VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ HIẾU XUYÊN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ HIẾU XUYÊN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ TUYẾT
HÀ NỘI, 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất
nước nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi
tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế với nhiều
biện pháp thực thi phù hợp đã góp phần phát huy được nguồn lực con người trong
sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng kéo theo nhiều thách thức, mặt trái của
nền kinh tế thị trường, như: ô nhiễm môi trường, gia tăng khoảng cách giàu nghèo
giữa các vùng, lãnh thổ, nhất là khu vực có nguồn lực hạn chế, như: nông thôn,
vùng sâu, vùng xa. Khu vực nông thôn Việt Nam nơi sinh sống của gần 70% dân số
với phương thức canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, nhưng đời sống dân cư còn
gặp nhiều khó khăn, dẫn đến các áp lực làm ảnh hưởng đến quá trình ổn định và
phát triển chung.
Để giải quyết những thách thức nêu trên, từng bước đảm bảo tính công bằng
giữa các khu vực lãnh thổ. Đảng và Nhà nước đã ban hành, thực thi nhiều chủ
trương, giải pháp thúc đẩy các cơ hội phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống dân
cư, nhất là các khu vực khó khăn về nguồn lực. Một trong những chủ trương mang
tính bao trùm, tạo động lực rút ngắn khoảng cách giữa khu vực đô thị - nông thôn
trên cơ sở phát huy nguồn nội lực, kết hợp với hỗ trợ từ trung ương để phát triển, đó
là “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” – chương trình thể
hiện các mục tiêu trụ cột của phát triển bền vững, gồm: kinh tế - xã hội – môi trường
trong bối cảnh triển khai, lồng ghép các chính sách chung; đồng thời, thể hiện tính
riêng, đặc thù của khu vực nông thôn thông qua các tiêu chí thành phần; trong đó
tiêu chí thứ 17 - tiêu chí về môi trường và an toàn thực phẩm với mục tiêu bảo vệ
môi trường sinh thái, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường khu vực nông thôn
và đảm bảo an toàn thựcphẩm đã được lồng ghép thực hiện đồng thời.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới, tiêu chí này gặp
nhiều khó khăn, bất cập. Có thể nói đây là một tiêu chí khó và thiếu tính bền vững
2
với nhiều nội dung cần thực hiện để đạt theo yêu cầu đề ra, trong khi ô nhiễm môi
trường nông thôn đang ngày càng nghiêm trọng, trở thànhvấn đề bức xúc của xã hội
và cộng đồng dân cư mà nguyên nhân trước hết và chủ yếu là do ý thức, tập quán
lạc hậu, kết hợp với các phương thức canh tác chưa phù hợp, mang tính “hủy diệt”
của người dân. Những vấn đề mang tính nổi cộm, đáng chú ý liên quan đến ô nhiễm
môi trường nông thôn, gồm: ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ sinh hoạt và
hoạt động sản xuất nông nghiệp; ô nhiễm môi trường không khí từ các làng nghề thủ
công, hoạt động chăn nuôi, thói quen đốt rác...; chất thải rắn chưa được thu gom và
xử lý triệt để; việc sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, nuôi trồng thuỷ sản không
đúng qui định...
Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện hiệu quả các tiêu chí đã đặt ra, nhất là tiêu
chí về môi trường đòi hỏi phải có những nghiên cứu lý luận, tổng hợp, đánh giá thực
tiễn để làm cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời, đề xuất giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới trên cơ sở lồng ghép
các chính sách phát triển, trong đó, có chính sách môi trường; nhất là, tại các địa
phương đã đạt chuẩn nông thôn mới, đang từng bước triển khai các giải pháp phát
huy các kết quả đã đạt, làm tiền đề xây dựng nông thôn mới nâng cao, như huyện
Thoại Sơn, tỉnh An Giang – huyện đầu tiên đạt chuẩn nông thôn mới quốc gia của
tỉnh An Giang.
Từ lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sáchmôi trường
trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang”
làm luận văn thạc sỹ cho chuyên ngành chính sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội thảo khoa học,
luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến chính sách môi
trường theo lĩnh vực, quy mô khác nhau, tùy thuộc vào cách tiếp cận và mục tiêu
nghiên cứu đặt ra; từ đó, đưa ra các góc nhìn, đánh giá riêng; trong đó, có một số
công trình tiêu biểu như :
Nguyễn Công Dũng (2018), Quản lý nhà nước của UBND các cấp đối với xây
dựng nông thôn mới từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, tiếp cận nghiên cứu theo khía
3
cạnh luật học; công trình tập trung nghiên cứu mang tính tổng quan, làm rõ các vấn
đề về cơ sở lý luận, thực tiễn của QLNN ở các cấp chính quyền đối với việc triển
khai CTMTQG xây dựng NTM. Các kết quả nghiên cứu thông qua đánh giá ảnh
hưởng của các chủ thể quản lý, thực trạng QLNN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên kết
hợp với các quan điểm, định hướng của tác giả là cơ sở để đề xuất giải pháp triển
khai hiệu quả Chương trình dưới góc độ luật học [10].
Tô Trọng Mạnh (2020), Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính sách công, Học viện khoa học xã hội. Luận án
tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về thực
hiện chính sách nông thôn mới ở nước ta hiện nay; Qua đó làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về công tác tổ chức thực hiện chính sách xây dựng NTM, luận án
đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao việc thực hiện chính sách xây dựng NTM ở
Việt Nam hiện nay [19].
Nguyễn Thanh Bình (2020), Xây dựng chính sách công ở Việt Nam hiện nay:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập trung nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận, thực
tiễn về xây dựng chính sách công ở Việt Nam trên cơ sở tổng quan khung nghiên
cứu có liên quan ở trong và ngoài nước. Từ kết quả nghiên cứu đó, công trình đã
đưa ra các nhóm giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng chính sách công ở nước
ta [4].
Hoàng Sỹ Kim (2013), “Thực trạng xây dựng NTM và những vấn đề đặt ra đối
với quản lý nhà nước”, công trình nghiên cứu đã làm rõ cơ sở lý thuyết có liên quan
đến NTM; từ đó, đề xuất khung nghiên cứu phù hợp. Từ khung lý thuyết, công trình
nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng ở Việt Nam cho giai đoạn 2009-2013.
Từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra dựa trên
quan điểm phù hợp [18].
Phan Xuân Sơn, Nguyễn Cảnh,“Xây dựng mô hình NTM ở nước ta hiện nay”,
đã đề xuất phương pháp cũng như các điều kiện để có thể thực hiện đạt 19 tiêu chí
quốc gia về xây dựng NTM trên cơ sở các phân tích về lý luận và bối cảnh nông
thôn nước ta [23].
Dưới góc độ triết học, các công trình nghiên cứu của Phạm Huỳnh Minh Hùng
4
(2017), Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn
mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay và Huỳnh Thanh Hiếu (2016), Phát huy
vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay đã làm rõ vai trò của các chủ thể nông thôn trong xây dựng
NTM ở cả khía cạnh lý luận và thực tiễn; từ đó, rút ra được những mặt đã đạt được,
hạn chế, nguyên nhân trong phát huy nguồn lực của chủ thể nông thôn thực hiện
xây dựng NTM. Với các nhận định, phân tích trên, các công trình đã đề xuất một số
quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay [16].
Đỗ Kim Chung, Kim Thị Dung (2018), “Chương trình nông thôn mới ở Việt
Nam: Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị”, đã đánh giá kết quả thực hiện Chương
trình MTQG xây dựng NTM; từ đó, chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong quá trình
thực hiện mục tiêu xây dựng NTM; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách xây dựng NTM [8].
Đào Thế Tuấn (2011), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn - những vấn đề
không thể thiếu trong phát triển bền vững”, đã phân tích, chỉ ra sự liên quan mật
thiết giữa phát triển nông nghiệp và tính bền vững của sự phát triển. Theo đó, nếu
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng, phân hóa xã hội quá mức
thì dù có đạt được sự tăng trưởng cao cũng chưa thể coi là đã có phát triển; ngoài ra,
giải quyết một cách đồng bộ cả ba vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là điều
kiện để đạt được mục tiêu chung của đất nước về xây dựng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước [24].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, một số kết quả nghiên cứu về xây
dựng NTM cũng đã được một số tác giả công bố trên các Trang thông tin điện tử,
đáng lưu ý, như:
Ngô Thị Phương Liên (2016), “Giải quyết những tồn tại và hạn chế trong xây
dựng nông thôn mới, đã xác định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, khái
quát những thành tựu phong trào xây dựng NTM ở các địa phương, phát huy được
sức mạnh của cả xã hội; đồng thời, cũng phân tích đượcnhững tồn tại và hạn chế
trong xây dựng NTM, như: trình độ năng lực cán bộ quản lý; công tác quy hoạch
5
lập kế hoạch tổ chức đấu giá đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất…[40].
Thu Vân (2019), Phát triển bền vững trong xây dựng nông thôn mới, tổng hợp
kết quả 10 năm xây dựng nông thôn mới. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng và
Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng với 10/17 địa phương cấp
tỉnh đạt và vượt mục tiêu được giao đến 2020; 42 đơn vị cấp huyện được công nhận
đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM (chiếm 48,27% tổng số đơn vị cấp
huyện đã được công nhận của cả nước) [41].
Hương Diệp (2019), Tổng kết 10 năm Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới, đã khẳng định cốt lõi của nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới
đó là không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của người dân nông
thôn, miền núi; cần phải tiếp tục bảo tồn, phát huy; tiếp tục xây dựng hệ thống chính
trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Đảng không
ngừng vững mạnh để phục vụ nhân dân [42].
Từ những công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến công tác xây dựng
NTM ở các địa phương đều khẳng định tính đúng đắn của CTMTQG về xây dựng
NTM. Các công trình nghiên cứu đã làm rõ hơn về mặt cơ sở lý luận, kết hợp với
phân tích thực trạng ở cách tiếp cận chuyên ngành khác nhau; từ đó, làm cơ sở giúp
các nhà quản lý nhìn nhận được vấn đề có liên quan, rút ra bài học để triển khai
ngoài thực tiễn ở các địa phương. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa tiếp cận được công
trình nghiên cứu về thực hiện chính sách môi trường trong triển khai Chương trình
và nghiên cứu về xây dựng NTM tại địa bàn huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Vì
vậy, để có cái nhìn toàn diện, khách quan về triển khai Chương trình tại khu vực
nghiên cứu, tác giả sẽ vận dụng, kế thừa các kết quả nghiên cứu từ các công trình
trên để làm rõ về mặt lý luận, thực tiễn những vấn đề có liên quan đến thực hiện
chính sách môi trường trong xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn dưới tiếp cận
chính sách công; từ đó, đề xuất các giải pháp triển khai hiệu quả việc “Thực hiện
chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại
Sơn, tỉnh An Giang” trong giai đoạn tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
6
Nghiên cứu làm rõ các vấn đề về lý luận và thực trạng thực hiện chính sách môi
trường trong xây dựng NTM; từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng NTM tại huyện Thoại
Sơn, tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách môi trường trong xây
dựng NTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng
NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường
trong xây dựng NTM tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn tại
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về tiêu chí môi trường
trong xây dựng nông thôn mới.
Phạm vi về không gian: địa bàn huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Phạm vi về thời gian : Từ 2010 đến 2020, giải pháp đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, đề tài luận văn vận dụng tổng hợp các
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước để nhận thức tiến trình hình thành, triển khai các vấn
đề liên quan đến thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu mang tính truyền
thống của khoa học xã hội để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Cụ
7
thể: phương pháp tổng quan, thu thập, phân tích, xử lý thông tin sơ cấp, so sánh
dữ liệu, số liệu từ những cơ quan quản lý nhà nước để đánh giá thực trạng công
tác quản lý nhà nước về môi trường ở địa phương, cụ thể như:
Phương pháp tổng quan, thu thập số liệu, xử lý thông tin sơ cấp: đề tài sử
dụng phương pháp thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau, từ các văn bản
pháp luật đến các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết, báo cáo tổng kết từ
trung ương, các địa phương khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu, để có cái
nhình tổng quan, toàn diện phục vụ đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Phương pháp phân tích tổng hợp: trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu
thu thập được tác giả tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thoại Sơn,
xem xét trên bình diện khoa học chính sách công và từ đó có những đề xuất phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây dựng
nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Phương pháp so sánh: tiếp cận khung kiến thức khoa học chính sách công
đề tài đã sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá kết quả thực hiện chính sách
môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện so với
các địa phương khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ nội dung nghiên cứu về thực hiện chính
sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới theo tiếp cận của khoa học chính
sách công. Giúp có một cách nhìn cụ thể hơn về chính sách công trong một lĩnh vực
cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn đã đề xuất các giải pháp cụ thể có thể sử
dụng để áp dụng thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn tại
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo nhằm tiến tới hoàn
thành mục tiêu huyện nông thôn mới nâng cao.
7. Kết cấu của luận văn
8
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách môi
trường trong xây dựng nông thôn mới.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong quá trình xây
dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi
9
trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Chương trình xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Nông thôn và nông thôn mới
Quan niệm về nông thôn
Qua tổng quan tài liệu cho thấy: Tùy thuộc vào từng tiêu chí, cách nhìn nhận ở
các quốc gia hay cách tiếp cận nghiên cứu sẽ có những khái niệm khác nhau về
“Nông thôn”; nhưng thông thường được so sánh với thành thị. Điển hình, như:
Theo Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), có thể định nghĩa nông thôn
theo hai phương thức: (i) Thành thị được xác định bởi luật, là tất cả các trung tâm
của tỉnh, huyện; các vùng còn lại được xác định là nông thôn; (ii) Căn cứ vào mức
độ tập trung dân cư sinh sống thành cụm từ đó quan sát xác định vùng thành thị.
Đối với Việt Nam hiện nay, chúng ta sử dụng phương thức thứ nhất để phân biệt
khu vực thành thị và nông thôn.
Theo Từ điển Tiếng Việt, nông thôn là “Khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm
nghề nông; phân biệt với thành thị”. Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân
cư, trong đó nông dân chiếm ưu thế với sản xuất nông nghiệp có tỷ trọng cao. Công
tác quản lý giữa nông thôn và thành thị có sự khác biệt; đối với nông thôn, xã, thôn,
bản là cấp quản lý; còn thành thị với cấp quản lý là phường, thị trấn [31].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Nông thôn là vùng lãnh thổ của một
nước hay một số đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự
nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành thị và dân cư
chủ yếu làm nông nghiệp” [15].
Đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông tư số
54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, cụ thể: “Nông thôn là vùng lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”. Khái
niệm này, được đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu các nội dung có liên quan;
10
gồm các đặc trưng về cấp quản lý hành chính là UBND xã; nơi phân bố cư trú của
dân cư về mặt không gian là các điểm quần cư nông thôn với phương thức sản xuất
có quan hệ trực tiếp với nguồn vốn tự nhiên, nhất là đất đai – tư liệu sản xuất chủ
yếu gắn với các hoạt động lao động nông nghiệp chiếm ưu thế.
Quan niệm về nông thôn mới
Nông thôn mới trước tiên là nông thôn, không phải thị tứ, thị trấn, thị xã, thành
phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay. Có thể khái quát theo 7 nội dung cơ
bản sau: nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội phù hợp; cơ cấukinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển
nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông
thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái
được bảo vệ; quốc phòng an ninh, trật tự được giữvững[7].
Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời sống văn
hóa phong phú, mức sống dân cư được cải thiện thông qua đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, tăng cường các giá trị phát triển công nghiệp, dịch vụ theo quy hoạch, đảm
bảo tính phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; nhưng vẫn giữ
được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng vùng, từng dân tộc
và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng.
Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày05/8/2008 đã nhấn mạnh: Nông thôn
mới là nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.
Trên cơ sở các quan niệm về nông thôn mới, đề tài sử dụng quan niệm được quy
định tại Nghị quyết số 26-NQ/TW; theo đó, nông thôn mới là nông thôn được đầu tư
đồng bộ các nguồn lực để phát huy được năng lực nội tại theo các định hướng quy hoạch,
đảm bảo sự hài hòa giữa các mục tiêu phát triển bền vững; đồng thời, từng bước nâng cao
chất lượng sống của dân cư, rút ngắn khoảng cách với khu vực đô thị.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông thôn và nông
dân đã xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới” với mục tiêu chung: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
11
thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở
các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm
chủ nông thôn mới.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững,
sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu
bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ;
hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức
vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết được xác định là văn kiện chỉ đạo quan trọng, tạo tiền đề để các
cấp chính quyền triển khai công tác xây dựng nông thôn mới. Trong năm 2008,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008
của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
26-NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới”; khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ,
ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình
hành động của Chính phủ (Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008), Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày
16/8/2016 với các mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là trên 50% số xã đạt chuẩn NTM.
Căn cứ tinh thần chỉ đạo của các văn bản Nghị quyết Trung ương, các Bộ, cấp
chính quyền địa phương đã triển khai thực hiện theo các tiêu chí phù hợp, cùng với
12
100% số xã trong huyện đạt chuẩn nông thôn mới (Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tiêu chí huyện nông thôn mới
1. Có 100% số xã trong huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
2. Có tất cả các tiêu chí sau đạt chuẩn theo quy định:
TT
Tên tiêu chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ tiêu
1 Quy hoạch
Đạt
Đạt
2 Giao thông
100%
3 Thủy lợi
Đạt
4 Điện
Đạt
Đạt
5
Y tế - Văn hóa - Giáo dục
Đạt
≥ 60%
6 Sản xuất
Đạt
Đạt
7 Môi trường
100%
Có quy hoạch xây dựng trên địa bàn huyện được phê duyệt 2.1. Hệ thống giao thông trên địa bàn huyện đảm bảo kết nối tới các xã 2.2. Tỷ lệ km đường huyện đạt chuẩn theo quy hoạch Hệ thống thủy lợi liên xã đồng bộ với hệ thống thủy lợi các xã theo quy hoạch Hệ thống điện liên xã đồng bộ với hệ thống điện các xã theo quy hoạch, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của cả hệ thống 5.1. Bệnh viện huyện đạt tiêu chuẩn bệnh viện hạng 3; Trung tâm y tế huyện đạt chuẩn quốc gia 5.2. Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện đạt chuẩn, có nhiều hoạt động văn hóa - thể thao kết nối với các xã có hiệu quả 5.3. Tỷ lệ trường Trung học phổ thông đạt chuẩn Hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung; hoặc có mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, tổ chức liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của huyện. 7.1. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện đạt tiêu chuẩn 7.2. Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng nghề, chăn nuôi, chế biến lương thực - thực phẩm) thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường
8
Đảm bảo an toàn an ninh, trật tự xã hội
Đạt
An ninh, trật tự xã hội
Đạt
9
Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
Đạt
9.1. Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cấp huyện được kiện toàn tổ chức và hoạt động đúng quy định 9.2. Văn phòng Điều phối Chương trình nông thôn mới cấp huyện được tổ chức và hoạt động đúng quy định
Nguồn: Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Tiêu chí huyện nông thôn mới và Quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh
hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới
13
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương
trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng
do Chính phủ Việt Nam xây dựng và triển khai trên phạm vi nông thôn toàn quốc,
căn cứ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Xây dựng
NTM là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn
đồng lòng xây dựng nông thôn khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện
(nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh
nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được
nâng cao.
Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ
thống chính trị. NTM không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế -
chính trị tổng hợp; giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn
kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
1.1.3. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Xây dựng NTM theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân
cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban
hànhcáctiêuchí,quychuẩn,đặtracácchínhsách,cơchếhỗtrợvàhướngdẫn triển khai; Các
hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết
định và tổ chức thực hiện.
Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình MTQG, chương
trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đangtriển khai ở nông thôn, có
bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích
mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huyđộngđónggópcủacáctầnglớpdâncư;
Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm
bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các
Bộ chuyên ngànhbanhành).
Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng,Chính quyền
14
đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực
hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn mới”do Mặt trận Tổ
quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát
huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nôngthônmới.
Mục tiêu của chính sách xây dựng nông thôi mới
Các cấp chính quyền địa phương đã xác định tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản
đạt 4 – 4,5%/năm; sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, kết hợp với phát triển công
nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của
mọi tầng lớp nhân dân. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn; Nâng
cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; Nâng cao năng lực phòng chống,
giảm nhẹ thiên tai… Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước
nâng cao chất lượng môi trường nông thôn .
Nội dung của chính sách xây dựng nông thôi mới
Về quy hoạch NTM: Quản lý xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch, bảo
đảm theo tiêu chí quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch xây dựng, sản
xuất và quy hoạch sử dụng đất;
Về xây dựng cơ sở hạ tầng: đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội - văn
hoá - an ninh, nâng cao chất lượng dịch vụ công, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và
chất lượng hưởng thụ của người dân;
Về phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân: Mục tiêu
cốt lõi của chương trình xây dựng NTM là nâng cao đời sống cho người dân nên
nhiều địa phương đã đề ra những chủ trương, chính sách khuyến khích người dân
xây dựng mô hình kinh tế để nâng cao thu nhập cho người dân theo tiêu chí NTM,
ngoài việc đẩy mạnh xây dựng các công trình hạ tầng ở nông thôn, thì việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát huy hiệu quả các chương trình dự án hỗ trợ phát
triển sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế ở mỗi địa phương;
Về văn hóa, xã hội, môi trường: nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm môi
trường xanh-sạch-đẹp; bảo đảm an ninh trật tự, gìn giữ các giá trị văn hóa của cộng
đồng, văn hóa nông thôn, đồng thời xây dựng và phát triển văn hóa, con người toàn
diện, kỹ năng ứng xử, năng lực bản thân đáp ứng được yêu cầu cuộc sống nông thôn
15
mới trong giai đoạn hiện nay;
Về xây dựng hệ thống chính trị: Để triển khai thực hiện chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên cơ sở quan điểm chỉ đạo đồng bộ thống nhất
của các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị; đồng thời nêu cao vai trò chủ thể
xây dựng nông thôn mới, sự đồng thuận, ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân trong
quá trình triển khai thực hiện tại các địa phương.
1.2. Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Thực hiện chính sách công
Nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước do nhân dân trao cho nhằm
quản lý xã hội phục vụ sự phát triển chung của đất nước; nhà nước sử dụng nhiều
công cụ nhằm thực hiện chức năng của mình trong đó một công cụ quan trọng chính
là chính sách; không chỉ tác động đến một khu vực, một bộ phận dân cư nhất định,
mà tác động rộng khắp đến mọi đối tượng, mọi quá trình trên phạm vi toàn quốc;
tác động của nhà nước đến các đối tượng có thể mang tính chính trị, hành chính,
kinh tế hay kỹ thuật được lồng ghép vào các cơ chế quản lý điều hành thống nhất;
đồng thời trong những thời kỳ phát triển khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước cũng có sự thay đổi một cách thích hợp, vì thế mà quan niệm về chính sách
công cũng được tiếp cận từ các góc độ khác nhau [33].
Thuật ngữ “chính sách”, theo Từ điển tiếng Việt, là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình
hình thực tế mà đề ra”; Chính sách khác với đường lối. Nếu như đường lối chỉ
những định hướng chung, mang tính chất chiến lược thì chính sách chỉ là “…một
tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản
lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi cho một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào
động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục
tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”; Nói cách
khác, chính sách “là giải pháp cùng các biện pháp cụ thể thực hiện giải pháp ấy
được một chủ thể quyền lực lựa chọn và thể hiện bằng văn bản có giá trị pháp lý
nhằm điều chỉnh hành vi của xã hội hoặc cộng đồng để giải quyết một hoặc một số
16
vấn đề lớn liên quan đến nhiều đối tượng trong một giai đoạn xác định” [31].
Theo Peter Aucoin, chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính
phủ tiến hành; có thể là hành động riêng biệt của Chính phủ, song nó có thể là kết
quả của hàng loạt quyết định, lựa chọn của chính phủ [20].
William Jenkins (năm 1978) đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, chính sách công “là
một tập hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một
nhóm các nhà hoạt động chính trị cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương
thức để đạt mục tiêu trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền”; đó
là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn; đồng thời, định nghĩa
này cũng cho thấy một cách rõ ràng chính sách công là “một tập hợp các quyết định
có liên quan với nhau” [32].
B. Guy Peters (năm 1990) định nghĩa: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống
của mọi người dân”; Quan niệm này đã bổ sung thêm một khía cạnh quan trọng của
chính sách công, đó là tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người
dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân hoặc một tổ chức cụ
thể.
TS. Đặng Ngọc Lợi cho rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của
chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh
tế và chính sách nói chung của mỗi nước; PGS.TS. Lê Chi Mai nghiên cứu cho rằng
chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách
công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn
bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính
sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã
hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có
liên quan lẫn nhau [33].
Như vậy, chính sách công chưa có khái niệm thống nhất, mà tùy vào góc độ
tiếp cận có những cách hiểu khác nhau. Theo đề tài, chính sách công là định hướng
hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời
sống cộng đồng phù hợp với thái độ chính trị trong mỗi thời kỳ nhằm giữ cho xã hội
17
phát triển theo định hướng.
Chính sách là chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể. Bản chất,
nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội …Muốn đặt ra chính sách đúng phải căn
cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững
mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh
hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể (Theo Từ điển Bách khoa Việt
Nam) [15].
Thực hiện chính sách công là một giai đoạn trong chu trình chính sách; quá
trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các
văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách công và tổ chức thực hiện chúng
nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Đó là một quá trình phức tạp, bao
gồm nhiều hoạt động khác nhau từ ban hành văn bản triển khai đến phương thức
thực thi các chương trình, dự án để đạt được mục tiêu đặt ra theo từng giai đoạn,
phù hợp với bối cảnh cụ thể.
1.2.2. Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người,
ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như:
không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Tiếp cận theo khái niệm chính sách công nêu trên thì chính sách môi trường là
những chủ trương, biện pháp mang tính chiến lược, giai đoạn, nhằm giải quyết
nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó, trong một giai đoạn nhất định.
- Quản lý môi trường: là sự điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội đối với
môi trường nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế
- xã hội.
- Quản lý nhà nước về môi trường, theo nghĩa rộng, là hoạt động tổ chức, điều
hành của bộ máy nhà nước, là sự tác động có tổ chức của quyền lực nhà nước trên
các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp về môi trường; còn theo nghĩa hẹp,
18
là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với
các hoạt động của con người liên quan tới môi trường nhằm mục tiêu bảo vệ môi
trường.
- Chính sách quản lý nói chung và chính sách môi trường nói riêng được hoạch
định và thực hiện dựa trên các cơ sở: triết học, khoa học - công nghệ, kinh tế, văn
hóa – xã hội, pháp lý của quản lý.
Các tác động của chính sách môi trường thường hàm chứa cả tích cực và tiêu
cực: Tác động tích cực của chính sách môi trường có hệ quả là mục tiêu môi trường
mà chính sách nhằm vào được thực hiện với kết quả tích cực và phản ánh tính đúng
đắn, phù hợp của chính sách. Tác động tiêu cực của chính sách môi trường có hệ
quả là mục tiêu môi trường mà chính sách nhằm vào được thực hiện với kết quả tiêu
cực và phản ánh tính không/chưa phù hợp của chính sách. Trong hoạch định và thực
hiện chính sách cần cố gắng xem xét tối đa các tác động để có những điều chỉnh.
Trong thực tế không có chính sách tuyệt hảo, mỗi chính sách đều ẩn chứa cả
những tác động không mong muốn và phải chấp nhận. Vấn đề là ở chỗ cần nhận
dạng, đánh giá tác động và trên cơ sở đó có những cân nhắc cần thiết để hạn chế tối
đa và đạt được tốt nhất mục tiêu chính sách cần đạt.
Theo đề tài, chính sách môi trường là sự cụ thể hóa các chủ trương và hành
động về bảo vệ môi trường của Nhà nước nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường và cách
thức thực hiện mục tiêu đó.
Trong CTMTQG về xây dựng nông thôn mới, tiêu chí môi trường và an toàn
thực phẩm là một trong 19 tiêu chí NTM theo Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày
17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia
vềNTM.
Mục tiêu chung của tiêu chí môi trường là: Bảo vệ môi trường, sinh thái, cải
thiện, nâng cao chất lượng môi trường khu vực nông thôn thông qua các hoạt động
tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức và đi đến hành động cụ thể của các cấp,
các ngành và cả cộng đồng nhândân.
Huyện đạt chuẩn tiêu chí về môi trường khi đáp ứng các yêu cầu sau:
“1. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện đạt tiêu chuẩn
19
khi:
a) Có đề án hoặc kế hoạch hoặc phương án quản lý (giảm thiểu, phân loại, thu
gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý) chất thải rắn trên địa bàn huyện …
Thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BNNPTNT-BTNMT
ngày 16/5/2016 về hướng dẫn việc thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc bảo
vệ thực vật sau sử dụng và Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày
31/12/2015 quy định về quản lý chất thải y tế.
b) Khu xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện (nếu có) phải có đầy đủ hồ sơ,
thủ tục về môi trường theo quy định…
2. Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng nghề, chăn nuôi, chế
biến lương thực - thực phẩm) thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường
khi:
a) Có đầy đủ hồ sơ, thủ tục về môi trường, bao gồm: Báo cáo đánh giá tác
động môi trường, hoặc đề án bảo vệ môi trường chi tiết…. Đối với các cơ sở thuộc
danh mục quy định tại Phụ lục I Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường …;
Phương án bảo vệ môi trường đối với các đối tượng theo quy định tại Thông tư số
31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường …
b) Có công trình, biện pháp, hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường để thu gom,
phân loại, lưu giữ, tái chế, thu hồi hoặc xử lý chất thải (nước thải, khí thải, chất
thải rắn) đúng quy định; thực hiện đầy đủ và đúng các nội dung về bảo vệ môi
trường đã cam kết trong các hồ sơ nêu trên.
c) Cơ sở nuôi trồng thủy sản ngoài các yêu cầu tại điểm a và điểm b khoản này
phải tuân thủ quy hoạch nuôi trồng thủy sản của địa phương và các quy định về bảo
vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản tại Điều 71 Luật Bảo vệ môi trường.
d) Cơ sở chăn nuôi, khu chăn nuôi tập trung theo quy định tại Luật Thú y,
Điều 69 Luật Bảo vệ môi trường, Điều 11 Nghị định số 66/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016 của Chính phủ quy định điều kiện đầu tư kinh doanh về bảo vệ và kiểm
dịch thực vật; giống cây trồng; nuôi động vật rừng thông thường; chăn nuôi; thủy
20
sản; thực phẩm.
đ) Làng nghề trên địa bàn, cơ sở sản xuất tại làng nghề theo quy định tại Điều
70 Luật Bảo vệ môi trường, Chương IV Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ
môi trường …
e) Chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp, Ban quản lý
khu kinh doanh, dịch vụ tập trung trên địa bàn, cơ sở trong cụm công nghiệp, khu
kinh doanh, dịch vụ tập trung … thực hiện theo quy định tại Điều 67 Luật Bảo vệ
môi trường và Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch
vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ….
g) Chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp trên địa bàn,
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp thực hiện theo quy định
tại Điều 66 Luật Bảo vệ môi trường và Chương III, Chương IV Thông tư số
35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ
môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao”.
Mục tiêu cụ thể tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm: Đạt yêu cầu tiêu chí
số 17 về môi trường trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Đến
năm 2020, có 70% số xã đạt tiêu chí số 17 về môi trường; 75% số hộ gia đình ở
nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; 100% trường học, trạm y tế xã có nhà tiêu hợp vệ
sinh được quản lý và sử dụng tốt(Chính phủ,2016). Như vậy, thực hiện chính sách
môi trường trong xây dựng nông thôn mới là quá trình vận dụng, thực hiện các giải
pháp để đạt được mục tiêu số 17 về môi trường; đó là toàn bộ quá trình hiện thực
hóa chính sách vào đời sống xã hội theo một quy trình chặt chẽ, thống nhất, lồng
ghép trong triển khai Chương trình MTQG về xây dựng NTM nhằm giải quyết vấn
đề về bảo vệ môi trường trên một địa bàn cụ thể, trong một giai đoạn nhất định.
1.3. Quy trình thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng NTM
1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Tổ chức thực thi chính sách xây dựng NTM là quá trình phức tạp diễn ra trong
21
một thời gian dài với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Do đó, cần thiết phải
lập kế hoạch nhằm đảm bảo tính chủ động, tính thực tiễn trong quá trình triển khai
thực hiện với các nội dung cụ thể:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành xây dựng NTM với các nội dung dự kiến về
hệ thống các cơ quan chủ thể và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng
và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi, cơ chế thực thi,...;
- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực xây dựng NTM, như: Nguồn lực về tài
chính, trang thiết bị hỗ trợ,...;
- Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện với các giai đoạn mục tiêu khác
nhau nhằm duy trì chính sách, dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ
tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm;
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách, gồm những dự kiến về tiến
độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách xây dựng
NTM. Dự kiến, xây dựng nội quy, quy chế hoạt động, tổ chức điều hành, quy trách
nhiệm, nhiệm vụ đối với tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chính sách…
1.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Để chính sách đi vào thực tiễn, phổ biến, tuyên truyền là bước tiếp theo của
xây dựng kế hoạch triển khai. Đó là quá trình tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân
dân tham gia thực hiện chính sách xây dựng NTM - hoạt động giữ vai trò quan
trọng để giúp các đối tượng tham gia thực thi chính sách và người dân hiểu về mục
đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn
cảnh của từng địa phương; qua đó, phát huy được tính tự giác, tính dân chủ cơ sở
của người dân và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong thực hiện
mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện
chính sách được giao bằng các hình thức phù hợp.
1.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Việc phân công, phối hợp của các cơ quan đơn vị tổ chức thực hiện chính sách
theo kế hoạch được phê duyệt, thực hiện trên phạm vi rộng lớn. Do đó, đòi hỏi sự
tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp từ Trung ương đến địa phương theo đúng chức
năng, nhiệm vụ. Sự linh hoạt, hiệu quả của quá trình phân công, phối hợp thực hiện
22
sẽ đảm bảo tính khả thi trong triển khai chính sách vào thực tiễn; đối với, thực hiện
Chương trình MTQG xây dựng NTM từ Trung ương đến địa phương đã có sự phân
công cụ thể, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ, phạm vi quản lý của các cấp các
ngành.
1.3.4. Duy trì thực hiện chính sách
Duy trì chính sách là làm cho chính sách được tồn tại và phát huy hiệu quả
trong môi trường thực tế; vì vậy, cần phải có sự đồng tâm hiệp lực của cả người
đứng ra tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại. Đối với các cơ quan nhà nước
thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM, cần chủ động, thường xuyên quan tâm, tổ chức
tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện; nếu có
khó khăn thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động
nhằm tạo lập môi trường thuận lợi việc thực thi chính sách, đồng thời chủ động điều
chỉnh chính sách xây dựng NTM cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa
phương; Khi thật sự cần thiết, nhằm bảo đảm lợi ích chung của xã hội, các cơ quan
nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành chính để duy trì chính sách.
1.3.5. Điều chỉnh chính sách
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, các cơ quan có thẩm quyền
từng bước điều chỉnh chính sách để đảm bảo tính đúng đắn, hiệu quả theo mục tiêu
đã đề ra; Một nội dung rất quan trọng trong điều chỉnh chính sách là để chính sách
tiếp tục tồn tại thì chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu
hoặc bổ sung hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế của từng địa phương một
cách kịp thời; Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu nghĩa là làm thay đổi chính
sách thì coi như chính sách không còn tồn tại.
1.3.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Quá trình thực thi chính sách được thực hiện đồng bộ, có nhiều cơ quan, tổ
chức và nhân dân tham gia; Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở từng nơi
khác nhau, trình độ tổ chức thực thi của cán bộ công chức không đồng đều; trong
quá trình triển khai chính sách xây dựng NTM các cơ quan nhà nước phải thường
xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chính sách, qua kiểm tra, đôn đốc các mục
tiêu và biện pháp chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán
23
bộ công chức cũng như đối tượng thực thi chính sách xây dựng NTM tập trung chú
ý những nội dung ưu tiên trong quá trình thực hiện chính sách;kiểm tra thường
xuyên việc thực hiện chính sách xây dựng NTM sẽ giúp cho từng cấp, từng ngành,
từng địa phương kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc; Từ đó, có cơ sở
đánh giá được mặt mạnh, yếu của công tác tổ chức thực thi chính sách xây dựng
NTM để điều chỉnh.
Công tác kiểm tra, đôn đốc này còn giúp cho từng ngành, từng địa phương
thực thi chính sách xây dựng NTM biết được những hạn chế của mình để điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện. Thực hiện tốt vấn đề trên vừa kịp thời hoàn thiện, bổ
sung chính sách vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính sách góp phần nâng
cao hiệu lực hiệu quả việc thực thi chính sách xây dựng NTM.
1.3.7. Tổ chức đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Tổ chức thực thi chính sách xây dựng NTM được tiến hành liên tục trong thời
gian duy trì chính sách, trong thời gian đó việc tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực
hiện chính sách xây dựng NTM là để đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả thực
hiện chính sách; trong đó, đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi kết thúc chính
sách, đánh giá tổng kết từng bước thực thi chính sách được hiểu là quá trình xem
xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực
thi chính sách xây dựng NTM; bước này, được thực hiện nhằm kiểm điểm, đánh giá
việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện Chương
trình MTQG xây dựng NTM.
Việc tổ chức đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm sẽ rút ra được những bài học
kinh nghiệm, nhằm điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện chính sách; đồng thời, xem
xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia thực
thi chính sách; Cơ sở để tổng kết công tác chỉ đạo điều hành thực thi chính sách
trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được
xây dựng, đồng thời có kết hợp việc sử dụng các văn bản có liên quan giữa cơ quan
nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình
phối hợp, chỉ đạo điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội
24
với nhà nước.
Bên cạnh việc đánh giá, tổng kết kết quả chỉ đạo điều hành của các cơ quan nhà
nuớc, còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tuợng tham gia thực hiện chính
sách, bao gồm: Đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách,
nghĩa là tất cả thành viên trong xã hội với tư cách là công dân, đồng thời, phát hiện
những nhân tố, mô hình tích cực trong xây dựng NTM để nhân rộng, tạo ra phong
trào thiết thực cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng NTM.
1.4. Các nhân tố tác động đến thực hiện chính sách môi trường trong xây
dựng nông thôn mới
1.4.1. Sự lãnh đạo của đảng
Xây dựng NTM là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội tại các vùng trong cả nước, với chủ trương đó đã thu hút
được sự tham gia tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể
chính trị xã hội và toàn thể nhân dân, diện mạo của vùng nông thôn thay đổi, đời
sống tinh thần và vật chất của người dân từng bước được nâng lên; Tuy nhiên, quá
trình thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế, để tiếp tục triển khai hiệu quả hơn, các cơ
quan có thẩm quyền tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, đồng thời tiếp
tục tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, nâng cao tinh
thần trách nhiệm của mọi cán bộ, công chức, viên chức và tầng lớp nhân dân chung
sức xây dựng NTM, đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2. Năng lực của hệ thống chính trị ở cơ sở
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là một chương trình tổng
hợp, mang tính bao trùm, huy động tất cả các lực lượng công tác của Đảng, Nhà
nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; do đó, Nhà nước phải chú trọng công
tác chỉ đạo, điều hành quá trình hoạch định, việc thực thi chính sách, xây dựng đồ
án, đề án, cơ chế, tạo cơ sở hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, nguồn lực, kỹ thuật, tạo
các điều kiện để kích thích được tinh thần của người dân thực hiện; nhân dân tự
nguyện tích cực tham gia, chủ động trong hoạch định và thực thi chính sách trong
việc thực hiện bộ tiêu chí xây dựng NTM; đồng thời, xây dựng NTM là một trong
những nội dung chính sách được xây dựng liên quan đến nhiều ngành, tác động đến
25
đời sống nhân dân và các lĩnh vực kinh tế, an sinh xã hội nên các cấp chính quyền
cần điều hành chặt chẽ kết hợp với năng lực triển khai để đảm bảo thực hiện tốt nhất
các mục tiêu xây dựng NTM tại các địa phương.
1.4.3. Nguồn lực tài chính
Thực tế triển khai chính sách cho thấy: nguồn tài chính đầu tư triển khai các
nội dung vẫn phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách thông qua chính sách tín dụng hay
chính sách chi NSNN trực tiếp hoặc gián tiếp cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển sản xuất, chính sách ưu đãi thuế, bảo hiểm...; chưa huy động được sự
tham gia của các thành phần kinh tế khác.
1.4.4. Sự tham gia tích cực của người dân nông thôn
Người dân trực tiếp tham gia hoạt động phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất,
thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn; trong quá trình triển khai thực hiện,
nhân dân vừa là người tham gia, vừa giám sát quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội; xây dựng và giữ gìn đời sống văn hóa khu dân cư; đảm bảo vệ sinh
môi trường; duy trì ổn định về trật tự xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh; thành công của xây dựng NTM có sự tham gia của nhà nước và nhân dân,
nhà nước với vai trò quản lý, nhân dân với vai trò thực hiện và giám sát đã tạo nên
những kết quả tốt trong quá trình xây dựng NTM.
1.5. Kinh nghiệm thực tiễn triển khai tại tỉnh An Giang
Cùng với cả nước, An Giang đã tổ chức Tổng kết đánh giá mười năm thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020,
đề xuất thực hiện giai đoạn 2021-2025, với những nhận định chung như sau:
* Thành tựu
- Xây dựng Nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xây
dựng nông thôn ngày càng đổi mới và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Do đó, ngay sau khi có chủ trương, chính sánh của Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND
tỉnh đã khẩn trương triển khai công tác xây dựng Chương trình, kế hoạch thực hiện
Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
- Công tác tuyên truyền quán triệt Nghị quyết, ban hành các văn bản lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng từ huyện đến cơ sở được quan tâm. Nhận thức của cấp
26
ủy, chính quyền, của cả hệ thống chính trị và của nhân dân về Chương trình xây dựng
nông thôn mới đã chuyển biến, có sức lan tỏa sâu rộng và rõ nét; vai trò chủ thể của
người dân trong xây dựng nông thôn mới đã từng bước được xác định rõ ràng, qua đó
đã khuyến khích, động viên được người dân tham gia đóng góp tiền của, công sức,
đất đai để cùng chung sức xây dựng nông thôn mới.
- Đảng bộ, chính quyền, đặc biệt là Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu
quốc gia tỉnh đã có những đột phá trong công tác điều hành, đổi mới phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát từng công việc cụ thể, tăng cường kiểm tra, giám sát kịp
thời cho ý kiến và chủ trương của từng ban ngành, từng xã để thực hiện các mục
tiêu của chương trình.
- Kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, kinh tế - xã hội được quan tâm; áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng tích cực. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo
hướng tăng cường liên kết sản xuất hàng hoá, kết hợp với đẩy mạnh phát triển công
nghiệp, du lịch, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; cơ cấu
kinh tế của tỉnh chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm
nghiệp; tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ; từ đó thu
nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng
cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm bền vững qua từng năm.
- Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường ngày càng được nâng cao, bản
sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và ngày càng phát triển; môi trường sinh thái được
bảo vệ; an ninh chính trị được giữ vững; trật tự xã hội được đảm bảo; hệ thống tổ
chức chính trị ngày càng vững mạnh, dân chủ ở cơ sở được phát huy.
- Trong thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh đã sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn lồng ghép, trong đó có huy động sự đóng góp của
doanh nghiệp, mạnh thường quân và người dân. Việc đầu tư các hạng mục công
trình trong xây dựng nông thôn mới luôn đảm bảo hiệu quả, tránh lãng phí, không
để nợ đọng xây dựng cơ bản.
- Nhìn chung cán bộ phụ trách thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới từ huyện đến cơ sở đều có kinh nghiệm, nhiệt huyết, am hiểu được mục
27
tiêu, nhiệm vụ Chương trình; luôn có sự chủ động trong công việc thể hiện qua tinh
thần trách nhiệm và sáng tạo nhiều cách làm hay góp phần đẩy nhanh tiến độ thực
hiện hoàn thành nông thôn mới.
- Công tác chỉ đạo, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, bám sát cơ sở địa
bàn phụ trách, từ đó giải quyết tháo gỡ kịp thời các khó khăn của cơ sở.
* Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
- Tiến độ xây dựng nông thôn mới thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn do
nguồn vốn ngân sách trung ương phân bổ cho Chương trình còn hạn chế trong khi
nhiều xã có rất nhiều chỉ tiêu cần vốn hỗ trợ của Nhà nước. Một số chỉ tiêu tuy đạt
nhưng tỷ lệ chưa cao hoặc thiếu bền vững như: Bảo hiểm y tế, môi trường, thu
nhập, hộ nghèo.
- Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp tuy có bước chuyển biến mạnh
nhưng chưa thật sự đột phá. Việc thực hiện liên kết trong sản xuất giữa doanh
nghiệp và nông dân đã được hình thành bước đầu đã đem lại những kết quả nhất
định. Tuy nhiên, mối liên kết này vẫn còn thiếu tính bền vững.
- Vẫn còn một bộ người dân chưa thông hiểu được chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chưa nhiệt tình
tham gia tổ chức thực hiện, còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà
nước. Việc huy động nguồn lực trong dân có lúc gặp không ít khó khăn.
- Điều kiện hạ tầng kinh tế - xã hội trước khi thực hiện Chương trình, tỷ lệ đạt
chuẩn thấp, thiếu sự đồng đều giữa các địa phương, đặc biệt là hệ thống đường giao
thông nông thôn, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, môi trường, cần nguồn lực đầu
tư lớn.
* Nguyên nhân tồn tại, hạn chế
- An Giang có vị trí tâm điểm vùng Tứ giác Long Xuyên nền kinh tế phát triển
chủ yếu dựa trên nền tảng nông nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm phần lớn trong cơ
cấu kinh tế, chủ yếu vẫn còn ở quy mô sản xuất vừa và nhỏ, giá trị sản xuất và hiệu quả
kinh tế chưa cao. Các lĩnh vực thế mạnh của tỉnh chưa được đầu tư đúng mức nên chưa
khai thác hết tiềm năng kinh tế, nguồn thu còn nhiều khó khăn chưa đáp ứng nhu cầu
28
đầu tư phát triển ở địa phương.
- Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn còn ít. Đồng thời,
các yếu tố khách quan như giá cả các mặt hàng nông sản, thủy sản thiếu ổn định, thị
trường đầu ra đôi lúc gặp khó khăn, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, gây khó khăn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nội
ngành.
- Kinh tế tập thể tuy được chú trọng phát triển nhưng hiệu quả chưa cao, kinh
tế trang trại, gia trại ở quy mô nhỏ; Việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào
nông thôn còn hạn chế, nguồn lực đầu tư cho nông thôn mới chưa đáp ứng nhu cầu.
- Công tác tuyên truyền đã đi vào chiều sâu nhưng vẫn còn tính một chiều,
chưa liên tục để tạo thành thói quen trong người dân. Đa số các xã không có cán bộ
chuyên trách về xây dựng nông thôn mới nên khó khăn trong công tác tham mưu về
xây dựng nông thôn mới.
* Bài học kinh nghiệm
Một là, Trong chỉ đạo phải phát huy trí tuệ tập thể, đặc biệt là người đứng đầu
phải thật sự gương mẫu, nhiệt huyết; phải sâu sát, năng nổ, tận tụy, phải động viên
khích lệ cho cả hệ thống chính trị đồng bộ vào cuộc. Mỗi cán bộ từ tỉnh đến cơ sở, từ
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể ai cũng phải là những tuyên truyền viên trong xây
dựng nông thôn mới. Mạnh dạn trong công tác đề bạc, xử lý trách nhiệm cán bộ, nhất
là cán bộ đứng đầu đối với các ngành, địa phương.
Hai là, Trong điều hành hành phải chọn bước đi giải pháp tối ưu nhất phù hợp
với điều kiện xuất phát điểm của địa phương; chọn xã điểm, huyện điểm để chỉ đạo
thực hiện để rút kinh nghiệm và nhân rộng. Chọn các giải pháp ưu tiên thực hiện:
Tập trung phát triển liên kết sản xuất, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi theo hướng công nghệ cao, nhằm nâng cao thu nhập tạo sự ổn định khu vực
nông thôn và tạo nguồn lực cho đầu tư xây dựng nông thôn mới trước mắt và lâu
dài.
Ba là, Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các giải pháp về nguồn vốn và thủ tục đầu
tư để thực hiện hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn tạo sự đột phá cho phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội môi trường, an ninh trật tự của địa phương. Phát triển nông thôn mới
29
phải gắn với việc khai thác triệt để thế mạnh của địa phương như: Phát triển du lịch
sinh thái, du lịch tâm linh, phát triển mới các khu, cụm công nghiệp, nông nghiệp công
nghệ cao, đặc biệt là các sản phẩm truyền thống, đặc trưng của địa phương từ Chương
trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP).
Bốn là,Đánh giá đúng tiềm năng, sức mạnh của nhân dân; phải tranh thủ sự đồng
thuận, ủng hộ và lắng nghe sự hiến kế của các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây
dựng nông thôn mới. Phải thật sự khéo léo và khoa học trong việc huy động nguồn
lực xã hội hóa, trong dân từcác nhà hảo tâm, các doanh nghiệp trong và ngoài địa
phương, các tổ chức xã hội. Việc huy động đóng góp của nhân dân do chính người
dân ở địa phương bàn bạc, quyết định, đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ,
không quá sức dân. Kịp thời phát hiện và tuyên dương khen thưởng những tập thể,
cá nhân tiêu biểu, có nhiều đóng góp, cách làm hay, sáng tạo để động viên, khích lệ
tinh thần, nhân rộng phong trào trong quần chúng nhân dân.
Cuối cùng là, kế thừa và phát huy nhiều bài học kinh nghiệm, thành quả từ các
chương trình mục tiêu, các phong trào quần chúng trước đây để vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn của tỉnh trong xây dựng nông thôn mới. Trong đó, có bài học kinh
nghiệm xuyên suốt đó là: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân đóng góp,
dân hưởng thụ”.
Tiểu kết chương
Chương 1 tập trung hệ thống hóa các khái niệm và nội hàm có liên quan đến
thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới; đồng thời, làm rõ
quy trình và nhân tố tác động đến thực hiện chính sách. Kinh nghiệm triển khai thực
tiễn tại tỉnh An Giang cũng được đề tài tổng kết ưu, nhược điểm; từ đó, rút ra bài
học kinh nghiệm để triển khai chính sách trong giai đoạn tiếp theo. Kết quả nghiên
cứu của chương 1 đã làm rõ được khung lý thuyết của đề tài, là cơ sở thực hiện các
30
nhiệm vụ đã đặt ra.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNGTRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚITẠI HUYỆN THOẠI SƠN TỈNH AN GIANG
2.1. Tổng quan về điều kiện lãnh thổ huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên [12,30]
Vị trí địa lý:Thoại Sơn là một huyện ở phía Đông Nam của tỉnh An Giang,
thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, cách thành phố Long xuyên khoảng 25km theo
trục tỉnh lộ 943 và tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang và thành phố Cần Thơ về phía
Nam. Huyện có toạ độ địa lý trong khoảng từ 10016’09” đến 10022’22” vĩ độ Bắc và
từ 105005’51” đến 105026’20” kinh độ Đông. Địa giới hành chính được xác định
như sau: Phía Đông giáp thành phố Long Xuyên; Phía Tây giáp huyện Tri Tôn;
Phía Nam giáp tỉnh Kiên Giang và thành phố Cần Thơ; Phía Bắc giáp huyện Châu
Thành.
Diện tích tự nhiên của toàn huyện là 47.082 ha, chiếm 13,31% diện tích của
tỉnh, lớn thứ hai tỉnh (sau huyện Tri Tôn). Dân số 181.878 người, mật độ dân số
trung bình đạt 386 người/km2. Về đơn vị hành chính, Thoại Sơn gồm có 3 thị trấn:
Núi Sập, Phú Hòa, Óc Eo và 14 xã gồm: Tây Phú, An Bình, Vĩnh Phú, Vĩnh Trạch,
Phú Thuận, Vĩnh Chánh, Định Mỹ, Định Thành, Mỹ Phú Đông, Vĩnh Khánh, Thoại
Giang, Bình Thành, Vọng Đông và Vọng Thê.
Với vị trí địa lý thuận lợi tiếp giáp hai tỉnh là thành phố Cần Thơ và tỉnh Kiên
Giang, đồng thời tiếp giáp thành phố Long Xuyên (trung tâm hành chính tỉnh An
Giang) và hai huyện Châu Thành và Tri Tôn như trên là yếu tố quan trọng để huyện
Thoại Sơn phát triển và là một trong các tiềm lực to lớn cần phát huy một cách triệt
để nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói riêng.
Địa hình, địa mạo:Thoại Sơn có địa hình thuộc bán sơn địa (vừa có núi vừa có
đồng bằng). Địa hình của huyện có cao độ thấp dần theo hướng Đông Bắc - Tây
Nam, cao độ trung bình dao động trong khoảng 0,8 - 1,2m (khu vực đồng bằng).
31
Nơi có địa hình thấp nhất tập trung chủ yếu thuộc địa bàn xã Bình Thành, có nơi cao
độ rất thấp khoảng 0,3m so với mực nước biển. Nơi có địa hình cao nhất tập trung
chủ yếu ở địa bàn thị trấn Núi Sập, thị trấn Óc Eo, xã Vọng Đông và một phần xã
An Bình, nơi tập trung những đồi núi vừa và nhỏ. Đặc biệt khu vực núi Ba Thê
thuộc thị trấn Óc Eo có nơi cao độ lên đến trên 200m.
Khí hậu tỉnh An Giang nói chung và huyện Thoại Sơn nói riêng nằm trong khu
vực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm, thuận lợi cho phát triển trồng trọt.
Nhiệt độ thay đổi theo mùa trong năm (có 2 mùa rõ rệt), mùa mưa nhiệt độ có xu
hướng tăng cao hơn, tuy nhiên sự chênh lệch giữa các tháng trong năm không lớn.
Nhiệt độ trung bình khoảng 27,6oC. Chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa tháng
nóng nhất và tháng lạnh nhất khoảng 5,1oC. Thời kỳ lạnh nhất rơi vào tháng 01,
tháng 02 và tháng 12 với nền nhiệt dao động từ 24,6oC – 27,70C. Thời kỳ nóng
nhất rơi vào tháng 4 và tháng 5 với nền nhiệt sấp xỉ 30oC.
Hệ thống thủy lợi kênh rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng lũ hàng năm của sông
hậu. Huyện Thoại Sơn có nhiều lợi thế về giao thông cả về đường bộ và đường thủy.
Sông Thoại Hà là tuyến đường quan trọng cho việc vận chuyển hàng hóa đướng
thủy; giao thông đường bộ được đầu tư kết nối với trục chính của các huyện, thị,
thành phố trong tỉnh và kết nối với các tỉnh lân cận như: Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên
Giang thuận tiên cho giao thương hàng hóa. Ngoài ra còn có nhiều kênh rạch tự
nhiên vừa phục vụ cho tưới tiêu trong sản xuất, vừa phục vụ cho sinh hoạt và giao
thông đường thủy. Hệ thống kênh đào gồm các kênh chính như: Kênh rạch Thoại
Sơn - Tri Tôn, Kênh Tân Vọng, Kênh Trục, Kênh Bốn Tổng... Hệ thống kênh
mương trên địa bàn huyện đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo đất, cung cấp
lượng phù sa màu mỡ và là hệ thống thoát lũ ra biển Tây. Bên cạnh đó, nguồn nước
mưa tương đối lớn thuận lợi cho việc tích trữ sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất
nông nghiệp.
Đất đai là địa bàn sinh sống và hoạt động kinh tế, tài nguyên quan trọng nhất
cho sản xuất nông nghiệp. Ở Thoại Sơn phân bố 3 nhóm đất chính: Nhóm đất cát
núi, nhóm đất phù sa và nhóm đất phèn, trong đó đất phù sa chiếm phần lớn diện
tích của huyện. Nhìn chung, đất có tầng dày, độ phì khá thuận lợi cho canh tác nông
32
nghiệp (trồng lúa nước, nuôi trồng thủy sản, cây lâu năm…) [13].
Với lợi thế ruộng đất phù sa màu mỡ thích hợp cho canh tác lúa kết hợp nuôi
trồng thủy sản, trồng hoa màu và cây ăn trái. Huyện Thoại Sơn là một trong những
huyện có sản lượng lúa lớn nhất trong tỉnh An Giang. Ngoài sản xuất lúa, huyện còn
có thế mạnh về phát triển du lịch tâm linh, kết hợp du lịch sinh thái, như: Khu du lịch
hồ Ông Thoại, Thiền viện Trúc Lâm An Giang, Khu du lịch Óc Eo - Ba Thê; du
khách có thể chiêm ngưỡng những di tích được khai quật và bảo vệ của Vương quốc
Phù Nam, đồng thời khám phá những cổ vật của nền văn hóa Óc Eo phát triển rực rỡ
từ những thế kỷ đầu công nguyên.
Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên về đất, nước, khí hậu kết hợp với quá
trình khai phá và định cư, cư dân Thoại Sơn đã từng bước khai thác, tận dụng các nguồn
lực thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp, du lịch văn hóa. Trong nhiều năm huyện
đã trở thành vựa lúa của tỉnh với sản lượng lúa đứng đầu trong các huyện thị.
2.1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội [17,26,27]
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện bình quân giai đoạn 2015 -
2020 đạt 8,07%/năm, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 6,5%;
Công nghiệp - xây dựng 11,07%; Dịch vụ đạt 9,58%.
Nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế theo hướng từng
bước ứng dụng công nghệ cao, đã áp dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, góp phần tăng năng suất, chất lượng, giảm chí phí sản xuất, từng bước đưa
sản xuất nông nghiệp huyện theo chiều sâu và hướng vào chuỗi giá trị. Sản xuất
lúa vẫn là thế mạnh với diện tích đất canh tác 40.967 ha (chiếm 87,01% diện tích đất
tự nhiên), trong đó: diện tích đất trồng lúa 3 vụ khoảng 39.000 ha, chiếm 95,19%,
diện tích nuôi trồng thủy sản 292 ha, chiếm 0,71%, (trong đó: diện tích tôm càng
xanh 100 ha, chiếm 23,25% diện tích đất thủy sản), diện tích đất lâm nghiệp 132 ha,
chiếm 0,32%; giá trị sản xuất năm 2018 đạt 7.679 tỷ đồng (trong đó: Giá trị sản xuất
lĩnh vực trồng trọt đạt 5.265 tỷ đồng, giá trị sản xuất lĩnh vực chăn nuôi đạt 312 tỷ
đồng, giá trị sản xuất lĩnh vực thủy sản: 987 tỷ đồng, giá trị sản xuất lĩnh vực lâm
nghiệp đạt 27 tỷ đồng, giá trị sản xuất lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp đạt 1.088 tỷ
đồng). Những năm qua, Thoại Sơn tập trung đầu tư thâm canh tăng năng suất nên sản
33
lượng lúa, tôm luôn ở hàng cao nhất tỉnh, năm 2018 sản lượng lúa đạt 757 ngàn tấn,
tăng 3,13% (tăng 23 ngàn tấn) so năm 2017; sản lượng tôm luôn ổn định ở mức 150
tấn, ngoài ra sản lượng cá tra hàng năm khoảng 35 ngàn tấn. Kinh tế hợp tác được
củng cố, phát triển, nhận thức về bản chất, vị trí và vai trò của kinh tế hợp tác
trong phát triển kinh tế - xã hội được nâng lên; việc tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động của hợp tác xã như tiếp cận các chính sách tín dụng, tiếp cận thị trường…
được chú trọng thực hiện và đạt kết quả; toàn huyện, có 14 hợp tác xã nông
nghiệp, với tổng số 701 xã viên, vốn điều lệ là 17 tỷ 263 triệu đồng; Có 8/14 HTX hoạt
động từ 2 dịch vụ trở lên và liên kết tiêu thụ sản phẩm cho thành viên và nông dân; Các
HTX hoạt động đều có lợi nhuận, 4/14 HTX được đánh giá khá/tốt; Có 6 HTX được hỗ
trợ kinh phí để trả lương cho nhân lực trẻ tốt nghiệp đại học về làm việc.
Hoạt động thương mại, dịch vụ rất ổn định và phát triển; tính chung năm 2020,
tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 7.106 tỷ đồng, tăng hơn
10% so cùng kỳ. Huyện đã đẩy mạnh kêu gọi đầu tư và thực hiện xây dựng mới,
nâng cấp, cải tạo, sửa chữa đưa vào hoạt động các chợ, siêu thị, cửa hàng tiện
lợi đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của người dân, hộ tiểu
thương, doanh nghiệp, từng bước hình thành cơ sở hạ tầng thương mại theo
hướng văn minh, hiện đại, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Hoạt động du
lịch có bước phát triển, nhất là du lịch tâm linh, lượng khách tham quan, doanh
thu du lịch hằng năm đều tăng. Nhiều công trình mới, di tích lịch sử, văn hóa,
tín ngưỡng được quan tâm đầu tư đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, góp phần phục vụ,
phát triển du lịch như: Các công trình khảo cổ di tích Văn hóa Óc Eo, Thiền
Viện Trúc Lâm An Giang,… Việc xây dựng, quảng bá thương hiệu du lịch
Thoại Sơn cũng được quan tâm, chú trọng.
Về sản xuất công nghiệp - xây dựng, giá trị sản xuất đạt trên 4.831 tỷ đồng,
vượt 5,50%; cụm công nghiệp Phú Hoà được hình thành từ những năm 2008 đến nay
đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật thu hút được nhiều nhà đầu tư có quy mô lớn,
giải quyết việc làm thường xuyên trên 5.000 lao động.
Về kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, như: điện, đường, trường, trạm, chợ, nước
34
sạch, thông tin, bưu chính viễn thông,... phát triển khá đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh,
đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Đặc biệt, tuyến Tỉnh lộ
943 và 960 được đầu tư nâng cấp đã trở thành trục đường chính kết nối Thoại Sơn với
thành phố Long Xuyên, huyện Tri Tôn và thành phố Rạch Giá - tỉnh Kiên Giang; đây
là những tuyến đường “huyết mạch” kết nối kinh tế, phát triển du lịch quan trọng của
huyện.
Về văn hóa - xã hội:Huyện có 03 dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer, trong đó dân tộc
Kinh chiếm tỷ lệ 97,14%. Có 5 tôn giáo chủ yếu gồm Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo,
Cao Đài, Tin Lành, trong đó Phật giáo chiếm 53,59%, Hòa Hảo chiếm 34,39%. Điểm
nhấn về văn hóa ở Thoại Sơn đó là di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo -
Ba Thê, đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định xếp hạng là di tích quốc gia
đặc biệt. Ngoài ra, huyện còn có nhiều di tích lịch sử cách mạng và kiến trúc nghệ
thuật được xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh như: Hai bia đá và tượng Phật bốn tay -
TT. Óc Eo, Bia Thoại Sơn - TT. Núi Sập, Gò Cây Thị - TT. Óc Eo, đình Vĩnh Phú -
xã Vĩnh Phú.
Thực hiện tốt các chính sách giáo dục và y tế, chính sách an sinh xã hội.
Lồng ghép các nguồn lực, chương trình, dự án đầu tư chăm lo cho công tác xây
dựng trường chuẩn quốc gia, công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, đào tạo
nghề, giúp hộ nghèo thoát nghèo bền vững. Đời sống vật chất và tinh thần của
người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, cận nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số, các đối tượng khó khăn được cải thiện và vươn lên, đảm bảo mục
tiêu an sinh xã hội.
Công tác quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, môi
trường được chú trọng và ngày càng đi vào nề nếp. Việc cấp mới, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo trình tự thủ tục quy định của pháp
luật; việc bảo vệ tài nguyên, môi trường đạt hiệu quả
Với vai trò và vị thế trên, huyện Thoại Sơn được tỉnh đánh giá là địa bàn chiến
lược, quan trọng cả về lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái của
tỉnh An Giang, đồng thời được tỉnh chọn làm điểm đầu tiên xây dựng “Huyện nông
35
thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020.
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn
mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một Chương
trình có tính bao trùm, tích hợp nhiều chính sách khác nhau được thực thi trên một
không gian lãnh thổ cụ thể, đó là ở nông thôn với quy mô khác nhau trên cơ sở các
tiêu chí phù hợp. Theo đó, chính sách môi trường là một trong những chính sách
được lồng ghép triển khai, bên cạnh các chính sách phát triển về kinh tế, xã hội, cơ
sở hạ tầng; được cụ thể hóa ở tiêu chí thứ 17. Do đó, quy trình tổ chức thực hiện
chính sách môi trường luôn được thực hiện đồng thời với quy trình triển khai
Chương trình.
2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
Trên cơ sở các văn bản quy định của Trung ương, gồm: Nghị quyết số 26/NQ-
TU ngày 05/8/2008 của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết
định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành
Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010
của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây
dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày
05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí huyện nông thôn mới
và Quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng
nông thôn mới; Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới,
giai đoạn 2016-2020; Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về việc Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn
2016-2020 và các văn bản, thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương.
Cùng với các văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, gồm:
Quyết định số 599/QĐ-UBND ngày 13/4/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc
phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 của thành phố
Long Xuyên, tỉnh An Giang; Quyết định số 3379/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của
UBND tỉnh An Giang về việc ban hành Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới tỉnh
36
An Giang giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 948/QĐ-UBND ngày 27/03/2017
của UBND tỉnh An Giang về việc ban hành hướng dẫn phương pháp xác định, đánh
giá mức độ đạt tiêu chí xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn
2016-2020; Kế hoạch số 18-KH/TU ngày 14/10/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh An Giang về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” và Nghị quyết số 05-NQ/TU
ngày 15/9/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về “xây dựng nông
thôn mới”.
Huyện Thoại Sơn đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách xây
dựng nông thôn mới thông qua các văn bản, cụ thể: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện:
đã xây dựng Kế hoạch số 181-KH/HU ngày 20/11/2008 để thực hiện và triển khai
phổ biến đến các ban ngành, đoàn thể và UBND các xã, thị trấn; Kế hoạch số 58-
KH/HU ngày 30/12/2011 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện thực hiện Nghị quyết
số 05-NQ/TU, ngày 15/9/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông
thôn mới; Chương trình hành động số 05-CTr/HU ngày 22/7/2016 của BCH Đảng
bộ huyện về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới huyện Thoại Sơn giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 04-NQ/HU ngày
05/12/2016 của Huyện ủy Thoại Sơn về tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm
2017;
Ủy ban nhân dân huyện cũng xây dựng đề án số 101/ĐA.BCĐ ngày
28/12/2010 về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 huyện Thoại Sơn tỉnh
An Giang, và các kế hoạch để thực hiện như: Kế hoạch số 71/KH-UBND, ngày
22/9/2010 của Ủy ban Nhân dân huyện về việc tổ chức thực hiện Chương trình Mục
tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; Kế hoạch, lộ trình, giải pháp thực hiện
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; Kế hoạch số 02/KH-
UBND, ngày 12/01/2011 của Ủy ban Nhân dân huyện về tổ chức Lễ ra quân thực
hiện Chương trình hành động Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2015 và định hướng năm 2020; Kế hoạch số 81/KH-UBND ngày 25/7/2016
của UBND huyện về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới huyện Thoại Sơn giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 82/KH-UBND ngày
25/7/2016 của UBND huyện về việc tổ chức lễ ra quân phát động phong trào thi đua
37
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, toàn bộ những tiêu chí,
chỉ tiêu của huyện được rà soát, đánh giá mức độ đạt, chưa đạt, nguyên nhân khách
quan, chủ quan và khả năng thực hiện để có những biện pháp, giải pháp và lộ trình
cụ thể, khả thi; phấn đấu năm 2017 đạt chuẩn Nông thôn mới 3 xã Thoại Giang,
Định Mỹ, Định Thành; năm 2018 phấn đấu đạt chuẩn 5 xã Vĩnh Khánh, Vĩnh
Chánh, Vọng Đông, Tây Phú, An Bình; năm 2019 phấn đấu đạt chuẩn 4 xã Bình
Thành, Phú Thuận, Mỹ Phú Đông, Vọng Thê. Thời gian các xã hoàn thành các tiêu
chí, chỉ tiêu Nông thôn mới được xác định sớm hơn 1 năm so với thời gian ấn định
của tỉnh. Và đến năm 2020, huyện sẽ công bố đạt chuẩn Huyện nông thôn mới. Đây
là quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng bộ huyện Thoại Sơn. Trên cơ sở các kế
hoạch, các cơ quan Đảng, chính quyền thường xuyên đôn đốc, tập trung huy động,
sử dụng nguồn lực hiệu quả đảm bảo thực hiện các mục tiêu đề ra. Nhằm cụ thể hóa
kế hoạch chung, hàng năm huyện đều xây dựng các kế hoạch triển khai phù hợp,
như: Kế hoạch số 78/KH-UBND ngày 31/5/2017 của UBND huyện về việc tuyên
truyền xây dựng nông thôn mới năm 2017; Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày
16/6/2017 của UBND huyện về việc tổ chức phong trào thi đua “Thoại Sơn chung
sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 – 2020; Kế hoạch số 94/KH-UBND
ngày 19/6/2017 của UBND huyện về việc phát động phong trào thi đua “Thoại Sơn
chung sức xây dựng nông thôn mới” năm 2017; Kế hoạch số 04/KH-UBND ngày
03/1/2018 của UBND huyện về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới huyện Thoại Sơn năm 2018.
Với việc xây dựng kế hoạch của các cơ quan nhà nước theo các chu kỳ dài
hạn, ngắn hạn khác nhau đã đảm bảo tính khả thi về nguồn lực, tính chủ động trong
triển khai; đồng thời, đã lồng ghép hiệu quả các chính sách khác nhau nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nông thôn mới; trong đó, có chính sách môi
trường.
2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Phổ biến, tuyên truyền chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc đưa
chính sách vào cuộc sống, nâng cao kiến thức, hiểu biết cho các chủ thể thực hiện
và người dân góp phần thực hiện hiệu quả các biện pháp hướng đến mục tiêu chung
38
của chính sách; trong đó, gồm các nội dung có liên quan đến thực hiện chính sách
môi trường (đạt được tiêu chí 17). Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt
trong công tác thực thi chính sách hàng năm. Từ kết quả phân tích cho thấy,
Chương trình xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành của địa phương
triển khai đồng bộ với nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau. Cụ thể:
Huyện đã 02 lần tổ chức “Lễ ra quân phát động phong trào thi đua xây dựng
huyện nông thôn mới” giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020 với chủ đề
“Đảng bộ và nhân dân Thoại Sơn quyết tâm xây dựng huyện nông thôn mới”, có trên
1.000 nông dân tiêu biểu và cán bộ, công chức, những người có uy tín cao ở địa
phương về tham dự. Bên cạnh đó, huyện đã ban hành Kế hoạch tổ chức phong trào
thi đua “Thoại Sơn chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020.
Hằng năm, UBND huyện phối hợp Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện và các tổ
chức thành viên thực hiện tuyên truyền Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới đồng thời lồng ghép vào các cuộc vận động thực hiện phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” nhằm vận động các tầng lớp
nhân dân tích cực ủng hộ, hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới. Cụ thể các
hoạt động tuyên truyền của các đoàn thể như:
- Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện: Hướng dẫn cho các xã, thị trấn xây dựng kế
hoạch tổ chức triển khai nội dung trên và tuyên truyền về 05 nội dung cuộc vận động,
3 tiêu chuẩn, 11 tiêu chí gia đình văn hóa, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
thiết thực của cuộc vận động gắn với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa và Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Duy trì thực hiện có hiệu
quả các mô hình như: Mô hình “Ấp tự quản bảo vệ môi trường”; “Hành lang giao
thông thông thoáng, mỗi nhà làm hàng rào cây xanh, cột cờ thẳng tắp”; mô hình “Hội
Mái ấm tình thương”; mô hình “Mỗi tháng một hoàn cảnh nghèo được giúp đỡ”; mô
hình “Bếp ăn tình thương”; mô hình “Đội thiện nguyện xây dựng cầu”; mô hình
“Cổng rào an ninh trật tự”.
- Hội Nông dân huyện: Thực hiện tuyên truyền, vận động hội viên nông dân
tham gia xây dựng nông thôn mới, phối hợp với Ủy ban MTTQVN huyện xây dựng
39
nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo; vận động người dân phát hoang, trồng hoa tạo cảnh
quan xanh - sạch đẹp, tuyên truyền nội dung “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh”; tuyên truyền thực hiện vệ sinh môi trường”.
- Đài truyền thanh huyện: Thực hiện tuyên truyền với nhiều thể loại như: Bản
tin; phóng sự; câu chuyện truyền thanh; chuyên mục về Chương trình MTQG xây
dựng nông thôn mới.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ: Thực hiện công trình “Tuyến đường văn minh”; phát
động cuộc vận động “Phụ nữ chung tay xây dựng nông thôn mới”; phong trào thi đua
“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với
cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với thực hiện xây dựng
nông thôn mới. Vận động các hộ dân trồng hoa, làm hàng rào, cột cờ, phân loại, xử lý
rác hợp vệ sinh.
- Đoàn Thanh niên: Tổ chức tuyên truyền cho thanh niên Chương trình MTQG
xây dựng nông thôn mới; phát động phong trào hội thi “Tuổi trẻ Thoại Sơn chung tay
xây dựng nông thôn mới”; tổ chức trồng cây tạo cảnh quang môi trường, xanh, sạch,
đẹp.
- Ban Dân vận Huyện ủy: Tổ chức phong trào thi đua “Dân vận khéo” và “Dân
vận khéo trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh năm 2018”, với các mô
hình như: Mô hình vận động “Quỹ vì người nghèo và an sinh xã hội"; “Tết Quân -
Dân”; “ấp điểm tham gia bảo hiểm y tế”; “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi”;
“Camera giám sát an ninh trật tự”; “Tín đồ phật giáo Hòa hảo nói không với tội
phạm”.
- UBND các xã: Tập trung tuyên truyền về nội dung các văn bản hướng dẫn,
quy định các tiêu chí nông thôn mới. Vận động người dân tích cực thực hiện các tiêu
chí như: Bảo hiểm y tế; xây dựng cảnh quan môi trường; góp đất, góp công trong việc
xây dựng đường giao thông nông thôn.
- Văn phòng Điều phối nông thôn mới huyện: Phát hành 40.000 tờ rơi tuyên
truyền về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.
- Thưc hiện Kế hoạch số 27/KH-UBND ngày 19/01/2017 của Ủy ban nhân
dân tỉnh An Giang về phát động phong trào thi đua “An Giang chung sức xây dựng
40
nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020”; UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số
93/KH-UBND ngày 16/6/2017 của UBND huyện về tổ chức phong trào thi đua
“Thoại Sơn chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch
số 94/KH-UBND ngày 19/6/2017 của UBND huyện về phát động phong trào thi
đua “Thoại Sơn chung sức xây dựng nông thôn mới” năm 2017; Kế hoạch số
05/KH-UBND-UBMTTQ ngày 03/01/2018 giữa UBND huyện phối hợp UBND
MTTQ huyện và các tổ chức thành viên về tuyên truyền thực hiện chương trình
Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM huyện năm 2018. Hệ thống dân vận, Mặt trận và
các đoàn thể từ huyện đến các xã đều tập trung tuyên truyền, triển khai sâu rộng
trong các tầng lớp nhân dân về các phong trào thi đua, đề án, dự án trong quá trình
thực hiện các mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới và lồng ghép vào các
cuộc vận động thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới,
đô thị văn minh”; phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với xây dựng nông thôn
mới; “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”; nhiều cơ quan, đơn vị đã tổ
chức Hội thi “Chung sức xây dựng nông thôn mới”. Các xã đã tổ chức phát động
phong trào thi đua chung sức xây dựng nông thôn mới và xác định xây dựng nông
thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Kết quả thực hiện công tác phổ biến, tuyên truyền với sự tham gia của toàn bộ hệ
thống chính trị đã tạo được sự kết nối giữa các chủ thể tham gia chính sách; qua đó,
phát huy vai trò trong quá trình triển khai thực hiện chương trình MTQG xây dựng
nông thôn mới nói chung và các chính sách cụ thể, như chính sách môi trường trên
địa bàn.
2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Chương trình là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, diễn ra
trong thời gian dài nên cần thiết có phải sự chỉ đạo thống nhất và phân công, phối
hợp giữa các chủ thể phù hợp, đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm trong
triển khai.
Về thành lập bộ máy thực hiện chương trình: Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết
lãnh đạo, UBND huyện ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ đạo Chương trình
mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện, Văn phòng Điều phối và Tổ Công
41
tác giúp việc. Cụ thể;
- Thực hiện hướng dẫn của Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ Công
tác giúp việc cho Ban Chỉ đạo, phân công từng thành viên phụ trách từng tiêu chí
theo lĩnh vực. Hàng năm, Ủy ban nhân dân huyện rà soát, kiện toàn Ban Chỉ đạo và
Tổ Công tác giúp việc Ban chỉ đạo nông thôn mới của huyện. Thành viên Ban chỉ đạo
gồm các thành viên là lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể liên quan và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân 14 xã. Ban Chỉ đạo do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng
Ban, có 03 Phó Trưởng Ban; Tổ Công tác giúp việc huyện gồm các thành viên là
chuyên viên của các ban, ngành, đoàn thể và 14 Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế của
các xã.
- Ủy ban nhân dân huyện cũng đã ban hành quyết định phân công, phối hợp
giữa ban, ngành, đoàn thể huyện hỗ trợ các xã, thị trấn thực hiện Bộ Tiêu chí xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện, quyết định phân công nhiệm vụ Ban Chỉ đạo
và Tổ Công tác giúp việc Ban Chỉ đạo huyện. Thành lập, kiện toàn Văn phòng Điều
phối cấp huyện do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Chánh Văn phòng, 02
Phó Chánh văn phòng là Trưởng phòng Nông nghiệp & PTNT và Trưởng phòng Tài
chính - Kế hoạch cùng các thành viên là cán bộ của các ban, ngành có liên quan. Văn
phòng điều phối huyện được tổ chức và hoạt động theo đúng quy định. Đồng thời,
phân công nhiệm vụ cho đơn vị chuyên môn gắn với chức năng, nhiệm vụ thực hiện
Chương trình, như: Phòng NNPTNT là cơ quan thường trực có trách nhiệm chủ trì,
phối hợp với các đơn vị xây dựng kế hoạch triển khai; đôn đốc, kiểm tra, giám sát
thực hiện; tham mưu, báo cáo các lĩnh vực liên quan đến phát triển nông nghiệp, xây
dựng NTM; Phòng Y tế có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo chuẩn hóa
về y tế; Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo đạt các
mục tiêu về quy hoạch, tiêu chí về môi trường nông thôn; phòng Tài chính đảm bảo
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn triển khai các nhiệm vụ; ... Mặt trận tổ quốc và tổ
chức chính trị xã hội có các hành động cụ thể gắn với phát triển nông nghiệp, nông
dân và nông thôn, nhất là tập trung vào công tác tổ chức vận động các thành viên tích
42
cực tham gia thực hiện các mục tiêu của Chương trình.
- Đối với cấp xã: Ủy ban nhân dân các xã thành lập, kiện toàn Ban Quản lý xây
dựng nông thôn mới do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm Trưởng ban, trực tiếp điều
hành và tổ chức triển khai thực hiện CT. MTQGXDNTM và thành viên gồm cán bộ
phụ trách các ban, ngành, đoàn thể có liên quan của xã, trưởng ban nhân dân các ấp
và một số nông dân có uy tín và ảnh hưởng tốt đến cộng đồng.
2.2.4. Duy trì thực hiện chính sách
Nhằm bảo đảm duy trì sự tồn tại của chính sách một cách hiệu quả nhất đòi
hỏi các cấp, các ngành phải thường xuyên tham mưu, ban hành các văn bản điều
hành, tổ chức triển khai với các công cụ, giải pháp phù hợp với nguồn lực, bối cảnh
của địa phương theo từng giai đoạn, như: Chương trình hành động số 05-CTr/HU
ngày 22/7/2016 về việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
huyện Thoại Sơn giai đoạn 2016-2020; Đề án số 101/ĐA.BCĐ ngày 28/12/2010 về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 huyện Thoại Sơn.
Công tác củng cố, kiện toàn, phân công nhiệm vụ cho các thành viên được thực
hiện thường xuyên đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ được phân công; kết hợp
với công tác đánh giá thực hiện theo định kỳ để kịp thời khắc phục các tồn tại, hạn
chế; nhân rộng các biện pháp tích cực, như duy trì mô hình “Ấp tự quản bảo vệ môi
trường”; “Hành lang giao thông thông thoáng, mỗi nhà làm hàng rào cây xanh, cột cờ
thẳng tắp”; duy trì chuỗi liên kết doanh nghiệp – hộ nông dân tham gia sản xuất với
các kỹ thuật thân thiện với môi trường, công nghệ sinh thái, sản phẩm làm ra được
truy xuất nguồn gốc (Công ty Gentraco hợp đồng bao tiêu thụ với diện tích 450 ha;
Công ty Cổ phần tập đoàn Lộc Trời liên kết bao với tổng diện tích hơn 6.200 ha),...
Ngoài ra, có chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực đảm bảo nâng cao năng lực
cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới ở các cấp. Cụ thể: Giai đoạn 2010 -
2019, Ban Chỉ đạo huyện đã phối hợp với Văn phòng Điều phối nông thôn mới tỉnh
tổ chức 7 đợt tập huấn tại huyện, có trên 1.247 lượt học viên tham dự là thành viên
ban chỉ đạo huyện, tổ công tác giúp việc ban chỉ đạo huyện, thành viên ban quản lý
14 xã và đại diện nông dân tiêu biểu tại các ấp của 14 xã. Ngoài ra, phối hợp với Ban
quản lý nông thôn mới các xã cử cán bộ tham gia 09 lớp tập huấn tại tỉnh với trên 350
43
lượt cán bộ tham dự; phối hợp Sở Công thương tổ chức tập huấn xây dựng nông thôn
mới kết hợp phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện, với 160 người tham dự.
Qua các đợt tập huấn đã giúp cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện Chương trình và
và một số nông dân tiêu biểu hiểu rõ hơn những chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới đồng thời nâng cao kiến thức
quản lý, nghiệp vụ chuyên môn và kỹ năng vận động cộng đồng về xây dựng nông
thôn mới; điều kiện quan trọng góp phần duy trì thực hiện chính sách tích cực, bền
vững nhất.
2.2.5. Điều chỉnh chính sách
Địa phương thường xuyên điều chỉnh các kế hoạch thực hiện trên tinh thần
bám sát các kế hoạch của tỉnh và trung ương phù hợp với bối cảnh địa phương theo
từng thời kỳ. Cụ thể:
* Giai đoạn I (2011-2015)
- Các văn bản của Trung ương
Căn cứ Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Quyết
định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020; Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số
342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi
một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Các văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh
Căn cứ Kế hoạch số 18-KH/TU ngày 14 tháng 10 năm 2008 của BCH Đảng
bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 15
tháng 9 năm 2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông thôn mới;
Quyết định số 1958/QĐ-UBND ngày 19 tháng 10 năm 2010 của UBND tỉnh An
Giang về việc ban hành Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới; Quyết định số
2361/QĐ-UBND ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
44
về việc ban hành Bộ tiêu chí về nông thôn mới.
- Các văn bản của Ủy ban nhân dân huyện
Căn cứ Kế hoạch số 181-KH/HU ngày 14 tháng 10 năm 2008 của Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Kế hoạch số 58-KH/HU
ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về xây dựng nông
thôn mới.
* Giai đoạn II (cập nhật đến 6/2019)
- Các văn bản của Trung ương
Căn cứ Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 1730/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2016 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Phong trào thi
đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định
số 1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; Nghị
định 161/2016/NĐ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ về cơ chế đặc thù
trong quản lý đầu tư xây dựng đối với một số dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc
gia giai đoạn 2016 - 2020.
- Các văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh
Căn cứ Quyết định số 3379/QĐ-UBND ngày 28 tháng 11 năm 2016 về việc ban
hành Bộ tiêu chí xã nông thôn mới tỉnh An Giang giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định
số 948/QĐ-UBND ngày 27 tháng 3 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban
hành hướng dẫn phương pháp xác định, đánh giá mức độ đạt tiêu chí xã nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016 - 2020.
- Các văn bản của Ủy ban nhân dân huyện
Căn cứ Kế hoạch số 81/KH-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2016 của Ủy ban nhân
dân huyện về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch số 82/KH-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2016 của Ủy
ban nhân dân huyện về việc tổ chức lễ ra quân phát động phong trào thi đua xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch số 78/KH -UBND ngày 31 tháng 5
45
năm 2017 của Ủy ban nhân dân huyện về việc tuyên truyền xây dựng nông thôn mới
năm 2017; Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 16 tháng 6 năm 2017 của Ủy ban nhân
dân huyện về việc tổ chức phong trào thi đua “Thoại Sơn chung sức xây dựng nông
thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày 19 tháng 6 năm
2017 của Ủy ban nhân dân huyện về việc phát động phong trào thi đua “Thoại Sơn
chung sức xây dựng nông thôn mới” năm 2017; Kế hoạch số 04/KH-UBND ngày 03
tháng 01 năm 2018 của Ủy ban nhân dân huyện về việc thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện Thoại Sơn năm 2018.
Khi các văn bản quy định về Chương trình thay đổi cũng kéo theo các tiêu chí
về kinh tế, xã hội và môi trường có sự biến động cả về số lượng các tiêu chí và chỉ
tiêu đạt chuẩn. Đối với tiêu chí về môi trường cũng không nằm ngoài xu hướng đó,
giữa 2 giai đoạn căn cứ theo Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới theo
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới và Quyết định số
1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020 đã tăng
03 tiêu chí đối với chuẩn nông thôn mới cấp xã (Bộ Tiêu chí ban hành năm 2009 có
05 tiêu chí, gồm: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc
gia; Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường; Không có các hoạt động suy
giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp; Nghĩa
trang được xây dựng theo quy hoạch; Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo
quy định. Bộ Tiêu chí ban hành năm 2016 bổ sung thêm các tiêu chí về tỷ lệ hộ có
nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đảm bảo 3 sạch; Tỷ lệ hộ
chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường; Tỷ lệ hộ gia đình và
cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn thực
phẩm). Chỉ tiêu cũng có chuẩn cao hơn, như: đối với tiêu chuẩn thứ nhất về nước sinh
hoạt, Bộ chỉ tiêu 2016 yêu cầu đạt ít nhất 95% số hộ sử dụng nước hợp vệ sinh; trong
đó tối thiểu 65% hộ sử dụng nước sạch.
Đối với cấp huyện, Bộ chỉ tiêu 2016 đã quy định cụ thể hơn, gồm 02 chỉ tiêu
chuẩn cho tiêu chí môi trường thay vì quy định về số lượng cấp xã đạt chuẩn như Bộ
46
chỉ tiêu 2009.
Bảng 2.1. Thay đổi tiêu chí môi trường trong các Bộ Tiêu chí quốc gia
về xây dựng nông thôn mới
Bộ Tiêu chí 2009 Bộ Tiêu chí 2016
TT Nội dung Nội dung Tiêu chí
1
75% 17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch theo quy định Tiêu chí ≥95% (≥65% nước sạch)
2
Đạt 100% 17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia 17.2. Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường 17.2. Tỷ lệ cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định về bảo vệ môi trường
3
Đạt Đạt 17.3. Xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn
4
Đạt 17.3. Không có các hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp 17.4. Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch 17.4. Mai táng phù hợp với quy định và theo quy hoạch UBND cấp tỉnh quy định
5
Đạt Đạt 17.5. Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định
6 ≥70%
7 ≥70%
8
100%
17.5. Chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất - kinh doanh được thu gom, xử lý theo quy định 17.6. Tỷ lệ hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đảm bảo 3 sạch[3] 17.7. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường 17.8. Tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm
Nguồn: Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới; và Quyết định số
1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
47
Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020
2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Ban Chỉ đạo huyện đã tham gia kiểm tra xã điểm theo kế hoạch của tỉnh, ngoài
ra hàng năm huyện đều lập kế hoạch và thực hiện kiểm tra thực hiện
CT.MTQGXDNTM ở các xã với tần suất mỗi tuần kiểm tra 1 xã, qua đó nắm bắt
thông tin để có giải pháp chỉ đạo, hỗ trợ, giải quyết những khăn, vướng mắc của các
xã trong quá trình triển khai thực hiện.
Trong chỉ đạo Ban Chấp hành Đảng bộ huyện luôn phát huy trí tuệ tập thể, đặc
biệt là người đứng đầu phải thật sự gương mẫu, nhiệt huyết; phải sâu sát, năng nổ, tận
tụy, phải động viên khích lệ cho cả hệ thống chính trị đồng bộ vào cuộc. Mỗi cán bộ từ
xã đến các ấp, từ Mặt trận và các tổ chức đoàn thể ai cũng phải là những tuyên truyền
viên trong xây dựng nông thôn mới. Thông qua, công tác kiểm tra giám sát của Huyện
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, những cán bộ đứng đầu cấp Ủy,
Chính quyền, Mặt trận đoàn thể đến cán bộ ấp, nếu thiếu nhiệt huyết, lơ là trách nhiệm
đều bị kiểm điểm, kỷ luật, thuyên chuyển vị trí khác, những vị trí lãnh đạo cho người
có tâm, có tầm, có trách nhiệm để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Thực tiễn cho thấy với cách chỉ đạo trên vừa nâng cao vai trò trách nhiệm vừa tạo động
lực thúc đẩy cả hệ thống chính trị cùng người dân nông thôn vào cuộc, chung tay xây
dựng nông thôn mới.
Trong điều hành huyện chọn bước đi giải pháp tối ưu nhất phù hợp với điều kiện
xuất phát điểm của địa phương: Chọn xã điểm chỉ đạo thực hiện để rút kinh nghiệm và
nhân rộng cho các xã trên địa bàn; chọn các giải pháp ưu tiên thực hiện: Tập trung phát
triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghệ cao, thân thiện
với môi trường. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các giải pháp về nguồn vốn và thủ tục
đầu tư để thực hiện hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn tạo sự đột phá cho phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội môi trường, an ninh trật tự của địa phương. Phát triển nông
thôn mới gắn với việc khai thác triệt để thế mạnh của địa phương như: phát triển du
48
lịch sinh thái, du lịch tâm linh, phát triển mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao, thân thiện với môi trường theo đặc trưng của địa phương từ Chương trình mỗi xã
một sản phẩm (OCOP).
Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, UBND huyện phối hợp chặt chẽ
với các đồng chí Tỉnh uỷ viên được phân công phụ trách địa bàn huyện, thường
xuyên kiểm tra đôn đốc tình hình thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu tại các xã; đồng thời,
phổ biến những cách làm hay, sáng tạo để nhân rộng, đảm bảo đạt chuẩn đúng lộ
trình kế hoạch đề ra.
Ban chỉ đạo tham mưu UBND huyện xây dựng kế hoạch thực hiện hằng năm
trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp, đánh giá, theo dõi tiến độ thực hiện các tiêu chí, chỉ
tiêu của ngành phụ trách và báo cáo theo yêu cầu của UBND huyện đồng thời, chỉ
đạo UBND các xã xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể theo lộ trình, kế hoạch huyện
đề ra; Tranh thủ nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, tỉnh và huy động các nguồn lực địa
phương tập trung xây dựng nông thôn mới.
Ban Chỉ đạo huyện luôn quan tâm lắng nghe, tranh thủ sự hiến kế của các tầng
lớp nhân dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới; chủ động liên hệ với Sở, ban,
ngành tỉnh để tiếp nhận các chủ trương, chính sách mới, các văn bản chỉ đạo có liên
quan xây dựng nông thôn mới và nguồn kinh phí để tham mưu triển khai thực hiện;
trực tiếp hỗ trợ các xã điều tra, khảo sát, cập nhật, tổng hợp số liệu theo từng tiêu chí,
chỉ tiêu.
2.2.7. Đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách
Địa phương đã có triển khai hiệu quả phương pháp đánh giá tổng kết,rút kinh
nghiệm với sự tham gia của các cơ quan, ban, ngành, nhất là đã huy động được sự
tham gia của người dân thông qua các tổ chức chính trị xã hội, như: tổ chức lấy ý
kiến đánh giá sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới
huyện Thoại Sơn bằng cách phát phiếu, thu phiếu: Trực tiếp đến từng hộ dân để
phát phiếu, hướng dẫn ghi phiếu và thu phiếu, kết hợp với tiếp thu lắng nghe và trả
lời các ý kiến của hộ dân; kết quả có tổng số hộ được lấy ý kiến: 26.822/44.703 hộ,
chiếm 60% (trong đó: TT. Núi Sập 3.078 hộ; TT. Phú Hòa 1.759 hộ; TT. Óc Eo
49
2.006 hộ; Các xã: Phú Thuận 1.462 hộ; Vĩnh Chánh 1.411 hộ; Vĩnh Khánh 1.507
hộ; Vĩnh Trạch 2.478 hộ; Vĩnh Phú 1.658 hộ; Định Mỹ 1.419 hộ; Định Thành 1.905
hộ; Thoại Giang 1.573 hộ; Bình Thành 1.330 hộ; Vọng Đông 1.596 hộ; Mỹ Phú
Đông 643 hộ; Tây Phú 1.023 hộ; An Bình 1.094 hộ; Vọng Thê 880 hộ). Kết quả câu
hỏi số 8 về các tiêu chí môi trường:
+ Hài lòng: 26.150/26.822 phiếu, chiếm tỷ lệ 97,49%.
+ Chưa hài lòng: 672/26.822 phiếu, chiếm tỷ lệ 2,51%.
Đồng thời, người dân cũng góp ý về triển khai chương trình, như:
- Vấn đề nâng cấp, mở rộng các tuyến ống nước sạch phục vụ sinh hoạt:
+ Đề nghị tiếp tục mở rộng các tuyến ống cấp nước sạch cho người dân sử
dụng, cụ thể: Tuyến Đông, Tây kênh Phú Tây - xã Phú Thuận; tuyến Ba Dầu - xã
Vĩnh Phú; tuyến Mỹ Giang - xã Thoại Giang; một số tuyến của ấp Hiên Hảo, ấp
Thoại Giang II, ấp Thoại Giang III - xã Bình Thành; tuyến kênh cùng ấp Sơn Hòa,
tuyến Đông, Tây Kiên Hảo - ấp Sơn Tân - xã Vọng Đông; một số tuyến của ấp Phú
Thạnh, ấp Phú Hùng, ấp Phú Hòa xã Tây Phú; tuyến kênh Tân Vọng, kênh EC - xã
Vọng Thê.
+ Đề nghị cần nâng công suất nhà máy nước để phục vụ sinh hoạt cho người
dân tốt hơn - xã Vĩnh Trạch.
- Vấn đề thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt:
+ Huyện cần đầu tư mở rộng và nâng công suất lò đốt rác thị trấn Núi Sập, để
phục vụ cho các xã, thị trấn trên địa bàn.
+ Đề nghị xe thu gom rác cần tăng chuyến, đi đúng giờ và thu gom rác phải
đảm bảo vệ sinh, nhất là bãi rác ở các khu công nghiệp tại thị trấn Phú Hòa và xã
Vọng Thê.
+ Một số tuyến đường nhánh, tuyến đường phụ chưa có xe thu gom rác, đề
nghị bổ sung các xe thu gom cải tiến, nhỏ vào thu gom rác để đảm bảo vệ sinh môi
trường, cụ thể các tuyến: tuyến Bắc Ba Thê mới và Đông Núi Chóc - Năng Gù, một
số tuyến nhánh thuộc các xã Vọng Đông, xã Vĩnh Chánh, xã Vĩnh Khánh, xã Vĩnh
50
Phú, Mỹ Phú Đông.
- Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm: Cần tăng cường công tác kiểm tra chất
lượng các cơ sở bán nước đóng bình, đóng chai trên địa bàn huyện.
- Vấn đề hệ thống xử lý nước thải khu dân cư: Cần tiếp tục đầu tư hoàn thiện
hệ thống thu gom xử lý nước thải tại các khu dân cư các xã, thị trấn.
Trên cơ sở các ý kiến tham gia về kết quả thực hiện các tiêu chí kết hợp với báo
cáo kiểm tra, giám sát, Ban chỉ đạo huyện đã định kỳ hàng tháng, quý tổ chức sơ kết,
đánh giá tiến độ thực hiện từng tiêu chí, chỉ tiêu; hàng năm tổng kết công tác xây
dựng nông thôn mới, rút ra những mặt hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để
xây dựng kế hoạch, giải pháp thực hiện tốt hơn cho những năm tiếp theo. Chẳng hạn,
dựa trên kết quả tổng kết xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2018, UBND
huyện đã đặt ra nhiệm vụ trong những năm tiếp theo để duy trì, giữ vững, nâng chất
các kết quả đã đạt, cụ thể như sau:
- Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi và sâu rộng
bằng nhiều hình thức phong phú cho cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân
nắm được những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây
dựng nông thôn mới. Thực hiện công tác tuyên truyền trên Đài truyền thanh địa
phương để thông tin thường xuyên về các mô hình, các điển hình tiên tiến; kịp thời
động viên, khuyến khích việc học tập và nhân rộng các mô hình, các điển hình;
đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện cho
chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn: Tiếp tục hoàn thành các thủ
tục hồ sơ, triển khai thi công các tuyến đường giao thông. Tiếp tục đầu tư xây mới,
nâng cấp mở rộng hệ thống cấp nước tập trung trên địa bàn các xã, thị trấn để tăng tỉ
lệ sử dụng nước sạch. Tập trung đầu tư phát triển mạng lưới điện nông thôn; thực
hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển điện phục vụ các khu sản xuất nông nghiệp
tập trung. Tiếp tục củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở; nâng cấp Trung tâm y
tế huyện, trạm y tế; đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Thúc đẩy, tạo điều kiện phát triển ngành nghề phi nông nghiệp thông qua các
51
nguồn lực tín dụng ưu đãi từ các chương trình, chính sách. Trong đó, về công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (CN – TTCN), huyện tập trung đầu tư các ngành
công nghiệp mũi nhọn như: chế biến lương thực, thực phẩm, cơ khí, vật liệu xây
dựng và mở ra các ngành nghề TTCN, phát triển các dịch vụ công nghiệp phục vụ
cho nông nghiệp, nhất là công nghệ sau thu hoạch, các nguyên liệu từ nông, thuỷ
sản qua chế biến để tăng thêm giá trị hàng hoá nông sản. Bên cạnh đó, huyện đã quy
hoạch, sắp xếp các ngành nghề TTCN để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tăng sức
cạnh tranh trên thị trường. Song song đó, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật các cụm
công nghiệp, đẩy mạnh chương trình khuyến công, tiếp tục cải cách thủ tục hành
chính, chứng nhận ưu đãi đầu tư, vay vốn ngân hàng... tạo điều kiện thuận lợi nhất
để mời gọi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đến đầu tư phát
triển sản xuất. Trước mắt tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp Thái Bình (sản xuất giày da,
túi xách) Phú Hòa xây dựng các nhà xưởng và thu nhận thêm lao động vào làm việc
(dự kiến đến năm 2020 thu hút 14.000 lao động vào làm việc).Thu hút doanh nghiệp
đầu tư sản xuất kinh doanh, phấn đấu nâng số doanh nghiệp trên địa bàn lên gấp đôi
so với hiện nay. Tiếp tục nâng cao chất lượng chợ trung tâm xã phấn đấu đạt chuẩn
chợ an toàn thực phẩm nhằm nâng cao năng lực kinh doanh.
- Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp; tăng cường quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã trong nông nghiệp,
nông thôn; hỗ trợ, nâng chất hoạt động HTX theo Luật Hợp tác xã năm 2012;
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, Tổ hợp tác phát triển; hoàn thiện,
phát triển và nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả; tăng cường phát triển các
loại hình cung cấp dịch vụ cho các thành viên HTX và các chuỗi liên kết sản xuất,
tiêu thụ nông sản mang tính bền vững.
- Tiếp tục quan tâm tuyên truyền, vận động người dân giữ gìn vệ sinh môi
trường nông thôn; xây dựng và sử dụng nhà tắm, nhà tiêu, bể chứa nước hợp vệ
sinh, thay đổi thói quen, tập tục lạc hậu gây ô nhiễm môi trường; tổ chức thu gom,
tập kết, vận chuyển và xử lý rác, chất thải rắn đảm bảo theo quy định; kiểm soát các
cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trường, vệ
52
sinh an toàn thực phẩm; cơ sở chăn nuôi phải có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh;
xây dựng và nhân rộng mô hình bảo vệ môi trường khu dân cư, mô hình cảnh quan
xanh, sạch và đẹp.
- Tổ chức tuyên truyền, triển khai các văn bản về luật dân quân tự vệ trong dân
và xây dựng lực lượng dân quân "vững mạnh, rộng khắp" và hoàn thành các chỉ tiêu
quốc phòng. Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố lực lượng Dân quân tự vệ
thực sự mạnh cả về chất và tư tưởng chính trị. Giữ vững an ninh chính trị - trật tự an
toàn xã hội; Quan tâm xây dựng, củng cố lực lượng Công an, tổ tự quản, lực lượng
Dân phòng.
2.3. Kết quả thực hiện tiêu chí về môi trường trong xây dựng nông thôn mới
2.3.1. Kết quả đạt chuẩn nông thôn mới
- Tổng số xã trên địa bàn huyện là: 14 xã.
- Số xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới: 14/14 xã. Tỷ lệ xã đạt
chuẩn nông thôn mới là 100%. Lũy kế cụ thể như sau:
+ Năm 2015 có 02/14 xã gồm: Vĩnh Phú và Vĩnh Trạch, đạt chuẩn nông thôn
mới, tỉ lệ 14,28%.
+ Năm 2016 có thêm 01 xã Thoại Giang đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số
03/14 xã đạt, tỉ lệ 21,43%.
+ Năm 2017 có thêm 03 xã gồm: Định Thành, Định Mỹ và Vĩnh Khánh đạt
chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số 06/14 xã đạt, tỉ lệ 42,85%.
+ Năm 2018 có thêm 08 xã gồm Vĩnh Chánh, Bình Thành, Vọng Đông, An
Bình, Tây Phú, Vọng Thê, Phú Thuận và Mỹ Phú Đông đạt chuẩn nông thôn mới,
nâng tổng số 14/14 xã đạt, tỉ lệ 100%.
- Kết quả thực hiện tiêu chí huyện nông thôn mới: đã đạt 9/9 tiêu chí. Đã được
công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới năm 2018; trước lộ trình 2 năm so với
Nghị quyết của đảng bộ tỉnh.Không dừng lại ở đó, huyện đã và đang tiếp tục duy trì,
nâng chất tiêu chí nông thôn mới đạt được, đồng thời triển khai thực hiện kế hoạch
53
xây dựng nông thôn mới nâng cao.
2.3.2. Kết quả đạt chuẩn về môi trường - Tiêu chí 17
2.3.2.1. Đối với cấp xã
* Yêu cầu của tiêu chí
Bảng 2.2. Tiêu chí số 17 về xã nông thôn mới
Tiêu chí TT Chỉ tiêu
17.1 ≥95% Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch (≥65% nước theo quy định sạch)
17.2 Tỷ lệ cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, 100% làng nghề đảm bảo quy định về bảo vệ môi trường
17.3 Xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an Đạt toàn
17.4 Địa phương quy Mai táng phù hợp với quy định và theo quy hoạch định
17.5 Chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập
trung, cơ sở sản xuất - kinh doanh được thu gom, xử lý Đạt
theo quy định
17.6 Tỷ lệ hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước sinh hoạt hợp ≥70% vệ sinh và đảm bảo 3 sạch
17.7 Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ ≥70% sinh môi trường
17.8 Tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm 100% tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm
Nguồn : Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ
* Kết quả thực hiện
- Trong thời gian qua, huyện đã quan tâm đầu tư hệ thống nước sạch phục vụ tốt
nhu cầu của người dân. Toàn huyện có 04 nhà máy nước và 13 hệ thống cấp nước tập
trung đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho người dân trên địa bàn huyện. Bình quân
54
trên địa bàn 14 xã tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch theo quy định đạt 89,35%
(29.754/33.299 hộ), tăng 15.937 hộ sử dụng nước sạch (tương đương tăng 46,17%) so
với năm 2011. Tỷ lệ hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đảm
bảo 3 sạch đạt 92,30% (30.735/33.299 hộ), tăng 187 hộ (tương đương tăng 23,85%) so
với năm 2011. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại đảm bảo hợp vệ sinh môi trường đạt
89,33% (30.735/33299 hộ), tăng 27,81 % so với năm 2011.
- Cảnh quan xanh, sạch, đẹp: Các hội đoàn thể cấp huyện, xã thường xuyên phối
hợp với các ngành tổ chức vệ sinh môi trường, phát quang bụi rậm, cỏ dại ven đường,
vận động người dân trồng hoa, cây xanh và làm hàng rào để tạo cảnh quan xanh -
sạch - đẹp. Ngoài ra, UBND huyện cũng xây dựng kế hoạch thực hiện 13 tuyến
đường hoa với khoảng 153 km các loại hoa như: bông trang, hoàng yến, mười giờ,
hoa màu gà, dừa cạn… để tạo vẽ mỹ quan cho huyện. Kết quả đến nay, 100% số xã
đạt chỉ tiêu cảnh quan xanh - sạch - đẹp.
- Nhằm để tiết kiệm nguồn kinh phí đầu tư xây dựng nghĩa trang, địa phương đã
vận động sự hỗ trợ từ Mạnh Thường Quân, các tổ chức xã hội từ thiện, trên cơ sở hiện
trạng đã hình thành 04 khu nghĩa trang nhân dân ở các xã Vĩnh Trạch, Thoại Giang, Óc
Eo, Mỹ Phú Đông, phục vụ cho việc mai táng của người dân ở các xã lân cận. Việc mai
táng trên địa bàn các xã đều được thực hiện theo quy định.
- Về cơ sở sản xuất kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy
định về bảo vệ môi trường: Tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh, nuôi trồng thủy sản
và làng nghề trên địa bàn 14 xã của huyện thuộc đối tượng phải thực hiện thủ tục
hành chính về môi trường là 413 cơ sở. Trong đó 413/413 cơ sở đã thực hiện thủ tục
hành chính về môi trường và thực hiện đúng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi
trường theo hồ sơ được duyệt đạt tỷ lệ 100%. Trong đó:
+ Cơ sở sản xuất kinh doanh: Có 387/387 cơ sở, các cơ sở này đều đã lập thủ
tục hành chính về môi trường và thực hiện theo đúng các giải pháp giảm thiểu ô
nhiễm môi trường theo hồ sơ được duyệt.
+ Cơ sở nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch ngành: Có 25/25 cơ sở, các cơ sở
này đều đã lập thủ tục hành chính về môi trường và thực hiện theo đúng các giải pháp
giảm thiểu ô nhiễm môi trường theo hồ sơ được duyệt. Ngoài ra, trên địa bàn các xã
55
còn có 201 hộ nuôi thủy sản nhỏ, lẻ bằng hình thức nuôi vèo, ao hầm, bè (diện tích
mặt nước dưới 5.000 m2) không thuộc đối tượng thực hiện hồ sơ môi trường. Đối với
các hộ này địa phương đã yêu cầu cam kết đảm bảo vệ sinh môi trường cũng như các
điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm, không sử dụng chất cấm trong nuôi trồng
thủy sản.
+ Làng nghề: Trên địa bàn huyện có 01 làng nghề tiểu thủ công nghiệp bó chổi
cọng dừa Vĩnh Chánh, đã được UBND tỉnh An Giang công nhận làng nghề tiểu thủ
công nghiệp theo Quyết định số 1879/QĐ-UBND ngày 07/10/2010. Làng nghề được
UBND huyện Thoại Sơn phê duyệt phương án bảo vệ môi trường tại Quyết định số
3175/QĐ-UBND ngày 07/05/2018.
- Về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nông nghiệp: Năm 2018 thực hiện Kế
hoạch số 383/KH-UBND ngày 28/06/2018 của UBND tỉnh An Giang về nhân rộng
mô hình thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng trên
địa bàn tỉnh An Giang. Huyện đã thực hiện tại 03 xã là Tây Phú, Vĩnh Chánh và Vĩnh
Trạch với tổng số là 174 thùng và 33 hố thu gom được bố trí tại các tuyến đường cộ,
đường ra cánh đồng thuận lợi cho việc thu gom, vận chuyển và tập kết rác của người
dân. Tính đến nay, đã thu gom, xử lý được hơn 03 tấn vỏ, bao bì thuốc bảo vệ thực
vật sau sử dụng. Bên cạnh đó, huyện đã tích cực vận động một số doanh nghiệp phối
hợp với các xã thực hiện mô hình “Cùng nông dân bảo vệ môi trường”, để hỗ trợ địa
phương xây dựng các bể thu gom và đổi trả vỏ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau sử
dụng. Đối với phụ phẩm nông nghiệp, địa phương đã vận động người dân thu gom
phục vụ cho việc trồng nấm, trồng hoa cây cảnh, thức ăn gia súc,…đảm bảo yêu cầu
vệ sinh môi trường.
- Thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt: Tổng lượng chất thải rắn
sinh hoạt phát sinh trên địa bàn 14 xã là 58 tấn/ngày. Trong đó, lượng rác thải sinh
hoạt phát sinh được thu gom, vận chuyển xử lý khoảng 28,8 tấn/ngày đạt tỷ lệ
49,66%; Lượng rác thải sinh hoạt còn lại được hướng dẫn phân loại và xử lý bằng các
biện pháp hợp vệ sinh như: chôn, đốt, ủ phân compost,…khoảng 29,2 tấn/ngày chiếm
56
tỷ lệ 50,34%.
Bảng 2.3. Tổng hợp khối lượng thu gom, xử lý rác 14 xã
Rác được thu gom, Rác được hộ dân Tổng khối xử lý tại nhà máy tự thu gom, xử lý lượng chất Khối Khối lượng Đơn vị thải rắn STT lượng rác hộ dân tự hành chính sinh hoạt được thu Tỷ lệ % thu gom, Tỷ lệ % phát sinh gom, xử lý xử lý (tấn/ngày) (tấn/ngày) (tấn/ngày)
1 Xã Vĩnh Trạch 7,38 5,93 80,35% 1,45 19,65%
2 Xã Vĩnh Phú 4,25 3,00 70,59% 1,25 29,41%
3 Xã Thoại Giang 5,00 3,06 61,20% 1,94 38,80%
4 Xã Vĩnh Khánh 3,47 1,79 51,59% 1,68 48,41%
5 Xã Định Thành 5,47 4,49 82,08% 0,98 17,92%
6 Xã Định Mỹ 3,97 1,29 32,49% 2,68 67,51%
7 Xã Tây Phú 3,01 1,16 38,54% 1,85 61,46%
8 Xã Vĩnh Chánh 4,26 1,81 42,49% 2,45 57,51%
9 Xã Bình Thành 4,23 0,96 22,70% 3,27 77,30%
10 Xã An Bình 2,74 0,88 32,12% 1,86 67,88%
11 Xã Vọng Đông 4,47 1,50 33,56% 2,97 66,44%
12 Xã Vọng Thê 2,85 1,18 41,40% 1,67 58,60%
13 Xã Phú Thuận 4,67 1,40 29,98% 3,27 70,02%
14 Xã Mỹ Phú Đông 2,23 0,35 15,70% 1,88 84,30%
Tổng cộng 58,00 28.80 49,66% 29,20 50,34%
Nguồn: UBND Thoại Sơn (2019). Báo cáo số 250/BC-UBND, ngày 03/7/2019
- Thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải y tế: Tổng lượng rác thải y tế phát sinh
của các cơ sở y tế trên địa bàn 14 xã là 3 kg/ngày; 100% lượng rác thải y tế lây nhiễm
tại các cơ sở y tế xã đều được phân loại, hợp đồng với Công ty Cổ phần Môi trường
57
đô thị An Giang thu gom định kỳ và xử lý theo quy định.
- Về xử lý nước thải khu dân cư tập trung: Trên địa bàn huyện có tổng số 16
khu dân cư tập trung; nước thải sinh hoạt ở các khu dân cư được thu gom bằng hệ
thống cống, lắng bằng hố gas và sử lý ao sinh học trước khi thải ra môi trường.
- Về tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy
định về đảm bảo an toàn thực phẩm: Công tác quản lý nhà nước về ATTP đã được
quan tâm, nghiêm túc triển khai kế hoạch để thực hiện về ATTP; công tác tuyên
truyền giáo dục, phổ biến pháp luật về ATTP được thực hiện thường xuyên. Công tác
kiểm tra, giám sát về ATTP được duy trì thường xuyên và được tổ chức thành các đợt
cao điểm hàng năm trong các ngày lễ, ngày tết, tháng hành động vì ATTP. Bình quân
trên địa bàn 14 xã có 2.268/2.268 hộ gia đình kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy
định về đảm bảo ATTP đạt 100%, tăng 35,2% (tương đương tăng 1.192 hộ) so với
năm 2011.
* Đánh giá: 14/14 xã đạt tiêu chí 17 về Môi trường và ATTP theo Quyết định
số 1980/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 3379/QĐ-UBND của
UBND tỉnh An Giang.
2.3.2.2. Đối với cấp huyện
* Yêu cầu của tiêu chí
Bảng 2.4. Tiêu chí số 17 về xã nông thôn mới
TT Tiêu chí Chỉ tiêu
7.1 Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện Đạt đạt tiêu chuẩn
7.2 Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng
nghề, chăn nuôi, chế biến lương thực - thực phẩm) thực 100%
hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường
Nguồn: Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ
* Kết quả đạt được
Chỉ tiêu 7.1 về Hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn huyện đạt tiêu
chuẩn
- Bãi rác thị trấn Núi Sập có diện tích khoảng 17.705 m2, được chia thành 03 ô
58
chứa, hiện trạng lượng rác chứa đầy các ô, tổng lượng rác tồn lưu khoảng 57.388m3.
+ Giải pháp khắc phục ô nhiễm tạm thời: Đã thực hiện hoàn thành khắc phục ô
nhiểm tạm thời tại bãi rác thị trấn Núi Sập, kết quả thức hiện như sau: Tiến hành san
ủi mặt bằng tạo mái dốc thu gom rác ở các phía taluy, tạo rãnh thoát để thu gom
lượng nước rỉ rác về phía ao chứa lục bình; tiến hành phủ đỉnh bằng tấm che HDPE,
trong quá trình san ủi đã phun xịt khử mùi, côn trùng để giảm mùi hôi và ô nhiễm
môi trường.
+ Giải pháp lâu dài: Bãi rác thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn thuộc danh mục
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cần được xử lý lý theo Quyết định số 1788/QĐ-
TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020. Để thực hiện đóng
lấp triệt để bãi rác thị trấn Núi Sập, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt điều chỉnh dự
án đầu tư xây dựng công trình đóng lấp tại Quyết định số 275/QĐ-UBND ngày
14/02/2019 do Sở Tài nguyên và Môi trường chủ đầu tư, hiện nay Sở Tài nguyên và
Môi trường đang hoàn chỉnh thủ tục đầu tư, sẽ triển khai dự án trong quý IV năm
2019 dự kiến thời gian hoàn thành đến cuối năm 2020. Phương án xây dựng như sau:
Phương án thiết kế và thi công được thực hiện đảm bảo theo quy định bãi chôn lấp
rác thải hợp vệ sinh, bao gồm các công đoạn: đào xúc, chuyển rác rác tồn lưu về 1
bên bãi rác; xây dựng các ô chôn lấp hợp vệ sinh (lót đáy, chống thấm, lắp đặt hệ
thống thu gom nước rỉ rác, khí thải); tiến hành chôn lấp rác vào hố và phủ đỉnh.
- Khu xử lý chất thải rắn: Trên địa bàn huyện được đầu tư 01 nhà máy xử lý
chất thải rắn với diện tích 3.288 m2, công nghệ sấy giảm ẩm và lò đốt sơ cấp nhiệt độ
từ 850o - 1.0000C, công suất xử lý rát 36 tấn/ngày, do Công ty Cổ phần Môi trường
Đô thị làm chủ đầu tư, đặt tại thị trấn Núi Sập - huyện Thoại Sơn. Nhà máy xử lý chất
thải rắn được thiết kế đảm bảo đạt QCVN 61-MT:2016/BTNMT - Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt và đã thực hiện đầy đủ hồ sơ, thủ tục
về môi trường như: Báo cáo đánh giá tác động môi trường (Quyết định số 1039/QĐ-
STNMT ngày 13/10/2017 của Sở Tài nguyên và MT); Kế hoạch vận hành thử
nghiệm các công trình xử lý chất thải; Báo cáo giám sát môi trường. Dự kiến sau khi
59
vận hành thử nghiệm sẽ nâng công suất lên 50 tấn/ngày (theo thông báo kết luận số
113/TB-UBND ngày 27/2/2019 của UBND tỉnh về chấp thuận chủ trương cho phép
điều chỉnh, nâng công suất Nhà máy xử lý chất thải rắn huyện Thoại Sơn).
- Tổng lượng chất thải rắn phát sinh trên địa bàn huyện bình quân là 90 tấn/ngày
(kể cả khu vực đô thị). Hiện nay đã tổ chức thu gom rác được 16 xã, thị trấn theo hình
thức hợp đồng với Công ty Cổ phần Môi trường đô thị An Giang tổ chức thu gom, xử
lý và một phần UBND xã tổ chức thu gom bằng các phương tiện như: xe kéo, xe đẩy
tay, đối với các tuyến đường nhánh, nhỏ hẹp xe cơ giới không vào được. Tổng khối
lượng thu gom là 39 tấn/ngày. Trong đó, nhà máy xử lý rác Thoại Sơn tiếp nhận và
xử lý 36 tấn/ngày. Riêng xã Vĩnh Phú tự tổ chức thu gom, vận chuyển về khu xử lý
rác của xã để xử lý theo công nghệ A.B.T với khối lượng khoảng 03 tấn/ngày. Tổng
kinh phí thu gom, xử lý năm 2018 trên địa bàn huyện là 4.733 triệu đồng.
- Đối với những khu vực biệt lập, khó khăn trong việc vận chuyển, UBND các
xã tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân phân lại rác, sử dụng hố rác gia đình
để xử lý các loại rác thải hữu cơ, dễ phân hủy, tận dụng làm phân bón phục vụ nông
nghiệp. Bên cạnh đó, huyện đã phê duyệt kế hoạch mở rộng tuyến thu gom rác thải
sinh hoạt trên địa bàn các xã nông thôn mới đến năm 2020.
- Công tác thu gom, xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật: Hiện các xã tập trung
công tác tuyên truyền, vận động nông dân thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau
sử dụng. Giảm thiểu hoặc sử dụng các chế phẩm sinh học thân thiện môi trường trong
sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, huyện đã phê duyệt kế hoạch tuyên truyền duy trì
và nhân rộng các mô hình thu gom, xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng,
hợp đồng với Công ty Cổ phần Môi trường đô thị An Giang tổ chức thu gom, xử lý
theo đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BNNPTNT-BTNMT
ngày 15/05/2016 giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và
Môi trường.
- Đối với chất thải rắn y tế: Tổng lượng rác thải y tế phát sinh của các cơ sở y tế
trên địa bàn huyện là 33kg/ngày; (trong đó lượng rác thải y tế phát sinh của các trạm y tế
xã là 3kg/ngày, lượng rác thải y tế phát sinh của bệnh viện huyện là 30kg/ngày); 100%
lượng rác thải y tế lây nhiễm tại các cơ sở y tế trên địa bàn huyện đều được phân loại,
60
hợp đồng với Công ty Cổ phần Môi trường đô thị An Giang thu gom định kỳ và xử lý
theo quy định tại Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015
giữa Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Đối với chất thải nguy hại: các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn
huyện thực hiện việc phân loại, thu gom, lưu giữ và xử lý theo đúng nội dung cam kết
trong hồ sơ môi trường đã được phê duyệt và tuân thủ đúng quy định tại Thông tư số
36/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về quản lý chất
thải nguy hại.
- Để đảm bảo thực hiện tốt các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nơi
công cộng, khu dân cư, UBND huyện Thoại Sơn đã phê duyệt các quy ước khóm, ấp
trong đó có các nội dung về quy định bảo vệ môi trường trên địa bàn các xã, thị trấn
và được niêm yết công khai để nhân dân thực hiện. Bên cạnh đó, để tăng cường tính
hiệu quả, hiệu lực trong việc thực hiện quy ước, UBND các xã vận động, tuyên
truyền người dân. Đặc biệt là tại các khu, cụm, tuyến dân cư cam kết thực hiện giữ
gìn vệ sinh môi trường, không vứt, bỏ rác bừa bãi nơi công cộng, thực hiện lối sống
thân thiện môi trường.
Chỉ tiêu 7.2 về Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ thực hiện đúng các quy định về
bảo vệ môi trường
- Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ đảm bảo quy định về môi trường: trên địa
bàn huyện có 413 cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ thuộc đối tượng lập hồ sơ môi
trường, trong đó: Có 05 cơ sở đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường, đề án bảo vệ môi trường chi tiết; 408 cơ sở được xác nhận cam kết hay kế
hoạch bảo vệ môi trường đơn giản; Các cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ có phát sinh
chất thải nguy hại đều có đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại và quản lý chất
thải nguy hại theo quy định; Các cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ có phát sinh nước
thải công nghiệp đều nộp phí bảo vệ môi trường theo quy định. Nhìn chung, cơ sở sản
xuất, chế biến, dịch vụ trên bàn 14 xã của huyện đầy đủ các thủ tục môi trường, các
giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường theo quy định. Đến nay, chưa có phản ánh
nào về việc gây ô nhiễm môi trường.
- Làng nghề bó chổi cọng dừa Vĩnh Chánh (153 hộ thành viên) cơ bản đảm bảo
61
về mặt thủ tục môi trường. UBND cấp xã tổ chức thực hiện các nội dung bảo vệ môi
trường làng nghề theo Phương án đã được phê duyệt như: Thành lập Mô hình Tổ tự
quản vệ sinh môi trường làng nghề; lập Ban Chỉ đạo và xây dựng Quy chế hoạt động
của Tổ tự quản góp phần đảm bảo quản lý tốt chất thải từ làng nghề.
* Đánh giá:
- Chỉ tiêu 7.1:Huyện đạt chỉ tiêu về hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên
địa bàn huyện đạt tiêu chuẩn theo Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của
Thủ tướng Chính phủ.
- Chỉ tiêu 7.2: Huyện đạt chỉ tiêu về Cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ thực hiện
đúng các quy định về bảo vệ môi trường theo Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày
05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông
thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
2.4.1. Những kết quả đạt được của việc thực hiện chính sách
- UBND huyện đã khẩn trương triển khai công tác xây dựng Chương trình, kế
hoạch thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện; xác định
rõ nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ
thống chính trị với việc thành lập bộ máy thực hiện với Ban Chỉ đạo tham mưu xây
dựng kế hoạch thực hiện theo từng giai đoạn cụ thể, kèm theo các biện pháp triển
khai làm cơ sở cho công tác điều hành, giám sát, đánh giá.
- Công tác phổ biến, tuyên truyền được quan tâm bằng nhiều hình thức tuyên
truyền sinh động hiệu quả, như: xây dựng phóng sự, bài viết về xây dựng nông thôn
mới tuyên truyền trên các phương tiện thông tin và trên trang thông tin điện tử huyện;
tổ chức Hội thi chung sức xây dựng nông thôn mới; qua đó, nhận thức của cấp ủy,
chính quyền, của cả hệ thống chính trị và của nhân dân về Chương trình xây dựng
nông thôn mới đã chuyển biến, có sức lan tỏa sâu rộng và rõ nét; vai trò chủ thể của
người dân trong xây dựng nông thôn mới đã từng bước được xác định rõ ràng, đã
khuyến khích, động viên được người dân tham gia đóng góp tiền của, công sức, đất
đai để cùng chung sức xây dựng nông thôn mới.
- Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách được thiết lập đồng bộ với Ban Chỉ đao
62
huyện thường xuyên được kiện toàn, tổ chức và hoạt động đúng quy định. Thành viên
Ban Chỉ đạo hiện nay được kiện toàn theo Quyết định 4409/QĐ-UBND ngày
01/10/2018, gồm 32 thành viên là lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể liên quan; 14
thành viên là chủ tịch UBND 14 xã. Ban Chỉ đạo do Chủ tịch UBND huyện làm
Trưởng Ban, có 03 Phó Trưởng Ban, trong đó 01 phó trưởng ban thường trực là Phó
chủ tịch UBND huyện. Tổ Công tác giúp việc huyện gồm: 27 thành viên là chuyên
viên của các ban, ngành, đoàn thể và 14 thành viên là phó Chủ tịch phụ trách kinh tế
của 14 xã.
Ban Chỉ đạo huyện đã có những đột phá trong công tác điều hành, đổi mới
phương thức lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát từng công việc cụ thể, tăng cường kiểm tra,
giám sát kịp thời cho ý kiến và chủ trương của từng ban ngành, từng xã để thực hiện
các mục tiêu của chương trình. Trong huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới
đã thể hiện được tính sáng tạo trong sử dụng nguồn vốn ngân sách Trung ương, ngân
sách tỉnh, lồng ghép với nguồn vốn các chương trình mục tiêu, vốn vay tín dụng,
doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn huy động nhân nhân đóng góp để bố trí theo hướng
ưu tiên cho các nội dung trọng điểm của địa phương, cụ thể:
Tổng kinh phí đã thực hiện: 2.119.359 triệu đồng, trong đó:
- Ngân sách Trung ương: 96.686 triệu đồng, chiếm 4,56%;
- Ngân sách tỉnh: 1.127.432 triệu đồng, chiếm 53,2%;
- Ngân sách huyện: 201.391 triệu đồng, chiếm 9,5%;
- Ngân sách xã: 3.815 triệu đồng, chiếm 0,18%;
- Vốn lồng ghép từ các CT, DA: 327.374 triệu đồng, chiếm 15,45%;
- Vốn vay tín dụng: 26.529 triệu đồng, chiếm 1,25%;
- Vốn doanh nghiệp đóng góp: 60.659 triệu đồng, chiếm 2,86%;
- Vốn nhân dân đóng góp: 250.450 triệu đồng, chiếm 11,82%
- Vốn huy động khác: 25.022 triệu đồng, chiếm 1,18%.
Kết quả, trong giai đoạn 2010 – 2019, tổng kinh phí thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng nông thôn mới của huyện Thoại Sơn là 2.119,359 tỷ đồng. Tính đến
tháng 6/2019 huyện Thoại Sơn không có nợ đọng xây dựng cơ bản trong thực hiện
63
Chương trình
- Công tác chỉ đạo, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, bám sát cơ sở địa
bàn phụ trách, từ đó giải quyết tháo gỡ kịp thời các khó khăn của cơ sở; chính vì vậy,
huyện đã vượt 2 năm so với kế hoạch để đạt tất cả các tiêu chí về chuẩn nông thôn
mới; trong đó, chất lượng môi trường ngày càng được nâng cao, bản sắc văn hóa dân
tộc được giữ gìn và ngày càng phát triển; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh
chính trị được giữ vững; trật tự xã hội được đảm bảo; hệ thống tổ chức chính trị ngày
càng vững mạnh, dân chủ ở cơ sở được phát huy.
Nhìn chung, Qua 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới đã mang lại nhiều kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào kết
quả phát triển chung của huyện. Kết quả tổ chức thực hiện mang tính chủ động,
linh hoạt đã huy động được tất cả các thành phần, nhân dân hưởng ứng, góp phần
tích cực vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng các thiết chế văn hóa,
giảm tỷ lệ hộ nghèo, cải thiện mức sống của người dân tại khu vực nông thôn.
Người dân đã tích cực hiến đất, đóng góp công lao động và tiền mặt để làm đường
giao thông, kênh thủy lợi và các công trình phúc lợi xã hội. Hầu hết các công trình
giao thông, thủy lợi đều được người dân hiến đất; nhiều hộ còn góp tiền mặt, công
sức để xây dựng. Đồng thời, các tiêu chí về môi trường cũng đã được triển khai hiệu
quả, đạt chuẩn cùng với các kết quả chung của Chương trình. Năm 2018, huyện đã
được công nhận là huyện nông thôn mới – huyện đầu tiên của tỉnh An Giang với
100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Trong thời gian tới huyện đang tiếp tục triển
khai các kế hoạch duy trì, nâng cao các tiêu chí để đạt chuẩn nông thôn mới chất
lượng cao.
2.4.2. Những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách
- Văn bản chính sách được ban hành nhiều với các chính sách mang tính ngành,
lĩnh vực đòi hỏi công tác chỉ đạo điều hành phải thường xuyên, liên tục; năng lực thực thi
của nguồn nhân lực cần chuyên sâu, mang tính hệ thống để tránh đầu tư dàn trải, phân
tán nguồn lực.
- Một số địa phương công tác chỉ đạo, điều hành chưa kịp thời, cán bộ chưa
nghiên cứu hết nội dung của cuộc vận động, nên việc tham mưu còn lúng túng trong
64
quá trình triển khai thực hiện.
- Tiến độ xây dựng nông thôn mới thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn do nguồn
vốn ngân sách phân bổ chương trình còn hạn chế trong khi nhiều xã có rất nhiều chỉ tiêu
cần vốn hỗ trợ của Nhà nước. Năng lực huy động vốn ngoài ngân sách còn hạn chế nên
nhiều chỉ tiêu nếu không tiếp tục được hỗ trợ sẽ khó duy trì, như:
+ Chỉ tiêu về cảnh quan môi trường, chất lượng các thành phần môi trường tuy đã
đạt được nhưng tỷ lệ chưa cao, thiếu tính bền vững;
+ Công tác quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường ở một số địa phương chưa được
đồng bộ, vẫn còn tình trạng chất thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
+ Tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia
trên địa bàn nông thôn chưa bảo đảm yêu cầu. Kết quả đánh giá khi khảo sát thực tế
tại các xã cho thấy mức đạt chỉ tiêu các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về
môi trường là chưa bền vững. Mặt khác, các cơ sở sản xuất kinh doanh đa phần nhỏ
lẻ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, việc xử lý môi trường là tự phát, chưa có báo cáo đánh
giá tác động môi trường... là những nguy cơ gây ảnh hưởng đến môitrường.
+ Việc sử dụng đất nghĩa trang vẫn phụ thuộc vào phong tục, tập quán địa
phương, chủ yếu chôn cất người qua đời tại vườn nhà, sườn núi,…của gia đình mà
chưa quan tâm đến việc chôn cất tập trung ở nghĩatrang.
+ Tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt có tăng nhưng vẫn còn thấp, chưa
đạt yêu cầu - chỉ mới thu gom và xử lý được khoảng 60% lượng rác thải sinh
hoạt phát sinh trên địa bàn toàn huyện, đặc biệt là ở khu vực đô thị. Hơn nữa,
công suất nhà máy xử lý rác tập trung của huyện chỉ đạt 50 tấn/ngày.đêm nhưng
ước tính lượng rác thải sinh hoạt toàn huyện 97 tấn/ngày, nên vấn đề đặt ra là
phải nâng công suất nhà máy xử lý rác hoặc có phương án đầu tư thêm nhà máy
để nâng tỷ lệ thu gom xử lý đạt tiêu chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn
mới kiểu mẫu và khu vực đô thị.
+ Sản phẩm thay thế túi ny-lông và các sản phẩm từ nhựa chưa được phổ biến
rộng rãi, thiếu đồng bộ và khả năng áp dụng thực tế vào cuộc sống còn hạn chế.
- Sự tham gia của người dân, vẫn còn một bộ người dân chưa thông hiểu được chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân,
65
nông thôn, chưa nhiệt tình tham gia tổ chức thực hiện, còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ
vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Việc huy động nguồn lực trong dân có lúc gặp không ít
khó khăn; tại một số công trình cấp nước sạch, đơn vị quản lý đã phối hợp với Trung tâm
Nước sạch và VSMT, UBND các xã tuyên truyền vận động bà con nhân dân tích cực sử
dụng nước sạch để bảo đảm sức khỏe, tuy nhiên vẫn còn nhiều hộ đăng ký lắp đặt đồng
hồ nhưng lại không sử dụng nước hoặc thậm chí có hộ tháo đồng hồ cất đi. Do tập quán
dân cư sinh sống theo các tuyến đường, ven các tuyến sông, kênh, rạch không tập trung
nên việc thu gom, xử lý rác thải tại khu vực nông thôn gặp nhiều khó khăn. Ở những
tuyến đường nhỏ, không tổ chức xe thu gom rác, hầu hết các gia đình tự xử lý rác thải
của nhà mình bằng các biện pháp đơn giản như đốt, chôn, thậm chí để
vàomộtgócvườnrồi đốt.Khôngítnơingườidântuỳtiệnxảrácthảisảnxuấtvà sinh hoạt bừa
bãi; làm chuồng trại gia súc gần nơi ăn ở... gây ô nhiễm môi
trường,ảnhhưởngxấuđếnsứckhoẻcộngđồngvàbộmặtnôngthôn.
2.4.3. Nguyên nhân của tồn tại hạn, chế
- Kỹ năng tuyên truyền của một số cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền còn
hạn chế, nội dung tuyên truyền về nông thôn mới khá nhiều nên việc chuyển tải
thông tin đến người dân từng lúc chưa đầy đủ và kịp thời.
- Công tác tuyên truyền còn tính một chiều, chưa liên tục để tạo thành thói quen
trong người dân. Đa số các xã không có cán bộ chuyên trách về xây dựng nông thôn
mới nên khó khăn trong công tác tham mưu về xây dựng nông thôn mới.
- Thoại Sơn cơ bản vẫn là huyện nông nghiệp, điều kiện kinh tế - xã hội còn
nhiều khó khăn, phải nhận hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Trung ương, tỉnh. Kinh tế
chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp; tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực nông
nghiệp chưa thật sự đột phá; sản xuất quy mô nhỏ chiếm ưu thế nên địa phương hạn
chế nguồn thu; thu nhập của người dân đã đạt chuẩn nhưng chưa cao nên khó thực
hiện xã hội hóa.
Bên cạnh đó, các giá trị công nghiệp, thương mại chưa cao; Doanh nghiệp đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn còn quá ít. Đồng thời, các yếu tố khách quan
như giá cả các mặt hàng nông sản, thủy sản thiếu ổn định, thị trường đầu ra đôi lúc
gặp khó khăn, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của biến đổi khí
66
hậu, gây khó khăn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nội ngành.
- Cáccấp cơ sở còn thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà chưa
phát huyđược vai trò chủ thể của người dân. Bên cạnh đó, còn một bộphận người dân ý
thức giữ gìn vệ sinh môi trường trong xây dựng nông thôn mới chưa cao. Một số địa
phương đã xây dựng phong trào bảo vệ môi trường song chưa thường xuyên, liên tục.
Một số đoàn thể chính trị xã hội tuy có phát động nhưng chưa gìn giữ để phong trào đi
vào nền nếp.
- Môi trường Thoại Sơn chịu không ít những sức ép từ việc phát triển kinh tế -
xã hội, mặc dù hiện tại cơ bản đã đạt được các chỉ tiêu, tiêu chí trong Bộ tiêu chí
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, chưa có dấu hiệu ô nhiễm nghiêm trọng,
nhưng với những gì đang diễn ra địa phương đang đứng trước những nguy cơ tiềm
ẩn về sự ô nhiễm môi trường. Cụ thể là sự tập trung, gia tăng dân số sẽ làm cho
lượng rác thải và nước thải ngày càng nhiều hơn; tốc độ đô thị hoá, phương tiện lưu
thông ngày càng phát triển trong khi một bộ phận người dân chưa ý thức được việc
bảo vệ môi trường; quá trình phát triển và mở rộng các khu và cụm công nghiệp,
đặc biệt là các nhà máy chế biến nông sản, công ty may mặc…; việc nuôi trồng thủy
sản ao, hầm với lượng thức ăn dư thừa và tồn dư thuốc bảo vệ thực vật; việc canh
tác nông nghiệp lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật; một lượng nước không nhỏ sau
những cơn mưa lớn kéo theo cặn bả, rác thải chứa nhiều tạp chất, vi khuẩn gây hại
chảy vào sông, kênh, rạch,... Các tiến trình trên sẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự mất cân bằng sinh thái và là nguy cơ làm cho môi trường của huyện bị ô nhiễm
nghiêm trọng, nếu trong tương lai địa phương không có biện pháp khắc phục.
Vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn không chỉ bó hẹp trong địa bàn huyện mà
còn liên quan đến các khu vực khác nên khó kiểm soát. Hoạt động chăn nuôi với hai
loại hình: Trang trại và hộ gia đình. Loại hình chăn nuôi theo mô hình hộ gia đình đang
là nguồn gây ô nhiễm khó kiểm soát đối với môi trường không khí tại các khu vực
nông thôn. Trong quá trình chăn nuôi, khí CO2 thải ra chiếm 9%, khí CH4 chiếm 37%,
khí NOx chiếm 65% và các khí khác: H2S, NH3…
Hoạt động trồng trọt không ngừng gia tăng về sản lượng, theo đó là sự gia tăng
liều lượng và chủng loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học. Công tác thu gom,
67
lưu giữ và xử lý các loại hóa chất, vỏ bao bì hóa chất bảo vệ thực vật nhiều nơi thải
bỏ ngay tại đồng ruộng, chưa được thu gom triệt để, từ đó phát sinh mùi, khí thải gây
ảnh hưởng đến môi trường không khí, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người.
Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường còn hạn
chế, chưa nhân rộng do thiếu kinh phí và cơ chế liên kết giữa doanh nghiệp và người
dân còn hạn chế. Theo kết quả nghiên cứu khảo sát cho thấy: một số hộ dân đã từ bỏ
thực hiện liên kết với doanh nghiệp Lộc Trời do công ty đòi hỏi cao về kỹ thuật canh
tác, theo hướng hạn chế sử dụng hóa chất, sản xuất theo hướng thuận thiên nhưng
năng suất không cao, giá không linh hoạt theo thị trường.
Hoạt động chôn lấp, xử lý rác, chất thải là các bãi rác lộ thiên, chưa được đầu
tư xử lý theo quy định, chưa lót đáy chống thấm, không được che phủ bề mặt, chưa
có hệ thống thu gom, xử lý nước rỉ rác, rác thải được thu gom về bãi rác tập trung
và xử lý theo hình thức phun thuốc diệt côn trùng, khử mùi, đốt để giảm khối lượng
rác. Các bãi rác này đã và đang ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, gây ô nhiễm
môi trường đất và nước. Bên cạnh đó, hoạt động chôn lấp heo trong đợt dịch bệnh
đã góp phần tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, do đó cần tiếp tục quan trắc theo
dõi trong thời gian tới.
Hệ thống thoát nước thải tại khu vực nông thôn chưa được chú trọng đầu tư.
Hầu hết nước thải sinh hoạt, chăn nuôi, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các làng
nghề, chợ đều đổ trực tiếp ra môi trường, ngấm vào đất hoặc chảy vào ao, hồ,
sông... vừa gây mất mỹ quan, vừa tiềm ẩn nhiều khả năng lây lan dịch bệnh. Hơn
nữa, việc quy hoạch và xây dựng chợ nhiều nơi không gắn với việc xử lí rác thải.
Sau mỗi phiên chợ, rác do người dân vứt bừa bãi ven đường hoặc tràn xuống các
dòng sông. Thiếu kinh phí cũng khiến cho một số xã đã thành lập được tổ, đội thu
gom rác thải nhưng hoạt động không thường xuyên. Thêm vào đó, nguồn ngân sách
hỗ trợ cho các địa phương còn thấp, chưa tương xứng với nội dung tiêu chí. Mặt
khác, chế độ thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác cho xây dựng nông
thôn mới nói chung, tiêu chí 17 nói riêng còn chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp
68
đầu tư vào lĩnh vực môitrường.
Tiểu kết Chương
Chương 2 đã nghiên cứu đặc điểm lãnh thổ như là nguồn lực của thực hiện
CTMTQG về xây dựng nông thôn mới. Theo đó, huyện có vị trí địa lý thuận lợi và sở
hữu nhiều điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cùng với tài nguyên về văn hóa
là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, được sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan cấp tỉnh đã huy động cả hệ thống chính trị cùng
vào cuộc, tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân đối với chủ trương xây dựng
nông thôn mới.
Để thực thi chính sách, huyện đã hình thành bộ máy tổ chức, ban hành các văn
bản đảm bảo tính khả thi với các kế hoạch gắn liền với quy trình thực hiện chính sách.
Đồng thời, các cấp chính quyền đã chủ động, giải quyết kịp thời các vướng mắc, khó
khăn, phát huy được điểm tích cực trên tinh thần vận dụng, sử dụng hợp lý các nguồn
lực từ cấp tỉnh, trung ương theo tiếp cận tổng hợp lãnh thổ để thực hiện mục tiêu đề ra.
Trong đó, chính sách môi trường đã được lồng ghép triển khai, thể hiện cụ thể tại tiêu
chí số 17. Kết quả huyện đã được công nhận nông thôn mới năm 2018. Tuy nhiên,
trong triển khai Chương trình, nhất là chính sách môi trường còn bộc lộ những khó
khăn, nổi bật là tính bền vững trong duy trì các chỉ tiêu còn hạn chế do thiếu nguồn tài
69
chính duy trì, đầu tư; do ý thức của cán bộ và người dân.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN THOẠI SƠN TỈNH AN GIANG
3.1. Định hướng thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông
thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
3.1.1. Định hướng phát triển lãnh thổ
Định hướng phát triển huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang đã được Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII xác định [17]: Xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; giữ vững quốc
phòng, an ninh; đổi mới, sáng tạo, lấy kinh tế nông nghiệp làm nền tảng phát
triển; phấn đấu xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao đến năm 2025. Phát
triển lãnh thổ dựa trên quan điểm:
- Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh là
trọng yếu, thường xuyên.
- Phát triển kinh tế - xã hội của huyện phải phù hợp với phát triển kinh tế -
xã hội chung của tỉnh, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương và đảm bảo
tính hiệu quả, bền vững.
- Lấy nông nghiệp làm nền tảng của nền kinh tế, từng bước đẩy mạnh
phát triển thương mại - dịch vụ, du lịch và công nghiệp; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân.
- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; huy động, sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, gắn với xây dựng nông thôn
mới nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới tiếp tục được nhấn mạnh trong quan điểm phát
triển giai đoạn 2021-2025, trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị của
Chương trình trong giai đoạn 2016 - 2020 và tiếp tục thực hiện Chương trình
70
MTQG Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 nhằm hướng đến mục
tiêu nâng cao hơn nữa về đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông
thôn và xây dựng nền kinh tế nông nghiệp thịnh vượng, bền vững với các chỉ
tiêu chủ yếu:
(1) Nâng cao thu nhập bình quân người dân khu vực nông thôn theo chuẩn
nông thôn mới nâng cao, đạt mức từ 85 triệu đồng/người/năm trở lên.
(2) Giá trị sản xuất bình quân/ha đất nông nghiệp: 230 triệu đồng/ha/năm.
(3) Số lượng Doanh nghiệp phát triển trên địa bàn đến năm 2025: 402
doanh nghiệp.
(4) Thu ngân sách từ kinh tế địa bàn: 682 tỷ đồng.
(5) Tỉ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đến năm 2025: đạt từ 85% đến 90%.
(6) Tỉ lệ hộ nghèo đến năm 2025 giảm còn: 0,74%
(7) Tỉ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền
kinh tế đến năm 2025: 68%.
(8) Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn dân đến năm 2025: 95%.
(9) Tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh hoạt: 99,70%.
(10) Tỷ lệ cơ quan Nhà nước các cấp hoàn thiện chính quyền điện tử: 90%.
(11) Phấn đấu đến năm 2025, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
Hướng đến xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao vào năm 2025.
3.1.2. Định hướng lồng ghép chính sách môi trường trong xây dựng nông
thôn mới
Thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng nông thôn mới giữ vai trò
quan trọng, bởi môi trường là một trong những hợp phần quan trọng để đạt được
mục tiêu phát triển bền vững. Do đó, bất cứ một lãnh thổ nào muốn phát triển bền
vững cần đảm bảo tính bền vững của 03 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính sách môi trường trên thực tế luôn được lồng ghép trong triển khai Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; cụ thể hóa trong các tiêu chí về
Quy hoạch và tiêu chí số 17 về môi trường. Tiêu chí môi trường ngay từ khi bắt đầu
triển khai chương trình (năm 2010) đã luôn quan tâm, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói giảm nghèo gắn với coi trọng bảo vệ, cải thiện môi trường. Ðặc biệt,
71
đẩy mạnh truyền thông nhằm thay đổi tư tưởng, thói quen, tập quán của nhân dân,
thực hiện nếp sống văn minh; nâng cao ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường
sống từ những việc làm nhỏ nhất. Tuy nhiên, theo các kết quả đánh gia đều khẳng
định so với các chính sách thuộc các hợp phần khác, việc triển khai các tiêu chí môi
trường luôn khó khăn; khó duy trì tính bền vững. Đây được xem là một mắt xích cần
giải pháp đột phá hơn nữa để đảm bảo tính bền vững của hệ thống Chương trình. Vì
vậy, trong thời gian tới cần có sự quan tâm, định hướng, đầu tư, chuyển đổi mạnh
mẽ để duy trì và nâng cao chuẩn tiêu chí.
Thực hiện tốt chính sách môi trường, tạo tính bền vững theo hướng nâng cao
của tiêu chí môi trường trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới sẽ là cơ sở để đạt được mục tiêu phát triển toàn diện lãnh thổ cả về kinh tế,
xã hội và môi trường theo giai đoạn đã xác định [26]:
Giai đoạn 2021 - 2025
- Phấn đấu đến năm 2024 có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và
đến năm 2025 huyện Thoại Sơn đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao.
- Toàn huyện có 100% trường học đạt chuẩn quốc gia, thu nhập bình quân khu
vực nông thôn đạt trên 62 triệu đồng/người/năm; Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều (trừ hộ
nghèo thuộc diện bảo trợ xã hội hoặc nguyên nhân bất khả kháng) đạt 0%; Tỷ lệ
người dân tham gia bảo hiểm y tế trên 98%; Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt trên
95%; Lượng rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện được thu gom và xử lý theo quy
định phải đạt trên 80%.
Giai đoạn 2025 - 2030
- Phấn đấu đến năm 2030 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
- Toàn huyện có 100% trường học đạt chuẩn quốc gia, thu nhập bình quân khu
vực nông thôn đạt trên 65 triệu đồng/người/năm; Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều (trừ hộ
nghèo thuộc diện bảo trợ xã hội hoặc nguyên nhân bất khả kháng) đạt 0%; Tỷ lệ
người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 100%; Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt
100%; Lượng rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện được thu gom và xử lý theo quy
72
định phải đạt trên 90%.
Đối với tiêu chí môi trường trong thời gian tới, huyện xác định một chỉ tiêu tăng
cao, đó là: Chỉ tiêu 17.1: tiếp tục cải tạo, nâng cấp các công trình cấp nước sinh hoạt
để đảm bảo chất lượng cung cấp cấp nước sạch và nước hợp vệ sinh theo quy định.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách môi trường
trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy thực hiện chính sách
Với môi trường chính sách luôn biến động đòi hỏi tổ chức bộ máy, nhất là bộ
phận tham mưu cần trau dồi các kỹ năng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn,
nhất là kỹ năng phân tích tổng hợp, hệ thống để có cái nhìn khách quan nhất theo lãnh
thổ tránh tiếp cận đơn lẻ theo ngành, lĩnh vực để phân bổ và huy động các nguồn lực
thực hiện mục tiêu đã xác định.
Theo đó, để bộ máy thực hiện hiệu quả cần tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao
trình độ năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan, ban ngành và tổ chức đoàn thể
với nội dung phù hợp với từng đối tượng, gắn lý luận và thực tiễn địa phương; gắn
mục tiêu với công cụ triển khai.
Cần xây dựng cơ chế, phối hợp, kiểm tra, giám sát có tính chặt chẽ đối với các
cơ quan, ban ngành phụ trách thực hiện tiêu chí về môi trường đối với cấp xã, cấp
huyện, kể cả về nguồn lực tài chính, con người để nâng cao tính trách nhiệm trong đề
xuất các giải pháp thực thi và duy trì hiệu quả.
Đồng thời, tăng cường sự thống nhất tập trung chỉ đạo, điều hành của các cấp
Ủy Đảng, nâng cao hiệu quả lãnh đạo; hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền, phát
huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, chính trị -
xã hội. Phải quán triệt sâu sắc nội dung của nghị quyết, làm rõ trách nhiệm cụ thể của
các tổ chức trong triển khai thực hiện; phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận
động, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ ý nghĩa chính trị, kinh tế,
nhân văn của Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, từ đó phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền và nhân rộng các mô hình
73
hay điển hình
Công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới luôn được quan tâm, đã góp
phần làm chuyển biến nhận thức và hành vi của cộng đồng dân cư về phát triển kinh
tế, xã hội gắn với quản lý, bảo vệ môi trường. Vị thế của các tiêu chí về môi trường
đã được lồng ghép, đề cập; tuy nhiên, tính bền vững trong ứng xử với môi trường
của người dân và chính quyền vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Sở dĩ có thực trạng trên
là bởi công tác tuyên truyền đôi khi còn mang tính hình thức, chưa phù hợp với
từng đối tượng nên hiệu quả chưa cao. Trong thời gian tới, cần có các kế hoạch
tuyên truyền hợp lý hơn, đặt người dân, người triển khai chính sách ở vị trí trung
tâm để đề xuất biện pháp phù hợp. Tuyên truyền nhân rộng hơn nữa các mô hình
gắn với bảo vệ môi trường, các phương thức sản xuất thân thiện với môi trường đã
thành công, như:
Mô hình Doanh nghiệp “cùng nông dân bảo vệ môi trường”
- Để nhân rộng mô hình thu gom xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật huyện đã
tích cực vận động một số doanh nghiệp phối hợp với các xã thực hiện mô hình “Cùng
nông dân bảo vệ môi trường” thời gian triển khai năm 2016. Có 17 doanh nghiệp
tham gia, tiêu biểu có các công ty như: Tập đoàn Lộc trời, Công ty Gentraco, Công ty
Á Châu, Công ty VFC, Công ty ADC, Công ty Lúa Vàng, Công ty Vipesco, Công ty
HAI, Công ty Hợp Trí. Thực hiện thí điểm tại các xã: Vĩnh Phú, Vĩnh Trạch, Thoại
Giang, Bình Thành, Định Thành.
- Cách thức hỗ trợ: Tổ chức tập huấn tuyên truyền cho các hộ nông dân 1 lần/1
năm. Hỗ trợ xây dựng 95 thùng chứa, bể chứa thu gom và đổi trả vỏ, bao bì thuốc bảo
vệ thực vật sau sử dụng. Hỗ trợ chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý: 25 triệu đồng/tấn.
Tổng khối lượng rác thải đã được thu gom 8,4 tấn (bình quân 1,2 tấn/vụ); đơn vị hợp
đồng xử lý Công ty InSee tỉnh Kiên Giang. Trong năm 2019 huyện định hướng sẽ
tiếp tục vận động thêm các doanh nghiệp, công ty có liên kết và hoạt động trên địa
bàn tham gia hỗ trợ, để nhân rộng mô hình cho các xã: Tây Phú, An Bình, Định Mỹ,
Vọng Đông. Kế hoạch sẽ triển khai trên địa bàn toàn huyện trong năm 2020.
Mô hình Trang trại ở xã Vọng Thê: Chủ mô hình là ông Nguyễn Quốc Hùng
sinh 1954, ngụ ấp Tân hiệp A - thị trấn Óc Eo là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi
74
cấp tỉnh 10 năm liền và cấp Trung ương 5 năm liền. Tổng diện tích sản xuất nông
nghiệp là 32 ha. Năm 2006 ông đầu tư vào Trang trại sản xuất giống lúa tại xã Vọng
Thê, năm 2008 phát triển lên Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ sản
xuất lúa giống A.GI.SE Hùng Hạnh.
Đầu năm 2016 ông chuyển 5,3 ha với 3.000 cây bưởi da xanh theo mô hình công
nghệ cao (có chứng nhận VietGAP); tổng vốn đầu tư trên 3,5 tỷ đồng. Đầu năm 2019
trang trại bưởi đã cho thu hoạch 1.000 cây, với giá bán 60 - 70 nghìn đồng/kg, tổng thu
hơn 200 triệu đồng. Hiện nay, ngoài sản xuất lúa giống với diện tích 22,7 ha, ông còn
tham gia sản xuất lúa Nhật thương phẩm với công ty TNHH Angimex Kitoku diện tích 5
ha. Trang trại đã giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng 32 lao động, với thu nhập
ổn định từ 4,5 đến 6,5 triệu đồng/người/tháng.
Từ năm 2010 đến nay ông đã đóng góp trên 500 triệu đồng cùng với địa phương
xây dựng trên 10 cây cầu, vận động nhân dân làm trên 50 km đường nông thôn, hỗ
trợ quà cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn nhân dịp các ngày lễ lớn, đóng góp
kinh phí mua xe chuyển viện miễn phí và nhiều công trình khác.
Mô hình sản xuất Nông nghiêp ứng dụng Công nghệ cao
- Mô hình Nghiên cứu phát triển sản xuất quả thể nấm Nhộng Tằm Thảo
(Cordyceps militaris) gắn với mô hình Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của hộ
Ông Nguyễn Hùng Sinh ấp Bắc Thạnh, xã Thoại Giang huyện Thoại Sơn. Nấm đông
trùng hạ thảo là một loại thảo dược quý hiếm có những công dụng tốt cho sức khỏe.
Hiện ông Sinh đang thực hiện qui mô nhà nấm với 9.000 lọ nấm đông trùng hạ thảo,
thời gian nuôi khoảng 2,5 tháng, nấm thu hoạch được khoảng 15 kg sau khi trừ các
khoảng chi phí anh thu lợi nhuận hơn 200 triệu đồng. Đây là mô hình có mức độ ứng
dụng công nghệ cao vào trong sản xuất rất lớn, cũng là mô hình đầu tiên của tỉnh An
Giang tạo bước đột phá trong việc ứng dụng công nghệ cao vào trong sản xuất nông
nghiệp.
- Mô hình trồng cây có múi ứng dụng hệ thống tưới phun tự động của hộ ông
Trần Minh Chánh, ấp Trung Bình Tiến, xã Vĩnh Trạch: Tổng vốn đầu tư khoảng 475
triệu đồng: Diện tích khoảng 6.000m2 với các loại cây ăn quả như: Cam, Chanh không
hạt, chanh bông tím, Bưởi da xanh ứng dụng hệ thống tưới phun tự động góp phần
75
giảm chi phí sản xuất, quản lý dịch hại từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất. Thu nhập
bình quân khoảng 250 triệu đồng, lợi nhuận từ mô hình hơn 100 triệu đồng/năm, giúp
giải quyết việc làm cho 5 - 7 lao động tại địa phương.
- Mô hình trồng rau trong nhà lưới theo phương pháp thủy canh của Ông
Phạm Xuân Trang địa chỉ Ấp Tây Bình, Xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn. Tổng vốn
đầu tư khoảng 70 triệu đồng: diện tích áp dụng khoảng 400 m2 trồng cải xanh, ngọt,
bẹ xanh. Khoảng 1 đến 1,5 tháng thu hoạch 1 lần, bình quân 400 kg/đợt, giá bán dao
động từ 25.000 - 30.000 đồng/kg, trừ đi chí phí còn lãi 8 triệu đồng. Tạo ra sản phẩm
an toàn cho sức khỏe cho người tiêu dùng. Đây là mô hình rất thích hợp với các hộ có
diện tích nhỏ, ít nhân công chăm sóc.
- Mô hình xây dựng nhà sơ chế, đóng gói rau an toàn của hộ ông Trần Võ
Nhật Trường ấp Trung Bình Tiến, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn. Tổng vốn đầu tư
đến thời điểm hiện tại khoảng 100 triệu đồng: diện tích khoảng 100m2, bình quân sơ
chế khoảng 400 kg đến 1 tấn rau thủy canh/ngày. Nâng cao giá trị gia tăng của sản
phẩm rau, quả qua sơ chế, đóng gói, củng cố thương hiệu của địa phương, là khâu đột
phá để xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiên tiến, điển hình, góp phần tái cơ
cấu ngành nông nghiệp. Mô hình đã giải quyết việc làm thường xuyên cho 7 – 10 lao
động tại địa phương.
- Mô hình trồng dừa xiêm của nông dân Bùi Trung Ơn - xã Vĩnh Khánh. Từ 4
ha đất lúa, đất vườn tạp chuyển sang trồng hơn 1.000 gốc dừa, từ năm thứ 4 đã cho
thu hoạch trái quanh năm, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Mỗi ngày bán
khoảng 600 - 800 trái (giá bình quân 10.000 đồng/trái), lợi nhuận bình quân 300
triệu/năm, giải quyết cho 10 lao động thường xuyên.
- Mô hình nuôi dẫn dụ yến: Trên địa bàn huyện đã phát triển được 143 nhà
yến, sản lượng thu hoạch đạt khá. Tổng vốn đầu tư từ 1.000 triệu đến 2.500 triệu
đồng/nhà yến, với năng suất bình quân khoảng 15 kg yến thô/nhà/năm, giá bán phổ
biến là 20 - 22 triệu đồng/kg, mô hình này mang lại thu nhập bình quân khoảng 300
triệu đồng/năm.
- Mô hình “nuôi tôm càng xanh toàn đực ứng dụng công nghệ cao” ở xã Phú
Thuận. Từ năm 2016 với sự quan tâm của tỉnh thông qua “gói hỗ trợ kỹ thuật, tài
76
chính, thị trường”, 70% hộ nuôi đã ứng dụng công nghệ cao (giống thả nuôi tôm toàn
đực; ứng dụng công nghệ quản lý hiện đại) đến nay đã có 38,7 ha nuôi được chứng
nhận VietGAP. Giá tôm càng xanh luôn ổn định ở mức cao, bình quân từ 170 - 180
ngàn đồng/kg, lãi từ 580 - 600 triệu đồng/ha/năm.
3.2.3. Tăng cường huy động các nguồn vốn để thực hiện các tiêu chí
Dự kiến tổng nhu cầu vốn để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương
trình giai đoạn 2021 – 2025 là 1.725.502 triệu đồng, trong đó: Ngân sách Trung
ương: 89.000 triệu đồng, Ngân sách tỉnh: 1.253.451 triệu đồng, Ngân sách huyện:
383.051 triệu đồng. Để đảm bảo nguồn vốn triển khai cần tập trung:
- Nguồn vốn ngân sách: Tiếp tục triển khai vận dụng có hiệu quả các cơ chế,
chính sách của Trung ương, tỉnh, huyện vào thực tế trên địa bàn để xây dựng các
chương trình, dự án, tranh thủ cao nhất nguồn hỗ trợ đầu tư từ Trung ương, tỉnh.
Đồng thời, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Sở, ngành của tỉnh đẩy mạnh triển khai
hoàn thành các công trình đang đầu tư; kịp thời bổ sung danh mục và bố trí vốn đầu
tư đối với công trình mới giai đoạn 2015 - 2025. Triển khai thực hiện hiệu quả các giải
pháp tăng thu ngân sách và tiếp tục ưu tiên cân đối, bố trí các nguồn vốn ngân sách địa
phương (ngân sách cấp huyện, xã và các nguồn vốn hợp pháp khác...) huy động đầu tư
tiếp tục hoàn thiện, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn
mới, hướng tới xây dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2021 - 2025.
- Nguồn vốn doanh nghiệp: Vận dụng phù hợp các chính sách của tỉnh; đẩy
mạnh thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư vào cụm, khu công nghiệp và
vào vùng phát triển chăn nuôi, nhằm hạn chế tình trạng đầu tư sản xuất công nghiệp
ngoài khu, cụm công nghiệp và ngoài vùng Quy hoạch phát triển chăn nuôi để tạo
cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường và đầu tư kết nối hạ tầng vùng nông thôn;
nhằm khuyến khích thu hút mạnh hơn nữa nguồn vốn doanh nghiệp đầu tư vào các
khu vực này.
- Về nguồn vốn tín dụng: Cấp ủy các cấp cần tiếp tục quán triệt trong hệ thống
chính trị và nông dân thấy rõ vốn tín dụng là kênh vốn chủ yếu cho nông dân phát
triển kinh tế. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức tín dụng cho nông dân; tăng cường hiệu lực quản lý vốn
77
Nhà nước về tín dụng để tập trung giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các tổ
chức, cá nhân trong quan hệ vay vốn đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn; nhất
là, về cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận nguồn vốn
vay, nguồn vốn hỗ trợ, khuyến khích, mở rộng hơn nữa tín dụng cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn cả về quy mô nguồn vốn cũng như ngành nghề và đối tượng vay vốn.
- Nguồn vốn huy động xã hội hóa: Từng địa phương trước hết cần đẩy mạnh
công tác vận động, tuyên truyền tạo đồng thuận trong việc toàn dân chung tay xây
dựng nông thôn mới; thực hiện tốt cơ chế huy động theo hướng "Nhà nước và nhân
dân cùng làm"; đa dạng hóa các khoản huy động: Bằng tiền mặt, công lao động, vật
liệu, máy móc thiết bị, hiến đất… để đầu tư hoàn thiện huyện nông thôn mới.
3.2.4. Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ theo hướng áp dụng công
nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường
- Ưu tiên bố trí quỹ đất và nguồn vốn xây dựng hệ thống hạ tầng, giải quyết
vấn đề vệ sinh môi trường nông thôn (xây dựng nghĩa trang, hệ thống thoát nước
trong khu dân cư, khu xử lý rác thải; khu chăn nuôi tập trung gắn với xây dựng
nông thôn mới); triển khai, nhân rộng các mô hình xử lý chất thải và hoạt động
BVMT tại các địa phương.
- Tiếp tục đầu tư xây mới, nâng cấp mở rộng hệ thống cấp nước tập trung trên
địa bàn các xã để tăng tỉ lệ sử dụng nước sạch; đa dạng hóa các loại hình công nghệ
cấp nước phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng địa phương; nâng
cao chất lượng công trình và chất lượng nước; giảm tỷ lệ hao hụt so với quy chuẩn,
bảo đảm tính liên tục, ổn định của áp lực cấp nước. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa
trong xây dựng các công trình cấp nước trên cơ sở cơ chế, chính sách ưu đãi phù
hợp; đầu tư phải bảo đảm phù hợp với đặc điểm quy mô cấp nước, từng mô hình
hoạt động sản xuất kinh doanh nước sạch để bảo đảm tính khả thi trong sử dụng
nguồn vốn; tránh tình trạng đầu tư dàn trải không đúng đối tượng và hướng sử dụng
hợp lý; Ưu tiên đầu tư vốn xây dựng các công trình và nâng cao khả năng quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước
- Tập trung đầu tư, xóa bỏ các điểm gây ô nhiễm môi trường; Hoàn thiện hệ
thống xử lý rác thải sinh hoạt theo quy hoạch; bảo đảm chất thải được xử lý đạt tiêu
78
chuẩn trước khi thải ra môi trường.
- Tăng cường trang thiết bị thu gom rác cho các khu dân cư tập trung, đảm bảo
thu gom, xử lý 90% rác trên địa bàn; Ưu tiên xây dựng các điểm thu gom, tập kết,
trung chuyển rác thải và đưa vào hoạt động cơ sở xử lý rác thải sinh hoạt; Đẩy mạnh xã
hội hóa hoạt động thu gom, xử lý CTR từ các khu dân cư, khu du lịch, điểm du lịch.
- Tập trung thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng liên kết sản xuất
theo chuỗi giá trị; Tiếp tục phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An
Giang giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Triển khai áp dụng chương
trình “3 giảm, 3 tăng” và “1 phải, 5 giảm”, mở rộng áp dụng Global GAP, Viet
GAP.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các giống cây trồng,
vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao và ổn định; Sản xuất các chế phẩm sinh học
phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông dân và nông thôn; công nghệ sinh học trong
chế biến, bảo quản các loại nông thủy sản, dược liệu; trong chẩn đoán, phòng trừ
dịch bệnh và BVMT; Áp dụng mô hình sử dụng đệm sinh học trong chăn nuôi heo,
công nghệ phân huỷ yếm khí kết hợp thu hồi biogas tạo khí đốt tại các trang trại, hộ
chăn nuôi; Chú trọng phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp sạch với quy mô
công nghiệp.
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý môi trường
- Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về BVMT
cho các cấp. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và khuyến khích hạn chế việc sử dụng
hoá chất trong sản xuất nông nghiệp.
- Quan tâm xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải chăn nuôi,
bao bì phân bón, thuốc BVTV và tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
- Tăng cường việc thẩm định, lựa chọn và chuyển giao các công nghệ đầu tư;
hạn chế việc chuyển giao các công nghệ, phương tiện, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm
môi trường; ưu tiên các công nghệ thân thiện với môi trường đầu tư vào huyện.
- Xây dựng hệ thống dữ liệu về BVMT trên địa bàn, nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện các thủ tục hành chính về BVMT cấp huyện phục vụ công tác
79
quản lý nhà nước và nhu cầu của các tổ chức, công dân.
- Kiểm soát tốt môi trường;Tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành
trong giải quyết, cải thiện môi trường trên các đoạn sông, kênh, rạch; Xử lý triệt để
các khu điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Tăng cường kiểm soát các nguồn
gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, không để
phát sinh mới những cơ sở, khu điểm gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng; Quản lý chặt chẽ hoạt động thăm dò, khai thác sử dụng tài nguyên
nước, xả nước thải vào nguồn nước, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi gây ô
nhiễm môi trường, đảm bảo quản lý tốt nguồn thải.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm và xử lý kịp thời, kiên
quyết đối với các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý sử dụng tài nguyên và
BVMT; Kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu, xử lý nghiêm những tổ chức, cá
nhân nhập khẩu phế liệu không đáp ứng các quy định về BVMT; Nâng cao hiệu quả
công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tiểu kết Chương
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được xác định là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của bộ máy chính trị hướng đến mục tiêu
phát triển bền vững lãnh thổ, trên cơ sở thực hiện lồng ghép các chính sách về kinh
tế xã hội và môi trường. Nhằm thực hiện hiệu quả hơn nữa chính sách môi trường
trong xây dựng nông thôn mới cần thiết phải có những giải pháp mang tính đột phá,
giải quyết điểm cốt lõi để tạo tính lan tỏa, theo đề tài trước hết tập trung vào 5 nhóm
giải pháp: Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy thực hiện chính sách;
Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền và nhân rộng các mô hình hay điển hình;
Tăng cường huy động các nguồn vốn để thực hiện các tiêu chí; Đẩy mạnh đầu tư cơ sở
hạ tầng đồng bộ theo hướng áp dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi
80
trường; Tăng cường công tác quản lý môi trường.
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên, đề tài nêu ra một số nhận định sau:
1. Đề tài đã xác định được một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến thực hiện
chính sách môi trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới, như: khái niệm và
nội hàm của chương trình xây dựng nông thôn mới, chính sách môi trường trong xây
dựng nông thôn mới. Đồng thời, phân tích các nhân tố tác động chính sách môi
trường trong xây dựng nông thôn mới. Đã làm rõ quy trình thực hiện chính sách môi
trường trong xây dựng nông thôn mới; theo đó, chính sách môi trường là một hợp
phần quan trọng được triển khai đồng thời, lồng ghép trong thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tại các cấp.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về lý luận, đề tài đã đề xuất được khung lý
thuyết trong phân tích, làm rõ các nội dung nghiên cứu có liên quan đến mục tiêu của đề
tài; nội dung được nghiên cứu thông qua phân tích triển khai chính sách xây dựng nông
thôn; đồng thời, bóc tách những điểm riêng có liên quan nhiều đến chính sách môi
trường. Đề tài cũng đã phân tích kinh nghiệm thực tiễn triển khai trên địa bàn tỉnh An
Giang để từ đó rút ra những bài học vận dụng cho các giai đoạn tiếp theo.
2. Kết quả phân tích thực trạng thực hiện chính sách môi trường trong xây dựng
nông thôn mới tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang thông qua phân tích về các đặc
trưng của lãnh thổ ảnh hưởng tới quá trình thực thi chính sách; tình hình tổ chức thực
hiện chính sách trong xây dựng nông thôn mới; kết quả triển khai chính sách môi
trường thông qua phân tích kết quả đạt được của tiêu chí số 17, cho thấy: Địa phương
đã đạt được các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới, trong đó, các tiêu chí 17 đã đạt chuẩn; có được kết quả này là sự kết tinh của
tính chủ động, hỗ trợ từ các cấp, nhất là nguồn lực tài chính từ chính quyền tỉnh, kết
hợp với tính quyết liệt, trách nhiệm của bộ máy tổ chức thực hiện và sự đồng tình của
các tầng lớp xã hội. Tuy nhiên, các tiêu chí về môi trường chưa đạt được tính bền
vững bởi nhiều nguyên nhân, trong đó, chủ yếu là bởi công tác quản lý môi trường
còn hạn chế; ý thức của một bộ phận cán bộ, dân cư còn ỷ lại, chưa sáng tạo.
3. Để giải quyết những vấn đề bất cập trên, góp phần thực thi hiệu quả hơn nữa
81
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới nói chung, chính sách môi
trường nói riêng tiến tới đạt chuẩn nông thôn mới chất lượng cao theo định hướng của
địa phươngđòi hỏi hệ thống chính trị và người dân cần có đánh giá tổng hợp, khách
quan để tìm giải pháp có bước đột phá. Theo đó, lồng ghép thực hiện quyết liệt hơn
chính sách môi trường được xem là một trong những trọng tâm để đảm bảo duy trì,
nâng cao các thành tựu đã đạt được trên cơ sở hợp lực, đoàn kết, huy động mọi
nguồn lực để thực hiện đồng bộ các giải pháp từ chỉ đạo, điều hành, tuyên truyền,
phối hợp, điều chỉnh, kiểm tra, giám sát, đánh giá tổng kết.
82
.