VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐÌNH LÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,

TỐ CÁO TỪ THỰC TIỂN HUYỆN QUẾ SƠN,

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐÌNH LÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,

TỐ CÁO TỪ THỰC TIỂN HUYỆN QUẾ SƠN,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Chính sách công

Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi, được

thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các tài liệu,

tư liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, trung thực

dựa trên sự khảo sát trực tiếp và tổng hợp của bản thân. Tôi đã hoàn thành tất

cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định

của Học viện Khoa học xã hội.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Võ Đình Lâm

DANH MỤC VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 HVHC Hành vi hành chính

2 HĐND Hội đồng nhân dân

3 QĐHC Quyết định hành chính

4 UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC BẢNG

Số Tên bảng Trang hiệu

Tổng hợp kết quả giải quyết khiếu nại tại huyện Quế Sơn, 2.1 47 tỉnh Quảng Nam

Tổng hợp kết quả giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh 2.2 54 Quảng Nam

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI

QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ............................................................................. 9

1.1. Nhận thức khái quát về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo .............. 9

1.2. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc, chủ thể, các giai đoạn và vai trò

của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................................... 15

1.3. Những yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo ..................................................................................................... 27

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........ 32

2.1. Thực trạng các yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính sách giải

quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ....................... 32

2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại tại huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................................................. 38

2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................................................. 45

CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN,

TỈNH QUẢNG NAM ............................................................................................. 55

3.1. Yêu cầu của việc tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại,

tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ..................................................... 55

3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố

cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.......................................................... 57

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân là một trong số 08 đặc trưng của xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là Nhà nước thuộc về nền dân chủ

phát triển, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Quyền lực nhân dân là

tối cao, là gốc của quyền lực. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là

quyền lực phát sinh từ quyền lực nhân dân, Nhà nước được nhân dân trao

quyền để thực hiện, ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của mình.

Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy của mình có nghĩa vụ bảo

đảm, thực thi quyền dân chủ của nhân dân trên thực tế.

Bộ máy nhà nước nói chung nhất là bộ máy hành chính nhà nước vốn

thực thi quyền hành pháp có khả năng bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích của con

người, công dân. Song cũng chứa đựng khả năng xâm phạm đến quyền và lợi

ích của họ. Do vậy cần có cơ chế để con người (công dân) được nói lên tiếng

nói của mình một khi quyền và lợi ích của chính mình hoặc của xã hội bị xâm

phạm. Giải quyết khiếu nại, tố cáo vì vậy là hoạt động không thể thiếu trong

hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động giải quyết khiếu nại phản

ánh rõ nhất đặc tính của Nhà nước pháp quyền, nhà nước dân chủ.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được Đảng ta quan tâm, coi trọng,

nhằm mục tiêu xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy,

giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách đúng đắn, nhanh chóng, công khai, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, hiệu lực, hiệu quả và uy tín của bộ máy

nhà nước trở thành chủ trương, đường lối của Đảng. Cũng bởi vậy Trung

ương Đảng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác giải quyết khiếu

nại, tố cáo của công dân.

1

Chủ trương, đường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo được

Nhà nước ta không chỉ cụ thể hóa vào chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

mà còn thể chế hóa vào hiến pháp và các văn bản pháp luật chuyên ngành về

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Pháp lệnh về việc xét và giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân và Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân

năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và luật sửa đổi, bổ sung Luật

Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005, hiện nay là Luật số 02/2011/QH13,

ngày 11/11/2011 của Quốc hội về Luật khiếu nại và gần đây nhất là Luật số

25/2018/QH14, ngày 12/6/2018 của Quốc hội về Luật Tố cáo.

Trên cơ sở đó, trong những năm vừa qua, hoạt động thực hiện chính

sách giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là

tại địa bàn cấp huyện đạt được nhiều kết quả góp phần giữ vững an ninh,

chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên số lượng đơn khiếu nại, tố cáo ở các cấp, nhất là cấp huyện

chưa được giải quyết hay giải quyết chưa thỏa đáng vẫn còn khá nhiều; chất

lượng giải quyết đơn thuộc thẩm quyền nhất là của UBND cấp huyện chưa

cao. Cơ chế đánh giá trách nhiệm của UBND cấp huyện về công tác tiếp dân,

giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo còn chưa được chú trọng. Vẫn còn xảy ra tình

trạng đơn thư tồn đọng kéo dài, đơn khiếu kiện vượt cấp, đông người.

Quế Sơn là một huyện trung du thuộc tỉnh Quảng Nam với 14 xã, thị

trấn. Trong những năm qua, triển khai quá trình đô thị hóa, thực hiện chương

trình xây dựng nông thôn mới, liên quan đến việc thu hồi đất, giải phóng mặt

bằng, kiểm kê, bồi thường, tái định cư và công tác giải quyết chế độ chính

sách đối với người có công nên việc phát sinh khiếu nại, tố cáo của công dân

có chiều hướng gia tăng, nội dung và tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp.

UBND huyện hàng năm tiếp công dân, nhận và xử lý đơn khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị, thuộc thẩm quyền khá lớn. Song thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải

2

quyết đơn vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắt cả về lý luận và thực tiễn

cần nghiên cứu trao đổi, tìm ra các giải pháp để tháo gỡ. Như vậy, để khắc

phục tình trạng đó, cần có những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu

về thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhằm góp phần bé nhỏ

vào việc đó học viên lựa chọn đề tài “thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ

chuyên ngành chính sách công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Để nghiên cứu chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo học viên tham

khảo các công trình nghiên cứu có liên quan trong số đó có:

- Các luận án tiến sĩ: “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại hành

chính của công dân ở nước ta hiện nay”, của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh

(2013), Học viện khoa học xã hội; “Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu

nại hành chính và thẩm quyền hành chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn

Mạnh Hùng (2013), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo” của tác giả Trần

Văn Sơn (2006);

- Đề tài cấp nhà nước: “Khiếu nại, tố cáo hành chính – Cở sở lý luận,

thực trạng giải pháp” do TS. Lê Tiến Đào, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ

làm chủ nhiệm năm 2011. Đề tài cấp cơ sở: “Cơ sở khoa học của việc hoàn

thiện hệ thống các quy định nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại, tố cáo” của

Viện Khoa học Thanh tra chính phủ năm 2011. Đề tài cấp bộ: “Trách nhiệm

pháp lý của Chủ tịch UBND các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng” do Th.S Nguyễn Tuấn

Khanh, Phó Viện trưởng Viện khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm năm 2011);

Đề tài cấp bộ: “Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, khiếu nại, tố cáo những

3

vấn đề lý luận và thực tiễn” do Th.S Nguyễn Văn Kim, Phó Vụ trưởng Vụ

pháp chế Thanh tra Chính Phủ làm chủ nhiệm năm 2010).

Luận văn thạc sỹ: Giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực tiễn thành phố

Hà Nội của tác giả Nguyễn Minh Ngọc (2014), Học viện Khoa học xã hội;

Giải quyết tố cáo hành chính của công dân từ thực tiễn huyện Hoài Đức,

thành phố Hà Nội của tác giả Hồ Thị Na (2015), Học viện Khoa học xã hội;

Thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại hành chính từ thực tiễn huyện Ba Vì,

thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Nam (2015), Học viện Khoa học xã

hội; Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai,

thành phố Hà Nội thực trạng và giải pháp của tác giả Lê Thị Sáu (2014); Giải

quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước qua thực tiễn thành phố Hải

Phòng của tác giả Trình Văn Thảo (2014).

- Các bài tạp chí: TS. Trần Kim Liễu (2011), Đối tượng khiếu kiện vụ

án hành chính và việc thực hiện hóa Luật tố tụng hành chính 2010, Tạp chí

khoa học pháp lý số 3/2011; Phạm Hồng Thái (2013), Quyết định hành chính

nhà nước – một số vấn đề lý luận, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà

Nội, Luật học, tập 29, số 2 (2013).

Tìm hiểu kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy, các đề

tài, công trình khoa học trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả lý luận

và thực tiễn về khiếu nại hành chính, hoàn thiện về pháp luật và áp dụng pháp

luật trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các công trình

trên đã phân tích, luận giải, làm rõ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các

cấp chính quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên chưa có công trình nào tiếp

cận từ góc độ nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính và

hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước tại

địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Điều này cho phép khẳng định, đề

tài luận văn của tác giả không trùng lặp với các công trình đã được triển khai

4

nghiên cứu. Tuy nhiên tri thức, kết quả nghiên cứu của những công trình khoa

học đó được học viên tiếp thu, phát triển trong khi thực hiện luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận các văn bản quy phạm

pháp luật thể chế hóa chính sách khiếu nại, tố cáo, thực trạng giải quyết khiếu

nại, tố cáo nhất là giải quyết khiếu nại trong quản lý hành chính và đội ngũ

công chức trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam luận văn đưa ra các

giải pháp nhằm tăng cường giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn,

tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên đây luận văn tập trung thực hiện các nhiệm

vụ:

- Phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Từ sự phân tích đánh giá hiện trạng (kết quả đạt được, những hạn chế,

nguyên nhân) để đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải

quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Là những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo, về chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo, các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo hành chính.

Thực tiễn thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn,

tỉnh Quảng Nam.

5

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về mặt không gian: Nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu nại, tố

cáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Về mặt thời gian: Nghiên cứu công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

hành chính trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến

năm 2018.

- Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận

về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực hành chính.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm, chủ trương,

chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về chính sách giải quyết khiếu nại,

tố cáo và thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nội dung nghiên

cứu được tiếp cận dưới góc độ khoa học chính sách công và các khoa học liên

ngành.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:

Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp; Phương pháp đối chiếu - so sánh.

Cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp thu thập thông tin, tổng hợp các

tư liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu như các chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương; các bài

viết trên sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác liên quan trực tiếp

hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện

chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta nói chung và thực tiễn huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng; kết hợp phương pháp phân tích, đánh

giá, dự báo để phân tích thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp.

6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn là công trình nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chính

sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện, thông qua việc mô tả chi tiết

thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà

nước ở địa phương cấp huyện. Luận văn làm rõ thêm một số khía cạnh lý

luận, pháp lý chung về khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố

cáo của cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung luận văn cung cấp thông tin

về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cơ sở đánh giá việc

áp dụng Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, các văn bản hướng dẫn và quy định

pháp luật chuyên ngành như đất đai, xây dựng tài chính - ngân sách trong

thực tiễn hoạt động của chính quyền cơ sở.

Từ đó Luận văn cung cấp “những tình huống có vấn đề” trong áp dụng

pháp luật của chính quyền địa phương; cung cấp các luận cứ cho cơ quan lập

pháp, hành pháp và tư pháp nghiên cứu định hướng hoàn thiện chính sách

pháp luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp những thông tin, luận điểm qua việc phân tích, đánh

giá hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cơ sở. Do đó Luận

văn góp phần đóng góp những giải pháp mang tính thực tiễn để cơ quan hành

chính nhà nước, cán bộ, công chức tham khảo, có thể áp dụng trong thực tế

công tác ở cơ quan đơn vị mình. Đây cũng là tài liệu tham khảo trong công

tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

7

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách

giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cấp huyện ở nước ta hiện nay.

8

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1.1. Nhận thức khái quát về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.1.1. Một số quan niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.1.1.1. Một số quan niệm về khiếu nại

Trong thực tiễn giải quyết khiếu nại hiện nay ở nước ta, các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì còn nhận được nhiều

đơn khác với nội dung khiếu nại nhưng được dùng với nhiều thuật ngữ khác

nhau như: “đơn kêu oan”, “đơn kêu cứu khẩn cấp”, “đơn trình bày”… Do

vậy, trước hết cần phải làm rõ thuật ngữ “khiếu nại”.

Thuật ngữ “khiếu nại” được hiểu theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.

Trong “Đại từ điển tiếng việt” thì “khiếu nại” có nghĩa là: “thắc mắc đề

nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm, đã

chuẩn y” [28,tr.904].

Luật Khiếu nại năm 2011, được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ hai

thông qua ngày 11/11/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm

2012, tại khoản 1 điều 2 quy định: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ

chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại QĐHC, HVHC của cơ quan

hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà

nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết

định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của

mình” [10].

Việc phân tích nội dung của các quan niệm trên cho thấy điểm giống

nhau cơ bản của chúng thể hiện ở chỗ: khiếu nại là một hình thức phản ứng tự

vệ của công dân, cơ quan, tổ chức trước các quyết định, hành vi mà theo họ là

9

xâm phạm tới quyền, lợi ích của mình. Đồng thời việc phân tích các quan

niệm nêu trên cho thấy chúng khác nhau về phạm vi, khách thể khiếu nại,

trong đó cách quan niệm về khiếu nại trong Luật Khiếu nại là hẹp nhất.

Từ những phân tích khái quát trên đây có thể khẳng định khiếu nại xuất

hiện khi quyền, lợi ích của bản thân chủ thể khiếu nại bị xâm hại, do đó có thể

coi khiếu nại là một hình thức phản kháng của cá nhân, cơ quan, tổ chức

trước quyết đinh, hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác xâm phạm đến

quyền, lợi ích của mình thông qua việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó

xem xét lại quyết định, hành vi của họ.

1.1.1.2. Một số quan niệm về tố cáo

Tố cáo xét ở phương diện xã hội là việc người tố cáo thể hiện sự bất

bình đối với hành vi vi phạm pháp luật, báo việc đó đến cơ quan nhà nước có

thẩm quyền xử lý vi phạm. Ở phương diện chính trị - pháp lý tố cáo là quyền

dân chủ cơ bản của công dân, là phương thức để công dân tham gia hoạt động

quản lý nhà nước (thực hiện nguyên lý chủ quyền nhân dân) bảo vệ trật tự

pháp luật, lợi ích nhà nước, tổ chức, công dân.

Theo Luật tố cáo 2018 thì Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định

của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi

vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc

đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

cơ quan, tổ chức, cá nhân [11].

Luật cũng phân loại nội dung tố cáo theo các hành vi thực hiện công vụ

của cán bộ, công chức và hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quản lý chuyên

ngành:

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức

trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vậy là việc công dân báo cáo cho cơ

10

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của

cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là việc công dân báo cáo cho cơ quan

quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật

của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy định

pháp luật về quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã

hội.

1.1.2. Một số quan niệm chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.1.2.1. Một số quan niệm về Chính sách giải quyết khiếu nại

Trong hệ thống các quyền cơ bản của con người, quyền khiếu nại thuộc

phạm vi các quyền dân sự, chính trị, đó là nhóm quyền có liên quan mật thiết

đến quyền tự do cá nhân. Khi quyền và lợi ích của con người bị vi phạm, họ

có thể sử dụng quyền khiếu nại để bảo vệ, lên án những vi phạm đó.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương, đường lối về

giải quyết khiếu nại. Bởi vậy giải quyết khiếu nại luôn được coi là nhiệm vụ

chính trị của cả hệ thống chính trị. Việc giải quyết khiếu nại có hiệu lực, hiệu

quả chính là một trong những cơ sở, điều kiện để ngăn ngừa xung đột xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “đồng bào có ai oan ức hay chưa hiểu rõ

về chính sách của Đảng và Chính phủ mới khiếu nại”. Câu nói đó thể hiện sự

chia sẻ và quan điểm vì dân, luôn đứng về phía người dân của Hồ Chủ tịch.

Đảng, Nhà nước ta xác định tranh chấp dân sự và khiếu kiện của dân là

do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chính sách, luật pháp chưa

hoàn chỉnh; trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội, một số cán bộ hoặc cấp uỷ

và chính quyền các cấp có những khuyết điểm, sai phạm. Để nâng cao hơn

nữa chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Chính phủ,

Bộ Chính trị đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng, chính quyền,

11

đoàn thể tổ chức quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại,

tố cáo. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan

trọng, thường xuyên; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, nhất

là giữa các cơ quan chức năng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của người

dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo đảm

tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp

ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; lấy hiệu quả của công tác giải quyết

khiếu nại, tố cáo làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác. Các cơ

quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tòa án, công an nâng cao trách nhiệm trong

việc chủ trì, phối hợp xử lý theo thẩm quyền, giải quyết dứt điểm những vụ

việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

cần làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, đoàn viên,

kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi

có tranh chấp. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối thoại, vận động, thuyết phục

công dân chấm dứt khiếu nại, tố cáo không đúng, giảm thiểu các tranh chấp,

khiếu nại, tố cáo từ cơ sở. Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

tiếp dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức tốt,

tinh thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công

dân hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và

đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo

đảm thuận lợi cho công dân và cán bộ, công chức tiếp công dân. Nâng cao

trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông

tin, bảo đảm chính xác, kịp thời, trung thực, khách quan; khi có sai sót phải

12

kịp thời cải chính, góp phần định hướng dư luận xã hội và hỗ trợ công tác tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại, Nhà

nước ta hoạch định và ban hành chính sách về giải quyết khiếu nại. Đó là

những quyết định ở tầm tư tưởng, định hướng chiến lược cho việc giải quyết

khiếu nại. Trên cơ sở chính sách đó, Nhà nước ban hành pháp luật về khiếu

nại. Như vậy, pháp luật về khiếu nại là phương tiện thể chế hóa chính sách

giải quyết khiếu nại. Chính vì vậy, việc khiếu nại của công dân là quyền được

ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1959 (Điều 29) Hiến pháp 1980 (Điều

73); Hiến pháp 1992 (Điều 74); Hiến pháp 2013 (Điều 30) và các văn bản

pháp luật khác.

Khiếu nại là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của

mình khi bị xâm phạm. Công dân sử dụng quyền khiếu nại là thể hiện quyền

dân chủ trực tiếp.

Giải quyết khiếu nại hành chính trong hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước là biện pháp bảo đảm cho quyền khiếu nại của công dân thực

hiện trên thực tế. Mọi hoạt động của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà

nước đều nhằm mục đích cuối cùng là để phục vụ nhân dân, những quy định

của pháp luật về quyền khiếu nại chỉ được thực hiện tốt, đáp ứng được yêu

cầu, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm, đề cao và thực

hiện tốt việc khiếu nại hành chính, tôn trọng sự thật khách quan, đặt lợi ích

của nhà nước, lợi ích của nhân dân lên trên hết.

1.1.2.2. Một số quan niệm về chính sách giải quyết tố cáo

Cũng như cách tiếp cận chính sách giải quyết khiếu nại, chính sách giải

quyết tố cáo cũng bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng về giải quyết

tố cáo, từ đó được Nhà nước hoạch định thành chính sách và được thể chế hóa

vào pháp quật về giải quyết tố cáo. Những năm qua, công tác giải quyết tố cáo

13

hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã thu được

những kết quả đáng ghi nhận. Thông qua việc giải quyết tố cáo hành chính

của công dân, các cơ quan đã kịp thời chấn chỉnh những yếu kém, sơ hở trong

quản lý nhà nước; sửa đổi, bổ sung các văn bản, chính sách phù hợp với tình

hình kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới; khuyến khích công dân tích cực tham

gia phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm của các

cơ quan nhà nước trong giải quyết tố cáo.

Quyền tố cáo được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật của nhà nước

ta. Các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tôn trọng, bảo

đảm, bảo vệ trên thực tế các quyền này. Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm

2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ

chức, cá nhân”.

Thường xuyên chú trọng việc hoàn thiện chính sách, pháp luật liên

quan đến quyền và lợi ích của người dân, bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực

tiễn. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải quyết tố cáo theo hướng nâng cao

thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại biểu Quốc

hội, của HĐND, đại biểu HĐND trong việc thực hiện chức năng giám sát; của

người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quy định

rõ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Có quy chế đối thoại với công dân, công khai kết quả giải

quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận luôn

nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác tiếp công dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo và xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng,

thường xuyên.

Năm 2011 Quốc hội ban hành Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 và đến

năm 2018 Quốc hội ban hành Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 về việc “quy

14

định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong

việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật khác về quản

lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan,

tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo”.

1.2. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc, chủ thể, các giai đoạn và

vai trò của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Để có thể xây dựng khái niệm thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo, trước hết cần làm rõ thế nào là giải quyết khiếu nại tố cáo.

Khiếu nại là việc phản ứng của người khiếu nại (chủ thể chịu tác động

trực tiếp của hành vi, quyết định…) đối với hành vi, quyết định, sản phẩm,

dịch vụ… (đối tượng khiếu nại) mà chủ thể (người bị khiếu nại) có hành vi,

quyết định, sản phẩm, dịch vụ có nghĩa vụ giải quyết. Phản ứng này xuất phát

từ thái độ không hài lòng, phản kháng của người khiếu nại tuân theo các quy

định của pháp luật hình thành nên mối quan hệ pháp luật giữa người khiếu nại

với người giải quyết khiếu nại.

Từ sự phân tích nêu trên, có thể thấy khiếu nại có phạm vi rộng hơn so

với khiếu nại hành chính, bởi khiếu nại nói chung bao gồm khiếu nại trong

lĩnh vực hành pháp, tư pháp, khiếu nại của khách hàng về sản phẩm hay dịch

vụ đối với nhà sản xuất hay tổ chức cung cấp dịch vụ. Khiếu nại hành chính

được phân biệt với các khiếu nại khác dựa trên các yếu tố: người bị khiếu nại,

người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại; đối tượng khiếu nại; trình tự, thủ

tục giải quyết. Ở khiếu nại hành chính bao giờ cũng là mối quan hệ giữa một

bên là cơ quan hành chính nhà nước và với bên kia là công dân, tổ chức được

pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ; cách thức thực hiện quyền và nghĩa

vụ, cũng như chế tài xử lý vi phạm.

15

Việc giải quyết khiếu nại hành chính là việc tự kiểm tra lại của cơ quan

hành chính nhà nước, người có thẩm quyền đối với QĐHC, HVHC và cấp

trên xem lại QĐHC, HVHC của cấp dưới bị khiếu nại. Giải quyết khiếu nại là

trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể ban hành QĐHC, HVHC để thực hiện

những bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và

pháp luật ghi nhận. Hoạt động giải quyết khiếu nại tuân thủ một quy trình chặt

chẽ từng giai đoạn cụ thể: nhận đơn, phân loại xử lý đơn, xác định thẩm

quyền, thông báo thụ lý hoặc từ chối; xác minh nội dung khiếu nại; ban hành

quyết định giải quyết khiếu nại; tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu

nại. Mỗi giai đoạn trong quy trình của hoạt động giải quyết khiếu nại đều có

yêu cầu cần tuân thủ nghiêm ngặt.

Giải quyết khiếu nại vì vậy, có thể được hiểu là việc cơ quan hành

chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có

QĐHC, HVHC bị khiếu nại xem xét, đánh giá lại tính hợp pháp, hợp lý của

QĐHC, HVHC.

Luật khiếu nại định nghĩa việc giải quyết khiếu nại như sau: Giải quyết

khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu

nại [10].

Giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm

quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động tiếp nhận thông tin tố

cáo, xác minh, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý những nội dung tố

cáo đã được kết luận theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố

cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo [11]. Đối tượng cần làm

rõ trong quá trình giải quyết vụ việc tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật (chưa

đến mức là tội phạm) bị tố cáo.

16

Từ định nghĩa trên cho thấy, đối tượng tố cáo là hành vi vi phạm pháp

luật có phạm vi rất rộng ở bất kỳ lĩnh vực nào thuộc đối tượng điều chỉnh của

quy phạm pháp luật. Dấu hiệu đặc trưng của tố cáo thuộc thẩm quyền giải

quyết của cơ quan hành chính để phân biệt với loại tố cáo (tố giác) tội phạm

đó là mức độ nguy hiểm của hành vi đó chưa cấu thành tội phạm mô tả trong

Bộ luật hình sự.

Giải quyết khiếu nại tố cáo xuất phát từ nhu cầu đời sống xã hội. Để

giải quyết một cách đúng đắn khiếu nại, tố cáo Đảng ta đã đề ra chủ trương

đường lối phản ảnh trong các văn kiện chính trị của Đảng. Trên cơ sở đó Nhà

nước hoạch định chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ những định hướng

lớn cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xã hội. Chính sách đó được

thực hiện thông qua nhiều hình thức, trong đó xây dựng và thực hiện (áp

dụng) pháp luật khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, chính sách giải

quyết khiếu nại, tố cáo trước hết được thể chế hóa vào pháp luật (Hiến pháp,

Luật khiếu nại, Luật tố cáo…). Chính sách đó tiếp tục được thực hiện trong áp

dụng pháp luật. Song chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xây dựng

pháp luật và trong áp dụng pháp luật cũng chỉ là một. Do vậy, ở nghĩa rộng,

thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại tố cáo thể hiện ở xây dựng pháp luật

và ở áp dụng pháp luật. Còn ở nghĩa hẹp (Khi đã có pháp luật vốn thể hiện

chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo), thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo đã được ghi nhận (thể chế hóa) trong pháp luật là đưa pháp luật đó

ra thực hiện trong thực tế. Tất nhiên, để thực hiện phải có chủ thể, nội dung

hoạt động và các điều kiện khác. Tóm lại, thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật, đưa chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo đã

được thể chế hóa vào pháp luật ra thực hiện trên thực tế.

17

1.2.2. Đặc điểm của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.2.2.1. Đặc điểm của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại

Trên cơ sở phân tích khái niệm về giải quyết khiếu nại có thể nhận thấy

giải quyết khiếu nại có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại được tiến hành

bởi cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền ban hành QĐHC,

HVHC bị khiếu nại và cấp trên trực tiếp của cơ quan hành chính nhà nước,

người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Theo quy định của

Luật tố tụng hành chính, người khởi kiện hành chính có khả năng chọn lựa

phán quyết của cơ quan tư pháp (khởi kiện hành chính) ngay mà không nhất

thiết phải đợi quyết định giải quyết khiếu nại (giai đoạn trước tố tụng). Thủ

tục tố tụng hành chính là một bước tiến quan trọng khi nền kinh tế nước ta hội

nhập sâu với khu vực thế giới.

Thứ hai, việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại là quá trình xem

xét, đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của QĐHC, HVHC bị khiếu nại; khôi

phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Giải quyết khiếu nại có khả

năng giải quyết nhanh chóng QĐHC, HVHC bị khiếu nại; xem xét và quyết

định tính hợp pháp, hợp lý của QĐHC, HVHC (yêu cầu cơ bản của QĐHC,

HVHC là tính hợp pháp và hợp lý); kịp thời khôi phục quyền và lợi ích hợp

pháp bị xâm phạm.

Thứ ba, việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại phải tuân thủ

trình tự, thủ tục chặt chẽ, bao gồm: tiếp nhận đơn, phân loại, xử lý đơn, quyết

định thụ lý giải quyết hoặc từ chối, giao cho cơ quan nhà nước có nhiệm vụ

xác minh; xác minh, thu thập chứng cứ tài liệu, ban hành báo cáo kết quả xác

minh; đối thoại người khiếu nại trong trường hợp kết quả xác minh không

trùng với đề nghị của người khiếu nại; ban hành quyết định giải quyết khiếu

18

nại, gửi, công khai quyết định khiếu nại, lưu hồ sơ; tổ chức thực hiện quyết

định giải quyết khiếu nại.

Thứ tư, việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại dẫn đến hệ quả

pháp lý là: QĐHC, HVHC được thực hiện nghiêm túc nếu đảm bảo tính hợp

pháp, hợp lý; trường hợp QĐHC, HVHC vi phạm tính hợp pháp, hợp lý, cơ

quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền ban hành văn bản điều

chỉnh, hủy bỏ nội dung QĐHC, chấm dứt HVHC không hợp pháp, hợp lý.

Thứ năm, việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại phải tuân theo

các nguyên tắc do pháp luật quy định, nhất là nguyên tắc pháp chế, bình đẳng,

công bằng, nhân đạo…

1.2.2.2. Đặc điểm của thực hiện chính sách giải quyết tố cáo

Một là, việc giải quyết tố cáo là quá trình làm rõ có hành vi vi phạm

pháp luật hay không và việc xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật

nếu có. Cơ sở để xác định, làm rõ hành vi tố cáo có vi phạm pháp luật hay

không là các thông tin, tài liệu, bằng chứng do người tố cáo cung cấp; các tài

liệu xác minh do người giải quyết thu thập một cách hợp pháp và các quy

định cụ thể của pháp luật.

Hai là, chủ thể có trách nhiệm giải quyết tố cáo hành chính là cơ quan

hành chính nhà nước có thẩm quyền (tố cáo hành vi thuộc lĩnh vực nào thì cơ

quan nhà nước thực hiện chức năng đó giải quyết). Chủ thể giải quyết tố cáo

hành chính là thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền cấp

trên giải quyết tố cáo về hành vi vi phạm của cấp dưới; thủ trưởng giải quyết

tố cáo về hành vi vi phạm của nhân viên. Trong trường hợp cần thiết thì chủ

trưởng cơ quan có thẩm quyền giao cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan có

thẩm quyền khác tiến hành kiểm tra, xác minh, luận và kiến nghị biện pháp

xử lý tố cáo.

19

Ba là, việc thực hiện chính sách giải quyết tố cáo được tiến hành theo

trình tự, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ nhưng tựu trung gồm các

bước cơ bản sau: Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; xác minh nội dung tố cáo;

kết luận nội dung tố cáo; công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý

hành vi bị tố cáo.

Bốn là, kết quả thực hiện chính sách giải quyết tố cáo có thể dẫn đến

các hệ quả pháp lý: Nếu hành vi của người bị tố cáo đã vi phạm pháp luật thì

phải chịu chế tài xử lý do người có thẩm quyền giải quyết tố cáo quyết định

hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật và

đồng thời xem xét được khen thưởng về vật chất và tinh thần. Nếu kết luận

nội dung tố cáo là không đúng thì người giải quyết tố cáo phải thông báo bằng

văn bản kết luận này cho người bị tố cáo, cơ quan người tố cáo công tác và

khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo (trường hợp bị

xâm hại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn) đồng thời kiến nghị xử lý người cố

tình tố cáo sai sự thật.

Năm là việc giải quyết tố cáo hành chính phải tuân thủ các nguyên tắc

do pháp luật quy định.

1.2.3. Các nguyên tắc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Nguyên tắc là những điều cơ bản được tổ chức đặt ra dựa trên những

quan điểm tư tưởng nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo.

Nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo là những điều cơ bản mà người giải

quyết khiếu nại và người giải quyết tố cáo phải tuân thủ trong quá trình giải

quyết khiếu nại, tố cáo. Nguyên tắc này được Luật tố cáo và các văn bản dưới

luật quy định.

Nguyên tắc thứ nhất: Việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố

cáo phải đúng quy định của pháp luật: đúng thẩm quyền giải quyết; đúng trình

tự, thủ tục; đúng thời hạn giải quyết. Căn cứ để kết luận tính hợp pháp và hợp

20

lý của QĐHC và HVHC hay tính đúng sai của hành vi bị tố cáo phải dựa trên

cơ sở, căn cứ vững chắc của điều luật được áp dụng theo kết quả xác minh

chặt chẽ, khách quan, khoa học.

Nguyên tắc thứ hai: Việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố

cáo phải đảm bảo tính khách quan tức là xác định đúng bản chất vụ việc, rõ

tình tiết, diễn biến các sự kiện, dựa trên các tài liệu khách quan để người giải

quyết khiếu nại, tố cáo đối chiếu quy định của pháp luật để ban hành văn bản

giải quyết.

Nguyên tắc thứ ba: Việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố

cáo phải đảm bảo tính công khai, khách quan, tuân thủ đúng pháp luật. Có

như vậy mới đảm bảo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, khách quan. Tuy nhiên ở

hoạt động giải quyết tố cáo, bên cạnh việc công khai kết quả giải quyết còn

phải tuân thủ nguyên tắc bảo vệ bí mật cho người tố cáo.

Nguyên tắc thứ tư: Việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại và tố

cáo phải dân chủ, bảo đảm các quyền của người khiếu nại, người tố cáo.

Như vậy, thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được

thực hiện theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, dân

chủ và kịp thời. Việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan,

đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật;

bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người

bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo.

1.2.4. Vai trò của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

- Khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân được nhà nước bảo đảm, bảo

vệ việc ghi các quyền đó trong Hiến pháp, pháp luật và cơ chế giải quyết.

- Khiếu nại, tố cáo với ý nghĩa là cách thức để công dân dùng “quyền

để bảo vệ quyền”, phản ứng lại, tự vệ trước việc được xem như sự xâm hại

quyền của mình. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự

21

can thiệp và xâm phạm. Công dân dùng quyền khiếu nại, tố cáo để chính thức

yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan

nhà nước phải bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo.

Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng là phương thức để công dân:

tham gia vào quản lý nhà nước, giám sát việc thực thi quyền hành pháp, là

kênh thông tin phản ánh thái độ của nhân dân đối với việc chấp hành - điều

hành của cơ quan hành chính nhà nước; thông qua hoạt động giải quyết khiếu

nại hành chính; cơ quan cấp trên có điều kiện kiểm tra, giám sát đánh giá hoạt

động quản lý của cơ quan hành chính cấp dưới; thông qua hoạt động giải

quyết khiếu kiện hành chính, cơ quan tư pháp giám sát hoạt động của cơ quan

hành pháp.

Ở tố cáo, công dân sử dụng quyền tố cáo để tham gia hoạt động quản lý

pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà nước, của tập thể, cá nhân,

bảo vệ trật tự pháp luật, kỷ cương, phép nước. Người tố cáo thực hiện quyền

tố cáo là để phát hiện những hành vi trái pháp luật, thể hiện trách nhiệm công

dân đối với lợi ích chung [25].

1.2.5. Chủ thể thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại

cấp huyện

Chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện bởi cơ quan hành

chính nhà nước, người có thẩm quyền ban hành QĐHC, HVHC bị khiếu nại

và cấp trên trực tiếp của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền

trong cơ quan hành chính nhà nước.

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong từng cấp thì thẩm quyền

giải quyết tại cấp huyện có những nét đặc biệt riêng và được các điều luật

quyết định cụ thể: Chủ tịch UBND xã, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);

Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc

22

tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố

cáo lần đầu đối với QĐHC, HVHC của mình, của người có trách nhiệm do

mình quản lý trực tiếp. Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo

lần đầu đối với QĐHC, HVHC của mình; giải quyết khiếu nại lần hai đối với

QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc

UBND cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại

lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.

1.2.6. Các giai đoạn thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo là những hoạt động

xem xét, giải quyết của chủ thể là người có thẩm quyền tiến hành mọi khía

cạnh, mọi tình tiết trên cơ sở liên quan đến khiếu nại, tố cáo có trong các quy

định của pháp luật vốn đã phản ánh chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo để

ra quyết định cụ thể phù hợp với chính sách đó.

Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo được tiến hành qua nhiều giai

đoạn, mỗi giai đoạn có nội dung riêng mang tính đặc thù về phạm vi hoạt

động giải quyết, do đó trong mỗi giai đoạn cơ quan hành chính nhà nước, cơ

quan tư pháp có thẩm quyền thực hiện những trình tự, thủ tục khác nhau. Các

giai đoạn này có tính độc lập tương đối, đồng thời có quan hệ mật thiết với

nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, ngược lại kết quả của giai

đoạn sau lại là sự kiểm chứng tính đúng đắn của giai đoạn trước và tất cả các

giai đoạn này hợp thành một quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Dưới góc độ này, thủ tục pháp lý giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể

chia ra thành các giai đoan và trong mỗi giai đoạn có những hành vi mang

tính pháp lý quan hệ mật thiết với nhau: giai đoạn tiếp nhận, thụ lý khiếu nại,

tố cáo; giai đoạn xem xét, xác minh ra quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo

của cơ quan nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đều

23

phải thực hiện bằng hàng loạt các hoạt động nối tiếp nhau theo một trình tự

nhất định, cụ thể như sau:

1.2.6.1. Giai đoạn tiếp nhận và thụ lý khiếu nại, tố cáo

Tiếp nhận và thụ lý khiếu nại, tố cáo là hoạt động khởi đầu của tiến

trình thực hiện thủ tục pháp lý giải quyết khiếu nại, tố cáo, là cầu nối giữa

Nhà nước và nhân dân. Do đó hoạt động tiếp nhận khiếu nại, tố cáo phải được

tiến hành theo thủ tục pháp lý chặt chẽ, công khai và dân chủ, thể hiện bản

chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Việc tiếp nhận và

thụ lý khiếu nại, tố cáo là giai đoạn mở đầu của thủ tục pháp lý giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Khác với các loại thủ tục khác, việc mở thủ tục có thể do

chính cơ quan tiến hành thủ tục thực hiện, còn trong hoạt động giải quyết

khiếu nại, tố cáo thì việc mở thủ tục là theo đơn khiếu nại, tố cáo của công

dân hoặc theo yêu cầu, đề nghị của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức,

đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng hoặc của các đại biểu quốc hội, đại biểu

HĐND.

Kết quả hoạt động của giai đoạn này giúp cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và người khiếu nại, tố cáo biết được tính hợp pháp, hợp lý của nội dung

khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, là mốc thời gian để

xác đinh thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo và là cơ sở để người khiếu nại,

tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kết quả hoạt động của giai đoạn

này còn giúp cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong cơ

quan nhà nước đề ra các phương án hành vi cụ thể cho các hoạt động trong

giai đoạn tiếp theo.

1.2.6.2. Giai đoạn xem xét, xác minh ra quyết định giải quyết khiếu nại,

tố cáo

Đây là giai đoạn chủ yếu và trung tâm của thủ tục pháp lý giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Kết quả giải quyết của giai đoạn này ảnh hưởng trực tiếp

24

đến vụ việc và các bước thực hiện tiếp theo trong các giai đoạn sau này. Thực

chất của các hoạt động trong giai đoạn này là thực hiện điều tra theo thủ tục,

nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ việc khiếu nại, tố cáo, đánh giá một cách

khách quan và toàn diện về vụ việc khiếu nại, tố cáo trên cơ sở hồ sơ, chứng

cứ thu thập, kết quả đối thoại, kết quả giám định…

Kết quả của các hoạt động trong giai đoạn này là cơ sở pháp lý để

người có thẩm quyền thực hiên việc lựa chọn quy phạm pháp lý tương ứng

với tình trạng của khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa quan trọng, không chỉ bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước mà còn có thể kết luận

một giai đoạn khiếu nại; một vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân và cũng

có thể làm phát sinh các khiếu nại, tố cáo tiếp theo tới các cơ quan nhà nước

cấp trên hoặc làm phát sinh khiếu nại, tố cáo hành chính tại tòa án.

1.2.6.3. Giai đoạn thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo

Việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo là giai đoạn kết

thúc thủ tục pháp lý giải quyết khiếu nại, tố cáo, kết thúc vụ việc khiếu nại, tố

cáo khi mà các chủ thể tham gia quan hệ đều tuân thủ nghiêm chỉnh yêu cầu

của pháp luật, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo được ban hành hợp pháp

và hợp lý, không bị khiếu nại, tố cáo tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính đối

với giải quyết khiếu nại hành chính.

Giai đoạn thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng, nhất là vẫn còn tình trạng quyết định giải quyết khiếu nại

đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được tổ chức thi hành nghiêm túc.

Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó không

được trở thành hiện thực, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của nhà

nước không được bảo đảm. Việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố

cáo phải được tổ chức công khai theo đúng trình tự, thủ tục và trong thời hạn

luật định. Do tính chất của mỗi vụ việc khiếu nại, tố cáo việc thi hành quyết

25

định giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng phải được bảo đảm về hình thức quy

mô tổ chức, cách thức tiến hành cho phù hợp với từng hoàn cảnh và khả năng

thi hành quyết định của mỗi chủ thể.

Để việc thi hành giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật

đạt hiệu quả, cơ quan hành chính nhà nước và các cấp có thẩm quyền phải

phối hợp chặt chẽ vận động, thuyết phục, giải thích, hướng dẫn cho người

khiếu nại, tố cáo và những người có liên quan tự nguyện chấp hành, thực hiện

quyết định và nên cưỡng chế khi đã áp dụng các phương pháp vận đông,

thuyết phục, giải thích mà người khiếu nại, tố cáo và những người có liên

quan không tự nguyện thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo.

1.2.6.4. Giai đoạn xem xét quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã

ban hành

Giai đoạn này có ý nghĩa thực tế nhằm đảm bảo pháp chế, kỷ luật trong

hoạt động của cơ quan nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân. Việc xem xét lại quyết định khiếu nại, tố cáo đã ban hành thể hiện

thiện chí và trách nhiệm của cơ quan nhà nước trước những quyết định của

mình.

Việc xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã ban hành chỉ

được thực hiện khi: phát sinh khiếu nại, tố cáo của công dân, khi phát hiện

những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ việc giải quyết khiếu nại,

tố cáo, khi có kiến nghị hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc thông

qua các kênh thông tin mà phát hiện những sai trái của nội dung giải quyết

khiếu nại, tố cáo… quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo là kết quả của quá

trình thực hiện thủ tục pháp lý giải quyết khiếu nại, tố cáo, quá trình này được

tiến hành qua nhiều giai đoạn, nhiều hoạt động mang tính thủ tục và được

thực hiện bởi nhiều cán bộ, công chức có thẩm quyền.

26

Trên đây là các giai đoạn gắn với nội dung phải thực hiện trong quy

trình thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo mà pháp luật đã quy

định. Các giai đoạn này có thể xem là sự thể hiện trong thực tế một loại chức

năng của cơ quan nhà nước trong quá trình giải quyết các yêu cầu của công

dân. Chúng có liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau khi thực

hiện mục đích chung đã được đề ra với sự quán triệt nguyên tắc pháp chế

trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo.

1.3. Những yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính sách

giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.3.1. Yếu tố chính trị

Chế độ chính trị của quốc gia có ý nghĩa quyết định về việc tổ chức

chính quyền quản lý hành chính nhà nước. Chế độ chính trị được thiết kế

quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ

bảo đảm quyền con người; quyền công dân, đề cao trách nhiệm của nhà nước

trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền

khiếu nại, tố cáo nói riêng thì sẽ bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người

dân được thực hiện, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được khách quan, tuân

thủ theo quy định của pháp luật.

Ngược lại, một chế độ chính trị không dân chủ, chuyên quyền, độc

đoán, quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thì quyền khiếu nại, tố

cáo cũng sẽ bị “tướt đoạt”; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng sẽ bị bóp

méo, không khách quan, sai sự thật…

1.3.2. Yếu tố pháp luật

Pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyền

khiếu nại, tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu nại, tố cáo muốn đạt hiệu quả

cao, trướt hết pháp luật hành chính phải phù hợp với hệ thống pháp luật chung

và nội tại không chồng chéo, mâu thuẫn nhau; các quy định pháp luật về giải

27

quyết khiếu nại, tố cáo phải chặt chẽ, quy định rõ thẩm quyền trình tự thủ tục

giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; quy định rõ

quyền và nghĩa vụ của công dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; đảm bảo

pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền khiếu nại của

công dân. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, mâu thuẫn nhau

sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến các lĩnh vực

đất đai, xây dựng, đô thị, tài chính…

Trong một thời gian dài, các quy đinh pháp luật về giải quyết khiếu nại,

tố cáo hành chính có sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn về thời hiệu khiếu nại, về

khiếu nại, khiếu nại lần 2, giữa luật khiếu nại, tố cáo và các luật khác như

Luật đất đai 2003, Luật lao động; dẫn tới việc áp dụng trên thực tế có nhiều

vướng mắc, ảnh hưởng đến việc giải quyết khiếu nại. Hiện nay, cùng với việc

ban hành Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2018, sửa đổi Luật đất

đai năm 2003 và sửa đổi, bổ sung, ban hành một số văn bản pháp luật mới

liên quan đến vấn đề giải quyết khiếu nại tố cáo; hệ thống pháp luật về giải

quyết khiếu nại, tố cáo của nước ta đã cơ bản đầy đủ.

1.3.3. Yếu tố tổ chức bộ máy

Hệ thống tổ chức, bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước có vai trò

quan trọng, có tác động ảnh hưởng đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bộ

máy càng gọn nhẹ bao nhiêu, chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền cho các cơ

quan hành chính có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo rõ ràng, minh

bạch bao nhiêu thì việc giải quyết khiếu nại, tố cáo càng hiệu quả bấy nhiêu.

Ngược lại, bộ máy hành chính nhà nước càng cồng kềnh, chức năng, nhiệm

vụ, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước về giải quyết khiếu nại chồng chéo

nhau thì việc giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ lúng túng, nhiều cơ quan, cá nhân

có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết nhưng sẽ không có cơ quan, các

nhân có thẩm quyền nào chịu trách nhiệm.

28

Đối với UBND cấp huyện, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta

rất quan tâm đến cơ cấu tổ chức bộ máy liên quan đến công tác quản lý nhà

nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đảng chỉ đạo thành lập mới các Ban tiếp

công dân, tuyển dụng cán bộ, bổ sung thêm chức năng nhiệm vụ cho thanh tra

các quận, huyện. Tuy nhiên vấn đề chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn

còn có hạn chế nhất định trong việc chịu trách nhiệm, chế độ kỷ luật hành

chính của lãnh đạo UBND cấp huyện vẫn chưa được đề cao.

1.3.4 Yếu tố cán bộ, công chức

Yếu tố cán bộ, công chức là nội dung quan trọng trong hoạt động của

nền hành chính quốc gia. Trong thời kỳ đổi mới, cán bộ, công chức vừa là đối

tượng của quá trình đổi mới, cải cách, vừa là thước đo của quá trình đổi mới,

dân chủ hóa đời sống xã hội. Tổ chức và quản lý các hoạt động liên quan đến

công vụ, công chức nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, luôn

luôn đổi mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo, sử dụng quản lý cán bộ công chức

phù hợp với thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ hết sức quan

trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả trong quản lý hành chính Nhà

nước và cũng là yếu tố ảnh hưởng liên quan đến khiếu nại và giải quyết khiếu

nại hành chính của công dân.

Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo về số

lượng và chất lượng cán bộ, công chức tham gia tiếp dân, tham mưu giải

quyết khiếu nại, phải nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ công chức chú

trọng đào tạo xậy dựng cán bộ công chức phải “có cái tâm” trong giải quyết

khiếu nại.

Yếu tố cán bộ, công chức nếu không làm tốt và kiểm soát chặt chẽ thì

sẽ phát sinh các tiêu cực ảnh hưởng đến đạo đức, tác phong, lề lối làm việc

của công chức, giảm sức sáng tạo trong hoạt động công vụ, giảm hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức Nhà nước trong quá trình phục

29

vụ nhân dân. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu kém về năng

lực, chuyên môn, kỹ năng hành chính, phong cách làm việc ở một bộ phận

cán bộ, công chức là nguyên nhân phát sinh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.

1.3.5 Các yếu tố về tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính

Trong các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo

có thể kể đến yếu tố về tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính. Đầu tư

cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với các phòng tiếp dân, xây dựng chính phủ

điện tử, hiện đại hóa công sở và phong cách của người cán bộ khi tiếp dân,

chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, tham mưu

giải quyết khiếu nại, tố cáo khắc phục tình trạng cán bộ năng lực yếu, không

sắp xếp được công việc nào thì cho tiếp dân.

Hiện đại hóa nền hành chính, trong đó có hiện đại hóa việc tiếp dân, xử

lý đơn thư, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo sẽ giúp cho nghiệp vụ, trình độ

chuyên môn của cán bộ làm công tác này ngày càng nâng cao hơn. Công việc

quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng sẽ hiệu quả và chuyên

nghiệp hơn.

Ngoài ra có thể thấy các yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới hoạt động giải

quyết khiếu nại hành chính. Đó là các yếu tố truyền thống văn hóa, phong tục,

tập quán, ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trong quá trình hội nhập.

Tiểu kết chương 1

Tóm lại khiếu nại, tố cáo là quyền dân chủ cơ bản của công dân. Giải

quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước chính là bảo đảm,

bảo vệ quyền này; thực hiện bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

phải tuân thủ nguyên tắc tuân thủ đầy đủ, đúng quy định của pháp luật về

thẩm quyền, thời hạn giải quyết kịp thời để khôi phục quyền lợi ích hợp pháp

của nhà nước, công dân, tổ chức. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo các yếu tố

30

ảnh hưởng tới việc giải quyết rất nhiều nhưng có thể khái quát lại là: yếu tố

chính trị, kinh tế, văn hóa (trong đó trình độ hiểu biết, nâng cao ý thức của cả

người giải quyết, cán bộ, công chức và công dân, tổ chức là nhân tố ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả giải quyết), hệ thống pháp luật. Các cơ quan

hành chính nhà nước và cán bộ, công chức nhất là ở cấp cơ sở phải chấp hành

nghiêm chỉnh quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết,

thười hạn giải quyết kịp thời những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Các

cấp ủy Đảng, cơ quan hành chính nhà nước phải tăng cường chỉ đạo, hướng

dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã

có hiệu lực pháp luật. Việc tăng cường hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại,

tố cáo là nhiệm vụ chính trị của cả hệ thống chính trị cho nên phải sử dụng

sức mạnh tổng hợp của các cấp ủy, chính quyền và phải sử dụng nhiều biện

pháp như tuyên truyền, hành chính, tổ chức,…. Giải quyết khiếu nại, tố cáo

phải khách quan, công tâm, đúng pháp luật, tôn trọng quyền dân chủ của nhân

dân và đặc biệt phải có dũng khí nhận trách nhiệm, nhận sai, sửa sai.

31

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU

NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Thực trạng các yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính

sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Về vị trí địa lý, Quế Sơn là huyện trung du của tỉnh Quảng Nam. Tổng

diện tích tự nhiên của huyện 251,17km2 , nằm cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 30 km về

phía Tây Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam. Có tọa độ

địa lý cụ thể như sau:

+ Từ 25 o 38’25” - 15o 49’51” vĩ độ Bắc.

+ Từ 108o 06’58” - 108o 20’51” kinh độ Đông.

Quan hệ lãnh thổ: Phía Bắc giáp huyện Duy Xuyên; phía Nam giáp

huyện Hiệp Đức; phía Đông giáp huyện Thăng Bình; phía Tây giáp huyện

Nông Sơn.

Quế Sơn được định hướng là hạt nhân phát triển cho Cụm động lực

vùng Đông và hành lang Trung tỉnh Quảng Nam. Với vị trí như trên, Quế Sơn

đảm nhiệm vai trò rất quan trọng đó là: Kết nối với huyện Thăng Bình và Duy

Xuyên hình thành Cụm động lực vùng Đông của tỉnh, làm động lực phát triển

khu vực hành lang Trung Quảng Nam theo trục ngang. Nằm trong hành lang

phát triển Trung Quảng Nam bao gồm Duy Xuyên, Thăng Bình, Hiệp Đức,

Nông Sơn, Phước Sơn. Đây là hành lang nằm giữa của tỉnh, có ưu thế lớn

trong việc thu hút các cơ sở sản xuất, chế biến nông lâm sản, khoáng sản có

địa bàn khai thác rộng, nhiều nơi trên toàn tỉnh. Là cửa ngõ của vùng Tây

Nguyên, đóng vai trò trung gian trong các liên kết: Quảng Nam với Tây

Nguyên, vùng Nam Quảng Nam, Chu Lai - Dung Quất với vùng Nam Lào,

Đông Bắc Thái Lan.

32

Về kinh tế huyện Quế Sơn có độ tăng trưởng kinh tế khá, quy mô giá trị

sản xuất liên tục tăng. Năm 2017, giá trị sản xuất đạt 1.039,155 tỷ đồng, tăng

gấp 1,9 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần

tỷ trọng công nghiệp, thương mại dịch vụ. Năm 2010, tỷ trọng nông - lâm

nghiệp chiếm 46,9%, Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và Thương mại -

Dịch vụ 53,1%. Cuối năm 2017 cơ cấu này là 25,69% - 74,31%. Giá trị sản

xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2010 - 2017 tăng bình quân 3,6%/ năm; giá

trị sản xuất trên một đơn vị diện tích tăng từ 15,5 triệu đồng/ha (năm 2010)

lên 49,65 triệu đồng/ha (năm 2013). Hoạt động thương mại, dịch vụ ngày

càng phong phú, đa dạng, rộng khắp đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời

sống nhân dân. Hệ thống các chợ được xây mới, nâng cấp sửa chữa, đảm bảo

nhu cầu trao đổi hàng hóa; giá trị thương mại - dịch vụ tăng bình quân hằng

năm trên 13%. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện hằng năm

đều vượt chỉ tiêu giao, thu phát sinh kinh tế tăng bình quân 15%/năm.

Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đường xã và đường dân sinh quy mô

mặt cắt còn nhỏ, mặt đường xuống cấp, hư hỏng. Địa hình bị chia cắt bởi

nhiều sông suối, đặc biệt là khu vực phía Tây, các đường giao thông có nhiều

cầu cống, khó khăn cho việc xây dựng cũng như đi lại và vận chuyển.

Về văn hóa - xã hội theo số liệu điều tra năm 2014 thì dân số toàn

huyện là: 83.980 người, với mật độ dân số là 392,89 người/km2. Dân cư tập

trung đông tại các khu vực như Đông Phú (659 người/km2), Hương An (636

người/km2), Quế Xuân 1 (933 người/km2), một số xã như Quế Phong, Quế

Hiệp mật độ dân cư thưa thớt hơn (85-180 người/km2). Huyện Quế Sơn là

một huyện có nguồn lao động dồi dào, đảm bảo điều kiện để phát triển kinh

tế. Nhưng chất lượng lao động còn thấp, phần lớn chưa qua đào tạo, lao động

phổ thông là chính chiếm trên 81% số lao động tham gia sản xuất nông

nghiệp. Toàn huyện hiện có 46 trường học gồm: 15 trường mẫu giáo; 15

33

trường tiểu học; 12 trường trung học cơ sở; 04 trường trung học phổ thông.

Trên địa bàn huyện hiện có 01 bệnh viện (115 giường), 01 phòng khám khu

vực tại Quế Phú (05 giường) và 14 trạm y tế xã, thị trấn (28 giường). Tỷ lệ

giường bệnh là 14 giường/vạn dân, thấp hơn so với toàn tỉnh (20 giường/vạn

dân).

Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tập trung giải quyết tốt các

vấn đề xã hội: Các chính sách - xã hội được triển khai thực hiện đầy đủ, chu

đáo. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, tìm kiếm quy tập mộ liệt sĩ, giải quyết các

chế độ chính sách đối với thương binh, liệt sĩ, với người có công cách mạng

được đặc biệt quan tâm. Các chương trình mục tiêu giảm nghèo, giải quyết

việc làm được triển khai thực hiện hiệu quả. Bình quân mỗi năm có trên 5.500

lao động được giải quyết việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27,6% (năm 2010)

xuống còn 8,02% (năm 2017). Kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống được

nâng lên, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 12 triệu đồng/người/năm

(2010) lên 23,8 triệu đồng/người/năm (năm 2017); đời sống vật chất và tinh

thần của người dân được cải thiện đáng kể.

Về hệ thống chính trị của huyện Quế Sơn gồm 13 xã và 01 thị trấn

được cấu thành như sau: 01 thị trấn (thị trấn Đông Phú); 04 xã đồng bằng

(Quế Xuân 1, Quế Xuân 2, Quế Phú, Hương An); 07 xã trung du (Quế

Cường, Phú Thọ, Quế Thuận, Quế Châu, Quế Minh, Quế An, Quế Long); 02

xã miền núi (Quế Phong, Quế Hiệp).

Các tổ chức của hệ thống chính trị cấp xã của huyện Quế Sơn gồm:

Đảng bộ, HĐND, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân. Trong

những năm qua, hệ thống chính trị của huyện kiên trì phát huy những mặt

thuận lợi, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp

cách mạng của địa phương đạt được những thành tựu to lớn hơn, có ý nghĩa

34

rất quan trọng. Kinh tế - xã hội liên tục phát triển, các chỉ tiêu nghị quyết đại

hội đề ra đều đạt và vượt chỉ tiêu; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

từng bước được cải thiện và nâng lên; chính trị ổn định, quốc phòng an ninh

được giữ vững, công tác vận động quần chúng, xây dựng chính quyền và xây

dựng Đảng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Có thể khẳng định

những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân huyện Quế Sơn đạt được trong

những năm qua là rất lớn, thể hiện tính quyết tâm cao của đảng bộ và nhân

dân.

Từ những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Huyện Quế Sơn như

đã nêu ảnh hưởng trực tiếp về mọi mặt phát triển kinh tế - xã hội, công tác tổ

chức, quản lý nhà nước và tác động đến việc thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Từ năm 2014 đến nay

trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam tình trạng đơn thư tố cáo, khiếu

nại có chiều hướng gia tăng, trong đó có những vụ việc nổi cộm kéo dài như

vụ việc khiếu nại và sau đó tố cáo đối với UBND xã Quế Châu:

Qua đơn thư tố cáo của công dân ngày 25/4/2017, Chủ tịch UBND

huyện Quế Sơn có Quyết định số 377/QĐ-UBND về việc thanh tra đột xuất

đối với UBND xã Quế Châu về việc ban hành và thực hiện chủ trương quy

hoạch chi tiết Khu dân cư đoạn từ Chợ Đàng đến giáp Trường THCS Quế

Châu. Quá trình thanh tra, đã làm việc với lãnh đạo, kế toán, thủ quỹ, cán bộ

địa chính UBND xã Quế Châu qua các thời kỳ, các hộ dân đã nộp tiền năm

1992 nhưng chưa được cấp đất, những người có trách nhiệm và quyền lợi liên

quan; kiểm tra hồ sơ, xác minh trực tiếp các nội dung thanh tra để tổng hợp và

báo cáo kết quả. Năm 1992 trong quá trình quản lý nhà nước, UBND xã đã có

chủ trương ban hành Nghị quyết về việc thu kinh phí xây dựng cơ bản trên địa

bàn xã Quế Châu, mà cụ thể là các hộ dân có nhu cầu về đất xây dựng nhà ở

tại khu vực mặt đường 611, đoạn từ Chợ Đàng giáp với Trường THCS Quế

35

Châu, ứng trước kinh phí để UBND xã xây dựng quy hoạch chi tiết khu dân

cư và giao đất, từ đó đến năm 2017 UBND xã Quế Châu không thực hiện và

không có phương án giải quyết hợp tình hợp lý. Sự việc này kéo dài không

được giải quyết dứt điểm gây bức xúc trong nhân dân.

Trên cơ sở Nghị quyết, Phiếu thu, Biên bản thu tiền do các hộ dân cung

cấp; Quyết định phê duyệt mặt bằng bố trí chi tiết đất ở khu dân cư Chợ

Đàng, thôn 4, xã Quế Châu năm 2000, 2010; Biên bản làm việc với các cá

nhân, tập thể có liên quan… Đoàn đã tiến hành thanh tra, kiểm tra từng nội

dung, đối chiếu với Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất

đai năm 1993, Luật Đất đai sửa đổi năm 1998, Luật Đất đai năm 2003, Luật

Đất đai năm 2013 và các quy định khác liên quan, đi đến tổng hợp kết quả

như sau: Ngày 21/4/1992, UBND xã Quế Châu ban hành Nghị quyết về việc

thu kinh phí xây dựng cơ bản trên địa bàn xã. Nội dung chính của Nghị quyết

là làm bản vẽ quy hoạch tổng thể khu dân cư trên địa bàn xã nhưng kinh phí

xã khó khăn, do vậy hộ nào đăng ký xây dựng nhà ở trên tuyến đường từ ngõ

Cổng chào đến Chợ Đàng thì UBND xã thu tạm ứng trước 50% (1.000.000

đồng) theo quy định chung của xã là 2.000.000 đồng; sau khi có bản vẽ cụ thể

cho từng hộ thì Ủy ban sẽ cắt đất và thu hết toàn bộ chi phí mà xã đã quy định

trên; nếu có gì trở ngại cho việc hợp đồng thì UBND xã sẽ trả lại toàn bộ chi

phí mà xã đã thu tạm ứng trước. Sau khi ban hành Nghị quyết 10 hộ có nhu

cầu về đất ở đến UBND xã Quế Châu nộp tiền với mỗi hộ là 1.000.000 đồng

và kế toán xã viết phiếu thu cho từng hộ. Tuy nhiên, việc thực hiện quy hoạch

không thành công là do diện tích đất đó là đất lúa, không thể quy hoạch thành

đất ở. Thực hiện quy hoạch không thành công, UBND xã Quế Châu không

giải quyết được nhu cầu đất ở cho nhân dân. Từ năm 1992 đến năm 1994 các

hộ dân thường đến UBND xã để đòi lại tiền nhưng UBND xã không có nguồn

36

để chi trả lại cho nhân dân, xã đã vận dụng khấu trừ hay chuyển từ người này

qua người kia.

Ngày 22/12/1999, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số

3690/QĐ-UB phê duyệt phương án bố trí đất ở xen cư xã Quế Châu, huyện

Quế Sơn. Ngày 30/9/2010, UBND huyện ban hành Quyết định số 1125/QĐ-

UBND về việc phê duyệt Phương án và giá khởi điểm để bán đấu giá nhận

quyền sử dụng đất ở tại KDC Chợ Đàng là 13 lô và 01 lô đất chỉnh trang

thuộc KDC thôn 4, xã Quế Châu, huyện Quế Sơn. Ngày 15/01/2011, UBND

xã bán đấu giá 06 lô đất (từ lô số 01 đến lô số 06), mỗi lô có diện tích 104m2.

Sau khi bán đấu giá thì 07 hộ dân có đơn khiếu nại việc thu tiền của các hộ

nhưng không được cấp đất. Để giải quyết vụ việc UBND xã Quế Châu tiến

hành họp và thống nhất ban hành Phương án số 03/PA-UBND ngày

30/5/2012 về việc giao đất cho 07 hộ gia đình, cá nhân. Tại Phương án,

UBND xã xây dựng giá đất mỗi lô là 237.000.000đồng/lô lấy theo chỉ số bình

quân của 06 lô đã tổ chức đấu giá vào ngày 15/01/2011 làm căn cứ, năm 1992

UBND xã đã thu của mỗi hộ 1.000.000 đồng, tính nay được khấu trừ lại

25.000.000 đồng. Tuy nhiên, Phương án này khi UBND trình lên huyện thì

không được phê duyệt. Vì vậy, vẫn chưa giải quyết cấp đất được cho 07 hộ

dân. Tổng kinh phí mà UBND xã còn nợ của 07 hộ dân là 6.700.000 đồng.

Vấn đề thu tiền của nhân dân mà không giải quyết dứt điểm. Sự việc này đã

được UBND xã Quế Châu và các hộ dân nhiều lần làm việc.

Qua kiểm tra UBND huyện kết luận như sau: UBND xã Quế Châu ban

hành Nghị quyết là chưa phù hợp với Hiến pháp năm 1992 về nhiệm vụ,

quyền hạn của UBND cấp xã. Điều 124, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Uỷ

ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra

quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”. Trong phạm

vi quyền hạn, nhiệm vụ của UBND cấp xã không được ban hành Nghị quyết.

37

Như vậy, việc thực hiện chủ trương quy hoạch là ban hành Nghị quyết để thu

tiền của nhân dân là sai.

Căn cứ vào hệ thống pháp luật đất đai gồm: Luật Đất đai 1987, Luật

Đất đai 1993, Luật Đất đai sửa đổi năm 1998, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai

năm 2013 và các văn bản dưới Luật thì không thể giao đất được cho các hộ

dân. Bởi lẽ diện tích đất này chưa được sử dụng. Như vậy, tại thời điểm năm

1992, vị trí quy hoạch chưa được phê duyệt, UBND xã Quế Châu thu tiền của

dân nhưng không thể cấp được đất cho dân. Việc thực hiện quy hoạch không

thành công. Hơn nữa, UBND xã cũng không trả lại tiền cho nhân dân. Việc

thu tiền của UBND xã Quế Châu là sai. Kết quả xử lý sau thanh tra như sau:

Chỉ đạo UBND xã Quế Châu tổ chức kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm tập

thể lãnh đạo UBND, nguyên chủ tịch, cán bộ địa chính, kế toán và các cá

nhân liên quan chưa làm hết trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao

dẫn đến sai phạm trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Chỉ đạo UBND

xã Quế Châu trả tiền lại cho nhân dân theo mức lãi suất ngân hàng quá hạn

(căn cứ vào hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh khu vực Đà

Nẵng) hoặc hướng dẫn hộ dân khởi kiện tại Tòa án nhân dân để bảo vệ quyền

lợi của mình. Chỉ đạo phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tăng cường

hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, thường xuyên hướng dẫn chuyên môn,

nghiệp vụ đối với các xã, thị trấn nói chung và UBND xã Quế Châu nói riêng

để kịp thời uốn nắn, sửa chữa sai sót trong quản lý đất đai, giúp địa phương

thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản dưới Luật [18].

2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại

tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Tổ chức thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại tại huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

38

Trong những năm qua, công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn huyện

Quế Sơn đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi vào nền nếp, giải quyết

được một số lượng lớn các vụ việc, chất lượng giải quyết được nâng lên,

nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo dài đã được Huyện

ủy, UBND huyện và các xã, giải quyết dứt điểm, quyền và lợi ích hợp pháp

của người dân được khôi phục góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hôi, phục vụ phát triển – xã hội của huyện trong những

năm qua.

Thường vụ cấp ủy, chính quyền huyện Quế Sơn xác định công tác tiếp

dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân là nhiệm vụ thường xuyên

của cả hệ thống chính trị; chủ động nắm chắc tình hình khiếu nại, đặc biệt là

những vụ việc đông người, phức tạp; tổ chức các hội nghị triển khai và sơ kết,

tổng kết công tác giải quyết khiếu nại; tập trung rà soát và phối hợp để giải

quyết dứt điểm các vụ khiếu nại tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Sau các cuộc

họp giao ban, tổng kết giải quyết khiếu nại có các văn bản kết luận, lãnh đạo,

chỉ đạo chấn chỉnh trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thường trực

HĐND, các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát hằng năm xây dựng kế

hoạch giám sát chuyên đề hoặc đột xuất đối với công tác giải quyết khiếu nại,

tố cáo. Huyện ủy đã chỉ đạo UBND huyện xây dựng và triển khai có hiệu quả

tích cực chương trình đẩy mạnh cải cách hành chính trên địa bàn huyện Quế

Sơn của cấp ủy Đảng, hiệu lực, hiệu quả trong công tác điều hành của các cấp

chính quyền; tăng cường, kỷ luật, kỷ cương hành chính; nâng cao ý thức phục

vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Các thủ tục hành chính được thực

hiện đúng quy trình, quy chuẩn hóa, công khai, minh bạch; đẩy mạnh ứng

dựng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính [19].

UBND huyện đã ban hành Quyết định thành lập và kiện toàn Tổ tiếp

công dân, Ban tiếp công dân trực thuộc Văn phòng HĐND - UBND do một

39

Phó Chánh văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý. Ban tiếp

công dân có đại diện các phòng, ban giữ vai trò tham mưu chủ chốt cho

UBND Huyện về công tác giải quyết tố cáo. Đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác giải quyết khiếu nại luôn được tổ chức kiện toàn căn cứ quy định

theo hướng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiếp công dân

có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tạo điều kiện thuận lợi

cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trụ sở

tiếp công dân của Huyện ủy - HĐND - UBND huyện được đầu tư xây dựng

khang trang; trang bị đầy đủ thiết bị tạo thuận lợi cho công tác tiếp dân; Trụ

sở UBND các xã, thị trấn bố trí phòng tiếp công dân theo quy định; công nghệ

thông tin được ứng dụng tạo hệ thống cơ sở dữ liệu về tiếp công dân, giải

quyết đơn khiếu nại, tố cáo, lãnh đạo HĐND - UBND huyện thường xuyên

tiếp công dân theo lịch công khai; kịp thời chỉ đạo giải quyết việc khiếu nại

đông người, phức tạp.

2.2.2. Kết quả thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại và nguyên

nhân

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Quế

Sơn hoạt động giải quyết khiếu nại được thực hiện nghiêm túc ngay từ giai

đoạn thụ lý, thẩm tra xác minh, kết luận và ban hành quyết định quyền khiếu

nại cho đến giai đoạn thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại. Nhờ đó, công

tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại trên địa bàn huyện đã

chuyển biến tích cực, tuy số lượng đơn thư có tăng nhưng không gay gắt,

không phát sinh điểm nóng. Trong công tác giải quyết khiếu nại luôn có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng HĐND, UBND, Ủy ban mặt

trận tổ quốc, các ngành trong khối tư pháp của huyện tạo nên sự thống nhất

chung trong việc quản lý, chấp hành và giám sát hoạt động tiếp nhận và giải

40

quyết khiếu nại góp phần ngăn ngừa phát sinh các điểm nóng, hạn chế khiếu

kiện vượt cấp.

Từ năm 2014 đến năm 2018, trên toàn huyện Quế Sơn đã tiếp nhận 515

đơn trong đó có 179 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết và kết quả

giải quyết như sau:

Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả giải quyết khiếu nại tại huyện Quế

Sơn, tỉnh Quảng Nam [20], [21], [22], [23]

Cấp huyện Cấp xã

Thuộc Thuộc

Năm thẩm Đã giải thẩm Đã giải Tỷ lệ Tỷ lệ quyền giải quyết quyền giải quyết

quyết quyết

94 (%) 25 25 100(%) 36 34 2014

35 34 97 (%) 2015 2 2 100 (%)

3 3 100 (%) 2016 4 1 25 (%)

22 20 91 (%) 2017 1 1 100 (%)

22 20 91 (%) 2018 29 29 100 (%)

Tổng 118 111 94 (%) 61 58 95 (%)

Công tác tiếp công dân luôn được lãnh đạo các cấp, các ngành trên địa

bàn huyện quan tâm. Việc tổ chức tiếp dân được phối hợp nhịp nhàng với quy

trình cải cách thủ tục hành chính nên ngày càng đi vào nề nếp và hiệu quả.

Các phòng tiếp dân đều được bố trí cán bộ tiếp dân, nội quy, lịch tiếp dân

được niêm yết công khai, sổ tiếp công dân và sổ theo đơn được ghi chép đầy

đủ, phản ánh đúng nội dung đơn của công dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi đối

với người dân đến khiếu nại.

41

Chủ tịch UBND các xã, thị trấn đã chấp hành tốt sự chỉ đạo của UBND

huyện, tổ chức trực tiếp tiếp dân, giải quyết tại chỗ những kiến nghị, yêu cầu,

khiếu nại của công dân đồng thời sắp xếp bố trí để lãnh đạo huyện tiếp dân.

Đa số các yêu cầu, kiến nghị của công dân đã được giải quyết có lý, có tình

được nhân dân đồng tình ủng hộ giảm thiểu việc khiếu nại phức tạp, vượt cấp,

đông người và không để xảy ra điểm nóng.

Việc giải quyết khiếu nại của công dân được thực hiện đảm bảo đúng

trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, thấu tình, đạt lý. Việc tiếp nhận,

thụ lý đơn khiếu nại, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính

nhà nước đã được thực hiện theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục. Các

quy định về thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết, đúng trình tự, thủ tục.

Trong quá trình giải quyết đơn, luôn coi trọng công tác hòa giải ở cơ sở, kết

hợp nhiều hình thức vận động, thuyết phục đối thoại. Việc thẩm tra, xác minh

luôn chú trọng cơ sở pháp lý, so sánh nghiên cứu vận động chế độ chính sách

sao cho phù hợp với tình hình thực tế, điều kiện hoàn cảnh của người khiếu

nại, trên cơ sở đó đã giải quyết đơn khiếu nại một cách thấu tình, đạt lý nên

được các bên đương sự đồng tình chấp hành. Qua rà soát, tỷ lệ đơn tiếp tục

khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính thấp. Hầu hết các quyết định giải

quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật đều được tổ chức thực hiện nghiêm túc.

Công tác giải quyết khiếu nại có nhiều chuyển biến tích cực và đi vào nề nếp.

Hầu hết các đơn khiếu nại, kiến nghị, phản ánh của công dân luôn được các

cấp, các ngành xử lý, giải quyết chấm dứt, chất lượng giải quyết được nâng

lên. Nhiều vụ việc được giải quyết, hòa giải thành ngay từ khi mới phát sinh ở

cơ sở.

Những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại

tại huyện Quế Sơn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến:

42

Thứ nhất, nhờ sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc của Huyện ủy,

chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của mặt trận tổ quốc và các đoàn

thể chính trị - xã hội ở huyện, xã, thị trấn nhất là người đứng đầu các cơ quan

quản lý nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại.

Thứ hai, các cơ quan hành chính, tư pháp huyện đã quan tâm hơn đến

việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tiếp dân; từng bước gắn tiếp dân

với xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại; thực hiện ngày càng có hiệu quả biện

pháp hòa giải tại cơ sở khi giải quyết các vụ việc khiếu nại mới phát sinh; các

cơ quan hành chính, tư pháp cũng đã chú trọng đối thoại với người khiếu nại.

Tăng cường phối hợp giữa các cấp, giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị

để có biện pháp giải quyết đúng pháp luật, có lý, có tình, có tính khả thi cao.

2.2.3. Những hạn chế trong thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại và nguyên nhân

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và cập nhật thông tin hai chiều giữa

trụ sở tiếp công dân và các phòng tiếp dân tại các địa phương, đơn vị, còn hạn

chế nên việc theo dõi, tổng hợp đôn đốc xử lý các thông tin chậm, hiệu quả

chưa cao.

Công tác quản lý nhà nước về khiếu nại ở một số đơn vị, địa phương

chưa tốt, mặc dù việc ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết

khiếu nại đã được thực hiện tương đối toàn diện và kịp thời. Tuy nhiên, việc

theo dõi, đôn đốc, kiểm tra trong tổ chức thực hiện các chỉ đạo chưa được

thường xuyên, sâu sát nên có một số nội dung chỉ đạo xử lý thực hiện chưa

đảm bảo; kế hoạch giải quyết các vụ việc chưa cụ thể.

Các biện pháp phòng ngừa phát sinh khiếu nại đã được các cơ quan

quan tâm, chỉ đạo, nhưng nhiều địa phương, đơn vị chỉ dừng ở mức triển khai

bước đầu, một số nơi còn lúng túng trong việc cụ thể hóa các biện pháp phòng

ngừa phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị, địa phương mình nên hiệu quả

43

trên thực tế còn thấp; các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh nhiều khiếu nại, nhất

là lĩnh vực đất đai vần còn bất cập trong quản lý chậm được khắc phục, chấn

chỉnh.

Việc phân loại, xử lý đơn thư còn chậm, lúng túng; tình trạng xử lý đơn

thư, chuyển đơn lòng vòng, không đúng thủ tục vẫn còn xảy ra; công tác giải

quyết khiếu nại còn chậm, để công dân khiếu nại nhiều lần, vượt cấp. Công

tác phối hợp trong giải quyết các vụ việc liên quan đến nhiều cấp, nhiều

ngành, những việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài còn yếu, thiếu sự chủ động,

còn đùn đẩy.

Việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực

pháp luật còn chậm và thiếu triệt để. Từ đó, người khiếu nại tiếp tục gửi đơn

với thái độ bức xúc hoặc quy sang tố cáo cơ quan nhà nước cố tình bao che

sai phạm, làm giảm lòng tin của người dân vào bộ máy công quyền, làm giảm

hiệu lực, hiệu quả trong giải quyết khiếu nại.

Trong công tác thẩm tra, xác minh, tham mưu giải quyết đơn khiếu nại

trình độ chuyên sâu nghiệp vụ giải quyết khiếu nại của một số cán bộ chưa

thật sự đáp ứng yêu cầu nên chất lượng giải quyết chưa cao.

Những hạn chế trong thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại trên đây

xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu say đây:

Thứ nhất, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ và điều kiện cơ sở vật

chất, tổ chức biên chế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; nhận thức của

các cơ quan về chức năng nhiệm vụ trong giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ,

nhiều cơ quan thiếu hợp tác với nhau. Các địa phương, đơn vị, cơ quan triển

khai khi quán triệt nhiệm vụ trong công tác giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ,

ý thức trách nhiệm của thủ trưởng cấp có thẩm quyền theo luật định và cán

bộ, công chức chưa cao; việc chấp hành ý kiến kết luận, chỉ đạo của cấp trên,

kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; việc tổ chức thi hành quyết định

44

giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật chưa được quan tâm đúng mức,

sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong một số trường hợp còn lúng túng,

bị động, thiếu chặt chẽ, trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại có trường hợp

không rõ ràng.

Thứ hai, chưa gắn công tác tiếp công dân với giải thích cho công dân

hiểu đầy đủ các quy định của pháp luật có liên quan với giải quyết khiếu nại.

Nguồn nhân lực làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại vừa thiếu về số

lượng, vừa còn hạn chế về chất lượng; điều kiện biên chế, nâng cao chất

lượng còn hạn hẹp, dù đã được quan tâm nhưng chậm được cải thiện.

Thứ ba, công tác tuyên truyền phổ biến giáp dục pháp luật về khiếu nại

chưa được các cấp, các ngành quan tâm, đầu tư một cách thỏa đáng, một số

công tác tuyên truyền còn mang tính hình thức, phạm vi phổ biến chưa sâu

trong giải quyết khiếu nại của công dân, trình độ nhận thức pháp luật nói

chung và pháp luật về khiếu nại trong nhân dân chưa đồng đều. Một bộ phận

nhân dân chưa nhận thức và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình

trong việc khiếu nại.

2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại

huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

2.3.1. Tổ chức thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại huyện Quế

Sơn, tỉnh Quảng Nam

Nhằm thực hiện nghiêm chỉnh chính sách giải quyết tố cáo, sau khi

Luật tiếp công dân 2013 (nay là Luật tố cáo số 25/2018/QH14) và Nghị định

số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ có hiệu lực thi hành,

UBND huyện Quế Sơn đã thành lập Ban tiếp công dân thuộc Văn phòng

HĐND & UBND huyện do một đồng chí Phó chánh văn phòng làm Trưởng

ban, thành viên gồm 02 công chức chuyên trách; 9 công chức kiêm nhiệm làm

công tác tiếp dân, xử lý đơn thư. Ban tiếp công dân có trách nhiệm trực

45

thường xuyên tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư tại trụ sở tiếp công dân

của UBND huyện. Ở cấp xã đã thành lập ban tiếp công dân của xã do đồng

chí lãnh đạo UBND xã làm trưởng ban và các thành viên gồm các cán bộ,

công chức, thuộc các ban, ngành đoàn thể của xã. Phân công 01 đồng chí

công chức (tư pháp, văn phòng – thống kê) kiêm nhiệm tiếp công dân thường

xuyên, tiếp nhận, xử lý đơn thư của công dân.

Ở cấp Huyện, sau khi tiếp nhận đơn tố cáo của công dân: nếu đơn đủ

điều kiện xử lý theo quy định thì Ban tiếp công dân huyện xử lý như sau: Đối

với đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND huyện hoặc thủ

trưởng các phòng, ban thuộc huyện thì Trưởng ban tiếp công dân có phiếu đề

xuất Chủ tịch UBND huyện hoặc phó Chủ tịch UBND huyện phụ trách lĩnh

vực giao cơ quan chuyên môn tham mưu giải quyết hoặc giao thủ trưởng

phòng, ban giải quyết. Đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của

Chủ tịch UBND huyện, thường được giao cho Thanh tra huyện tham mưu giải

quyết. Sau đó, ban tiếp công dân có phiếu chuyển đơn đến cơ quan theo đề

xuất và báo tin cho công dân. Đối với đơn không thuộc thẩm quyền của giải

quyết của Chủ tịch UBND huyện hoặc thủ trưởng các phòng, ban thuộc huyện

thì Trưởng ban tiếp công dân có phiếu đề xuất Chủ tịch UBND huyện hoặc

phó chủ tịch UBND huyện phụ trách lĩnh vực chuyển đơn cùng các tài liệu

kèm theo đến cơ quan thẩm quyền để được giải quyết theo quy định. Sau đó,

ban tiếp công dân có phiếu chuyển đơn đến cơ quan theo đề xuất và báo tin

cho công dân.

Ở cấp xã, sau khi tiếp nhận đơn, nếu đơn đủ điều khiện xử lý và thuộc

thẩm quyền, cán bộ tiếp nhận có đề xuất Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch xã giao

các bộ phận chuyên môn tham mưu giải quyết. Nếu đơn không thuộc thẩm

quyền thì hướng dẫn công dân đến cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết.

46

Sau khi được giao nhiệm vụ xác minh tố cáo, cơ quan chuyên môn,

người được giao xác minh tố cáo tiến hành làm việc trực tiếp với người tố cáo

để làm rõ về nội dung tố cáo và các nội dung liên quan. Sau đó báo cáo Chủ

tịch hoặc Phó Chủ tịch cơ quan được giao xác minh ra quyết định thành lập tổ

xác minh. Quá trình xác minh nội dung tố cáo được thực hiện theo quy định

làm việc với người tố cáo, người bị tố cáo, các cá nhân, tổ chức liên quan, xác

minh các tài liệu, thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ, liên quan đến nội dung

tố cáo. Sau đó, căn cứ vào kết quả xác minh tố cáo, tổ xác minh tố cáo có báo

cáo kết quả xác minh cho người được giao xác minh tố cáo; người được giao

xác minh tố cáo (Chánh thanh tra hoặc thủ trưởng cơ quan được giao xác

minh tố cáo) báo cáo kết quả xác minh cho việc giải quyết tố cáo.

Căn cứ vào báo cáo kết quả xác minh của người được giao xác minh tố

cáo (Chánh thanh tra hoặc thủ trưởng cơ quan được giao xác minh tố cáo),

người có thẩm quyền giải quyết tố cáo dự thảo kết luận giải quyết tố cáo.

Trước khi ban hành kết luận giải quyết tố cáo, người giải quyết tố cáo tổ chức

thông qua nội dung dự thảo kết luận giải quyết tố cáo và tổ chức thông qua

nội dung dự thảo kết luận giải quyết tố cáo cho người bị tố cáo, người tố cáo.

Cuối cùng, ban hành kết luận giải quyết tố cáo, gửi đến người tố cáo, người bị

tố cáo và các đơn vị, cá nhân có liên quan. Nếu kết luận nội dụng tố cáo sai,

không đặt ra vấn đề xử lý vi phạm. Nếu kết luận nội dung tố cáo có một phần

đúng, một phần sai hoặc tố cáo đúng, thì tùy vào mức độ sai phạm, người giải

quyết tố cáo có văn bản xử lý theo quy định.

2.3.2. Kết quả thực hiện chính sách giải quyết tố cáo và nguyên nhân

Từ năm 2014 đến năm 2018, trên toàn huyện Quế Sơn đã tiếp nhận 515

đơn trong đó có 63 đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết và kết quả giải

quyết như sau:

47

Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn,

tỉnh Quảng Nam [20], [21], [22], [23]

Cấp huyện Cấp xã

Thuộc thẩm Đã Thuộc thẩm Đã Năm

quyền giải giải Tỷ lệ quyền giải giải Tỷ lệ

quyết quyết quyết quyết

2 2 100 (%) 1 1 100 (%) 2014

2 2 100 (%) 2 2 100 (%) 2015

3 3 100 (%) 3 3 100 (%) 2016

1 1 100 (%) 46 46 100 (%) 2017

2 2 100 (%) 1 1 100 (%) 2018

53 53 100 (%) Tổng 10 10 100 (%)

Công tác giải quyết tố cáo trên địa bàn thực hiện đảm bảo theo quy

định, chất lượng giải quyết tốt. Các nội dung kết luận tố cáo được thực hiện

nghiêm túc. Công tác bảo vệ người tố cáo (bảo vệ danh tính, trù dập, trả

thù,..) được quan tâm. Trong 05 năm không có trường hợp người tố cáo bị trả

thù liên quan đến việc đi tố cáo. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

tiếp tục được quan tâm nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại, tố cáo

trong cán bộ và nhân dân. Hàng năm, huyện đều có các hội nghị tuyên truyền,

phổ biến pháp luật; mở các lớp tập huấn nghiệp vụ liên quan đến công tác tiếp

dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tổ chức tuyên truyền qua hệ thống

đài truyền thanh, phát thanh của huyện, xã góp phần nâng cao nhận thức, ý

thức pháp luật của cán bộ, người dân trên địa bàn. Các cơ quan tham mưu giải

quyết tố cáo, đặc biệt là Thanh tra huyện đã ngày càng nâng cao được năng

lực, trình độ giải quyết vụ việc, luôn đảm bảo tham mưu giải quyết tố cáo

48

đúng quy định. Đồng thời tiến hành các cuộc thanh tra trách nhiệm của các

xã, thị trấn trong công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Qua

đó, kịp thời chấn chỉnh các đơn vị cơ sở trong công tác, góp phần nâng cao ý

thức trách nhiệm của chính quyền cơ sở, theo đó, chất lượng giải quyết đơn

thư trong đó có giải quyết đơn tố cáo được cải thiện. Tình hình kinh tế chính

trị trên địa bàn huyện tương đối ổn định, an ninh trật tự, an toàn xã hội được

đảm bảo, không xảy ra việc tố cáo đông người, phức tạp. Các đơn tố cáo chủ

yếu đơn lẻ liên quan đến mâu thuẫn quyền lợi cá nhân.

Trong những năm vừa qua, Huyện ủy, UBND huyện Quế Sơn luôn

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, trong

đó có đơn thư tố cáo. Chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo nhằm tiếp tục

tăng cường công tác tiếp dân, đặc biệt là đối với các vụ khiếu nại, tố cáo phức

tạp, kéo dài. Bên cạnh đó, huyện đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất phục vụ

công tác tiếp dân, bố trí trụ sở tiếp dân riêng với các trang thiết bị đầy đủ; đội

ngũ cán bộ tiếp dân được lựa chọn, kiện toàn đáp ứng các nhiệm vụ được

giao. UBND huyện Quế Sơn đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo

công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, trong đó có đơn tố cáo. Trong thời gian

từ năm 2014 đến năm 2018, Huyện Ủy, UBND huyện đã ban hành 01 chỉ thị,

03 quyết định, 05 kế hoạch và 15 văn bản chỉ đạo khác về công tác tiếp dân,

giải quyết đơn thư tố cáo. Ngoài ra, hàng năm, UBND huyện còn phê duyệt

kế hoạch thanh tra của Thanh tra Huyện để triển khai trên địa bàn, trong đó có

việc thanh tra trách nhiệm của các đơn vị, xã, thị trấn trong thực hiện công tác

tiếp dân, kết luận có hiệu lực pháp luật. Tình hình kinh tế, chính trị trên địa

bàn huyện tương đối ổn định, an ninh trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo,

không xảy ra việc tố cáo đông người, phức tạp.

Những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại

huyện Quế Sơn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến:

49

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo, văn bản pháp luật chuyên ngành đã được ban hành khá hoàn chỉnh

và đồng bộ, việc tiếp cận văn bản pháp luật, thủ tục hành chính ngày càng dễ

dàng do sự phổ biến của các phương tiện công nghệ thông tin. Hệ thống tổ

chức bộ máy tiếp công dân, giải quyết khiếu nại được tổ chức đồng bộ,

chuyên nghiệp, thông suốt.

Thứ hai, sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền huyện và sự nổ lực, trách

nhiệm của từng cán bộ, công chức, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên

địa bàn huyện; xác định tiếp công dân, giải quyết tố cáo là nhiệm vụ thường

xuyên của huyện; thường xuyên nhắc nhở, chấn chỉnh, nâng cao nhận thức

trách nhiệm của đội ngũ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết

đơn thư. Việc chỉ đạo này được quán triệt từ chính quyền huyện đến cơ sở.

Do đó, tình hình đơn thư tố cáo trên địa bàn huyện trong những năm qua

không có tình trạng tố cáo đông người, phức tạp. Bên cạnh đó, ban pháp chế

của HĐND huyện cũng thường xuyên tổ chức các cuộc giám sát đối với các

đơn vị trong công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư.

Thứ ba, huyện Quế Sơn luôn quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực

phục vụ công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư. UBND huyện đã bố trí trụ sở

tiếp công dân riêng với đầy đủ trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo; hệ thống trang thông tin điện tử của huyện hoạt động

thường xuyên, là kênh tiếp nhận, theo dõi, xử lý kịp thời các kiến nghị, phản

ánh của nhân dân, giải quyết đơn thư đủ về số lượng và chất lượng, góp phần

nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác giải quyết đơn thư trên địa bàn huyện.

Cụ thể là kiện toàn tổ tiếp công dân, sau này là ban tiếp công dân của huyện

theo Luật tiếp công dân. Đây là cơ quan trực tiếp tham mưu cho huyện về

công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Những

năm qua, công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết đơn thư cấp huyện đã đạt hiệu

50

quả cao. Tuy nhiên, cấp xã chưa có cán bộ chuyên môn phụ trách nên công

tác tiếp dân, giải quyết đơn thư còn nhiều hạn chế.

Thứ tư, huyện thường xuyên chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật. Hàng năm đều xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật tên địa bàn toàn huyện. Thường xuyên tổ chức các hội nghị

tuyên truyền các văn bản pháp luật mới; tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ

làm công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư.

2.3.3. Những hạn chế trong thực hiện chính sách giải quyết tố cáo và

nguyên nhân

Việc tổ chức thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn

cũng còn một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, một số lãnh đạo chính quyền đơn vị cơ sở còn chưa quan tâm

đúng mức hoặc coi nhẹ công tác tiếp dân, gây bức xúc cho công dân dẫn đến

đơn thư tố cáo phức tạp. Vẫn còn tư tưởng giải quyết cho xong, không thuyết

phục người dân, công dân không đồng tình tiếp tục tố cáo.

Thứ hai, do năng lực, trình độ, kinh nghiệm và bản lĩnh của một vài cán

bộ phụ trách công tác giải quyết đơn thư tại cơ sở còn chưa đáp ứng được yêu

cầu của công tác giải quyết đơn thư hiện nay nên chất lượng giải quyết tố cáo

tại cơ sở còn thấp thậm chí chưa đảm bảo thủ tục quy định.

Thứ ba, có những vướng mắc đơn giản phát sinh không được hướng

dẫn, giải thích đầy đủ, kịp thời dẫn đến bức xúc thậm chí tố cáo vượt cấp.

Những hạn chế trên đây xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau

đây:

Thứ nhất, cơ chế chính sách vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực

tế, thiếu tính ổn định, nhất là trong lĩnh vực đất đai, bồi thường giải phóng

51

mặt bằng, gây nhiều bất lợi trong áp dụng mâu thuẫn, bức xúc về quyền lợi

cho người dân, dẫn đến đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Thứ hai, đối với công tác giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn, cấp

huyện chủ yếu giao cho Thanh tra huyện tham mưu giải quyết. Thanh tra

huyện là cơ quan chuyên môn giải quyết đơn thư nên việc giải quyết đảm bảo

đúng quy định pháp luật, chất lượng giải quyết tương đối tốt. Tuy nhiên, ở các

phòng, ban khác và cấp xã cán bộ giải quyết đơn thư chủ yếu là kiêm nhiệm,

không có trình độ chuyên môn về giải quyết đơn thư nên còn gặp nhiều khó

khăn.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư còn

thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ do không được đào tạo cơ bản, nhất

là cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tại các xã đều là kiêm

nhiệm, phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ lại không được đào tạo chuyên môn

cơ bản nên việc tự nâng cao trình độ giải quyết chưa thỏa đáng cho người dân

dẫn đến việc người dân tiếp tục có đơn khiếu nại, tố cáo. Một số lãnh đạo

chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ hoặc coi nhẹ tầm quan trọng

của công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư đối với tình hình kinh tế chính trị, an

ninh của địa phương, thậm chí còn coi nhẹ công tác này nên không quan tâm

chỉ đạo, đầu tư thỏa đáng cho công tác giải quyết đơn thư, chưa chú trọng

nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ tham mưu.

Thứ tư, huyện Quế Sơn là một huyện trung du, có 2 xã miền núi nên

điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, cư dân chủ yếu sinh sống

dựa vào nông nghiệp cho nên trình độ dân trí còn hạn chế, nhất là kiến thức

về pháp luật còn chưa đầy đủ, dễ bị lôi kéo, kích động đơn thư khiếu nại, tố

cáo hoặc một số trường hợp do mâu thuẫn lợi ích cá nhân, cố tình tố cáo

không đúng.

52

Tiểu kết chương 2

Qua nghiên cứu tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quế Sơn

cho thấy: hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính trên

địa bàn huyện Quế Sơn được cấp ủy quyền huyện quan tâm coi đó là nhiệm

vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị; hệ thống văn bản chỉ đạo liên tục

qua việc giao ban định kỳ, đột xuất, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cơ bản

tuân thủ quy trình, đúng quy định, kết quả đáng ghi nhận, đội ngũ làm công

tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được kiện toàn theo hướng chuyên nghiệp,

nâng cao chất lượng.

Tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quế Sơn diễn biến mang

nhiều điểm chung ở nhiều huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đó là quá trình

đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, có nhiều dự án phát triển đô thị, xây dựng hạ

tầng phải thực hiện thu hồi đất. Do đó khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai,

giải phóng mặt bằng chiếm trên 90% số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo trên

địa bàn huyện. Nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo có nguyên nhân

khách quan là nhiều vấn đề do lịch sử để lại của việc chính sách pháp luật về

đất đai qua từng thời kỳ có sự thay đổi lớn làm phát sinh tranh chấp, khiếu

nại, tố cáo phức tạp; công tác quản lý nhà nước về đất đai một số địa phương

còn hạn chế, bất chấp trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, sử dụng đất

công quản lý tài chính, ngân sách có nơi, có lúc bị buông lỏng, có sai phạm.

Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số phòng, ban, UBND xã, thị

trấn còn tồn tại, hạn chế, yếu kém như: Một vài lãnh đạo, thủ trưởng ở cấp cơ

sở chưa thể hiện tốt vai trò của người đứng đầu, chưa quan tâm đúng mức đến

công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số địa phương còn

nơi lỏng, chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí công tác giải quyết khiếu nại tố

cáo – nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị; chưa gắn

việc tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có vụ việc còn vi

53

phạm về thẩm quyền, thời hạn, lưu hồ sơ chưa khoa học, đầy đủ theo quy

định; có địa phương, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhất là pháp

luật khiếu nại, tố cáo còn chưa quan tâm đúng mức theo đúng chỉ đạo các cấp;

có lãnh đạo địa phương chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hiện

dân chủ cơ sở tại cơ quan đơn vị, địa phương mình.

54

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN,

TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Yêu cầu của việc tăng cường thực hiện chính sách giải quyết

khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

3.1.1. Yêu cầu tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa

vụ của công dân

Khi công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện

quyền khiếu nại, tố cáo tức là họ cho rằng quyền con người, quyền công dân

của họ đã bị vi phạm; quyền và lợi ích hợp pháp của họ về tài sản, về con

người… cần được bảo vệ trước sự xâm phạm của các QĐHC, HVHC mà họ

cho là trái pháp luật.

Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan chặt chẽ đến quyền con

người, quyền công dân được hiến pháp quy định; có vị trí đặc biệt quan trọng

trong hệ thống những quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống chính trị xã hội và đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là điều kiện các quyền khác được

pháp luật ghi nhận. Nói cách khác, việc vi phạm một quyền nào đó, hoặc

không thực hiện nghĩa vụ nào đó của công dân sẽ phát sinh quyền khiếu nại,

tố cáo. Bất kỳ sự vi phạm nào đối với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

đều có thể dẫn đến việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Hơn thế,

tố cáo còn là trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của công dân.

Như vậy nhu cầu khiếu nại, tố cáo xuất phát từ nhu cầu đảm bảo quyền

con người, quyền công dân. Giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo cũng là

một trong những phương thức hiệu quả nhất để đảm bảo quyền con người,

quyền công dân.

55

3.1.2. Yêu cầu tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu

quả của hoạt động bộ máy nhà nước; phòng, chống tham nhũng trong điều

kiện mới của đất nước

Cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay còn mang tính khép kín,

chưa bảo đảm tính khách quan, dân chủ. Quy định pháp luật hiện hành cho

phép cơ quan hành chính cấp trên tiếp tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo mà

cơ quan hành chính cấp dưới đã giải quyết nhiều vụ việc còn thiếu khách

quan, chưa hợp lý, hợp tình, thậm chí có biểu hiện thiên vị, bao che, dung

túng cho cấp dưới khi có sai phạm, nhất là khi quyết định HVHC bị khiếu nại

liên quan đến trách nhiệm của cơ quan hành chính cấp trên. Trình tự, thủ tục

giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng chưa bảo đảm dân chủ, khách quan, công

khai, minh bạch; chưa tạo ra một cơ chế tranh luận bình đẳng trong quá trình

giải quyết. Trong thực tế, cơ quan hành chính thụ lý, thẩm tra, xác minh, kết

luận và ra quyết định giải quyết một cách đơn phương, người khiếu nại, tố cáo

hầu như ít có điều kiện tiếp cận các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc;

vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính chưa được

thực hiện đầy đủ, còn hạn chế.

Vì vậy, một trong những giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết

khiếu nại, tố cáo hiện nay là thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

phải được công khai, minh bạch trên các phương tiện thông tin đại chúng và

tại nơi tiếp công dân của UBND cấp huyện nói riêng và các cấp chính quyền

nói chung. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phải công khai các thủ tục,

trình tự giải quyết. Việc gặp gỡ, đối thoại, tranh luận là thủ tục trong quá trình

giải quyết, phải được tiến hành công khai, dân chủ, người khiếu nại, tố cáo

phải được biết, đọc, sao chụp, sao chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết

khiếu nại, tố cáo thu thập để giải quyết khiếu nại, tố cáo trừ thông tin, tài liệu

thuộc bí mật nhà nước; quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được công

56

báo công khai tránh trường hợp khiếu nại không đạt được mục đich, không

đúng quy định pháp luật nhưng vẫn có khiếu nại tiếp, hoặc chuyển từ khiếu

nại sang tố cáo người giải quyết vụ việc càng thêm phức tạp. Tăng cường tính

công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động Bộ máy nhà nước và

phòng, chống tham nhũng trong điều kiện mới của đất nước ta hiện nay.

3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước

Hợp tác quốc tế để tiếp cận những thành tựu và kinh nghiệm của một số

nước tiên tiến trên thế giới và để tiếp nhận các khoản viện trợ phi dự án, sử

dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn viện trợ phí Chính

phủ nước ngoài; góp phần hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và

Nhà nước về hội nhập quốc tế nói chung trong giai đoạn hiện nay và mục tiêu

nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính, chất lượng hiệu quả giải

quyết khiếu nại, tố cáo của bộ máy hành chính nhà nước.

Bởi vậy, tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

đem lại uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần làm cho nước ta có

thể hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xét đến cùng cũng là để thực hiện

thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược mà Đảng ta đã đề ra là “Xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội” và “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa”

3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

3.2.1. Tăng cường, hoàn thiện chính sách, pháp luật về giải quyết

khiếu nại, tố cáo

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về việc

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng

57

bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;

đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật để góp phần quản lý

xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây

dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự

do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Nội dung nghị quyết cũng đề ra các

phương châm xây dựng chiến lược trong đó đã đề cập tới: “Thể chế hóa

nguyên tắc dân chủ hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát bằng những hình

thức việc thi hành pháp luật của các cơ quan, công chức nhà nước. Hoàn thiện

pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp.”

Luật khiếu nại, Luật tố cáo được ban hành chính là cụ thể hóa nội dung

hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định và hành vi

chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước tòa án, đổi

mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời bảo đảm

tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính.

Cần quy định thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo quy định phù hợp

với từng tính năng, đặc thù của các lĩnh vực quản lý nhà nước là khiếu nại, tố

cáo lĩnh vực quản lý thị trường hay lĩnh vực y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm,

bảo vệ môi trường. Quy định việc tố cáo nhưng không đến làm việc làm theo

giấy mời, không cung cấp hoặc cung cấp chậm cung cấp hồ sơ, tài liệu gốc,

chứng cứ khiếu nại, dẫn đến không đảm bảo, trình tự, thủ tục, kéo dài thời

gian giải quyết thì phải bị xử lý. Bổ sung chế tài cụ thể quy trách nhiệm tổ

chức, cá nhân chậm thực hiện hoặc cố tình không thực hiện văn bản giải

quyết khiếu nại và tố cáo có hiệu lực pháp luật. Bổ sung quy định trình tự, thủ

58

tục tổ chức thực hiện và cưỡng chế thực hiện Quyết định giải quyết khiếu nại,

quyết định giải quyết tranh chấp đất đai; văn bản của người thẩm quyền xử lý

kết luận đơn tố cáo.

Luật đất đai sửa đổi nên quy định chính sách nhất quán; khắc phục tình

trạng chênh lệch quá lớn giữa bảng giá thị trường, giữa giá đất nông nghiệp

với giá đất ở và kinh doanh nông nghiệp. Nên coi quyền sử dụng đất là loại

hàng hóa đặc biệt, mọi giao dịch phải qua bất động sản để nhà nước quản lý,

thu thuế, quy định chế tài nghiêm khắc thu hồi giấy phép đối với một số dự án

thu hồi đất sản xuất của dân nhưng không được sử dụng hợp lý, đất bỏ hoang,

lãng phí, trong khi nông dân thiếu đất sản xuất, dẫn đến bức xúc, phát sinh

khiếu nại, tố cáo. Thực tế việc cho phép hợp thức những trường hợp giao đất

trái thẩm quyền, lấn chiếm đất trước ngày 1/7/2014 là rất tích cực do tháo gỡ

tình trạng bế tắc của việc xử ly thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai. Tuy

nhiên nó để lại các hệ quả không mong muốn như việc gây tâm lý người sử

dụng đất cứ vi phạm vì lợi ích trước mắt với hi vọng Nhà nước sẽ hợp thức

tiếp. Ở một số địa phương lợi dụng quy đinh này, có trường hợp tiếp tay vi

phạm, có tình trạng thôn bán đất trái thẩm quyền để lấy tiền xây dựng hạ tầng

của nông thôn, hoạt động chung. Do vậy, Luật đất đai cần quy định chế tài

mạnh hơn và xử lý đối với người sử dụng đất giao trái thẩm quyền.

3.2.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, Mặt trận tổ quốc trong lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát thực hiện chính

sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp phát huy vai trò, năng lực

hết lòng với nhân dân để tạo niềm tin trong nhân dân, đươc quần chúng, nhân

dân tin cậy, ủng hộ. Các cấp Ủy, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc đoàn thể

nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiên công tác tiếp công

dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phải xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan

59

trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị; giải quyết kịp thời, đúng thời

hạn, đúng trình tự, thủ tục giải quyết của luật khiếu nại, tố cáo các quy định

của pháp luật có liên quan; lấy hiệu quả của công tác tiếp dân và giải quyết

khiếu nại, tố cáo làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác của lãnh đạo

cấp ủy, chính quyền.

Thường trực cấp ủy, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, khắc phục

kịp thời sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, công khai, minh

bạch thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài chính -

ngân sách, đầu tư, xây dựng cơ bản nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo,

làm tốt công tác lập, xét duyệt và triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng và

việc thu hồi đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải dân chủ,

công khai, đúng chính sách, pháp luật, sát thực tế.

Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc tập thể, cá nhân có

trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành các quyết định

giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật, kịp thời phát hiện và xử

lý nghiêm minh đối với người thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo, không chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết đã có hiệu

lực cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Khắc phục tình trạng “một số cơ

quan, cán bộ, công chức khiếu nại tố cáo không chấp hành nghiêm chỉnh

quyết định giải quyết đúng và có hiệu lực pháp luật; một số người lợi dụng

việc khiếu nại, tố cáo để kéo dài thời gian không chấp hành quyết định giải

quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật, gây phức tạp thêm tình hình”.

3.2.3. Tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của người đứng đầu, cán

bộ, công chức của cơ quan hành chính nhà nước

Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp phải thấm

nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, có

trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, phải tuân thủ

60

nguyên tắc đã được thể chế hóa “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân

làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ với phương châm : “Dân hiểu,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; kịp thời giải quyết đúng chính sách, pháp

luật được kiến nghị, phản ánh khiếu nại, tố cáo của dân.

Trong chỉ đạo giải quyết của cấp ủy, chính quyền phải “sử dụng sức

mạnh tổng hợp của nhiều cấp, nhiều ngành và đoàn thể nhân dân, dưới sự chỉ

đạo tập trung, thống nhất của cấp ủy và chính quyền,… sử dụng đồng bộ các

biện pháp về tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục [27]. Đối với các

điểm nóng cần xác định rõ những người cầm đầu, kẻ công khai và giấu mặt,..

tìm hiểu đặc điểm địa lý, dân cư nơi này xảy ra xung đột xã hội, chú ý đến

phong tuc, tập quán, truyền thống riêng ở địa phương và quan hệ thụ hưởng

của những người liên quan… Phải công khai nội dung, quá trình và kết quả

giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo bằng các hình thức phù hợp theo quy

định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền phải có dũng khí nhận trách nhiệm, sửa

sai thậm chí là xin lỗi công dân khi có sai lầm trong việc ban hành QĐHC.

Tránh tình trạng không thừa nhận sai lầm, làm cho sự việc diễn biến nghiêm

trọng hơn “tập thể và cá nhân trong tổ chức Đảng chính quyền phải nghiêm

túc tự phê bình, có sai có sửa, sai đâu sửa đó, không né tránh, đùn đẩy trách

nhiệm”.

3.2.4. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện

chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Cơ quan hành chính nhà nước cần ban hành và công khai quy trình về

việc tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả giải quyết đối với đơn khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền của đơn vị căn cứ theo quy định

pháp luật. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO

9000:2008 trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

61

sử dụng văn bản điện tử theo Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 25/5/2002 và thực

hiện quy định tại Quyết định số 19/2004-QĐ -TTg ngày 5/3/2004 của Thủ

tướng Chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu

chuẩn quốc gia TCVN ISO 9000:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ

chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước, đảm bảo công khai, minh bạch, có

thể kiểm tra giám sát được ở bất cứ công đoạn nào theo quy trình giải quyết

khiếu nại, tố cáo, bảo đảm quyền tiếp cận những thông tin của công dân.

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giải quyết khiếu nại, tố

cáo nhằm khắc phục tình trạng đơn thư được xử lý chuyển lòng vòng, tình

trạng không thống nhất, đồng bộ giữa việc tiếp công dân với việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

3.2.5. Tăng cường khả năng và năng lực giải quyết khiếu nại, tố cáo

những cá nhân có thẩm quyền

Để thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu quả, trước hết

cán bộ, công chức cán bộ làm công tác này phải quán triệt tốt các quan điểm,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tiếp công dân và giải quyết

khiếu nại, tố cáo, phải có trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh của công dân; hướng dẫn, giải thích cho công dân về chính sách,

pháp luật có liên quan đến nội dụng yêu cầu của công dân; phân loại đúng và

chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất, năng lực của cán

bộ là yếu tố quyết định lớn đến chất lượng áp dụng pháp luật giải quyết khiếu

nại, tố cáo. Qua thực tiễn giải quyết khiếu nại, cho thấy mỗi vụ việc khiếu nại,

tố cáo đều có nội dung, tình tiết, diễn biễn và mức độ khác nhau, theo đó thì

đường lối giải quyết trong từng vụ việc, việc vận dụng chính sách, các lựa

chọn quy phạm áp dụng để giải quyết là khác nhau, theo đó thì đường lối

trong từng vụ việc, việc vận dụng chính sách, cách lựa chọn quy phạm áp

62

dụng để giải quyết là khác nhau. Do đó việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố

cáo như thế nào phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ của người tham gia

giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nếu có trình độ chuyên môn cao, năng lực quản

lý giỏi, phẩm chất đạo đức tốt thì chất lượng của các quyết định giải quyết

khiếu nại, tố cáo do họ tham mưu cho các cấp có thẩm quyền ban hành, hoặc

tự họ ban hành giải quyết sẽ sát thực tế, tính khả thi cao; việc tổ chức thực

hiện các văn bản đó sẽ nhanh chóng, kịp thời và nghiêm túc; bảo vệ được

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngược lại, sự hạn chế về

trình độ chuyên môn có thể dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng pháp luật

trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thực tế cho thấy ở cấp huyện trong thời gian qua, tình hình khiếu nại,

tố cáo luôn diễn biến phứt tạp, năm sau thường cao hơn năm trước, xuất hiện

nhiều đoàn đông người khiếu kiện kéo dài, vượt cấp. Nguyên nhân thì có

nhiều, trong đó có nguyên nhân là do trình độ, năng lực của cán bộ, công chức

làm công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và trong việc áp dụng pháp luật giải

quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo còn hạn chế; có vụ việc còn tham mưu giải

quyết sai. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo là

hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trong thời gian tới, cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng

cao trình độ áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, các chỉ đạo của Đảng

và Nhà nước về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo mới ban hành

và các văn bản pháp luật có liên quan cho đội ngũ cán bộ làm tiếp công dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo. Phải có cơ chế đãi ngộ để thu hút cán bộ năng

lực, phẩm chất về làm công tác tiếp dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố

cáo.

63

3.2.6. Tăng cường thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở

Thường trực cấp ủy, cán bộ, công chức cần quán triệt sâu sắc quan

điểm, chủ trương của Đảng về; “phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ

xã hội chủ nghĩa” [26], nội dung các quy định và thực hiện nghiêm túc quy

chế dân chủ ở cơ sở những nội dung phải công khai để nhân dân biết, dân bàn

trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Trong các nội dung lấy ý kiến,

công khai thì đặc biệt coi trọng nội dung liên quan đến đất đai, tài chính, quy

hoạch, quyết toán công trình tại địa phương. Việc thực hiện tốt quy chế dân

chủ cơ sở chính là tạo sự đồng thuận xã hội: “Giữa đồng thuận xã hội và dân

chủ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Cho nên, xây dựng sự đồng

thuận xã hội chính là tiến tới xây dựng hoàn thiện nền dân chủ; ngược lại, dân

chủ càng được coi trọng thì càng đạt sự đồng thuận ở mức độ cao. Về vấn đề

này, Nghị quyết Đại Hội X của Đảng đã chỉ rõ: “ở đâu có dân chủ, ở đó có

đoàn kết, đồng thuận, ổn định và phát triển”[6]. Khi có đồng thuận xã hội hạn

chế việc phát sinh khiếu nại, tố cáo. Thực hiện dân chủ cơ sở chính là thể hiện

Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, chăm lo cho lợi ích

của nhân dân. Việc phát huy dân chủ góp phần bảo đảm quyền con người, đây

là yếu tố quan trong để tạo nên sự đồng thuận xã hội một cách thực chất. Một

khi dân chủ được phát huy, người dân sẽ càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo

của Đảng [27, tr 221]. Phát huy dân chủ với đề cao trách nhiệm công dân, tăng

cường kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và chế tài xử lý vi phạm quy chế

dân chủ cơ sở, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, khắc phục hiện tượng

dân chủ hình thức; đồng thời cũng phê phán, nghiêm cấm những hành vi lợi

dụng dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo để gây mất trật tự an ninh, trật tự, an

toàn xã hội.

Việc phát huy dân chủ có nghĩa là “… phát huy dân chủ cũng gắn liền

với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là một trong những

64

mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc

phát huy dân chủ góp phần đảm bảo vấn đề quyền con người, đây là yếu tố

quan trọng để tạo nên sự đồng thuận xã hội một cách thực chất. Phát huy dân

chủ cũng có nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy tính chủ

động, sáng tạo của nhân dân, cũng chính là tôn trọng nhân dân. Một khi dân

chủ được phát huy người dân sẽ càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của

Đảng.” Một khi người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của

nhà nước tạo ra tâm lý, ý thức chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà

nước.

3.2.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết

khiếu nại tố cáo; kịp thời xử lý công khai, nghiêm minh mọi vi phạm

Gắn công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra hành chính, thực

hiện thường xuyên, sát tình hình thực tế, cử cán bộ phụ trách địa bàn: “UBND

và Thanh tra cấp huyện phải thi công cán bộ theo dõi địa bàn, đi sâu đi sát cơ

sở, giúp cơ sở giải quyết ngay từ khi vụ việc mới phát sinh, đồng thời dự kiến

trước khả năng phát sinh vụ việc phức tạp ở các xã, để chủ động đối phó. Khi

có khiếu nại, tố cáo hoặc mâu thuẩn tranh chấp có liên quan đến cán bộ chủ

chốt của cấp xã thì Huyện ủy, UBND huyện phải cử cán bộ về kiểm tra, thanh

tra một cách khẩn trương, để kết luận, xử lý khách quan, triệt để,…”

Khi kiểm tra, Thanh tra phát hiện vi phạm phải xử lý kiên quyết để làm

gương, không bao che, dung túng sai phạm. Kết quả kiểm tra, thanh tra phải

được công khai để nhân dân, tổ chức xã hội giám sát. Gắn kết công tác thanh

tra với công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, công tác xây dựng Đảng.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm Chủ tịch UBND xã, thị

trấn, trưởng các phòng, ban của cấp huyện trong công tác tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung vào những địa bàn trọng điểm có nhiều vụ

việc khiếu nại, tố cáo hoặc người có thẩm quyền có biểu hiện thiếu trách

65

nhiệm trong công tác quản lý nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kết

luận thanh tra, kiểm tra phải làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân vi phạm.

Việc xử lý cán bộ cân nhắc mức độ vi phạm, lỗi vi phạm, công lao đóng góp

của cán bộ vi phạm, hoàn cảnh vi phạm để có hướng xử lý thấu tình, đạt lý.

Không nên vì áp lực của quần chúng, muốn lấy lòng quần chúng mà xử nặng,

quá mức cần thiết hoặc do nể nang mà bao che, xử lý không tương xứng.

Chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm giám sát của Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm

vi, chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh. Tòa án Nhân dân huyện, Viện Kiểm

sát Nhân dân huyện định kỳ hoặc khi đột xuất thông báo kết quả giải quyết

khiếu nại tố cáo đối với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện.

3.2.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của

Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo cho tất cả mọi người trong xã hội

Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp

luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm

chỉ đạo, các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chuyên môn các cấp đã triển khai

công tác tuyên truyền với nhiều hình thức, nội dung dễ hiểu, phù hợp với các

tầng lớp nhân dân.

Thực hiện tốt công tác tuyền truyền phổ biến, giáo dục của pháp luật,

nhất là pháp luật về khiếu nại, tố cáo để nhân dân hiểu và thực hiện quyền

khiếu nại, tố cáo của mình theo đúng của pháp luật, khắc phục tình trạng

khiếu nại, tố cáo không có căn cứ, gửi đơn đến người không có thẩm quyền

giải quyết hoặc vượt cấp.

Tăng cường hơn nữa hiệu quả tuyên truyền, phổ biến các chủ trương,

chính sách của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, nội dung tuyên truyền, cần tập trung vào các văn bản

66

quy phạm pháp luật mới ban hành, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về khiếu

nại và các ngành luật liên quan. Đặc biệt là đối với các cơ quan, đơn vị như:

Thanh tra, Tư Pháp, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân các cấp, các cơ quan Đài, Báo cần

phối hợp đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương,

chính sách của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo. Các tổ chức như Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ

chức thành viên của Mặt trận như Hội cựu chiến biên, Hội liên hiệp phụ nữ,

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân,… có vai trò, trách

nhiệm giáo dục, vận động hội viên thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước và vận động người dân cùng chấp hành, thực hiện

đầy đủ nghĩa vụ công dân trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa

phương.

Bên cạnh việc giáo dục pháp luật chính quyền cần xử lý nghiêm minh

những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, xúi giục người

khác khiếu nại, tố cáo trái pháp luật, gây rối hoặc có hành vi quá khích gây

mất trật tự, an toàn xã hội.

3.2.9. Tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động thực hiện

chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo

Bên cạnh các giải pháp đã nêu trên, để quyền khiếu nại, tố cáo và hoạt

động giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được đảm bảo trên thực tế, cần

tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác tiếp dân, xử lý

đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo như: phải có phòng tiếp công dân, các

phương tiện phục vụ cho việc tiếp công dân, phải có cán bộ, biên chế tiếp

công dân… Việc tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị không chỉ giúp

công dân dễ dàng tiếp cận và thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình mà

67

còn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ giải quyết khiếu nại,

tố cáo và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo được chính xác và kịp thời.

Hiện nay có tình trạng công dân khiếu nại, tố cáo thường làm nhiều đơn

rồi gửi đi rất nhiều nơi có tâm lý càng gửi nhiều nơi, gửi nhiểu cơ quan, tổ

chức, cá nhân quan trọng thì càng được quan tâm và giải quyết sớm. Do đó

dẫn đến tình hình công dân khiếu nại, tố cáo sai thẩm quyền, chuyển đơn

nhiều lần, vòng vo, vượt cấp. Nên yêu cầu đặc ra là nghiên cứu, ban hành và

ứng dụng hệ thống phần mềm tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố

cáo trung ương xuống các địa phương.

Tiểu kết chương 3

Từ kết quả nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiển thực hiện

chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quế Sơn luận văn

đề xuất một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng như

việc giải quyết khiếu nại tố cáo đúng theo quy định của pháp luật, công khai,

minh bạch, khách quan, chịu sự giám sát của xã hội tại huyện Quế Sơn, tỉnh

Quảng Nam.

Đồng thời, cần tăng cường giải pháp phát huy vai trò của các cấp ủy,

chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể chính trị xã hội các cấp trong việc lãnh

đạo, giám sát trách nhiệm thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo, ý thức, trách

nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao năng lực,

chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức bảo đảm thực thi dân chủ ở cơ sở

để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng, tổ

chức thực thi và giám sát chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà

nước, trong đó có việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tuyên truyền phổ biến giáo

dục pháp luật, đặc biệt là pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo, thúc đẩy

mạnh mẽ cải cách hành chính, đảm bảo mọi quy trình hành chính được công

68

khai, minh bạch, có thể kiểm tra, giám sát ở bất kỳ công đoạn nào, bảo đảm

sự tham gia, phát huy vai trò của luật sư, trợ giúp phát lý trong giải quyết

khiếu nại, tố cáo; tranh thủ hợp pháp quốc tế để góp phần hiện thực hóa quan

điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế nói chung trong

giai đoạn hiện nay và mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành

chính, chất lượng hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành

chính nhà nước.

69

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài luận văn “thực hiện chính sách giải quyết khiếu

nại, tố cáo từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam”, tác giải rút ra một

số kết luận như sau:

Giải quyết khiếu nại, tố cáo chính là việc bảo đảm quyền con người,

quyền công dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại với ý nghĩa

là cách thức để công dân dùng “quyền để bảo vệ quyền”, phản ứng lại, tự vệ

trước sự việc được xem như sự xâm hại quyền của mình; chính thức yêu cầu

cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính

nhà nước phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc giải

quyết khiếu nại; là phương thức để công dân tham gia vào quản lý nhà nước,

thực hiện giám sát thi quyền hành pháp,… tình hình khiếu nại, tố cáo phản

ánh thái độ của xã hội đối với chủ trương, pháp luật của nhà nước; thông qua

hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo các cơ quan hành chính nhà nước có

điều kiện kiểm tra, giám sát theo thứ bậc hành chính; hoạt động giải quyết

khiếu nại cũng là kênh cơ quan tư pháp giám sát hoạt động của cơ quan hành

pháp. Ở tố cáo, công dân sử dụng quyền sử dụng tố cáo để tham gia hoạt động

quản lý nhà nước. Mục đích của tố cáo nhằm phát hiện, ngăn chặn hành vi vi

phạm pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích của Nhà nước, của tập thể, cá

nhân, bảo vệ trật tự pháp luật, kỷ cương, phép nước. Thông qua hoạt động

giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo của công dân, cơ quan hành chính

nhà nước chứng minh cam kết bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân tiếp

nhận thông tin chứa đựng thái độ, phản ứng của nhân dân về những vấn đề

còn khiếm khuyết trong cơ chế, chính sách để Nhà nước xem xét, điều chỉnh,

bổ sung cho phù hợp, giúp cho công tác quản lý hiệu quả hơn, cơ quan hành

chính nhà nước cấp trên có điều kiện kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động

của quản lý của cơ quan hành chính cấp dưới; cơ quan dân cử cũng có thể

70

thực hiện quyền giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt

động giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, thu hồi đất giải phóng mặt

bằng chiếm tỷ lệ rất cao trong các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Nguyên nhân phát

sinh khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai có những điều chỉnh khác biệt qua

các thời kỳ; do thực hiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, công tác quản lý nhà nước

về đất đai còn vấn đề yếu kém; việc quản lý, tài chính, ngân sách có nơi, có

lúc bị buông lỏng, có sai phạm. Nguyên nhân chủ quan của việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, yếu kém như người đứng đầu ở một số địa

phương, thủ trưởng một số đơn vị chưa thực hiện tốt vao trò người đứng đầu,

chưa quan tâm đúng mức đến công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo; chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, của công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị; chưa gắn

việc tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong giải quyết khiếu

nại, tố cáo chưa chú trọng gặp gỡ đối thoại với người khiếu nại, tố cáo; có

những vụ việc giải quyết còn có những vi phạm về thời hiệu, lưu hồ sơ chưa

khoa học, không đầy đủ theo quy định,…; có địa phương, công tác tuyền

truyền, phổ biến, giáo dục nhất là pháp luật khiếu nại, tố cáo còn chưa được

quan tâm đúng mức theo đúng chỉ đạo của các cấp; chưa ý thức đầy đủ tầm

quan trọng của việc thực hiện dân chủ cơ sở tại cơ quan đơn vị, địa phương

dẫn đến tình trạng dân chủ hình thức, phát sinh khiếu nại, tố cáo.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

của cơ quan hành chính nhà nước được đúc rút từ kết quả nghiên cứu một số

việc về lý luận và pháp luật chung về khiếu nại, tố cáo; kết quả nghiên cứu

thực trạng việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo từ thực tiễn

huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; các giải pháp được rút ra là:

71

Giải pháp chung để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo;

hoàn thiện luật khiếu nại, tố cáo để việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và

pháp luật chuyên ngành trong đó quan trọng nhất là Luật đất đai; hoàn thiện

luật khiếu nại, tố cáo để dễ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng như việc

giải quyết đúng quy định pháp luật, công khai, minh bạch, khách quan, chịu

sự giám sát của xã hội.

Giải pháp cụ thể để nâng cao giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan

hành chính nhà nước có các giải pháp: Phát huy vai trò của các cấp ủy, Chính

quyền, Mặt trận Tổ Quốc các cấp trong việc lãnh đạo, giám sát trách nhiệm

thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo; ý thức, trách nhiệm của người đứng

đầu cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức; bảo đảm thực thi dân chủ ở cơ sở để phát huy quyền làm chủ

của nhân dân trong việc tham gia xây dựng, tổ chức thực thi và giám sát chấp

hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, trong đó có việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt là pháp

luật khiếu nại, tố cáo; thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính, đảm bảo mọi

quy trình hành chính được công khai, minh bạch có thể kiểm tra, giám sát, ở

bất kỳ công đoạn nào; bảo đảm và phát huy vai trò của Luật sư, trợ giúp pháp

lý trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; hợp tác quốc tế tiếp cận với những thành

tựu và kinh nghiệm của một số nước tiên tiến trên thế giới và để tiếp nhận các

khoản viện trợ phi dự án, sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

và nguồn viện trợ phi Chính phủ nước ngoài nhằm mục tiêu nâng cao hiệu

lực, hiệu quả nên hành chính, chất lượng hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo

của bộ máy hành chính Nhà nước.

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Tiến Đào (2011), Đề tài cấp nhà nước, Khiếu nại, tố cáo hành chính –

Cở sở lý luận, thực trạng giải pháp.

2. Nguyễn Mạnh Hùng (2013) Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại

hành chính và thẩm quyền hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,

Trường Đại học Luật Hà Nội.

3. Huyện ủy Quế Sơn, Báo cáo số 268-BC/HU ngày 19/12/2018 về kết quả

thực hiện Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 2018 của Ban

Chấp hành Đảng bộ huyện.

4. Nguyễn Tuấn Khanh (2013) Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại

hành chính của công dân ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ ngành luật

Hiến pháp - Học viện khoa học xã hội.

5. Nguyễn Tuấn Khanh (2011), Đề tài cấp bộ, Trách nhiệm pháp lý của Chủ

tịch UBND các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

và phòng, chống tham nhũng.

6. Nguyễn Văn Kim (2010), Đề tài cấp bộ: Xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật, khiếu nại, tố cáo những vấn đề lý luận và thực tiễn.

7. Nguyễn Thị Lan, xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp

chí Cộng sản, số 23, 2007.

8. Hồ Thị Na (2015) Giải quyết tố cáo hành chính của công dân từ thực tiễn

huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Học viện Khoa học

xã hội.

9. Nguyễn Thị Nam (2015) Thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại hành

chính từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội , Luận văn thạc sỹ Học

viện Khoa học xã hội.

10. Nguyễn Minh Ngọc (2014) Giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực tiễn

thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Học viện Khoa học xã hội.

11. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật khiếu

nại, tố cáo đã sửa đổi, bổ sung năm 2004,2005, Nhà xuất Bản Chính trị

quốc gia Hà Nội.

12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật số:

02/2011/QH13, Hà Nội

13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật số:

25/2018/QH14, Hà Nội

14. Lê Thị Sáu (2014) Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn

huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội thực trạng và giải pháp, Luận văn

thạc sỹ Học viện Khoa học xã hội.

15. Trần Văn Sơn (2006) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động giải quyết khiếu nại, tố cáo, Luận án tiến sĩ;

16. Thanh tra huyện Quế Sơn, Báo cáo số 105/BC-TTr ngày 28/10/2014 về

tình hình công tác thanh tra năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2015.

17. Thanh tra huyện Quế Sơn, Báo cáo số 10/BC-TTr ngày 20/01/2016 về

tổng kết công tác thanh tra năm 2015; phương hướng, nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2016.

18. Thanh tra huyện Quế Sơn, Báo cáo số 82/BC-TTr ngày 31/10/2016 về tình

hình công tác thanh tra năm 2016; phương hướng, nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2017.

19. Thanh tra huyện Quế Sơn, Báo cáo số 81/BC-TTr ngày 30/10/2017 về tình

hình công tác thanh tra năm 2017; phương hướng, nhiệm vụ công tác

thanh tra năm 2018.

20. Trình Văn Thảo (2014) Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà

nước qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ Học viện

Khoa học xã hội.

21. Trường cán bộ thanh tra (2012) Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nghiệm vụ

thanh tra viên phần 2 , Quy trình thanh tra và kỹ năng nghiệp vụ, NXB

Tài chính.

22. Ủy ban Nhân dân huyện Quế Sơn, Niên giám thống kê giai đoạn 2015-

2018.

23. Ủy ban Nhân dân huyện Quế Sơn, Báo cáo số 47/BC-UBND ngày

19/6/2017 về kết quả thanh tra đối với Ủy ban nhân dân xã Quế Châu về

việc ban hành và thực hiện chủ trương quy hoạch chi tiết khu dân cư đoạn

từ Chợ Đàng đến giáp Trường Trung học cơ sở Quế Châu.

24. Ủy ban Nhân dân huyện Quế Sơn, Báo cáo số 154/BC-UBND ngày

06/8/2019 về báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phục vụ kỳ họp

thứ 8, Quốc hội Khóa XIV.

25. Văn kiện Đại hội XII, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2016.

26. Võ Khánh Vinh (2013) Xung đột xã hội và đồng thuận xã hội, Nxb Khoa

hoạc xã hội.

27. Nguyễn Như Ý chủ biên (999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa –

Thông tin.