
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia cùng nằm trong khu vực Đông Á
với nhiều điểm tƣơng đồng về văn hóa và có lịch sử quan hệ lâu đời. Đây là
cơ sở tốt tạo nên sự gần gũi, cảm thông, và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân
hai nƣớc. Tuy mối quan hệ này không phải lúc nào cũng phát triển, thậm chí
bị gián đoạn trong một khoảng thời gian vì những lí do lịch sử nhƣng kể từ
khi bình thƣờng hoá quan hệ năm 1973, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đã có
những biến đổi đáng kể theo hƣớng không chỉ mang lại lợi ích to lớn cho cả
hai nƣớc mà còn góp phần quan trọng vào quá trình thúc đẩy hòa bình, ổn
định, và thịnh vƣợng chung của khu vực.
Ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, chính sách đối ngoại nói chung và
về Việt Nam nói riêng của Nhật Bản đƣợc điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh
của từng giai đoạn và đặc biệt hiện nay đang thể hiện nỗ lực lớn nhất của
Nhật Bản. Đó là quyết tâm phát huy ảnh hƣởng đối với Việt Nam nói riêng và
khu vực nói chung; nâng cao vị thế kinh tế, chính trị trên toàn thế giới. Sau
chiến tranh lạnh đặc biệt là năm 1998, đây là năm để Nhật Bản thể hiện vai
trò lãnh đạo của mình ở khu vực trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ Đông Nam Á; năm 1998 còn là năm Thủ tƣớng K. Obuchi lên
cầm quyền và đã nhanh chóng đƣa ra những chính sách cụ thể và thuận lợi đối
với Việt Nam; đây cũng là năm Việt Nam chính thức gia nhập Diễn đàn kinh
tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC) và sự kiện Hội nghị cấp cao
chính thức đầu tiên của ASEAN với 3 nƣớc đối thoại là Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc tổ chức tại Việt Nam – một nƣớc thành viên mới của
ASEAN, thành công của sự kiện này đã góp phần nâng cao vai trò và uy tín
của Việt Nam trong khu vực.