VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU DIỄM
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU DIỄM
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN PHƯƠNG AN
HÀ NỘI, 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngôi nhà có một vị trí vô cùng quan trọng đối với mỗi người dân Việt Nam.
Từ bao đời ông cha ta cũng đã thấy được tầm quan trọng và đã đúc kết lên câu
thành ngữ “An cư lạc nghiệp” – có chổ ở ổn định mới yên tâm chăm lo sự nghiệp.
Ngôi nhà vừa là nơi cư trú vừa là niềm tin về sự yên ấm, hạnh phúc là điểm tựa
trong cuộc sống cũng như đích phấn đấu của mỗi người. Được sở hữu một ngôi nhà
của riêng mình là ước muốn lớn lao nhất của mỗi người dân.
Khái niệm NOXH lần đầu tiên chính thức đã xuất hiện trong văn bản pháp luật
là Luật Nhà ở 2005 với định nghĩa NOXH là “Nhà ở do Nhà nước hoặc tổ chức, cá
nhân đầu tư xây dựng để cho các đối tượng quy định tại Điều 53 và Điều 54 của
Luật này thuê hoặc thuê mua”. Như vậy, khái niệm NOXH đã được luật hóa trong
văn bản luật tiếp theo cho đến nay đều sử dụng định nghĩa gián tiếp, NOXH là một
loại hình nhà ở được xây dựng dành cho các nhóm yếu thế trong xã hội.
Nhà ở cho người thu nhập thấp là một chủ trương có ý nghĩa xã hội lớn của
Đảng, Nhà nước và là tâm điểm chú ý của đông đảo người dân. Mục tiêu của chính
sách là hướng tới một xã hội ai cũng có nhà ở nhằm phục vụ cho nhu cầu hiện đại
hoá, nâng cao chất lượng sống cho nguời dân, giải quyết bài toán an sinh xã hội.
Chính phủ đã có những quy định cụ thể cho việc xây dựng nhà ở cho người thu
nhập thấp, thể hiện quyết tâm hiện thực hoá chính sách bằng một loạt các quyết
sách tích cực và các hành lang pháp lý, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
thực hiện dự án nhà ở cho người thu nhập thấp.
Chương trình phát triển Nhà ở xã hội (NOXH) của Chính phủ đang được triển
khai thực hiện rộng khắptrên cả nước, tạo điều kiện tiếp cận chỗ ở tốt hơn cho một
bộ phận người có thu nhập thấp và những người cầnđược trợ giúp về nhà ở trong
các đô thị. Phát triển NOXH được coi là một nội dung quan trọng trong Chiến
lượcphát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, được phê
duyệt tại QĐ số 2127/QĐ-TTgngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Ở tỉnh An Giang, với quá trình đô thị hóa ngày càng sâu, rộng, diện tích đất ở
ngày càng bị thu hẹp đáng kể, cùng với nó là giá cả bất động sản ngày càng tăng
2
nhanh. Vì vậy, sở hữu một căn hộ gần như trở thành điều không tưởng đối với nhiều
hộ gia đình. Mặt khác, thành phố đang có những đợt triển khai, xây mới cơ sở hạ
tầng ở nhiều nơi, nên nhu cầu nhà ở cho những khu vực di dân là rất lớn. Để giải
quyết vấn đề này, trong những năm qua tỉnh An Giang đã có chính sách phát triển
NOXH, đã một phần nào giải quyết được chỗ ở cho một bộ phận dân cư có thu nhập
thấp, các đối tượng thuộc diện ưu tiên. Tuy vậy, tình trạng nhà ở của phần lớn tầng lớp
thu nhập thấp, các gia đình chính sách, cán bộ công nhân viên Nhà nước...vẫn còn rất
khó khăn do nhu cầu rất lớn nên vấn đề bức xúc hiện nay là làm sao có thể giải quyết
một cách hợp lý nhà ở cho những người thuộc đối tượng được hưởng NOXH.
Chính vì nhận thấy được việc định hướng phát triển NOXH cho các đối tượng
có TNT trên địa bàn tỉnh An Giang có ý nghĩa lớn về lý luận cũng như thực tiễn
mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, nên đã thôi thúc tác giả chọn đề tài nghiên
cứu “Thực hiện Chính sách phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An
Giang” làm luận văn cao học chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề NOXH cho người có TNT được nhiều nhà nghiên cứu dưới nhiều góc
độ khác nhau trên nhiều sách, tạp chí, bài báo khoa học, luận văn…. Trong luận văn
này tác giả chỉ xin nêu một số công trình tiêu biểu:
Các luận văn tiến sĩ và thạc sĩ
Luận văn thạc sĩ Huỳnh Thủy Tiên (2012), Đại học Kinh tế luật TP. Hồ Chí
Minh, Phát triển thị trường nhà ở cho người TNT tại TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020:
Luận văn đã đưa ra cơ sở lý thuyết về cung cầu, giá nhà ở TNT, kinh nghiệm một
số nước trên thế giới và đưa ra giải pháp phát triển NOXH cho TP. Hồ Chí Minh.
Luận văn thạc sĩ Vũ Thị Minh (2015), Đại học khoa học xã hội và nhân văn,
những bất cập trong chính sách nhà ở cho người TNT của thành phố Hà Nội.
Luận văn đã đưa ý kiến về sự bao cấp về nhà ở sẽ phải dần dần được xóa bỏ.
Nhà nước cũng đã tạo được nhiều cơ chế để giải quyết vấn đề nhà ở... Nhưng vốn
để thực hiện nhà ở thì vẫn trên nguyên tắc Nhà nước chỉ hỗ trợ, còn người mua,
người ở sẽ phải chịu là chính. Tuy nhiên, nếu chính sách không rõ ràng, các doanh
nghiệp không thể làm được. Phải coi trọng cơ chế kinh doanh, và Nhà nước có trách
3
nhiệm hỗ trợ các doanh nghiệp để cho họ mạnh dạn thực hiện các loại dự án này
mặc dù dự án này có thể không lãi, không thu được nhiều bằng các dự án kinh
doanh khác, nhưng họ sẽ thể hiện được trách nhiệm đối với Nhà nước.
Luận án tiến sĩ kinh tế Nguyễn Văn Hoàng (2009), Đại học kinh tế Quốc dân.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường nhà ở đất ở đô thị(ứng dụng
tại Hà Nội).
Luận án đã hệ thống hóa và đưa ra các phương pháp luận về nâng cao năng lực
quản lý nhà nước đối với thị trường nhà đất ở tại đô thị Hà Nội. Luận văn cũng đưa
vào phân tích đánh giá năng lực quản lí nhà nước đối với thị trường đất ở chỉ ra
được những khiếm khuyết của thị trường nhà đất còn hạn chế trong quản lý nhà
nước đối với thị trường nhà ở đất tại đô thị Hà Nội từ đó đề xuất ra những giải pháp
nâng cao năng lực quản lý.
Luận án tiến sĩ Hoàng Vũ Linh (2020), Học viện Khoa học xã hội, Chính sách
nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội):
Về ý nghĩa lý luận, luận án phân tích sự vận hành và biến đổi của chính sách
nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp trong thời gian qua và đối chiếu với chính
sách nhà ở xã hội ở một số nước trên thế giới với mục đích cung cấp những thông
tin mới liên quan đến chủ đề này. Bên cạnh đó, việc vận dụng các lý thuyết về chính
sách công cũng nhằm tìm hiểu tính phổ biến, độ tin cậy và khả năng áp dụng các lý
thuyết này vào thực tiễn nghiên cứu chính sách công ở Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp các luận cứ khoa học cho các nhà
quản lý và hoạch định chính sách nhà ở xã hội trong điều kiện kinh tế xã hội hiện
nay, là cơ sở cho việc tạo lập các hướng nghiên cứu khoa học và triển khai trong
thực tiễn, qua đó góp phần xây dựng và phát triển nhà ở xã hội một cách bền vững
trong thời gian tới.
Các công trình đăng trên sách báo tạp chí
Th.S Phạm Thị Thanh Hoa, Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia
(VIUP) Bộ Xây dựng, báo tạp chí khoa học công nghệ xây dựng số 29 chấp nhận
đăng ngày 28 tháng 6 năm 2016: “Kinh nghiệm quốc tế về phát triển NOXH và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam”
4
Tác giả nêu bài học kinh nghiệm về mô hình tổ chức quản lý phát triển
NOXH: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc đề ra chiến lược, chương trình phát
triển NOXH. Để tổ chức quản lý phát triển NOXH, Nhà nước cần thành lập một cơ
quan quản lý nhà ở để quản lý tập trung, thống nhất từ khâu lập quy hoạch, kế
hoạch, bố trí quỹ đất, tổ chức thực hiện các dự án NOXH, cũng như quá trình phân
phối nhà ở và quản lý vận hành NOXH sau khi hoàn thành dự án.
Tạp chí Khoa học xã hội (2019), Chính sách nhà ở xã hội của Việt Nam, số 3.
Bài viết khái quát về chính sách nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp ở
Việt Nam; phân tích những hạn chế của chính sách nhà ở xã hội cho người thu nhập
thấp trên nhiều khía cạnh (về mô hình phát triển nhà ở xã hội, về đối tượng tiếp cận,
về việc xác định mục tiêu của chính sách, về tính bền vững của chính sách). Trên cơ
sở đó, bài viết nêu ra 3 khuyến nghị đối với việc nâng cao chất lượng chính sách
nhà ở xã hội dành cho người thu nhập thấp ở Việt Nam: (1) Cần xác định lại khái
niệm “nhà ở xã hội”; (2) Cần xây dựng nhà ở cho thuê, nguồn cung chính thức về
nhà ở cho thuê chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu về loại nhà; (3) Cần khuyến khích
thành lập các doanh nghiệp xã hội tham gia trong lĩnh vực xây dựng nhà ở xã hội.
Nguyễn Tuấn, báo Nhân dân online đăng ngày 29-10-2020. Nhà ở xã hội vẫn
xa tầm với.
Bài báo cho rằng về thị trường bất động sản mới đây, nhiều tổ chức, đơn vị
đều khẳng định giá bán nhà ở trên thị trường không có xu hướng giảm mà vẫn tăng.
Thế nên, dù nhu cầu nhà bình dân rất lớn, nhưng các dự án phân khúc này liên tục
bị đẩy cao khiến người TNT càng khó mua được nhà ở.
Cổng thông tin điện tử Bộ xây dựng, 04-8-2020. Nhà ở xã hội tại Việt Nam -
góc nhìn từ các cơ chế chính sách
Bài báo cho rằng, Phát triển nhà ở xã hội (NOXH) là một trong những nội
dung quan trọng của chính sách phát triển kinh tế- xã hội; Nhà nước ban hành chính
sách thúc đẩy thị trường nhà ở phát triển, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở
cho các đối tượng chính sách xã hội, người có TNT và người nghèo gặp khó khăn
về nhà ở nhằm góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội. Bài viết nêu
5
nguyên nhân, phân tích thực trạng về NOXH đồng thời nêu những bất cập cần được
tháo gỡ trong chính sách NOXH tại Việt Nam.
Phát triển nhà ở xã hội tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam Số 10
năm 2018 đăng trên Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam
Nghiên cứu cho rằng những hạn chế về phát triển NOXH là do tiến trình thực
hiện và thủ tục hành chính liên quan đến quá trình thiết lập dực án và xây dựng nhà
ở còn tương đối phức tạp và tốn nhiều thời gian của chủ đầu tư, điều đó khiến các
chủ đầu tư không muốn tham gia vào thị trường vốn kém hấp dẫn về thương mại
này. Ngoài ra khi tiến hành xây dựng NOXH chủ đầu tư cũng không được quyết
định giá bán, giá thuê nhà ở, mà phải theo mức trần do địa phương quy định. Do đó
họ không chủ động được chiến lược đầu tư của mình.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ở trên cho thấy
việc nghiên cứu về nhà ở xã hội và thực hiện chính sách về NOXH là hết sức phong
phú, nhiều góc độ, khía cạnh nội dung sâu sắc. Tuy nhiên, nghiên cứu thực hiện
chính sách về nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang chưa có những công trình độc
lập, trình bày hệ thống, đặc biệt là từ góc độ chuyên ngành Chính sách công. Từ
thực trạng nghiên cứu trên, học viên nhận thấy cần nghiên cứu việc thực hiện chính
sách nhà ở xã hội ở tỉnh An Giang một cách hệ thống. Căn cứ mục đích và nhiệm
vụ của luận văn đề ra, từ góc độ chuyên ngành Chính sách công, luận văn thấy cần
phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:
Một là, cơ sở lý luận của thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh
An Giang.
Hai là, thực trạng thực hiện chính sách nhà ở xã hội ở tỉnh An Giang.
Ba là, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa
bàn tỉnh An Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định rõ khung lý thuyết và đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất
các giải pháp góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho cơ quan hữu quan trong nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay.
Để đạt được mục tiêu, luận văn có nhiệm vụ:
6
- Khái quát cơ sở lý luận liên quan đến nhà ở dành cho các đối tượng có TNT,
cung cầu và giá NOXH, cũng như các vấn đề liên quan đến phát triển NOXH.
- Đánh giá quá trình thực hiệnchính sách phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn
tỉnh An Giang, xác định những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát
triển nhà ở dành cho người có TNT tại tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chính sách nhà ở xã hội và quá trình thực thi
chính sách nhà ở xã hội của tỉnh An Giang trong giai đoạn 2015 – 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nghiên cứu chính sách phát triển nhà ở cho các đối tượng là các
hộ gia đình thuộc diện được thụ hưởng NOXH theo quy định của tỉnh An Giang,
chủ yếu là các đối tượng TNT: cán bộ công chức, viên chức,lực lượng vũ trang,
công nhân các khu công nghiệp, sinh viên, …
Về loại hình cung ứng nhà ở xã hội: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu loại hình
nhà chung cư cao tầng do chủ đầu tư thi công và bán, cho thuê, thuê mua trên địa
bàn tỉnh An Giang.
Về không gian: Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh An Giang
Thời gian: Dữ liệu nghiên cứu từ năm 2015 đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng. Theo đó:
Phương pháp định lượng: Phương pháp phân tích mô tả,thống kê mô tảvà tổng
hợp, các số liệu sử dụng đều là những số liệu thu thập được công bố bởi các trang
web chuyên ngành và các cơ quan chính quyền địa phương.
Phướng pháp định tính: từ cơ sở lý luận quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước, thống kê tổng
hợp các ý kiến chuyên gia để khái quát vấn đề, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp tu duy logic …. Nhằm đưa ra những đánh giá và giải pháp cho đề tài
nghiên cứu.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Góp phần xây dựng khung lý thuyết về thực thi chính
NOXH trên địa bàn tỉnh An Giang.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan
hữu trách trong quá trình nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách NOXH trên địa
bàn tỉnh An Giang.
Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ các nghiên cứu liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo kết cấu của luận văn gồm có 3 chương
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
Nhà ở xã hội:
Theo từ điển mở Wikipedia, Nhà ở xã hộilà một loại hình nhà ở thuộc sởhữu
của cơ quan nhà nước (có thể trung ương hoặc địa phương) hoặc các loại hình nhà
được sở hữu và quản lý bởi nhà nước, các tổ chức phi lợi nhuận được xây dựng với
mục đích cung cấp nhà ở giá rẻ cho một số đối tượng được ưu tiên trong xã hội như
công chức của nhà nước chưa có nhà ở ổn định, người có thu nhập thấp... và được
cho thuê hoặc cho ở với giá rẻ so với giá thị trường.
Ở Việt Nam nhà ở xã hội được biết đến là nhà ở do nhà nước hoặc tổ chức cá
nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cho một số đối tượng được quy
định ở luật nhà ở thuê hoặc thuê mua theo quy chế mà nhà nước đưa ra.
Đối với nước ta khái niệm NOXH đã lần đầu tiên chính thức xuất hiện trong
văn bản pháp luật tại khoản 3, Điều 3 Luật Nhà ở 2005 với định nghĩa NOXH là “Nhà
ở do Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng để cho các đối tượng quy định
của Luật này thuê hoặc thuê mua”. Nhưng đến năm 2014 thì của Luật Nhà ở số
65/2014/QH13 được Quốc Hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2014 đã điều chỉnh và
định nghĩa lại tại khoản 3, Điều 3: “ NOXH là nhà ở có sự hỗ trợ của nhà nước cho các
đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật này”.
Chính sách:
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
9
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo
đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh
đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm
quyền của mình
1.1.2 Vai trò của NOXH
* Nhà ở xã hội góp phần đảm bảo chính sách an sinh xã hội của NN
Qua khảo sát của Bộ Xây dựng phục vụ đề án phát triển NOXH cho thấy rằng
đa số các hộ có khó khăn về nhà ở tại đô thị thường có TNT hiện đang sống trong
những ngôi nhà tự tạo hoặc được thừa kế của các thế hệ trước. Hầu hết những căn
nhà đó được xây dựng từ những năm trước đây với những vật liệu có chất lượng
thấp mau hỏng, lại không có kinh phí để bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên. Mặt
khác nơi sống của các hộ đó thường ở những địa điểm có hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội kém phát triển. Một bộ phận khác đã được phân phối nhà ở trong những
thập niên 70, 80 tuy nhiên lại không có khả năng về tài chính nên không thể cải tạo,
xây dựng lại, nên phải sống trong tình trạng thiếu các tiện nghi cơ bản.
Đa số các hộ có khó khăn về nhà ở có diện tích nhà ở chật chội, nhiều thế hệ
cùng sinh sống, bình quân diện tích rất thấp chỉ đạt khoảng 2 - 3m2/người. Thiếu
nước sạch, thiếu điện chiếu sáng công cộng…đặc biệt là môi trường sống bị ô
nhiễm do khói bụi, nước thải… Cùng với tốc độ đô thị hóa và phát triển nền
kinh tế thị trường, một bộ phận dân cư TNT sẽ bị nghèo đi tương đối so với tốc độ
phát triển kinh tế, do vậy tỷ lệ này trong tương lai vẫn rất khó khăn để cải thiện
được nhà ở cho mình, thậm chí còn nghèo đi do tốc độ lạm phát cao.
Trước thực trạng trên gây nhiều sức ép cho các cơ quan quản lý NN trong lĩnh
vực nhà ở, phát triển xã hội. Việc thiếu điều kiện sinh hoạt tối thiểu là có một nơi ở
có thể làm gia tăng tệ nạn xã hội, làm cho những nỗ lực của Chính phủ trong việc
lành mạnh hóa xã hội thông qua các chính sách xã hội không đạt hiệu quả cao. Nên
việc phát triển NOXH sẽ giải quyết đảm bảo được phần nào nhu cầu nhà ở cho các
đối tượng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm chỗ ở.
10
Mặt khác, những quy định về tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng NOXH sẽ góp
phần cải thiện điều kiện sống của các đối tượng TNT, giúp họ có được một điều
kiện sinh hoạt tốt hơn. Điều này có một ý nghĩa tích cực trong việc nâng cao điều
kiện sống dân cư, ổn định nơi ăn, chốn ở cho các đối tượng khó khăn trong xã hội.
Từng bước thực hiện tốt những mục tiêu trong chính sách an sinh xã hội của NN
* Phát triển nhà ở xã hội góp phần kích cầu đầu tư thông qua việc triển khai
các dự án đầu tư xây dựng nhà ở:
Theo quy định của Luật Nhà ở, những dự án đầu tư xây dựng NOXH sẽ được
hưởng những ưu đãi về thuế, miễn tiền sử dụng đất, được hưởng chính sách ưu đãi
tín dụng đầu tư phát triển theo quy định như: được vay vốn từ Quỹ phát triển nhà ở
của địa phương (nếu có), được Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh xem xét, hỗ trợ
một phần hoặc toàn bộ lãi vay tuỳ theo khả năng ngân sách của từng địa phương.
Ngoài ra, NN còn hỗ trợ về các thiết kế mẫu, thiết kế điển hình về NOXH cũng như
các tiến bộ khoa học kỹ thuật về thi công xây lắp nhằm đảm bảo giảm giá thành xây
dựng công trình ở mức chi phí thấp nhất. Những hỗ trợ trên của NN có tác dụng tích
cực trong việc thu hút các DN đầu tư xây dựng NOXH, cung cấp quỹ nhà ở cho
những đối tượng thực sự có nhu cầu về nhà ở nhưng chưa thể tìm được do gặp khó
khăn về tài chính. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi các dự án xây dựng nhà ở
thương mại gặp khó khăn bị đóng băng, việc đầu tư phát triển NOXH với mức giá
thuê, thuê mua phù hợp với thu nhập của đa số dân cư sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư
quan tâm đến phân khúc nhà ở đang vẫn đang bị bỏ ngỏ này.
Mặt khác, phát triển các dự án xây dựng NOXH còn góp phần kích cầu một số
các lĩnh vực khác như: sản xuất vật liệu xây dựng, sản phẩm gia dụng… những
ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho xây dựng, góp phần giải quyết việc làm cho
một bộ phận lao động trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng của các
ngành kinh tế còn dư thừa nguồn cung. Theo tính toán sơ bộ, Bộ Xây dựng đã có
báo cáo Chính phủ nếu thực hiện đầu tư xây dựng 500.000 m2 nhà ở, sẽ cần tiêu thụ
khoảng 120 nghìn tấn xi măng, 30 nghìn tấn sắt thép và nhiều loại vật liệu khác tạo
công ăn việc làm cho hàng vạn lao động ngành xây dựng.
11
* Góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bình ổn thị trường bất
động sản
Đối với NOXH do NN đầu tư dành để cho bán cho thuê, trong quá trình
khai thác, sử dụng quỹ nhà ở này lợi ích đầu tư không bị mất đi mà tài sản nhà đất
vẫn thuộc sở hữu NN, vẫn đảm bảo khả năng thu hồi vốn tái đầu tư thông qua việc
thu tiền cho thuê, thuê mua NOXH theo quy định của Luật Nhà ở trên nguyên tắc
bảo toàn vốn đầu tư (khác biệt hoàn toàn so với cơ chế bao cấp áp dụng trước đây
khi thực hiện chính sách phân phối nhà ở cho cán bộ công nhân viên chức). Sau một
quá trình khai thác tối thiểu từ 20 – 30 năm, nếu người thuê không còn nhu cầu sử
dụng thì NN sẽ cải tạo, xây dựng lại hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng để đạt hiệu
quả cao hơn. Tại thời điểm đó, quỹ nhà đất này vẫn thuộc quyền sở hữu của NN và
sao thời gia đầu tư NOXH đến lúc kết thúc dự án sẽ có giá trị kinh tế cao hơn nhiều
so với thời điểm trước.
Quỹ NOXH sẽ góp phần cung cấp cho thị trường BĐS một nguồn cung lớn,
giảm bớt sức nóng về nhu cầu nhà ở trên thị trường BĐS hiện nay. Đồng thời, việc
có thêm quỹ nhà ở tham gia vào thị trường sẽ giúp mở rộng các đối tượng mua, bán
trên thị trường nhà ở, thị trường vốn được coi chỉ dành cho những người có thu
nhập cao là chủ yếu. Sự phong phú về sản phẩm cũng có những tác động tích cực
làm giảm những cơn sốt giá nhà đất, có thêm nhiều lựa chọn cho các đối tượng mua
bán sẽ giúp sự cạnh tranh trên thị trường lành mạnh hơn, phá vỡ thế độc quyền của
một số phân khúc thị trường nhà ở như: phân khúc thị trường nhà ở thương mại, thị
trường nhà ở chung cư. Từng bước đưa giá cả trên thị trường về đúng giá trị của nó.
1.1.3 Thiết kế chính sách về NOXH
Thiết kế chính sách công mở rộng cho cả hai phương diện hoặc cơ chế mà qua
đó mục tiêu chính sách được đưa ra có hiệu lực và những mục tiêu đó có liên quan
đến việc xem xét tính khả thi, tính thực tế có thể đạt được trong các mối liên kết
hoặc trường hợp sử dụng các công cụ chính sách công. Các chính sách công là kết
quả của những nỗ lực của nhà nước để thay đổi hành vi của xã hội để thực hiện mục
đích cuối cùng cải thiện vấn đề KT-XH hoặc sắp xếp lại các mục tiêu chính sách, các
12
giải pháp và công cụ chính sách công. Những nỗ lực này có thể đạt được mục tiêu
chính sách công có tính hệ thống và kết thúc với kết quả đạt được trên diện rộng.
Tất cả những nỗ lực này được coi là thể hiện một thiết kế chính sách công có
chủ ý. Trong hầu hết các trường hợp, ngay cả khi những mục tiêu chính sách theo
đuổi không được đồng thuận với việc sử dụng tài nguyên không hiệu quả trong việc
đạt được mục tiêu chính sách đều liên quan đến nỗ lực thiết kế chính sách công.
Điều này không có nghĩa là tất cả các thiết kế chính sách công được bình đẳng hoặc
tạo ra các kết quả tương đương. Nghiên cứu một cách hệ thống thiết kế chính sách
công và quy trình thiết kế tại các ngành, lĩnh vực phản ánh sự thúc đẩy tiến bộ về
chính sách công tại các nước đang phát triển
1.1.3.1. Vấn đề chính sách và mục tiêu chính sách
* Vấn đề chính sách
Vấn đề chính sách được hiểu là các nhu cầu, các giá trị, hay các cơ hội cải
thiện nhưng chưa được thực hiện hóa. Là những mâu thuẫn nảy sinh trong các lĩnh
vực hoạt động cần được giải quyết bằng chính sách để thỏa mãn những nhu cầu
nhất định của xã hội. Thông tin về những vấn đề chính sách đóng một vai trò then
chốt trong phân tích chính sách, bởi vì cách thức một vấn đề được định nghĩa sẽ
định hình việc tìm kiếm những giải pháp khả dĩ. Thông tin không đầy đủ hoặc sai
có thể dẫn đến sai lầm, việc đi tìm lời giải cho một vấn đề không đúng, trong khi đó
yêu cầu đầu tiên phải là xác định đúng vấn đề cần giải quyết.
Hiện nay khi ngành khoa học phân tích chính sách đang được hình thành và
phát triển thì hệ thống các khái niệm liên quan cũng đang dần được hoàn
thiện.Trong đó khái niệm về vấn đề chính sách đang được tiếp nhận dưới nhiều góc
độ khác nhau, mỗi góc độ lại có một quan niệm riêng. Tuy nhiên có một khái niệm
được các nhà khoa học và quản lí thừa nhận rộng rãi: "Vấn đề chính sách là những
nhu cầu tương lai của đời sống xã hội cần đạt được bằng chính sách".
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề,
không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,
phân cấp - phân quyền. Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng và
13
Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của chính sách công
như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và
đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu
ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực
thi chính sách công ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì
cần giải quyết.
Việc xác định vấn đề chính sách công là giai đoạn đầu tiên nằm trong chu
trình chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu thuẫn
nảy sinh trong đời sống xã hội cần được giải quyết bằng chính sách cho đến khi
hoàn thành những mục tiêu của chính sách công.
Để xác định đúng vấn đề chính sách, người cán bộ lãnh đạo cũng cần nắm
được các nguyện vọng của nhân dân, tận dụng được sự ủng hộ của thông tin đại
chúng và kiểm soát được nghị trình chính thức của chính quyền.
Trong vô số các vấn đề chính sách, để được đưa vào nghị trình và bàn luận
thực sự, một vấn đề cần thỏa mãn ba yêu cầu căn bản: tầm quan trọng của vấn đề,
hoàn cảnh chính trị và sự ủng hộ chính trị.
Xác định vấn đề chính sách công đúng bản chất, đúng thời điểm, đúng đối
tượng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng chính sách công tại các nước đang
phát triển những giải pháp mang lại hiệu quả tối ưu hơn.
* Mục tiêu chính sách
Mục tiêu chính sách phản ảnh mong muốn của Nhà nước (cơ quan chủ thể ban
hành chính sách) về những giá trị kinh tế - xã hội cần đạt được trong tương lai và
phù hợp với yêu cầu phát triển chung của toàn xã hội.
“Mục tiêu chính sách là những giá trị hoặc kết quả mà Nhà nước mong muốn
đạt được thông qua thực hiện các giải pháp chính sách. Mục tiêu chính sách thể hiện
ý chí của Nhà nước trong việc giải quyết một vấn đề công, tuy nhiên mục tiêu chính
sách phải phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước”
“Mục tiêu chính sách được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ mục tiêu
chung đến mục tiêu cụ thể, từ định tính đến định lượng. Thông thường, mục tiêu
chính sách ban đầu hay còn gọi là mục tiêu chung mang yếu tố định tính, tức là nó
14
được thể hiện dưới dạng ngôn từ hay vì được thể hiện dưới dạng các con số. Những
mục tiêu chung này lại được cụ thể hóa thành các mục tiêu ở cấp độ cụ thể hơn hay
còn gọi là các chỉ tiêu. Các mục tiêu cụ thể này phản ánh những khía cạnh cụ thể
của mục tiêu chung cho một giai đoạn thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện
thực thi cụ thể. Các mục tiêu cụ thể này cung cấp cơ sở cho việc giám sát, đo lường
và đánh giả mức độ đạt mục tiêu chung của chính sách”
Mục tiêu của chính sách nhà ở cho người TNT chính là việc người TNT có
nhà ở.
1.1.3.2. Giải pháp và công cụ chính sách
Giải pháp chính sách
Giải pháp là cách thức để giải quyết vấn đề nhằm đạt được mục tiêu chính sách.
Giải pháp chính sách công là “việc tìm giải pháp cho các nguyên nhân của vấn
đề chính sách mang tính đồng bộ hay còn được gọi là giải pháp chính sách đồng bộ,
dựa trên nguyên nhân cốt lõi, bao gồm cả việc đo lường các nguyên nhân về mức độ
nghiêm trọng, tần suất xuất hiện, quy mô, tùy theo điều kiện cụ thể” .
Giải pháp chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp
Lập quỹ đất và quy hoạch bố trí quỹ đất.
Đầu tư xây dựng nhà ở cho người TNT phải gắn với quy hoạch phát triển đô
thị bảo đảm đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Việc quy hoạch các khu nhà ở cho người TNT cần phải được sự hỗ trợ từ phía
Nhà nước vào công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu đất cho việc phát
triển nhà ở, thu xếp các khu giải tỏa và di dời cho các dự án phát triển nhà ở cho
người có TNT. Quy hoạch đô thị cần tính đến nhu cầu nhà đất dựa trên số lượng
thực tế để có sự tính toán về tỷ lệ quỹ đất dành cho loại hình nhà ở TNT này.
Miễn thực hiện thủ tục thẩm định thiết kế cơ sở đối với trường hợp dự án áp
dụng thiết kế mẫu, thiết kế điển hình nhất ở cho người TNT do cơ quan có thẩm
quyền ban hành; được sử dụng nhà ở và công trình xây dựng hình thành trong tương
lai trong phạm vi dự án làm tài sản thế chấp khi vay vốn đầu tư cho dự án đó.
Miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất: Các dự án xây dựng NOXH sẽ được miễn
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất trong phạm vi dự án xây dựng; được
15
áp dụng thuế suất ưu đãi thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật về thuế giá trị
gia tăng; được miền, giảm và hưởng các ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện khuyến
khích nhà đầu tư tham gia các dự án xây dựng nhà ở cho người TNT.
Huy động nguồn vốn phát triển nhà ở cho người TNT: Cần có một hệ thống tài
chính đúng đắn để bảo đảm cung cấp đầy đủ vốn cho nhà đầu tư, đồng thời tạo điều
kiện cho người mua nhà ở có thể trả dần trong một thời gian dài.
Thành lập các Quỹ tiết kiệm nhà ở với nguồn vốn được hình thành từ sự đóng
góp của người lao động từ tiền lương theo tỷ lệ quy định. Mục đích của quỹ tiết
kiệm nhà ở thu nhập thấp để đầu tư xây dựng nhà ở và cho người thu nhập thấp mua
vay ưu đãi.
Miễn giảm các loại thuế như: giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp, được vay kích cầu.
Được hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Thủ tục xét đối tượng hưởng chính sách được tiết giảm, minh bạch.Mở rộng
đối tượng hưởng chính sách.
Giá thành nhà giảm phù hợp với tài chính của người TNT.
Được vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp.
Tiêu chuẩn, quy cách thiết kế nhà ở cho người thu nhập thấp đảm bảo theo
quy định và phù hợp với tài chính của người thu nhập thấp.
Cải tiến công nghệ, vật liệu xây dựng đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng.
Kêu gọi các dự án đã triển khai chuyển đổi từ dự án nhà thương mại sang nhà
ở thu nhập thấp, các dự án nhà ở sinh viên chuyển sang nhà ở TNT nhằm đáp ứng
giải quyết được nhu cầu nhà ở, vừa tận dụng tối đa các công trình trên địa bàn đang
xây dựng dư thừa, khó bán.
Cải cách về tổ chức thủ tục hành chính thực hiện chính sách.
Công cụ thực hiện chính sách
Để thực hiện tốt chính sách nhà ở cho người TNT, ngăn chặn các hoạt động
đầu cơ, quản lý sát sao quỹ đất dành cho các dự án nhà ở cho người TNT cần các cơ
quan có các công cụ quản lý nhằm đảm bảo việc triển khai thực hiện chính sách đi
16
theo đúng định hướng, mục tiêu đề ra.
Các công cụ chính sách cho mỗi giải pháp trên: chính sách quy hoạch kiến
trúc đô thị - tạo lập quỹ đất, chính sách tài chính - tín dụng - thuế, chính sách ưu đãi
đối với đầu tư, chính sách quản lý đối tượng hưởng chính sách, chính sách kêu gọi
chuyển đổi loại hình dự án, chính sách thủ tục hành chính.
1.1.4 Tổ chức thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Nhà ở cho người TNT đã và đang trở thành đề tài nóng hổi của những thành
phố, đô thị do nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, kết quả tất yếu của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Để giải quyết tốt vấn đề nhà ở cho một số lượng dân cư lớn có TNT
sẽ kéo theo giải quyết được các vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết khác.
Chương trình nhà ở cho người TNT đã trở thành một phần không thể thiếu của
quy hoạch nhà ở Quốc gia ở nhiều nước. Chiến lược trong giải quyết vấn đề nhà ở
cho người thu nhập thấp cũng khác nhau tùy theo từng Quốc gia do điều kiện về
ngân sách, nhu cầu, khả năng tài chính của người dân. Khi lập kế hoạch xây dựng
những chương trình nhà ở cho người TNT, các nhà hoạch định sẽ có những cách
tiếp cận đối tượng của chính sách theo nhiều cách trong đó cách tiếp cận theo nhu
cầu (cung - cầu) sẽ hướng đến những đối tượng có mục đích, có nhu cầu nhà ở đích
thực. Trên cơ sở nhu cầu của người TNT trong việc mua nhà ở sẽ được tổ chức thu
thập thông qua việc tiếp cận, khảo sát của các cơ quan nhà nước có chức năng như:
Cục thống kê, Trung tâm nghiên cứu và phát triển dân số và môi trường, phòng kinh
tế và dự báo thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đó Chính phủ sẽ thiết kế chương trình
nhà ở dành riêng cho người TNT bao gồm các tiêu chí cơ bản đảm bảo nguồn kinh
phí đầu tư phù hợp như: kích thước căn nhà dành cho người TNT, vị trí đầu tư, cơ
sở vật chất đi kèm, đơn giá phù hợp với đối tượng mua.
Chính sách có thể hàm chứa những tính toán, những định hướng dài hạn của
Chính phủ, Nhà nước, của Người lãnh đạo, thể hiện mối quan tâm đến toàn xã hội,
mọi người, mọi nhóm có liên quan, hoặc đến một số nhóm đối tượng nào đó. Nhưng
cũng có những chính sách chỉ được hiểu là những giải pháp có tính chất tình huống
để khắc phục một thực trạng cụ thể nào đó.
17
Giải quyết vấn đề nhà ở cho người TNT cần được thực hiện xây dựng theo
nhiều phương pháp và chia ra thành từng giai đoạn cụ thể.
Giai đoạn đầu khi mà nhu cầu nhà ở là rất cao từ một số lượng lớn dân số
nghèo, có thu nhập và tầng lớp nhập cư để tìm kiếm điều kiện sống tốt hơn. Số
lượng dân cư này chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số dân nói chung cũng như trong tổng
số có nhu cầu về nhà ở nói riêng, vềnhu cầu nhà ở thì nguyện vọng của đa số dân
này khá đơn giản về nhu cầu nhà ở: chỉ cần nơi trú ngụ, an toàn, diện tích đảm bảo
đủ sinh hoạt, ổn định cuộc sống để tập trung công việc, chăm lo bản thân và gia
đình, bên cạnh đó chất lượng xây dựng cũng đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Giai đoạn hai khi nguồn quỹ đất đã bị thu hẹp do sử dụng vào giai đoạn đầu,
nguyện vọng của người TNT đã có những nhu cầu khác biệt hơn: môi trường sống
tại các khu nhà ở cần có cảnh quan đô thị, có thêm dịch vụ tiện tích, diện tích xây
dựng mong muốn tăng hơn và nhu cầu tín dụng ưu đãi tăng. Khuyến khích các nhà
đầu tư tư nhân tham gia vào đầu tư xây dựng dự án với những cơ chế ưu đãi thu hút
hấp dẫn như: tiền giải phóng mặt bằng được khấu trừ sang tiền thuê đất, tiền thuế
đất được miễn giảm, hình ảnh cũng như năng lực đầu tư của doanh nghiệp được
công khai quảng bá hình ảnh và một số chính sách ưu tiên khác.
Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động, công việc được sắp xếp theo một
trình tự nhất định để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng kế hoạch là chức năng đầu tiên trong những chức năng của khâu
quản lý. Việc xây dựng kế hoạch khi thực hiện chính sách vô cùng quan trọng bởi
việc lựa chọn mục tiêu và định hướng hành động trong tương lai.
Cần xác định đúng mục tiêu, yêu cầu công việc, nội dung công việc mang tính chi
tiết như: địa điểm, không gian thực hiện kế hoạch, nơi bố trí, tập kếtnguồn nhân lực
thực hiện kế hoạch, thời gian thực hiện kế hoạch, chủ thể đối tượng thực hiện kế hoạch.
Cần xác định phương thức, cách thức tiến hành kế hoạch, tổ chức thực hiện,
phân bổ nguồn lực, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách gồm:
Lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các
18
cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai chính sách, số lượng và chất lượng nhân sự
tham gia tổ chức thực thi, những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý
và công chức thực thi, cơ chế tác động giữ các cấp thực hiện chính sách.
Xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực.
Xác định thời gian triển khai thực hiện, tổ chức tuyên truyền chính sách đến
tổng kết rút kinh nghiệm.
Lên kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách là những dự kiến về tiến độ,
hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chính sách.
Xây dựng những nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách: nội quy, quy
chế tổ chức, điều hành, trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ công chức, khen
thưởng, kỷ luật.
Trên thực tế, có thể không có kế hoạch nào hoàn toàn đúng hoặc không khả thi
nhưng không hoạch định gì thì cùng không được. Kế hoạch là tiêu chuẩn, là thước
đo kết quả so với những gì đã đề ra. Việc phối hợp được mọi nguồn lực của cá
nhân, tổ chức để tạo nên một sức mạnh tổng hợp, có thể giữ vững mục tiêu cuối
cùng hướng tới. Đồng thời dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện dự án của
cá nhân. Đặc biệt khi có kế hoạch chi tiết, sẽ giúp tránh được những việc bị đọng,
đột xuất có thể làm mất thời gian.
Đối với chính sách nhà ở cho người TNT thì kế hoạch triển khai thực hiện
luôn được cơ quan chủ quản ban hành chính sách xây dựng một cách chi tiết, đảm
bảo khi triển khai thực hiện nhận được sự đồng thuận từ xã hội và đạt được những
mục tiêu đề ra.
Khi xây dựng triển khai thực hiện chính sách luôn gắn kỳ vọng, nhu cầu của
đối tượng thụ hưởng chính sách với các nguồn lực có thể đáp ứng được. Xác định rõ
ràng mục tiêu, mục đích và đối tượng mục tiêu cho chương trình nhà ở cho người
TNT một cách cụ thể. Cung cấp đủ nguồn lực để đảm bảo khả năng đáp ứng, triển
khai chính sách đi đúng mục tiêu đã đề ra.
Xác định và đưa ra những cảnh báo sớm về các khó khăn, vướng mắc có thể
sẽ gặp phải khi hiển khai thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT.
Phổ biến tuyên truyền vận động thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
19
Khi triển khai thực hiện chính sách cần kêu gọi sự tham gia rộng rãi của toàn
xã hội và nhất là các đối tượng hưởng chính sách có liên quan để đảm bảo khả năng,
nhu cầu của người TNT và chính sách ban hành cũng đáp ứng theo đúng chương
trình đưa ra.
Khi chính sách triển khai thực hiện nhưng lại thiếu năng lực tuyên truyền, vận
động thì chính sách sẽ đi lệch mục tiêu đề ra, không đúng theo kế hoạch đã định
sẵn, làm cho lòng tin của người dân vào chính sách bị giảm.
Phổ biến tuyên truyền chính sách được thực hiện thường xuyên liên tục, bằng
nhiều hình thức như trực tiếp bằng cách trao đổi giao lưu chia sẻ giữa những đối
tượng chính sách hướng đến và trao đổi gián tiếp thông qua các kênh thông tin đại
chúng. Phổ biến tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và
người dân tham gia hiểu rõ hơn về mục đích chính sách hướng đến, các yêu cầu của
chính sách, tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh đất nước nhất
định và cả về tính khả thi của chính sách để người dân tự giác thực hiện theo quy
định. Đồng thời giúp cho mỗi cán bộ công chức nhà nước có trách nhiệm trong việc
tổ chức thực hiện chính sách, nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của
chính sách đối với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp
thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả
theo đúng kế hoạch tổ chức được giao.Trên thực tế cũng có một số cơ quan do thiếu
năng lực tuyên truyền, vận động đã là cho chính sách không đi sâu đi sát và người
dân khó tiếp cận chính sách.
Có sự khảo sát thực tế để biết được ý nguyện của người dân, của toàn xã hội
đối với chính sách, để thấy được việc xây dựng chính sách là đúng, đáp ứng được
nguyện vọng và giải quyết được vấn đề an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội. Kêu gọi, vận động các tổ chức, cộng đồng người dân có nhu cầu lớn về vấn
đề nhà ở cùng tham gia vào quá trình triển khai, thực hiện chính sách.
Hỗ trợ cơ quan trực tiếp triển khai thực hiện chính sách về cải thiện, nâng cao
năng lực cũng như về truyền thông: hỗ trợ kỹ thuật, giám sát các chương trình, tạo
điều kiện để có cơ hội tuyên truyền thông tin, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn có hiệu
quả và đưa ra các đề xuất của từng khu vực vào chính sách nhà nước.
20
Thường xuyên tổ chức các chương trình vận động chính sách để có sự cọ sát,
thăm dò ý kiến của người TNT về chính sách có thỏa đáng với mong muốn của
người dân hay không để có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Cần tổ chức
tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách thường xuyên kể cả khi chính sách
đang được thi hành để mọi đối tượng nhận được tuyên truyền luôn củng cố lòng tin
vào chính sách và tích cực thực hiện chính sách.
Việc phổ biến tuyên truyền vận động thực hiện chính sách được thực hiện
bằng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp với đối tượng hưởng chính sách, tiếp
xúc gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tùy theo từng loại
hình chính sách để có thể xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động cho phù hợp.
Đối với việc phổ biến tuyên truyền vận động thực hiện chính sách nhà ở cho
người TNT cũng không loại trừ hình thức tuyên truyền bằng hình thức trực tiếp trao
đổi về chính sách với người TNT và hình thức gián tiếp thông qua báo, đài phát
thanh, truyền hình, báo điện tử để bằng mọi cách tiếp cận để có thể đưa chính sách
đến với người dân, người TNT đang có nhu cầu về nhà ở.
Trách nhiệm giải trình của các chủ thể thực hiện chính sách nhà ở cho
người TNT
Trách nhiệm giải trình là cốt lõi của quan hệ công việc giữa các cá nhân với
nhau,cũng như giữa một tổ chức với cơ quan quản lý và công chúng và đặc biệt
quan trọng trong những lĩnh vực có quan hệ tới lợi ích của số đông công chúng.
Thuật ngữ trách nhiệm giải trình là sự thừa nhận về trách nhiệm đổi với mọi
hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định hay chính sách trong việc lãnh đạo, quản
lý và thực hiện công việc gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải trình, biện minh cho mọi
việc đã xảy ra dù đúng hay sai, dù đạt kết quả hay không đạt kết quả.
Trách nhiệm giải trình là phương tiện để hướng đến sự công khai, minh bạch
của chính sách khi thực hiện để người dân biết được nội dung của chính sách, đảm
bảo tính dân chủ trong việc thực hiện chính sách của cơ quan nhà nước, người dân
có quyền được biết về các chủ chương, đường lối, chính sách. Bên cạnh đó, các
chính sách ban hành cần xuất phát từ thực tiễn, phản ảnh đúng thực trạng xã hội
đang nói đến, vì vậy cần có sự tham gia của người dân, chính điều này sẽ là một
21
công cụ hữu hiệu ngăn ngừa những tệ nạn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong bộ máy
quản lý nhà nước.
Thông qua kết quả đạt được khi thực hiện chính sách cần nhận thấy có đáp
ứng được mục tiêu đề ra không, tiêu chí của chính sách hướng đến và phải thường
xuyên xem lại các mục tiêu đề ra để đảm bảo việc thực hiện đúng hướng cùng như
có thể báo cáo về tiến độ thực hiện.
Tổ chức phân công công việc cho các cơ quan quản lý thực hiện chính sách cũng
như đảm bảo tính khả thi, trách nhiệm phân công cho mỗi cơ quan quản lý phải đảm
bảo phân công đúng chức năng, đúng vai trò, có nguồn lực, năng lực đảm bảo.
Xây dựng một bộ máy tổ chức chuyên giám sát, đánh giá kết quả khi triển khai
thực hiện chính sách. Việc rà soát, đánh giá này sẽ đem lại kết quả tốt mang tính
thực tiễn cao để hoàn chỉnh chính sách về sau.
Phân công phối hợp thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Phân công phối hợp thực hiện chính sách là khả năng tổ chức điều hành
thựchiện chính sách một cách chặt chẽ, khoa học và hợp lý. Đó là việc phân
côngtrách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện
chínhsách, xác định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá nhân,
tổchức tham gia phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách. Thông qua việcphân
công, phối hợp thực hiện chính sách một cách khoa học hợp lý phát huy được nhân
tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.
Phân công nhiệm vụ cần đặc biệt chú ý đến khả năng, trình độ năng lựcchuyên
môn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm vụ
và không rõ trách nhiệm. Năng lực phân công, phối hợp thực hiện chính sách còn
được thể hiện qua việc tổ chức điều hành và phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ hoạt
động của các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện chính sách. Năng lực phân
công, phối hợp trong tổ chức điều hành thực hiện chính sách là năng lực của người
lãnh đạo, người chỉ huy, người quản lý trong triển khai thực hiện kế hoạch đưa
chính sách vào thực tiễn cuộc sống.
Việc phân công phối hợp thực hiện chính sách được diễn ra theo tiến trình một
cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao
22
hiệu lực, hiệu quả chính sách.
Giám sát thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Giám sát thực hiện chính sách là hoạt động kiểm tra phù hợp, hiệu quả và tác
động của chính sách bởi các tiêu chí cụ thể nhằm cải thiện đề án xây dựng chính
sách để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội. Đó là những quy định, luật, quy tắc,
nguyên tắc, thông lệ của một nhóm hoặc tổ chức sử dụng để thực hiện các vấn đề
liên quan để giám sát.
Việc giám sát thực hiện chính sách không phải là một hoạt động đơn thuần
không có chủ định nó còn là công cụ quan trọng mà các cơ quan Nhà nước, các chủ
thể có liên quan đến chính sách, các tổ chức xã hội và người dân sử dụng để tham
gia vào quá trình thực hiện chính sách thông qua việc theo dõi, đánh giá, kết luận và
đề xuất những giải pháp, những điều chỉnh về chính sách trong trường hợp cần
thiết. Như vậy, giám sát thực hiện chính sách vừa là một hoạt động mang tính kỹ
thuật của quá trình thực hiện chính sách vừa là một hoạt động mang tính chính trị
của các chủ thể khác nhau trong việc giám sát hoạt động của nhau.
Trên thực tế khi triển khai thực hiện chính sách không phải bộ phận nào cũng
làm tốt các mục tiêu đề ra, đi đúng định hướng ban đầu, vì thế cần có việc giám sát
thực hiện chính sách để thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn, nêu cao ý thức trách
nhiệm trong thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng chống những hành vi vi
phạm quy định thực hiện chính sách.
Đối với việc giám sát thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT cần có sự
đồng bộ của các chủ thể tham gia, xây dựng kế hoạch giám sát một cách chi tiết về
các quy định tiêu chuẩn, điều kiện của đối tượng thuộc diện xem xét giải quyết nhà
ờ cho người TNT, nhu cầu nhà ở cho TNT thấp từ nay đến năm 2020 và khả năng
đáp ứng, nhìn nhận, đánh giá việc thực hiện cơ chế, chính sách, đề xuất những cải
tiến, bổ sung sửa đổi trong cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển quỹ nhà ở
cho người TNT, tạo cơ hội để người TNT sớm có nhà, vai trò, trách nhiệm tham gia
giải quyết nhà ở cho người TNT của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng
đồng cùng chung tay giám sát việc thực hiện chính sách để đem lại kết quả tốt nhất
Đánh giá tổng kết thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
23
Trong quy trình chính sách thì việc đánh giá chính sách là một khâu không thể
thiếu. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc đánh giá chính sách hiện nay cũng chưa thực
sự được coi trọng bởi khi chính sách được ban hành và thực hiện vào thực tiễn các
chủ thể khó quay trở lại việc đánh giá, tìm hiểu chính sách banhành có đi đúng định
hướng, có đạt mục tiêu đề ra hay không, có tạo được niềm tin của cộng đồng xã hội
không. Việc này hiện nay còn đang bị bỏ dỡ và không được sát sao thực hiện.
Đánh giá tổng kết chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả
đạt được khi ban hành và thực thi một chính sách. Để có thể đi vào cuộc sống, chính
sách cần được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận đánh giá
chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù
hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế
nào trên thực tế.
Việc đánh giá tổng kết thực hiện chính sách là kết luận về sự chỉ đạo, điều
hành tổ chức thực hiện chính sách và việc chấp hành, thực hiện chính sách. Để đánh
giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính xác cần phải căn cứ vào các tiêu chí, tiêu chuẩn
và các nguyên tắc nhất định. Cơ sở để xây dựng tiêu chí đánh giá công tác chỉ đạo,
điều hành thực thi chính sách của các cơ quan nhà nước của cán bộ công chức là
bản kế hoạch và quy chế, nội quy ban hành kèm theo. Ngoài ra còn phải sử dụng
các văn bản liên tịch giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các văn bản
quy phạm pháp luật khác, các báo cáo kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan,
tổ chức hữu quan, phải căn cứ vào các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất
giữa các cơ quan hữu quan bảo đảm tính toàn diện, công bằng và khách quan. Việc
đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm phải chỉ ra được chính xác ưu điểm, nhược điểm,
kinh nghiệm thực hiện chính sách, các tổ chức cá nhân thực hiện tốt hoặc không tốt.
Cùng với việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo điều hành, thực hiện của các
cơ quan nhà nước, của đội cán bộ công chức còn phải xem xét, đánh giá kết quả
việc thực hiện của các đối tượng thụ hưởng trực tiếp và gián tiếp từ chính sách.
Thước đo, căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện chính sách của các đối tượng này là
tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách, ý thức chấp hành những quy định về
cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục
24
tiêu và các quy định cụ thể của chính sách.
“Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm là công việc khó, phức tạp trong quá trình
thực hiện chính sách, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức và cán bộ công chức tham gia
vào công việc này phải có trình độ, năng lực, kiến thức và kỹ năng nhất định.
Không có trình độ, năng lực, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm khó có thể đánh giá
được chính xác kết quả thực hiện và rút ra được các bài học kinh nghiệm trong thực
hiện chính sách”
Bên cạnh việc đánh giá tổng kết thực hiện chính sách các cơ quan nhà nước,
còn cần xem xét đánh giá việc thực hiện của các đối tượng thụ hưởng chính sách
theo hướng trực tiếp hoặc gián tiếp, cần đánh giá xem chính sách ban hành các đối
tượng này có hướng ứng, ủng hộ với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành
những quy định về cơ chế, biện pháp do cơ quan Nhà nước ban hành để thực hiện
mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
Xây dựng nhà ở cho người TNT cần hướng tới tiêu chí giảm giá thành để
những người dân thu nhập trung bình và thấp có thể tiếp cận được chính sách. Tuy
nhiên, để nhà ở TNT có thể phát triển bền vững, cần có một hệ thống tiêu chí đánh
giá sau thực hiện chính sách nhằm rà soát ý nguyện của người TNT về các chế độ
ưu đãi khi mua nhà ở TNT, chính sách có đáp ứng được nguyện vọng, tiêu chí của
người dân không. Bên cạnh đó, đánh giá thực hiện chính sách giúp cho các chủ đầu
tư, các nhà tư vấn hiểu rõ và hoàn thiện hơn sản phẩm, người dân có thêm các công
cụ kiến thức trong việc lựa chọn nhà ở của mình. Quá trình phát hiển nhà ởTNT sẽ
ngày càng có tính cạnh tranh và minh bạch hơn.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách nhà ở cho người TNT
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách thường diễn ra trong thời gian dài và
liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, vì thế kết quả tổ chức thực hiện chính sách
cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Nắm chắc được các yếu tố tác động,
người chỉ đạo, điều hành có thể thúc đẩy những yếu tố tác động tích cực, ngăn chặn
hay hạn chế các yếu tố tác động tiêu cực đến việc tổ chức thực hiện chính sách.
Quá trình thực hiện chính sách là một quá trình phức tạp, đòi hỏi chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố của môi trương vi mô và vĩ mô, chủ quan và khách
25
quan, các yếu tố kinh tế - xã hội và môi trường đầu tư. Sự thay đổi của các nhân tố
này lúc tác động tiêu cực nhưng cũng có lúc tác động tích cực đến hoạt động đầu tư.
Có thể kể đến yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan như sau:
Yếu tố khách quan: là các yếu tố xuất hiện và tác động đến tổ chức thực hiện
chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản lý, các yếu tố này vận
động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do đó cũng khó gây sự chúý
của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến quátrình thực hiện chính sách đó là
các yếu tố: tính chất của vấn đề chính sách, môi trường thực hiện chính sách, mối
quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách, tiềm lực của các nhóm đối tượng
chính sách và đặc tính của đối tượng chính sách.
Yếu tố chủ quan: là các yếu tố thuộc về cơ quan công quyền, do cán bộ công
chức chủ động chi phối đến quá trình thực hiện chính sách nên nó có ảnh hưởng lớn
đến việc thực hiện chính sách.
Cho đến nay, việc triển khai chương trình nhà ở cho người TNT đã trãi một
chặng đường chưa phải là dài nhưng cũng không phải là ngắn. Trong quá trình triển
khai loại hình nhà ở đặc biệt này, Chính phủ và các địa phương đều gặp nhiều vấn
đề khó khăn, mà chủ yếu là những khúc mắc, khó khăn về cơ chế và chính sách,
chẳng hạn như cách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư - tức nguồn cung
của sản phẩm, hình thành cơ chế ưu đãi, ưu tiên cho những đơn vị, cá nhân có quan
tâm đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều bất cập, lúng túng từ
nhiều phía: Phía chính quyền các địa phương chưa sẵn sàng chuẩn bị quỹ đất quy
hoạch cho loại hình nhà ở cho người TNT- vốn chưa đem lại lợi nhuận nhìn thấy
được. Phía người dân thì mặc dù đã được phân loại đối tượng khá đầy đủ, nhưng
trong thực tế các nhóm đối tượng có khả năng tiếp cận chính sách không đều, đặc
biệt là nhóm đối tượng không có công ăn việc làm, không có hộ khẩu vẫn rất khó
tiếp cận chính sách nhà ở cho người TNT. Như vậy, các lĩnh vực liên quan đến nhà
ở cho người TNT đều gặp phải những khó khăn về chính sách, quản lý vận hành và
cả công tác quy hoạch xây dựng.
26
1.1.6. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến NOXH
Tình trạng văn bản
Loại văn bản Còn hiệu lực
Văn bản trước năm 2003 Hết hiệu lực Nghị định 71/2001/NĐ-CP (căn cứ Luật đất đai 1993 và các Luật bổ sung, sửa đổi năm 1998 và 2001)
Luật Luật Đất đai 2003
Nghị quyết, nghị định Nghị định số 90/2006/NĐ-CP Nghị quyết số 18/2009/NQ-CP Nghị định số 71/2010/NĐ-CP Luật Nhà ở 2005 Luật Nhà ở sửa đổi 2014 Luật Đất đai 2013 Nghị định 188/2013/NĐ-CP Nghị định số 99/2015/NĐ-CP Nghị định số 100/2015/NĐ-CP
Quyết định số 76/2004/QĐ-TTg Quyết định số 2127/2011/QĐ- TTg Chiến lược phát triển nhà ở
Quyết định Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg Quyết định số 18/2018/QĐ- TTg ngày 02/4/2018 Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 24/01/2019
Thông tư
(Ghi chú: Tính hiệu lực của các văn bản được xét đến với những điều khoản liên quan đến NOXH).
Thông tư 08/2014/TT-BXD Thông tư 20/2016/TT-BXD Thông tư số 139/2016/TT-BTC ngày 10/9/2016 Thông tư số 10/2009/TT-BXD Thông tư số 13/2009/TT-BXD Thông tư số 15/2009/TT-BXD Thông tư số 936/2009/TT-BXD Thông tư số 16/2010/TT-BXD
27
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thực hiện chính sách nhà ở cho
người TNT
Trên thế giới, các chương trình nhà ở dành cho những người có TNT đã được
thực hiện từ rất lâu. Từ kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển cao ở
Châu Âu đến những nền kinh tế đang phát triển cao ở Châu Á, sự ra đời của mô
hình nhà ở TNT vừa thể hiện sự quan tâm của Chính phủ mỗi quốc gia với các đối
tượng có mức TNT trong xã hội, vừa giải quyết nhu cầu về nhà ở với số lượng lớn
trong nhóm đối tượng này.
Tại Trung Quốc
Kinh nghiệm của Trung Quốc đã thiết lập quy định quản lý nhà cho thuê với
giá thấp vào năm 2001 và chính thức áp dụng trên toàn quốc từ 01/03/2004.Chính
sách nhà ở minh bạch trong phân phối tiền bao cấp cho các gia đình có TNTvới sự
kiểm soát của nhà nước.
Những năm cải cách, vấn đề nhà ở cũng được cải cách theo hướng thương mại
hóa việc xây dựng, phân phối và sử dụng. Các công ty tham gia xây dựng nhà ở
TNTđược Chính phủ miễn một số loại thuế và được Chính phủ cho vay vốn. Có 2
phương thức tạo quỹ đất cho xây dựng nhà ở thu nhập thấp, đó là dành 2-5% diện
tích đất trong dự án nhà ở thương mại để xây dựng và xây dựng dự án nhà ở thu
nhập thấp riêng. Nhà ở thu nhập thấp có 2 loại là nhà cho thuê và nhà để bán. Việc
bán hoặc cho thuê nhà ở này được thực hiện theo 2 phương thức: các công ty trực
tiếp bán, cho thuê hoặc Chính phủ bỏ tiền mua lại sau đó giao cho Công ty ký hợp
đồng bán, cho thuê. Giá bán, giá cho thuê thấp hơn khoảng 30%-50% giá thị trường.
Chính sách quốc gia tiết kiệm bắt buộc phát triển nhà ở: Chính sách này yêu
cầu tất cả các cư dân ở đô thị có việc làm phải tiết kiệm một phần lương thông qua
đơn vị công tác để hình thành quỹ tiết kiệm dài hạn phát triển nhà ở. Người chủ
tuyển dụng cũng phải đóng góp một tỷ lệ tương ứng vào tài khoản của người lao
động hàng tháng. Tiền tiết kiệm do một ngân hàng đại diện cho chủ tài khoản (tức
người làm công) nắm giữ và được quản lý thông qua người chủ tuyển dụng lao
động, ngân hàng chỉ cho vay để phát triển nhà ở. Chủ tài khoản có thể rút tiền từ
28
ngân hàng để chi tiêu cho nhà ở sau khi đã được người tuyển dụng phê duyệt, bao
gồm mua nhà và sửa chữa lớn trong thời gian còn đi làm của người lao động. (Cụ
thể: khi Quỹ tiết kiệm nhà ở mới thành lập, người lao động phải nộp 1% mức thu
nhập, các Công ty sử dụng lao động phải nộp từ 1-2%, hiện nay đã tăng lên 7%. Lãi
suất gửi vào quỹ thấp hơn lãi suất gửi ngân hàng thương mại.Những người không
có nhu cầu mua hoặc thuê mua nhà, khi về hưu sẽ được nhận lại toàn bộ khoản tiền
đã nộp cộng với lãi suất; những người có nhu cầu mua nhà sẽ được xem xét, nếu
đúng đối tượng và có khả năng trả nợ thì được vay tiền mua nhà. Đối tượng được
mua hoặc thuê nhà ở phải có đủ 3 điều kiện: thuộc diện thu nhập thấp so với thu
nhập bình quân của địa phương, có diện tích nhà ở bình quân dưới 7m2/người và có
tài khoản ngân hàng 90.000 tệ trở xuống (khoảng 300 triệu đồng).
Nhà nước thiết lập các quy định quản lý nhà cho thuê với giá thấp. Minh bạch
trong phân phối nhà ở cho các hộ thu nhập thấp kết hợp với chiến lược bao cấp tiền
thuê nhà một cách linh hoạt, ít tốn kém hơn so với chiến lược xây dựng trực tiếp
nhà cho thuê với giá thấp.
Tại Singapore
Singapore là một trong những nước đã thực hiện chiến lược nhà ở cho người
thu nhập thấp khá thành công. Đến nay Singapore có trên 90% người dân Singapore
sở hữu nhà, trong đó có tới 83% số người được sở hữu nhà ở giá thấp; trở thành
quốc đảo có biệt danh “Sư tử” với những đường phố, những khu nhà khang trang,
cảnh quan môi trường đô thị văn minh, hiện đại.
Về tổ chức bộ máy chuyên trách, cơ quan Nhà ở và Phát triển (Housing &
Developmen Board - HDB) có trách nhiệm về quyền hạn từ công tác quy hoạch,
thiết kế cho đến thu hồi đất và xây dựng, phân phối, quản lý, bảo trì và các nhiệm
vụ liên quan đến nhà ở trong một tổng thể chung. Nhờ có quyền hạn đầy đủ và trách
nhiệm rõ ràng, cụ thể trong mọi khâu điều hành, quản lý, nên hoạt động phát triển
nhà ở mang lại hiệu quả cao. Các tổ chức tư nhân tham gia xây dựng nhà ở cho
người thu nhập thấp nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, thủ tục hành chính rõ ràng
và được thực hiện nhanh chóng.
29
Về nguồn lực tài chính, Singapore đã “thành lập Quỹ tiết kiệm trung ương
(CPF) để quản lý hệ thống quỹ tiền tiết kiệm bắt buộc, trong đó người lao động phải
đóng góp tiết kiệm tiền lương tháng cho CPF (người sử dụng lao động đóng
14%/tháng và người lao động, công chức thu nhập thấp phải đóng 20%/tháng).
Ngoài ra, để người dân có thể mua nhà, Chính phủ cung cấp các khoản vay sao cho
mỗi tháng người dân chỉ phải trích dưới 20% thu nhập để trả tiền mua nhà. Quỹ
CPF được sử dụng cho 3 mục đích chính là: chăm sóc y tế, trả lương hưu và cho
vay mua nhà ở xã hội. Quỹ CPF cho vay đến 90% giá trị căn nhà với lãi suất rất
thấp và được trả góp 25-30 năm. Cơ quan quản lý quỹ và tổ chức xây dựng nhà ở
cho nhân dân tổ chức việc bán nhà trả góp cho người dân. Người có thu nhập thấp
được ưu tiên mua trước và thông qua hình thức bốc thăm.
Tại Thái Lan
Về tổ chức bộ máy, cũng giống như Singapore, Chính phủ Thái Lan cũng
thành lập cơ quan Cộng đồng nhà ở (UCDO) trực thuộc Bộ Nhà ở. UCDO có vai trò
liên kết các tổ chức khác nhằm huy động tài chính để phát triển nhà ở; hoạch định
chính sách, quy hoạch, thiết kế nhà ở.
Về chính sách tài chính, Chính phủ Thái Lan cho phép UCDO thành lập ngân
hàng riêng với mục đích cung cấp tín dụng nhà ở; cung cấp những khoản vay cho
người thu nhập thấp với lãi suất ưu đãi, để họ mua được nhà trả góp. Chính phủ thành
lập Tổ chức nghiên cứu thị trường nhà ở, khuyến khích các nguồn vốn đầu tư của tư
nhân và nước ngoài vào lĩnh vực nhà ở. Ngoài ra, còn chủ trương trích 20% khoản
thuế thu nhập đánh vào nhóm người giàu để bổ sung vào Quỹ phát triển nhà ở.
Chính phủ cũng chú trọng giải quyết yêu cầu cải thiện môi trường, bảo đảm
dành quỹ đất cho các công trình công cộng, dịch vụ xã hội, sân vườn, cây xanh
trong khu nhà ở của người nghèo. Bảo đảm mức giá thuê nhà hợp lý đối với người
thu nhập thấp, xây dựng chính sách thuê nhà.
Tại Mỹ
Chính quyền tham gia xây dựng nhà ở bắt đầu từ những năm 1930 (sau khủng
hoảng kinh tế 1929-1933), khi số đông người thất nghiệp không có khả năng trả tiền
thuê hay mua nhà. Sự can thiệp của chính quyền liên bang thể hiện ở việc tổ chức
30
lại toàn bộ hệ thống đầu tư xây dựng nhà tư nhân, ra luật bảo hiểm cho các cơ quan
tín dụng và cấp quỹ tín dụng để hoạt động hiệu quả. Tại Mỹ thành lập Bộ phát triển
nhà ở và thành thị liên bang (HUD) với chức năng lập dự toán phát triển, trợ cấp
nhà ở và tài trợ xây dựng nhà ở cho gia đình có thu nhập thấp. Điều này giúp cho
người dân với nguồn tài chính có hạn có thể mua, thuê nơi ở. Từ 1937 áp dụng
chương trình xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp và vô gia cư theo cách: Mua
đất, thuê thiết kế và xây dựng trên cơ sở đấu thầu; Mua nhà ở xây dựng mới, bán
hay cho người nghèo thuê; Thuê các loại căn hộ chung cư và hỗ trợ cho người
nghèo thuê lại.
Chương trình nhà ở quốc gia chú trọng đáp ứng nhu cầu nhà ở đối với những
gia đình có thu nhập thấp với 3 chương trình: Hỗ trợ nhà ở; Khuyến khích chính
quyền địa phương nâng cao chất lượng nhà ở và các khu dân cư ngoại thành; Chính
sách giảm giá thuê căn hộ. Bốn biện pháp cụ thể là: hỗ trợ tài chính thông qua phát
hành tín phiếu; Hỗ trợ bù lỗ cho các đơn vị kinh doanh nhà phần chênh lệch giữa
giá cho thuê thực tế, giá thị trường và giá ưu đãi, sao cho gia đình nghèo chỉ trả tiền
thuê nhà không lớn hơn 30% thu nhập; Hỗ trợ sửa chữa, cải tạo nhà; lựa chọn gia
đình đủ điều kiện ở nhà thu nhập thấp thuộc sở hữu của Nhà nước.
Mô hình tiết kiệm ở Đức
Đầu tư tài chính cho lĩnh vực xây dựng nhà ở tại Đức được thực hiện chủ yếu
thông qua hệ thống các ngân hàng thế chấp bất động sản và ngân hàng tiết kiệm xây
dựng. Hệ thống các ngân hàng này hoạt động rất có hiệu quả ở Đức, có đến 60%
nhà ở được giao dịch thông qua hệ thống này.
Khác với ngân hàng thương mại, ngân hàng thế chấp bất động sản chỉ được
phép hoạt động giới hạn trong một số nghiệp vụ tín dụng nhất định. Giao dịch
thương mại chính của các ngân hàng này là cấp tín dụng dài hạn cho người dân mua
nhà, được đảm bảo trả nợ bằng tài sản thế chấp là đất đai, nhà. Chức năng, nguyên
tắc làm việc của các ngân hàng này được quy định chặt chẽ trong “Luật về ngân
hàng thế chấp bất động sản” và “ Luật về nghiệp vụ tín dụng” ở Đức. “Luật về ngân
hàng thế chấp bất động sản” được soạn thảo trên cơ sở là nhà nước đặc biệt chú
trọng xây dựng các biện pháp đồng bộ bảo vệ quyền lợi cổ đông. Các ngân hàng
31
này chỉ được phép thực hiện hạn chế một số giao dịch với mức độ mạo hiểm thấp
nhất, và tài sản để đảm bảo là trả nợ là đất đai, nhà cửa.
Một hình thức tín dụng và tích lũy tài chính của nhân dân để giải quyết vấn đề
nhà ở được sự trợ giúp của nhà nước thực hiện rất có hiệu quả ở Đức là hệ thống
các “ngân hàng tiết kiệm xây dựng”. Hiện nay, hệ thống này đang dẫn đầu và chiếm
35,3% thị trường cấp tín dụng thế chấp bất động sản tài trợ cho lĩnh vực nhà ở.
Điểm đặc trưng của hệ thống các “ngân hàng tiết kiệm xây dựng” của Đức là việc
tài trợ tín dụng được thực hiện theo một chu trình lớn, bao gồm 2 giai đoạn: giai
đoạn tích lũy và giai đoạn vay tín dụng.
Trước tiên người gửi tiền (thành viên quỹ) ký hợp đồng với quỹ (ngân hàng
tiết kiệm), trong đó quy định người gửi tiền có trách nhiệm trong khoảng thời gian
nhất định (tối thiểu ít nhất là 1,5-2 năm) phải gửi tiền vào quỹ và được hưởng lợi
nhuận theo lãi suất thỏa thuận thấp hơn thị trường. Số tiền hàng tháng phải gửi vào
quỹ và thời hạn tích lũy được người gửi tiền tự quyết định theo khả năng tài chính
của mình. Ngân hàng tiết kiệm có trách nhiệm cấp tín dụng cho người gửi tiền
(thành viên quỹ) theo lãi suất thấp (được thỏa thuận từ trước và không phụ thuộc
vào biến động của thị trường) khi giai đoạn tích lũy kết thúc. Giai đoạn vay tín dụng
bắt đầu khi người gửi tiền (thành viên quỹ) tích lũy được số tiền đủ lớn (khoảng
40%, 50% của số tiền cần vay phụ thuộc vào lãi suất vay).Sau đó người gửi tiền –
thành viên quỹ nhận lại số tiền đã gửi và ký hợp đồng vay số tiền còn thiếu để mua
nhà, tài sản cầm cố chính là nhà đã mua.
1.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương về thực hiện chính sách nhà ở
cho ngưòi thu nhập thấp
Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây không ngừng tăng trưởng và
phát triển. Bên cạnh sự phát triển về văn hóa - giáo dục, khoa học kỹ thuật thì vấn
đề an sinh xã hội vẫn còn những tồn tại cần được quan tâm. Nổi cộm là vấn đề nhà
ở trong đó nhà ở cho người thu nhập thấp đang bức thiết tại các khu vực đô thị bởi
lượng dân lao động nhập cư đổ về học tập, sinh sống và tìm kiếm công việc làm
ngày một tăng cao đẫn đến nhu cầu về nhà ở cũng tăng. Việc ban hành chính sách
nhà ở cho người thu nhập thấp đã phần nào giúp cho vấn đề nhà ở cho người thu
32
nhập thấp được cải thiện, người thu nhập thấp có nhà ở, yên tâm công tác và sinh
sống học tập. Có thể kể đến việc thành công thực hiện chính sách nhà ở cho người
thu nhập thấp tại một số địa phương:
Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh
Phát triển nhà ở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Thành ủy TP Hồ
Chí Minh xác định tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII.Nhiều giải
pháp phát triển nhà ở đã mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, những bất cập
trong chính sách đang là rào cản để chương trình này phát huy hiệu quả: doanh nghiệp
khó vay tiền đầu tư dự án, còn người dân không dễ vay tiền mua nhà…
Theo số liệu từ Quỹ Phát triển nhà ở từ năm 2006 đến nay, quỹ đã cho 790
khách hàng cá nhân vay vốn mua NOXH, nhà cho các đối tượng TNT, nhà phục vụ
tái định cư với tổng số tiền hơn 217 tỉ đồng. Đây là con số quá ít so với nhu cầu
hiện có khoảng 22.000 hộ CB-CNV, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp cần hỗ trợ
về nhà ở.
Quy định khắt khe và bất hợp lí về các điều kiện mua NOXH đang là những
rào cản khiến cho cơ hội để có được căn nhà như cánh cửa ngày càng hẹp dần.
Theo Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh, trong số hơn 100 dự án NOXH, nhà giá
thấp đã được đăng kí, đến nay mới chỉ có 6 dự án đang xây dựng và 17 dự án khác
đã được chấp thuận chủ trương đầu tư. Nguyên nhân của việc chậm trễ xây dựng
các dự án NOXH là chưa có chính sách khuyến khích các chủ đầu tư bỏ vốn đầu tư
vì xây dựng nhà ở TNT không đạt hiệu quả kinh tế, khả năng thu hồi vốn chậm. Khi
tham gia đầu tư xây dựng nhà ở TNT, các chủ đầu tư phải chủ động bồi thường giải
phóng mặt bằng, giá căn hộ thì do NN thẩm định, đối tượng được mua lại hạn chế
và NN thì chưa có chế độ hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các đối tượng này nên việc
thu hồi vốn lâu. Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí
Minh cho rằng, đối với chương trình NOXH, NN phải thể hiện vai trò chínhCụ thể,
đối với việc xây dựng chỗ lưu trú cho công nhân, kí túc xá cho sinh viên thì dứt
khoát phải bằng nguồn lực của NN.Riêng đối với người có TNT thì nên xã hội hóa
bằng cơ chế, chính sách riêng đủ sức hấp dẫn DN tham gia.
33
Phần đông ý kiến của các chuyên gia đều cho rằng Chính phủ cần xây dựng
chiến lược phát triển nhà ở trên nền tảng cho đối tượng là người TNT, cán bộ công
chức...Tạo ra một môi trường sống lí tưởng cho người dân. Điều quan trọng là
Chính phủ nên ban hành chính sách thuế, cải tiến thủ tục cho DN tham gia vào lĩnh
vực này, các ưu đãi cho DN và huy động nguồn vốn xã hội hóa. Không nên can
thiệp trực tiếp quá sâu vào các quy định về quyền mua bán nhà của người dân. Điều
quan trọng để khơi thông thị trường bất động sản là người mua nhà TNT vẫn được
quyền mua bán, sang nhượng nhằm tạo nên một thị trường thực sự, tránh tình trạng
cấp phát như thời bao cấp.
Với hi vọng lập được nhiều quỹ NOXH, thành phố Hồ Chí Minh đã kêu gọi
các DN tham gia, đồng thời xác định không sử dụng vốn ngân sách NN để phát
triển NOXH mà “lấy đất nuôi đất”, tức sử dụng quỹ đất công dôi dư (qua sắp xếp lại
nhà đất công tại Thành phố) để hoán đổi với các chủ đầu tư lấy nhà ở xã hội. Thành
phố cũng giao Sở Quy hoạch - Kiến trúc phối hợp các sở ngành liên quan và UBND
các quận huyện 2, 9, 12, Thủ Đức, Hóc Môn, Bình Chánh... quy hoạch sử dụng đất
tại bốn cửa ngõ của Thành phố để xây NOXH.
* Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
Cũng như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội đang thiếu nhà ở nghiêm trọng,
nhất là đối với người nghèo, người TNT và công chức, viên chức. Sau bốn năm
thực hiện đề án thí điểm NOXH (2015 - 2019), Hà Nội chỉ mới hoàn thành mục tiêu
phê duyệt thí điểm các dự án NOXH bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn vốn DN
sau đây:
- Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở cho người TNT tại khu đô thị mới Thanh
Lâm - Đại Thịnh 2, huyện Mê Linh, Hà Nội.
- Dự án đầu tư xây dựng nhà ở cho người TNT tại lô đất CT1 và CT2 khu nhà
ở Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội.
- Dự án ĐTXD nhà ở cho người thu nhập thấp NO11A và NO12-2 Khu đô thị
mới Sài Đồng, Gia Lâm, Hà Nội.
- Dự án khu tái định cư Kiến Hưng, phường Kiến Hưng, Quận Hà Đông, Hà Nội.
- Dự án chung cư Ngô Thì Nhậm, Quận Hà Đông, Hà Nội.
34
Trong tám năm (2005 - 2009), Hà Nội xây dựng được khoảng 8,5 triệu m2 nhà
ở. Dù con số này giúp nâng diện tích nhà ở đô thị bình quân đầu người từ 6m2 (năm
2000) lên 7,5m2 (năm 2008), song chủ yếu đáp ứng nhu cầu nhà ở thị trường. Nhà ở
cho người TNT, người có khó khăn về nhà ở vẫn là vấn đề bức xúc, hàng ngàn hộ
phải sống trong điều kiện chỗ ở dưới mức tiêu chuẩn tối thiểu.
Nguồn cung nhà rất hạn chế so với nhu cầu rất lớn của các đối tượng có TNT.
Tại Hà Nội hiện chỉ có Dự án chung cư Ngô Thì Nhậm được hoàn thành với tổng số
328 căn hộ. Chủ đầu tư dự án này - Công ty cổ phần bêtông và xây dựng Vinaconex
Xuân Mai - đã tiếp nhận gần 2.000 hồ sơ nộp mua nhà, tương đương tỉ lệ hơn 6 hồ
sơ/nhà. Sau khi tiến hành xét duyệt hồ sơ và bốc thăm theo quy định, toàn bộ các
căn hộ trên đã có chủ.
Tuy nhiên, đến nay lại phát sinh một số trường hợp chuyển nhượng trái phép
hoặc được mua nhà nhưng không vào ở. Sở Xây dựng Hà Nội đang tham mưu cho
UBND thành phố Hà Nội xử lý những trường hợp này: chuyển hồ sơ cho cơ quan
Công an đối với trường hợp chuyển nhượng trái phép, và thu hồi căn hộ đối với
trường hợp quá 03 tháng từ ngày được mua nhà mà vẫn chưa dọn vào ở. Đây cũng
là kinh nghiệm quý báu đối với chủ đầu tư những dự án tương tự sau này.
Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Bình Dương có khoảng 400.000 lao động nhập cư đang làm việc trong các
khu, cụm công nghiệp, hầu hết đều ở trong các khu nhà trọ tự phát chật hẹp, ẩm
thấp mà theo Sở Xây dựng Bình Dương, khoảng 70% số này có “chất lượng thấp”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, năm 2018 tỉnh Bình Dương đã có
chủ trương đầu tư xây dựng nhà ở cho người TNT bằng Quyết định 3317/UBND-
SX ngày 19/11/2008. Và từ đó Bình Dương bắt đầu lập dự án, trình các cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Sau gần 2 năm chuẩn bị đầy đủ các thủ tục cần thiết, ngày
18/5/2010 Bình Dương đã chính thức khởi công xây dựng nhà ở cho người thu nhập
thấp đầu tiên tại khu dân cư Phú Hòa 1, thị xã Thủ Dầu Một.
Để có được diện tích đất sạch cho tỉnh xây nhà ở cho người TNT, Công ty CP
Xây dựng tư vấn đầu tư Bình Dương (Biconsi) đã nhượng lại lô đất trong KDC Phú
Hòa 1 với giá chỉ 1,4 triệu đ/m2 trong khi đó giá thị trường đang giao dịch là 7 triệu
35
đ/m2. Ông Trần Hữu Lợi - Tổng giám đốc Biconsi cho biết ý nghĩa của việc làm
này như sau: “Ngoài việc kinh doanh, chúng tôi còn ý thức được trách nhiệm của
mình với xã hội và cộng đồng, nên Công ty đã chuyển giao lại cho tỉnh toàn bộ lô
đất để xây dựng nhà ở cho người TNT theo chi phí đầu tư ban đầu với đơn giá thấp
hơn nhiều so với giá đất thị trường năm 2015. Từ đó tạo điều kiện thực hiện dự án
nhà ở cho người TNT, đóng góp một phần cho cộng đồng và hưởng ứng chương
trình nhà ở cho người TNT của Chính phủ”.
Định hướng phát triển nhà ở của tỉnh Bình Dương là thực hiện chính sách xã
hội hóa việc xây dựng nhà ở để bán và cho thuê; khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư xây dựng nhà ở nhằm giải quyết chỗ ở cho các đối tượng chính
sách, công nhân và người lao động có TNT, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các chủ
đầu tư thực hiện dự án xây dựng nhà ở cho người TNT.
Bằng việc kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia xây dựng nhà ở, đến nay
trên địa bàn Bình Dương đã có 4 dự án nhà ở cho người TNT, trong đó Sở Xây
dựng làm chủ đầu tư 3 dự án, còn lại 1 dự án do Công ty Thành Nguyên làm chủ
đầu tư. Về nhà ở cho sinh viên, Bình Dương đã có 5 dự án với tổng số vốn đầu tư
khoảng 1.041 tỷ đồng từ vốn trái phiếu Chính phủ và vốn vay ưu đãi. Đối với nhà ở
cho công nhân và người có TNT đã có 14 dự án, trong đó có 1 dự án nhà ở cho
người TNT do HUD làm chủ đầu tư đã được khởi công vào cuối năm 2019 và dự án
nhà ở cho công nhân do Cty Sản xuất - xuất nhập khẩu Bình Dương làm chủ đầu tư
đã xong 1/4 chung cư, đáp ứng được chỗ ở cho 1.080 người.
Do đã áp dụng quy định dành 7% diện tích đất để xây dựng NOXH cho mỗi
dự án nhà ở thương mại có quy mô trên 10 ha được cấp phép từ trước, nên khi
Chính phủ cho phép xây dựng thí điểm 12 chung cư NOXH, Bình Dương đã có đủ
đất để sẵn sàng triển khai dự án. Cách làm này nhằm tạo điều kiện cho NOXH được
xây dựng tại những vị trí có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, người lao động được thụ
hưởng các công trình phúc lợi của dự án. Song Bình Dương cũng gặp vấn đề tương
tự thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội: Doanh nghiệp lạnh nhạt, không muốn tham
gia đầu tư.
36
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra giải quyết vấn đề chính sách nhà ở xã hội
Một là, Nhà nước hỗ trợ trực tiếp: thông qua việc cấp vốn, cho vay ưu đãi
hoặc bảo lãnh về vốn đối với người mua hoặc thuê nhà. Hình thức hỗ trợ trực tiếp
này có thể thực hiện thông qua một số biện pháp cụ thể như:
Nhà nước cho các đối tượng TNT vay vốn ưu đãi từ ngân sách để mua nhà
theo giá kinh doanh hoặc ngân sách hỗ trợ bù phần chênh lệch lãi suất vay vốn tín
dụng thương mại để tạo điều kiện cho người thuộc diện được vay vốn có thể mua
nhà ở theo giá thị trường.
Hỗ trợ trực tiếp tiền thuê nhà ở để các đối tượng chính sách xã hội tự thuê nhà
ở (thông qua hình thức Nhà nước trợ giá thuê nhà ở theo mức quy định và quản lý
chặt chẽ việc thực hiện chế độ hỗ trợ tiền nhà ở).
Nhà nước bảo lãnh một phần tiền thuê nhà theo nguyên tắc người thuê nhà
được bảo đảm thanh toán một phần chi phí thuê nhà ở thông qua việc cấp giấy bảo
lãnh thanh toán. Bên thuê nhà có thể tự liên hệ để thuê nhà ở trên thị trường và tự
thanh toán một phần tiền thuê nhà (tối đa bằng 30% tổng thu nhập của hộ gia đình).
Số tiền còn lại trong phạm vi định mức hỗ trợ sẽ được Nhà nước thanh toán thông
qua giấy bảo lãnh.
Ưu điểm của biện pháp này là Nhà nước không can thiệp đối với thị trường
nhà ở mà chỉ hỗ trợ trực tiếp về tài chính cho những đối tượng thuộc diện được hỗ
trợ khi họ mua hoặc thuê nhà.
Nhược điểm của phương án này là thủ tục cho vay và theo dõi để thu hồi vốn
vay rất phức tạp, với điều kiện tiên quyết là phải quản lý chặt chẽ mức thu nhập của
từng hộ gia đình và cá nhân; nguồn cung cấp nhà ở cho thị trường chủ yếu do doanh
nghiệp thực hiện nên giá bán và giá thuê nhà ở thường có biến động theo hướng
tăng quá cao so với mức thu nhập của các đối tượng thu nhập thấp. Do đó hình thức
hỗ trợ này không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.
Hai là, Nhà nước hỗ trợ gián tiếp: thông qua việc ưu đãi cho các doanh nghiệp
đầu tư xây dựng nhà ở đi đôi với việc khống chế các tiêu chuẩn về căn hộ, về giá
cho thuê, cụ thể là:
37
Nhà nước ban hành cơ chế ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
đầu tư xây dựng nhà ở để bán trả dần hoặc cho các đối tượng chính sách xã hội
thuê.
Thành lập các doanh nghiệp phát triển nhà ở của Nhà nước đảm nhận vai trò
chủ đầu tư xây dựng nhà ở để bán trả dần hoặc cho thuê đối với các đối tượng chính
sách xã hội theo các chế định của Nhà nước.
Ưu điểm của hình thức này là khuyến khích tăng khả năng cung cấp nhà ở cho
thị trường (tăng cung).
Nhược điểm cơ bản của hình thức này là phải hỗ trợ qua trung gian, các đối
tượng chính sách xã hội không được hưởng ưu đãi trực tiếp, cho nên việc hỗ trợ
theo hình thức này thường đạt hiệu quả thấp do thường bị lợi dụng, Nhà nước rất
khó kiểm soát. Mặt khác, trong trường hợp này rất khó xác định chính xác quyền lợi
và nghĩa vụ của các chủ đầu tư trong từng dự án cụ thể được Nhà nước ưu đãi. Hơn
nữa, cơ chế ưu đãi trung gian thông qua doanh nghiệp rất dễ xảy ra tình trạng “xin-
cho” khi xét duyệt dự án.
Ba là, Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn để tạo lập quỹ nhà ở nhằm giải quyết nhu
cầu về chỗ ở cho các đối tượng chính sách xã hội (theo hình thức bán trả dần hoặc
cho thuê) như ở Hàn Quốc, Venezuela...
Ưu điểm là Nhà nước có quỹ nhà ở thuộc sở hữu của mình để điều tiết thị
trường.Đối tượng chính sách xã hội cần hỗ trợ được hưởng ưu đãi trực tiếp, không
phải qua trung gian.
Nhược điểm của hình thức này là đòi hỏi Nhà nước hàng năm phải đầu tư từ
nguồn vốn nhà nước để duy trì và phát triển quỹ nhà ở. Mặt khác, Nhà nước phải có
tổ chức bộ máy riêng để quản lý việc đầu tư xây dựng cũng như quá trình khai thác
sử dụng quỹ nhà ở này. Đối với những nước đang phát triển như nước ta thì hình
thức này được coi là phù hợp tuy cũng còn có những mặt hạn chế nhưng đây có thể
coi là một hướng phát triển đúng đắn. Trên thực tế, hình thức hỗ trợ này đang được
áp dụng tại nước ta theo các nguyên tắc được quy định trong Luật Nhà ở và Nghị
định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ.
38
Tiểu kết Chương
Nội dung Chương 1, trên những cơ sở lý thuyết nghiên cứu giúp có cái nhìn
tổng quan về vấn đề nhà ở và phát triển NOXH.
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng tại Việt Nam, quá trình đô thị
hóa sẽ dẫn đến sự gia tăng dân số. Theo đó số lượng cư dân có TNT tăng nhanh
cũng kéo theo nhu cầu nhà ở đáp ứng cho bộ phận cư dân này cũng tăng theo, từ
đây vấn đề giải quyết nhu cầu nhà ở cho đối tượng này cũng trở thành mối quan tâm
của toàn xã hội. Việc giải quyết nhu cầu NOXH cho đối tượng TNT cũng là vấn đề
mang tính chất thời đại đối với mỗi quốc gia trên thế giới.
Cần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chính sách nhà ở cho người
TNT.Mỗi chủ thể tham gia cần nhận thức rõ vai trò của mình.Nhà đầu tư cần triển
khai xây dựng đảm bảo chất lượng, đúng tiêu chí đề ra, hỗ trợ người dân mua nhà ở
một cách thuận lợi về thủ tục.Người TNT được tiếp cận với chính sách, nắm rõ
nguyên tắc thủ tục thực hiện để đảm bảo việc mua bán diễn ra thuận lợi. Cán bộ
công chức nâng cao năng lực quản lý, hiểu rõ chính sách để truyền tải đủ đúng nội
dung chính sách đến đối tượng thụ hưởng. Khi thực hiện chính sách cần phải thành
lập những đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách để có
cái nhìn khách quan được chứng minh từ những con số thực tế, nguyện vọng thực
sự cùa người dân, đánh giá chính sách ban hành có phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội không để từ đó có sự điều chỉnh chính sách phù hợp.
39
Chương 2
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến đầu tư
phát triển nhà ở xã hội tại tỉnh An Giang
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Phía Tây Bắc giáp
Vương quốc Campuchia (với đường biên giới quốc gia dài 95 km); phía Đông và
Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp (113 km); phía Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ
(45 km); phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang (62 km).
40
Về địa giới hành chính, An Giang có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 08
huyện, 01 thị xã, 02 thành phố (thành phố Long Xuyên, thành phố Châu Đốc, thị xã
Tân Châu, huyện An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn,
Tịnh Biên và Tri Tôn); 156 đơn vị hành chính cấp xã (119 xã, 21 phường và 16 thị
trấn). Có 18 xã biên giới, 36 xã dân tộc (Khmer 27 xã, Chăm 09 xã nằm trên địa bàn
08 huyện), 27 xã khó khăn theo Quyết định Quyết định 1010/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 353.667 ha (3.536 km2), bằng 1,07% diện tích đất
của cả nước, xếp thứ 4 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Lợi thế đặc biệt của
tỉnh là có đường biên giới với Vương quốc Campuchia, đồng thời có các tuyến giao
thông đường bộ quan trọng đi qua như: Quốc lộ 91 đi từ Cần Thơ nối với Quốc lộ 2
của Vương quốc Campuchia, tuyến Quốc lộ N1 tiếp giáp biên giới Campuchia đang
được đầu tư; tuyến đường thuỷ có sông Tiền và sông Hậu nối liền với các tỉnh trong
vùng Đồng bằng sông Cửu Long với các nước bạn Lào, Campuchia, Thái Lan và
vùng biển Đông. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc giao lưu, hội nhập và phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh với bên ngoài.
Địa hình tỉnh An Giang có nét đặc trưng so với các tỉnh, thành khác trong
vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 1/3 diện tích là vùng đồi núi ở phía Tây, 2/3
diện tích còn lại là vùng đồng bằng châu thổ, với độ cao dưới 5 m so với mặt nước
biển, nghiêng đều từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam với độ chênh lệch cao từ
0,5 – 1 cm/km theo mỗi chiều.
An Giang có đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa (từ
tháng 5 đến tháng 11 hàng năm), lượng mưa nhiều và phân bổ theo mùa, lượng mưa
hàng năm bình quân từ 1.500 mm - 1.600 mm/năm, cao nhất đạt 2.100 mm/năm và
thấp nhất là 900 mm/năm và mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau).
Địa bàn An Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, các hiện tượng lốc
xoáy có xảy ra trong mùa mưa nhưng tần suất thấp nên mức độ ảnh hưởng không
lớn. Tóm lại, với nền nhiệt cao đều trong năm, giàu nắng, mưa theo mùa và không
có bão, điều kiện khí hậu ở An Giang khá thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp như thâm canh, tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi.
41
2.1.2. Về điều kiện kinh tế - xã hội
Lĩnh vực kinh tế: Cơ cấu kinh tế chính của An Giang là nông, lâm, thủy sản,
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Trong đó, nông, lâm, thủy sản chiếm 35,28%; công
nghiệp, xây dựng chiếm 13,52%; dịch vụ chiếm 49,31%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GRDP) năm 2015 đạt 6,0%. Thu nhập bình quân đầu người 31,24 triệu đồng/năm.
Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt
2,64% và đóng góp 0,61% vào tăng trưởng chung của tỉnh (8,63%); trong đó, lĩnh
vực nông nghiệp tăng 3,1%, thủy sản giảm 0,5%, lâm nghiệp tăng 0,2%.
Khu vực công nghiệp - xây dựng: Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt
8,47%, trong đó, lĩnh vực công nghiệp tăng 8,43%, lĩnh vực xây dựng tăng 8,65%.
Mặc dù khu vực này chiếm tỷ trọng không cao trong nền kinh tế nhưng đã đóng góp
vào tăng trưởng chung của tỉnh là 1,52% trong tổng số 8,63%. Chỉ số sản xuất công
nghiệp tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2015 là 5,66%/năm; ngành Công
nghiệp chế biến, chế tạo luôn là thế mạnh, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành
Công nghiệp, chiếm 95,39% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tốc độ tăng
trưởng bình quân 8,66%/năm (năm 2010 đạt 6.907,41 tỷ, tăng lên 10.463,93 tỷ năm
2019), xuất hiện ngày càng nhiều DN đầu tư chế biến lúa gạo và thủy sản đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu với quy mô, công suất lớn, máy móc thiết bị hiện đại, quy trình
công nghệ tiên tiến làm cho giá trị gia tăng ngành công nghiệp chế biến tăng nhanh,
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của địa phương.
Các khu, cụm công nghiệp từng bước được hoàn thiện hạ tầng, đáp ứng nhu
cầu triển khai dự án, mở rộng sản xuất của DN. Đến nay, tỷ lệ lấp đầy Khu Công
nghiệp Bình Long là 100%, Khu Công nghiệp Bình Hòa là 39,4%. Hiện nay, có 8
cụm công nghiệp (tổng diện tích khoảng 200 ha) đã được phê duyệt quy hoạch chi
tiết và tiến hành triển khai đầu tư kết cấu hạ tầng, một số cụm đã hoạt động, thu hút
24 dự án đầu tư và có 12 dự án đi vào hoạt động. Chương trình khuyến công đã hỗ
trợ DN vừa và nhỏ đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm; hỗ
trợ khôi phục ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống, giải
quyết việc làm cho khu vực nông thôn.
42
Lĩnh vực đầu tư - xây dựng có chuyển biến tích cực, thu hút nhiều nguồn vốn
đầu tư, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, hệ thống giao thông. Trong 5 năm
qua, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 16.476 tỷ đồng, trong đó, ngân sách
tỉnh 8.206 tỷ đồng (chiếm 49,81%). Một số công trình quan trọng được đầu tư, như:
Dự án kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao, đường tránh Long Xuyên,… Toàn tỉnh có gần
5.507 km đường giao thông và 1.639 cây cầu với chiều dài gần 55,7 km.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 11,09%, đây là khu vực đóng góp cao
cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh (đóng góp 6,49% trong tốc độ tăng trưởng chung là
8,63%).
Thương mại nội địa tỉnh hiện tăng gấp đôi so giai đoạn 2016– 2019 với tổng
mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2019 đạt 73.610 tỷ đồng (gấp 2,049 lần so
năm 2016); tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 15,43%/năm,
vượt 0,4% so kế hoạch. Những đóng góp ngày càng tăng của ngành Thương mại
vào GDP hàng năm thể hiện rõ những nỗ lực khai thác các lợi thế, đóng góp quan
trọng vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân thông qua đẩy mạnh các hoạt động tiêu
thụ hàng nông sản, cung ứng tư liệu cho sản xuất và hàng hóa tiêu dùng cho nhân
dân. Trong 5 năm qua, có 46 dự án (gồm 43 dự án chợ, 02 siêu thị và 01 trung tâm
mua sắm) đưa vào khai thác với tổng vốn đầu tư trên 321 tỷ đồng (trong đó, vốn
ngân sách địa phương gần 67 tỷ đồng, kêu gọi đầu tư trên 247,6 tỷ đồng và huy
động trên 6,5 tỷ đồng).
Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm2019 cho thấy, tổng số dân số vào thời điểm
0 giờ ngày 1/4/2019 của tỉnh An Giang là 1.908.352 người; trong đó dân số nam là
847.570 người, chiếm 49,65% và dân số nữ là 960.782 người, chiếm 50,35%.Với
quy mô dân số như trên, An Giang hiện là tỉnh có dân số đông nhất khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long và là tỉnh đông dân thứ 8 trong cả nước chỉ sau thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bình Dương và Hải Phòng. So
với quy mô dân số năm 2009, vị trí xếp hạng về quy mô dân số của An Giang giảm
2 bậc so với các tỉnh, thành khác trong cả nước..
43
Biểu đồ 2.1: Hiện trạng tỷ lệ dân số đô thị, nông thôn trên địa bàn tỉnh An Giang
Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang năm 2019
Đến năm 2019, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh (từ 15 đến 64
tuổi) chiếm 70,2%, tỷ trọng dân số phụ thuộc (dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên)
chiếm 29,8%. Như vậy, An Giang đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, do đó
đây chính là lợi thế để tỉnh tận dụng để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương trong thời gian tới.
2.1.3. Đánh giá tác động của các yếu tố tự nhiên Kinh tế - xã hội đến việc
phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang
Về thuận lợi:
An Giang có đường biên giới dài, đây là cửa ngõ thuận lợi cho phát triển Kinh
tế – xã hội. Là tỉnh đồng bằng nhưng có trữ lượng đá núi lớn cho phép phục vụ việc
xây dựng nhà ở. Ngoài ra tỉnh cũng đã sản xuất được gạch không nung xây dựng
chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xây dựng tỉnh nhà.
Trong tương lai, An Giang nên lựa chọn phát triển các loại dịch vụ trung bình
và phổ thông, phục vụ cho công nghiệp. Không tập trung phát triển nhiều vào các
loại dịch vụ cao cấp vì dịch vụ cao cấp phải đổ vốn đầu tư rất nhiều, trong khi tỷ lệ
thu hồi vốn đầu tư thấp. Bởi vì, người dân theo nhu cầu ngày càng tăng sẽ tiêu thụ
những dịch vụ cao cấp tại thành phố Cần Thơ hoặc thành phố Hồ Chí Minh.
An Giang có đội ngũ lao động và nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ chuyên
môn đa dạng phù hợp nhiều ngành nghề.
44
Những khó khăn, hạn chế:
Mối liên kết giữa An Giang với các vùng trong cả nước còn hạn chế do
khoảng cách địa lý khá xa các trung tâm kinh tế lớn: TPHCM, Cần Thơ, điều kiện
cơ sở hạ tầng chưa phát triển mạnh.
Sự phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, nhiều nơi đất chưa được khai thác,
còn nhiều vùng phèn mặn.
Vấn đề xã hội còn nhiều việc phải làm: Tỷ lệ gia tăng dân số còn cao, thiếu
việc làm, môi trường vệ sinh còn ô nhiễm, thu nhập bình quân trên đầu người còn
thấp.
Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế chưa đáp ứng kịp
thời yêu cầu đổi mới của nền kinh tế.
2.2. Thực trạng nhà ở và thực hiện chính sách nhà ở xã hội cho người thu
nhập thấp trên địa bàn tỉnh An Giang
2.2.1. Thực trạng nhà ở của người thu nhập thấp trên địa bàn tỉnh An Giang
Theo số liệu dân số và nhà ở của cục Thống kê Tỉnh An Giang tính đến đầu
năm 2019 dân số tỉnh An Giang là 1.908.352 người theo thống kê nhân khẩu thì
toàn tỉnh có 411.908 hộ, trong đó có 409.574 hộ có nhà ở, chiếm 90.9%; có 2.334
hộ chưa có nhà ở, chiếm tỷ lệ 1.1% .
Theo thống kê đến năm 2019 thì tổng diện tích nhà ở của An Giang là
19.281.627 m2, bình quân diện tích nhà ở cả tỉnh là 18,1m2/người. Tuy nhiên, diện
tích này phân bố không đồng đều ở các khu vực đô thị và nông thôn. Tại khu vực đô
thị diện tích bình quân là 13,2 m2/người, tại khu vực nông thôn là 22,1 m2/người.
Bên cạnh đó chất lượng nhà ở của tỉnh An Giang chưa cao, giữa nhà ở giữa đô thị
và nông thôn còn khoảng cách lớn và giữa các đô thị trong tỉnh cũng chưa đồng
đều. Với tổng diện tích nhà ở là 19.281.627 m2 trong đó: có 17.838.276 m2 với
318.770 căn nhà kiên cố (chiếm 79% trên tổng số lượng nhà); 1.144.576m2 với
58.481 căn nhà bán kiên cố (chiếm 10,5%); 211.638 m2 với 30.654 căn nhà thiếu
kiên cố (chiếm 6,3%), 87.136 m2 với 2.005 căn nhà đơn sơ (chiếm 4,2%).
45
Biểu đồ 2.2: Hiện trạng phân loại hình nhà ở trên địa bàn tỉnh An Giang
Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang năm 2019
Về hình thức sở hữu thì trên địa bàn tỉnh An Giang có 99.90% là nhà ở riêng lẽ,
chỉ có 0,1 % là nhà dạng chung, nhà tập thể. Phân loại nhà trên địa bàn tỉnh thì tỷ trọng
hộ sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố chiếm 89,5% số hộ có nhà ở. Con số này ở
thành thị cao hơn nông thôn tương ứng với 93,7% và 91%. Tỷ trọng hộ sống trong
những ngôi nhà thiếu kiên cố là 6,3% trong đó: thành thị 5,3%, nông thôn là 7,6%.
Bảng 2.1: Số lượng và phân bổ phần trăm số hộ có nhà ở chia theo thành
thị/nông thôn và loại nhà ở trên địa bàn tỉnh An Giang
Thành Nông Tổng số thị thôn
(Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhu cầu nhà ở tỉnh An Giang năm 2020)
Toàn tỉnh Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà thiếu kiên cố Nhà đơn sơ 100% 79% 10,50% 6,30% 4,20% 100,0% 83,5% 10,2% 5,3% 1,0% 100,0% 76,3% 14,7% 7,6% 1,4%
Trong đó qua số liệu khảo sát dân số thì tỷ lệ hộ không có nhà ở phân theo
thành thị và nông thôn tại thời điểm tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2016 (Biểu
2.5) thì cứ 10.000 hộ thì có 2,5 hộ không có nhà ở, giảm 10 hộ/10.000 hộ so với
năm 2010. Trong đó thành thị giảm 6 hộ/10.000 hộ. Nhìn chung, trong thập kỷ qua
số hộ không có nhà ở trên địa bàn tỉnh duy trì ở mức thấp có giảm phần nào chứng
minh cuộc sống của người dân từng bước có cải thiện.
46
Bảng 2.2: Tỷ lệ hộ không có nhà ở phân theo thành thị và nông thôn
tỉnh An Giang 2016 - 2019
Đvt: Phần mười nghìn
2016 2019
Toàn tỉnh 13.46 2.33
Thành thị 7,82 1.36
Nông thôn 5.64 0.97
(Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019)
Nhưng với tỷ lệ ước tính tăng dân số tự nhiên của tỉnh An Giang là
1.37%/năm và tăng cơ học là 1.23%/năm thì nhu cầu nhà ở của người dân ngày
càng tăng lên. Chính vì thế diện tích nhà ở bình quân và quỹ đất dành cho nhà ở
đang dần bị thu hẹp chưa đáp ứng hết nhu cầu về nhà ở của người dân. Đòi hỏi
chính quyền địa phương tỉnh phải có những cơ chế lộ trình đảm bảo quỹ đất nhà ở
nhất là dành cho người có TNT.Bên cạnh thực hiện tốt nhất các chính sách đổi mới
của Đảng và NN trong phát triển kinh tế nhất là chính sách chăm lo nhà ở cho các
đối tượng chính sách nhà ở cho người TNT, đang được Trung ương và chính quyền
địa phương quan tâm.
Ngoài ra trong cơ chế khuyến khích mở cửa đầu tư, các thành phần kinh tế đã
tích cực tham gia đầu tư xây dựng khu dân cư, khu trung tâm thương mại... Nhiều
hộ dân đã cố gắng tích lũy để sửa chữa và xây mới nhà ở nên số lượng diện tích mặt
sàn nhà ở trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng đáng kể. Nhưng đa số các DN theo
xu hướng người dân xây dựng nhà ở đắt tiền, tiện nghi sang trọng để kinh doanh
được khai thác nhiều vì mang lại lợi nhuận và lấy lại vốn nhanh, còn việc xây dựng
NOXH cho người có TNT ... chưa được quan tâm đúng mức đòi hỏi cần có nhiều sự
quan tâm hơn nữa cho đối tượng này, để khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và
người nghèo trên địa bàn ngày càng rút ngắn lại.
Về thu nhập và chi tiêu cho nhà ở cho các nhóm đối tượng trên địa bàn tỉnh
An Giang, thực tế cho thấy sự chênh lệch cao giữa các đối tượng với giá cả BĐS và
thu nhập thực tế của người dân là vượt quá giá trị thực của nó. Giá nhà ở tại Việt
Nam đang đứng ở mức 29 so với các nước trên thế giới và so với mặt bằng chung
với các nước trong khu vực Đông Nam Á.Theo dữ liệu của Numbeo.com vào năm
47
2019, giá nhà tại Việt Nam đang cao gấp 25 lần so với thu nhập trung bình của
người dân điều này dẫn đến thực trạng sự chênh lệch giữa giá nhà và thu nhập bình
quân đầu người của nước ta là quá cao làm ảnh hưởng đến khả năng tạo lập nhà ở
của tầng lớp dân cư. Trong khi đó thu nhập bình quân đầu người nước ta lại thuộc
loại thấp nhất trong khu vực. Giả dụ rằng nếu ước tính một gia đình tại Việt Nam
với mức thu nhập bình quân đầu người nếu muốn vay ngân hàng với lãi suất
12%/năm để mua và xây dựng 1 căn nhà thì phải trả trong vòng 20 năm và hàng
tháng phải trả tới gần 6 lần thu nhập của họ. Có lẽ với mức giá này thì ít gia đình có
thể tự mua được nhà điều đó càng khiến ước mơ có được một chỗ ở ổn định của
người dân ngày càng xa vời.
Qua đó ta cũng thấy được mối liên hệ giữa giá của BĐS và thu nhập bình quân
đầu người chính là then chốt đưa ra quyết định lựa chọn cuối cùng để mua và thuê
mua nhà ở của các đối tượng mà trong đó đối tượng có TNT lại càng dễ nhạy cảm
hơn ở vấn đề này.
Để tìm hiểu thêm về thu nhập và chi tiêu cho nhà ở cho các đối tượng TNT
trên địa bàn tỉnh An Giang trước hết tác giả tìm hiểu về thu nhập bình quân đầu
người của người dân, theo số liệu báo cáo của Cục Thống kê tỉnh An Giang chia
thành 5 nhóm thu nhập như sau:
Bảng 2.3: Bảng số liệu thống kê bình quân thu nhập đầu người trên địa bàn tỉnh
An Giang từ năm 2016 – 2019
Đvt: triệu đồng/tháng
Năm 2016 2017 2018 2019
Chung 1.045,66 1.660,50 2.198,80 2.757,66
Nhóm 1 498,50 578,40 798,30 1.002,30
Nhóm 2 779,50 975,70 1.145,60 1.445,50
Nhóm 3 978,90 1.287,30 1.678,80 2.073,20
Nhóm 4 169,50 2.196,30 2789,10 3.412,90
Nhóm 5 2.801,90 3.264,80 4.582,20 5.854,40
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang)
5,62 5,64 5,74 5,84 Chênh lệch giữa Nhóm 1 và nhóm 5
48
Theo số liệu báo cáo trên thì mức sống người dân được chia thành 5 cấp độ:
mức sống còn khó khăn (Nhóm 1), mức sống tạm ổn (Nhóm 2), mức sống trung
bình (Nhóm 3), mức sống khá (Nhóm 4) và mức sống cao (Nhóm 5). Vào năm 2019
thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn tỉnh là 2.757.000 đồng so với cả nước là
3.049.000 đồngchênh lệch thu nhập của nhóm có mức sống còn khó khăn so với
nhóm có mức sống là 5,84 lần. Điều này cho thấy mặc dù thu nhập chung của người
dân trên địa bàn tỉnh còn thấp hơn cả nước nhưng sự phân hóa giàu nghèo cũng
đáng chú ý gây không ít khó khăn cho việc đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết công
ăn việc làm cũng như đáp ứng nhu cầu về nơi ăn chốn ở cho người dân trên địa bàn,
đặc biệt là đối với bộ phận dân cư có mức sống còn khó khăn.
Một vấn đề tiếp theo liên quan đến thu nhập của người dân chính là tỷ trọng phân
bổ chi tiêu của từng nhóm thu nhập. Tỷ trọng này còn cho thấy được sự chênh lệch giàu
nghèo còn được phản ánh trong việc hưởng thụ các hàng hoá và dịch vụ, bao gồm cả
dịch vụ công – là những dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống của từng nhóm thu nhập, trong
đó có người TNT. Chính vì thế mà hằng năm chính quyền địa phương An Giang luôn
thống kê và đánh giá tỷ trọng này một cách cụ thể đề từ đó định hướng điều chỉnh xóa bỏ
khoản cách dần của từng nhóm thu nhập nhất là nhóm thu nhập 1 đây là nhóm dễ bị tổn
thương nhất trong xã hội. Để thấy rõ được phân bổ chi tiêu của từng nhóm thu nhập qua
các năm thì tác giả đã thống kê lại để cho thấy rõ được tỷ trọng phân bố thu nhập của họ
như thế nào trong việc chi tiêu nhất là việc chi tiêu cho nhà ở.
Bảng 2.4: Tỷ trọng các khoản chi tiêu của người dân phân theo các khoản chi và
nhóm thu nhập
(Đvt: %)
Chi ăn, uống Chi không phải chi ăn, uống
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 2016 76,1 67,3 63,8 59,7 2017 70,5 65,1 61,6 56,8 2018 67,2 62,7 59,1 54,6 2019 61,1 56,8 52 49,6 2016 23,9 32,7 36,2 40,3 2017 29,5 34,9 38,4 43,2 2018 32,8 37,3 40,9 45,4 2019 38,9 43,2 48 50,4
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang)
Nhóm 5 52,6 50,9 47,8 41,9 47,4 49,1 52,2 58,1
49
Qua Bảng 2.4 ta thấy trong các khoản chi tiêu cho đời sống thì đối với nhóm 1
với mức sống còn khó khăn tỷ trọng chi ăn, uống, bao gồm các khoản chi: lương
thực, thực phẩm, ăn uống vẫn chiếm tỷ trọng khá cao trên 61%. Trong khi đó chi
không phải cho ăn uống bao gồm các nhu cầu thiết yếu như mặc, y tế giáo dục, dịch
vụ… thì lại khá thấp. Điều này cũng dễ hiểu vì một khi thu nhập của họ còn quá
thấp thì họ sẽ chỉ tập trung nhu cầu thiết yếu là ăn uống hàng này để có sức khỏe
sinh hoạt lao động các phần còn lại của thu nhập họ cũng hết sức cân nhắc chi tiêu
khi thật cần thiết.
Giả sử với mức thu nhập bình quân của các nhóm đối tượng hiện có của họ là
2.750.000 đồng nếu với giá mức mặt bằng chung nhà ở chung cư trên địa bàn tỉnh
An Giang hiện nay từ 400 – 500 triệu đồng nếu họ không chi tiêu một khoản nào
cho thu nhập chỉ tập trung cho nhà ở thì họ cần khoản 15 đến 20 năm mới mua được
một căn hộ NOXH. Nếu họ vẫn chi tiêu cho ăn, uống và để dành phần còn lại để
mua NOXH thì họ phải mất 55 - 60 năm mới có được căn nhà thuộc sở hữu của họ.
Đây chính là sự chênh lệch rất cao giữa đối tượng TNT và giá bất động sản là một
thực tế kéo dài hàng chục năm qua. Sau cơn sốt đất vào cuối năm 2010, giá đất nền
và căn hộ ở An Giang không giảm mà còn tăng đều tới 10 - 15%/năm nhìn chung
vẫn ở mức quá cao so với thu nhập của người dân càng đẩy ước mơ có được ngôi
nhà thực sự của riêng mình của đối tượng TNT ngày càng xa tầm tay. Đặc biệt thì
trong tình trạng kinh tế gặp nhiều khó khăn biến động như hiện nay các ngân hàng
lại siết chặt các món vay tăng lãi suất đề phòng rủi ro thì vệc để có thể tiếp cận
nguồn vốn vay sẽ càng trở nên khó khăn đòi hỏi có nhiều chính sách về nhà ở quan
tâm kịp thời và thiết thực từ NN và chính quyền địa phương.
2.2.2. Thực hiện chính sách phát triển nhà ở xã hội cho người có TNT trên
địa bàn tỉnh An Giang
- Các chính sách phát triển nhà ở xã hội cho người có TNT trên địa
bàn tỉnh An Giang
Quyết định số 40/2008/QĐ-UBND ngày 04 tháng 11 năm 2008 của UBND
tỉnh An Giang về việc phê duyệt Chương trình phát triển nhà ở tỉnh An Giang đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đây được xem như là quyết định khởi đầu
50
trong chương trình phát triển của tỉnh mà trong đó vấn đề NOXH phục vụ cho các
đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp thuộc
lực lượng vũ trang nhân dân hưởng lương từ ngân sách nhà nước; công nhân làm
việc tại các khu kinh tế, khu công nghiệp và một số đối tượng chính sách khác theo
hình thức thuê hoặc thuê mua nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân; phát triển nhà ở đô thị văn minh, hiện đại từng bước cải thiện chất lượng
nhà ở tỉnh An Giang.
Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 05 tháng 01 năm 2016 về việc phê duyệt
chương trình phát triển nhà ở tỉnh An Giang đến năm 2020 định hướng đến năm
2030. Trong đó mục tiêu đề ra:
NOXH cho nhóm đối tượng có thu nhập thấp: Trong giai đoạn 2016-2020,
tổng diện tích nhà ở cần xây dựng để đáp ứng theo chỉ tiêu phát triển nhà đặt ra cho
các nhóm đối tượng có thu nhập thấp khoảng 363.300 m2 sàn, tương đương với
5.450 căn nhà với tổng vốn đầu tư là 3.072.900 triệu đồng.
Nhà ở sinh viên: Trong giai đoạn 2021-2030, sẽ triển khai 01 dự án nhà ở sinh
viên ký túc xá Đại học An Giang, với diện tích sàn xây dựng là 34.400 m2 sàn, đáp
ứng nhu cầu cho khoảng 4.300 sinh viên. Tổng vốn đầu tư là 264.530 triệu đồng.
Nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp: Trong giai đoạn 2016-2019, tổng
diện tích nhà ở cần xây dựng để đáp ứng theo chỉ tiêu phát triển nhà đặt ra cho các
nhóm đối tượng khoảng 137.700 m2 sàn, tương đương với 2.550 căn nhà với tổng
vốn đầu tư là 820.300 triệu đồng.
Quyết định số 37/2016/QĐ-UBND ngày 05 tháng 8 năm 2016, về việc ban
hành quy định trình tự, thủ tục xét duyệt và tiêu chí lựa chọn đối tượng mua, thuê,
thuê mua NOXH trên địa bàn tỉnh An Giang. Đây là quyết định ban hành cụ thể nhất
đối tượng được thuê mua về tiêu chí trình tự thuê mua NOXH trên địa bàn tỉnh An
Giang. Bên cạnh đó văn bản còn đưa ra thang điểm được xác định trên cơ sở các tiêu
chí để xét cho thuê mua NOXH của các đối tượng TNT nhằm giải quyết các khó khăn
về nhà ở ổn định cuộc sống yên tâm công tác. Trích khoản 1, điều 4 của văn bản:
“Điều 4. Đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội
1. Trường hợp được xét cho mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội
51
a) Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người
có công với cách mạng;
b) Hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn;
c) Hộ gia đình tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng
bởi thiên tai, biến đổi khí hậu;
d) Người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị;
e) Người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu
công nghiệp;
g) Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân
và quân đội nhân dân;
h) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
i) Các đối tượng đã trả lại nhà ở công vụ theo quy định tại khoản 5 Điều 81
của Luật Nhà ở 2014;
k) Hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở
theo quy định của pháp luật mà chưa được NN bồi thường bằng nhà ở, đất ở.
2. Trường hợp chỉ xét cho thuê NOXH:
Các đối tượng là học sinh, sinh viên các học viện, trường đại học, cao đẳng,
dạy nghề; học sinh trường dân tộc nội trú công lập được sử dụng nhà ở trong thời
gian học tập.”
Trên thực tế thì các văn bản của chính quyền địa phương tỉnh An Giang chỉ là
triển khai lại các văn bản của Chính Phủ các đối tượng được thụ hưởng và quy trình
thủ tục mua NOXH hiện tại vẫn chưa có một văn bản nào quy định những chính
sách ưu đãi cho các DN tham gia vào thị trường NOXH.
Căn cứ Quyết định số 1333/QĐ-UBND ngày 31/5/2019 của Ủy ban nhân dân
tỉnh An Giang về việc thành lập Ban Chỉ đạo Quy hoạch, bố trí dân cư và thực hiện
chính sách về nhà ở tỉnh An Giang
52
- Đánh giá kết quả thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập
thấp trên địa bàn tỉnh An Giang
Thời gian qua, khi thực hiện thẩm định các Đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng,
Sở Xây dựng luôn thực hiện nghiêm việc bố trí quỹ đất để đầu tư xây dựng nhà ở xã
hội, nhà ở công nhân theo quy định.
Dự án Nhà ở cho sinh viên trường đại học, cao đẳng, dạy nghề: Năm 2009,
tỉnh An Giang được Trung ương đầu tư xây dựng nhà ở sinh viên tại 02 địa điểm
(Trường Đại học An Giang – cơ sở 02 tại huyện Châu Phú và nhà ở sinh viên cụm
trường Bắc thành phố Long Xuyên) với quy mô đáp ứng cho khoảng 2.200 sinh
viên. Hiện nay các dự án đã hoàn thành công tác đầu tư xây dựng và đưa vào khai
thác sử dụng, trong đó ký túc xá sinh viên cơ sở 02 với quy mô 440 chỗ ở (tương
đương 55 phòng); nhà ở sinh viên cụm trường Bắc thành phố Long Xuyên với quy
mô 1.776 chỗ ở (tương đương 222 phòng).
Về hoàn thành hệ thống thông tin theo quy định tại Nghị định số
117/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ: UBND tỉnh đã bố trí kinh phí và
chỉ đạo Sở Xây dựng khẩn trương lựa chọn đơn vị tư vấn (nhà thầu) thực hiện hoàn
thành trong Quý I/2021. Hiện nay, đã tổ chức lựa chọn được nhà thầu và đã thực
hiện khảo sát, thu thập thông tin, số liệu về nhà ở và thị trường bất động sản trên địa
bàn tỉnh; đồng thời đã và đang tổ chức tập huấn (gồm: bàn giao tài khoản, hướng
dẫn nhập liệu, …) cho các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thị xã, thành phố,
chủ đầu tư các dự án bất động sản, các sàn giao dịch bất động sản trên địa bàn tỉnh
An Giang.
Đánh giá kết quảthực hiện mục tiêu của Chương trình, Kế hoạch phát triển nhà
ở đã được UBND tỉnh/thành phố phê duyệt:
Thực hiện các nhiệm vụ triển khai Kế hoạch phát triển nhà ở của tỉnh An
Giang đến năm 2020:
Đôn đốc tiến độ các dự án phát triển nhà ở đã được UBND tỉnh chấp thuận
đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư, cụ thể:
Dự án Nhà ở công nhân Khu công nghiệp Bình Hòa: Công ty cổ phần Tổ chức
nhà Quốc gia Bình Dương đã triển khai thi công hoàn thành cơ bản hệ thống hạ tầng
53
kỹ thuật khu vực dự án và các dãy nhà liên kế theo quy hoạch được duyệt. Hiện có
khoảng 500 khách hàng đã đăng ký mua nhà ờ của dự án. Theo nội dung chấp thuận
chủ trương đầu tư thì Công ty còn 02 block nhà chung cư với khoảng 252 căn hộ
cần triển khai thực hiện.
Dự án Khu đô thị mới Tây sông Hậu: Liên danh Công ty cổ phần Tổ chức nhà
Quốc gia và Công ty TNHH MTV Bất động sản Thiên Bút (chủ đầu tư) đã thực
hiện hoàn thành hệ thông hạ tầng kỹ thuật và xây dựng nhà ở giai đoạn 1 (khoảng
16,31 ha), hiện đã bán 653/653 căn nhà và lô nền theo quy hoạch. Đối với giai đoạn
2 (khoáng 33,16 ha), chủ đầu tư đã thực hiện san lấp mặt bằng, đang đóng cọc và
lắp đặt rọ kênh Tầm Bót, ...
Dự án Nhà ở xã hội - Khu dân cư Tây Đại học, phường Mỹ Phước, thành phố
Long Xuyên: Dự án gồm 04 block nhà (A, B, c và D) với 448 căn hộ, Công ty
TNHH MTV Xây lắp An Giang đã thi công hoàn chỉnh và đưa vào sư dụng block
A, đang tiếp tục thực hiện 03 block nhà còn lại. Hiện Công ty đã trình và được Sở
Xây dựng thẩm định giá bán tạm tính đối với block B và đang triển khaithi công
block Cvà D của Dự án.
Trong năm 2020, UBND tỉnh đã quyết định chủ trương đầu tư chấp thuận chủ
trương đầu tư cho 10 dự án trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản với tổng vốn
đầu tư khoảng 5.374.824 tỷ đồng, tổng diện tích sử dụng đất 153,4 ha, dự kiến tạo
được khoảng 8.583 nền nhà và 118 căn nhà ở kết hợp thương mại dịch vụ.
Giới thiệu quỹ đất để đầu tư xây dựng nhà ở xã hộiSở Xây dựng đã có Công
văn số 2196/SXD-QH ngày 13/7/2020 gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư giới thiệu một số
dự án nhà ở thương mại có dành quỹ đất để làm nhà ở xã hội cho Công ty cổ phần
phát triển nhà Phúc Đồng tham khảo, nghiên cứu đầu tư.
Về thực hiện chính sách tín dụng cho vay để đầu tư phát triển các dự án nhà ở
thương mại, nhà ở xã hội, kinh doanh bất động sản.
Kết quả cho vay ưu đãi thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo quy định tại
Nghị định số 100/2015/NĐ-CP là 34 khách hàng với số tiền là 9,19 tỷ đồng.
Với kết quả thực hiện chương trình phát triển NOXH trong thời gian qua đã
thể hiện việc quan tâm tạo lập quỹ đất dành riêng cho đối tượng TNT tạo điều kiện
54
nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân thành phố, góp phần chỉnh trang đô thị.
Từng bước thực thi quy hoạch đô thị bước đầu đã đạt một số kết quả thết thực, từng
bước tái bố trí dân cư và mở rộng không gian đô thị họp lí góp phần chuyển đổi cơ
cấu kinh tế phù họp với giai đoạn hiện tại và tương lai và ổn định chính trị xã hội.
Việc đầu tư xây dựng các dự án NOXH đã giải quyết được một phần nào nhu
cầu về nhà ở của đối tượng TNT trên địa bàn tỉnh An Giang đa dạng hóa công tác
an sinh xã hội của tỉnh, trong đó cải thiện điều kiện về nhà ở.
Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và pháp lý cần thiết tạo điều kiện dễ
dàng cho việc quản lý và phát triển nhà ở. Bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực
này từng bước tăng cường, củng cố nhằm nâng cao vai trò quản lý và hiệu quả trong
công việc.
Thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư, gồm các doanh nghiệp
sử dụng lao động trong và ngoài nước, các đơn vị kinh doanh hạ tầng khu công
nghiệp, đô thị và các hộ cá thể đầu tư nhà cho thuê.
Đã tạo được môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư xây dựng nhà ở công
nhân như: các dự án nhà ở dạng chung cư được ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất. Các hộ cá thể kinh doanh nhà cho thuê được tiếp cận với nguồn vốn của ngân
hàng; kinh doanh dưới 8 phòng được miễn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Công tác quản lý nhà nước đối với loại hình hộ cá thể kinh doanh nhà cho thuê
được tăng cường trên các mặt: cấp phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, quản lý
kinh doanh, đăng ký nhân hộ khẩu, quản lý an ninh trật tự…
Bên cạnh đó nó còn thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh và góp phần ổn định thị
trường bất động sản.
Bước đầu tạo niềm tin cho người dân về NOXH tuy giá rẻ nhưng chất lượng
không rẻ, thay đổi tập tín lối sống của họ phù hợp với tình hình đời sống phát triển
mới.
Với những kết quả đã đạt được về NOXH trên địa bàn tỉnh cho thấy việc phát
triển NOXH trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã tạo được niềm tin cho người
55
dân từ các chính sách của NN và chính quyền địa phương chăm lo đời sống cho
nhân dân.
Những khó khăn, vướng mắc:
Kết quả trên chỉ là bước đầu khuyến khích các thành phần tham gia đầu tư,
việc giải quyết chỗ ở, đầu tư phát triển quỹ nhà ở cho người thu nhập thấp trên địa
bàn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục sau:
Về vị trí địa lí: vị trí địa lý của tỉnh An Giang cách xa các thành phố lớn giao
thông chưa thuận tiện nên quá trình kêu gọi đầu tư trong lĩnh vực phát triển nhà ở,
xây dựng hạ tầng các khu dân cư còn trở ngại, các DN còn ngại ngần khi tham gia
đầu tư nhà ở cho đối tượng có thu nhập thấp nên chủ đầu tư tập trung cho các dự án
mang tính kinh doanh.
Về quỹ đất: đối với việc tạo quỹ đất sạch để mời gọi đầu tư dự án nhà ở công
nhân, nhà ở cho người có thu nhập thấp còn gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn ngân
sách tỉnh còn hạn hẹp.
Quy định của Chính phủ, của Luật Nhà ở về việc buộc doanh nghiệp phải
dành 20% đất của một dự án bất kỳ để làm NOXH doanh nghiệp đã phải “cắt” 20%
đất làm trường học. Do đó, nếu tiếp tục phải dành thêm 20% để làm NOXH, thì đất
kinh doanh chỉ còn 60%, trong khi vẫn phải đóng tiền sử dụng đất 100% diện tích.
Vềchính sách:
Đối với việc triển khai Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách
mạng, Chương trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo đôi lúc tiến độ triển khai còn chậm
do (1) phải chờ vốn bố trí, (2) việc lập danh sách và thẩm định đối tượng để được
hưởng chính sách còn chậm do các huyện, thị xã, thành phố chưa thực sự quan tâm
đúng mức.
Việc bố trí vốn từ nguồn ngân sách Trung ương để triển khai các Chương
trình: hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg, hỗ trợ
người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, bố trí
dân cư theo Quyết định số 1776/QĐ-TTg còn chậm nên ảnh hưởng đến tiến độ triển
khai thực hiện.
56
Đối với công tác quản lý, vận hành nhà chung cư: Đối với các chung cư cũ đã
hình thành từ trước khi Luật Nhà ở năm 2005 có hiệu lực thì việc quản lý vận hành
nhà chung cư chủ yếu do các cư dân lập ra Tổ tự quản để thực hiện. Tuy nhiên, khi
chung cư có dấu hiệu xuống cấp thì việc cải tạo, sửa chữa lại không được nhiều cư
dân ủng hộ, đóng góp kinh phí, từ đó làm cho công trình ngày càng xuống cấp.
Nhiều văn bản pháp lý được ban hành nhưng tính ổn định không cao, nhiều
lần điều chỉnh bổ sung nhất là các văn bản thuộc lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng.
Do đó chính quyền An Giang cũng phải điều chỉnh các cơ chế chính sách phù hợp
với quy định mới.
Thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở tỉnh An Giang vẫn còn rườm rà. Theo kết quả
số liệu bình quân thì mất khoản 2 năm để hoàn thành với gần 24 thủ tục mới được
tiến hành xây dựng. Làm phát sinh chi phí cơ hội cao, giảm niềm tin cho DN và
người dân.
Các cơ quan chức năng quản lý chưa minh bạch kiểm soát được hiện tượng đầu
cơ, thao túng thị trường bất động sản hay việc mua bán sang nhượng nhà ở. Điều này
kiến hiện tượng bong bóng bất động sản đẩy mức giá nhà càng căng lên. Người TNT
không thể tiếp cận được với những ngôi nhà mà đáng lẽ họ được tiếp cận.
Chủ trương nhà ở cho người TNT của Tỉnh An Giang đặt ra nhiều mục tiêu
dài hạn nhưng lại thiếu tạo nên môi trường cơ chế ưu đãi đầu tư chưa thực hấp dẫn
cho các DN có thể phát sinh lợi nhuận cho chủ đầu tư nên nhiều DN thấy khó, thờ ơ
trước xây dựng NOXH.
Về giá bồi thường đất ở vẫn chưa họp lí khiến người dân khiếu kiện kéo dài
làm chậm tiến độ dự án vì cho rằng giá bồi thường chưa sát giá thị trường khiến
việc thu hồi đất gặp khó khăn ảnh hưởng đến tiến độ dự án.
Cuối cùng, tỉnh nên có những cơ chế rõ ràng hiệu quả về tín dụng cho nhà ở
cho người TNT. Ở từng dự án hoặc là vốn hoàn toàn từ Ngân sách hoặc vốn hoàn
toàn là từ chủ đầu tư. Ngân hàng chưa được tạo dựng một cơ hội trở thành sợi dây
liên kết các bên trong thị trường nhà ở cho người TNT.
Về công tác quản lý và phát triển nhà ở xã hội
57
Tỉnh chưa có một trung tâm thông tin chuyên nghiệp để thu thập dữ liệu, dự
báo khách quan và đánh giá thị trường nhà ở, nhu cầu NOXH của các đối tượng trên
địa bàn. Vì vậy, việc đánh giá của cơ quan sở ngành địa phương đôi lúc chưa đầy
đủ; cũng như chậm đề xuất các cơ chế thích hợp trong quản lý, điều hành, thúc đẩy
phát triển và điều tiết thị trường bất động sản; việc đề xuất các giải pháp cũng mới
dừng lại ở mức xử lý tình huống, sử dụng mệnh lệnh hành chính chứ chưa phải là
những giải pháp cơ bản, toàn diện và lâu dài.
Công tác quy hoạch chi tiết xây dựng đã được chú trọng, nhiều đồ án được
thiết lập để làm cơ sở cho chính quyền địa phương các cấp có cơ sở pháp lý cần
thiết để quản lý xây dựng. Tuy nhiên do trình độ phát triển kinh tế từng khu vực,
từng địa phương còn thấp nên việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật để hình
thành hệ thống khung cho việc phát triển các khu dân cư gặp nhiều khó khăn, dẫn
đến nhiều đồ án quy hoạch được phê duyệt nhưng chậm được thực hiện gây khó
khăn cho việc đầu tư xây dựng của các tổ chức và cá nhân.
Nhiều dự án phát triển nhà ở được triển khai nhưng giá nhà ở – đất ở còn khá
cao, mục đích của dự án phần lớn là mang tính kinh doanh; các đối tượng là cán bộ,
công nhân viên, lực lượng vũ trang… và người có TNT chưa có điều kiện xây dựng,
mua hoặc thuê nhà ở còn khó khăn trong việc tìm một nơi ở ổn định.
Tổng thu nhập bình quân đầu người của nhân dân tỉnh An Giang còn thấp nên
khả năng tích lũy để xây dựng, cải tạo nhà ở của đối tượng TNT còn rất là hạn chế.
Đồng thời thì hành vi tiết kiệm và tinh thần tự lực tự cường của một bộ phận nhân
dân chưa cao, do đó khả năng tích lũy để đầu tư tương lai cho nhà ở còn rất hạn chế.
- Những nguyên nhân hạn chế tồn tại thực hiện chính sách nhà ở xã hội tại
tỉnh An Giang
Rõ ràng các chính sách phát triển nhà ở trong những năm qua chưa góp phần
thúc đẩy hoạt động phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp trên địa bàn. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, dưới đây chỉ liệt kê một số nguyên
nhân chủ yếu:
+ Thứ nhất: Về các chính sách ưu đãi và hành lang pháp lý
58
Tỉnh đã ban hành chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư xây dựng, nhưng trên thực
tế nhà đầu tư chưa được hưởng những ưu đãi này. Chính sách tạo điều kiện về hạ
tầng kỹ thuật cho DN triển khai dự án chung cư hầu như đã không thực hiện. Nhiều
dự án sau khi thoả thuận được đất, nhưng không thuận lợi về giao thông để kết nối
với khu vực nên đã không triển khai, hoặc triển khai rất chậm. Chưa có cơ chế
chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư nhà ở giá rẻ để bán hoặc cho thuê. Hầu
hết các dự án có tiến độ thực hiện quá chậm so với yêu cầu, các nguyên nhân về thủ
tục đầu tư, về vốn và đặc biệt là về bồi thường giải phóng mặt bằng.
Theo Sở xây dựng tỉnh An Giang ngoài vấn đề ưu đãi và lợi nhuận, điều làm
cho các nhà đầu tư "ngại" không phải là thiếu vốn xây nhà cho thuê và bán trả góp
mà ở chỗ hiện nay chưa có hành lang pháp lý cho thị trường nhà loại này hoạt động.
Chẳng lấy gì bảo đảm rằng, người mua nhà trả góp sẽ trả tiền dần theo cam kết,
người mua thuê nhà chắc gì đã thanh toán tiền nhà đúng hạn…
Ngoài ra, theo luật nhà ở, Nhà nước phê duyệt giá thuê và thuê mua NOXH.
Khi dự án nhà ở xã hội đã được duyệt, nếu thực tế phát sinh cần điều chỉnh giá cho
phù hợp sẽ khó khăn vì phải xin phép trình qua khá nhiều cấp, nhiều ngành.
Doanh nghiệp xây nhà ở công nhân chưa được hưởng ưu đãi và hạch toán vào chi
phí kinh doanh hợp lý. Điều này làm nản lòng các nhà đầu tư đã “mạnh tay” xây nhà ở
cho công nhân. Công ty TNHH may XNK Đức Thành được xem là điển hình của tỉnh
về việc chăm lo nhà ở cho công nhân với kinh phí đầu tư nhà lưu trú lên đến hơn 5 tỷ
đồng, nhân viên và công nhân ở miễn phí tiền phòng lẫn tiền điện nước. Đã không có
doanh thu, công ty này còn phải chi tiền cho các hoạt động bảo vệ, bảo trì, sửa chữa,
quản lý... khu lưu trú. Song công ty vẫn phải đóng các khoản tiền thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập doanh nghiệp... cho khu lưu trú này nhưng lại không được hỗ trợ tiền
thuê đất, tiền thuế, không được khấu hao chi phí xây dựng …
+Thứ hai, về quy hoạch tạo quỹ đất cho phát triển nhà ở xã hội
Một trong những nguyên nhân chính làm cho các dự án xây dựng nhà ở xã hội
tiến triển chậm là do thiếu quỹ đất để xây dựng. Giá đền bù đất của các dự án khá
cao cùng với các thủ tục xin cấp đất, giải tỏa đất rất phức tạp, khó khăn, kéo dài, lợi
59
nhuận thấp... làm cho nhiều chủ đầu tư các dự án xây dựng nhà ở xã hội nản lòng,
bỏ cuộc.
+ Thứ ba, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản
Mặc dù đã có những cải cách nhất định, thủ tục hành chính trong đầu tư xây
dựng ở nước ta vẫn còn phức tạp, chồng chéo và làm mất nhiều thời gian của nhà
đầu tư.
Giống như các dự án đầu tư khác, nhà ở xã hội cũng phải thực hiện đầy đủ các
thủ tục theo trình tự đầu tư xây dựng cơ bản. Kết quả kiểm tra của Bộ xây dựng trên
địa bàn tỉnh An Giang cho thấy số lượng thủ tục của dự án nhà ở còn nhiều (khoảng
34 thủ tục/1 dự án), thời gian chuẩn bị còn kéo dài (trung bình khoảng 3 năm/1 dự
án); trong đó vẫn còn một số thủ tục do các đơn vị ban ngành địa phương tự đặt ra;
một số thủ tục trong các văn bản quy phạm pháp luật còn bất cập cần được xem xét
cải tiến cho phù hợp thực tế. Sự phức tạp, rối rắm của các thủ tục đầu tư xây dựng
làm nản lòng các nhà đầu tư, nhất là đối với các dự án không sinh lợi nhiều như nhà
ở xã hội. Một ví dụ cụ thể là Công ty CP Tổ Chức Nhà Quốc Gia – NHO đã phải
xin giấy tờ thủ tục pháp lý trong suốt hơn 25 tháng để đầu tư 1.500 căn hộ giá rẻ
nhưng quy hoạch chi tiết 1/500 mới được phê duyệt. Theo nhận xét chung của các
nhà đầu tư trong tình hình doanh nghiệp đang khó khăn, các thủ tục pháp lý phức
tạp chưa được tháo gỡ sẽ rất khó kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào mảng phân
khúc này.
+ Thứ tư, về tổ chức và bộ máy thực hiện
Tuy chính quyền địa phương tỉnh đang quan tâm đến việc thực hiện một
chương trình dài hơi về phát triển NOXH nhưng để chương trình này vận hành đúng
mục đích thì còn rất nhiều khó khăn. Khó khăn nhất trong triển khai chương trình
này là thiếu vốn và thiếu bộ máy thực hiện. Hiện nay Sở xây dựng tỉnh đang là cơ
quan chủ trì đề xuất thực hiện chương trình phát triển nhà ở xã hội cho trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên, với nhân lực ít và chưa được trao đổi học tập với các tỉnh điển hình
như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã thực hiện trước và có kinh nghiệm nên phòng phát
triển nhà của sở khó có thể đảm trách tốt việc tham mưu các kiến nghị chính sách
60
xúc tiến thực hiện các chương trình. Vì vậy, việc thiếu một cơ quan chuyên trách về
NOXH cũng là nguyên nhân gây ách tắc trong việc thực hiện các chươngtrình này.
Tiểu kết Chương
Những phân tích tình hình thực hiện chính sách NOXH tại Tỉnh An Giang
trong thời gian qua cho thấy mặc dù chính quyền địa phương đã có những chính
sách, chương trình phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở cho bộ phận dân cư có
mức sống còn khó khăn. Tuy nhiên các chủ trương, chính sách trên vẫn chưa phát
huy hết tác dụng. Các chủ đầu tư vẫn rất ngần ngại tham gia vào thị trường; các
định chế hỗ trợ chưa đến được với người có TNT hoặc chỉ đáp ứng được một phần
nhỏ nhu cầu của họ; thị trường tín dụng thế chấp hầu như chưa phát triển đồng thời
thiếu các kênh dẫn vốn dài hạn... làm hạn chế khả năng tiếp cận của những người
thực sự có nhu cầu. Kết quả là mặc dù nhu cầu hàng hóa NOXH là khá lớn nhưng
lượng cung vẫn còn khá hạn chế và không đáp ứng kịp so với cầu. Như vậy, với
thực trạng hiện nay thì việc tìm mua được một căn hộ của những người có mức
sống vừa đủ hay còn khó khăn là một điều rất khó thực hiện.
Nhu cầu NOXH mà đặc biệt là đối với các đối tượng lao động ngày càng tăng
tại địa bàn lớn dẫn đến việc hình thành thị trường nhà ở cho thuê, thuê mua. Thực tế
các đối tượng tham gia cung ứng trên thị trường chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình.
Ngoài ra cũng có một số DN mạnh dạn đầu tư vào thị trường. Tuy nhiên, nguồn
cung này còn khá hạn chế do khả năng sinh lợi còn chưa cao, thậm chí dễ dẫn đến
thua lỗ. Do đó, để có thể phát triển chương trình NOXH tại địa bàn tỉnh trong thời
gian tới cần có nhiều nhóm giải pháp đồng bộ và các cơ chế chính sách thực sự
thông thoáng để có thể khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia. Bên
cạnh đó việc học hỏi kinh nghiệm thực hiện chính sách NOXH của các tỉnh bạn, từ
đó áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại địa phương là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cần
thiết.
61
Chương 3
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁPPHÁT TRIỂN
NHÀ Ở XÃ HỘI TỈNH AN GIANG ĐẾN 2020 VÀ 2025
3.1. Quan điểm, định hướng và triển khai phát triển nhà ở xã hội trên địa
bàn tỉnh An Giang đến 2020 và 2025
3.1.1 Quan điểm về nhà ở xã hội của tỉnh An Giang
Phát triển NOXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách phát
triển kinh tế - xã hội; Nhà nước ban hành chính sách thúc đẩy thị trường nhà ở phát
triển, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách xã
hội, người có thu nhập thấp và người nghèo gặp khó khăn về nhà ở nhằm góp phần
ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội. Bài viết nêu nguyên nhân, phân tích thực
trạng về nhà ở xã hội đồng thời nêu những bất cập cần được tháo gỡ trong chính
sách nhà ở xã hội tại Việt Nam.
Sau khi đã dựa trên các cơ sở lí thuyết, phân tích và đánh giá thực tiễn NOXH
trên địa bàn tỉnh An Giang. Theo định hướng chỉ đạo của UBND tỉnh Quyết định số
1240/QĐ-UBND ngày 02 tháng 6 năm 2020 về việc điều chỉnh thành viên Ban Chỉ
đạo quy hoạch, bố trí dân cư và thực hiện chính sách về nhà ở tỉnh An Giang. Trong
thời gian qua, các Sở ban ngành đã phối hợp cùng nhau đạt được những kết quả tích
cực, góp phần nâng cao hiện trạng sống của TNT trên địa bàn tỉnh. Ta thấy việc
phát triển NOXH trên địa bàn tỉnh đang mang lại nhiều kết quả khả quan mặc dù
khối lượng đáp ứng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của người dân bên cạnh đó vẫn còn
những vấn đề gặp phải như khó khăn về nguồn vốn, kèm theo là việc bố trí quỹ đất
cho các doanh nghiệp xây dựng NOXH bên cạnh đó còn bất cập triển khai chính
sách trên địa bàn tỉnh....
Chính vì thấy được những mặc còn hạn chế và tồn tại của vấn đề nghiên cứu
tác giả xin đưa ra những quan điểm và phương hướng mục tiêu về phát triển NOXH
trên địa bàn tỉnh An Giang sắp tới nhằm hiểu rõ hơn định hướng của chính quyển
62
địa phương để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm để đóng góp ý kiến của bản
thân cho đề tài nghiên cứu này.
Quan điểm chung của Chính quyền tỉnh An Giang việc giải quyết vấn đề
NOXH phải được tiến hành theo một lộ trình xác định cho các đối tượng TNT là rất
cần thiết với các quan điểm cụ thể như sau:
Phát triển NOXH trên địa bàn tỉnh An Giang dựa trên cơ sở những chủ trương,
chính sách phát triển NOXH của NN, phù hợp với quy hoạch đô thị chung được
chính quyền địa phương, thẩm quyền phê duyệt.
Từng bước xóa bao cấp về nhà ở nhưng thực hiện chính sách tạo điều kiện để
hỗ trợ người dân cải thiện nhà ở. Tạo điều kiện để mọi người có nơi ở thích hợp, có
đủ điều kiện giải quyết mọi sinh hoạt hàng ngày của người dân, phù hợp với khả
năng kinh tế của từng gia đình.
Phát triển quản lí NOXH tỉnh An Giang trên cơ sở tôn trọng theo đúng quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường phù hợp điều kiện phát triển của đất
nước, đảm bảo thị trường bất động sản phát triển theo đúng định hướng XHCN.
Phát huy tổng hợp các nguồn lực Nhà nước, cộng đồng các đơn vị sử dụng lao
động trong việc chăm lo nhà ở cho nhân dân.
Ngày càng đơn giản hóa thủ tục hành chính về nhà đất song song với việc tăng
cường quản lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất sao có hiệu quả và mang lại lợi
ích nhất. Thực hiện tốt cơ chế đầu tư nhà ở nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà
nước, của chủ đầu tư và người dân.
Tạo chỗ ở thích hợp gắn với sự phát triển bền vững của kiến trúc đô thị và
mang tính kết nối giữa các đô thị trong tỉnh, biến sự ổn định và phát triển nhà ở làm
động lực phát triển kinh tế, giữ vững trật tự an toàn xã hội.
Phát triển thị trường nhà ở theo định hướng bền vững, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của thị trường, lấy chất lượng phát triển là động lực chủ yếu trên cơ
sở phát triển những lĩnh vực bất động sản áp dụng những thành tựu mới về khoa
học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cho sự phát triển của thị trường bất động sản tỉnh An Giang.
63
Tạo điều kiện thúc đẩy việc xã hội hóa đầu tư xây dựng nhà ở thu nhập thấp,
nhà ở công nhân, nhà ở sinh viên (sau đây gọi là nhà ở xã hội) có đủ các điều kiện
giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với khả năng kinh tế của từng cá
nhân, hộ gia đình;
Nhà nước trực tiếp đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, trung cấp nghề (sau đây gọi là nhà ở sinh viên)
không phân biệt công lập hay ngoài công lập thuê để ở trong quá trình học tập;
Đa dạng hoá các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở thu nhập thấp, nhà ở công
nhân, nâng dần chất lượng quỹ nhà ở theo quy hoạch phù hợp từng giai đoạn phát
triển; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng nhà ở để bán
(trả tiền một lần hoặc trả góp), cho thuê, cho thuê mua theo phương thức xã hội hóa
đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang; nhà ở cho công nhân lao
động thuê, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, Nhà đầu tư và đối tượngthụ
hưởng;
Tập trung ưu tiên giải quyết nhu cầu nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước; công nhân lao động đang
làm việc tại các cụm, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu; học sinh, sinh viên
đang theo học tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh. Trong Đề án này chưa đề cặp
đến nhà ở cho các đối tượng người có thu nhập thấp và người thuộc diện hộ nghèo
tại khu vực đô thị; hộ gia đình, cá nhân thuộc diện tái định cư; đối tượng bảo trợ xã
hội theo quy định của pháp luật; người cao tuổi độc thân, cô đơn không nương tựa.
3.1.2. Định hướng và triển khai phát triển ở xã hội của tỉnh An Giang
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, tập huấn chính sách pháp luật:
Từ khi Luật Nhà ở số 65/2014/QH13, Luật Kinh doanh bất động sản số
66/2014/QH13 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành được ban hành, Sở
Xây dựng đã triển khai phổ biến các quy định mới (Công văn số 427/SXD-QLN,
1590/SXD-QLN) đến Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn
tỉnh; đồng thời, công bố các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nhà ở và
thị trường bất động sản do Hội đồng nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh ban
64
hành, Chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của tỉnh An Giang trên Cổng thông
tin điện tử (website) của Sở Xây dựng để các tổ chức, cá nhân biết, áp dụng vào
thực tiễn.
Xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các
chính sách pháp luật về nhà ở và thị trường bất động sản:
Ban Chỉ đạo đã tham mưu UBND tỉnh ban hành 06 văn bản liên quan đến
chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, gồm: (1)Quyết định số 09/2017/QĐ-
UBND ngày 09/3/2017 Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
trên địa bàn tỉnh An Giang; (2)Quyết định số 30/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 19/2016/QĐ-UBND về ban hành
giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh An
Giang; (3)Quyết định số 272/QĐ-UBND ngày 19/01/2017 về việc ban hành Quy
chế phối hợp giữa các ngành về xác định nghĩa vụ tài chính, giá đất trên địa bàn tỉnh
An Giang; (4)Quyết định số 49/2017/QĐ-UBND ngày 11/8/2017 về việc sửa đổi,
bổ sung Quy định và Bảng giá đất năm 2015 áp dụng giai đoạn 2015 – 2019 trên địa
bàn tỉnh An Giang ban hành kèm theo Quyết định số 45/2014/QĐ-UBND; (5)Quyết
định số 58/2017/QĐ-UBND ngày 01/9/2017 về việc quy định hệ số điều chỉnh giá
đất năm 2017 trên địa bàn tỉnh An Giang; (6)Quyết định số 3353/QĐ-UBND ngày
07/11/2017 về ban hành Quy chế phối hợp giữa các đơn vị liên quan trong việc xây
dựng, quản lý và sử dụng hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản
trên địa bàn tỉnh An Giang.
3.1.3. Phương hướng và mục tiêu phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh
An Giang
- Phương hướng phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang
Tiếp tục giải quyết kịp thời nhu cầu về nhà ở cho các nhóm đối tượng xã hội
đảm bảo phù hợp với đặc điểm của từng khu vực trên địa bàn tỉnh trong từng thời
điểm; trong đó thực hiện hoàn thành các chương trình nhà ở có sử dụng nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước đạt chỉ tiêu và kế hoạch đề ra.
Điều chỉnh, bổ sung hoặc ban hành mới các cơ chế chính sách cho phù hợp
với các quy định hiện hành và thực hiện thực tế tại địa phương về đầu tư các dự án
65
phát triển nhà ở như NOXH, nhà ở thương mại,… để huy động được các nguồn lực
xã hội tham gia phát triển nhà ở và góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương kích
cầu, thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Huy động nguồn lực xã hội tham gia vào thị trường NOXH, ngày càng đa
dạng nguồn vốn đầu tư nhà ở kể cả vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các DN
tham gia đầu tư xây dựng nhà ở cho thuê, nhà bán trả dần.Đa dạng hóa sản phẩm
nhà ở để phù hợp nhu cầu của mọi đối tượng trong xã hội. Đảm bảo người thu nhập
thấp có nhà ở hợp lý, ổn định cuộc sống; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch
về chất lượng chỗ ở giữa các nhóm đối tượng khác nhau
- Mục tiêu phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang
Mục tiêu chung
Khai thác các nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là nguồn lực trong
nhân dân tham gia phát triển nhà ở công nhân, nhà ở cho người thu nhập thấp, nhất
là ở các khu vực đô thị dưới các hình thức thuê hoặc thuê mua phù hợp với khả
năng chi trả của từng đối tượng và điều kiện cụ thể của từng địa phương; bảo đảm
nguyên tắc thu hồi vốn đầu tư và người thu nhập thấp có nhà ở hợp lý, ổn định cuộc
sống; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về chất lượng chỗ ở giữa các nhóm
đối tượng khác nhau.
Mục tiêu cụ thể
Theo Định hướng phát triển nhà ở đến năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ,
năm 2020 đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực đô thị đạt 26 m2
sàn/người, diện tích nhà ở tối thiểu đạt 6m2/người, tỷ lệ kiên cố nhà ở đô thị toàn quốc
đạt 65%. Năm 2020, diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực đô thị đạt 29 m2
sàn/người, diện tích nhà ở tối thiểu đạt 8m2/người, tỷ lệ kiên cố nhà ở đô thị toàn quốc
đạt 75%, tỷ trọng nhà ở chung cư đạt 18-20%, tỷ lệ nhà ở cho thuê 20-25%.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển nhà ở quốc gia và kết quả dự báo nhu cầu nhà ở
tỉnh An Giang, mục tiêu chương trình phát triển nhà ở của tỉnh định hướng đến năm
2020 -2025 như sau:
Trong giai đoạn 2015 – 2020: xây dựng phát triển mới khoảng 24 ngàn m2 sàn
nhà ở, bình quân mỗi năm tăng thêm 3,9 ngàn m2, nâng diện tích bình quân đầu
66
người lên 15,6 m2/người (hiện nay là 12,3 m2/người). Hướng phát triển NOXH của
chính quyền tỉnh An Giang là tập trung triển khai đầu tư xây dựng quỹ NOXH theo
nội dung từng dự án cụ thể theo hình thức thuê, thuê mua NOXH cho công nhân tại
các KCN, xác lập quỹ NOXH cho các đối tượng hưởng lương NN. Trên cơ sở đó
rút kinh nghiệm, đánh giá tổng kết để tổ chức triển khai mô hình NOXH và xây
dựng cơ chế chính sách chung về phát triển quỹ NOXH để cho thuê, cho thuê mua
trên địa bàn tỉnh.
Trong giai đoạn tiếp theo từ 2020 – 2025, tỉnh sẽ triển khai xây dựng 2020
hoàn thành 1.525 căn hộ cho công nhân các KCN thuê và đáp ứng chỗ ở cho 212
sinh viên, học sinh đang học tập trên địa bàn, 5.430 căn hộ cho cán bộ, công chức,
viên chức đến năm 2020 với khoảng 29 ngàn m2 sàn nhà ở, mỗi năm tăng thêm 4,5
ngàn m2 sàn nhà ở. Phấn đấu đến năm 2020 xóa bỏ nhà ở tạm. Đây là những mục
tiêu mà tỉnh đang cố gắng hoàn thành đến năm 2020, với việc triển khai hàng loạt
các dự án nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian vừa qua, tỉnh An Giang có
lý do để tin tưởng đến năm 2020 có thể hoàn thành đạt chỉ tiêu mà tỉnh đã đặt ra.
3.2. Các giải pháp phát triển nhà ở xã hội tỉnh An Giang
Nhà ở cho người có TNT là một chính sách lớn của Nhà nước góp phần thực
hiện an ninh xã hội thúc đẩy kinh tế phát triển và đang là vấn đề cấp thiết của Đảng
và Nhà nước ta . Tuy nhiên hiện các chính sách này còn gặp nhiều khó khăn và kém
hiệu quả dù đã đưa ra nhiều chính sách điều chỉnh và hỗ trợ. Qua việc phân tích
nguyên nhân của hạn chế trong thị trường NOXH cũng như kinh nghiệm của một số
quốc gia đi trước trong vấn đề này. Sau đây tác giả xin đề ra một số giải pháp nhằm
phát triển NOXH tại tỉnh An Giang.
Lựa chọn địa điểm
3.2.1. Giải pháp về quy hoạch
Giải pháp tối ưu trong vấn đề lựa chọn địa điểm đó là sử dụng một phần quỹ
đất trong các dự án đã thu hồi đất hoặc đất đã được quy hoạch cho phát triển nhà ở
trên địa bàn tỉnh đồng thời dự án khu nhà ở xã hội nên gắn với dự án nhà ở thương
mại, hoặc các khu dân cư sẵn có tạo điều kiện hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã
hội, phát triển kinh tế, đảm bảo cho các hộ dân được sử dụng các công trình kỹ
67
thuật và xã hội đã có sẵn, nhằm giảm chi phí đầu tư và đảm bảo sự hòa đồng giữa
các tầng lớp dân cư kích thích sự vươn lên trong xã hội.
Theo đó, để thực hiện tốt giải pháp này, trong thời gian tới tỉnh An Giang sẽ
tiến hành nhiều biện pháp nhằm xem xét, rà soát các dự án phát triển nhà ở, đề xuất
diện tích đất để xây dựng quỹ NOXH (trong diện tích đất 20% của dự án khu đô thị
mới, phát triển nhà), đồng thời xác định quy hoạch các diện tích đất để đầu tư xây
dựng quỹ nhà ở xã hội, nhất là những dự án nằm trong khu vực trung tâm mở rộng
của các huyện: Châu Đốc, Châu Phú, Tân Châu …lựa chọn những nơi có nhiều quỹ
đất để thực hiện việc phát triển nhà ở xã hội.
Lựa chọn quy mô dự án
Việc xác định quy mô các dự án tại An Giang phải đáp ứng mỗi dự án có số
hộ gia đình và số dân sinh sống trong dự án ở mức hợp lý như mật độ dân, cơ sở hạ
tầng, tiện ích công cộng, diện tích đất xây dựng, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt
bằng khi thu hồi đất, khả năng quản lý vận hành tốt nhất.
Quy hoạch xây dựng
Mật độ xây dựng cần được lựa chọn ở mức độ trung bình (30% - 40%), phù
hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng tạo điều kiện bố trí không gian cây xanh
tạo cảnh quan, nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Bố trí tách biệt khối nhà áp dụng phương thức thuê và khối nhà áp dụng
phương thức thuê mua. Tỷ lệ giành để cho thuê và thuê mua tùy theo nhu cầu.
Bảo đảm sự kết nối giữa giao thông của dự án với hệ giao thông của tỉnh. Bố
trí hệ thống giao thông nội bộ hợp lý và tiết kiệm.
3.2.2. Giải pháp về kiến trúc nhà ở xã hội
Lựa chọn loại nhà và thiết kế mẫu căn hộ
Đối với căn hộ cho thuê, thuê mua sẽ được thiết kế chủ yếu là loại nhà cao 6
tầng để phù hợp với kiến trúc chung của tỉnh sử dụng các thiết bị nội thất và gạch
ốp lát sản xuất trong nước để giảm giá thành đầu tư xây dựng nhưng vẫn đảm bảo
đạt chất lượng sống cho người thuê, thuê mua.
Đối với nhà ở cho công nhân thuê, loại nhà phù hợp được thành phố lựa chọn
là nhà cao 5 tầng, không sử dụng thang máy, căn hộ thiết kế có diện tích sàn từ 20 –
68
40 m2 theo dạng căn hộ khép kín có khu vệ sinh riêng căn hộ theo dạng các phòng
có khu vệ sịnh chung tùy điều kiện cụ thể của từng loại dự án. Trang thiết bị nội
thất và gạch ốp lát chủ y yếu được sản xuất trong nước để giảm giá thành đầu tư xây
dựng nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cuộc sống.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật cho khu NOXH bao gồm: giao thông, cấp nước,
thoát nước, thông tin liên lạc và hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý, bảo vệ
phải đảm bảo đầy đủ và hợp lý, tận dụng những nơi đã có sẵn hệ thống hạ tầng kỹ
thuật để xây dựng nhà ở xã hội.
Các dự án NOXH phải có các tiện ích công cộng và hệ thống hạ tầng xã hội
tối thiểu đảm bảo cho sinh hoạt cộng đồng gồm nơi để xe, nhà trẻ, mẫu giáo, nơi
sinh hoạt cộng đồng, dịch vụ cơ bản…để đảm bảo điều kiện sống cho người dân
Diện tích cây xanh, thảm cỏ được bố trí hợp lý, tạo cảnh quan thoáng mát cho
khu nhà ở.
Vật liệu và công nghệ
Giải pháp về vật liệu và công nghệ được đưa ra nhằm hướng vào việc tăng
cường sử dụng các thiết bị, vật liệu trong nước, áp dụng những tiến bộ của khoa học
trong thiết kế và thi công. Cụ thể:
Các dự án nhà ở xã hội nên sử dụng vật liệu trong nước, với giá thành trung
bình để thi công và hoàn thiện. Có phương án tận dụng vật liệu trong thành phố khi
thực hiện hoàn thiện căn hộ.
Áp dụng những công nghệ thi công tiên tiến hiện nay để nâng cao năng suất
lao động, giảm giá thành sản phẩm như sử dụng hệ thống cửa công nghiệp, áp dụng
các tiến bộ khoa học công nghệ mới như 3D, UST (Công nghệ bê tông dự
ứng lực) …
3.2.3. Giải pháp về tài chính
Nguồn vốn đầu tư phát triển quỹ nhà ở cho người thu nhập thấp được hình
thành gồm:
Tiền thu từ việc bán, cho thuê, cho thuê mua quỹ nhà ở thuộc sở hữu Nhà
nước trên địa bàn.
69
Mức trích cụ thể tiền sử dụng đất cho Quỹ Đầu tư phát triển nhà ở được UBND
tỉnh cân đối ngân sách hàng năm, trình HĐND tỉnh xem xét, quyết định trong khung
30% - 50% tiền sử dụng đất của các dự án phát triển nhà ở thương mại và các dự án
khu đô thị mới trên địa bàn theo quy định của Nghị định 90/2006/NĐ-CP.
Ngân sách địa phương hỗ trợ hàng năm theo nghị quyết của Hội đồng nhân
dân tỉnh.
Tiền hỗ trợ, đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.Tiền huy động từ các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Nguồn từ quỹ phát triển nhà ở của tỉnh đã được hình thành từ các nguồn: Tiền bán
nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị định 61/CP; khấu hao cơ bản trích từ tiền
cho thuê nhà thuộc sở hữu Nhà nước.
Tiền khai thác quỹ đất ở (trích một phần tỷ lệ theo hình thức đấu giá đất, đấu
thầu dự án sau khi có quy hoạch được phê duyệt). Tiền bán đấu giá tài sản nhà đất
thuộc sở hữu Nhà nước được thu hồi do các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý sử
dụng sai mục đích, kém hiệu quả hoặc chuyển nhượng trái phép; hoặc trong quá
trình sáp nhập, giải thể,... Tiền bổ sung từ nguồn ngân sách địa phương do Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quy định.Tiền ứng trước của người thuê mua nhà ở xã hội (20%).
Tiền huy động từ các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì chủ đầu tư dự án thực hiện việc
đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật về quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình và quản lý ngân sách Nhà nước. Đối với dự án nhà ở xã hội được đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn của các thành phần kinh tế thì nguồn vốn được sử dụng
gồm: Vốn tự có của chủ đầu tư; vốn vay của các tổ chức tín dụng; vốn liên doanh,
liên kết; vốn huy động từ các nguồn hợp pháp khác theo quy định của
pháp luật.
Các chủ doanh nghiệp, nhà máy (người sử dụng lao động) phải có trách nhiệm
giải quyết chỗ ở cho người lao động bằng nhiều hình thức như: Tự đầu tư xây dựng
theo quy hoạch, thuê hoặc mua lại các quỹ đất có hạ tầng hoặc quỹ nhà ở của các
đơn vị kinh doanh hạ tầng; hoặc đóng góp tài chính vào quỹ phát triển NOXH.
70
Nguồn vốn hỗ trợ cho người TNT vay để thuê mua NOXH: Quỹ Phát triển
nhà ở, ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng thương mại có chính sách, cơ chế
cho người TNT vay, với điều kiện cho vay là đối tượng công nhân, cán bộ, công
chức, viên chức có hộ khẩu ở tỉnh, đã làm việc liên tục 5 năm trở lên, chưa có nhà ở
(hoặc tỉnh có tiêu chí để xác định những ai là đối tượng có thu nhập thấp được vay);
tùy vào từng năm để quy định hạn mức tối đa cho vay, thời hạn vay, lãi suất cho
vay cho phù hợp với các đối tượng. Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam bằng lãi
suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm (khoản 3 Điều 10 - Nghị định
151/2006/NĐ-CP).
Mức hỗ trợ sau đầu tư bằng chênh lệch giữa lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ
chức tín dụng và 90% lãi suất vay vốn đầu tư áp dụng cho các đối tượng quy định
tại Điều 10 Nghị định 151/2006/NĐ-CP (khoản 1 Điều 14 nghị định 151/NĐ-CP).
Đối với nhà cho thuê: Thời gian thu hồi vốn tối đa là 40 năm, lãi suất thu hồi vốn
đầu tư là 3%/năm; đối với nhà cho thuê mua: Thời gian thu hồi vốn là 15 năm, lãi
suất thu hồi vốn đầu tư là 3%/năm.
Có chính sách cho hộ cá nhân vay ưu đãi, lãi suất 6-7%/năm với thời hạn vay
15 năm từ Quỹ Phát triển nhà ở. Rà soát, củng cố việc tổ chức, hoạt động của Quỹ
Phát triển nhà ở của tỉnh để quản lý Quỹ Phát triển nhà hiệu quả, đúng quy định.Tổ
chức và cá nhân phát triển quỹ nhà ở cho người TNT được miễn, giảm các khoản
thuế liên quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Được hưởng mức thuế suất 10% áp dụng
trong thời gian 15 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh đối với cơ sở
sản xuất kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc
danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư. Trường hợp cơ sở kinh doanh mới thành
lập từ dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu
đãi đầu tư và có ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã hội cần được khuyến khích cao hơn,
Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng thuế suất 10% áp dụng
trong suốt thời gian thực hiện dự án (điểm b khoản 3 Điều 34 của Nghị định số
24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập DN).
Được miễn thuế 04 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải
71
nộp cho 09 năm tiếp theo đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư
vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc danh mục ngành nghề, lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu
tư (khoản 5 Điều 35 của Nghị định số 24/2007/NĐ-CP).
Thuế GTGT đầu vào đối với hoạt động xây dựng nhà ở cho người lao động
của cơ sở kinh doanh thì được khấu trừ toàn bộ nếu khu nhà đó được tính vào tài
sản cố định của DN. Trường hợp cơ sở kinh doanh bán nhà ở cho cán bộ công nhân
viên thì phải kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định (Thông tư 32/2007/BTC ngày
09/4/2007 của Bộ Tài chính).
Doanh nghiệp có sử dụng lao động tham gia đầu tư xây dựng nhà ở công nhân
hoặc hỗ trợ tiền nhà ở cho công nhân được hạch toán chi phí đó vào chi phí sản xuất
hợp lý (Thông tư 134/2007/TT-BTC ngày 23/11/2007).
3.2.4. Giải pháp phát triển lành mạnh thị trường bất động sản nhà ở:
Việc mua bán sang nhượng nhà ở, đất ở là nhu cầu hết sức cần thiết hiện nay
của nhân dân. Quá trình chuyển dịch này hình thành nên thị trường bất động sản
nhà ở và cả đất ở. Nhằm làm mạnh thị trường này trước hết cần phải xem đây là
một loại hàng hóa đặt biệt và hết sức nhạy cảm. Chính quyền các cấp phải quản lý
chặt chẽ việc sang nhượng đất đai, nhà ở đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các
hộ dân đăng ký hợp pháp việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở để khi cần
thiết họ thực hiện sự chuyển dịch BĐS theo đúng quy định pháp luật.
Một trong những giải pháp rất quan trọng trong việc lành mạnh thị trường
BĐS là các dự án được triển khai theo quy hoạch được duyệt là công khai hóa dự án
trên các phương tiện đại chúng để người dân nắm được nội dung để có thể trực tiếp
mua nhà ở với các chủ đầu tư, tránh trường hợp mua lại từ nhà đầu cơ.
Các địa phương cần có trụ sở giao dịch bất động sản để tạo điều kiện cho
người dân có sự giao dịch bất động sản hợp pháp tại sàn giao dịch này, hạn chế tình
trạng mua bán lòng vòng và mua bán bất hợp pháp.
Quá trình đầu tư nhà ở nhất là nhà cho người TNT, khu tái định cư,… khi triển
khai thực hiện cần phải nghiên cứu điều kiện kinh tế, tập quán của đối tượng này để
có giải pháp phù hợp, tránh trường hợp giá nhà ở quá cao hoặc không phù hợp
người mua xong không ở sẽ bán lại hưởng chênh lệch.
72
3.2.5. Giải pháp nâng cao nhận thức cho hệ thống chính trị và toàn xã hội
về tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển NOXH:
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội, cần
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong thực hiện chính sách xã
hội ở nước ta.
Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc của quản lý nhà nước về xây dựng và
thực hiện chính sách xã hội. Trong xác định mục tiêu, yêu cầu, thiết lập hệ thống tổ
chức, chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực, lựa chọn các phương thức, công cụ, Nhà
nước phải quán triệt, vận dụng, phát triển trên nền tảng quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm chỉ đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội, quản lý, phát triển xã hội; giữ
vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực tổ chức quản lý điều hành
của Nhà nước, phát huy vai trò và năng lực làm chủ xã hội của Nhân dân trong quá
trình quản lý xã hội; kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, kiên quyết bảo vệ thành
quả cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa, vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của Nhân
dân.
Hai là, phối hợp đồng bộ chính sách xã hội với các chính sách kinh tế - xã hội
có liên quan.
Thực hiện chính sách xã hội không thể tách rời với chính sách quản lý –
những lát cắt khác nhau của chỉnh thể chính sách kinh tế - xã hội, vì vậy khi hoạch
định và thực hiện chính sách cần vận vận dụng quan điểm hệ thống, đồng bộ để vừa
góp phần đảm bảo thực hiện chính sách mới không bị chồng chéo, mâu thuẫn; vừa
huy động được các nguồn lực, có tính khả thi cao, bao trùm và tăng cường khả năng
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và các vùng, miền đặc thù.
Quá trình quản lý nhà nước về chính sách xã hội phải giữ vững, gắn kết chặt
chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế
phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, làm cho
người dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải tạo
73
cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người
lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, có việc làm và được hưởng tiền
lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an
toàn và chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú
trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do tích tụ
ruộng đất, thu hồi đất để phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình
công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm.
Ba là, phát huy các nguồn lực của Nhà nước, cộng đồng và người dân trong
thực hiện chính sách xã hội.
Phát triển và thực hiện hệ thống chính sách xã hội là nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội. Do vậy, trong điều kiện nguồn lực cho thực hiện chính sách còn hạn hẹp, mức
hỗ trợ từ ngân sách nhà nước còn thấp, phân tán, cùng với phát huy vai trò chủ đạo
của Nhà nước thì cần phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình,
người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong thực hiện chính sách xã hội. Nhà
nước giữ vai trò hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, tạo ra cơ chế đảm bảo
việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, kỷ
cương, nghiêm minh; chỉ đạo, điều hành quản lý được tập trung thống nhất; trách
nhiệm của mỗi chủ thể, đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội được đề cao, phân
định rõ ràng.
Đồng thời phải phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của các lực lượng, huy động được các nguồn lực để nâng cao chất
lượng, hiệu quả quản lý nhà nước. Khắc phục tình trạng nhận thức chưa đúng và
chưa đầy đủ của một bộ phận người dân khi cho rằng thực hiện chính sách xã hội là
trách nhiệm riêng của Nhà nước, dẫn đến tư tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước.
Bốn là, cần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kế thừa có chọn lọc kinh
nghiệm của các quốc gia tiến bộ trên thế giới để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về chính sách xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh
74
mẽ đã và đang tác động sâu rộng đến quá trình quản lý xã hội của nước ta cũng như
của các quốc gia khác. Khoa học, công nghệ, phương tiện, phương thức quản lý
ngày càng tiên tiến, hiện đại, trình độ quản lý của chủ thể ngày càng tiến bộ, quá
trình quản lý ngày càng được rút ngắn, chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội ngày
càng cao... Đây là những yếu tố thuận lợi cho Việt Nam trong việc nâng cao khoa
học và thực tiễn quản lý xã hội. Cùng với đó, các vấn đề xã hội, quản lý xã hội cũng
ngày càng phức tạp và nhiều thách thức hơn.
Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về chính sách xã hội, đảm bảo sự hỗ trợ, liên kết, phối hợp với
nhau. Trong đó, cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về an sinh xã hội,
vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giáo dục - đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe người có
công; nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người
khuyết tật, Luật Người cao tuổi...; xây dựng và ban hành các luật mới liên quan đến
việc làm, thu nhập, tiền lương, trợ giúp xã hội.v.v. nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy
đủ cho việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quy định, chính sách xã hội.
Năm là, xây dựng, bồi dưỡng cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ quản lý có đủ
phẩm chất, năng lực để hoạch định và triển khai có hiệu quả chính sách xã hội.
Chủ thể quản lý xã hội là những tổ chức, cá nhân xác định ở nhiều cấp, ngành,
lĩnh vực, vùng miền, địa phương, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.
Công việc quản lý phức tạp, có quan hệ đan xen; mặt khác, việc hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội không thể áp đặt chủ quan, thiếu căn cứ khoa học.
Do đó, cần xây dựng các cơ quan, đơn vị và đội ngũ công chức làm công tác
quản lý nhà nước về chính sách xã hội có đủ phẩm chất, năng lực, bởi vì đây là lực
lượng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và kết quả thực hiện chính sách xã hội.
Đồng thời, các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và
người dân cần nâng cao năng lực bổ sung, hoàn thiện, xây dựng hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về chính sách xã hội; kết hợp công tác tuyên truyền, phổ biến,
thực hiện và kiểm tra chính sách, đảm bảo cho chính sách xã hội được triển khai có
hiệu quả trong thực tế cuộc sống.
75
3.3. Các kiến nghị phát triển nhà ở xã hội tỉnh An Giang
3.3.1. Đối với trung ương
Đề nghị Ban Chỉ đạo Trung ương có hướng dẫn cụ thể về việc xây dựng kế
hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo Chính sách nhà ở và thị trường bất động sản tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
Bộ Xây dựng cần sớm xây dựng các chính sách NOXH tại Việt Nam cho các
nhóm đối tượng mục tiêu là các hộ gia đình TNT tại khu vực đô thị, công nhân
KCN thông qua các bài học từ kinh nghiệm quốc tế.
Xem xét nghiên cứu ban hành nhiều chính sách ưu đãi hơn nữa nhằm thu hút
các nhà đầu tư tham gia, giảm gánh nặng cho ngân sách để đẩy mạnh phát triển nhà
ở xã hội cho thuê, cho thuê mua, nhất là nhà ở cho công nhân, sinh viên. Nghiên
cứu các mô hình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách và ban hành các cơ chế
chính sách ưu đãi đặc thù, ví dụ phát triển mô hình liên kết đầu tư giữa doanh
nghiệp và đối tượng thu nhập thấp. Theo đó, doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư ban đầu,
hưởng lợi nhuận định mức, người dân ký hợp đồng với doanh nghiệp góp vốn và
chỉ định chủ đầu tư. Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách đầu tư ưu đãi đặc thù
theo mô hình đối tác công - tư (PPP), đồng thời tạo cơ chế hỗ trợ đầu tư từ trung
ương và nguồn vốn của thành phố để phát triển NOXH.
Xem xét, mở rộng đối tượng thu nhập thấp tại các thành phố lớn từ mức dưới
9 triệu đồng hiện nay lên mức dưới 12 triệu đồng/tháng, kéo dài thời gian vay mua
nhà lên tới 20 năm để giảm áp lực trả nợ và tăng số tiền khách hàng được vay hoặc
cho phép doanh nghiệp ký bảo lãnh với ngân hàng cho người mua nhà đối với dự án
doanh nghiệp là chủ đầu tư.
Nên huy động vốn ngoài xã hội (ngoài ngân sách) để đầu tư xây dựng NOXH,
nhà ở công nhân thuê, nhà ở học sinh, sinh viên, nhà ở thương mại, cải tạo chung cư
cũ, giãn dân phố cổ. Các chủ đầu tư sử dụng vốn tự có, vốn vay và vốn huy động
hợp pháp khác.
Rà soát, tổng hợp quỹ đất 20% (hoặc quỹ đất 25%) trong các dự án phát triển
nhà ở, khu đô thị mới, đề xuất bố trí thực hiện dự án phát triển NOXH, nhà ở công
nhân thuê, nhà ở sinh viên, nhà ở tái định cư và đấu giá quyền sử dụng đất, tạo vốn
76
xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, chỉ tiêu phân bổ đất xây dựng thực hiện kế hoạch phát triển nhà ở; kiên quyết
thu hồi hoặc dừng các dự án chậm triển khai, đã giao đất nhưng không sử dụng quá
thời gian quy định của pháp luật.
Xây dựng, hoàn thiện chính sách tổng thể NOXH tại Việt Nam giai đoạn
2021-2030” nhằm đề xuất cơ chế chính sách về phát triển NOXH phù hợp với tình
hình thực tế, xu hướng phát triển của Việt Nam giai đoạn 2021-2030 là nhu cầu cấp
thiết. Nếu không có những giải pháp đột phá để thúc đẩy nhiều hơn sự hình thành
của các dự án NOXH thì bài toán an cư của đại bộ phận người TNT vẫn sẽ bị bỏ
ngỏ.
Yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố báo cáo việc dành quỹ đất cho phát triển
NOXH trên địa bàn. Các địa phương phải nêu rõ thực trạng việc thực hiện nghĩa vụ
NOXH đối với dự án phát triển nhà ở thương mại, dự án phát triển đô thị tại địa
phương. Cụ thể, số lượng dự án, quy mô sử dụng đất, số lượng căn hộ NOXH, tiến
độ thực hiện các dự án phát triển NOXH độc lập. Đối với các dự án phát triển nhà ở
thương mại, dự án phát triển đô thị có diện tích sử dụng đất tư 10ha trở lên tại các
đô thị loại 3 trở lên hoặc khu vực quy hoạch từ loại 3 trở lên phải báo cáo rõ việc
dành quỹ đất để xây dựng NOXH. Đồng thời, báo cáo số lượng dự án, quy mô sử
dụng đất, số lượng căn hộ NOXH, tiến độ thực hiện.
3.3.2. Đối với chính quyền địa phương
Đối với chính quyền địa phương tỉnh An Giang cần xây dựng chỉ tiêu phát
triển NOXH trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của địa
phương theo chỉ thị Số: 03/CT-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh phát triển NOXH. Chỉ đạo các sở ban ngành có liên quan
rà soát lại các quy hoạch đô thị, rà soát lại quỹ đất cho đầu tư phát triển NOXH.
Tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch đô thị, KCN để đảm bảo bố trí quỹ đất cho
việc phát triển NOXH, đồng thời có chính sách để khắc phục lệch pha cung - cầu,
bố trí nguồn lực hợp lý để đầu tư các cơ sở hạ tầng thiết yếu và triển khai các biện
pháp khuyến khích cộng đồng, DN tích cực tham gia phát triển NOXH đa dạng hơn
các sản phẩm cung cấp ra thị trường..
77
Bố trí phân bổ nguồn lực hợp lý để đầu tư các cơ sở hạ tầng thiết yếu như:
trường học, nhà trẻ, cơ sở khám chữa bệnh, sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, thể dục,
thể thao,... trong và ngoài các dự án NOXH, đặc biệt là tại các khu vực có đông
công nhân và người lao động. Nhất thiết phải sử dụng nguồn tiền thu được từ quỹ
đất 20 % trong các dự án khu đô thị mới, dự án nhà ở thương mại có quy mô dưới
10 ha do các chủ đầu tư nộp và hỗ trợ từ ngân sách địa phương để đầu tư phát triển
NOXH cho công nhân các khu công nghiệp, người nghèo, người thu nhập thấp tại
các đô thị trên địa bàn theo quy định của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20
tháng 10 năm 2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý NOXH.
Cần có nhiều cơ chế ưu đãi hấp dẫn thu hút và bảo vệ DN đầu tư tham gia phát
triển NOXH như vốn ban đầu và các chính sách thủ tục ưu đãi đơn giản thủ tục thời
gian xét duyệt các dự án phát triển NOXH giúp tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
nhà đầu tư. Quan trọng là các cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng NOXH như hỗ trợ đầu
tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài hàng rào dự án và hỗ trợ từ nguồn ngân
sách của địa phương cần phải được quan tâm đúng mức.
Căn cứ Chỉ thị 03/CT-TTg 25 tháng 01 năm 2017 về việc đẩy mạnh phát triển
NOXH của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh An Giang cần theo dõi có chỉ đạo
cho Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh và các tổ chức tín dụng khác cần thực hiện
ngay khoản (1.c) điều 58 Luật Nhà ở về ưu đãi chủ đầu tư dự án xây dựng NOXH,
cho đối tượng này cần được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội và các
tổ chức tín dụng khác.
Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý quy hoạch, mời gọi
đầu tư trên các trang thông tin điện tử chính của UBND tỉnh An Giang
(www.angiang.gov.vn) và Cổng thông tin điện tử Sở xây dựng tỉnh An Giang
(www.soxaydung.angiang.gov.vn) với các nội dung cụ thể để nhà đầu tư cân nhắc
lựa chọn các dự án. Kèm theo đó là áp dụng cơ chế giải quyết một cửa liên thông
điện tử, nghĩa là chủ đầu tư thay vì phải đi các sở, ngành thì Sở Xây dựng tỉnh An
Giang sẽ liên thông các sở bằng mạng điện tử. Việc rút ngắn thủ tục đầu tư giúp DN
giảm được chi phí đầu tư ban đầu.
78
Ưu tiên đầu tư những dự án có vị trí tốt, hạ tầng giao thông thuận lợi, đất sạch,
không phải giải phóng mặt bằng; hướng vào phân khúc thị trường có khả năng
thanh toán như phân khúc nhà ở bình dân, bởi đây là phân khúc tạo được sức hút
lớn cho thị trường do sức cầu mạnh và mức giá hợp lý, phù hợp với nhu cầu thật
của thị trường NOXH, rút ngắn khoảng cách cung cầu chưa tương xứng hiện nay.
Nâng cao vai trò lấy ý kiến tham khảo của người dân trong quy trình triển khai
quy hoạch, thiết kế NOXH. Việc đề xuất người dân có cơ hội tham gia nhiều hơn
vào lĩnh vực NOXH sẽ góp phần cải thiện chất lượng nhà ở cho cộng đồng, đồng
thời hướng tới tính minh bạch và công khai trong các công tác quản lý nhà ở tại địa
phương.
Sở Xây dựng tỉnh An Giang cần tập trung tham mưu nhiều giải pháp đồng bộ,
quyết liệt; tiếp tục đẩy mạnh triển khai các chính sách, chương trình phát triển
NOXH theo quy định pháp luật về nhà ở và Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia
đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Xây dựng đã đề ra, phấn đấu nâng diện tích
nhà ở bình quân trên đầu người là 23,4 m2/ người. Trong đó cần lấy việc phát triển
đáp ứng nhu cầu về nhà ở NOXH cho người nghèo, TNT tại khu đô thị đây là
nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên trong chỉ đạo điều hành của địa phương.
Sở địa chính và Sở Xây dựng tỉnh An Giang nên nhanh chóng hoàn thành xét
duyệt thủ tục cấp sổ đỏ cho những dự án đã đền bù giải tỏa xong tạo những dự án
đất “sạch” đây chính là bước ban đầu chào mời các nhà dầu tư. Bên cạnh đó cần
công khai minh bạch quỹ đất hàng năm để đầu tư xây dựng NOXH cho các đối
tượng sinh viên, nhà ở công nhân và nhà ở TNT để các nhà đầu tư và xã hội cùng
biết. Phải công khai quy trình và thời gian hoàn thành thủ tục cấp giấy phép đầu tư
dự án các loại NOXH theo hướng rút gọn hợp lý. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện các chính sách,
chương trình phát triển NOXH trên địa bàn tỉnh. Trong đó, quan trọng là việc kiểm
tra chất lượng công trình phải được thực hiện một cách thường xuyên theo dõi như
nhật ký công trình trong từng gia đoạn để đề phòng các sai sót chất lượng các cấu
trúc ngầm của công trình khó nhận biết được.
79
Tỉnh cần thành lập hội phát triển nhà ở (giống kinh nghiệm của Singapore) để
có thể là cầu nối trao đổi thông tin và hợp tác của các nhà đầu tư trong lĩnh vực nhà
ở thương mại nhất là trong lĩnh vực NOXH đây cũng ví như một lối thoát trong tình
hình thị trường bất động sản của tỉnh hiện nay đang bị đóng băng thì phân khúc thị
trường này xem như là lưu chuyển vốn cho các nhà đầu tư.
Mặt khác, trong quá trình lập quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết đô thị,
tỉnh cần phải có quan điểm bố trí tập trung các dự án NOXH vào một khu vực để
các cư dân tương đồng về điều kiện sống, dễ quản lý và bố trí các dịch vụ phục vụ
cũng như tránh sự thương tổn tâm lý do khoảng cách thu nhập, sự cách biệt lối sống
giữa nhà ở cao cấp và NOXH.
Hiện nay, quy trình thực hiện “quy chế dân chủ ở cơ sở”, đã được triển khai
thực hiện trên nhiều lĩnh vực chính vì thế mà chính quyền địa phương nên
phải theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, chính là cơ chế
giúp tăng cường dân chủ, tăng quyền cho cộng đồng mà nhất là thể hiện sự làm chủ
tham gia của dân là quan trọng trong quá trình phát triển NOXH.
3.3.3. Đối với nhà đầu tư
Hiện nay, để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư tạo lập quỹ
nhà ở xã hội, tỉnh cần có những cơ chế khuyến khích ưu đãi về tài chính, cụ thể:
Ngoài những ưu đãi về tài chính đã được Chính phủ quy định áp dụng cho các
doanh nghiệp ra, tỉnh cần phải có chủ trương dành quỹ đất, hỗ trợ vay vốn với lãi
suất thấp để các tổ chức doanh nghiệp xây dựng nhà cho người thu nhập thấp, đồng
thời tỉnh còn khuyến khích bằng việc sẵn sàng xem xét, trích nguồn vốn trong ngân
sách của tỉnh để hỗ trợ cho doanh nghiệp với mức hỗ trợ tùy thuộc vào quy mô của
dự án. Để tạo điều kiện tốt nhất cho các chủ đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, đối với
những quỹ đất dành để xây dựng nhà ở xã hội, tỉnh đã tiến hành đầu tư toàn bộ cơ
sở hạ tầng như đường, điện, nước và cảnh quan xung quanh công trình để giảm chi
phí đầu tư cho các chủ dự án, kinh phí được lấy một phần từ nguồn thu đấu giá
quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, tỉnh cần cho phép các doanh nghiệp xây dựng nhà cho người thu
nhập thấp cũng được phép huy động vốn. Sau khi được duyệt quyền mua nhà, người
80
thu nhập thấp sẽ đóng 20 - 30% tổng số tiền trước khi xây dựng để tạo vốn cho
doanh nghiệp. Tiếp đó, tỉnh sẽ cho vay ưu đãi 50%, số vốn đầu tư để xây dựng nhà
cho người thu nhập thấp. Số vốn còn lại doanh nghiệp sẽ huy động vốn hoặc vay
với lãi suất cao. Với việc linh hoạt trong vấn đề huy động vốn sẽ giúp các doanh
nghiệp chủ động hơn về nguồn tài chính để thực hiện dự án.
3.3.4. Đối với người dân
Tỉnh nên cần có chính sách NOXH chuyển trọng tâm từ tạo điều kiện cho bên
cung sang tạo điều kiện cho bên cầu. Nghĩa là khi người thu nhập thấp đã tự tích lũy
được một phần tiền mua nhà hoặc do bán nhà đang ở, tương đương 20% giá nhà, thì
được Ngân hàng chính sách ưu tiên cho vay thêm để đủ trả tiền mua nhà một lần.
Khoản tiền vay này có lãi suất thấp, được trả dần trong dài hạn và được thế chấp
bằng chính nhà mua. Khi bên cầu đã có đủ khả năng thanh toán thì thị trường sẽ vào
cuộc theo cơ chế cung cầu để đáp ứng nhu cầu đó cả về giá cả, số lượng và chất
lượng. Dần dần cơ chế cạnh tranh sẽ vận hành mạnh mẽ, điều chỉnh quan hệ cung
cầu và giá cả. Tóm lại, nên để thị trường sẽ thực hiện chức năng của nó là huy động
có hiệu quả tài nguyên của xã hội.
Điều kiện để xem xét ai là đối tượng có nhu cầu nhà ở xã hội nên đơn giản.
Không nên dựa vào mức thu nhập vì trong bối cảnh có sự tồn tại khu vực kinh tế
không chính thức còn khá mạnh trong đô thị, thuế thu nhập cá nhân lại đang rất sơ
khai, nên rất khó đánh giá đúng mức thu nhập của các hộ gia đình. Nếu tạo điều
kiện cho bên cầu thì ngoại trừ nhà chung cư được chính quyền đầu tư bằng vốn nhà
nước để cho thuê ra thì không còn loại nhà gọi là nhà ở xã hội nữa, mà chỉ có loại
nhà giá trung bình và giá thấp do thị trường cung ứng cho bất kỳ ai có đủ khả năng
thanh toán. Như vậy, người thu nhập thấp có quyền tự do chọn lựa căn hộ phù hợp
có chất lượng tốt tại địa điểm ưng ý để làm hồ sơ vay tiền mua.
81
KẾT LUẬN
Nhà ở là tài sản lớn của mỗi cá nhân, hộ gia đình, thể hiện văn hoá, phong tục,
tập quán của dân tộc, của từng vùng, miền; sự phát triển nhà ở phản ánh sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc tạo lập chỗ ở thích hợp, an toàn là nhu cầu
thiết yếu bậc nhất, là quyền cơ bản của con người và là điều kiện tiền đề để phát
triển nguồn nhân lực quốc gia. Trong những năm qua với hiệu quả xã hội lan tỏa,
NOXH là một minh chứng cụ thể về tính đúng đắn trong việc thực hiện chủ trương
của Đảng, NN hướng đến tầng lớp người nghèo, người có TNT. Vấn đề nhà ở cho
người có thu nhập trung bình và thấp phải là một trong các mục tiêu ưu tiên hàng
đầu của một thể chế xã hội văn minh, nhất là một quốc gia muốn phát triển bền
vững và đặc biệt lựa chọn đi theo định hướng XHCN như Việt Nam
Trong điều kiện nước ta nói chung và tỉnh An Giang nói riêng còn nhiều khó
khăn thì việc làm sao có được những chính sách khuyến khích xây dựng và phát
triển NOXH phù hợp để những đối tượng gặp khó khăn về nhà ở hiện nay ổn định
cuộc sống, yên tâm làm việc là một việc làm cần thiết.
Chính quyền từng địa phương chính là người quyết định sự thành bại của
chương trình nhà ở này. Chính quyền cần hỗ trợ cho DN giải quyết hết các khâu
khó khăn đó, kể cả hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ tất cả những điều kiện mà DN gặp khó
khăn như khi làm thủ tục ở các Sở, các Ban ngành… Dự án muốn thành công thì
70% thuộc về chính quyền kiến tạo, DN chỉ quyết định 30%. Do đó, các cấp, các sở
ngành cần quán triệt, thông suốt các cơ chế, chính sách để tổ chức triển khai, phổ
biến rộng rãi trong nhân dân; tạo mọi điều kiện để DN, nhà đầu tư tham gia đầu tư
đẩy mạnh tiến độ xây dựng NOXH trên địa bàn tỉnh.
Tóm lại, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn trong quá trình đầu tư xây dựng như
thiếu vốn, chưa có sự tham gia của các DN kinh doanh nhà trên địa bàn tỉnh An
Giang … nhưng với việc cố gắng tạo những điều kiện thuận lợi nhất và có cơ chế,
chính sách thu hút đầu tư hợp lý, tỉnh sẽ từng bước tháo gỡ những vướng mắc và
khắc phục những khó khăn hiện nay việc giải quyết vấn đề phát triển NOXH cho
các đối tượng là cán bộ công chức, viên chức, công nhân lao động, học sinh, sinh
viên, lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh An Giang là rất cần thiết để tiến tới mục
82
tiêu cơ bản từng bước thực hiện sự công bằng xã hội, đảm bảo cơ hội tạo lập cuộc
sống tốt hơn và thực hiện quyền mỗi người đều có nhà ở đến năm 2020 đạt diện tích
bình quân đầu người đạt 15m2 sàn đối với nhà ở đô thị và đạt 20m2 sàn bình quân
đầu người ở nông thôn năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020 trên phạm vi toàn tỉnh
100% số hộ có nhà ở ổn định và mỗi hộ sẽ có căn hộ độc lập.
83