BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

CHU THỊ HOÀNG OANH

TÁC ĐỘNG CỦA SỰ KHÁC BIỆT KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN

TỚI KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

THEO HỆ THỐNG CAMELS TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

CHU THỊ HOÀNG OANH

TÁC ĐỘNG CỦA SỰ KHÁC BIỆT KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN

TỚI KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

THEO HỆ THỐNG CAMELS TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Chính sách công

Mã số: 60340402

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TRẦN THỊ QUẾ GIANG

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016

-i-

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu trong luận

văn đều được dẫn nguồn với mức độ chính xác cao nhất có thể. Luận văn này không nhất

thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương

trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 07 năm 2016

Tác giả

Chu Thị Hoàng Oanh

-ii-

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Trần Thị Quế Giang, người trực tiếp hướng dẫn

tôi hoàn thành luận văn này. Cô đã nhiệt tình đóng góp ý kiến chỉnh sửa, bổ sung để nội

dung luận văn được phù hợp với yêu cầu của bài nghiên cứu chính sách công.

Trong suốt hai năm học tập tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, tôi đã nhận được

rất nhiều kiến thức bổ ích cũng như được cảm nhận phương pháp giảng dạy mang tính dân

chủ, khuyến khích người học thể hiện quan điểm cá nhân một cách thoải mái. Vì vậy, qua

đây tôi cũng mong muốn được bày tỏ lời cảm ơn tới các Thầy Cô giáo đã và đang tận tâm

truyền đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm cho các thế hệ học viên FETP. Cảm ơn các Anh

Chị ở bộ phận Đào tạo, Thư viện và Phòng máy đã nhiệt tình hỗ trợ học viên trong suốt quá

trình học tập tại Chương trình.

Cảm ơn tập thể lớp MPP7, các Anh Chị Bạn Em đã sát cánh cùng tôi trong suốt hai năm vừa

qua và chia sẻ, động viên nhau cùng nỗ lực vượt qua các trở ngại trong học tập cũng như

trong cuộc sống. Cảm ơn các anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ và tạo điều kiện

cho tôi phát huy tối đa nguồn lực để hoàn thành luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 07 năm 2016

Tác giả

Chu Thị Hoàng Oanh

-iii-

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii

MỤC LỤC ............................................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... v

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................................... vii

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ ......................................................................................... vii

TÓM TẮT ĐỀ TÀI ............................................................................................................. viii

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...................................................................................... 1

1.1. Bối cảnh chính sách ..................................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu và câu hỏi chính sách ................................................................................... 3

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 3

1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 4

1.5. Bố cục luận văn ........................................................................................................... 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ SỐ CAMELS VÀ KHUÔN KHỔ

KẾ TOÁN VIỆT NAM SO VỚI CHUẨN MỰC QUỐC TẾ ................................................ 5

2.1. Hệ thống chỉ số CAMELS ........................................................................................... 5

2.1.1. Giới thiệu về hệ thống chỉ số CAMELS ............................................................... 5

2.1.2. Mục tiêu xây dựng hệ thống chỉ số CAMELS ...................................................... 6

2.1.3. Các bộ phận cấu thành hệ thống chỉ số CAMELS ................................................ 8

2.1.4. Áp dụng hệ thống chỉ số CAMELS ở Việt Nam ................................................. 11

2.2. Sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so với hệ thống

chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế (IFRS) ................................................................ 16

2.2.1. Khái niệm và vai trò của hệ thống chuẩn mực kế toán ....................................... 16

2.2.2. Kết quả đánh giá về IFRS của các nghiên cứu đi trước ...................................... 17

-iv-

2.2.3. Tổng quan về sự khác biệt giữa VAS và IFRS ................................................... 19

2.2.4. Một số khác biệt giữa VAS và IFRS ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của NHTM trong hệ thống chỉ số CAMELS ....................................................................... 21

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ NHTM THEO HỆ THỐNG CAMELS DỰA TRÊN BÁO CÁO

TÀI CHÍNH ĐƯỢC LẬP THEO VAS VÀ IFRS ............................................................... 29

3.1. Ngân hàng A và tác động của sự can thiệp bằng văn bản đối với kết quả phân loại nợ

theo VAS của NHNN ....................................................................................................... 29

3.2. Ngân hàng B và tác động từ chính sách ưu tiên đối với các NHTM có vốn nhà nước

của NHNN ........................................................................................................................ 33

3.3. Ngân hàng C và việc duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% theo yêu cầu của NHNN ..... 37

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 43

4.1. Kết luận ..................................................................................................................... 43

4.2. Khuyến nghị .............................................................................................................. 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 47

PHỤ LỤC: PHÂN HẠNG KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TỪNG BỘ PHẬN CẤU THÀNH

CAMELS THEO NCUA (2007) VÀ FIDC (2014) ............................................................. 51

-v-

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tên tiếng Việt Ngân hàng TMCP An Bình Ngân hàng TMCP Á Châu Quản lý tài sản-công nợ Từ viết tắt ABBank ACB ALM

Tên tiếng Anh Asian Commercial Bank Asset-Liability Management Financial Statements BaoVietBank BCTC BIDV

CAR DaiABank DN Eximbank Ngân hàng TMCP Bảo Việt Báo cáo tài chính Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Hệ số an toàn vốn Ngân hàng TMCP Đại Á Doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam

Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IAS

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IASB

Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IASC

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ ICSS

Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế IFRS

Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF

Capital Adequacy Ratio Vietnam Export Import Commercial Joint Stock Bank International Accounting Standards International Accounting Standards Board International Accounting Standards Committee Internal Credit Scoring System International Financial Reporting Standards International Monetary Fund Habubank

HDBank

Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Hà Nội Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kiên Long

Military Bank Mekong Housing Bank HĐQT KienLongBank LienVietPostBank Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt MB MDBank MHB Ngân hàng TMCP Quân đội Ngân hàng TMCP Phát triển Mekong Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long

-vi-

Từ viết tắt MSB NamABank NHNN NHTM NHTMNN Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam Maritime Bank Ngân hàng TMCP Nam Á Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại nhà nước

OCB State Bank of Vietnam Commercial Bank State Owned Commercial Bank

PGBank PVFC

PVComBank Sacombank SeABank SCB Ngân hàng TMCP Phương Đông Việt Nam Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Ngân hàng TMCP Đông Nam Á Ngân hàng TMCP Sài Gòn

Sai Gon Commercial Bank Credit Institution

SHB TCTD Techcombank TMCP VAMC

VAS

Vietcombank Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội Tổ chức tín dụng Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Thương mại Cổ phần Vietnam Asset Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD Management Company Việt Nam Vietnamese Accounting Chuẩn mực Kế toán Việt Nam Standards

VCSH VIB Vietinbank

VPBank

WB Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Vốn chủ sở hữu Ngân hàng Quốc tế Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Ngân hàng Thế giới World Bank

-vii-

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Xếp hạng tổng quát của các TCTD theo hệ thống CAMELS

Bảng 2.2: Xếp loại các ngân hàng TMCP theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN

Bảng 2.3: Thang điểm các chỉ tiêu xếp loại theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN

Bảng 2.4: Thực trạng áp dụng IFRS trên thế giới tính đến 30/06/2012

Bảng 2.5: Tình hình áp dụng IAS/IFRS trong khu vực Đông Nam Á

Bảng 3.1: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng A năm 201X-1

Bảng 3.2: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng B năm 2014

Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu tài chính của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2013

Bảng 3.4: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng C năm 2014

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

Hình 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A năm 201X-1

Hình 3.2: Tỷ lệ dự phòng trên dư nợ theo từng nhóm của Ngân hàng A năm 201X-1

Hình 3.3: Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B

Hình 3.4: Một số chỉ tiêu tài chính tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B

Hình 3.5: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014

Hình 3.6: Dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014

Sơ đồ 1: Quy trình trích lập dự phòng tín dụng của NHTM theo IAS/IFRS

Sơ đồ 2: Tác động của sự khác biệt trong ghi nhận dữ liệu theo các hệ thống chuẩn mực tới

kết quả đánh giá theo CAMELS

-viii-

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tác động của sự khác biệt khuôn khổ kế toán áp

dụng trong việc ghi nhận, lập các báo cáo tài chính (BCTC) tới tính chính xác trong kết quả

đánh giá mức độ an toàn, vững mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) theo

hệ thống CAMELS ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất những chính sách phù hợp để gia tăng mức

độ hiệu quả hoạt động giám sát và đánh giá tình hình tài chính, kết quả hoạt động, thực trạng

của hệ thống các NHTM Việt Nam. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống

để phân tích kết quả đánh giá theo CAMELS dựa trên các bộ BCTC được lập theo chuẩn

mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) của ba NHTM

đại diện cho ba vấn đề chính còn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả phân tích cho thấy, chênh lệch giữa kết quả đánh giá theo CAMELS của các NHTM

khi sử dụng số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo VAS và IFRS xuất phát từ những

nguyên nhân chủ đạo gồm: (i) khác biệt trong khuôn khổ kế toán mà các NHTM đang áp

dụng để lập, trình bày báo cáo tài chính, đặc biệt là vấn đề xác định giá trị hợp lý của danh

mục tín dụng và danh mục đầu tư tài sản tài chính; (ii) sự can thiệp bằng văn bản chỉ đạo

của các cơ quan hữu quan về một số ưu đãi trong phân loại nợ và trích lập dự phòng các

khoản cho vay các đối tượng đặc biệt; (iii) chính sách duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% (áp

dụng đối với mọi NHTM) thông qua thúc đẩy các NHTM bán nợ xấu cho VAMC với những

điều kiện ràng buộc trách nhiệm chịu rủi ro vẫn thuộc về các NHTM trong khi vẫn phê

duyệt đề xuất nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng. Do vậy, luận văn đề xuất

một số chính sách dưới đây.

Thứ nhất, NHNN nên yêu cầu tất cả các NHTM lập song song hai bộ BCTC theo VAS và

theo IFRS đồng thời nộp kết quả tự đánh giá theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN tương

ứng số liệu được trình bày trong hai bộ báo cáo trên. Bên cạnh đó, NHNN cần nhanh chóng

thiết lập lộ trình áp dụng hệ thống IFRS/IAS đối với việc ghi nhận, lập các báo cáo tài chính

của các NHTM phù hợp thực trạng ở Việt Nam hiện nay và gắn liền với lộ trình triển khai

Basel II để đạt được mục tiêu phát triển hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn, phù

hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức

tín dụng ban hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2012 đã đề ra.

-ix-

Thứ hai, NHNN và Chính phủ không nên tiếp tục ban hành các công văn chỉ đạo thể hiện

sự ưu tiên đối với khối doanh nghiệp nhà nước hay bất kỳ đối tượng đặc biệt nào khác trong

việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.

Thứ ba, NHNN nên yêu cầu các NHTM tự lựa chọn mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu phù hợp với

tình trạng hiện tại của họ để tránh áp lực che giấu nợ xấu đồng thời báo cáo các phương án,

tiến độ phối hợp cùng VAMC làm việc với doanh nghiệp nhằm thu hồi càng sớm càng tốt

các khoản nợ quá hạn. Thời gian áp dụng chính sách này cần được cân nhắc để phù hợp với

lộ trình áp dụng IFRS cho toàn hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, NHNN cần giám sát chặt chẽ việc phân loại nợ theo Thông tư 02 đồng thời yêu

cầu các NHTM báo cáo số liệu phân loại nợ của danh mục tín dụng bao gồm cả các khoản

nợ xấu đã bán cho VAMC và tiến hành thanh tra, rà soát thực địa thường xuyên./.

-1-

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1. Bối cảnh chính sách

Ngày 13/02/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành chỉ thị số 01/CT-

NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn hiệu

quả năm 2012. Trong đó, nhằm mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo khả năng thanh

khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) đồng thời kiểm soát tốc độ tăng trưởng phương tiện

thanh toán khoảng 14-16% và tín dụng khoảng 15-17%, đảm bảo an toàn cho toàn bộ thị

trường tài chính, Điều 2.3 đã nêu rõ đơn vị chức năng trực thuộc NHNN phải tiến hành xếp

hạng các TCTD thành 4 nhóm dựa trên tình hình hoạt động và khả năng tăng trưởng của mỗi

đơn vị để xác định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng tương ứng. Cụ thể, các ngân hàng

thương mại (NHTM) được xếp vào Nhóm 1 là tổ chức có chất lượng tài sản đảm bảo và khả

năng quản trị rủi ro tốt sẽ được tăng trưởng tín dụng tối đa 17% trong khi các tổ chức thuộc

Nhóm 2 có tình hình tài chính kém hơn một chút sẽ chỉ được tăng trưởng tối đa 15%. Cách

biệt với hai nhóm trên, Nhóm 3 bao gồm những NHTM bị đánh giá yếu kém về mức độ an

toàn và vững mạnh tài chính chỉ được tăng trưởng tín dụng tối đa 8% còn nhóm các tổ chức

tín dụng bị phân loại vào Nhóm 4 là những đơn vị đã/đang lâm vào tình trạng mất khả năng

thanh khoản, thuộc diện bị kiểm soát đặc biệt hoặc đang trong quá trình tái cơ cấu theo đúng

nội dung của Đề án tái cấu trúc do NHNN ban hành sẽ không được phép tăng trưởng tín

dụng trong suốt năm 2012.

Tuy nhiên, NHNN lại không công khai danh sách phân nhóm các TCTD cũng như tiêu chí

đánh giá xếp hạng tình hình tài chính của các NHTM mà chỉ gửi văn bản xếp loại tới từng

TCTD. Do đó, các nhà đầu tư nói riêng và người dân nói chung chỉ có thể suy luận thông

qua kế hoạch tăng trưởng tín dụng do các NHTM tự công bố rộng rãi vào cuối tháng 2, đầu

tháng 3/2012. Cụ thể, các ngân hàng được dự đoán thuộc Nhóm 1 gồm Vietinbank,

Vietcombank, BIDV, Techcombank, ACB, MB, MSB, VIB, VPBank, SeABank, MHB,

Sacombank. Nhóm 2 được dự đoán gồm các ngân hàng như BaoViet Bank, OCB, NamA

Bank, DaiABank, NamViet Bank, KienLongBank, ABBank, SHB, LienVietPostBank. Các

ngân hàng còn lại đều không lên tiếng và NHNN cũng không công bố cụ thể số lượng của

từng nhóm phân hạng. Điều này dẫn đến một hệ quả quan trọng là các tổ chức thuộc Nhóm

1 và Nhóm 2 chủ động công khai để đẩy mạnh hoạt động quảng bá thương hiệu, thúc đẩy

hoạt động kinh doanh phát triển trong khi các NHTM thuộc Nhóm 3, đặc biệt là Nhóm 4 lại

-2-

chủ động không lộ diện khiến cho thông tin trên thị trường tài chính tồn tại nhiều khoảng

tối, không rõ ràng. Tình trạng bất cân xứng thông tin do vậy diễn ra theo hướng ngày càng

trầm trọng, người dân dễ bị rơi vào tâm lý hoang mang khi không biết nên gửi tiền vào ngân

hàng nào để đảm bảo chắc chắn không bị thiệt hại.

Trong khi thông tin về các TCTD yếu kém chưa được minh bạch, chiều ngày 12/07/2012,

Ngân hàng Nhà nước đã công bố tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng tính đến ngày

31/3/2012 được xác định theo hệ thống giám sát từ xa là 8,6%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ

4,47% tính đến ngày 31/5/2012 được xác định theo hệ thống thống kê. Tình trạng này hoàn

toàn phù hợp với nhận định trong báo cáo đầu năm 2012 của Fitch Ratings về vấn đề tỷ lệ

nợ xấu thực sự của Việt Nam trong nhiều năm cao hơn 3-4 lần so với mức được trình bày

trong báo cáo chính thức của các cơ quan quản lý. Tiếp đó, ngày 28/09/2012, Moody’s - một

trong các tổ chức đánh giá xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới - đã công bố quyết định hạ bậc

xếp hạng tín nhiệm của 8 NHTM bao gồm ACB, BIDV, VCB, Vietinbank, MB, SHB,

Sacombank, Techcombank, VIB và khẳng định nhu cầu hỗ trợ từ bên ngoài của các ngân

hàng này đang ngày càng tăng (Moody’s, 2012). Các TCTD được nêu tên trong quyết định

này đều được NHNN xếp loại vào Nhóm 1 và Nhóm 2, nhóm các NHTM có tình hình tài

chính vững mạnh và thanh khoản tốt, trong đợt phân loại giữa tháng 2/2012. Trong báo cáo

chi tiết của mình, Moody’s phân tích một trong những nguyên nhân dẫn đến sự việc này là

do việc không tuân thủ các chuẩn mực kế toán cũng như quy chuẩn giám sát quốc tế đã tác

động không nhỏ tới mức độ minh bạch về thực trạng tình hình tài chính của các tổ chức tài

chính ở Việt Nam.

Theo quan điểm đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) được trình bày trong Báo cáo đánh

giá khu vực tài chính Việt Nam tháng 6/2014, kết quả hoạt động cũng như chất lượng tài sản

của khu vực ngân hàng có xu hướng ngày càng xấu đi trong giai đoạn 2007-2012 và có lẽ

tình trạng thực sự còn kém hơn nhiều so với số liệu phản ánh trên các báo cáo gửi tới cơ

quan giám sát. Nhận định này cũng khá phù hợp với đánh giá của một số tổ chức quốc tế có

uy tín về mức độ tín nhiệm đối với các NHTM Việt Nam đang thay đổi theo chiều hướng

kém dần. Một trong những nguyên nhân quan trọng được các tổ chức này đề cập đến chính

là từ sự khác biệt không nhỏ giữa khuôn khổ kế toán đang được áp dụng tại Việt Nam so với

hệ thống chuẩn mực và thông lệ quốc tế khiến cho mức độ tin cậy cũng như độ hữu dụng

cho mục đích đầu tư, quản lý, kiểm soát dựa trên báo cáo tài chính được các NHTM công

-3-

bố còn ở mức thấp. Cụ thể, hệ thống chuẩn mực kế toán và các quy định hiện hành của Việt

Nam có xu hướng giúp cho các NHTM dễ dàng che giấu mức độ rủi ro thực sự của khối tài

sản mà họ đang nắm giữ trong khi hệ thống kiểm toán mới phát triển ở giai đoạn ban đầu,

văn hoá minh bạch, công khai thông tin tài chính và trách nhiệm giải trình còn chưa phổ

biến. Theo đó, việc sử dụng thông tin tài chính lấy từ các báo cáo tài chính được lập theo hệ

thống chuẩn mực kế toán và quy định hiện hành của Việt Nam dễ dẫn đến tình trạng các cơ

quan thanh tra giám sát đưa ra những nhận định không hoàn toàn chính xác so với tình trạng

thực tế của các TCTD khi căn cứ vào những chỉ tiêu tài chính trong khung khổ hệ thống

CAMELS. Do vậy, đề tài “Tác động của sự khác biệt khuôn khổ kế toán tới kết quả đánh

giá các NHTM theo hệ thống CAMELS tại Việt Nam” đã được lựa chọn thực hiện.

1.2. Mục tiêu và câu hỏi chính sách

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tác động của sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn

mực kế toán đã và đang được áp dụng tại Việt Nam với hệ thống chuẩn mực quốc tế tới tính

chính xác trong kết quả đánh giá mức độ an toàn, tính vững mạnh của các NHTM tại Việt

Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp chính sách cần thực hiện để nâng cao chất lượng và

hiệu quả công tác giám sát thông tin tài chính của NHNN cũng như nâng cao tính minh bạch

thông tin trên thị trường tài chính. Do vậy, nội dung luận văn tập trung vào trả lời các câu

hỏi chính sách như sau:

(i) Những điểm khác biệt chính giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so

với hệ thống chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế (IFRS/IAS) liên quan đến soạn lập

và trình bày báo cáo tài chính của NHTM là gì?

(ii) Việc không tuân thủ các chuẩn mực quốc tế ảnh hưởng như thế nào đến tính chính

xác trong kết quả đánh giá tình hình tài chính của NHTM tại Việt Nam?

(iii) Nên hay không nên tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và những chính sách cần thực

hiện để nâng cao tính minh bạch thông tin đối với hệ thống NHTM là gì?

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là số liệu tài chính của các NHTM được lập theo khuôn khổ kế toán

áp dụng tại Việt Nam (VAS) và khuôn khổ kế toán, thông lệ quốc tế (IFRS/IAS). Phạm vi

-4-

nghiên cứu là báo cáo tài chính đã kiểm toán theo VAS và IFRS của một số NHTM cụ thể1

được thu thập từ các nguồn thông tin đáng tin cậy.

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp định tính để phân tích những điểm khác biệt giữa hệ thống các

tiêu chuẩn kế toán do Việt Nam và các cơ quan quốc tế (Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc

tế - IASB, Uỷ ban Basel) ban hành. Các chỉ tiêu định lượng trong khung khổ hệ thống

CAMELS sẽ được tính toán dựa trên hai bộ báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực khác

nhau và so sánh kết quả, phân tích nguyên nhân để đưa ra nhận định làm cơ sở đề xuất chính

sách. Các NHTM được lựa chọn gồm những tổ chức là đối tượng bị tái cơ cấu trong thời

gian vừa qua hoặc NHTM lớn đại diện cho các vấn đề còn tồn đọng trong hệ thống ngân

hàng ở Việt Nam hiện nay.

1.5. Bố cục luận văn

Luận văn bao gồm 4 chương với các nội dung chính như sau.

Chương 1: Giới thiệu tổng quan về bối cảnh chính sách, câu hỏi chính sách, mục tiêu và đối

tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Sau khi trình bày tổng quan về hệ thống chỉ số CAMELS, chương 2 tập trung

phân tích những điểm khác biệt cơ bản giữa yêu cầu ghi nhận vào sổ sách kế toán và soạn

lập, trình bày báo cáo tài chính của các NHTM theo VAS so với IFRS/IAS có ảnh hưởng

đến kết quả tính toán các chỉ số tài chính CAMELS nói trên.

Chương 3: So sánh và phân tích kết quả đánh giá các yếu tố định lượng theo hệ thống

CAMELS dựa trên báo cáo tài chính của một số NHTM được lập, trình bày theo chuẩn mực

kế toán Việt Nam với số liệu được trình bày theo chuẩn mực quốc tế.

Chương 4: Kết luận và khuyến nghị.

1 Do tính chất bảo mật thông tin, tên các NHTM sẽ không được công bố rõ ràng.

-5-

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ SỐ CAMELS

VÀ KHUÔN KHỔ KẾ TOÁN VIỆT NAM SO VỚI

CHUẨN MỰC QUỐC TẾ

2.1. Hệ thống chỉ số CAMELS

2.1.1. Giới thiệu về hệ thống chỉ số CAMELS

Hệ thống chỉ số CAMELS được Cục quản lý hiệp hội tín dụng Hoa Kỳ (National Credit

Union Administration - NCUA) chấp nhận lần đầu vào tháng 10/1987 và đưa ra trong đạo

luật Federal Deposit Insurance Corporation Improvement Act (FDICIA) năm 1991 nhằm

mục đích kiểm tra, giám sát mức độ an toàn và vững mạnh tài chính của các tổ chức tài chính

nói chung, các NHTM nói riêng. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997,

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị các quốc gia bị khủng

hoảng nghiên cứu áp dụng để bổ sung vào các giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do nguy

cơ đổ vỡ và tái thiết hệ thống tài chính tại đất nước mình. Theo đó, trong những năm gần

đây, hệ thống CAMELS không chỉ áp dụng cho mọi ngân hàng, tổ chức tín dụng ở Hoa Kỳ

mà còn được mở rộng ra áp dụng tại rất nhiều quốc gia trên thế giới.

Tên gọi CAMELS được hình thành từ sự kết hợp các chữ cái đầu tiên của các bộ phận cấu

thành nên hệ thống giám sát này, bao gồm:

(i) Capital - Các chỉ số về vốn;

(ii) Asset - Các chỉ số về chất lượng tài sản;

(iii) Management - Các chỉ số về năng lực quản lý;

(iv) Earning - Các chỉ số về lợi nhuận;

(v) Liquidity - Các chỉ số về khả năng thanh khoản; và

(vi) Sensitivity2 - Các chỉ số về độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.

2 Nhóm chỉ số này mới được bổ sung từ sau năm 1997 và đang được NCUA gộp chung với Nhóm chỉ số L - Liquidity .

-6-

2.1.2. Mục tiêu xây dựng hệ thống chỉ số CAMELS

Hệ thống chỉ số CAMELS được thiết lập nhằm mục tiêu đánh giá mức độ an toàn, khả năng

sinh lời và khả năng thanh khoản của các TCTD nói chung, các NHTM nói riêng. Cụ thể,

mức độ an toàn của một TCTD được đánh giá thông qua các nhóm chỉ tiêu về tiềm lực vốn

đủ bù đắp mọi chi phí phát sinh và thực hiện các nghĩa vụ khác (C), nhóm chỉ tiêu phản ánh

chất lượng các khoản cho vay (A) và nhóm chỉ số phản ánh chất lượng quản lý (M). Theo

đó, dựa trên việc phân tích các chỉ số tài chính theo CAMELS, các cơ quan giám sát có để

xếp hạng được cho từng TCTD đồng thời đánh giá một cách tổng quan về hệ thống tài chính

nói chung, xác định những vấn đề rủi ro tiềm tàng mà hệ thống đang/có thể sẽ gặp phải trong

tương lai. Thông qua đó, các biện pháp ngăn ngừa và điều chỉnh phù hợp sẽ được tiến hành

từ sớm để đảm bảo độ vững mạnh cho hệ thống tài chính cũng như toàn bộ nền kinh tế.

Thông thường, việc đánh giá các TCTD theo CAMELS được thực hiện thông qua các cuộc

kiểm tra, thanh tra tại chỗ bởi các cơ quan chức năng có liên quan kết hợp với hệ thống thu

thập dữ liệu giám sát từ xa của các cơ quan giám sát. Kết quả đánh giá không được công bố

rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng luôn được thông báo tới Ban quản

lý cấp cao của các TCTD bị tụt hạng để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa khả năng đổ vỡ

dây chuyền do dân chúng rút tiền ồ ạt. Các TCTD có kết quả xếp hạng CAMELS kém

và/hoặc có dấu hiệu suy giảm sẽ bị tăng cường giám sát một cách chặt chẽ đồng thời các

biện pháp nhằm bảo vệ người gửi tiền nhỏ lẻ cũng sẽ được chuẩn bị sẵn sàng thực hiện ngay

khi có hiện tượng mất thanh khoản.

Dựa trên kết quả đánh giá của từng bộ phận cấu thành CAMELS, các TCTD sẽ được phân

nhóm vào các hạng cụ thể từ 1 (tốt nhất) tới 5 (kém nhất), cụ thể xem Bảng 2.1.

-7-

Bảng 2.1: Xếp hạng tổng quát của các TCTD theo hệ thống CAMELS

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 - Điểm của các yếu tố cấu thành nằm trong khoảng 1-2

- Hoạt động hiệu quả, tuân thủ tốt các quy định và đảm bảo an toàn, hệ thống

quản trị rủi ro nội bộ mạnh.

- Ban lãnh đạo xác định được tất cả các rủi ro tiềm tàng và có các biện pháp

ngăn chặn kịp thời. Dữ liệu lịch sử và các chỉ số ước tính về hiệu quả hoạt

động trong tương lai đều thể hiện các dấu hiệu tích cực, có khả năng chống đỡ

với những thay đổi bất lợi của môi trường kinh doanh bên ngoài.

- Các điểm yếu là không đáng kể và có thể được giải quyết bằng các hoạt động

quản lý thường xuyên của Ban lãnh đạo.

Hạng 2 - Hoạt động tương đối hiệu quả, tuân thủ các quy định và hệ thống quản trị rủi

ro đủ đáp ứng yêu cầu đảm bảo mức độ an toàn của hoạt động kinh doanh.

- Ban lãnh đạo xác định được hầu hết các rủi ro và mức độ thiệt hại tương ứng.

Các chỉ số trong quá khứ và ước tính cho tương lai đều có tính tích cực với

các trường hợp ngoại lệ không ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ an toàn của

hoạt động kinh doanh.

- Hoạt động ổn định và khả năng ứng phó với các biến động của môi trường

kinh doanh bên ngoài khá tốt nhưng một số điểm yếu có thể phát triển thành

những vấn đề đáng quan ngại. Tuy nhiên, Ban lãnh đạo có khả năng và sẵn

sàng sửa chữa những điểm yếu này.

Hạng 3 - Hiệu suất chưa cao, có lỗ hổng ở một mức độ nhất định và có dấu hiệu cần

giám sát kỹ hơn. Hệ thống quản trị rủi ro hoạt động kém hiệu quả hơn mức

yêu cầu ở các mặt liên quan đến quy mô TCTD, mức độ phức tạp và những

rủi ro đặc trưng. TCTD có thể không tuân thủ một số quy định quan trọng và

Ban lãnh đạo có thể thiếu khả năng cũng như sự sẵn sàng trong việc giải quyết

các vấn đề yếu kém trong khung thời gian thích hợp.

- Ban lãnh đạo có thể không xác định được và hạn chế một số rủi ro trọng yếu.

Các chỉ số trong quá khứ và ước tính cho tương lai giữ nguyên hoặc có dấu

hiệu tiêu cực đến mức có thể ảnh hưởng xấu đến mức độ an toàn của hoạt động

-8-

Hạng Tình trạng của TCTD

kinh doanh. Tình hình tài chính của TCTD có thể bị xấu đi khi gặp các điều

kiện bất lợi từ môi trường kinh doanh bên ngoài.

- Cần sự giám sát chặt chẽ hơn mức thông thường.

Hạng 4 - Hiệu suất hoạt động kém đòi hỏi mức độ giám sát chặt chẽ. Hệ thống quản

trị rủi ro không mang lại hiệu quả, không phù hợp với quy mô, mức độ phức

tạp và các rủi ro đặc trưng của TCTD. Các chỉ số tài chính đều phản ánh những

dấu hiệu tiêu cực mà nếu không được kiểm soát và cải thiện thì sẽ đe doạ đến

khả năng tiếp tục hoạt động của TCTD.

- TCTD có thể không tuân thủ một số quy định quan trọng và Ban lãnh đạo

không giải quyết thoả đáng các điểm yếu kém và những vấn đề nảy sinh.

Hạng 5 - Hiệu suất hoạt động không đạt yêu cầu, trực tiếp đe doạ đến khả năng tiếp

tục hoạt đông của các TCTD và cần được các cơ quan chủ quản quan tâm,

triển khai các biện pháp giải quyết hậu quả ngay lập tức.

- Quy mô và mức độ nghiêm trọng của các vấn đề nảy sinh nằm ngoài tầm

kiểm soát của Ban lãnh đạo. Khả năng đổ vỡ tiềm ẩn cao và TCTD có thể sẽ

bị thanh lý hoặc mua lại, hợp nhất với TCTD khác hoặc phải thực hiện các

biện pháp hỗ trợ tài chính khẩn cấp bắt buộc khác.

Nguồn: NCUA (2007)

2.1.3. Các bộ phận cấu thành hệ thống chỉ số CAMELS

Để đánh giá tổng quát về mức độ an toàn, vững mạnh tài chính của một TCTD theo hệ thống

chỉ số CAMELS, các cơ quan giám sát cần tiến hành đánh giá và cho điểm từ 1 (tốt nhất)

đến 5 (kém nhất) đối với từng bộ chỉ tiêu cấu thành.

2.1.3.1. Các chỉ số về vốn (C-Capital)

Các chỉ số về vốn phản ánh mức độ an toàn vốn hay khả năng cân đối nguồn vốn để tài trợ

cho các khoản chi hoạt động kinh doanh thường xuyên của các TCTD. Việc đánh giá mức

độ an toàn vốn được bắt đầu từ việc đánh giá chất lượng của những biến quan trọng trực tiếp

ảnh hưởng đến tình hình tài chính tổng thể của TCTD, bao gồm cả việc đánh giá tiềm lực

vốn trong một/các năm tiếp theo dựa trên kế hoạch kinh doanh được TCTD đó công bố và

một số giả định cơ bản. Vốn có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động quản trị rủi ro nên tiếp

-9-

theo đó, các cơ quan giám sát sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng tới tình trạng vốn hiện tại cũng

như tương lai của các yếu tố như hoạt động cho vay, lãi suất, tính thanh khoản, tính tuân thủ,

chiến lược kinh doanh và rủi ro danh tiếng,... Cuối cùng, các cơ quan giám sát sẽ phân loại

tình trạng vốn của các TCTD vào các hạng từ 1 (tốt nhất) đến 5 (kém nhất) và những TCTD

bị xếp từ bậc 3 trở lên sẽ phải tuân thủ kế hoạch khôi phục vốn nhất định đã được phê duyệt.

2.1.3.2. Các chỉ số về chất lượng tài sản (A-Assets)

Xếp hạng về chất lượng tài sản phản ánh mức rủi ro tín dụng hiện tại và tiềm ẩn trong tương

lai liên quan đến các khoản vay, danh mục đầu tư, bất động sản đang nắm giữ và các tài sản

khác cũng như các giao dịch ngoại bảng. Bên cạnh đó, việc đánh giá chất lượng tài sản cũng

phản ánh khả năng của Ban lãnh đạo TCTD trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm

soát rủi ro tín dụng đồng thời cho biết thực trạng cũng như khả năng suy thoái hay cải thiện

trong tương lai dựa trên các điều kiện kinh tế hiện tại và xu hướng phát triển chung. Do đó,

để xếp hạng chất lượng tài sản cho từng TCTD, các cơ quan giám sát thường tập trung đánh

giá mức dự phòng rủi ro tổn thất phát sinh từ các khoản cho vay hay cho thuê tài chính, mức

độ rủi ro của các đối tác phát hành giấy tờ có giá hay người đi vay cũng như các rủi ro khác

có thể ảnh hưởng đến giá trị thị trường của khối tài sản mà TCTD sở hữu.

2.1.3.3. Các chỉ số về quản trị (M-Management)

Xếp hạng về chất lượng quản trị của TCTD phản ánh năng lực của Ban lãnh đạo trong việc

xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát các rủi ro hoạt động và đảm bảo tính an toàn, hiệu

quả của các hoạt động thường xuyên tuân theo các quy định pháp luật hiện hành. Năng lực

này thể hiện qua việc xây dựng các chính sách, thủ tục, thông lệ tiến hành hoạt động kinh

doanh phù hợp với tính chất, phạm vi hoạt động của TCTD nhằm duy trì rủi ro tổn thất ở

mức chấp nhận được nhất định. Do vậy, khi đánh giá chất lượng quản trị ở từng TCTD, các

cơ quan giám sát thường xem xét nhiều yếu tố, bao gồm nhưng không giới hạn ở:

 các hoạt động chủ động giám sát của Ban lãnh đạo/Ban Điều hành;

 các quy trình kiểm soát được thiết lập kết hợp với mạng lưới phân quyền cho các

cấp bậc quản lý;

 các chương trình kiểm toán định kỳ và môi trường kiểm soát nội bộ phù hợp với quy

mô cũng như độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của TCTD;

-10-

 khả năng phản ứng của Ban Điều hành trước những thay đổi của môi trường kinh

doanh bên ngoài;

 kế hoạch chiến lược do Ban lãnh đạo xác định và thực thi;...

2.1.3.4. Các chỉ số về lợi nhuận (E-Earnings)

Đánh giá về lợi nhuận phản ánh mức độ đáp ứng của các khoản thu nhập hiện tại và tương

lai đối với nhu cầu tài trợ vốn tương xứng với tình hình tài chính, rủi ro tổn thất của TCTD

trong hiện tại và cả trong những giai đoạn tiếp theo, cũng như những thay đổi tiềm năng của

nền kinh tế và các kế hoạch chiến lược. Lợi nhuận của TCTD có thể bị ảnh hưởng bởi rủi ro

tín dụng vượt quá mức cho phép khiến chi phí dự phòng tăng lên và/hoặc rủi ro biến động

lãi suất, rủi ro thị trường. Bên cạnh đó, chất lượng lợi nhuận của TCTD còn thể hiện qua

mức độ phụ thuộc vào các khoản thu nhập bất thường cao hay thấp, khả năng dự báo và kiểm

soát tổng chi phí hoạt động tốt hay kém, chiến lược kinh doanh phù hợp hay không, khả năng

kiểm soát các rủi ro khác tốt hay không,...

2.1.3.5. Các chỉ số về thanh khoản (L-Liquidity)

Xếp hạng về tính thanh khoản phản ánh khả năng chi trả các luồng tiền ra trong tương lai từ

nguồn tiền hiện tại và các luồng tiền vào dự kiến trong tương lai. Nói cách khác, xếp hạng

này phản ánh chất lượng hoạt động quản lý tài sản-công nợ (ALM) của TCTD nhằm đảm

bảo khả năng duy trì luồng tiền đáp ứng đầy đủ, kịp thời việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính

trong tương lai. Yêu cầu đặt ra là hoạt động ALM phải đảm bảo TCTD không bị mất khả

năng thanh khoản khi gặp phải những thay đổi bất lợi ngoài ý muốn, luồng tiền vào không

phụ thuộc quá nhiều vào các luồng tiền không thường xuyên (khó huy động trong tình huống

gấp rút) đồng thời không được duy trì nguồn tiền dự trữ nhiều làm phát sinh chi phí quá cao.

2.1.3.6. Các chỉ số về mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S-Sensitivity)

Việc đo lường mức độ nhạy cảm rủi ro của từng TCTD là một hoạt động khá phức tạp và

chỉ mới được bổ sung vào CAMELS từ năm 1995. Xếp hạng này chủ yếu phản ánh mức độ

nhạy cảm của rủi ro tổn thất liên quan đến các khoản cho vay, tiền gửi khi phát sinh sự thay

đổi bất ngờ trong mặt bằng lãi suất. Khác với cách thức đánh giá ở các tiêu chí cấu thành

nêu trên, việc đánh giá mức độ nhạy cảm rủi ro dựa chủ yếu vào việc xem xét sự thay đổi

giá trị thị trường của các khoản cho vay/tiền gửi trong những kịch bản khác nhau tương ứng

với các giả định về thị trường trong tương lai khác nhau.

-11-

2.1.4. Áp dụng hệ thống chỉ số CAMELS ở Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng, ngày 12/03/2008, NHNN đã ban

hành Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ban hành Quy định xếp loại ngân hàng TMCP, thay

thế Quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN ngày 16/04/2004 ban hành Quy định xếp loại các

ngân hàng TMCP của Nhà nước và nhân dân. Theo đó, các ngân hàng được đánh giá và xếp

loại dựa trên số điểm của 5 tiêu chí: (i) vốn tự có; (ii) chất lượng tài sản; (iii) năng lực quản

trị; (iv) kết quả hoạt động kinh doanh; và (v) khả năng thanh khoản. Nguồn dữ liệu được sử

dụng để tính toán các chỉ số đánh giá bao gồm các báo cáo thống kê định kỳ do ngân hàng

TMCP gửi lên NHNN, số liệu thu thập được từ công tác thanh tra, giám sát của NHNN, báo

cáo và thư quản lý của đơn vị kiểm toán độc lập, báo cáo kiểm toán nội bộ,... Nguyên tắc

tính điểm cho từng chỉ tiêu sẽ đi từ mức điểm tối đa và giảm dần số điểm bị trừ khi ngân

hàng TMCP không đáp ứng được yêu cầu. Chi tiết về xếp loại tổng thể và thang điểm của

các chỉ tiêu xếp loại được trình bày trong Bảng 2.2 và Bảng 2.3.

Nhìn chung, các chỉ tiêu đánh giá theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đã bao quát được

các cấu thành chính trong CAMELS nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Thứ

nhất, CAMELS yêu cầu các cơ quan giám sát phải đánh giá riêng lẻ từng tiêu chí cấu thành

để phân hạng từ 1 đến 5 sau đó kết hợp với nhận định về tác động qua lại giữa tình trạng

đánh giá của các tiêu chí để xác định hạng tổng hợp. Trong khi đó, Quyết định 06/2008/QĐ-

NHNN đề ra nguyên tắc xếp loại các ngân hàng vào 4 nhóm dựa trên điểm số đánh giá tổng

hợp theo thang điểm 100, bước nhảy giữa các nhóm không đồng đều và tỷ trọng giữa các

tiêu chí cấu thành khác nhau. Cụ thể, NHNN chú trọng nhiều vào việc đánh giá vốn tự có,

chất lượng tài sản và kết quả hoạt động kinh doanh với mức điểm tối đa các phần tương ứng

lần lượt là 15/100, 35/100 và 20/100 đồng thời chưa bổ sung yếu tố độ nhạy với rủi ro thị

trường. Thứ hai, dữ liệu đầu vào để đánh giá theo CAMELS bao gồm cả thông tin trong lịch

sử và các ước tính trong tương lai, gắn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng với môi

trường kinh doanh và nền kinh tế đầy biến động trong khi Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN

chỉ đưa ra các tiêu chí chủ yếu dựa vào thông tin trong lịch sử thể hiện qua các báo cáo mà

ngân hàng lập theo yêu cầu của các cơ quan hữu quan. Thứ ba, việc đánh giá theo CAMELS

thường được thực hiện thường xuyên thông qua các cuộc kiểm tra, thanh tra tại chỗ trong

khi Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN yêu cầu các NHTM tự đánh giá, xếp loại và gửi báo cáo

cho NHNN vào ngày 10 tháng 5 hàng năm, kết quả cuối cùng sẽ được Thống đốc phê chuẩn

-12-

vào tháng 6. Cuối cùng, kết quả đánh giá theo CAMELS được sử dụng để các cơ quan giám

sát ban hành các quyết định chính sách xử lý riêng từng mảng song song với các chính sách

kiểm soát chung toàn bộ TCTD trong khi việc xếp loại các NHTM theo Quyết định

06/2008/QĐ-NHNN nhằm mục đích xác định các ngân hàng thuộc nhóm C và D để đề xuất

biện pháp xử lý. Nói tóm lại, kết quả xếp loại ngân hàng theo Quyết định 06/2008/QĐ-

NHNN chủ yếu phụ thuộc vào dữ liệu được trình bày trên các BCTC, đặc biệt là các khoản

mục có liên quan đến danh mục tín dụng, danh mục đầu tư tài sản tài chính, các loại vốn quỹ

và kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.

Bảng 2.2: Xếp loại các ngân hàng TMCP theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN

Loại Điều kiện

A Tổng điểm từ 80 trở lên, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 65% điểm tối đa

- Tổng điểm từ 60-79, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 50% điểm tối đa. B

- Tổng điểm từ 80 trở lên, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu từ 50% đến dưới 65% điểm tối đa.

- Tổng điểm từ 50-59, điểm số từng chỉ tiêu không thấp hơn 45% điểm tối đa. C

- Tổng điểm từ 60 trở lên, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu từ 45% đến dưới 50% điểm tối đa.

- Tổng điểm dưới 50. D

- Tổng điểm cao hơn 50, điểm ít nhất 1 chỉ tiêu thấp hơn 45% điểm tối đa.

Nguồn: NHNN (2008)

-13-

Bảng 2.3: Thang điểm các chỉ tiêu xếp loại theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN

Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ

Vốn tự có 15 -3 - Vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định. - Không đáp ứng yêu cầu vốn pháp định: -5

- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không thấp hơn 8%. - Không đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn: -4

- Sử dụng vốn điều lệ theo đúng quy định của NHNN. - Vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ: -4

- Đảm bảo định hướng khuyến khích tăng vốn hiệu - Không thoả mãn yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

quả. và tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân

dưới 17%: -5

Chất lượng 35 0 - Tỷ lệ nợ xấu không cao hơn 3%. - Số dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay

tài sản - Tuân thủ quy định về phân loại nợ, trích lập và sử TCTD khác dưới 50% tổng tài sản: -10 điểm nếu tỷ

dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. lệ nợ xấu từ 3-5%, -15 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu từ 5-

10%, -20 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu cao hơn 10%.

- Số dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay

TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên: -13 điểm

nếu tỷ lệ nợ xấu từ 3-5%, -19 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu

từ 5-10%, -25 điểm nếu tỷ lệ nợ xấu trên 10%.

- Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán thấp hơn 1% - Chất lượng khoản đầu tư không đảm bảo hoặc số

tổng số dư các khoản đầu tư. dư cho vay/ứng trước khách hàng và cho vay TCTD

khác từ 50% tổng tài sản trở lên: -5 điểm.

-14-

Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ

- Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng - Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội

không thấp hơn 75%. bảng: -2 điểm nếu từ 65% đến dưới 75%, -3 điểm

nếu từ 50% đến dưới 65%, -5 điểm nếu dưới 50%.

- Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại - Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại

bảng không cao hơn 3%. bảng trên 3% đến 5%: -3 điểm

- Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại

bảng trên 5% hoặc không tuân thủ quy định nhà

nước về phân loại nợ và trích lập dự phòng: -5 điểm.

Năng lực 15 0 - Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban kiểm soát. - Vi phạm quy định số lượng thành viên HĐQT, Ban

quản trị - Ban hành đầy đủ, chuẩn hoá và thực hiện đúng các kiểm soát hoặc quy chế nội bộ: -3 điểm.

quy chế nội bộ. - Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoạt động yếu

- Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tương xứng kém: -4 điểm.

quy mô ngân hàng và hoạt động hiệu quả. - Nội bộ mất đoàn kết: -3 điểm.

- Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành - Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành

đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn. không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn: -3 điểm.

- Tuân thủ quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu. - Vi phạm quy định về cổ đông, cổ phiếu: -2 điểm.

Kết quả 20 0 - Lợi nhuận trước thuế từ 17% VCSH bình quân trở - Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân: -2

lên: 15 điểm điểm nếu từ 14% đến dưới 17%, -5 điểm nếu từ 10% hoạt động

kinh doanh

-15-

Chỉ tiêu Tối đa Tối thiểu Yêu cầu đạt điểm tối đa Điểm trừ

đến dưới 14%, -7 điểm nếu từ 5% đến dưới 10%, -

10 điểm nếu dưới 5%, -15 điểm nếu không có lãi.

- Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 8% trở lên: - Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập: -2 điểm nếu

từ 2% đến dưới 8%, -3 điểm nếu dưới 2%. 3 điểm.

- Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi - Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi

nhuận trước thuế từ 30% trở lên: 2 điểm nhuận trước thuế: -1điểm nếu từ 14% đến dưới 30%,

-2 điểm nếu dưới 14%.

Khả năng 15 0 - Đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định của - Vi phạm không đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả: 1

thanh NHNN: 12 điểm. lần -5 điểm, nhiều lần -12 điểm.

khoản - Đảm bảo tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử - Vi phạm tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho

dụng cho vay trung dài hạn: 3 điểm. vay trung dài hạn: 1 lần -2 điểm, nhiều lần -3 điểm.

Nguồn: NHNN (2008)

-16-

2.2. Sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) so với hệ thống

chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế (IFRS)

2.2.1. Khái niệm và vai trò của hệ thống chuẩn mực kế toán3

Theo Khoản 1 - Điều 8 - Luật Kế toán số 03/2003/QH11 được thông qua ngày 17/06/2003

và có hiệu lực từ ngày 01/01/2004, “Chuẩn mực kế toán gồm những nguyên tắc và phương

pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính”. Nói cách khác, chuẩn mực

kế toán bao gồm những quy định, hướng dẫn mà các kế toán viên cần phải tuân thủ khi thực

hiện công tác hạch toán kế toán và lập BCTC. Với hệ thống chuẩn mực kế toán được ban

hành rộng rãi, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở những doanh nghiệp (DN) khác nhau phải

được ghi chép, phản ánh lên BCTC theo những tiêu chuẩn, quan điểm thống nhất, đảm bảo

tính minh bạch, trung thực và hợp lý.

Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế nói chung và của từng quốc gia nói riêng bao gồm

nhiều chuẩn mực chi tiết, mỗi chuẩn mực áp dụng cho một hay một nhóm đối tượng kế toán

cụ thể. Cấu trúc của một chuẩn mực kế toán thường bao gồm hai phần:

 Quy định chung: trình bày mục đích của chuẩn mực, phạm vi áp dụng và giải thích

các thuật ngữ có liên quan đến đối tượng kế toán mà chuẩn mực quy định; và

 Nội dung chuẩn mực: các nguyên tắc, phương pháp ghi nhận liên quan đến đối

tượng kế toán và yêu cầu trình bày khoản mục trong BCTC.

Khi nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng ngày càng phát triển, hệ thống

chuẩn mực kế toán chung đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Cụ thể, việc soạn thảo và ban hành

rộng rãi các chuẩn mực kế toán chung nhằm mục đích đảm bảo tính thống nhất về cách thức

hạch toán kế toán và trình bày BCTC trong phạm vi địa lý nhất định (quốc gia, khu vực hay

toàn thế giới). Do vậy, thông tin tài chính ngày càng được minh bạch hoá, giảm thiểu vấn đề

bất cân xứng thông tin đồng thời các nhà đầu tư có cơ sở vững chắc để phân tích, đánh giá

và so sánh thực trạng tài chính của các DN, từ đó thuận lợi hơn để ra các quyết định kinh

doanh. Đặc biệt, đối với các DN có phạm vi hoạt động xuyên biên giới (mở chi nhánh hoặc

công ty con ở nước ngoài), việc áp dụng các chuẩn mực kế toán chung của toàn cầu trong

3 Trong phạm vi bài viết này, hệ thống chuẩn mực kế toán được hiểu rộng ra bao gồm hệ thống các Chuẩn mực Kế toán (Accounting Standards) cũng như các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể có liên quan đến việc ghi nhận các giao dịch kinh tế vào sổ sách kế toán và soạn lập, trình bày báo cáo tài chính được các cơ quan chức năng ban hành.

-17-

công tác kế toán - tài chính giúp tiết kiệm chi phí chuyển đổi BCTC và tăng khả năng tiếp

cận thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, đối với các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, việc nâng

cao tính minh bạch về tình hình tài chính của các DN nói chung, hệ thống NHTM nói riêng

sẽ làm tăng khả năng dự đoán và tính hiệu quả, kịp thời của các chính sách được ban hành.

2.2.2. Kết quả đánh giá về IFRS của các nghiên cứu đi trước

Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế4 (gọi chung là IFRS) hiện nay bao gồm 45 chuẩn mực

chi tiết được công bố từ những năm 1973 đến thời điểm hiện tại. Các chuẩn mực này được

ban hành và phát triển bởi Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - International Accounting

Standards Board (IASB), tiền thân là Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế - International

Accounting Standards Committee (IASC) thành lập từ năm 1973 tại London, Anh (đổi tên

năm 2001). Trải qua nhiều giai đoạn thay đổi về cơ cấu tổ chức và nhân sự, hiện nay IASB

có 14 thành viên là những kiểm toán viên thực hành, chuyên viên nghiên cứu/lập BCTC, kế

toán viên công chứng,… thuộc nhiều hiệp hội nghề nghiệp đến từ nhiều quốc gia khác nhau.

Nguồn kinh phí hoạt động của IASB được cung cấp bởi Tổ chức Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán

quốc tế - International Accounting Standards Committee Foundation (IASC Foundation),

một tổ chức bao gồm các thành viên là các ngân hàng trung ương, ngân hàng phát triển, các

công ty kiểm toán quốc tế, các định chế tài chính tư nhân, các doanh nghiệp lớn,… đến từ

một số quốc gia phát triển trên toàn thế giới.

Các quốc gia có thể áp dụng IFRS hoặc tự thiết lập hệ thống chuẩn mực riêng (dựa trên tham

chiếu IFRS) phù hợp với các yếu tố chính trị, pháp lý, văn hoá cũng như mức độ phát triển

các hiệp hội nghề nghiệp có liên quan của đất nước mình. Theo đó, các DN hoạt động tại

các quốc gia khác nhau có thể áp dụng các chuẩn mực kế toán khác nhau và các số liệu được

trình bày trên BCTC theo những chuẩn mực kế toán tương ứng sẽ có sự khác biệt. Với xu

hướng toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, các nước chưa áp dụng toàn bộ IFRS đều đã và

đang có kế hoạch cập nhật, đổi mới hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia phù hợp hơn với

4 Các chuẩn mực được ban hành trong giai đoạn đầu được gọi là Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - International Accounting Standard - IAS. Từ năm 2003 đến nay, các chuẩn mực mới được ban hành (sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các chuẩn mực cũ) đều được gọi là Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế - International Financial Reporting Standard - IFRS. Hiện nay, hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế bao gồm 32 IAS và 13 IFRS.

-18-

hệ thống chuẩn mực kế toán chung và hệ thống các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng

rãi trên toàn thế giới.

Bảng 2.4: Thực trạng áp dụng IFRS trên thế giới tính đến 30/06/2012

Số quốc gia/vùng lãnh thổ Mức độ áp dụng Công ty niêm yết Công ty không niêm yết

Yêu cầu sử dụng toàn bộ 92 27

Yêu cầu sử dụng một phần 11 34

Cho phép sử dụng 25 45

Không cho phép sử dụng 24 32

Không có thị trường chứng khoán 21 -

Không có thông tin - 35

Tổng cộng 173 173

Nguồn: Lê Hoàng Phúc (2013)

Bảng 2.5: Tình hình áp dụng IAS/IFRS trong khu vực Đông Nam Á

Quốc gia Tình hình áp dụng

Singapore Gần như toàn bộ

Malaysia Áp dụng toàn bộ từ tháng 1/2012

Phillippines Áp dụng có điều chỉnh

Thái Lan Gần như toàn bộ

Campuchia Áp dụng toàn bộ từ 2012

Indonesia Chuyển đổi theo kế hoạch từ 2012

Lào Áp dụng toàn bộ nếu được Chính phủ chấp thuận

Việt Nam

- Áp dụng VAS, doanh nghiệp có thể lập báo cáo IFRS tuỳ thuộc nhu cầu quản trị. Bắt buộc áp dụng cả 2 hệ thống chuẩn mực đối với các NHTM nhà nước và một số NHTMCP thuộc Dự án tái cơ cấu NHTM nhà nước của Ngân hàng Thế giới - Bộ Tài chính đang có kế hoạch xây dựng/cập nhật các chuẩn mực mới theo hướng tiệm cận với IFRS

Nguồn: Đặng Quốc Tuấn (2012)

Một số nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định tính ưu việt và vai trò quan trọng của IFRS

trong việc nâng cao chất lượng thông tin được trình bày trên BCTC của các DN. Cụ thể, dựa

-19-

trên kết quả nghiên cứu 21 quốc gia, Barth và cộng sự (2007) cho rằng việc áp dụng chuẩn

mực kế toán giúp nâng cao chất lượng của công tác hạch toán kế toán. Trong một nghiên

cứu khác cũng của Barth và cộng sự năm 2012 đối với số liệu của các doanh nghiệp ở Hoa

Kỳ, kết quả phân tích chỉ ra rằng việc áp dụng IFRS đem lại những số liệu kế toán có tính

dễ so sánh hơn so với khi áp dụng các chuẩn mực nội địa (US GAAP - Các quy tắc kế toán

được chấp nhận chung ở Hoa Kỳ). Các phát hiện từ nghiên cứu này cũng nêu rõ những nỗ

lực về hội tụ hệ thống tiêu chuẩn kế toán, mức độ gia tăng yêu cầu tuân thủ IFRS trên toàn

thế giới, sự phát triển của các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, và những nỗ lực tăng cường sự

phối hợp giữa các cơ quan điều tiết thị trường chứng khoán quốc tế đã và đang làm tăng mức

độ dễ so sánh cho các thông tin kế toán. Nghiên cứu của Hung và Subramanyam (2007) về

BCTC của các doanh nghiệp ở Đức trong những năm 1998-2002 đã kết luận rằng thông tin

về giá trị tài sản, thu nhập được ghi nhận theo IFRS có tính tin cậy cao hơn so với các giá trị

tương ứng được ghi nhận theo Chuẩn mực Kế toán Đức do tính định hướng của hệ thống kế

toán. Chi tiết hơn, hệ thống Chuẩn mực Kế toán Đức hướng tới đối tượng sử dụng chủ yếu

là các bên có lợi ích gắn bó mật thiết với doanh nghiệp (stakeholder-oriented) và bị dẫn dắt

bởi các quy định về thuế (tax-driven) nên phương thức ghi nhận nhấn mạnh vào các nguyên

tắc an toàn và mức độ cân bằng thu nhập giữa các thời kỳ. Trong khi đó, IFRS hướng tới đối

tượng sử dụng là tất cả những người nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp (shareholder-

oriented) nên cách thức ghi nhận, đo lường, trình bày thông tin tài chính nhấn mạnh vào giá

trị hợp lý (fair-value) và cân đối kế toán (balance-sheet oriented).

2.2.3. Tổng quan về sự khác biệt giữa VAS và IFRS

Trên cơ sở các IAS/IFRS đã được công bố rộng rãi, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền

nghiên cứu, xây dựng, ban hành và phát triển các chuẩn mực kế toán áp dụng cho tất cả các

DN hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đang sử dụng

26 chuẩn mực kế toán với các nội dung chính có mức độ phù hợp khá cao so với IAS/IFRS.

Tuy nhiên, VAS vẫn còn rất nhiều điểm khác biệt quan trọng so với IFRS. Theo thông tin từ

NHNN, VAS do Bộ Tài chính ban hành (áp dụng cho tất cả các DN) được Hiệp hội Kế toán

và Kiểm toán Việt Nam đánh giá là tuân thủ khoảng 95% so với chuẩn mực quốc tế (NHNN,

2015b). Tuy nhiên, đối với các TCTD nói chung và NHTM nói riêng, hệ thống kế toán cùng

các văn bản quy định có liên quan đến hoạt động kinh doanh đặc thù của TCTD mới chỉ tuân

thủ khoảng 50% chuẩn mực quốc tế (NHNN, 2015b). Nguyên nhân trước hết được NHNN

-20-

đề cập đến là do hệ thống VAS hiện hành chủ yếu được xây dựng dựa trên các chuẩn mực

IAS được ban hành từ trước năm 2003 và chưa có sự điều chỉnh theo những sửa đổi, bổ sung

sau đó của IASB (các IAS đã được sửa đổi và các IFRS mới). Bên cạnh đó, Bộ Tài chính

chưa ban hành chuẩn mực chi tiết điều chỉnh cho đối tượng là các công cụ tài chính (chiếm

tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của NHTM) mà chỉ mới đưa ra hướng dẫn liên quan đến việc

đánh giá rủi ro và trích lập dự phòng áp dụng cho một vài tài sản tài chính cụ thể. Trong một

nghiên cứu khác của Phạm, Tower và Scully năm 2011 (dẫn từ Đức Phan và cộng sự, 2013),

mức độ hội tụ chung về các quy định kế toán giữa VAS và IFRS khoảng 66%, trong đó mức

độ hội tụ về đo lường (measurement convergence) khoảng 75,8% và mức độ hội tụ về trình

bày (disclosure convergence) khoảng 61,9%. Đánh giá này khá nhất quán với tỷ lệ 70% mà

Tổng Cục Thuế đã trình bày trong báo cáo tại Hội nghị SGATAR lần thứ 41 ở Malaysia vào

tháng 11/2011 (Đức Phan và cộng sự, 2013).

Theo nghiên cứu của Anh Tuấn Nguyễn (2012), sự khác biệt khá lớn giữa VAS và IAS/IFRS

xuất phát từ nhiều yếu tố. Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển theo định

hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quy mô thị trường còn

khá nhỏ bé và các yếu tố liên quan đến hệ thống, môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo,

mức độ liên thông của thị trường vốn với quốc tế còn nhiều hạn chế. Thứ hai, các văn bản,

quy định của Việt Nam được phát triển theo hệ thống dân luật (code/civil law system - một

trong những nền tảng cho pháp chế xã hội chủ nghĩa) có tính linh hoạt kém do phụ thuộc

chặt chẽ vào các nguồn luật thành văn và các học thuyết pháp luật. Trong khi đó, hệ thống

pháp luật ở các nước phương tây, nơi sản sinh ra hệ thống IAS/IFRS, lại chủ yếu đi theo hệ

thống thông luật (common law) có tính linh hoạt cao hơn do nguồn luật chủ yếu là các án lệ,

tập quán pháp luật,… Thứ ba, môi trường văn hoá ở Việt Nam mang nặng tính phân cấp

quyền lực cao độ và tư duy văn hoá tập thể khiến cho việc chủ động công bố thông tin tài

chính - kế toán thường bị giới hạn. Thứ tư, chất lượng chuyên môn và khả năng phán đoán

chuyên nghiệp (professional judgment ability) của các kế toán viên ở Việt Nam chưa cao

đồng thời các quy định pháp luật trong nước thay đổi liên tục, không có tính ổn định khiến

họ không đủ thời gian để nghiên cứu, cập nhật những kiến thức mới đang nảy sinh ngày càng

nhiều với tốc độ nhanh.

-21-

2.2.4. Một số khác biệt giữa VAS và IFRS ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của

NHTM trong hệ thống chỉ số CAMELS

2.2.4.1. Khác biệt trong quy định phân loại nợ

(a) Phân loại nợ theo VAS và các quy định có liên quan

Trước ngày 01/06/2014, các NHTM ở Việt Nam thực hiện phân loại nợ theo phương pháp

định lượng được quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005

(“Quyết định 493”) và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ban hành ngày 25/07/2007

(“Quyết định 18”). Các NHTM có đủ khả năng và điều kiện cần thiết có thể tiến hành phân

loại nợ theo phương pháp định tính (quy định tại Điều 7 - Quyết định 493) nhưng phải được

NHNN chấp thuận bằng văn bản đối với chính sách dự phòng rủi ro được xây dựng căn cứ

trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (Internal Credit Scoring System - ICSS). Tính đến

cuối năm 2013, toàn hệ thống NHTM chỉ có Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV)

và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được NHNN cho phép phân loại nợ theo

phương pháp định tính. Do vậy, hầu hết các khoản cho vay của NHTM được phân loại thành

5 nhóm tùy thuộc số ngày quá hạn của các khoản nợ lãi và/hoặc nợ gốc.

Kể từ ngày 01/06/2014, sau nhiều lần NHNN công bố trì hoãn thời điểm có hiệu lực của

Thông tư 02/2013/TT-NHNN (“Thông tư 02”) và Thông tư 09/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ

sung một số điều của Thông tư 02/2013/TT-NHNN (“Thông tư 09”) do lo ngại tỷ lệ nợ xấu

của hệ thống ngân hàng tăng đột biến, các NHTM ở Việt Nam phải ghi nhận và trình bày

trên BCTC nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn giữa các kết quả phân loại nợ theo ba nguồn

thông tin: phân loại theo phương pháp định lượng, phân loại theo phương pháp định tính và

phân loại theo hệ thống thông tin tổng hợp của CIC (nhóm nợ có rủi ro cao nhất trong toàn

hệ thống các TCTD). Về cách thức phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhìn chung

các quy định tại Thông tư 02 đối với các khoản tín dụng thông thường không khác biệt nhiều

so với Quyết định 18 nhưng có một số điểm mới như sau:

 Bổ sung chi tiết một số khoản nợ bị phân loại vào nhóm nợ xấu (Nhóm 3, 4, 5) do

tính chất rủi ro đặc thù như: nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức/cá

nhân thuộc đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật; nợ

được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD; khoản

cho vay khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp

-22-

luật không có tài sản đảm bảo hoặc cấp với điều khoản ưu đãi hoặc vượt quá 5%

vốn tự có của TCTD; nợ cấp cho công ty con/công ty liên kết/doanh nghiệp mà

TCTD nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt quá tỷ lệ giới hạn theo quy định pháp

luật;… (Khoản 1 - Điều 10 - Thông tư 02)

 Rút ngắn thời gian thử thách tối thiểu để nâng nhóm nợ cho khách hàng từ 6 xuống

3 tháng đối với nợ trung - dài hạn và từ 3 xuống 1 tháng đối với nợ ngắn hạn.

Việc phân loại nợ theo phương pháp định tính được căn cứ dựa trên ICSS do mỗi NHTM tự

xây dựng và xin phê duyệt của NHNN. Ngay từ năm 2005, NHNN đã yêu cầu các NHTM

phải xây dựng ICSS để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng trong thời

gian tối đa 3 năm kể từ ngày Quyết định 493 có hiệu lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có

quy định chi tiết một cách thống nhất về các tiêu chí cụ thể trong đó. Như vậy, các ICSS của

các NHTM có thể được tự do xây dựng với mức độ chi tiết dựa trên dữ liệu khách hàng và

kinh nghiệm của bản thân. Do đó, số lượng, nội dung, ngưỡng đánh giá cũng như tỷ trọng

của các chỉ tiêu đóng góp vào tổng điểm xếp hạng của mỗi khách hàng có thể có sự khác

biệt giữa các NHTM. Việc không có quy chuẩn thống nhất này dễ dẫn đến tình trạng chênh

lệch kết quả xếp hạng đối với cùng một khách hàng và các NHTM sẽ phải tiến hành rà soát,

điều chỉnh báo cáo phân loại nợ cũng như mức dự phòng trích lập nhiều lần hơn.

(b) Phân loại nợ theo IFRS và thông lệ quốc tế

Để thông tin tài chính được công bố đảm bảo tính trung thực, hợp lý và thông tin rủi ro tín

dụng là đáng tin cậy, các quy định liên quan đến phân loại và trình bày tài sản tài chính

(trong đó có các khoản cho vay của NHTM) theo IFRS phải tuân thủ quy tắc “bản chất

quan trọng hơn hình thức” và “thận trọng”. Cụ thể, việc xác định khả năng thu hồi của

các khoản cho vay phải được căn cứ trên cả nội dung và điều kiện kinh tế thực tiễn trong

hiện tại cũng như trong tương lai. Bên cạnh đó, các ước tính phải được đưa ra một cách thận

trọng trong những điều kiện không chắc chắn nhằm đảm bảo tài sản - thu nhập của NHTM

không bị đánh giá quá cao và/hoặc các khoản nợ - chi phí không bị định giá quá thấp. Nói

cách khác, việc phân loại danh mục cho vay của NHTM vào các nhóm có đặc điểm rủi ro

tín dụng tương tự nhau phải dựa trên cơ sở đánh giá, xếp hạng tín dụng cho mỗi khách hàng

theo cả các yếu tố định lượng lẫn định tính.

-23-

Theo IAS 39 và các văn bản hướng dẫn có liên quan, danh mục các khoản cho vay của

NHTM phải được phân chia thành các nhóm có mức rủi ro tín dụng tương tự nhau dựa trên

các yếu tố bao gồm đặc điểm của khoản vay (loại hình cho vay), ngành nghề, vị trí địa lý,

loại tài sản đảm bảo, tình hình quá hạn trong 3-5 năm gần nhất,... Cụ thể, dựa vào quy mô

dư nợ tín dụng của các khách hàng, NHTM cần phân chia danh mục tín dụng của mình thành

hai phần là các khoản vay trọng yếu và các khoản vay không trọng yếu khi đứng độc lập.

Tiếp đó, NHTM sẽ đánh giá mức độ rủi ro tín dụng riêng lẻ cho từng khoản vay trọng yếu

và theo nhóm đối với các khoản vay còn lại. Với phương thức này, kết quả phân loại nợ theo

IFRS khác VAS ở điểm lớn nhất chính là khi một khoản vay không trọng yếu bị đánh giá là

có mức độ rủi ro tín dụng cao hơn thì cả nhóm mà khoản vay đó được phân loại vào sẽ bị

chuyển lên nhóm nợ cao hơn. Điều này khiến cho tỷ lệ nợ xấu phản ánh trên BCTC được

soạn lập theo IFRS của các NHTM thường cao hơn so với BCTC theo VAS.

2.2.4.2. Khác biệt trong ghi nhận chi phí dự phòng rủi ro tín dụng

Theo quy định tại Quyết định 18 và Thông tư 02, dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM

bao gồm 2 phần: (i) dự phòng chung được tính bằng bằng 0,75% tổng dư nợ từ Nhóm 1 đến

Nhóm 4, bao gồm cả các khoản mục cam kết ngoại bảng; và (ii) dự phòng cụ thể được tính

cho từng khoản nợ thuộc Nhóm 2 đến Nhóm 5 theo tỷ lệ trích lập tương ứng lần lượt là 5%,

20%, 50% và 100%. Theo Điều 12 - Thông tư 02, số dự phòng cụ thể cần trích lập được tính

𝑛

toán dựa trên công thức như sau:

𝑖=1

𝑅 = ∑ 𝑀𝑎𝑥{0, 𝐴𝑖 − 𝐶𝑖} × 𝑟

Trong đó: R: Tổng số tiền dự phòng cụ thể phải trích cho từng khách hàng

Ai: Số dư nợ gốc của khoản vay thứ i

Ci: giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo của khoản vay thứ i (bằng giá trị tài

sản đảm bảo nhân với tỷ lệ khấu trừ tương ứng từng loại tài sản đảm bảo)

r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể theo nhóm nợ mà khách hàng được phân loại

Như vậy, số dư dự phòng cụ thể cần trích lập cho mỗi khách hàng sẽ phụ thuộc vào tổng dư

nợ của khách hàng, giá trị tài sản đảm bảo mà khách hàng thế chấp cho NHTM và tỷ lệ khấu

trừ tương ứng với từng loại tài sản đảm bảo. Một điểm đáng lưu ý là theo quy định về cách

-24-

tính như trên, trong trường hợp giá trị tài sản đảm bảo cao hơn số dư nợ gốc của khoản vay

thứ i thì cũng không được tính bù trừ với số dư nợ gốc của khoản vay thứ j. Đây là điểm

khác biệt quan trọng so với Quyết định 18 (dựa trên chênh lệch giữa tổng dư nợ và tổng giá

trị khấu trừ của tất cả các tài sản mà khách hàng thế chấp tại NHTM) và phản ánh rõ hơn

quyền lợi của NHTM trong việc sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo.

Trong khi đó, dự phòng rủi ro tín dụng theo IAS 39 (hướng dẫn chi tiết bởi Uỷ ban Basel)

được trích lập dựa trên khái niệm tổn thất giảm giá trị của các khoản vay. Cụ thể, tại thời

điểm lập báo cáo tài chính, NHTM phải đánh giá khả năng tổn thất giảm giá trị của mỗi

khoản vay, từ đó làm cơ sở để xác định mức dự phòng cần trích lập. Một khoản vay bị đánh

giá là giảm giá trị khi và chỉ khi NHTM có các bằng chứng khách quan về khả năng bị tổn

thất do kết quả của một/một số sự kiện xảy ra tác động đến các dòng lưu chuyển tiền dự kiến

trong tương lai liên quan đến khoản vay đó. Theo đó, dự phòng rủi ro tín dụng của NHTM

bao gồm các loại: (i) dự phòng riêng lẻ đối với các khoản vay trọng yếu khi đứng riêng lẻ;

(ii) dự phòng đối với nhóm khoản vay trọng yếu được đánh giá là không giảm giá trị; và (iii)

dự phòng đối với nhóm khoản vay không trọng yếu khi đứng riêng lẻ.

-25-

Sơ đồ 1: Quy trình trích lập dự phòng tín dụng của NHTM theo IAS/IFRS

Nguồn: Tác giả tự vẽ

Khác với tỷ lệ dự phòng cụ thể được áp dụng cố định cho từng nhóm nợ mà không dựa vào

tình hình thực tế của khách hàng, chuẩn mực quốc tế quy định mức dự phòng cụ thể cần trích

lập đối với từng khoản vay là phần giảm giá trị được xác định bằng khoản chênh lệch giữa

giá trị ghi sổ và giá trị hiện tại của các dòng tiền ước tính có thể thu hồi được trong tương lai

(nợ gốc, nợ lãi và giá trị tài sản đảm bảo thu hồi sau xử lý). Giá trị có thể thu hồi được ước

tính này không bao gồm những tổn thất tín dụng trong tương lai chưa phát sinh và được chiết

khấu theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng và các văn bản có liên quan tính tại thời

điểm xem xét việc giảm giá trị (thời điểm tính toán dự phòng). Công thức tính dự phòng cụ

thể theo IFRS có thể được minh hoạ như sau:

SP = Max{0, PV[DN * (1 - AR)] - PV(TSĐB)}

-26-

Trong đó: SP: số dự phòng cụ thể cần trích lập.

PV: giá trị hiện tại được chiết khấu theo lãi suất thoả thuận

DN: dòng nợ gốc và lãi phát sinh tại từng thời điểm cụ thể trong tương lai

(tuỳ thuộc lịch trả nợ theo thoả thuận là hàng tháng/quý hay mỗi 6 tháng)

AR: tỷ lệ chấp thuận của khoản vay, được ước tính dựa trên kinh nghiệm về

tổn thất đối với những khoản vay có mức độ rủi ro tương tự trong quá khứ.

TSĐB: giá trị tài sản đảm bảo được chấp thuận (bằng giá trị tài sản đảm bảo

được định giá nhân với tỷ lệ chấp thuận) phát sinh vào thời điểm đáo hạn.

Đối với dự phòng rủi ro tín dụng của các khoản vay không trọng yếu khi đứng riêng lẻ, theo

hướng dẫn của IFRS và yêu cầu của Basel II, các NHTM phải sử dụng các mô hình xử lý dữ

liệu nội bộ trong vòng ít nhất 5 năm trước liền kề để xác định các biến số xác suất khách

hàng không trả được nợ (PD - Probability of Default), tỷ trọng tổn thất ước tính (LGD - Loss

Given Default) và tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ (EAD -

Exposure at Default). Từ đó, với mỗi nhóm có rủi ro tương đồng, NHTM tính dự phòng rủi

ro theo mức tổn thất có thể ước tính theo công thức:

Dự phòng rủi ro nhóm = EAD * PD * LGD

Như vậy, cách thức tính toán dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập theo IFRS có độ phức

tạp cao hơn so với quy định của VAS nhưng lại phản ánh chính xác hơn chất lượng danh

mục tín dụng của các NHTM. Do đó, dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập theo IFRS thường

cao hơn khá nhiều so với VAS và sẽ ảnh hưởng cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến nhiều khoản

mục trên BCTC của NHTM như số dư dự phòng rủi ro cho vay khách hàng, tổng tài sản, lợi

nhuận trước thuế,...

2.2.4.3. Một số khác biệt cơ bản khác

(a) Khác biệt trong ghi nhận giá trị các khoản đầu tư

Đối với các chứng khoán kinh doanh, VAS yêu cầu NHTM ghi nhận ban đầu theo giá gốc

và lập dự phòng, tăng chi phí tài chính nếu giá trị trường xuống thấp hơn giá gốc tại thời

điểm lập BCTC. Trong khi đó, IFRS yêu cầu ghi nhận khoản đầu tư ban đầu theo giá phí và

ghi nhận vào lãi/lỗ chưa thực hiện đối với phần chênh lệch giữa giá thị trường và giá phí tại

thời điểm lập BCTC. Nói cách khác, đối với việc ghi nhận giá trị các chứng khoán kinh

-27-

doanh, VAS và IFRS khác nhau ở chỗ IFRS cho phép NHTM ghi tăng lợi nhuận khi giá thị

trường của chứng khoán kinh doanh cao hơn giá trị sổ sách nhưng VAS thì không.

Đối với các chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán, VAS quy định ghi nhận giống các chứng

khoán kinh doanh. Tuy nhiên, IFRS lại yêu cầu ghi nhận ban đầu bằng giá vốn và tại thời

điểm lập BCTC, NHTM phải điều chỉnh các khoản đầu tư này về giá trị thị trường thông qua

ghi nhận tăng/giảm phần VCSH trên Bảng cân đối kế toán phần chênh lệch cao/thấp hơn

giữa giá thị trường và giá trị sổ sách.

Đối với các khoản đầu tư vào trái phiếu, VAS ghi nhận giá trị đầu tư bằng mệnh giá và phần

chênh lệch giữa mệnh giá với giá thanh toán được ghi nhận vào Doanh thu chưa thực hiện

hoặc Chi phí chờ phân bổ. Trong khi đó, IFRS yêu cầu ghi nhận và phản ánh trên BCTC các

khoản đầu tư trái phiếu theo giá vốn đã chiết khấu (amortised cost), tức là giá mà NHTM có

thể thu hồi được nếu bán tài sản tại thời điểm lập BCTC.

(b) Khác biệt trong ghi nhận giao dịch thanh lý tài sản cố định

Về quy định, VAS và IFRS đều đề cập đến việc phản ánh số lãi/lỗ từ giao dịch thanh lý tài

sản cố định vào khoản mục Thu nhập/Chi phí hoạt động khác trên BCTC. Tuy nhiên, các

văn bản hướng dẫn quy định về cách thức hạch toán kế toán của Việt Nam yêu cầu các

NHTM phải ghi nhận toàn bộ số tiền thu được từ thanh lý tài sản vào Thu nhập khác và ghi

nhận giá trị còn lại trên sổ sách của tài sản đó vào Chi phí khác. Trong khi đó, IFRS hướng

dẫn ghi nhận thẳng phần chênh lệch giữa số tiền thu được từ thanh lý và giá trị còn lại trên

sổ sách vào Thu nhập hoặc Chi phí khác. Cách thức thực hiện như trên sẽ khiến cho tỷ trọng

thu nhập từ hoạt động thanh lý tài sản của NHTM trên BCTC theo VAS có sự khác biệt so

với IFRS mặc dù thường không quá trọng yếu.

2.2.4.4. Tác động của các khác biệt tới kết quả đánh giá theo CAMELS

Những khác biệt liên quan đến việc phân loại, đánh giá chất lượng danh mục tín dụng và ghi

nhận giá trị sổ sách đối với các khoản đầu tư tài chính nêu trên sẽ dẫn đến sự khác biệt giữa

các khoản mục liên quan được trình bày trên báo cáo tài chính theo VAS và IFRS như tổng

dư nợ ròng, dư nợ theo từng nhóm, giá trị các khoản đầu tư tài chính, tổng tài sản,... Bên

cạnh đó, những khác biệt trong ghi nhận chi phí dự phòng hay giá trị hợp lý của các khoản

đầu tư tài chính lại hình thành nên sự chênh lệch giữa kết quả kinh doanh trong kỳ và tiếp

theo đó là khoản mục lợi nhuận giữ lại, vốn và các quỹ trên bảng cân đối kế toán theo VAS

-28-

và IFRS. Do đó, khi xếp loại theo CAMELS và đặc biệt là theo Quyết định 06/2008/QĐ-

NHNN, kết quả tổng hợp sẽ có sự khác biệt khi sử dụng dữ liệu đầu vào từ hai hệ thống báo

cáo VAS và IFRS do chênh lệch trong kết quả đánh giá về vốn tự có, chất lượng tài sản và

kết quả kinh doanh của các TCTD.

Sơ đồ 2: Tác động của sự khác biệt trong ghi nhận dữ liệu theo các hệ thống chuẩn

mực tới kết quả đánh giá theo CAMELS

Nguồn: Tác giả tự vẽ

-29-

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ NHTM THEO HỆ THỐNG CAMELS DỰA

TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH ĐƯỢC LẬP THEO VAS VÀ IFRS

Chương 3 trình bày kết quả đánh giá theo CAMELS, cụ thể là theo hướng dẫn của Quyết

định 06/2008/QĐ-NHNN, của một số NHTM dựa trên dữ liệu thông tin tài chính đầu vào

lấy từ các báo cáo tài chính được lập theo VAS và IFRS. Trong đó, một số nguyên nhân

chính dẫn đến sự khác biệt trong việc ghi nhận các khoản mục trên BCTC theo hai hệ thống

chuẩn mực sẽ được làm rõ để giải thích cho mức chênh lệch trong kết quả đánh giá tổng thể

của từng NHTM. Do vấn đề bảo mật, các NHTM không được nêu tên đích danh và thông tin

giúp xác định danh tính cụ thể của NHTM như năm thành lập, năm xảy ra sự kiện quan

trọng, số văn bản của NHNN,... sẽ được nêu một cách hạn chế.

3.1. Ngân hàng A và tác động của sự can thiệp bằng văn bản đối với kết quả phân loại

nợ theo VAS của NHNN

Ngân hàng A là một trong những NHTM cổ phần được thành lập thí điểm từ năm 199x với

số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đa dạng

cho khách hàng. Sau hơn 20 năm hoạt động và phát triển, Ngân hàng A đã xây dựng được

một thương hiệu khá tên tuổi, mở rộng quy mô lên gần 100 chi nhánh, phòng giao dịch trên

cả nước và tăng vốn điều lệ lên hơn 4.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến năm 201X, do kết quả

hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính yếu kém, Ngân hàng A đã bị buộc phải thực thi

phương án tái cấu trúc do NHNN yêu cầu và chấp nhận từ bỏ thương hiệu đã dày công xây

dựng trước đó.

Theo các BCTC đã kiểm toán theo VAS cho năm tài chính 201X-1, kết quả hoạt động kinh

doanh và tình hình tài chính của Ngân hàng A chưa thực sự thể hiện mức độ thiếu bền vững

và nguy cơ đổ vỡ, hoàn toàn trái ngược với Báo cáo đánh giá lại tài sản và các khoản dự

phòng liên quan do một công ty kiểm toán lớn, có uy tín lập chỉ vài tháng sau đó cũng như

theo các BCTC đã kiểm toán theo IFRS. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ việc Ngân

hàng A tập trung khá nhiều vốn để cho vay một lượng nhỏ khách hàng, tập trung vào những

ngành rủi ro và gặp nhiều bất lợi trong giai đoạn đó như đóng tàu, sản xuất giấy, chế biến

thuỷ sản,... Đặc biệt, khách hàng có dư nợ lớn nhất tại ngày 31/12/201X-1 là các công ty

thành viên của Tập đoàn Vinashin, những đơn vị đã mất khả năng trả nợ tại thời điểm này.

Ngoài ra, Ngân hàng A còn đầu tư tài chính vào các cổ phiếu, trái phiếu công ty của một số

-30-

doanh nghiệp đã được chính Ngân hàng A cấp tín dụng có tình hình tài chính ngày càng

không khả quan.

Như một hệ quả tất yếu, khi NHNN ban hành văn bản chỉ đạo các NHTM xem xét khoanh

và cơ cấu lại các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Vinashin, phân loại các

khoản nợ này vào Nhóm 2 - Nợ cần chú ý đồng thời trích lập dự phòng theo khả năng tài

chính của từng ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A được tính toán dựa trên số liệu báo

cáo theo VAS cho năm tài chính 201X-1 chỉ khoảng 4,42% trong khi tỷ lệ này theo VAS

sau khi điều chỉnh tổng dư nợ của Vinashin và theo IFRS lần lượt là 16,73% và 26,53%. Chi

phí dự phòng rủi ro tín dụng cần trích lập trong năm 201X-1 do vậy cũng có sự khác biệt

khá lớn giữa số liệu báo cáo theo VAS và theo IFRS, gần 2.700 tỷ đồng, kéo theo kết quả

hoạt động kinh doanh theo VAS được báo cáo lãi trong khi theo IFRS thì lỗ khá lớn (chênh

lệch khoảng 2.900 tỷ đồng chưa kể tác động của thuế thu nhập hoãn lại).

Hình 3.1: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng A năm 201X-1

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A

-31-

Hình 3.2: Tỷ lệ dự phòng trên dư nợ theo từng nhóm của Ngân hàng A năm 201X-1

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A

Như vậy, hành động can thiệp trực tiếp vào kết quả phân loại nợ tại các NHTM của NHNN

thông qua ban hành văn bản chỉ định nhóm nợ đối với nhóm đối tượng đặc thù đã làm cho

giá trị của dư nợ tương ứng từng nhóm trên BCTC theo VAS của NHTM bị biến dạng so

với thực tế, tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng cần trích lập theo số liệu báo cáo VAS thấp hơn

nhiều so với số liệu trình bày trên BCTC theo IFRS. Kết hợp với sự khác biệt trong cách xác

định giá trị sổ sách tại thời điểm lập BCTC giữa VAS và IFRS dẫn đến chênh lệch trong chi

phí dự phòng giảm giá tài sản tài chính cần ghi nhận, lợi nhuận trong năm 201X-1 của Ngân

hàng A theo IFRS sụt giảm nghiêm trọng so với số liệu báo cáo theo VAS. Giá trị tổng tài

sản, vốn chủ sở hữu thực và khoản mục lợi nhuận giữ lại trên bảng cân đối kế toán theo IFRS

do vậy cũng thấp hơn so với VAS. Những khác biệt này đã kéo theo hệ quả là số điểm bị trừ

tại các chỉ tiêu đánh giá về vốn tự có, chất lượng tài sản và kết quả kinh doanh của Ngân

hàng A theo IFRS cao hơn nhiều so với VAS (chi tiết xem Bảng 3.1). Do đó, kết quả đánh

giá tổng hợp cuối cùng của Ngân hàng A dựa trên BCTC theo VAS là hạng B trong khi theo

IFRS là hạng D, hạng cần thiết phải có chính sách can thiệp nhanh chóng. Với bối cảnh Ngân

hàng A bị NHNN buộc tái cấu trúc do tình hình tài chính yếu kém năm 201X, có thể nói

rằng số liệu theo báo cáo IFRS phản ánh đúng tình trạng thực tế của các NHTM hơn so với

số liệu VAS, đặc biệt khi NHNN có can thiệp trực tiếp đến quá trình phân loại nợ và đánh

giá chất lượng danh mục tín dụng tại các NHTM.

-32-

Bảng 3.1: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng A năm 201X-1

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

5 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực thấp hơn 3.000 tỷ đồng

9 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu < 9%

0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ

10 25

Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản5 Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản

5 5 Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Chất lượng tài sản

0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%

0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%

0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát

0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Năng lực quản trị

3 3 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn

Không có lãi 15 7 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân từ 5% đến dưới 10%

3 3 Kết quả hoạt động kinh doanh Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập dưới 2% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập dưới 2%

5 Chưa điều chỉnh dư nợ của các Công ty ty thuộc Tập đoàn Vinashin

-33-

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

Không có lãi 2 1

Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trước thuế từ 14% đến dưới 30%

12 0 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần) Tỷ lệ khả năng chi trả trên 10%

0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%

79 Tổng cộng điểm trừ 29

21 Điểm đánh giá 71

D Xếp hạng B

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng A

3.2. Ngân hàng B và tác động từ chính sách ưu tiên đối với các NHTM có vốn nhà nước

của NHNN

Ngân hàng B là một trong những NHTM có vốn nhà nước được thành lập vào giai đoạn

198x-199x theo các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng

B hiện có khá nhiều công ty con hoạt động trong các lĩnh vực như cho thuê tài chính, bảo

hiểm, chứng khoán,... và phạm vi hoạt động đã vượt ra khỏi biên giới Việt Nam. Xét về quy

mô, Ngân hàng B có hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch đặt tại hầu hết mọi tỉnh thành trên

cả nước và là một trong những ngân hàng chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường tài chính.

Theo các báo cáo tài chính đã kiểm toán trong những năm gần đây, tình hình tài chính và kết

quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng B có sự khác biệt rất lớn giữa số liệu báo cáo theo

VAS và số liệu theo IFRS. Cụ thể, tại ngày 31/12/2014 và cho năm tài chính kết thúc cùng

ngày, tổng tài sản của Ngân hàng B theo VAS cao hơn gần 12.140 tỷ đồng so với tổng tài

sản xác định theo IFRS. Nguyên nhân chủ yếu là do số dư các khoản dự phòng tổn thất tài

sản tài chính được ghi nhận theo VAS thấp hơn 15.043 tỷ đồng so với số cần được ghi nhận

theo IFRS, kéo theo lỗ luỹ kế tại thời điểm 31/12/2014 trên báo cáo VAS thấp hơn 13.224

tỷ đồng. Đây là hệ quả của việc Ngân hàng B được chấp thuận trích lập dự phòng rủi ro trên

báo cáo VAS cao hơn mức tối thiểu quy định tại Công văn số 7xx/NHNN-TTGSNH.m ngày

2x tháng 1x năm 20xx mà không cần ghi nhận đủ số dự phòng tương ứng kết quả phân loại

-34-

nợ của toàn danh mục tín dụng đang nắm giữ tại ngày 31/12/2014. Bên cạnh đó, mặc dù đã

rất tích cực trong việc bán một phần các khoản nợ xấu cho VAMC, tỷ lệ nợ xấu theo VAS

của Ngân hàng B tại ngày 31/12/2014 vẫn vào khoảng 5,7%, thấp hơn rất nhiều so với con

số khoảng 20,4% nợ xấu theo IFRS. Với tình trạng trong những năm gần đây, các thông tin

như kết luận của Kiểm toán Nhà nước chỉ ra nhiều sai phạm trong hoạt động cho vay, tiềm

ẩn nhiều rủi ro và khả năng khó thu hồi vốn của một tỷ lệ không nhỏ trong danh mục cho

vay của Ngân hàng B; nhiều vụ điều tra sai phạm cho vay hàng trăm tỷ ở một số chi nhánh

và công ty con của Ngân hàng B đã và đang được thực thi;... được công bố ngày càng nhiều

cho thấy số liệu về rủi ro tín dụng theo báo cáo VAS không phản ánh chính xác thực trạng

của Ngân hàng B so với số liệu theo IFRS.

Như vậy, ngoài chênh lệch tỷ lệ nợ xấu do khác biệt trong cách thức phân loại nợ giữa VAS

và IFRS, sự ưu tiên của NHNN trong việc ghi nhận chi phí dự phòng cần trích lập đã khiến

cho tình trạng tài chính thực tế của Ngân hàng B thể hiện trên BCTC theo VAS bị che giấu.

Kết hợp cùng sự khác biệt trong chi phí dự phòng cần trích lập đối với các khoản đầu tư tài

chính theo VAS và IFRS, kết quả kinh doanh trong năm 2014 của Ngân hàng B theo báo

cáo cho cơ quan giám sát là có lãi trong khi theo báo cáo IFRS là lỗ với mức chênh lệch hơn

11.000 tỷ đồng. Tác động kéo theo của những khác biệt này là giá trị tổng tài sản, vốn điều

lệ thực và lỗ luỹ kế trên bảng cân đối kế toán của Ngân hàng B có mức chênh lệch rất lớn.

Hình 3.3: Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B

-35-

Hình 3.4: Một số chỉ tiêu tài chính tại thời điểm 31/12/2014 của Ngân hàng B

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B

Những khác biệt nêu trên về số liệu trình bày trong các BCTC năm 2014 của Ngân hàng B

theo VAS và IFRS đã tạo ra chênh lệch giữa điểm số của từng chỉ tiêu khi đánh giá theo

Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN dựa trên hai hệ thống báo cáo. Cụ thể, khác biệt về lãi hay

lỗ trong năm 2014 khiến chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh của Ngân hàng B theo IFRS

bị trừ 17 điểm thay vì 7 điểm nếu theo VAS. Tác động song song của sự khác biệt này còn

thể hiện ở chỗ hệ số an toàn vốn tối thiểu theo IFRS của Ngân hàng B không đáp ứng yêu

cầu của NHNN và bị trừ 9 điểm trong khi hệ số này theo VAS vẫn đạt yêu cầu. Bên cạnh

đó, chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản của Ngân hàng B theo IFRS cũng bị trừ nhiều hơn 6

điểm so với VAS do tỷ lệ nợ xấu chênh lệch lớn. Tổng hợp lại, mức điểm tuyệt đối được

đánh giá cho Ngân hàng B dựa vào số liệu báo cáo theo hai hệ thống chuẩn mực cách khá

xa nhau (chi tiết xem Bảng 3.2). Tuy nhiên, kết quả phân nhóm trong cả hai trường hợp lại

giống nhau, cùng hạng D, do khung phân hạng theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đặt ra

khoảng cách điểm giữa các hạng A, B, C chỉ 10-20 điểm trong khi phổ điểm của hạng D là

từ 50 điểm trở xuống. Đây cũng chính là điểm còn hạn chế so với hệ thống CAMELS của

Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN đã trình bày trong Chương 2.

-36-

Bảng 3.2: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng B năm 2014

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

0 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng

9 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu < 9%

0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ

19 25

Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản Tỷ lệ nợ xấu > 3% và số dư cho vay/ứng trước kháhc hàng, cho vay TCTD khác > 50% tổng tài sản

5 5 Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Số dư dự phòng giảm giá chứng khoán cao hơn 1% tổng số dư các khoản đầu tư Chất lượng tài sản

0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%

0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%

0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát

0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở mức trung bình Năng lực quản trị

3 3 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn6 Một số thành viên trong Ban Điều hành không làm đúng nhiệm vụ, quyền hạn

7 Không có lãi 15 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân từ 5% đến dưới 10% Kết quả hoạt động

6 Cơ sở đánh giá là thông tin về các vụ việc tham ô, xâm tiêu của một số cán bộ lãnh đạo Ngân hàng B được công bố rộng rãi.

-37-

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

kinh doanh 2 2 Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8%

0 Không có lãi 2 trước thuế Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trên 30%

12 12 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần) Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% (nhiều lần)

0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%

Tổng cộng điểm trừ 48 73

Điểm đánh giá 52 27

Xếp hạng theo CAMELS D D

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng B

3.3. Ngân hàng C và việc duy trì tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% theo yêu cầu của NHNN

Là một trong những ngân hàng thuộc nhóm G12 (nhóm các ngân hàng chiếm thị phần lớn

nhất) và được dự đoán thuộc Nhóm 1 trong đợt phân loại của NHNN công bố năm 2012,

Ngân hàng C được thành lập năm 199x và đang trong quá trình tăng trưởng nhanh chóng để

đạt mục tiêu trở thành một trong năm ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam vào năm 2017.

Hiện tại, Ngân hàng C đã có trên 200 điểm giao dịch tại các tỉnh thành lớn trong cả nước

được vận hành bởi 12.400 cán bộ, nhân viên. Nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và hoàn thành

các mục tiêu chiến lược đề ra, Ngân hàng C đang tập trung vào việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động dựa trên nền tảng là mô hình quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp đảm

bảo minh bạch thông tin, trong đó chú trọng vào sáng kiến thực hiện chuyển đổi BCTC từ

VAS sang IFRS, thu hẹp dần khoảng cách giữa kết quả kinh doanh được ghi nhận theo hai

khung khổ chuẩn mực và công bố dần các bộ phận của BCTC theo IFRS.

Theo số liệu trình bày chi tiết về danh mục và mức độ rủi ro tín dụng trên các BCTC đã kiểm

toán được Ngân hàng C công bố, tỷ lệ nợ xấu trong giai đoạn 2011-2014 của Ngân hàng C

theo VAS vẫn thấp hơn khá nhiều so với kết quả phân loại theo IFRS (Hình 3.5). Trong năm

-38-

2013 và 2014, nhằm duy trì mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu do NHNN đề ra, Ngân hàng C đã bán

lượng lớn nợ xấu cho VAMC tương ứng lần lượt là 636.695 triệu đồng và 3.956.097 triệu

đồng. Do vậy, trên báo cáo theo VAS, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C luôn ở mức dưới 3%.

Tuy nhiên, để mua các khoản nợ xấu này, VAMC không sử dụng tiền mặt mà dùng hình

thức phát hành trái phiếu đặc biệt để thanh toán, tức là song song với việc ghi giảm một

lượng lớn nợ xấu được bán cho VAMC thì Ngân hàng C phải ghi nhận một lượng tương ứng

giá trị trái phiếu đặc biệt được giữ đến ngày đáo hạn. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều

46 - Thông tư 19/2013, Ngân hàng C phải tiến hành trích lập dự phòng rủi ro cho lượng trái

phiếu đặc biệt này với mức tương ứng mỗi năm bằng tổng mệnh giá chia cho thời hạn của

trái phiếu đặc biệt (thường là 20%/năm). Bên cạnh đó, theo Khoản 2 - Điều 12 - Nghị định

số 53/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, VAMC có quyền uỷ

quyền cho TCTD bán nợ thực hiện một hoặc một số hoạt động nhằm thu hồi, xử lý các khoản

nợ xấu đã bán đồng thời Khoản 2 - Điều 44 cũng quy định sau 5 năm, nếu TCTD không thu

hồi, xử lý được các khoản nợ xấu đã bán thì phải nhận lại toàn bộ. Với quy định này, xét về

bản chất thì các TCTD vẫn phải chịu trách nhiệm rất lớn đối với rủi ro của các khoản nợ xấu

đã bán cho VAMC và hoạt động mua bán nợ chỉ mang tính chất hình thức, giúp các TCTD

giãn thời hạn giảm dần tỷ lệ nợ xấu trên BCTC. Do vậy, tỷ lệ nợ xấu của NHTM theo BCTC

được lập theo VAS nên được điều chỉnh theo số cộng gộp tổng dư nợ xấu đã bán cho VAMC.

Nhìn chung, các chính sách của NHNN liên quan đến quản lý, giám sát danh mục tín dụng

của các NHTM cũng còn tồn tại vấn đề bất cập. Nhằm đạt được mục tiêu tỷ lệ nợ xấu toàn

hệ thống duy trì ở mức 3%, ngoài việc đốc thúc các NHTM bán bớt nợ xấu cho VAMC theo

phương thức nêu trên, NHNN còn đặt ra hạn mức tốc độ tăng trưởng tín dụng cho các NHTM

dựa trên kết quả phân nhóm từ năm 2012. Mục đích của chính sách này là NHNN muốn các

NHTM phải tăng cường hoạt động thu hồi nợ đồng thời giám sát chặt chẽ khâu giải ngân để

giảm dần các khoản nợ xấu còn tồn đọng cũng như phát sinh mới. Tuy nhiên, mục đích này

không thể đạt được như mong muốn khi NHNN chấp nhận nới rộng hạn mức tăng trưởng

tín dụng cho hàng loạt NHTM trong những năm gần đây. Điều này đã tạo cơ hội cho Ngân

hàng C cũng như các NHTM khác trong hệ thống có điều kiện tăng dần tổng dư nợ trong khi

không đảm bảo khả năng chắc chắn thu hồi đối với những khoản nợ tồn đọng hay mới giải

ngân (mẫu số tăng lên trong khi tử số không đổi hoặc tăng ít hơn) nhằm duy trì tỷ lệ nợ xấu

trên BCTC ở mức dưới hoặc bằng 3%. Như vậy, sự can thiệp chính sách của NHNN trong

-39-

hoạt động quản lý danh mục tín dụng ở các NHTM chưa thực sự làm thay đổi bản chất chất

lượng các khoản cho vay trong nền kinh tế và tỷ lệ nợ xấu trên BCTC theo VAS, số liệu

được dùng để công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, chưa thực sự phản

ánh đúng tình trạng thực tế mà hệ thống ngân hàng đang gặp phải.

Năm 2014

Năm 2013

Năm 2012

Năm 2011

Hình 3.5: Tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

NPL - IAS

NPL - VAS

NPL - VAS điều chỉnh

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C

3.00%

2.50%

2.00%

1.50%

1.00%

0.50%

90,000,000 80,000,000 70,000,000 60,000,000 50,000,000 40,000,000 30,000,000 20,000,000 10,000,000 -

0.00%

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Tổng dư nợ (triệu đồng)

Dự phòng/Tổng dư nợ - VAS (%)

Dự phòng/Tổng dư nợ - IAS (%)

Hình 3.6: Dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2014

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C

Theo IFRS, với các điều khoản trong hợp đồng bán nợ cho VAMC đã ký, các NHTM chưa

chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích từ các khoản vay đã bán, vẫn có quyền thu hồi các

dòng tiền phát sinh từ các khoản vay này nên lượng nợ xấu này vẫn phải tiếp tục được ghi

-40-

nhận và theo dõi trên danh mục tín dụng của NHTM. Do vậy, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng C

trong giai đoạn 2011-2014 được tính toán dựa trên BCTC theo IFRS thường cao hơn khoảng

6-8% so với số liệu tính toán theo VAS và phản ánh đúng hơn tình trạng thực tế về chất

lượng tài sản của Ngân hàng C. Chính điều này đã kéo theo hệ quả là số điểm bị trừ khi xếp

hạng Ngân hàng C theo Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN dựa vào báo cáo IFRS cao hơn 25

điểm so với khi dựa vào báo cáo VAS. Tổng hợp lại, Ngân hàng C được phân loại vào hạng

A với số liệu tài chính trình bày theo VAS, phù hợp kết quả phân nhóm năm 2012 của

NHNN, trong khi theo IFRS thì nên được phân loại vào hạng D và cần thiết phải triển khai

nhanh chóng các chính sách kiểm soát rủi ro tín dụng hợp lý, cải thiện về bản chất chất lượng

danh mục tín dụng (chi tiết xem Bảng 3.4). Như vậy, qua tình huống này, có thể cho rằng

việc NHNN đề ra tỷ lệ nợ xấu mục tiêu ở mức 3% đồng thời với việc khuyến khích các

NHTM bán bớt nợ xấu cho VAMC và mở ra cơ hội nới hạn mức tăng trưởng tín dụng chỉ

khiến cho thực trạng chất lượng tài sản phản ánh qua báo cáo được lập theo VAS không phù

hợp với tình trạng mà NHTM thực sự đang phải đối mặt.

Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu tài chính của Ngân hàng C giai đoạn 2011-2013

Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Chỉ tiêu VAS IFRS VAS IFRS VAS IFRS

82.817.947 82.907.391 102.576.275 102.443.872 121.264.370 121.188.334 Tổng tài sản (triệu đồng)

5.996.245 6.037.485 6.637.017 6.619.858 7.726.697 7.625.936 Vốn chủ sở hữu (triệu đồng)

799.688 776.260 643.394 627.315 1.017.620 695.399 Lợi nhuận sau thuế (triệu đồng)

1.386 1.345 1.115 962 1.603 1.096 Lãi cơ bản trên cổ phiếu (đồng)

10,19% 9,91% 14,17% 9,76% Suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu - ROE

0,69% 0,68% 0,91% 0,62% Suất sinh lợi trên tổng tài sản - ROA

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C

-41-

Bảng 3.4: Chi tiết kết quả xếp loại Ngân hàng C năm 2014

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

0 0 Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng Vốn điều lệ thực cao hơn 3.000 tỷ đồng

0 0 Vốn tự có Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9% Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu > 9%

0 0 Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ Không vi phạm quy định về sử dụng vốn điều lệ

Tỷ lệ nợ xấu dưới 3% 25 0

Tỷ lệ nợ xấu cao hơn 10% và số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên

5 5

Chất lượng tài sản Số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên Số dư cho vay/ứng trước khách hàng, cho vay TCTD khác từ 50% tổng tài sản trở lên

0 0 Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75% Tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có nội bảng trên 75%

0 0 Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3% Tỷ lệ phản ánh chất lượng các khoản cam kết ngoại bảng dưới 3%

0 0 Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát Đủ số lượng thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát

0 0 Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tốt Hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tốt Năng lực quản trị

0 0

Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Điều hành đủ năng lực, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn

0 0 Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân trên 17% Lợi nhuận trước thuế trên VCSH bình quân trên 17%

2 2 Kết quả hoạt động kinh doanh Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8% Tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ 2% đến dưới 8%

-42-

VAS IFRS

Chỉ tiêu Đánh giá Điểm trừ Đánh giá Điểm trừ

0 0 trước thuế Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi nhuận trước thuế trên 30% Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trên lợi trên nhuận 30%

5 5 Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10% Tỷ lệ khả năng chi trả dưới 10%

0 0 Khả năng thanh khoản Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60% Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn dưới 60%

37 Tổng cộng điểm trừ 12

63 Điểm đánh giá 88

D Xếp hạng A

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên BCTC năm đã kiểm toán của Ngân hàng C

-43-

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

4.1. Kết luận

Nội dung phân tích chi tiết qua ba tình huống nêu tại Chương 3 cho thấy, tình trạng tài chính

của các NHTM phản ánh qua BCTC được lập theo VAS bị bóp méo, không sát với thực tế

và kém chính xác hơn so với số liệu được trình bày trong BCTC được lập theo IFRS. Một

số nguyên nhân đã được rút ra từ ba NHTM đại diện như sau.

Thứ nhất, chênh lệch kết quả đánh giá NHTM theo CAMELS xuất phát từ những điểm khác

biệt chính liên quan đến soạn lập, trình bày báo cáo tài chính của NHTM giữa hai hệ thống

VAS và IFRS về cách thức ghi nhận, trình bày các khoản mục tài sản tài chính và dự phòng

tương ứng. Cụ thể, IAS/IFRS yêu cầu các tài sản tài chính nói chung phải được trình bày

theo giá trị hợp lý (điều chỉnh thường xuyên theo sự biến động của các yếu tố có liên quan

trên thị trường) trong khi VAS lại hướng theo phương pháp giá gốc (giá giao dịch ban đầu)

nên thông tin về thực trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh trên báo cáo được lập

theo chuẩn mực quốc tế phản ánh chính xác hơn tình trạng thực tế tại mọi thời điểm của các

NHTM. Đây cũng chính là một trong những lý do mà các tổ chức quốc tế đề cập đến khi

phân tích về mức độ không đáng tin cậy của số liệu tỷ lệ nợ xấu được công bố rộng rãi và

triển vọng tín nhiệm của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua7.

Thứ hai, sự can thiệp của NHNN và các cơ quan Chính phủ thông qua các văn bản yêu

cầu/cho phép có sự đối xử đặc biệt đối với các khoản cho vay, ứng trước, đầu tư tài chính

vào một số tổ chức, doanh nghiệp nhất định đã góp phần che giấu một phần thực trạng tài

chính của các NHTM. Ví dụ về Tập đoàn Vinashin đã phân tích trong tình huống Ngân hàng

A khá tương đồng với trường hợp các khoản vay của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai tại các

ngân hàng như BIDV, Eximbank, VPBank được NHNN cho phép cơ cấu lại nợ nhưng các

NHTM cho vay không phải chuyển nhóm nợ xấu trên BCTC theo VAS mặc dù khách hàng

vay đã được nhận định là không đủ khả năng trả nợ. Chính điều này đã làm cho tỷ lệ nợ xấu

và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên BCTC được lập theo VAS có một khoảng cách

không nhỏ so với số liệu phản ánh trên BCTC được lập theo IFRS hay thực trạng chất lượng

tài sản của NHTM.

7 Nội dung đã được đề cập trong phần Bối cảnh chính sách ở Chương 1.

-44-

Thứ ba, chính sách đề ra tỷ lệ nợ xấu mục tiêu 3% kết hợp thúc đẩy bán nợ cho VAMC song

song với nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cũng góp phần không nhỏ làm bóp méo tình trạng

tài chính của các ngân hàng được phản ánh trên các BCTC theo VAS. Cụ thể, để đáp ứng

yêu cầu về tỷ lệ nợ xấu mà NHNN đề ra, Ngân hàng C cũng như hầu hết tất cả các NHTM

ở Việt Nam trong thời gian qua đều có động thái nỗ lực bán lượng lớn nợ xấu cho VAMC

và thường xuyên đệ đơn lên NHNN xin phê duyệt nới hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng

năm mặc dù các khoản nợ xấu đã bán hoặc đang nằm trên sổ sách chưa có dấu hiệu khả quan

về khả năng thu hồi8. Tuy nhiên, đối với BCTC theo IFRS, do các điều kiện ràng buộc về

đối tượng chịu rủi ro, trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu đã bán không hoàn toàn thuộc về

VAMC nên danh mục tín dụng của các NHTM vẫn phải bao gồm các khoản nợ xấu này. Do

đó, chất lượng tài sản trên BCTC theo IFRS luôn có sự khác biệt, theo chiều hướng tệ hơn,

so với BCTC theo VAS.

Với những nguyên nhân nêu trên, tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, dự phòng

giảm giá tài sản tài chính theo VAS thường thấp hơn số liệu theo IFRS, kéo theo kết quả

kinh doanh trên báo cáo VAS có thể lãi trong khi báo cáo IFRS thường đưa ra số lỗ. Hệ quả

tiếp sau chính là mức vốn chủ sở hữu thực của NHTM theo IFRS thường thấp hơn. Và theo

đó, kết quả đánh giá tình hình tài chính của NHTM dựa trên các chỉ tiêu định lượng của hệ

thống CAMELS khi sử dụng số liệu được báo cáo theo IFRS là xấu hơn nhiều so với khi sử

dụng dữ liệu đầu vào là báo cáo theo VAS. Ngoài ra, sự tồn tại các vấn đề nêu trên còn có

thể gây cản trở quá trình cải cách, hiện đại hoá các NHTM theo hướng tiệm cận các thông

lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng ban

hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2012 đã đề ra. Trong bối cảnh

các NHTM ở nhiều nước trên thế giới đã áp dụng các thông lệ quản trị ngân hàng theo Basel

III, 10 NHTM được chỉ định áp dụng thí điểm Basel II từ tháng 2/2016 và từ năm 2018 là

toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam sẽ mất khá nhiều công sức, chi phí để bổ sung nguồn

lực tài chính, nhân lực vừa theo dõi, lập báo cáo theo VAS vừa xây dựng nguồn dữ liệu, lập

báo cáo theo chuẩn mực quốc tế. Thời gian để đạt được mức độ bền vững và năng lực cạnh

tranh đủ để sánh vai với các NHTM trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung của các

8 Thông tin về tổng dư nợ bán cho VAMC thường thể hiện rất rõ trong báo cáo thường niên của các NHTM và thông tin về việc phê duyệt nới hạn mức tăng trưởng tín dụng của NHNN được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.

-45-

NHTM Việt Nam theo đó cũng có thể bị kéo dài hơn. Do vậy, nếu NHNN và các cơ quan

hữu quan không nhanh chóng thay đổi chính sách can thiệp hiện tại đồng thời chậm ban hành

các chính sách nhằm thay đổi quy định chung trong soạn lập và tính toán số liệu báo cáo của

các NHTM, sự mất an toàn cũng như khả năng tài chính yếu kém của hệ thống ngân hàng

Việt Nam hiện không minh bạch hoàn toàn và chỉ bị lộ diện khi nguy cơ đổ vỡ không còn

khả năng ẩn giấu.

4.2. Khuyến nghị

Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát mức độ an toàn và vững mạnh tài chính

của các tổ chức tài chính nói chung, các NHTM nói riêng tại Việt Nam, trong thời gian tới,

các cơ quan hữu quan nên thực hiện một số chính sách như dưới đây.

Thứ nhất, trước mắt NHNN nên yêu cầu tất cả các NHTM lập song song hai bộ báo cáo tài

chính theo VAS và IFRS đồng thời định kỳ nộp các báo cáo tự đánh giá theo quy định của

Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN tương ứng số liệu được trình bày trong hai bộ báo cáo

nêu trên. Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ mục tiêu hoà nhập với hệ thống tài chính toàn cầu và

giảm thiểu khối lượng báo cáo mà các NHTM phải soạn lập, NHNN cần nhanh chóng phối

hợp với các bộ ban ngành chuyên môn cũng như các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn tài

chính, kiểm toán độc lập, các trường đại học, các viện nghiên cứu,… thiết lập lộ trình áp

dụng hệ thống chuẩn mực kế toán IFRS phù hợp với thực trạng của hệ thống các tổ chức tài

chính ở Việt Nam hiện nay. Lộ trình này cũng nhất thiết phải gắn liền với lộ trình triển khai

Basel II nhằm đảm bảo tính thống nhất trong các chuẩn mực, thông lệ quản trị được áp dụng

đồng thời đạt được mục tiêu phát triển hệ thống NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn, phù

hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế vào năm 2020 như Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức

tín dụng ban hành kèm Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01 tháng 03 năm 2012 đã đề ra. Để

việc triển khai áp dụng đại trà Basel II từ năm 2018 theo kế hoạch, trong năm 2016 và 2017,

NHNN nên yêu cầu các NHTM áp dụng các IFRS/IAS có liên quan đến việc xác định, ghi

nhận giá trị hợp lý cho các khoản mục tài sản và công nợ đồng thời thay đổi các tiêu chí

đánh giá các yếu tố trong Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN theo hướng sát hơn với hệ thống

CAMELS đang được các nước trên thế giới áp dụng. Đây sẽ là bước đệm để tất cả các

NHTM bắt đầu triển khai áp dụng toàn bộ IFRS trong soạn lập, trình bày BCTC và quản trị

rủi ro theo Basel II vào năm 2018 được thuận lợi hơn.

-46-

Thứ hai, NHNN và Chính phủ không nên tiếp tục ban hành các công văn chỉ đạo thể hiện

sự ưu tiên đối với khối doanh nghiệp nhà nước hay bất kỳ đối tượng đặc biệt nào khác trong

việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Thay vào đó, NHNN nên yêu cầu

các NHTM phân loại đúng, đủ tất cả các khoản nợ xấu và phối hợp cùng các bộ, ban ngành

liên quan đế tích cực xử lý các khoản nợ quá hạn đã giải ngân cho các doanh nghiệp hoạt

động kém hiệu quả đồng thời lên kế hoạch khắc phục hậu quả phát sinh.

Thứ ba, để tránh việc các NHTM chạy theo mục tiêu tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, che giấy tình

trạng thực thông qua thúc đẩy hoạt động bán nợ cho VAMC kết hợp tăng trưởng dư nợ tín

dụng như hiện nay và cải thiện về bản chất danh mục tín dụng của hệ thống ngân hàng,

NHNN nên yêu cầu các NHTM tự lựa chọn mức tỷ lệ nợ xấu mục tiêu phù hợp với tình trạng

hiện tại của họ đồng thời báo cáo các phương án, tiến độ phối hợp cùng VAMC làm việc với

doanh nghiệp nhằm thu hồi càng sớm càng tốt các khoản nợ quá hạn. Thời gian áp dụng

chính sách này cần được cân nhắc để phù hợp với lộ trình áp dụng IFRS cho toàn hệ thống

ngân hàng.

Ngoài ra, NHNN cần giám sát chặt chẽ việc phân loại nợ theo Thông tư 02 đồng thời yêu

cầu các NHTM báo cáo số liệu phân loại nợ của danh mục tín dụng bao gồm cả các khoản

nợ xấu đã bán cho VAMC. Bên cạnh đó, NHNN nên phối hợp với các công ty kiểm toán

độc lập có uy tín, kiểm toán/thanh tra nhà nước tiến hành rà soát thường xuyên kết quả báo

cáo của các NHTM để nắm rõ thực trạng, mức độ tốt/xấu thực tế của mỗi ngân hàng.

-47-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Adams, Hugh A. và Đỗ Thuỳ Linh (2003), Hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam - Dự

định và Mục tiêu so với Chuẩn mực Kế toán Quốc tế, Tập đoàn Đầu tư ACW.

2. Đề án 254 (2012), Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015,

ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ.

3. Trần Giang (2015), “Đằng sau quyết định “nới room” tín dụng của 12 ngân hàng”, Trang

thông tin điện tử Stockbiz.vn, truy cập ngày 04/04/2016 tại địa chỉ:

http://www.stockbiz.vn/NewsTools/Print.aspx?newsid=587531

4. Greuning, Hennie Van và Koen, Marius (2002), Các Chuẩn mực Kế toán Quốc tế - tài

liệu Hướng dẫn thực hành, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Thanh Hà (2015), “Năm 2015: Tiếp tục tái cơ cấu một số tổ chức tín dụng”, Kinh tế và

Dự báo - Cơ quan báo chí của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, truy cập ngày 16/01/2016 tại địa chỉ:

http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/101-2267-nam-2015--tiep-tuc-tai-co-cau-mot-so-to-chuc-

tin-dung.html

6. Lê Doãn Hoài (2012), “Chuẩn mực kế toán toàn cầu - xu thế đi lên tất yếu của các quốc

gia”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán, truy cập ngày 08/07/2015 tại địa chỉ:

http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=495

7. Nguyễn Thị Minh Huệ và cộng sự (2010), Những vấn đề tài chính sau khủng hoảng ở Việt

Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Liên Hương (2010), Phân tích ảnh hưởng của sự khác biệt giữa Chuẩn mực

Kế toán Việt Nam với Chuẩn mực Kế toán quốc tế đến quyết định của nhà đầu tư, Luận văn

Thạc sỹ Kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Trần Xuân Nam (2015), Kế toán tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội.

10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2008), Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN về

ban hành Quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần.

11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2012), Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức

thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2012.

-48-

12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2015a), Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức

thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2015.

13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNN (2015b), “Vấn đề áp dụng chuẩn mực kế toán

quốc tế đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam, truy cập ngày 17/08/2015 tại địa chỉ:

http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/pages/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet;jsessionid=cp5pWG

yPBFdTjnNjnG58WhLvt1XpzpP3tPvRb5y0jgpvWDt2Jz8k!349592408!517645393?dDoc

Name=CNTHWEBAP01162524878&dID=43280&_afrLoop=20833084611967835&_afr

WindowMode=0&_afrWindowId=null#%40%3FdID%3D43280%26_afrWindowId%3Dn

ull%26_afrLoop%3D20833084611967835%26dDocName%3DCNTHWEBAP011625248

78%26_afrWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3D64wakg5zm_4

14. Ngân hàng Thế giới (2014), Báo cáo Đánh giá Khu vực Tài chính Việt Nam.

15. Lê Hoàng Phúc (2013), “Tác động của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đến hệ thống

kế toán các quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học

Kiểm toán, truy cập ngày 20/07/2015 tại địa chỉ:

http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=553

16. Nguyễn Quang (2012), “Xếp hạng ngân hàng: Vừa làm xong đã... nhận lỗi”, Báo Đầu tư

Chứng khoán, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-

te/xep-hang-ngan-hang-vua-lam-xong-da-nhan-loi-24719.html

17. Hà Tâm (2012), “Phân loại ngân hàng: ấm ức thứ hạng”, Trang thông tin điện tử của

Công ty Tài chính Cổ phần Sông Đà, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

http://www.sdfc.com.vn/xem-tin-tuc/phan-loai-ngan-hang-am-uc-thu-hang.html

18. Đặng Quốc Tuấn (2012), Trình bày báo cáo tài chính theo chuẩn mực báo cáo tài chính

quốc tế (IFRS), Bài giảng cập nhật kiến thức hành nghề kế toán ngày 30/10/2012.

19. Đinh Thị Thanh Vân (2012), “So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro

tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng, Số 19 - Tháng 10/2012.

Tiếng Anh

20. ADB (2014), Vietnam: Financial Sector Assessment, Strategy, and Roadmap.

-49-

21. Anh Tuan Nguyen và Gong, Guangming (2012), “Vietnamese Accounting Reform and

International Convergence of Vietnamese Accounting Standards”, International Journal of

Business and Management, Vol. 7, No. 10.

22. Barth, Mary E. et al (2007), “International Accounting Standards and Accounting

Quality”, Research Paper No. 1976 of Standford Graduate School of Business, truy cập ngày

17/08/2015 tại địa chỉ:

http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=688041&rec=1&srcabs=1585404&alg

=1&pos=4

23. Barth, Mary E. et al (2012), “Are IFRS-based and US GAAP-based Accounting Amounts

Comparable?”, Journal of Accounting & Economics, Vol. 54, Issue 1, pp. 68-93, truy cập

ngày 17/08/2015 tại địa chỉ: http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1585404

24. Basel Committee on Banking Supervision (2006), “Sound credit risk assessment and

valuation for loans”, Trang thông tin điện tử của Bank for International Settlements, truy

cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: http://www.bis.org/publ/bcbs126.htm

25. Duc Phan et al (2013), Perceptions of Accounting Professionals towards International

Financial Reporting Standards (IFFRS) in Developing Country: Evidence from Vietnam,

Proceeding of 3rd Global Accounting, Finance and Economics Conference 5-7 May, 2013,

Rydges Melbourne, Australia, ISBN 978-1-922069-23-8.

26. EY (2015), “Basel Committee proposes guidance on accounting for expected credit

losses”, Trang thông tin điện tử chính thức của EY, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/IFRS_Developments_Issue_100:_Basel_Co

mmittee_proposes_guidance_on_accounting_for_expected_credit_losses/$File/Devel100-

FI-ECL-Feb2015.pdf

27. Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC (2014), “5000 - Statements of Policy -

Uniform Financial Institutions Rating System”, Trang thông tin điện tử của FDIC, truy cập

ngày 20/12/2015 tại địa chỉ: https://www.fdic.gov/regulations /laws/rules/5000-900.html

28. Hung, Mingyi và Subramanyam, K. R. (2007), “Financial Statement Effects of Adopting

International Accounting Standards: The Case of Germany”, Review of Accounting Studies,

truy cập ngày 17/08/2015 tại địa chỉ: http://ssrn.com/abstract=622921

-50-

29. Kalra, Sanjay (2012), Vietnam’s Financial Sector, Presentation for Industrial College of

the Armed Forces (ICAF) - National Denfense University in Hanoi on 8th May, 2012.

30. Moody’s (2012), “Rating Action: Moody’s downgrades eight Vietnamese banks”, Trang

thông tin điện tử của Moody’s Investors Service, Inc., truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

https://www.moodys.com/research/Moodys-downgrades-eight-Vietnamese-banks--

PR_255975

31. National Credit Union Administration - NCUA (2007), “Letter to Credit Unions No. 07-

CU-12 about CAMEL Rating System”, Trang thông tin điện tử của NCUA, truy cập ngày

20/12/2015 tại địa chỉ:

https://www.ncua.gov/Resources/Documents/LCU2007-

12.pdf#search=CAMELS%20rating%20syst%C3%A9m

và https://www.ncua.gov/Resources/Documents/LCU2007-12ENC.pdf

32. National Credit Union Administration - NCUA (2015), “Review of NCUA’s Interest

Rate Risk Program - Report No. OIG-15-11”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

https://www.ncua.gov/About/leadership/Documents/OIG/OIG201511

ReviewNCUAsIRRProgram.pdf#search=CAMELS%20rating%20systems

33. Wikipedia (2015), “CAMELS rating system”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

https://en.wikipedia.org/wiki/CAMELS_rating_system

34. World Bank - WB (2010a), “The Use of IFRS for Prudential and Regulatory Purposes -

Collective assessment of loan impairment”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

http://siteresources.worldbank.org/EXTCENFINREPREF/Resources/4152117-

1270824012230/6954188-1277709975960/2_IFRS_seminar_collective_assessment.pdf

35. World Bank - WB (2010b), “The Use of IFRS for Prudential and Regulatory Purposes -

Loan loss provisioning”, truy cập ngày 20/12/2015 tại địa chỉ:

http://siteresources.worldbank.org/EXTCENFINREPREF/Resources/4152117-

1270824012230/IFRS_Seminar_Loan_Loss_Provisioning.pdf

-51-

PHỤ LỤC: PHÂN HẠNG KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TỪNG BỘ

PHẬN CẤU THÀNH CAMELS THEO NCUA (2007) VÀ FIDC (2014)

Bảng 1: Phân hạng mức độ đủ vốn (C)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Thừa đủ vốn so với mức yêu cầu của luật định. Các rủi ro liên quan đến suy

giảm chất lượng tài sản, thu nhập trong kỳ tới hoặc rủi ro tín dụng, rủi ro lãi

suất không làm ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn.

Hạng 2 Vừa đủ vốn so với mức yêu cầu của luật định, tương xứng với rủi ro trong hiện

tại và/hoặc trong tương lai nhưng không mạnh bằng Hạng 1. TCTD có khả

năng không gặp phải các vấn đề trọng yếu liên quan đến chất lượng tài sản,

thu nhập giảm sút hay rủi ro lãi suất mà có thể ảnh hưởng đến khả năng duy

trì mức “đủ vốn” theo yêu cầu luật định.

Hạng 3 Thiếu vốn so với mức yêu cầu của luật định. TCTD đang tiềm ẩn những vấn

đề liên quan đến chất lượng tài sản, giảm sút thu nhập và/hoặc nguy cơ rủi ro

tín dụng/lãi suất có thể ảnh hưởng đến khả năng duy trì mức vốn tối thiểu theo

yêu cầu.

Hạng 4 Thiếu vốn đáng kể so với mức yêu cầu của luật định. Những vấn đề liên quan

đến chất lượng tài sản, giảm sút thu nhập và/hoặc nguy cơ rủi ro tín dụng/lãi

suất hiện tại sẽ không làm cho TCTD rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng

trong 12 tháng tiếp theo.

Hạng 5 Thiếu vốn trầm trọng, có vấn đề đáng kể về chất lượng tài sản, xu hướng tiếp

tục bị lỗ và/hoặc rủi ro tín dụng/lãi suất ở mức cao đủ khiến TCTD gặp khó

khăn để đảm bảo khả năng thanh khoản trong 12 tháng tiếp theo.

Nguồn: NCUA (2007)

Bảng 2: Phân hạng chất lượng tài sản (A)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro tốt. Các điểm yếu xác định được

là không đáng kể và rủi ro tổn thất là vừa phải so với mức độ đảm bảo an toàn

vốn và khả năng của Ban lãnh đạo. Mối quan tâm giám sát ở mức tối thiểu.

-52-

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 2 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro khá tốt. Rủi ro tổn thất tương

xứng với mức độ đảm bảo an toàn vốn và khả năng của Ban lãnh đạo. Mối

quan tâm giám sát ở mức giới hạn.

Hạng 3 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức trung bình. Các xu hướng

trong tương lai có thể là ổn định hoặc suy giảm chất lượng tài sản hoặc gia

tăng rủi ro tổn thất. Chất lượng hiện tại của các nhóm tài sản và những điểm

yếu khác đòi hỏi sự giám sát khá chặt chẽ và cần tăng cường các biện pháp

quản lý tín dụng và quản trị rủi ro.

Hạng 4 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức kém. Nếu không được

kiểm soát một cách hợp lý thì mức độ rủi ro và các vấn đề gặp phải của khối

tài sản đang nắm giữ có thể tạo ra một khoản lỗ tiềm tàng và tác động đáng kể

tới khả năng tồn tại của TCTD.

Hạng 5 Chất lượng tài sản và hoạt động quản trị rủi ro ở mức yếu đe doạ tới khả năng

tồn tại của TCTD.

Nguồn: NCUA (2007)

Bảng 3: Phân hạng chất lượng quản trị (M)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Bộ máy quản lý tốt, có khả năng giải quyết một cách kịp thời và thành công

các rủi ro hiện tại cũng như có thể phát sinh trong tương lai. Các chương trình

quản trị rủi ro phù hợp với quy mô, độ phức tạp cũng như bản chất của các rủi

ro mà TCTD phải đối mặt. Các rủi ro trọng yếu được xác định, đo lường, giám

sát và kiểm soát hiệu quả, thống nhất.

Hạng 2 Bộ máy quản lý ở mức thoả đáng so với quy mô, độ phức tạp cũng như bản

chất của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt, đủ khả năng giải quyết kịp

thời và thành công các vấn đề hay rủi ro đang/sẽ nảy sinh. Nhìn chung, các rủi

ro trọng yếu được xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát hiệu quả. Một số

điểm yếu có tồn tại nhưng không trọng yếu.

-53-

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 3 Bộ máy quản lý cần cải thiện thêm để tương xứng với quy mô, độ phức tạp

cũng như bản chất của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt. Các rủi ro trọng

yếu không được xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát đầy đủ.

Hạng 4 Bộ máy quản lý còn ở mức kém so với quy mô, độ phức tạp cũng như bản chất

của các rủi ro mà TCTD đang phải đối mặt. Các vấn đề nảy sinh và rủi ro tổn

thất của TCTD vượt quá mức thông thường. Các rủi ro trọng yếu không được

xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát đầy đủ đòi hỏi phải có động thái kịp

thời từ Ban lãnh đạo để bảo vệ tình trạng khoẻ mạnh cho TCTD. Ban lãnh đạo

hoặc Ban Điều hành có thể cần thiết phải thay thế hoặc tăng cường.

Hạng 5 Chất lượng của bộ máy quản lý quá kém, không đủ khả năng giải quyết, sửa

chữa các vấn đề phát sinh cũng như thực hiện các hoạt động quản trị rủi ro

phù hợp. Các rủi ro trọng yếu không được xác định, đo lường, giám sát và

kiểm soát đầy đủ đe doạ sự tồn tại của TCTD. Ban lãnh đạo hoặc Ban Điều

hành cần phải được thay thế hoặc tăng cường.

Nguồn: NCUA (2007)

Bảng 4: Phân hạng chất lượng lợi nhuận (E)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Chất lượng lợi nhuận tốt, thu nhập thừa đủ để tăng cường vốn và bù đắp chi

phí dự phòng sau khi xem xét tới chất lượng tài sản thực tế, khả năng tăng

trưởng cũng như các yếu tố rủi ro.

Hạng 2 Chất lượng lợi nhuận đạt yêu cầu, thu nhập đủ để tăng cường vốn và bù đắp

chi phí dự phòng sau khi xem xét tới chất lượng tài sản thực tế, khả năng tăng

trưởng cũng như các yếu tố rủi ro.

Hạng 3 Chất lượng lợi nhuận cần được cải thiện, thu nhập có thể không đủ để tăng

cường vốn và bù đắp chi phí dự phòng trong tương lai phù hợp với điều kiện

tổng thể, khả năng tăng trưởng và các yếu tố rủi ro của TCTD.

Hạng 4 Chất lượng lợi nhuận kém, thu nhập không đủ để tăng cường vốn và bù đắp

chi phí dự phòng trong tương lai phù hợp với điều kiện tổng thể, khả năng tăng

trưởng và các yếu tố rủi ro của TCTD.

-54-

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 5 Chất lượng lợi nhuận quá kém đe doạ tới khả năng tồn tại của các TCTD.

Nguồn: NCUA (2007)

Bảng 5: Phân hạng khả năng thanh khoản (L)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Khả năng thanh khoản được đảm bảo và việc thực thi các hoạt động ALM đạt

hiệu quả tốt, phù hợp với quy mô, độ phức tạp và bản chất các rủi ro mà TCTD

phải đối mặt. Khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên

trong lẫn bên ngoài là ở mức tối thiểu.

Hạng 2 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM đạt yêu cầu. Một

số điểm yếu về ALM có thể tồn tại và khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh

hưởng bởi các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài ở mức vừa phải.

Hạng 3 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM cần phải cải thiện.

Khả năng mức độ an toàn vốn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong lẫn bên

ngoài ở mức đáng kể, một số rủi ro không được kiểm soát đầy đủ.

Hạng 4 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM kém, TCTD có thể

không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản khiến mức độ an toàn vốn khả năng

cao sẽ bị ảnh hưởng.

Hạng 5 Khả năng thanh khoản và việc thực thi các hoạt động ALM quá kém đe doạ

đến sự tồn tại của TCTD.

Nguồn: NCUA (2007)

Bảng 6: Phân hạng mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S)

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 1 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường được kiểm soát tốt, khả năng các chỉ số lợi

nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức tối thiểu. Hoạt động quản trị rủi

ro mang lại hiệu quả và phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh

doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.

-55-

Hạng Tình trạng của TCTD

Hạng 2 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường được kiểm soát đầy đủ, khả năng các chỉ

số lợi nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức vừa phải. Hoạt động quản

trị rủi ro đạt yêu cầu và phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh

doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.

Hạng 3 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường cần được cải thiện, khả năng các chỉ số lợi

nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức đáng kể. Hoạt động quản trị rủi

ro phải được cải thiện để phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động

kinh doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.

Hạng 4 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường là không thể chấp nhận, khả năng các chỉ

số lợi nhuận và tình trạng vốn bị ảnh hưởng ở mức tiềm năng cao. Hoạt động

quản trị rủi ro không phù hợp với quy mô, độ phức tạp trong hoạt động kinh

doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.

Hạng 5 Mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường là không thể chấp nhận, các chỉ số lợi

nhuận và tình trạng vốn sẽ bị ảnh hưởng và đe doạ tới sự tồn tại của TCTD.

Hoạt động quản trị rủi ro hoàn toàn không phù hợp với quy mô, độ phức tạp

trong hoạt động kinh doanh cũng như khả năng chấp nhận rủi ro của TCTD.

Nguồn: FDIC (2014)