VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS MAI HÀ

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là kết quả nghiên cứu riêng của tôi, chưa

được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào của người khác.

Việc sử dụng kết quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo

đúng các quy định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách

báo, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm theo danh mục tài liệu tham

khảo của Luận văn.

HỌC VIÊN

NGUYỄN LỢI QUỐC KHÁNH

MỤC LỤC

Chương 1 .................................................................................................................... 9

LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ............................................................................... 9

1.1 Một số khái niệm ................................................................................................................... 9

1.2. Chủ thể chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng Chính phủ điện tử ................. 18

1.3. Thể chế chính sách ứng dụng công nghệ thông tin ................................................... 19

1.4 Những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng công nghệ thông tin .............. 23

Chương 2 .................................................................................................................. 28

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM ............................................................................................................... 28

2.1. Sự hình thành, phát triển của công nghệ thông tin tại Việt Nam ........................... 28

2.2. Vấn đề chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng chính phủ điện tử ...................................................................................................................................................... 32

2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng chính phủ điện tử trong các cơ quan nhà nước tại Việt Nam ............................... 44

Chương 3 .................................................................................................................. 61

CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ .................................... 61

3.1. Các giải pháp ....................................................................................................................... 61

3.2. Nội dung giải pháp ............................................................................................................. 61

3.3 Kiến nghị đối với các CQNN có thẩm quyền .............................................................. 67

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 72

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

CNTT

Công nghệ thông tin

CQNN

Cơ quan nhà nước

CSDL

Cơ sở dữ liệu

CPĐT

Chính phủ điện tử

WAN

Mạng thông tin diện rộng

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

CNTT-TT

Công nghệ thông tin và truyền thông

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của

cơ quan nhà nước (CQNN), hướng tới mục tiêu xây dựng phát triển Chính

phủ điện tử (CPĐT) là xu thế tất yếu, là mô hình phát triển phổ biến của nhiều

quốc gia, xây dựng CPĐT trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ

Chính phủ nào. CPĐT cho phép người dân tương tác, nhận được các dịch vụ

từ Chính phủ 24 giờ một ngày, 07 ngày một tuần, tăng tính minh bạch, giảm

chi phí, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, góp phần làm

giảm tiêu cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc

phòng. Nhận thức được tầm quan trọng của ứng dụng CNTT và CPĐT, Đảng,

Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như

tăng cường ứng dụng CNTT, thúc đẩy CPĐT. Tuy nhiên, việc thực hiện các

chính sách này còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ dẫn đến hiệu quả ứng dụng

CNTT còn nhiều hạn chế. Do đó, cần đánh giá đúng thực trạng ứng dụng

CNTT nói chung, trong đó tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT; kịp thời phát hiện những bất cập, tồn tại, hạn chế; từ đó đề xuất các

giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới là một đòi

hỏi khách quan và hết sức cần thiết. Đó chính là lý do em đã lựa chọn nghiên

cứu đề tài “Thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây

dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay”

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Ứng dụng CNTT nói chung, bao gồm các ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT vốn không phải là một vấn đề mới mà trong thực tế đã có nhiều nhà

nghiên cứu, nhiều cơ quan tìm hiểu, nghiên cứu tại rất nhiều tài liệu. Một số

tài liệu được tác giả lựa chọn để tham khảo, nghiên cứu bao gồm:

1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015). Khung kiến trúc Chính phủ

1

điện tử Việt Nam, phiên bản 1.0.

2. Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

3. Đặng Hữu (2005), Công nghệ thông tin - mũi nhọn đột phá đưa loài

người vào thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Trần Việt Cường (2014), Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng

kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền

thông, tháng 9/2014 (kỳ 2), tr.19-20.

5. Thu Hà (2015), 6 bài học triển khai thành công tin học hóa trong các

CQNN, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền thông, tháng 01/2015 (kỳ 2),

tr.29-32.

Các tài liệu này có những ý nghĩa về khoa học và thực tiễn nhất định.

Tuy nhiên, qua khảo cứu cho thấy các tài liệu này chủ yếu nghiên cứu các vấn

đề về chủ trương, những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước hoặc tập

trung nghiên cứu, đánh giá vào thực tiễn của một ngành, lĩnh vực cụ thể.

Trong khi đó, việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

từ thực tiễn của các CQNN tại Việt Nam cho đến nay chưa có một công trình

khoa học nào đề cập đến. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham

khảo, đối chứng trong quá trình nghiên cứu đề tài của tác giả.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục tiêu của Luận văn: trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

thực hiện chính sách ứng dụng CNTT xây dựng CPĐT, đánh giá việc thực

hiện chính sách ứng dụng CNTT thúc đẩy CPĐT tại các CQNN tại Việt Nam

đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ứng dụng công

2

nghệ thông tin xây dựng CPĐT.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản mà Luận văn cần đặt ra:

- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ứng

dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong các CQNN tại Việt Nam;

- Tiến hành thu thập và tổng hợp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc

phân tích thực trạng tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây

dựng CPĐT tại các CQNN;

- Phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây

dựng CPĐT từ thực tiễn các CQNN tại Việt Nam;

- Đề xuất giải pháp nâng cao kết quả thực hiện chính sách ứng dụng

CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt Nam hiện nay.

3.3. Giả thiết nghiên cứu

Thứ nhất, chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có những

chính sách về xây dựng CPĐT đã được tổ chức thực hiện ở các CQNN tại

Việt Nam nhưng chưa mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn của nhà

nước cũng như của các đối tượng chính sách. Do đó, nếu chính sách ứng dụng

CNTT được các CQNN triển khai, tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp

lý và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì sẽ đem lại nhiều kết quả

cao hơn so với hiện tại, từ đó, góp phần tạo thêm động lực để xây dựng, phát

triển CPĐT.

Thứ hai, việc thực hiện những chính sách ứng dụng CNTT chưa thật sự

tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình xây dựng CPĐT. Vấn đề này

có thể do quá trình tổ chức thực hiện chính sách chưa thực sự phù hợp phù

hợp và nếu có các giải pháp phù hợp thì sẽ nâng cao được kết quả cũng như

hiệu quả thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt

3

Nam hiện nay. Do vậy, nếu các CQNN tại Việt Nam có những cơ chế, giải

pháp ứng dụng CNTT phù hợp trên cơ sở sử dụng nguồn lực hợp lý thì sẽ thu

được nhiều kết quả cao và bền vững hơn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, cụ thể là nghiên cứu giải

pháp tổ chức thực hiện và công cụ chính sách ứng dụng CNTT từ thực tiễn của

các CQNN tại Việt Nam dưới góc độ khoa học chính sách công.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2015 đến nay.

- Không gian nghiên cứu: Tại các CQNN tại Việt Nam.

- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài này chủ yếu nghiên cứu các

chính sách ứng dụng CNTT, trong đó tập trung vào nghiên cứu tình hình thực

hiện chính sách ứng dụng CNTT trong các CQNN để xây dựng CPĐT.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cách tiếp cận của Luận văn mang tính đa ngành, liên ngành xã hội học,

vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công với sự tham gia của nhiều

chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được nghiên cứu thông qua thực

tiễn và được vận dụng để giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.

5.2 Cơ sở thực tiễn

Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực tiễn triển khai ứng dụng CNTT nói

chung, trong đó, tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại

Việt Nam thông qua việc tổng hợp, phân tích các số liệu, báo cáo, bài viết

nghiên cứu của nhiều tác giả qua các thời kỳ. Cùng với đó là kinh nghiệm

thực tiễn triển khai của một số quốc gia đã xây dựng thành công CPĐT (như:

Estonia, Nga, Pháp, Anh…) cũng được tác giả nghiên cứu, khai thác để đề

4

xuất giải pháp ứng dụng phù hợp cho bối cảnh Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thông tin:

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để thu thập, phân

tích và khai thác thông tin từ các nguồn tài liệu, báo cáo, văn bản hiện hành

liên quan đến đề tài nghiên cứu. Bao gồm: các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết

của Đảng; văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ (Luật, Nghị

định, Thông tư hướng dẫn Nghị định…); các công trình nghiên cứu khoa học,

báo cáo, thống kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp

tới vấn đề thực hiện chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có các

chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

- Phương pháp phân tích hệ thống:

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích hệ thống và vận dụng tổng

hợp các kiến thức về khoa học quản lý, trong đó có quản lý công nghệ, quản

lý dự án, quản lý hoạt động tác nghiệp, nghiệp vụ, hệ thống thông tin quản

lý… Các tài liệu, số liệu báo cáo, thống kê được tập hợp để nghiên cứu, phân

tích, đánh giá, từ đó làm rõ những vấn đề ảnh hưởng đến quá trình triển khai

ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

- Phương pháp phân tích so sánh:

Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích so sánh. Các đối

tượng nghiên cứu được khảo sát, đánh giá trong các bối cảnh thực tế và dựa

trên các số liệu báo cáo, thống kê được thu thập từ những tài liệu nghiên cứu,

từ các báo cáo đánh giá, tổng kết tình hình, kết quả ứng dụng CNTT trong các

CQNN. Từ đó đưa ra các nhận xét, đánh giá sự phù hợp của các chính sách

ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong bối cảnh thực tiễn triển khai tại

5

Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

- Hoạt động nghiên cứu về chính sách ứng dụng CNTT cũng như tình

hình triển khai, thực thi các chính sách ứng dụng CNTT có thể được tiếp cận

dưới nhiều góc độ của các ngành khoa học khác nhau. Trong Luận văn này,

việc nghiên cứu về hoạt động ứng dụng CNTT được tiếp cận dưới góc độ của

ngành khoa học chính sách công, vì vậy Luận văn tập trung nghiên cứu, phân

tích, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt

Nam.

- Luận văn tập trung hệ thống hóa một cách cơ bản, dựa trên cơ sở khoa

học và thực tiễn các khái niệm, nội hàm về CNTT nói chung cũng như tình

hình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT trong các CQNN tại Việt Nam và

làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách ứng dụng

CNTT để xây dựng CPĐT.

- Luận văn cung cấp thông tin về thực trạng ứng dụng CNTT, trong đó

tập trung vào các ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, đồng thời, tổng hợp

quan điểm và yêu cầu của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách ứng

dụng CNTT. Trên cơ sở thực trạng và những quan điểm, yêu cầu nêu trên,

Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả chính

sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính

sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại các CQNN, Luận văn đề xuất

những giải pháp nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách, bảo đảm phù

hợp với những yếu tố đặc thù của các CQNN tại Việt Nam, góp phần thực

6

hiện thành công chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, phù hợp với

điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

Nam hiện nay.

7. Kết cấu của Luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương (bao gồm phần mở đầu, kết luận,

danh mục tài liệu tham khảo), trong đó:

Chương 1: Lý luận về chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT

Chương 2: Thực trạng chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

trong các CQNN tại Việt Nam

Chương 3: Các giải pháp thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây

7

dựng CPĐT.

8

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,

XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

1.1 Một số khái niệm

1.1.1 Khái niệm công nghệ thông tin và Chính phủ điện tử

Khái niệm "công nghệ thông tin" được nêu tại rất nhiều nguồn tài liệu,

tạp chí khoa học. Qua nghiên cứu của tác giả, khái niệm này xuất hiện lần đầu

trong một bài viết trên tạp chí Harvard Business Review vào năm 1958. Trong

đó, hai tác giả Leavitt và Whisler đã viết: "Công nghệ mới chưa thiết lập một

tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin”. Tại Việt Nam, khái niệm

CNTT được nêu tại trong Nghị quyết 49/CP ngày 04/8/1993 của Chính phủ

về phát triển CNTT, như sau: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học,

các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và

viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài

nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động

của con người và xã hội”. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi và được phát

triển, bổ sung, cập nhật tại Luật CNTT số 67/2006/QH11 ngày 29/06/2006

của Quốc hội, theo đó, “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, công

nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu

trữ và trao đổi thông tin số”. Như vậy, với những quy định tại Luật CNTT,

khái niệm CNTT đã được quy định một cách hoàn chỉnh và được pháp lý hóa

tại một văn bản Luật, tạo cơ sở cho hoạt động triển khai ứng dụng CNTT, sản

xuất các sản phẩm ứng dụng CNTT… của các Bộ, ngành, địa phương, các tổ

chức, cá nhân có liên quan.

Đối với CPĐT, khái niệm CPĐT được Liên hiệp quốc định nghĩa là:

“Chính phủ điện tử là Chính phủ ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu lực,

9

hiệu quả hoạt động của CQNN, tăng cường công khai, minh bạch thông tin,

cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp” [25]. Các

dịch vụ của CPĐT thông thường bao gồm: G2G (cung cấp thông tin, các dịch

vụ liên quan giữa các cơ quan của Chính phủ với nhau); G2B (Chính phủ

cung cấp thông tin, dịch vụ cho doanh nghiệp); G2C (Chính phủ cung cấp

thông tin, dịch vụ cho người dân); G2E (Chính phủ cung cấp các thông tin,

dịch vụ cho cán bộ, công chức, viên chức).

Về các giai đoạn phát triển CPĐT, đây là quá trình lâu dài, liên tục, qua

các giai đoạn khác nhau. Việc phân chia các giai đoạn phát triển CPĐT nhằm

xác định mức độ phát triển CPĐT của mỗi cơ quan, cũng như làm cơ sở xác

định lộ trình, kế hoạch triển khai CPĐT đúng hướng, phù hợp với điều kiện,

nhu cầu thực tế.

Các tổ chức khác nhau có cách phân chia các giai đoạn phát triển CPĐT

của riêng mình, trong đó nổi bật là cách phân chia của Gartner (một công ty tư

vấn, nghiên cứu hàng đầu thế giới về CNTT), bao gồm các giai đoạn sau [2]:

Giai đoạn 1: Hiện diện (Presence)

Sự phát triển CPĐT giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hiện diện các

cơ quan chính phủ trên mạng Internet, mục đích chính là cung cấp các thông

tin cơ bản về các cơ quan chính phủ như chức năng, nhiệm vụ, địa chỉ liên hệ,

thời gian làm việc và có thể cung cấp thêm các văn bản liên quan đến xã hội.

Giai đoạn 2: Tương tác (Interaction)

Trong giai đoạn này, các trang thông tin điện tử của các cơ quan chính

phủ cung cấp các chức năng tìm kiếm cơ bản, cho phép tải về các biểu mẫu

điện tử, các đường liên kết với các trang thông tin điện tử liên quan, cũng như

địa chỉ thư điện tử của các cơ quan, cán bộ chính phủ.

10

Giai đoạn 3: Giao dịch (Transaction)

Trong giai đoạn này, các trang tin, Cổng thông tin điện tử của các cơ

quan chính phủ cho phép thực hiện hoàn chỉnh các dịch vụ, bao gồm việc nộp

hồ sơ, xử lý hồ sơ, trả phí dịch vụ trực tuyến.

Giai đoạn 4: Chuyển đổi (Transformation)

Giai đoạn này là mục tiêu dài hạn của các cơ quan chính phủ. Ngoài

việc thực hiện các chức năng trong giai đoạn 3, CPĐT giai đoạn này cung cấp

cho người dân một điểm truy cập duy nhất tới các cơ quan chính phủ để thực

hiện mọi giao dịch, các hoạt động của cơ quan chính phủ là minh bạch với

người dân.

Ngoài các khái niệm chính về CNTT và CPĐT mang tính nghiên cứu,

học thuật như đã nêu trên, một số khái niệm phổ biến khác đã được quy định

tại các văn bản quy phạm pháp luật của CQNN có thẩm quyền, bao gồm:

Nhóm các quy định về ứng dụng CNTT trong CQNN [9]:

- Ứng dụng CNTT: Ứng dụng CNTT là việc sử dụng CNTT vào các

hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và

các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các

hoạt động này.

- Ứng dụng CNTT hoạt động của CQNN: là việc sử dụng CNTT vào

các hoạt động của CQNN nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt

động nội bộ của CQNN và giữa các CQNN, trong giao dịch của CQNN với tổ

chức và các nhân, hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính vào bảo đảm công

khai, minh bạch.

Nhóm các khái niệm về Dịch vụ công trực tuyến, Cổng thông tin điện

tử và Trang thông tin điện tử của CQNN [10]:

- Trang thông tin điện tử: là trang thông tin hoặc một tập hợp trang

11

thông tin trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin.

- Cổng thông tin điện tử: là điểm truy cập duy nhất của cơ quan trên

môi trường mạng, liên kết, tích hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các

ứng dụng mà qua đó người dùng có thể khai thác, sử dụng và cá nhân hóa

việc hiển thị thông tin.

- Dịch vụ hành chính công: là những dịch vụ liên quan đến hoạt động

thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do CQNN có thẩm quyền

cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý

trong các lĩnh vực mà CQNN đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn

liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể

liên quan đến tổ chức, cá nhân.

- Dịch vụ công trực tuyến: là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ

khác của CQNN được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường.

Các mức độ dịch vụ công trực tuyến, bao gồm

+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy

đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định

về thủ tục hành chính đó.

+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức

độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn

thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc

qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.

+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức

độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến

cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ

và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ

phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức

12

cung cấp dịch vụ.

+ Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức

độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện

trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp

hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.

Có thể thấy, trong đời sống hàng ngày, CNTT dần trở nên phổ biến, có

những ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội và đã trở thành phương tiện

không thể thiếu cho con người trong học tập, sinh hoạt, công việc hàng ngày.

CNTT đã và đang góp phần tạo ra môi trường thông tin thuận lợi, phong phú,

phục vụ cho mọi hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Máy vi tính, các thiết

bị cầm tay thông minh, hệ thống mạng và những cơ sở dữ liệu đã giúp chúng

ta tạo đột phá trong quá trình phát triển. Các ứng dụng CNTT ngày càng trở

thành phương tiện hiệu quả, quan trọng trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước

cũng như giúp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc

phòng… Thêm vào đó, CNTT còn hỗ trợ dự báo nhu cầu phát triển của toàn

xã hội, khai thác được tối đa các nguồn lực trong xã hội, đáp ứng tốt nhất nhu

cầu của người dân… Còn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, ứng dụng

CNTT tập trung vào 02 mảng chính là: Ứng dụng CNTT để hiện đại hóa dây

chuyền sản xuất và ứng dụng CNTT phục vụ quản lý kinh doanh đã góp phần

tạo ra được những thay đổi về chất đối với toàn bộ quy trình sản xuất (từ thiết

kế, lắp đặt dây chuyền sản xuất cho đến tự động hóa nhiều công đoạn trong

quy trình sản xuất…) và quản lý kinh doanh (quản lý, sử dụng hiệu quả các

nguồn lực, thương mại điện tử,…) nên CNTT thực sự trở thành động lực phát

triển của nền kinh tế.

Việc một xã hội có thể khai thác, sử dụng một cách sáng tạo năng lực

của CNTT để giải quyết các vấn đề đặt ra của xã hội đó là vấn đề quan trọng

của kỷ nguyên thông tin hiện nay. Ở các quốc gia phát triển, họ chú trọng

13

trước tiên là sử dụng CNTT như là một phương tiện hữu hiệu để hỗ trợ bộ

máy chính quyền điều hành quản lý, xã hội. Trong khi đó, tại Việt Nam, ứng

dụng CNTT trong các CQNN có tên gọi khác là chương trình xây dựng

CPĐT cũng đã được chú trọng triển khai nhiều hơn trong những năm qua,

nhất là sau khi Nghị quyết số 36a/NQ-CP được ban hành, đi vào cuộc sống.

Tuy chưa đạt nhiều kết quả như mong nhưng những gì đã đạt được hoàn toàn

khẳng định tính đúng đắn và sự cần thiết việc triển khai ứng dụng CNTT để

xây dựng CPĐT.

Ngoài những vai trò nêu trên, CNTT còn có nhiều vai trò trong phát triển

kinh tế - xã hội như:

- CNTT là hạ tầng cơ sở cho nền kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ: Khái

niệm kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ là những khái niệm mới hiện nay, trong

đó, kinh tế tri thức được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định

nghĩa là: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp

vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin" (OECD 1996)

[25]. Còn Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC 2000)

thì đưa ra khái niệm: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá

trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho

tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành

kinh tế" [25]. Những khái niệm của các tổ chức quốc tế nêu trên cho thấy, mọi

nỗ lực đều hướng về một điểm chính là “làm thế nào để giàu tri thức?” Câu

trả lời mà chúng ta đều có thể biết hoặc nhìn thấy ngay, đó là: “cần phải dựa

vào CNTT” vì CNTT vừa là phương tiện giúp con người tập hợp được nhiều

thông tin nhất vừa là công cụ xử lý thông tin hiệu quả nhất để có thể tìm ra

những cái mới. Tương tự như vậy, kinh tế chia sẻ (còn được gọi là sharing

economy hoặc tiêu dùng cộng tác) là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở

14

hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ

quyền truy cập vào hàng hóa và dịch vụ (phối hợp thông qua các dịch vụ trực

tuyến dựa vào cộng đồng) [25]. Cả kinh tế tri thức và kinh tế chia sẻ đều tập

trung, nhấn mạnh vào vai trò của CNTT như là nền tảng quan trọng, là hạ

tầng cơ sở của 02 nền kinh tế này.

- CNTT trong phát triển kinh tế, quản lý xã hội:

+ CNTT thay đổi cách thức giao tiếp: Tất cả mọi người trên khắp thế

giới có thể cùng truy cập vào Internet, tham gia vào những cuộc gặp gỡ trên

mạng, đọc tin tức hàng ngày, tiến hành các giao dịch thương mại hoặc trò

chuyện với bạn bè, người thân trên khắp thế giới. Rào cản ngôn ngữ được

giảm thiểu rất nhiều thông qua các công cụ hỗ trợ dịch đa ngôn ngữ, dịch tự

động như: Google Translate, Microsoft Translator…

+ CNTT thay đổi cách thức chúng ta khai thác, sử dụng thông tin: Ai

cũng có thể tiếp cận, yêu cầu tải về hoặc sao chép tài liệu, tạp chí, … được

xuất bản bằng bất kỳ ngôn ngữ nào để tham khảo thông qua truy cập Internet.

+ CNTT thay đổi cách thức học tập: Mọi người đều có thể tham dự

những chương trình học tập trên mạng bất chấp vị trí địa lý, tuổi tác, những

hạn chế thể chất hoặc thời gian biểu cá nhân cũng như tiếp cận những kho dữ

liệu chung để học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tri thức một cách dễ dàng

và tiết kiệm.

+ CNTT biến đổi phương thức thương mại: Khách hàng có thể tiếp xúc

với các sản phẩm mình cần mua sắm một cách dễ dàng thông qua các dịch vụ

bán hàng trực tuyến; doanh nghiệp kinh doanh sẽ nhanh chóng điều chỉnh

chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hóa trên cơ sở phân tích những phản

hồi từ phía khách hàng. Người tiêu dùng có thể đặt hàng những hàng hóa, lựa

chọn dịch vụ cung cấp, giá cả phù hợp một cách thuận lợi từ nhà riêng, văn

phòng hay bất cứ đâu chỉ với chiếc điện thoại thông minh có kết nối mạng

15

Internet.

+ CNTT giúp thay đổi phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu khoa

học ngày càng trở nên thuận tiện hơn so với trước đây nhiều nhờ sự trợ giúp

các các hệ thống công nghệ thông tin chuyên dụng. Những hệ thống này có

thể mô phỏng, giả lập hoặc tạo ra các phòng thí nghiệm ảo. Thêm vào đó, sự

hỗ trợ mạnh mẽ của thư viện điện tử được cung cấp miễn phí hoặc có thu phí

trên Internet cũng đã mang lại cho các nhà nghiên cứu rất nhiều lợi thế so với

phương pháp nghiên cứu truyền thống.

+ CNTT đổi mới phương thức hoạt động của các CQNN: các CQNN

xây dựng những hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ

các hoạt động nghiệp vụ, cập nhật thông tin, dữ liệu thuộc phạm vi chức năng

quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan, địa phương. Điều này cho phép người

dân có nhiều cơ hội tiếp cận với bộ máy chính quyền. Họ có thể truy cập để

tìm hiểu thông tin hoạt động của các CQNN thông qua các Trang thông tin

hoặc Cổng thông tin điện tử của CQNN hoặc đăng ký thực hiện các dịch vụ

công trực tuyến thông qua Cổng dịch vụ công trực tuyến của các Bộ, ngành,

địa phương. Người dân và doanh nghiệp dần sẽ trở thành “người sử dụng

trung tâm” của hệ thống CPĐT. CNTT giúp CQNN thu thập được nhiều dữ

liệu hơn từ các hệ thống đang hoạt động do đó làm tăng chất lượng thông tin

phản hồi tới các cơ quan ban hành chính sách, cơ quan quản lý. Ngoài ra,

CQNN cũng có thể bảo đảm việc cung cấp nhiều thông tin hơn cho công

chúng và hỗ trợ thêm những cách thức liên lạc mới thông qua các thiết bị vi

tính, di động có khả năng truy cập môi trường mạng giữa các nhà hoạch định

chính sách đến từng công dân. Thông qua các cách thức này, CNTT giúp

nâng cao năng lực điều hành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước

16

của các CQNN tại Việt Nam.

1.1.2. Khái niệm chính sách

Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được

thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó

tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động

của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên

nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.

Chính sách là những đường hướng hành động, ứng xử cơ bản của chủ

thể với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động, phát triển nhằm đạt

được mục tiêu nhất định.

1.1.3. Chính sách công:

Theo nhà nghiên cứu Thomas R.Dye thì: “Chính sách công là cái mà

Chính phủ lựa chọn làm hay không làm”. Chính sách công là những đường

hướng hành động ứng xử cơ bản của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong

đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc

đẩy phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Vận dụng vào thực tế của

Việt Nam, chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên

quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp

thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định.

Qua những nghiên cứu nêu trên, ta có thể nhận định: Chính sách ứng

dụng CNTT hoạt động của CQNN là tổng thể những quan điểm, thái độ, quyết

định, quy định của Đảng và Nhà nước với các giải pháp, công cụ cụ thể nhằm

sử dụng CNTT vào các hoạt động của CQNN để nâng cao chất lượng, hiệu

quả trong hoạt động nội bộ của CQNN và giữa các CQNN, trong giao dịch

của CQNN với tổ chức và các nhân, hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính vào

17

bảo đảm công khai, minh bạch.

1.2. Chủ thể chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng Chính phủ

điện tử

Chính sách ứng dụng CNTT khi được ban hành sẽ tác động trực tiếp hoặc

gián tiếp đến đời sống và có liên quan tới rất nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội.

Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức triển khai thực thi chính sách ứng dụng

CNTT, CQNN cần huy động sự tham gia của các bên vào quá trình thực hiện

chính sách để bảo đảm tính hiệu quả, đồng bộ.

Chủ thể thực thi chính sách ứng dụng CNTT là các CQNN từ trung

ương tới địa phương, cùng với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ.

Trong quá trình thực thi chính sách, các CQNN giữ vai trò điều tiết, định

hướng các hoạt động thực hiện chính sách thông qua những công cụ quản lý

của mình để việc thực thi chính sách luôn bám sát mục tiêu mà chính sách đã

đề ra. Các CQNN tham gia vào quá trình thực hiện chính sách bao gồm:

Thứ nhất là Chính phủ: Chính phủ vừa là cơ quan, chủ thể ban hành

chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện

chính sách.

Thứ hai là Ủy ban Quốc gia Chính phủ điện tử: Ủy ban có chức năng,

nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chủ

trương, chiến lược, cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý thúc đẩy xây dựng,

phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; tạo thuận

lợi cho việc triển khai Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam.

Thứ ba là Bộ Thông tin và Truyền thông: Bộ Thông tin và Truyền

thông là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

lĩnh vực thông tin và truyền thông, trong đó có công nghệ thông tin nói

chung, xây dựng Chính phủ điện tử nói riêng và quản lý nhà nước các dịch vụ

18

công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ...

Thứ tư là Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương: đây là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có

trách nhiệm tổ chức triển khai các nhiệm vụ liên quan đến ứng dụng CNTT để

xây dựng Chính quyền điện tử trên địa bàn tỉnh, thành phố.

1.3. Thể chế chính sách ứng dụng công nghệ thông tin

CNTT và truyền thông luôn được Đảng và Nhà nước xác định là công

cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, đẩy nhanh quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ứng dụng rộng rãi CNTT và

truyền thông là những yếu tố mang ý nghĩa chiến lược, góp phần thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và tăng năng suất lao động.

Ngày 29/06/2006, Quốc hội đã thông qua Luật công nghệ thông tin.

Đây là văn bản pháp lý vô cùng quan trọng, cụ thể hóa chủ trương của Đảng

đã được nêu tại Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về

đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, cụ thể, tại Khoản 1 Điều 5, Luật công nghệ thông tin đã quy

định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ứng dụng và phát triển CNTT,

trong đó có những ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN. Ngoài Luật

CNTT, một số văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được cấp có thẩm quyền

ban hành để định hướng ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính nhà nước

như sau:

Thứ nhất: Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 về ứng dụng

CNTT trong hoạt động của CQNN. Nội dung Nghị định không chỉ bao gồm

các quy định về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN mà còn cả các

điều kiện bảo đảm ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN (bao gồm xây

19

dựng cơ sở hạ tầng thông tin, cung cấp nội dung thông tin, phát triển và sử

dụng nguồn nhân lực CNTT, đầu tư cho ứng dụng CNTT), quy định về hoạt

động của CQNN trên môi trường mạng (bao gồm quy trình công việc, quản lý

văn bản điện tử, bảo đảm an toàn thông tin mạng) cùng với những yêu cầu về

tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN.

Có thể nói Nghị định 64/2007/NĐ-CP đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi

hơn rất nhiều để triển khai công tác ứng dụng CNTT trong hoạt động của

CQNN sau khi Luật Công nghệ thông tin được ban hành.

Thứ hai: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 246/2005/QĐ-TTg

ngày 06/10/2005 về việc phê duyệt chiến lược phát triển CNTT và truyền

thông Việt Nam đến 2010 và định hướng đến năm 2020, đã chỉ ra một số nội

dung mang tính định hướng cho phát triển ứng dụng CNTT trong quản lý hành

chính nhà nước như: Ứng dụng rộng rãi CNTT và truyền thông trong mọi lĩnh

vực, khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng

và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, CPĐT, doanh nghiệp điện

tử, giao dịch và thương mại điện tử để Việt Nam đạt trình độ khá trong khu vực

ASEAN; hình thành xã hội thông tin. Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông

phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Đào

tạo về công nghệ thông tin và truyền thông ở các trường đại học đạt trình độ

và chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN.

Thứ ba: Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2016 - 2020, đưa ra một số mục tiêu

chủ yếu [22]: Cung cấp đầy đủ thông tin trên trang thông tin điện tử hoặc

cổng thông tin điện tử của tất cả các CQNN theo quy định tại Nghị định

số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ về việc cung

cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc

20

cổng thông tin điện tử của CQNN (30% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý

trực tuyến tại mức độ 4; 95% hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp được nộp qua

mạng…); đẩy mạnh việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong

nội bộ cơ quan nhà nước (100% văn bản không mật trình Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ dưới dạng điện tử; 80% văn bản

trao đổi giữa các CQNN dưới dạng điện tử…); xây dựng và hoàn thiện hạ

tầng kỹ thuật, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, xây dựng và

hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các cấp, tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử

đồng bộ, kết nối, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin.

Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản khác (bao gồm cả văn bản quy phạm

pháp luật, văn bản chỉ đạo điều hành) cũng đã được ban hành, góp phần thúc

đẩy ứng dụng CNTT, cụ thể như:

- Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc

hội quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước;

trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp

luật quy định. Cùng với Luật công nghệ thông tin, Luật giao dịch điện tử đã

tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho các ứng dụng CNTT, giao dịch điện tử

trong hoạt động của CQNN cũng như các giao dịch của người dân, doanh

nghiệp trên môi trường mạng;

- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12 ngày 23/11/2009 của Quốc hội

quy định về hoạt động viễn thông, bao gồm đầu tư, kinh doanh viễn thông;

viễn thông công ích; quản lý viễn thông; xây dựng công trình viễn thông;

quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông;

- Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy

định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông

tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của CQNN và các điều kiện bảo đảm

21

hoạt động cho cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;

- Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ về việc

quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ

chứng thực chữ ký số, trong đó, quy định rõ ràng, cụ thể về chữ ký số và

chứng thư số; việc quản lý, cung cấp và sử dụng chữ ký số, chứng thư số và

dịch vụ chứng thực chữ ký số nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc cung cấp,

sử dụng chữ ký số của CQNN các cấp cũng như người dân, doanh nghiệp;

- Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ ban hành

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW

ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin

đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

- Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải

pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.

Đây là văn bản rất quan trọng của Chính phủ, ban hành những chính sách

trọng tâm về phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã

hội số nhằm tiếp tục hiện thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo

phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp, nhất là

trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

- Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến

năm 2015 và định hướng đến năm 2020;

- Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/07/2018 của Thủ tướng

Chính phủ Về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống

hành chính nhà nước;

- Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 07/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về về

việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm cải thiện chỉ số xếp

22

hạng của Việt Nam.

Có thể nói, hệ thống chính sách, văn bản pháp luật về CNTT nói chung

và những văn bản điều chỉnh hoạt động ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

nói riêng được ban hành tương đối đầy đủ, tạo nên khung pháp lý cơ bản cho

việc ứng dụng CNTT.

1.4 Những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng công nghệ

thông tin

* Chủ trương chính sách

Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là nhân tố

quyết định và đóng vai trò quan trọng nhất trong các nhân tố tác động tới quá

trình ứng dụng CNTT, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ

đạo điều hành của các CQNN từ trung ương tới địa phương. Chủ trương,

chính sách được thể hiện từ định hướng chiến lược cho đến các khía cạnh cụ

thể nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể như: Chính sách đảm bảo tính pháp lý

cho các văn bản, các thủ tục khi triển khai ứng dụng CNTT (tính pháp lý của

văn bản điện tử, chữ ký số, chính sách công nhận các giao dịch qua mạng,

thanh toán điện tử, v.v...); chính sách thu hút và khuyến khích các hoạt động

CNTT (tăng cường ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục hành chính, đẩy

mạnh gia công, xuất khẩu phần mềm…). Chủ trương, chính sách ứng dụng

CNTT cần có sự nhất quán và định hướng rõ ràng, lâu dài, kịp thời cập nhật

những biến động nhanh chóng của khoa học, công nghệ. Vấn đề này rất quan

trọng đối với CQNN vì khi CQNN có sự thay đổi lãnh đạo, người đứng đầu

thường dẫn đến việc thay đổi chính sách.

* Hạ tầng nhân lực

Bên cạnh chủ trương, chính sách thì hạ tầng nhân lực cũng là yếu tố

then chốt của việc triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT. Nhân lực

trong hoạt động ứng dụng CNTT bao gồm đội ngũ lãnh đạo, công chức, viên

23

chức các CQNN và các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học, chuyên gia

CNTT, đội ngũ nhân viên, kỹ thuật viên. Trong đó, khả năng nhận thức, khả

năng hoạch định chiến lược và đưa ra những quyết sách đúng đắn của nhà

lãnh đạo, quản lý là sự hỗ trợ tốt nhất cho công tác ứng dụng CNTT của một

cơ quan, tổ chức. CNTT là một lĩnh vực đòi hỏi sự cập nhật liên tục các thông

tin, các xu hướng công nghệ mới, do vậy vấn đề tuổi tác, khả năng sử dụng

thành thạo ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình tổ chức thực thi các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

Thêm vào đó, sự tham gia của đội ngũ chuyên gia trong việc triển khai và

phát triển các ứng dụng CNTT là hết sức cần thiết. Với vốn kiến thức, kinh

nghiệm tích lũy trong nhiều năm nghiên cứu, công tác trong lĩnh vực CNTT,

các chuyên gia sẽ có nhiều đóng góp cho quá trình triển khai, tổ chức thực thi

chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT.

Để xây dựng nền tảng tri thức và nhân lực CNTT đòi hỏi mỗi cơ quan,

tổ chức cần phải có chiến lược đúng đắn để tích lũy, nâng cao tri thức và có

kế hoạch sử dụng, củng cố nguồn nhân lực đó. Sử dụng có hiệu quả nguồn

nhân lực CNTT sẽ dẫn đến việc triển khai, tổ chức thực thi các chính sách

ứng dụng CNTT có hiệu quả.

* Hạ tầng kỹ thuật

Do yếu tố đặc trưng của ngành CNTT nên các phần mềm, ứng dụng

CNTT cần phải có hạ tầng trang thiết bị, cơ sở vật chất (máy vi tính, đường

truyền mạng, máy chủ…) để cài đặt, vận hành. Hạ tầng kỹ thuật tác động, chi

phối các yếu tố liên quan đến quá trình tổ chức, triển khai các ứng dụng

CNTT. Một hệ thống thông tin tốt, hoạt động hiệu quả phục vụ hoạt động của

CQNN cần phải bảo đảm sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và các phần mềm

ứng dụng. Hạ tầng kỹ thuật yếu kém, lạc hậu (trang thiết bị cũ, cấu hình

thấp…) thì việc ứng dụng CNTT cũng sẽ không đạt được kết quả như mong

24

muốn của CQNN triển khai ứng dụng CNTT.

Tương tự như các ngành, nghề khác, việc triển khai ứng dụng CNTT có

quan hệ mật thiết với nguồn kinh phí mà CQNN phải bảo đảm, cân đối để đầu

tư các ứng dụng CNTT. Các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm, bố trí đầy đủ

nguồn kinh phí cho CNTT sẽ triển khai được nhiều ứng dụng CNTT hơn.

Trong khi đó, các Bộ, cơ quan, địa phương khác do điều kiện về nguồn vốn

không đáp ứng thì việc triển khai các ứng dụng CNTT sẽ rất chậm, trì trệ. Các

loại chi phí chính mà CQNN phải bảo đảm, cân đối cho hoạt động ứng dụng

CNTT bao gồm: Chi phí đầu tư (thuê hoặc mua sắm) trang thiết bị và các

phần mềm ứng dụng; chi phí đào tạo, tập huấn cho người sử dụng; chi phí cập

nhật dữ liệu vào các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin; chi phí truyền thông;

chi phí vận hành, duy trì hạ tầng kỹ thuật, các phần mềm ứng dụng, , v.v... Do

đặc điểm của hoạt động ứng dụng CNTT là liên tục (các hệ thống CNTT phải

bảo đảm khả năng hoạt động liên tục, không ngừng nghỉ) vì vậy việc duy trì

nguồn kinh phí, tiến độ đầu tư cho CNTT cũng như đảm bảo và cân đối kinh

phí cho phù hợp với quy mô và mục tiêu ứng dụng CNTT là rất quan trọng.

Quy mô đầu tư cho các hoạt động CNTT ảnh hưởng trực tiếp đến kết

quả của việc ứng dụng CNTT. Đây là yếu tố quyết định về tiến độ, sự đồng

bộ, hiệu quả trong quá trình triển khai của các dự án đầu tư ứng dụng CNTT.

* Cơ cấu tổ chức

Ngoài các yếu tố nêu trên, cơ cấu tổ chức cũng là một yếu tố tác động

khá nhiều đối với quá trình ứng dụng CNTT. Tính hiệu quả của cơ cấu tổ

chức quyết định đến sự phát triển và kết quả triển khai ứng dụng CNTT. Về

bản chất, việc triển khai các ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động của các

CQNN phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về quy trình, nghiệp vụ, cơ cấu tổ

chức của cơ quan đó. Do vậy, trong quá trình tổ chức thực thi các chính sách

ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT, sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa

25

các thành phần của cơ quan, tổ chức là yếu tố góp phần đơn giản hóa quy

trình ứng dụng CNTT vào hoạt động của mình. Những cơ quan, tổ chức có bộ

máy tinh giản, gọn nhẹ thì việc triển khai ứng dụng CNTT sẽ gặp nhiều thuận

lợi hơn những cơ quan tổ chức có bộ máy cồng kềnh, phức tạp, đa ngành, đa

lĩnh vực. Việc CQNN xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị trực thuộc,

bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, điều hành từ trên xuống dưới sẽ tạo ra

cách tiếp cận mang tính tổng quát và các quy trình phối hợp chặt chẽ, rõ ràng,

gắn trách nhiệm cụ thể cho từng đối tượng (lãnh đạo, công chức, viên chức,

người lao động tại các bộ phận khác nhau) giúp cho việc triển khai các hệ

thống CNTT mà tổ chức xây dựng trở nên đơn giản, dễ triển khai áp dụng.

* Mức độ, khả năng sẵn sàng ứng dụng CNTT của người dân, doanh

nghiệp

Những yếu tố như đã nêu trên đều rất quan trọng nhưng vẫn chưa đầy

đủ nếu không đề cập tới yếu tố người sử dụng. Cho dù CQNN có xây dựng,

cung cấp nhiều ứng dụng CNTT (điển hình là các dịch vụ công trực tuyến

mức độ 3, 4) nhưng người sử dụng là người dân, doanh nghiệp không quan

tâm hoặc chưa sẵn sàng hoặc ít sử dụng, khai thác thì việc triển khai của cơ

quan đó được đánh giá là không hiệu quả, thậm chí còn gây lãng phí, tốn kém

cho ngân sách nhà nước. Để việc triển khai có hiệu quả, các ứng dụng CNTT

do CQNN cung cấp phải thực sự thiết yếu đối với người dân, doanh nghiệp;

giao diện, chức năng của phần mềm phải bảo đảm tính thân thiện, dễ sử

dụng… và phải tính đến khả năng, mức độ sẵn sàng tiếp cận, khai thác, sử

dụng ứng dụng CNTT của người dân, doanh nghiệp. Như vậy, việc triển khai

các chính sách ứng dụng CNTT mới có thể đem lại những hiệu quả như mong

26

đợi.

Tiểu kết chương

Có thể thấy vai trò ngày càng quan trọng của CNTT trong cuộc sống

hàng ngày của mỗi con người. CNTT làm thay đổi thói quen học tập, làm

việc, giải trí hay các hoạt động sản xuất kinh doanh... Trong bối cảnh Việt

Nam tăng cường hội nhập quốc tế như hiện nay, CQNN các cấp cũng không

thể nằm ngoài xu hướng ảnh hưởng của CNTT. Thông qua việc tổ chức triển

khai các ứng dụng CNTT, CQNN cung cấp cho người dân, doanh nghiệp

nhiều dịch vụ hơn (bao gồm các dịch vụ công trực tuyến để tạo thuận lợi cho

quá trình thực hiện thủ tục hành chính giữa người dân, doanh nghiệp và

CQNN), thu hẹp khoảng cách giữa công dân và chính quyền, từng bước nâng

cao tính minh bạch, bình đẳng. Việc ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

trong các CQNN do đó đã nhận được sự quan tâm đặt biệt của các cấp, các

ngành, sự đồng thuận, hưởng ứng của người dân và doanh nghiệp.

Chương 1 nêu khái quát những vấn đề cơ bản mang tính lý luận về

chính sách ứng dụng CNTT nói chung, trong đó có ứng dụng CNTT để xây

dựng CPĐT, xác định rõ chủ thể, thể chế chính sách ứng dụng CNTT, nhận

diện được những nhân tố tác động đến chính sách ứng dụng CNTT trong các

CQNN ở Việt Nam hiện nay.

Những nghiên cứu, lý luận về chính sách ứng dụng CNTT được trình

bày trong Chương này sẽ là cơ sở, nền tảng và điều kiện quan trọng để nghiên

cứu, phân tích về thực trạng thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây

27

dựng CPĐT từ thực tiễn của các CQNN tại Việt Nam ở chương sau.

Chương 2

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,

XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRONG CÁC CƠ QUAN

NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

2.1. Sự hình thành, phát triển của công nghệ thông tin tại Việt Nam

Ứng dụng CNTT được triển khai tương đối sớm tại nước ta. Tuy nhiên,

cho đến năm 1993, với việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 49/CP ngày

04/8/1993 về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, ngành CNTT

mới có những định hướng phát triển rộng rãi trên quy mô toàn quốc. Nghị

quyết đã xác định rõ những mục tiêu chính cho việc ứng dụng CNTT là: “Xây

dựng hệ thống các máy tính và phương tiện truyền thông được liên kết với

nhau trong các mạng với những công cụ phần mềm đủ mạnh và các hệ thống

thông tin và cơ sở dữ liệu có khả năng phục vụ các hoạt động quản lý nhà

nước và các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế. Một số hệ thống thông tin

trong nước được ghép nối với các mạng thông tin quốc tế; phát triển rộng rãi

việc ứng dụng CNTT góp phần tăng năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất,

kinh doanh, …”. Sau khi ban hành Nghị quyết 49/CP, Thủ tướng Chính phủ

đã phê duyệt Chương trình quốc gia về CNTT - Kế hoạch tổng thể đến năm

2000 (Quyết định số 211/TTg ngày 07 tháng 4 năm 1995) để xác định những

nhiệm vụ cụ thể mà các bộ, ngành, địa phương phải thực hiện trong giai đoạn

1995-2000.

Tại các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là vào những năm cuối của

thế kỷ XX, ngành CNTT đã những có bước phát triển nhảy vọt làm thay đổi

về cơ bản cách thức mà con người làm việc, học tập và sinh hoạt. Để kịp thời

nắm bắt xu hướng CNTT thế giới trong giai đoạn phát triển mới, ngày

17/10/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng

28

dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong đó, những mục tiêu chính được xác định là:“CNTT được ứng dụng

rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng

nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng; phát

triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước, với thông lượng lớn, tốc độ

và chất lượng cao, giá rẻ; tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình thế

giới; công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có

tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực khác; có tỷ lệ đóng

góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng”. Chỉ thị của Bộ

Chính trị sau đó được Chính phủ cụ thể hóa tại 03 văn bản quan trọng:

Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW, Đề án “Tin học hóa

quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005” và Kế hoạch tổng thể về

ứng dụng và phát triển CNTT ở Việt Nam đến 2005. Với sự vào cuộc chỉ đạo

sát sao, đồng bộ từ Bộ Chính trị cũng như từ Chính phủ, đảng bộ, chính quyền

các cấp từ trung ương tới địa phương đã triển khai mạnh mẽ các ứng dụng

CNTT, trong đó tập trung vào các ứng dụng phục vụ hoạt động của CQNN;

các phầm mềm, cơ sở dữ liệu dùng chung được xây dựng, triển khai; mạng

thông tin (diện rộng) của Chính phủ được đầu tư xây dựng, phát triển; cán bộ,

công chức được đào tạo kỹ năng cơ bản để khai thác, sử dụng CNTT. Mặc dù

giai đoạn này chính sách ứng dụng CNTT được xây dựng với mục tiêu, tầm

nhìn chiến lược, thậm chí rất nhiều chính sách vẫn còn tiếp tục được tổ chức

thực thi tới ngày hôm nay (xây dựng các cơ sở dữ liệu dùng chung, cơ sở dữ

liệu nền tảng quốc gia như dân cư, đất đai…), việc tổ chức thực thi chính sách

lại không hợp lý, tồn tại nhiều hạn chế bất cập, gây ra nhiều hậu quả nghiêm

trọng cho các CQNN (điển hình là sự thất bại của Đề án Tin học hóa quản lý

hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2000 hay còn gọi là Đề án 112).

Giai đoạn 2010 - 2015, cùng với việc Chính phủ, các Bộ, ngành, địa

phương đẩy mạnh cải cách hành chính, CNTT đã trở thành công cụ hỗ trợ

29

hiệu quả cho hoạt động cải cách hành chính. Nhiều Bộ, ngành bắt đầu xây

dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia (như Văn bản pháp luật,

Thủ tục hành chính, Đăng ký giao dịch bảo đảm, Hộ tịch…) và các

Trang/Cổng thông tin điện tử để đăng tải, cung cấp cho người dân, doanh

nghiệp thông tin về hoạt động của các CQNN, các văn bản, quy định, cơ chế,

chính sách mới ban hành…Thêm vào đó, nhiều ứng dụng CNTT phục vụ giải

quyết các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí hoạt

động; tăng tính minh bạch trong hoạt động của CQNN, tạo thuận tiện cho

người dân và doanh nghiệp cũng được đưa vào sử dụng (phần mềm một cửa

điện tử được đưa vào vận hành tại Bộ phận tiếp nhận và Trả kết quả hiện đại

cấp tỉnh, huyện theo Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ; hệ thống thông tin hỗ trợ Đăng ký giao dịch bảo đảm do Bộ Tư pháp

triển khai…). Khi đánh giá tổng quan về tình hình ứng dụng CNTT thời kỳ

này, Nghị quyết số 36a/NQ-CP nhận xét: CNTT đã góp phần không nhỏ vào

công tác quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương, nhất là trong xử lý

hồ sơ hành chính, quản lý ngân sách, thuế, kho bạc, hải quan, bảo hiểm xã

hội, thành lập doanh nghiệp... Ngay trong năm 2015, tỷ lệ doanh nghiệp thực

hiện kê khai thuế điện tử đã tăng từ 65% lên 98%; thời gian nộp thuế của

doanh nghiệp giảm từ 537 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm. Việc thực hiện thủ

tục hải quan điện tử theo Hệ thống thông quan tự động (VNACCS/VCIS) và Cơ

chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế đã giảm thời gian thông quan hàng

hóa bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với

nhập khẩu, giảm được 10 - 20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa

xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT

trên tất cả các lĩnh vực đã góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo

thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

30

nhà nước và quản trị doanh nghiệp [6].

Mặc dù việc ứng dụng CNTT tại Việt Nam nói chung và ứng dụng

CNTT trong hoạt động của các CQNN được Đảng, Nhà nước và Chính phủ

quan tâm, đầu tư từ sớm, tuy nhiên, đến năm 2015, tại Nghị quyết số 36a/NQ-

CP ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ về CPĐT, Chính phủ mới có

những chỉ đạo cụ thể, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh

triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT. Với sự quyết tâm của các cấp

các, ngành, trong giai đoạn từ 2015 – 2017, việc ứng dụng CNTT để xây

dựng CPĐT đã đạt được một số kết quả nổi bật như: vị trí của Việt Nam về

CPĐT theo xếp hạng của Liên hợp quốc được nâng cao (năm 2016, Việt Nam

xếp thứ 89/193 quốc gia được thực hiện đánh giá, tăng 10 bậc so với năm

2014) [25]; cơ chế, chính sách cho triển khai, xây dựng CPĐT được xây

dựng, hoàn thiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội, Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ và bộ, ngành liên quan ban hành điều chỉnh việc

thiết lập, ứng dụng CNTT trong phục vụ nhân dân và trong hoạt động của cơ

quan hành chính nhà nước, quy định về công tác bảo đảm an toàn, an ninh

thông tin; về Cổng dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin một cửa điện tử

cấp bộ, cấp tỉnh và kết nối, liên thông các hệ thống thông tin này; về gửi, nhận

văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; về chữ

ký số cho văn bản điện tử; về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và

thông tin trên mạng; về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật như: Luật An toàn

thông tin mạng; Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng và các văn bản

hướng dẫn; Thông tư số 10/2016/TT-BTTTT ngày 01/4/ 2016 của Bộ Thông

tin và Truyền thông; Thông tư số 39/2017/TT-BTTTT ngày 15/12/2017 của

Bộ Thông tin và Truyền thông; Thông tư số 41/2017/TT-BTTTT ngày

19/12/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông; Thông tư số 45/2017/TT-

31

BTTTT ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông…

Các văn bản pháp luật này đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc

triển khai, xây dựng CPĐT.

Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2015-2017,

ngày 17/3/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số

nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐTgiai đoạn 2019 - 2020, định

hướng đến 2025 với mục tiêu: Hoàn thiện nền tảng CPĐT nhằm nâng cao

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng

phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu và dữ liệu

mở hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn

thông tin và an ninh mạng; nâng xếp hạng CPĐT theo đánh giá của Liên hợp

quốc tăng từ 10 đến 15 bậc năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn

đầu ASEAN trong xếp hạng CPĐT theo đánh giá của Liên hợp quốc đến năm

2025.

2.2. Vấn đề chính sách ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng

chính phủ điện tử

2.2.1 Thực trạng chính sách

Theo đánh giá tại Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ, trong

những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng

dụng công nghệ thông tin, xây dựng CPĐT trong hoạt động của các CQNN và

phục vụ người dân, doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương

đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng làm nền

tảng trong triển khai xây dựng CPĐT, như: ban hành theo thẩm quyền, trình

cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn để hoàn thiện

hành lang pháp lý, thúc đẩy việc xây dựng CPĐT; xây dựng và đưa vào vận

hành một số cơ sở dữ liệu như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh

nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; đang triển khai xây dựng Cơ sở

32

dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; đã cung cấp một số

dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như: đăng

ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội…; một số

bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; tại một số địa

phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao

tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức; chất lượng nhân lực về

công nghệ thông tin của Việt Nam cũng được nâng cao. Theo Báo cáo đánh

giá về CPĐT của Liên hợp quốc, năm 2016, Chỉ số phát triển CPĐT (EGDI)

của Việt Nam xếp hạng thứ 89/193 quốc gia, tăng 10 bậc, trong đó chỉ số

thành phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI) tăng 8 bậc, lên thứ hạng 74/193

quốc gia (so với năm 2014); đến năm 2018, Chỉ số phát triển CPĐT của Việt

Nam xếp hạng thứ 88/193 quốc gia, tăng 01 bậc, trong đó chỉ số thành phần

về dịch vụ công trực tuyến tăng 15 bậc, lên thứ hạng 59/193 quốc gia, riêng

chỉ số hạ tầng viễn thông (TII) giảm 10 bậc, xuống thứ hạng thứ 100/193

quốc gia (so với năm 2016).

Bên cạnh đó, nhiều nội dung triển khai CPĐT chưa được như mong

đợi, như: còn rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; việc

triển khai ở một số nơi còn mang tính hình thức; việc xây dựng các cơ sở dữ

liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin nền tảng phục vụ phát triển CPĐT

còn chậm; chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; nhiều

hệ thống thông tin chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; việc giải quyết

thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công,

giấy tờ; tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; chỉ số tuân thủ thủ

tục hành chính (APCI) ở một số thủ tục hành chính như đất đai, đầu tư, môi

trường và xây dựng còn thấp.

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề trên là do nhiều ngành, nhiều cấp

chưa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể trong triển khai; còn thiếu

33

gắn kết, đồng bộ giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách hành chính

và đổi mới lề lối, phương thức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân,

doanh nghiệp; chưa phát huy vai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực

hiện; chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của một số nhóm thủ tục hành chính

còn cao gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp; nền tảng tích hợp, chia sẻ

dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của cơ quan hành chính nhà nước chậm

được triển khai; tình trạng cát cứ thông tin, dữ liệu còn phổ biến dẫn đến

nhiều số liệu trùng lặp, không thống nhất; việc bảo đảm an toàn, an ninh cho

các hệ thống thông tin của các CQNN còn chưa được quan tâm đúng mức;

còn thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng CPĐT; thiếu cơ chế tài chính

và đầu tư phù hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin; thiếu quy định cụ

thể về định danh cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử; thiếu các quy

định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử; cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ

xây dựng CPĐT chưa đủ mạnh; chưa huy động tối đa nguồn lực xã hội trong

xây dựng và phát triển CPĐT.

2.2.2 Mục tiêu chính sách

Từ những thực trạng kể trên, Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ

đã xác định rõ quan điểm: Xây dựng, phát triển CPĐT, hướng tới Chính phủ

số, nền kinh tế số và xã hội số trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới thống

nhất trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau:

- Kế thừa, phát triển các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin,

xây dựng CPĐT theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ phù hợp với bối cảnh hiện nay và xu hướng phát triển của thế giới.

- Phát huy vai trò, trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ, người

đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, thành viên Ủy ban Quốc gia về

CPĐT, tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển thành công CPĐT Việt Nam.

Ủy ban Quốc gia về CPĐT không làm thay nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa

phương. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,

34

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đầu

mối chỉ đạo thống nhất, chịu trách nhiệm tổ chức triển khai xây dựng CPĐT

tại bộ, ngành, địa phương mình quản lý, bảo đảm hiệu quả, tiến độ, chất lượng

theo yêu cầu.

- Đổi mới phương thức phục vụ, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung

tâm, lấy sự hài lòng của cá nhân, tổ chức là thước đo quan trọng trong phát

triển CPĐT; bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin

với cải cách hành chính, đổi mới lề lối, phương thức làm việc, xác định ứng

dụng công nghệ thông tin là công cụ hữu hiệu hỗ trợ, thúc đẩy cải cách hành

chính.

- Dựa trên cơ sở thiết kế tổng thể, thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu

giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, tạo ra các dịch vụ nền tảng dùng

chung cho toàn hệ thống từ trung ương đến địa phương; tuân thủ Khung kiến

trúc CPĐT Việt Nam, Kiến trúc CPĐT cấp bộ, Kiến trúc Chính quyền điện tử

cấp tỉnh và có sự đo lường, đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện.

- Gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh quốc gia, bảo vệ

thông tin cá nhân, tổ chức; không để lộ lọt thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà

nước; các cơ quan và tổ chức nước ngoài có thể hỗ trợ kinh phí, hỗ trợ kỹ

thuật cho Việt Nam trong xây dựng CPĐT, Việt Nam làm chủ công nghệ, mã

nguồn phần mềm, cơ sở dữ liệu.

- Huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác

truyền thông, nâng cao nhận thức của toàn xã hội trong xây dựng, phát triển

CPĐT. Bảo đảm nguồn ngân sách nhà nước chi cho ứng dụng công nghệ

thông tin, xây dựng CPĐT hàng năm.

Với quan điểm chỉ đạo như trên, Nghị quyết xác định mục tiêu tổng

quát, mục tiêu cụ thể như sau:

35

- Mục tiêu tổng quát

Hoàn thiện nền tảng CPĐT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân,

doanh nghiệp; phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới

Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an

ninh mạng; đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng

CPĐT của Liên hợp quốc.

- Mục tiêu cụ thể

Giai đoạn 2018-2020, triển khai thực hiện theo nhóm chỉ tiêu:

Xây dựng các văn bản pháp lý và xây dựng hệ thống nền tảng phát

triển CPĐT: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tạo lập,

quản lý và chia sẻ dữ liệu, bảo vệ thông tin cá nhân, định danh điện tử, lưu trữ

điện tử, hoàn thiện khung pháp lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin nhằm

tăng cường thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong các CQNN; xây dựng,

phát triển Trục liên thông văn bản quốc gia theo công nghệ tiên tiến của thế

giới làm nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở

dữ liệu…, trước hết thực hiện gửi, nhận văn bản điện tử theo lộ trình quy định

tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng

Chính phủ...; các Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo hiểm; tiếp tục hoàn

thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; Nâng cao năng lực,

chất lượng dịch vụ Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng,

Nhà nước, xác định đây là hạ tầng truyền dẫn căn bản trong kết nối các hệ

thống thông tin CPĐT và liên thông, chia sẻ dữ liệu…

Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp: 20% số

lượng người dân và doanh nghiệp tham gia hệ thống thông tin CPĐT được

xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống

thông tin của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương; Tỷ lệ hồ sơ

giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của từng

36

bộ, ngành, địa phương đạt từ 20% trở lên; tích hợp 50% các dịch vụ công trực

tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công

quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua

Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; tối thiểu 80% người dân

và doanh nghiệp hài lòng về việc giải quyết thủ tục hành chính.

Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của các

CQNN: 100% phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành, địa

phương được kết nối, liên thông qua Trục liên thông văn bản quốc gia; 100%

phần mềm quản lý văn bản và điều hành tại các bộ, ngành, địa phương được

kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử (không bao gồm văn bản

mật); tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc

tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường

mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật); Tối thiểu 30%

báo cáo định kỳ (không bao gồm báo cáo mật) được gửi, nhận qua Hệ thống

thông tin báo cáo quốc gia; rút ngắn từ 30-50% thời gian họp, giảm tối đa việc

sử dụng tài liệu giấy thông qua Hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ,

văn phòng điện tử.

Đồng thời, tiếp tục nâng cao Chỉ số về CPĐT, bao gồm ba nhóm chỉ số

thành phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và nguồn

nhân lực (HCI); phấn đấu đến hết năm 2020, Việt Nam nằm trong Nhóm 5 quốc

gia đứng đầu ASEAN về Chỉ số phát triển CPĐT.

Giai đoạn 2021-2025, thực hiện theo các nhóm chỉ tiêu cụ thể:

Xây dựng các văn bản pháp lý và xây dựng hệ thống nền tảng phát

triển CPĐT: Trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật CPĐT và các văn bản

hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu mở,

ứng dụng các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối

(Blockchain), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (BigData)…, hướng

tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số; Tiếp tục phát triển các hệ thống

37

nền tảng phát triển CPĐT, nghiên cứu, phát triển các giải pháp kết nối với các

hệ thống thông tin của các nước trong khu vực ASEAN cũng như một số các

nước trên thế giới theo quy định, thông lệ quốc tế; hoàn thành triển khai cơ sở

dữ liệu quốc gia về tài chính, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia tích hợp, chia sẻ

dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa

phương.

Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp: 100%

Cổng Dịch vụ công, Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh được

kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% dịch vụ công

trực tuyến mức độ 3, 4 phổ biến, liên quan nhiều tới người dân, doanh nghiệp

được tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% giao dịch trên Cổng

Dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh và hệ thống

thông tin một cửa điện tử được xác thực điện tử; 40% số lượng người dân và

doanh nghiệp tham gia hệ thống CPĐT được xác thực định danh điện tử thông

suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ

Trung ương đến địa phương; Tỷ lệ hồ sơ giải quyết theo dịch vụ công trực

tuyến mức độ 3, 4 trên tổng số hồ sơ đạt từ 50% trở lên; 80% thủ tục hành

chính đáp ứng yêu cầu được triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4;

tích hợp 50% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa

phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia; tối thiểu 90% người dân và doanh

nghiệp hài lòng về việc giải quyết thủ tục hành chính; 60% các hệ thống

thông tin của các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến người dân, doanh

nghiệp đã đưa vào vận hành, khai thác được kết nối, liên thông qua nền tảng

tích hợp, chia sẻ dữ liệu; thông tin của người dân, doanh nghiệp đã được số

hóa và lưu trữ tại các cơ sở dữ liệu quốc gia không phải cung cấp lại.

Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của các

CQNN: 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 80% hồ sơ công việc tại cấp

38

huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng

(không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật). 80% báo cáo định

kỳ (không bao gồm nội dung mật) của các cơ quan hành chính nhà nước được

cập nhật, chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, phục vụ hiệu quả

hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành; Triển khai nhân rộng hệ thống thông

tin Chính phủ không giấy tờ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; đến

cuối năm 2025, phấn đấu 100% cấp tỉnh, 80% cấp huyện thực hiện họp không

giấy tờ tại các cuộc họp của Ủy ban nhân dân.

Tiếp tục nâng cao Chỉ số về CPĐT, bao gồm ba nhóm chỉ số thành

phần về dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và nguồn

nhân lực (HCI); phấn đấu đến hết năm 2025, Việt Nam nằm trong Nhóm 4

quốc gia đứng đầu ASEAN về Chỉ số phát triển CPĐT của Liên hợp quốc.

2.2.3 Các giải pháp và công cụ chính sách

Xây dựng, hoàn thiện thể chể tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho

việc triển khai, phát triển CPĐT

Thiết lập và tăng cường các thể chế, chính sách nền tảng cho xây dựng

CPĐT; trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ:

- Xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP của

Chính phủ về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của

CQNN và Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê

dịch vụ công nghệ thông tin, hoàn thành trong tháng 11 năm 2018.

Đề xuất trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho làm thí điểm

việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin để tháo gỡ những khó khăn, vướng

mắc đối với đặc thù của các dự án công nghệ thông tin trong quá trình chờ

sửa Luật Đầu tư công và các luật khác có liên quan.

- Xây dựng, ban hành các nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng

dẫn về: kết nối, chia sẻ dữ liệu; về bảo vệ dữ liệu cá nhân; về xác thực và định

39

danh điện tử; về chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi,

bổ sung các nghị định về Quy chế làm việc của Chính phủ phù hợp với phương

thức làm việc, tương tác điện tử; về công tác văn thư, lưu trữ điện tử.

- Nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật CPĐT và các văn bản hướng dẫn

bảo đảm hành lang pháp lý phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng

các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain),

Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (BigData)…, hướng tới Chính phủ

số, nền kinh tế số, xã hội số, trong giai đoạn 2021-2025.

Xây dựng nền tảng công nghệ phát triển CPĐT phù hợp với xu thế phát

triển CPĐT trên thế giới

Các giải pháp công nghệ tập trung vào phát triển nền tảng công nghệ

CPĐT phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ, các bộ, ngành, địa phương như sau:

- Xây dựng Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử (phiên bản 2.0), xây

dựng, cập nhật Kiến trúc CPĐT của Bộ, Kiến trúc Chính quyền điện tử của

địa phương đáp ứng các xu hướng công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật

(IoT), Dữ liệu lớn (Big Data), Dữ liệu mở (Open Data), Chuỗi khối

(Blockchain)…; tập trung triển khai xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu

quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2015 của Thủ

tướng Chính phủ, bao gồm cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, tài

chính, doanh nghiệp, bảo hiểm… Đặc biệt, phải khẩn trương hoàn thành triển

khai Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư để tạo hiệu ứng tâm lý và triển khai

khai thác hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ

liệu quốc gia về bảo hiểm.

- Xây dựng, phát triển Trục liên thông văn bản quốc gia làm nền tảng

tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của bộ,

ngành, địa phương trong việc gửi, nhận văn bản điện tử, Cổng Dịch vụ công

40

quốc gia, Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ

tục hành chính, hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ, hệ thống tham

vấn chính sách, công báo điện tử...

- Xây dựng, phát triển CPĐT gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa ứng dụng

công nghệ thông tin với cải cách hành chính nhằm chuẩn hóa, điện tử hóa quy

trình nghiệp vụ, số hóa, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các CQNN từ Trung

ương đến địa phương; đổi mới phương thức phục vụ người dân, doanh nghiệp

Các giải pháp công nghệ tập trung vào phát triển CPĐT gắn kết chặt

chẽ ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách hành chính, đổi mới phương

thức phục vụ người dân, doanh nghiệp như sau: Xây dựng Cổng dịch vụ công

quốc gia và triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử (G2B, G4C), kết

nối Cổng dịch vụ công bộ, ngành, địa phương; thiết lập Hệ thống thông tin

Chính phủ không giấy tờ phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ; tiến tới triển khai nhân rộng hệ thống này phục vụ chỉ đạo

điều hành của lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để rút ngắn thời gian họp,

giảm giấy tờ hành chính và nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành của người

đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng Hệ thống tham vấn chính

sách hỗ trợ kết nối với Hệ thống thông tin điện tử phục vụ chỉ đạo, điều hành

của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để phục vụ quá trình ra các quyết định

của người đứng đầu các cơ quan hành chính; thiết lập Hệ thống thông tin báo

cáo quốc gia, Trung tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ để cung cấp kịp thời thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và

hoạch định chính sách, bảo đảm tiết kiệm nguồn lực; hoàn thiện Hệ thống

thông tin tiếp nhận, trả lời phản ánh kiến nghị của người dân và doanh nghiệp;

xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp và các công cụ báo cáo thông minh phục vụ

chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

41

- Bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng CPĐT

Dành nguồn lực phù hợp để phát triển CPĐT trên cơ sở xác định mục

tiêu trọng tâm và ưu tiên đầu tư xây dựng CPĐT trong ngắn hạn và trung hạn;

rà soát, sắp xếp lại nguồn lực và huy động nguồn lực còn thiếu từ các nguồn,

kể cả xã hội hóa và vay thương mại. Theo đó, trong giai đoạn 2018-2020 có

quyết định cơ chế huy động vốn dành cho đầu tư CPĐT và cơ chế bảo đảm

thực hiện; giai đoạn 2021-2025 dành nguồn lực phù hợp để phát triển CPĐT

theo cơ chế được ban hành; cơ chế đầu tư CPĐT phải đảm bảo theo đầy đủ

các bước triển khai và vận hành; phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp

trong xây dựng và triển khai CPĐT; chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ

chuyên gia về giải pháp công nghệ và triển khai CPĐT tại các CQNN. Cụ thể

gồm: (i) Bảo đảm huy động mọi nguồn lực tài chính triển khai những nhiệm

vụ ưu tiên phát triển CPĐT giai đoạn 2018-2020, định hướng đến 2025; (ii)

Tiếp tục thực hiện các giải pháp để nâng cao chỉ số thành phần về hạ tầng và

nguồn nhân lực của Việt Nam theo phương pháp đánh giá CPĐT của Liên

hợp quốc, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế liên quan để cung cấp kịp

thời các số liệu liên quan; (iii) Chú trọng xây dựng chương trình, tổ chức đào

tạo, tập huấn cho các cán bộ, công chức, viên chức về CPĐT, khai thác sử

dụng các hệ thống thông tin, làm việc trên môi trường mạng, sử dụng dịch vụ

công trực tuyến mức độ 3, 4 (đối với người dân, doanh nghiệp); (iv) Nghiên

cứu, xây dựng cơ chế khuyến khích để thu hút nhân lực tham gia xây dựng,

phát triển CPĐT trong bộ máy nhà nước; (v) Tích cực triển khai chương trình

truyền thông để nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen hành vi, tạo sự đồng

thuận của người dân, doanh nghiệp về phát triển CPĐT; (vi) Thiết lập cơ chế

bảo đảm thực thi với mục tiêu, chỉ số đo lường, đánh giá kết quả cụ thể, cơ

chế theo dõi, giám sát, trách nhiệm giải trình, xử lý kịp thời vướng mắc, và

42

nguồn lực tài chính, con người để bảo đảm thực thi

2.2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách

Nhân tố bên ngoài

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam cũng như

những xu thế tích cực trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam

phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh

nghiệm quản lý, mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang hồi phục và khởi sắc sau giai đoạn

suy thoái; cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều

quốc gia trên thế giới là cơ hội cho các doanh nghiệp CNTT Việt Nam có thể

tiếp cận và chinh phục; điển hình trong số đó là thị trường gia công, lắp ráp

các sản phẩm công nghệ, thị trường dịch vụ CNTT (dịch vụ điện toán đám

mây, dịch vụ dữ liệu, dịch vụ nội dung số…).

Nhân tố bên trong

Quyết tâm mạnh mẽ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước của lãnh đạo các cấp, các ngành theo hướng nâng cao hàm lượng

khoa học công nghệ; cơ chế chính sách của Nhà nước cho ứng dụng CNTT

luôn được đổi mới theo hướng rút gọn, đơn giản hóa đã phần nào đáp ứng

được sự đa dạng, linh hoạt của thị trường CNTT, góp phần tạo ra những

chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế, xã hội nói chung, đồng thời

cũng là cơ sở quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển CNTT trong mọi

lĩnh vực, bao gồm kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn

lãnh thổ…

Tuy nhiên, còn nhiều nhân tố ảnh hưởng không tốt tới việc tổ chức thực

thi các chính sách ứng dụng CNTT như: Trình độ phát triển còn thấp, năng

lực cạnh tranh chưa được đánh giá cao, quá trình phát triển chưa có sự đột

phá, quy mô kinh tế nhỏ bé so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

43

Bên cạnh đó, tuy Việt Nam là một đất nước thống nhất về mặt địa lý, đa dạng

về tài nguyên thiên nhiên nhưng có địa hình phức tạp, sự phát triển giữa các

khu vực không đồng đều (vùng đồng bằng so với vùng núi, hải đảo), mức

sống, thu nhập, trình độ dân trí, lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất - kỹ thuật tại

các khu vực thành thị, nông thôn còn nhiều chênh lệch… cũng là những thách

thức về quản lý của các CQNN.

Ngoài ra, CQNN cũng như người dân, doanh nghiệp chưa thực sự có ý

thức đối với vấn đề bảo hộ bản quyền phần mềm, nhất là phần mềm được sản

xuất, gia công tại Việt Nam. Người dân, doanh nghiệp chưa có thói quen mua

phần mềm có bản quyền để sử dụng, thay vào đó, họ sử dụng các phần mềm đã

được “bẻ khóa”. Điều này vừa vi phạm nghiêm trọng Luật sở hữu trí tuệ, vừa gây

mất an toàn đối với các thiết bị máy vi tính hoặc thiết bị di động thông minh của

người dân, doanh nghiệp. Do đó, lãnh đạo các cấp, các ngành cần thực sự vào

cuộc, có những hoạt động mang tính tiên phong dẫn đầu trong việc tuyên truyền,

phổ biến cho người dân, doanh nghiệp khai thác sử dụng các phần mềm có bản

quyền

Một số nhân tố tiêu cực khác cũng ảnh hưởng tới chính sách ứng dụng

CNTT, đó là sự hạn chế về khả năng học và sử dụng ngoại ngữ; nhân lực

CNTT của Việt Nam thiếu kỹ năng làm việc chuyên nghiệp là thách thức lớn

khi tiếp cận thị trường quốc tế.

2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ

thông tin để xây dựng chính phủ điện tử trong các cơ quan nhà nước tại

Việt Nam

2.3.1 Kết quả triển khai các giải pháp, công cụ chính sách

- Về công tác chỉ đạo, điều hành

Theo số liệu thống kê của Văn phòng Chính phủ [12] Tính đến ngày

03/7/2017, 100% các bộ, cơ quan ngang bộ và 61/63 (còn TP Hồ Chí Minh và

Bà Rịa - Vũng Tàu) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập Ban

Chỉ đạo xây dựng CPĐT, chính quyền điện tử; 100% các bộ, ngành, địa

44

phương đã ban hành kế hoạch triển khai Nghị quyết 17/NQ-CP.

- Về xây dựng, hoàn thiện thể chế

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn

diện cho việc triển khai xây dựng CPĐT được Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ quan tâm chỉ đạo, các bộ, ngành tích cực thực hiện. Trong 6 tháng đầu

năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24

tháng 01 năm 2019 quy định về chế độ báo cáo của các cơ quan trong hệ

thống hành chính nhà nước; thông qua 02 đề nghị xây dựng Nghị định về

quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu (Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 13 tháng 3

năm 2019) và Nghị định về định danh và xác thực điện tử (Nghị quyết số

44/NQ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2019); thành viên Chính phủ đã cho ý kiến

về một số dự thảo Nghị định (quy định về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ

thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước; quy định chi tiết trình tự,

thủ tục áp dụng một số biện pháp bảo vệ an ninh mạng; quy định chi tiết một

số điều của Luật an ninh mạng); Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số

01/2019/TT-BNV quy định quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử

trong công tác văn thư, các chức năng cơ bản của hệ thống quản lý tài liệu

điện tử trong quá trình xử lý công việc của các cơ quan, tổ chức và Thông tư

số 02/2019/TT-BNV quy định tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào và yêu cầu

bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử.

Để tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư, thuê dịch vụ công nghệ thông tin

(CNTT), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 17/2019/QĐ-TTg

ngày 08 tháng 4 năm 2019 quy định về danh mục các gói thầu, nội dung mua

sắm nhằm duy trì hoạt động thường xuyên được áp dụng hình thức lựa chọn

nhà thầu trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu.

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ

trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ký Báo cáo số 107/BC-CP của Chính phủ

45

gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án

Luật Đầu tư công (sửa đổi), trong đó đề cập việc lập, triển khai dự án, hoạt

động ứng dụng CNTT thực hiện theo hình thức thuê dịch vụ.

Ngoài ra, để bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng CPĐT, Bộ

Thông tin và Truyền thông đang xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ và

Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sử dụng một phần kinh phí từ Quỹ Dịch

vụ viễn thông công ích Việt Nam cho việc phát triển CPĐT.

- Về xây dựng nền tảng công nghệ phát triển CPĐT

- Đối với nhiệm vụ xây dựng Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam (phiên

bản 2.0): hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang nghiên cứu, xây dựng

và sẽ trình số Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung Kiến trúc CPĐT, phiên

bản 2.0.

- Xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia

Văn phòng Chính phủ đã hoàn thành xây dựng Trục liên thông văn bản

quốc gia và được Thủ tướng Chính phủ bấm nút khai trương ngày 12 tháng 3

năm 2019 phục vụ việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa cơ quan trong hệ thống

hành chính nhà nước, Hệ thống này đang được nghiên cứu phát triển thành

nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, dự kiến đưa vào vận hành trong

tháng 12 năm 2019 theo chỉ đạo của Chính phủ.

- Xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia ưu tiên triển khai

Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư: Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Tư

pháp cấp khoảng 1,9 triệu số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai

sinh tại 43 tỉnh, thành phố trên cả nước; tiến hành cấp hơn 12 triệu căn cước

công dân tại 16 tỉnh, thành phố và đang xây dựng phần mềm phục vụ kết nối

hệ thống Căn cước công dân với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Đến nay, Bộ Công an đã thu thập thông tin được 80 triệu phiếu, đạt tỷ lệ 86%

46

và tổ chức scan được khoảng 25 triệu dữ liệu.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tập

trung số hóa toàn bộ dữ liệu của ngành tại trung ương, tiến hành rà soát, đồng

bộ, cấp mã định danh cho toàn bộ người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH),

bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Tính đến hết tháng 5

năm 2019, Cơ sở dữ liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang quản lý 14,4

triệu người tham gia BHXH bắt buộc và 363.000 người tham gia BHXH tự

nguyện; 12,87 triệu người tham gia BHTN; 84,48 triệu người tham gia

BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 89% dân số. Đây là nguồn dữ liệu thành phần cho

Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm để phục vụ việc chia sẻ, kết nối với các

Bộ, ngành, đơn vị trong tương lai.

Cơ sở dữ liệu Đất đai quốc gia: Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây

dựng Đề án tổng thể xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, dự kiến trình

Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11 năm 2019.

Cơ sở dữ liệu về Tài chính: Ngày 03 tháng 4 năm 2019, Bộ trưởng Bộ

Tài chính đã phê duyệt kiến trúc Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính (quyết

định số 585/QĐ-BTC) làm căn cứ để tiến hành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc

gia về Tài chính trên cơ sở tích hợp, tổng hợp dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu

chuyên ngành tài chính. Hiện đang tổ chức triển khai theo Quyết định này bảo

đảm việc đưa vào sử dụng chính thức trong năm 2020 theo đúng chỉ đạo của

Chính phủ tại Nghị quyết 17/NQ-CP.

Một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành đang hoàn thiện như quản lý thuế

(sẽ thực hiện cung cấp thông tin cho các đơn vị bên ngoài qua cổng thông tin

ngành thuê); quản lý kho bạc (đã cung cấp thông tin cho các đơn vị trong và

ngoài ngành Tài chính); quản lý hải quan (hỗ trợ ra quyết định nghiệp vụ

tăng cường đẩy mạnh trong công tác phân tích, báo cáo, tra cứu số liệu của

tất cả các đơn vị trong toàn ngành, hoàn thiện các chức năng theo yêu cầu).

47

Đang xây dựng các Đề án về không gian địa lý quốc gia, về tài nguyên và

môi trường, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 11

năm 2019.

- Nâng cao năng lực, chất lượng dịch vụ và mở rộng kết nối Mạng

truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, nhà nước:

Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai kịp thời kết nối Mạng

truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, nhà nước (TSLCD) đến các

đơn vị (100% các bộ, ngành, tỉnh, thành phố; 93,4% quận, huyện, thị xã);

nâng cấp băng thông, đảm bảo lưu lượng truyền tải không sử dụng vượt

ngưỡng 50% (kết nối đường trục 02 mặt phẳng tốc độ 1,2 Gbps, kết nối liên

tỉnh 50-400 Mbps) và sẵn sàng cung cấp dịch vụ IPv6. Đồng thời, triển khai

các biện pháp từng bước tăng cường an ninh bảo mật, bổ sung các kết nối dự

phòng, đăng ký cấp độ 5 an toàn thông tin cho mạng TSLCD cấp 1. Hiện

đang tiếp tục hoàn thiện thiết kế Mạng TSLCD đáp ứng triển khai các nhiệm

vụ CPĐT đến năm 2025; triển khai lộ trình mở rộng phạm vi phục vụ, hoàn

thành đến cấp xã trước năm 2025; nâng cấp Mạng TSLCD tạo thành mạng

“hội tụ” theo công nghệ chuyển mạch lõi thế hệ mới [11].

- Xây dựng các hệ thống thông tin đổi mới lề lối, phương thức làm việc,

phục vụ người dân, doanh nghiệp

Thiết lập Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính

phủ (e-Cabinet): Ngày 24 tháng 6 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã chính

thức khai trương Hệ thống e-Cabinet, đây chính là phương thức làm việc mới

của Chính phủ hướng tới Chính phủ không giấy tờ, hiện đại, chuyên nghiệp,

minh bạch, hiệu lực, hiệu quả hơn.

Triển khai gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống

hành chính nhà nước: Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Trục liên thông văn bản

quốc gia chính thức ra mắt phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử trong hệ thống

48

cơ quan hành chính nhà nước, có 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương

đã kết nối hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên hệ thống này. Từ ngày

12 tháng 3 năm 2019 đến ngày 26 tháng 6 năm 2019, đã có 54.114 văn bản

gửi và 156.185 văn bản nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia, có 93/95

cơ quan đã phản hồi từ 3 trạng thái trở lên, 83/95 đơn vị phản hồi từ 5 trạng

thái trở lên; 34 bộ, ngành, địa phương đã thực hiện kết nối liên thông đơn vị

cấp 2 có phát sinh gửi, nhận văn bản điện tử qua Trục liên thông văn bản quốc

gia; 06 đơn vị đã thực hiện kết nối liên thông đơn vị cấp 3 có phát sinh gửi,

nhận văn bản qua Trục liên thông (Cần Thơ, Bình Dương, Bình Thuận, Kiên

Giang, Lào Cai, Tiền Giang).

Hiện nay, 55/95 bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc nâng cấp

phần mềm quản lý văn bản và điều hành, 33/95 cơ quan đang thực hiện nâng

cấp và 7 cơ quan chưa có kế hoạch nâng cấp; cung cấp 157.000 chứng thư số

cho 86/93 bộ, ngành, địa phương và 314/431 lãnh đạo cấp bộ, cấp tỉnh, có

84/95 cơ quan đã tích hợp chữ ký số chuyên dùng Chính phủ; 68/95 bộ,

ngành, địa phương đã sử dụng máy chủ bảo mật riêng; 27/95 đơn vị đang sử

dụng máy chủ dùng chung do Văn phòng Chính phủ cung cấp [11].

Xây dựng Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và thiết lập Trung tâm

chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Văn phòng Chính

phủ đang phối hợp với đối tác xây dựng kiến trúc tổng thể của hệ thống và

các yêu cầu kỹ thuật, nghiệp vụ; khảo sát thông tin về tình hình thực hiện chế

độ báo cáo và hiện trạng ứng dụng công nghệ tại bộ, cơ quan, địa phương làm

căn cứ xây dựng hệ thống.

Xây dựng Hệ thống thông tin ngân sách và Kế toán nhà nước số: Bộ

Tài chính đang xây dựng dự thảo chiến lược phát triển và báo cáo Kiến trúc

tổng thể ứng dụng CNTT của Kho bạc Nhà nước là cơ sở nền tảng cho việc

nghiên cứu, đề xuất xây dựng và triển khai hệ thống thông tin Quản lý Ngân

49

sách và Kế toán nhà nước số.

Xây dựng Cổng Dịch vụ công quốc gia: Trên cơ sở Đề án đã được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 274/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3

năm 2019, Văn phòng Chính phủ đang thiết lập Cổng Dịch vụ công quốc gia

với 4 nội dung chính: (1) nâng cấp cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành

chính, (2) tích hợp dịch vụ công trực tuyến bảo đảm phục vụ người dân,

doanh nghiệp, (3) cung cấp nền tảng đăng nhập, thanh toán trong thực hiện

dịch vụ công trực tuyến, (4) nâng cấp hệ thống phản ánh, kiến nghị. Đến nay,

đã cơ bản hoàn thành nâng cấp Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính,

giải pháp xác thực tập trung và xây dựng danh mục các dịch vụ công thiết yếu

cho vòng đời của một con người, doanh nghiệp để triển khai trên Cổng Dịch

vụ công quốc gia. Dự kiến sẽ đưa vào vận hành chính thức trong tháng 11

năm 2019 bảo đảm theo các quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP.

Xây dựng, hoàn thiện Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa

điện tử cấp bộ, cấp tỉnh theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP,

Thông tư số 01/2018/TT-VPCP: Các bộ, ngành, địa phương đang triển khai

nâng cấp hệ thống này, trong đó có một số bộ, địa phương đã hoàn thành hoặc

đang thử nghiệm như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương,

Quảng Ninh, Đồng Nai, Tây Ninh…

Về thúc đẩy thanh toán điện tử, không dùng tiền mặt: Ngày 29 tháng 3

năm 2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 2198/NHNN-TT

chỉ đạo các ngân hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tích

cực triển khai áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến để cải tiến quy trình

nghiệp vụ, cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán chất lượng,

phù hợp nhu cầu của các tổ chức, cá nhân với chi phí hợp lý bảo đảm thanh

toán thuận tiện, nhanh chóng, an toàn đối với dịch vụ công; nghiên cứu có

giải pháp về mô hình kết nối phù hợp, hiệu quả với Cổng dịch vụ công quốc

50

gia, Hệ thống thông tin một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương nhằm

đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử đối với các khoản

phí, lệ phí dịch vụ công. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm

việc với một số ngân hàng thương mại (Vietcombank, Vietinbank, BIDV) và

Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam - Napas về thực trạng thanh

toán phí, lệ phí đối với dịch vụ công; các khó khăn, vướng mắc phát sinh và

đề xuất, kiến nghị các giải pháp tháo gỡ.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai ứng dụng

công nghệ mới làm cơ sở phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán hiện

đại, tiện ích; an toàn, bảo mật như: triển khai chuyển đổi thẻ nội địa từ thẻ từ

sang thẻ chip; chỉ đạo triển khai, áp dụng Tiêu chuẩn cơ sở QR Code trong

toàn hệ thống.

Chương trình nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, các giải pháp

tích hợp, ứng dụng, sản phẩm CNTT phục vụ xây dựng CPĐT hướng tới nền

kinh tế số, xã hội số dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới như trí

tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ

liệu lớn (Big Data), giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API)... được tiếp

tục triển khai. Đến thời điểm hiện tại, Chương trình đang thực hiện 27 nhiệm

vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản phẩm công nghệ thông

tin phục vụ phát triển CPĐT.

- Về việc xây dựng CPĐT gắn kết chặt chẽ với bảo đảm an toàn thông

tin, an ninh mạng, an ninh quốc gia, bảo vệ thông tin cá nhân

Về công tác tổ chức kiểm tra, đánh giá, giám sát, bảo đảm an toàn, an

ninh mạng cho các hệ thống thông tin phục vụ CPĐT: Tình hình tấn công

mạng tiếp tục gia tăng về quy mô và số lượng, nhất là các cuộc tấn công mạng

có chủ đích. Trong 5 tháng đầu năm 2019, Trung tâm Giám sát an toàn không

gian mạng quốc gia (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông) ghi nhận 2.654

cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam và phát hiện,

51

cảnh báo lây nhiễm mã độc trên 407 hệ thống thông tin của các CQNN, trong

đó có 36 hệ thống của các cơ quan Trung ương và 371 hệ thống của các địa

phương [11].

Ngày 07 tháng 6 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị

số 14/CT-TTg về việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm cải

thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ

chức đánh giá và công bố 02 sản phẩm phòng, chống phần mềm độc hại đáp

ứng Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính

phủ để khuyến nghị sử dụng trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.

Về công tác bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng: Nhằm đẩy mạnh công

tác phòng, chống và xử lý tình hình lây nhiễm mã độc, tấn công mạng gây lộ

lọt thông tin cá nhân của người dùng trên không gian mạng, Bộ Thông tin và

Truyền thông đã có Chỉ thị số 04/CT-BTTTT ngày 11 tháng 01 năm 2019 đề

nghị các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tăng cường phòng chống mã độc và

bảo vệ thông tin cá nhân trên không gian mạng.

- Về việc triển khai giải pháp liên thông giữa hệ thống chứng thực chữ

ký số công cộng và hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ:

Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ xây

dựng dự thảo Thông tư quy định về liên thông giữa hai hệ thống và gửi xin ý

kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương, đăng tải trên Cổng thông tin điện

tử. Hiện đang tổng hợp, tiếp thu các ý kiến góp ý.

2.3.2 Đánh giá sự tham gia của các chủ thể chính sách

- Văn phòng Chính phủ, cơ quan được giao nhiệm vụ thường trực Ủy

ban quốc gia CPĐT, thường trực Tổ công tác giúp việc Ủy ban, cùng với Bộ

Thông tin và Truyền thông là những “hạt nhân” quan trọng triển khai CPĐT.

Trong quá trình tổ chức triển khai các chính sách ứng dụng CNTT, Văn

phòng Chính phủ đã kịp thời hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, ngành, địa

52

phương như: hướng dẫn và đôn đốc việc kiện toàn các Ban chỉ đạo CPĐT,

Chính quyền điện tử tại các Bộ, ngành, địa phương; định kỳ hàng quý tổng

hợp báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP của các Bộ,

ngành, địa phương. Kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tháo

gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị quyết; hướng dẫn

các Bộ, ngành, địa phương tổ chức kết nối phần mềm văn bản tại các bộ, địa

phương với Trục liên thông văn bản điện tử quốc gia phục vụ gửi, nhận văn

bản điện tử giữa các CQNN. Thêm vào đó, trên cơ sở các nhiệm vụ được

giao, Văn phòng Chính phủ đã nghiên cứu, xây dựng và đưa vào vận hành

chính thức các nền tảng, hệ thống thông tin quan trọng: Trục liên thông văn

bản quốc gia; Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính

phủ (e-Cabinet); trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 274/QĐ-

TTg ngày 12 tháng 3 năm 2019 phê duyệt Đề án Cổng Dịch vụ công quốc gia.

- Bộ Thông tin và Truyền thông, với vai trò là cơ quan quản lý nhà

nước về ứng dụng CNTT, Bộ đã xây dựng để trình Thủ tướng Chính phủ ban

hành Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam phiên bản 2.0 để các Bộ, ngành, địa

phương làm cơ sở xây dựng Kiến trúc CPĐT, Chính quyền điện tử cấp Bộ,

tỉnh; ban hành các hướng dẫn, quy định, tiêu chuẩn quốc gia về kết nối, trao

đổi dữ liệu giữa các hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, tỉnh và Cổng

dịch vụ công quốc gia…

- Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử các Bộ, ngành, địa

phương được thành lập trên cơ sở kiện toàn Ban Chỉ đạo ứng dụng công nghệ

thông tin tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban

nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Bộ trưởng, Thủ trưởng

cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương làm Trưởng ban, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển

CPĐT, Chính quyền điện tử tại bộ, ngành, địa phương mình quản lý; đôn đốc

53

các cơ quan, đơn vị trực thuộc thực hiện các nhiệm vụ liên quan. Các Ban Chỉ

đạo đã xây dựng ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị quyết 17/NQ-CP

tại Bộ, cơ quan, địa phương trong đó nêu rõ thời hạn, sản phẩm cần hoàn

thành để làm cơ sở theo dõi, đôn đốc, đánh giá tình hình thực hiện; phối hợp

với các cơ quan truyền thông để tuyên truyền, phổ biến kịp thời các văn bản

chỉ đạo về lĩnh vực CNTT; Chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đối với các Ban Chỉ

đạo ứng dụng CNTT các cấp, các cơ quan Đảng chính quyền, đoàn thể triển

khai, thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng và phát triển CNTT.

- Đơn vị chuyên trách CNTT tại Bộ, cơ quan và Sở Thông tin và Truyền

thông các tỉnh, thành phố, là các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm thực thi

hoặc tổ chức thực thi các chính sách ứng dụng CNTT tại Bộ, cơ quan. Các cơ

quan, đơn vị này đã tích cực phát huy vai trò điều phối, tạo sự gắn kết giữa

các thành viên trong Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền điện tử các

Bộ, ngành, địa phương; kịp thời tổng hợp đầy đủ, toàn diện về tình hình, mức

độ ứng dụng CNTT của Bộ, cơ quan, địa phương; tổng kết đánh giá và đề

xuất cấp có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh các chính sách ứng dụng CNTT

để bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế.

2.2.4 Những tác động tích cực và hạn chế trong quá trình thực hiện

chính sách

a) Thuận lợi

Nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành trong

việc ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT đã có những chuyển biến tích cực;

Ủy ban Quốc gia về CPĐT, các Ban Chỉ đạo xây dựng CPĐT, Chính quyền

điện tử tại bộ, ngành, địa phương đã được thành lập, kiện toàn để trở thành

đầu mối thống nhất trong tổ chức thực hiện các chính sách theo Nghị quyết

17/NQ-CP cũng như những chính sách ứng dụng CNTT khác để xây dựng

CPĐT. Nhiều tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế giới – World Bank, Cơ quan phát

triển Pháp – AFD, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản – Jica) và nhiều quốc gia

54

tiên tiến có trình độ phát triển cao về CNTT (Pháp, Nga, Úc, Nhật Bản, Estonia,

Hàn Quốc…) đã tích cực nghiên cứu, hỗ trợ Việt Nam để ứng dụng CNTT, xây

dựng CPĐT.

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Uỷ

ban Quốc gia về CPĐT và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc

triển khai Nghị quyết 17/NQ-CP, huy động được sự vào cuộc của khu vực tư

nhân, hỗ trợ của quốc tế, những chuyên gia giỏi trong và ngoài nước, sau 3

tháng triển khai đã hoàn thành được 7/83 nhiệm vụ cụ thể, đạt được một số

kết quả tích cực như: Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ về xây

dựng CPĐT; cơ chế đầu tư, thuê dịch vụ công nghệ thông tin dần được tháo

gỡ; các hệ thống thông tin quan trọng được nghiên cứu, xây dựng khẩn trương.

Đến nay, đã vận hành được một số hệ thống có ý nghĩa trong triển khai CPĐT

như Trục liên thông văn bản quốc gia (khai trương và vận hành chính thức ngày

17 tháng 3 năm 2019) phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong

hệ thống thành chính nhà nước và Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công

việc của Chính phủ (khai trương và vận hành chính thức ngày 24 tháng 6 năm

2019), các nội dung lớn của Cổng Dịch vụ công quốc gia cũng đang được thực

hiện; công tác bảo đảm an toàn, an ninh được nhận thức đẩy đủ hơn và đã có

những cải thiện tích cực.

b) Hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai CPĐT theo Nghị

quyết số 17/NQ-CP còn một số tồn tại, hạn chế như sau:

Về những nội dung chính sách ban hành tại Nghị quyết số 17/NQ-CP

- Các chính sách ban hành tại Nghị quyết số 17/NQ-CP được tổ chức

theo các nhiệm vụ rất cụ thể. Tuy nhiên, số lượng nhiệm vụ mà các Bộ,

ngành, địa phương cần thực hiện rất nhiều, thời hạn gấp (83 nhiệm vụ thực

hiện trong 02 năm (2019 – 2020).

- Việc phân công nhiệm vụ thực hiện một số nhiệm vụ chưa hợp lý,

55

chưa căn cứ theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan.

Về việc triển khai thực hiện chính sách của các Bộ, ngành, địa phương

- Một số nhiệm vụ triển khai chưa đáp ứng tiến độ theo chỉ đạo của

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, còn tình trạng lùi thời hạn, chưa chủ động

trong thực hiện.

- Tiến độ xây dựng một số cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống thông tin

còn chậm hoặc gặp khó khăn trong triển khai; một số hệ thống đã triển khai

nhưng việc khai thác, sử dụng chưa thật sự hiệu quả; các cơ sở dữ liệu còn rời

rạc, chưa được kết nối, chia sẻ dữ liệu. Cổng Dịch vụ công, Hệ thống thông

tin một cửa điện tử tại một số địa phương chưa bảo đảm các chức năng theo

quy định.

- Việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang

nặng tính thủ công, giấy tờ tại một số địa phương; số lượng dịch vụ công trực

tuyến nhiều nhưng tỷ lệ phát sinh hồ sơ thấp, kém hiệu quả, có dịch vụ không

phát sinh hồ sơ gây lãng phí. Nhiều thủ tục hành chính không đủ điều kiện để

triển khai áp dụng trực tuyến mức độ 3, 4 nhưng vẫn được xây dựng.

- Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin đã được cơ quan, tổ chức

quan tâm nhưng kết quả còn hạn chế. Lực lượng chuyên trách còn mỏng, trình

độ, năng lực chuyên môn chưa cao, thiếu chuyên nghiệp.

- Nguyên nhân:

Nguyên nhân khách quan:

+ Số lượng nhiệm vụ Chính phủ giao các Bộ, ngành, địa phương là rất

lớn, tuy nhiên thời hạn hoàn thành lại rất gấp, chẳng hạn, Bộ Thông tin và

Truyền thông được giao xây dựng 02 Nghị định, trình Chính phủ trong tháng

9 năm 2019. Tính từ thời điểm Nghị quyết được ban hành (17 tháng 3 năm

2019) thì Bộ Thông tin và Truyền thông phải hoàn thành tất cả các thủ tục

56

theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (quy

trình trình lập đề nghị xây dựng chính sách và xây dựng dự thảo Nghị định

theo chính sách đã được phê duyệt) trong thời gian 06 tháng;

+ Cơ chế, chính sách về đầu tư ứng dụng CNTT còn nhiều bất cập và

chưa được tháo gỡ dẫn đến việc triển khai các phần mềm ứng dụng CNTT để

xây dựng CPĐT tại các bộ, ngành, địa phương còn chậm; ngân sách nhà nước

chưa được bố trí kịp thời theo tiến độ của các dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia quan

trọng, nền tảng cho xây dựng, phát triển CPĐT (Cơ sở dữ liệu quốc gia mới chỉ

được bố trí khoảng 1/10 số vốn trên tổng số vốn dự kiến; Cơ sở dữ liệu hộ tịch

cũng chỉ được bố trí vốn theo kinh phí sự nghiệp hàng năm từ nguồn vốn ngân

sách nhà nước cấp cho Bộ Tư pháp nhưng chưa được bố trí vốn đầy đủ từ nguồn

kinh phí đầu tư theo quy định….);

+ Người dân, doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và tích cực tham gia

vào các dịch vụ công trực tuyến đã được cung cấp, một phần nguyên nhân

khách quan là do trình độ dân trí còn hạn chế, điều kiện kinh tế, xã hội của

nhiều tỉnh, thành phố chưa được tốt. Tuy nhiên, việc cung cấp dịch vụ công

trực tuyến của CQNN còn nhiều bất cập như: các dịch vụ được cung cấp chưa

thực sự thiết yếu đối với người dân, doanh nghiệp; nhiều dịch vụ có ít hồ sơ

tiếp nhận thông qua cách thức trực tiếp tại trụ sở cơ quan giải quyết TTHC

những vẫn được cung cấp trực tuyến trên Internet; giao diện các phần mềm,

cổng dịch vụ công của các Bộ, ngành, địa phương tương đối phức tạp, không

thuận tiện, thân thiện với mặt bằng dân trí của người dân nói chung. Số liệu

thống kê cụ thể của Văn phòng Chính phủ cho thấy, tính đến quý II năm

2019, tại địa phương đã cung cấp 43.369 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,

mức độ 4, trong đó có 6.575 dịch vụ có phát sinh hồ sơ trực tuyến (đạt tỷ lệ

15,16%), còn tại các Bộ, ngành là 1.758 dịch vụ, trong đó có 506 dịch vụ có

57

phát sinh hồ sơ trực tuyến (đạt tỷ lệ 28,78%) [12];

+ Nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho ứng dụng CNTT còn hạn chế,

tuy nhiên, mức độ xã hội hóa đầu tư ứng dụng CNTT chưa cao, có ít doanh

nghiệp tham gia cùng đầu tư với nhà nước (theo mô hình PPP) để phát triển

CNTT.

Nguyên nhân chủ quan:

+ Các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự chủ động trong triển khai

nhiệm vụ được giao, một phần là do tâm lý ngại triển khai, ứng dụng CNTT

hoặc lo ngại việc triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT sẽ ảnh hưởng

tới nhiều lợi ích của họ, thêm vào đó, các công cụ theo dõi, đánh giá mức độ

hoàn thành nhiệm vụ của các Bộ, ngành, địa phương cũng chưa được ban

hành làm cơ sở cho việc khen thưởng, xử phạt đối với cán bộ, công chức, viên

chức hoàn thành tốt hoặc không hoàn thành nhiệm vụ;

+ Việc ban hành cũng như tổ chức triển khai các chính sách ứng dụng

CNTT thiếu tính tổng thể, đồng bộ. Kể từ khi Bộ Thông tin và Truyền thông

ban hành Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam năm 2015, đến nay đã là 04 năm,

tuy nhiên các Bộ, ngành, địa phương vẫn chưa nhận thức được sự cần thiết, ý

nghĩ của việc ban hành Khung kiến trúc này, dẫn đến tình trạng triển khai còn

trồng chéo, dàn trải. Chẳng hạn: một địa phương có nhiều cổng thông tin điện

tử, hệ thống thông tin một cửa điện tử (do cấp tỉnh hoặc một số huyện trên địa

bàn tỉnh chủ động xây dựng) nhưng các cổng thông tin, hệ thống thông tin

này không có sự kết nối, chia sẻ dữ liệu với nhau;

+ Cơ chế, chính sách cho hoạt động đầu tư ứng dụng CNTT, đặc biệt là

cơ chế xã hội hóa đầu tư ứng dụng CNTT chưa rõ ràng, khó áp dụng.

+ Sự phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện các chính sách giữa

các Bộ, cơ quan, địa phương còn chưa hợp lý. Chẳng hạn, nhiều nhiệm vụ

mang tính chất kỹ thuật, công nghệ, liên quan nhiều đến chức năng nhiệm vụ

58

của Bộ Thông tin và Truyền thông (xây dựng Đề án giải pháp kết nối, chia sẻ

dữ liệu và tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin tại các bộ, ngành, địa

phương) hoặc Bộ Tư pháp (Xây dựng Đề án về Hệ thống tham vấn chính

sách). Việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giúp việc Trưởng ban chỉ đạo

CPĐT và Chính quyền điện tử tại Bộ cơ quan, ngang Bộ và địa phương tổ

chức thực hiện nhiệm vụ ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT cần phải được

giao cho cơ quan chuyên trách về CNTT, Sở Thông tin và Truyền thông các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay cho Văn phòng các Bộ, cơ quan,

59

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh như hiện nay.

Tiểu kết chương

Trong Chương 2, Luận văn khái quát được thực trạng chính sách ứng

dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt Nam, trong đó, tập trung vào các

nhóm chính sách được quy định tại Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ,

đồng thời đã thống kê khá đầy đủ những kết quả cụ thể của việc thực hiện

chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT của các CQNN tại Việt Nam.

Với số liệu khảo sát từ thực tiễn triển khai của các Bộ, ngành, địa

phương, Luận văn tổng kết, phân tích, đánh giá để xác định rõ thực trạng tổ

chức thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Việt Nam.

Quá trình phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách được tác

giả vận dụng dựa trên khung quy trình đánh giá chính sách công. Qua đó,

Luận văn đã chỉ ra những nhân tố tác động đến việc tổ chức thực hiện chính

sách, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này

trong quá trình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

nhằm mục đích đưa ra những luận điểm cơ bản phục vụ cho nội dung nghiên

cứu, đề xuất các giải pháp khắc phục trong chương tiếp theo. Do đó, Chương

3 sẽ có nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện thực

trạng, đẩy nhanh tiến độ triển khai chính sách ứng dụng, phát triển CNTT để

xây dựng CPĐT tại Việt Nam theo những mục tiêu nghiên cứu như đã nêu

trên, cùng với định hướng mục tiêu triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng

60

CPĐT trong thời gian tới.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG DỤNG

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

3.1. Các giải pháp

Thông qua việc phân tích thực trạng ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT trong các CQNN hiện nay tại Việt Nam cho thấy quá trình triển khai

còn nhiều vướng mắc, bất cập, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, để

đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng

CPĐT trong thời gian tới cần phải tiến hành một số giải pháp sau:

(1) Xây dựng, hoàn thiện kế hoạch triển khai thực hiện các nhóm chính

sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT;

(2) Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân,

doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

(3) Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong thực

hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT.

(4) Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT.

(5) Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết.

3.2. Nội dung giải pháp

3.2.1 Xây dựng, hoàn thiện Kế hoạch triển khai thực hiện các nhóm

chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

Như đã phân tích tại Chương 2, để khắc phục những tồn tại, hạn chế

trong việc phân bổ các nhiệm vụ, nguồn lực thực hiện chính sách, đồng thời

bổ sung việc kiểm tra, đôn đốc tình hình, kết quả thực hiện chính sách, Kế

hoạch triển khai thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

61

hiện nay cần phải được hoàn thiện theo hướng sau:

(i) Điều chỉnh thời hạn hoàn thành các nhóm nhiệu vụ cho phù hợp với

tình hình thực tiễn. Các nhóm nhiệm vụ cần điều chỉnh là:

- Xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 06

tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ

thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Quyết định số

80/2014/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy

định thí điểm về thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong CQNN, hoàn thành

trong tháng 3 năm 2019. Xây dựng các văn bản hướng dẫn về phương pháp

xác định chi phí thuê dịch vụ công nghệ thông tin, mẫu hợp đồng thuê dịch vụ

công nghệ thông tin và văn bản hướng dẫn xác định đơn giá nhân công trong

quản lý chi phí đầu tư công nghệ thông tin, phù hợp với thực tế và đặc thù

ngành công nghệ thông tin, hoàn thành trong tháng 7 năm 2019 (điểm a khoản

1 Phần IV Nghị quyết số 17/NQ-CP).

Thời hạn đề xuất điều chỉnh: Bộ Thông tin và Truyền thông trình Chính

phủ ban hành trong tháng 11 năm 2019, vì Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư

công (sửa đổi), có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2020. Luật này là căn

cứ pháp lý quan trọng, nền tảng của Nghị định nêu trên. Do đó, cần điều

chỉnh thời hạn trình Chính phủ để bảo đảm Nghị định sẽ có hiệu lực đồng thời

cùng Luật đầu tư công (sửa đổi).

- Các Nghị định có thời hạn trình Chính phủ trong tháng 9, tháng 10 năm

2019 như: Nghị định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số; Nghị định về xác

thực, định danh điện tử; Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Nghị định quy

định Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm… Thời hạn đề xuất cần điều chỉnh:

tháng 12 năm 2019 hoặc trong Quý I năm 2020, vì các Nghị định này nếu

thực hiện theo quy định hiện hành của Luật ban hành quy phạm pháp luật

năm 2015 thì cần tối thiểu 9-12 tháng để bảo đảm quy trình, thủ tục cũng như

62

chất lượng của Dự thảo;

- Các nhóm nhiệm vụ khác tại khoản 1 Phần IV Nghị quyết số 17/NQ-CP

(từ điểm n đến điểm v), bao gồm: Xây dựng Đề án Cơ sở dữ liệu cán bộ, công

chức, viên chức, hoàn thành trong tháng 4 năm 2019; xây dựng Đề án thực

hiện nhiệm vụ lưu trữ tài liệu điện tử của các CQNN, hoàn thành trong tháng

5 năm 2019; xây dựng Đề án triển khai các hệ thống bảo vệ thông tin thuộc

phạm vi bí mật nhà nước dùng mật mã đáp ứng yêu cầu triển khai CPĐT,

hoàn thành trong tháng 7 năm 2019; xây dựng Đề án bảo đảm an ninh mạng

trong xây dựng và phát triển CPĐT, hoàn thành trong tháng 8 năm 2019; xây

dựng các văn bản hướng dẫn Luật An ninh mạng theo kế hoạch được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt; nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ

phương án đẩy mạnh việc cấp chứng thư số cho người dân, doanh nghiệp theo

hướng giảm chi phí cấp và duy trì hoạt động chứng thư số để khuyến khích sử

dụng trong các giao dịch điện tử, hoàn thành trong tháng 6 năm 2019; nghiên

cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về việc sử dụng các thiết

bị, máy móc đối với các hệ thống thông tin CPĐT để bảo đảm an toàn thông

tin mạng, hoàn thành trong tháng 6 năm 2019; nghiên cứu, đề xuất Chính phủ,

Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về sử dụng phần mềm có bản quyền

(hệ điều hành, các phần mềm soạn thảo văn bản...) khi mua sắm máy tính và

tỷ lệ phần trăm kinh phí dành cho duy trì cập nhật phần mềm, bảo đảm an

toàn thông tin cho các hệ thống thông tin được đầu tư, hoàn thành trong tháng

8 năm 2019; nghiên cứu, xây dựng bộ mã định danh điện tử của các cơ quan,

tổ chức thống nhất theo tiêu chuẩn quốc tế phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu của

tất cả các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, hoàn thành trong tháng 6 năm

2019.

Những nhóm nhiệm vụ này liên quan đến hoạt động xây dựng các Đề án

lớn để trình Thủ tướng Chính phủ nên các Bộ, cơ quan cần nhiều thời gian,

63

nguồn lực để khảo sát, đánh giá hiện trạng, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp

thực sự hiệu quả. Do đó, thời hạn hoàn thành cần được điều chỉnh lại, trong

khoảng từ tháng 12 năm 2019 đến hết Quý II năm 2020 để bảo đảm tính khả thi;

(ii) Bổ sung các nguồn lực (tài chính, nhân lực) cần đáp ứng để tổ chức

triển khai thực hiện các nhóm chính sách

Để thực hiện hiệu quả các chính sách, các Bộ, ngành, địa phương cần

quan tâm đến việc tổ chức, bảo đảm các nguồn lực (tài chính, nhân lực) thực

thi chính sách như:

- Lập kế hoạch sử dụng nhân sự từ các cơ quan chuyên môn, nhân sự

chuyên trách CNTT tại các Bộ, ngành, địa phương; phân công công việc cụ

thể rõ ràng gắn với trách nhiệm của từng cán bộ, công chức, viên chức;

- Huy động các chuyên gia trong nước và quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng

CNTT để xây dựng CPĐT; các doanh nghiệp CNTT trong phạm vi cả

nước…;

- Hàng năm, lập kế hoạch bố trí đủ nguồn vốn ngân sách nhà nước (nguồn

chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) để thực hiện chính sách. Việc xây

dựng kế hoạch bố trí vốn cần bám sát vào Kế hoạch tổng thể triển khai ứng

dụng CNTT để xây dựng CPĐT tại Bộ, cơ quan, địa phương;

- Bổ sung kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách, gồm kiểm

tra định kỳ, đột xuất, theo chuyên đề (về khai thác, sử dụng văn bản điện tử;

về rà soát, lựa chọn, cung cấp dịch vụ công trực tuyến…). Kế hoạch kiểm tra,

đôn đốc việc thực thi chính sách có thể lồng ghép chung với các Kế hoạch

kiểm tra chuyên ngành (kiểm tra cải cách hành chính, kiểm tra ứng dụng

CNTT…) để bảo đảm tính hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra cần được

thực hiện kỹ, thực chất, tránh qua loa, hình thức. Chẳng hạn: việc kiểm tra,

đôn đốc tình hình xây dựng các phần mềm, hệ thống thông tin cần phải được

kiểm tra thông qua đăng nhập, thao tác trực tiếp trên phần mềm để đánh giá

64

hiệu năng, mức độ đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ của người dụng. Kết quả kiểm

tra sau đó cần được công bố tới cơ quan, tổ chức được kiểm tra; những nhiệm

vụ chưa hoàn thành hoặc hoàn thành chưa tốt cần được tiếp tục kiểm tra trong

những lần tiếp theo.

3.2.2 Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người

dân, doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

Trên thực tế, người dân, doanh nghiệp chưa hiểu rõ và chưa thực sự mặn

mà với kết quả thực hiện các chính sách về ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT của các CQNN các cấp. Do đó, CQNN cần thực hiện những giải pháp

sau:

- Xây dựng các kế hoạch truyền thông, tuyên truyền về cơ chế, chính sách

của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực CNTT nói chung, trong đó trọng tâm là

ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT; về sản phẩm ứng dụng CNTT đã và

đang được Bộ, cơ quan, triển khai cho người dân, doanh nghiệp, trong đó,

nhấn mạnh những lợi ích mang lại khi người dân, doanh nghiệp sử dụng, khai

thác các sản phẩm, dịch vụ CNTT do CQNN cung cấp.

- Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí để chủ động

cung cấp thông tin, bài viết tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp

- Bố trí cán bộ, công chức, viên chức hướng dẫn người dân, doanh nghiệp

thực hiện TTHC tại cơ quan tiếp nhận, giải quyết TTHC hoặc thông qua cổng

dịch vụ công trực tuyến; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách, kết quả

ứng dụng CNTT của Bộ, cơ quan mình.

3.2.3 Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong

thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

Như đã phân tích tại Chương II, một số nhiệm vụ hiện chưa được phân

công theo đúng chức năng của các Bộ, cơ quan, địa phương cần được rà soát,

điều chỉnh để bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các cơ

65

quan này hoặc các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Đề xuất điều chuyển nhiệm vụ

Thường trực Tổ công tác giúp việc Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT; giúp

việc Trưởng Ban chỉ đạo CPĐT, chính quyền điện tử lần lượt từ Văn phòng

Chính phủ, Văn phòng các Bộ, cơ quan, Văn phòng Ủy ban nhân dân, tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương cho Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan

chuyên trách CNTT tại Bộ, cơ quan và Sở Thông tin và Truyền thông các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

3.2.4 Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng

Chính phủ điện tử.

Tăng cường giám sát, theo dõi để đôn đốc tình hình thực hiện các chính

sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT theo nguyên tắc: Tổ công tác giúp

việc Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT theo dõi, đôn đốc tình hình thực hiện

chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong cả nước. Bộ phận

thường trực các Ban chỉ đạo tại Bộ, cơ quan địa phương đôn đốc tình hình

thực hiện tại Bộ, cơ quan, địa phương mình. Tổ công tác, Bộ phận thường các

Bộ, cơ quan chịu trách nhiệm trực Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CPĐT,

Trưởng Ban chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương.

Định kỳ hàng quý, cơ quan Thường trực tổ công tác giúp việc Chủ tịch Ủy

ban quốc gia về CPĐT; Ban chỉ đạo xây dựng CPĐT, chính quyền điện tử

tổng hợp tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết để báo

cáo Trưởng ban hoặc Chủ tịch Ủy ban.

3.2.5 Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết

Sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình thực hiện chính sách để kịp thời báo

cáo cấp có thẩm quyền có những chỉ đạo, điều chỉnh phù hợp. Việc sơ kết

(hoặc tổng kết) có thể được thực hiện tại thời điểm tháng 11 năm 2019 để

đánh giá tình hình thực hiện chính sách trong năm 2019 và đề xuất phương án

triển khai trong các năm tiếp theo. Các vấn đề cần được xem xét, đánh giá

66

tổng thể bao gồm:

- Việc chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách ứng dụng CNTT để xây

dựng CPĐT của lãnh đạo các cấp, các ngành cũng như sự tham gia của các

chủ thể chính sách khác;

- Tình hình, kết quả thực thi chính sách của các Bộ, cơ quan địa phương,

trong đó, tập trung đánh giá kỹ những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển

khai để kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền những biện pháp điều chỉnh;

- Sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, chính trị

- xã hội trong quá trình thực thi chính sách.

3.3 Kiến nghị đối với các CQNN có thẩm quyền

3.3.1 Kiến nghị Chính phủ

- Chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện kế hoạch triển khai thực hiện các

nhóm chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT Nghị quyết số 17/NQ-

CP như đã nêu tại Giải pháp 1(bao gồm: Điều chỉnh thời hạn hoàn thành các

nhóm nhiệu vụ cho phù hợp với tình hình thực tiễn; bổ sung các nguồn lực về

tài chính và nhân lực cần đáp ứng để tổ chức triển khai thực hiện các nhóm

chính sách);

- Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền,

nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp về các chính sách ứng dụng

CNTT để xây dựng CPĐT (Giải pháp 2);

- Điều chỉnh việc phân công, phối hợp giữa các Bộ, cơ quan trong thực

hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT (Giải pháp 3).

3.3.2 Kiến nghị Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử

- Đôn đốc thực hiện các chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT

(Giải pháp 4).

67

- Tổ chức đánh giá, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết (Giải pháp 3).

3.3.3 Kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương

- Tập trung nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số

17/NQ-CP, bảo đảm hoàn thành đầy đủ, chất lượng các nhiệm vụ được giao;

- Tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng

dụng CNTT, xây dựng CPĐT nói chung, các chính sách ban hành tại Nghị

quyết số 17/NQ-CP nói riêng;

- Kịp thời kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các khó khăn,

68

vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.

Tiểu kết chương

Nếu như Chương 2 của Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực

trạng, những mặt hạn chế tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân, xem xét những yếu tố

ảnh hưởng quá trình triển khai chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng

CPĐT tại Việt Nam thì Chương 3 tập trung đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Các giải pháp được đề xuất tại

Chương này chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy những

thành tựu và kết quả đã đạt được để thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng

CNTT, xây dựng CPĐT trong thời gian tới. Ngoài ra, việc triển khai đồng

bộ các giải pháp của Luận văn này, kết hợp với đầu tư nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực gắn với hoàn thiện cơ chế chính sách góp phần thúc đẩy

hoạt động ứng dụng CNTT nói chung, xây dựng CPĐT nói riêng. Do vậy

các giải pháp này nếu được thực hiện tốt sẽ thúc đẩy mạnh mẽ chính sách

69

ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT từ thực tiễn Việt Nam.

KẾT LUẬN

Như đã đặt vấn đề ngay từ đầu Luận văn, trong bối cảnh Việt Nam

ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện

nay, cùng với đó là những xu thế mới về khoa học, công nghệ không chỉ tạo

ra áp lực cạnh tranh, mà nó còn tạo ra sức ép rất lớn đối với các CQNN phải

thực sự hành động để những sự thay đổi phù hợp. Nhiều chính sách cải cách

cần phải được thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ, trong đó cải cách

hành chính, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý, nâng cao trách nhiệm và chất

lượng phục vụ của đội ngũ các bộ, công chức, viên chức thông qua khai thác,

sử dụng các ứng dụng CNTT vào các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ tại

các cơ quan, đơn vị, là yêu cầu cấp thiết hện nay. Việc triển khai thành công

chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT trong các CQNN là rất khó

khăn, do nhận thức của hầu hết cán bộ, công chức, viên chức chậm chuyển

biến, thói quen làm việc với văn bản giấy tờ, việc tổ chức thực thi chính sách

còn nhiều bất cập, hạn chế. Vì vậy đề tài “Thực hiện chính sách ứng dụng

công nghệ thông tin để xây dựng CPĐT tại Việt Nam” mong muốn sử dụng

kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình công tác, kết hợp với kiến thức được

đào tạo tại Nhà trường cùng với quá trình nghiên cứu của tác giả làm cơ sở để

đề xuất những giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao, đồng thời thúc đẩy quá

trình thực hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong các

CQNN tại Việt Nam, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng

lực cạnh tranh quốc gia…

Dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với các kết quả từ thực tiễn cùng những

nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực thi chính sách, Luận văn

đã thực hiện được một số nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thực hiện chính sách

70

ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT; nhận diện, đánh giá và phân tích những

yếu tố ảnh hưởng (cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực) đến quá trình tổ chức thực

hiện chính sách ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT ở Việt Nam;

- Nghiên cứu, phân tích thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, đối chiếu với

những định hướng triển khai ứng dụng CNTT để xây dựng CPĐT trong thời

gian tới của Chính phủ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện

thành công các nhiệm vụ chính sách, đẩy nhanh quá trình thực thi chính sách,

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các CQNN các cấp, gắn kết chặt

chẽ quá trình thực hiện cải cách hành chính với xây dựng CPĐT.

Ngoài yếu tố triển khai đồng bộ các giải pháp thì một số vấn đề quan

trọng cần được các cấp, các ngành quan tâm đến để có thể tổ chức triển khai

chính sách ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT một cách có hiệu quả, đó là:

nhận thức và sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo, quản lý; sự phân công nhiệm

vụ cụ thể, rõ ràng, theo đúng chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành,

địa phương; sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trong sử dụng, khai

thác các ứng dụng CNTT do CQNN cung cấp. Luận văn đã nêu được một số

biện pháp cụ thể đối với từng nhóm vấn đề như trên.

Với thời lượng nghiên cứu, kiến thức trong một số lĩnh vực còn hạn chế

nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Trong thời

gian tới, nếu có cơ hội tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn về vấn

đề này và hy vọng sẽ xây dựng được một tài liệu chuẩn cho các tổ chức,

doanh nghiệp, CQNN tham khảo, sử dụng trong quá trình tổ chức, triển khai

ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

71

đại hóa đất nước…

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Đẩy mạnh ứng dụng,

phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội

nhập quốc tế”, ngày 01/7/2014.

2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015). Khung kiến trúc Chính phủ điện tử

Việt Nam, phiên bản 1.0.

3. Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Tin học Việt Nam (2017). Báo cáo

đánh giá, xếp hạng mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT -

Truyền thông Việt Nam năm 2017.

4. Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin Bộ Công Thương (2015),

Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2015, Hà Nội.

5. Trần Việt Cường (2014), Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng kiến trúc

hệ thống thông tin quốc gia, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền

thông, tháng 9/2014 (kỳ 2), tr.19-20.

6. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP năm 2015 về Chính phủ điện

tử

7. Chính phủ (2017), Nghị định số 17/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và

Truyền thông

8. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 49/CP về phát triển công nghệ thông tin

ở nước ta trong những năm 90, ngày 4/8/1993.

9. Chính phủ (2007), Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ

thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, ngày 10/4/2007.

10. Chính phủ (2011), Nghị định số 43/2011/NĐ-CP quy định về việc cung

cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc

72

cổng thông tin điện tử của CQNN, ngày 13/6/2011.

11. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo số 5833/VPCP-KSTT về tình hình triển

khai, kết quả thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải

pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định

hướng đến 2025, ngày 03/7/2019.

12. Thu Hà (2015), 6 bài học triển khai thành công tin học hóa trong các

CQNN, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền thông, tháng 01/2015 (kỳ

2), tr.29-32.

13. Đỗ Phú Hải, Phó trưởng khoa Chính sách công, Viện Hàn lâm KHXHVN

(2012), Bài giảng chính sách công và phân tích chính sách công.

14. Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

15. Đặng Hữu (2002), Tổng quan sự phát triển kinh tế tri thức của một số

nước trên thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đặng Hữu (2005), Công nghệ thông tin - mũi nhọn đột phá đưa loài người

vào thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đinh Hoàng Long (2011), "Hiện trạng, nhu cầu và thách thức ứng dụng

công nghệ thông tin, phát triển chính phủ điện tử tại Việt Nam", Cục ứng

dụng công nghệ thông tin - Bộ Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

18. Đinh Hoàng Long (2011), "Quá trình hình thành và xây dựng cơ sở pháp

lý, chính sách nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin phát triển chính

phủ điện tử tại Việt Nam", Cục ứng dụng công nghệ thông tin - Bộ Thông

tin và Truyền thông, Hà Nội.

19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Công nghệ

thông tin, ngày 29/6/2006.

20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật giao dịch điện

73

tử, ngày 29/11/2005.

21. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 15/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng

văn bản điện tử trong hoạt động của CQNN, ngày 22/5/2012.

22. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1819/QĐ-TTg phê duyệt Chương

trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ

quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, ngày 26/10/2015.

23. Võ Khánh Vinh, Viện Hàn lâm KHXHVN (2012), bài giảng Tổng quan

môn học Chính sách công.

24. Liên hiệp quốc, Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử - UN E-Government

Survey (2014, 2016).

25. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c

#cite_note-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_THKTSG-2

74

26. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_chia_s%E1%BA%BB