BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
CHU THỊ HOÀNG OANH
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ KHÁC BIỆT KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN
TỚI KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THEO HỆ THỐNG CAMELS TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
CHU THỊ HOÀNG OANH
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ KHÁC BIỆT KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN
TỚI KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THEO HỆ THỐNG CAMELS TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60340402
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ QUẾ GIANG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016
-i-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu trong luận
văn đều được dẫn nguồn với mức độ chính xác cao nhất có thể. Luận văn này không nhất
thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 07 năm 2016
Tác giả
Chu Thị Hoàng Oanh
-ii-
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Trần Thị Quế Giang, người trực tiếp hướng dẫn
tôi hoàn thành luận văn này. Cô đã nhiệt tình đóng góp ý kiến chỉnh sửa, bổ sung để nội
dung luận văn được phù hợp với yêu cầu của bài nghiên cứu chính sách công.
Trong suốt hai năm học tập tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, tôi đã nhận được
rất nhiều kiến thức bổ ích cũng như được cảm nhận phương pháp giảng dạy mang tính dân
chủ, khuyến khích người học thể hiện quan điểm cá nhân một cách thoải mái. Vì vậy, qua
đây tôi cũng mong muốn được bày tỏ lời cảm ơn tới các Thầy Cô giáo đã và đang tận tâm
truyền đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm cho các thế hệ học viên FETP. Cảm ơn các Anh
Chị ở bộ phận Đào tạo, Thư viện và Phòng máy đã nhiệt tình hỗ trợ học viên trong suốt quá
trình học tập tại Chương trình.
Cảm ơn tập thể lớp MPP7, các Anh Chị Bạn Em đã sát cánh cùng tôi trong suốt hai năm vừa
qua và chia sẻ, động viên nhau cùng nỗ lực vượt qua các trở ngại trong học tập cũng như
trong cuộc sống. Cảm ơn các anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ và tạo điều kiện
cho tôi phát huy tối đa nguồn lực để hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 07 năm 2016
Tác giả
Chu Thị Hoàng Oanh
-iii-
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii
MỤC LỤC ............................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... v
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................................... vii
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ ......................................................................................... vii
TÓM TẮT ĐỀ TÀI ............................................................................................................. viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...................................................................................... 1
1.1. Bối cảnh chính sách ..................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và câu hỏi chính sách ................................................................................... 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 4
1.5. Bố cục luận văn ........................................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ SỐ CAMELS VÀ KHUÔN KHỔ
KẾ TOÁN VIỆT NAM SO VỚI CHUẨN MỰC QUỐC TẾ ................................................ 5
2.1. Hệ thống chỉ số CAMELS ........................................................................................... 5
2.1.1. Giới thiệu về hệ thống chỉ số CAMELS ............................................................... 5
2.1.2. Mục tiêu xây dựng hệ thống chỉ số CAMELS ...................................................... 6
2.1.3. Các bộ phận cấu thành hệ thống chỉ số CAMELS ................................................ 8
2.1.4. Áp dụng hệ thống chỉ số CAMELS ở Việt Nam ................................................. 11
2.2. Sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so với hệ thống
chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế (IFRS) ................................................................ 16
2.2.1. Khái niệm và vai trò của hệ thống chuẩn mực kế toán ....................................... 16
2.2.2. Kết quả đánh giá về IFRS của các nghiên cứu đi trước ...................................... 17
-iv-
2.2.3. Tổng quan về sự khác biệt giữa VAS và IFRS ................................................... 19
2.2.4. Một số khác biệt giữa VAS và IFRS ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của NHTM trong hệ thống chỉ số CAMELS ....................................................................... 21
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ NHTM THEO HỆ THỐNG CAMELS DỰA TRÊN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH ĐƯỢC LẬP THEO VAS VÀ IFRS ............................................................... 29
3.1. Ngân hàng A và tác động của sự can thiệp bằng văn bản đối với kết quả phân loại nợ
theo VAS của NHNN ....................................................................................................... 29
3.2. Ngân hàng B và tác động từ chính sách ưu tiên đối với các NHTM có vốn nhà nước
của NHNN ........................................................................................................................ 33
3.3. Ngân hàng C và việc duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% theo yêu cầu của NHNN ..... 37
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 43
4.1. Kết luận ..................................................................................................................... 43
4.2. Khuyến nghị .............................................................................................................. 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 47
PHỤ LỤC: PHÂN HẠNG KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TỪNG BỘ PHẬN CẤU THÀNH
CAMELS THEO NCUA (2007) VÀ FIDC (2014) ............................................................. 51
-v-
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên tiếng Việt Ngân hàng TMCP An Bình Ngân hàng TMCP Á Châu Quản lý tài sản-công nợ Từ viết tắt ABBank ACB ALM
Tên tiếng Anh Asian Commercial Bank Asset-Liability Management Financial Statements BaoVietBank BCTC BIDV
CAR DaiABank DN Eximbank Ngân hàng TMCP Bảo Việt Báo cáo tài chính Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Hệ số an toàn vốn Ngân hàng TMCP Đại Á Doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IAS
Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IASB
Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IASC
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ ICSS
Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế IFRS
Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF
Capital Adequacy Ratio Vietnam Export Import Commercial Joint Stock Bank International Accounting Standards International Accounting Standards Board International Accounting Standards Committee Internal Credit Scoring System International Financial Reporting Standards International Monetary Fund Habubank
HDBank
Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Hà Nội Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kiên Long
Military Bank Mekong Housing Bank HĐQT KienLongBank LienVietPostBank Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt MB MDBank MHB Ngân hàng TMCP Quân đội Ngân hàng TMCP Phát triển Mekong Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long
-vi-
Từ viết tắt MSB NamABank NHNN NHTM NHTMNN Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam Maritime Bank Ngân hàng TMCP Nam Á Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại nhà nước
OCB State Bank of Vietnam Commercial Bank State Owned Commercial Bank
PGBank PVFC
PVComBank Sacombank SeABank SCB Ngân hàng TMCP Phương Đông Việt Nam Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Ngân hàng TMCP Đông Nam Á Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Sai Gon Commercial Bank Credit Institution
SHB TCTD Techcombank TMCP VAMC
VAS
Vietcombank Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội Tổ chức tín dụng Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Thương mại Cổ phần Vietnam Asset Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD Management Company Việt Nam Vietnamese Accounting Chuẩn mực Kế toán Việt Nam Standards
VCSH VIB Vietinbank
VPBank
WB Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Vốn chủ sở hữu Ngân hàng Quốc tế Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Ngân hàng Thế giới World Bank
-vii-
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Xếp hạng tổng quát của các TCTD theo hệ thống CAMELS
Bảng 2.2: Xếp loại các ngân hàng TMCP theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN
Bảng 2.3: Thang điểm các chỉ tiêu xếp loại theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN
Bảng 2.4: Thực trạng áp dụng IFRS trên thế giới tính đến 30/06/2012
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng IAS/IFRS trong khu vực Đông Nam Á
Bảng 3.1: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng A năm 201X-1
Bảng 3.2: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng B năm 2014
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu tài chính của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2013
Bảng 3.4: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng C năm 2014
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
Hình 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A năm 201X-1
Hình 3.2: Tỷ lệ dự phòng trên dư nợ theo từng nhóm của Ngân hàng A năm 201X-1
Hình 3.3: Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B
Hình 3.4: Một số chỉ tiêu tài chính tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B
Hình 3.5: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014
Hình 3.6: Dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014
Sơ đồ 1: Quy trình trích lập dự phòng tín dụng của NHTM theo IAS/IFRS
Sơ đồ 2: Tác động của sự khác biệt trong ghi nhận dữ liệu theo các hệ thống chuẩn mực tới
kết quả đánh giá theo CAMELS
-viii-
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tác động của sự khác biệt khuôn khổ kế toán áp
dụng trong việc ghi nhận, lập các báo cáo tài chính (BCTC) tới tính chính xác trong kết quả
đánh giá mức độ an toàn, vững mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) theo
hệ thống CAMELS ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất những chính sách phù hợp để gia tăng mức
độ hiệu quả hoạt động giám sát và đánh giá tình hình tài chính, kết quả hoạt động, thực trạng
của hệ thống các NHTM Việt Nam. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống
để phân tích kết quả đánh giá theo CAMELS dựa trên các bộ BCTC được lập theo chuẩn
mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) của ba NHTM
đại diện cho ba vấn đề chính còn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả phân tích cho thấy, chênh lệch giữa kết quả đánh giá theo CAMELS của các NHTM
khi sử dụng số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo VAS và IFRS xuất phát từ những
nguyên nhân chủ đạo gồm: (i) khác biệt trong khuôn khổ kế toán mà các NHTM đang áp
dụng để lập, trình bày báo cáo tài chính, đặc biệt là vấn đề xác định giá trị hợp lý của danh
mục tín dụng và danh mục đầu tư tài sản tài chính; (ii) sự can thiệp bằng văn bản chỉ đạo
của các cơ quan hữu quan về một số ưu đãi trong phân loại nợ và trích lập dự phòng các
khoản cho vay các đối tượng đặc biệt; (iii) chính sách duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% (áp
dụng đối với mọi NHTM) thông qua thúc đẩy các NHTM bán nợ xấu cho VAMC với những
điều kiện ràng buộc trách nhiệm chịu rủi ro vẫn thuộc về các NHTM trong khi vẫn phê
duyệt đề xuất nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng. Do vậy, luận văn đề xuất
một số chính sách dưới đây.
Thứ nhất, NHNN nên yêu cầu tất cả các NHTM lập song song hai bộ BCTC theo VAS và
theo IFRS đồng thời nộp kết quả tự đánh giá theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN tương
ứng số liệu được trình bày trong hai bộ báo cáo trên. Bên cạnh đó, NHNN cần nhanh chóng
thiết lập lộ trình áp dụng hệ thống IFRS/IAS đối với việc ghi nhận, lập các báo cáo tài chính
của các NHTM phù hợp thực trạng ở Việt Nam hiện nay và gắn liền với lộ trình triển khai
Basel II để đạt được mục tiêu phát triển hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn, phù
hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng ban hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2012 đã đề ra.
-ix-
Thứ hai, NHNN và Chính phủ không nên tiếp tục ban hành các công văn chỉ đạo thể hiện
sự ưu tiên đối với khối doanh nghiệp nhà nước hay bất kỳ đối tượng đặc biệt nào khác trong
việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Thứ ba, NHNN nên yêu cầu các NHTM tự lựa chọn mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu phù hợp với
tình trạng hiện tại của họ để tránh áp lực che giấu nợ xấu đồng thời báo cáo các phương án,
tiến độ phối hợp cùng VAMC làm việc với doanh nghiệp nhằm thu hồi càng sớm càng tốt
các khoản nợ quá hạn. Thời gian áp dụng chính sách này cần được cân nhắc để phù hợp với
lộ trình áp dụng IFRS cho toàn hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN cần giám sát chặt chẽ việc phân loại nợ theo Thông tư 02 đồng thời yêu
cầu các NHTM báo cáo số liệu phân loại nợ của danh mục tín dụng bao gồm cả các khoản
nợ xấu đã bán cho VAMC và tiến hành thanh tra, rà soát thực địa thường xuyên./.
-1-
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Bối cảnh chính sách
Ngày 13/02/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành chỉ thị số 01/CT-
NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn hiệu
quả năm 2012. Trong đó, nhằm mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo khả năng thanh
khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) đồng thời kiểm soát tốc độ tăng trưởng phương tiện
thanh toán khoảng 14-16% và tín dụng khoảng 15-17%, đảm bảo an toàn cho toàn bộ thị
trường tài chính, Điều 2.3 đã nêu rõ đơn vị chức năng trực thuộc NHNN phải tiến hành xếp
hạng các TCTD thành 4 nhóm dựa trên tình hình hoạt động và khả năng tăng trưởng của mỗi
đơn vị để xác định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng tương ứng. Cụ thể, các ngân hàng
thương mại (NHTM) được xếp vào Nhóm 1 là tổ chức có chất lượng tài sản đảm bảo và khả
năng quản trị rủi ro tốt sẽ được tăng trưởng tín dụng tối đa 17% trong khi các tổ chức thuộc
Nhóm 2 có tình hình tài chính kém hơn một chút sẽ chỉ được tăng trưởng tối đa 15%. Cách
biệt với hai nhóm trên, Nhóm 3 bao gồm những NHTM bị đánh giá yếu kém về mức độ an
toàn và vững mạnh tài chính chỉ được tăng trưởng tín dụng tối đa 8% còn nhóm các tổ chức
tín dụng bị phân loại vào Nhóm 4 là những đơn vị đã/đang lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh khoản, thuộc diện bị kiểm soát đặc biệt hoặc đang trong quá trình tái cơ cấu theo đúng
nội dung của Đề án tái cấu trúc do NHNN ban hành sẽ không được phép tăng trưởng tín
dụng trong suốt năm 2012.
Tuy nhiên, NHNN lại không công khai danh sách phân nhóm các TCTD cũng như tiêu chí
đánh giá xếp hạng tình hình tài chính của các NHTM mà chỉ gửi văn bản xếp loại tới từng
TCTD. Do đó, các nhà đầu tư nói riêng và người dân nói chung chỉ có thể suy luận thông
qua kế hoạch tăng trưởng tín dụng do các NHTM tự công bố rộng rãi vào cuối tháng 2, đầu
tháng 3/2012. Cụ thể, các ngân hàng được dự đoán thuộc Nhóm 1 gồm Vietinbank,
Vietcombank, BIDV, Techcombank, ACB, MB, MSB, VIB, VPBank, SeABank, MHB,
Sacombank. Nhóm 2 được dự đoán gồm các ngân hàng như BaoViet Bank, OCB, NamA
Bank, DaiABank, NamViet Bank, KienLongBank, ABBank, SHB, LienVietPostBank. Các
ngân hàng còn lại đều không lên tiếng và NHNN cũng không công bố cụ thể số lượng của
từng nhóm phân hạng. Điều này dẫn đến một hệ quả quan trọng là các tổ chức thuộc Nhóm
1 và Nhóm 2 chủ động công khai để đẩy mạnh hoạt động quảng bá thương hiệu, thúc đẩy
hoạt động kinh doanh phát triển trong khi các NHTM thuộc Nhóm 3, đặc biệt là Nhóm 4 lại
-2-
chủ động không lộ diện khiến cho thông tin trên thị trường tài chính tồn tại nhiều khoảng
tối, không rõ ràng. Tình trạng bất cân xứng thông tin do vậy diễn ra theo hướng ngày càng
trầm trọng, người dân dễ bị rơi vào tâm lý hoang mang khi không biết nên gửi tiền vào ngân
hàng nào để đảm bảo chắc chắn không bị thiệt hại.
Trong khi thông tin về các TCTD yếu kém chưa được minh bạch, chiều ngày 12/07/2012,
Ngân hàng Nhà nước đã công bố tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng tính đến ngày
31/3/2012 được xác định theo hệ thống giám sát từ xa là 8,6%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ
4,47% tính đến ngày 31/5/2012 được xác định theo hệ thống thống kê. Tình trạng này hoàn
toàn phù hợp với nhận định trong báo cáo đầu năm 2012 của Fitch Ratings về vấn đề tỷ lệ
nợ xấu thực sự của Việt Nam trong nhiều năm cao hơn 3-4 lần so với mức được trình bày
trong báo cáo chính thức của các cơ quan quản lý. Tiếp đó, ngày 28/09/2012, Moody’s - một
trong các tổ chức đánh giá xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới - đã công bố quyết định hạ bậc
xếp hạng tín nhiệm của 8 NHTM bao gồm ACB, BIDV, VCB, Vietinbank, MB, SHB,
Sacombank, Techcombank, VIB và khẳng định nhu cầu hỗ trợ từ bên ngoài của các ngân
hàng này đang ngày càng tăng (Moody’s, 2012). Các TCTD được nêu tên trong quyết định
này đều được NHNN xếp loại vào Nhóm 1 và Nhóm 2, nhóm các NHTM có tình hình tài
chính vững mạnh và thanh khoản tốt, trong đợt phân loại giữa tháng 2/2012. Trong báo cáo
chi tiết của mình, Moody’s phân tích một trong những nguyên nhân dẫn đến sự việc này là
do việc không tuân thủ các chuẩn mực kế toán cũng như quy chuẩn giám sát quốc tế đã tác
động không nhỏ tới mức độ minh bạch về thực trạng tình hình tài chính của các tổ chức tài
chính ở Việt Nam.
Theo quan điểm đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) được trình bày trong Báo cáo đánh
giá khu vực tài chính Việt Nam tháng 6/2014, kết quả hoạt động cũng như chất lượng tài sản
của khu vực ngân hàng có xu hướng ngày càng xấu đi trong giai đoạn 2007-2012 và có lẽ
tình trạng thực sự còn kém hơn nhiều so với số liệu phản ánh trên các báo cáo gửi tới cơ
quan giám sát. Nhận định này cũng khá phù hợp với đánh giá của một số tổ chức quốc tế có
uy tín về mức độ tín nhiệm đối với các NHTM Việt Nam đang thay đổi theo chiều hướng
kém dần. Một trong những nguyên nhân quan trọng được các tổ chức này đề cập đến chính
là từ sự khác biệt không nhỏ giữa khuôn khổ kế toán đang được áp dụng tại Việt Nam so với
hệ thống chuẩn mực và thông lệ quốc tế khiến cho mức độ tin cậy cũng như độ hữu dụng
cho mục đích đầu tư, quản lý, kiểm soát dựa trên báo cáo tài chính được các NHTM công
-3-
bố còn ở mức thấp. Cụ thể, hệ thống chuẩn mực kế toán và các quy định hiện hành của Việt
Nam có xu hướng giúp cho các NHTM dễ dàng che giấu mức độ rủi ro thực sự của khối tài
sản mà họ đang nắm giữ trong khi hệ thống kiểm toán mới phát triển ở giai đoạn ban đầu,
văn hoá minh bạch, công khai thông tin tài chính và trách nhiệm giải trình còn chưa phổ
biến. Theo đó, việc sử dụng thông tin tài chính lấy từ các báo cáo tài chính được lập theo hệ
thống chuẩn mực kế toán và quy định hiện hành của Việt Nam dễ dẫn đến tình trạng các cơ
quan thanh tra giám sát đưa ra những nhận định không hoàn toàn chính xác so với tình trạng
thực tế của các TCTD khi căn cứ vào những chỉ tiêu tài chính trong khung khổ hệ thống
CAMELS. Do vậy, đề tài “Tác động của sự khác biệt khuôn khổ kế toán tới kết quả đánh
giá các NHTM theo hệ thống CAMELS tại Việt Nam” đã được lựa chọn thực hiện.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi chính sách
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tác động của sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn
mực kế toán đã và đang được áp dụng tại Việt Nam với hệ thống chuẩn mực quốc tế tới tính
chính xác trong kết quả đánh giá mức độ an toàn, tính vững mạnh của các NHTM tại Việt
Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp chính sách cần thực hiện để nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác giám sát thông tin tài chính của NHNN cũng như nâng cao tính minh bạch
thông tin trên thị trường tài chính. Do vậy, nội dung luận văn tập trung vào trả lời các câu
hỏi chính sách như sau:
(i) Những điểm khác biệt chính giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so
với hệ thống chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế (IFRS/IAS) liên quan đến soạn lập
và trình bày báo cáo tài chính của NHTM là gì?
(ii) Việc không tuân thủ các chuẩn mực quốc tế ảnh hưởng như thế nào đến tính chính
xác trong kết quả đánh giá tình hình tài chính của NHTM tại Việt Nam?
(iii) Nên hay không nên tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và những chính sách cần thực
hiện để nâng cao tính minh bạch thông tin đối với hệ thống NHTM là gì?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là số liệu tài chính của các NHTM được lập theo khuôn khổ kế toán
áp dụng tại Việt Nam (VAS) và khuôn khổ kế toán, thông lệ quốc tế (IFRS/IAS). Phạm vi
-4-
nghiên cứu là báo cáo tài chính đã kiểm toán theo VAS và IFRS của một số NHTM cụ thể1
được thu thập từ các nguồn thông tin đáng tin cậy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp định tính để phân tích những điểm khác biệt giữa hệ thống các
tiêu chuẩn kế toán do Việt Nam và các cơ quan quốc tế (Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc
tế - IASB, Uỷ ban Basel) ban hành. Các chỉ tiêu định lượng trong khung khổ hệ thống
CAMELS sẽ được tính toán dựa trên hai bộ báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực khác
nhau và so sánh kết quả, phân tích nguyên nhân để đưa ra nhận định làm cơ sở đề xuất chính
sách. Các NHTM được lựa chọn gồm những tổ chức là đối tượng bị tái cơ cấu trong thời
gian vừa qua hoặc NHTM lớn đại diện cho các vấn đề còn tồn đọng trong hệ thống ngân
hàng ở Việt Nam hiện nay.
1.5. Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm 4 chương với các nội dung chính như sau.
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về bối cảnh chính sách, câu hỏi chính sách, mục tiêu và đối
tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Sau khi trình bày tổng quan về hệ thống chỉ số CAMELS, chương 2 tập trung
phân tích những điểm khác biệt cơ bản giữa yêu cầu ghi nhận vào sổ sách kế toán và soạn
lập, trình bày báo cáo tài chính của các NHTM theo VAS so với IFRS/IAS có ảnh hưởng
đến kết quả tính toán các chỉ số tài chính CAMELS nói trên.
Chương 3: So sánh và phân tích kết quả đánh giá các yếu tố định lượng theo hệ thống
CAMELS dựa trên báo cáo tài chính của một số NHTM được lập, trình bày theo chuẩn mực
kế toán Việt Nam với số liệu được trình bày theo chuẩn mực quốc tế.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị.
1 Do tính chất bảo mật thông tin, tên các NHTM sẽ không được công bố rõ ràng.
-5-
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ SỐ CAMELS
VÀ KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN VIỆT NAM SO VỚI
CHUẨN MỰC QUỐC TẾ
2.1. Hệ thống chỉ số CAMELS
2.1.1. Giới thiệu về hệ thống chỉ số CAMELS
Hệ thống chỉ số CAMELS được Cục quản lý hiệp hội tín dụng Hoa Kỳ (National Credit
Union Administration - NCUA) chấp nhận lần đầu vào tháng 10/1987 và đưa ra trong đạo
luật Federal Deposit Insurance Corporation Improvement Act (FDICIA) năm 1991 nhằm
mục đích kiểm tra, giám sát mức độ an toàn và vững mạnh tài chính của các tổ chức tài chính
nói chung, các NHTM nói riêng. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997,
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị các quốc gia bị khủng
hoảng nghiên cứu áp dụng để bổ sung vào các giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do nguy
cơ đổ vỡ và tái thiết hệ thống tài chính tại đất nước mình. Theo đó, trong những năm gần
đây, hệ thống CAMELS không chỉ áp dụng cho mọi ngân hàng, tổ chức tín dụng ở Hoa Kỳ
mà còn được mở rộng ra áp dụng tại rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Tên gọi CAMELS được hình thành từ sự kết hợp các chữ cái đầu tiên của các bộ phận cấu
thành nên hệ thống giám sát này, bao gồm:
(i) Capital - Các chỉ số về vốn;
(ii) Asset - Các chỉ số về chất lượng tài sản;
(iii) Management - Các chỉ số về năng lực quản lý;
(iv) Earning - Các chỉ số về lợi nhuận;
(v) Liquidity - Các chỉ số về khả năng thanh khoản; và
(vi) Sensitivity2 - Các chỉ số về độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.
2 Nhóm chỉ số này mới được bổ sung từ sau năm 1997 và đang được NCUA gộp chung với Nhóm chỉ số L - Liquidity .
-6-
2.1.2. Mục tiêu xây dựng hệ thống chỉ số CAMELS
Hệ thống chỉ số CAMELS được thiết lập nhằm mục tiêu đánh giá mức độ an toàn, khả năng
sinh lời và khả năng thanh khoản của các TCTD nói chung, các NHTM nói riêng. Cụ thể,
mức độ an toàn của một TCTD được đánh giá thông qua các nhóm chỉ tiêu về tiềm lực vốn
đủ bù đắp mọi chi phí phát sinh và thực hiện các nghĩa vụ khác (C), nhóm chỉ tiêu phản ánh
chất lượng các khoản cho vay (A) và nhóm chỉ số phản ánh chất lượng quản lý (M). Theo
đó, dựa trên việc phân tích các chỉ số tài chính theo CAMELS, các cơ quan giám sát có để
xếp hạng được cho từng TCTD đồng thời đánh giá một cách tổng quan về hệ thống tài chính
nói chung, xác định những vấn đề rủi ro tiềm tàng mà hệ thống đang/có thể sẽ gặp phải trong
tương lai. Thông qua đó, các biện pháp ngăn ngừa và điều chỉnh phù hợp sẽ được tiến hành
từ sớm để đảm bảo độ vững mạnh cho hệ thống tài chính cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Thông thường, việc đánh giá các TCTD theo CAMELS được thực hiện thông qua các cuộc
kiểm tra, thanh tra tại chỗ bởi các cơ quan chức năng có liên quan kết hợp với hệ thống thu
thập dữ liệu giám sát từ xa của các cơ quan giám sát. Kết quả đánh giá không được công bố
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng luôn được thông báo tới Ban quản
lý cấp cao của các TCTD bị tụt hạng để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa khả năng đổ vỡ
dây chuyền do dân chúng rút tiền ồ ạt. Các TCTD có kết quả xếp hạng CAMELS kém
và/hoặc có dấu hiệu suy giảm sẽ bị tăng cường giám sát một cách chặt chẽ đồng thời các
biện pháp nhằm bảo vệ người gửi tiền nhỏ lẻ cũng sẽ được chuẩn bị sẵn sàng thực hiện ngay
khi có hiện tượng mất thanh khoản.
Dựa trên kết quả đánh giá của từng bộ phận cấu thành CAMELS, các TCTD sẽ được phân
nhóm vào các hạng cụ thể từ 1 (tốt nhất) tới 5 (kém nhất), cụ thể xem Bảng 2.1.
-7-
Bảng 2.1: Xếp hạng tổng quát của các TCTD theo hệ thống CAMELS
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 - Điểm của các yếu tố cấu thành nằm trong khoảng 1-2
- Hoạt động hiệu quả, tuân thủ tốt các quy định và đảm bảo an toàn, hệ thống
quản trị rủi ro nội bộ mạnh.
- Ban lãnh đạo xác định được tất cả các rủi ro tiềm tàng và có các biện pháp
ngăn chặn kịp thời. Dữ liệu lịch sử và các chỉ số ước tính về hiệu quả hoạt
động trong tương lai đều thể hiện các dấu hiệu tích cực, có khả năng chống đỡ
với những thay đổi bất lợi của môi trường kinh doanh bên ngoài.
- Các điểm yếu là không đáng kể và có thể được giải quyết bằng các hoạt động
quản lý thường xuyên của Ban lãnh đạo.
Hạng 2 - Hoạt động tương đối hiệu quả, tuân thủ các quy định và hệ thống quản trị rủi
ro đủ đáp ứng yêu cầu đảm bảo mức độ an toàn của hoạt động kinh doanh.
- Ban lãnh đạo xác định được hầu hết các rủi ro và mức độ thiệt hại tương ứng.
Các chỉ số trong quá khứ và ước tính cho tương lai đều có tính tích cực với
các trường hợp ngoại lệ không ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ an toàn của
hoạt động kinh doanh.
- Hoạt động ổn định và khả năng ứng phó với các biến động của môi trường
kinh doanh bên ngoài khá tốt nhưng một số điểm yếu có thể phát triển thành
những vấn đề đáng quan ngại. Tuy nhiên, Ban lãnh đạo có khả năng và sẵn
sàng sửa chữa những điểm yếu này.
Hạng 3 - Hiệu suất chưa cao, có lỗ hổng ở một mức độ nhất định và có dấu hiệu cần
giám sát kỹ hơn. Hệ thống quản trị rủi ro hoạt động kém hiệu quả hơn mức
yêu cầu ở các mặt liên quan đến quy mô TCTD, mức độ phức tạp và những
rủi ro đặc trưng. TCTD có thể không tuân thủ một số quy định quan trọng và
Ban lãnh đạo có thể thiếu khả năng cũng như sự sẵn sàng trong việc giải quyết
các vấn đề yếu kém trong khung thời gian thích hợp.
- Ban lãnh đạo có thể không xác định được và hạn chế một số rủi ro trọng yếu.
Các chỉ số trong quá khứ và ước tính cho tương lai giữ nguyên hoặc có dấu
hiệu tiêu cực đến mức có thể ảnh hưởng xấu đến mức độ an toàn của hoạt động
-8-
Hạng Tình trạng của TCTD
kinh doanh. Tình hình tài chính của TCTD có thể bị xấu đi khi gặp các điều
kiện bất lợi từ môi trường kinh doanh bên ngoài.
- Cần sự giám sát chặt chẽ hơn mức thông thường.
Hạng 4 - Hiệu suất hoạt động kém đòi hỏi mức độ giám sát chặt chẽ. Hệ thống quản
trị rủi ro không mang lại hiệu quả, không phù hợp với quy mô, mức độ phức
tạp và các rủi ro đặc trưng của TCTD. Các chỉ số tài chính đều phản ánh những
dấu hiệu tiêu cực mà nếu không được kiểm soát và cải thiện thì sẽ đe doạ đến
khả năng tiếp tục hoạt động của TCTD.
- TCTD có thể không tuân thủ một số quy định quan trọng và Ban lãnh đạo
không giải quyết thoả đáng các điểm yếu kém và những vấn đề nảy sinh.
Hạng 5 - Hiệu suất hoạt động không đạt yêu cầu, trực tiếp đe doạ đến khả năng tiếp
tục hoạt đông của các TCTD và cần được các cơ quan chủ quản quan tâm,
triển khai các biện pháp giải quyết hậu quả ngay lập tức.
- Quy mô và mức độ nghiêm trọng của các vấn đề nảy sinh nằm ngoài tầm
kiểm soát của Ban lãnh đạo. Khả năng đổ vỡ tiềm ẩn cao và TCTD có thể sẽ
bị thanh lý hoặc mua lại, hợp nhất với TCTD khác hoặc phải thực hiện các
biện pháp hỗ trợ tài chính khẩn cấp bắt buộc khác.
Nguồn: NCUA (2007)
2.1.3. Các bộ phận cấu thành hệ thống chỉ số CAMELS
Để đánh giá tổng quát về mức độ an toàn, vững mạnh tài chính của một TCTD theo hệ thống
chỉ số CAMELS, các cơ quan giám sát cần tiến hành đánh giá và cho điểm từ 1 (tốt nhất)
đến 5 (kém nhất) đối với từng bộ chỉ tiêu cấu thành.
2.1.3.1. Các chỉ số về vốn (C-Capital)
Các chỉ số về vốn phản ánh mức độ an toàn vốn hay khả năng cân đối nguồn vốn để tài trợ
cho các khoản chi hoạt động kinh doanh thường xuyên của các TCTD. Việc đánh giá mức
độ an toàn vốn được bắt đầu từ việc đánh giá chất lượng của những biến quan trọng trực tiếp
ảnh hưởng đến tình hình tài chính tổng thể của TCTD, bao gồm cả việc đánh giá tiềm lực
vốn trong một/các năm tiếp theo dựa trên kế hoạch kinh doanh được TCTD đó công bố và
một số giả định cơ bản. Vốn có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động quản trị rủi ro nên tiếp
-9-
theo đó, các cơ quan giám sát sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng tới tình trạng vốn hiện tại cũng
như tương lai của các yếu tố như hoạt động cho vay, lãi suất, tính thanh khoản, tính tuân thủ,
chiến lược kinh doanh và rủi ro danh tiếng,... Cuối cùng, các cơ quan giám sát sẽ phân loại
tình trạng vốn của các TCTD vào các hạng từ 1 (tốt nhất) đến 5 (kém nhất) và những TCTD
bị xếp từ bậc 3 trở lên sẽ phải tuân thủ kế hoạch khôi phục vốn nhất định đã được phê duyệt.
2.1.3.2. Các chỉ số về chất lượng tài sản (A-Assets)
Xếp hạng về chất lượng tài sản phản ánh mức rủi ro tín dụng hiện tại và tiềm ẩn trong tương
lai liên quan đến các khoản vay, danh mục đầu tư, bất động sản đang nắm giữ và các tài sản
khác cũng như các giao dịch ngoại bảng. Bên cạnh đó, việc đánh giá chất lượng tài sản cũng
phản ánh khả năng của Ban lãnh đạo TCTD trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm
soát rủi ro tín dụng đồng thời cho biết thực trạng cũng như khả năng suy thoái hay cải thiện
trong tương lai dựa trên các điều kiện kinh tế hiện tại và xu hướng phát triển chung. Do đó,
để xếp hạng chất lượng tài sản cho từng TCTD, các cơ quan giám sát thường tập trung đánh
giá mức dự phòng rủi ro tổn thất phát sinh từ các khoản cho vay hay cho thuê tài chính, mức
độ rủi ro của các đối tác phát hành giấy tờ có giá hay người đi vay cũng như các rủi ro khác
có thể ảnh hưởng đến giá trị thị trường của khối tài sản mà TCTD sở hữu.
2.1.3.3. Các chỉ số về quản trị (M-Management)
Xếp hạng về chất lượng quản trị của TCTD phản ánh năng lực của Ban lãnh đạo trong việc
xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát các rủi ro hoạt động và đảm bảo tính an toàn, hiệu
quả của các hoạt động thường xuyên tuân theo các quy định pháp luật hiện hành. Năng lực
này thể hiện qua việc xây dựng các chính sách, thủ tục, thông lệ tiến hành hoạt động kinh
doanh phù hợp với tính chất, phạm vi hoạt động của TCTD nhằm duy trì rủi ro tổn thất ở
mức chấp nhận được nhất định. Do vậy, khi đánh giá chất lượng quản trị ở từng TCTD, các
cơ quan giám sát thường xem xét nhiều yếu tố, bao gồm nhưng không giới hạn ở:
các hoạt động chủ động giám sát của Ban lãnh đạo/Ban Điều hành;
các quy trình kiểm soát được thiết lập kết hợp với mạng lưới phân quyền cho các
cấp bậc quản lý;
các chương trình kiểm toán định kỳ và môi trường kiểm soát nội bộ phù hợp với quy
mô cũng như độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của TCTD;
-10-
khả năng phản ứng của Ban Điều hành trước những thay đổi của môi trường kinh
doanh bên ngoài;
kế hoạch chiến lược do Ban lãnh đạo xác định và thực thi;...
2.1.3.4. Các chỉ số về lợi nhuận (E-Earnings)
Đánh giá về lợi nhuận phản ánh mức độ đáp ứng của các khoản thu nhập hiện tại và tương
lai đối với nhu cầu tài trợ vốn tương xứng với tình hình tài chính, rủi ro tổn thất của TCTD
trong hiện tại và cả trong những giai đoạn tiếp theo, cũng như những thay đổi tiềm năng của
nền kinh tế và các kế hoạch chiến lược. Lợi nhuận của TCTD có thể bị ảnh hưởng bởi rủi ro
tín dụng vượt quá mức cho phép khiến chi phí dự phòng tăng lên và/hoặc rủi ro biến động
lãi suất, rủi ro thị trường. Bên cạnh đó, chất lượng lợi nhuận của TCTD còn thể hiện qua
mức độ phụ thuộc vào các khoản thu nhập bất thường cao hay thấp, khả năng dự báo và kiểm
soát tổng chi phí hoạt động tốt hay kém, chiến lược kinh doanh phù hợp hay không, khả năng
kiểm soát các rủi ro khác tốt hay không,...
2.1.3.5. Các chỉ số về thanh khoản (L-Liquidity)
Xếp hạng về tính thanh khoản phản ánh khả năng chi trả các luồng tiền ra trong tương lai từ
nguồn tiền hiện tại và các luồng tiền vào dự kiến trong tương lai. Nói cách khác, xếp hạng
này phản ánh chất lượng hoạt động quản lý tài sản-công nợ (ALM) của TCTD nhằm đảm
bảo khả năng duy trì luồng tiền đáp ứng đầy đủ, kịp thời việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính
trong tương lai. Yêu cầu đặt ra là hoạt động ALM phải đảm bảo TCTD không bị mất khả
năng thanh khoản khi gặp phải những thay đổi bất lợi ngoài ý muốn, luồng tiền vào không
phụ thuộc quá nhiều vào các luồng tiền không thường xuyên (khó huy động trong tình huống
gấp rút) đồng thời không được duy trì nguồn tiền dự trữ nhiều làm phát sinh chi phí quá cao.
2.1.3.6. Các chỉ số về mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S-Sensitivity)
Việc đo lường mức độ nhạy cảm rủi ro của từng TCTD là một hoạt động khá phức tạp và
chỉ mới được bổ sung vào CAMELS từ năm 1995. Xếp hạng này chủ yếu phản ánh mức độ
nhạy cảm của rủi ro tổn thất liên quan đến các khoản cho vay, tiền gửi khi phát sinh sự thay
đổi bất ngờ trong mặt bằng lãi suất. Khác với cách thức đánh giá ở các tiêu chí cấu thành
nêu trên, việc đánh giá mức độ nhạy cảm rủi ro dựa chủ yếu vào việc xem xét sự thay đổi
giá trị thị trường của các khoản cho vay/tiền gửi trong những kịch bản khác nhau tương ứng
với các giả định về thị trường trong tương lai khác nhau.
-11-
2.1.4. Áp dụng hệ thống chỉ số CAMELS ở Việt Nam
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng, ngày 12/03/2008, NHNN đã ban
hành Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ban hành Quy định xếp loại ngân hàng TMCP, thay
thế Quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN ngày 16/04/2004 ban hành Quy định xếp loại các
ngân hàng TMCP của Nhà nước và nhân dân. Theo đó, các ngân hàng được đánh giá và xếp
loại dựa trên số điểm của 5 tiêu chí: (i) vốn tự có; (ii) chất lượng tài sản; (iii) năng lực quản
trị; (iv) kết quả hoạt động kinh doanh; và (v) khả năng thanh khoản. Nguồn dữ liệu được sử
dụng để tính toán các chỉ số đánh giá bao gồm các báo cáo thống kê định kỳ do ngân hàng
TMCP gửi lên NHNN, số liệu thu thập được từ công tác thanh tra, giám sát của NHNN, báo
cáo và thư quản lý của đơn vị kiểm toán độc lập, báo cáo kiểm toán nội bộ,... Nguyên tắc
tính điểm cho từng chỉ tiêu sẽ đi từ mức điểm tối đa và giảm dần số điểm bị trừ khi ngân
hàng TMCP không đáp ứng được yêu cầu. Chi tiết về xếp loại tổng thể và thang điểm của
các chỉ tiêu xếp loại được trình bày trong Bảng 2.2 và Bảng 2.3.
Nhìn chung, các chỉ tiêu đánh giá theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đã bao quát được
các cấu thành chính trong CAMELS nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Thứ
nhất, CAMELS yêu cầu các cơ quan giám sát phải đánh giá riêng lẻ từng tiêu chí cấu thành
để phân hạng từ 1 đến 5 sau đó kết hợp với nhận định về tác động qua lại giữa tình trạng
đánh giá của các tiêu chí để xác định hạng tổng hợp. Trong khi đó, Quyết định 06/2008/QĐ-
NHNN đề ra nguyên tắc xếp loại các ngân hàng vào 4 nhóm dựa trên điểm số đánh giá tổng
hợp theo thang điểm 100, bước nhảy giữa các nhóm không đồng đều và tỷ trọng giữa các
tiêu chí cấu thành khác nhau. Cụ thể, NHNN chú trọng nhiều vào việc đánh giá vốn tự có,
chất lượng tài sản và kết quả hoạt động kinh doanh với mức điểm tối đa các phần tương ứng
lần lượt là 15/100, 35/100 và 20/100 đồng thời chưa bổ sung yếu tố độ nhạy với rủi ro thị
trường. Thứ hai, dữ liệu đầu vào để đánh giá theo CAMELS bao gồm cả thông tin trong lịch
sử và các ước tính trong tương lai, gắn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng với môi
trường kinh doanh và nền kinh tế đầy biến động trong khi Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN
chỉ đưa ra các tiêu chí chủ yếu dựa vào thông tin trong lịch sử thể hiện qua các báo cáo mà
ngân hàng lập theo yêu cầu của các cơ quan hữu quan. Thứ ba, việc đánh giá theo CAMELS
thường được thực hiện thường xuyên thông qua các cuộc kiểm tra, thanh tra tại chỗ trong
khi Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN yêu cầu các NHTM tự đánh giá, xếp loại và gửi báo cáo
cho NHNN vào ngày 10 tháng 5 hàng năm, kết quả cuối cùng sẽ được Thống đốc phê chuẩn
-12-
vào tháng 6. Cuối cùng, kết quả đánh giá theo CAMELS được sử dụng để các cơ quan giám
sát ban hành các quyết định chính sách xử lý riêng từng mảng song song với các chính sách
kiểm soát chung toàn bộ TCTD trong khi việc xếp loại các NHTM theo Quyết định
06/2008/QĐ-NHNN nhằm mục đích xác định các ngân hàng thuộc nhóm C và D để đề xuất
biện pháp xử lý. Nói tóm lại, kết quả xếp loại ngân hàng theo Quyết định 06/2008/QĐ-
NHNN chủ yếu phụ thuộc vào dữ liệu được trình bày trên các BCTC, đặc biệt là các khoản
mục có liên quan đến danh mục tín dụng, danh mục đầu tư tài sản tài chính, các loại vốn quỹ
và kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.
Bảng 2.2: Xếp loại các ngân hàng TMCP theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN
Loại Điều kiện
A Tổng điểm từ 80 trở lên, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 65% điểm tối đa
- Tổng điểm từ 60-79, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 50% điểm tối đa. B
- Tổng điểm từ 80 trở lên, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu từ 50% đến dưới 65% điểm tối đa.
- Tổng điểm từ 50-59, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 45% điểm tối đa. C
- Tổng điểm từ 60 trở lên, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu từ 45% đến dưới 50% điểm tối đa.
- Tổng điểm dưới 50. D
- Tổng điểm cao hơn 50, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu thấp hơn 45% điểm tối đa.
Nguồn: NHNN (2008)
-13-
Bảng 2.3: Thang điểm các chỉ tiêu xếp loại theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN
Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ
Vốn tự có 15 -3 - Vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định. - Không đáp ứng yêu cầu vốn pháp định: -5
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không thấp hơn 8%. - Không đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn: -4
- Sử dụng vốn điều lệ theo đúng quy định của NHNN. - Vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ: -4
- Đảm bảo định hướng khuyến khích tăng vốn hiệu - Không thoả mãn yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
quả. và tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân
dưới 17%: -5
Chất lượng 35 0 - Tỷ lệ nợ xấu không cao hơn 3%. - Số dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay
tài sản - Tuân thủ quy định về phân loại nợ, trích lập và sử TCTD khác dưới 50% tổng tài sản: -10 điểm nếu tỷ
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. lệ nợ xấu từ 3-5%, -15 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu từ 5-
10%, -20 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu cao hơn 10%.
- Số dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay
TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên: -13 điểm
nếu tỷ lệ nợ xấu từ 3-5%, -19 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu
từ 5-10%, -25 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu trên 10%.
- Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán thấp hơn 1% - Chất lượng khoản đầu tư không đảm bảo hoặc số
tổng số dư các khoản đầu tư. dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay TCTD
khác từ 50% tổng tài sản trở lên: -5 điểm.
-14-
Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ
- Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng - Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội
không thấp hơn 75%. bảng: -2 điểm nếu từ 65% đến dưới 75%, -3 điểm
nếu từ 50% đến dưới 65%, -5 điểm nếu dưới 50%.
- Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại - Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại
bảng không cao hơn 3%. bảng trên 3% đến 5%: -3 điểm
- Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại
bảng trên 5% hoặc không tuân thủ quy định nhà
nước về phân loại nợ và trích lập dự phòng: -5 điểm.
Năng lực 15 0 - Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban kiểm soát. - Vi phạm quy định số lượng thành viên HĐQT, Ban
quản trị - Ban hành đầy đủ, chuẩn hoá và thực hiện đúng các kiểm soát hoặc quy chế nội bộ: -3 điểm.
quy chế nội bộ. - Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoạt động yếu
- Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tương xứng kém: -4 điểm.
quy mô ngân hàng và hoạt động hiệu quả. - Nội bộ mất đoàn kết: -3 điểm.
- Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành - Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành
đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn. không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn: -3 điểm.
- Tuân thủ quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu. - Vi phạm quy định về cổ đông, cổ phiếu: -2 điểm.
Kết quả 20 0 - Lợi nhuận trước thuế từ 17% VCSH bình quân trở - Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân: -2
lên: 15 điểm điểm nếu từ 14% đến dưới 17%, -5 điểm nếu từ 10% hoạt động
kinh doanh
-15-
Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ
đến dưới 14%, -7 điểm nếu từ 5% đến dưới 10%, -
10 điểm nếu dưới 5%, -15 điểm nếu không có lãi.
- Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 8% trở lên: - Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập: -2 điểm nếu
từ 2% đến dưới 8%, -3 điểm nếu dưới 2%. 3 điểm.
- Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi - Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi
nhuận trước thuế từ 30% trở lên: 2 điểm nhuận trước thuế: -1điểm nếu từ 14% đến dưới 30%,
-2 điểm nếu dưới 14%.
Khả năng 15 0 - Đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định của - Vi phạm không đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả: 1
thanh NHNN: 12 điểm. lần -5 điểm, nhiều lần -12 điểm.
khoản - Đảm bảo tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử - Vi phạm tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho
dụng cho vay trung dài hạn: 3 điểm. vay trung dài hạn: 1 lần -2 điểm, nhiều lần -3 điểm.
Nguồn: NHNN (2008)
-16-
2.2. Sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so với hệ thống
chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế (IFRS)
2.2.1. Khái niệm và vai trò của hệ thống chuẩn mực kế toán3
Theo Khoản 1 - Điều 8 - Luật Kế toán số 03/2003/QH11 được thông qua ngày 17/06/2003
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2004, “Chuẩn mực kế toán gồm những nguyên tắc và phương
pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính”. Nói cách khác, chuẩn mực
kế toán bao gồm những quy định, hướng dẫn mà các kế toán viên cần phải tuân thủ khi thực
hiện công tác hạch toán kế toán và lập BCTC. Với hệ thống chuẩn mực kế toán được ban
hành rộng rãi, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở những doanh nghiệp (DN) khác nhau phải
được ghi chép, phản ánh lên BCTC theo những tiêu chuẩn, quan điểm thống nhất, đảm bảo
tính minh bạch, trung thực và hợp lý.
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế nói chung và của từng quốc gia nói riêng bao gồm
nhiều chuẩn mực chi tiết, mỗi chuẩn mực áp dụng cho một hay một nhóm đối tượng kế toán
cụ thể. Cấu trúc của một chuẩn mực kế toán thường bao gồm hai phần:
Quy định chung: trình bày mục đích của chuẩn mực, phạm vi áp dụng và giải thích
các thuật ngữ có liên quan đến đối tượng kế toán mà chuẩn mực quy định; và
Nội dung chuẩn mực: các nguyên tắc, phương pháp ghi nhận liên quan đến đối
tượng kế toán và yêu cầu trình bày khoản mục trong BCTC.
Khi nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng ngày càng phát triển, hệ thống
chuẩn mực kế toán chung đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Cụ thể, việc soạn thảo và ban hành
rộng rãi các chuẩn mực kế toán chung nhằm mục đích đảm bảo tính thống nhất về cách thức
hạch toán kế toán và trình bày BCTC trong phạm vi địa lý nhất định (quốc gia, khu vực hay
toàn thế giới). Do vậy, thông tin tài chính ngày càng được minh bạch hoá, giảm thiểu vấn đề
bất cân xứng thông tin đồng thời các nhà đầu tư có cơ sở vững chắc để phân tích, đánh giá
và so sánh thực trạng tài chính của các DN, từ đó thuận lợi hơn để ra các quyết định kinh
doanh. Đặc biệt, đối với các DN có phạm vi hoạt động xuyên biên giới (mở chi nhánh hoặc
công ty con ở nước ngoài), việc áp dụng các chuẩn mực kế toán chung của toàn cầu trong
3 Trong phạm vi bài viết này, hệ thống chuẩn mực kế toán được hiểu rộng ra bao gồm hệ thống các Chuẩn mực Kế toán (Accounting Standards) cũng như các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể có liên quan đến việc ghi nhận các giao dịch kinh tế vào sổ sách kế toán và soạn lập, trình bày báo cáo tài chính được các cơ quan chức năng ban hành.
-17-
công tác kế toán - tài chính giúp tiết kiệm chi phí chuyển đổi BCTC và tăng khả năng tiếp
cận thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, đối với các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, việc nâng
cao tính minh bạch về tình hình tài chính của các DN nói chung, hệ thống NHTM nói riêng
sẽ làm tăng khả năng dự đoán và tính hiệu quả, kịp thời của các chính sách được ban hành.
2.2.2. Kết quả đánh giá về IFRS của các nghiên cứu đi trước
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế4 (gọi chung là IFRS) hiện nay bao gồm 45 chuẩn mực
chi tiết được công bố từ những năm 1973 đến thời điểm hiện tại. Các chuẩn mực này được
ban hành và phát triển bởi Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - International Accounting
Standards Board (IASB), tiền thân là Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế - International
Accounting Standards Committee (IASC) thành lập từ năm 1973 tại London, Anh (đổi tên
năm 2001). Trải qua nhiều giai đoạn thay đổi về cơ cấu tổ chức và nhân sự, hiện nay IASB
có 14 thành viên là những kiểm toán viên thực hành, chuyên viên nghiên cứu/lập BCTC, kế
toán viên công chứng,… thuộc nhiều hiệp hội nghề nghiệp đến từ nhiều quốc gia khác nhau.
Nguồn kinh phí hoạt động của IASB được cung cấp bởi Tổ chức Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán
quốc tế - International Accounting Standards Committee Foundation (IASC Foundation),
một tổ chức bao gồm các thành viên là các ngân hàng trung ương, ngân hàng phát triển, các
công ty kiểm toán quốc tế, các định chế tài chính tư nhân, các doanh nghiệp lớn,… đến từ
một số quốc gia phát triển trên toàn thế giới.
Các quốc gia có thể áp dụng IFRS hoặc tự thiết lập hệ thống chuẩn mực riêng (dựa trên tham
chiếu IFRS) phù hợp với các yếu tố chính trị, pháp lý, văn hoá cũng như mức độ phát triển
các hiệp hội nghề nghiệp có liên quan của đất nước mình. Theo đó, các DN hoạt động tại
các quốc gia khác nhau có thể áp dụng các chuẩn mực kế toán khác nhau và các số liệu được
trình bày trên BCTC theo những chuẩn mực kế toán tương ứng sẽ có sự khác biệt. Với xu
hướng toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, các nước chưa áp dụng toàn bộ IFRS đều đã và
đang có kế hoạch cập nhật, đổi mới hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia phù hợp hơn với
4 Các chuẩn mực được ban hành trong giai đoạn đầu được gọi là Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - International Accounting Standard - IAS. Từ năm 2003 đến nay, các chuẩn mực mới được ban hành (sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các chuẩn mực cũ) đều được gọi là Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế - International Financial Reporting Standard - IFRS. Hiện nay, hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế bao gồm 32 IAS và 13 IFRS.
-18-
hệ thống chuẩn mực kế toán chung và hệ thống các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng
rãi trên toàn thế giới.
Bảng 2.4: Thực trạng áp dụng IFRS trên thế giới tính đến 30/06/2012
Số quốc gia/vùng lãnh thổ Mức độ áp dụng Công ty niêm yết Công ty không niêm yết
Yêu cầu sử dụng toàn bộ 92 27
Yêu cầu sử dụng một phần 11 34
Cho phép sử dụng 25 45
Không cho phép sử dụng 24 32
Không có thị trường chứng khoán 21 -
Không có thông tin - 35
Tổng cộng 173 173
Nguồn: Lê Hoàng Phúc (2013)
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng IAS/IFRS trong khu vực Đông Nam Á
Quốc gia Tình hình áp dụng
Singapore Gần như toàn bộ
Malaysia Áp dụng toàn bộ từ tháng 1/2012
Phillippines Áp dụng có điều chỉnh
Thái Lan Gần như toàn bộ
Campuchia Áp dụng toàn bộ từ 2012
Indonesia Chuyển đổi theo kế hoạch từ 2012
Lào Áp dụng toàn bộ nếu được Chính phủ chấp thuận
Việt Nam
- Áp dụng VAS, doanh nghiệp có thể lập báo cáo IFRS tuỳ thuộc nhu cầu quản trị. Bắt buộc áp dụng cả 2 hệ thống chuẩn mực đối với các NHTM nhà nước và một số NHTMCP thuộc Dự án tái cơ cấu NHTM nhà nước của Ngân hàng Thế giới - Bộ Tài chính đang có kế hoạch xây dựng/cập nhật các chuẩn mực mới theo hướng tiệm cận với IFRS
Nguồn: Đặng Quốc Tuấn (2012)
Một số nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định tính ưu việt và vai trò quan trọng của IFRS
trong việc nâng cao chất lượng thông tin được trình bày trên BCTC của các DN. Cụ thể, dựa
-19-
trên kết quả nghiên cứu 21 quốc gia, Barth và cộng sự (2007) cho rằng việc áp dụng chuẩn
mực kế toán giúp nâng cao chất lượng của công tác hạch toán kế toán. Trong một nghiên
cứu khác cũng của Barth và cộng sự năm 2012 đối với số liệu của các doanh nghiệp ở Hoa
Kỳ, kết quả phân tích chỉ ra rằng việc áp dụng IFRS đem lại những số liệu kế toán có tính
dễ so sánh hơn so với khi áp dụng các chuẩn mực nội địa (US GAAP - Các quy tắc kế toán
được chấp nhận chung ở Hoa Kỳ). Các phát hiện từ nghiên cứu này cũng nêu rõ những nỗ
lực về hội tụ hệ thống tiêu chuẩn kế toán, mức độ gia tăng yêu cầu tuân thủ IFRS trên toàn
thế giới, sự phát triển của các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, và những nỗ lực tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan điều tiết thị trường chứng khoán quốc tế đã và đang làm tăng mức
độ dễ so sánh cho các thông tin kế toán. Nghiên cứu của Hung và Subramanyam (2007) về
BCTC của các doanh nghiệp ở Đức trong những năm 1998-2002 đã kết luận rằng thông tin
về giá trị tài sản, thu nhập được ghi nhận theo IFRS có tính tin cậy cao hơn so với các giá trị
tương ứng được ghi nhận theo Chuẩn mực Kế toán Đức do tính định hướng của hệ thống kế
toán. Chi tiết hơn, hệ thống Chuẩn mực Kế toán Đức hướng tới đối tượng sử dụng chủ yếu
là các bên có lợi ích gắn bó mật thiết với doanh nghiệp (stakeholder-oriented) và bị dẫn dắt
bởi các quy định về thuế (tax-driven) nên phương thức ghi nhận nhấn mạnh vào các nguyên
tắc an toàn và mức độ cân bằng thu nhập giữa các thời kỳ. Trong khi đó, IFRS hướng tới đối
tượng sử dụng là tất cả những người nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp (shareholder-
oriented) nên cách thức ghi nhận, đo lường, trình bày thông tin tài chính nhấn mạnh vào giá
trị hợp lý (fair-value) và cân đối kế toán (balance-sheet oriented).
2.2.3. Tổng quan về sự khác biệt giữa VAS và IFRS
Trên cơ sở các IAS/IFRS đã được công bố rộng rãi, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền
nghiên cứu, xây dựng, ban hành và phát triển các chuẩn mực kế toán áp dụng cho tất cả các
DN hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đang sử dụng
26 chuẩn mực kế toán với các nội dung chính có mức độ phù hợp khá cao so với IAS/IFRS.
Tuy nhiên, VAS vẫn còn rất nhiều điểm khác biệt quan trọng so với IFRS. Theo thông tin từ
NHNN, VAS do Bộ Tài chính ban hành (áp dụng cho tất cả các DN) được Hiệp hội Kế toán
và Kiểm toán Việt Nam đánh giá là tuân thủ khoảng 95% so với chuẩn mực quốc tế (NHNN,
2015b). Tuy nhiên, đối với các TCTD nói chung và NHTM nói riêng, hệ thống kế toán cùng
các văn bản quy định có liên quan đến hoạt động kinh doanh đặc thù của TCTD mới chỉ tuân
thủ khoảng 50% chuẩn mực quốc tế (NHNN, 2015b). Nguyên nhân trước hết được NHNN
-20-
đề cập đến là do hệ thống VAS hiện hành chủ yếu được xây dựng dựa trên các chuẩn mực
IAS được ban hành từ trước năm 2003 và chưa có sự điều chỉnh theo những sửa đổi, bổ sung
sau đó của IASB (các IAS đã được sửa đổi và các IFRS mới). Bên cạnh đó, Bộ Tài chính
chưa ban hành chuẩn mực chi tiết điều chỉnh cho đối tượng là các công cụ tài chính (chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của NHTM) mà chỉ mới đưa ra hướng dẫn liên quan đến việc
đánh giá rủi ro và trích lập dự phòng áp dụng cho một vài tài sản tài chính cụ thể. Trong một
nghiên cứu khác của Phạm, Tower và Scully năm 2011 (dẫn từ Đức Phan và cộng sự, 2013),
mức độ hội tụ chung về các quy định kế toán giữa VAS và IFRS khoảng 66%, trong đó mức
độ hội tụ về đo lường (measurement convergence) khoảng 75,8% và mức độ hội tụ về trình
bày (disclosure convergence) khoảng 61,9%. Đánh giá này khá nhất quán với tỷ lệ 70% mà
Tổng Cục Thuế đã trình bày trong báo cáo tại Hội nghị SGATAR lần thứ 41 ở Malaysia vào
tháng 11/2011 (Đức Phan và cộng sự, 2013).
Theo nghiên cứu của Anh Tuấn Nguyễn (2012), sự khác biệt khá lớn giữa VAS và IAS/IFRS
xuất phát từ nhiều yếu tố. Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển theo định
hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quy mô thị trường còn
khá nhỏ bé và các yếu tố liên quan đến hệ thống, môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo,
mức độ liên thông của thị trường vốn với quốc tế còn nhiều hạn chế. Thứ hai, các văn bản,
quy định của Việt Nam được phát triển theo hệ thống dân luật (code/civil law system - một
trong những nền tảng cho pháp chế xã hội chủ nghĩa) có tính linh hoạt kém do phụ thuộc
chặt chẽ vào các nguồn luật thành văn và các học thuyết pháp luật. Trong khi đó, hệ thống
pháp luật ở các nước phương tây, nơi sản sinh ra hệ thống IAS/IFRS, lại chủ yếu đi theo hệ
thống thông luật (common law) có tính linh hoạt cao hơn do nguồn luật chủ yếu là các án lệ,
tập quán pháp luật,… Thứ ba, môi trường văn hoá ở Việt Nam mang nặng tính phân cấp
quyền lực cao độ và tư duy văn hoá tập thể khiến cho việc chủ động công bố thông tin tài
chính - kế toán thường bị giới hạn. Thứ tư, chất lượng chuyên môn và khả năng phán đoán
chuyên nghiệp (professional judgment ability) của các kế toán viên ở Việt Nam chưa cao
đồng thời các quy định pháp luật trong nước thay đổi liên tục, không có tính ổn định khiến
họ không đủ thời gian để nghiên cứu, cập nhật những kiến thức mới đang nảy sinh ngày càng
nhiều với tốc độ nhanh.
-21-
2.2.4. Một số khác biệt giữa VAS và IFRS ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của
NHTM trong hệ thống chỉ số CAMELS
2.2.4.1. Khác biệt trong quy định phân loại nợ
(a) Phân loại nợ theo VAS và các quy định có liên quan
Trước ngày 01/06/2014, các NHTM ở Việt Nam thực hiện phân loại nợ theo phương pháp
định lượng được quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005
(“Quyết định 493”) và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ban hành ngày 25/07/2007
(“Quyết định 18”). Các NHTM có đủ khả năng và điều kiện cần thiết có thể tiến hành phân
loại nợ theo phương pháp định tính (quy định tại Điều 7 - Quyết định 493) nhưng phải được
NHNN chấp thuận bằng văn bản đối với chính sách dự phòng rủi ro được xây dựng căn cứ
trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (Internal Credit Scoring System - ICSS). Tính đến
cuối năm 2013, toàn hệ thống NHTM chỉ có Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV)
và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được NHNN cho phép phân loại nợ theo
phương pháp định tính. Do vậy, hầu hết các khoản cho vay của NHTM được phân loại thành
5 nhóm tùy thuộc số ngày quá hạn của các khoản nợ lãi và/hoặc nợ gốc.
Kể từ ngày 01/06/2014, sau nhiều lần NHNN công bố trì hoãn thời điểm có hiệu lực của
Thông tư 02/2013/TT-NHNN (“Thông tư 02”) và Thông tư 09/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư 02/2013/TT-NHNN (“Thông tư 09”) do lo ngại tỷ lệ nợ xấu
của hệ thống ngân hàng tăng đột biến, các NHTM ở Việt Nam phải ghi nhận và trình bày
trên BCTC nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn giữa các kết quả phân loại nợ theo ba nguồn
thông tin: phân loại theo phương pháp định lượng, phân loại theo phương pháp định tính và
phân loại theo hệ thống thông tin tổng hợp của CIC (nhóm nợ có rủi ro cao nhất trong toàn
hệ thống các TCTD). Về cách thức phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhìn chung
các quy định tại Thông tư 02 đối với các khoản tín dụng thông thường không khác biệt nhiều
so với Quyết định 18 nhưng có một số điểm mới như sau:
Bổ sung chi tiết một số khoản nợ bị phân loại vào nhóm nợ xấu (Nhóm 3, 4, 5) do
tính chất rủi ro đặc thù như: nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức/cá
nhân thuộc đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật; nợ
được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD; khoản
cho vay khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp
-22-
luật không có tài sản đảm bảo hoặc cấp với điều khoản ưu đãi hoặc vượt quá 5%
vốn tự có của TCTD; nợ cấp cho công ty con/công ty liên kết/doanh nghiệp mà
TCTD nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt quá tỷ lệ giới hạn theo quy định pháp
luật;… (Khoản 1 - Điều 10 - Thông tư 02)
Rút ngắn thời gian thử thách tối thiểu để nâng nhóm nợ cho khách hàng từ 6 xuống
3 tháng đối với nợ trung - dài hạn và từ 3 xuống 1 tháng đối với nợ ngắn hạn.
Việc phân loại nợ theo phương pháp định tính được căn cứ dựa trên ICSS do mỗi NHTM tự
xây dựng và xin phê duyệt của NHNN. Ngay từ năm 2005, NHNN đã yêu cầu các NHTM
phải xây dựng ICSS để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng trong thời
gian tối đa 3 năm kể từ ngày Quyết định 493 có hiệu lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có
quy định chi tiết một cách thống nhất về các tiêu chí cụ thể trong đó. Như vậy, các ICSS của
các NHTM có thể được tự do xây dựng với mức độ chi tiết dựa trên dữ liệu khách hàng và
kinh nghiệm của bản thân. Do đó, số lượng, nội dung, ngưỡng đánh giá cũng như tỷ trọng
của các chỉ tiêu đóng góp vào tổng điểm xếp hạng của mỗi khách hàng có thể có sự khác
biệt giữa các NHTM. Việc không có quy chuẩn thống nhất này dễ dẫn đến tình trạng chênh
lệch kết quả xếp hạng đối với cùng một khách hàng và các NHTM sẽ phải tiến hành rà soát,
điều chỉnh báo cáo phân loại nợ cũng như mức dự phòng trích lập nhiều lần hơn.
(b) Phân loại nợ theo IFRS và thông lệ quốc tế
Để thông tin tài chính được công bố đảm bảo tính trung thực, hợp lý và thông tin rủi ro tín
dụng là đáng tin cậy, các quy định liên quan đến phân loại và trình bày tài sản tài chính
(trong đó có các khoản cho vay của NHTM) theo IFRS phải tuân thủ quy tắc “bản chất
quan trọng hơn hình thức” và “thận trọng”. Cụ thể, việc xác định khả năng thu hồi của
các khoản cho vay phải được căn cứ trên cả nội dung và điều kiện kinh tế thực tiễn trong
hiện tại cũng như trong tương lai. Bên cạnh đó, các ước tính phải được đưa ra một cách thận
trọng trong những điều kiện không chắc chắn nhằm đảm bảo tài sản - thu nhập của NHTM
không bị đánh giá quá cao và/hoặc các khoản nợ - chi phí không bị định giá quá thấp. Nói
cách khác, việc phân loại danh mục cho vay của NHTM vào các nhóm có đặc điểm rủi ro
tín dụng tương tự nhau phải dựa trên cơ sở đánh giá, xếp hạng tín dụng cho mỗi khách hàng
theo cả các yếu tố định lượng lẫn định tính.
-23-
Theo IAS 39 và các văn bản hướng dẫn có liên quan, danh mục các khoản cho vay của
NHTM phải được phân chia thành các nhóm có mức rủi ro tín dụng tương tự nhau dựa trên
các yếu tố bao gồm đặc điểm của khoản vay (loại hình cho vay), ngành nghề, vị trí địa lý,
loại tài sản đảm bảo, tình hình quá hạn trong 3-5 năm gần nhất,... Cụ thể, dựa vào quy mô
dư nợ tín dụng của các khách hàng, NHTM cần phân chia danh mục tín dụng của mình thành
hai phần là các khoản vay trọng yếu và các khoản vay không trọng yếu khi đứng độc lập.
Tiếp đó, NHTM sẽ đánh giá mức độ rủi ro tín dụng riêng lẻ cho từng khoản vay trọng yếu
và theo nhóm đối với các khoản vay còn lại. Với phương thức này, kết quả phân loại nợ theo
IFRS khác VAS ở điểm lớn nhất chính là khi một khoản vay không trọng yếu bị đánh giá là
có mức độ rủi ro tín dụng cao hơn thì cả nhóm mà khoản vay đó được phân loại vào sẽ bị
chuyển lên nhóm nợ cao hơn. Điều này khiến cho tỷ lệ nợ xấu phản ánh trên BCTC được
soạn lập theo IFRS của các NHTM thường cao hơn so với BCTC theo VAS.
2.2.4.2. Khác biệt trong ghi nhận chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
Theo quy định tại Quyết định 18 và Thông tư 02, dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM
bao gồm 2 phần: (i) dự phòng chung được tính bằng bằng 0,75% tổng dư nợ từ Nhóm 1 đến
Nhóm 4, bao gồm cả các khoản mục cam kết ngoại bảng; và (ii) dự phòng cụ thể được tính
cho từng khoản nợ thuộc Nhóm 2 đến Nhóm 5 theo tỷ lệ trích lập tương ứng lần lượt là 5%,
20%, 50% và 100%. Theo Điều 12 - Thông tư 02, số dự phòng cụ thể cần trích lập được tính
𝑛
toán dựa trên công thức như sau:
𝑖=1
𝑅 = ∑ 𝑀𝑎𝑥{0, 𝐴𝑖 − 𝐶𝑖} × 𝑟
Trong đó: R: Tổng số tiền dự phòng cụ thể phải trích cho từng khách hàng
Ai: Số dư nợ gốc của khoản vay thứ i
Ci: giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo của khoản vay thứ i (bằng giá trị tài
sản đảm bảo nhân với tỷ lệ khấu trừ tương ứng từng loại tài sản đảm bảo)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể theo nhóm nợ mà khách hàng được phân loại
Như vậy, số dư dự phòng cụ thể cần trích lập cho mỗi khách hàng sẽ phụ thuộc vào tổng dư
nợ của khách hàng, giá trị tài sản đảm bảo mà khách hàng thế chấp cho NHTM và tỷ lệ khấu
trừ tương ứng với từng loại tài sản đảm bảo. Một điểm đáng lưu ý là theo quy định về cách
-24-
tính như trên, trong trường hợp giá trị tài sản đảm bảo cao hơn số dư nợ gốc của khoản vay
thứ i thì cũng không được tính bù trừ với số dư nợ gốc của khoản vay thứ j. Đây là điểm
khác biệt quan trọng so với Quyết định 18 (dựa trên chênh lệch giữa tổng dư nợ và tổng giá
trị khấu trừ của tất cả các tài sản mà khách hàng thế chấp tại NHTM) và phản ánh rõ hơn
quyền lợi của NHTM trong việc sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo.
Trong khi đó, dự phòng rủi ro tín dụng theo IAS 39 (hướng dẫn chi tiết bởi Uỷ ban Basel)
được trích lập dựa trên khái niệm tổn thất giảm giá trị của các khoản vay. Cụ thể, tại thời
điểm lập báo cáo tài chính, NHTM phải đánh giá khả năng tổn thất giảm giá trị của mỗi
khoản vay, từ đó làm cơ sở để xác định mức dự phòng cần trích lập. Một khoản vay bị đánh
giá là giảm giá trị khi và chỉ khi NHTM có các bằng chứng khách quan về khả năng bị tổn
thất do kết quả của một/một số sự kiện xảy ra tác động đến các dòng lưu chuyển tiền dự kiến
trong tương lai liên quan đến khoản vay đó. Theo đó, dự phòng rủi ro tín dụng của NHTM
bao gồm các loại: (i) dự phòng riêng lẻ đối với các khoản vay trọng yếu khi đứng riêng lẻ;
(ii) dự phòng đối với nhóm khoản vay trọng yếu được đánh giá là không giảm giá trị; và (iii)
dự phòng đối với nhóm khoản vay không trọng yếu khi đứng riêng lẻ.
-25-
Sơ đồ 1: Quy trình trích lập dự phòng tín dụng của NHTM theo IAS/IFRS
Nguồn: Tác giả tự vẽ
Khác với tỷ lệ dự phòng cụ thể được áp dụng cố định cho từng nhóm nợ mà không dựa vào
tình hình thực tế của khách hàng, chuẩn mực quốc tế quy định mức dự phòng cụ thể cần trích
lập đối với từng khoản vay là phần giảm giá trị được xác định bằng khoản chênh lệch giữa
giá trị ghi sổ và giá trị hiện tại của các dòng tiền ước tính có thể thu hồi được trong tương lai
(nợ gốc, nợ lãi và giá trị tài sản đảm bảo thu hồi sau xử lý). Giá trị có thể thu hồi được ước
tính này không bao gồm những tổn thất tín dụng trong tương lai chưa phát sinh và được chiết
khấu theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng và các văn bản có liên quan tính tại thời
điểm xem xét việc giảm giá trị (thời điểm tính toán dự phòng). Công thức tính dự phòng cụ
thể theo IFRS có thể được minh hoạ như sau:
SP = Max{0, PV[DN * (1 - AR)] - PV(TSĐB)}
-26-
Trong đó: SP: số dự phòng cụ thể cần trích lập.
PV: giá trị hiện tại được chiết khấu theo lãi suất thoả thuận
DN: dòng nợ gốc và lãi phát sinh tại từng thời điểm cụ thể trong tương lai
(tuỳ thuộc lịch trả nợ theo thoả thuận là hàng tháng/quý hay mỗi 6 tháng)
AR: tỷ lệ chấp thuận của khoản vay, được ước tính dựa trên kinh nghiệm về
tổn thất đối với những khoản vay có mức độ rủi ro tương tự trong quá khứ.
TSĐB: giá trị tài sản đảm bảo được chấp thuận (bằng giá trị tài sản đảm bảo
được định giá nhân với tỷ lệ chấp thuận) phát sinh vào thời điểm đáo hạn.
Đối với dự phòng rủi ro tín dụng của các khoản vay không trọng yếu khi đứng riêng lẻ, theo
hướng dẫn của IFRS và yêu cầu của Basel II, các NHTM phải sử dụng các mô hình xử lý dữ
liệu nội bộ trong vòng ít nhất 5 năm trước liền kề để xác định các biến số xác suất khách
hàng không trả được nợ (PD - Probability of Default), tỷ trọng tổn thất ước tính (LGD - Loss
Given Default) và tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ (EAD -
Exposure at Default). Từ đó, với mỗi nhóm có rủi ro tương đồng, NHTM tính dự phòng rủi
ro theo mức tổn thất có thể ước tính theo công thức:
Dự phòng rủi ro nhóm = EAD * PD * LGD
Như vậy, cách thức tính toán dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập theo IFRS có độ phức
tạp cao hơn so với quy định của VAS nhưng lại phản ánh chính xác hơn chất lượng danh
mục tín dụng của các NHTM. Do đó, dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập theo IFRS thường
cao hơn khá nhiều so với VAS và sẽ ảnh hưởng cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến nhiều khoản
mục trên BCTC của NHTM như số dư dự phòng rủi ro cho vay khách hàng, tổng tài sản, lợi
nhuận trước thuế,...
2.2.4.3. Một số khác biệt cơ bản khác
(a) Khác biệt trong ghi nhận giá trị các khoản đầu tư
Đối với các chứng khoán kinh doanh, VAS yêu cầu NHTM ghi nhận ban đầu theo giá gốc
và lập dự phòng, tăng chi phí tài chính nếu giá trị trường xuống thấp hơn giá gốc tại thời
điểm lập BCTC. Trong khi đó, IFRS yêu cầu ghi nhận khoản đầu tư ban đầu theo giá phí và
ghi nhận vào lãi/lỗ chưa thực hiện đối với phần chênh lệch giữa giá thị trường và giá phí tại
thời điểm lập BCTC. Nói cách khác, đối với việc ghi nhận giá trị các chứng khoán kinh
-27-
doanh, VAS và IFRS khác nhau ở chỗ IFRS cho phép NHTM ghi tăng lợi nhuận khi giá thị
trường của chứng khoán kinh doanh cao hơn giá trị sổ sách nhưng VAS thì không.
Đối với các chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán, VAS quy định ghi nhận giống các chứng
khoán kinh doanh. Tuy nhiên, IFRS lại yêu cầu ghi nhận ban đầu bằng giá vốn và tại thời
điểm lập BCTC, NHTM phải điều chỉnh các khoản đầu tư này về giá trị thị trường thông qua
ghi nhận tăng/giảm phần VCSH trên Bảng cân đối kế toán phần chênh lệch cao/thấp hơn
giữa giá thị trường và giá trị sổ sách.
Đối với các khoản đầu tư vào trái phiếu, VAS ghi nhận giá trị đầu tư bằng mệnh giá và phần
chênh lệch giữa mệnh giá với giá thanh toán được ghi nhận vào Doanh thu chưa thực hiện
hoặc Chi phí chờ phân bổ. Trong khi đó, IFRS yêu cầu ghi nhận và phản ánh trên BCTC các
khoản đầu tư trái phiếu theo giá vốn đã chiết khấu (amortised cost), tức là giá mà NHTM có
thể thu hồi được nếu bán tài sản tại thời điểm lập BCTC.
(b) Khác biệt trong ghi nhận giao dịch thanh lý tài sản cố định
Về quy định, VAS và IFRS đều đề cập đến việc phản ánh số lãi/lỗ từ giao dịch thanh lý tài
sản cố định vào khoản mục Thu nhập/Chi phí hoạt động khác trên BCTC. Tuy nhiên, các
văn bản hướng dẫn quy định về cách thức hạch toán kế toán của Việt Nam yêu cầu các
NHTM phải ghi nhận toàn bộ số tiền thu được từ thanh lý tài sản vào Thu nhập khác và ghi
nhận giá trị còn lại trên sổ sách của tài sản đó vào Chi phí khác. Trong khi đó, IFRS hướng
dẫn ghi nhận thẳng phần chênh lệch giữa số tiền thu được từ thanh lý và giá trị còn lại trên
sổ sách vào Thu nhập hoặc Chi phí khác. Cách thức thực hiện như trên sẽ khiến cho tỷ trọng
thu nhập từ hoạt động thanh lý tài sản của NHTM trên BCTC theo VAS có sự khác biệt so
với IFRS mặc dù thường không quá trọng yếu.
2.2.4.4. Tác động của các khác biệt tới kết quả đánh giá theo CAMELS
Những khác biệt liên quan đến việc phân loại, đánh giá chất lượng danh mục tín dụng và ghi
nhận giá trị sổ sách đối với các khoản đầu tư tài chính nêu trên sẽ dẫn đến sự khác biệt giữa
các khoản mục liên quan được trình bày trên báo cáo tài chính theo VAS và IFRS như tổng
dư nợ ròng, dư nợ theo từng nhóm, giá trị các khoản đầu tư tài chính, tổng tài sản,... Bên
cạnh đó, những khác biệt trong ghi nhận chi phí dự phòng hay giá trị hợp lý của các khoản
đầu tư tài chính lại hình thành nên sự chênh lệch giữa kết quả kinh doanh trong kỳ và tiếp
theo đó là khoản mục lợi nhuận giữ lại, vốn và các quỹ trên bảng cân đối kế toán theo VAS
-28-
và IFRS. Do đó, khi xếp loại theo CAMELS và đặc biệt là theo Quyết định 06/2008/QĐ-
NHNN, kết quả tổng hợp sẽ có sự khác biệt khi sử dụng dữ liệu đầu vào từ hai hệ thống báo
cáo VAS và IFRS do chênh lệch trong kết quả đánh giá về vốn tự có, chất lượng tài sản và
kết quả kinh doanh của các TCTD.
Sơ đồ 2: Tác động của sự khác biệt trong ghi nhận dữ liệu theo các hệ thống chuẩn
mực tới kết quả đánh giá theo CAMELS
Nguồn: Tác giả tự vẽ
-29-
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ NHTM THEO HỆ THỐNG CAMELS DỰA
TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH ĐƯỢC LẬP THEO VAS VÀ IFRS
Chương 3 trình bày kết quả đánh giá theo CAMELS, cụ thể là theo hướng dẫn của Quyết
định 06/2008/QĐ-NHNN, của một số NHTM dựa trên dữ liệu thông tin tài chính đầu vào
lấy từ các báo cáo tài chính được lập theo VAS và IFRS. Trong đó, một số nguyên nhân
chính dẫn đến sự khác biệt trong việc ghi nhận các khoản mục trên BCTC theo hai hệ thống
chuẩn mực sẽ được làm rõ để giải thích cho mức chênh lệch trong kết quả đánh giá tổng thể
của từng NHTM. Do vấn đề bảo mật, các NHTM không được nêu tên đích danh và thông tin
giúp xác định danh tính cụ thể của NHTM như năm thành lập, năm xảy ra sự kiện quan
trọng, số văn bản của NHNN,... sẽ được nêu một cách hạn chế.
3.1. Ngân hàng A và tác động của sự can thiệp bằng văn bản đối với kết quả phân loại
nợ theo VAS của NHNN
Ngân hàng A là một trong những NHTM cổ phần được thành lập thí điểm từ năm 199x với
số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đa dạng
cho khách hàng. Sau hơn 20 năm hoạt động và phát triển, Ngân hàng A đã xây dựng được
một thương hiệu khá tên tuổi, mở rộng quy mô lên gần 100 chi nhánh, phòng giao dịch trên
cả nước và tăng vốn điều lệ lên hơn 4.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến năm 201X, do kết quả
hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính yếu kém, Ngân hàng A đã bị buộc phải thực thi
phương án tái cấu trúc do NHNN yêu cầu và chấp nhận từ bỏ thương hiệu đã dày công xây
dựng trước đó.
Theo các BCTC đã kiểm toán theo VAS cho năm tài chính 201X-1, kết quả hoạt động kinh
doanh và tình hình tài chính của Ngân hàng A chưa thực sự thể hiện mức độ thiếu bền vững
và nguy cơ đổ vỡ, hoàn toàn trái ngược với Báo cáo đánh giá lại tài sản và các khoản dự
phòng liên quan do một công ty kiểm toán lớn, có uy tín lập chỉ vài tháng sau đó cũng như
theo các BCTC đã kiểm toán theo IFRS. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ việc Ngân
hàng A tập trung khá nhiều vốn để cho vay một lượng nhỏ khách hàng, tập trung vào những
ngành rủi ro và gặp nhiều bất lợi trong giai đoạn đó như đóng tàu, sản xuất giấy, chế biến
thuỷ sản,... Đặc biệt, khách hàng có dư nợ lớn nhất tại ngày 31/12/201X-1 là các công ty
thành viên của Tập đoàn Vinashin, những đơn vị đã mất khả năng trả nợ tại thời điểm này.
Ngoài ra, Ngân hàng A còn đầu tư tài chính vào các cổ phiếu, trái phiếu công ty của một số
-30-
doanh nghiệp đã được chính Ngân hàng A cấp tín dụng có tình hình tài chính ngày càng
không khả quan.
Như một hệ quả tất yếu, khi NHNN ban hành văn bản chỉ đạo các NHTM xem xét khoanh
và cơ cấu lại các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Vinashin, phân loại các
khoản nợ này vào Nhóm 2 - Nợ cần chú ý đồng thời trích lập dự phòng theo khả năng tài
chính của từng ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A được tính toán dựa trên số liệu báo
cáo theo VAS cho năm tài chính 201X-1 chỉ khoảng 4,42% trong khi tỷ lệ này theo VAS
sau khi điều chỉnh tổng dư nợ của Vinashin và theo IFRS lần lượt là 16,73% và 26,53%. Chi
phí dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập trong năm 201X-1 do vậy cũng có sự khác biệt
khá lớn giữa số liệu báo cáo theo VAS và theo IFRS, gần 2.700 tỷ đồng, kéo theo kết quả
hoạt động kinh doanh theo VAS được báo cáo lãi trong khi theo IFRS thì lỗ khá lớn (chênh
lệch khoảng 2.900 tỷ đồng chưa kể tác động của thuế thu nhập hoãn lại).
Hình 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A năm 201X-1
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A
-31-
Hình 3.2: Tỷ lệ dự phòng trên dư nợ theo từng nhóm của Ngân hàng A năm 201X-1
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A
Như vậy, hành động can thiệp trực tiếp vào kết quả phân loại nợ tại các NHTM của NHNN
thông qua ban hành văn bản chỉ định nhóm nợ đối với nhóm đối tượng đặc thù đã làm cho
giá trị của dư nợ tương ứng từng nhóm trên BCTC theo VAS của NHTM bị biến dạng so
với thực tế, tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng cần trích lập theo số liệu báo cáo VAS thấp hơn
nhiều so với số liệu trình bày trên BCTC theo IFRS. Kết hợp với sự khác biệt trong cách xác
định giá trị sổ sách tại thời điểm lập BCTC giữa VAS và IFRS dẫn đến chênh lệch trong chi
phí dự phòng giảm giá tài sản tài chính cần ghi nhận, lợi nhuận trong năm 201X-1 của Ngân
hàng A theo IFRS sụt giảm nghiêm trọng so với số liệu báo cáo theo VAS. Giá trị tổng tài
sản, vốn chủ sở hữu thực và khoản mục lợi nhuận giữ lại trên bảng cân đối kế toán theo IFRS
do vậy cũng thấp hơn so với VAS. Những khác biệt này đã kéo theo hệ quả là số điểm bị trừ
tại các chỉ tiêu đánh giá về vốn tự có, chất lượng tài sản và kết quả kinh doanh của Ngân
hàng A theo IFRS cao hơn nhiều so với VAS (chi tiết xem Bảng 3.1). Do đó, kết quả đánh
giá tổng hợp cuối cùng của Ngân hàng A dựa trên BCTC theo VAS là hạng B trong khi theo
IFRS là hạng D, hạng cần thiết phải có chính sách can thiệp nhanh chóng. Với bối cảnh Ngân
hàng A bị NHNN buộc tái cấu trúc do tình hình tài chính yếu kém năm 201X, có thể nói
rằng số liệu theo báo cáo IFRS phản ánh đúng tình trạng thực tế của các NHTM hơn so với
số liệu VAS, đặc biệt khi NHNN có can thiệp trực tiếp đến quá trình phân loại nợ và đánh
giá chất lượng danh mục tín dụng tại các NHTM.
-32-
Bảng 3.1: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng A năm 201X-1
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
5 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực thấp hơn 3.000 tỷ đồng
9 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu < 9%
0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ
10 25
Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản5 Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản
5 5 Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Chất lượng tài sản
0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%
0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%
0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát
0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Năng lực quản trị
3 3 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn
Không có lãi 15 7 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân từ 5% đến dưới 10%
3 3 Kết quả hoạt động kinh doanh Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập dưới 2% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập dưới 2%
5 Chưa điều chỉnh dư nợ của các Công ty ty thuộc Tập đoàn Vinashin
-33-
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
Không có lãi 2 1
Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trước thuế từ 14% đến dưới 30%
12 0 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần) Tỷ lệ khả năng chi trả trên 10%
0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%
79 Tổng cộng điểm trừ 29
21 Điểm đánh giá 71
D Xếp hạng B
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A
3.2. Ngân hàng B và tác động từ chính sách ưu tiên đối với các NHTM có vốn nhà nước
của NHNN
Ngân hàng B là một trong những NHTM có vốn nhà nước được thành lập vào giai đoạn
198x-199x theo các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng
B hiện có khá nhiều công ty con hoạt động trong các lĩnh vực như cho thuê tài chính, bảo
hiểm, chứng khoán,... và phạm vi hoạt động đã vượt ra khỏi biên giới Việt Nam. Xét về quy
mô, Ngân hàng B có hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch đặt tại hầu hết mọi tỉnh thành trên
cả nước và là một trong những ngân hàng chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường tài chính.
Theo các báo cáo tài chính đã kiểm toán trong những năm gần đây, tình hình tài chính và kết
quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng B có sự khác biệt rất lớn giữa số liệu báo cáo theo
VAS và số liệu theo IFRS. Cụ thể, tại ngày 31/12/2014 và cho năm tài chính kết thúc cùng
ngày, tổng tài sản của Ngân hàng B theo VAS cao hơn gần 12.140 tỷ đồng so với tổng tài
sản xác định theo IFRS. Nguyên nhân chủ yếu là do số dư các khoản dự phòng tổn thất tài
sản tài chính được ghi nhận theo VAS thấp hơn 15.043 tỷ đồng so với số cần được ghi nhận
theo IFRS, kéo theo lỗ luỹ kế tại thời điểm 31/12/2014 trên báo cáo VAS thấp hơn 13.224
tỷ đồng. Đây là hệ quả của việc Ngân hàng B được chấp thuận trích lập dự phòng rủi ro trên
báo cáo VAS cao hơn mức tối thiểu quy định tại Công văn số 7xx/NHNN-TTGSNH.m ngày
2x tháng 1x năm 20xx mà không cần ghi nhận đủ số dự phòng tương ứng kết quả phân loại
-34-
nợ của toàn danh mục tín dụng đang nắm giữ tại ngày 31/12/2014. Bên cạnh đó, mặc dù đã
rất tích cực trong việc bán một phần các khoản nợ xấu cho VAMC, tỷ lệ nợ xấu theo VAS
của Ngân hàng B tại ngày 31/12/2014 vẫn vào khoảng 5,7%, thấp hơn rất nhiều so với con
số khoảng 20,4% nợ xấu theo IFRS. Với tình trạng trong những năm gần đây, các thông tin
như kết luận của Kiểm toán Nhà nước chỉ ra nhiều sai phạm trong hoạt động cho vay, tiềm
ẩn nhiều rủi ro và khả năng khó thu hồi vốn của một tỷ lệ không nhỏ trong danh mục cho
vay của Ngân hàng B; nhiều vụ điều tra sai phạm cho vay hàng trăm tỷ ở một số chi nhánh
và công ty con của Ngân hàng B đã và đang được thực thi;... được công bố ngày càng nhiều
cho thấy số liệu về rủi ro tín dụng theo báo cáo VAS không phản ánh chính xác thực trạng
của Ngân hàng B so với số liệu theo IFRS.
Như vậy, ngoài chênh lệch tỷ lệ nợ xấu do khác biệt trong cách thức phân loại nợ giữa VAS
và IFRS, sự ưu tiên của NHNN trong việc ghi nhận chi phí dự phòng cần trích lập đã khiến
cho tình trạng tài chính thực tế của Ngân hàng B thể hiện trên BCTC theo VAS bị che giấu.
Kết hợp cùng sự khác biệt trong chi phí dự phòng cần trích lập đối với các khoản đầu tư tài
chính theo VAS và IFRS, kết quả kinh doanh trong năm 2014 của Ngân hàng B theo báo
cáo cho cơ quan giám sát là có lãi trong khi theo báo cáo IFRS là lỗ với mức chênh lệch hơn
11.000 tỷ đồng. Tác động kéo theo của những khác biệt này là giá trị tổng tài sản, vốn điều
lệ thực và lỗ luỹ kế trên bảng cân đối kế toán của Ngân hàng B có mức chênh lệch rất lớn.
Hình 3.3: Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B
-35-
Hình 3.4: Một số chỉ tiêu tài chính tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B
Những khác biệt nêu trên về số liệu trình bày trong các BCTC năm 2014 của Ngân hàng B
theo VAS và IFRS đã tạo ra chênh lệch giữa điểm số của từng chỉ tiêu khi đánh giá theo
Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN dựa trên hai hệ thống báo cáo. Cụ thể, khác biệt về lãi hay
lỗ trong năm 2014 khiến chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh của Ngân hàng B theo IFRS
bị trừ 17 điểm thay vì 7 điểm nếu theo VAS. Tác động song song của sự khác biệt này còn
thể hiện ở chỗ hệ số an toàn vốn tối thiểu theo IFRS của Ngân hàng B không đáp ứng yêu
cầu của NHNN và bị trừ 9 điểm trong khi hệ số này theo VAS vẫn đạt yêu cầu. Bên cạnh
đó, chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản của Ngân hàng B theo IFRS cũng bị trừ nhiều hơn 6
điểm so với VAS do tỷ lệ nợ xấu chênh lệch lớn. Tổng hợp lại, mức điểm tuyệt đối được
đánh giá cho Ngân hàng B dựa vào số liệu báo cáo theo hai hệ thống chuẩn mực cách khá
xa nhau (chi tiết xem Bảng 3.2). Tuy nhiên, kết quả phân nhóm trong cả hai trường hợp lại
giống nhau, cùng hạng D, do khung phân hạng theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đặt ra
khoảng cách điểm giữa các hạng A, B, C chỉ 10-20 điểm trong khi phổ điểm của hạng D là
từ 50 điểm trở xuống. Đây cũng chính là điểm còn hạn chế so với hệ thống CAMELS của
Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đã trình bày trong Chương 2.
-36-
Bảng 3.2: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng B năm 2014
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
0 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng
9 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu < 9%
0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ
19 25
Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước kháhc hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản
5 5 Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Chất lượng tài sản
0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%
0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%
0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát
0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Năng lực quản trị
3 3 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn6 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn
7 Không có lãi 15 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân từ 5% đến dưới 10% Kết quả hoạt động
6 Cơ sở đánh giá là thông tin về các vụ việc tham ô, xâm tiêu của một số cán bộ lãnh đạo Ngân hàng B được công bố rộng rãi.
-37-
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
kinh doanh 2 2 Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8%
0 Không có lãi 2 trước thuế Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trên 30%
12 12 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần) Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần)
0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%
Tổng cộng điểm trừ 48 73
Điểm đánh giá 52 27
Xếp hạng theo CAMELS D D
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B
3.3. Ngân hàng C và việc duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% theo yêu cầu của NHNN
Là một trong những ngân hàng thuộc nhóm G12 (nhóm các ngân hàng chiếm thị phần lớn
nhất) và được dự đoán thuộc Nhóm 1 trong đợt phân loại của NHNN công bố năm 2012,
Ngân hàng C được thành lập năm 199x và đang trong quá trình tăng trưởng nhanh chóng để
đạt mục tiêu trở thành một trong năm ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam vào năm 2017.
Hiện tại, Ngân hàng C đã có trên 200 điểm giao dịch tại các tỉnh thành lớn trong cả nước
được vận hành bởi 12.400 cán bộ, nhân viên. Nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và hoàn thành
các mục tiêu chiến lược đề ra, Ngân hàng C đang tập trung vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động dựa trên nền tảng là mô hình quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp đảm
bảo minh bạch thông tin, trong đó chú trọng vào sáng kiến thực hiện chuyển đổi BCTC từ
VAS sang IFRS, thu hẹp dần khoảng cách giữa kết quả kinh doanh được ghi nhận theo hai
khung khổ chuẩn mực và công bố dần các bộ phận của BCTC theo IFRS.
Theo số liệu trình bày chi tiết về danh mục và mức độ rủi ro tín dụng trên các BCTC đã kiểm
toán được Ngân hàng C công bố, tỷ lệ nợ xấu trong giai đoạn 2011-2014 của Ngân hàng C
theo VAS vẫn thấp hơn khá nhiều so với kết quả phân loại theo IFRS (Hình 3.5). Trong năm
-38-
2013 và 2014, nhằm duy trì mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu do NHNN đề ra, Ngân hàng C đã bán
lượng lớn nợ xấu cho VAMC tương ứng lần lượt là 636.695 triệu đồng và 3.956.097 triệu
đồng. Do vậy, trên báo cáo theo VAS, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C luôn ở mức dưới 3%.
Tuy nhiên, để mua các khoản nợ xấu này, VAMC không sử dụng tiền mặt mà dùng hình
thức phát hành trái phiếu đặc biệt để thanh toán, tức là song song với việc ghi giảm một
lượng lớn nợ xấu được bán cho VAMC thì Ngân hàng C phải ghi nhận một lượng tương ứng
giá trị trái phiếu đặc biệt được giữ đến ngày đáo hạn. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều
46 - Thông tư 19/2013, Ngân hàng C phải tiến hành trích lập dự phòng rủi ro cho lượng trái
phiếu đặc biệt này với mức tương ứng mỗi năm bằng tổng mệnh giá chia cho thời hạn của
trái phiếu đặc biệt (thường là 20%/năm). Bên cạnh đó, theo Khoản 2 - Điều 12 - Nghị định
số 53/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, VAMC có quyền uỷ
quyền cho TCTD bán nợ thực hiện một hoặc một số hoạt động nhằm thu hồi, xử lý các khoản
nợ xấu đã bán đồng thời Khoản 2 - Điều 44 cũng quy định sau 5 năm, nếu TCTD không thu
hồi, xử lý được các khoản nợ xấu đã bán thì phải nhận lại toàn bộ. Với quy định này, xét về
bản chất thì các TCTD vẫn phải chịu trách nhiệm rất lớn đối với rủi ro của các khoản nợ xấu
đã bán cho VAMC và hoạt động mua bán nợ chỉ mang tính chất hình thức, giúp các TCTD
giãn thời hạn giảm dần tỷ lệ nợ xấu trên BCTC. Do vậy, tỷ lệ nợ xấu của NHTM theo BCTC
được lập theo VAS nên được điều chỉnh theo số cộng gộp tổng dư nợ xấu đã bán cho VAMC.
Nhìn chung, các chính sách của NHNN liên quan đến quản lý, giám sát danh mục tín dụng
của các NHTM cũng còn tồn tại vấn đề bất cập. Nhằm đạt được mục tiêu tỷ lệ nợ xấu toàn
hệ thống duy trì ở mức 3%, ngoài việc đốc thúc các NHTM bán bớt nợ xấu cho VAMC theo
phương thức nêu trên, NHNN còn đặt ra hạn mức tốc độ tăng trưởng tín dụng cho các NHTM
dựa trên kết quả phân nhóm từ năm 2012. Mục đích của chính sách này là NHNN muốn các
NHTM phải tăng cường hoạt động thu hồi nợ đồng thời giám sát chặt chẽ khâu giải ngân để
giảm dần các khoản nợ xấu còn tồn đọng cũng như phát sinh mới. Tuy nhiên, mục đích này
không thể đạt được như mong muốn khi NHNN chấp nhận nới rộng hạn mức tăng trưởng
tín dụng cho hàng loạt NHTM trong những năm gần đây. Điều này đã tạo cơ hội cho Ngân
hàng C cũng như các NHTM khác trong hệ thống có điều kiện tăng dần tổng dư nợ trong khi
không đảm bảo khả năng chắc chắn thu hồi đối với những khoản nợ tồn đọng hay mới giải
ngân (mẫu số tăng lên trong khi tử số không đổi hoặc tăng ít hơn) nhằm duy trì tỷ lệ nợ xấu
trên BCTC ở mức dưới hoặc bằng 3%. Như vậy, sự can thiệp chính sách của NHNN trong
-39-
hoạt động quản lý danh mục tín dụng ở các NHTM chưa thực sự làm thay đổi bản chất chất
lượng các khoản cho vay trong nền kinh tế và tỷ lệ nợ xấu trên BCTC theo VAS, số liệu
được dùng để công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, chưa thực sự phản
ánh đúng tình trạng thực tế mà hệ thống ngân hàng đang gặp phải.
Năm 2014
Năm 2013
Năm 2012
Năm 2011
Hình 3.5: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
NPL - IAS
NPL - VAS
NPL - VAS điều chỉnh
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C
3.00%
2.50%
2.00%
1.50%
1.00%
0.50%
90,000,000 80,000,000 70,000,000 60,000,000 50,000,000 40,000,000 30,000,000 20,000,000 10,000,000 -
0.00%
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Tổng dư nợ (triệu đồng)
Dự phòng/Tổng dư nợ - VAS (%)
Dự phòng/Tổng dư nợ - IAS (%)
Hình 3.6: Dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C
Theo IFRS, với các điều khoản trong hợp đồng bán nợ cho VAMC đã ký, các NHTM chưa
chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích từ các khoản vay đã bán, vẫn có quyền thu hồi các
dòng tiền phát sinh từ các khoản vay này nên lượng nợ xấu này vẫn phải tiếp tục được ghi
-40-
nhận và theo dõi trên danh mục tín dụng của NHTM. Do vậy, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C
trong giai đoạn 2011-2014 được tính toán dựa trên BCTC theo IFRS thường cao hơn khoảng
6-8% so với số liệu tính toán theo VAS và phản ánh đúng hơn tình trạng thực tế về chất
lượng tài sản của Ngân hàng C. Chính điều này đã kéo theo hệ quả là số điểm bị trừ khi xếp
hạng Ngân hàng C theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN dựa vào báo cáo IFRS cao hơn 25
điểm so với khi dựa vào báo cáo VAS. Tổng hợp lại, Ngân hàng C được phân loại vào hạng
A với số liệu tài chính trình bày theo VAS, phù hợp kết quả phân nhóm năm 2012 của
NHNN, trong khi theo IFRS thì nên được phân loại vào hạng D và cần thiết phải triển khai
nhanh chóng các chính sách kiểm soát rủi ro tín dụng hợp lý, cải thiện về bản chất chất lượng
danh mục tín dụng (chi tiết xem Bảng 3.4). Như vậy, qua tình huống này, có thể cho rằng
việc NHNN đề ra tỷ lệ nợ xấu mục tiêu ở mức 3% đồng thời với việc khuyến khích các
NHTM bán bớt nợ xấu cho VAMC và mở ra cơ hội nới hạn mức tăng trưởng tín dụng chỉ
khiến cho thực trạng chất lượng tài sản phản ánh qua báo cáo được lập theo VAS không phù
hợp với tình trạng mà NHTM thực sự đang phải đối mặt.
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu tài chính của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2013
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Chỉ tiêu VAS IFRS VAS IFRS VAS IFRS
82.817.947 82.907.391 102.576.275 102.443.872 121.264.370 121.188.334 Tổng tài sản (triệu đồng)
5.996.245 6.037.485 6.637.017 6.619.858 7.726.697 7.625.936 Vốn chủ sở hữu (triệu đồng)
799.688 776.260 643.394 627.315 1.017.620 695.399 Lợi nhuận sau thuế (triệu đồng)
1.386 1.345 1.115 962 1.603 1.096 Lãi cơ bản trên cổ phiếu (đồng)
10,19% 9,91% 14,17% 9,76% Suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu - ROE
0,69% 0,68% 0,91% 0,62% Suất sinh lợi trên tổng tài sản - ROA
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C
-41-
Bảng 3.4: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng C năm 2014
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
0 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng
0 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9%
0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ
Tỷ lệ nợ xấu dưới 3% 25 0
Tỷ lệ nợ xấu cao hơn 10% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên
5 5
Chất lượng tài sản Số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên Số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên
0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%
0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%
0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát
0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tốt Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tốt Năng lực quản trị
0 0
Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn
0 0 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân trên 17% Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân trên 17%
2 2 Kết quả hoạt động kinh doanh Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8%
-42-
VAS IFRS
Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ
0 0 trước thuế Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trước thuế trên 30% Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi trên nhuận 30%
5 5 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10%
0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%
37 Tổng cộng điểm trừ 12
63 Điểm đánh giá 88
D Xếp hạng A
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C
-43-
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Nội dung phân tích chi tiết qua ba tình huống nêu tại Chương 3 cho thấy, tình trạng tài chính
của các NHTM phản ánh qua BCTC được lập theo VAS bị bóp méo, không sát với thực tế
và kém chính xác hơn so với số liệu được trình bày trong BCTC được lập theo IFRS. Một
số nguyên nhân đã được rút ra từ ba NHTM đại diện như sau.
Thứ nhất, chênh lệch kết quả đánh giá NHTM theo CAMELS xuất phát từ những điểm khác
biệt chính liên quan đến soạn lập, trình bày báo cáo tài chính của NHTM giữa hai hệ thống
VAS và IFRS về cách thức ghi nhận, trình bày các khoản mục tài sản tài chính và dự phòng
tương ứng. Cụ thể, IAS/IFRS yêu cầu các tài sản tài chính nói chung phải được trình bày
theo giá trị hợp lý (điều chỉnh thường xuyên theo sự biến động của các yếu tố có liên quan
trên thị trường) trong khi VAS lại hướng theo phương pháp giá gốc (giá giao dịch ban đầu)
nên thông tin về thực trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh trên báo cáo được lập
theo chuẩn mực quốc tế phản ánh chính xác hơn tình trạng thực tế tại mọi thời điểm của các
NHTM. Đây cũng chính là một trong những lý do mà các tổ chức quốc tế đề cập đến khi
phân tích về mức độ không đáng tin cậy của số liệu tỷ lệ nợ xấu được công bố rộng rãi và
triển vọng tín nhiệm của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua7.
Thứ hai, sự can thiệp của NHNN và các cơ quan Chính phủ thông qua các văn bản yêu
cầu/cho phép có sự đối xử đặc biệt đối với các khoản cho vay, ứng trước, đầu tư tài chính
vào một số tổ chức, doanh nghiệp nhất định đã góp phần che giấu một phần thực trạng tài
chính của các NHTM. Ví dụ về Tập đoàn Vinashin đã phân tích trong tình huống Ngân hàng
A khá tương đồng với trường hợp các khoản vay của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai tại các
ngân hàng như BIDV, Eximbank, VPBank được NHNN cho phép cơ cấu lại nợ nhưng các
NHTM cho vay không phải chuyển nhóm nợ xấu trên BCTC theo VAS mặc dù khách hàng
vay đã được nhận định là không đủ khả năng trả nợ. Chính điều này đã làm cho tỷ lệ nợ xấu
và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên BCTC được lập theo VAS có một khoảng cách
không nhỏ so với số liệu phản ánh trên BCTC được lập theo IFRS hay thực trạng chất lượng
tài sản của NHTM.
7 Nội dung đã được đề cập trong phần Bối cảnh chính sách ở Chương 1.
-44-
Thứ ba, chính sách đề ra tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% kết hợp thúc đẩy bán nợ cho VAMC song
song với nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cũng góp phần không nhỏ làm bóp méo tình trạng
tài chính của các ngân hàng được phản ánh trên các BCTC theo VAS. Cụ thể, để đáp ứng
yêu cầu về tỷ lệ nợ xấu mà NHNN đề ra, Ngân hàng C cũng như hầu hết tất cả các NHTM
ở Việt Nam trong thời gian qua đều có động thái nỗ lực bán lượng lớn nợ xấu cho VAMC
và thường xuyên đệ đơn lên NHNN xin phê duyệt nới hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng
năm mặc dù các khoản nợ xấu đã bán hoặc đang nằm trên sổ sách chưa có dấu hiệu khả quan
về khả năng thu hồi8. Tuy nhiên, đối với BCTC theo IFRS, do các điều kiện ràng buộc về
đối tượng chịu rủi ro, trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu đã bán không hoàn toàn thuộc về
VAMC nên danh mục tín dụng của các NHTM vẫn phải bao gồm các khoản nợ xấu này. Do
đó, chất lượng tài sản trên BCTC theo IFRS luôn có sự khác biệt, theo chiều hướng tệ hơn,
so với BCTC theo VAS.
Với những nguyên nhân nêu trên, tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, dự phòng
giảm giá tài sản tài chính theo VAS thường thấp hơn số liệu theo IFRS, kéo theo kết quả
kinh doanh trên báo cáo VAS có thể lãi trong khi báo cáo IFRS thường đưa ra số lỗ. Hệ quả
tiếp sau chính là mức vốn chủ sở hữu thực của NHTM theo IFRS thường thấp hơn. Và theo
đó, kết quả đánh giá tình hình tài chính của NHTM dựa trên các chỉ tiêu định lượng của hệ
thống CAMELS khi sử dụng số liệu được báo cáo theo IFRS là xấu hơn nhiều so với khi sử
dụng dữ liệu đầu vào là báo cáo theo VAS. Ngoài ra, sự tồn tại các vấn đề nêu trên còn có
thể gây cản trở quá trình cải cách, hiện đại hoá các NHTM theo hướng tiệm cận các thông
lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng ban
hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2012 đã đề ra. Trong bối cảnh
các NHTM ở nhiều nước trên thế giới đã áp dụng các thông lệ quản trị ngân hàng theo Basel
III, 10 NHTM được chỉ định áp dụng thí điểm Basel II từ tháng 2/2016 và từ năm 2018 là
toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam sẽ mất khá nhiều công sức, chi phí để bổ sung nguồn
lực tài chính, nhân lực vừa theo dõi, lập báo cáo theo VAS vừa xây dựng nguồn dữ liệu, lập
báo cáo theo chuẩn mực quốc tế. Thời gian để đạt được mức độ bền vững và năng lực cạnh
tranh đủ để sánh vai với các NHTM trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung của các
8 Thông tin về tổng dư nợ bán cho VAMC thường thể hiện rất rõ trong báo cáo thường niên của các NHTM và thông tin về việc phê duyệt nới hạn mức tăng trưởng tín dụng của NHNN được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
-45-
NHTM Việt Nam theo đó cũng có thể bị kéo dài hơn. Do vậy, nếu NHNN và các cơ quan
hữu quan không nhanh chóng thay đổi chính sách can thiệp hiện tại đồng thời chậm ban hành
các chính sách nhằm thay đổi quy định chung trong soạn lập và tính toán số liệu báo cáo của
các NHTM, sự mất an toàn cũng như khả năng tài chính yếu kém của hệ thống ngân hàng
Việt Nam hiện không minh bạch hoàn toàn và chỉ bị lộ diện khi nguy cơ đổ vỡ không còn
khả năng ẩn giấu.
4.2. Khuyến nghị
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát mức độ an toàn và vững mạnh tài chính
của các tổ chức tài chính nói chung, các NHTM nói riêng tại Việt Nam, trong thời gian tới,
các cơ quan hữu quan nên thực hiện một số chính sách như dưới đây.
Thứ nhất, trước mắt NHNN nên yêu cầu tất cả các NHTM lập song song hai bộ báo cáo tài
chính theo VAS và IFRS đồng thời định kỳ nộp các báo cáo tự đánh giá theo quy định của
Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN tương ứng số liệu được trình bày trong hai bộ báo cáo
nêu trên. Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ mục tiêu hoà nhập với hệ thống tài chính toàn cầu và
giảm thiểu khối lượng báo cáo mà các NHTM phải soạn lập, NHNN cần nhanh chóng phối
hợp với các bộ ban ngành chuyên môn cũng như các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn tài
chính, kiểm toán độc lập, các trường đại học, các viện nghiên cứu,… thiết lập lộ trình áp
dụng hệ thống chuẩn mực kế toán IFRS phù hợp với thực trạng của hệ thống các tổ chức tài
chính ở Việt Nam hiện nay. Lộ trình này cũng nhất thiết phải gắn liền với lộ trình triển khai
Basel II nhằm đảm bảo tính thống nhất trong các chuẩn mực, thông lệ quản trị được áp dụng
đồng thời đạt được mục tiêu phát triển hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn, phù
hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng ban hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2012 đã đề ra. Để
việc triển khai áp dụng đại trà Basel II từ năm 2018 theo kế hoạch, trong năm 2016 và 2017,
NHNN nên yêu cầu các NHTM áp dụng các IFRS/IAS có liên quan đến việc xác định, ghi
nhận giá trị hợp lý cho các khoản mục tài sản và công nợ đồng thời thay đổi các tiêu chí
đánh giá các yếu tố trong Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN theo hướng sát hơn với hệ thống
CAMELS đang được các nước trên thế giới áp dụng. Đây sẽ là bước đệm để tất cả các
NHTM bắt đầu triển khai áp dụng toàn bộ IFRS trong soạn lập, trình bày BCTC và quản trị
rủi ro theo Basel II vào năm 2018 được thuận lợi hơn.
-46-
Thứ hai, NHNN và Chính phủ không nên tiếp tục ban hành các công văn chỉ đạo thể hiện
sự ưu tiên đối với khối doanh nghiệp nhà nước hay bất kỳ đối tượng đặc biệt nào khác trong
việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Thay vào đó, NHNN nên yêu cầu
các NHTM phân loại đúng, đủ tất cả các khoản nợ xấu và phối hợp cùng các bộ, ban ngành
liên quan đế tích cực xử lý các khoản nợ quá hạn đã giải ngân cho các doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả đồng thời lên kế hoạch khắc phục hậu quả phát sinh.
Thứ ba, để tránh việc các NHTM chạy theo mục tiêu tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, che giấy tình
trạng thực thông qua thúc đẩy hoạt động bán nợ cho VAMC kết hợp tăng trưởng dư nợ tín
dụng như hiện nay và cải thiện về bản chất danh mục tín dụng của hệ thống ngân hàng,
NHNN nên yêu cầu các NHTM tự lựa chọn mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu phù hợp với tình trạng
hiện tại của họ đồng thời báo cáo các phương án, tiến độ phối hợp cùng VAMC làm việc với
doanh nghiệp nhằm thu hồi càng sớm càng tốt các khoản nợ quá hạn. Thời gian áp dụng
chính sách này cần được cân nhắc để phù hợp với lộ trình áp dụng IFRS cho toàn hệ thống
ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN cần giám sát chặt chẽ việc phân loại nợ theo Thông tư 02 đồng thời yêu
cầu các NHTM báo cáo số liệu phân loại nợ của danh mục tín dụng bao gồm cả các khoản
nợ xấu đã bán cho VAMC. Bên cạnh đó, NHNN nên phối hợp với các công ty kiểm toán
độc lập có uy tín, kiểm toán/thanh tra nhà nước tiến hành rà soát thường xuyên kết quả báo
cáo của các NHTM để nắm rõ thực trạng, mức độ tốt/xấu thực tế của mỗi ngân hàng.
-47-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adams, Hugh A. và Đỗ Thuỳ Linh (2003), Hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam - Dự
định và Mục tiêu so với Chuẩn mực Kế toán Quốc tế, Tập đoàn Đầu tư ACW.
2. Đề án 254 (2012), Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015,
ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
3. Trần Giang (2015), “Đằng sau quyết định “nới room” tín dụng của 12 ngân hàng”, Trang
thông tin điện tử Stockbiz.vn, truy cập ngày 04/04/2016 tại địa chỉ:
http://www.stockbiz.vn/NewsTools/Print.aspx?newsid=587531
4. Greuning, Hennie Van và Koen, Marius (2002), Các Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - tài
liệu Hướng dẫn thực hành, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Thanh Hà (2015), “Năm 2015: Tiếp tục tái cơ cấu một số tổ chức tín dụng”, Kinh tế và
Dự báo - Cơ quan báo chí của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, truy cập ngày 16/01/2016 tại địa chỉ:
http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/101-2267-nam-2015--tiep-tuc-tai-co-cau-mot-so-to-chuc-
tin-dung.html
6. Lê Doãn Hoài (2012), “Chuẩn mực kế toán toàn cầu - xu thế đi lên tất yếu của các quốc
gia”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán, truy cập ngày 08/07/2015 tại địa chỉ:
http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=495
7. Nguyễn Thị Minh Huệ và cộng sự (2010), Những vấn đề tài chính sau khủng hoảng ở Việt
Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Liên Hương (2010), Phân tích ảnh hưởng của sự khác biệt giữa Chuẩn mực
Kế toán Việt Nam với Chuẩn mực Kế toán quốc tế đến quyết định của nhà đầu tư, Luận văn
Thạc sỹ Kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Trần Xuân Nam (2015), Kế toán tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2008), Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN về
ban hành Quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần.
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2012), Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức
thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2012.
-48-
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2015a), Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức
thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2015.
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2015b), “Vấn đề áp dụng chuẩn mực kế toán
quốc tế đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, truy cập ngày 17/08/2015 tại địa chỉ:
http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/pages/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet;jsessionid=cp5pWG
yPBFdTjnNjnG58WhLvt1XpzpP3tPvRb5y0jgpvWDt2Jz8k!349592408!517645393?dDoc
Name=CNTHWEBAP01162524878&dID=43280&_afrLoop=20833084611967835&_afr
WindowMode=0&_afrWindowId=null#%40%3FdID%3D43280%26_afrWindowId%3Dn
ull%26_afrLoop%3D20833084611967835%26dDocName%3DCNTHWEBAP011625248
78%26_afrWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3D64wakg5zm_4
14. Ngân hàng Thế giới (2014), Báo cáo Đánh giá Khu vực Tài chính Việt Nam.
15. Lê Hoàng Phúc (2013), “Tác động của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đến hệ thống
kế toán các quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học
Kiểm toán, truy cập ngày 20/07/2015 tại địa chỉ:
http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=553
16. Nguyễn Quang (2012), “Xếp hạng ngân hàng: Vừa làm xong đã... nhận lỗi”, Báo Đầu tư
Chứng khoán, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-
te/xep-hang-ngan-hang-vua-lam-xong-da-nhan-loi-24719.html
17. Hà Tâm (2012), “Phân loại ngân hàng: ấm ức thứ hạng”, Trang thông tin điện tử của
Công ty Tài chính Cổ phần Sông Đà, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
http://www.sdfc.com.vn/xem-tin-tuc/phan-loai-ngan-hang-am-uc-thu-hang.html
18. Đặng Quốc Tuấn (2012), Trình bày báo cáo tài chính theo chuẩn mực báo cáo tài chính
quốc tế (IFRS), Bài giảng cập nhật kiến thức hành nghề kế toán ngày 30/10/2012.
19. Đinh Thị Thanh Vân (2012), “So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng, Số 19 - Tháng 10/2012.
Tiếng Anh
20. ADB (2014), Vietnam: Financial Sector Assessment, Strategy, and Roadmap.
-49-
21. Anh Tuan Nguyen và Gong, Guangming (2012), “Vietnamese Accounting Reform and
International Convergence of Vietnamese Accounting Standards”, International Journal of
Business and Management, Vol. 7, No. 10.
22. Barth, Mary E. et al (2007), “International Accounting Standards and Accounting
Quality”, Research Paper No. 1976 of Standford Graduate School of Business, truy cập ngày
17/08/2015 tại địa chỉ:
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=688041&rec=1&srcabs=1585404&alg
=1&pos=4
23. Barth, Mary E. et al (2012), “Are IFRS-based and US GAAP-based Accounting Amounts
Comparable?”, Journal of Accounting & Economics, Vol. 54, Issue 1, pp. 68-93, truy cập
ngày 17/08/2015 tại địa chỉ: http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1585404
24. Basel Committee on Banking Supervision (2006), “Sound credit risk assessment and
valuation for loans”, Trang thông tin điện tử của Bank for International Settlements, truy
cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: http://www.bis.org/publ/bcbs126.htm
25. Duc Phan et al (2013), Perceptions of Accounting Professionals towards International
Financial Reporting Standards (IFFRS) in Developing Country: Evidence from Vietnam,
Proceeding of 3rd Global Accounting, Finance and Economics Conference 5-7 May, 2013,
Rydges Melbourne, Australia, ISBN 978-1-922069-23-8.
26. EY (2015), “Basel Committee proposes guidance on accounting for expected credit
losses”, Trang thông tin điện tử chính thức của EY, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/IFRS_Developments_Issue_100:_Basel_Co
mmittee_proposes_guidance_on_accounting_for_expected_credit_losses/$File/Devel100-
FI-ECL-Feb2015.pdf
27. Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC (2014), “5000 - Statements of Policy -
Uniform Financial Institutions Rating System”, Trang thông tin điện tử của FDIC, truy cập
ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: https://www.fdic.gov/regulations /laws/rules/5000-900.html
28. Hung, Mingyi và Subramanyam, K. R. (2007), “Financial Statement Effects of Adopting
International Accounting Standards: The Case of Germany”, Review of Accounting Studies,
truy cập ngày 17/08/2015 tại địa chỉ: http://ssrn.com/abstract=622921
-50-
29. Kalra, Sanjay (2012), Vietnam’s Financial Sector, Presentation for Industrial College of
the Armed Forces (ICAF) - National Denfense University in Hanoi on 8th May, 2012.
30. Moody’s (2012), “Rating Action: Moody’s downgrades eight Vietnamese banks”, Trang
thông tin điện tử của Moody’s Investors Service, Inc., truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
https://www.moodys.com/research/Moodys-downgrades-eight-Vietnamese-banks--
PR_255975
31. National Credit Union Administration - NCUA (2007), “Letter to Credit Unions No. 07-
CU-12 about CAMEL Rating System”, Trang thông tin điện tử của NCUA, truy cập ngày
20/12/2015 tại địa chỉ:
https://www.ncua.gov/Resources/Documents/LCU2007-
12.pdf#search=CAMELS%20rating%20syst%C3%A9m
và https://www.ncua.gov/Resources/Documents/LCU2007-12ENC.pdf
32. National Credit Union Administration - NCUA (2015), “Review of NCUA’s Interest
Rate Risk Program - Report No. OIG-15-11”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
https://www.ncua.gov/About/leadership/Documents/OIG/OIG201511
ReviewNCUAsIRRProgram.pdf#search=CAMELS%20rating%20systems
33. Wikipedia (2015), “CAMELS rating system”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
https://en.wikipedia.org/wiki/CAMELS_rating_system
34. World Bank - WB (2010a), “The Use of IFRS for Prudential and Regulatory Purposes -
Collective assessment of loan impairment”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
http://siteresources.worldbank.org/EXTCENFINREPREF/Resources/4152117-
1270824012230/6954188-1277709975960/2_IFRS_seminar_collective_assessment.pdf
35. World Bank - WB (2010b), “The Use of IFRS for Prudential and Regulatory Purposes -
Loan loss provisioning”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:
http://siteresources.worldbank.org/EXTCENFINREPREF/Resources/4152117-
1270824012230/IFRS_Seminar_Loan_Loss_Provisioning.pdf
-51-
PHỤ LỤC: PHÂN HẠNG KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TỪNG BỘ
PHẬN CẤU THÀNH CAMELS THEO NCUA (2007) VÀ FIDC (2014)
Bảng 1: Phân hạng mức độ đủ vốn (C)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Thừa đủ vốn so với mức yêu cầu của luật định. Các rủi ro liên quan đến suy
giảm chất lượng tài sản, thu nhập trong kỳ tới hoặc rủi ro tín dụng, rủi ro lãi
suất không làm ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn.
Hạng 2 Vừa đủ vốn so với mức yêu cầu của luật định, tương xứng với rủi ro trong hiện
tại và/hoặc trong tương lai nhưng không mạnh bằng Hạng 1. TCTD có khả
năng không gặp phải các vấn đề trọng yếu liên quan đến chất lượng tài sản,
thu nhập giảm sút hay rủi ro lãi suất mà có thể ảnh hưởng đến khả năng duy
trì mức “đủ vốn” theo yêu cầu luật định.
Hạng 3 Thiếu vốn so với mức yêu cầu của luật định. TCTD đang tiềm ẩn những vấn
đề liên quan đến chất lượng tài sản, giảm sút thu nhập và/hoặc nguy cơ rủi ro
tín dụng/lãi suất có thể ảnh hưởng đến khả năng duy trì mức vốn tối thiểu theo
yêu cầu.
Hạng 4 Thiếu vốn đáng kể so với mức yêu cầu của luật định. Những vấn đề liên quan
đến chất lượng tài sản, giảm sút thu nhập và/hoặc nguy cơ rủi ro tín dụng/lãi
suất hiện tại sẽ không làm cho TCTD rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng
trong 12 tháng tiếp theo.
Hạng 5 Thiếu vốn trầm trọng, có vấn đề đáng kể về chất lượng tài sản, xu hướng tiếp
tục bị lỗ và/hoặc rủi ro tín dụng/lãi suất ở mức cao đủ khiến TCTD gặp khó
khăn để đảm bảo khả năng thanh khoản trong 12 tháng tiếp theo.
Nguồn: NCUA (2007)
Bảng 2: Phân hạng chất lượng tài sản (A)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro tốt. Các điểm yếu xác định được
là không đáng kể và rủi ro tổn thất là vừa phải so với mức độ đảm bảo an toàn
vốn và khả năng của Ban lãnh đạo. Mối quan tâm giám sát ở mức tối thiểu.
-52-
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 2 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro khá tốt. Rủi ro tổn thất tương
xứng với mức độ đảm bảo an toàn vốn và khả năng của Ban lãnh đạo. Mối
quan tâm giám sát ở mức giới hạn.
Hạng 3 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức trung bình. Các xu hướng
trong tương lai có thể là ổn định hoặc suy giảm chất lượng tài sản hoặc gia
tăng rủi ro tổn thất. Chất lượng hiện tại của các nhóm tài sản và những điểm
yếu khác đòi hỏi sự giám sát khá chặt chẽ và cần tăng cường các biện pháp
quản lý tín dụng và quản trị rủi ro.
Hạng 4 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức kém. Nếu không được
kiểm soát một cách hợp lý thì mức độ rủi ro và các vấn đề gặp phải của khối
tài sản đang nắm giữ có thể tạo ra một khoản lỗ tiềm tàng và tác động đáng kể
tới khả năng tồn tại của TCTD.
Hạng 5 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức yếu đe doạ tới khả năng
tồn tại của TCTD.
Nguồn: NCUA (2007)
Bảng 3: Phân hạng chất lượng quản trị (M)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Bộ máy quản lý tốt, có khả năng giải quyết một cách kịp thời và thành công
các rủi ro hiện tại cũng như có thể phát sinh trong tương lai. Các chương trình
quản trị rủi ro phù hợp với quy mô, độ phức tạp cũng như bản chất của các rủi
ro mà TCTD phải đối mặt. Các rủi ro trọng yếu được xác định, đo lường, giám
sát và kiểm soát hiệu quả, thống nhất.
Hạng 2 Bộ máy quản lý ở mức thoả đáng so với quy mô, độ phức tạp cũng như bản
chất của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt, đủ khả năng giải quyết kịp
thời và thành công các vấn đề hay rủi ro đang/sẽ nảy sinh. Nhìn chung, các rủi
ro trọng yếu được xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát hiệu quả. Một số
điểm yếu có tồn tại nhưng không trọng yếu.
-53-
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 3 Bộ máy quản lý cần cải thiện thêm để tương xứng với quy mô, độ phức tạp
cũng như bản chất của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt. Các rủi ro trọng
yếu không được xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát đầy đủ.
Hạng 4 Bộ máy quản lý còn ở mức kém so với quy mô, độ phức tạp cũng như bản chất
của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt. Các vấn đề nảy sinh và rủi ro tổn
thất của TCTD vượt quá mức thông thường. Các rủi ro trọng yếu không được
xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát đầy đủ đòi hỏi phải có động thái kịp
thời từ Ban lãnh đạo để bảo vệ tình trạng khoẻ mạnh cho TCTD. Ban lãnh đạo
hoặc Ban Điều hành có thể cần thiết phải thay thế hoặc tăng cường.
Hạng 5 Chất lượng của bộ máy quản lý quá kém, không đủ khả năng giải quyết, sửa
chữa các vấn đề phát sinh cũng như thực hiện các hoạt động quản trị rủi ro
phù hợp. Các rủi ro trọng yếu không được xác định, đo lường, giám sát và
kiểm soát đầy đủ đe doạ sự tồn tại của TCTD. Ban lãnh đạo hoặc Ban Điều
hành cần phải được thay thế hoặc tăng cường.
Nguồn: NCUA (2007)
Bảng 4: Phân hạng chất lượng lợi nhuận (E)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Chất lượng lợi nhuận tốt, thu nhập thừa đủ để tăng cường vốn và bù đắp chi
phí dự phòng sau khi xem xét tới chất lượng tài sản thực tế, khả năng tăng
trưởng cũng như các yếu tố rủi ro.
Hạng 2 Chất lượng lợi nhuận đạt yêu cầu, thu nhập đủ để tăng cường vốn và bù đắp
chi phí dự phòng sau khi xem xét tới chất lượng tài sản thực tế, khả năng tăng
trưởng cũng như các yếu tố rủi ro.
Hạng 3 Chất lượng lợi nhuận cần được cải thiện, thu nhập có thể không đủ để tăng
cường vốn và bù đắp chi phí dự phòng trong tương lai phù hợp với điều kiện
tổng thể, khả năng tăng trưởng và các yếu tố rủi ro của TCTD.
Hạng 4 Chất lượng lợi nhuận kém, thu nhập không đủ để tăng cường vốn và bù đắp
chi phí dự phòng trong tương lai phù hợp với điều kiện tổng thể, khả năng tăng
trưởng và các yếu tố rủi ro của TCTD.
-54-
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 5 Chất lượng lợi nhuận quá kém đe doạ tới khả năng tồn tại của các TCTD.
Nguồn: NCUA (2007)
Bảng 5: Phân hạng khả năng thanh khoản (L)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Khả năng thanh khoản được đảm bảo và việc thực thi các hoạt động ALM đạt
hiệu quả tốt, phù hợp với quy mô, độ phức tạp và bản chất các rủi ro mà TCTD
phải đối mặt. Khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên
trong lẫn bên ngoài là ở mức tối thiểu.
Hạng 2 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM đạt yêu cầu. Một
số điểm yếu về ALM có thể tồn tại và khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài ở mức vừa phải.
Hạng 3 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM cần phải cải thiện.
Khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong lẫn bên
ngoài ở mức đáng kể, một số rủi ro không được kiểm soát đầy đủ.
Hạng 4 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM kém, TCTD có thể
không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản khiến mức độ an toàn vốn khả năng
cao sẽ bị ảnh hưởng.
Hạng 5 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM quá kém đe doạ
đến sự tồn tại của TCTD.
Nguồn: NCUA (2007)
Bảng 6: Phân hạng mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S)
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 1 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường được kiểm soát tốt, khả năng các chỉ số lợi
nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức tối thiểu. Hoạt động quản trị rủi
ro mang lại hiệu quả và phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh
doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.
-55-
Hạng Tình trạng của TCTD
Hạng 2 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường được kiểm soát đầy đủ, khả năng các chỉ
số lợi nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức vừa phải. Hoạt động quản
trị rủi ro đạt yêu cầu và phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh
doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.
Hạng 3 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường cần được cải thiện, khả năng các chỉ số lợi
nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức đáng kể. Hoạt động quản trị rủi
ro phải được cải thiện để phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động
kinh doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.
Hạng 4 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường là không thể chấp nhận, khả năng các chỉ
số lợi nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức tiềm năng cao. Hoạt động
quản trị rủi ro không phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh
doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.
Hạng 5 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường là không thể chấp nhận, các chỉ số lợi
nhuận và tình trạng vốn sẽ bị ảnh hưởng và đe doạ tới sự tồn tại của TCTD.
Hoạt động quản trị rủi ro hoàn toàn không phù hợp với quy mô, độ phức tạp
trong hoạt động kinh doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.
Nguồn: FDIC (2014)