VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS MAI HÀ
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là kết quả nghiên cứu riêng của tôi, chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào của người khác.
Việc sử dụng kết quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo
đúng các quy định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách
báo, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm theo danh mục tài liệu tham
khảo của Luận văn.
HỌC VIÊN
NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH
MỤC LỤC
Chương 1 .................................................................................................................... 9
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ............................................................................... 9
1.1 Một số khái niệm ................................................................................................................... 9
1.2. Chủ thể chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng Chính phủ điện tử ................. 18
1.3. Thể chế chính sách ứng dụng công nghệ thông tin ................................................... 19
1.4 Những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng công nghệ thông tin .............. 23
Chương 2 .................................................................................................................. 28
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM ............................................................................................................... 28
2.1. Sự hình thành, phát triển của công nghệ thông tin tại Việt Nam ........................... 28
2.2. Vấn đề chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng chính phủ điện tử ...................................................................................................................................................... 32
2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng chính phủ điện tử trong các cơ quan nhà nước tại Việt Nam ............................... 44
Chương 3 .................................................................................................................. 61
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ .................................... 61
3.1. Các giải pháp ....................................................................................................................... 61
3.2. Nội dung giải pháp ............................................................................................................. 61
3.3 Kiến nghị đối với các CQNN có thẩm quyền .............................................................. 67
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 72
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
CNTT
Công nghệ thông tin
CQNN
Cơ quan nhà nước
CSDL
Cơ sở dữ liệu
CPĐT
Chính phủ điện tử
WAN
Mạng thông tin diện rộng
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
CNTT-TT
Công nghệ thông tin và truyền thông
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của
cơ quan nhà nước (CQNN), hướng tới mục tiêu xây dựng phát triển Chính
phủ điện tử (CPĐT) là xu thế tất yếu, là mô hình phát triển phổ biến của nhiều
quốc gia, xây dựng CPĐT trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ
Chính phủ nào. CPĐT cho phép người dân tương tác, nhận được các dịch vụ
từ Chính phủ 24 giờ một ngày, 07 ngày một tuần, tăng tính minh bạch, giảm
chi phí, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, góp phần làm
giảm tiêu cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng. Nhận thức được tầm quan trọng của ứng dụng CNTT và CPĐT, Đảng,
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như
tăng cường ứng dụng CNTT, thúc đẩy CPĐT. Tuy nhiên, việc thực hiện các
chính sách này còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ dẫn đến hiệu quả ứng dụng
CNTT còn nhiều hạn chế. Do đó, cần đánh giá đúng thực trạng ứng dụng
CNTT nói chung, trong đó tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT; kịp thời phát hiện những bất cập, tồn tại, hạn chế; từ đó đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới là một đòi
hỏi khách quan và hết sức cần thiết. Đó chính là lý do em đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây
dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ứng dụng CNTT nói chung, bao gồm các ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT vốn không phải là một vấn đề mới mà trong thực tế đã có nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều cơ quan tìm hiểu, nghiên cứu tại rất nhiều tài liệu. Một số
tài liệu được tác giả lựa chọn để tham khảo, nghiên cứu bao gồm:
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015). Khung kiến trúc Chính phủ
1
điện tử Việt Nam, phiên bản 1.0.
2. Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Đặng Hữu (2005), Công nghệ thông tin - mũi nhọn đột phá đưa loài
người vào thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Việt Cường (2014), Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng
kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền
thông, tháng 9/2014 (kỳ 2), tr.19-20.
5. Thu Hà (2015), 6 bài học triển khai thành công tin học hóa trong các
CQNN, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền thông, tháng 01/2015 (kỳ 2),
tr.29-32.
Các tài liệu này có những ý nghĩa về khoa học và thực tiễn nhất định.
Tuy nhiên, qua khảo cứu cho thấy các tài liệu này chủ yếu nghiên cứu các vấn
đề về chủ trương, những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước hoặc tập
trung nghiên cứu, đánh giá vào thực tiễn của một ngành, lĩnh vực cụ thể.
Trong khi đó, việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
từ thực tiễn của các CQNN tại Việt Nam cho đến nay chưa có một công trình
khoa học nào đề cập đến. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham
khảo, đối chứng trong quá trình nghiên cứu đề tài của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn: trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thực hiện chính sách ứng dụng CNTT xây dựng CPĐT, đánh giá việc thực
hiện chính sách ứng dụng CNTT thúc đẩy CPĐT tại các CQNN tại Việt Nam
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ứng dụng công
2
nghệ thông tin xây dựng CPĐT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản mà Luận văn cần đặt ra:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ứng
dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong các CQNN tại Việt Nam;
- Tiến hành thu thập và tổng hợp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc
phân tích thực trạng tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây
dựng CPĐT tại các CQNN;
- Phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây
dựng CPĐT từ thực tiễn các CQNN tại Việt Nam;
- Đề xuất giải pháp nâng cao kết quả thực hiện chính sách ứng dụng
CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt Nam hiện nay.
3.3. Giả thiết nghiên cứu
Thứ nhất, chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có những
chính sách về xây dựng CPĐT đã được tổ chức thực hiện ở các CQNN tại
Việt Nam nhưng chưa mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn của nhà
nước cũng như của các đối tượng chính sách. Do đó, nếu chính sách ứng dụng
CNTT được các CQNN triển khai, tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp
lý và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì sẽ đem lại nhiều kết quả
cao hơn so với hiện tại, từ đó, góp phần tạo thêm động lực để xây dựng, phát
triển CPĐT.
Thứ hai, việc thực hiện những chính sách ứng dụng CNTT chưa thật sự
tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình xây dựng CPĐT. Vấn đề này
có thể do quá trình tổ chức thực hiện chính sách chưa thực sự phù hợp phù
hợp và nếu có các giải pháp phù hợp thì sẽ nâng cao được kết quả cũng như
hiệu quả thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt
3
Nam hiện nay. Do vậy, nếu các CQNN tại Việt Nam có những cơ chế, giải
pháp ứng dụng CNTT phù hợp trên cơ sở sử dụng nguồn lực hợp lý thì sẽ thu
được nhiều kết quả cao và bền vững hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, cụ thể là nghiên cứu giải
pháp tổ chức thực hiện và công cụ chính sách ứng dụng CNTT từ thực tiễn của
các CQNN tại Việt Nam dưới góc độ khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2015 đến nay.
- Không gian nghiên cứu: Tại các CQNN tại Việt Nam.
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài này chủ yếu nghiên cứu các
chính sách ứng dụng CNTT, trong đó tập trung vào nghiên cứu tình hình thực
hiện chính sách ứng dụng CNTT trong các CQNN để xây dựng CPĐT.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cách tiếp cận của Luận văn mang tính đa ngành, liên ngành xã hội học,
vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công với sự tham gia của nhiều
chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được nghiên cứu thông qua thực
tiễn và được vận dụng để giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2 Cơ sở thực tiễn
Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực tiễn triển khai ứng dụng CNTT nói
chung, trong đó, tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại
Việt Nam thông qua việc tổng hợp, phân tích các số liệu, báo cáo, bài viết
nghiên cứu của nhiều tác giả qua các thời kỳ. Cùng với đó là kinh nghiệm
thực tiễn triển khai của một số quốc gia đã xây dựng thành công CPĐT (như:
Estonia, Nga, Pháp, Anh…) cũng được tác giả nghiên cứu, khai thác để đề
4
xuất giải pháp ứng dụng phù hợp cho bối cảnh Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để thu thập, phân
tích và khai thác thông tin từ các nguồn tài liệu, báo cáo, văn bản hiện hành
liên quan đến đề tài nghiên cứu. Bao gồm: các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết
của Đảng; văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ (Luật, Nghị
định, Thông tư hướng dẫn Nghị định…); các công trình nghiên cứu khoa học,
báo cáo, thống kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
tới vấn đề thực hiện chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có các
chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
- Phương pháp phân tích hệ thống:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích hệ thống và vận dụng tổng
hợp các kiến thức về khoa học quản lý, trong đó có quản lý công nghệ, quản
lý dự án, quản lý hoạt động tác nghiệp, nghiệp vụ, hệ thống thông tin quản
lý… Các tài liệu, số liệu báo cáo, thống kê được tập hợp để nghiên cứu, phân
tích, đánh giá, từ đó làm rõ những vấn đề ảnh hưởng đến quá trình triển khai
ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
- Phương pháp phân tích so sánh:
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích so sánh. Các đối
tượng nghiên cứu được khảo sát, đánh giá trong các bối cảnh thực tế và dựa
trên các số liệu báo cáo, thống kê được thu thập từ những tài liệu nghiên cứu,
từ các báo cáo đánh giá, tổng kết tình hình, kết quả ứng dụng CNTT trong các
CQNN. Từ đó đưa ra các nhận xét, đánh giá sự phù hợp của các chính sách
ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong bối cảnh thực tiễn triển khai tại
5
Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hoạt động nghiên cứu về chính sách ứng dụng CNTT cũng như tình
hình triển khai, thực thi các chính sách ứng dụng CNTT có thể được tiếp cận
dưới nhiều góc độ của các ngành khoa học khác nhau. Trong Luận văn này,
việc nghiên cứu về hoạt động ứng dụng CNTT được tiếp cận dưới góc độ của
ngành khoa học chính sách công, vì vậy Luận văn tập trung nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt
Nam.
- Luận văn tập trung hệ thống hóa một cách cơ bản, dựa trên cơ sở khoa
học và thực tiễn các khái niệm, nội hàm về CNTT nói chung cũng như tình
hình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT trong các CQNN tại Việt Nam và
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách ứng dụng
CNTT để xây dựng CPĐT.
- Luận văn cung cấp thông tin về thực trạng ứng dụng CNTT, trong đó
tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, đồng thời, tổng hợp
quan điểm và yêu cầu của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách ứng
dụng CNTT. Trên cơ sở thực trạng và những quan điểm, yêu cầu nêu trên,
Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả chính
sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính
sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại các CQNN, Luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách, bảo đảm phù
hợp với những yếu tố đặc thù của các CQNN tại Việt Nam, góp phần thực
6
hiện thành công chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương (bao gồm phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo), trong đó:
Chương 1: Lý luận về chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT
Chương 2: Thực trạng chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
trong các CQNN tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây
7
dựng CPĐT.
8
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,
XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm công nghệ thông tin và Chính phủ điện tử
Khái niệm "công nghệ thông tin" được nêu tại rất nhiều nguồn tài liệu,
tạp chí khoa học. Qua nghiên cứu của tác giả, khái niệm này xuất hiện lần đầu
trong một bài viết trên tạp chí Harvard Business Review vào năm 1958. Trong
đó, hai tác giả Leavitt và Whisler đã viết: "Công nghệ mới chưa thiết lập một
tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin”. Tại Việt Nam, khái niệm
CNTT được nêu tại trong Nghị quyết 49/CP ngày 04/8/1993 của Chính phủ
về phát triển CNTT, như sau: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học,
các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và
viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội”. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi và được phát
triển, bổ sung, cập nhật tại Luật CNTT số 67/2006/QH11 ngày 29/06/2006
của Quốc hội, theo đó, “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, công
nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu
trữ và trao đổi thông tin số”. Như vậy, với những quy định tại Luật CNTT,
khái niệm CNTT đã được quy định một cách hoàn chỉnh và được pháp lý hóa
tại một văn bản Luật, tạo cơ sở cho hoạt động triển khai ứng dụng CNTT, sản
xuất các sản phẩm ứng dụng CNTT… của các Bộ, ngành, địa phương, các tổ
chức, cá nhân có liên quan.
Đối với CPĐT, khái niệm CPĐT được Liên hiệp quốc định nghĩa là:
“Chính phủ điện tử là Chính phủ ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu lực,
9
hiệu quả hoạt động của CQNN, tăng cường công khai, minh bạch thông tin,
cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp” [25]. Các
dịch vụ của CPĐT thông thường bao gồm: G2G (cung cấp thông tin, các dịch
vụ liên quan giữa các cơ quan của Chính phủ với nhau); G2B (Chính phủ
cung cấp thông tin, dịch vụ cho doanh nghiệp); G2C (Chính phủ cung cấp
thông tin, dịch vụ cho người dân); G2E (Chính phủ cung cấp các thông tin,
dịch vụ cho cán bộ, công chức, viên chức).
Về các giai đoạn phát triển CPĐT, đây là quá trình lâu dài, liên tục, qua
các giai đoạn khác nhau. Việc phân chia các giai đoạn phát triển CPĐT nhằm
xác định mức độ phát triển CPĐT của mỗi cơ quan, cũng như làm cơ sở xác
định lộ trình, kế hoạch triển khai CPĐT đúng hướng, phù hợp với điều kiện,
nhu cầu thực tế.
Các tổ chức khác nhau có cách phân chia các giai đoạn phát triển CPĐT
của riêng mình, trong đó nổi bật là cách phân chia của Gartner (một công ty tư
vấn, nghiên cứu hàng đầu thế giới về CNTT), bao gồm các giai đoạn sau [2]:
Giai đoạn 1: Hiện diện (Presence)
Sự phát triển CPĐT giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hiện diện các
cơ quan chính phủ trên mạng Internet, mục đích chính là cung cấp các thông
tin cơ bản về các cơ quan chính phủ như chức năng, nhiệm vụ, địa chỉ liên hệ,
thời gian làm việc và có thể cung cấp thêm các văn bản liên quan đến xã hội.
Giai đoạn 2: Tương tác (Interaction)
Trong giai đoạn này, các trang thông tin điện tử của các cơ quan chính
phủ cung cấp các chức năng tìm kiếm cơ bản, cho phép tải về các biểu mẫu
điện tử, các đường liên kết với các trang thông tin điện tử liên quan, cũng như
địa chỉ thư điện tử của các cơ quan, cán bộ chính phủ.
10
Giai đoạn 3: Giao dịch (Transaction)
Trong giai đoạn này, các trang tin, Cổng thông tin điện tử của các cơ
quan chính phủ cho phép thực hiện hoàn chỉnh các dịch vụ, bao gồm việc nộp
hồ sơ, xử lý hồ sơ, trả phí dịch vụ trực tuyến.
Giai đoạn 4: Chuyển đổi (Transformation)
Giai đoạn này là mục tiêu dài hạn của các cơ quan chính phủ. Ngoài
việc thực hiện các chức năng trong giai đoạn 3, CPĐT giai đoạn này cung cấp
cho người dân một điểm truy cập duy nhất tới các cơ quan chính phủ để thực
hiện mọi giao dịch, các hoạt động của cơ quan chính phủ là minh bạch với
người dân.
Ngoài các khái niệm chính về CNTT và CPĐT mang tính nghiên cứu,
học thuật như đã nêu trên, một số khái niệm phổ biến khác đã được quy định
tại các văn bản quy phạm pháp luật của CQNN có thẩm quyền, bao gồm:
Nhóm các quy định về ứng dụng CNTT trong CQNN [9]:
- Ứng dụng CNTT: Ứng dụng CNTT là việc sử dụng CNTT vào các
hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và
các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các
hoạt động này.
- Ứng dụng CNTT hoạt động của CQNN: là việc sử dụng CNTT vào
các hoạt động của CQNN nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt
động nội bộ của CQNN và giữa các CQNN, trong giao dịch của CQNN với tổ
chức và các nhân, hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính vào bảo đảm công
khai, minh bạch.
Nhóm các khái niệm về Dịch vụ công trực tuyến, Cổng thông tin điện
tử và Trang thông tin điện tử của CQNN [10]:
- Trang thông tin điện tử: là trang thông tin hoặc một tập hợp trang
11
thông tin trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin.
- Cổng thông tin điện tử: là điểm truy cập duy nhất của cơ quan trên
môi trường mạng, liên kết, tích hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các
ứng dụng mà qua đó người dùng có thể khai thác, sử dụng và cá nhân hóa
việc hiển thị thông tin.
- Dịch vụ hành chính công: là những dịch vụ liên quan đến hoạt động
thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do CQNN có thẩm quyền
cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý
trong các lĩnh vực mà CQNN đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn
liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể
liên quan đến tổ chức, cá nhân.
- Dịch vụ công trực tuyến: là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ
khác của CQNN được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường.
Các mức độ dịch vụ công trực tuyến, bao gồm
+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy
đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định
về thủ tục hành chính đó.
+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức
độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn
thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc
qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức
độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến
cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ
và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ
phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức
12
cung cấp dịch vụ.
+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện
trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp
hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.
Có thể thấy, trong đời sống hàng ngày, CNTT dần trở nên phổ biến, có
những ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội và đã trở thành phương tiện
không thể thiếu cho con người trong học tập, sinh hoạt, công việc hàng ngày.
CNTT đã và đang góp phần tạo ra môi trường thông tin thuận lợi, phong phú,
phục vụ cho mọi hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Máy vi tính, các thiết
bị cầm tay thông minh, hệ thống mạng và những cơ sở dữ liệu đã giúp chúng
ta tạo đột phá trong quá trình phát triển. Các ứng dụng CNTT ngày càng trở
thành phương tiện hiệu quả, quan trọng trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước
cũng như giúp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng… Thêm vào đó, CNTT còn hỗ trợ dự báo nhu cầu phát triển của toàn
xã hội, khai thác được tối đa các nguồn lực trong xã hội, đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của người dân… Còn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, ứng dụng
CNTT tập trung vào 02 mảng chính là: Ứng dụng CNTT để hiện đại hóa dây
chuyền sản xuất và ứng dụng CNTT phục vụ quản lý kinh doanh đã góp phần
tạo ra được những thay đổi về chất đối với toàn bộ quy trình sản xuất (từ thiết
kế, lắp đặt dây chuyền sản xuất cho đến tự động hóa nhiều công đoạn trong
quy trình sản xuất…) và quản lý kinh doanh (quản lý, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, thương mại điện tử,…) nên CNTT thực sự trở thành động lực phát
triển của nền kinh tế.
Việc một xã hội có thể khai thác, sử dụng một cách sáng tạo năng lực
của CNTT để giải quyết các vấn đề đặt ra của xã hội đó là vấn đề quan trọng
của kỷ nguyên thông tin hiện nay. Ở các quốc gia phát triển, họ chú trọng
13
trước tiên là sử dụng CNTT như là một phương tiện hữu hiệu để hỗ trợ bộ
máy chính quyền điều hành quản lý, xã hội. Trong khi đó, tại Việt Nam, ứng
dụng CNTT trong các CQNN có tên gọi khác là chương trình xây dựng
CPĐT cũng đã được chú trọng triển khai nhiều hơn trong những năm qua,
nhất là sau khi Nghị quyết số 36a/NQ-CP được ban hành, đi vào cuộc sống.
Tuy chưa đạt nhiều kết quả như mong nhưng những gì đã đạt được hoàn toàn
khẳng định tính đúng đắn và sự cần thiết việc triển khai ứng dụng CNTT để
xây dựng CPĐT.
Ngoài những vai trò nêu trên, CNTT còn có nhiều vai trò trong phát triển
kinh tế - xã hội như:
- CNTT là hạ tầng cơ sở cho nền kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ: Khái
niệm kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ là những khái niệm mới hiện nay, trong
đó, kinh tế tri thức được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định
nghĩa là: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp
vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin" (OECD 1996)
[25]. Còn Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC 2000)
thì đưa ra khái niệm: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá
trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho
tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành
kinh tế" [25]. Những khái niệm của các tổ chức quốc tế nêu trên cho thấy, mọi
nỗ lực đều hướng về một điểm chính là “làm thế nào để giàu tri thức?” Câu
trả lời mà chúng ta đều có thể biết hoặc nhìn thấy ngay, đó là: “cần phải dựa
vào CNTT” vì CNTT vừa là phương tiện giúp con người tập hợp được nhiều
thông tin nhất vừa là công cụ xử lý thông tin hiệu quả nhất để có thể tìm ra
những cái mới. Tương tự như vậy, kinh tế chia sẻ (còn được gọi là sharing
economy hoặc tiêu dùng cộng tác) là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở
14
hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ
quyền truy cập vào hàng hóa và dịch vụ (phối hợp thông qua các dịch vụ trực
tuyến dựa vào cộng đồng) [25]. Cả kinh tế tri thức và kinh tế chia sẻ đều tập
trung, nhấn mạnh vào vai trò của CNTT như là nền tảng quan trọng, là hạ
tầng cơ sở của 02 nền kinh tế này.
- CNTT trong phát triển kinh tế, quản lý xã hội:
+ CNTT thay đổi cách thức giao tiếp: Tất cả mọi người trên khắp thế
giới có thể cùng truy cập vào Internet, tham gia vào những cuộc gặp gỡ trên
mạng, đọc tin tức hàng ngày, tiến hành các giao dịch thương mại hoặc trò
chuyện với bạn bè, người thân trên khắp thế giới. Rào cản ngôn ngữ được
giảm thiểu rất nhiều thông qua các công cụ hỗ trợ dịch đa ngôn ngữ, dịch tự
động như: Google Translate, Microsoft Translator…
+ CNTT thay đổi cách thức chúng ta khai thác, sử dụng thông tin: Ai
cũng có thể tiếp cận, yêu cầu tải về hoặc sao chép tài liệu, tạp chí, … được
xuất bản bằng bất kỳ ngôn ngữ nào để tham khảo thông qua truy cập Internet.
+ CNTT thay đổi cách thức học tập: Mọi người đều có thể tham dự
những chương trình học tập trên mạng bất chấp vị trí địa lý, tuổi tác, những
hạn chế thể chất hoặc thời gian biểu cá nhân cũng như tiếp cận những kho dữ
liệu chung để học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tri thức một cách dễ dàng
và tiết kiệm.
+ CNTT biến đổi phương thức thương mại: Khách hàng có thể tiếp xúc
với các sản phẩm mình cần mua sắm một cách dễ dàng thông qua các dịch vụ
bán hàng trực tuyến; doanh nghiệp kinh doanh sẽ nhanh chóng điều chỉnh
chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hóa trên cơ sở phân tích những phản
hồi từ phía khách hàng. Người tiêu dùng có thể đặt hàng những hàng hóa, lựa
chọn dịch vụ cung cấp, giá cả phù hợp một cách thuận lợi từ nhà riêng, văn
phòng hay bất cứ đâu chỉ với chiếc điện thoại thông minh có kết nối mạng
15
Internet.
+ CNTT giúp thay đổi phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu khoa
học ngày càng trở nên thuận tiện hơn so với trước đây nhiều nhờ sự trợ giúp
các các hệ thống công nghệ thông tin chuyên dụng. Những hệ thống này có
thể mô phỏng, giả lập hoặc tạo ra các phòng thí nghiệm ảo. Thêm vào đó, sự
hỗ trợ mạnh mẽ của thư viện điện tử được cung cấp miễn phí hoặc có thu phí
trên Internet cũng đã mang lại cho các nhà nghiên cứu rất nhiều lợi thế so với
phương pháp nghiên cứu truyền thống.
+ CNTT đổi mới phương thức hoạt động của các CQNN: các CQNN
xây dựng những hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ
các hoạt động nghiệp vụ, cập nhật thông tin, dữ liệu thuộc phạm vi chức năng
quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan, địa phương. Điều này cho phép người
dân có nhiều cơ hội tiếp cận với bộ máy chính quyền. Họ có thể truy cập để
tìm hiểu thông tin hoạt động của các CQNN thông qua các Trang thông tin
hoặc Cổng thông tin điện tử của CQNN hoặc đăng ký thực hiện các dịch vụ
công trực tuyến thông qua Cổng dịch vụ công trực tuyến của các Bộ, ngành,
địa phương. Người dân và doanh nghiệp dần sẽ trở thành “người sử dụng
trung tâm” của hệ thống CPĐT. CNTT giúp CQNN thu thập được nhiều dữ
liệu hơn từ các hệ thống đang hoạt động do đó làm tăng chất lượng thông tin
phản hồi tới các cơ quan ban hành chính sách, cơ quan quản lý. Ngoài ra,
CQNN cũng có thể bảo đảm việc cung cấp nhiều thông tin hơn cho công
chúng và hỗ trợ thêm những cách thức liên lạc mới thông qua các thiết bị vi
tính, di động có khả năng truy cập môi trường mạng giữa các nhà hoạch định
chính sách đến từng công dân. Thông qua các cách thức này, CNTT giúp
nâng cao năng lực điều hành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước
16
của các CQNN tại Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm chính sách
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó
tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động
của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên
nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.
Chính sách là những đường hướng hành động, ứng xử cơ bản của chủ
thể với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động, phát triển nhằm đạt
được mục tiêu nhất định.
1.1.3. Chính sách công:
Theo nhà nghiên cứu Thomas R.Dye thì: “Chính sách công là cái mà
Chính phủ lựa chọn làm hay không làm”. Chính sách công là những đường
hướng hành động ứng xử cơ bản của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong
đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc
đẩy phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Vận dụng vào thực tế của
Việt Nam, chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp
thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định.
Qua những nghiên cứu nêu trên, ta có thể nhận định: Chính sách ứng
dụng CNTT hoạt động của CQNN là tổng thể những quan điểm, thái độ, quyết
định, quy định của Đảng và Nhà nước với các giải pháp, công cụ cụ thể nhằm
sử dụng CNTT vào các hoạt động của CQNN để nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong hoạt động nội bộ của CQNN và giữa các CQNN, trong giao dịch
của CQNN với tổ chức và các nhân, hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính vào
17
bảo đảm công khai, minh bạch.
1.2. Chủ thể chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng Chính phủ
điện tử
Chính sách ứng dụng CNTT khi được ban hành sẽ tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến đời sống và có liên quan tới rất nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội.
Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức triển khai thực thi chính sách ứng dụng
CNTT, CQNN cần huy động sự tham gia của các bên vào quá trình thực hiện
chính sách để bảo đảm tính hiệu quả, đồng bộ.
Chủ thể thực thi chính sách ứng dụng CNTT là các CQNN từ trung
ương tới địa phương, cùng với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ.
Trong quá trình thực thi chính sách, các CQNN giữ vai trò điều tiết, định
hướng các hoạt động thực hiện chính sách thông qua những công cụ quản lý
của mình để việc thực thi chính sách luôn bám sát mục tiêu mà chính sách đã
đề ra. Các CQNN tham gia vào quá trình thực hiện chính sách bao gồm:
Thứ nhất là Chính phủ: Chính phủ vừa là cơ quan, chủ thể ban hành
chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện
chính sách.
Thứ hai là Ủy ban Quốc gia Chính phủ điện tử: Ủy ban có chức năng,
nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chủ
trương, chiến lược, cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý thúc đẩy xây dựng,
phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; tạo thuận
lợi cho việc triển khai Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam.
Thứ ba là Bộ Thông tin và Truyền thông: Bộ Thông tin và Truyền
thông là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
lĩnh vực thông tin và truyền thông, trong đó có công nghệ thông tin nói
chung, xây dựng Chính phủ điện tử nói riêng và quản lý nhà nước các dịch vụ
18
công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ...
Thứ tư là Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương: đây là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có
trách nhiệm tổ chức triển khai các nhiệm vụ liên quan đến ứng dụng CNTT để
xây dựng Chính quyền điện tử trên địa bàn tỉnh, thành phố.
1.3. Thể chế chính sách ứng dụng công nghệ thông tin
CNTT và truyền thông luôn được Đảng và Nhà nước xác định là công
cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ứng dụng rộng rãi CNTT và
truyền thông là những yếu tố mang ý nghĩa chiến lược, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và tăng năng suất lao động.
Ngày 29/06/2006, Quốc hội đã thông qua Luật công nghệ thông tin.
Đây là văn bản pháp lý vô cùng quan trọng, cụ thể hóa chủ trương của Đảng
đã được nêu tại Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cụ thể, tại Khoản 1 Điều 5, Luật công nghệ thông tin đã quy
định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ứng dụng và phát triển CNTT,
trong đó có những ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN. Ngoài Luật
CNTT, một số văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được cấp có thẩm quyền
ban hành để định hướng ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính nhà nước
như sau:
Thứ nhất: Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 về ứng dụng
CNTT trong hoạt động của CQNN. Nội dung Nghị định không chỉ bao gồm
các quy định về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN mà còn cả các
điều kiện bảo đảm ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN (bao gồm xây
19
dựng cơ sở hạ tầng thông tin, cung cấp nội dung thông tin, phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực CNTT, đầu tư cho ứng dụng CNTT), quy định về hoạt
động của CQNN trên môi trường mạng (bao gồm quy trình công việc, quản lý
văn bản điện tử, bảo đảm an toàn thông tin mạng) cùng với những yêu cầu về
tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN.
Có thể nói Nghị định 64/2007/NĐ-CP đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi
hơn rất nhiều để triển khai công tác ứng dụng CNTT trong hoạt động của
CQNN sau khi Luật Công nghệ thông tin được ban hành.
Thứ hai: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 246/2005/QĐ-TTg
ngày 06/10/2005 về việc phê duyệt chiến lược phát triển CNTT và truyền
thông Việt Nam đến 2010 và định hướng đến năm 2020, đã chỉ ra một số nội
dung mang tính định hướng cho phát triển ứng dụng CNTT trong quản lý hành
chính nhà nước như: Ứng dụng rộng rãi CNTT và truyền thông trong mọi lĩnh
vực, khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng
và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, CPĐT, doanh nghiệp điện
tử, giao dịch và thương mại điện tử để Việt Nam đạt trình độ khá trong khu vực
ASEAN; hình thành xã hội thông tin. Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông
phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Đào
tạo về công nghệ thông tin và truyền thông ở các trường đại học đạt trình độ
và chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN.
Thứ ba: Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2016 - 2020, đưa ra một số mục tiêu
chủ yếu [22]: Cung cấp đầy đủ thông tin trên trang thông tin điện tử hoặc
cổng thông tin điện tử của tất cả các CQNN theo quy định tại Nghị định
số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ về việc cung
cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc
20
cổng thông tin điện tử của CQNN (30% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý
trực tuyến tại mức độ 4; 95% hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp được nộp qua
mạng…); đẩy mạnh việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong
nội bộ cơ quan nhà nước (100% văn bản không mật trình Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ dưới dạng điện tử; 80% văn bản
trao đổi giữa các CQNN dưới dạng điện tử…); xây dựng và hoàn thiện hạ
tầng kỹ thuật, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, xây dựng và
hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các cấp, tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử
đồng bộ, kết nối, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin.
Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản khác (bao gồm cả văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản chỉ đạo điều hành) cũng đã được ban hành, góp phần thúc
đẩy ứng dụng CNTT, cụ thể như:
- Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc
hội quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước;
trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp
luật quy định. Cùng với Luật công nghệ thông tin, Luật giao dịch điện tử đã
tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho các ứng dụng CNTT, giao dịch điện tử
trong hoạt động của CQNN cũng như các giao dịch của người dân, doanh
nghiệp trên môi trường mạng;
- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12 ngày 23/11/2009 của Quốc hội
quy định về hoạt động viễn thông, bao gồm đầu tư, kinh doanh viễn thông;
viễn thông công ích; quản lý viễn thông; xây dựng công trình viễn thông;
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông;
- Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy
định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông
tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của CQNN và các điều kiện bảo đảm
21
hoạt động cho cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;
- Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ về việc
quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ
chứng thực chữ ký số, trong đó, quy định rõ ràng, cụ thể về chữ ký số và
chứng thư số; việc quản lý, cung cấp và sử dụng chữ ký số, chứng thư số và
dịch vụ chứng thực chữ ký số nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc cung cấp,
sử dụng chữ ký số của CQNN các cấp cũng như người dân, doanh nghiệp;
- Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
- Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.
Đây là văn bản rất quan trọng của Chính phủ, ban hành những chính sách
trọng tâm về phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã
hội số nhằm tiếp tục hiện thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo
phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp, nhất là
trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến
năm 2015 và định hướng đến năm 2020;
- Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/07/2018 của Thủ tướng
Chính phủ Về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước;
- Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 07/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về về
việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm cải thiện chỉ số xếp
22
hạng của Việt Nam.
Có thể nói, hệ thống chính sách, văn bản pháp luật về CNTT nói chung
và những văn bản điều chỉnh hoạt động ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
nói riêng được ban hành tương đối đầy đủ, tạo nên khung pháp lý cơ bản cho
việc ứng dụng CNTT.
1.4 Những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng công nghệ
thông tin
* Chủ trương chính sách
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là nhân tố
quyết định và đóng vai trò quan trọng nhất trong các nhân tố tác động tới quá
trình ứng dụng CNTT, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ
đạo điều hành của các CQNN từ trung ương tới địa phương. Chủ trương,
chính sách được thể hiện từ định hướng chiến lược cho đến các khía cạnh cụ
thể nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể như: Chính sách đảm bảo tính pháp lý
cho các văn bản, các thủ tục khi triển khai ứng dụng CNTT (tính pháp lý của
văn bản điện tử, chữ ký số, chính sách công nhận các giao dịch qua mạng,
thanh toán điện tử, v.v...); chính sách thu hút và khuyến khích các hoạt động
CNTT (tăng cường ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục hành chính, đẩy
mạnh gia công, xuất khẩu phần mềm…). Chủ trương, chính sách ứng dụng
CNTT cần có sự nhất quán và định hướng rõ ràng, lâu dài, kịp thời cập nhật
những biến động nhanh chóng của khoa học, công nghệ. Vấn đề này rất quan
trọng đối với CQNN vì khi CQNN có sự thay đổi lãnh đạo, người đứng đầu
thường dẫn đến việc thay đổi chính sách.
* Hạ tầng nhân lực
Bên cạnh chủ trương, chính sách thì hạ tầng nhân lực cũng là yếu tố
then chốt của việc triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT. Nhân lực
trong hoạt động ứng dụng CNTT bao gồm đội ngũ lãnh đạo, công chức, viên
23
chức các CQNN và các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học, chuyên gia
CNTT, đội ngũ nhân viên, kỹ thuật viên. Trong đó, khả năng nhận thức, khả
năng hoạch định chiến lược và đưa ra những quyết sách đúng đắn của nhà
lãnh đạo, quản lý là sự hỗ trợ tốt nhất cho công tác ứng dụng CNTT của một
cơ quan, tổ chức. CNTT là một lĩnh vực đòi hỏi sự cập nhật liên tục các thông
tin, các xu hướng công nghệ mới, do vậy vấn đề tuổi tác, khả năng sử dụng
thành thạo ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình tổ chức thực thi các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
Thêm vào đó, sự tham gia của đội ngũ chuyên gia trong việc triển khai và
phát triển các ứng dụng CNTT là hết sức cần thiết. Với vốn kiến thức, kinh
nghiệm tích lũy trong nhiều năm nghiên cứu, công tác trong lĩnh vực CNTT,
các chuyên gia sẽ có nhiều đóng góp cho quá trình triển khai, tổ chức thực thi
chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT.
Để xây dựng nền tảng tri thức và nhân lực CNTT đòi hỏi mỗi cơ quan,
tổ chức cần phải có chiến lược đúng đắn để tích lũy, nâng cao tri thức và có
kế hoạch sử dụng, củng cố nguồn nhân lực đó. Sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực CNTT sẽ dẫn đến việc triển khai, tổ chức thực thi các chính sách
ứng dụng CNTT có hiệu quả.
* Hạ tầng kỹ thuật
Do yếu tố đặc trưng của ngành CNTT nên các phần mềm, ứng dụng
CNTT cần phải có hạ tầng trang thiết bị, cơ sở vật chất (máy vi tính, đường
truyền mạng, máy chủ…) để cài đặt, vận hành. Hạ tầng kỹ thuật tác động, chi
phối các yếu tố liên quan đến quá trình tổ chức, triển khai các ứng dụng
CNTT. Một hệ thống thông tin tốt, hoạt động hiệu quả phục vụ hoạt động của
CQNN cần phải bảo đảm sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và các phần mềm
ứng dụng. Hạ tầng kỹ thuật yếu kém, lạc hậu (trang thiết bị cũ, cấu hình
thấp…) thì việc ứng dụng CNTT cũng sẽ không đạt được kết quả như mong
24
muốn của CQNN triển khai ứng dụng CNTT.
Tương tự như các ngành, nghề khác, việc triển khai ứng dụng CNTT có
quan hệ mật thiết với nguồn kinh phí mà CQNN phải bảo đảm, cân đối để đầu
tư các ứng dụng CNTT. Các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm, bố trí đầy đủ
nguồn kinh phí cho CNTT sẽ triển khai được nhiều ứng dụng CNTT hơn.
Trong khi đó, các Bộ, cơ quan, địa phương khác do điều kiện về nguồn vốn
không đáp ứng thì việc triển khai các ứng dụng CNTT sẽ rất chậm, trì trệ. Các
loại chi phí chính mà CQNN phải bảo đảm, cân đối cho hoạt động ứng dụng
CNTT bao gồm: Chi phí đầu tư (thuê hoặc mua sắm) trang thiết bị và các
phần mềm ứng dụng; chi phí đào tạo, tập huấn cho người sử dụng; chi phí cập
nhật dữ liệu vào các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin; chi phí truyền thông;
chi phí vận hành, duy trì hạ tầng kỹ thuật, các phần mềm ứng dụng, , v.v... Do
đặc điểm của hoạt động ứng dụng CNTT là liên tục (các hệ thống CNTT phải
bảo đảm khả năng hoạt động liên tục, không ngừng nghỉ) vì vậy việc duy trì
nguồn kinh phí, tiến độ đầu tư cho CNTT cũng như đảm bảo và cân đối kinh
phí cho phù hợp với quy mô và mục tiêu ứng dụng CNTT là rất quan trọng.
Quy mô đầu tư cho các hoạt động CNTT ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả của việc ứng dụng CNTT. Đây là yếu tố quyết định về tiến độ, sự đồng
bộ, hiệu quả trong quá trình triển khai của các dự án đầu tư ứng dụng CNTT.
* Cơ cấu tổ chức
Ngoài các yếu tố nêu trên, cơ cấu tổ chức cũng là một yếu tố tác động
khá nhiều đối với quá trình ứng dụng CNTT. Tính hiệu quả của cơ cấu tổ
chức quyết định đến sự phát triển và kết quả triển khai ứng dụng CNTT. Về
bản chất, việc triển khai các ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động của các
CQNN phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về quy trình, nghiệp vụ, cơ cấu tổ
chức của cơ quan đó. Do vậy, trong quá trình tổ chức thực thi các chính sách
ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa
25
các thành phần của cơ quan, tổ chức là yếu tố góp phần đơn giản hóa quy
trình ứng dụng CNTT vào hoạt động của mình. Những cơ quan, tổ chức có bộ
máy tinh giản, gọn nhẹ thì việc triển khai ứng dụng CNTT sẽ gặp nhiều thuận
lợi hơn những cơ quan tổ chức có bộ máy cồng kềnh, phức tạp, đa ngành, đa
lĩnh vực. Việc CQNN xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị trực thuộc,
bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, điều hành từ trên xuống dưới sẽ tạo ra
cách tiếp cận mang tính tổng quát và các quy trình phối hợp chặt chẽ, rõ ràng,
gắn trách nhiệm cụ thể cho từng đối tượng (lãnh đạo, công chức, viên chức,
người lao động tại các bộ phận khác nhau) giúp cho việc triển khai các hệ
thống CNTT mà tổ chức xây dựng trở nên đơn giản, dễ triển khai áp dụng.
* Mức độ, khả năng sẵn sàng ứng dụng CNTT của người dân, doanh
nghiệp
Những yếu tố như đã nêu trên đều rất quan trọng nhưng vẫn chưa đầy
đủ nếu không đề cập tới yếu tố người sử dụng. Cho dù CQNN có xây dựng,
cung cấp nhiều ứng dụng CNTT (điển hình là các dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, 4) nhưng người sử dụng là người dân, doanh nghiệp không quan
tâm hoặc chưa sẵn sàng hoặc ít sử dụng, khai thác thì việc triển khai của cơ
quan đó được đánh giá là không hiệu quả, thậm chí còn gây lãng phí, tốn kém
cho ngân sách nhà nước. Để việc triển khai có hiệu quả, các ứng dụng CNTT
do CQNN cung cấp phải thực sự thiết yếu đối với người dân, doanh nghiệp;
giao diện, chức năng của phần mềm phải bảo đảm tính thân thiện, dễ sử
dụng… và phải tính đến khả năng, mức độ sẵn sàng tiếp cận, khai thác, sử
dụng ứng dụng CNTT của người dân, doanh nghiệp. Như vậy, việc triển khai
các chính sách ứng dụng CNTT mới có thể đem lại những hiệu quả như mong
26
đợi.
Tiểu kết chương
Có thể thấy vai trò ngày càng quan trọng của CNTT trong cuộc sống
hàng ngày của mỗi con người. CNTT làm thay đổi thói quen học tập, làm
việc, giải trí hay các hoạt động sản xuất kinh doanh... Trong bối cảnh Việt
Nam tăng cường hội nhập quốc tế như hiện nay, CQNN các cấp cũng không
thể nằm ngoài xu hướng ảnh hưởng của CNTT. Thông qua việc tổ chức triển
khai các ứng dụng CNTT, CQNN cung cấp cho người dân, doanh nghiệp
nhiều dịch vụ hơn (bao gồm các dịch vụ công trực tuyến để tạo thuận lợi cho
quá trình thực hiện thủ tục hành chính giữa người dân, doanh nghiệp và
CQNN), thu hẹp khoảng cách giữa công dân và chính quyền, từng bước nâng
cao tính minh bạch, bình đẳng. Việc ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
trong các CQNN do đó đã nhận được sự quan tâm đặt biệt của các cấp, các
ngành, sự đồng thuận, hưởng ứng của người dân và doanh nghiệp.
Chương 1 nêu khái quát những vấn đề cơ bản mang tính lý luận về
chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có ứng dụng CNTT để xây
dựng CPĐT, xác định rõ chủ thể, thể chế chính sách ứng dụng CNTT, nhận
diện được những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng CNTT trong các
CQNN ở Việt Nam hiện nay.
Những nghiên cứu, lý luận về chính sách ứng dụng CNTT được trình
bày trong Chương này sẽ là cơ sở, nền tảng và điều kiện quan trọng để nghiên
cứu, phân tích về thực trạng thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây
27
dựng CPĐT từ thực tiễn của các CQNN tại Việt Nam ở chương sau.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,
XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRONG CÁC CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
2.1. Sự hình thành, phát triển của công nghệ thông tin tại Việt Nam
Ứng dụng CNTT được triển khai tương đối sớm tại nước ta. Tuy nhiên,
cho đến năm 1993, với việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 49/CP ngày
04/8/1993 về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, ngành CNTT
mới có những định hướng phát triển rộng rãi trên quy mô toàn quốc. Nghị
quyết đã xác định rõ những mục tiêu chính cho việc ứng dụng CNTT là: “Xây
dựng hệ thống các máy tính và phương tiện truyền thông được liên kết với
nhau trong các mạng với những công cụ phần mềm đủ mạnh và các hệ thống
thông tin và cơ sở dữ liệu có khả năng phục vụ các hoạt động quản lý nhà
nước và các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế. Một số hệ thống thông tin
trong nước được ghép nối với các mạng thông tin quốc tế; phát triển rộng rãi
việc ứng dụng CNTT góp phần tăng năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, …”. Sau khi ban hành Nghị quyết 49/CP, Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt Chương trình quốc gia về CNTT - Kế hoạch tổng thể đến năm
2000 (Quyết định số 211/TTg ngày 07 tháng 4 năm 1995) để xác định những
nhiệm vụ cụ thể mà các bộ, ngành, địa phương phải thực hiện trong giai đoạn
1995-2000.
Tại các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là vào những năm cuối của
thế kỷ XX, ngành CNTT đã những có bước phát triển nhảy vọt làm thay đổi
về cơ bản cách thức mà con người làm việc, học tập và sinh hoạt. Để kịp thời
nắm bắt xu hướng CNTT thế giới trong giai đoạn phát triển mới, ngày
17/10/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng
28
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong đó, những mục tiêu chính được xác định là:“CNTT được ứng dụng
rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng
nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng; phát
triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước, với thông lượng lớn, tốc độ
và chất lượng cao, giá rẻ; tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình thế
giới; công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có
tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực khác; có tỷ lệ đóng
góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng”. Chỉ thị của Bộ
Chính trị sau đó được Chính phủ cụ thể hóa tại 03 văn bản quan trọng:
Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW, Đề án “Tin học hóa
quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005” và Kế hoạch tổng thể về
ứng dụng và phát triển CNTT ở Việt Nam đến 2005. Với sự vào cuộc chỉ đạo
sát sao, đồng bộ từ Bộ Chính trị cũng như từ Chính phủ, đảng bộ, chính quyền
các cấp từ trung ương tới địa phương đã triển khai mạnh mẽ các ứng dụng
CNTT, trong đó tập trung vào các ứng dụng phục vụ hoạt động của CQNN;
các phầm mềm, cơ sở dữ liệu dùng chung được xây dựng, triển khai; mạng
thông tin (diện rộng) của Chính phủ được đầu tư xây dựng, phát triển; cán bộ,
công chức được đào tạo kỹ năng cơ bản để khai thác, sử dụng CNTT. Mặc dù
giai đoạn này chính sách ứng dụng CNTT được xây dựng với mục tiêu, tầm
nhìn chiến lược, thậm chí rất nhiều chính sách vẫn còn tiếp tục được tổ chức
thực thi tới ngày hôm nay (xây dựng các cơ sở dữ liệu dùng chung, cơ sở dữ
liệu nền tảng quốc gia như dân cư, đất đai…), việc tổ chức thực thi chính sách
lại không hợp lý, tồn tại nhiều hạn chế bất cập, gây ra nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho các CQNN (điển hình là sự thất bại của Đề án Tin học hóa quản lý
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2000 hay còn gọi là Đề án 112).
Giai đoạn 2010 - 2015, cùng với việc Chính phủ, các Bộ, ngành, địa
phương đẩy mạnh cải cách hành chính, CNTT đã trở thành công cụ hỗ trợ
29
hiệu quả cho hoạt động cải cách hành chính. Nhiều Bộ, ngành bắt đầu xây
dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia (như Văn bản pháp luật,
Thủ tục hành chính, Đăng ký giao dịch bảo đảm, Hộ tịch…) và các
Trang/Cổng thông tin điện tử để đăng tải, cung cấp cho người dân, doanh
nghiệp thông tin về hoạt động của các CQNN, các văn bản, quy định, cơ chế,
chính sách mới ban hành…Thêm vào đó, nhiều ứng dụng CNTT phục vụ giải
quyết các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí hoạt
động; tăng tính minh bạch trong hoạt động của CQNN, tạo thuận tiện cho
người dân và doanh nghiệp cũng được đưa vào sử dụng (phần mềm một cửa
điện tử được đưa vào vận hành tại Bộ phận tiếp nhận và Trả kết quả hiện đại
cấp tỉnh, huyện theo Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ; hệ thống thông tin hỗ trợ Đăng ký giao dịch bảo đảm do Bộ Tư pháp
triển khai…). Khi đánh giá tổng quan về tình hình ứng dụng CNTT thời kỳ
này, Nghị quyết số 36a/NQ-CP nhận xét: CNTT đã góp phần không nhỏ vào
công tác quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương, nhất là trong xử lý
hồ sơ hành chính, quản lý ngân sách, thuế, kho bạc, hải quan, bảo hiểm xã
hội, thành lập doanh nghiệp... Ngay trong năm 2015, tỷ lệ doanh nghiệp thực
hiện kê khai thuế điện tử đã tăng từ 65% lên 98%; thời gian nộp thuế của
doanh nghiệp giảm từ 537 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm. Việc thực hiện thủ
tục hải quan điện tử theo Hệ thống thông quan tự động (VNACCS/VCIS) và Cơ
chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế đã giảm thời gian thông quan hàng
hóa bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với
nhập khẩu, giảm được 10 - 20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa
xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT
trên tất cả các lĩnh vực đã góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo
thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
30
nhà nước và quản trị doanh nghiệp [6].
Mặc dù việc ứng dụng CNTT tại Việt Nam nói chung và ứng dụng
CNTT trong hoạt động của các CQNN được Đảng, Nhà nước và Chính phủ
quan tâm, đầu tư từ sớm, tuy nhiên, đến năm 2015, tại Nghị quyết số 36a/NQ-
CP ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ về CPĐT, Chính phủ mới có
những chỉ đạo cụ thể, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh
triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT. Với sự quyết tâm của các cấp
các, ngành, trong giai đoạn từ 2015 – 2017, việc ứng dụng CNTT để xây
dựng CPĐT đã đạt được một số kết quả nổi bật như: vị trí của Việt Nam về
CPĐT theo xếp hạng của Liên hợp quốc được nâng cao (năm 2016, Việt Nam
xếp thứ 89/193 quốc gia được thực hiện đánh giá, tăng 10 bậc so với năm
2014) [25]; cơ chế, chính sách cho triển khai, xây dựng CPĐT được xây
dựng, hoàn thiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và bộ, ngành liên quan ban hành điều chỉnh việc
thiết lập, ứng dụng CNTT trong phục vụ nhân dân và trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước, quy định về công tác bảo đảm an toàn, an ninh
thông tin; về Cổng dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin một cửa điện tử
cấp bộ, cấp tỉnh và kết nối, liên thông các hệ thống thông tin này; về gửi, nhận
văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; về chữ
ký số cho văn bản điện tử; về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và
thông tin trên mạng; về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật như: Luật An toàn
thông tin mạng; Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng và các văn bản
hướng dẫn; Thông tư số 10/2016/TT-BTTTT ngày 01/4/ 2016 của Bộ Thông
tin và Truyền thông; Thông tư số 39/2017/TT-BTTTT ngày 15/12/2017 của
Bộ Thông tin và Truyền thông; Thông tư số 41/2017/TT-BTTTT ngày
19/12/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông; Thông tư số 45/2017/TT-
31
BTTTT ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông…
Các văn bản pháp luật này đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc
triển khai, xây dựng CPĐT.
Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2015-2017,
ngày 17/3/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số
nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐTgiai đoạn 2019 - 2020, định
hướng đến 2025 với mục tiêu: Hoàn thiện nền tảng CPĐT nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng
phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu và dữ liệu
mở hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn
thông tin và an ninh mạng; nâng xếp hạng CPĐT theo đánh giá của Liên hợp
quốc tăng từ 10 đến 15 bậc năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn
đầu ASEAN trong xếp hạng CPĐT theo đánh giá của Liên hợp quốc đến năm
2025.
2.2. Vấn đề chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng
chính phủ điện tử
2.2.1 Thực trạng chính sách
Theo đánh giá tại Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ, trong
những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng
dụng công nghệ thông tin, xây dựng CPĐT trong hoạt động của các CQNN và
phục vụ người dân, doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương
đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng làm nền
tảng trong triển khai xây dựng CPĐT, như: ban hành theo thẩm quyền, trình
cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn để hoàn thiện
hành lang pháp lý, thúc đẩy việc xây dựng CPĐT; xây dựng và đưa vào vận
hành một số cơ sở dữ liệu như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; đang triển khai xây dựng Cơ sở
32
dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; đã cung cấp một số
dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như: đăng
ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội…; một số
bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; tại một số địa
phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao
tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức; chất lượng nhân lực về
công nghệ thông tin của Việt Nam cũng được nâng cao. Theo Báo cáo đánh
giá về CPĐT của Liên hợp quốc, năm 2016, Chỉ số phát triển CPĐT (EGDI)
của Việt Nam xếp hạng thứ 89/193 quốc gia, tăng 10 bậc, trong đó chỉ số
thành phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI) tăng 8 bậc, lên thứ hạng 74/193
quốc gia (so với năm 2014); đến năm 2018, Chỉ số phát triển CPĐT của Việt
Nam xếp hạng thứ 88/193 quốc gia, tăng 01 bậc, trong đó chỉ số thành phần
về dịch vụ công trực tuyến tăng 15 bậc, lên thứ hạng 59/193 quốc gia, riêng
chỉ số hạ tầng viễn thông (TII) giảm 10 bậc, xuống thứ hạng thứ 100/193
quốc gia (so với năm 2016).
Bên cạnh đó, nhiều nội dung triển khai CPĐT chưa được như mong
đợi, như: còn rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; việc
triển khai ở một số nơi còn mang tính hình thức; việc xây dựng các cơ sở dữ
liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin nền tảng phục vụ phát triển CPĐT
còn chậm; chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; nhiều
hệ thống thông tin chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; việc giải quyết
thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công,
giấy tờ; tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; chỉ số tuân thủ thủ
tục hành chính (APCI) ở một số thủ tục hành chính như đất đai, đầu tư, môi
trường và xây dựng còn thấp.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề trên là do nhiều ngành, nhiều cấp
chưa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể trong triển khai; còn thiếu
33
gắn kết, đồng bộ giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách hành chính
và đổi mới lề lối, phương thức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân,
doanh nghiệp; chưa phát huy vai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực
hiện; chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của một số nhóm thủ tục hành chính
còn cao gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp; nền tảng tích hợp, chia sẻ
dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của cơ quan hành chính nhà nước chậm
được triển khai; tình trạng cát cứ thông tin, dữ liệu còn phổ biến dẫn đến
nhiều số liệu trùng lặp, không thống nhất; việc bảo đảm an toàn, an ninh cho
các hệ thống thông tin của các CQNN còn chưa được quan tâm đúng mức;
còn thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng CPĐT; thiếu cơ chế tài chính
và đầu tư phù hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin; thiếu quy định cụ
thể về định danh cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử; thiếu các quy
định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử; cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ
xây dựng CPĐT chưa đủ mạnh; chưa huy động tối đa nguồn lực xã hội trong
xây dựng và phát triển CPĐT.
2.2.2 Mục tiêu chính sách
Từ những thực trạng kể trên, Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ
đã xác định rõ quan điểm: Xây dựng, phát triển CPĐT, hướng tới Chính phủ
số, nền kinh tế số và xã hội số trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới thống
nhất trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau:
- Kế thừa, phát triển các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin,
xây dựng CPĐT theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ phù hợp với bối cảnh hiện nay và xu hướng phát triển của thế giới.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ, người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, thành viên Ủy ban Quốc gia về
CPĐT, tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển thành công CPĐT Việt Nam.
Ủy ban Quốc gia về CPĐT không làm thay nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa
phương. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
34
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đầu
mối chỉ đạo thống nhất, chịu trách nhiệm tổ chức triển khai xây dựng CPĐT
tại bộ, ngành, địa phương mình quản lý, bảo đảm hiệu quả, tiến độ, chất lượng
theo yêu cầu.
- Đổi mới phương thức phục vụ, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung
tâm, lấy sự hài lòng của cá nhân, tổ chức là thước đo quan trọng trong phát
triển CPĐT; bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin
với cải cách hành chính, đổi mới lề lối, phương thức làm việc, xác định ứng
dụng công nghệ thông tin là công cụ hữu hiệu hỗ trợ, thúc đẩy cải cách hành
chính.
- Dựa trên cơ sở thiết kế tổng thể, thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu
giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, tạo ra các dịch vụ nền tảng dùng
chung cho toàn hệ thống từ trung ương đến địa phương; tuân thủ Khung kiến
trúc CPĐT Việt Nam, Kiến trúc CPĐT cấp bộ, Kiến trúc Chính quyền điện tử
cấp tỉnh và có sự đo lường, đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện.
- Gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh quốc gia, bảo vệ
thông tin cá nhân, tổ chức; không để lộ lọt thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà
nước; các cơ quan và tổ chức nước ngoài có thể hỗ trợ kinh phí, hỗ trợ kỹ
thuật cho Việt Nam trong xây dựng CPĐT, Việt Nam làm chủ công nghệ, mã
nguồn phần mềm, cơ sở dữ liệu.
- Huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác
truyền thông, nâng cao nhận thức của toàn xã hội trong xây dựng, phát triển
CPĐT. Bảo đảm nguồn ngân sách nhà nước chi cho ứng dụng công nghệ
thông tin, xây dựng CPĐT hàng năm.
Với quan điểm chỉ đạo như trên, Nghị quyết xác định mục tiêu tổng
quát, mục tiêu cụ thể như sau:
35
- Mục tiêu tổng quát
Hoàn thiện nền tảng CPĐT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân,
doanh nghiệp; phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới
Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an
ninh mạng; đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng
CPĐT của Liên hợp quốc.
- Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn 2018-2020, triển khai thực hiện theo nhóm chỉ tiêu:
Xây dựng các văn bản pháp lý và xây dựng hệ thống nền tảng phát
triển CPĐT: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tạo lập,
quản lý và chia sẻ dữ liệu, bảo vệ thông tin cá nhân, định danh điện tử, lưu trữ
điện tử, hoàn thiện khung pháp lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin nhằm
tăng cường thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong các CQNN; xây dựng,
phát triển Trục liên thông văn bản quốc gia theo công nghệ tiên tiến của thế
giới làm nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu…, trước hết thực hiện gửi, nhận văn bản điện tử theo lộ trình quy định
tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ...; các Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo hiểm; tiếp tục hoàn
thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; Nâng cao năng lực,
chất lượng dịch vụ Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng,
Nhà nước, xác định đây là hạ tầng truyền dẫn căn bản trong kết nối các hệ
thống thông tin CPĐT và liên thông, chia sẻ dữ liệu…
Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp: 20% số
lượng người dân và doanh nghiệp tham gia hệ thống thông tin CPĐT được
xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống
thông tin của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương; Tỷ lệ hồ sơ
giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của từng
36
bộ, ngành, địa phương đạt từ 20% trở lên; tích hợp 50% các dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công
quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua
Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; tối thiểu 80% người dân
và doanh nghiệp hài lòng về việc giải quyết thủ tục hành chính.
Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của các
CQNN: 100% phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành, địa
phương được kết nối, liên thông qua Trục liên thông văn bản quốc gia; 100%
phần mềm quản lý văn bản và điều hành tại các bộ, ngành, địa phương được
kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử (không bao gồm văn bản
mật); tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc
tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường
mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật); Tối thiểu 30%
báo cáo định kỳ (không bao gồm báo cáo mật) được gửi, nhận qua Hệ thống
thông tin báo cáo quốc gia; rút ngắn từ 30-50% thời gian họp, giảm tối đa việc
sử dụng tài liệu giấy thông qua Hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ,
văn phòng điện tử.
Đồng thời, tiếp tục nâng cao Chỉ số về CPĐT, bao gồm ba nhóm chỉ số
thành phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và nguồn
nhân lực (HCI); phấn đấu đến hết năm 2020, Việt Nam nằm trong Nhóm 5 quốc
gia đứng đầu ASEAN về Chỉ số phát triển CPĐT.
Giai đoạn 2021-2025, thực hiện theo các nhóm chỉ tiêu cụ thể:
Xây dựng các văn bản pháp lý và xây dựng hệ thống nền tảng phát
triển CPĐT: Trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật CPĐT và các văn bản
hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu mở,
ứng dụng các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối
(Blockchain), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (BigData)…, hướng
tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số; Tiếp tục phát triển các hệ thống
37
nền tảng phát triển CPĐT, nghiên cứu, phát triển các giải pháp kết nối với các
hệ thống thông tin của các nước trong khu vực ASEAN cũng như một số các
nước trên thế giới theo quy định, thông lệ quốc tế; hoàn thành triển khai cơ sở
dữ liệu quốc gia về tài chính, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia tích hợp, chia sẻ
dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa
phương.
Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp: 100%
Cổng Dịch vụ công, Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh được
kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4 phổ biến, liên quan nhiều tới người dân, doanh nghiệp
được tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% giao dịch trên Cổng
Dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh và hệ thống
thông tin một cửa điện tử được xác thực điện tử; 40% số lượng người dân và
doanh nghiệp tham gia hệ thống CPĐT được xác thực định danh điện tử thông
suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ
Trung ương đến địa phương; Tỷ lệ hồ sơ giải quyết theo dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4 trên tổng số hồ sơ đạt từ 50% trở lên; 80% thủ tục hành
chính đáp ứng yêu cầu được triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4;
tích hợp 50% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa
phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia; tối thiểu 90% người dân và doanh
nghiệp hài lòng về việc giải quyết thủ tục hành chính; 60% các hệ thống
thông tin của các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến người dân, doanh
nghiệp đã đưa vào vận hành, khai thác được kết nối, liên thông qua nền tảng
tích hợp, chia sẻ dữ liệu; thông tin của người dân, doanh nghiệp đã được số
hóa và lưu trữ tại các cơ sở dữ liệu quốc gia không phải cung cấp lại.
Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của các
CQNN: 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 80% hồ sơ công việc tại cấp
38
huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng
(không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật). 80% báo cáo định
kỳ (không bao gồm nội dung mật) của các cơ quan hành chính nhà nước được
cập nhật, chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, phục vụ hiệu quả
hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành; Triển khai nhân rộng hệ thống thông
tin Chính phủ không giấy tờ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; đến
cuối năm 2025, phấn đấu 100% cấp tỉnh, 80% cấp huyện thực hiện họp không
giấy tờ tại các cuộc họp của Ủy ban nhân dân.
Tiếp tục nâng cao Chỉ số về CPĐT, bao gồm ba nhóm chỉ số thành
phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và nguồn
nhân lực (HCI); phấn đấu đến hết năm 2025, Việt Nam nằm trong Nhóm 4
quốc gia đứng đầu ASEAN về Chỉ số phát triển CPĐT của Liên hợp quốc.
2.2.3 Các giải pháp và công cụ chính sách
Xây dựng, hoàn thiện thể chể tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho
việc triển khai, phát triển CPĐT
Thiết lập và tăng cường các thể chế, chính sách nền tảng cho xây dựng
CPĐT; trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ:
- Xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP của
Chính phủ về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của
CQNN và Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê
dịch vụ công nghệ thông tin, hoàn thành trong tháng 11 năm 2018.
Đề xuất trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho làm thí điểm
việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin để tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc đối với đặc thù của các dự án công nghệ thông tin trong quá trình chờ
sửa Luật Đầu tư công và các luật khác có liên quan.
- Xây dựng, ban hành các nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng
dẫn về: kết nối, chia sẻ dữ liệu; về bảo vệ dữ liệu cá nhân; về xác thực và định
39
danh điện tử; về chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi,
bổ sung các nghị định về Quy chế làm việc của Chính phủ phù hợp với phương
thức làm việc, tương tác điện tử; về công tác văn thư, lưu trữ điện tử.
- Nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật CPĐT và các văn bản hướng dẫn
bảo đảm hành lang pháp lý phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng
các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain),
Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (BigData)…, hướng tới Chính phủ
số, nền kinh tế số, xã hội số, trong giai đoạn 2021-2025.
Xây dựng nền tảng công nghệ phát triển CPĐT phù hợp với xu thế phát
triển CPĐT trên thế giới
Các giải pháp công nghệ tập trung vào phát triển nền tảng công nghệ
CPĐT phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các bộ, ngành, địa phương như sau:
- Xây dựng Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử (phiên bản 2.0), xây
dựng, cập nhật Kiến trúc CPĐT của Bộ, Kiến trúc Chính quyền điện tử của
địa phương đáp ứng các xu hướng công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật
(IoT), Dữ liệu lớn (Big Data), Dữ liệu mở (Open Data), Chuỗi khối
(Blockchain)…; tập trung triển khai xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu
quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2015 của Thủ
tướng Chính phủ, bao gồm cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, tài
chính, doanh nghiệp, bảo hiểm… Đặc biệt, phải khẩn trương hoàn thành triển
khai Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư để tạo hiệu ứng tâm lý và triển khai
khai thác hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ
liệu quốc gia về bảo hiểm.
- Xây dựng, phát triển Trục liên thông văn bản quốc gia làm nền tảng
tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của bộ,
ngành, địa phương trong việc gửi, nhận văn bản điện tử, Cổng Dịch vụ công
40
quốc gia, Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ
tục hành chính, hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ, hệ thống tham
vấn chính sách, công báo điện tử...
- Xây dựng, phát triển CPĐT gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa ứng dụng
công nghệ thông tin với cải cách hành chính nhằm chuẩn hóa, điện tử hóa quy
trình nghiệp vụ, số hóa, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các CQNN từ Trung
ương đến địa phương; đổi mới phương thức phục vụ người dân, doanh nghiệp
Các giải pháp công nghệ tập trung vào phát triển CPĐT gắn kết chặt
chẽ ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách hành chính, đổi mới phương
thức phục vụ người dân, doanh nghiệp như sau: Xây dựng Cổng dịch vụ công
quốc gia và triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử (G2B, G4C), kết
nối Cổng dịch vụ công bộ, ngành, địa phương; thiết lập Hệ thống thông tin
Chính phủ không giấy tờ phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; tiến tới triển khai nhân rộng hệ thống này phục vụ chỉ đạo
điều hành của lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để rút ngắn thời gian họp,
giảm giấy tờ hành chính và nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng Hệ thống tham vấn chính
sách hỗ trợ kết nối với Hệ thống thông tin điện tử phục vụ chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để phục vụ quá trình ra các quyết định
của người đứng đầu các cơ quan hành chính; thiết lập Hệ thống thông tin báo
cáo quốc gia, Trung tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ để cung cấp kịp thời thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và
hoạch định chính sách, bảo đảm tiết kiệm nguồn lực; hoàn thiện Hệ thống
thông tin tiếp nhận, trả lời phản ánh kiến nghị của người dân và doanh nghiệp;
xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp và các công cụ báo cáo thông minh phục vụ
chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
41
- Bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng CPĐT
Dành nguồn lực phù hợp để phát triển CPĐT trên cơ sở xác định mục
tiêu trọng tâm và ưu tiên đầu tư xây dựng CPĐT trong ngắn hạn và trung hạn;
rà soát, sắp xếp lại nguồn lực và huy động nguồn lực còn thiếu từ các nguồn,
kể cả xã hội hóa và vay thương mại. Theo đó, trong giai đoạn 2018-2020 có
quyết định cơ chế huy động vốn dành cho đầu tư CPĐT và cơ chế bảo đảm
thực hiện; giai đoạn 2021-2025 dành nguồn lực phù hợp để phát triển CPĐT
theo cơ chế được ban hành; cơ chế đầu tư CPĐT phải đảm bảo theo đầy đủ
các bước triển khai và vận hành; phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp
trong xây dựng và triển khai CPĐT; chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ
chuyên gia về giải pháp công nghệ và triển khai CPĐT tại các CQNN. Cụ thể
gồm: (i) Bảo đảm huy động mọi nguồn lực tài chính triển khai những nhiệm
vụ ưu tiên phát triển CPĐT giai đoạn 2018-2020, định hướng đến 2025; (ii)
Tiếp tục thực hiện các giải pháp để nâng cao chỉ số thành phần về hạ tầng và
nguồn nhân lực của Việt Nam theo phương pháp đánh giá CPĐT của Liên
hợp quốc, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế liên quan để cung cấp kịp
thời các số liệu liên quan; (iii) Chú trọng xây dựng chương trình, tổ chức đào
tạo, tập huấn cho các cán bộ, công chức, viên chức về CPĐT, khai thác sử
dụng các hệ thống thông tin, làm việc trên môi trường mạng, sử dụng dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, 4 (đối với người dân, doanh nghiệp); (iv) Nghiên
cứu, xây dựng cơ chế khuyến khích để thu hút nhân lực tham gia xây dựng,
phát triển CPĐT trong bộ máy nhà nước; (v) Tích cực triển khai chương trình
truyền thông để nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen hành vi, tạo sự đồng
thuận của người dân, doanh nghiệp về phát triển CPĐT; (vi) Thiết lập cơ chế
bảo đảm thực thi với mục tiêu, chỉ số đo lường, đánh giá kết quả cụ thể, cơ
chế theo dõi, giám sát, trách nhiệm giải trình, xử lý kịp thời vướng mắc, và
42
nguồn lực tài chính, con người để bảo đảm thực thi
2.2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách
Nhân tố bên ngoài
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam cũng như
những xu thế tích cực trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang hồi phục và khởi sắc sau giai đoạn
suy thoái; cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều
quốc gia trên thế giới là cơ hội cho các doanh nghiệp CNTT Việt Nam có thể
tiếp cận và chinh phục; điển hình trong số đó là thị trường gia công, lắp ráp
các sản phẩm công nghệ, thị trường dịch vụ CNTT (dịch vụ điện toán đám
mây, dịch vụ dữ liệu, dịch vụ nội dung số…).
Nhân tố bên trong
Quyết tâm mạnh mẽ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước của lãnh đạo các cấp, các ngành theo hướng nâng cao hàm lượng
khoa học công nghệ; cơ chế chính sách của Nhà nước cho ứng dụng CNTT
luôn được đổi mới theo hướng rút gọn, đơn giản hóa đã phần nào đáp ứng
được sự đa dạng, linh hoạt của thị trường CNTT, góp phần tạo ra những
chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế, xã hội nói chung, đồng thời
cũng là cơ sở quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển CNTT trong mọi
lĩnh vực, bao gồm kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn
lãnh thổ…
Tuy nhiên, còn nhiều nhân tố ảnh hưởng không tốt tới việc tổ chức thực
thi các chính sách ứng dụng CNTT như: Trình độ phát triển còn thấp, năng
lực cạnh tranh chưa được đánh giá cao, quá trình phát triển chưa có sự đột
phá, quy mô kinh tế nhỏ bé so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
43
Bên cạnh đó, tuy Việt Nam là một đất nước thống nhất về mặt địa lý, đa dạng
về tài nguyên thiên nhiên nhưng có địa hình phức tạp, sự phát triển giữa các
khu vực không đồng đều (vùng đồng bằng so với vùng núi, hải đảo), mức
sống, thu nhập, trình độ dân trí, lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất - kỹ thuật tại
các khu vực thành thị, nông thôn còn nhiều chênh lệch… cũng là những thách
thức về quản lý của các CQNN.
Ngoài ra, CQNN cũng như người dân, doanh nghiệp chưa thực sự có ý
thức đối với vấn đề bảo hộ bản quyền phần mềm, nhất là phần mềm được sản
xuất, gia công tại Việt Nam. Người dân, doanh nghiệp chưa có thói quen mua
phần mềm có bản quyền để sử dụng, thay vào đó, họ sử dụng các phần mềm đã
được “bẻ khóa”. Điều này vừa vi phạm nghiêm trọng Luật sở hữu trí tuệ, vừa gây
mất an toàn đối với các thiết bị máy vi tính hoặc thiết bị di động thông minh của
người dân, doanh nghiệp. Do đó, lãnh đạo các cấp, các ngành cần thực sự vào
cuộc, có những hoạt động mang tính tiên phong dẫn đầu trong việc tuyên truyền,
phổ biến cho người dân, doanh nghiệp khai thác sử dụng các phần mềm có bản
quyền
Một số nhân tố tiêu cực khác cũng ảnh hưởng tới chính sách ứng dụng
CNTT, đó là sự hạn chế về khả năng học và sử dụng ngoại ngữ; nhân lực
CNTT của Việt Nam thiếu kỹ năng làm việc chuyên nghiệp là thách thức lớn
khi tiếp cận thị trường quốc tế.
2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ
thông tin để xây dựng chính phủ điện tử trong các cơ quan nhà nước tại
Việt Nam
2.3.1 Kết quả triển khai các giải pháp, công cụ chính sách
- Về công tác chỉ đạo, điều hành
Theo số liệu thống kê của Văn phòng Chính phủ [12] Tính đến ngày
03/7/2017, 100% các bộ, cơ quan ngang bộ và 61/63 (còn TP Hồ Chí Minh và
Bà Rịa - Vũng Tàu) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập Ban
Chỉ đạo xây dựng CPĐT, chính quyền điện tử; 100% các bộ, ngành, địa
44
phương đã ban hành kế hoạch triển khai Nghị quyết 17/NQ-CP.
- Về xây dựng, hoàn thiện thể chế
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn
diện cho việc triển khai xây dựng CPĐT được Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ quan tâm chỉ đạo, các bộ, ngành tích cực thực hiện. Trong 6 tháng đầu
năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24
tháng 01 năm 2019 quy định về chế độ báo cáo của các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước; thông qua 02 đề nghị xây dựng Nghị định về
quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu (Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 13 tháng 3
năm 2019) và Nghị định về định danh và xác thực điện tử (Nghị quyết số
44/NQ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2019); thành viên Chính phủ đã cho ý kiến
về một số dự thảo Nghị định (quy định về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ
thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước; quy định chi tiết trình tự,
thủ tục áp dụng một số biện pháp bảo vệ an ninh mạng; quy định chi tiết một
số điều của Luật an ninh mạng); Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số
01/2019/TT-BNV quy định quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử
trong công tác văn thư, các chức năng cơ bản của hệ thống quản lý tài liệu
điện tử trong quá trình xử lý công việc của các cơ quan, tổ chức và Thông tư
số 02/2019/TT-BNV quy định tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào và yêu cầu
bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử.
Để tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư, thuê dịch vụ công nghệ thông tin
(CNTT), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 17/2019/QĐ-TTg
ngày 08 tháng 4 năm 2019 quy định về danh mục các gói thầu, nội dung mua
sắm nhằm duy trì hoạt động thường xuyên được áp dụng hình thức lựa chọn
nhà thầu trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu.
Ngày 26 tháng 3 năm 2019, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ký Báo cáo số 107/BC-CP của Chính phủ
45
gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án
Luật Đầu tư công (sửa đổi), trong đó đề cập việc lập, triển khai dự án, hoạt
động ứng dụng CNTT thực hiện theo hình thức thuê dịch vụ.
Ngoài ra, để bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng CPĐT, Bộ
Thông tin và Truyền thông đang xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ và
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sử dụng một phần kinh phí từ Quỹ Dịch
vụ viễn thông công ích Việt Nam cho việc phát triển CPĐT.
- Về xây dựng nền tảng công nghệ phát triển CPĐT
- Đối với nhiệm vụ xây dựng Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam (phiên
bản 2.0): hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang nghiên cứu, xây dựng
và sẽ trình số Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung Kiến trúc CPĐT, phiên
bản 2.0.
- Xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia
Văn phòng Chính phủ đã hoàn thành xây dựng Trục liên thông văn bản
quốc gia và được Thủ tướng Chính phủ bấm nút khai trương ngày 12 tháng 3
năm 2019 phục vụ việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước, Hệ thống này đang được nghiên cứu phát triển thành
nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, dự kiến đưa vào vận hành trong
tháng 12 năm 2019 theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia ưu tiên triển khai
Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư: Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Tư
pháp cấp khoảng 1,9 triệu số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai
sinh tại 43 tỉnh, thành phố trên cả nước; tiến hành cấp hơn 12 triệu căn cước
công dân tại 16 tỉnh, thành phố và đang xây dựng phần mềm phục vụ kết nối
hệ thống Căn cước công dân với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Đến nay, Bộ Công an đã thu thập thông tin được 80 triệu phiếu, đạt tỷ lệ 86%
46
và tổ chức scan được khoảng 25 triệu dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tập
trung số hóa toàn bộ dữ liệu của ngành tại trung ương, tiến hành rà soát, đồng
bộ, cấp mã định danh cho toàn bộ người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH),
bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Tính đến hết tháng 5
năm 2019, Cơ sở dữ liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang quản lý 14,4
triệu người tham gia BHXH bắt buộc và 363.000 người tham gia BHXH tự
nguyện; 12,87 triệu người tham gia BHTN; 84,48 triệu người tham gia
BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 89% dân số. Đây là nguồn dữ liệu thành phần cho
Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm để phục vụ việc chia sẻ, kết nối với các
Bộ, ngành, đơn vị trong tương lai.
Cơ sở dữ liệu Đất đai quốc gia: Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây
dựng Đề án tổng thể xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, dự kiến trình
Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11 năm 2019.
Cơ sở dữ liệu về Tài chính: Ngày 03 tháng 4 năm 2019, Bộ trưởng Bộ
Tài chính đã phê duyệt kiến trúc Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính (quyết
định số 585/QĐ-BTC) làm căn cứ để tiến hành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc
gia về Tài chính trên cơ sở tích hợp, tổng hợp dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu
chuyên ngành tài chính. Hiện đang tổ chức triển khai theo Quyết định này bảo
đảm việc đưa vào sử dụng chính thức trong năm 2020 theo đúng chỉ đạo của
Chính phủ tại Nghị quyết 17/NQ-CP.
Một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành đang hoàn thiện như quản lý thuế
(sẽ thực hiện cung cấp thông tin cho các đơn vị bên ngoài qua cổng thông tin
ngành thuê); quản lý kho bạc (đã cung cấp thông tin cho các đơn vị trong và
ngoài ngành Tài chính); quản lý hải quan (hỗ trợ ra quyết định nghiệp vụ
tăng cường đẩy mạnh trong công tác phân tích, báo cáo, tra cứu số liệu của
tất cả các đơn vị trong toàn ngành, hoàn thiện các chức năng theo yêu cầu).
47
Đang xây dựng các Đề án về không gian địa lý quốc gia, về tài nguyên và
môi trường, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 11
năm 2019.
- Nâng cao năng lực, chất lượng dịch vụ và mở rộng kết nối Mạng
truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, nhà nước:
Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai kịp thời kết nối Mạng
truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, nhà nước (TSLCD) đến các
đơn vị (100% các bộ, ngành, tỉnh, thành phố; 93,4% quận, huyện, thị xã);
nâng cấp băng thông, đảm bảo lưu lượng truyền tải không sử dụng vượt
ngưỡng 50% (kết nối đường trục 02 mặt phẳng tốc độ 1,2 Gbps, kết nối liên
tỉnh 50-400 Mbps) và sẵn sàng cung cấp dịch vụ IPv6. Đồng thời, triển khai
các biện pháp từng bước tăng cường an ninh bảo mật, bổ sung các kết nối dự
phòng, đăng ký cấp độ 5 an toàn thông tin cho mạng TSLCD cấp 1. Hiện
đang tiếp tục hoàn thiện thiết kế Mạng TSLCD đáp ứng triển khai các nhiệm
vụ CPĐT đến năm 2025; triển khai lộ trình mở rộng phạm vi phục vụ, hoàn
thành đến cấp xã trước năm 2025; nâng cấp Mạng TSLCD tạo thành mạng
“hội tụ” theo công nghệ chuyển mạch lõi thế hệ mới [11].
- Xây dựng các hệ thống thông tin đổi mới lề lối, phương thức làm việc,
phục vụ người dân, doanh nghiệp
Thiết lập Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính
phủ (e-Cabinet): Ngày 24 tháng 6 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã chính
thức khai trương Hệ thống e-Cabinet, đây chính là phương thức làm việc mới
của Chính phủ hướng tới Chính phủ không giấy tờ, hiện đại, chuyên nghiệp,
minh bạch, hiệu lực, hiệu quả hơn.
Triển khai gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước: Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Trục liên thông văn bản
quốc gia chính thức ra mắt phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử trong hệ thống
48
cơ quan hành chính nhà nước, có 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương
đã kết nối hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên hệ thống này. Từ ngày
12 tháng 3 năm 2019 đến ngày 26 tháng 6 năm 2019, đã có 54.114 văn bản
gửi và 156.185 văn bản nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia, có 93/95
cơ quan đã phản hồi từ 3 trạng thái trở lên, 83/95 đơn vị phản hồi từ 5 trạng
thái trở lên; 34 bộ, ngành, địa phương đã thực hiện kết nối liên thông đơn vị
cấp 2 có phát sinh gửi, nhận văn bản điện tử qua Trục liên thông văn bản quốc
gia; 06 đơn vị đã thực hiện kết nối liên thông đơn vị cấp 3 có phát sinh gửi,
nhận văn bản qua Trục liên thông (Cần Thơ, Bình Dương, Bình Thuận, Kiên
Giang, Lào Cai, Tiền Giang).
Hiện nay, 55/95 bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc nâng cấp
phần mềm quản lý văn bản và điều hành, 33/95 cơ quan đang thực hiện nâng
cấp và 7 cơ quan chưa có kế hoạch nâng cấp; cung cấp 157.000 chứng thư số
cho 86/93 bộ, ngành, địa phương và 314/431 lãnh đạo cấp bộ, cấp tỉnh, có
84/95 cơ quan đã tích hợp chữ ký số chuyên dùng Chính phủ; 68/95 bộ,
ngành, địa phương đã sử dụng máy chủ bảo mật riêng; 27/95 đơn vị đang sử
dụng máy chủ dùng chung do Văn phòng Chính phủ cung cấp [11].
Xây dựng Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và thiết lập Trung tâm
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Văn phòng Chính
phủ đang phối hợp với đối tác xây dựng kiến trúc tổng thể của hệ thống và
các yêu cầu kỹ thuật, nghiệp vụ; khảo sát thông tin về tình hình thực hiện chế
độ báo cáo và hiện trạng ứng dụng công nghệ tại bộ, cơ quan, địa phương làm
căn cứ xây dựng hệ thống.
Xây dựng Hệ thống thông tin ngân sách và Kế toán nhà nước số: Bộ
Tài chính đang xây dựng dự thảo chiến lược phát triển và báo cáo Kiến trúc
tổng thể ứng dụng CNTT của Kho bạc Nhà nước là cơ sở nền tảng cho việc
nghiên cứu, đề xuất xây dựng và triển khai hệ thống thông tin Quản lý Ngân
49
sách và Kế toán nhà nước số.
Xây dựng Cổng Dịch vụ công quốc gia: Trên cơ sở Đề án đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 274/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3
năm 2019, Văn phòng Chính phủ đang thiết lập Cổng Dịch vụ công quốc gia
với 4 nội dung chính: (1) nâng cấp cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành
chính, (2) tích hợp dịch vụ công trực tuyến bảo đảm phục vụ người dân,
doanh nghiệp, (3) cung cấp nền tảng đăng nhập, thanh toán trong thực hiện
dịch vụ công trực tuyến, (4) nâng cấp hệ thống phản ánh, kiến nghị. Đến nay,
đã cơ bản hoàn thành nâng cấp Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính,
giải pháp xác thực tập trung và xây dựng danh mục các dịch vụ công thiết yếu
cho vòng đời của một con người, doanh nghiệp để triển khai trên Cổng Dịch
vụ công quốc gia. Dự kiến sẽ đưa vào vận hành chính thức trong tháng 11
năm 2019 bảo đảm theo các quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP.
Xây dựng, hoàn thiện Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa
điện tử cấp bộ, cấp tỉnh theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP,
Thông tư số 01/2018/TT-VPCP: Các bộ, ngành, địa phương đang triển khai
nâng cấp hệ thống này, trong đó có một số bộ, địa phương đã hoàn thành hoặc
đang thử nghiệm như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương,
Quảng Ninh, Đồng Nai, Tây Ninh…
Về thúc đẩy thanh toán điện tử, không dùng tiền mặt: Ngày 29 tháng 3
năm 2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 2198/NHNN-TT
chỉ đạo các ngân hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tích
cực triển khai áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến để cải tiến quy trình
nghiệp vụ, cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán chất lượng,
phù hợp nhu cầu của các tổ chức, cá nhân với chi phí hợp lý bảo đảm thanh
toán thuận tiện, nhanh chóng, an toàn đối với dịch vụ công; nghiên cứu có
giải pháp về mô hình kết nối phù hợp, hiệu quả với Cổng dịch vụ công quốc
50
gia, Hệ thống thông tin một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương nhằm
đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử đối với các khoản
phí, lệ phí dịch vụ công. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm
việc với một số ngân hàng thương mại (Vietcombank, Vietinbank, BIDV) và
Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam - Napas về thực trạng thanh
toán phí, lệ phí đối với dịch vụ công; các khó khăn, vướng mắc phát sinh và
đề xuất, kiến nghị các giải pháp tháo gỡ.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai ứng dụng
công nghệ mới làm cơ sở phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán hiện
đại, tiện ích; an toàn, bảo mật như: triển khai chuyển đổi thẻ nội địa từ thẻ từ
sang thẻ chip; chỉ đạo triển khai, áp dụng Tiêu chuẩn cơ sở QR Code trong
toàn hệ thống.
Chương trình nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, các giải pháp
tích hợp, ứng dụng, sản phẩm CNTT phục vụ xây dựng CPĐT hướng tới nền
kinh tế số, xã hội số dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới như trí
tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ
liệu lớn (Big Data), giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API)... được tiếp
tục triển khai. Đến thời điểm hiện tại, Chương trình đang thực hiện 27 nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản phẩm công nghệ thông
tin phục vụ phát triển CPĐT.
- Về việc xây dựng CPĐT gắn kết chặt chẽ với bảo đảm an toàn thông
tin, an ninh mạng, an ninh quốc gia, bảo vệ thông tin cá nhân
Về công tác tổ chức kiểm tra, đánh giá, giám sát, bảo đảm an toàn, an
ninh mạng cho các hệ thống thông tin phục vụ CPĐT: Tình hình tấn công
mạng tiếp tục gia tăng về quy mô và số lượng, nhất là các cuộc tấn công mạng
có chủ đích. Trong 5 tháng đầu năm 2019, Trung tâm Giám sát an toàn không
gian mạng quốc gia (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông) ghi nhận 2.654
cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam và phát hiện,
51
cảnh báo lây nhiễm mã độc trên 407 hệ thống thông tin của các CQNN, trong
đó có 36 hệ thống của các cơ quan Trung ương và 371 hệ thống của các địa
phương [11].
Ngày 07 tháng 6 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
số 14/CT-TTg về việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm cải
thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ
chức đánh giá và công bố 02 sản phẩm phòng, chống phần mềm độc hại đáp
ứng Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính
phủ để khuyến nghị sử dụng trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Về công tác bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng: Nhằm đẩy mạnh công
tác phòng, chống và xử lý tình hình lây nhiễm mã độc, tấn công mạng gây lộ
lọt thông tin cá nhân của người dùng trên không gian mạng, Bộ Thông tin và
Truyền thông đã có Chỉ thị số 04/CT-BTTTT ngày 11 tháng 01 năm 2019 đề
nghị các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tăng cường phòng chống mã độc và
bảo vệ thông tin cá nhân trên không gian mạng.
- Về việc triển khai giải pháp liên thông giữa hệ thống chứng thực chữ
ký số công cộng và hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ:
Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ xây
dựng dự thảo Thông tư quy định về liên thông giữa hai hệ thống và gửi xin ý
kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương, đăng tải trên Cổng thông tin điện
tử. Hiện đang tổng hợp, tiếp thu các ý kiến góp ý.
2.3.2 Đánh giá sự tham gia của các chủ thể chính sách
- Văn phòng Chính phủ, cơ quan được giao nhiệm vụ thường trực Ủy
ban quốc gia CPĐT, thường trực Tổ công tác giúp việc Ủy ban, cùng với Bộ
Thông tin và Truyền thông là những “hạt nhân” quan trọng triển khai CPĐT.
Trong quá trình tổ chức triển khai các chính sách ứng dụng CNTT, Văn
phòng Chính phủ đã kịp thời hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, ngành, địa
52
phương như: hướng dẫn và đôn đốc việc kiện toàn các Ban chỉ đạo CPĐT,
Chính quyền điện tử tại các Bộ, ngành, địa phương; định kỳ hàng quý tổng
hợp báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP của các Bộ,
ngành, địa phương. Kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tháo
gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị quyết; hướng dẫn
các Bộ, ngành, địa phương tổ chức kết nối phần mềm văn bản tại các bộ, địa
phương với Trục liên thông văn bản điện tử quốc gia phục vụ gửi, nhận văn
bản điện tử giữa các CQNN. Thêm vào đó, trên cơ sở các nhiệm vụ được
giao, Văn phòng Chính phủ đã nghiên cứu, xây dựng và đưa vào vận hành
chính thức các nền tảng, hệ thống thông tin quan trọng: Trục liên thông văn
bản quốc gia; Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính
phủ (e-Cabinet); trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 274/QĐ-
TTg ngày 12 tháng 3 năm 2019 phê duyệt Đề án Cổng Dịch vụ công quốc gia.
- Bộ Thông tin và Truyền thông, với vai trò là cơ quan quản lý nhà
nước về ứng dụng CNTT, Bộ đã xây dựng để trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam phiên bản 2.0 để các Bộ, ngành, địa
phương làm cơ sở xây dựng Kiến trúc CPĐT, Chính quyền điện tử cấp Bộ,
tỉnh; ban hành các hướng dẫn, quy định, tiêu chuẩn quốc gia về kết nối, trao
đổi dữ liệu giữa các hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, tỉnh và Cổng
dịch vụ công quốc gia…
- Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử các Bộ, ngành, địa
phương được thành lập trên cơ sở kiện toàn Ban Chỉ đạo ứng dụng công nghệ
thông tin tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương làm Trưởng ban, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển
CPĐT, Chính quyền điện tử tại bộ, ngành, địa phương mình quản lý; đôn đốc
53
các cơ quan, đơn vị trực thuộc thực hiện các nhiệm vụ liên quan. Các Ban Chỉ
đạo đã xây dựng ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị quyết 17/NQ-CP
tại Bộ, cơ quan, địa phương trong đó nêu rõ thời hạn, sản phẩm cần hoàn
thành để làm cơ sở theo dõi, đôn đốc, đánh giá tình hình thực hiện; phối hợp
với các cơ quan truyền thông để tuyên truyền, phổ biến kịp thời các văn bản
chỉ đạo về lĩnh vực CNTT; Chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đối với các Ban Chỉ
đạo ứng dụng CNTT các cấp, các cơ quan Đảng chính quyền, đoàn thể triển
khai, thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng và phát triển CNTT.
- Đơn vị chuyên trách CNTT tại Bộ, cơ quan và Sở Thông tin và Truyền
thông các tỉnh, thành phố, là các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm thực thi
hoặc tổ chức thực thi các chính sách ứng dụng CNTT tại Bộ, cơ quan. Các cơ
quan, đơn vị này đã tích cực phát huy vai trò điều phối, tạo sự gắn kết giữa
các thành viên trong Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử các
Bộ, ngành, địa phương; kịp thời tổng hợp đầy đủ, toàn diện về tình hình, mức
độ ứng dụng CNTT của Bộ, cơ quan, địa phương; tổng kết đánh giá và đề
xuất cấp có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh các chính sách ứng dụng CNTT
để bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế.
2.2.4 Những tác động tích cực và hạn chế trong quá trình thực hiện
chính sách
a) Thuận lợi
Nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành trong
việc ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT đã có những chuyển biến tích cực;
Ủy ban Quốc gia về CPĐT, các Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền
điện tử tại bộ, ngành, địa phương đã được thành lập, kiện toàn để trở thành
đầu mối thống nhất trong tổ chức thực hiện các chính sách theo Nghị quyết
17/NQ-CP cũng như những chính sách ứng dụng CNTT khác để xây dựng
CPĐT. Nhiều tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế giới – World Bank, Cơ quan phát
triển Pháp – AFD, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản – Jica) và nhiều quốc gia
54
tiên tiến có trình độ phát triển cao về CNTT (Pháp, Nga, Úc, Nhật Bản, Estonia,
Hàn Quốc…) đã tích cực nghiên cứu, hỗ trợ Việt Nam để ứng dụng CNTT, xây
dựng CPĐT.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Uỷ
ban Quốc gia về CPĐT và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc
triển khai Nghị quyết 17/NQ-CP, huy động được sự vào cuộc của khu vực tư
nhân, hỗ trợ của quốc tế, những chuyên gia giỏi trong và ngoài nước, sau 3
tháng triển khai đã hoàn thành được 7/83 nhiệm vụ cụ thể, đạt được một số
kết quả tích cực như: Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ về xây
dựng CPĐT; cơ chế đầu tư, thuê dịch vụ công nghệ thông tin dần được tháo
gỡ; các hệ thống thông tin quan trọng được nghiên cứu, xây dựng khẩn trương.
Đến nay, đã vận hành được một số hệ thống có ý nghĩa trong triển khai CPĐT
như Trục liên thông văn bản quốc gia (khai trương và vận hành chính thức ngày
17 tháng 3 năm 2019) phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong
hệ thống thành chính nhà nước và Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công
việc của Chính phủ (khai trương và vận hành chính thức ngày 24 tháng 6 năm
2019), các nội dung lớn của Cổng Dịch vụ công quốc gia cũng đang được thực
hiện; công tác bảo đảm an toàn, an ninh được nhận thức đẩy đủ hơn và đã có
những cải thiện tích cực.
b) Hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai CPĐT theo Nghị
quyết số 17/NQ-CP còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
Về những nội dung chính sách ban hành tại Nghị quyết số 17/NQ-CP
- Các chính sách ban hành tại Nghị quyết số 17/NQ-CP được tổ chức
theo các nhiệm vụ rất cụ thể. Tuy nhiên, số lượng nhiệm vụ mà các Bộ,
ngành, địa phương cần thực hiện rất nhiều, thời hạn gấp (83 nhiệm vụ thực
hiện trong 02 năm (2019 – 2020).
- Việc phân công nhiệm vụ thực hiện một số nhiệm vụ chưa hợp lý,
55
chưa căn cứ theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan.
Về việc triển khai thực hiện chính sách của các Bộ, ngành, địa phương
- Một số nhiệm vụ triển khai chưa đáp ứng tiến độ theo chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, còn tình trạng lùi thời hạn, chưa chủ động
trong thực hiện.
- Tiến độ xây dựng một số cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống thông tin
còn chậm hoặc gặp khó khăn trong triển khai; một số hệ thống đã triển khai
nhưng việc khai thác, sử dụng chưa thật sự hiệu quả; các cơ sở dữ liệu còn rời
rạc, chưa được kết nối, chia sẻ dữ liệu. Cổng Dịch vụ công, Hệ thống thông
tin một cửa điện tử tại một số địa phương chưa bảo đảm các chức năng theo
quy định.
- Việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang
nặng tính thủ công, giấy tờ tại một số địa phương; số lượng dịch vụ công trực
tuyến nhiều nhưng tỷ lệ phát sinh hồ sơ thấp, kém hiệu quả, có dịch vụ không
phát sinh hồ sơ gây lãng phí. Nhiều thủ tục hành chính không đủ điều kiện để
triển khai áp dụng trực tuyến mức độ 3, 4 nhưng vẫn được xây dựng.
- Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin đã được cơ quan, tổ chức
quan tâm nhưng kết quả còn hạn chế. Lực lượng chuyên trách còn mỏng, trình
độ, năng lực chuyên môn chưa cao, thiếu chuyên nghiệp.
- Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
+ Số lượng nhiệm vụ Chính phủ giao các Bộ, ngành, địa phương là rất
lớn, tuy nhiên thời hạn hoàn thành lại rất gấp, chẳng hạn, Bộ Thông tin và
Truyền thông được giao xây dựng 02 Nghị định, trình Chính phủ trong tháng
9 năm 2019. Tính từ thời điểm Nghị quyết được ban hành (17 tháng 3 năm
2019) thì Bộ Thông tin và Truyền thông phải hoàn thành tất cả các thủ tục
56
theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (quy
trình trình lập đề nghị xây dựng chính sách và xây dựng dự thảo Nghị định
theo chính sách đã được phê duyệt) trong thời gian 06 tháng;
+ Cơ chế, chính sách về đầu tư ứng dụng CNTT còn nhiều bất cập và
chưa được tháo gỡ dẫn đến việc triển khai các phần mềm ứng dụng CNTT để
xây dựng CPĐT tại các bộ, ngành, địa phương còn chậm; ngân sách nhà nước
chưa được bố trí kịp thời theo tiến độ của các dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia quan
trọng, nền tảng cho xây dựng, phát triển CPĐT (Cơ sở dữ liệu quốc gia mới chỉ
được bố trí khoảng 1/10 số vốn trên tổng số vốn dự kiến; Cơ sở dữ liệu hộ tịch
cũng chỉ được bố trí vốn theo kinh phí sự nghiệp hàng năm từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước cấp cho Bộ Tư pháp nhưng chưa được bố trí vốn đầy đủ từ nguồn
kinh phí đầu tư theo quy định….);
+ Người dân, doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và tích cực tham gia
vào các dịch vụ công trực tuyến đã được cung cấp, một phần nguyên nhân
khách quan là do trình độ dân trí còn hạn chế, điều kiện kinh tế, xã hội của
nhiều tỉnh, thành phố chưa được tốt. Tuy nhiên, việc cung cấp dịch vụ công
trực tuyến của CQNN còn nhiều bất cập như: các dịch vụ được cung cấp chưa
thực sự thiết yếu đối với người dân, doanh nghiệp; nhiều dịch vụ có ít hồ sơ
tiếp nhận thông qua cách thức trực tiếp tại trụ sở cơ quan giải quyết TTHC
những vẫn được cung cấp trực tuyến trên Internet; giao diện các phần mềm,
cổng dịch vụ công của các Bộ, ngành, địa phương tương đối phức tạp, không
thuận tiện, thân thiện với mặt bằng dân trí của người dân nói chung. Số liệu
thống kê cụ thể của Văn phòng Chính phủ cho thấy, tính đến quý II năm
2019, tại địa phương đã cung cấp 43.369 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,
mức độ 4, trong đó có 6.575 dịch vụ có phát sinh hồ sơ trực tuyến (đạt tỷ lệ
15,16%), còn tại các Bộ, ngành là 1.758 dịch vụ, trong đó có 506 dịch vụ có
57
phát sinh hồ sơ trực tuyến (đạt tỷ lệ 28,78%) [12];
+ Nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho ứng dụng CNTT còn hạn chế,
tuy nhiên, mức độ xã hội hóa đầu tư ứng dụng CNTT chưa cao, có ít doanh
nghiệp tham gia cùng đầu tư với nhà nước (theo mô hình PPP) để phát triển
CNTT.
Nguyên nhân chủ quan:
+ Các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự chủ động trong triển khai
nhiệm vụ được giao, một phần là do tâm lý ngại triển khai, ứng dụng CNTT
hoặc lo ngại việc triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT sẽ ảnh hưởng
tới nhiều lợi ích của họ, thêm vào đó, các công cụ theo dõi, đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của các Bộ, ngành, địa phương cũng chưa được ban
hành làm cơ sở cho việc khen thưởng, xử phạt đối với cán bộ, công chức, viên
chức hoàn thành tốt hoặc không hoàn thành nhiệm vụ;
+ Việc ban hành cũng như tổ chức triển khai các chính sách ứng dụng
CNTT thiếu tính tổng thể, đồng bộ. Kể từ khi Bộ Thông tin và Truyền thông
ban hành Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam năm 2015, đến nay đã là 04 năm,
tuy nhiên các Bộ, ngành, địa phương vẫn chưa nhận thức được sự cần thiết, ý
nghĩ của việc ban hành Khung kiến trúc này, dẫn đến tình trạng triển khai còn
trồng chéo, dàn trải. Chẳng hạn: một địa phương có nhiều cổng thông tin điện
tử, hệ thống thông tin một cửa điện tử (do cấp tỉnh hoặc một số huyện trên địa
bàn tỉnh chủ động xây dựng) nhưng các cổng thông tin, hệ thống thông tin
này không có sự kết nối, chia sẻ dữ liệu với nhau;
+ Cơ chế, chính sách cho hoạt động đầu tư ứng dụng CNTT, đặc biệt là
cơ chế xã hội hóa đầu tư ứng dụng CNTT chưa rõ ràng, khó áp dụng.
+ Sự phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện các chính sách giữa
các Bộ, cơ quan, địa phương còn chưa hợp lý. Chẳng hạn, nhiều nhiệm vụ
mang tính chất kỹ thuật, công nghệ, liên quan nhiều đến chức năng nhiệm vụ
58
của Bộ Thông tin và Truyền thông (xây dựng Đề án giải pháp kết nối, chia sẻ
dữ liệu và tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin tại các bộ, ngành, địa
phương) hoặc Bộ Tư pháp (Xây dựng Đề án về Hệ thống tham vấn chính
sách). Việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giúp việc Trưởng ban chỉ đạo
CPĐT và Chính quyền điện tử tại Bộ cơ quan, ngang Bộ và địa phương tổ
chức thực hiện nhiệm vụ ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT cần phải được
giao cho cơ quan chuyên trách về CNTT, Sở Thông tin và Truyền thông các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay cho Văn phòng các Bộ, cơ quan,
59
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh như hiện nay.
Tiểu kết chương
Trong Chương 2, Luận văn khái quát được thực trạng chính sách ứng
dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt Nam, trong đó, tập trung vào các
nhóm chính sách được quy định tại Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ,
đồng thời đã thống kê khá đầy đủ những kết quả cụ thể của việc thực hiện
chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT của các CQNN tại Việt Nam.
Với số liệu khảo sát từ thực tiễn triển khai của các Bộ, ngành, địa
phương, Luận văn tổng kết, phân tích, đánh giá để xác định rõ thực trạng tổ
chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt Nam.
Quá trình phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách được tác
giả vận dụng dựa trên khung quy trình đánh giá chính sách công. Qua đó,
Luận văn đã chỉ ra những nhân tố tác động đến việc tổ chức thực hiện chính
sách, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này
trong quá trình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
nhằm mục đích đưa ra những luận điểm cơ bản phục vụ cho nội dung nghiên
cứu, đề xuất các giải pháp khắc phục trong chương tiếp theo. Do đó, Chương
3 sẽ có nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện thực
trạng, đẩy nhanh tiến độ triển khai chính sách ứng dụng, phát triển CNTT để
xây dựng CPĐT tại Việt Nam theo những mục tiêu nghiên cứu như đã nêu
trên, cùng với định hướng mục tiêu triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng
60
CPĐT trong thời gian tới.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
3.1. Các giải pháp
Thông qua việc phân tích thực trạng ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT trong các CQNN hiện nay tại Việt Nam cho thấy quá trình triển khai
còn nhiều vướng mắc, bất cập, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, để
đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng
CPĐT trong thời gian tới cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
(1) Xây dựng, hoàn thiện kế hoạch triển khai thực hiện các nhóm chính
sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT;
(2) Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân,
doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
(3) Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong thực
hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.
(4) Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT.
(5) Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết.
3.2. Nội dung giải pháp
3.2.1 Xây dựng, hoàn thiện Kế hoạch triển khai thực hiện các nhóm
chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
Như đã phân tích tại Chương 2, để khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong việc phân bổ các nhiệm vụ, nguồn lực thực hiện chính sách, đồng thời
bổ sung việc kiểm tra, đôn đốc tình hình, kết quả thực hiện chính sách, Kế
hoạch triển khai thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
61
hiện nay cần phải được hoàn thiện theo hướng sau:
(i) Điều chỉnh thời hạn hoàn thành các nhóm nhiệu vụ cho phù hợp với
tình hình thực tiễn. Các nhóm nhiệm vụ cần điều chỉnh là:
- Xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 06
tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ
thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Quyết định số
80/2014/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy
định thí điểm về thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong CQNN, hoàn thành
trong tháng 3 năm 2019. Xây dựng các văn bản hướng dẫn về phương pháp
xác định chi phí thuê dịch vụ công nghệ thông tin, mẫu hợp đồng thuê dịch vụ
công nghệ thông tin và văn bản hướng dẫn xác định đơn giá nhân công trong
quản lý chi phí đầu tư công nghệ thông tin, phù hợp với thực tế và đặc thù
ngành công nghệ thông tin, hoàn thành trong tháng 7 năm 2019 (điểm a khoản
1 Phần IV Nghị quyết số 17/NQ-CP).
Thời hạn đề xuất điều chỉnh: Bộ Thông tin và Truyền thông trình Chính
phủ ban hành trong tháng 11 năm 2019, vì Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư
công (sửa đổi), có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2020. Luật này là căn
cứ pháp lý quan trọng, nền tảng của Nghị định nêu trên. Do đó, cần điều
chỉnh thời hạn trình Chính phủ để bảo đảm Nghị định sẽ có hiệu lực đồng thời
cùng Luật đầu tư công (sửa đổi).
- Các Nghị định có thời hạn trình Chính phủ trong tháng 9, tháng 10 năm
2019 như: Nghị định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số; Nghị định về xác
thực, định danh điện tử; Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Nghị định quy
định Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm… Thời hạn đề xuất cần điều chỉnh:
tháng 12 năm 2019 hoặc trong Quý I năm 2020, vì các Nghị định này nếu
thực hiện theo quy định hiện hành của Luật ban hành quy phạm pháp luật
năm 2015 thì cần tối thiểu 9-12 tháng để bảo đảm quy trình, thủ tục cũng như
62
chất lượng của Dự thảo;
- Các nhóm nhiệm vụ khác tại khoản 1 Phần IV Nghị quyết số 17/NQ-CP
(từ điểm n đến điểm v), bao gồm: Xây dựng Đề án Cơ sở dữ liệu cán bộ, công
chức, viên chức, hoàn thành trong tháng 4 năm 2019; xây dựng Đề án thực
hiện nhiệm vụ lưu trữ tài liệu điện tử của các CQNN, hoàn thành trong tháng
5 năm 2019; xây dựng Đề án triển khai các hệ thống bảo vệ thông tin thuộc
phạm vi bí mật nhà nước dùng mật mã đáp ứng yêu cầu triển khai CPĐT,
hoàn thành trong tháng 7 năm 2019; xây dựng Đề án bảo đảm an ninh mạng
trong xây dựng và phát triển CPĐT, hoàn thành trong tháng 8 năm 2019; xây
dựng các văn bản hướng dẫn Luật An ninh mạng theo kế hoạch được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ
phương án đẩy mạnh việc cấp chứng thư số cho người dân, doanh nghiệp theo
hướng giảm chi phí cấp và duy trì hoạt động chứng thư số để khuyến khích sử
dụng trong các giao dịch điện tử, hoàn thành trong tháng 6 năm 2019; nghiên
cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về việc sử dụng các thiết
bị, máy móc đối với các hệ thống thông tin CPĐT để bảo đảm an toàn thông
tin mạng, hoàn thành trong tháng 6 năm 2019; nghiên cứu, đề xuất Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về sử dụng phần mềm có bản quyền
(hệ điều hành, các phần mềm soạn thảo văn bản...) khi mua sắm máy tính và
tỷ lệ phần trăm kinh phí dành cho duy trì cập nhật phần mềm, bảo đảm an
toàn thông tin cho các hệ thống thông tin được đầu tư, hoàn thành trong tháng
8 năm 2019; nghiên cứu, xây dựng bộ mã định danh điện tử của các cơ quan,
tổ chức thống nhất theo tiêu chuẩn quốc tế phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu của
tất cả các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, hoàn thành trong tháng 6 năm
2019.
Những nhóm nhiệm vụ này liên quan đến hoạt động xây dựng các Đề án
lớn để trình Thủ tướng Chính phủ nên các Bộ, cơ quan cần nhiều thời gian,
63
nguồn lực để khảo sát, đánh giá hiện trạng, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
thực sự hiệu quả. Do đó, thời hạn hoàn thành cần được điều chỉnh lại, trong
khoảng từ tháng 12 năm 2019 đến hết Quý II năm 2020 để bảo đảm tính khả thi;
(ii) Bổ sung các nguồn lực (tài chính, nhân lực) cần đáp ứng để tổ chức
triển khai thực hiện các nhóm chính sách
Để thực hiện hiệu quả các chính sách, các Bộ, ngành, địa phương cần
quan tâm đến việc tổ chức, bảo đảm các nguồn lực (tài chính, nhân lực) thực
thi chính sách như:
- Lập kế hoạch sử dụng nhân sự từ các cơ quan chuyên môn, nhân sự
chuyên trách CNTT tại các Bộ, ngành, địa phương; phân công công việc cụ
thể rõ ràng gắn với trách nhiệm của từng cán bộ, công chức, viên chức;
- Huy động các chuyên gia trong nước và quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng
CNTT để xây dựng CPĐT; các doanh nghiệp CNTT trong phạm vi cả
nước…;
- Hàng năm, lập kế hoạch bố trí đủ nguồn vốn ngân sách nhà nước (nguồn
chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) để thực hiện chính sách. Việc xây
dựng kế hoạch bố trí vốn cần bám sát vào Kế hoạch tổng thể triển khai ứng
dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Bộ, cơ quan, địa phương;
- Bổ sung kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách, gồm kiểm
tra định kỳ, đột xuất, theo chuyên đề (về khai thác, sử dụng văn bản điện tử;
về rà soát, lựa chọn, cung cấp dịch vụ công trực tuyến…). Kế hoạch kiểm tra,
đôn đốc việc thực thi chính sách có thể lồng ghép chung với các Kế hoạch
kiểm tra chuyên ngành (kiểm tra cải cách hành chính, kiểm tra ứng dụng
CNTT…) để bảo đảm tính hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra cần được
thực hiện kỹ, thực chất, tránh qua loa, hình thức. Chẳng hạn: việc kiểm tra,
đôn đốc tình hình xây dựng các phần mềm, hệ thống thông tin cần phải được
kiểm tra thông qua đăng nhập, thao tác trực tiếp trên phần mềm để đánh giá
64
hiệu năng, mức độ đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ của người dụng. Kết quả kiểm
tra sau đó cần được công bố tới cơ quan, tổ chức được kiểm tra; những nhiệm
vụ chưa hoàn thành hoặc hoàn thành chưa tốt cần được tiếp tục kiểm tra trong
những lần tiếp theo.
3.2.2 Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người
dân, doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
Trên thực tế, người dân, doanh nghiệp chưa hiểu rõ và chưa thực sự mặn
mà với kết quả thực hiện các chính sách về ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT của các CQNN các cấp. Do đó, CQNN cần thực hiện những giải pháp
sau:
- Xây dựng các kế hoạch truyền thông, tuyên truyền về cơ chế, chính sách
của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực CNTT nói chung, trong đó trọng tâm là
ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT; về sản phẩm ứng dụng CNTT đã và
đang được Bộ, cơ quan, triển khai cho người dân, doanh nghiệp, trong đó,
nhấn mạnh những lợi ích mang lại khi người dân, doanh nghiệp sử dụng, khai
thác các sản phẩm, dịch vụ CNTT do CQNN cung cấp.
- Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí để chủ động
cung cấp thông tin, bài viết tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp
- Bố trí cán bộ, công chức, viên chức hướng dẫn người dân, doanh nghiệp
thực hiện TTHC tại cơ quan tiếp nhận, giải quyết TTHC hoặc thông qua cổng
dịch vụ công trực tuyến; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách, kết quả
ứng dụng CNTT của Bộ, cơ quan mình.
3.2.3 Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong
thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
Như đã phân tích tại Chương II, một số nhiệm vụ hiện chưa được phân
công theo đúng chức năng của các Bộ, cơ quan, địa phương cần được rà soát,
điều chỉnh để bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các cơ
65
quan này hoặc các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Đề xuất điều chuyển nhiệm vụ
Thường trực Tổ công tác giúp việc Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT; giúp
việc Trưởng Ban chỉ đạo CPĐT, chính quyền điện tử lần lượt từ Văn phòng
Chính phủ, Văn phòng các Bộ, cơ quan, Văn phòng Ủy ban nhân dân, tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cho Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan
chuyên trách CNTT tại Bộ, cơ quan và Sở Thông tin và Truyền thông các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3.2.4 Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng
Chính phủ điện tử.
Tăng cường giám sát, theo dõi để đôn đốc tình hình thực hiện các chính
sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT theo nguyên tắc: Tổ công tác giúp
việc Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT theo dõi, đôn đốc tình hình thực hiện
chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong cả nước. Bộ phận
thường trực các Ban chỉ đạo tại Bộ, cơ quan địa phương đôn đốc tình hình
thực hiện tại Bộ, cơ quan, địa phương mình. Tổ công tác, Bộ phận thường các
Bộ, cơ quan chịu trách nhiệm trực Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT,
Trưởng Ban chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương.
Định kỳ hàng quý, cơ quan Thường trực tổ công tác giúp việc Chủ tịch Ủy
ban quốc gia về CPĐT; Ban chỉ đạo xây dựng CPĐT, chính quyền điện tử
tổng hợp tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết để báo
cáo Trưởng ban hoặc Chủ tịch Ủy ban.
3.2.5 Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết
Sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình thực hiện chính sách để kịp thời báo
cáo cấp có thẩm quyền có những chỉ đạo, điều chỉnh phù hợp. Việc sơ kết
(hoặc tổng kết) có thể được thực hiện tại thời điểm tháng 11 năm 2019 để
đánh giá tình hình thực hiện chính sách trong năm 2019 và đề xuất phương án
triển khai trong các năm tiếp theo. Các vấn đề cần được xem xét, đánh giá
66
tổng thể bao gồm:
- Việc chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách ứng dụng CNTT để xây
dựng CPĐT của lãnh đạo các cấp, các ngành cũng như sự tham gia của các
chủ thể chính sách khác;
- Tình hình, kết quả thực thi chính sách của các Bộ, cơ quan địa phương,
trong đó, tập trung đánh giá kỹ những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển
khai để kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền những biện pháp điều chỉnh;
- Sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, chính trị
- xã hội trong quá trình thực thi chính sách.
3.3 Kiến nghị đối với các CQNN có thẩm quyền
3.3.1 Kiến nghị Chính phủ
- Chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện kế hoạch triển khai thực hiện các
nhóm chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT Nghị quyết số 17/NQ-
CP như đã nêu tại Giải pháp 1(bao gồm: Điều chỉnh thời hạn hoàn thành các
nhóm nhiệu vụ cho phù hợp với tình hình thực tiễn; bổ sung các nguồn lực về
tài chính và nhân lực cần đáp ứng để tổ chức triển khai thực hiện các nhóm
chính sách);
- Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng
CNTT để xây dựng CPĐT (Giải pháp 2);
- Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong thực
hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT (Giải pháp 3).
3.3.2 Kiến nghị Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử
- Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT
(Giải pháp 4).
67
- Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết (Giải pháp 3).
3.3.3 Kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương
- Tập trung nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số
17/NQ-CP, bảo đảm hoàn thành đầy đủ, chất lượng các nhiệm vụ được giao;
- Tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng
dụng CNTT, xây dựng CPĐT nói chung, các chính sách ban hành tại Nghị
quyết số 17/NQ-CP nói riêng;
- Kịp thời kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các khó khăn,
68
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Tiểu kết chương
Nếu như Chương 2 của Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng, những mặt hạn chế tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân, xem xét những yếu tố
ảnh hưởng quá trình triển khai chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng
CPĐT tại Việt Nam thì Chương 3 tập trung đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Các giải pháp được đề xuất tại
Chương này chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy những
thành tựu và kết quả đã đạt được để thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng
CNTT, xây dựng CPĐT trong thời gian tới. Ngoài ra, việc triển khai đồng
bộ các giải pháp của Luận văn này, kết hợp với đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực gắn với hoàn thiện cơ chế chính sách góp phần thúc đẩy
hoạt động ứng dụng CNTT nói chung, xây dựng CPĐT nói riêng. Do vậy
các giải pháp này nếu được thực hiện tốt sẽ thúc đẩy mạnh mẽ chính sách
69
ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT từ thực tiễn Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như đã đặt vấn đề ngay từ đầu Luận văn, trong bối cảnh Việt Nam
ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện
nay, cùng với đó là những xu thế mới về khoa học, công nghệ không chỉ tạo
ra áp lực cạnh tranh, mà nó còn tạo ra sức ép rất lớn đối với các CQNN phải
thực sự hành động để những sự thay đổi phù hợp. Nhiều chính sách cải cách
cần phải được thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ, trong đó cải cách
hành chính, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý, nâng cao trách nhiệm và chất
lượng phục vụ của đội ngũ các bộ, công chức, viên chức thông qua khai thác,
sử dụng các ứng dụng CNTT vào các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ tại
các cơ quan, đơn vị, là yêu cầu cấp thiết hện nay. Việc triển khai thành công
chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT trong các CQNN là rất khó
khăn, do nhận thức của hầu hết cán bộ, công chức, viên chức chậm chuyển
biến, thói quen làm việc với văn bản giấy tờ, việc tổ chức thực thi chính sách
còn nhiều bất cập, hạn chế. Vì vậy đề tài “Thực hiện chính sách ứng dụng
công nghệ thông tin để xây dựng CPĐT tại Việt Nam” mong muốn sử dụng
kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình công tác, kết hợp với kiến thức được
đào tạo tại Nhà trường cùng với quá trình nghiên cứu của tác giả làm cơ sở để
đề xuất những giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao, đồng thời thúc đẩy quá
trình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong các
CQNN tại Việt Nam, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia…
Dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với các kết quả từ thực tiễn cùng những
nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực thi chính sách, Luận văn
đã thực hiện được một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thực hiện chính sách
70
ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT; nhận diện, đánh giá và phân tích những
yếu tố ảnh hưởng (cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực) đến quá trình tổ chức thực
hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, đối chiếu với
những định hướng triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong thời
gian tới của Chính phủ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện
thành công các nhiệm vụ chính sách, đẩy nhanh quá trình thực thi chính sách,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các CQNN các cấp, gắn kết chặt
chẽ quá trình thực hiện cải cách hành chính với xây dựng CPĐT.
Ngoài yếu tố triển khai đồng bộ các giải pháp thì một số vấn đề quan
trọng cần được các cấp, các ngành quan tâm đến để có thể tổ chức triển khai
chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT một cách có hiệu quả, đó là:
nhận thức và sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo, quản lý; sự phân công nhiệm
vụ cụ thể, rõ ràng, theo đúng chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành,
địa phương; sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trong sử dụng, khai
thác các ứng dụng CNTT do CQNN cung cấp. Luận văn đã nêu được một số
biện pháp cụ thể đối với từng nhóm vấn đề như trên.
Với thời lượng nghiên cứu, kiến thức trong một số lĩnh vực còn hạn chế
nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Trong thời
gian tới, nếu có cơ hội tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn về vấn
đề này và hy vọng sẽ xây dựng được một tài liệu chuẩn cho các tổ chức,
doanh nghiệp, CQNN tham khảo, sử dụng trong quá trình tổ chức, triển khai
ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
71
đại hóa đất nước…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Đẩy mạnh ứng dụng,
phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội
nhập quốc tế”, ngày 01/7/2014.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015). Khung kiến trúc Chính phủ điện tử
Việt Nam, phiên bản 1.0.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Tin học Việt Nam (2017). Báo cáo
đánh giá, xếp hạng mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT -
Truyền thông Việt Nam năm 2017.
4. Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin Bộ Công Thương (2015),
Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2015, Hà Nội.
5. Trần Việt Cường (2014), Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng kiến trúc
hệ thống thông tin quốc gia, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền
thông, tháng 9/2014 (kỳ 2), tr.19-20.
6. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP năm 2015 về Chính phủ điện
tử
7. Chính phủ (2017), Nghị định số 17/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và
Truyền thông
8. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 49/CP về phát triển công nghệ thông tin
ở nước ta trong những năm 90, ngày 4/8/1993.
9. Chính phủ (2007), Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, ngày 10/4/2007.
10. Chính phủ (2011), Nghị định số 43/2011/NĐ-CP quy định về việc cung
cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc
72
cổng thông tin điện tử của CQNN, ngày 13/6/2011.
11. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo số 5833/VPCP-KSTT về tình hình triển
khai, kết quả thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định
hướng đến 2025, ngày 03/7/2019.
12. Thu Hà (2015), 6 bài học triển khai thành công tin học hóa trong các
CQNN, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền thông, tháng 01/2015 (kỳ
2), tr.29-32.
13. Đỗ Phú Hải, Phó trưởng khoa Chính sách công, Viện Hàn lâm KHXHVN
(2012), Bài giảng chính sách công và phân tích chính sách công.
14. Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
15. Đặng Hữu (2002), Tổng quan sự phát triển kinh tế tri thức của một số
nước trên thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đặng Hữu (2005), Công nghệ thông tin - mũi nhọn đột phá đưa loài người
vào thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đinh Hoàng Long (2011), "Hiện trạng, nhu cầu và thách thức ứng dụng
công nghệ thông tin, phát triển chính phủ điện tử tại Việt Nam", Cục ứng
dụng công nghệ thông tin - Bộ Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
18. Đinh Hoàng Long (2011), "Quá trình hình thành và xây dựng cơ sở pháp
lý, chính sách nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin phát triển chính
phủ điện tử tại Việt Nam", Cục ứng dụng công nghệ thông tin - Bộ Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Công nghệ
thông tin, ngày 29/6/2006.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật giao dịch điện
73
tử, ngày 29/11/2005.
21. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 15/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng
văn bản điện tử trong hoạt động của CQNN, ngày 22/5/2012.
22. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1819/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, ngày 26/10/2015.
23. Võ Khánh Vinh, Viện Hàn lâm KHXHVN (2012), bài giảng Tổng quan
môn học Chính sách công.
24. Liên hiệp quốc, Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử - UN E-Government
Survey (2014, 2016).
25. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c
#cite_note-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_THKTSG-2
74
26. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_chia_s%E1%BA%BB