốn là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước

ngoài đạt tỷ lệ thấp so với Kế hoạch, một số lớp chất lượng chưa cao, còn manh

mún, ứng dụng kết quả đào tạo vào thực tiễn của Thành phố còn hạn chế.

Năm là, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, công chức, viên

chức đã bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán

c) Yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức.

bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Ngày 18/10/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số

1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.

Mục tiêu của Đề án là xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm,

năng động, minh bạch, hiệu quả. Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trước hết

phải có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, hiện đại. Việc đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao, chẩt lượng cao cần đi trước một bước. Đại hội đại biểu

lần thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội đã xác định: “Đẩy mạnh phát triển kinh

tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với cơ cấu lại kinh tế Thủ đô bảo

đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 8,5%

đến 9%”.

63

3.1.2. Cơ sở chính trị - pháp lý về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

a) Quan điểm chỉ đạo và các Nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; trong đó có đội ngũ cán bộ công chức

cấp xã.

l) Hội nghị lần thứ 3 (khóa VIII), Trung ương Đảng đã ban hành Nghị

quyết về Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đã

chỉ rõ “Mỗi cán bộ, công chức cần phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng

cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi

dưỡng đạo đức cách mạng”.

2) Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành chính,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của của bộ máy nhả nước, trong đó về đổi

mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đã chỉ rõ: “Đổi mới phương

thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với

thực tế hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng

cao kỹ năng hành chính.

3) Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp

tục đẩy mạnh Chiến lược cán bộ đến năm 2020 đã xác định: “Mục tiêu cần đạt

được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và

năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xấ hội và bảo

vệ Tổ quốc...”. Để đạt được mục tiêu đề ra, Hội nghị đã đưa ra nhiệm vụ và giải

pháp đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là phải “Tạo chuyển biến sâu sắc

trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, tiêu chuẩn chức danh

cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo quản

lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ

trong giai đoạn mới... Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế”.

4) Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương lần thứ

64

8 Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đảo tạo, đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tể, đã chỉ ra nhiệm vụ cấp bách: “Tiếp tục đổi

mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi

trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”.

5) Nghị quyết Đại hội lần thử XII của Đảng, trong Mục tiêu, nhiệm vụ tổng

quát phát triển đất nước 5 năm, giai đoạn 2016 - 2020 có viết: “Thực hiện đồng

bộ các cơ chể, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn

nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xấ hội”.

6) Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương

b) Các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ công chức; trong đó có đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp

xã và các văn bản của thành phố về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức

l) Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015.

2) Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008; Nghị định 18/2010/NĐ-CP

ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Thông tư số

03/2011/TT-BNV ngày 25/01/2011 của Bộ Nội vụ, hướng dẫn thực hiện một

số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP.

hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020.

3) Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong

nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.

4) Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016

-2025;

5) Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ hướng

dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng

65

Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; trong đó Sở Nội vụ có chức năng,

nhiệm vụ tham mưu giúp UBND Thành phố quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức, cán bộ, công chức cấp xã (nguồn nhân lực trong khu vực

công).

6) Nghị định 101/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 9 năm 2017 về

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

7) Các Nghị quyết, Quyết định của HĐND, UBND Thành phố về đào tạo,

bồi dưỡng nguồn nhân lực:

- Nghị quyết 14/2013/NQ-HĐND ngày 17/7/2013 của Hội đồng nhân dân

Thành phố về chính sách trọng dụng nhân tài trong xây dựng, phát triển Thủ đô;

- Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khoá XVII, nhiệm kỳ

2015-2020 đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp là tập trung chỉ đạo làm tốt công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ. Phải căn cứ vào yêu cầu công việc, vị trí công tác để sắp

xếp, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảm bảo tính kế thừa, từng bước trẻ hoá đội

ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Quyết định số 7363/QĐ-UBND của ngày 31/12/2016 của UBND Thành

phố ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dường cán bộ, công chức, viên chức năm

2017;

+ Đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự cấp xã khóa 2015 - 2017;

+ Đào tạo Trưởng công an xã theo Quyết định số 4793/QĐ-UBND ngày

23/9/2015 của UBND Thành phố về việc đào tạo lớp trung cấp Trưởng công an

xã khóa V (2015 -2017);

+ Đào tạo nguồn công chức cấp xã khóa III và Khóa IV (2014 - 2018).

3.1.3. Kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian vừa qua tại huyện Ba Vì

Trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm gần, UBND huyện là cơ quan chủ trì

thực hiện chính sách này đã phối hợp với các ngành, tổ chức trong huyện,

UBND cấp xã tổng kết đánh giá công tác tổ chức thực hiện chính sách đào tạo

66

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong từng giai đoạn. Kết quả thực hiện

chính sách trên đã nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của địa

phương; góp phần thực hiện công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của huyện

trong những năm qua. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại Ba Vì vẫn còn một số bất cập. Thành

công và bất cập trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã của thời gian trước đây là bài học kinh nghiệm thực tiễn để xây

dựng những giải pháp thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã trên địa bàn huyện Ba Vì trong những năm sắp tới để nâng cao năng lực

thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện và Thành phố Hà Nội trong giai

đoạn mới.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

3.2.1. Đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về ý nghĩa, tầm

quan trọng của tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã

Từ thực tiễn triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã trong những năm qua của thành phố Hà Nội nói chung và

huyện Ba Vì nói riêng cho thấy có nhiều nguyên nhân của những hạn chế, bất

cấp trong tổ chức thực hiện chính sách dẫn đến không đảm bảo thực hiện mục

tiêu chính sách; song có một trong những lý do chính là nhận thức của lãnh đạo,

nhất là của những người có thẩm quyền, có trách nhiệm trong thực hiện chính

sách chưa thực sự sâu sắc và đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực

hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Qua quá trình thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức

nói chung, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói

riêng thời gian qua cho thấy tầm quan trọng của khâu tổ chức thực hiện chính

sách trong quy trình chính sách. Khẳng định rõ tầm quan trọng tất yếu khách

67

quan và vai trò quyết định của tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã trong bảo đảm thực hiện thành công mục tiêu chính

sách. Do đó, để nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thì cần phải đổi mới nhận thức của đội ngũ cán

bộ, công chức thực thi công vụ cũng như đối tượng cán bộ, công chức cấp xã

được hưởng thụ chính sách về ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực hiện

chính sách. Việc đổi mới, nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức

thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phải được thể

hiện rõ ở việc thái độ và hành động của cán bộ, công chức trong lập kế hoạch

thực hiện, xác định đúng mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và các phương pháp, giải

pháp trong tổ chức thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, phải tuân thủ, thực hiện

đúng và đầy đủ nội dung, nhiệm vụ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện

chính sách. Phải bảo đảm thực hiện đúng các yêu cầu và lựa chọn hợp lý các

phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với thực tiễn của từng địa

phương và từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau của địa phương

và đất nước.

Để mục tiêu của chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

trở thành hiện thực thì cần phải đổi mới nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ ý

nghĩa, tầm quan trọng và vai trò quyết định của tổ chức thực hiện chính sách; tạo

sự chuyển biến và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng,

góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chuyên nghiệp có trình độ,

năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu công việc và cung

cấp đầy đủ các dịch vụ công phục vụ nhân dân ở cơ sở; góp phần vào sự nghiệp

xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của huyện và thành phố Hà Nội.

3.2.2. Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã

- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Đảng và Nhà nước, của thành phố Hà

Nội để thực hiện tốt các quy trình về công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm đúng

nguyên tắc, phương châm và yêu cầu về quy hoạch cán bộ trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; làm tốt việc đánh giá cán bộ trước

68

khi xây dựng quy hoạch và rà soát, bổ sung quy hoạch hằng năm; việc giới thiệu

nguồn quy hoạch phải thực hiện rộng rãi, dân chủ, công khai ở các ngành, địa

phương. Điều này làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện. Công tác quy hoạch cán

bộ cấp xã cần được sự phối hợp của các cơ quan có liên quan ở xã, thị trấn, các

đoàn thể chính trị xã hội để đảm bảo tính minh bạch, công khai và dân chủ. Xây

dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

ở huyện sẽ được khoa học, sát với thực tiễn tình hình cán bộ, công chức ở từng

xã nếu công tác quy hoạch được đổi mới với những nội dung sau:

- Trên cơ sở xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã đã được cấp có

thẩm quyền phê duyệt, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng địa phương,

từng ngành và thực trạng cán bộ hiện nay, định kỳ hằng năm các cơ quan, đơn vị

được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

xã phải rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã đã được phê duyệt

trước khi xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã để vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trước mắt, vừa chuẩn bị đội ngũ

cán bộ cho giai đoạn tiếp theo của từng địa phương.

- Công tác kiểm tra, rà soát, bổ sung quy hoạch, các cấp uỷ, UBND xã kết

hợp với các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương đánh giá, phân tích chất lượng

đảng viên với nhận xét, đánh giá, phân loại để xem xét, rà soát đưa ra khỏi quy

hoạch những cán bộ không có có tư tưởng thỏa mãn, thiếu ý thức phấn đấu trong

công tác và học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, mất uy tín trong Đảng, trong

đơn vị và nhân dân; đồng thời bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có

triển vọng trong kế hoạch đào tạo bồi dưỡng.

- Tập trung nâng cao chất lượng cán bộ trong quy hoạch và các chức danh

lãnh đạo, quản lý ở cấp xã. Khi lựa chọn cán bộ, công chức đưa vào quy hoạch

cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ lý luận chính trị,

chuyên môn đã được đào tạo và độ tuổi theo quy định, đảm bảo tính kế thừa, có

69

sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ; phấn đấu đạt hệ số quy hoạch, cơ cấu độ

tuổi, tỉ lệ theo quy định; thực hiện đảm bảo việc công khai thông báo đến tổ chức

đảng, đơn vị quản lý cán bộ và người được quy hoạch biết.

- Người được đưa vào quy hoạch phải đảm bảo các tiêu chí về phẩm chất

chính trị, trình độ chuyên môn, đạo đức lối sống, triển vọng phát triển theo quy

định và phù hợp với yêu cầu thực tế của địa phương; không quy hoạch một cán

bộ quá nhiều chức danh hoặc một chức danh quá nhiều người; kiên quyết không

quy hoạch cán bộ chưa đạt chuẩn về trình độ học vấn; đối với cán bộ lãnh đạo,

quản lý không cơ cấu lại trong quy hoạch giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ bổ nhiệm

(10 năm).

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết

Thành ủy khóa XVI về công tác cán bộ. Đưa ra các giải pháp khắc phục yếu

kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ; làm tốt công tác nhận xét, đánh giá,

quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, sử dụng cán bộ, nhất là người dân

tộc thiểu số nhằm đảm bảo cơ cấu hợp lý ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Với

đặc thù Ba Vì là huyện có xã miền núi và có đồng bào dân tộc thiểu số, do đó,

việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đảm bảo tính kế thừa,

liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong

từng giai đoạn, cấp uỷ cơ sở phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng cán

bộ người dân tộc thiểu số một cách hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của

từng cơ quan, đơn vị, địa phương; từ đó nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý đội

ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. Lãnh đạo huyện, trước hết là

Ban Thường vụ Huyện uỷ phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, chú ý kiểm tra

các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải

pháp Nghị quyết đề ra đối với công tác cán bộ người dân tộc thiểu số; mạnh dạn

lựa chọn, sử dụng những cán bộ người dân tộc thiểu số trẻ, có triển vọng phát

triển ở các cơ quan, đơn vị cấp huyện luân chuyển, bố trí vào các chức danh lãnh

đạo, quản lý cấp xã; thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, tạo môi trường làm việc tốt

để cán bộ người dân tộc thiểu số phát huy năng lực, sở trường công tác, tạo cơ

70

hội để họ rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Xây dựng kế hoạch, tuyển dụng,

bố trí cán bộ người dân tộc thiểu số. Để dần thay thế số cán bộ, công chức không

đạt chuẩn, không có khả năng đào tạo, bồi dưỡng cần phải nắm chắc nguồn sinh

viên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học để bố trí, giới thiệu về công tác ở các xã; đối

tượng tuyển dụng phải đảm bảo quy trình, tiêu chuẩn theo quy định.

Với đặc thù của các xã có đồng bào dân tộc thiểu số, thì việc quy hoạch đội

ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, bảo đảm số lượng, chất lượng là biện pháp

lâu dài. Do đó, phải chủ động phát hiện cán bộ từ cơ sở, mạnh dạn sử dụng cán

bộ trẻ, có triển vọng phát triển, đạt chuẩn về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ,

chính trị; đồng thời khuyến khích, thu hút sinh viên là người dân tộc thiểu số tốt

nghiệp đại học, cao đẳng trở về địa phương công tác nhằm đào tạo, bồi dưỡng và

đưa vào nguồn quy hoạch để xây dựng nguồn kế cận sử dụng về sau.

3.3.3. Thực hiện đúng các yêu cầu trong tổ chức thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì

Trong thực hiện chính sách công nói chung và trong tổ chức thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng cần đảm bảo

thực hiện đúng đầy đủ các yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách

công. Xuất phát từ thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã nói ở huyện Ba Vì trong thời gian còn có lúc, có nơi trong quá

trình thực hiện chính sách chưa đảm bảo các yêu cầu của thực hiện chính sách

này. Việc bảo đảm những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực hiện chính sách

đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là để đạt được các mục tiêu chính

sách, và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã; đó là các yêu cầu thực hiện mục tiêu chính sách, bảo đảm tính hệ

thống, tính khoa học, pháp lý và hợp lý. Thực chất các yêu cầu này là các

nguyên tắc bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ

thể thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở địa

phương.

Bảo đảm thực hiện mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

71

chức cấp xã là để chính sách được thực hiện trên thực tế phù hợp với thực tiễn về

công tác cán bộ và thực tiễn thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp

xã và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu về nguồn nhân lực cho bộ

máy chính quyền, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội ở địa phương. Bên cạnh

đó, đảm bảo mục tiêu chính sách là nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức có cơ cấu, số lượng hợp lý, có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, đạo

đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phục vụ người dân, phục vụ sự nghiệp phát

triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tính hệ thống trong thực hiện chính sách là yêu cầu bảo đảm thực hiện

đồng bộ hệ thống, thực hiện mục tiêu chính sách phải gắn liền với thực hiện các

công cụ chính sách; hệ thống các phương pháp, biện pháp tổ chức điều hành thực

hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, huy động, sử dụng

đồng bộ hệ thống bộ máy và đội ngũ trong tổ chức thực hiện chính sách đào tạo bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.

Tính khoa học, tính hợp lý và tính pháp lý phải đảm bảo trong tổ chức

thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là để chính

sách được thực hiện một cách nghiêm túc, tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu

quả cao; đảm bảo lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng chính sách là để đạt được

mục tiêu của chính sách. Chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

có ý nghĩa khi lợi ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng được đảm bảo và

nghĩa vụ của họ phải thực hiện trong chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã. Trong thời gian qua, các yêu cầu trong thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thuộc huyện Ba Vì chưa được đảm bảo, thực

hiện tốt, chưa đầy đủ; vì vậy, trong thời gian tới cần phải thực hiện đúng, đầy đủ các

yêu cầu chủ yếu đối với thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã tại các đơn vị này.

3.3.4. Sử dụng hợp lý các phương pháp trong tổ chức thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Cách thức chủ thể tham gia thực hiện chính sách sử dụng để tổ chức, triển

72

khai thực hiện chính sách được gọi là phương pháp thực hiện chính sách. Hiệu

quả tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói riêng phụ thuộc phần nhiều vào việc lựa

chọn đúng, lựa chọn hợp lý các phương pháp trong tổ chức thực hiện chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã

hội ở địa phương, phù hợp với điều kiện làm việc, điều kiện kinh tế của người

học, phù hợp với định hướng công tác cán bộ lâu dài của huyện Ba Vì. Ngoài ra,

lựa chọn đúng phương pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã còn tác động trực tiếp đến việc đạt được mục tiêu chính sách

cũng như hiệu quả của chính sách này.

Để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã có

hiệu quả cao cần phải lựa chọn các phương pháp như: Trong thực tiễn ở Ba Vì

khi thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thời gian

qua cho thấy đôi khi sử dụng phương pháp chưa mềm dẻo và chưa linh hoạt còn

nặng sử dụng phương pháp hành chính; coi đi đào tạo bồi dưỡng là một nhiệm

vụ bắt buộc của người cán bộ, công chức ở cơ sở. Thực tế, có những cán bộ,

công chức có hoàn cảnh gia đình khó khăn không thể xa gia đình để tham gia

khóa học. Do đó khi bắt buộc họ đi, họ không yên tâm học tập và chắc chắn kiến

thức tiếp thu từ khóa học sẽ rất hạn chế. Do vậy, để chính sách được thực hiện có

hiệu quả, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã cần linh hoạt vận dụng các phương pháp thực hiện chính sách một

cách linh hoạt và phù hợp với từng đối tượng hoặc từng hoàn cảnh của mỗi xã,

thị trấn trên địa bàn huyện. Vì đây là chính sách được thực hiện lâu dài và ở tất

cả các xã, thị trấn trong huyện, có quy mô lớn, tính chất phức tạp, đối tượng thụ

hưởng chính sách nhiều, đa dạng và các đặc điểm, đặc thù chuyên biệt. Nếu lựa

chọn và sử dụng hợp lý các phương pháp thực hiện chính sách công như phương

pháp hành chính, phương pháp tuyên truyền vận động, phương pháp kinh tế hoặc

kết hợp tất cả các phương pháp nói trên chắc chắn sẽ cho hiệu quả cao trong tổ

73

chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của

huyện Ba Vì trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mới của địa phương và

Thủ đô.

3.3.5. Nâng cao năng lực và đề cao trách nhiệm của các chủ thể tham

gia thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện chính sách

ảnh hướng rất lớn đến chất lượng hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Hay có thể hiểu, chất lượng, hiệu quả của việc

thực hiện chính sách phụ thuộc vào năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã tham gia thực hiện chính sách. Do đó, muốn nâng cao

hiệu quả, chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

cấp xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cần phải có các giải pháp

đồng bộ để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tham gia

thực hiện chính sách. Để nâng cao năng lực, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công

chức tại huyện Ba Vì hiện nay cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

- Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải đặc biệt chú ý đến chất lượng

chuyên môn, hướng đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nắm vững kiến

thức trên nhiều lĩnh vực, đồng thời có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức chính trị cao

để họ nhận thức được sự cần thiết trong việc bảo đảm các yêu cầu trong việc

thực hiện chính sách.

- Định kỳ rà soát, đánh giá lại hệ thống các yêu cầu phải bảo đảm trong

việc thực hiện chính sách để cập nhật các yêu cầu mới cần bảo đảm hoặc loại trừ

các yêu cầu không còn phù hợp với tình hình thực tế để thực hiện chính sách

được linh hoạt, phù hợp.

- Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế về thực hiện và kiểm tra,

giám sát việc đảm bảo các yêu cầu trong quá trình thực hiện chính sách.

- Xây dựng các chính sách đãi ngộ thoả đáng; đãi độ tốt thì không chỉ hấp

dẫn được cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn giỏi mà còn giúp người cán

bộ gìn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình; do đó góp phần thực hiện chính

74

sách có hiệu quả tốt hơn.

3.3.6. Đầu tư các nguồn lực để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã của huyện Ba Vì

Các cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách phải tăng cường các

nguồn lực và kinh phí cho thực hiện chính sách để chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện một cách hiệu quả tốt nhất; khi nguồn

lực và kinh phí dồi dào thì sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện chính sách và hoàn

thành mục tiêu chính sách một cách tốt nhất. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế xã

hội nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, việc bổ sung các nguồn lực để thực hiện

chính sách còn gặp khó khăn, do vậy cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải

pháp sau:

- Rà soát, kiểm tra lại các nguồn lực sẵn có để có sự đánh giá, phân bổ các

nguồn lực một cách hợp lý, hiệu quả.

- Huy động các nguồn lực xã hội hóa, thu hút nguồn lực của cá nhân, tổ

chức trong và ngoài nước để tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

75

bộ, công chức một cách tốt nhất.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở lý luận đã đề cập ở Chương 1 và đánh gia thực trạng thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Ba Vì trong

những năm qua mà tác giả đã trình bày ở Chương 2, trong Chương 3, tác giả đã

đưa ra những giải pháp để hoàn thiện thực hiện chính sách này trong thời gian

tiếp theo. Với những kết quả đạt được, bên cạnh những hạn chế, khuyết điểm và

nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, dựa trên tình

hình thực tiễn hiện nay, tác giả đã đưa ra những quan điểm và mục tiêu đạo tạo,

bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp xã một cách cụ thể, rõ ràng, có lộ trình

thực hiện; qua đó đề ra nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện tốt chính sách. Luận

văn cũng đưa ra những giải pháp, trong đó chú trọng đến việc nâng cao nhận

thức của toàn bộ các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị,

coi đây là một giải pháp quan trọng nhất để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội

ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Ba Vì; coi trọng công tác quy hoạch cán

bộ; xây dựng kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; tăng

cường đầu tư các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; xây dựng

đội ngũ quản lý, đội ngũ giảng viên và đổi mới nội dung, phương pháp giảng

dạy; các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp

76

xã và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách.

KẾT LUẬN

Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ năng lực, trình độ,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới thì thực hiện chính sách đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là

yếu tố quyết định.

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều

thách thức đòi hỏi chúng ta phải tích cực chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức

nói chung và cán bộ công chức cấp xã nói riêng không chỉ là nhiệm vụ trước mắt

mà còn là nhiệm vụ lâu dài; vì vậy, đào tạo cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu

công việc là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo cán

bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” đã tập trung

giải quyết được các vấn đề sau: Đề tài đã trình bày có hệ thống các lý luận có

liên quan đến thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức cấp xã. Đây cũng là

cơ sở lý luận để phân tích, nhận định, đánh giá thực trạng của đào tạo cán bộ

công chức cấp xã của huyện Ba Vì; Luận văn đã phân tích thực trạng đội ngũ cán

bộ công chức để xác định nhu cầu cần đào tạo của cán bộ công chức cấp xã

huyện Ba Vì đáp ứng nhu cầu của công việc. Từ đó Luận văn đã phân tích đánh

giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức và các nhân tố ảnh

hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công chức cấp xã của huyện Ba

Vì. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán

bộ công chức cấp xã tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, luận văn cũng mạnh

dạn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách đào tạo cán bộ công

chức cấp xã của huyện Ba Vì trong những năm tới. Hy vọng những nghiên cứu

này sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phục vụ phát triển

kinh tế xã hội của huyện Ba Vì, Hà Nội; góp phần thực hiện chính sách xây dựng

77

nông thôn mới của Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận 37-KL/TW ngày 02 tháng 02

năm 2009 của Hội nghị lần thứ 9 (Khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện

chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020;

2. Ban Thường vụ Thành Hà Nội (2002), Đề án số 26-ĐA/TU, ngày 08-4-2002

về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao đẳng, đại học

3. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (2013), Báo cáo tổng kết 10 năm thực

hiện đề án số 26-ĐA/TU, ngày 08-4-2002 về đào tạo cán bộ xã, phường, thị

trấn có trình độ cao đẳng, đại học

4. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (2017), Báo cáo số 150-BC/TU, ngày 30-

10-2017 về tổng kết thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

5. Nguyễn Khắc Bình. (2016) Tập bài giảng Những vấn đề cơ bản về chính

sách công-Học viện Khoa học xã hội.

6. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 03/2011/TTBNV ngày 25 tháng 01 năm 2011

của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi

dưỡng công chức;

7. Bộ Nội vụ (2014), Quyết định 104/2005/QĐ-BNV ngày 03 tháng 10 năm

2005 của Bộ trưởng bộ Nội vụ về việc ban hành quy chế cử cán bộ, công

chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.

8. Các văn bản pháp luật của Thành phố Hà Nội liên quan đến cán bộ, công

chức; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

9. Ngô Thành Can (2008), “Nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/2008

10. Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì

11. Chính phủ (2003), Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21-10-2003 về chế

78

độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn

12. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22-10-2009 về chức

danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

13. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05-3-2010 về đào

tạo, bồi dưỡng công chức

14. Chính phủ (2011), Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05-12-2011 về công

chức xã, phường, thị trấn

15. Phan Văn Dựng (2016), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ

thực tiễn thành phố Cao Bằng, Luận văn thạc sỹ chính sách công, Học viện

Khoa học xã hội

16. Vũ Cao Đàm. (2011) Sách Khoa học Chính sách - Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật

21. Nguyễn Thị Hà (2016), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ

thực tiễn Bộ Khoa học và công nghệ, Luận văn thạc sĩ chính sách công, Học

viện Khoa học xã hội

22. Đỗ Phú Hải (2013), Đề tài cấp cơ sở: Đánh giá chính sách công tại Việt Nam:

Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội

23. Nguyễn Hoàn Hải (2012), luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công “Nâng

cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - từ thực tiễn thành

79

phố Hậu Giang”, Học viện Hành chính Quốc gia

24. Nguyễn Hữu Hải (2016), Chính sách công những vấn đề cơ bản, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

25. Nguyễn Hữu Hải và Th.S Lê Văn Hòa (2013) Đại cương về phân tích chính

sách công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

26. Hồ Việt Hạnh. (2017), Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội.

27. Trần Thị Hạnh, Với tiêu đề: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp

xã từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị” tại Tạp chí

Cộng sản (năm 2015)

28. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2015), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ngành nội vụ ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ chính sách công,

Học viện Khoa học xã hội

29. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Tập V đến tập X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Nguyễn Xuân Hội (2015), Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

từ thực tiễn huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội, Luận văn thạc sỹ chính sách

công, Học viện Khoa học xã hội

31. Huyện ủy Ba Vì (2019), Báo cáo số 468-BC/HU, ngày 26/12/2019 về Kết quả

thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2019, phương hướng, nhiệm vụ năm 2020

32. Vũ Xuân Khoan (2007) Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng qui hoạch đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn khu vực

Đồng bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2007-2015”

33. Nguyễn Thị La (2015), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trong quá

trình cải cách hành chính, Học viện Hành chính quốc gia

34. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 1. NXB Chính trị quốc gia

35. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Trong cuốn sách “Cơ sở lý

luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ,

công chức

80

37. Từ điển bách khoa Việt Nam

38. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

39. Tân Thị Thanh (2018), Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã thành phố Hạ Long, thành phố Quảng Ninh, Luận văn

Thạc sĩ Chính sách công, Học viện chính sách và phát triển

40. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011

của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức giai đoạn 2011-2015

41. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016

của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025

42. Trần Văn Trung (2015):‘Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây

Bắc Việt Nam hiện nay’, luận án tiến sỹ quản lý hành chính công. Học viện

Hành chính quốc gia.

43. Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì (2019), Báo cáo số 331/BC-UBND, ngày

16/12/2019 về đánh giá kết quả công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế

81

huyện năm 2019, phương hướng năm 2020