BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU VŨ MINH QUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU VŨ MINH QUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG MAI
HÀ NỘI - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Lưu Vũ Minh Quân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DVVL : Dịch vụ việc làm
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
ILO : Tổ chức lao động Quốc tế
LHPN : Liên hiệp phụ nữ
LLLĐ : Lực lượng lao động
PTNT : Phát triển nông thôn
TNCS : Thanh niên Cộng sản
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TTLĐ : Thị trường lao động
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Đơn vị hành chính, mật độ dân số, dân số nông thôn ................... 49
Bảng 2.2: Lao động làm việc trong các ngành tạo việc làm mới .................. 50
Bảng 2.3: Biểu đồ thể hiện số người lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo
từ nguồn ngân sách Nhà nước qua các năm …………………….......…….....54
Bảng 2.4: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ lao động được đào tạo nghề tỉnh Thái Nguyên
năm 1998 và 2008…………………………………………………...........….60
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................. ........................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC
LÀM.......................................................................................................................................9
1.1. Tổng quan về việc làm ...........................................................................9
1.2. Thực hiện chính sách tạo việc làm .......................................................18
1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở một số địa phương ..39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ThỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CỦA
TỈNH THÁI NGUYÊN
............................................................................................ 45
2.1.Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội tỉnh Thái Nguyên ........45
2.2. Thực trạng dân số, lao động và việc làm của tỉnh Thái Nguyên............49
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên ....50
2.4. Những tồn tại và nguyên nhân..............................................................64
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TẠO VIỆC LÀM CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN............................................... 69
3.1. Mục tiêu, phương hướng thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái
nguyên
...................................................................................................69
3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2020 ................................................................................70
3.3. Một số kiến nghị ..................................................................................92
KẾT LUẬN
.............................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 95
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và tạo việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối
với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam. Tạo việc làm cho người lao động trong sự phát triển
của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn
lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tận dụng được lợi thế
nguồn nhân lực trẻ và năng động để phát triển theo kịp các nước trên thế giới.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nguồn nhân
lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp
ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm
cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần nâng cao đời sống của
người dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 nêu rõ: “Thực hiện tốt các chính sách
về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy
cao nhất năng lực của người lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài...”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu
rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết
cung – cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động… Tỷ lệ hộ nghèo
giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%... Phát triển đa
dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập”.
Hệ thống pháp luật kinh tế tiếp tục được hoàn thiện (Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thương mại,...) đã góp phần giải phóng
1
sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển. Bộ luật Lao
động sửa đổi, bổ sung, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục nghề nghiệp,
Luật Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm
đã hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường cơ
hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các chính sách tín dụng ưu đãi
cho sản xuất, kinh doanh được ban hành. Có gần 20 chính sách, cơ chế tín
dụng cho vay thông qua các chương trình, tổ chức, hội đoàn thể. Với hệ thống
chính sách việc làm như vậy đã tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, cơ hội có
việc làm của người lao động tăng lên, giải tỏa sức ép về việc làm cho người
lao động trong bối cảnh lực lượng lao động tham gia tìm kiếm việc làm ngày
càng tăng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở
Thái Nguyên phát triển rất mạnh mẽ, thu hút một lực lượng lao động lớn,
không chỉ của Thái Nguyên mà còn từ các địa phương khác về làm việc. Tuy
nhiên, ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và
vai trò điều tiết của nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động tại Thái
Nguyên còn hạn chế như cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn thực hiện pháp luật về lao động, việc
làm và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ và chính điều này đã
gây áp lực cho vấn đề giải quyết và tạo việc làm trên cả nước nói chung và
Thái Nguyên nói riêng. Hệ thống chính sách tạo việc làm còn nhiều bất cập và
chưa đồng bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Thái Nguyên vẫn còn hạn
chế, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cung- cầu về lao
động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Thái Nguyên
hiện nay.
2
Nhằm đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm, tác
giả đã chọn đề tài: "Thực hiện chính sách tạo việc làm trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên"làm luận văn để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
việc thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía
cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Trần Hữu Trung (chủ biên):"Về Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp
cận chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện
nay. Từ đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm
trong công cuộc CNH, HĐH.
- Đề tài KX 04. Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách giải
quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần do TS. Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm đã nghiên cứu các nội dung
sau: Xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách giải quyết
việc làm của Việt Nam trong điều kiện chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế và đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế; Đề xuất mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp
nhằm đảm bảo thực hiện chính sách quốc gia xúc tiến việc làm.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá: cơ hội
và thách thức đối với lao động Việt Nam", NXB Lao động - xã hội, Hà Nội 2002. Các
tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động và các vấn đề xã
hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân lực, lao động và việc
làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách
thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó, đề ra các
giải pháp đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
3
- TS. Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", NXB Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ
việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001- 2010.
- Cuốn “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị
hóa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Nguyễn Tiệp đã nêu những
vấn đề về những đặc trưng cơ bản của nguồn lực nông thôn trong quá trình đô
thị hóa tác động chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Dòng lao động di
chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm có lao động nhập cư và sinh sống
làm việc tại các tỉnh và lao động nông thôn đến tỉnh làm việc mang tính thời
vụ. Các chính sách hỗ trợ hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo
nhân lực nông nghiệp nông thôn từ nhà nước còn hạn chế.
- Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng
giai đoạn 2001- 2010" của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và xã hội, số
III- 2001; "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh
Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005. Trong đó các tác giả đi
sâu vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và
bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế...
- Chính sách việc làm ở Việt Nam: thực trạng và định hướng hoàn thiện
của PGS.TS Trần Việt Tiến, tạp chí Kinh tế và Phát triển. Trong đó tác giả đi
sâu vào các vấn đề như thực trạng chính sách việc làm ở nước ta; Đánh giá
chính sách việc làm ở nước ta và Định hướng hoàn thiện chính sách việc làm
ở nước ta tới năm 2020.
4
- Chính sách việc làm: thực trạng và giải pháp. Ths. Nguyễn Thúy Hà,
Viện nghiên cứu lập pháp đề cập tới vai trò, thực trạng, phương hướng giải
quyết vấn đề việc làm và hệ thống chính sách việc làm, đánh giá chính sách
việc làm, giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm.
- Thông tin chuyên đề của Viện nghiên cứu lập pháp, trung tâm thông
tin khoa học "Pháp luật việc làm và một số đề xuất, kiến nghị xây dựng luật",
- Bùi Thị Thúy (2005) "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải
Dương hiện nay"; luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm
về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích
thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải
Dương hiện nay.
- Lưu Văn Hùng (2011), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
ở Đà Nẵng, Luận Văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp.
- Nguyễn Thị Lan Hương (2002), "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội. Tác giả đi từ
việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001- 2010.
- Bài viết của TS. Đỗ Phú Hải (2014), "Chính sách lao động - việc làm:
Thực trạng và giải pháp", Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết tập trung trình bầy những kết quả nghiên
cứu về vấn đề lao động việc làm và các trở ngại chính sách, trên cơ sở mục
tiêu của Đảng tại Đại hội XI đã xác định đưa ra những giải pháp và công cụ
5
chính sách nhằm cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để
phát triển nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề
chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên. Xuất phát từ lý do trên học viên
chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luận văn thực hiện có sự
kế thừa, phát triển những thành quả của những tài liệu liên quan trước đó để
đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế và chủ chương phát triển kinh tế - xã của tỉnh Thái Nguyên trong những
năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về thực hiện
chính sách tạo việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tạo
việc làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện
thực hiện chính sách tạo việc làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tạo việc làm.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách tạo việc
làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện các nội dung chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm từ năm 2012
đến năm 2015 từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
6
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học để phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về Thực
hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên
- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Sử dụng phương pháp logic kết
hợp với phương pháp lịch sử. Thực hiện phương pháp này là quá trình xem
xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, từ đó vạch ra bản
chất, khuynh hướng vận động của lịch sử. Bên cạnh đó luận văn sử dụng
phương pháp điều tra, khảo sát thực tế. Trong luận văn phương pháp này
được sử dụng để thu thập, nắm bắt thông tin thực tế và lấy số liệu trực
tiếp từ các đơn vị quản lý tại địa phương, kết hợp số liệu thứ cấp hiện có
liên quan đến đề tài nghiên cứu để phân tích, đánh giá thực trạng và đưa
ra dự báo. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh
và phương pháp phỏng vấn sâu (thông qua phỏng vấn chuyên gia và cán
bộ chuyên quản).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính
sách tạo việc làm ở Thái Nguyên để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
Kết quả góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ
quan, ban ngành của tỉnh tham khảo trong quá trình thực hiện chính sách tạo
việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, từ phân tích thực trạng thực hiện chính sách việc làm
ở tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2015, luận văn chỉ ra những kết quả đạt
7
được, những mặt hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của những hạn chế đó, đề
xuất các phương hướng giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tạo việc làm
ở tỉnh Thái Nguyên. Đây là những đánh giá và đề xuất có căn cứ lý luận và
thực tiễn xác đáng và có tính khả thi. Vì vậy, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo tốt cho tỉnh Thái Nguyên nói chung và Sở Lao động – Thương
binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên nói riêng và các tỉnh có điều kiện tương tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách tạo việc làm
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm của
tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện thực hiện chính
sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
1.1. Tổng quan về việc làm
1.1.1. Lao động
Lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó
là hoạt động cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Bản thân cá nhân
mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định.
Mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất và xã hội với
tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được
gọi là chỗ làm hay việc làm. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người với
con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng sự
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự
trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài
thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời
làm thay đổi bản tính của chính nó [22, tr. 230].
Với ý nghĩa đó, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong
mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người lao động cần có việc
làm hợp pháp, do đó việc làm là điều kiện để quá trình lao động được diễn ra
và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống
của bản thân con người và của toàn xã hội.
Như vậy, việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản
xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao
động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ
thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện
được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
9
1.1.2. Các quan niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống
xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng
có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người
với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao
động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội
về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế,
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa
yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia,
việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc
làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn
với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi
thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của
một quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi.
Theo Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của Văn phòng lao động
quốc tế lại cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng
trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích
cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy
nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới
được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng
lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền
công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động
mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong
gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận
10
được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong
gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người
có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - nghề
nội trợ.
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là
hợp pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được
coi là bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của
mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm
về việc làm hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con
người - nghề hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Để làm sáng tỏ hơn các quan niệm về việc làm khi nghiên cứu về thực
hiện chính sách việc làm, chúng ta cần nghiên cứu thêm trong mối tương quan
với khái niệm thất nghiệp.
Theo ông Tite Habiyakare, chuyên gia về thống kê lao động, Tổ chức
Lao động Quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khái niệm quốc tế về
thất nghiệp hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay xuất phát
từ Nghị quyết của Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế (ICLS) lần thứ 13
năm 1982. Khái niệm này được sử dụng phần lớn các nước trên thế giới, cả ở
các nền kinh tế phát triển và đang phát triển.Theo tiêu chuẩn quốc tế, “người
thất nghiệp” bao gồm những người ở độ tuổi nhất định mà trong thời gian
khảo sát (thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó (còn gọi là
“Tuần lễ tham khảo”thường dùng trong các phiếu khảo sát và biểu thống kê)
đáp ứng tất cả 3 điều kiện: “không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1
giờ, không làm việc làm công ăn lương lương hoặc việc tự làm), “sẵn sàng
làm việc” và “đang tìm việc”.
Như vậy, “thất nghiệp” là một thái cực trên một dải lực lượng lao động
bao gồm cả những người “thiếu việc làm” và “có việc làm”.
11
Tuy nhiên các tiêu chuẩn quốc tế này đã thay đổi bởi Hội nghị của
ILCS lần thứ 19 tháng 10 năm 2013 với một cách thức thống kê mới. Hệ
thống mới nhằm cải thiện việc đo lường các loại hình việc làm khác nhau, ví
dụ như những công việc tự sản xuất (own use production work), công việc
được trả lương, thực tập không có lương, và việc làm tự nguyện (volunteer
work). Nó đồng thời thu hẹp khái niệm về việc làm để thể hiện tốt hơn những
gì được coi là “việc làm theo định hướng thị trường” (market-oriented job).
Theo định nghĩa mới, những người có việc làm là những người trên 15 tuổi
mà trong một khoảng thời gian ngắn nhất định (thường là 1 tuần hoặc 7 ngày),
có tham gia vào một hoạt động sản xuất ra hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ để
được trả lương hoặc kiếm lợi nhuận. Nói theo cách khác, đó là những người
làm việc ở một công việc được trả lương hoặc một việc tự kinh doanh để kiếm
lợi nhuận trong khoảng thời gian ít nhất là 1 giờ trong giai đoạn khảo sát.
Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ có việc làm đối với
nhiều quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi phần lớn người lao động (
trên 50 %) làm việc trong ngành nông nghiệp tự cung tự cấp với rất ít hoặc
không có sự kết nối với nền kinh tế thị trường. Khi định nghĩa mới được
áp dụng, các cuộc điều tra về thị trường lao động sẽ đo lường được tốt
hơn bộ phận thất nghiệp ở nền kinh tế thị trường (thay vì bị lẫn lộn với
ngành nông nghiệp tự cung tự cấp) và giúp chỉ ra được tình trạng không
sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động (labour
underutilization) trong nền kinh tế.
Việt Nam là một nước ủng hộ mạnh mẽ sự thay đổi về thống kê việc
làm tại Hội nghị ICLS lần thứ 19.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: "Người có việc làm
là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc
12
được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận
được tiền công hay hiện vật" [ 5, tr.47].
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các
khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình
và xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường,
phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Chúng ta đã có khái niệm thống nhất về việc làm được khẳng định
trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi
hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm" [7, tr.163].
Từ quan niệm trên ta thấy: Khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau:
- Là hoạt động lao động của con người.
- Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
- Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo ra khả
năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều
người. Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất
trong lĩnh vực điều tra, nghiên cứu và hoạch định các chính sách về việc làm.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ luật Lao động quy định độ tuổi lao động
là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi
(với nữ).
- Nguồn lao động: Gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, nhưng:
- Đang thất nghiệp
- Đang đi học
13
- Đang làm nội trợ trong gia đình mình.
- Không có nhu cầu làm việc.
- Những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ
hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật Lao động)
- Lực lượng lao động:
Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
- Sức lao động: Theo C.Mác: "...Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong
một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [22, tr.25].
- Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn
quy định cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo.
Mức chuẩn ở Việt Nam: Làm việc ít nhất 16 giờ trong một tuần.
- Người thiếu việc làm:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người
trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho
người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu
việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong
tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước
đó làm việc dưới 160 giờ (20 công) và có nhu cầu làm thêm.
- Người đủ việc làm: Là những người có việc làm với thời gian làm
việc không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần
lễ tham khảo hoặc là những người làm việc dưới giờ chuẩn quy định cho
người đủ việc làm, nhưng không có nhu cầu làm thêm.
Mức chuẩn: Làm việc 40 giờ trở lên trong tuần lễ tham khảo.
14
- Người được giải quyết việc làm: Là những người trong độ tuổi lao
động mà trong 12 tháng qua kể từ thời điểm điều tra đã ký được hợp đồng lao
động theo Bộ luật Lao động và những người tự tạo việc làm.
- Thất nghiệp:
Đối lập với việc làm, thất nghiệp là một tình trạng có tính quy luật của
các nền kinh tế thị trường. Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp.
Theo quan niệm của ILO: "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người
trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm
ở mức tiền công đang thịnh hành" [3, tr.57].
Ở những quốc gia với những hạn chế về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp và các phúc lợi xã hội khác, nhiều người không thể tồn tại nổi nếu bị
“thất nghiệp”. Họ phải tìm kế sinh nhai bằng mọi cách, và thông thường họ
chấp nhận làm những công việc chất lượng kém, trả lương thấp trong nền
kinh tế phi chính thức hoặc chấp nhận những thỏa thuận làm việc một cách
không chính thức. Ngược lại, ở những nước phát triển với hệ thống bảo trợ xã
hội tiên tiến và mức sống cao hơn, người lao động có thể tồn tại trong hoàn
cảnh thất nghiệp và dành thời gian đi tìm những công việc mà họ mong muốn.
Như vậy, việc theo dõi đánh giá lao động ở các nước đang phát triển như Việt
Nam cần có những chỉ số thể hiện được chất lượng việc làm. Chẳng hạn,
những chỉ số này bao gồm tỷ lệ lao động nghèo, tỷ lệ việc làm dễ bị tổn
thương, tỷ lệ nền kinh tế phi chính thức, tỷ lệ ngành nông nghiệp trong số việc
làm, năng suất lao động và lương bình quân. Giải quyết thất nghiệp là một
trong những vấn đề bức xúc trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên mỗi nước có những đặc thù khác nhau.
1.1.3. Một số lý thuyết về tạo việc làm
Cơ chế quản lý lao động, việc làm là một bộ phận cấu thành của cơ chế
quản lý kinh tế, trong đó Nhà nước kết hợp với thị trường nhằm thiết lập quan
15
hệ cung cầu về lao động, việc làm. Để điều tiết, tạo lập việc làm nhằm thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đã hoạch định, các nhà nghiên cứu kinh tế đã
phân tích một số lý thuyết kinh tế trong lĩnh vực việc làm, đó là:
Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes
J.M. Keynes (1883- 1946) là nhà kinh tế người Anh. Tác phẩm nổi
tiếng của ông là cuốn "Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" xuất bản
năm 1936. Trong tác phẩm này, J.M Keynes xem xét việc làm trong mối quan
hệ giữa sản lượng - thu nhập - tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm- việc làm. Theo
ông, trong một nền kinh tế, khi sản lượng tăng, thu nhập tăng, đầu tư tăng thì
việc làm tăng và ngược lại. Tâm lý của quần chúng là khi tổng thu nhập tăng
thì cũng tăng tiêu dùng, nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu
nhập và có khuynh hướng tiết kiệm một phần thu nhập, làm cho cầu tiêu dùng
có hiệu quả hay cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập dẫn đến
một bộ phận hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng không có khả năng bán được. ế
thừa hàng hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng tới quy mô sản
xuất ở chu kỳ tiếp theo, nên việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Mặt khác, trong
nền kinh tế thị trường, khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu quả giới hạn của
tư bản đầu tư có xu hướng giảm sút tạo nên giới hạn chật hẹp về thu nhập của
doanh nhân trong đầu tư tương lai. Doanh nhân chỉ tích cực mở rộng đầu tư
khi hiệu quả giới hạn của tư bản lớn hơn lãi suất. Còn khi hiệu quả giới hạn
của tư bản nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì họ không tích cực đầu tư nên quy
mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn đến việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Theo
Keynes, để tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải tăng tổng cầu của nền kinh
tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản
xuất) để tăng tổng cầu thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của chính
phủ, hoặc thông qua các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư
của tư nhân, của các tổ chức kinh tế xã hội. Keynes còn sử dụng các biện
16
pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp
phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và bù đắp các khoản chi tiêu
của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền kinh tế bằng mọi cách,
kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền kinh tế như: sản
xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế.
Lý thuyết về việc làm của J.M Keynes được xây dựng dựa trên các giả
định đúng với các nước phát triển, nhưng không hoàn toàn phù hợp với các
nước đang phát triển. Bởi vì hầu hết các nước nghèo, nguyên nhân khó khăn
cơ bản để gia tăng sản lượng, tạo việc làm không phải do tổng cầu không đủ
cao. ở các nước đang phát triển, khi tổng cầu tăng sẽ kéo theo tăng giá cả, dẫn
đến lạm phát. Vì thế, biện pháp tăng tổng cầu để tăng quy mô sản xuất, tạo
việc làm không đúng với mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ. Mặt khác, nếu tạo
việc làm cho khu vực thành thị và một số trung tâm công nghiệp bằng cách
tăng tổng cầu sẽ tạo ra làn sóng di dân từ nông thôn ra thành thị và tỷ lệ thất
nghiệp ở đô thị gia tăng. Điều này có thể làm suy giảm việc làm và sản lượng
quốc dân của cả nước.
Mô hình lý thuyết tăng việc làm bằng gia tăng sản lượng quốc dân
Các nước đang phát triển thường có lợi thế về nguồn lao động dồi dào.
Để tăng việc làm, họ thực hiện các biện pháp tối đa hoá mức thu hút lao động
bằng cách tối đa hoá tốc độ tăng trưởng GDP. Theo mô hình này hiệu quả
tăng trưởng kinh tế là kết quả tổng hợp của tăng sản lượng và việc làm chứ
không thuần tuý là năng suất lao động. Các chính sách vĩ mô của Chính phủ
hướng mạnh vào tăng cầu lao động để tăng việc làm.
Lý thuyết về tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Todaro
Lý thuyết của Todaro nghiên cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực
hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo
ông, những người lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp.
17
Họ lựa chọn quyết định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu
vực thành thị có thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động
mang tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân.
Điều này làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó
khăn cho chính phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.
Các lý thuyết về việc làm nêu trên đều tập trung nghiên cứu, xác định
mối quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó chưa
làm rõ vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh tế kết
hợp với chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế, nhưng có
tác dụng gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực trạng việc làm và đề ra
những giải pháp phù hợp tạo việc làm cho người lao động.
1.2. Thực hiện chính sách tạo việc làm
1.2.1. Khái niệm chính sách tạo việc làm
Chính sách tạo việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản
của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã
hội. Hội nghị thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng việc
làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội
của các nước trên thế giới đến năm 2000 và 2010.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất;
số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết
khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Như vậy, muốn tạo việc làm cần 3 yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất, sức
lao động và các điều kiện KTXH khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động. Ba yếu tố này lại chịu tác động của nhiều yếu tố khác.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm.
- Nhân tố điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ: là các tiền đềvật chất để
tiến hành bất cứmột hoạt động sản xuất nào. Điều kiện tự nhiên do thiên nhiên
18
ưu đãi. Vốn do tích luỹ mà có hoặc đượ c tạo ra từ các nguồn khác. Công
nghệ do tự sáng chế hoặc áp dụng theo những công ghệ đã có sẵn. Nhân tố
này cùng với sức lao động nói nên năng lực sản xuất của một Quốc gia.
- Nhân tố bản thân người lao động trong quá trình lao động. Bao gồm:
thể lực, trí lực, kinh nghiệm quản lý, sản xuất của người lao động. Người lao
động có được những yếu tố này lại phụ thuộc vào điều kiện sống, quá trình
đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm của bản thân, sự kế thừa những tài sản có từ
các thế hệ trước.
- Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia: Việc làm đượ c
tạo ra như thế nào, chủ yếu cho đối tượng nào, với sốlượng dự tính bao
nhiêu,… phụ thuộc vào cơ chế , chính sách KT-XH của mỗi Quốc gia trong
từng thời kỳ cụ thể.
- Hệ thống thông tin thị trường lao động:được thực hiện bởi Chính phủ
và các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu tuyển dụng lao động, các tổ chức
tham gia vào quá trình cung ứng nguồn nhân lực … thông qua các phươ ng
tiện thông tin đại chúng. Các thông tin bao gồm: sẽ học nghề ở đâu? nghề gì?
khi nào? tìm việc ở đâu ? và các vấn đề liên quan khác như thu nhập và khả
năng phát triển…
- Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục
tiêu, các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động (LLLĐ) và
tạo việc làm cho LLLĐ đó [6, tr.394].
Nói cách khác, chính sách tạo việc làm là sự thể chế hoá pháp luật của
Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
Chính sách tạo việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung
có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho LLLĐ của
toàn xã hội, như các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những
19
ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho
những đối tượng đặc biệt (người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi
hương... ); chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi nước ngoài...
Chúng ta cần phân biệt việc làm và tạo việc làm.
Tạo việc làm là một quá trình như đã nói ở trên, còn việc làm là kết quả
của quá trình ấy. Muốn có được nhiều việc làm cần có các chính sách tạo việc
làm hiệu quả. Có thể kể ra một số các chính sách tạo việc làm như:
- Các chính sách phát triển tổng thể kinh tế-xã hội
- Các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
- Chính sách tạo vốn để phát triển kinh tế;
- Chính sách di dân đi vùng kinh tế mới;
- Chính sách gia công sản xuất hàng tiêu dùng cho xuất khẩu;
- Chính sách phát triển ngành nghề truyền thống;
- Chính sách phát triển hình thức hội, hiệp hội ngành nghề làm kinh tế
và tạo việc làm.
- Chính sách xuất khẩu lao động;
Trong thời gian gần đây đã và đang phát triển chính sách tự tạo việc
làm - khởi nghiệp mang lại nhiều kết quả tốt đặc biệt trong thanh niên
nông thôn.
Chính sách tạo việc làm tác động đến một vấn đề nhậy cảm, vừa có ý
nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Việc hoạch
định và thực hiện không tốt chính sách tạo việc làm sẽ dẫn đến những hậu
quả, những thiệt hại trực tiếp cả về kinh tế (không sử dụng hết tiềm năng lao
động để phát triển kinh tế xã hội) và cả về chính trị, xã hội cho đất nước (Ví
dụ: Thất nghiệp tăng thì tệ nạn xã hội cũng tăng; thất nghiệp đồng hành với
đói nghèo...).
Chính sách tạo việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách
kinh tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các
20
chính sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách
cơ cấu kinh tế, chính sách công nghệ. Có thể nhận thấy rằng: Giáo dục đào
tạo tốt thì cơ hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được
tình trạng thất nghiệp về lâu dài. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các
lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông
thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính toán đến khi xây dựng chính sách
cơ cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế).
Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đôi khi
có hiệu quả kinh tế - xã hội hơn là nhập những công nghệ quá hiện đại (sử
dụng ít lao động và sử dụng lao động trình độ cao).
Thực hiện tốt chính sách tạo việc làm, nguồn nhân lực được sử dụng có
hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách bảo hiểm
xã hội sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính
sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nhất là vào thời kỳ kinh tế suy thoái,
nạn thất nghiệp sẽ tăng lên, và cùng với nó là tình trạng đói nghèo, các tệ nạn
xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng đối với các chính sách về bảo
trợ xã hội, an ninh xã hội sẽ tăng lên thậm chí còn có thể gây ra bất ổn định về
chính trị, xã hội.
Tạo việc làm cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người. Trong toàn bộ sự phát triển của xã hội, con
người luôn luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu trong
hoạt động của mình. Với tính cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát
triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính
cách là mục tiêu, con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó.
Như chúng ta đã biết, có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo
việc làm cho người lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước,
tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì
21
người lao động không tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của
mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của kinh tế.
Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề tạo
việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang
được thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế.
Tạo việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình sản
xuất là yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Bất kỳ một đất nước nào giải
quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động thì đất nước đó nhất định có nền
kinh tế phát triển nhanh chóng, ngay cả khi quốc gia đó có nhiều điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí hay bị thiên tai đe dọa.
Trong thời đại kinh tế tri thức, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng
lao động càng có ý nghĩa quan trọng, sống còn đối với việc đẩy lùi nạn thất
nghiệp. Bởi xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất
nghiệp cao không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, mà còn gây nhiều
khó khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động. Những người thất nghiệp
tuy không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng. Ngay cả những
nước tư bản phát triển nhất, nạn thất nghiệp vẫn là nguy cơ tiềm tàng đối với
sự tăng trưởng kinh tế. Như thế nghĩa là càng ngày người ta càng nhận thức rõ
hơn việc làm là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động
lực của sự phát triển ấy.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa to lớn đối với
nền kinh tế. Tạo việc làm cho người lao động tức là chúng ta đã tận dụng được
sức mạnh của nguồn lực con người vào trong công cuộc phát triển kinh tế.
1.2.2. Nội dung thực hiện chính sách tạo việc làm
1.2.2.1.Chu trình thực hiện chính sách
Quá trình hiện thực hoá chính sách công trên thực tiễn có ý nghĩa vô
cùng quan trọng nên luôn được các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền
22
địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao. Các nhà quản lý cùng các đối
tác có liên quan phải cùng nhau nỗ lực thực thi các bước cơ bản theo chu trình
thực hiện chính sách đó là:
* Bước 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tạo việc làm
Việc triển khai thực hiện chính sách tạo việc làm là quá trình tổ chức
thực thi chính sách công phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài liên, liên
quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều đối tượng vì thế chúng cần được lập
kế hoạch, chương trình cụ thể cho các chương trình trong mối quan hệ hệ
thống và đảm bảo chất lượng của các bản kế hoạch đảm bảo tính khả thi cao,
tăng cường khả năng kiểm soát và điều chỉnh kịp thời đảm bảo cho các chính
sách được thực hiện với hiệu quả cao.. Sau khi các kế hoạch đã được xây
dựng, thảo luận, đánh giá thông qua và ban hành chính thức được mọi người
chấp nhận thực hiện. Trên thực tế hệ thống chính sách tạo việc làm của nhà
nước đã được cụ thể hóa bằng nhiều kế hoạch, chương trình khác nhau.
* Bước 2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tạo việc làm
Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là phổ biến, tuyên truyền
chính sách tốt, vận động các tổ chức, cá nhân, các đối tác có liên quan giúp
cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu, nội dung của chính sách tạo việc làm với từng địa bàn và
từng nhóm đối tượng khác nhau; về tính đúng đắn của chính sách trong điều
kiện hoàn cảnh nhất định, về cả nghĩa vụ và quyền lợi và về tính khả thi của
chính sách... để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng
thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm tổ chức
thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với
đời sống kinh tế, xã hội. Chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp
cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế
hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao. Quá trình tạo việc làm ở nước
23
ta nói chung và Tỉnh Thái Nguyên nói riêng dù đã trải qua một thời gian dài,
song những vấn đề bất cập và những vấn đề mới luôn xuất hiện, do vậy, công
tác phổ biến, tuyên truyền, vận động cần tiến hành thường xuyên.
* Bước 3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách tạo việc làm.
Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến là phân công, phối hợp
các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách công theo kế hoạch được
phê duyệt. Chính sách công được thực thi trên phạm vi rộng lớn, tối thiểu
cũng là một địa phương - vì thế số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực
thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động
của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước.
Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách công diễn ra
cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng đan
xen nhau, thúc đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật... Bởi vậy, muốn tổ chức
thực thi chính sách có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa
các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham
gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu
chính sách. Trong thực tế người ta thường hay phân công cơ quan chủ trì và
các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó. Chính sách có
thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại
liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần
phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.Hoạt động phân công, phổi
hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách công một cách chủ động,
sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả chính sách.
* Bước 4. Đôn đốc, Kiểm tra quá trình thực hiện chính sách tạo việc làm.
Đôn đốc thực hiện chính sách tạo việc làm là hoạt động của cơ quan,
cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích
24
nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực
hiện các biện pháp theo định hướng chính sách. Trên thực tế, khi triển khai
thực hiện chính sách, tạo việc làm gặp nhiều khó khăn, không phải bộ phận
nào cũng làm tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần có hoạt động đôn đốc để
vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa
phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính sách tạo
việc làm. Trong thực tế, quá trình này thường là quá trình bám sát tiến độ giải
ngân theo đúng quy định của nhà nước.
Quá trình đôn đốc và kiểm tra được đề ra trong kế hoạch hoặc tiến hành
đột xuất khi có nhu cầu của quản lý, quá trình này cũng giúp cho nhà Hoạch
định chính sách phát hiện sớm các vấn đề bất cập nếu có để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung.
* Bước 5. Tổng kết thực thi chính tạo việc làm
Tổ chức thực thi chính sách tạo việc làm được tiến hành liên tục trong
thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình đó người ta có thể đánh giá từng
phần hay toàn bộ kết quả thực thi chính sách, trong đó đánh giá toàn bộ
được thực hiện sau khi kết thúc chính sách. Đánh giá tổng kết trong bước tổ
chức thực thi chính sách được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo
- điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính
sách.Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực
thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra,
còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách công. Cơ sở để đánh
giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách công trong các cơ
quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây
dựng ở bước xây dựng kế hoạch. Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản
liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy
25
phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính
sách công của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.Bên cạnh việc
tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, còn
xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện chính
sách công bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ
chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách là công dân.
Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh thần hưởng
ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ chế,
biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục
tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
Quy trình thực hiện chính sách : Thực hiện chính sách tạo việc làm ở
tỉnh Thái Nguyên nói riêng và thực thi chính sách công nói riêng cần phải
tuân theo các quy trình thực thi chính sách công và phải được đánh giá quy
trình thực hiện chính sách đó. Đây là quá trình quan trọng nhằm tìm ra những
mặt làm được và chưa làm được của quy trình để rút ra bài học kinh nghiệm
cho những chương trình, kế hoạch tiếp theo được hiện tốt hơn. Quy trình đó
là tổng thể những cách thức, biện pháp của các tổ chức, lực lượng có liên
quan đến việc ban hành các chính sách tạo việc làm ở tỉnh. Căn cứ vào kết
quả thực hiện các Chương trình, dự án, kế hoạch, quá trình tạo việc làm trên
từng đối tượng, tường địa bàn, từng giai đoạn khác nhau.để đánh giá quy trình
thực hiện chính sách ở mức độ nào, mặt nào làm được, mặt nào làm chưa
được, chỉ ra nguyên nhân cuả những hoạt động đó, trong đó đề cao vai trò,
trách nhiệm cá nhân đơn vị chủ trì, đơn vị tham gia và sự tham gia của các đối
tượng thụ hưởng.
1.2.2.2.Một số chính sách tạo việc làm đã và đang dược triển khai trên
thực tế.
- Chính sách tạo việc làm thông qua các chương trình kinh tế - xã hội
26
Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước nói chung qua đó tạo nhiều việc
làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Nội dung các chương
trình được xây dựng gắn với nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, địa phương trong từng thời kỳ. Một số chương trình cụ thể như:
Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn: Các chương
trình này tập trung vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và tăng cường
áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp để tăng năng suất
lao động, tạo nhiều việc làm. Đồng thời, đầu tư phát triển nông - lâm - thủy
sản: nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất khẩu thủy sản, mở rộng diện tích
nuôi trồng,… Ngoài ra, tăng đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp -
nông thôn để tạo điều kiện phát triển việc làm.
Các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ: Các chương trình
này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và mở rộng việc làm trong
công nghiệp và dịch vụ. Các chương trình này tập trung chủ yếu vào phát
triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế mở,… thu hút
hàng triệu lao động làm việc trong khu vực này. Hơn nữa, chương trình phát
triển công nghiệp và dịch vụ nhằm đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị
công nghệ, hiện đại hóa các ngành có lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường trong nước và xuất khẩu: như chế biến nông- lâm- thủy sản, may mặc,
điện tử, một số sản phẩm cơ khí,… qua đó giải quyết việc làm cho người lao
động, đặc biệt là lao động nông thôn.
Chương trình Mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm: Từ năm 2000,
Chính phủ phê duyệt danh mục Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn
2001-2005 và phân công cơ quan quản lý, triển khai thực hiện chương trình.
Đến năm 2007, Chính phủ phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm đến năm 2010”, đây là căn cứ pháp lý để thực hiện mục tiêu chung về bảo
27
đảm việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5% vào năm 2010.
Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 1201/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai đoạn 2012-
2015, với 6 dự án thành phần, nhằm nâng cao khả năng tạo việc làm cho nền
kinh tế và đào tạo nghề cho người lao động,…
Chương trình tín dụng hỗ trợ tạo việc làm và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn: Các chương trình này hướng vào các hộ gia đình là một
hướng tạo việc làm, có tính xã hội rộng rãi. Trong chương trình, hỗ trợ vốn
còn đi kèm với đào tạo tay nghề, nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ, các chương trình khuyến nông, lâm ngư nghiệp. Một số hệ thống
tín dụng có vai trò quan trọng đối với tạo việc làm như: Tín dụng nông thôn,
tín dụng từ chương trình xóa đói giảm nghèo, tín dụng từ quỹ quốc gia giải
quyết việc làm,… Đặc biệt, với đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn được triển khai rộng khắp - một bộ phận lớn lao động nông thôn
được đào tạo theo những lớp học nghề để chuyển đổi kỹ năng, công việc.
- Chính sách tạo việc làm thông qua việc phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Cùng với việc phát triển các thành phần kinh tế hiện nay, doanh nghiệp
nhỏ và vừa có tiềm năng phát triển to lớn, đóng vai trò quan trọng,
tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Các doanh nghiệp
nhỏ linh hoạt dễ thích ứng với biến động của thị trường, phù hợp với khả
năng huy động vốn. Quy mô lao động của loại hình này nhỏ, nhưng bù lại số
lượng doanh nghiệp lại nhiều nên có khả năng tạo được nhiều việc làm.
Những năm gần đây, doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ góp phần vào
phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ mà còn góp một phần không nhỏ vào
giải quyết việc làm - tạo việc làm cho người lao động, giảm sức ép về lao
động, việc làm và các vấn đề xã hội khác. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ và
28
vừa có đóng góp lớn cho tổng sản lượng, cũng như tạo việc làm cho nền kinh
tế. Chủ trương phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là phương thức hiệu quả
nhằm tạo việc làm cho lao động nông thôn hiện nay.
- Chính sách tạo việc làm thông qua vốn đầu tư nước ngoài
Tạo việc làm trong khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khu vực vốn
đầu tư nước ngoài là một trong những khu vực thu hút nhiều lao động nhất so
với các khu vực kinh tế khác. Các ngành sản xuất trong khu vực này chủ yếu
là ngành sản xuất kinh doanh, hướng vào xuất khẩu như: dệt, may mặc, da
giày, chế biến hải sản, chế tạo và lắp ráp ô tô và xe máy, điện tử… Xu hướng
các nước và các vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp và nước ta tác động lớn đến
tạo việc làm là: Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Hồng Kông, Mỹ, Anh, Thái
Lan, Trung Quốc…
Tạo việc làm từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức: Nguồn
vốn ODA được đầu tư và tạo mở nhiều việc làm trong nhiều lĩnh vực như: phát
triển hạ tầng cơ sở, giáo dục và đào tạo y tế, kinh tế hộ gia đình cả ở nông thôn và
thành thị. Các nhà tài trợ có cung cấp ODA cho nước ta có tác động lớn nhất đến
tạo việc làm như: Ngân hàng thế giới (WB), Nhật Bản, Ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB), Pháp, các tổ chức của Liên Hợp Quốc,…
- Chính sách tạo việc làm thông qua phát triển các Hội nghề nghiệp
Tạo việc làm thông qua sự phát triển của các hội nghề nghiệp là
một trong những kênh tạo việc làm hiệu quả. Hội nghề nghiệp là tổ chức của
những người cùng làm việc trong một nghề, mục đích là phát triển nghề
nghiệp nhằm nghiên cứu nắm bắt tình hình để đưa ra các biện pháp phát triển
và nâng cao hiệu quả của hoạt động nghề nghiệp. Thông qua hoạt động của
hội, các hội viên trao đổi kinh nghiệm sản xuất, trao đổi thông tin về sản xuất
- kinh doanh, phát triển quan hệ lao động lành mạnh và tích cực hợp tác
trong hoạt động nghề nghiệp,… qua đó tạo nhiều việc làm cho người lao
29
động, đặc biệt lao động nông thôn với các ngành nghề sản xuất truyền thống.
Hiện nay, các Hội nghề nghiệp đang được duy trì và phát triển tốt như: Hội
những người làm vườn, khuyến nông, sinh vật cảnh, xây dựng, tin học, da
giầy, dệt may,…Sự hoạt động của các Hội này có tác dụng thúc đẩy phát triển
các ngành nghề, tạo mở nhiều việc làm cho xã hội.
- Chính sách tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là xuất khẩu sức lao động của con người, do người
lao động sử dụng sức lao động của mình bán cho chủ sử dụng lao động nước
ngoài, sống và làm việc ở nước ngoài theo hợp động lao động đã ký kết. Hiện
nay, xuất khẩu lao động của Việt Nam được tiến hành thông qua các hình
thức sau: Các doanh nghiệp dịch vụ tư nhân, các tổ chức hành chính sự
nghiệp được cấp phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài; các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra
nước ngoài được phép đưa người lao động phù hợp với yêu cầu đi làm việc ở
nước ngoài; đưa những công nhân tày nghề vững chắc đi thực tập nâng
cao tay nghề ở nước ngoài; Các cá nhân lao động trực tiếp ký kết hợp đồng
cá nhân với chủ sử dụng lao động nước ngoài.
Các Tổ chức xuất khẩu lao động ở Việt Nam hiện nay có vai trò trong
hệ thống dịch vụ việc làm do đảm nhiệm nhiều chức năng như: tìm kiếm đối
tác để ký hợp đồng tuyển dụng lao động ở nước ngoài, tuyển chọn lao động
trong nước thông qua hồ sơ và phỏng vấn thi tuyển, đào tạo người lao động,
đưa lao động ra nước ngoài làm việc và quản lý, đưa họ về nước khi hết hợp
đồng. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng vai trò trung gian để đưa
người lao động có nhu cầu bán sức lao động đến được với người có nhu cầu
mua sức lao động, sử dụng ở nước ngoài, đồng thời họ cũng hoàn thiện các
thủ tục, các hoạt động dịch vụ để tạo điều kiện tốt nhất cho hai bên sau khi ký
kết. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã có những đóng góp quan trọng
30
vào việc tạo lập, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sức lao động, đóng
góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo việc làm; phát triển
nguồn nhân lực; góp phần vào ổn định xã hội, an ninh, quốc phòng;
thực hiện chính sách xã hội; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
đóng góp vào ngân sách quốc gia và tăng thu nhập, cải thiện mức sống
cho người dân lao.
Tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động là một trong những kênh
tạo việc làm đem lại hiệu quả và giá trị cao. Ngoài việc học hỏi được kinh
nghiệm làm việc từ nước ngoài, người lao động đi làm việc tại nước ngoài có
mức lương cao hơn nhiều so với mức lương từ những công việc tương tự
trong nước. Tích lũy thu nhập của người lao động từ nước ngoài gửi về là một
trong những nguồn vốn để giúp gia đình họ vững vàng về mặt kinh tế và có
điều kiện tạo thêm việc làm và thu nhập, và khi họ trở về nước sẽ có cơ hội để
tìm được nhiều công việc phù hợp.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tạo
việc làm.
1.2.3.1.Yếu tố kinh tế - xã hội
Sự đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nề kinh tế thị trường định
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện các chính sách tạo việc làm.
Công cuộc đổi mới đặt con người vào vị trí trung tâm, con người vừa là
mục tiêu phấn đấu vừa là động lực, nguồn lực cho sự phát triển. Chính sách
đổi mới, đã giải phóng sức lao động, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, kinh tế xã
hội không ngừng phát triển, chính trị ổn định. Cùng với các chính sách vĩ mô
khác, mở cửa - hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đề ra các
chủ trương, chính sách về giải quyết việc làm cho toàn xã hội. Sự phát triển
nhanh, khá toàn diện và vững chắc trên các lĩnh vực của đời sống, cũng như
31
quá trình hợp tác quốc tế thành công đã tạo niềm tin, động viên, khuyết khích
tạo sự đồng thuận của người lao động tham gia vào thực hiện các chính sách
tạo việc làm trên địa bàn.
1.2.3.2. Yếu tố biến đổi dân số
Dân số và kinh tế xã hội là những yếu tố vận động theo các quy luật
khách quan trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng lại có quan hệ hữu cơ
với nhau. Một trong những mối liên hệ quan trọng giữa dân số và lao động là
vấn đề tăng trưởng lực lượng lao động và cơ hội tạo việc làm phù hợp. Hiện
nay dân số Việt Nam đứng thứ thứ 14 trên thế giới, đứng thứ 3 ở khu vực
Đông Nam Á, dân số tăng nhanh gây áp lực rất lớn đến vấn đề giải quyết việc
làm. Khi dân số thay đổi, một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là sự thay
đổi lực lượng lao động trong dân số. Chúng ta đều biết rằng quy mô, cơ cấu
và sự phân bố dân số có quan hệ ảnh hưởng quyết định đến quy mô, cơ cấu,
phân bổ, sử dụng LLLĐ.
Dân số tăng nhanh là áp lực đối với vấn đề tạo việc làm cho LLLĐ.
Quan sát cho thấy, ở tất cả các nước trên thế giới, tỷ lệ tham gia LLLĐ của
nhóm tuổi 15 - 60 là cao nhất trong LLLĐ so với các nhóm tuổi khác. Nếu tỷ
lệ dân số trong độ tuổi 15 - 60 tăng thì LLLĐ sẽ tăng ngay cả khi sự tham gia
LLLĐ theo nhóm tuổi không tăng.
Một vấn đề quan trọng cần được chú ý là những người tham gia vào
LLLĐ sẽ vẫn còn cao hơn tốc độ tăng dân số. Các nhà quản lý cần phải thấy
trước để tạo việc làm cho người lao động. Số lượng việc làm trong xã hội
ngày càng phải mở rộng để khai thác tốt LLLĐ này.
1.2.3.3.. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
Trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng nguồn công việc, tạo
việc làm cho người lao động, cần nói đến nhân tố có tính chất tự nhiên, vốn có
32
sẵn ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương và tình hình phát triển kinh tế xã của địa
phương đó. Trong đó, tài nguyên thiên nhiên vừa là đối tượng lao động, vừa là
tư liệu lao động. Vì thế nó là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất và là cơ sở quan trọng đầu tiên để tạo việc làm cho người lao động.
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tất cả các nguồn khoáng sản, đất đai,
năng lượng có trên mặt đất, dưới lòng đất, trong rừng, dưới biển... Ngay cả vị
trí địa lý, khí hậu, thời tiết thuận lợi cũng là những tài nguyên quý giá cho sự
tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Cùng với vị trí địa lý, nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản, sông ngòi,
bờ biển, rừng núi... cũng ảnh hưởng rất lớn đến giải quyết việc làm. Vai trò
của đất đai đối với lao động, việc làm là cực kỳ quan trọng. Đặc biệt trong sản
xuất nông nghiệp, đất canh tác là tư liệu lao động đồng thời là đối tượng lao
động của người nông dân.
Những tiềm năng của mỗi quốc gia cho phép quốc gia đó tổ chức phân
công lao động, tạo ra hàng trăm hàng nghìn loại hình công việc khai thác lợi
thế sông, biển, rừng ven biển và các tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh điều kiện
tự nhiên thì khả năng phát huy thế mạnh, khắc phục điều kiện hạn chế của điều
kiện tự nhiên đến đâu, tạo được kết quả phát triển kinh tế - xã hội ở mức nào, có
tác động quan trọng tới thực hiện chính sách công. Đây là sự tác động hai chiều,
hỗ trợ cho nhau khi triển khai chính sách tạo việc làm.
1.2.3.4. Yếu tố trình độ tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang làm thay đổi
tính chất và nội dung nghề nghiệp của người lao động. Cách mạng công nghệ
đã dẫn đến việc sử dụng công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động
trí óc dần dần đã thay thế lao động chân tay. Nếu trình độ học vấn, mặt bằng
dân trí được nâng cao thì năng lực làm việc của con người sẽ được mở rộng.
Người lao động có trí tuệ không chỉ nắm vững sâu sắc chuyên môn một nghề
33
mà họ còn có thể tham gia ở những nghề khác, nghĩa là họ có thể có khả năng
làm nhiều loại công việc.
Ở nước ta hiện nay, trình độ công nghệ sử dụng trong các ngành kinh tế
lạc hậu so với trình độ trung bình tiên tiến trên thế giới từ 2 đến 3 thế hệ kỹ
thuật (không kể một số lĩnh vực mới như: dầu khí, viễn thông). Một số ngành
công nghiệp then chốt như cơ khí, chế tạo động cơ...có trình độ công nghệ lạc
hậu 30-50 năm so với các nước phát triển trung bình. Vì vậy, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm rút
ngắn khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước là con đường
tất yếu để phát triển nhanh nền kinh tế nước ta.
Hiện nay, việc đổi mới công nghệ lại mâu thuẫn với tiềm năng nguồn
lực về vốn ít và lực lượng lao động dồi dào. Quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đang đặt ra một vấn đề: lựa chọn công nghệ cần đổi mới trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn như thế nào cho phù hợp. Ngành nào, khâu nào, lĩnh
vực nào cần lựa chọn trình độ công nghệ ra sao để vừa đáp ứng yêu cầu hiện
đại hoá sản xuất, vừa tận dụng được tiềm năng lao động để tăng việc làm
trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp đang là bài toán đặt ra cần được xem xét.
1.2.3.5. Yếu tố cơ cấu kinh tế
Quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa cùng với việc thực hiện phân
công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây
dựng một cơ cấu kinh tế mới.
Sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường làm cho mâu thuẫn
giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt. Việc tổ chức lại lao động trên
phạm vi toàn xã hội, điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội cho phù hợp với cơ
cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất sẽ dẫn đến
dư thừa lao động. Theo V.I. Lênin, thì sự phát triển kinh tế hàng hóa khiến
một bộ phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân
34
khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống,
V.I.Lênin nhắc lại luận điểm của C.Mác:
Do bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không ngừng
giảm bớt nhân khẩu nông nghiệp so với nhân khẩu phi nông nghiệp, bởi vì
trong công nghiệp (theo nghĩa hẹp của danh từ này) việc tư bản bất biến tăng
lên làm giảm tư bản khả biến thường liên quan với sự tăng thêm tuyệt đối (dù
là giảm bớt tương đối) của tư bản khả biến, còn trong nông nghiệp thì ngược
lại, tư bản khả biến cần thiết để kinh doanh một khoảnh đất nhất định lại giảm
bớt một cách tuyệt đối; do đó tư bản khả biến chỉ có thể tăng thêm khi có
những đất mới được canh tác, mà điều này lại đòi hỏi rằng nhân khẩu phi
nông nghiệp phải tăng lên nhiều hơn nữa .
Xu hướng tách và đẩy lao động là rất lớn, trước hết là lao động ở khu
vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đó là sự không phù hợp giữa cơ cấu
lao động cũ với cơ cấu nền kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch: chúng ta
vừa thiếu lao động kỹ thuật, lao động chất xám, lại thừa khá nhiều lao động
phổ thông, làm cho năng suất xã hội còn thấp. Từ đó dẫn đến các dòng "di
chuyển" chất xám ngày càng lớn, chủ yếu là từ khu vực nhà nước sang khu
vực tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sự di chuyển lao động
từ nông thôn ra các tỉnh lớn, các đô thị ngày càng tăng lên cùng với sự gia
tăng các vấn đề xã hội nổi cộm cần phải giải quyết.
Do đó, tạo việc làm cho người lao động phải lấy mục tiêu của sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế để xác định hướng phát triển. Để có một đội ngũ
lao động đáp ứng những việc làm đa dạng phù hợp với cơ cấu kinh tế mới,
ngay từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, hướng nghiệp đến tổ chức nơi làm việc, cần
phải nắm bắt các cơ hội, đi tắt, đón đầu, hình thành những ngành kỹ thuật mũi
nhọn, phát triển theo trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Tạo
việc làm tập trung vào những khâu cần thiết và có thể thực hiện có hiệu quả
35
các công nghệ tiên tiến, đồng thời cải tiến công nghệ truyền thống nhằm tạo
đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng ở những thập kỷ sau.
1.2.3.6. Yếu tố thị trường lao động
Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất
như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội,
tranh chấp lao động...) ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là
người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động [5, tr.112].
Giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường về thực chất là giải quyết
mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động.
Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động (số lượng, chất lượng
và cơ cấu của lực lượng lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một
thời gian nhất định.
Cầu về lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường lao động.
Trên thị trường lao động, mức cung - cầu lao động ảnh hưởng trực
tiếp tới mức tiền lương và ngược lại, sự thay đổi mức tiền lương cũng làm
thay đổi cung - cầu lao động, điều chỉnh quan hệ cung - cầu lao động trên
thị trường.
Khi cung lớn hơn cầu sẽ dẫn đến dư thừa lao động, làm gia tăng số
người không có việc làm và ngược lại. Trên thị trường lao động, cung cầu lao
động thường xuyên biến động và chịu sự tác động của nhiều yếu tố, tạo ra
mâu thuẫn giữa cung và cầu. Đối với nước ta hiện nay, trình độ phát triển
kinh tế còn thấp, khả năng mở rộng sản xuất có hạn trong khi nguồn lao động
dồi dào, tỷ lệ tăng cung lao động cao, cung lao động luôn lớn hơn cầu, dẫn
đến sức ép rất lớn về việc làm, đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp
nhằm giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp để ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội.
36
1.2.3.7. Yếu tố các chính sách vĩ mô của Nhà nước nói chung và Chính
sách tạo việc làm nói riêng.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo việc
làm, đồng thời điều chỉnh việc làm phù hợp với mục tiêu, trình độ phát triển
của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Có rất nhiều chính sách tác động đến việc làm như chính sách tạo vốn,
chính sách đất đai, chính sách thuế...hợp thành một hệ thống chính sách hoàn
chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung và
cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất
là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.
Khi các chính sách vĩ mô của Nhà nước đúng đắn và thích hợp sẽ tạo ra
nhân tố, môi trường, động lực khuyến khích các chủ doanh nghiệp, chủ sử
dụng lao động mở rộng đầu tư nhằm thu lợi nhuận, tạo việc làm, khai thác tối
ưu mọi nguồn lực vào mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khi
các chính sách vĩ mô của Nhà nước không phù hợp, nó sẽ kìm hãm và tạo nên
tâm lý chán nản trong đầu tư kinh doanh, quy mô sản xuất thu hẹp dẫn đến
việc làm giảm sút.
Vì vậy, số lượng, chất lượng việc làm, khả năng tạo việc làm chính là
một trong những thước đo quan trọng biểu hiện trình độ hoạch định và tính
khả thi của hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước trong quản lý, điều
hành kinh tế - xã hội.
Từ quan điểm và định hướng trên đây, Nhà nước ta đã có các chính
sách kinh tế xã hội chủ yếu tác động tới phát triển nguồn nhân lực và giải
quyết việc làm như: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần: chính
sách khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu; chính sách tín dụng ưu đãi để
các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ; chính sách khuyến
khích tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động, chính sách giáo dục đào tạo
37
nghề cho lao động; chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước thông
qua chính sách đất đai, thuế, đầu tư...
1.2.3.8. Bộ máy tổ chức và nguồn lực thực hiện.
Hệ thống các cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện Chính sách tạo
việc làm cần được tổ chức có hệ thống và đồng bộ, đồng thời việc phân công, phối
hợp giữa các đơn vị, cá nhân và đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của người đứng
đầu phải được xác định đầy đủ và rõ ràng. Trên thực tế qua quá trình triển khai
thực hiện chính sách tạo việc làm trên cả nước nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên
nói riêng đã có sự tham gia ngày càng rõ nét và hiệu quả của các doanh nghiệp
trên địa bàn và các chức dịch vụ đào tạo. Sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức và
cả các đoàn thể cần được chú trọng và phát huy.
Các nguồn lực tham gia, trước hết về nguồn nhân lực phải được đào tạo,
huấn luyện, có đủ năng lực tổ chức và thực thi nhiệm vụ. Trong bối cảnh các
chính sách tạo việc làm khi triển khai thường đa dạng và nhiều vấn đề phát sinh
theo địa bàn. Vai trò của người quản lý và cán bộ triển khai có ý nghĩa quyết định
tới sự thành công. Hơn nữa, người quản lý cần nhanh nhậy để kịp thời phát hiện
và đề xuất điều chỉnh các vấn đề phát sinh, cần thiết phải đề nghị bổ sung
chính sách.
Trong quá trình thực hiện, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất luôn có vai
trò và là một nhu cầu lớn. Các chính sách việc làm gần đây về cơ bản đã cân nhắc
kỹ yếu tố này. Tuy vậy, tình trạng thiếu kinh phí thường xuyên xảy ra hạn chế quá
trình triển khai. Bên cạnh đó, còn có tình trạng giải ngân chậm do khâu tổ chức,
tác động xấu đến hiệu quả của chính sách. Với sự tham gia ngày càng rộng rãi của
các tổ chức kinh tế vào thực hiện chính sách tạo việc làm, một mặt cần đảm bảo
cân đối điều kiện cho việc thực thi các chính sách thì mặt khác cũng cần tìm cách
huy động các nguồn lực hỗ trợ của xã hội cho việc tổ chức thực hiện các chính
sách tạo việc làm.
38
1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở một số địa phương
1.3.1. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Hà Nam
Hà Nam là địa phương đã thực hiện nhiều chương trình phát triển kinh
tế nhằm thu hút lao động vào các khu công nghiệp và tạo ra nhiều
chỗ làm cho người lao động. Với mục tiêu phát triển kinh tế để tạo việc làm
là định hướng quan trọng nhằm giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa tăng
trưởng kinh tế với ổn định việc làm, tỉnh Hà Nam đã làm tốt công tác này.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh diễn ra khá nhanh, cơ cấu cây
trồng vật nuôi, cũng có sự thay đổi, đồng thời thực hiện tốt công tác đào tạo
nghề ngắn hạn, vay vốn tín dụng đã tạo nhiều việc làm thông qua các dự án
nhỏ ở địa phương như kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, các tổ hợp sản
xuất, các cơ sở sản xuất, các làng nghề truyền thống và dịch vụ nông
nghiệp. Công tác XKLĐ cũng được chính quyền địa phương đặc biệt
quan tâm. Qua những năm triển khai công tác xuất khẩu lao động đã có
hàng ngàn đoàn viên thanh niên, hội viên được tư vấn giải quyết việc làm và
đã tham gia giới thiệu lực lượng lớn lao động đi xuất khẩu các nước như Đài
Loan, Quatar, Nhật, Hàn Quốc,… 6 tháng đầu năm 2014, toàn tỉnh đã giải
quyết việc làm mới cho 8.648 người, đạt 55,7% kế hoạch năm (nữ: 4.208
người), trong đó có 434 người đi xuất khẩu lao động và có khoảng 11.120
người có việc làm thêm.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nam đã hỗ trợ tuyển được
429 lao động vào làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Có 61 lao
động được doanh nghiệp Hàn Quốc lựa chọn hoàn thiện các thủ tục đi xuất
khẩu lao động. Đoàn thí sinh của tỉnh tham dự Hội thi Tay nghề quốc gia lần
thứ VIII năm 2014 với 03 thí sinh dự thi, kết quả có 02 thí sinh đạt giải ba
(nghề Mộc dân dụng và Mộc mỹ nghệ), 01 thí sinh đạt giải khuyến khích
nghề Công nghệ ô tô.
39
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Ngân hàng
Chính sách xã hội thẩm định cho vay 2.077 dự án từ quỹ quốc gia giải quyết
việc làm với tổng số tiền 4,644 tỷ đồng, thu hút tạo việc làm cho 2.322 lao
động. Trung tâm Giới thiệu việc làm đã tổ chức khảo sát nhu cầu tuyển dụng,
sử dụng lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tổ chức 06 phiên
giao dịch việc làm tại trung tâm và 10 phiên giao dịch việc làm lưu động tại
các địa phương thu hút 538 người tham gia đăng ký tìm việc làm và giới thiệu
vào làm việc tại 135 đơn vị, doanh nghiệp. Tiếp nhận, tư vấn về chính sách
bảo hiểm thất nghiệp cho 900 người lao động. Tư vấn, giới thiệu việc làm và
học nghề cho 2.257 người, duy trì vận hành hoạt động có hiệu quả 02
Website: vlhanam.vieclamvietnam.gov.vn; Vieclamhanam.vn; tổ chức đăng
tin tuyển dụng của 318 đơn vị, doanh nghiệp và có 31.860 lượt người truy cập
để tìm kiếm thông tin việc làm.
Hiện nay Đề án "Đào tạo 1.000 lao động ngành công nghiệp hỗ trợ
doanh nghiệp Nhật Bản giai đoạn 2014 - 2016" gồm tổ chức dạy tiếng Nhật,
văn hóa Nhật và quy trình quản lý chất lượng 5S của Trường Cao đẳng Nghề
Hà Nam đã xây dựng, trình UBND tỉnh phê duyệt.
Thời gian tới, tỉnh rà soát quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở dạy
nghề trên địa bàn tỉnh sau khi sáp nhập trung tâm dạy nghề cấp huyện và
trung tâm giáo dục thường xuyên; triển khai điều tra cung - cầu lao động tại
các thôn xóm và khảo sát nhu cầu sử dụng lao động có nghề trong các
doanh nghiệp; tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp thuộc khu công
nghiệp và các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh; tuyên
truyền phổ biến pháp luật về lao động trong các loại hình doanh nghiệp theo
Đề án 31; thực hiện tốt công tác tư vấn giới thiệu việc làm, dạy nghề và thông
tin thị trường lao động; chỉ đạo các cơ sở dạy nghề thực hiện tốt công tác
tuyển sinh. Các huyện, thành phố triển khai thực hiện công tác dạy nghề cho
40
lao động nông thôn năm 2014; tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ
làm công tác dạy nghề.
1.3.2. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và là
một trong những địa phương có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh
chóng. Những năm gần đây, do việc mở rộng các khu công nghiệp, xây dựng
khu đô thị mới cũng như việc thu hút đầu tư diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi khá lớn (khoảng 5.000 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm khoảng
70%). Các huyện/thị xã có diện tích thu hồi đất lớn như: Mê Linh,
Vĩnh Yên, Phúc Yên,…Vĩnh Phúc được xem là địa phương đạt nhiều kết
quả trong tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn.
Một số kinh nghiệm rút ra từ công tác tạo việc làm cho lao động nông thôn
như sau:
Thứ nhất, do là địa phương có mức độ thu hút đầu tư cao nên tỉnh yêu
cầu các doanh nghiệp, dự án phải bố trí việc làm cho lao động thuộc diện thu
hồi đất nông nghiệp đặc biệt là làm việc ngay trong các doanh nghiệp đó. Đặc
biệt, Vĩnh phúc đã làm tốt công tác khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
vào đào tạo nghề cho lao động và tuyển dụng chính lao động đó vào làm việc.
Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho người lao
động đối với các doanh nghiệp có hoạt động đào tạo nghề cho lao động
chưa qua đào tạo.
Thứ hai, Vĩnh Phúc luôn quan tâm đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho
người lao động sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp và lồng ghép với chương
trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956.
Thứ ba, xuất khẩu lao động được xem là một trong những giải pháp
quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và người lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng. Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều văn
41
bản để mở rộng hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh như ban hành
Quyết định số 4118/QĐ-UBND về các quy định khuyến khích xuất khẩu lao
động như hỗ trợ kinh phí cho người lao động học nghề, học ngoại ngữ để đi
lao động có thời hạn nước ngoài là 350.000 đồng/người. Riêng đối với lao
động thuộc diện thu hồi đất thì được hỗ trợ 1.000.000 đồng/người.
Thứ tư, tạo việc làm cho người lao động đã lớn tuổi hoặc có sức khỏe yếu
bằng cách dành một phần đất trong các dự án hoặc gần dự án để pháp triển dịch
vụ phục vụ công nghiệp, đặc biệt với hộ có diện tích bị thu hồi từ 40% trở lên.
1.3.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, kinh tế còn kém phát triển.
Dân số chủ yếu sống ở nông thôn, chiếm 81% dân số toàn tỉnh.Vì vậy, nông -
lâm nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính để tạo ra công ăn việc làm và thu
nhập cho người lao động [41, tr.43]. Tạo cơ hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động tự do kinh doanh, tự do thuê mướn lao động để giải quyết
được nhiều việc làm cho người lao động. Thực hiện cơ chế "một cửa" trong
lĩnh vực lao động - việc làm. Đây là quyết định mang tính chất đột phá tạo
môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo nhiều
việc làm tại chỗ cho người lao động.
- Phát triển và đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh dịch vụ
tạo được nhiều việc làm cho người lao động.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động ở khu
vực nông thôn, tăng tỷ lệ lao động ở khu vực công nghiệp - xây dựng và khu
vực thương mại - dịch vụ.
- Trợ giúp vốn, khoa học công nghệ, hỗ trợ y tế, giáo dục và đào tạo
cho người nghèo để giúp cho người nghèo ổn định cuộc sống, giải quyết thêm
được việc làm cho người nghèo.
42
- Tổ chức đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, giúp cho người lao động có
cơ hội tìm kiếm việc làm.
1.3.4. Các bài học kinh nghiệm
Từ những kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm và giải quyết
việc làm ở một số địa phương, vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Thái
Nguyên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về thực hiện chính sách tạo
việc làm như sau:
Thứ nhất: Trên cơ sở chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, xây
dựng và phát triển chương trình giải quyết việc làm của tỉnh, gắn giải quyết
việc làm với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để
tạo nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động như: Chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; phát triển công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp; phát triển và đa dạng hoá các ngành nghề dịch vụ...
Thứ hai: Tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh mở rộng sản xuất kinh doanh,
thu hút nhiều lao động. Khuyến khích người lao động tự do làm ăn, tự tạo
việc làm cho mình và cho người khác theo đúng pháp luật, phát huy đến mức
cao nhất nhân tố con người.
Thứ ba: Thực hiện tốt công tác giáo dục - đào tạo nghề cho người lao
động, dạy nghề gắn với thị trường lao động. Đặc biệt chú trọng đến việc đào
tạo nghề cho nông dân, nhất là trong điều kiện mới.
43
Tiểu kết Chương 1
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu,
các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm
cho lực lượng lao động đó. Hay ta có thể hiểu, chính sách tạo việc làm là sự
thể chế hoá pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ
thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết
việc làm cho người lao động.
Nội dung Chương 1 đã trình bày cơ sở khoa học về thực hiện chính
sách tạo việc làm, nghiên cứu tổng quan về chính sách tạo việc làm, làm rõ
khái niệm, nội dung các vấn đề liên quan. Trong đó chỉ rõ quy trình cũng như
các bước cần thiết để tổ chức thực hiện chính sách công nói chung và chính
sách tạo việc làm nói riêng. Chương 1 cũng đã chỉ ra những nội dung phong
phú và hoạt động rộng lớn với những mối liên hệ giữa các đối tượng quản lý
và người tham gia,. Giữa các điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau.
Những vấn đề về lý luận về thực hiện chính sách tạo việc làm được nghiên
cứu trong Chương 1 là cơ sở để phân tích thực trạng thực hiện chính sách tạo
việc làm cho người lao động trong chương 2 và đề xuất giải pháp hoàn thiện
thực hiện chính sách tạo việc làm trong chương 3.
44
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1.Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội tỉnh Thái Nguyên
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km² phía bắc tiếp giáp với tỉnh
Bắc Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp
với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội.
(Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên)
Tỉnh Thái Nguyên có 02 thành phố, và 7 huyện. Các đơn vị hành chính
này được chia tiếp thành 180 đơn vị hành chính cấp xã (gồm có 30 phường,
10 thị trấn, và 140 xã), trong đó có 125 xã vùng cao và miền núi, còn lại là
các xã đồng bằng và trung du
45
Thái Nguyên có vị trí quan trọng, trung tâm về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội của vùng trung du miền núi phía Bắc, là cửa ngõ giao lưu kinh tế -
xã hội rất thuận lợi với các vùng lân cận, đặc biệt là vùng đồng bằng sông
Hồng và thủ đô Hà Nội, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cảng Hải Phòng
200 km, cách biên giới Trung Quốc 200 km.
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục
của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung,
Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi
với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm
các loại sau: Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m,
Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên ở từ độ cao 150 m đến 200 m, Đất
ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên. Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất
đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm 69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa
sử dụng là 109.669 ha (chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử
dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có
khả năng sản xuất lâm nghiệp.
Tài nguyên khoáng sản :Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản phong
phú, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp
luyện kim, khai khoáng. Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai
trong cả nước, than mỡ trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng
90 triệu tấn; kim loại màu có thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng,
niken, thuỷ ngân… Khoáng sản vật liệu xây dựng cũng là tiềm năng
nguyên liệu rất lớn để sản xuất xi măng, sản xuất đá ốp lát các loại và
sản xuất vật liệu xây dựng.
Tài nguyên rừng và các thảm thực vật, động vật :Thái Nguyên có trên
179,8 nghìn ha (2011) đất lâm nghiệp có rừng, trong đó rừng sản xuất có
46
111,1 nghìn ha, rừng phòng hộ có 34,8 nghìn ha và rừng đặc dụng có khoảng
33,8 nghìn ha.
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, Nhiệt độ trung bình của Thái
Nguyên là 25 °C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9 °C) với
tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tổng số giờ nắng trong năm
dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng
trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình
hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên
thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp..
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Dân số và lao động: Theo số liệu Cục thống kê, năm 2013 dân số toàn
tỉnh là 1.155.991 người, chiếm 9,34% tổng dân số vùng trung du miền núi
phía Bắc và 1,29% dân số cả nước. Trong đó, dân số phân bố không đồng
đều, tập trung chủ yếu ở thành phố Thái Nguyên là 290.620 người (chiếm
25,1%) và ít nhất ở thành phố Sông Công là 51.433 người (chiếm 4,4%), mật
độ dân số trung bình của tỉnh là 325 người/km2 .
Tỷ lệ dân số sống ở thành thị là 344.210 người (chiếm 29,78%) và
nông thôn là 811.781 người (chiếm 70,22%); tỷ lệ dân số trung bình phân
theo giới tính của Tỉnh có sự chênh lệch tương đối thấp, nam giới là 569.818
người (chiếm 49,29%) và nữ giới là 586.173 người (chiếm 50,71%). Tốc độ
tăng dân số trung bình hàng năm của tỉnh thấp nhất vào năm 2009 là 0,45%
và cao nhất là 0,85% (2012).
Cơ cấu dân số theo thành phần dân tộc khá đa dạng, hiện có 8 dân tộc
cùng sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên, trong đó, dân tộc kinh chiếm
khoảng 73,1%, Tày chiếm 11%, Nùng chiếm 5,7%, Sán Dìu chiếm 4,41%,
Sán Chay chiếm 3,9%, Dao chiếm , …
47
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở tỉnh Thái Nguyên năm 2013 là
716.300 người (chiếm 61,57%). Trong đó, số lượng lao động nam giới là
360.700 người (chiếm 50,4%) và nữ giới là 355.600 người (chiếm 49,6%); số
lượng lao động ở khu vực thành thị là 181.200 người (chiếm 25,3%) và khu
vực nông thôn là 535.100 người (chiếm 74,7%).
Cũng như toàn quốc, Thái Nguyên có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao
động từ 15 đến 60 là 779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số. Nhóm tuổi
dưới 15 có 249.001 người, chiếm 22,17% tổng dân số còn nhóm người trên
60 tuổi có 94.854 người, tức chiếm 8,45%.
Văn hoá - xã hội: Thái Nguyên là một trong những trung tâm GD&ĐT
lớn của cả nước, với 8 trường đại học (79.668 sinh viên), 12 trường cao đẳng
(36.791 sinh viên), 7 trung cấp (15.422 sinh viên), 6 trường công nhân kỹ
thuật, tổng số sinh viên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ước tính vào khoảng
trên 150.000 người.
Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 529 cơ sở y tế (trong đó, có 219 cơ
sở y tế nhà nước và 310 cơ sở y tế ngoài nhà nước), với 4.525 giường bệnh,
cán bộ ngành y là 4.128 người, cán bộ ngành dược là 787 người, tỷ lệ trung
bình bác sĩ là 10,7/1 vạn dân. Nhìn chung, chất lượng khám chữa bệnh cho
nhân dân được nâng lên, nhưng cơ sở trang thiết bị, máy móc, số lượng bác sĩ,
nhất là bác sĩ ở vùng sâu vùng xa, khó khăn trong tỉnh còn thiếu nhiều và đầu
tư còn chưa đồng bộ.
Tăng trưởng kinh tế: Trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Thái Nguyên đạt trung bình 11,11% mỗi năm, khu vực công
nghiệp - xây dựng tăng trưởng bình quân đạt 14,91%, khu vực dịch vụ đạt
11,86% và khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản là 4,14% mỗi năm. Cơ cấu
kinh tế của Thái Nguyên cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng của ngành nông lâm
48
nghiệp trong GDP. Năm 2016, cơ cấu kinh tế của Thái Nguyên có tỉ lệ công
nghiệp và xây dựng chiếm 41,77%; dịch vụ chiếm 36,95%, nông lâm nghiệp
và thuỷ sản chiếm 21,28%. Tỉ lệ hộ nghèo giảm 2,1% so với năm 2010. Thái
Nguyên có 428 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký quy đổi đạt 105.000 tỷ
đồng, trong đó có 16 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.2. Thực trạng dân số, lao động và việc làm của tỉnh Thái Nguyên
Hiện trạng về dân số - lao động: Theo số liệu thống kê hết năm 2016
toàn tỉnh có 1.127.430 người, sinh sống trên địa bàn: 144 xã, 23 phường, 15
thị trấn thuộc 9 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Thái Nguyên và Thành
phố Sông Công; 2 huyện là Phổ Yên, Phú Bình và 5 huyện thuộc miền núi là:
Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đồng Hỷ và Đại Từ.
Đơn vị hành chính Mật độ - dân số
Số xã Số thị trấn Số phường Mật độ dân số (người/km2) Dân số nông thôn
Tỉnh Thái Nguyên 144 13 23 320 838.574
10 18 1.474 79.290 TP Thái Nguyên
4 5 598 23.400 TP Sông Công
29 2 279 151.200 H.Đại Từ
14 2 285 97.865 H.Phú Lương
23 1 168 80.240 H.Định Hóa
15 3 247 94.679 H.Đồng Hỷ
14 1 76 60.450 H.Võ Nhai
15 3 534 125.400 H.Phổ Yên
20 1 535 126.050 H.Phú Bình
Bảng 2.1: Đơn vị hành chính, mật độ dân số và dân số nông thôn
49
- Địa bàn có nhiều đơn vị hành chính và dân số trung bình đông là
Thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ, huyện Phú Bình, huyện Phổ Yên. -
Địa bàn có mật độ dân số thấp là huyện Võ Nhai, huyện Định Hóa, huyện
Đồng Hỷ.
- Địa bàn có tỷ lệ dân số nông nghiệp cao là: huyện Đại Từ chuyến
95,2% lao động xã hội; Võ Nhai 94,5%; Phú Bình 94,4%; Phú Lương 92,9%;
Phổ Yên 91,4%.
- Toàn tỉnh dân cư nông thôn hiện có 838.574 người chiếm 74,38% và
Đơn vị tính: Người
lao động nông nghiệp 454.840 người chiếm 40,34% lao động toàn xã hội.
Năm 2012 2013 2014 2015
Số lao động đang làm việc 616.961 631.217 648.495 665.652
Số lao động nông, lâm, thủy sản 442.749 445.449 450.145 454.840
Số lao động công nghiệp và xây dựng 73.225 78.170 87.404 96.637
Số lao động dịch vụ 100.987 107.598 110.947 114.175
Số lao động được tạo việc làm 14.800 15.000 16.250 16.500
Bảng 2.2. Lao động làm việc trong các ngành tạo việc làm mới
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên
2.3.1. Đánh giá chung về quá trình thực hiện:
Các chính sách về tạo việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn cho sự phát
triển của mỗi địa phương và cả nước. Thực hiện các chính sách tạo việc làm ở
tỉnh Thái Nguyên được đặt trong sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và
chính quyền các cấp. Trên thực tế tuy mức độ và chất lượng chỉ đạo, quản lý
ở mỗi thời điểm, mỗi địa bàn, mỗi chính sách cụ thể có sự khác nhau nhưng
đều đã có ở tất cả các khâu của Quy trình thực hiện chính sách.
50
2.3.1.1.Trước hết đánh giá về công tác kế hoạch.
Tại Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ
2010-2015 đã ban hành Nghị quyết xác định chỉ tiêu giải quyết việc làm mới
hàng năm của tỉnh; UBND tỉnh Thái nguyên đã có Đề án Đào tạo nghề và
giải quyết việc làm giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 2461/QĐ-UBND
ngày 30/9/2011. Các chương trình, đề án của tỉnh đã luôn bám sát các chương
trình, dự án, chính sách lớn của Trung ương để có kế hoạch triển khai cụ thể
trong tỉnh. Các chính sách tạo việc làm đều đã được tổ chức xây dựng đề án,
chương trình hoặc kế hoạch chi tiết và được ban hành theo đúng quy định.
2.3.1.2. Công tác phổ biến và tuyên truyền chính sách.
Từ sự chỉ đạo của các Đảng và chính quyền, các đơn vị chuyên môn và
các địa phương đã có sự tham gia tích cực. Trước hết là công tác phổ biến
tuyên truyền, triển khai chính sách đã được tổ chức đồng bộ và và khá hiệu
quả thông qua các Phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các Hội nghị
triển khai do Sở Lao động-Thương binh và xã hội tổ chức triển khai, các Hội
chợ việc làm gắn kết giữa nhu cầu và nguồn lực, các hội thảo, hội nghị, các
cuộc thi về giải quyết việc làm, thanh niên lập nghiệp, tạo phong trào và tổng
kết phong trào tạo việc lamg đã được triển khai .
2.3.1.3. Việc Huy động nguồn lực, phân công, phân nhiệm, cơ chế
phối kết hợp trong quá trình thực hiện.
Quá trình thực hiện các chính tạo việc làm cụ thể trên địa bàn đã có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức có liên quan, trong đó có sự tham gia tích
cực của các doanh nghiệp.
Chính sách tạo việc làm và hỗ trợ cho người lao động làm trong giai
đoạn 2011 - 2015 nhìn chung đã được sự quan tâm chỉ đạo và phối hợp trong
hoạt động của chính quyền các cấp, các địa phương và các ngành. Các chỉ tiêu
giải quyết việc làm hằng năm đều được Uỷ ban nhân dân các cấp rà soát, xác
51
định với các địa chỉ cụ thể. Thực hiện Đề án Đào tạo nghề và giải quyết việc
làm theo Quyết định số 2461/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy bản nhân
dân tỉnh giai đoạn 2011 – 2015; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2010-2015 đã xác định chỉ tiêu giải quyết việc
làm mới hằng năm là 15.000 lao động; Nghị quyết số 04/2012/NQ – HĐND
ngày 19/7/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Quy hoạch phát triển nhân lực
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012 – 2020. Thực hiện Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân tỉnh hằng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa
phương cụ thể hoá bằng các chương trình, kế hoạch tạo việc làm gắn với
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương để triển khai thực
hiện. Giai đoạn 2011-2015, tỉnh đã thực hiện giải quyết việc làm mới bình
quân năm đạt trên 24.000 lao động, trong đó lao động trong khu vực nông lâm
nghiệp thủy sản chiếm 51%, công nghiệp xây dựng chiếm 27,2%, Dịch vụ
chiếm 21,8%. Trong giai đoạn này Đề án Đào tạo nghề và giải quyết việc làm
của tỉnh tập trung triển khai thực hiện 05 hoạt động trọng điểm, đó là:
- Dự án vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm;
- Dự án hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động;
- Dự án nâng cao năng lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
Việc làm và dạy nghề;
- Dự án Dạy nghề cho lao động nông thôn
Bên cạnh sự phối hợp giữa các tổ chức, đơn vị thực hiện đã có sự phối hợp
giữa các chính sách, giữa các đề án đề tạo đà thuận lợi cho sự phát triển chung.
2.3.1.4. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá, sơ tổng kết.
Công tác kiểm tra, giám sát đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ được tổ chức
thường xuyên theo quy định, bám sát các quy định của pháp luật, kịp thời rút
kinh nghiệm khi thực hiện các chính sách cụ thể, qua đó góp phần nâng cao
52
năng lực cán bộ. Việc thực thi chính sách tạo việc làm diễn ra trong toàn tỉnh
trong đó có nhiều địa bàn vùng núi, khó khăn về nhiều mặt, với sự tham gia của
nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương không giống nhau, cũng như trình
độ, năng lực tổ chức điều hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà
nước không đồng đều, do vậy công tác kiểm tra chung và kiểm tra chuyên đề
đã được tiến hành thường xuyên và cơ bản đã kịp thời giải quyết các vấn đề
phát sinh trong điều kiện cho phép.
2.3.2. Tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm trên một số lĩnh
vực cụ thể:
2.3.2.1.Thực hiện chính sách tạo việc làm trong các ngành kinh tế
Giai đoạn 2011 - 2015 đã đào tạo nghề cho 176.442 người (trong đó
26.815 người lao động nông thôn), giải quyết việc làm mới cho 121.852 lao
động, bình quân đạt trên 24.300 lao động/năm so với kế hoạch giai đoạn là
75.000 lao động, đạt 162,47% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên lần thứ XIII đã đề ra.
Trong 5 năm, toàn tỉnh đào tạo được 176.442 người, trong đó trình độ
cao đẳng nghề: 5.961 sinh viên, trung cấp nghề: 21.299 học sinh, trình độ sơ
cấp và đào tạo thường xuyên: 149.182 học viên.
Trong số 149.182 học viên được đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo
thường xuyên có 26.815 người lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo từ
nguồn ngân sách nhà nước, đạt 67,04% so với mục tiêu của Nghị quyết (Năm
2011: 5.375 người, năm 2012: 4.084 người, năm 2013: 4.711 người, năm
2014: 6.424 người và năm 2015: 6.221 người).
53
Bảng 2.3. Biểu đồ thể hiện số người lao động nông thôn được hỗ trợ
đào tạo từ nguồn ngân sách Nhà nước qua các năm
Trong đó: Đào tạo nghề nông nghiệp (do Sở Nông nghiệp & PTNT
thực hiện): 5.781 người, kinh phí 9.654,07 triệu đồng; đào tạo nghề phi nông
nghiệp (do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện): 10.355 người,
kinh phí 20.638,1 triệu đồng; đào tạo nghề phi nông nghiệp (do UBND các
huyện, thành phố, thị xã thực hiện): 3.889 người, kinh phí 7.566,4 triệu đồng;
đào tạo nghề cho LĐNT thông qua các chương trình khác (Trung ương Hội
LHPN, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Nông dân, Trung tâm
khuyến công,… thực hiện trên địa bàn): 6.790 người.
Trong công nghiệp - xây dựng: Giai đoạn 2011-2015 Trung tâm DVVL
Thái Nguyên và doanh nghiệp có chức năng dịch vụ việc làm đã thực hiện:
- Phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyển dụng
lao động cho các doanh nghiệp lớn, tuyển dụng nhiều lao động (Công ty
TNHH Samsung Electronics, Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG,
Công ty TNHH Glonics...);
54
- Tổ chức 186 phiên giao dịch việc làm, tần suất tổ chức trung bình đạt
31 lần/năm, thu hút 1.458 lượt doanh nghiệp tham gia, 16.700 lượt người
đăng ký dự tuyển, số lao động được tuyển dụng thông qua sàn giao dịch việc
làm là 8.400 người (Số doanh nghiệp tham gia bình quân/phiên: 08 doanh
nghiệp; Số lao động tham gia bình quân/phiên: 370 lao động).
- Tư vấn, giới thiệu về việc làm cho 68.820 lượt người;
- Số lao động đến các đơn vị có chức năng hoạt động dịch vụ việc làm
đăng ký tìm việc làm gần 22645 người; Tỷ lệ lao động tìm việc làm qua hệ
thống Trung tâm dịch vụ việc làm là 68%; Tổng số lượt doanh nghiệp tham
gia đăng ký tuyển lao động là 1.556 đơn vị, trong đó đề nghị cung ứng/tuyển
là 132.565 vị trí việc làm; Số lao động trúng sơ tuyển là 18.598 người, chiếm
tỷ lệ 82,1% tổng số người đăng ký tìm việc và đáp ứng 14,02% nhu cầu
tuyển dụng các vị trí việc làm của doanh nghiệp.
Các hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm, tăng cường quản lý nhà nước,
kích cầu lao động, chất lượng cung nhân lực nâng lên, người lao động được
cải thiện cơ hội tìm kiếm việc làm góp phần làm thị trường lao động của tỉnh
có bước chuyển biến tích cực.
2.3.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm từ sự hỗ trợ của
quỹ quốc gia về việc làm
Trong hoạt động vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm, Ủy
ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội gắn với việc thực hiện chỉ tiêu giải quyết việc làm hằng năm;
trong đó có chỉ tiêu số lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn vay của Quỹ
quốc gia về việc làm.
Với nguồn vốn bổ sung và thu hồi hằng năm, Sở Lao động – Thương
binh và xã hội phối hợp cùng với Sở Kế hoạch & Đầu tư, Chi nhánh Ngân
hàng Chính sách xã hội tỉnh xây dựng kế hoạch trình UBND tỉnh phê duyệt
55
giao chỉ tiêu vốn vay giải quyết việc làm cho các huyện, thị xã, thành phố.
Triển khai, giám sát việc sử dụng vốn vay có hiệu quả, đúng quy định và mục
tiêu của Chương trình; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các hộ gia
đình, cơ sở sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh, thu hút và tạo việc làm cho người lao động.
Tính đến 31/12/2015, tổng dư nợ trên địa bàn tỉnh Chương trình cho
vay giải quyết việc làm là trên 90 tỷ đồng.
Doanh số cho vay từ nguồn vốn ngân sách Trung ương và ngân sách
tỉnh cấp cho Quỹ quốc gia việc làm là 145,616 tỷ đồng. Trong đó: Ngân sách
trung ương: 122,080 tỷ đồng; Ngân sách địa phương: 23,536 tỷ đồng. Giai
đoạn 2011 - 2015, hoạt động vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc
làm đã tạo việc làm cho 7.452 lao động.
Hoạt động cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần hỗ trợ
hộ gia đình và cơ sở sản xuất kinh doanh, có tác động tích cực giúp người lao
động, đặc biệt là lao động nông thôn có thu nhập, mở ra những mô hình phát
triển kinh tế tại địa phương, tạo việc làm ổn định cho một bộ phận người lao
động thất nghiệp, thiếu việc làm. Hiệu quả từ thực tế thực hiện chương trình đã
được khẳng định, rất nhiều dự án nổi bật, trở thành mô hình phát triển kinh tế
và giải quyết việc làm tiêu biểu tại địa phương.
Công tác thu hồi nợ được quan tâm và chú trọng thực hiện tương đối
hiệu quả. Một số dự án nợ quá hạn, đôn đốc nhiều lần không thu được nợ,
ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với các cơ quan liên quan thành lập
các tổ kiểm tra trực tiếp các dự án để đôn đốc trả nợ, đến nay chỉ còn rất ít dự
án nợ xấu do thiên tai. Tỷ lệ nợ quá hạn từ 0,92% năm 2011 xuống chỉ còn
khoảng 0,12% vào năm 2015.
56
2.3.2.3. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển thị trường lao động
Công tác triển khai thu thập, bổ sung thông tin thị trường lao động
được thực hiện hằng năm theo Thông tư số 25/2009/TT-BLĐTBXH ngày
14/7/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội "Hướng dẫn thu thập và
xử lý thông tin cung, cầu lao động". UBND tỉnh có quyết định số 2288/QĐ -
UBND ngày 12/9/2011 về việc phê duyệt kế hoạch thu thập thông tin cung,
cầu lao động cho cả giai đoạn, giao cho Sở Lao động – Thương binh và xã hội
hàng năm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai xây dựng kế
hoạch, bố trí kinh phí, hướng dẫn nghiệp vụ, cập nhật, xử lý, kiểm tra giám sát và
báo cáo kết quả về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định
Hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường lao động được thực hiện thông qua :
- Tư vấn giới thiệu việc làm, tổ chức các chợ phiên, sàn giao dịch việc
làm. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh đã thực hiện mở các phiên giao dịch
việc làm, tiếp đến là xây dựng và hoàn thành hệ thống sàn giao dịch việc làm
tại thành phố Thái Nguyên và nghiên cứu đầu tư sàn giao dịch tại TX. Phổ
Yên, tần suất số phiên giao dịch định kỳ tại sàn TP Thái Nguyên đã được
nâng từ 01 phiên/tháng lên 04 phiên/tháng.
Giai đoạn 2011-2015 Trung tâm DVVL Thái Nguyên và doanh nghiệp
có chức năng dịch vụ việc làm đã thực hiện:
Tổ chức 186 phiên giao dịch việc làm, tần suất tổ chức trung bình đạt
31 lần/năm, thu hút 1.458 lượt doanh nghiệp tham gia, 16.700 lượt người
đăng ký dự tuyển, số lao động được tuyển dụng thông qua sàn giao dịch việc
làm là 8.400 người (Số doanh nghiệp tham gia bình quân/phiên: 08 doanh
nghiệp; Số lao động tham gia bình quân/phiên: 370 lao động).
Tư vấn, giới thiệu về việc làm cho 68.820 lượt người;
Số lao động đến các đơn vị có chức năng hoạt động dịch vụ việc làm
đăng ký tìm việc làm gần 22645 người; Tỷ lệ lao động tìm việc làm qua hệ
57
thống Trung tâm dịch vụ việc làm là 68%; Tổng số lượt doanh nghiệp tham
gia đăng ký tuyển lao động là 1.556 đơn vị, trong đó đề nghị cung ứng/tuyển
là 132.565 vị trí việc làm; Số lao động trúng sơ tuyển là 18.598 người, chiếm
tỷ lệ 82,1% tổng số người đăng ký tìm việc và đáp ứng 14,02% nhu cầu
tuyển dụng các vị trí việc làm của doanh nghiệp.
Kết quả trên cho thấy việc thu hút nguồn cung lao động trong việc kết
nối cung - cầu trên thị trường lao động còn chiếm tỷ lệ thấp so với quy mô và
nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đặc biệt là khả năng cung ứng lao
động phổ thông.
- Về công tác thông tin thị trường lao động
Hằng năm, Sở Lao động - Thương binh Xã hội là cơ quan chủ trì thực
hiện, hướng dẫn các địa phương triển khai việc điều tra, thu thập thông tin
cung - cầu lao động; đồng thời kiểm tra, giám sát công tác điều tra, cập nhật,
lưu trữ và quản lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu thị trường lao động theo chỉ đạo của
Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Giai đoạn 2011 - 2015, công tác thông tin thị trường lao động đã thực hiện:
- Về thông tin cung lao động: tỉnh đã tổ chức điều tra thu thập thông tin
cung lao động của trên 1.482.903 triệu lượt hộ dân với 309.615 biến động.
Trong đó, thu thập thông tin cung lao động năm 2011 của 273.993 hộ dân, có
biến động tại 45.730 hộ; năm 2012 thu thập 286.934 hộ, biến động tại 54.611
hộ; năm 2013 thu thập 297.492 hộ, trong đó biến động 59.625 hộ; năm 2014
thu thập tin của 307.342 hộ, biến động 69.152 hộ; năm 2015 thu thập thông
tin của 317.142 hộ với 80.497 biến động.
- Về thông tin cầu lao động, từ năm 2011 đến 2015, tỉnh đã tổ chức điều tra
thu thập thông tin cầu lao động của 7.740 lượt doanh nghiệp. Trong đó năm 2012
rà soát thông tin của 1.669 doanh nghiệp, năm 2013 đã điều tra 1.904 doanh
nghiệp, năm 2014 là 2.129 doanh nghiệp, 2015 là 2.038 doanh nghiệp.
58
Các hoạt động trên bước đầu đã xây dựng được cơ sở dữ liệu về cung
cầu lao động cập nhật chung vào cơ sở dữ liệu quốc gia theo chỉ đạo của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội.
2.3.2.4. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề
Trong những năm qua, công tác dạy nghề của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục
phát triển, công tác quy hoạch, kế hoạch, quản lý Nhà nước về dạy nghề từng
bước đi vào nề nếp, mạng lưới các cơ sở dạy nghề và quy mô dạy nghề đang
tăng mạnh. Năm 1998, trên địa bàn tỉnh chỉ có tổng số 17 cơ sở dạy nghề, đến
nay đã tăng lên 50 cơ sở, tăng gần 300%, trong đó có 12 trường do Trung
ương quản lý và 38 trường, trung tâm, cơ sở dạy nghề do tỉnh quản lý.
Công tác xã hội hoá dạy nghề ở tỉnh cũng được quan tâm chú trọng.
Đến nay toàn tỉnh đã có 24 cơ sở dạy nghề ngoài công lập, chỉ tính từ
tháng 10/2008 đến nay, tỉnh đã cho phép thành lập 4 trường trung cấp
nghề và 1 trung tâm dạy nghề tư thục, huy động thêm nhiều nguồn lực
đầu tư cho dạy nghề.
Quy mô tuyển sinh học nghề tăng nhanh, tốc độ tăng bình quân cả giai
đoạn đạt trên 130%/năm. Năm 1998, quy mô đào tạo nghề toàn tỉnh mới đạt
6.700 người và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mới đạt 6,43% (tỷ lệ lao động
qua đào tạo nói chung đạt 15,63%), thì đến năm 2008 quy mô đào tạo nghề đã
đạt 22.070 người (gấp 3,29 lần) và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 16,6%
(gấp 2,58 lần so với năm 1998).
59
Bảng 2.4. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ lao động được đào tạo nghề tỉnh
Thái Nguyên năm 1998 và 2008
Ngành nghề được đào tạo cho người học đa dạng, phong phú, bao gồm:
Các nghề về cơ khí, luyện kim, khai khoáng, cắt gọt kim loại, hàn, điện công
nghiệp, dịch vụ sửa chữa, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất chế biến nông, lâm
sản, trồng trọt, chăn nuôi…Đối tượng đào tạo được tập trung vào những thanh
niên thuộc gia đình chính sách người có công, chính sách xã hội, lao động
nông thôn, người nghèo, người tàn tật, lao động bị thu hồi đất nông nghiệp,
trong đó đào tạo nghề cho thanh niên lao động nông thôn là định hướng được
đẩy mạnh nhằm tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển kinh tế - xã hội.
Kết quả cụ thể dạy nghề cho các đối tượng như sau:
- Số lao động nông thôn được dạy nghề: 176.442 người
- Số lượng bộ đội xuất ngũ được dạy nghề: 7.440 người
- Số lượng thanh niên sau cai nghiện ma tuý được dạy nghề: 602 người
60
Về thực hiện chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết
định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Tính đến hết tháng
2/2009, tổng số học sinh, sinh viên học nghề trong các nhà trường trên địa bàn
tỉnh được vay vốn là 1.222 người với tổng dư nợ là 10,474 tỷ đồng, trong đó:
Học nghề trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 1.150 học sinh, sinh
viên, với số vốn được vay là 9,954 tỷ đồng; học nghề dưới 1 năm là 72 học
sinh với số vốn được vay là 520 triệu đồng. Việc cho học sinh, sinh viên vay
vốn đã tạo điều kiện cho nhiều học sinh nghèo đến trường học tập, góp phần
đẩy mạnh sự phát triển của công tác dạy nghề
Hàng năm Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Sở Nội
vụ tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về quản lý Nhà
nước cho cán bộ của Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các huyện, thị
xã, thành phố và cán bộ văn hóa - xã hội của các xã, phường, thị trấn.
Phối hợp với cơ quan thông tấn báo chí như: Đài phát thanh - TH Thái
Nguyên, Báo Thái Nguyên thực hiện chuyên mục “Việc làm và đào tạo nghề”
mỗi tháng 02 số về chủ chương của tỉnh về Đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Phối hợp với một số doanh nghiệp, tổ chức các buổi truyền thông tại 25 xã,
thị trấn đưa thông tin tuyển dụng đến với người lao động một cách trực tiếp.
Hằng năm, thành lập đoàn công tác liên ngành gồm: Lao động –
Thương binh và Xã hội, Tài Chính, Ngân hàng CSXH kiểm tra, giám sát,
đánh giá việc tổ chức triển khai và kết quả thực hiện chương trình tại tất cả
các huyện, thị xã, thành phố và 76 xã, phường, thị trấn trọng điểm và một số
mô hình đào tạo nghề và giải quyết việc làm hiệu quả.
Về Dạy nghề cho lao động nông thôn, giai đoạn 2011 - 2015 đã đào tạo
nghề cho 176.442 người (trong đó 26.815 người lao động nông thôn), giải
quyết việc làm mới cho 121.852 lao động, bình quân đạt trên 24.300 lao
động/năm so với kế hoạch giai đoạn là 75.000 lao động, đạt 162,47% so với
61
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIII đã đề ra.
Qua các hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm, tăng cường quản lý nhà nước,
kích cầu lao động, chất lượng cung nhân lực nâng lên, người lao động được
cải thiện cơ hội tìm kiếm việc làm góp phần làm thị trường lao động của tỉnh
có bước chuyển biến tích cực
Trong số 149.182 học viên được đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo
thường xuyên có 26.815 người lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo từ
nguồn ngân sách nhà nước, đạt 67,04% so với mục tiêu của Nghị quyết (Năm
2011: 5.375 người, năm 2012: 4.084 người, năm 2013: 4.711 người, năm
2014: 6.424 người và năm 2015: 6.221 người), trong đó: Đào tạo nghề nông
nghiệp (do Sở Nông nghiệp & PTNT thực hiện): 5.781 người, kinh phí
9.654,07 triệu đồng; đào tạo nghề phi nông nghiệp (do Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội thực hiện): 10.355 người, kinh phí 20.638,1 triệu đồng; đào
tạo nghề phi nông nghiệp (do UBND các huyện, thành phố, thị xã thực hiện):
3.889 người, kinh phí 7.566,4 triệu đồng; đào tạo nghề cho LĐNT thông qua
các chương trình khác (Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ , Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Nông dân, Trung tâm khuyến
công,… thực hiện trên địa bàn): 6.790 người
2.3.2.5. Thực trạng thực hiện chính sách xuất khẩu lao động
Hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng được thực hiện thông qua chương trình do Bộ Lao động, thương binh và
Xã hội triển khai và các đơn hàng do những doanh nghiệp có chức năng
xuất khẩu lao động thực hiện. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Sở Lao
động, thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các địa phương để triển
khai thực hiện.
Số người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là một chỉ
tiêu thuộc kế hoạch hàng năm trong công tác giải quyết việc làm. Để thúc đẩy
62
hoạt động xuất khẩu lao động, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban
hành quyết định số 29/2013 /QĐ-UBND ngày 13/12/2013; Quyết định số
499/2014/QĐ – UBND ngày 17/3/2014 về chính sách hỗ trợ cho người lao
động khi tham gia xuất khẩu lao động, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài theo đơn đặt hàng của tỉnh, liên ngành Lao động,
thương binh và Xã hội, Tài Chính đã ban hành hướng dẫn 339/HDLN –
SLĐTBXH – STC ngày 14/03/2012 về cơ chế hỗ trợ giáo dục định hướng cho
lao động xuất khẩu. Theo đó, Sở Lao động phối hợp với Sở Tài chính, Sở Kế
hoạch & Đầu tư tham mưu lập dự toán kinh phí hằng năm và giai đoạn 2011-
2015, nhằm hỗ trợ về các chi phí học ngoại ngữ, giáo dục định hướng và vốn
vay ưu đãi cho người lao động, đặc biệt là các đối tượng thuộc diện chính
sách có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng còn được hỗ trợ học
nghề, chi phí khám sức khoẻ, visa, hộ chiếu..
Chương trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức:
- Hàn Quốc: là một thị trường tiềm năng của xuất khẩu lao động Việt
Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng, chương trình hợp tác đưa lao
động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc (EPS) với mức chi phí hợp lý, góp
phần quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh. Từ năm 2011
đến 2015, Thái Nguyên đã có 635 lao động sang Hàn Quốc làm việc. Hầu hết
lao động Thái Nguyên đi làm việc tại Hàn Quốc có việc làm ổn định, thu nhập
tốt, là kênh truyền thông quan trọng thân nhân, bạn bè, lao động địa phương
chú ý chương trình này. Tuy nhiên, từ năm 2012 trở lại đây, do có nhiều lao
động Việt Nam đã hết hạn hợp đồng nhưng cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc
nên phía bạn dừng tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc (trừ những
trường hợp về nước đúng hạn và được tái tuyển dụng, số lao động đã qua kỳ
kiểm tra tiếng Hàn tháng 12/2011 và tháng 5/2012).
63
Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên có 133 lao động làm việc tại Hàn Quốc
theo chương trình EPS hết hạn hợp đồng, trong đó có 42 trường hợp đang cư
trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc
- Nhật Bản: là thị trường tiềm năng với Chương trình tuyển thực tập
sinh theo thoả thuận hợp tác giữa Bộ Lao động, thương binh và Xã hội và Tổ
chức phát triển nhân lực quốc tế Nhật Bản (IM Japan). Trong tổng số 160 chỉ
tiêu được Cục Quản lý lao động Ngoài nước phân bổ, tỉnh đã có 57 lao động
trúng tuyển, 51 lao động đã xuất cảnh.
Hiện trên địa bàn tỉnh có 41 doanh nghiệp hoạt động tuyển chọn lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (trong đó 40 doanh nghiệp ngoài
tỉnh) với các thị trường chủ yếu là Nhật Bản, Đài Loan, Malaisia, UAE…
Từ năm 2011 - 2015, toàn tỉnh có 6.521 lao động đã đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng. Trong đó, Hàn Quốc có 635 người, Nhật Bản 621 người,
Đài Loan 2.786 người Malaysia: 812 người, thị trường khác là 860 người.
Về hoạt động hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng theo Quyết định số 29/2013/QĐ-UBND ngày 13/12/2012 và Quyết định
số 499/2014/QĐ – UBND ngày 17/03/2014 đã hỗ trợ cho: Số người được vay
vốn: 151 người với số tiền cho vay là 4.123 triệu đồng; Số người tham gia
nhận hỗ trợ chi phí học ngoại ngữ, giáo dục định hướng: 89 người với tổng số
tiền 437 triệu đồng.
2.4. Những tồn tại và nguyên nhân
2.4.1. Tồn tại
Giai đoạn 2011 - 2015, công tác tạo việc làm với các hoạt động trọng
tâm trên tuy đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn những tồn tại:
Thứ nhất, Tỉnh chưa thành lập được quỹ giải quyết việc làm của tỉnh,
mặc dù giai đoạn này cả tỉnh đã bổ sung được 23,536 tỷ đồng do vậy không
có cơ chế quản lý điều hành đối với nguồn này.
64
Hoạt động cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm tuy đã góp phần
tích cực hỗ trợ giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động song quá
trình thực hiện còn một số tồn tại như: xu hướng cho đối tượng hộ gia đình
vay ngày càng chiếm tỷ trọng cao (trên 75%), ảnh hưởng đến chỉ tiêu tạo việc
làm mới, thúc đẩy chuyển dịch lao động hạn chế; việc ưu tiên đối tượng chính
sách chưa được quan tâm thực hiện. Nguyên nhân cơ bản của những vấn đề
trên là do suất đầu tư/lao động (mức vay tối đa không quá 20 triệu đồng/lao
động) còn thấp, đối với dự án có mức vay trên 30 triệu đồng phải có tài sản
thế chấp, cầm cố theo Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg về cơ chế quản lý, điều
hành vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm đã không còn phù hợp với
nhu cầu và thực tế sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nguồn vốn chỉ đáp ứng
khoảng 25 - 30% nhu cầu vay của nhân dân, chưa thu hút được các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các ngành thu hút nhiều lao
động (công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ) tham gia vay vốn, tạo nhiều
việc làm ổn định. Nguồn vốn hạn chế nên ảnh hưởng của chương trình nói
chung chưa lớn, chưa hỗ trợ tạo mô hình giải quyết việc làm điển hình.
Thứ hai, hoạt động hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
đã được thúc đẩy song số lượng lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài vẫn còn khiêm tốn so với yêu cầu của nhân dân (giai đoạn từ năm 2011
- 2015 ước toàn tỉnh có ... lao động xuất khẩu). Nguyên nhân cơ bản là do ảnh
hưởng chung của suy giảm kinh tế và bất ổn chính trị ở một số thị trường lao
động nước ngoài giai đoạn 2008 - 2012 dẫn đến việc làm của người lao động
không được đảm bảo, thị trường của các doanh nghiệp thu hẹp, tác động đến
tâm lý người tham gia xuất khẩu lao động. Mặt khác, việc dễ dàng tìm các
công việc thời vụ khác tại địa phương tạo ra tâm lý bằng lòng, người lao động
chưa quan tâm đi đến thị trường lao động ngoài nước dẫn đến nhận thức của
người lao động về xuất khẩu lao động chưa đầy đủ nên khó khăn trong nguồn
65
cung lại càng lớn. Các thị trường tuyển lao động có môi trường làm việc khắc
nghiệt, mức lương lại tương đối thấp so với kỳ vọng như Malaysia, Qatar, khu
vực Trung Đông không hấp dẫn người lao động; các thị trường có thu nhập
cao nhưng chi phí lớn, tuyển chọn lao động khắt khe (như Nhật bản, Hàn
Quốc, Đài loan...) nhiều người lao động không đủ tiêu chuẩn, khả năng tài
chính tham gia; Một số lao động gặp rủi ro phải về nước trước hạn đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng của những lao động muốn đi làm việc ở nước
ngoài). Do đó, số lao động được tạo việc làm từ xuất khẩu lao động hằng năm
chưa đóng góp nhiều vào kết quả tạo việc làm, các chính sách hỗ trợ cũng
chưa thu hút được nhiều đối tượng tham gia.
Thứ ba, thông tin về cung - cầu lao động chưa được cung cấp kịp thời tới
các nhà tuyển dụng, người lao động, cơ sở đào tạo, đặc biệt những nhà hoạch
định chính sách, thực tế kết nối các bên trên thị trường lao động và tình trạng khó
gặp nhau giữa cung - cầu nhân lực vẫn là một thách thức. Đặc biệt là việc thu hút
cung lao động tham gia sàn giao dịch việc làm và công tác phối hợp giữa các bên
(đơn vị hoạt động dịch vụ việc làm, nhà tuyển dụng, các cơ sở đào tạo và các địa
phương) trên thị trường lao động chưa thật nhịp nhàng và gắn kết. Công tác đào
tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vẫn
còn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của tỉnh. Bên cạnh đó,
hệ thống thông tin thị trường lao động với cơ sở dữ liệu cung - cầu lao động về
việc làm chính thức, phục vụ công tác quản lý, dự báo về lao động việc làm chưa
hoàn thiện và đồng bộ, đòi hỏi nhiều nỗ lực, giải pháp của các cấp, ngành nhằm
thúc đẩy, hoàn thiện công tác này trong thời gian tới.
2.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại
2.4.2.1 Về Tài chính.
UBND tỉnh và các ngành liên quan chưa chú trọng cân đối để thành
lập Quỹ giải quyết việc làm trong tỉnh và do vậy cũng chưa có cơ chế Vận
66
hành quỹ để huy động cũng như sử dụng quỹ trong việc tạo việc làm trong
tỉnh. Do kết quả phát triển của nềm kinh tế còn hạn chế nên nguồn vốn dành
cho tạo việc làm chỉ đáp ứng khoảng 25 - 30% nhu cầu vay của nhân dân,
chưa thu hút được các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt
trong các ngành thu hút nhiều lao động. Nguồn vốn hạn chế nên ảnh hưởng
của chương trình nói chung chưa lớn, chưa hỗ trợ tạo mô hình giải quyết việc làm
điển hình.
2.4.2.2.Về xuất khẩu lao động.
Trong những trước, công tác tuyên truyền và tổ chức đi xuất khẩu Lao
động có những bước thăng trầm do chưa có sự quan tâm thích đáng thường
xuyên, liên tục của các ngành và địa phương. Chưa có nhiều chính sách hỗ trợ
đặc thù như một số tỉnh khác(Đề án 1000 lao động học tiếng Nhật trong 2014-
2016 của tỉnh Hà Nam, chương trình hỗ trợ cho lao động bị thu hồi đất đi xuất
khẩu như tỉnh Vĩnh Phúc...) Việc tạo nguồn lao động xuất khẩu chưa tương
xứng với tiềm năng do yếu cả khâu tổ chức và công tác tuyên truyền, vận
động. Một số nơi có sự len lỏi của các hiện tượng tiêu cực trong xuất khẩu lao
động, chưa tạo niềm tin tuyệt đối cho các đối tượng tham gia.
2.4.2.3. Kế hoạch, cung – cầu lao động
Bài toán kế hoạch, cung – cầu lao động còn chưa được quan tâm và giải
quyết thỏa đáng. Chế độ thống kê, theo dõi biến động và dự báo, hẹ thống
thông tin chưa hiệu quả. Tình hình này sẽ còn trầm trọng hơn nếu không
được sớm củng cố do những nhân tố biến động mới như tình trạng lao
động, đặc biệt Lao động nữ trở về từ các khu công nghiệp(đặc biệt là khu
Công nghệ cao) khi còn tuổi lao mà không đáp ứng được cường độ lao
động ở những nơi này.
67
Tiểu kết Chương II.
Chương này đã đánh giá thực trạng thực hiện các chính sách tạo việc
làm của tỉnh Thái Nguyên theo các các nội dung cơ bản của chu trình thực
hiện chính sách và được đánh giá trên 05 nội dung cơ bản là: chính sách tạo
việc làm trong các ngành kinh tế, chính sách tạo việc làm thông qua quỹ hỗ
trợ việc làm quốc gia, chính sách hỗ trợ thị trường lao động, chính sách dạy
nghề và chính sách xuất khẩu lao động. Đã đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách tạo việc làm nêu kết quả và tồn tại, chỉ ra các nguyên nhân của
những tồn tại . Đây là cơ sở thực tiễn cho đề xuất giải pháp trong Chương 3.
68
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Mục tiêu, phương hướng thực hiện chính sách tạo việc làm của
tỉnh Thái nguyên
3.1.1. Mục tiêu
Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Thái Nguyên đến
năm 2020, có thể xác định mục tiêu giải quyết việc làm của tỉnh giai đoạn
2016 – 2020 như sau:
Hỗ trợ tạo việc làm, tăng cường xuất khẩu lao động và phát triển thị
trường lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2016 - 2020 (đến năm 2020 lực lượng lao động trong ngành dịch vụ 32,92%;
ngành nông - lâm - ngư nghiệp 25,88%; ngành công nghiệp - xây dựng 41,2%).
- Mỗi năm tạo việc làm tăng thêm cho 15.000 lao động trở lên.
3.1.2. Phương hướng
- Pháp triển các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp. Chú
trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp sử dụng nhiều lao
động, các làng nghề, phát triển toàn diện kinh tế-xã hội nông thôn, nông
nghiệp để thu hút nhiều lao động vào làm việc. Thực hiện tốt công tác kiểm
soát chỉ tiêu chỗ làm việc mới đối với các cấp, các ngành. Kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm.
- Các doanh nghiệp duy trì, đảm bảo việc làm cho người lao động,
chống sa thải công nhân hàng loạt. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp
để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối
tượng yếu thế trong thị trường lao động.
69
- Duy trì và tạo việc làm tăng thêm thông qua dự án vay vốn tạo việc
làm từ Quỹ quốc gia về việc làm cho 1.000 lao động/năm; Đưa lao động đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng: 1.500 người/năm, 7.500
người trở lên/5 năm;
- Hỗ trợ chi phí đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết,
làm thủ tục xuất cảnh cho lao động là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ
nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người
có công với cách mạng đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ chi phí
học ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho lao động thuộc các đối
tượng còn lại đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Giải quyết việc làm thông qua các dự án, hoạt động thực hiện chính
sách việc làm công, tự tạo việc làm: ưu tiên tối đa cơ hội việc làm cho lao
động tại các xã có công trình dự án phát triển kinh tế - xã hội sử dụng vốn nhà
nước. Giải quyết việc làm cho khoảng từ 12.500 người/năm trở lên.
- Duy trì và nâng cao hiệu quả các hình thức kết nối thị trường lao
động, nâng cao tỷ lệ lao động tìm việc làm qua hệ thống Trung tâm Dịch vụ
việc làm lên trên.
- Hỗ trợ đào tạo nghề, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
cơ bản đáp ứng nhu cầu công nhân kỹ thuật cho mục tiêu phát triển các ngành
kinh tế trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020
3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách tạo việc làm của
tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020
3.2.1. Giải pháp thực hiện chính sách tạo việc làm thông qua chương
trình phát triển kinh tế trọng điểm
Cần xác định rõ, giải quyết việc làm là vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp,
công tác tạo việc làm luôn song hành cùng với sự phát triển kinh tế xã hội. Do
vậy, giải pháp quan trọng nhất tạo ra nhiều chỗ việc làm chính là việc thực
70
hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển
sản xuất kinh doanh mà tỉnh đã đề ra, huy động các nguồn lực để ngày càng
nhiều các dự án đầu tư quy mô lớn được thực hiện. Cùng với đó là các biện
pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho các đơn vị dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ
ổn định và phát triển, là tiền đề để duy trì ổn định việc làm và tạo việc làm
tăng thêm.
Với mục tiêu về kinh tế phấn đấu đến năm 2020 Thái Nguyên trở thành
tỉnh công nghiệp của cả nước, với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt bình
quân hàng năm là 12 – 13% trong giai đoạn năm 2010 – 2020. Trong đó,
ngành nông nghiệp của tỉnh tăng trưởng khoảng 5 – 5,5%, ngành công nghiệp
tăng khoảng 13,5% - 14,5%, ngành dịch vụ tăng khoảng 12% - 13% trong cả
giai đoạn. GDP/người tính theo USD giá hiện hành đạt trên 800 USD vào
năm 2015 bằng khoảng 77% mức bình quân cả nước (1.050 USD) và khoảng
2.200 – 2300 USD vào năm 2020, bằng bình quân cả nước.
Theo từng khu vực địa lý của tỉnh: Các hướng mà tỉnh hướng tới được
phân theo từng khu vực trên địa bàn tỉnh.
Đối với khu vực miền núi, phải thực hiện hiệu quả chính sách di dân,
định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc. Giải quyết việc làm theo hướng
đẩy mạnh cây công nghiệp dài ngày và cây công nghiệp hàng năm. Chú trọng
giao đất, giao rừng cho đồng bào miền núi. Phát triển chăn nuôi theo hướng
cải tạo giống cây trồng vật nuôi và nâng cao chất lượng gia súc, gia cầm, chú
trọng phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh đó cần tập trung hướng dẫn đồng
bào miền núi kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, tạo điều kiện cho hộ vay vốn
trên cơ sở đó tự giải quyết việc làm.
Đối với khu vực đồng bằng và nông thôn, phải chú trọng giải quyết
việc làm theo hướng phát triển sản xuât nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao,
kết hợp với chế biến nông sản, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn.
71
Cần chú trọng xây dựng các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng về điều
kiện tự nhiên và lợi thế của từng vùng, khuyến khích mở rộng, phát triển tiểu
thủ công nghiệp tập trung đào tạo nghề truyền thống.
Đối với khu vực thành thị, cần chú trọng giải quyết việc làm theo
hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung, sản xuất công nghiệp quy mô
lớn phù hợp với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, cũng như các ngành nghề thuộc
khu vực công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh đó, chú trọng
phát triển khu vực dịch vụ (dịch vụ sản xuất, dịch vụ sinh hoạt, tài chính, hạ
tầng cơ sở... ).
Theo nhóm ngành kinh tế của tỉnh
Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Tập trung ưu tiên đầu tư
phát triển các ngành mà tỉnh có ưu thế sau:
Phát triển ngành công nghiệp luyện kim như sản xuất thép, sản xuất
thiếc, sản xuất kẽm... Phấn đấu đến năm 2020 trở thành tỉnh dẫn đầu về sản
xuất thép cả về số lượng và chất lượng, đóng góp vào GDP của tỉnh cao nhất
trong ngành công nghiệp. Trong thời gian tới, ngành công nghiệp luyện kim
cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở: khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài
nguyên sẵn có, nâng cao giá trị chế biến tinh khoáng sản sau khai thác,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế huy động mọi nguồn lực xã hội, thu hút
nhân tài và lao động chất lượng cao vào phát triển ngành luyện kim.
Phát triển ngành cơ khí (sản xuất động cơ Diesel và các loại phụ tùng,
linh kiện dùng cho xe máy và ô tô, phụ tùng máy mỏ và phụ tùng thiết bị khai
khoáng, dụng cụ y tế...). Ngành công nghiệp cơ khí cần được phát triển trên
cơ sở: Gắn phát triển công nghiệp cơ khí với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
nói chung và với phát triển các ngành công nghiệp khác nói riêng. Phát triển
cơ khí đáp ứng cơ bản các nhu cầu của tỉnh về thiết bị máy móc phục vụ nông
nghiệp, áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, thực hiện đầu tư có trọng điểm.
72
Phát triển công nghiệp khai thác khoáng sản: Ngành này cần được
ưu tiên phát triển theo hướng tập trung khai thác các khoáng sản có giá trị
kinh tế cao, trữ lượng lớn, đầu tư công nghệ hiện đại để tăng sản lượng,
giảm giá thành, bảo vệ môi trường, đa dạng hóa quy mô khai thác khoáng
sản trên cơ sở không lãng phí tài nguyên dưới sự kiểm soát của cơ quan
quản lý Nhà nước.
Phát triển ngành công nghiệp hóa chất: đây là ngành có nhiều tiềm
năng của tỉnh vì đây là ngành có nhiều việc làm mà thu hút lực lượng lao
động không đòi hỏi nhiều về chất lượng và trình độ chuyên môn, phù hợp với
thực trạng lao động hiện nay của tỉnh Thái Nguyên.
Phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng: vì ngành sẽ thu hút
được nhiều lao động vào ngành với quy mô thị trường của ngành lớn, nhu cầu
về vật liệu xây dựng trong tỉnh ngày càng tăng dựa trên lợi thế về nguồn
nguyên liệu có sẵn phong phú.
Phát triển ngành công nghiệp dệt may: vì ngày này đang có tốc độ phát
triển khá cao và có xu hướng là nhu cầu với sản phẩm dệt may đang tăng khá
nhanh nhưng lại có đòi hỏi về yêu cầu chất lượng sản phẩm nên giải pháp đầu
tư trong ngành này là cải tiến trang thiết bị để nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm, giảm giá thành, chú trọng đầu tư mới các nhà máy sợi, dệt,
nhuộm, chú trọng đầu tư đào tạo nâng cao tay nghề của công nhân, chú trọng
phát triển thị trường....
Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản: phát triển vùng
nguyên liệu ổn định, đầu tư thay thế dần các trang thiết bị, công nghệ, đa dạng
hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng các cơ sở chế biến tập trung,
giảm dần các sản phẩm sơ chế, tăng nhanh các sản phẩm chủ lực (bia, rau
quả, chế biến thịt hộp...).
73
Phát triển các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp tập trung: Thái
Nguyên có các điều kiện để hình thành và phát triển nhanh chóng các khu,
cụm công nghiệp tập trung. Vì thứ nhất là quỹ đất của tỉnh có thể bố trí cho
phát triển công nghiệp khá lớn (khoảng 5342 ha). Thứ hai là hệ thống giao
thông khá phát triển, đảm bảo giao thông thuận lợi giữa Thái Nguyên với bên
ngoài. Thứ ba là hạ tầng cơ sở ngày càng được củng cố và nâng cấp. Cuối
cùng là tỉnh có nguồn nhân lực phong phú và có chất lượng
Phát triển các làng nghề mà tỉnh Thái Nguyên có tiềm năng, lợi thế về
nguồn nguyên liệu, vật liệu, nhân lực. Mặc dù cơ cấu tỷ trọng lao động và
GDP trong nông nhiệp của Thái Nguyên đang ngày càng giảm. Tuy nhiên
nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm nói
riêng và trong phát triển kinh tế của tỉnh nói chung. Khu vực nông nghiệp cần
phát triển một cách đa dạng, bền vững theo hướng sản xuất gắn với công
nghiệp chế biến: cùng với các sản phẩm chủ lực như: các sản phẩm về mây
đan tre, nguyên liệu từ sản phẩm nông nghiệp.
Trong nông nghiệp
Phát triển trồng trọt: hình thành các vùng sản xuất rau quả tập trung,
chất lượng cao tại các huyện có điều kiện như các huyện Phú Bình, Phổ Yên,
Đại Từ, Thị xã Sông Công, tổ chức thâm canh ở trình độ cao tại các vùng chủ
động được nước tưới, áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật. Khai thác tối
đa lợi thế trồng các loại rau ôn đới, phát triển mạnh gieo trồng các loại cây
công nghiệp ngắn hạn và dài ngày tạo thành các vùng nguyên liệu tập trung
phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Phát triển chăn nuôi: ổn định và phát triển các loại gia súc gia cầm,
trong đó ưu tiên phát triển đàn lợn, đàn bò... Tận dụng những lợi thế về đặc
điểm điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng thủy sản tại các huyện có hồ
lớn. Lựa chọn và áp dụng các hình thức nuôi, kỹ thuật nuôi cho phù hợp với
74
điều kiện cụ thể của từng vùng. Thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước cho các
hộ nuôi trồng thủy sản ở vùng sâu, vùng xa, trợ giá cho các cơ sở sản xuất
giống thủy sản, hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản gặp rủi ro.
Đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông – khuyến lâm phát triển sản
xuất.. Các hoạt động này trang bị kiến thức và kỹ năng ra quyết định sản xuất
kinh doanh, xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với thị trường, điều kiện tự
nhiên và lợi thế cạnh tranh của địa phương. Cung cấp kiến thức và kỹ năng về
khuyến nông, lâm, ngư nghiệp thông qua áp dụng khuyến nông có sự tham
gia của người dân, gắn kết chặt chẽ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật với giới thiệu
phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản chế biến hạch toán kinh tế và tiêu thụ
sản phẩm. Hỗ trợ việc hình thành các tổ chức khuyến nông tự quản, cung cấp
các thông tin khoa học kỹ thuật và thị trường cho nông dân, nhất là người
nghèo ở vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số. Đến hết năm 2010, có
khoảng 45.000 lượt nghèo được tập huấn, tham gia mô hình, hội nghị về
khuyến nông lâm ngư nghiệp và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, có trên
70% số xã có cán bộ khuyến nông cơ sở, nhu cầu vốn khoảng 30 tỷ đồng
trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 25 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 3
tỷ đồng và huy động cộng đồng là 2 tỷ đồng.
Phát triển các làng nghề: Thái Nguyên đề ra mục tiêu phấn đấu đến
năm 2020 tăng thêm 59 làng nghề để toàn tỉnh có 180 làng nghề, đủ sức làm
đòn bẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mục
tiêu cụ thể được xác định là từ nay đến năm 2010 sẽ tăng thêm 22 làng nghề,
đến năm 2015 tăng thêm 22 làng nghề nữa và năm 2020 sẽ tăng thêm 15 làng
nghề. Trong đó, mở mới 20 làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ và 20 làng nghề trồng
nấm, thu hút gần 8.300 hộ với trên 18.000 lao động. Ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp và các nghề truyền thống của Thái Nguyên như sản xuất chế biến chè,
chế biến thực phẩm, nghề đan lát... đã phát triển khá mạnh, tạo bước khởi đầu
75
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Toàn tỉnh có khoảng
13.300 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề với gần 26.500 lao
động, thu nhập từ ngành nghề đạt gần 210 tỷ đồng. Tuy nhiên, mới chỉ có 12
làng nghề được công nhận, còn lại 109 làng nghề chưa được công nhận vì quy
mô còn quá nhỏ, giá trị sản xuất và số lao động còn ở mức khiêm tốn, các sản
phẩm của làng nghề chưa có thương hiệu, chất lượng không cao, mức độ tiêu
thụ còn hạn chế. Qua khảo sát điều tra ở một số làng nghề cho thấy, những
năm qua, các làng nghề đã chú ý hơn đến việc áp dụng máy móc, thiết bị vào
sản xuất nhưng vẫn còn ở mức độ thấp, giữa các ngành và các vùng chưa
đồng đều, vấn đề ứng dụng và đổi mới công nghệ còn gặp nhiều khó khăn về
vốn, nhân lực... Các ngành nghề có số làng nghề chiếm tỷ trọng cao trong
tổng số làng nghề ở Thái Nguyên như mây tre đan, sản xuất vật liệu xây dựng,
chế biến nông sản, chế biến chè, đồ gỗ mỹ nghệ... có mức độ cơ giới hoá còn
nhỏ bé, chủ yếu chỉ ở khâu sơ chế ban đầu như chẻ tre, cưa, xẻ gỗ.... Nhưng
hiện nay sản xuất ở làng nghề còn nhỏ, manh mún – đây là hạn chế của làng
nghề tại tỉnh Thái Nguyên.
Trong thương mại, dịch vụ.
Vẫn là tận dụng phát triển các ngành mà tỉnh có những lợi thế trước: ưu
tiên đầu tư phát triển mạnh ngành du lịch, tập trung khai thác các thị trường
trong nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... cũng như thị trường nước
ngoài như thị trường Tây Âu, Nhật, Trung Quốc, khu vực ASEAN... Đối với
ngành này phát triển theo đa dạng hóa các loại hình và sản phẩm du lịch (du
lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch vui chơi giải trí thể thao, du lịch
văn hóa...). Thực hiện các chính sách nhằm thu hút đầu tư mạnh mẽ vào du
lịch, tạo ra hệ thống cơ sở vật chất du lịch có chất lượng cao, đồng bộ tạo
nhiều sản phẩm du lịch đặc thù có khả năng cạnh tranh, bảo vệ tôn tạo và phát
triển các nguồn tài nguyên và cải thiện môi trường du lịch.
76
Phát triển thương mại: phấn đấu đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm
giao dịch thương mại, bán buôn bán lẻ, xúc tiến thương mại và vận động đầu
tư lớn của vùng trung du và miền núi phía Bắc. Trong thời gian tới Thái
Nguyên cần: Xây dựng 2 – 3 trung tâm thương mại lớn có chức năng vừa là
trung tâm giao dịch thương mại, vừa là nơi cung cấp văn phòng cho các công
ty, văn phòng đại diện cho thuê, xây dựng các trung tâm thông tin tư vấn và
hỗ trợ các doanh nghiệp, hoàn thiện mạng lưới bán buôn và bán lẻ hàng hóa
dịch vụ, thực hiện các chương trình chính sách hỗ trợ cho các hoạt động đầu
tư, xúc tiến thị trường, lập các văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài,
khuyến khích phát triển các dịch vụ trọn gói... Đây là thị trường tốt và ngày
càng được mở rộng thu hút nhiều lao động vào ngành này.
3.2.2. Giải pháp thực hiện chính sách tạo việc làm thông qua chính
sách kinh tế - tài chính - tiền tệ
Tiếp tục và đầu tư kinh phí cho hoạt động cho vay từ Quỹ quốc gia về
việc làm, định hướng ưu tiên nguồn vốn cho vay đối với các doanh nghiệp,
hợp tác xã, tổ hợp tác phi nông nghiệp, thu hút các cơ sở sản xuất kinh doanh,
đặc biệt trong các ngành thu hút nhiều lao động (công nghiệp chế biến, chế
tạo, dịch vụ) tham gia vay vốn, nhất là sau khi Nghị định số 61/2015/NĐ-CP
ngày 09/7/2015; Quan tâm hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng
nhiều đối tượng lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số; ưu tiên
người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách, thanh niên, người
mất việc làm, lao động nông thôn vùng đặc biệt khó khăn, lao động sau khi tốt
nghiệp các lớp đào tạo nghề vay vốn tự tạo việc làm, đầu tư sản xuất kinh
doanh; Tăng cường kiểm tra của Ban đại diện ngân hàng Chính sách xã hội
các cấp để đảm bảo mục tiêu tạo việc làm của chương trình.
Hỗ trợ tạo việc làm, duy trì việc làm bền vững, tăng thu nhập cho người
lao động, tăng cường xuất khẩu lao động và phát triển thị trường lao động.
77
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 –
2020(đến năm 2020 lực lượng lao động trong Nông, lâm, ngư nghiệp 25,88%;
Công nghiệp, xây dựng 41,2 %; Dịch vụ 32,92%).
Hoạt động 1: vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm
Kinh phí thực hiện: 65.000 triệu, Ngân sách Trung ương: 45.000 triệu
(trong đó vốn cấp mới: 15.000 triệu), Ngân sách địa phương: 20.000 triệu.
Chi nhánh ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh chủ trì phối hợp với UBND cấp
huyện, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, các hội đoàn thể thực hiện
Hoạt động 2: Hỗ trợ đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
theo hợp đồng.
Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho 5.000 lao động. Kinh
phí: 5.000 triệu(ngân sách Trung ương: 3.000 triệu, ngân sách tỉnh: 2.000
triệu). Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Chi nhánh
ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện.
Hoạt động 3: Chính sách việc làm công.
Kinh phí thực hiện: Được cấu thành trong dự toán các công trình, dự án
thực hiện chính sách việc làm công. Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân
dân cấp xã phối hợp với các sở ngành liên quan tổ chức thực hiện.
Hoạt động 4: Hỗ trợ phát triển thị trường lao động.
Kinh phí thực hiện: 50.000 triệu. Ngân sách Trung ương: 41.000 triệu
(đầu tư xây dựng Trung tâm Dịch vụ việc làm của tỉnh tại số 2a – Đường Chu
Văn An TP Thái Nguyên). Ngân sách tỉnh: 9.000 triệu (trong đó, thu thập, lưu
trữ, tổng hợp thông tin thị trường lao động: 7.500 triệu; Hỗ trợ tổ chức sàn
giao dịch việc làm: 1.000 triệu; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: 500 triệu.Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp
huyện thực hiện.
78
Hoạt động 5: Hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ
quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện.
Kinh phí thực hiện: 15.000 triệu (Ngân sách trung ương). Sở Lao động
– Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Công
an tỉnh, Tỉnh đoàn thanh niên Chi nhánh ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh và
Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện.
Hoạt động 6: Tuyên truyền, nâng cao năng lực, giám sát, đánh giá thực
hiện chương trình.
Kinh phí thực hiện: 750 triệu (Ngân sách tỉnh). Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch – Đầu tư, Sở Tài
chính, Chi nhánh ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh và Ủy ban nhân dân
cấp huyện thực hiện.
Tổng kinh phí thực hiện chương trình là: 135.750 triệu đồng, trong đó:
Ngân sách Trung ương: 104.000 triệu, Ngân sách địa phương: 31.750 triệu
với mục tiêu:
- Trong 05 năm, tạo việc làm tăng thêm cho 75.000 người. Bình quân
mỗi năm tạo việc làm tăng thêm cho 15.000 lao động trở lên, cụ thể:
- Hàng năm duy trì và tạo việc làm thông qua dự án vay vốn tạo việc
làm từ quỹ quốc gia về việc làm cho 1.000 lao động trở lên(trong đó việc làm
tăng thêm cho 1.000 lao động)
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng:
1.500 người/năm trờ lên.
- Giải quyết việc làm thông qua các dự án, hoạt động thực hiện chính
sách việc làm công, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác của tỉnh
và tự tạo việc làm: 12.500 người/năm trở lên.
Phấn đấu cơ cấu lao động Nông, lâm, ngư nghiệp: 25,88%; Công
nghiệp, xây dựng: 41,2 %; Dịch vụ : 32,92%)
79
- Nâng tỷ lệ lao động tìm việc làm qua hệ thống Trung tâm dịch vụ việc
làm lên trên 50%.
Hoạt động hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: ban
hành nghị quyết, quyết định mới thay thế cho quyết số 29/2013/QĐ-UBND
và quyết định 499/2014/QĐ - UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện
chính sách hỗ trợ lao động tỉnh Thái Nguyên đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài theo hợp đồng giai đoạn 2016-2020; tạo điều kiện thuận lợi tối đa
cho người lao động tham gia tuyển chọn đi xuất khẩu lao động; triển khai
thực hiện tốt Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 “quy định về
chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm” của Chính
phủ trong việc cho vay ưu đãi với người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
3.2.3. Giải pháp thực hiện chính sách tạo việc làm qua phát triển thị
trường lao động
Mục tiêu phấn đấu đào tạo nguồn lao động đến năm 2020 đạt 68% -
70%/ tổng số LLLĐ toàn tỉnh. Nhóm giải pháp thực hiện chương trình giảm
nghèo và nhóm giải pháp nâng cao mức sống dân cư. Ngoài ra, tỉnh còn có đề
án đào tạo nghề và giải quyết việc làm tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-
2015. Đề án xuất khẩu lao động tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015 do
SLĐTB&XH tỉnh Thái Nguyên thực hiện. Đối với hoạt động hỗ trợ phát triển
thị trường lao động: Đầu tư cơ sở máy móc, trang thiết bị để tiếp nhận và
quản lý dữ liệu cung - cầu lao động tại tỉnh. Nâng cao hiệu quả kết nối trên thị
trường lao động thông qua việc đẩy mạnh phối hợp, kết nối thông tin giữa các
bên trên thị trường lao động, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường; đa dạng
hóa các hình thức tạo việc làm kết hợp đào tạo nghề; nâng cao năng lực tư
vấn, giới thiệu việc làm của các đơn vị hoạt động dịch vụ việc làm và trong
vận hành các sàn giao dịch việc làm; đổi mới và làm phong phú hoạt động của
80
các phiên giao dịch việc làm, xây dựng thành địa chỉ tin cậy của người lao
động tìm việc và doanh nghiệp tuyển lao động; đẩy mạnh tuyển truyền, nâng
tỷ lệ giao dịch việc làm qua trung tâm và sàn giao dịch việc làm.
Tuyên truyền làm chuyển đổi nhận thức của xã hội về vấn đề việc làm
và phương thức giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường. Với cơ chế
kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước đứng ra trực tiếp giải quyết việc
làm cho người lao động. Nhưng với cơ chế thị trường như hiện nay thì Nhà
nước đóng vai trò tạo dựng môi trường pháp luật, chính sách nhằm khuyến
khích đầu tư tạo mở rộng việc làm, khuyến khích người lao động tự tìm việc
làm, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác.
Tổ chức thông tin thị trường lao động: nắm bắt diễn biến cung cầu lao
động nhằm điều chỉnh, di chuyển lao động từ nơi thừa sang nơi thiếu, thu hút
lao động các ngành nghề đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao mà tỉnh không đáp
ứng được từ nơi khác đến, đồng thời hỗ trợ người lao động trong tỉnh đi làm
việc ở địa bàn khác phù hợp với nguyện vọng, kỹ năng họ có. Tại tỉnh Thái
Nguyên, công tác này nên tập trung vào các đơn vị có liên quan như các trung
tâm Giới thiệu việc làm, phòng quản lý lao động. Thị trường lao động được
xã hội hóa, Nhà nước cần có biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế các
mặt tiêu cực. Cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát điều chỉnh quan hệ
cung cầu lao động thông qua hệ thống cơ chế chính sách pháp luật để đảm
bảo công bằng và trợ giúp cho người lao động nói chung và nhóm lao động
yếu thế nói riêng.
Tổ chức tốt hoạt động Giới thiệu việc làm trong những năm tiếp theo,
tổ chức nhiều các Hội chợ việc làm trong tỉnh nhằm tạo dựng mối liên kết
giữa người lao động, người sử dụng lao động, cơ sở đào tạo nghề và cơ sở
giới thiệu việc làm. Khắc phục những hạn chế của tổ chức trong những năm
81
vừa qua đã nêu ở trên, tạo nhiều thuận lợi và đem lại lợi ích cho người lao
động cũng như nhà sử dụng lao động
3.2.4. Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở dạy
nghề trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Xuất phát từ hệ thống cơ sở dạy nghề còn thiếu và hoạt động còn kém
hiệu quả, làm cho chất lượng lao động thấp, đào tạo chưa phù hợp với yêu
cầu TTLĐ đặt ra. Do đó, cần nghiên cứu và thực hiện các giải pháp sau:
Đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề theo hướng xã hội
hoá: Để hoạt động dạy nghề ngày càng phù hợp với nhu cầu TTLĐ, trước hết
cần coi trọng việc lựa chọn nghề nghiệp theo hướng hiện đại trước khi
đào tạo lao động, tránh trường hợp lao động được đào tạo nghề mà thị
trường không có nhu cầu hoặc không đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của công việc.
Tỉnh cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích phát
triển xã hội hoá dạy nghề phù hợp với từng vùng, ngành, lĩnh vực, đảm bảo
huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài tỉnh phục vụ công tác đào
tạo, hướng nghiệp cho người lao động, giúp các cơ sở đào tạo và người lao
động giảm bớt khó khăn về đầu tư kinh phí cho việc nâng cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị thực hành. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp, cơ
sở dạy nghề thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện theo quy định sẽ
bình đẳng tham gia đấu thầu, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho
người lao động trong tỉnh.
Tỉnh cần tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy chế hoạt động của
các cơ sở dạy nghề, nhất là cơ sở dạy nghề ngoài công lập, đưa ra những tiêu
chí cụ thể thực để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, các văn bằng, chứng
chỉ nghề. Đồng thời, đối với các cơ sở dạy nghề công lập đang hoạt động theo
cơ chế hành chính chuyển sang tự chủ, hoạt động theo luật doanh nghiệp, tự
82
hạch toán, cân đối thu chi và đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành
đúng pháp luật của Nhà nước.
Tỉnh cần chỉ đạo việc nghiên cứu, phối hợp giữa SLĐTB&XH với Sở
GD&ĐT trong công tác tư vấn, định hướng nghề nghiệp và phân luồng học
sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, để giúp các em học sinh tự lựa
chọn nghề nghiệp cho phù hợp với khả năng của mình.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh cần tiếp tục thể chế hoá văn
bản số 576/LĐTBXH-TCDN, ngày 5/3/2014, về quy hoạch mạng lưới trường
cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề đến năm 2020,
nghiên cứu, ban hành hướng dẫn chi tiết phù hợp cho từng vùng, đủ các điều
kiện cần thiết và triển khai theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá các cơ sở dạy
nghề, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ mọi hoạt
động, phát hiện sai sót cần xử lý nghiêm, kịp thời.
Tiếp tục đổi mới hình thức đào tạo nghề cho phù hợp với từng
nhóm đối tượng lao động trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay, đa dạng hoá ngành nghề đào tạo với nhiều trình độ khác nhau
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là một hướng đi, cách
làm đúng, nhưng cần được lựa chọn, mở rộng các hình thức đào tạo phù hợp với
xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, nhất là dạy nghề cho lao động nông
nghiệp nông thôn.
Gắn quá trình đào tạo nghề với các chương trình xoá đói giảm nghèo, mô
hình SXKD giỏi, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại... qua đó giúp
người lao động, nhất là người lao động nông nghiệp thay đổi nhận thức, cách
làm mới và đồng thuận áp dụng vào điều kiện cụ thể, để tăng NSLĐ, tạo ra
những sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu.
83
Tăng cường phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với các
doanh nghiệp. Trong đó, cơ sở đào tạo nghề phải chủ động đến doanh nghiệp
để tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu về số lượng và chất lượng lao động, thực tế
các doanh nghiệp đang gặp phải những khó khăn trong công tác tuyển
dụng lao động. Đây là một việc làm không dễ, nhưng rất quan trọng trong
quá trình đào tạo nghề đúng về chất lượng, đủ về số lượng. Qua đó, sẽ có lợi
cho cơ sở đào tạo, người lao động, người sử dụng lao động.
Tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo nghề với các trường Đại
học, cao đẳng thuộc Đại học Thái Nguyên nhằm trao đổi kinh nghiệm,
thông tin và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và lựa chọn,
bổ sung những giáo viên có trình độ chuyên môn tay nghề, kinh nghiệm làm
việc cho các cơ sở dạy nghề.
Tăng cường nguồn lực để nâng cao chất lượng dạy nghề. Nguồn lực
vốn là nhân tố vật chất quan trọng, điều kiện tiên quyết nhằm xây dựng cơ sở
vật chất, cải cách nội dung chương trình sách giáo khoa, giáo trình chuẩn,
đầu tư trang thiết bị, phòng học, thư viện, phòng thí nghiệm, thực hành đầy
đủ, hiện đại cho các cơ sở dạy nghề. Ngoài ngân sách nhà nước hỗ trợ, cần xã
hội hoá nguồn vốn đóng góp của người học, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp liên
kết, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, ngân hàng, tổ chức tín dụng, hợp
tác quốc tế.
Nguồn lực con người là đội ngũ giáo viên, đây là nhân tố quyết định
chất lượng đào tạo. Chính vì vậy, cần phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật, tổ chức các chương trình, hội thi tay nghề và
mời các trường dạy nghề có truyền thống, uy tín, chất lượng trong nước,
đồng thời mời các trường dạy nghề ở các nước tiên tiến trong khu vực
ASEAN và quốc tế cùng tham gia để qua đó học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, cần có chính sách để thu hút những sinh viên tốt nghiệp đại học
84
loại giỏi, xuất sắc vào giảng dạy tại các trường đào tạo nghề trong tỉnh, qua
đó sẽ bổ sung đội ngũ giáo viên được đào tạo cơ bản, có chất lượng cao.
Chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn ở tỉnh.
Hiện nay, số lượng lao động nông nghiệp nông thôn ở tỉnh chưa được đào tạo
nghề còn rất lớn (chiếm 85,62%), hơn nữa một bộ phận người nông dân bị thu
hồi đất dẫn đến không có việc làm thường xuyên, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối
với người lao động nông thôn là phải được đào tạo nghề. Vì vậy, để công tác
đào tạo nghề cho lao động nông thôn có hiệu quả, cần tập trung vào một số giải
pháp chủ yếu sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để cho người lao động
nông thôn hiểu rõ mục đích, lợi ích mang lại trong quá trình học nghề,
nhất là sau khi được đào tạo họ sẽ có việc làm nhanh, thu nhập tốt và kinh tế
gia đình ổn định hơn so với lúc chưa được đào tạo nghề.
Thực hiện tốt công tác rà soát số lượng lao động đang ở nông thôn trên
địa bàn Tỉnh, sau đó phân loại lao động căn cứ vào độ tuổi, giới tính, sức
khoẻ, dân tộc, kinh tế gia đình, trình độ văn hoá, khả năng chuyên môn...
Mở rộng và đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với
khả năng, quy mô đối với Trung tâm dạy nghề tại các huyện, tạo điều kiện
thuận lợi về đi lại, ăn ở cho các học viên ở địa phương tích cực tham gia học
nghề. Đồng thời, cán bộ, giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, cập nhật
những thông tin về Khoa học và Công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp,
các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, những ngành, nghề phù
hợp với điều kiện địa phương, thị trường tiêu thụ lớn, ổn định. Từ đó, đưa
vào nội dung dạy học để trang bị cho người học kiến thức lý thuyết gắn với
thực tế sinh động.
Lựa chọn những ngành nghề đào tạo phù hợp và TTLĐ ở tỉnh Thái
Nguyên đang có nhu cầu như: Công nghệ sản xuất rau an toàn, chế biến thực
85
phẩm, kỹ thuật chăn nuôi, bảo vệ thực vật, kỹ thuật sử dụng máy nông nghiệp,
cơ khí, khai thác mỏ, xây dựng, may công nghiệp, lắp ráp thiết bị điện tử, sản
xuất đồ gỗ, hướng dẫn viên du lịch... Đồng thời, đa dạng hoá các hình thức đào
tạo: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
Hoàn thiện các chính sách ưu tiên lao động nông thôn thuộc đối tượng
chính sách như: hộ nghèo, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, dạy nghề miễn
phí cho người khuyết tật, con em gia đình có công, thương binh, liệt sĩ, các
hộ phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ nằm trong chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
hướng tới mục tiêu xây dựng Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp vào
năm 2020.
Tăng cường triển khai dạy các nghề truyền thống có giá trị kinh tế
được thị trường ưa chuộng, phù hợp với trình độ người lao động ở nông thôn
và gắn với bản sắc văn hoá dân tộc.
Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều những làng nghề truyền thống đang
hoạt động SXKD có hiệu quả như: chế biến lâm sản, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ ở
Xuân Phương (Phú Bình), Tiên Phong (Phổ Yên); làng nghề mây, tre đan ở xã
Tân Khánh (Phú Bình); sản xuất, chế biến chè ở các làng nghề chè truyền thống
của huyện Đại Từ, huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên; làng nghề thêu
ren ở Tân Thái (Đại Từ); nghề trồng hoa ở Hoá Thượng (Đồng Hỷ)… Đây là
các nghề phù hợp với trình độ, sức khoẻ, văn hoá, điều kiện kinh tế - xã hội
từng địa phương, giúp người lao động có việc làm tại chỗ, thu nhập ổn định.
Ngoài ra, còn tạo nhiều việc làm cho những lao động làm việc trong thời gian
nông nhàn. Vì vậy, tỉnh cần tăng cường đầu tư mở các lớp cho lao động tại
chỗ và mời nghệ nhân, người đã có kinh nghiệm lâu năm, uy tín trong nghề
truyền dạy cho người lao động địa phương, nhất là thanh niên, học sinh, sinh
viên nhằm lưu truyền, gìn giữ giá trị bản sắc văn hoá của các làng nghề trên
địa bàn tỉnh.
86
3.2.5. Giải pháp quy hoạch và phát triển các Trung tâm giới thiệu
việc làm, sàn giao dịch và hội chợ lao động của tỉnh Thái Nguyên
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động giới thiệu việc làm
trên địa bàn tỉnh. Quan sát lại chức năng của các trung tâm giới thiệu việc làm
theo hướng tăng cường chức năng tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin và
phân tích thị trường lao động, trợ giúp người thất nghiệp, giảm dần chức năng
dạy nghề.
Củng cố mạng lưới giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên,
chú trọng mạng lưới các trung tâm Giới thiệu việc làm tại những vùng có tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nhanh, các huyện chưa có
trung tâm Giới thiệu việc làm. Tăng cường khả năng giới thiệu việc làm, mục
tiêu tới trong năm 2015 có 2000 – 2500 người lao động tìm được việc thông
qua kênh giới thiệu việc làm của trung tâm, dự báo giai đoạn 2015 – 2020 con
số này là 3000 – 3500/năm.
Từ năm 2016 đến năm 2020, đầu tư củng cố năng lực đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn hóa các giáo trình, chương trình và chức
năng nghề đào tạo. Tập trung đào tạo một số nghề ngắn hạn chủ yếu, mỗi cơ
sở từ 2 – 3 nghề. Nâng cao năng lực cho các Trung tâm Giới thiệu việc làm
trong thông tin và phân tích thị trường lao động, đánh giá nhu cầu đào tạo và
việc làm của người lao động và người sử dụng lao động. Đẩy mạnh việc xây
dựng các mối quan hệ giữa các trung tâm Giới thiệu việc làm với các doanh
nghiệp và cơ sở đào tạo nghề nhằm nắm bắt được diễn biến về cung cầu lao
động trên địa bàn tỉnh. Tiến tới việc thực hiện nối mạng thông tin giữa các
trung tâm Giới thiệu việc làm. Thực hiện điều tra, thu thập thông tin và công
bố định kỳ các thông tin về thị trường lao động.
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn
nghiệp vụ, kiến thức quản lý cho cán bộ trung tâm. Tổ chức giới thiệu, tham
87
quan tìm hiểu kiến thức và trao đổi kinh nghiệm giữa các trung tâm trong địa
bàn tỉnh cũng như với các trung tâm tại các địa phương khác.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành có liên quan để xây dựng
các chương trình mục tiêu về giới thiệu việc làm hàng năm cũng như trong
từng kế hoạch cho các năm tiếp theo của tỉnh.
Mở các trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm.
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, quy mô nền kinh tế không mở rộng
nên cung việc làm tạo ra không đủ với nhu cầu về việc làm ngày càng tăng
của người dân. Nhưng có những doanh nghiệp có cung việc làm lại không tìm
được cầu của người lao động phù hợp. Hệ thống các Trung tâm giới thiệu việc
làm trên địa bàn tỉnh có vai trò là nơi kết nối giữa các doanh nghiệp với người
lao động. Trung tâm giới thiệu việc làm đã tư vấn nghề và việc làm cho hàng
ngàn người dân mỗi năm.
Hệ thống dịch vụ việc làm của tỉnh đã hoạt động có hiệu quả hơn, phát
huy được vai trò tư vấn, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động của mình.
Và thông qua đó các nhà tuyển dụng biết tìm nguồn cung lao động ở đâu và
đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng thì toàn tỉnh có là 4.433 người đã được
tuyển dụng. Con số này vẫn còn thấp so với số lượng người được tư vấn, vậy
hệ thống giới thiệu việc làm của tỉnh làm việc chưa đạt được hiệu quả.
Tổ chức các hội chợ việc làm cho người lao động.
Việc làm thực tế của các cơ quan lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên là mở các
hội chợ việc làm, các sàn giao dịch việc làm để tạo điều kiện cho người có
nhu cầu tìm kiếm việc làm tiếp cận được với các việc làm mà đang cần người
lao động. Về mặt người đang tìm việc thì được nhiều sự lựa chọn phù hợp với
trình độ tay nghề và sở thích công việc nào? Tạo ra được nhiều lợi thế vì qua
đó người đang tìm kiếm việc làm sẽ biết được các yêu cầu của doanh nghiệp
đang tìm kiếm để học tập, bổ sung thêm kỹ năng đáp ứng được những yêu cầu
88
của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tuyển dụng được người lao động
phù hợp với tiêu chí làm việc của doanh nghiệp, giảm bớt về mặt chi phí đào
tạo thì công việc sản xuất kinh doanh tốt hơn
Trên thực tế cho thấy các hoạt động của các Trung tâm giới thiệu việc
làm, các hội trợ việc làm là rất hữu ích và có tác dụng thiết thực. Do vậy, tỉnh
cần xác định rõ vai trò quan trọng của hệ thống Trung tâm giới thiệu, tư vấn
việc làm, nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách giải quyết việc
làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu, tư vấn việc làm, tổ chức hội chợ
việc làm cần phải thường xuyên và liên kết chặt chẽ, rộng rãi hơn với các doanh
nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động, thường xuyên cập nhật thông tin về
nghề nghiệp và các kỹ năng liên quan trong từng doanh nghiệp, để tăng cường
hiệu quả giao dịch, tránh lãng phí, phô trương hình thức, chạy theo thành tích.
Tiếp tục đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trang bị
thêm các kỹ năng cần thiết và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức ở
các Trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm. Qua đó, cán bộ,
công chức, viên chức được đào tạo sẽ làm việc một cách chuyên nghiệp, năng
suất và hiệu quả hơn. Đồng thời, thông qua đó cũng sẽ phát hiện được những
người không đủ điều kiện làm việc thì phải được bố trí làm việc khác hoặc
tiếp tục được học tập bồi dưỡng để đáp ứng được yêu cầu công việc.
3.2.6.Giải pháp khởi nghiệp – tự tạo việc làm
Khởi nghiệp là việc một người hay một nhóm người nghĩ ra ý tưởng
kinh doanh rồi tự bắt tay vào thực hiện ý tưởng đó , có thể lựa chọn bất cứ
công việc nào để khởi nghiệp miễn là nó không bị pháp luật cấm.
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập và canh tranh gay gắt. Tuy
nhiên, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu bởi những vấn đề
liên quan đến năng lực. Do đó, để xây dựng và phát triển vững doanh nghiệp
89
cần tạo ra được một thế hệ doanh nhân, mà trước hết là bắt buộc phải xây
dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Hệ sinh thái này giúp xây dựng tinh thần
doanh nhân, từ đó tạo lên văn hóa doanh nhân và văn hóa doanh nghiệp.Việt
Nam cũng đã có nhiều chính sách phát triển khoa học công nghệ và phát triển
hệ sinh thái khởi nghiệp. Trong đó có Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ
tạo niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp, thúc đẩy, tạo nên hơn110.000
doanh nghiệp được thành lập mới trong năm 2016.
Bên cạnh đó là Quyết định 844 /QĐ-TTg về đề án “hỗ trợ hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”
Trong hệ sinh thái khởi nghiệp gồm nhiều thành phần cần thiết để phát
triển, thành phần thứ nhất là về vấn đề chính sách, Nhà nước đang có những
chính sách ưu đãi về thuế, kêu gọi đầu tư…giúp các bạn trẻ có thể kêu gọi
vốn từ các nhà đầu tư. Thứ hai là vốn và tài chính cho khởi nghiệp. Một
doanh nghiệp cần có quỹ đầu tư mạo hiểm, những ngân hàng đồng hàng cùng
các bạn…Thành phần thứ ba là văn hóa doanh nghiệp và các thành phần về
nguồn lực, thị trường…
Đặc biệt, thành phần không thể thiếu đó là những tổ chức hỗ trợ khởi
nghiệp là những trung tâm thúc đẩy kinh doanh, cơ sở thực hiện các chương
trình ươm tạo, phát triển và thúc đẩy các dự án.
Ngoài ra, Nhà nước còn thực hiện 3 đồng hành, 5 hỗ trợ doanh nghiệp
theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, qua đó tiếp tục thực hiện tháo gỡ khó
khăn, khuyến khích khởi nghiệp, đặc biệt quan tâm hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp địa phương tham gia công nghiệp phụ trợ, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước có uy tín, kinh nghiệm và tiềm lực tài chính vào triển khai các dự
án đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị
sản xuất toàn cầu.
90
- Ba đồng hành gồm: đồng hành đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao năng lực cạnh tranh, đồng hành trong hoàn thiện thể chế pháp luật
- Năm hỗ trợ là: hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ nâng cao
hiệu quả hoạt động, hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm quyền kinh
doanh, bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh, hỗ trợ xây dựng
thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp và cuối cùng là hỗ trợ đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực.
Thái Nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng,
của vùng trung du miền núi Đông Bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế -
xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ với nhiều cơ
quan, doanh nghiệp trung ương đóng trên địa bàn. Với chủ trương phát triển
kinh tế đa dạng, chính sách đầu tư cởi mở, đã giúp Thái Nguyên đạt được
mức thu ngân sách trên 1.000 tỷ đồng trong năm 2008. Để đạt được các chỉ
tiêu kinh tế đề ra đến năm 2020 đưa Thái Nguyên trở thành đô thị loại I thì
vai trò của đội ngũ doanh nghiệp , doanh nhân sẽ là động lực đầu tàu. Tại
mảnh đất Thái Nguyên giàu truyền thống lịch sử, nhiều người đã khởi nghiệp
thành công. Và đến nay, Thái Nguyên vẫn đang là mảnh đất nhiều cơ hội,
tiềm năng để khởi nghiệp .
Tỉnh cần xây dựng kế hoạch tổng thể về hỗ trợ khởi nghiệp, bao gồm:
Tư vấn, đào tạo về khởi nghiệp; Tổ chức các cuộc giao lưu giữa thanh niên,
sinh viên với các doanh nhân thành đạt; Hỗ trợ tìm kiếm, tiếp cận các nguồn
vốn, các nhà đầu tư; Tổ chức các sự kiện như ngày hội khởi nghiệp, sàn giao
dịch ý tưởng, hội chợ ý tưởng kinh doanh sáng tạo; Xây dựng và phát triển
cổng thông tin khởi nghiệp, liên kết sàn giao dịch ý tưởng; Xây dựng mạng
các câu lạc bộ khởi nghiệp… Tạo cơ hội cho thanh niên ,sinh viên phát huy
tinh thần sáng tạo và ý chí tự lập, áp dụng những kiến thức đã lĩnh hội để lập
ra những dự án khởi nghiệp có tính khả thi trong đời sống kinh doanh. Với
91
những doanh nghiệp khởi nghiệp Hỗ trợ về chính sách thuế là nội dung quan
trọng. Ngoài hỗ trợ thông tin về thuế cho doanh nghiệp, ngành thuế cần tiến
hành thu thập thông tin về các vướng mắc liên quan đến chính sách, thủ tục về
thuế của các doanh nghiệp, từ đó có kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp một cách
thiết thực nhất, sát với nhu cầu. Bên cạnh đó, đây cũng là kênh thông tin để cơ
quan thuế tiếp thu, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các chính sách thuế trong quá
trình quản lý thuế. Cần tiếp tục phát huy hoạt động của Trung tâm Hỗ trợ
doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên tổ chức các lớp đào tạo về khởi nghiệp cho
thanh niên và sinh viên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.3. Một số kiến nghị
Đối với hoạt động vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm
Với những tỉnh đang có các nhu cầu mới và rất lớn về Lao động như
tỉnh Thái Nguyên, đề nghị Trung ương bổ sung thêm nguồn vốn từ Quỹ quốc
gia về việc làm để đảm bảo thực hiện theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP; có
cơ chế cho vay nguồn vốn từ ngân sách đối với một số ngành nghề là ngành
kinh tế trọng điểm của các địa phương, có nguồn vốn đầu tư lớn, thu hút
nhiều lao động trên địa bàn tỉnh như: chế biến nông lâm sản, trồng cây lâm
nghiệp lâu năm, xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh công nghiệp chế
biến, dịch vụ thương mại, du lịch…
Đối với hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Xuất khẩu lao động ở tỉnh Thái Nguyên cho thấy là một hướng đi có
tính khả thi và hiệu quả cao. Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
tiếp tục đẩy mạnh hợp tác cung ứng lao động Việt Nam sang các thị
trường phù hợp với nhu cầu của tỉnh Thái Nguyên (Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Thái Lan..); đồng thời có cơ chế phối hợp, thông tin sớm hơn
về chương trình/đơn hàng xuất khẩu lao động để địa phương kịp thời
92
thông báo tới người lao động, nâng số lượng, chất lượng sơ tuyển người
lao động trên địa bàn tỉnh.
Đối với hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường lao động
Đề nghị Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sớm
chuyển giao phần mềm cơ sở dữ liệu thông tin cung - cầu lao động, để khai
thác dữ liệu kịp thời phục vụ công tác quản lý, điều hành và dự báo thông tin
lao động việc làm của địa phương; đồng thời triển khai sớm hơn công tác điều
tra cung - cầu lao động hằng năm để địa phương chủ động kế hoạch thực hiện
trong năm.
Tiểu kết chương 3
Thực hiện chính sách tạo việc làm tại tỉnh Thái Nguyên là việc làm vừa
cấp bách, vừa là việc mang tính cơ bản lâu dài nhằm góp phần quan trọng phát
triển toàn diện kinh tế- xã hội của tỉnh. Quá trình đó đòi hỏi phải thực hiện một
cách đồng bộ hệ thống các chính sách và giải pháp về kinh tế - xã hội gắn với
thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cùng với sự phát triển của vùng và cả
nước. Từ sự đánh giá thực trạng một cách cơ bản tình hình thực hiện chính
sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên các định hướng, giải pháp và kiến nghị
được đưa ra sẽ góp phần thực hiện tốt, hiệu các chính sách tạo việc làm trong
tỉnh trong tương lai.
93
KẾT LUẬN
Luận văn thực hiện chính sách tạo việc làm từ thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên đã làm rõ một số vấn đề sau:
Chương 1 đã trình bày cơ sở khoa học về thực hiện chính sách tạo việc
làm, nghiên cứu tổng quan về chính sách tạo việc làm, làm rõ khái niệm, nội
dung các vấn đề liên quan. Những vấn đề về lý luận về thực hiện chính sách
công nói chung và cụ thể là chính sách tạo việc làm nói riêng được nghiên
cứu trong chương 1 là cơ sở để phân tích thực trạng thực hiện chính sách tạo
việc làm cho người lao động trong chương 2 và đề xuất giải pháp hoàn thiện
thực hiện chính sách tạo việc làm trong chương 3..
Chương 2 đã đánh giá thực trạng thực hiện các chính sách tạo việc làm
của tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở đánh giá theo chu trình thực hiện chính sách
trên 05 nội dung thực hiện chính sách cơ bản là: chính sách tạo việc làm trong
các ngành kinh tế, chính sách tạo việc làm thông qua quỹ hỗ trợ việc làm quốc
gia, chính sách hỗ trợ thị trường lao động, chính sách dạy nghề và chính sách
xuất khẩu lao động. Đã đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm
nêu lên những kết quả, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại.
Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn
thiện thực hiện chính sách tạo việc làm thông qua: phát triển thị trường lao
động, thúc đẩy giáo dục đào tạo, chính sách tài chính – tiền tệ, các chương
trình phát triển kinh tế trọng điểm thu hút nhiều lao động. Đề xuất một số kiến
nghị nhằm thực hiện tốt các giải pháp đã nêu.
Thực hiện chính sách tạo việc làm ở Thái Nguyên hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Song do thời gian và khả năng nghiên cứu
của học viên nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự chỉ dẫn góp ý bổ sung của các thầy cô để luận văn được
hoàn thiện hơn.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2011), Các chương
trình, đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, tập I.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2011), Các chương
trình, đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, tập II.
3. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông
tin thị trường lao động ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Thái Nguyên.
4. Cục thống kê Thái Nguyên (2014), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên 2013, NXB Thống kê, Hà Nội.
5. Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải
quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình chính sách kinh tế-xã
hội, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
7. Đại học Quốc gia - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
(1999), Giáo trình Luật lao động Việt Nam, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh.
11. Lê Duy Đồng (2001), "Lao động việc làm thời kỳ 1991-2000 và
phương hướng giai đoạn 2001 - 2010", Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.3-
12. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn lao động
và giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
95
14. Nguyễn Thanh Hòa (2005), "Xuất khẩu lao động trong xu hướng
hội nhập cơ hội và thách thức", Tạp chí Lao động và xã hội, (264), tr.13-15.
15. Học viện Hành chính Quốc gia, Quản lý nguồn nhân lực xã hội,
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
16. Hội đồng Lý luận Trung ương (1999), Giáo trình kinh tế học chính
trị Mác- Lê nin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam -
định hướng và phát triển, NXB Lao động-xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Mỹ Hương (2004), Thị trường lao động ở Nghệ An -
Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Trần Thị Tuyết Hương (2005), "Chất lượng nguồn lao động ở Hưng
Yên; những vấn đề đặt ra", Tạp chí Lao động và xã hội, (263), tr.26-28.
20. Nguyễn Thị Mai Lan (2000), Thất nghiệp ở nước ta hiện nay: Thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
21. Đặng Tú Lan (2001), Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. C.Mác và Ph.Ăng ghen (1993), Toàn tập, tập 23, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Bá Ngọc - Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hoá: Cơ hội
và thách thức đối với lao động Việt Nam, NXB Lao động-xã hội, Hà Nội.
25. Đặng Hồng Ngự (2003), "Thái Nguyên giải quyết việc làm: Thực
trạng và giải pháp", Tạp chí Lao động và xã hội (219), tr.22-23.
26. Nguyễn Hồng Quân (2001),"Lao động-việc làm ở Quảng Ninh những
năm đầu của kỷ nguyên mới", Tạp chí Lao động và xã hội, (175), tr.16-19.
96
27. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Nguyên, Báo cáo tổng hợp quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, định hướng 2030.
28. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên, Kết quả
điều tra lao động việc làm.
29. Đinh Trọng Thịnh (2005), “WTO và vấn đề tạo việc làm cho người
lao động”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (96), tr.39-41.
30. Thiện Thuật (2005), “Dạy nghề cho nông dân ở Thái Bình”, Tạp chí
Lao động và xã hội (263), tr.15.
31. Phan Chính Thức (2001), “Phát triển đào tạo nghề góp phần đáp
ứng nhu cầu nhận thức cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng
tới nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.13-15.
32. Hà Quý Tình (2004), Hoàn thiện các chính sách vĩ mô của Nhà nước
để tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Học viện Tài chính.
33. Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “thần kỳ”
kinh tế Nhật Bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Trung tâm Khoa học và nhân văn quốc gia, Viện Thông tin khoa học và
xã hội (1999), Thị trường lao động trong kinh tế thị trường, Hà Nội.
35. Đỗ Thế Tùng (2001), “ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn
đề giải quyết việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.19-2
36. Nông Đức Vinh (2004), Việc làm ở Lạng Sơn: Thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Website http://thainguyen.gov.vn
97