VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH ÁNH LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH ÁNH LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công

Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

HÀ NỘI, 2021

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội tác động qua lại hết sức phức tạp và

sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với hoạt động "đời sống tâm

linh". Vì thế, chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn về tôn giáo sẽ góp

phần làm cho kinh tế, xã hội phát triển một cách ổn định và bền vững .

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng. Trong

lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chức sắc,

tín đồ các tôn giáo có những đóng góp to lớn, quan trọng. Đảng, Nhà nước Việt

Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc,

đoàn kết tôn giáo là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta

được cụ thể bằng pháp luật và đảm bảo trên thực tế và đây là một trong những

quyền cơ bản của công dân, được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến

pháp năm 2013).

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-

1945 tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Người nói: “Tôi đề

nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết”. Ngày 14-

6-1955, Người đã ký Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do

thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân

dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ

chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác

của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ

đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm

1

khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà.

Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo,

trong các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu

tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước

ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của

Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công

dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày

16-10-1990; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003. Ủy ban Thường vụ

Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/

PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ

ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3- 2005 về hướng dẫn thi hành

một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng Chính phủ ban

hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31-12-2008 “về nhà, đất liên quan đến tôn

giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo đảm thực hiện

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều cần thiết để nâng

cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế. Hiến pháp

năm 2013 có những sửa đổi quan trọng về chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là của “mọi người”, ghi

nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của

con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông qua, Luật Tín ngưỡng, tôn

giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Chính phủ đã ban hành Nghị định

162/2017/NĐ-CP ngày 30-12-2017 về quy định chi tiết một số điều và biện

pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đồng bằng

sông Cửu Long, sát biên giới Việt Nam với Campuchia với chiều dài 15,4 Km,

có diện tích đất tự nhiên 105,29 Km2. Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành

chính trực thuộc gồm: 5 phường Châu Phú A; Châu Phú B; Núi Sam; Vĩnh Mỹ;

2

Vĩnh Nguơn và 2 xã Vĩnh Châu; Vĩnh Tế. Diện tích nội thành 7,92 km²; Dân

cư thành phố Châu Đốc sinh sống tập trung ở khu vực ven sông Hậu, ven Quốc

lộ 91, tại các phường trung tâm thành phố, tại các khu dân cư... với cơ cấu dân

số trẻ, dân cư đô thị chiếm gần 80%.

Châu Đốc là vùng đất cộng sinh tôn giáo đa dạng, với đặc thù đồng bào

có đạo khá đông, khoảng trên 90% dân số, gồm có Phật giáo, Công giáo, Đạo

Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo

Theravada, Hồi Giáo. Vì vậy, đời sống tâm linh của cư dân Châu Đốc khá phức

tạp, chịu ảnh hưởng đồng thời của nhiều tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau. Châu

Đốc có khu danh thắng Núi Sam, với nhiều lịch sử – văn hóa được xếp hạng

cấp quốc gia, như: Lăng Thoại Ngọc Hầu, Miếu Bà Chúa xứ Núi Sam, Tây An

cổ tự, chùa Hang (Phước Điền tự), Đình Châu Phú, đình Vĩnh Nguơn. Lễ hội

cấp Quốc gia Vía Bà Chúa xứ Núi Sam (di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc

gia) được tổ chức hằng năm thu hút đông đảo du khách đến tham quan, cúng

bái.

Tôn giáo là một phạm trù mang tính lịch sử, có sức ảnh hưởng và cũng

là một nhu cầu tinh thần của đại bộ phận nhân dân, để làm tốt công tác tôn giáo

phải làm tốt công tác vận động quần chúng, quán triệt các quan điểm, chủ

trương chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Cán bộ, đảng viên cần

thông suốt chính sách tôn giáo để thực hiện và xác định công tác tôn giáo là

vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định và phát triển của đất

nước. Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tôn giáo và công tác

tôn giáo là vấn đề chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính

sách dân tộc, tôn giáo và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của nước ta

nói dung và đối với Châu Đốc nói riêng.

Thời gian qua, tình hình thực hiện chính sách tôn giáo của cấp ủy Đảng

và chính quyền thành phố Châu Đốc chưa có nhiều công trình nghiên cứu

3

chuyên sâu, chỉ tổng kết đánh giá tình hình thực hiện hàng năm; Xuất phát từ

những nhận thức trên đây, tôi chọn đề tài "Thực hiện chính sách Tôn giáo trên

địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang" làm luận văn cao học, do trình

độ lý luận cũng như trước đề tài lớn, nhạy cảm và phức tạp, bản thân không

tránh khỏi thiếu sót. Rất mong quý thầy, cô góp ý, bổ sung để luận văn của tôi

được hoàn thiện hơn và cũng giúp cho công tác quản lý nhà nước có các giải

pháp thiết thực nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn

thành phố trong giai đoạn mới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đã có nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía

cạnh khác nhau.

Về mặt cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý, C.Mác và Ănghen, Toàn tập, Tập

1, tập 9 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2019), Vấn

đề tôn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí nghiên cứu Tôn

giáo, số 1 năm 2019; Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nghị quyết số 25-

NQ/TW năm 2003 về công tác Tôn giáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa IX; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018; Nghị định

162/2017/NĐ-CP ngày 30-12-2017 của Chính phủ về quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;

Trên đây là một số tài liệu, văn bản quy phạm pháp luật là nền tảng, cơ

sở lý luận và pháp lý cho các hoạt động thực hiện chính sách tôn giáo. C.Mác

và Ănghen đã xem xét, nghiên cứu tôn giáo dựa trên quan điểm duy vật biện

chứng, theo đó, xã hội, nhà nước được cho là “cơ sở trần tục” của tôn giáo và

tôn giáo luôn có mối liên hệ mật thiết với cơ sở trần tục đó. Đồng thời nghiên

cứu của hai ông cũng chỉ ra bản chất phức tạp và tính lịch sử lâu dài của tôn

giáo, phân tích các điều kiện tồn tại và mất đi của tôn giáo theo tiến trình phát

triển của xã hội, và bởi mối quan hệ mật thiết với xã hội và con người, tôn giáo

4

vẫn là một khía cạnh tinh thần tồn tại trong đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí

Minh, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin về tôn giáo để xác định

và vận dụng một cách linh hoạt trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo đó,

Người nêu hai điểm chính đó là tự do tôn giáo, tín ngưỡng và thực hiện đoàn

kết lương – giáo, hào hợp dân tộc.

Về các cơ sở pháp lý, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã

nêu lên một số nội dung chính liên quan đến vấn đề tôn giáo, như, tiếp tục hoàn

thiện các chính sách pháp luật về tôn giáo, phát huy các giá trị tốt đẹp của tôn

giáo, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận sinh hoạt

theo đúng quy định của pháp luật và luôn đề phòng các hành vi lợi dụng tôn

giáo để chống phá và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Bên cạnh các tài liệu được tham khảo như cơ sở lý luận và pháp lý, có

rất nhiều tài liệu khác mang tinh thực tiễn và liên quan đến hoạt động quản lý

và thực thi các chính sách tôn giáo tại Việt Nam như công trình nghiên cứu “

Quản lý hoạt động tôn giáo, cơ sở lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Đức

Luận (chủ biên); “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của

GS Đặng Nghiêm ; “Những vấn đề cơ bản về chính sách công, Giáo trình chính

sách công” của Đỗ Phú Hải, Đỗ Quang Hưng (2013), Tiến tới một chính sách

công về tôn giáo, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 6; Đỗ Quang Hưng (2014),

Nhà nước, tôn giáo, luật pháp,; Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền,

Đỗ Quang Hưng, Nxb.ĐHQGHN (2014); Nguyễn Công Hoàng (2013), Chính

sách tôn giáo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Nguyễn

Đức Lữ (chủ biên, 2011), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt

Nam;

Các công trình nghiên cứu trên đã có các đóng góp về lý luận và thực

tiễn của hoạt động tôn giáo, việc thực hiện quản lý hoạt động tôn giáo, đồng

thời nêu các nét khái quát về thực tiễn đời sống và hoạt động tôn giáo cũng như

5

công tác thực hiện chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay.

Liên quan đến công tác quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh An

Giang và thành phố Châu Đốc nói riêng, tác giả đã tham khảo một số tài liệu

như: Tỉnh ủy An Giang (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần

thứ X nhiệm kỳ 2016-2020; Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo Thành ủy Châu Đốc

(2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo tổng kết tôn giáo năm 2015, 2016, 2017,

2018, 2019; Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày

12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo.

Có thể nói, những công trình lý luận chung về tôn giáo, đời sống tôn giáo,

chính sách, pháp luật tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở An Giang nói riêng,

có rất nhiều như Địa chí An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xuất bản

năm 2013. Nhưng vấn đề tôn giáo ở thành phố Châu Đốc chưa nghiên cứu toàn

diện về quá trình thực hiện các chính sách trên địa bàn trong thời gian qua, đề

tài nghiên cứu này nhằm đánh giá việc thực hiện các chính sách tôn giáo của

thành phố Châu Đốc thời gian qua. Từ đó đặt ra những vấn đế và khuyến nghị

giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo tại

thành phố Châu Đốc trong thời gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nhận diện và đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo của thành phố

Châu Đốc. Qua đó, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách và

đề xuất khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tôn

giáo tại địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An giang

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực thi chính sách Tôn

giáo và làm rõ những ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Tôn giáo tại

Châu Đốc.

- Nhận diện việc thực thi chính sách tôn giáo trên địa bàn Châu Đốc, An

6

Giang.

- Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tôn giáo tại

Châu Đốc, An Giang.

- Đưa ra khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn

giáo và việc thực thi chính sách tôn giáo góp phần tăng cường sức mạnh khối

đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn thành phố Châu Đốc

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực thi chính sách tôn giáo của

Đảng và nhà nước tại thành phố Châu Đốc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung vào

một số nội dung: thực tiễn thực thi chính sách Tôn giáo và làm rõ những nhân tố

ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Tôn giáo tại thành phố Châu Đốc.

- Phạm vi thời gian: từ 2004 đến nay.

- Phạm vi không gian: thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn lấy quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, các chính sách của Đảng và Nhà nước làm phương pháp luận cho nghiên

cứu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá

và nghiên cứu tài liệu thứ cấp. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành các khảo sát

thực địa để thu thập các thông tin thực tế, củng cố thêm cho các luận điểm của

đề tài. Từ các phương pháp này, dựa trên các tài liệu và báo cáo liên quan, luận

văn có thể đi sâu tìm hiểu, khái quát tình hình thực hiện chính sách tôn giáo

7

trên địa bàn thành phố Châu Đốc.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

- Nghiên cứu làm rõ thêm cơ sở lý luận về tôn giáo, thông qua việc nghiên

cứu tình hình thực hiện chính sách tôn giáo tại địa bàn theo tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng và các văn bản pháp lý được nhà nước ban hành.

Thông qua nghiên cứu, luận văn nêu rõ các mặt mạnh và các mặt hạn chế

của chính sách tôn giáo

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách tôn

giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc, An Giang.

Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho quá

trình hoạch định chính sách liên quan đến tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu

Đốc.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu 02 chương, gồm:

I. Phần mở đầu: Tổng quan đề tài nghiên cứu.

II. Phần nội dung:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách Tôn giáo;

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại thành phố Châu

Đốc trong thời gian qua;

Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao

hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn giáo tại thành phố Châu Đốc trong thời

8

gian tới.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VẾ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

TÔN GIÁO

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm được sử dụng trong luận văn

1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo

Xét theo khía cạnh ngôn ngữ học và lịch sử, thuật ngữ “tôn giáo” khá

mới trong hệ thống tiếng Việt, đây là một thuật ngữ được du nhập từ phương

Tây vào nước ta khoảng nửa cuối thế kỷ XIX.

Tôn giáo được xem xét và nghiên cứu dưới nhiều góc độ và lĩnh vực khác

nhau, do đó, khái niệm tôn giáo được đưa ra tùy theo mục đích, lĩnh vực, phạm

vi nghiên cứu.

Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tín ngưỡng,

đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm

về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời

tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố

siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận học

thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.

Ngoài ra, các nghiên cứu theo mục đích và lĩnh vực khác nhau cũng có

các quan niệm khác nhau về tôn giáo, xin được trích dẫn một số khái niệm đã

được GS. Đặng Nghiêm Vạn đưa ra [5]:

- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và

con người”.

- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin

vào cái siêu nhiên”.

- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá

nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô

9

đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”.

- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác:

“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới

không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.

- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen:

“Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực

lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”

Từ các khái niệm đa dạng trên, có thể thấy điểm chung được thể hiện qua

việc coi tôn giáo là một khái niệm mang tính trừu tượng, là hiện thân của một

thế giới tinh thần, đôi khi mang tính thiêng liêng, huyền bí, được nắm bắt bằng

cảm giác, được đề cập bằng đức tin và thường được tôn trọng, tôn thờ.

Xét theo quan điểm của quản lý nhà nước, đúc kết các khái niệm khác

nhau được nêu bên trên, luận văn định nghĩa tôn giáo trên quan điểm hoạch

định và thực thi chính sách tôn giáo, do đó tôn giáo có thể được định nghĩa là

hình thái ý thức xã hội, được duy trì và củng cố thông qua các giáo lý, lễ nghi,

đối tượng tôn thờ và có tính tổ chức.

1.1.1.2. Khái niệm chính sách công

Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:

“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính

sách được thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể

nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính

chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,...” [32, tr. 475].

Chính sách công có thể được hiểu là hướng dẫn nguyên tắc cho hành

động được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp của nhà nước liên quan đến

một nhóm các vấn đề, theo cách phù hợp với pháp luật và thiết chế xã hội.

Chính sách công cũng đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như:

- Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành

10

(Peter Aucoin, 1971) [6]

- Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng

một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter,

1990) [6]

- Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của

chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh

hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999) [6]

Các khái niệm được TS Đặng Ngọc Lợi trích dẫn tuy khác nhau, song

vẫn có chung một xuất phát điểm đó là vai trò của Nhà nước. Chính sách công,

có thể được hiểu là tập hợp các quyết định có hiệu lực pháp lý, mang tính định

hướng do nhà nước ban hành, và tổ chức triển khai các kế hoạch, mục tiêu để

chính sách phát huy hiệu quả mong muốn.

Dù chưa có định nghĩa thống nhất về chính sách công, nhưng các định

nghĩa khác nhau đều nhất trí về những đặc điểm cơ bản của chính sách công.

Một là, chính sách công là các hành động của cơ quan trong bộ máy nhà

nước. Cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước là chủ thể duy nhất ban

hành và thực thi chính sách trên cơ sở sử dụng quyền lực pháp lý, chính trị và

nguồn lực của nhà nước. Do chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước nên

chính sách công thường được hiểu là chính sách của nhà nước, song, không

phải mọi chính sách của cơ quan trong bộ máy nhà nước đều là chính sách

công. Các chính sách được các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy

nhà nước ban hành và thực hiện nhằm điều tiết các hoạt động và giải quyết các

vấn đề chỉ thuộc nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành hay tác động

ngoài phạm vi cơ quan không phải là chính sách công, mà là “chính sách tư”

hay “chính sách nội bộ”.

Hai là, chính sách công được xây dựng và thực thi nhằm giải quyết một

vấn đề công theo những mục tiêu đã xác định. Thực chất, chính sách công là

một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề công hay đáp ứng một

11

nhu cầu thiết yếu nào đó của xã hội. Từ “công” ở trên được hiểu theo nghĩa là

số đông hay cộng đồng hoặc xã hội. Vì thế, một vấn đề chỉ trở thành vấn đề

công khi nó có ảnh hưởng hoặc là mối quan tâm của số đông hay cộng đồng

hoặc xã hội.

Ba là, chính sách công là tập hợp các quyết định. Chính sách công là một

tập hợp quyết định bao gồm cả dự định và hành động (hành động thực tiễn).

Các quyết định ở đây có ý nghĩa rộng có thể bao gồm cả luật, các quyết định

dưới luật, các chương trình dự án là giải pháp cho vấn đề chính sách.

Bốn là, chính sách công là quyết định về việc lựa chọn có làm hay không

làm việc gì đó. Lựa chọn chính sách công là đưa ra quyết định “làm” một số

việc hoặc quyết định “không làm” một số việc. Cả hai loại quyết định này đều

quan trọng và có ý nghĩa như nhau.

Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu về chính sách công như sau: Chính

sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của các cơ quan

hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước về việc lựa chọn các mục tiêu

và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó trên cơ sở có những tính toán và chủ

đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu

của thực tiễn xã hội.

Tóm lại, về bản chất, (1) Chính sách công là công cụ điều hành được cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền sử dụng để theo đuổi lợi ích công cộng; (2)

Chính sách công là kết quả của việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của

mình định hướng sự vận động và phát triển của cả hệ thống xã hội; (3) Chính

sách công là quá trình thể chế hóa các mục tiêu tổng thể mà nhà nước theo đuổi;

(4) Chính sách công là kết quả của quá trình đấu tranh quyền lực giữa các bên

có liên quan. Mặc dù, chính sách công là do nhà nước ban hành và tổ chức thực

thi, song nhà nước không phải là chủ thể duy nhất có ảnh hưởng đến chính sách.

Thực tế, chính sách chịu ảnh hưởng của các chủ thể khác như là người dân, các

12

tổ chức, các nhóm lợi ích, giới chuyên gia và truyền thông.

Nhìn chung, chính sách và quá trình chính sách mang tính chính trị thể

hiện ở các điểm chính sau.

Một là, chính sách công là sự thể hiện, phản ánh quan điểm và thái độ

chính trị của Đảng cầm quyền. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện của Việt

Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà

nước và xã hội. Mặc dù Đảng không ban hành chính sách, song chủ trương,

cương lĩnh và chiến lược của Đảng là căn cứ quan trọng định hướng chính sách

và quá trình chính sách.

Hai là, chính sách công thể hiện bản chất của nhà nước thông qua mối

quan hệ giữa người dân với nhà nước. Có thể nói, chính sách công là thước đo

phản ánh khá chính xác về bản chất của nhà nước và mối quan hệ giữa người

dân với nhà nước ở mức độ mà nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân được

thể hiện qua ý chí của nhà nước dưới hình thức là các mục tiêu chính sách.

Ba là, chính sách công đơn giản là sản phẩm hoạt động của bộ máy nhà

nước, mà nó còn là kết quả của sự đấu tranh quyền lực giữa các bên có liên

quan. Trong quá trình chính sách, các nhóm chủ thể sử dụng quyền lực mà họ

có được để ảnh hưởng, chi phối đến chính sách và quá trình chính sách nhằm

theo đuối các ý tưởng, giá trị, động cơ và mục tiêu của họ.

Bốn là, chính sách công giúp củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân

dân. Khi mà quá trình chính sách là sự thống nhất nguyện vọng của nhân dân

với ý chí quản lý của nhà nước thì nó sẽ củng cố thêm niềm tin của nhân dân

đối với nhà nước và làm khăng khít thêm hơn mối quan hệ của nhân dân đối

với nhà nước.

Từ những phân tích trên cho thấy chính sách công chính là kết quả của các

quyết định của Chính phủ, các quyết định này nhằm duy trì tình trạng của xã

hội hoặc giải quyết “các vấn đề của xã hội” trong đó “là các vấn đề kinh tế,

13

chính trị, văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể của Đảng đã vạch ra từ

trước. Như vậy, chính sách công trong trường hợp của Việt Nam có thể định

nghĩa như sau: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan

nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề

chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền

[7, tr.12].

Chính sách công có nhiều khái niệm nhưng vẫn chưa được thống nhất với

nhau. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất như sau: Chính

sách công là hệ thống các quyết định hành động của chủ thể nắm quyền lực

công nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên lĩnh vực của đời

sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt các mục tiêu đề ra.

1.1.1.3 . Các bước tổ chức thực hiện chính sách công:

Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách, trước tiên

cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:

- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công: Kế hoạch triển

khai thực thi chính sách được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.

Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều

phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi

chính sách bao gồm những nội dung cơ bản sau: về tổ chức, điều hành; oạch

cung cấp các nguồn vật lực; thời gian triển khai thực hiện; kiểm tra, đôn đốc

thực thi chính sách; Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về

trách nhiệm, nhiệm vụ, và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà

nước tham gia: tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng kỷ

luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách, v.v... Dự kiến kế hoạch

thực thi ở cấp nào do lãnh đạo cấp đó xem xét thông qua. Sau khi được quyết

định thông qua, kế hoạch thực thi chính sách mang giá trị pháp lý, được mọi

người chấp hành thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm

quyền thông qua kế hoạch quyết định.

14

- Phổ hiến, tuyên truyền chính sách công: Đây là một hoạt động quan trọng,

có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách. Phổ

biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi

người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về

tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính

khả thi của chính sách... để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà

nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức

thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với

đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc

thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ

chức thực hiện chính sách được giao.

- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công: Muốn tổ chức thực thi

chính sách có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối họp giữa các cơ quan

quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi

chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Trong

thực tế thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực

hiện một chính sách cụ thể nào dó. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của

một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá

trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để dạt yêu

cầu quản lý. Hoạt động phân công, phối hợp cần được thực hiện theo tiến trình,

có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn

định, góp phân nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.

- Duy trì chình sách công: Đây là những hoạt động nhằm đảm báo cho chính

sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn vậy

phải có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tố chức, người thực thi và môi trường

tồn tại. Đối với các cơ quan Nhà nước - người chủ động tổ chức thực thi chính

sách - phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính

sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi

chính sách gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động, thì các

15

cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi

trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Đồng thời chủ động diều chỉnh

chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để

đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan Nhà nước có thể kết hợp sử dụng

biện pháp hành chính để duy tri chính sách. Những hoạt động đồng bộ trên đây

sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính sách trong đời sống xã hội.

- Điều chỉnh chính sách công: ược thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm

quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình

thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều

chỉnh bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp, cơ

chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, vì thế cơ quan nhà nước các

ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện

có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách.

Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Để chính

sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục

tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chinh

làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách, thì coi như chính sách

đó bị thất bại.

- Theo dõi, kiếm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách công: Các điều kiện

về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương

không giống nhau, cũng như trình độ, năng lực tô chức điều hành của cán bộ,

công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, do vậy các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi

chính sách. Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu và biện pháp chủ yếu của chính

sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, mỗi đối tượng

thực thi chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong quá trình thực

thi chính sách. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã được phê duyệt các tổ

chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả. Kiểm

tra theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực thi chính sách vừa kịp thời bổ sung,

16

hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính sách,

giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.

- Đánh giá, tổng két, rút kinh nghiệm: Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức

thực thi chính sách được hiệu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều

hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng

được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các

cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò,

chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham

gia thực thi chính sách. Cơ sở để đánh giá tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành

thực thi chính sách trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những

nội quy, quy chế được xây dựng ở bước 2 của phần này. Đồng thời còn kết họp

sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và

các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành

thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.

Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo - điều hành của các cơ

quan nhà nước, chúng ta còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng

tham gia thực hiện chính sách bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực

tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách

là công dân. Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh

thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thúc chấp hành những quy định

về cơ chế, biện pháp do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực

hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.

1.1.1.4 . Khái quát chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách tôn

giáo

Chính sách tôn giáo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã

được nêu cụ thể tại Điều 70 Hiến pháp năm 1992: "Công dân có quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo 1 tôn giáo nào. Các tôn giáo đều

17

bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được

pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi

dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".

Theo đó, chính sách tôn giáo cũng đã được nêu trọng - Văn kiện Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XII : “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về

tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các

tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo

hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo

quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những

hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân

tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật” [35,

tr.165]

Nhà nước CNHXCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền, mọi người đều

sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ

quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mỗi công dân, và ngược lại, công dân cũng

như các tổ chức tôn giáo cũng có nghĩa vụ tôn trọng, tuân thủ hiến pháp và pháp

luật, góp phần bảo vệ và tôn trọng trật tự, an ninh xã hội cũng như thể chế nhà

nước. Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng nhưng cũng

không cho phép các công dân hay tổ chức lợi dụng quyền này và các quyền

khác được quy định trong Hiến pháp để sử dụng tôn giáo, tín ngưỡng như một

công cụ chống phá nhà nước hay để thực hiện các hoạt động trái với thuần

phong, mỹ tục. Công dân và các tổ chức tôn giáo cần chung tay xây dựng và

bảo vệ “khối đại đoàn kết toàn dân tộc” với phương châm “sống tốt đời đẹp

đạo”.

1.2. Các chức năng và một số đặc điểm của tôn giáo.

1.2.1. Các chức năng của tôn giáo

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo có năm chức năng

18

chính:

- Chức năng đền bù hư ảo (an ủi mơ hồ): trong đời sống hàng ngày, hầu

hết mọi người đều có các áp lực, đôi khi, có những sự kiện xảy ra, do không

tìm được lời giải đáp hay an ủi, người ta tìm đến một chỗ dựa tinh thần, và tìm

các lời giải đáp thông qua các giáo lý, giáo luật của tôn giáo….

- Chức năng thế giới quan: để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của con người

về thế giới tự nhiên, xã hội và chính con người, các tôn giáo đưa ra những quan

niệm riêng để giải thích về quy luật vận hành của thế giới hữu hình cũng như

thế giới vô hình;

- Chức năng điều chỉnh: Thông qua hệ thống những chuẩn mực, giá trị

đạo đức trong giáo lý, giáo luật… tôn giáo dựa trên đức tin để điều chỉnh hành

vi của người có tín ngưỡng, tôn giáo;

- Chức năng liên kết: cố liên kết những người có chung tín ngưỡng tôn

giáo thành một cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo, sự liên kết này thường khá bền

vững và lâu dài;

Ngoài ra, xét theo khía cạnh xã hội, tôn giáo còn có chức năng giao tiếp:

thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội mang tính cộng đồng của tôn giáo

tạo ra mối liên kết (giao tiếp) giữa những người có cùng tín ngưỡng, trong đó

sự giao tiếp với “thần linh” được coi là quan trọng nhất…

1.2.2. Một số đặc điểm của tôn giáo

- Tôn giáo mang tính xuyên lịch sử: có sức ỳ và sự bảo thủ cao, sự vận

động phát triển của nó không hẳn phụ thuộc vào sự phát triển của các hình thái

kinh tế - xã hội, nhiều khi trong xã hội hiện đại vẫn còn tồn tại hình thức tín

ngưỡng tôn giáo nguyên thủy…

- Tôn giáo mang tính xuyên không gian: một tôn giáo có thể tồn tại, phát

triển ở nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau…

- Tôn giáo hình thành các cộng đồng tôn giáo (quần chúng): tạo ra các

19

cộng đồng tôn giáo hay tạo thành một lực lượng xã hội tôn giáo…đồng thời

các cộng đồng tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng nhất của tôn giáo,

quyết định sự hình thành và phát triển của tôn giáo.

- Tôn giáo mang tính đa dạng phức tạp: vì tôn giáo do nhiều nguyên nhân,

nhiều yếu tố cấu thành và có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng của xã

hội…, đồng thời bản thân tôn giáo (nhất là tổ chức tôn giáo và các lãnh tụ tôn

giáo) luôn bị các lực lượng chính trị khác nhau khai thác, lợi dụng vào những

mục đích khác nhau…

1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy, vận dụng một cách linh

hoạt quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin về tôn giáo để phù hợp với điều

kiện thực tế tại Việt Nam. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin, tôn giáo

có nguồn gốc là hiện thực, tôn giáo ra đời và phát triển dựa trên đời sống hiện

thực. Trong tác phẩm “C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd”, trang 437-570, C.Mác đã

viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,

vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở

dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng

như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc

phiện của nhân dân”. Với quan điểm này, Mac đã khẳng định tính “ru ngủ” của

tôn giáo đối với người dân, tuy nhiên cũng không phủ định những mặt tích cực

mà tôn giáo đem lại. Ông thừa nhận ở một khía cạnh nào đó, “tính hư ảo” của

tôn giáo vẫn như một liều thuốc giúp con người vượt qua những khổ ải gặp phải

trong hiện thực, vì vậy, phần nào đó, trong điều kiện cụ thể tôn giáo vẫn cần

thiết. Tính tiến bộ trong quan điểm của Mac được thể hiện ở chỗ ông không

phê phán tôn giáo mà phê phán hiện thực, do đó, tôn giáo nảy sinh. Và Mac

cũng nêu rõ quan điểm, nâng cao nhận thức của người dân chính là giải pháp

hữu hiệu để khiến họ thoát khỏi những u mê và hư ảo mà tôn giáo mang lại.

Hơn nữa, Mac cũng nêu rõ, để xóa bỏ tính hoang đường của tôn giáo điều cần

20

thiết nhất là tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là quan điểm rất sáng suốt, đòi

hỏi các thể chế và nhà nước phải hành động để thay đổi và đem lại cho người

dân điều kiện sống tốt đẹp hơn, văn minh hơn và bình đẳng hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những điểm cơ bản của Chủ

nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Nổi bật trong

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là tư tưởng nhân văn, tư tưởng đại đoàn kết,

tư tưởng chống áp bức bóc lột và giải phóng con người. Đoàn kết tôn giáo, hòa

hợp dân tộc, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng là những nội dung

cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thế giới quan macxit là chủ nghĩa duy

vật hoàn toàn khác tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm nhưng không phải vì thế mà

nghi kỵ, bài xích, đối đầu với tôn giáo. Đồng thời khẳng định chính sách lâu

dài của Đảng và Nhà nước ta là đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc tôn trọng

và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡnng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,

xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định những nội dung tốt đẹp của tôn giáo

như: tính bác ái, vị tha, trọng lễ nghĩa, đề cao đạo đức, Người luôn tôn trọng và

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Người cho rằng quyền tự do tín

ngưỡng là một trong những quyền chính đáng của con người, và những ai hạn

chế vi phạm thô bạo đến quyền ấy là đi ngược lại với xu thế tiến bộ của xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), trên cương vị Chủ tịch nước Việt

Nam dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí Minh phải đối diện với vấn đề tôn giáo, tín

ngưỡng một cách trực tiếp gay gắt: Sau những hồ hởi, phấn đấu ban đầu của

Cách mạng tháng Tám, người Công giáo bị đầu độc bởi tư tưởng đúng theo

nhận xét của linh mục Trần Tam Tỉnh: “Chủ nghĩa chống Cộng tại Việt Nam

là sản phẩm của óc giáo điều Kitô và của ngành tuyên truyền Pháp” [30] ở Nam

Bộ vấn đề Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo cũng trở nên rất phức tạp khi để địch

21

ráo riết lợi dụng, chia rẽ.

Đóng góp đầu tiên của Hồ Chí Minh sau cách mạng tháng Tám lại chính

là vấn đề luật pháp Tôn giáo trên tư cách người lãnh đạo Nhà nước.

Ngay phiên họp đầu tiên của hội đồng Chính Phủ Việt Nam dân Chủ

Cộng hòa ngày 03-09-1945, trong” 6 vấn đề cấp bách”, trong đó với vấn đề

thứ 6 Hồ Chí Minh nói rõ” Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia

rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị chính phủ

tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” [6].

Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam mới năm 1946 chương II, mục

b, đã xác định “mọi công dân Việt nam có quyền tự do tín ngưỡng”.

Không phải vô cớ mà Hồ Chí Minh, trong lễ ra mắt công khai của Đảng

ta sau đại hội II (1951) ở Việt Bắc, đã nói: “Chúng tôi xin nói thêm 2 điểm, nói

rõ để tránh hiểu lầm: Một là, vấn đề tôn giáo thì đảng Lao động Việt Nam hoàn

toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người”.

Sắc lệnh số 197/SL do Hồ Chí Minh kí ngày 19/12/1953 ban bố Luật Cải

cách ruộng đất. Vấn đề ruộng của tôn giáo tại chương III, điều 25 của Bộ luật

bày quy định những đối tượng được chia trong đó có Nhà chung, nhà chùa, từ

đường và các cơ quan tôn giáo được để lại một phần đất ruộng để dùng vào

việc thờ cúng. Phần đất ruộng “do nhân dân địa phương bình nghị và ủy ban

kháng chiến tỉnh xét định. Trường hợp đặc biệt thì cấp trên quyết định. Những

người làm tôn giáo nếu không đủ điều kiện, có sức cầy cấy và yêu cầu, thì được

chia sẻ mốt phần đất ruộng nơi ở họ hoạt động, hoặc quê quán họ”. Thực là

cách giải quyết rất Việt Nam, Hồ Chí Minh.

Để thực hiện sự đoàn kết dân tộc và tôn giáo, trong những thời điểm sinh

tử của chế độ dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh nêu cao tấm gương của lòng dân,

truyền thống dân tộc “thương người như thể thương thân” và trên chiều kích

mới của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Lẽ dĩ nhiên là “chính sách” thì cũng có

22

chính sách là chuyện sách lược. Nhưng với chính sách đoàn kết tôn giáo của

Hồ Chí Minh – lĩnh vực tế nhị và phức tạp – thì luôn là sự chân thành, chiến

lược và nhất quán.

Đoàn kết tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng đại đoàn kết

dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoàn kết lương – giáo là đoàn kết giữa

những người cộng sản với những người có tín ngưỡng tôn giáo; giữa những

người có tín ngưỡng tôn giáo với những người không có tôn giáo. Người khẳng

định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại

đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động

khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc

của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân

dân khác” và “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn

chính trị”[13, tr.244] Vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

là sự nghiệp chung không phải của riêng ai.

Hồ Chí Minh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng kiên quyết trừng

trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân,

tuyên truyền chiến tranh, phá hoại sự đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ

công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng của người khác hoặc

làm những việc trái pháp luật. Người đã nhấn mạnh "Bảo vệ tự do tín ngưỡng,

nhưng kiên quyết trừng trị kẻ đội lốt tôn giáo để phản chúa, phản nước"[12,

tr.313], Hồ Chí Minh tiến hành nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn những biểu

hiện vi phạm tín ngưỡng tôn giáo chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì

mục đích ngoài tôn giáo. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền

thống Việt Nam, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bản thân Bác đã nhiều lần

nhắc đến tổ tiên với tình cảm chân tình, tôn kính và nhận thấy: "tổ tiên rực rỡ,

anh em thuận hoà"[16]. Bên cạnh đó Bác cũng đã nghiêm khắc phê phán và

nêu một số phương hướng nhằm khắc phục tệ nạn mê tín, dị đoan. Bài trừ tệ

23

nạn mê tín dị đoan phải đi đôi với việc xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây

dựng thuần phong mỹ tục; đấu tranh nhằm khắc phục tệ nạn mê tín dị đoan phải

tế nhị, tránh thô bạo.

Đối với nước ta, nơi dung nạp nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo; là

một quốc gia tôn giáo, tỷ lệ người tín ngưỡng tôn giáo rất cao, song tỷ lệ người

vô thần lại chiếm đa phần. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt tại Việt

Nam như Phật giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Hồi giáo. 6 tôn giáo lớn ở

nước ta hiện nay là đạo Phật, Thiên Chúa, Tin lành, đạo Hồi, Cao đài, Hòa Hảo.

Trong 6 tôn giáo lớn có hơn 20 hệ phái khác nhau. Tổng số tín đồ hơn 20 triệu

người gần 1/3 dân số cả nước. Có khoảng 10 vạn nhà chức sắc tu hành trong

đó có 5 vạn hoạt động chuyên nghiệp, nhìn chung tất cả đều có tinh thần gắn

bó dân tộc. Nhất là từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều tín đồ đã

trở thành những Đảng viên cộng sản, thành những chiến sĩ kiên cường dũng

cảm, hy sinh cho Tổ quốc, nhiều nhà sư linh mục đã đi theo kháng chiến nhiều

chùa và thánh thất là nơi nuôi dấu che chở cho cán bộ cách mạng. Ngày nay

các tổ chức giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và Pháp Luật đều mong muốn đất

nước được ổn định và phát triển. Tuy nhiên vấn đề Tôn giáo vẫn còn nhiều

điểm phức tạp như trình độ nhận thức của tín đồ còn nhiều hạn chế, nên bị lệ

thuộc nặng vào Thần, Giáo lý từ đó bị một số người lợi dụng để gây rối, một

số giáo sĩ chức sắc do điều kiện lịch sử để lại thể hiện thái độ mặc cảm với xã

hội mới nên thường chống đối lại cách mạng.

Tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm, dễ bị kích động. Có chính sách

Tôn giáo đúng đắn, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo là góp phần quan trọng vào

việc củng cố khối đại đoàn kết nhân dân. Thừa nhận đạo đức tôn giáo có những

điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới và con người mới. Thừa nhận

tôn giáo còn tồn tại lâu dài.

1.4. Tầm quan trọng và các bước tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

1.4.1. Tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

24

1.4.1.1. Khái niệm về tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

Việc tổ chức thực hiện chính sách trước hết là quá trình thực hiện chuyển

hóa ý chí, nguyện vọng của chủ thể, người làm chính sách thành các kết quả

thực tế có thể đo lường, đánh giá được. Ở đây, Nhà nước là chủ thể làm các

chính sách tôn giáo và các cơ quan các cấp, theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà

nước là đối tượng tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, theo một quy trình bài

bản, đưa các chính sách tôn giáo của nhà nước vào đời sống của người dân.

1.4.1.2. Tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện chính sách

Một chính sách có hiệu quả và mang lại lợi ích chung hay không phụ

thuộc rất nhiều vào việc tổ chức thực hiện. Chính sách có thể rất tốt, mục đích

lớn nhưng có thể khi áp dụng vào thực tiễn lại không đem lại hiệu quả như

mong đợi, khâu tổ chức thực hiện đóng vai trò phản hồi và đánh giá chính sách

dựa trên thực tế áp dụng.

Tổ chức thực hiện chính sách là một giai đoạn trong chu trình chính sách

công từ xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách và đánh giá chính sách,

là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực tới đối

tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Thực hiện chính sách là một khâu

hợp thành chu trình chính sách, nếu thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính

sách không thể tồn tại. Thực hiện chính sách là một hệ thống nhất - nhất là với hoạch

định chính sách. So với các khâu khác trong chu trình chính sách, thực hiện chính

sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước thực hiện hóa chính sách trong đời sống

xã hội. Tổ chức thực hiện chính sách tốt không những mang lại lợi ích to lớn

cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà

nước trong quá trình quản lý xã hội. Để có được một chính sách tốt, các nhà

hoạch định phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm công phu. Nhưng

dù tốt đến đâu chính sách cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào

25

thực hiện trong thực tiễn.

Tôn giáo là một lĩnh vực có những nét đặc thù riêng, chính sách tôn giáo

do đó cũng có các tính chất riêng biệt, phản ánh sự đa dạng, phức tạp của tôn

giáo, đòi hỏi khâu tổ chức thực hiện phải hết sức chuyên nghiệp, bài bản.

Thực hiện chính sách tôn giáo cũng cần có sự khéo léo, nhạy bén, để

không gây nên những hiểu lầm, xung đột không đáng có, gây mất đoàn kết giữa

các cộng đồng tôn giáo hoặc xung đột giữa các công dân theo tín ngưỡng với

nhà nước. Do đó, hoạt động giải quyết các mâu thuẫn phát sinh liên quan đến

chính sách tôn giáo cũng cần được xem xét, tiến hành để đảm bảo an ninh xã

hội. Từ các ý nghĩa trên, có thể hiểu: thực hiện chính sách tôn giáo tổ chức triển

khai các văn bản, quy định, chương trình, dự án... nhằm đưa chính sách về tôn

giáo vào thực tiễn đời sống xã hội qua đó hiện thực hóa mục tiêu chính sách về

tôn giáo đã đặt ra.

1.4.2. Hoạt động tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

1.4.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách tôn giáo

Hoạt động thực hiện chính sách tôn giáo có mối liên hệ với nhiều người,

nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy, cần lên kế hoạch cho công tác tổ chức thực

hiện. Việc xây dựng kế hoạch được các cơ quan QLNN thực hiện từ cấp trung

ương đến địa phương, tùy thuộc theo từng cấp, kế hoạch có thể mang tính vĩ

mô, khái quát hoặc rất chi tiết, cụ thể. Xây dựng kế hoạch thực hiện bao gồm

các nội dung sau:

- Thời gian thực hiện.

- Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.

- Kinh phí thực hiện.

- Nguồn nhân lực và việc phân bổ nguồn nhân lực: các cơ quan tham

gia, chất lượng và số lượng của nguồn nhân lực, cơ chế hợp tác, phối hợp

trong quá trình thực hiện, phân công trách nhiệm, nhiệm vụ.

- Đánh giá hiệu quả (kiểm tra, giám sát, đánh giá)

26

1.4.2.2. Hoạt động phổ biến và tuyên truyền chính sách tôn giáo

Bước phổ biến tuyên truyền chính sách tôn giáo được chủ trương tiến

hành sau khi đã lên kế hoạch tổ chức thực hiện, đây là bước đệm có vai trò

quan trọng trước khi tiến hành bước tiếp theo là phân công, phối hợp thực

hiện chính sách. Đây là bước thông tin đến các bên liên quan và thông tin,

tuyên truyền để người dân hiểu, đồng thuận và tham gia giúp chính sách thành

công

1.4.2.3. Phân công tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

Việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo được tiến hành từ cấp trung

ương xuống địa phương. Cấp trung ương, trước hết, Nhà nước có vai trò hoạch

định chính sách tôn giáo quản lý việc tổ chức thực hiện, Bộ Nội vụ là cơ quan

chịu trách nhiệm tham mưu nhà nước quản lý chính sách tôn giáo, Ban Tôn

giáo, trực thuộc Bộ Nội vụ là cơ quan tham mưu của Bộ Nội vụ về các vấn đề

liên quan đến QLNN về các chính sách tôn giáo. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành

khác trực thuộc Trung ương (Bộ Công an, Bộ Văn hóa – Du lịch, Bộ Thông

tin truyền thông, Bộ Tư pháp… ) có thẩm quyền và nghĩa vụ phối hộp với Bộ

Nội vụ trong hoạt động QLNN về chính sách tôn giáo;.

Xuống các cấp, Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm lên kế hoạch

cụ thể phù hợp với hoàn cảnh địa phương, bố trí nhân lực và các nguồn lực

cần thiết, phân công nhiệm vụ, quyền hạn và phối hợp dọc, ngang với các ban

ngành để triển khai thực hiện chính sách tôn giáo tại địa phương.

Việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo cần làm rõ trách nhiệm,

quyền hạn và nhiệm vụ của các bên tham gia, đảm bảo sự phối hợp được chặt

chẽ, linh hoạt, tránh tình trạng chồng chéo, mập mờ trong việc phân quyền và

nhiệm vụ, trách nhiệm khi thực hiện.

1.4.2.4. Duy trì chính sách tôn giáo

Chính sách tôn giáo khi được đưa vào đời sống người dân, cần được

duy trì theo thời gian. Để duy trì chính sách tôn giáo, trước tiên, cần tuyên

27

truyền sâu rộng để người dân và các cơ quan, chủ thể liên quan hiểu, đồng

thuận và sẵn sàng tham gia thực hiện chính sách một cách chủ động. Chính

sách tôn giáo mang tính đa dạng và phức tạp, do đó, trong quá trình triển khai

gặp không ít các vướng mắc, các cơ quan, chủ thể có nhiệm vụ thực hiện chính

sách cần linh hoạt, năng động và sáng tạo để chính sách có thể phù hợp với

đời sống thực tế vô cùng đa dạng không ngừng biến đổi. Bên cạnh đó, các đơn

vị thực hiện chính sách tôn giáo cần kịp thời nắm bắt và điều chỉnh để chính

sách tôn giáo có thể giữ nguyên các nguyên tắc, mục tiêu nhưng vẫn theo kịp

xu hướng phát triển của xã hội, góp phần đảm bảo an ninh xã hội và đem lại

lợi ích chung cho người dân.

1.4.2.5. Điều chỉnh chính sách tôn giáo

Cũng như các chính sách khác, khi đưa vào đời sống, không tránh khỏi

các vướng mắc, vì vậy, việc điều chỉnh chính sách để phù hợp với điều kiện

thực tế là vô cùng cần thiết, hơn nữa, cần được tiến hành thường xuyên. Thông

thường, về mặt nguyên tắc, cơ quan có thẩm quyền ban hành và hoạch định

chính sách có quyền và nghĩa vụ điều chỉnh, bổ sung chính sách. Tuy nhiên,

cơ quan các cấp cũng có thể điều chỉnh chính sách trong quá trình thực hiện

theo nghĩa điều chỉnh cơ chế, phương thức, nguồn lực cho phù hợp. Về mặt

nguyên tắc, mục tiêu cần được đảm bảo duy trì, việc điều chỉnh mục tiêu của

chính sách thường do cơ quan trung ương có thẩm quyền thực hiện.

1.4.2.6. Kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chính sách

tôn giáo

Hoạt động kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách tôn

giáo là khâu quan trọng trong quá trình thực hiện. Thông qua bước này, cơ

quan các cấp, các đơn vị chủ trì thực hiện có thể theo sát việc thực hiện của

các bộ phận liên quan, kịp thời phát giác các thiếu sót, hạn chế có thể có để

phản hồi và điều chỉnh. Ngoài ra, việc kiểm tra, theo dõi cũng giúp cho việc

thực chính sách tôn giáo một cách đúng đắn, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng

28

cho mọi công dân và tổ chức tôn giáo. Nhờ hoạt động kiểm tra, theo dõi, đôn

đốc, các vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo sẽ được kịp

thời phát hiện, xử lý, tạo tiền đề tốt trong dư luận xã hội cũng như đảm bảo

an toàn, trật tự xã hội.

1.4.2.7. Hoạt động tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách

tôn giáo

Hoạt động tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chính sách tôn giáo

thường được tiến hành theo hàng dọc. Nội dung tổng kết và đánh giá thông

thường là các báo cáo liên quan đến công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện chính

sách, các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định triển khai. Ngoài ra,

việc đánh giá còn được thực hiện cả về khía cạnh ý thức thực thi chính sách

của cơ quan nói chung và cá nhân nói riêng. Nhờ đó, hoạt động tổng kết đánh

giá mang tính toàn diện, có chiều sâu và khách quan.

Tiểu kết Chương

Trong chương 1, luận văn đã đi sâu, tìm hiểu và nêu tổng quát cơ sở lý

luận của chính sách tôn giáo, các nội dung mang tính định hướng và các khái

niệm cơ sở đối với các thuật ngữ cũng như các lý thuyết nền tảng của hoạt

độn tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo.

Chính sách tôn giáo có nét đặc thù rất riêng biệt, đa dạng và phức tạp,

ở chương này, luận văn tập trung làm rõ các nội dung mang tính định hướng

để làm cơ sở triển khai phân tích việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo.

Trong chương này, tác giả đã làm rõ các tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lenin,

và Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo, quan điểm của Đảng và Nhà nước

liên quan đến chính sách tôn giáo hiện nay cũng như các văn bản pháp quy,

tạo khung pháp lý cho các hoạt động thực hiện chính sách tôn giáo.

Bên cạnh đó, luận văn cũng nêu rõ các bước cần thiết của quy trình tổ

29

chức thực hiện chính sách tôn giáo, và để chính sách tôn giáo mang lại hiệu

quả cao, đem lại lợi ích cho người dân và xã hội, các đơn vị liên quan và các

chủ thể tham gia cần tôn trọng và tuân thủ tất cả 7 bước của quy trình.

Dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, giữ vững quan điểm của Đảng và Nhà nước, tuân thủ theo

các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực hiện nghiêm chỉnh các quy

định về quy trình tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo là các điều kiện nền

tảng để chính sách tôn giáo phát huy hiệu quả và đạt được mục đích, mục tiêu

30

đề ra.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

TẠI CHÂU ĐỐC THỜI GIAN QUA

2.1. Đặc điểm tình hình địa phương

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, lịch sử, dân cư, dân tộc

Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đồng bằng

sông Cửu Long, sát biên giới Việt Nam và Campuchia.

Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết

số 86/NQ-CP về việc thành lập phường Vĩnh Nguơn thuộc thị xã Châu Đốc và

thành lập thành phố Châu Đốc trực thuộc tỉnh An Giang.

Ngày 15 tháng 4 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định

số 499/QĐ-TTg, công nhận thành phố Châu Đốc là đô thị loại II trực thuộc tỉnh

An Giang.

Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: 5 phường

Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ; Vĩnh Nguơn và 2 xã Vĩnh Châu;

Vĩnh Tế. Diện tích nội thành 7,92 km².

Dân cư thành phố Châu Đốc sinh sống tập trung ở khu vực ven sông Hậu,

ven Quốc lộ 91, tại các phường trung tâm thành phố, tại các khu dân cư... với

cơ cấu dân số trẻ, dân cư đô thị chiếm gần 80%.

Châu Đốc là vùng đất cộng sinh nơi nhiều dân tộc như người Hoa,

Khmer, Chăm, Nùng, Mường, Thổ, Tày… cùng chung sống với nhau. Vì vậy,

đời sống tâm linh của cư dân Châu Đốc khá phức tạp, chịu ảnh hưởng đồng

thời của nhiều tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Châu Đốc có vị trí địa lý khá đặc biệt nằm ở ngã ba sông, nơi sông Hậu

và sông Châu Đốc gặp nhau; giữa 4 cửa khẩu kinh tế sầm uất là: cửa khẩu quốc

31

tế Tịnh Biên - huyện Tịnh Biên, cửa khẩu quốc gia Khánh Bình - huyện An Phú

và cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương - thị xã Tân Châu. Từ vị trí này, thành phố

Châu Đốc được xem là cửa ngõ giao thương quan trọng của tỉnh An giang và

vùng Đồng bằng sông Cửu long, là nơi tập trung hàng hoá buôn bán với Vương

quốc Campuchia qua cả hai đường thuỷ, bộ. Thành phố Châu Đốc có hơn 15 km

Quốc lộ 91 chạy ngang. Năm 2011, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ký quyết

định cho nâng cấp tỉnh lộ 956 tại An Giang (nối Châu Đốc - Long Bình) lên

thành quốc lộ 91C. Đây là một thuận lợi để thành phố giao lưu, buôn bán với

các địa phương trong tỉnh, trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và nước

bạn Campuchia. Ngoài ra, còn có tuyến đường vành đai chạy qua ngoại ô. Khu

vực trung tâm thành phố và khu Thương mại Dịch vụ (phường Châu Phú A,

phường Châu Phú B, phường Núi Sam) có hệ thống giao thông nội ô tương đối

hoàn thiện.

Thành phố Châu Đốc thuộc vùng đồng bằng của tỉnh An Giang do phù

sa sông Hậu bồi đắp. Địa hình thấp dần theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Ở

trung tâm có Núi Sam đột khởi lên giữa đồng bằng tạo nên cảnh quan độc đáo.

Phía đông có sông Châu Đốc và sông Hậu chảy theo chiều Bắc - Nam. Phía tây

có kênh Vĩnh Tế chạy song song với biên giới Campuchia, nối liền với thành

phố Hà Tiên tỉnh Kiên Giang. Địa hình chia cắt bởi các kinh rạch ngang dọc.

Với địa hình đa dạng, Châu Đốc có điều kiện phát triển về thương mại, dịch vụ,

du lịch và nông nghiệp.

Châu Đốc còn là trung tâm du lịch của tỉnh An Giang, là thành phố đồng

bằng đặc biệt có sông, có núi với phong cảnh tự nhiên hấp dẫn với 7 di tích lịch

sử - văn hoá được xếp hạng cấp Quốc gia và cấp Tỉnh, gần 40 ngôi chùa cổ với

những kiến trúc độc đáo và nhiều địa điểm du lịch phong phú đa dạng được trải

đều và liên hoàn trên toàn thành phố. Du lịch, hành hương hấp dẫn khách đến

tham quan ngày càng đông. Du khách phần lớn là viếng Miếu bà Chúa Xứ,

hàng năm có khoảng 5 triệu lượt khách đến tham quan, hành hương. Ngoài ra,

32

có các địa điểm khác như thánh đường Hồi giáo, nghề dệt thổ cẩm truyền thống

của người Chăm, chợ Châu Đốc với các đặc sản địa phương… Châu Đốc có

sinh hoạt nhộn nhịp, buôn bán sung túc, sông ngòi nhiều cá tôm, đồng ruộng

phì nhiêu màu mỡ.

2.1.3. Khái quát một số vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành

phố Châu Đốc

An Giang nói chung và Thành phố Châu Đốc nói riêng là vùng đất phong

phú nhất về tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam, với nhiều loại hình tín ngưỡng

- tôn giáo nội sinh và ngoại sinh, đời sống tâm linh phức tạp, chịu ảnh hưởng

đồng thời của nhiều tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau. An Giang chính là vùng

đất phát sinh và cộng sinh tôn giáo đa dạng nhất: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân

Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hoà Hảo, Cao Đài, Phật giáo Bắc Tông, Phật Theravada,

Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi Giáo... Bên cạnh đó các thực hành tín ngưỡng

tương đối phổ biến như tập tục thờ cúng Thổ Địa, thần Tài, Táo Quân, Thành

Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần, Bà Chúa Xứ, Ngũ Hành. Ngoài ra, một số nơi còn

thờ cúng tổ tiên nhân loại (Cửu huyền trăm họ), Ngọc Hoàng (Ông Thiên), Mẹ

Phật Mẫu Diêu Trì (Bà), Cửu Thiên Huyền Nữ, Ông Tà, Hà Bá – Thuỷ Long,

v.v… Ngoài ra, cư dân nơi đây còn thờ cúng gia tiên, Quan Thánh Đế Quân, tổ

nghề nghiệp, danh nhân – anh hùng dân tộc, liệt sĩ cách mạng, v.v… Một trong

những căn nguyên của sự dạng về tín ngưỡng tôn giáo là điều kiện giao lưu tiếp

biến văn hoá giữa các tộc người ở An Giang, nơi tập trung sinh sống của cư

dân Việt, Khmer, Chăm, Hoa. Do sống cộng cư trên cùng một vùng đất nên sự

giao thoa văn hóa, tín ngưỡng – tôn giáo giữa các tộc người và trong cùng một

dân tộc có nguồn gốc từ Bắc Bộ, Trung Bộ.

Với các đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội cũng như lịch sử, sự đa dạng

về tôn giáo và các tổ chức tôn giáo, Châu Đốc nói riêng có những khó khăn

33

nhất định trong công tác quản lý tôn giáo:

- Thứ nhất là việc giúp các tổ chức tôn giáo khác nhau có thể có chung

một mục tiêu cùng chung sống hài hòa, cùng phát triển kinh tế và an ninh xã

hội.

- Thứ hai là đảm bảo sự công bằng đối với tất cả các tôn giáo và các giáo

dân sinh sống trên địa bàn để giảm thiểu các mâu thuẫn không đáng có.

- Thứ ba là định hướng được các tôn giáo tín ngưỡng khác nhau theo

cùng một mục đích ổn định an ninh, xã hội và phân biệt được rõ ràng ranh giới

giữa các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo chính đúng đắn và các hoạt động lợi

dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết.

Chính quyền để quản lý một cách có hiệu quả cần tạo dựng được niềm tin của

mọi tổ chức tôn giáo trên địa bàn để từ đó kêu gọi sự hợp tác giữa các tín

ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

2.2. Tình hình, đặc điểm tôn giáo ở thành phố Châu Đốc

2.2.1. Tình hình tôn giáo ở thành phố Châu Đốc

An Giang có khá nhiều tôn giáo du nhập: đạo Phật, đạo Hồi, Công giáo,

đạo Tin Lành và một số tôn giáo bản địa: đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương,

đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo.

Trên địa bàn thành phố Châu Đốc có 07 tôn giáo có tư cách pháp nhân

hoạt động: Phật giáo Việt Nam; Phật giáo Hòa Hảo; Công giáo; Tin Lành; Cao

Đài; Tịnh Độ Cư sĩ; Tứ Ân Hiếu nghĩa

Bảng 2.1. Bảng thống kê các tôn giáo có tư cách pháp nhân trên địa bàn

thành phố Châu Đốc hiện nay

STT Tôn giáo Tín đồ (người)

Phật giáo 1 81.382

Hòa Hảo 2 20.745

34

3 Cao Đài hệ phái Tây Ninh 5.551

4 Tin Lành 193

5 Thiên Chúa 3.996

6 Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam 167

7 Tứ Ân Hiếu nghĩa 364

Tổng số 112.398

- Nguồn: “Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương 7 (khóa

IX) về “công tác tôn giáo” trong tình hình mới” thành phố Châu Đốc

Tổng số tín đồ có: 112.398 tín đồ và người có đạo, trong đó Phật giáo

Việt Nam 81.382 tín đồ, Hòa Hảo có 20.745, Cao Đài hệ phái Tây Ninh có

5.551, Tin Lành có 193, Thiên Chúa có 3.996, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

167 tín đồ, Tứ Ân Hiếu nghĩa có 211 tín đồ.

Dưới đây là biểu thể hiện sự tương quan về số lượng tín đồ giữa các tôn

giáo hiện đang hoạt động trên địa bàn thành phố Châu Đốc

Hình 2.1. Thống kê số lượng tín đồ

Số lượng tín đồ Phật giáo chiếm tỷ lệ rất cao (72.5%); tiếp đến là số

lượng tín đồ Hòa Hảo chiếm 18.5%; tín đồ Cao Đài hệ phái Tây Ninh chiếm

35

4.9%; tín đồ Thiên Chúa chiếm 3.6%; và tiếp đến tín đồ các đạo khác như Tin

Lành chiếm 0.2%; Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam chiếm 0.1%; Tứ Ân Hiếu

nghĩa chiếm 0.2%.

Tổng số chức sắc chức việc trên địa bàn thành phố có 142 trong đó Phật

giáo có 129 vị chức sắc (01 Hòa Thượng, 03 Thượng Tọa, 11 đại đức, 01 Ni

sư, 04 Sư cô; Cao Đài 01 Lễ sanh, 01 Giáo hữu, 01 Ban Cai Quản gồm 11 vị

chức việc; Thiên Chúa 04 Linh Mục, 07 nữ tu (Dì phước), 02 Hội đồng Mục

vụ 11 vi chức việc; Tin Lành: 1 mục sư quản nhiệm và Ban chấp sự gồm 11

thành viên; Tịnh Độ cư sĩ có 01 Ban Y tế phước thiện 11 vị chức việc.

Có 166 cơ sở thờ tự trong đó Phật Giáo 154 cơ sở 74 cơ sở được nhà

nước công nhận, 01 trường Trung cấp Phật học, Hòa Hảo 05 cơ sở, Cao Đài 02

cơ sở, Tin Lành 01 cơ sở, Thiên Chúa 02 cơ sở, Tịnh độ cư sĩ 01 cơ sở - các cơ

sở được xây dựng trước 30/04/1975.

Bảng 2.2. Thống kê theo cơ sở thờ tự và chức sắc

theo từng tổ chức tôn giáo.

STT Tôn giáo Cơ sở thờ tự Chức việc Chức sắc

240 1 Phật giáo 07 74 cơ sở được công nhận

2 Hòa Hảo 05 35

3 Cao Đài hệ phái Tây Ninh 02 19 02

4 Tin Lành 01 11 01

5 Thiên Chúa 02 29 03

01 09 01 6 Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

0 0 7 Tứ Ân Hiếu nghĩa 0 ( thờ tự tại gia)

Nguồn: “Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương 7

(khóa IX) về “công tác tôn giáo” trong tình hình mới” thành phố Châu Đốc

36

Cụ thể, số lượng chức sắc, chức việc:

- Phật giáo: 240 chức sắc; Thành lập 01 Ban đại diện Phật giáo thành phố

với 07 thành viên.

- Công giáo: có 03 Linh Mục, 07 Dì phước, 01 ca Đoàn. Có 02 Ban Mục

vụ gồm 29 vị chức việc.

- Tin Lành: 01 Mục sư, 01 Ban Chấp sự 11 vị.

- Cao Đài: 02 Lễ sanh, 01 Ban Cai Quản; 19 vị chức việc

- Phật giáo Hoà Hảo: có 5 Ban Trị sự Giáo hội PGHH/7 xã phường, có

35 vị chức việc

- Tĩnh độ cư sĩ Phật hội: 01 Ban trị sự với 09 chức việc.

2.2.2. Một số đặc điểm của từng tôn giáo ở thành phố Châu Đốc

1. Phật giáo Việt Nam

Phật giáo ở An Giang khá đa dạng, gồm 2 tông phái lớn: Phật giáo Nam

Tông của người Khmer xuất hiện rất sớm. Phật giáo Bắc Tông du nhập vào An

Giang từ thế kỷ thứ XVIII theo đoàn di dân ở miền ngoài (Ngũ Quảng) đến

định cư đất mới, đây là tông chủ yếu của đạo Phật ở An Giang.

Năm 1847, Tổng giám đốc Doãn Uẩn lập chùa Tây An ở Núi Sam.

Chánh sứ Nguyễn Tri Phương cử Tiên Giác Hải Tịnh thuộc phái Thiền Tông

dòng Lâm Tế trông coi việc đạo, đồng thời ổn định tình hình dân chúng ở vùng

đất mới sát biên giới Campuchia. Khi Tiên Giác Hải Tịnh viên tịch, các thế hệ

đệ tử của dòng Lâm Tế tiếp tục truyền bá đạo Phật tại An Giang: Hòa thượng

Hoằng Ân Minh Khiêm, Hòa thượng Như Mật Bửu Thọ, Hòa thượng Thích

Chí Thiền... Vì vậy, có thể nói dòng Lâm Tế là dòng phái chủ đạo của Phật

giáo An Giang. Trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Bộ, một số tổ

chức Phật giáo cũng lan rộng đến An Giang:

- Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1931): Vận động thành lập hội có Hòa

thượng Thích Chí Thiền; người đại diện cho hội này ở An Giang là Hòa thượng

37

Viên Minh, trụ trì chùa Hưng Thạnh (xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên).

- Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam (1934), theo Tịnh độ tông, chủ quán

Phật cầu sanh, cư sĩ tại gia.

- Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1952 do ông Đặng Văn Lý, Phạm

Ngọc Đa và bà Nguyễn Thị Hải "cùng đông đảo quý vị đạo tràng thập phương.

Bồ Đề Đạo Tràng tuy là hội của các Phật tử để tự tu, tự giác và tự chứng, nhưng

ở An Giang, Bồ Đề Đạo Tràng được xây dựng thành một ngôi chùa tôn nghiêm

ở Châu Đốc, nơi có đông người đến lễ bái.

Từ sau năm 1954, chùa số ở Nam Bộ tăng trưởng nhanh An Giang cũng

vậy, tính đến năm 1963, An Giang có 313 chùa.

Năm 1964, sau cao trào đấu tranh chống chính quyền độc tài Ngô Đình

Diệm, Giáo hội "Phật giáo Việt Nam thống nhất" được thành lập, quy tu hầu

hết các tông môn, hệ phái Phật giáo ở miền Nam vào Giáo hội. Lúc này, ở An

Giang thành lập 2 ban đại diện: Ban đại diện Long Xuyên đặt tại chùa Quảng

Đức do Thích Giác Phước làm Trưởng ban và Ban đại diện ở Châu Đốc do Hòa

thượng Chơn Như làm Trưởng ban, sau đó là Hòa thượng Thích Chí Đạt.

Sau khi thống nhất đất nước, nhằm đáp ứng nguyện vọng của đoàn kết,

nhất là Phật giáo của đông đảo tăng ni phật tử, năm 1981, “Hội Phật giáo Việt

Nam” được thành lập trên các tổ chức Phật giáo cơ bản Giáo dục trong cả nước.

Đây là Hội Phật giáo duy nhất được Nhà nước công nhận, là tổ chức đại diện

chính thức cho Phật giáo Việt Nam.

Năm 1993, Ban trị sự Phật giáo An Giang được thành lập có trách nhiệm

điều hành, hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương của Hội

Phật giáo Việt Nam và pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công việc

phật sự ở An Giang đúng chức năng và nhiệm vụ của Giáo hội quy định. Hiện

nay, có 11 Ban đại diện của các huyện, thị, thành.

Tại Châu Đốc, Phật giáo Bắc Tông là chủ yếu, ngoài ra còn có Phật giáo

Khất Sĩ Việt Nam hệ thống này thể hiện sự kết hợp giữa Bắc Tông và Nam

38

Tông.

Với chính sách tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo

của Nhà nước, đồng bào Phật giáo vẫn duy trì các hoạt động tôn giáo bình

thường. Trong nhà, tín đồ phật tử có bàn thờ Phật, hằng tháng phật tử ăn chay

và đi lễ Phật vào các ngày, 30 (âl). Các ngày lễ lớn trong năm như lễ Phật Đản

(15/4 ÂL), lễ Vu Lan (15/7 ÂL) về Tết Nguyên đán, tín đồ lễ Phật đông hơn. Họ

cầu mong cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn trúng mùa và tưởng nhớ

công ơn cha mẹ. Các chùa còn lại tổ chức cầu siêu, cầu an, giới hạn sao cho người

dân. Hoạt động tôn giáo trong những năm qua chấp hành tốt chủ trương chính sách

của Đảng và pháp luật của nhà nước, tham gia tích cực vào công tác xã hội từ thiện,

xóa đói giảm nghèo, các chính sách an sinh xã hội.

Toàn thành phố có 154 cơ sở thờ tự (trong đó có 74 cơ sở được công nhận,

trong đó có 01 được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia, 01 được công nhận di

tích lịch sử cấp tỉnh), có 81.382 tín đồ theo đạo phật, 240 vị chức sắc (trong đó 02

vị Hòa thượng, 03 Thượng tọa, 11 Đại đức, 01 Ni sư, 04 Ni cô).

Thành lập 01 Ban đại diện Phật giáo thị xã (nay là Ban trị sự Phật Giáo

Việt Nam thành phố) với 11 thành viên. Các hoạt động phật giáo trong thời

gian qua luôn chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và Nhà nước, tổ chức ngày

lễ, giỗ đúng theo chương trình đạo sự đã đăng ký hàng năm. Riêng sự kiện của

Thích Chơn Tâm có biểu hiện hoạt động trái pháp luật đã bị phát hiện kịp thời, lập

biên bản, không cho tái phạm và trục xuất ra khỏi địa phương.

Trong thời gian qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh An Giang đã mở

một lớp (đang khóa IV) trung cấp phật học tại chùa Viên Quang - phường Châu

Phú A, trên địa bàn thành phố có 146 (phật tử,) tăng ni tham dự khóa học, trong

đó có 40 tăng sinh thuộc các chùa trên địa bàn thành phố Châu Đốc. Tổ chức

một lớp an cư kiết hạ có 204 tăng, ni, phật tử tham gia học

Xu hướng chung của các chức sắc, chức việc hiện nay là không ngừng

nâng cao trình độ Phật học, tăng cường thuyết giảng giáo lý cho tín đồ; không

39

ngừng trùng tu tôn tạo cơ sở thờ tự (Ngôi Tam bảo) ngày càng khang trang hơn,

thường xuyên tổ chức những chuyến hành hương thông qua việc cứu trợ những

nơi thuộc vùng sâu, vùng xa để thu hút và lôi kéo phật tử.

2. Phật giáo Hòa Hảo

Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo ra đời ở tại Phú Tân - An Giang vào

năm 1939 do Đức Huỳnh Giáo chủ khai sáng đạo; có số lượng tín đồ tương đối

lớn và là một trong những tôn giáo nội sinh Nam bộ đã có tổ chức hoạt động

hợp pháp.

Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo nội sinh, chủ trương quy nguyên Phật

pháp, canh tân giáo điều phù hợp với căn cơ quần chúng Nam Bộ lúc bấy giờ.

Danh xưng của đạo được hình thành do vị giáo chủ sinh trưởng tại làng Hòa

Hảo, khai đạo tại làng Hòa Hảo và thường ký biệt danh Hòa Hảo; về phương

diện giáo lý, ông Huỳnh Phú Sổ chủ trương “Nối theo chí Thích ca ngày trước",

do đó nền tôn giáo của ông sáng lập mới mang tên gọi Phật giáo Hòa Hảo. Hơn

nữa, nội hàm của khái niệm Hòa Hảo còn tiêu biểu cho sự đoàn kết tinh thần

nhân loại trên nền tảng hòa hảo, bác ái, đại đồng như nhiều lần ông đã bày tỏ

trong sầm giảng, thi văn giáo lý của mình.

Kể từ đây, làng Hòa Hảo trở thành nơi khai đạo, nơi phát sinh một tôn

giáo mới với các giai đoạn phát triển, từ năm 1999 – đây là giai đoạn Phật giáo

Hòa Hảo có bước phát triển mới về chất, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được

Đảng và Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, có tổ chức bộ máy mới được

hình thành là Ban đại diện (nay là Ban Trị sự Trung ương) tại An Hòa Tự và

các đại diện (nay là Ban Trị sự tại các xã, phường, thị trấn) tại các cơ sở. Giáo

lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện trong 6 quyển sấm giảng, nội dung chủ yếu

được thể hiện, trước hết, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo chỉ có một dạng đó là tu tại

gia, pháp môn “Học Phật – Tu nhân”, thông qua tư tưởng Sấm giảng, giáo lý

Phật giáo Hòa Hảo, người ta thấy một sự kết hợp khá nhuần nhuyễn tư tưởng

40

Phật – Nho – Lão. Do tu tại gia, thờ cúng tại nhà” nên ở đạo Phật giáo hòa hảo,

cơ sở thờ tự công cộng không nhiều. Nơi thờ tự chung của Phật giáo hòa hảo

chủ yếu ở hai địa điểm An Hòa Tự và Tổ Đòng Giáo chủ Phật giáo Hòa hảo.

Năm 1997, Phật giáo Hòa Hảo tại Châu Đốc được hoạt động với 03 Ban

trị sự: xã Vĩnh Ngươn (nay là phường Vĩnh Nguơn), Châu Phú B, Vĩnh Mỹ;

Đến nay 2002 trên cơ sở tách phường Vĩnh Mỹ thêm xã Vĩnh Châu, để đáp ứng

nhu cầu tín ngưỡng được thành lập Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo xã Vĩnh Châu

và đến 2013 thành lập thêm Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo phường Châu Phú A,

đến nay có 05 Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.

- Thực trạng tín đồ đạo Phật giáo Hòa Hảo thành phố có 20.745 tín đồ

được phân bổ đều khắp trên 7 đơn vị hành chính cơ sở, có 5 Ban Trị sự Giáo

hội Phật giáo Hòa Hảo (mỗi Ban trị sự có từ 3 đến 9 vị), 5 Ban công tác từ thiện

xã hội (mỗi Ban có từ 15 đến 20 vị) đại bộ phận tín đồ là nông dân trình độ văn

hóa thấp, đời sống tương đối ổn định có 01 bộ phận còn nhiều khó khăn.

- Thực trạng hoạt động của (bà con) tín đồ đạo Phật Giáo Hòa Hảo, bà

con an tâm lao động sản xuất, chấp hành tốt chủ trương chính sách của đảng và

pháp luật của nhà nước; hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, dưới sự hướng

dẫn của các Ban Trị sự Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo cơ sở hoạt động đúng theo

Hiến chương và tôn chỉ mục đích hành đạo, hướng thiện theo 08 điều răng dạy

của Đức Huỳnh Giáo chủ, hành đạo đúng theo giáo lý, giáo luật và tôn chỉ mục

đích hành đạo, trong những năm qua đã đóng góp hằng năm hàng trăm triệu

đồng cho việc xây dựng nhà Đại đoàn kết, nhà tình nghĩa, cất cầu treo, bê tông

hóa các con hẻm, cứu trợ thiên tai hỏa hoạn...

Việc tham gia các ngày lễ trọng của tôn giáo như: 18/5 âm lịch, 25/11

âm lịch và những buổi thuyết giảng giáo lý ngoài cơ sở thờ tự bà con tín đồ địa

phương tham dự đông (nội dung chương trình, địa điểm thời gian đúng theo

hướng dẫn của BTS Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo) không còn tình

41

trạng kéo nhau về An Hòa Tự dự lễ như trước đây.

- Thực trạng tình hình về tổ chức và đội ngũ chức việc của Phật giáo Hòa

Hảo:

Trong toàn thành phố có 5 Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo /7 xã

phường, có 35 vị chức việc được cơ cấu 05 Trưởng ban, 05 Phó Trưởng ban và

các trị sự viên, trụ sở được đặt tại nhà của đồng đạo.

Các Ban Trị sự ở địa phương hoạt động tích cực được bà con tín đồ trong

đạo tín nhiệm, nhất là trong lĩnh vực công tác từ thiện xã hội góp phần tích cực

vào chương trình xóa đói giảm nghèo ở địa phương; chấp hành tốt chủ trương

chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.

Tuy nhiên do hạn chế trình độ học vấn của các trị sự viên nên ảnh hưởng

đến việc tiếp thu và triển khai và tổ chức thực hiện chương trình đạo sự.

Trong 35 vị chức việc của các Ban trị sự đại bộ phận trình độ văn hóa

thấp, nhưng có uy tín trong tín đồ và được sự tín nhiệm của tín đồ cùng với sự

hướng dẫn của các ngành chức năng của chính quyền địa phương nên đã tạo

điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa chính quyền và các chức sắc chức

việc ngày càng gắn bó hơn, các công việc của địa phương có liên quan tới dân

đều có mời Ban Trị sự đến tham dự và tham gia ý kiến từ đó việc triển khai chủ

trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước cho Ban Trị sự cũng

như tín đồ được thuận lợi hơn.

- Thực trạng tình hình về cơ sở (thờ tự) có liên quan đến Phật giáo Hòa Hảo:

Toàn thành phố có 05 Ban Trị sự, có 05 trụ sở (mượn nhà của đồng đạo

phân bố trên 5 xã/phường). Các nơi đặt trụ sở là nhà cấp 4 được trang hoàng

trang nghiêm đúng nghi thức tôn giáo, bảo đảm thuận tiện cho tín đồ có nhu

cầu đến cầu nguyện.

- Công tác (phật) đạo sự từng bước đi vào nề nếp, mục đích hành đạo

hướng thiện tập trung các công việc từ thiện xã hội như: Xây dựng cầu treo, cất

nhà Đại đoàn kết, cứu trợ những gia đình gặp thiên tai hoạn nạn, ma chay và

42

nhà cháo hoạt động thường xuyên tại bệnh viện Đa khoa khu vưc Châu Đốc từ

năm 1997 cho đến nay đã góp phần tích cực vào chương trình xóa đói giảm

nghèo của thành phố.

- Việc tuyên truyền đạo giáo dục tín đồ tuyên truyền chủ trương chính

sách pháp luật của Nhà nước thông qua các buổi thuyết giảng giáo lý ngoài cơ

sở thờ tự tại địa phương từ năm 2010 đến nay đã tiến hành hơn 30 cuộc có hơn

6.000 lượt tín đồ tham dự.

- Mối quan hệ: Mối quan hệ giữa đảng và chính quyền ngày càng gắn bó

thông qua việc giải quyết kịp thời các nhu cầu chính đáng trong hoạt động Tôn

giáo cũng như thông qua việc thực hiện chính sách về tôn giáo ở địa phương

như: thăm hỏi thường xuyên các vị chức việc, thăm hỏi những gia đình có công

có đạo nhân những ngày lễ trọng, dịp lễ, tết hằng năm.

3. Cao đài (hệ phái Cao Đài Tây Ninh):

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, ở Nam Bộ xuất hiện một tôn giáo

mới với tên gọi là “Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ” gọi tắt là “Cao Đài”.

Đạo “Cao Đài” ra đời năm 1926 tại Gò kén, Tây Ninh, mới ra đời. Cao

Đài là tôn giáo có tổ chức thống nhất với Tòa Thánh đạt tại Trung tâm tỉnh Tây

Ninh. Qua trình phát triển của đạo Cao Đài là quá trình phân liệt thành nhiều

hệ phái. Đến năm 1954, Cao Đài có ít nhất 12 hệ phái với gần một triệu tín đồ.

Khoảng thời gian từ năm 1927 đến năm 1928, một số người An Giang sau khi

nhập đạo tại Tây Ninh đã trở về truyền đạo, ở Châu Đốc có ông Thái Công

Gấm, đến khoảng năm 1930, Long Xuyên – Châu Đốc có khoảng 200 tín đồ

trong đó có một số công chức, đa số còn lại là nông dân; Sau thời gian đó có

nhiều Thánh thất được xây thêm trong đó có ở Châu Đốc.

Theo Hiến chương đạo năm 1997 và quyết định số 10 của Ban Tôn giáo

Chính phủ ngày 09 tháng 5 năm 1997, cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài được

chia là 02 cấp: cấp trung ương (gọi là Hội thánh hoặc Thương hội hoặc Hội

đồng Lưỡng Đài) và cấp cơ sở (gọi là Họ đạo). Giáo lý cơ bản của tín đồ Cao

Đài là “Thánh nông, Nghi lễ, giáo lý Tân luật, Pháp chánh truyền, Hiến

43

chương” (Cao đài, Đại đạo, Tam kỳ, Phổ độ) và “Tam giáo ngũ chi”, kinh sách

soạn theo văn vần gồm các kinh thờ cúng, kinh Thiên đạo và Thế đạo. Tín đồ

đọc kinh tại nhà và tại điện thờ theo điệu nam ai và nam xuân, đã ngũ cung

Ở Châu Đốc, hiện nay có 01 Họ đạo, 01 Ban Cai quản Họ đạo, có 02 cơ

sở thờ tự (01 Điện thờ Phật Mẫu, 01 Thánh thất ) do Ban Cai quản Họ đạo trông

coi. Ban cai quản gồm 19 thành viên, trong đó 01 cai quản, 02 phó cai quản, 01

thư ký, 01 thủ quỹ và còn lại là các chức việc trực thuộc giúp việc. Đạo Cao

Đài sinh hoạt tại Thành phố Châu Đốc hoạt động theo Họ Tháng Cao đài Tòa

Thánh Tây Ninh – với tên gọi Họ đạo phường Châu Phú A Cao Đài, có 02 chức

sắc (Lễ sanh), 01 thư ký, 59 vị chức việc quản lý Ban Tứ vụ (lễ vụ, Hộ vụ,

Lương vụ, công vụ) và 06 tổ lễ nghi (ở các phường xã: Châu Phú A, Châu Phú

B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Châu);

Hiện tại, tín đồ đạo Cao Đài trên địa bàn Châu Đốc có 5.551 chiếm tỷ lệ

4,62% dân số, đa số là nông dân, sinh sống xen kẽ trong cộng đồng dân cư,

thường tập trung xung quanh Thánh thất và điện thờ Phật Mẫu. Tín đồ đạo Cao

đài tập trung chủ yếu ở phường Châu Phú A, Châu Phú B và rãi rác một số

phường xã còn lại. Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài yên tâm tu hành

thuần túy tôn giáo. Tập trung xây dựng tổ chức giáo hội, củng cố các Ban Cai

quản, hoạt động đạo sự, thực hiện phong chức, phong phẩm theo quy định của

giáo luật, quy định pháp luật Nhà nước. Đến nay Cao Đài Châu Phú A cơ bản

có chức sắc để hành đạo. Về công tác hướng dẫn hoạt động đào tạo của Cao

Đài: hướng dẫn cho các phái Cao Đài xây dựng tài liệu và làm các thủ tục để

mở các lớp hạnh đường ngắn ngày để đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hành chánh

đạo cho chức việc. Đã mở 03 lớp đào tạo nhạc, lễ, đồng nhi; Các lễ hội như lễ

Vía Đức Chí Tôn, lễ Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn,… Tổ chức Đại

hội Nhơn sanh cơ sở được tổ chức đầy đủ, trang trọng thu hút được đông đảo

chức sắc, tín đồ tham gia. Trong 5 năm gần đây, Ban cai quản đã tổ chức 03 lần

trùng tu, sửa chữa. Hiện nay, Điện thờ Phật mẫu – họ đạo Cao Đài phường

Châu Phú A đang thi công đạt trên 85% công trình. Thường xuyên duy trì các

hoạt động sinh hoạt bình thường và giáo dục các chức sắc, chức việc, bà con

44

tín đồ tham gia tốt các hoạt động xã hội từ thiện do Mặt trận và các đoàn thể

phát động. Xu hướng hoạt động tăng cường củng cố tổ chức, chỉnh trang cơ sở

thờ tự, lôi kéo tín đồ.

4. Tin Lành

Đạo Tin lành truyền bá và phát triển ở An Giang từ những năm đầu thế

ký XX. Năm 1918, có 5 Hội thánh Tin lành ở các tính phía Đông Nam bộ. Năm

1919 đến Long Xuyên truyền đạo và phát triển 30 tín hữu phần đông tín hữu là

những người buôn báo, làm ruộng.

Sau năm 1920, các mục sư, các nhà truyền đạo ở Hội thánh Tin Lành

Long Xuyên tới vùng Châu Đốc truyền đạo, cũng trong thời gian này có một

số tín hữu từ Long Xuyên chuyển lên Châu Đốc buôn bán và ở lại. Lúc đầu

những tín hữu này hợp lại xây dựng nhà thờ bằng cây làm nơi cầu nguyện. Đến

năm 1938, Hội thánh Tin Lành Châu Đốc được thành lập bởi Mục sư Lê Văn

Ngọ, với 40 tín hữu. Sau năm 1975, Hội thánh Tin Lành Châu Đốc có hơn 100

tín hữu và nhận thêm 30 – 40 tín hữu ở Chi Lăng (huyện Tịnh Biên) về đây.

Tháng 11 năm 1951, các tín hữu đã hiệp y mua được nhà, sửa tư thất, làm mặt

gió và dựng hàng rào. Năm 1969, Nhà thờ Châu Đốc được xây dựng bằng vật

liệu nặng, cho đến ngày nay... trải qua nhiều giai đoạn, sinh hoạt Hội thánh Tin

Lành Châu Đốc có phát triển. Điều hành sinh hoạt là Ban chấp sự và mục sư

quản nhiệm phụ trách.

Hiện nay, Châu Đốc có 01 Chi hội (Thánh) Tin lành, 01 nhà thờ có 273

tín đồ (Châu Đốc 193, số còn lại ở huyện Tịnh Biên (tập trung Chi Lăng) và

huyện Châu Phú), 01 Mục sư, 01 Ban Chấp sự 11 vị. Đã thành lập: Ban thanh

thiếu nhi có khoảng 25 đến 30 em tham gia; Ban cơ đốc giáo dục mở các lớp

học, cử chấp sự tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng và chứng đạo;

Hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường đúng theo chương trình đăng ký

hàng năm như chương trình Thánh kinh hè, dạy đạo cho các em thiếu nhi, phối

kết hợp tổ chức, tham gia các lớp bồi linh,… Nhà thờ Tin Lành hàng năm tổ

45

chức lễ Giáng sinh đúng theo chương trình đã đăng ký,

Chức sắc cũng như tín đồ chấp hành tốt chủ trương chính sách của Đảng

và pháp luật của nhà nước. Đẩy mạnh tham gia công tác xã hội từ thiện của địa

phương như ủng hộ vui xuân, làm cầu đường,

Xu hướng chung tăng cường phát triển tín đồ tập trung vào khu vực nông

thôn, vận động mở rộng xây dựng Nhà thờ.

5. Công giáo

Công giáo du nhập vào An Giang từng những năm cuối thế kỷ XVIII;

Đến năm 1871, chính thức thành lập Họ Đạo Châu Đốc, họ đạo thứ ba ở An

Giang. Toàn thành phố có 02 nhà thờ (Nhà thờ họ đạo Châu Đốc, nhà thờ họ

đạo Núi Sam), có 3.696 tín đồ chia làm 05 Khu đạo tập trung phường Châu Phú

B; có 03 Linh Mục, 07 Dì phước, 01 ca Đoàn. Có 02 Ban Mục vụ gồm 29 vị

chức việc (sắc).

Hoạt động tôn giáo diễn ra đúng theo Thông báo danh mục hoạt động

tôn giáo hàng năm (chương trình Đăng ký hàng năm). Đạo Công giáo Châu

Đốc hoạt động theo hướng thích nghi, nhưng có phần phô trương hình thức

nhưng thân thiện với chính quyền địa phương. Trong thời gian qua các hoạt

động chưa xảy ra vấn đề vi phạm pháp luật.

Xu hướng chung không ngừng chỉnh trang nơi thờ tự, tăng cường quan

hệ mật thiết với chính quyền và tôn giáo bạn; không ngừng cũng cố đức tin của

tín đồ đối với Đạo và thiên chúa, cũng cố hệ thống tổ chức của mình, tạo ra

những sự kiện như: Đức mẹ hiển linh trị hết bệnh cho người bị tai biến... Tăng

cường mối quan hệ giữa các nhà thờ trong khu vực, tổ chức nhiều chuyến hành

hương giao lưu để hướng tới mục tiêu xây dựng Châu Đốc là Trung tâm hành

hương.

Việc xây dựng mới bệ đặt tượng và di chuyển tượng Đức Mẹ Maria,

Medjugorjo sai phép được các ngành chức năng lập biên bản ngưng thi công

để chỉnh sửa lại giấy phép đúng qui định. Thời gian qua, nhà thờ họ đạo Châu

46

Đốc đã xin khu đất thuộc trạm y tế cũ của phường Châu Phú B để xây dựng

nhà sinh hoạt của Họ đạo đã được thành phố chấp thuận và đến nay nhà được

xây dựng hoàn chỉnh.

6. Tịnh Độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên

nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động

với phương châm hành đạo là "Tu học-hành thiện-ích nước-lợi dân"

Tư tưởng Tịnh độ đã xuất hiện từ sau thế kỷ XVII đến nay, được thực

hành trong các ngôi chùa Phật giáo thuộc hệ phái Bắc tông. Người sáng lập ra

Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là ông Nguyễn Văn Bồng (1886-1958). Pháp

môn Tịnh độ được ông chọn làm phương pháp tu hành vì nó dễ áp dụng đối với

mọi người. Cư sĩ là người tu tại gia, không bắt buộc từ bỏ gia đình, xuống tóc.

Tuy nhiên trong Hội vẫn có tu sĩ xuất gia, như trường hợp ở Hưng Đức Tự (tỉnh

Bình Dương). Năm 1934, ông chính thức thành lập Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội Việt

Nam, là một tổ chức hội gồm những người cư sĩ thực hành pháp môn Tịnh độ.

Năm 1935, ông Nguyễn Văn Bồng được toàn thể tín đồ suy tôn là Đức Tông

Sư Minh Trí - Giáo chủ của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội. Đến năm 1950, nhằm

nâng cao trình độ của hội viên, tín đồ, Đức Tông sư Minh Trí chính thức lấy

tôn chỉ hành đạo là “Phước Huệ song tu”, lấy pháp môn niệm Phật làm căn bản,

dùng y đạo làm phương tiện phát triển hội quán”. Các hội quán được đặt tên

thống nhất chữ đầu là Hưng chữ cuối là Tự, ở giữa thay đổi tên riêng, là địa

danh của vùng. Năm 2007, Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội được công nhận tư cách

pháp nhân, chính thức trở thành một tôn giáo, có Giáo hội Tịnh Độ Cư sĩ Phật

Hội Việt Nam. Đến năm 2009, Giáo hội tổ chức Đại hội lần I.

Tịnh độ cư sĩ Phật hội tại Châu Đốc có 01 cơ sở thờ tự (Hưng Châu Tự),

01 phòng hốt thuốc nam, 01 Ban Y tế Phước thiện (đã đổi tên) hoạt động theo

nhiệm kỳ Đại hội 5 năm và đã trãi qua 3 lần đại hội, hoạt động dần dần đi vào

nề nếp và ổn định. Các chức sắc, chức việc và tín đồ thực hiện đúng Hiến

47

chương của Giáo hội, chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Trong điều

hành hoạt động, Ban Trị sự được sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ của Giáo hội,

Tỉnh Hội và chính quyền địa phương và thực hiện tốt các hoạt động đề ra.

Hiện nay, Ban Trị sự Chi hội Hưng Châu Tự - Châu Đốc có 09 thành

viên, gồm Trưởng Ban, Phó Ban, Thư ký, Phó Thư ký, Phó Thủ bổn, 02 kiểm

soát, 02 cố vấn; Tổng số hội viên 132 vị, tăng 42 tín đồ so với khi được công

nhận.

Hoạt động và thờ cúng đúng theo nghi thức tôn giáo Phật giáo theo

chương trình đăng ký hàng năm. Ban Y tế Phước Thiện nhiệm vụ chủ yếu làm

từ thiện thông qua việc sưu tầm dược liệu và hốt thuốc nam trị bệnh miễn phí,

ngoài ra còn hỗ trợ cho các chi hội khác ngoài thành phố, hằng năm hốt thuốc

trị bệnh trị giá hàng trăm triệu đồng. Thường xuyên nâng cao tay nghề khám

chữa bệnh của các lương y tại phòng khám. Thường xuyên nhắc nhở các hội

viên và tín đồ nghiên cứu giáo lý căn bản hiểu sâu hơn về đường lối “Phước

Huệ song tu”, cử các trị sự viên tham gia các lớp giáo lý, duy trì thường xuyên

tổ chức họp sóc vọng trong đó phối hợp triển khai các văn bản của Ban trị sự

Tỉnh hội và các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước cho các tín đồ.

Được chính quyền quan tâm hỗ trợ cho việc đặt tượng Phật Bà Quan âm

lộ thiên trước sân chánh điện, lót gạch, làm nền; và hiện nay được cho phép của

Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng mới cơ sở thờ tự khang trang và hoành tráng

hơn (tiến độ khoảng 45% công trình). Tuy nhiên Tịnh độ cư sĩ gặp khó khăn về

nguồn tài chính, đội ngũ kế thừa, thiếu nhân sự tham gia Ban trị sự đề cùng

chăm lo cho Giáo hội, nguồn dược liệu khan hiếm,…

7. Tứ Ân Hiếu nghĩa

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tháng 5 năm 1867 tại Cù lao Ba (huyện

An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi sáng lập. Khi mới ra đời,

đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được ông Ngô Lợi gọi là đạo Thờ ông bà, sau này tín

48

đồ gọi đạo của mình là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Hình thức và cách thức tuyên

truyền, phát triển đạo thể hiện nội dung “Tu nhân - học Phật” qua các bộ kinh

hoặc chuyển thành các thể thơ dưới dạng Sấm vãn với lời lẽ bình dị, mộc mạc

dễ nhớ và dễ đi vào lòng người, rất phù hợp với trình độ và điều kiện hoàn cảnh

của nông dân lúc bấy giờ. Do đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhanh chóng được

người nông dân tiếp nhận.

Tôn chỉ hành đạo của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là "Hành Tứ ân - Sống hiếu

nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc". Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy đạo hiếu làm đầu,

không thừa nhận ly gia cắt ái, không đặt ra giới luật khắt khe và không có sự

phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc và tín đồ. Cũng giống như giáo lý

của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là Tu nhân - học Phật, nhưng đạo Tứ Ân Hiếu

Nghĩa đã phát triển ở nhiều khía cạnh và cụ thể hoá hơn.

Từ khi Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến trước

năm 1975, số lượng tín đồ phát triển rất đông, khoảng hơn 32 vạn người. Tín

đồ đạo Tứ ân Hiếu nghĩa vẫn tin tưởng vào “chân truyền” của giáo chủ Ngô

Lợi, nhưng họ không có chủ trương mở rộng và phát triển đạo của mình ra

ngoài phạm vị hiện có, ảnh hưởng của Tứ Ân Hiếu Nghĩa trên thực tế chỉ trong

phạm vi người Việt ở xã Ba Chúc (huyện Tri Tôn, An Giang) được xem là

trung tâm của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Theo số liệu của Ban Tôn giáo – Sở Nội

vụ An Giang, đến năm 2000 có 37 cơ sở thờ tự, 24 vị Trưởng gánh, 281 chức

việc với 36.086 tín đồ.

Tháng 8 năm 2006, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang chấp thuận

cho thành lập Ban vận động đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (Quyết định số 1480/QĐ-

UBND, ngày 03/8/2006) để chuẩn bị các thủ tục đề nghị công nhận tổ chức tôn

giáo theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định

22/2005/NĐ-CP. Tháng 5 năm 2010, Ban vận động đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã

tổ chức thành công đại hội đại biểu cấp toàn đạo. Sau đó, Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân tỉnh An Giang đã có Quyết định số 1114/QĐ-UBND, ngày 16/6/2010 về

49

việc công nhận tổ chức tôn giáo đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân tỉnh An Giang cũng đã có quyết định chấp thuận Hiến chương và

nhân sự Đạo hội đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Theo đó, cơ cấu tổ chức của đạo Tứ

Ân Hiếu Nghĩa có hai cấp là Đạo hội (cấp toàn đạo) và Gánh (cấp cơ sở).

Trên địa bàn Châu Đốc, theo thống kế, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa chỉ có 66

hộ với 211 nhân khẩu – với đặc thù là theo gia đình từ Tri Tôn đến Châu Đốc,

sinh hoạt thờ tự tại gia và những ngày lễ lớn của đạo thì về Tri Tôn. Nên cũng

không có cơ sở thờ tự riêng.

Thông qua các nội dung trên, có thể thấy các tôn giáo chính được công

nhận trên địa bàn đều có chiều dài lịch sử khá tương đồng ( du nhập vào thành

phố cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20) và đều có nhà lãnh đạo về tín ngưỡng, dẫn

dắt và tổ chức thực hiện các hoạt động một cách có hệ thống, có tôn chỉ và quy

tắc rõ ràng, mục tiêu và nguyên tắc đều gắn liền với sự phát triển và ổn định xã

hội, nhằm mục đích đem lại cuộc sống bình an , hạnh phúc cho các giáo dân và

xã hội. Đây là một đặc điểm chung và rất tích cực, giúp cho hoạt động quản lý

chính sách tôn giáo bớt đi một gánh nặng. Có thể thấy, việc các tổ chức tôn

giáo đều công khai đăng ký và công khai các nguyên tắc cũng như các hoạt

động là một điểm rất tích cực, góp phần giảm nhẹ và giúp dễ dàng phát hiện,

phân biệt các hoạt động lợi dụng tôn giáo vào các mục đích trái pháp luật.

2.3. Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố

Châu Đốc hiện nay

2.3.1. Hoạt động xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách tôn

giáo

Những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn coi tôn giáo là một trong những

lĩnh vực cần được quan tâm nhiều nhất, từ năm 2003 đến nay, Đảng và Nhà

nước đã ban hành rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tôn

giáo, trong đó, có một số văn bản quan trọng mang tính định hướng, chỉ đạo

việc triển khai thực hiện chính sách pháp luật về TNTG, như: Nghị quyết số

50

25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX)

về công tác tôn giáo; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định

chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh TNTG; Luật TNTG năm 2016; Nghị

định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật TNTG…

Để thực hiện triển khai các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước,

tỉnh An Giang nói chung, thành phố Châu Đốc đã lập kế hoạch tổ chức thực

hiện, đưa các chính sách tôn giáo vào đời sống xã hội. Tỉnh An Giang nói chung

và thành phố Châu Đốc nói riêng - là địa bàn có nhiều tôn giáo nên công tác

quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo luôn được lãnh đạo tỉnh, thành phố

và các ngành chức năng quan tâm chú trọng triển khai thực hiện. Ủy ban Nhân

dân tỉnh xây dựng Kế hoạch số 40 /KH-UB ngày 25/8/2003 của UBND tỉnh

thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy về công tác tôn giáo; Quyết định

số 43/2006/QĐ-UBND ngày 13/11/2006 của UBND tỉnh về thẩm quyền của

cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở địa

phương; Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND ngày 18/3/2013 của UBND tỉnh

quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt

động tín ngưỡng, tôn giáo…..

Cụ thể hơn, Kế hoạch số 196/KH-UBND tỉnh An Giang ban hành ngày

11 tháng 4 năm 2017 về việc triển khai thi hành luật tín ngưỡng, tôn giáo. Mục

đích của kế hoạch trước hết là trang bị kiến thức cho đội ngũ cán bộ các cấp

nhằm nâng cao nhận thức về các quy định pháp luật đối với việc thực hiện các

chính sách TNTG, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ để việc triển khai Luật TNTG

mang lại hiệu quả; tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan các cấp cũng như các

tổ chức tôn giáo, chính trị trong quá trình triển khai Luật TNTG. Kế hoạch tập

trung vào các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho các đối tượng sau:

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, huyện; chức sắc, chức việc đại diện các tổ chức tôn

giáo; cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện, xã; chức sắc, chức việc, nhà tu

51

hành của các tổ chức tôn giáo; tổ chức cho 30 cán bộ đi tiếp thu quán triệt Luật

tín ngưỡng tôn giáo và các văn bản hướng dẫn do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ

chức trong năm 2017.

Kế hoạch 16/KH-MTTQ-BTT ban hành ngày 30/9/2019 của UB MTTQ

Việt Nam tỉnh An Giang về việc “Giám sát việc triển khai tổ chức thực hiện

Luật tín ngưỡng tôn giáo và Nghị định 162/2017/NĐ – CP quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng tôn giáo” đối với UBND cấp

huyện và xã. Kế hoạch có mục đích xem xét và đánh giá kết quả thực hiện của

các tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo theo

quy định của pháp luật cấp xã, huyện. Bồi dưỡng thêm về kỹ năng, nghiệp vụ

cho cán bộ cấp huyện, xã và phát hiện các vướng mắc để kịp thời báo cáo lên

các cấp trên.

Giám sát việc thực hiện Luật TNTG…, giám sát sự phối hợp và vai trò

của Ban thường trực MTTQ cùng cấp trong quá trình giải quyết công việc; đồng

thời mỗi xã Đoàn giám sát tiếp cận các tổ chức tôn giáo trên địa bàn.

Kế hoạch số 776/KH – UBND ban hành ngày 07/12/2020 về việc triển

khai thực hiện Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo trên địa

bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2020 – 2021. Mục đích của kế hoạch là đẩy mạnh

thông tin, tuyên truyền và xây dựng nhận thức đúng đắn cho xã hội về dân tộc,

tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời phát hiện và đấu tranh chống lại các biểu hiện

lệch lạc, lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng để chia rẽ và gây mất trật tự xã hội.

Có thể nói, tỉnh An Giang nói chung và thành phố Châu Đốc nói riêng

đã kịp thời ban hành các quyết định và kế hoạch để định hướng cho việc tổ

chức thực hiện chính sách tôn giáo tại địa phương, lấy Luật TGTN năm 2016

cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác của Đảng và Nhà nước về chính

sách tôn giáo làm nền tảng để thực hiện các chính sách.

2.3.2. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách tôn giáo trên địa

52

bàn thành phố Châu Đốc

Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách là hoạt động không thể thiếu

để đưa chính sách nói chung và chính sách tôn giáo nói riêng vào đời sống. Đặc

biệt, với nét đặc thù và khách biệt, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách

đến các cấp chính quyền, đến người dân là vô cùng quan trọng.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền chính sách tôn

giáo, ngay sau khi Luật tín ngưỡng được ban hành năm 2016, tỉnh An Giang

nói chung và thành phố Châu Đốc nói riêng đã triển khai các hoạt động tuyên

truyền, phổ biến các kiến thức pháp luật về tôn giáo cho lãnh đạo, cán bộ làm

công tác thực hiện chính sách tôn giáo cũng như cho các chức sắc, chức việc

và người dân. Cụ thể, trong năm 2017, tỉnh An Giang đã tổ chức các lớp tập

huấn với các nội dung: triển khai Luật tín ngưỡng cho 250 người là các lãnh

đạo cấp tỉnh, huyện và các chức sắc đại diện cho các tổ chức tôn giáo; triển

khai các văn bản hướng dẫn luật tín ngưỡng cho 125 cán bộ cấp huyện, xã và

07 lớp cho 910 chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo. Ngoài

ra, tỉnh còn tổ chức cho 30 cán bộ đi tiếp thu quán triệt Luật tín ngưỡng tôn giáo

và các văn bản hướng dẫn do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức trong năm 2017,

cụ thể: 08 cán bộ các ngành tỉnh: VP.UBND tỉnh 01, Sở Tư pháp 01, Ban Tôn

giáo 03, UBMTTQVN 01, Công an 01, Ban Dân vận 01.

Riêng tại thành phố Châu Đốc, năm 2018 Ban Trị sự GHPGVN thành

phố Châu Đốc (đặt tại Chùa Viên Quang) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công

tác Phật sự năm 2018 và trình phương hướng hoạt động Phật sự năm 2019.

Một trong các mục tiêu được Ban Trị sự đề ra là “Tiếp tục thực hiện các chủ

trương của Trung ương GHPGVN, Nội quy Ban Tăng sự Trung ương, Luật Tín

ngưỡng tôn giáo”; đồng thời tiếp tục hưởng ứng các chủ trương của Đảng và

Nhà nước đề ra, thực hiện tinh thần ““Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”,

ích nước lợi dân; hướng dẫn Tăng Ni, tín đồ Phật tử chấp hành theo chính sách

53

Pháp luật Nhà nước góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Năm 2019, thành phố Châu Đốc cũng đã tổ chức 01 lớp phổ biến, giáo

dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Chăm, Hoa, Khmer theo Thực hiện Kế

hoạch phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2019 của Sở Tư pháp. Hoạt

động này được diễn ra hàng năm với mục tiêu nâng cao nhận thức và tuyên

truyền kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho đồng bào

dân tộc theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau trên địa bàn.

Năm 2019, Ban Tôn giáo đã tổ chức và phối hợp các địa phương, ngành,

UBMTTQ các cấp, đoàn thể chính trị tổ chức tuyên truyền, vận động đồng bào

các tôn giáo hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

nhà nước. Qua đó, tạo sự đồng thuận trong xã hội, đóng góp tích cực của đồng

bào các tôn giáo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng

- an ninh, góp phần xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và

nhà nước.

Năm 2020, tỉnh An Giang đã ban hành Kế hoạch số 776/KH-UBND về

việc triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn

giáo trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn năm 2020 - 2021.

Kế hoạch được tiến hành trong giai đoạn 2020 – 2021, với mục tiêu tuyên

truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về các chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước về Tôn giáo – tín ngưỡng, huy động sự tham gia không chỉ của

các cấp, ngành, đơn vị, tổ chức liên quan mà cả các phương tiện truyền thông,

kêu gọi các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia nghiên cứu đề xuất các sản

phẩm truyền thông, thông tin để quảng bá sâu rộng chính sách tôn giáo trên

toàn tỉnh.

Thành phố Châu Đốc trong suốt 10 năm qua đã thực hiện nhiều chính

sách để đẩy mạnh và tuyên truyền chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước

bằng các hoạt động cụ thể như: đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây

dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong cộng đồng các tín đồ tôn giáo, tín

54

ngưỡng, cũng như các chức sắc, chức việc hay các nhà tu hành ở cơ sở; hoạt

động xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; khuyến khích và phát huy tinh thần

yêu nước của đồng bào có đạo thông qua việc thường xuyên phổ biến các chính

sách về tôn giáo, thường xuyên thăm hỏi, tặng quà cho các cơ sở thờ tự, chức

sắc và các tín đồ tôn giáo trong các dịp lễ. Đặc biệt hàng năm, vào dịp Lễ Hội

vía Bà Chúa xứ Núi Sam, UBND phường Núi Sam luôn phối hợp với các đơn

vị chuyên môn tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân và các cơ sở thờ

tự để giảm tránh vấn nạn mê tín dị đoan.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố đóng vai trò kết nối và cùng với

các đơn vị, tổ chức liên quan trên địa bàn thực hiện tích cực các hoạt động tuyên

truyền về đường lối, chủ trương, chính sách, luật của Đảng và Nhà nước về tôn

giáo – tín ngưỡng.

Bên cạnh đó, Ban Dân vận Thành ủy đã lập 39 lực lượng chính trị nòng

cốt, với thành viên là những người có uy tín trong các cộng đồng đồng bào dân

tộc – tôn giáo để thực hiện Đề án 02 về chống “diễn biến hòa bình” từ phía các

thế lực thù địch. Lực lượng nòng cốt này thường xuyên nắm bắt thông tin dư

luận, phát giác các thông tin sai lệch nhằm mục đích chống phá, chia rẽ và

thông báo cho các đơn vị chức năng để kịp thời can thiệp.

Không ngừng thực hiện và duy trì các hoạt động thông tin, tuyên truyền

đến các cộng đồng tôn giáo để ngăn chặn các ý đồ lợi dụng tôn giáo – tín

ngưỡng của các thế lực thù địch nhằm mục đích chia rẽ khối đại đoàn kết, gây

bất ổn về an nình, xã hội.

Tuy nhiên, nhìn nhận lại việc tổ chức, triển khai, quán triệt các chủ

trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đôi lúc chưa rộng rãi và

sát với từng tôn giáo; nội dung tuyên truyền chỉ mang tính khái quát, chưa cụ

thể và chi tiết do lồng ghép nhiều nội dung trong một hội nghị, có lúc, có nơi

chưa đi vào chiều sâu, chưa có sự tham gia đầy đủ các chức sắc, chức việc, nhà

tu hành, các tín đồ tiêu biểu của các tôn giáo trên địa bàn dân cư; Việc nắm bắt

55

tình hình diễn biến tư tưởng và những vấn đề mà các tôn giáo đang quan tâm

trong việc thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 162 mà các tổ chức

tôn giáo tôn giáo đang đặt ra nhất là ở cơ sở còn chậm, chưa kịp thời.

2.3.3. Thực trạng hoạt động tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên

địa bàn thành phố Châu Đốc.

Hoạt động tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố

Châu Đốc có thể được tổng kết lại theo một số nội dung chính sau đây

Thứ nhất, công tác phối hợp quản lý nhà nước về tín ngưỡng- tôn giáo

Là một thành phố có tỷ lệ người dân theo đạo cao và đa dạng về các tôn

giáo khác nhau, Châu Đốc quan tâm đến hoạt động QLNN về tín ngưỡng tôn

giáo, thành phố chú trọng hoạt động phối hợp liên tịch giữa các ngành trong hệ

thống chính trị liên quan đến công tác tôn giáo thông qua cơ chế cải cách thủ

tục hành chính “01 cửa, 01 cửa liên thông” (thực hiện từ năm 2005) đã đáp ứng

nhu cầu hoạt động, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và tạo được sự đồng thuận

hơn từ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo đảm bảo đúng quy định pháp luật.

Thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo Dân tộc – Tôn giáo, có vai trò tham

mưu và quản lý nhà nước, xây dựng và ban hành quy chế hoạt động tôn giáo –

dân tộc nói chung, đồng thời duy trì và phát huy vai trò của UBMTTQ, phối

hợp với UBND các cấp, Ban Dân tộc, Ban Tuyên giáo thành ủy, Ban Dân vận

Thành ủy Phòng Tài Nguyên Môi trường, Phòng Tư pháp, các tổ chức tôn

giáo,... trong hoạt động thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố.

Chính quyền thành phố luôn khuyến khích và tạo điều kiện phát huy các

hoạt động từ thiện- xã hội của các tổ chức và cá nhân tôn giáo là nhằm thể hiện

tính tích cực xã hội của các tôn giáo; thời gian qua, các tổ chức tôn giáo đã góp

phần rất lớn trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở địa phương như:

chăm sóc nuôi dưỡng người già, người tàn tật và nuôi dạy nghề cho trẻ mồ côi,

đóng góp mua xe chuyển bệnh miễn phí cho bệnh nhân nghèo (trong đó có trên

120 xe do Ban trị sự Giáo hội PGHH xã quản lý); hưởng ứng xây dựng cơ sở

56

hạ tầng nông thôn; xây nhà tình thương, nhà tình nghĩa, tham gia làm cầu,

đường, xây dựng nghĩa trang nhân dân, cấp xe lăn cho người tàn tật, ủng hộ

quỹ nạn nhân chất độc da cam, bệnh nhân HIV/AIDS ...; xây dựng nhiều cơ sở

dạy học mầm non trong các tôn giáo, ủng hộ quỹ khuyến học, trao học bổng

học sinh nghèo hiếu học, bếp ăn khuyến học, tặng dụng cụ học tập, áo trắng và

xe đạp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn...; vận động tổ chức khám, chữa

bệnh, cấp thuốc miễn phí: Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Hòa hảo đã phối

hợp vận động các đoàn Y bác sĩ khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người

dân; ngoài ra còn phối hợp Mặt trận đoàn thể và các tổ chức từ thiện - nhân đạo

tổ chức tặng quà, gạo, thực phẩm và tiền mặt cho người nghèo nhân dịp lễ trọng

và tết cổ truyền của dân tộc.

Thành phố luôn tạo điều kiện thuận lợi để các cộng đồng tôn giáo – tín

ngưỡng có điều kiện sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo

được Nhà nước công nhận và tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Đặc

biệt trong các ngày lễ tôn giáo – tín ngưỡng lớn, chính quyền thành phố luôn

phân công, sắp xếp nguồn lực để hỗ trợ các địa điểm và tổ chức tôn giáo.

Một trong các ví dụ điển hình về cơ chế phân công công việc và thực thi

chính sách tôn giáo là thực tế quản lý hoạt động Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi

Sam:

Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam là một trong những Lễ hội lớn nhất của

thành phố Châu Đốc. Năm 2000, UBND tỉnh An Giang vẫn là nơi quản lý nhà

nước, trực tiếp chỉ đạo UBND thị xã Châu Đốc (năm 2013 là Thành phố Châu

Đốc) cùng Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch và các ban ngành địa phương liên

quan chức lễ hội, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Năm 2001 là năm

đầu tiên lễ hội Bà Chúa Xứ được công nhận là lễ hội du lịch quốc gia, tỉnh An

Giang đã trao toàn bộ quyền tổ chức lễ hội cho Thành phố Châu Đốc.

Ngày 01 tháng 3 năm 2002, Chủ tịch UBND thị xã Châu Đốc đã ký quyết

định số 542/QĐ.UB.TC thành lập Ban Quản trị lăng núi Sam. Ngày 02 tháng

57

12 năm 2010, UBND thị xã Châu Đốc ra quyết định số 4009/2010/QĐ-UBND

ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản trị Lăng Miếu núi Sam

thị xã Châu Đốc. Quy chế trước đây cũng có, nhưng có thể nói Quy chế 2010

là một bản quy chế chặt chẽ, với những quy định rõ ràng, toàn diện, là cơ sở

pháp lý để Miếu bà được quản lý và tổ chức hoạt động đi vào nề nếp.

Hiện nay, Ban Quản trị Lăng Miếu Núi Sam có biên chế 142 người, với

Ban lãnh đạo (1 trưởng ban, 3 phó ban phụ trách những công việc cụ thể); Tổ

Văn phòng (10 người); Tổ kế toán (13 người); Tổ bảo vệ (42 người); Tổ Chánh

điện (25 người); Tổ lăng Thoại Ngọc Hầu (7 người); Tổ đình, miếu Âm Nhơn

(2 người); Tổ vệ sinh (23 người); Tổ quản lý nhà bia liệt sỹ (6 người); Tổ Vườn

tượng (7 người); Tổ hoa cảnh (4 người). Theo quy chế, 142 người này được

phòng Nội thành phố tuyển dụng theo chế độ hợp đồng dài hạn, thực hiện theo

quy định của Bộ Luật Lao động, được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...

Ngoài số người trên, vào dịp lễ Vía Bà, hay vào những ngày miếu đông khách,

Ban Quản trị còn ký thêm cả trăm hợp đồng ngắn hạn. Ban Quản trị lăng miếu

Núi Sam cũng có các tổ chức đoàn thể như chi bộ (từ 2008), công đoàn cơ sở.

Chi bộ Đảng của Bạn Quản trị có 12 đảng viên (Trưởng ban là Bí thư chi bộ).

Ban quản trị Lăng Miếu Núi Sam là một tổ chức sự nghiệp xã hội có thu,

thuộc UBND thành phố Châu Đốc, có chức năng giúp UBND phố bảo vệ và

phát huy giá trị di sản văn hoá và lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam.

Việc quản lý và thu chi tiền công đức: Lãnh đạo Ban quản trị Lăng Miếu,

các hội viên tiêu biểu, đại diện chính quyền UBND thành phố Châu Đốc là các

thành viên giám sát. UBND thành phố Châu Đốc chỉ đạo trực tiếp việc phân bổ

nguồn thu quỹ công đức do nhân dân đóng góp. Ban quản lý di tích quản lý, sử

dụng các nguồn thu đúng quy định, công khai, minh bạch. Các khoản chi đều

thông qua tập thể, các ngành chức năng của thành phố, bao gồm các khoản:

Quỹ lương, mua sắm trang thiết bị; Tổ chức lễ hội; Trùng tu tôn tạo; Xây dựng

các công trình phúc lợi xã hội, công tác từ thiện. Phòng Tài chính - Kế hoạch

58

của thành phố với sự chỉ đạo của UBND thành phố định kỳ kiểm tra việc sử

dụng tiền công đức do nhân dân đóng góp nhằm đảm bảo việc thu, chi đúng

mục đích và quy định. Thành lập Hội đồng giám sát việc kiểm kê nguồn thu

công đức, thành phần hội đồng kiểm tra gồm: Đại diện lãnh đạo Phòng Tài

chính – kế hoạch, Kho bạc nhà nước, Ủy ban MTTQ, phòng Tư pháp, Ban quản

lý Lăng Miếu và một số Hội viên tiêu biểu có uy tín. Nguồn thu công đức hàng

năm được UBND thành phố phê duyệt.

Việc quản lý và sử dụng tiền công đức tuân theo quy chế và chế độ tài

chính hiện hành có sự chỉ đạo, kiểm tra của UBND thành phố, sự giám sát của

phòng Tài chính Kế hoạch, kế toán thành phố và các hội viên trong Ban quản

trị. Nguồn thu của Ban quản trị lăng miếu Núi Sam kết hợp với ngân sách của

UBND thành phố, hàng năm hỗ trợ tiền và hiện vật cho các đơn vị tổ chức xã

hội, gia đình nghèo, gia đình chính sách gặp khó khăn, từ đó góp phần tích cực

đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố..

Thứ hai, tình hình quy hoạch nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo

Đất đai là lãnh thổ quốc gia, là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là

tư liệu sản xuất đặc biệt; là thành phần quan trọng của môi trường sống là địa

bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,

quốc phòng, vì vậy các vấn đề quản lý của Nhà nước thì vấn đề quản lý đất đai,

ban hành các chính sách, các quy định pháp luật về đất đai luôn đóng vai trò

quan trọng hàng đầu.

Đất đai liên quan đến tôn giáo cũng không nằm ngoài tầm quan trọng đó.

Đất đai liên quan đến tôn giáo hiện nay là vấn đề quan tâm, cần được quản lý

một cách hợp lý. Chính vì thế, công tác quản lý, sử dụng đất đai cở sở tôn giáo

trên địa bàn tỉnh là trong những nội dung được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh

quan tâm, chỉ đạo trong thời gian qua. Trên tinh thần chỉ đạo của tỉnh, các sở

ngành, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị 1940/CT-TTg của Thủ tướng

Chính phủ đến các tổ chức, các nhân tôn giáo và đã tạo điều kiện thuận lợi giải

59

quyết kịp thời, đúng pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế về vấn đề đất

đai có liên quan đến tôn giáo. Ngoài ra, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng rà

soát bổ sung nhu cầu sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng vào danh

mục dự án phải thu hồi đất và kế hoạch sử dụng đất hàng năm, khi có chủ

trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh làm căn cứ cho việc giao đất cho các cở sơ

tôn giáo đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định của Luật đất đai và đáp ứng nhu cầu

sử dụng đất của các cở sở tôn giáo.

Thực hiện Kế hoạch số 182/KH-UBND ngày 06/8/2018 của Uỷ ban nhân

dân tỉnh về việc thực hiện Kế hoạch số 53-KH/TU ngày 12/6/2018 của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị 18-CT/TW 10/01/2018 của Bộ chính trị

về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương

khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Công văn số 751/BNV-TGCP

ngày 18/02/2020 của Bộ nội vụ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho cơ sở tôn giáo và Công văn 369/UBND – KTN ngày 04/5/2019 của Ủy ban

nhân dân tỉnh ban hành Đề án giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho các cơ sở tôn giáo trên địa bàn tỉnh, để giải quyết vấn đề đất đai tôn giáo

một cách thống nhất, đồng bộ và đúng theo quy định của pháp luật.

Tình hình quy hoạch nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo và nhu cầu

sinh hoạt trong thời gian qua đều thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết số

23/2003/QH11 của Quốc hội và Chỉ thị số 07/2004/CT-TTg ngày 27/02/2004

của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình

thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa

trước ngày 01/7/1991; Công văn số 3371/BNV-TH ngày 16/10/2009 về việc

thực hiện Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính

phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo.

Diện tích nhà, đất chính quyền giao mới đến năm 2015, trên địa bàn Châu

Đốc 20 cơ sở thờ tự đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 178599.4

m2 thông qua hình thức, chấp thuận cho tôn giáo nhận hiến tặng từ cá nhân để

60

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo cho từng trường hợp có nguyện vọng chính

đáng (Nhà nước sẽ thu hồi đất của cá nhân hiến tặng vào quỹ đất chung của

tỉnh và sẽ cấp lại cho tổ chức, cơ sở thờ tự tôn giáo).

Ngoài ra còn triển khai thực hiện các chính sách công trợ từ nguồn ngân

sách nhà nước cho tổ chức và chức sắc tôn giáo theo Quyết định số

16/2005/QĐ-TTg ngày 21/01/2005 và Quyết định số 10/2014/QĐ-TTg ngày

24/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ với số tiền bình quân hàng năm từ 01 đến

02 tỷ đồng.

Thứ ba, tình hình giải quyết khiếu kiện liên quan đến tôn giáo ở địa

phương

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

các cấp chính quyền từ tỉnh đến thành phố, xã đã có nhiều nỗ lực trong xác

minh, xử lý và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên do lịch sử để lại,

việc quản lý, sử dụng nhà đất liên quan đến tôn giáo có nhiều biến động, do đó

việc xử lý rất phức tạp, cần có thời gian.

Tình hình khiếu kiện, số lượng các vụ khiếu kiện liên quan đến tôn giáo

từ năm 2004 đến nay là 23 đơn thư khiếu nại; đã được tỉnh và thành phố phối

hợp giải quyết, các đơn thư khiếu nại chủ yếu liên quan đến tôn giáo trên địa

bàn thời gian qua chủ yếu khiếu nại xin lại đất đai, cơ sở thờ tự nhà nước quản

lý theo chính sách pháp luật, hoặc yêu cầu giải tỏa khuôn viên nơi cơ sở thờ tự

bị dân lấn chiếm, cho mượn khi bỏ trống không có người quản lý, hoặc tranh

chấp trong thừa kế, tông phong của chùa,...ví dụ các vụ:

- Đối với Phật giáo: vụ khiếu nại của chùa Phú Thạnh (Chùa Truông)

(2003) đã được Ủy ban nhân dân phường chuyển vụ việc cho cơ quan Thanh

tra thành phố giải quyết; vụ chùa Viên Quang – phường Núi Sam (2003) hồ sơ

do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang thụ lý; vụ chùa Huỳnh Đạo: Bị

Doanh nghiệp tư nhân Như Ý tố cáo hủy hoại tài sản của Doanh nghiệp, dã giải

quyết thông qua thương lượng… và các vụ việc khác chủ yếu liên quan đến

61

tranh chấp đất đai giữa các cơ sở thờ tự và người dân.

- Đối với đạo Công giáo: Vụ nhà thờ họ đạo Châu Đốc xin lại phần đất

của trạm Y tế phường Châu Phú B củ (Tọa lạc tại khóm Châu Long 7) do

UBND phường mượn làm trạm Y tế vụ việc đươc chuyển về Ban Tôn giáo Sở

Nội vụ giải quyết dứt điểm.

- Đối với đạo Cao đài: Vào năm 2008: Ngày 25/5 - Thánh thất Cao đài

họ đạo phường Châu Phú A tổ chức họp công bố Huấn lịnh số 199,200-HĐCĐ

về việc thu hồi phẩm chức của 04 chức việc (04 đối tượng này nằm trong “nhóm

kháng nghị thư” chống Hội đồng chưởng quản). Phát hiện 01 chức việc (Chánh

trị sự phường Châu Phú B) ký tên vào tâm thư và tờ thỉnh cầu tại Thánh thất

Tân Châu gửi cho Tòa Thánh Tây Ninh.

+ Cuối năm 2014, Ban cai quản Thánh thất tổ chức đặc viên gạch đầu

tiên xây xây dựng Điền thờ Phật Mẫu; đến khoảng tháng 3/2016, Ban cai quản

tổ chức nhiều đoàn đi vận động quyên góp tín đồ và quần chúng trong và ngoài

tỉnh để xây dựng Điện thờ trái qui định.

Bên cạnh những vụ việc nổi cộm, còn một số vụ việc khiếu nại liên quan

đến tôn giáo, nhưng nội dung vụ việc không lớn và không xảy ra những tình

huống xấu,

Thứ tư, công tác đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo, xử lý các vi phạm

pháp luật trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo

- Trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết 25 và Chương trình hành

động của Tỉnh ủy về công tác tôn giáo. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn

thể chính trị, các ngành liên quan của các địa phương và lực lượng vũ trang làm

nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn và an ninh biên giới đều có kế

hoạch triển khai các phương pháp để đồng bào có đạo phát huy tinh thần yêu

nước, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng

tôn giáo của thế lực thù địch tại địa phương:

+ Các ngành, các cấp thực hiện thường xuyên, liên tục công tác tuyên

62

truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục; tranh thủ các chức sắc, chức việc, tín

đồ của các tôn giáo thực hiện đúng theo tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành

đạo; chấp hành đúng Hiến chương, nội qui và chương trình hành đạo; không

truyền đạo trái phép, hoặc có hành vi mê tín dị đoan. Qua đó nêu các luận điệu

tuyên truyền của các phần tử cực đoan, lợi dụng tôn giáo để vu cáo, xuyên tạc;

làm cho tín đồ các tôn giáo nhận rõ âm mưu, thủ đoạn để lên tiếng phản đối,

tránh bị lợi dụng, lôi kéo; xây dựng lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo.

+ Kiên quyết đấu tranh, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật, lợi

dụng danh nghĩa tôn giáo để đầu cơ chính trị; phối hợp với các cơ quan liên

quan sử dụng linh hoạt, mềm dẻo các biện pháp vận động giáo dục thuyết phục,

bao vây cô lập, xử lý hành chính và pháp luật khi đủ điều kiện. Từ đó, ổn định

được tình hình trên địa bàn, đảm bảo không để phát sinh thành “điểm nóng tôn

giáo”.

+ Sự phối hợp thống nhất cao của các tổ chức tôn giáo; giữa các tỉnh,

thành và các địa phương trong tỉnh, nhất là ngành Công an đã giám sát chặt các

hoạt động của số đối tượng cầm đầu, chủ chốt (như Lê Quang Liêm, Võ Văn

Thanh Liên, Hà Duy Hồ, Trần Văn Hưởng, Tống Văn Chính, Trần Thị

Xinh,...); đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; phong trào

quần chúng tự quản; phong trào giữ gìn đường biên cột mốc....

- Việc đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng

vấn đề tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm hại

an ninh quốc gia như:

+ Các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tích cực tuyên truyền

trong các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào có đạo về mục đích của tổ

chức NGOs hoạt động trên địa bàn, từ đó đề cao cảnh giác với âm mưu lợi dụng

của các thế lực thù địch nhằm mục đích chống phá; làm tốt công tác quản lý

Nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ (NGOs), nhất là công tác quản lý hành

63

chính; chủ động tăng cường các biện pháp, đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa

các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia của tổ chức NGOs

trên địa bàn.

+ Đối với các phần tử cực đoan trong các tổ chức tôn giáo như: đã khởi

tố hình sự 13 vụ, áp dụng hình thức phạt tù 31 đối tượng và quản chế hành

chính 08, giáo dục nhắc nhở 10 (Phật giáo Hòa Hảo); vô hiệu hóa hoạt động tổ

chức “Gia đình Khôi Bình" do Trương Văn Trang ở Chợ Mới cấu kết với

Nguyễn Hữu Nghĩa ở TP. HCM (Công giáo); một số đối tượng như Thích

Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Thiện Hạnh,…(Phật Giáo) vẫn không

từ bỏ âm mưu phục hồi hoạt động của hệ thống Giáo hội cũ trước năm 1975,

đáng chú ý là năm 2005, Thích Quảng Độ đã quan hệ, câu móc với Thích Chơn

Tâm - tu sỹ chùa Tây Huê (Phường Núi Sam - TP Châu Đốc) và bổ nhiệm Chơn

Tâm làm Phó Chánh đại diện Miền Khánh Anh, kiêm Chánh Đại diện lâm thời

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN) tỉnh An Giang với ý

đồ xây dựng y làm hạt nhân để từng bước mở rộng hoạt động của

“GHPGVNTN” tại An Giang và một số tỉnh Miền Tây, đã kịp thời phát hiện,

ngăn chặn các hoạt động lôi kéo người tham gia tổ chức GHPGVNTN.

2.3.4. Việc duy trì chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu

Đốc

Hoạch định chính sách tôn giáo, tuyên truyền và lên kế hoạch đưa chính

sách tôn giáo vào đời sống đều sẽ mất đi tính hiệu quả nếu chính sách đó không

được duy trì theo thời gian.

Việc duy trì chính sách phụ thuộc trước hết từ các chính sách tôn giáo,

cần phù hợp và đúng đắn, và sau nữa là năng lực của các cán bộ, đơn vị thực

thi chính sách được thể hiện qua các hoạt động thực thi chính sách trên địa bàn.

Năng lực của đội ngũ cán bộ thực thi chính sách tôn giáo được Thành ủy

quan tâm bằng việc tổ chức các lớp tập huấn và gửi cán bộ đi tập huấn theo kế

64

hoạch hàng năm.

Ngoài ra, thành phố luôn sát sao trong việc phối hợp với các đơn vị khác

trên địa bàn để kịp thời giải quyết các nhu cầu đúng đắn của các tổ chức tôn

giáo cũng như các tín đồ liên quan đến xây và công nhận thêm các địa điểm thờ

tự, các điểm sinh hoạt, giáo dục liên quan đến tôn giáo, ví dụ:

- Phật giáo Việt Nam: mở một lớp trung cấp phật học tại chùa Viên

Quang phường Châu Phú A, trên địa bàn thành phố có 146 phật tử, tăng ni tham

dự khóa học, trong đó có 04 tăng sinh thuộc các chùa trên địa bàn thành phố

Châu Đốc. Tổ chức một lớp an cư kiết hạ có 204 tăng, ni, phật tử tham gia học;

- Công giáo: chấp thuận phân khu đất thuộc trạm y tế cũ của phường

Châu Phú B để xây dựng nhà sinh hoạt của họ đạo;

Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo Dân tộc – Tôn giáo thành phố cũng tham mưu

và tham gia bầu, suy cử các chức sắc, chức việc (ví dụ: căn cứ vào công văn số

274/BTG-NV2, ngày 24/8/2017 của Ban Tôn giáo Sở Nội Vụ Tỉnh An Giang

về việc bổ nhiệm chủ trì ông Thái Hữu Trạng, pháp danh Thích Huệ Định, sinh

năm 1978 làm chủ trì chùa Lư Kim, phường Núi Sam,TP Châu Đốc,An

Giang,....); hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo trong các sự kiện lễ

hội.

2.3.5. Công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chính

sách tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc

Ban Chỉ đạo Dân tộc – Tôn giáo có nhiệm vụ thường xuyên rà soát cũng

cố kiện toàn thành viên ban chỉ đạo, điều chỉnh bổ sung quy chế hoạt động ban

chỉ đạo đúng quy định. Đồng thời Ban Chỉ đạo tham mưu cấp ủy, Ban Thường

vụ Thành ủy nắm tình hình hoạt động của các dân tộc, tôn giáo, hướng dẫn các

hoạt động dân tộc, tôn giáo theo đúng chủ trương chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Giải quyết hài hòa mối quan hệ đoàn kết nội bộ các dân tộc,

tôn giáo trên địa bàn; Cấp ủy tăng cường các hoạt động quản lý của Ban chỉ

đạo về công tác dân tộc - tôn giáo, đặc biệt đối với địa bàn có trọng điểm về

65

dân tộc, tôn giáo; thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động dân tộc, tôn

giáo trên địa bàn làm tham mưu cho cấp ủy kịp thời để điều hành chỉ đạo, xây

dựng củng cố lực lượng cốt cán trong dân tộc, tôn giáo hoạt động đi vào trọng

tâm có hiệu quả theo Luật Tín ngưỡng Tôn giáo.

2.3.6. Thực trạng hoạt động tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện

chính sách tôn giáo

Thành phố Châu Đốc hàng năm luôn thực hiện công tác tổng kết, đánh

giá việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn, các tổng kết đánh

giá do Ban Chỉ đạo Dân tộc – Tôn giáo thực hiện và lập thành các báo cáo.

Thông qua các báo cáo tổng kết đánh giá này, các cấp và các đơn vị liên quan

có thể nắm được tình hình dân tộc – tôn giáo trên địa bàn thành phố, các hoạt

động và các sự kiện diễn ra hàng năm. Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Dân tộc – Tôn

giáo cũng đưa ra các ý kiến, nhận xét đánh giá hoạt động thực hiện chính sách

tôn giáo nói chung. Các đánh giá tập trung vào các yếu tố liên quan đến chính

sách và công tác quán triệt, thống nhất về mặt nhận thức; đánh giá quan điểm,

chính sách tôn giáo của Đảng thông qua Nghị quyết 25; đánh giá các mặt còn

tồn tại và các thành tựu đạt được để lên kế hoạch, phương hướng hành động

tiếp theo.

Tiểu kết Chương

Trong chương 2, luận văn đã nêu lên các đặc điểm chung về địa lý – kinh

tế - xã hội và đặc điểm tôn giáo của thành phố Châu Đốc. Đồng thời luận văn

cũng đi sâu tìm hiểu tình hình tôn giáo trên địa bàn và tiến hành làm rõ thực

trạng của hoạt động tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo theo các bước trong

quy trình QLNN.

Xác định rõ tôn giáo và nhu cầu tín ngưỡng là vấn đề tồn tại lâu dài, làm

tốt công tác vận động quần chúng tín đồ và các vị chức việc đoàn kết phụng sự

tốt đời đẹp đạo là làm tốt công tác tôn giáo. Vì vậy, Châu Đốc luôn chú trọng

66

đến công tác tuyên truyền giáo dục, giải thích sâu rộng về chính sách tôn giáo

của đảng và nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp các ngành từ đó

mang lại hiệu quả cao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Thành ủy, Ban

Chỉ đạo Công tác tôn giáo thành phố, UBND, Phòng Nội vụ thành phố, MTTQ

và các đoàn thể chính trị và với sự chủ động phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của

các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị, địa phương có liên quan, đặc biệt

là sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trên địa bàn, đã không

ngừng phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua khó khăn để hoàn thành

nhiệm vụ chính trị, tham mưu cho cấp ủy Đảng và UBND các cấp về chủ

trương, chính sách đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố; thực hiện tốt nhiệm

vụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, góp phần giữ vững an ninh

trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố; làm tốt chức năng tham mưu cho

Đảng, Nhà nước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tôn giáo và công tác

tôn giáo, đồng thời cùng các cấp chính quyền làm tốt công tác tuyên truyền các

67

văn bản của Nhà nước về tôn giáo tới các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo.

Chương 3

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ

GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TẠI THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC

TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách tín ngưỡng -

tôn giáo trong thời gian qua

3.1.1. Yếu tố khách quan:

Yếu tố mang tính khách quan được xét theo theo một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, các yết tố liên quan đến chính sách, bao gồm các chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản quy phạm và các quy định của

thành phố được ban hành. Để bắt kịp xu hướng phát triển của thực tế và xã hội,

Đảng và Nhà nước đã kịp thời ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), các

Quyết định và Nghị quyết về chính sách tôn giáo. Tỉnh An Giang, tiếp đó đã

ban hành một số Quyết định và Kế hoạch triển khai các chủ trương, chính sách

của Đảng kịp thời. Thành phố Châu Đốc, đặc biệt là Ban Chỉ đạo Dân tộc –

Tôn giáo cũng kịp thời tham mưu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

để phối hợp hoạt động giữa các đơn vị trong tổ chức thực hiện chính sách tôn

giáo.

Mức độ quán triệt nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch thực

hiện của Đảng bộ, các cấp ủy đảng, cơ quan ban ngành, Mặt trận, đoàn thể, các

Đảng ủy xã - phường, cán bộ, đảng viên, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn

giáo và nhân dân quyết định một phần sự thành công của chính sách. Thành

phố Châu Đốc đã thực hiện và tham gia nhiều khóa tập huấn nhằm nâng cao

nhận thức, vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở, nhất là cán

68

bộ làm công tác tôn giáo trực tiếp ở cơ sở.

Ngoài ra các yếu tố khách quan khác như yếu tố lịch sử (ví dụ: Quản lý

về Nhà nước về đất đai có liên quan đến tôn giáo còn khó khăn. Trong quá trình

sử dụng đất, một số cơ sở tôn giáo để người dân sinh sống trên đất cơ sở tôn

giáo dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện. Do hoàn cảnh lịch sử để lại, việc quản lý

nhà, đất liên quan đến tôn giáo trong quá trình thực hiện chính sách đất đai chưa

được giải quyết dứt điểm…) và sự vận động không ngừng của xã hội, xu hướng

hội nhập quốc tế cũng khiến cho các hoạt động tôn giáo ngày càng phong phú,

đa dạng và cũng không kém phần phức tạp. Đây là yếu tố thách thức đối với

tính thực tế và khả thi của chính sách. Công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động có thể khiến cho chính sách trở nên lỗi thời và khó

thực thi.

3.1.2. Yếu tố chủ quan

Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức thực hiện chính

sách tôn giáo trên địa bàn thành phố:

Thứ nhất, yếu tố nguồn nhân lực theo nghĩa năng lực thực hiện chính

sách tôn giáo, phẩm chất đạo đức và thái độ thực thi chính sách tôn giáo của

đội ngũ cán bộ. Các hoạt động tập huấn hàng năm trên địa bàn khắc phục được

các hạn chế về kiến thức, nhận thức về chính sách tôn giáo, tuy nhiên, hoạt

động luân chuyển cán bộ có thể tạo nên tình trạng đội ngũ thực thi chính sách

tôn giáo có tuổi đời ít, kinh nghiệm hoạt động thực thi chính sách chưa nhiều,

gây khó khăn về mặt kỹ năng và tâm lý khi tiếp xúc với giới chức sắc, chức

việc có vị trí cao trong các tổ chức tôn giáo cũng như các tín đồ có các đức tin

và văn hóa khác biệt, vô hình chung tạo nên các rào cản đối với hoạt động tuyên

truyền, phổ biến, vận động chính sách tôn giáo. Tôn giáo là lĩnh vực rất đặc

thù, đa dạng và phức tạp, vì vậy, nhận thức đúng và kinh nghiệm thực thi chính

sách vẫn không đủ, đội ngũ cán bộ rèn luyện cả các phẩm chất đạo đức và kỹ

69

năng cần thiết để việc thực thi chính sách đạt hiệu quả cao. Chính nhân tố này

cũng sẽ quyết định yếu tố chủ quan khác đó là tính đồng thuận và ủng hộ chính

sách từ phía các đối tượng chính sách.

Thứ hai, yếu tố liên quan đến khả năng phối kết hợp giữa các đơn vị thực

thi chính sách tôn giáo. Khả năng phối kết hợp trước hết phụ thuộc vào tính khả

thi, rõ ràng và cụ thể của các văn bản hướng dẫn thực thi chính sách, sau đó

phụ thuộc vào năng lực quản lý nhà nước của các đơn vị, các tổ chức địa phương

tham gia vào việc tổ chức thực hiện chính sách. Thành phố Châu Đốc, nhìn

chung đã thiết lập được cơ chế phối kết hợp, với vai trò tham mưu chỉ đạo là

Ban Chỉ đạo Dân tộc – Tôn giáo cùng với sự tham gia của Phòng Nội vụ, Phòng

Dân tộc, UBMTTQ Việt Nam cùng với các cơ quan liên quan cả ngành dọc và

ngang, đồng thời đã kêu gọi được sự tham gia của các tổ chức tôn giáo trên địa

bàn thông qua các hoạt động tuyên truyền đan xen với các lễ hội và sự kiện.

Thứ ba là yếu tố liên quan đến khả năng tiếp nhận và sự đồng thuận của

các đối tượng chính sách, ở đây là các tổ chức tôn giáo và các tín đồ nói riêng,

rộng hơn là đời sống của người dân trên địa bàn. Nhìn chung, cộng đồng bà con

có đạo đều chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, có được thành

quả này là nhờ nỗ lực của chính quyền trong việc thực hiện các hoạt động tuyên

truyền và phổ biến pháp luật về tôn giáo cũng như kịp thời giải quyết các mẫu

thuẫn vướng mắc liên quan đến tôn giáo. Sự đồng thuận và tiếp nhận các chính

sách tôn giáo của đối tượng chính sách là một yếu tố quan trọng đảm bảo tính

hiệu quả của chính sách.

3.2. Những vấn đề đặt ra

Mặc dù chính quyền thành phố đã không ngừng nỗ lực phát huy tiềm lực,

trong quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị thực hiện vẫn gặp một số khó

khăn nhất định.

Thứ nhất, có một số chính sách của Nhà nước, văn bản pháp quy, nghị

định hay luật chưa cụ thể và chi tiết gây khó khăn cho địa phương khi triển

70

khai. Vi dụ Luật đất đai số 45/2013/QH13 và Nghị định 92/2017/NĐ – CP

không có các quy định chi tiết về diện tích đất đai tối thiểu đối với một cơ sở

thờ tự và số chức sắc chức việc được quy định trên đơn vị diện tích cụ thể, việc

quy định không chi tiết dẫn đến tình trạng phân bổ quỹ đất cho tôn giáo không

đồng đều, quy định lỏng lẽo, dễ gây nên mất đoàn kết giữa các tổ chức tôn giáo

khác nhau. Đây là một trong các nguyên nhân gây nên tình trạng các khiếu kiện,

khiếu nại liên quan đến đất đai dành cho mục đich tôn giáo, thành phố đều

không đủ năng lực và thẩm quyền giải quyết và hầu hết phải chuyển lên cấp

cao hơn, gây tốn nhiều thời gian, nhân lực hơn.

Hoặc Luật tín ngưỡng, tôn giáo ban hành năm 2016, có một số quy định

chưa rõ ràng khiến chính quyền địa phương bị động khi giải quyết, ví dụ, Luật

Tín ngưỡng quy định việc đăng ký chia tách, sát nhập, thành lập mới đối với

các tổ chức tôn giáo trực thuộc cấp tỉnh và cấp trung ương thuộc trách nhiệm

phê duyệt của UBND tỉnh và Nhà nước, tuy nhiên Luật chưa có quy định nào

tương tự đối với các tổ chức tôn giáo có quy mô nhỏ, hoạt động trên phạm vi

địa phương cấp phường, xã. Điều này khiến chính quyền thành phố gặp khó

khăn trong việc quản lý các tổ chức tôn giáo nhỏ, gây nên tình trạng thành lập

các tổ chức tôn giáo tự phát, lén lút không được chính quyền công nhận.

Việc ban hành các luật và các văn bản luật chưa có tính chặt chẽ và liên

kết với nhau, do đó, địa phương gặp lúng túng khi giải quyết các mâu thuẫn

phát sinh, gây mất lòng tin trong các cộng đồng tín đồ có đạo. Ví dụ Luật Tín

ngưỡng, tôn giáo cho phép các tổ chức tôn giáo tham gia vào các hoạt động

giáo dục và xã hội, y tế, nhân đạo. Tuy nhiên Luật giáo dục ban hành năm 2005

có sửa đổi bổ dung năm 2009 đã quy định cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo

dục quốc dân. Tại địa phương, do đó, việc các tổ chức xin mở các cơ sở đào tạo

gặp nhiều khó khăn và chờ đợi lâu, do thiếu tính chặt chẽ, đội ngũ thi hành luật

thường không thể thi hành luật một cách đồng bộ và toàn diện.

Việc xử lý vi phạm về hoạt động tôn giáo trái với quy định pháp luật

71

đang gặp khó khăn, vướng mắc do hiện chưa có luật quy định rõ ràng về việc

xửu lý vi phạm trong hoạt động tôn giáo. Khi có các mâu thuẫn, vướng mắc

hay vi phạm liên quan đến tôn giáo trên địa bàn, thông thường các cơ quan chức

năng địa phương phải áp dụng chéo luật để có cơ sở xử lý, tạo các lỗ hổng về

luật.

Thứ hai, các văn bản do chính quyền địa phương ban hành chưa có tính

đồng bộ cao, chồng chéo. Hoạt động xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch

thiếu tính chủ động, nhiều kế hoạch văn bản được xây dựng mang tính đối phó,

khiến việc thực thi chính sách mang tính phiến diện. Nhiều kế hoạch, chương

trình hành động của thành phố chỉ mang tính đối phó, máy móc, không sáng

tạo, do được xây dựng và thiết kế dựa trên các kết quả hoạt động của năm trước,

kỳ trước nêu trong các báo cáo, thiếu cái nhìn khách quan tình hình thực tế trên

địa bàn. Các kế hoạch thực hiện chính sách tập trung nhiều vào việc tổ chức

các lớp tập huấn, tập trung vào đội ngũ thực thi, chưa có nhiều kế hoạch tác

động trực tiếp lên các cộng đồng tôn giáo.

Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực chưa phải là điểm mạnh, về mặt quán

triệt các chủ trương chính sách của Đảng, khả năng nhận thức và trình độ hiểu

biết về tôn giáo, trình độ QLNN đặt trong môi trường đa dân tộc , đa tôn giáo.

Mặc dù là một địa phương có đông đồng bào là các tín đồ có đạo song trong

đội ngũ cán bộ vẫn thiếu các vị trí có xuất phát là một tín đồ có đạo, do đó, các

chính sách và kế hoạch đôi khi xa rời nhu cầu thực tế của đối tượng chính sách.

Năm 2013 cấp thành phố không có cán bộ chuyên trách, chỉ có cán bộ thuộc

phòng Nội vụ kiêm nhiệm công tác quản lý tôn giáo. Cán bộ Nội vụ phường -

xã kiêm nhiệm công tác tôn giáo của 7 phường xã.

Thứ tư, sự phối hợp dọc và phối hợp liên ngành chưa mang lại hiệu quả

cao. Bộ phận phụ trách công tác tôn giáo giao cho phòng Nội vụ quản lý. Chủ

tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc phường - xã kiêm nhiệm công tác quản lý tôn

giáo. Phần lớn các quyết sách, lên kế hoạch, tham mưu, chỉ đạo đều do Ban chỉ

72

đạo Dân tộc – Tôn giáo Thành ủy đảm nhiệm với sự hỗ trợ của UBMTTQ. Các

đơn vị khác như tư pháp, văn hóa, giáo dục, tài nguyên – môi trường chỉ tham

gia một cách mờ nhạt. Tính phản biện trong hoạt động hoạch định chính sách

và xây dựng kế hoạch hành động chưa cao. Thông thường, các hoạt động này

được diễn ra dưới sự chỉ đạo một chiều của UBND, tạo thế bị động đối với các

cơ quan thực thi bên dưới và các chính sách, kế hoạch xa rời thực tế.

Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách và quy định

của Đảng và Nhà nước chưa được thực hiện một cách hiệu quả. Các hoạt động

thường hướng trọng tâm đến việc tham gia thăm hỏi và tổ chức lễ hội sự kiện.

Thành phố chưa có chiến dịch tuyên truyền nào có thể tạo hiệu ứng sâu rộng để

nâng cao nhận thức của các cấp và toàn cộng đồng trên địa bàn.

Thứ sáu, công tác tổng kết, đánh giá rất máy móc, các báo cáo tổng kết

hàng năm thường phản ánh và lặp lại các chủ đề và nội dung giống nhau, chưa

bao quát được toàn bộ tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố.

3.3. Giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả việc thực hiện

chính sách tôn giáo tại thành phố Châu Đốc trong thời gian tới

3.3.1. Các giải pháp

- Về chủ trương chung: Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan

điểm, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.

Nhà nước đã ban hành Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 (trước đó là Pháp

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004) làm cơ sở cho cả hệ thống chính trị và

toàn dân nhận thức đúng đắn quan điểm về chính sách tôn giáo của nước ta -

trên cơ sở đó để tuyên truyền vận động đồng bào có đạo nói riêng, đồng bào

các giới nhận thức đúng đắn về chính sách tôn giáo của nhà nước để tự giác

thực hiện. Nhận thức thực hiện chính sách tôn giáo của nước ta từ trước đến

nay vì đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài

cùng công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - cho nên việc phát triển bình

thường của các tôn giáo là yêu cầu khách quan cần được tôn trọng theo quy

73

định pháp luật. Cấp ủy Đảng, chính quyền vá các cơ quan tuyên truyền của

thành phố Châu Đốc phải cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng,

chính sách của Nhà nước về tôn giáo phù hợp với tình hình thực tế của địa

phương. Tăng cường phổ biến pháp luật về tôn giáo; định hướng hoạt động,

sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng theo quy định của pháp luật; tăng cường đoàn

kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Về các giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, trong quá trình thực thi chính sách, các cấp chính quyền cần

đi sâu, tìm hiểu và bám sát thực tế để kịp thời phát hiện các lỗ hổng và các bất

cập của các chính sách, luật ban hành, giúp Đảng và Nhà nước nhanh chóng

tìm ra các giải pháp để tháo gỡ và hoàn thiện.

Thứ hai, việc xây dựng văn bản, kế hoạch, chương trình hành động cần

dựa trên sự phối hợp và thống nhất giữa các ban, ngành và các đơn vị, các báo

cáo kết quả chỉ nên coi là tài liệu tham khảo. Hơn nữa, kế hoạch thực hiện nên

mở rộng sang các hoạt động khác, sâu sát hơn với các cộng đồng tôn giáo và

cả với cộng đồng của bà con không có tôn giáo, không nên chỉ dừng lại ở các

hoạt động tập huấn và giải quyết các vụ kiện. Các chính sách khuyến khích các

tôn giáo tham gia hoạt động xã hội; tạo điều kiện để các tôn giáo xây dựng cơ

sở thờ tự, mở các trường đào tạo chức sắc của tôn giáo. Chủ động đấu tranh

ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị của các

thế lực thù địch

Thứ ba, cần nâng cao nguồn nhân lực, chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ

thực thi chính sách tôn giáo, chuyển từ kiêm nhiệm sang chuyên trách bằng

cách tạo điều kiện, phân công, bố trí cán bộ phù hợp để có thể chuyên tâm vào

công tác tôn giáo, củng cố năng lực và chất lượng nguồn nhân lực bằng cách

tuyển dụng thêm các cán bộ là người có đạo để phát huy kiến thức, kỹ năng

giải quyết công việc cho cơ quan thực thi chính sách. Bên cạnh đó cán bộ làm

công tác tôn giáo cần phải được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn, chuyên

74

sâu về lĩnh vực, mặt khác phải có tấm lòng thực sự tôn trọng, hoà đồng, hoà

mục, gắn bó với đồng bào tôn giáo, chức sắc, chức việc và phải có năng lực

vận động quần chúng, am hiểu sâu văn hóa đông, tây, truyền thống dân tộc...

Thứ tư, các hoạt động liên quan đến lĩnh vực nào nên giao cho các phòng

ban chuyên môn đảm nhiệm để giảm bớt cho Phòng Nội vụ, đồng thời quan

tâm xây dựng, bố trí cán bộ làm công tác tôn giáo có năng lực vàchuyên môn

về lĩnh vực liên quan, hoạt động sẽ có hiệu quả hơn. Công tác xây dựng, ban

hành chính sách nên mang tính phản biện thông qua các việc thu thập các phản

hồi từ các cộng đồng bà con có tôn giáo và từ các cán bộ trực tiếp thực thi chính

sách tại cơ sở. Các chính sách, kế hoạch kêu gọi đầu tư và tăng cường thực hiện

các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí;

tăng cường củng cố hệ thống chính trị, động viên quần chúng tôn giáo sống “tốt

đời đẹp đạo”, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động từ

thiện nhân đạo. Giải quyết kịp thời những yêu cầu chính đáng, hợp pháp của tổ

chức, cá nhân tín đồ các tôn giáo, không để xảy ra các sự việc phức tạp liên

quan đến tôn giáo.

Thứ năm, chính quyền thành phố cần nâng cao tầm quan trọng của hoạt

động tuyên truyền. Các hoạt động tuyên truyền cần được đầu tư và đang dạng

hóa về nội dung cũng như hình thức, cần có các hoạt động tuyên truyền rộng

đến các cộng đồng dân cư có hay không có tôn giáo. Việc tuyên truyền phổ

biến cần được xây dựng thành các chương trình, chiến dịch. Vì với tôn giáo,

việc tuyên truyền các nội dung, chính sách và hiểu biết là vô cùng cần thiết,

góp phần to lớn trong việc đưa một chính sách tôn giáo đi vào đời sống mỗi

người dân.

Thứ sáu, việc theo dõi, tổng kết đánh giá các hoạt động cần bám sát thực

tế hơn, việc đi thị sát, tìm hiểu thực tế và lắng nghe phản hồi từ các đối tượng

chính sách trước khi lập báo cáo là rất cần thiết. Một báo cáo tổng kết đánh giá

75

càng xác thực chính sách và kế hoạch thực hiện càng phát huy hiệu quả cao.

Châu Đốc là địa phương đặc biệt do sự hội tụ của các tôn giáo khác nhau,

cùng sinh sống trên một địa bàn. Một mặt, chính quyền và các cán bộ trực tiếp

làm công tác tôn giáo phải luôn công bằng, nhìn nhận mọi tôn giáo đều mang

tầm quan trọng như nhau để không gây mất đoàn kết giữa các tổ chức tôn giáo.

Mặt khác, công tác phổ biến chính sách và chủ trương của nhà nước đến các tổ

chức tôn giáo là rất cần thiết, nhằm ngăn ngừa các hoạt động lợi dụng tôn giáo

để chống phá nhà nước và chia rẽ khối đại đoàn kết. Để thực hiện được điều

này, yếu tố con người là quan trọng nhất.

3.3.2. Một số khuyến nghị

- Trung ương cần ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư thực hiện

các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng biên

giới, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số để ổn định và nâng cao

đời sống, vật chất, tinh thần.

- Các bộ ngành Trung ương cần thông tin kịp thời về tình hình đạo mới,

đạo lạ; hướng dẫn cụ thể về chế tài để thống nhất trong việc xử lý các hoạt động

truyền đạo ngoài cơ sở thờ tự, phát tán tài liệu tôn giáo ngoài luồng và một số

hoạt động trái phép khác của các tôn giáo.

- Chính quyền cấp tỉnh, trung ương cần quan tâm, ban hành cơ chế phối

hợp và hỗ trợ kinh phí để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động quần chúng

trong vùng dân tộc - tôn giáo; nhất là vùng có đông tín đồ tôn giáo, vì hiện nay

hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên của từng

đơn vị nên ít nhiều cũng khó khăn và bị động.

- Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn về cập nhật thông tin và

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác tôn giáo

các cấp và lực lượng nòng cốt phong trào của MTTQ và các đoàn thể chính trị

- xã hội.

- Đối với tỉnh cần tăng cường chỉ đạo các ngành chức năng, cấp ủy, chính

76

quyền các huyện, thị xã, thành phố chủ động phối hợp nắm bắt tình hình hoạt

động của các tổ chức tôn giáo, nắm bắt giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng

chính đáng, hợp pháp của chức sắc, tín đồ các tôn giáo như: đất đai, hướng dẫn

thực hiện các quy định về xây dựng, sữa chữa và tổ chức sinh hoạt,…

- Đối với những người đứng đầu các tổ chức tôn giáo cần phối hợp với

các cơ quan chuyên môn và UBND thành phố khảo sát, rà soát lại diện tích đất

đang sinh hoạt tôn giáo, gặp gỡ, trao đổi để đi đến thống nhất, cùng thương

lượng, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan và giữa các tôn giáo như

vân đề đất đai tôn giáo, xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất; hướng dẫn thực hiện các quy định về xin phép xây dựng,

sửa chữa để dần đi vào nền nếp.

Tiểu kết Chương

Dựa trên các phân tích thực trạng ở chương 2, trong chương này, luận

văn đã đưa ra một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách

tôn giáo, yếu tố khách quan và chủ quan để đem lại cái nhìn bao quát hơn về

thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo, và làm rõ một số vấn đề đặt ra liên

quan đến chất lượng và hiệu quả của việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo.

Bên cạnh các bất cập trong ban hành chính sách ở cấp trung ương, các vấn đề

chủ yếu xoay quanh bộ máy thực thi chính sách tại địa phương, từ khâu lên kế

hoạch đến khâu tổng kết đánh giá hoạt động. Tuy nhiên, các vấn đề đều có thể

được tháo gỡ bằng các giải pháp cụ thể, nếu được các cáp chính quyền quan

tâm và đầu tư đúng mực. Các khuyến nghị mà luận văn nêu nhằm mục đích kêu

gọi sự quan tâm hơn nữa của các cấp chính quyền cho công tác QLNN đối với

chính sách tôn giáo, giúp cho các đơn vị, ban ngành địa phương, cụ thể là thành

phố Châu Đốc có thể quản lý tốt hơn các hoạt động tôn giáo và tình hình tôn

giáo trên địa bàn, phát huy được vai trò của chính quyền trong đời sống tinh

77

thần, tôn giáo của người dân.

KẾT LUẬN

Tôn giáo nói chung và chính sách tôn giáo nói riêng có nét đặc thù riêng,

đa dạng và phức tạp, việc thực thi chính sách do đó càng cần phải linh hoạt và

nhạy bén. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mac – Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận quan trọng và là kim chỉ nam để

Đảng và Nhà nước xây dựng, ban hành và thực thi chính sách tôn giáo. Trong

mỗi thời kỳ khác nhau, với các hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế khác

nhau, Đảng và Nhà nước luôn dựa trên các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, để thể hiện rõ các quan điểm, chủ

trương, chính sách đúng đắn, duy trì sự ổn định xã hội thông qua các chính sách

nói chung và chính sách tôn giáo nói riêng.

Với sự vận động không ngừng của xã hội, để thích ứng với điều kiện

thực tế, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật,

trong đó quan trọng nhất cần đề cập đến là Pháp lệnh Tín ngưỡng – Tôn giáo

ban hành năm 2004, và tiếp theo là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành

năm 2016. Sau khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực, tình hình thực thi tôn

giáo trên cả nước nói chung và thành phố Châu Đốc nói riêng đã có nhiều

chuyển biến. Đảng đã đưa vấn đề tôn giáo lồng ghép trong các cương lĩnh và

văn kiện của Đảng, không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của tôn giáo – tín

ngưỡng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước trở thành một quốc

gia với ”dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính phủ cũng

ban hành rất nhiều văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực thi Luật Tín ngưỡng,

tôn giáo cho các địa phương.

Là địa phương có nhiều cộng đồng dân cư có tôn giáo khác nhau, chính

quyền thành phố đã rất nỗ lực ban hành các văn bản, kế hoạch để đưa chính

sách tôn giáo vào đời sống của người dân. Nhờ các nỗ lực, thành phố đã thu

được các kết quả quan trọng như: các tổ chức tôn giáo được tự do sinh hoạt

78

theo đúng hiến chương và giáo luật cũng như quy định của pháp luật, các cộng

đồng tín đồ có đạo có thể tự do hội họp, sinh hoạt công khai, có trật tự, giúp

cho công tác quản lý của chính quyền địa phương được dễ dàng hơn; các kết

quả đạt được trong QLNN về tôn giáo đã góp phần duy trì sự ổn định và an

ninh, xã hội; thông qua các hoạt động tuyên truyền và tập huấn, nhận thức của

các cấp và người dân về tôn giáo được nâng cao. Bên cạnh đó, với sự phổ biến

đúng đắn và đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, và sự

quan tâm sát sao của chính quyền địa phương, khoảng cách giữa các tổ chức

tôn giáo, các chức sắc, chức việc và các cán bộ thực thi chính sách cũng như

đại diện chính quyền được thu hẹp, lấy được sự đồng thuận của các tín đồ nói

chung trên địa bàn.

Trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo, tuy nhiên, chính quyền

thành phố vẫn bộc lộ một số hạn chế, khiến chính sách không mang lại hiệu

quả như mong đợi. Các hạn chế thể hiện qua khâu xây dựng và ban hành các

văn bản, kế hoạch, văn bản chưa đồng bộ và kế hoạch hành động còn thiếu sáng

tạo, rập khuôn, ít thực tế. Cơ chế phối hợp giữa các đơn vị chưa linh hoạt và

chặt chẽ, nguồn nhân lực chưa được đầu tư về lượng cũng như về chất.

Để việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo đạt được các kết quả quan

trọng góp phần đem lại lợi ích cho người dân và xã hội, thành phố cần chú trọng

hơn đến các hoạt động tuyên truyền, cũng như cải tổ và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực. Đây là hai yếu tố vô cùng quan trọng giúp cho hoạt động quản

lý và thực thi chính sách tôn giáo được thực hiện hiệu quả nhất. Các giải pháp

này cần rất nhiều sự quan tâm và đầu tư của các cấp chính quyền cấp tỉnh, trung

ương, đặc biệt là nguồn ngân sách để duy trì các hoạt động cải thiện khâu thực

thi chính sách, để chính quyền thành phó có thể thực sự đưa chính sách vào đời

sống người dân và được duy trì lâu dài, đạt được các mục tiêu mà Đảng và Nhà

79

nước đã đề ra.