VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN ÚT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

ĐỐI VỚI NGƯỜI KHMER Ở TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN ÚT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

ĐỐI VỚI NGƯỜI KHMER Ở TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8.34.04.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHÚ VĂN HẲN

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn

trích dẫn và số liệu trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác

cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn là trung thực, chưa được ai

công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Út

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học Xã

hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đã tạo điều kiện thuận lợi về

mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu tại đây.

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến thầy, cô, những người phụ trách

khoa Chính sách công đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm

quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại Học viện.

Xin chân thành cảm ơn TS Phú Văn Hẳn, đã tận tình hướng dẫn, chỉ

dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi hoàn

thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, những người đã gắn bó và

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và cũng như trong quá trình thực hiện luận

văn tốt nghiệp.

Xin cảm ơn!

An Giang, tháng năm 2019

Học viên

Phạm Văn Út

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO . 9

1.1. Khái quát về tôn giáo .......................................................................................... 9

1.2. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ................................... 13

1.3. Chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay ..................................................... 20

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 24

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI

VỚI ĐỒNG BÀO NGƯỜI KHMER Ở TỈNH AN GIANG .............................. 25

2.1. Khái quát về đồng bào người Khmer tỉnh An Giang ...................................... 25

2.2. Nội dung thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào người Khmer tỉnh

An Giang ................................................................................................................... 31

2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An

Giang ......................................................................................................................... 61

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 66

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NGƯỜI KHMER Ở

TỈNH AN GIANG .................................................................................................. 67

3.1. Quan điểm cho việc tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo đối

với người Khmer ở tỉnh An Giang .......................................................................... 67

3.2. Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả chính sách tôn giáo đối với

đồng bào người Khmer ở tỉnh An Giang ................................................................ 68

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 77

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCNVN : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

CT : Chỉ thị

CSXH : Chính sách xã hội

ĐĐKDT : Đại đoàn kết dân tộc

KĐĐKTDT : Khối Đại đoàn kết toàn dân tộc

KHXH : Khoa học Xã hội

KHXHVN : Khoa học Xã hội Việt Nam

: Nghị quyết NQ

: Phật giáo Hòa Hảo PGHH

: Trung ương TƯ

: Trung ương TW

: Ủy ban nhân dân UBND

UBMTTQVN : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về phân công và phối hợp của các chủ

thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang ............................................................................................................... 33

Bảng 2.2. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ........... 37

Bảng 2.3. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác xây dựng, ban hành văn

bản quản lý thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang .................................................................................................. 41

Bảng 2.4. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ... 45

Bảng 2.5. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác duy trì, điều chỉnhthực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ........... 54

Bảng 2.6. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

......................................................................................................................... 58

Bảng 2.7. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác đánh giá tổng kết thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang ........... 60

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

An Giang là địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer. Hầu hết

đồng bào người Khmer ở đây đều theo đạo Phật giáo Nam Tông. Từ khi

đổi mới (1986) đến nay, đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội vùng

đồng bào Khmer ở An Giang luôn ổn định và từng bước vươn lên. Để

không ngừng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn, giúp cho đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng hải đảo và vùng biên giới có

những điều kiện thuận lợi để phát triển và hội nhập; Đảng và chính quyền

tỉnh An Giang đã có những chủ trương, chính sách trong đó đối với các dân

tộc Khmer.

Để nâng cao hiệu quả hơn nữa việc thực hiện chính sách tôn giáo đối

với đồng bào người Khmer theo Phật giáo Nam Tông ở tỉnh An Giang, phát

huy những mặt tích cực, xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy

động được đông đảo đồng bào Khmer theo đạo vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, qua đó đáp ứng được ước nguyện sống “tốt đời đẹp đạo”

của đông đảo đồng bào Khmer. Hơn nữa, chiến lược “diễn biến hòa bình”

của các thế lực thù địch đã và đang tìm cách khống chế, xóa bỏ chế độ xã

hội chủ nghĩa. Tôn giáo là vấn đề mà các thế lực thù địch luôn lợi dụng để

công kích, tuyên truyền, xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, để

đòi ly khai, tự trị gây chia rẻ đại đoàn kết dân tộc. Đề tài “Thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang” được làm đề tài luận

văn tốt nghiệp nhằm có những hiểu biết đầy đủ, đánh giá khoa học những

thành tựu đã đạt được trong công tác tôn giáo, thực hiện chính sách đối với

đồng bào có đạo, cụ thể đối với cộng đồng Khmer theo Phật giáo Nam

Tông ở An Giang, từ đó có thể có những đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao công tác thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở

An Giang.

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đã có nhiều bài báo khoa học, luận văn viết về đề tài này, nhưng ở

các địa phương khác nhau và nhiều góc độ khác nhau.

Công tác quản lý của Nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông Khmer

ở An Giang, Ban Tôn giáo An Giang, 2008. Trong đó, trong nghiên cứu

của mình tác giả đã nêu lên tình hình hoạt động của Phật giáo Nam Tông

Khmer ở An Giang, vai trò, vị trí của Phật giáo Nam Tông đối với đời sống

tinh thần của đồng bào người Khmer ở An Giang. Làm rõ những thành quả

đạt được trong công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo nói chung và

việc sinh hoạt tôn giáo của đồng bào theo Phật giáo Nam Tông Khmer nói

riêng, đồng thời nêu lên những thiếu sót và đề ra phương hướng thực hiện

tốt công tác quản lý của Nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông Khmer ở

An Giang [12].

Tác giả Nguyễn Thu Thủy (2001) với công trình nghiên cứu khoa

học Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam

đối với đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã trình bày khái

quát một số chính sách đối với đồng bào người Khmer ở đồng bằng sông

Cửu Long trước 1975; cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định chính sách của

Đảng về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer trong thời kỳ

1975-2000 và chính sách dân tộc của Đảng [67].

Tác giả Trần Thanh Nam (2001) trong tác phẩm nghiên cứu khoa học

của mình: Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam

Bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay, đã phân tích vai trò của đời sống tinh

thần trong sự phát triển xã hội, các yếu tố thuộc đời sống tinh thần nói

chung, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer đồng

bằng sông Cửu Long nói riêng, trong đó có nhiều yếu tố thuộc văn hóa và

2

những yếu tố ảnh hưởng đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người

Khmer của đồng bằng sông Cửu Long [51].

Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Nam Bộ

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-1975). Đề tài khoa

học do Ủy ban dân tộc và miền núi, cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở

Nam Bộ thực hiện, 2000 -2001, đã trình bày khá chi tiết các cuộc đấu tranh

chống áp bức bóc lột, bất công của đồng bào dân tộc Khmer cũng như sự

đoàn kết đấu tranh của các dân tộc trong vùng nhằm chống áp bức, chống

xâm lược bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc từ trước khi Đảng Cộng sản

Việt Nam thành lập cho đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải

phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).

Tác giả Phạm Phương Hoa (2013) với Bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng và tự do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay, (Luận văn

Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội), cung cấp những tri

thức khoa học cơ bản về quyền của người có tín ngưỡng, tôn giáo; pháp luật

về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế; giúp người đọc

nhận thức rõ hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật

của Nhà nước Việt Nam. Luận văn nêu lên thực trạng và những bất cập

trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người có tín ngưỡng, tôn giáo ở

Việt Nam, từ đó nêu ra một số giải pháp cho việc bảo đảm thực hiện quyền

của người có tín ngưỡng, có tôn giáo ở Việt Nam [41].

Tác giả Vũ Hoàng Hải (2016), Thực hiện chính sách tôn giáo từ thực

tiễn tỉnh Phú Thọ (luận văn Thạc sĩ chính sách công, Học viện KHXHVN),

căn cứ vào cơ sở lý luận, thực tiễn của việc ban hành và thực hiện chính

sách tôn giáo được nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ những thành tựu cũng

3

như những hạn chế trong công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú

Thọ [34].

Ngoài ra còn nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của

Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là các bài

viết: Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của

Đảng và Nhà nước của Đặng Tài Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); Trở

lại những quan điểm đổi mới về tôn giáo của Nghị quyết 24 của Nguyễn

Thanh Xuân (Công tác tôn giáo, số 2/2005); Quá trình nhận thức của Đảng

về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua cương

lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ đổi mới đến nay (Nghiên cứu tôn giáo, số

1/2011), Luận văn thạc sĩ – Nguyễn Thị Diệu Thúy – Mã số 603810 về

Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân Việt Nam – Những

vấn đề lý luận và thực tiễn; đặc biệt là cuốn sách Tôn giáo và chính sách

tôn giáo ở Việt Nam, của Ban Tôn giáo Chính phủ, đã giúp có cái nhìn toàn

diện hơn về tình hình tôn giáo; hiểu rõ quan điểm nhận thức tư duy lý luận

mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn

giáo trong thời kỳ hiện nay.

Các công trình nghiên cứu nêu trên từ nhiều góc độ nghiên cứu khoa

học khác nhau đã đề cập đến hàng loạt vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín

ngưỡng của đồng bào người Khmer ở tỉnh An Giang nói riêng và đồng

bằng sông Cửu Long nói chung; liên quan đến củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc. Tuy nhiên vấn đề thực hiện chính tôn giáo cụ thể đối với

người Khmer ở An Giang vẫn còn bỏ ngõ cần được nghiên cứu, tìm hiểu.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

4

Luận văn làm rõ chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà

nước ta về chính sách tôn giáo, xây dựng hệ thống lý luận về thực hiện

chính sách tôn giáo, phân tích và làm rõ việc thực hiện chính sách tôn giáo

đối với ngời Khmer ở tỉnh An Giang. Đồng thời, tác giả dựa trên những

đánh giá khách quan, khoa học trong nghiên cứu đó để có thể đề xuất

những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa việc thực hiện

chính sách tôn giáo và nâng cao công tác vận động đồng bào người Khmer

thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước góp

phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng bào

Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những

nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính

sách tôn giáo;

- Phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer ở tỉnh An Giang dưới góc độ khoa học chính sách công.

- Đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách tôn giáo đối

với người Khmer ở tỉnh An Giang.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách tôn giáo đối với

người Khmer và thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer cụ thể

ở An Giang.

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

5

Đề tài tập trung nghiên cứu các chính sách tôn giáo đối với người

Khmer và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer tại tỉnh

An Giang giai đoạn từ đổi mới đến nay (1986-2018).

5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở luận

Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà

nước về tôn giáo, về hoạt động tôn giáo cụ thể đối với đồng bào Khmer ở

An Giang, các cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khoa học

chính sách công.

Ngoài ra những cơ sở lý luận thuộc chuyên ngành dân tộc học, nhân

học và tôn giáo học cũng sẽ được vận dụng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê, phân tích số liệu, tổng hợp số liệu, giải thích

các thuật ngữ liên quan được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu.

Phương pháp quan sát (tiếp cận đối tượng nghiên cứu, không gian

nghiên cứu để làm rõ các vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn) kết hợp phương

pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn để thu thập các thông tin về thực

tiễn thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.

Thực hiện đề tài là một tổng thể vận dụng một số kiểu nghiên cứu

khác nhau với các tiếp cận dân tộc học, nhân học, tôn giáo, xã hội học và

luật học. Các nghiên cứu tập trung vào đánh giá chính sách và tác động xã

hội của chính sách, nghiên cứu sự đáp ứng và thích ứng của nhóm dân cư

6

thuộc cộng đồng tôn giáo đối với chính sách và thực tiễn cộng đồng dân

tộc, tôn giáo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn hệ thống hóa lý thuyết về thực hiện chính sách tôn giáo đối

với đồng bào người Khmer, làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer; góp phần làm phong phú thêm sự hiểu

biết lý luận về thực hiện chính sách tôn giáo.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài nghiên cứu luận văn đã chỉ ra một số hạn chế trong việc thực

thi chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng

bào dân tộc Khmer ở An Giang nói riêng như: xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer; tuyên truyền chính sách;

phân công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer;

đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm từ đó cung cấp những vấn đề có giá trị

tham khảo cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer ở tỉnh An Giang. Luận văn cung cấp thông tin khách quan cho

các cơ quan, ban, ngành về công tác dân tộc trong quá trình hoạch định và

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, luận văn được bố cục theo 03

chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách tôn giáo ở

người Khmer tỉnh An Giang.

7

Chương 2: Việc thực hiện chính sách đối với người Khmer ở tỉnh An

Giang.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI

VỚI ĐỒNG BÀO NGƯỜI KHMER

1.1. Khái quát về tôn giáo

1.1.1. Một số hiểu biết liên quan tôn giáo

Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh

và con người” [17, tr.12]. Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo:

“Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên” [17, tr.12]. Một số nhà tâm lý học

lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của

mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ

có tôn giáo” [17, tr.13].

Theo Khoản 5, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 thì: Tôn

giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động

bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức [53].

Với sự thiếu hụt điểm dựa tinh thần, con người thường có xu hướng

tìm đến thế lực siêu nhiên, tìm đến tôn giáo. Tùy nhu cầu và nhận thức của

từng người mà tôn giáo sẽ phát huy những đặc tính vốn có của mình. Con

người khi theo một tôn giáo nào đó, có thể bắt nguồn từ ý thức của bản

thân nhưng cũng có thể là do vô thức, chịu ảnh hưởng bởi những người

xung quanh. Khi con người đủ kiến thức để nhận định về thế giới xung

quanh mình, việc chuyển đổi tôn giáo có thể xảy ra nếu nhận thấy một tôn

giáo khác phù hợp với cách sống, với niềm tin của mình hơn.

Về chính trị, ở những nước có quốc giáo, chính phủ thường đứng sau

vì quyền lợi và do môi trường, người dân nước ấy thuận lợi trong các hoạt

động tôn giáo của mình. Chính quyền của quốc giáo cũng không hoặc ít tạo

9

điều kiện nếu không muốn nói là ngăn cấm việc truyền những tôn giáo lạ

vào. Trừ những tôn giáo nảy nở thông qua quan hệ hôn nhân thì các tôn

giáo khác khó du nhập và phát triển được.

Về kinh tế, ở những nước không có quốc giáo, người dân tự do lựa

chọn tôn giáo của mình, thì đây sẽ là những mảnh đất để các tôn giáo cạnh

tranh lẫn nhau. Mỗi tôn giáo đều cố gắng phát huy tối đa thế mạnh của

mình tại quốc gia hay vùng đất. Tùy từng đối tượng tín đồ mà mỗi tôn giáo

có cách tiếp cận cũng như thu hút riêng. Trong đó, kinh tế là một yếu tố

quan trọng để tôn giáo có thể xâm nhập vào đời sống của tín đồ. Tôn giáo

nào có sức mạnh tài chính hơn, biết sử dụng nguồn tiền một cách hợp lý để

giúp đỡ tín đồ, thì dễ dàng lấy được lòng tin của họ. Một mặt tôn giáo sẽ

nâng cao hiệu lực quản lý, làm xã hội ổn định hơn; nhưng ngược lại, tôn

giáo cũng có thể phá vỡ tính ổn định xã hội, phá vỡ trật tự được định ra từ

trước, gây ra những bất ổn xã hội. Tôn giáo vừa có lợi và vừa có hại đối

với quản lý xã hội.

1.1.2. Tôn giáo với ổn định chính trị và phát triển cộng đồng hiện

nay

Châu Âu vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX đã chứng kiến sự

xuất hiện của nhiều nhóm giáo phái tôn giáo mới có nguồn gốc khác nhau

từ Kitô giáo, các tôn giáo phương Đông do người nhập cư mang đến, số

nhóm tôn giáo mới khác lại có xuất xứ từ Mỹ… Hầu hết các quốc gia Châu

Âu đều xuất hiện một vài phong trào tôn giáo mới ngay trong đời sống tôn

giáo của quốc gia mình. Theo tổ chức INFORM có khoảng 3000 tổ chức

tôn giáo mới đang hiện diện ở Châu Âu với số lượng tín đồ khiêm tốn, rất

ít giáo phái có số lượng tới 1000 thành viên. Phản ứng của xã hội Châu Âu

đối với tôn giáo mới là thái độ nghi ngờ và thù địch [26].

10

Theo Sueki Fumhiko, ở Nhật Bản, các tôn giáo mới được hình thành

vào cuối thời Mạc Phủ - Tokugawa mà: “ngày nay người ta gọi tổng thể

những tôn giáo này là Tân tôn giáo (Shin-Shukyo) đối lập với những tôn

giáo có từ trước” [57, tr.255] như các giáo phái Reiyukai (Linh hữu hội),

Gedatsukai (Giải thoát hội), Thiên lý giáo (Tenri-Kyo), Hắc tú giáo

(Kutozumi-Kyo), Kim Quang giáo (Konko-Kyo). Tuy nhiên, sự chuyển đổi

tôn giáo cũ (trước đó) sang tôn giáo mới ở Nhật Bản chỉ thật sự bùng nổ từ

sau 1945, các học giả Nhật bản thường gọi là: “Thời khắc bùng nổ của các

vị thần” [26]. Việc chuyển đổi tôn giáo ở Nhật Bản, có thể hiểu được

nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa cho sự bùng nổ tôn giáo ở

quốc gia này.

Trung Quốc là quốc gia đa tôn giáo và dân tộc, trên phương diện tôn

giáo có nhiều điểm tương đồng với lịch sử, truyền thống tôn giáo Việt

Nam. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc thường gọi là “Tà giáo” hay tôn

giáo “hỗn tạp” đối với các tôn giáo mới hay sự chuyển đổi từ tôn giáo cũ

sang niềm tin tôn giáo khác. Các hình thức đó xảy ra vào cuối thời Minh-

Thanh như: các hệ phái từ “Bạch liên xã”, “Cầu nguyện giáo”, “Hoàng liên

giáo”, “Hoàng thiên giáo”, “Hồng nhật giáo” cho đến tận ngày nay như:

“Nhất Quan đạo”, “Pháp luân công”… Chu Việt Lợi cho rằng Tà giáo hoạt

động mê tín tràn lan, hiện tượng khoa học giả, phù thủy, thuật lưu hành

cũng thường giương cao ngọn cờ tôn giáo, gây khó khăn nghiêm trọng cho

sự phát triển của các tôn giáo hợp pháp” [48, tr.71], vì thế quan điểm của

Trung Quốc là “kiểm soát, điều tiết tín ngưỡng, tôn giáo” và “cải cách tôn

giáo để thích ứng trong xã hội Trung Quốc” [48, tr.115].

Hoa Kỳ là nơi có nhiều chủng tộc, dân tộc khác nhau di cư tới mang

theo văn hóa, tôn giáo khác biệt đến. Ở đó, qua nhiều thế hệ hội nhập vào

đời sống xã hội Hoa Kỳ, đồng thời ra sức bảo lưu, gìn giữ truyền thống văn

11

hóa, tôn giáo của mình, hình thành ở Hoa Kỳ một bức tranh hết sức phức

tạp giữa quan điểm, thái độ, ứng xử đối với sự xuất hiện tôn giáo khác. Chủ

lưu áp đảo lớn nhất ở Hoa Kỳ vẫn là Kitô giáo (bao hàm Công giáo, Chính

thống giáo và Tin lành) [15, tr.23], là cơ sở thực tiễn cho quan điểm, thái

độ và quan hệ ứng xử của xã hội Hoa Kỳ với các tôn giáo khác.

Ở góc độ khác, ở Nam Bộ và cụ thể ở An Giang đang nổi lên một số

vấn đề về sự đa dạng dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo đã làm nên bản

sắc phong phú, là ưu thế cho phát triển bền vững của địa phương. Bên cạnh

đó, trong sự phát triển về kinh tế, xã hội thì Nam Bộ và cả An Giang còn

tiềm ẩn những động lực cho các kiểu loại hành động tập thể, phong trào xã

hội khác nhau và các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới. Cơn lốc kiếm

tiền và sự may rủi của thời buổi kinh tế thị trường đã khiến nhiều người

dân tộc thiểu số đi tìm sự độ trì của lực lượng “siêu nhiên” thông qua sự

cầu xin và cúng dường. Mặt khác, cùng với “diễn biến hòa bình” các tôn

giáo gia tăng ảnh hưởng, các giáo phái nước ngoài thâm nhập ngày càng

nhiều vào các tầng lớp dân cư các tộc người thiểu số ở đây cụ thể đối với

người Khmer (An Giang), đã và đang tác động mạnh mẽ, chứa đựng nhiều

nguy cơ gây mất ổn định xã hội và an ninh quốc gia.

Từ đó, những tác động đến sự phát triển ổn định tôn giáo trong đời

sống xã hội các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Nam Bộ còn thể hiện khá rõ nét

trong các chính sách thực thi về tôn giáo trong thời gian gần đây. Hiện nay,

việc đánh giá về công tác thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo

trong cộng đồng người thiểu số phần nào còn khiên cưỡng và chưa phù hợp

với thực tế khách quan của phát triển vùng. Những biến đổi kinh tế mạnh

mẽ ở Nam Bộ đang dẫn đến những biến đổi về môi trường, xã hội, văn hóa

đặc biệt trong tín ngưỡng, tôn giáo một cách nhanh chóng, kích hoạt những

12

xung lực xã hội tiềm tàng, tạo nên cả cơ hội lẫn thách thức sự ổn định và

khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Vì thế, không thể đơn giản hóa các vấn đề tôn giáo bằng cách quy

vào khuôn khổ pháp luật. Việc nghiên cứu, hình thành cơ sở lý thuyết và

chính sách cho tín ngưỡng tôn giáo thật sự khoa học phải xuất phát từ

những nguyên nhân tác động cả bên trong lẫn bên ngoài làm phát sinh hiện

tượng tín ngưỡng tôn giáo là vấn đề quan tâm của nhiều ngành khoa học

nhằm có những đánh giá khách quan để tìm ra những giải pháp phù hợp

cho sự phát triển ổn định, bền vững của đồng bào thiểu số tại chỗ ở Nam

Bộ trong tương lai cụ thể đối với cộng đồng dân tộc Khmer ở An Giang.

1.2. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo

1.2.1. Khái niệm chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn

giáo

Chính sách tôn giáo là những chính sách xã hội về tôn giáo nhằm

quy định những chuẩn mực, những quy chế về tôn giáo để phù hợp với

thực trạng xã hội hiện tại của một quốc gia. Chính sách tôn giáo nhằm giúp

cân bằng xã hội, nhằm củng cố và phát triển những sự gắn kết xã hội để

cho các bộ phận tôn giáo hòa hợp với nhau [42, tr.21].

Thực hiện chính sách tôn giáo là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí

của chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong

chu trình chính sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc

sống. Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc nhiều vào năng

lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi chính sách [35].

1.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo

13

Từ quan điểm đổi mới của Đảng lần lượt các chính sách pháp luật về

tôn giáo được ban hành như: Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, Nghị định số

22/2005/NĐ-CP, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo

năm 2016… Các chính sách này đã cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong

lĩnh vực tôn giáo.

Các cơ quan làm nhiệm vụ tham mưu, kiến nghị với Nhà nước về thể

chế chính sách tôn giáo thành pháp luật, văn bản dưới luật, tạo hành lang

pháp lý để các tổ chức tôn giáo hoạt động chính là Ban Tôn giáo Chính phủ

thuộc Bộ Nội vụ. Thẩm quyền của Ban Tôn giáo Chính phủ đối với việc

quản lý hoạt động tôn giáo được quy định cụ thể tại Nghị định số

162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ về việc quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

Ngoài các chủ thể hoạch định và trực tiếp ban hành chính sách và các

chủ thể trực tiếp tư vấn đề hoạch định, xây dựng chính sách cho Đảng, Nhà

nước còn có các chủ thể trực tiếp và gián tiếp tham gia triển khai, tổ chức,

thực thi chính sách tôn giáo cụ thể có các Bộ, ngành như: Bộ Công An, Bộ

Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng,

Bộ Tài nguyên môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương. Tại Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định

nhiệm vụ các cơ quan là:

Bộ Công an là đơn vị được Nhà nước giao trọng trách quan trọng và

theo nhiệm vụ của mình linh hoạt phối hợp trong công tác đảm bảo về mặt

an ninh tôn giáo, đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo được thực hiện theo

đúng các quy định của pháp luật, vừa đảm bảo các hoạt động đó không ảnh

hưởng đến an ninh quốc gia, vừa đảm bảo an toàn, bình thường cho các tổ

14

chức tôn giáo, đồng thời khẳng định nhất quán chính sách tự do tín

ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp là đại diện của khối Đại

đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc các cấp dựa vào chức năng nhiệm

vụ của mình phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành và UBND các tỉnh tuyên

truyền phổ biến các chủ trương chính sách Tôn giáo, cũng như giám sát

việc thực hiện chính sách tôn giáo từ Trung ương đến địa phương.

1.2.3. Các bước thực hiện chính sách tôn giáo

* Phổ biến thực hiện chính sách

Tuyên truyền phổ biến chính sách tôn giáo là công tác rất quan trọng

là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc thực hiện

chính sách. Để quá trình thực thi, thực hiện chính sách tôn giáo diễn ra hiệu

quả cần thường xuyên tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách tôn giáo cho

các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ làm công tác tuyên truyền; xây

dựng các văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách tôn

giáo gửi cho các bộ, ban ngành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngoài ra cũng có

thể gửi đăng tải trên các báo tạp chí, các trang thông tin điện tử để các chức

sắc, chức việc và đồng bào theo đạo biết để thực hiện.

* Duy trì và điều chỉnh chính sách Tôn giáo

Trong quá trình thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn do môi

trường thực tế thay đổi, chính sách tôn giáo xuất hiện những bất cập, hạn

chế, không còn phù hợp với thực tiễn thì cán bộ trực tiếp làm công tác tôn

giáo cần phải chủ động tham mưu, đề xuất với các cơ quan ban hành chính

sách tôn giáo điều chỉnh chính sách và áp dụng các giải pháp, biện pháp

15

thực hiện chính sách tôn giáo phù hợp với điều kiện thực tế phát triển của

đất nước, nhưng không làm thay đổi mục tiêu chung.

* Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là một nhiệm vụ, là một khâu quan trọng

trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

giúp kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách tôn giáo, đồng thời

chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu

lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu của chính sách tôn giáo. Việc theo dõi,

đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc

thiểu số nói riêng và các chính sách dân tộc nói chung là hết sức cần thiết

đối với quá trình thực hiện chính sách tôn giáo.

* Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm là khâu, là nhiệm vụ quan

trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo. Để từ

đó đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính xác kết quả thực hiện chính

sách tôn giáo. Để tổng kết và đánh giá chính xác ngoài các tiêu chí còn

phải căn cứ vào các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất giữa các cơ

quan tham gia phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo.

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo

1.2.4.1. Các yếu tố khách quan

Thứ nhất, âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng

Việt Nam của các thế lực thù địch.

Trong lịch sử nước ta, vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc

tìm cách triệt để lợi dụng để phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá

cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trong âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống

16

phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực phản động và thù

địch vẫn triệt để lợi dụng tôn giáo như con bài hết sức lợi hại để thực hiện

mục đích đen tối của chúng. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ

nước, cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc,

hòa chung niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử,

góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam. Tôn trọng và

phát huy những giá trị nhân văn của tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã

được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Đây là cơ sở để

các tôn giáo ở nước ta hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Thế nhưng,

trong những năm gần đây, các thế lực phản động và thù địch đang lợi dụng

vấn đề tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

Đảng, Nhà nước ta.

Thứ hai, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng

Việt Nam của các thế lực thù địch.

Trong tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo

đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến và tiếp tục

phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn

giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp

hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, sống "tốt đời, đẹp đạo", "kính Chúa yêu nước" được ghi nhận và tôn

vinh.

Thế nhưng hiện nay, các thế lực phản động đang lợi dụng vấn đề tự

do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc của Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức xuyên tạc sự thật về tình hình

tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và

Nhà Nước ta, vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo… Nhằm mục đích chia

17

rẽ sự đoàn kết lương giáo, chia rẽ các tôn giáo với nhau, tách các tôn giáo

ra khỏi khối đại đoàn kết toàn dân. Chúng triệt để lợi dụng các hiện tượng

"dâng sao, giải hạn", "gọi hồn", "thỉnh vong báo oán" … đã và đang sảy ra

tại một số điểm thờ tự như chùa Phúc Khánh, Hà Nội, chùa Ba Vàng,

Quảng Ninh để thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc rồi vu khống cho rằng các

cấp chính ở các địa phương quyền bao che. Từ đó, trực tiếp chĩa mũi nhọn

sang công kích chính quyền.

Mặt khác, chúng thường lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của

bộ phận nhân dân để khống chế, kích động quần chúng, tuyên truyền chống

phá chế độ. Lợi dụng thần quyền và hệ thống tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức

mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động, khống chế quần

chúng, phá rối trật tự an ninh, gây bạo loạn. Lôi kéo một số chức sắc, cốt

cán trong các tổ chức tôn giáo rồi móc nối, cấu kết giữa những phần tử

phản động trong nước với bọn phản động bên ngoài để kích động, gây rối

tình hình an ninh chính trị của đất nước. Lợi dụng những sơ hở thiếu sót

của chính quyền địa phương trong giải quyết, xử lý các vụ việc liên quan

đến tín ngưỡng, tôn giáo... để xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà

nước trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền.

1.2.4.2. Các yếu tố chủ quan

Một, quá trình xây dựng chính sách tôn giáo.

Trước tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, với chính sách tự do

tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt

Nam, đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu

nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với

đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát

triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo

18

an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc

đổi mới quê hương, đất nước. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ

chức tôn giáo được in ấn kinh sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức

sinh hoạt bình thường. Hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn

giáo ngày càng được mở rộng. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng

cố; quan hệ của tôn giáo với Nhà nước ngày càng được hoàn thiện.

Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo

những năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi,

tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn

giáo; các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật,

tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ

thiện, xây dựng đời sống văn hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.

Hai, quá trình thực hiện chính sách tôn giáo.

Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn hóa, tôn giáo đã góp

phần lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền thống văn

hóa, mang giá trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời

sống xã hội, thông qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị

tha, bác ái... Những giới điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo

đức và nhân văn sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con

người. Nhiều khu dân cư có đông đồng bào theo tôn giáo trở thành điểm

sáng về phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội

khác, giữ gìn tốt an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tín đồ, chức sắc tích cực

tham gia phát triển kinh tế xã hội, góp phần vào công cuộc xây dựng và

19

bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Dù mỗi tôn

giáo đều có đường hướng và phương châm hành đạo riêng nhưng đều

chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo” gắn bó đồng hành với

dân tộc, với đất nước.

Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng

chính quyền các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nông

thôn mới, phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước

cứu trợ thiên tai, chăm lo giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ

tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa,...

Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp

chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và

nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các

tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo

vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, thông qua việc thực hiện tốt

các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích và tinh

thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

1.3. Chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay

Mọi người Việt Nam đều: “có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc

không theo một tôn giáo nào” [54, tr.593]. Các nhà tu hành được tự do

giảng đạo tại các cơ sở thờ tự. Người cho rằng: “việc cúng bái tổ tiên hoàn

toàn là một hiện tượng xã hội” [44, tr.479]. Người luôn giáo dục cán bộ,

đảng viên tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của mọi người. Do vậy,

người Việt Nam dù là dân tộc đa số hay thiểu số, theo tín ngưỡng này hay

tôn giáo khác, ở trong nước hay ở nước ngoài vẫn vọngvề quê hương xứ

20

sở, nơi có mồ mà tổ tiên, có những anh hùng tiên liệt đã từng hy sinh vì

nước, vì dân để giữ gìn cội nguồn của mình.

Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo

những năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi,

tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn

giáo; các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật,

tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ

thiện, xây dựng đời sống văn hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.

Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam

đã có nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, như

Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); đặc biệt sau khi có Nghị

quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa IX) về “công tác tôn giáo”, các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương

trình hành động; nhiều tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về công

tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất

trong hệ thống chính trị thực hiện công tác tôn giáo.

Nhiều tỉnh, thành đã tích cực giải quyết việc lập hồ sơ, xét cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để

các tôn giáo sinh hoạt bình thường, đúng theo tinh thần Nghị quyết hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về Công tác tôn

giáo đã nêu: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân, đã, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam.

21

Việc in ấn, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn

giáo, việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng

trong việc truyền đạo thực hiện theo qui chế nhà nước về in, xuất bản, sản

xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm hàng hóa.

+ Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân

dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn

dân tộc.

+ Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết

toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết

đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn

giáo và đồng bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt

đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống

tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

+ Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Động viên đồng bào nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc

lập và thống nhất Tổ quốc thông qua thực hiện tốt các chính sách kinh tế -

xã hội, an ninh – quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của

nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

+ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; trong

đó, các tổ chức quần chúng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý

Nhà nước đối với các tôn giáo.

- Công tác tôn giáo, chính sách tôn giáo:

22

+ Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình

phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân

dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

+ Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng

chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh với những

hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối

đại đoàn kết toàn dân tộc.

+ Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống tốt

đời, đẹp đạo trong quần chúng, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ cở. Xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi

mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Tăng cường thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của

Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo; tự

giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi

dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

chống đối chế độ.

+ Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với

đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

23

Tiểu kết chương 1

Chương 1 tập trung làm rõ một số nội dung liên quan cơ sở các lý

luận về tôn giáo, những hiểu biết về tôn giáo, chính sách công và chính

sách tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo như: Khái niệm tôn giáo, chính

sách tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo, chủ thể và các bước thực hiện

chính sách tôn giáo. Bên cạnh đó, nội dung chương 1 cũng tập trung nghiên

cứu, trình bày làm rõ đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và tư

tưởng Hồ Chi Minh về tôn giáo, về chính sách tôn giáo. Hiểu biết đầy đủ

về tôn giáo, những vấn đề về tôn giáo, cộng đồng tôn giáo, chính sách tôn

giáo để giúp cho việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề về hiện trạng thực

hiện chính sách tôn giáo đối với dân tộc Khmer ở An Giang cũng như có

những đánh giá mức độ thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào

Khmer và đề xuất những giải pháp có thể triển khai tốt hơn việc thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở An Giang. Kết quả nghiên cứu

tại chương 1 sẽ giúp tác giả định hướng, nghiên cứu rõ hơn các nội dung tại

chương 2 của luận văn.

24

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI

ĐỒNG BÀO NGƯỜI KHMER Ở TỈNH AN GIANG

2.1. Khái quát về đồng bào người Khmer tỉnh An Giang

2.1.1. Đồng bào người Khmer trong không gian kinh tế - xã hội tỉnh

An Giang

An Giang là một tỉnh miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực Đồng bằng

sông Cửu Long, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, diện tích tự

nhiên 353.676 ha, trong đó có 279.996 ha đất sản xuất nông nghiệp; là tỉnh

vừa có đồng bằng, vừa có núi và có đường biên giới dài gần 100 km, giáp

với 02 tỉnh Takeo và Kandal thuộc Vương quốc Campuchia; có 02 cửa

khẩu quốc tế là Xuân Tô (huyện Tịnh Biên), Vĩnh Xương (thị xã Tân Châu)

và 02 cửa khẩu Quốc gia là Khánh Bình và Vĩnh Hội Đông (huyện An

Phú); Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số còn có 28 dân tộc thiểu số với

119.219 người (28.481 hộ), chiếm 5,26% so dân số cả tỉnh, bao gồm: Dân

tộc Khmer 93.717 người (chiếm 4,2% dân số toàn tỉnh); dân tộc Chăm

15.327 người (chiếm 0,67%); dân tộc Hoa 10.079 người (chiếm 0,38%) và

25 dân tộc thiểu số khác với tổng số 96 người sinh sống. Mỗi dân tộc ở An

Giang đều có tập quán truyền thống và nét văn hóa riêng góp phần tạo nên

bản sắc đậm đà văn hóa dân tộc, tạo nên nét văn hóa riêng của người dân

vùng đồng bằng Nam Bộ là thật thà và mến khách. Tuy nhiên ở mỗi dân

tộc có truyền thống văn hóa riêng, tạo nên những điểm riêng ở từng nơi của

từng dân tộc. Chẳng hạn, đặc điểm riêng của người dân tộc Khmer ở An

Giang sinh sống tập trung ở hai huyện miền núi, biên giới (Tri Tôn, Tịnh

Biên), hầu hết theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng rãi với đồng

25

bào dân tộc Khmer các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở

Campuchia.

2.1.2. Tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer ở tỉnh An Giang

Theo thống kê năm 2019, toàn tỉnh An Giang có 2.159.859 người,

với 543.764 hộ. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số còn có 28 dân tộc thiểu số

với 119.219 người,chiếm 5,26% so dân số cả tỉnh, Trong đó dân tộc Khmer

có 93.717 người (chiếm 4,2%); dân tộc Chăm có 15.327 người (chiếm

0,66%); dân tộc Hoa có 10.079 người (chiếm 0,38%) và 25 dân tộc thiểu số

còn lại chỉ có96 người sinh sống.

Qua kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2017

theo chuẩn mới (nghèo đa chiều) của tỉnh An Giang: Tổng số hộ toàn tỉnh

có 543.359 hộ (hộ dân tộc 26.565 hộ), trong đó:

+ Tổng số hộ nghèo: 28.461 hộ, tỷ lệ: 5,24%; hộ nghèo dân tộc thiểu

số: 5.721 hộ, tỷ lệ: 21,48%/ tổng số hộ dân tộc thiểu số. Riêng hộ nghèo

Khmer có 4.937 hộ chiếm 13,44%.

+ Tổng số hộ cận nghèo: 34.020 hộ, tỷ lệ: 6,26% ; hộ cận nghèo dân

tộc thiểu số: 2.013 hộ, tỷ lệ: 7,57 %/ hộ dân tộc thiểu số. Riêng hộ cận

nghèo Khmer 637 hộ.

Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số hằng năm giảm từ 3 đến 4% năm.

Tỉnh An Giang có 18 xã đặc biệt khó khăn/119 xã tỷ lệ 15,12% và 12

ấp đặc biệt khó khăn thuộc 10 xã, trong đó có 8 xã khu vực III và 10 xã biên

giới theo Quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Thủ tướng

Chính phủ và Quyết 414/QĐ-UBDT ngày 11/7/2017 của Ủy ban Dân tộc.

Người Khmer An Giang đã di cư đến các tỉnh miền Đông Nam Bộ và

Thành phố Hồ Chí Minh nơi có các khu công nghiệp để lập nghiệp. Số

26

người Khmer tham gia lao động và tìm kiếm việc làm ở các khu công

nghiệp đến nay là 15.260 người, tập trung chủ yếu ở 07 huyện, thị, thành

phố của tỉnh. Ngoài ra, người Khmer An Giang còn đi làm ăn, mua bán tại

Campuchia: 106 hộ với 576 người, đi làm ăn, mua bán tại Malaysia, Ả

Rập: 10 hộ 80 người và không nắm được địa chỉ đi lao động là: 450 hộ với

1.659 người.

Người Khmer là dân tộc Việt Nam định cư lâu đời ở An Giang.Hiện

nay người Khmer sống tậptrung ở 87 ấp thuộc 31 xã, thị trấn trên địa bàn

tỉnh và tập trung đông ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Dân tộc Khmer có

quan hệ khá chặt chẽ với thân nhân, dòng tộc bên ngoài như Campuchia,

Thái Lan... Đồng bào Khmer theo Phật giáo Nam Tông (gồm 02 hệ phái:

Mahanikai - Đại chúng; Thomadut - Hoàng tộc); toàn tỉnh có 66 chùa,

trong đó có một chùa được công nhận kiến trúc nghệ thuật cấp Trung ương,

một chùa là di tích khảo cổ và sáu là chùa di tích văn hóa. Đời sống văn

hoá tinh thần và các thiết chế cộng đồng của người Khmer gắn với nhà

chùa. Đồng bào dân tộc Khmer có các lễ lớn trong năm: Lễ Sen Đônta vào

tháng 10 Âm lịch, Tết Chôl Chhnăm Thmây vào tháng 04 Âm lịch, Lễ

Cúng trăng Okombok và các ngày lễ trọng khác theo phong tục tập quán

cộng đồng.

Cơ sở vật chất chùa chiền được nhà nước hỗ trợ xây dựng, sửa chữa

ngày càng khang trang hơn. Việc tu học của chư tăng được Ban Trị sự Giáo

hội Phật giáo Việt Nam tỉnh An Giang và chính quyền địa phương quan tâm,

giúp đỡ, hỗ trợ kinh phí xây dựng, sửa chữa chùa, trợ giúp mở các lớp sơ

cấp Pali, mỗi năm hàng tỷ đồng; hỗ trợ xây dựng lò hỏa táng cho 22 chùa.

Hỗ trợ kinh phí đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 57/66

chùa Khmer. Thăm hỏi tặng quà cho các tự viện vào các ngày lễ trọng của

27

dân tộc Khmer như Tết Chôl Chnăm Thmây, lễ Đôl Ta… Hỗ trợ cho tự viện

trong việc đăng ký, bổ nhiệm trụ trì và bầu lại Ban quản trị chùa.

Ở tỉnh An Giang, người Khmer có dân số xếp thứ hai sau người

Kinh, đặc biệt người Khmer của tỉnh đa số ở vùng sâu, vùng biên giới, đời

sống của họ vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn.

Theo chủ trương, chính sách được xác định tại Nghị quyết 09-

NQ/TU ngày 23/10/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về

phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm

2010 và định hướng đến năm 2015. Để tiếp tục thực hiện Chỉ thị 68-

CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về

công tác ở vùng dân tộc Khmer, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang

đã quán triệt thông suốt từ tỉnh đến cơ sở, được các cấp, các ngành triển

khai đồng bộ. Sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân

các cấp, các sở, ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đẩy mạnh phát triển

kinh tế xã hội, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, ban hành nhiều

chính sách kêu gọi ưu đãi đầu tư đối với các xã đặc biệt khó khăn, xã biên

giới, xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Tỉnh An Giang có đường biên giới dài gần 100km, giáp với Vương

quốc Campuchia. Tỉnh có 18 xã biên giới, 38 xã dân tộc (Quyết định số

447/QĐ-UBDT), 23 xã khó khăn theo Quyết định 1049/2014/QĐ-TTg và

16 xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định 204/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ. Các tộc người thiểu số tỉnh An Giang đa số là người Khmer

(chiếm gần 80% dân tộc thiểu số của tỉnh), sinh sống trên 28 xã, thuộc 5

huyện và tập trung nhiều nhất ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Do đó, số

lượng hộ nghèo trong các tộc người thiểu số của tỉnh nhiều nhất là nhóm

hộ người Khmer ở hai huyện này [7].

28

Toàn tỉnh có 66 chùa Phật giáo Nam Tông có trên 1.273 sư sãi

Khmer (hàng năm xuất, nhập tu trên 385 vị). Vùng người Khmer ở An

Giang có nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, nhưng còn

nhiều khó khăn do điều kiện phát triển còn hạn chế. Đến cuối năm 2015,

toàn tỉnh có 19.840 hộ nghèo, 26.270 hộ cận nghèo. Theo chuẩn nghèo đa

chiều giai đoạn 2016 - 2020, toàn tỉnh có 45.789 hộ nghèo chiếm 8,45%,

dân tộc thiểu số 7.295 hộ nghèo chiếm 27,46%; hộ cận nghèo 27.876 hộ

chiếm 5,15%, dân tộc thiểu số có 1.067 hộ cận nghèo chiếm 4,02%) [8].

Việc bảo tồn phát triển ngành nghề truyền thống cho vùng đồng bào dân

tộc thiểu số luôn được quan tâm đầu tư khôi phục, phát triển, UBND tỉnh đã

xây dựng “Đề án phát triển sản xuất thủ công nghiệp cho đồng bào dân tộc

Khmer và Chăm, giai đoạn 2008 - 2012”. Trong đó, vùng dân tộc có hai làng

nghề và bốn nghề tiểu thủ công nghiệp như làng nghề dệt thổ cẩm ở xã Văn

Giáo (huyện Tịnh Biên), làm đường thốt nốt, nghề làm gốm, Hợp tác xã Dệt

thêu Châu Giang, nghề làm lạp xưởng bò…Ủy ban nhân dân tỉnh hỗ trợ cho

1.110 nông dân người Khmer ở hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, xây dựng 36 mô

hình sản xuất tiên tiến, xây dựng 54 điểm trình diễn kỹ thuật, hỗ trợ vốn, giống

cây trồng vật nuôi, với kinh phí thực hiện 15 tỷ đồng. Tỉnh đã triển khai xây

dựng mới 66 cơ sở hỏa táng ở 05 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Thành, Châu

Phú và Thoại Sơn. Tỉnh đã hỗ trợ phục dựng các nhạc cụ dân tộc Khmer, góp

phần gìn giữ bảo tồn văn hóa dân tộc [2].

Về mặt hạn chế: Công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước trong vùng đồng bào có còn hạn chế, nội

dung chưa phong phú, hình thức chưa thật sự phù hợp đặc điểm dân tộc, số

lượng người tham gia các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở còn ít. Các

chính sách hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc chưa mang tính đặc thù phù hợp

đặc điểm về phong tục tập quán sống, quy mô lao động, trình độ tay nghề,

29

thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt chưa có giải pháp đào tạo chuyển đổi

ngành nghề để lao động có thể tìm việc làm trong và ngoài tỉnh. Một bộ

phận người Khmer còn nghèo, thiếu đất ở, đất sản xuất, khó có điều kiện

vươn lên; khoảng cách giàu nghèo trong đồng bào ngày càng lớn; ngành

nghề truyền thống liên tục gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ nên

ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống người dân. Việc bảo tồn văn hóa truyền

thống của bà con dân tộc còn nhiều bất cập, thiếu nguồn lực và vật lực để

bảo tồn và phát huy văn hóa cộng đồng. Một số thiết chế văn hóa Khmer

đang dần xuống cấp, mai một theo thời gian. [2]

Về mặt tích cực: Qua quá trình công tác dân tộc thiểu số Khmer có

thể nhận thấy nơi nào cấp ủy, chính quyền quán triệt tốt chính sách dân tộc,

tôn trọng dân, công bằng, minh bạch tài chính, quan tâm tập trung cho mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng tộc người thiểu số, thì nơi đó thực hiện

tốt công tác dân tộc, tạo được sự đồng thuận, tin tưởng cao, người dân sẽ

ủng hộ, nỗ lực hợp tác cùng với Đảng và Nhà nước, phấn đấu vươn lên

thoát nghèo, cuộc sống được ấm no hạnh phúc, thông qua đó, an ninh chính

trị, trật tự - xã hội cũng được giữ vững. Các ban, ngành chức năng làm tốt

công tác lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư vào vùng tộc người

thiểu số như các chương trình mục tiêu quốc gia với các chương trình viện

trợ của các tổ chức phi chính phủ có cùng mục tiêu sẽ làm cho giá trị, qui

mô công trình, dự án được nâng lên gấp nhiều lần, hiệu quả kinh tế, xã hội

càng được nâng cao. Việc vận hành cơ chế phối hợp với các ban, ngành

liên quan ở địa phương thông qua các chương trình, kế hoạch liên ngành thì

công tác dân tộc sẽ thực hiện hiệu quả công tác. Phát huy tốt vai trò của các

vị chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, xác

định đây là lực lượng tiêu biểu nòng cốt. Quan tâm thực hiện tốt công tác

đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số ở các cấp để nắm bắt tâm tư

30

2.2. Nội dung thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào

người Khmer tỉnh An Giang

2.2.1. Chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở

tỉnh An Giang

Thực hiện chính sách tôn giáo nói chung và chính sách tôn giáo đối

với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng, Tỉnh ủy An Giang

là chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách, Ủy ban nhân dân tỉnh là

chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer. Tuy nhiên,

việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer cần sự phân công,

phối hợp chặt chẽ của các đơn vị chuyên môn cũng như các đơn vị liên

quan đến công tác này.

Tỉnh ủy An Giang đã lãnh, chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phối hợp cùng Ban Dân tộc, Ban Tôn

giáo, Ban Dân vận, Ban Tuyên giáo tỉnh thường xuyên xây dựng các kế

hoạch thực hiện chính sách trên cơ sở các chủ trương, đường lối và chính

sách của Trung ương về vấn đề tôn giáo của người Khmer; đã phối hợp các

ban, ngành, đoàn thể của tỉnh và huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tổ

chức tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách tôn giáo của Nhà nước

đến các tổ chức tôn giáo và người dân Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang.

Các tổ chức đoàn thể như: Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội Nông dân

tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Tỉnh đoàn, Hội Cựu chiến binh tỉnh đã tích

cực tham gia công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo thực hiện tốt các

chính sách về tôn giáo trên địa bàn, cho hội viên, đoàn viên.

Theo đó, các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công tác vận động

tín đồ tôn giáo người Khmer được chú trọng, đã cử cán bộ thực hiện chính

sách tôn giáo đến từng khu phố, chùa chiền để nói chuyện, nắm bắt được

31

tâm tư nguyện vọng của chức sắc, tín đồ. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh

chỉ đạo Ban Tôn giáo tỉnh An Giang, huyện, thị xã tiếp đón các đoàn, tổ

chức tôn giáo quốc tế, các phong viên báo chí nước ngoài để nhằm đấu

tranh làm rõ chính sách tôn giáo của nước ta và tình hình tự do tín ngưỡng,

tôn giáo ở nước ta.

Có thể nói, thời gian qua, An Giang đã ban hành nhiều chính sách

kêu gọi ưu đãi đầu tư đối với các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã có

đông đồng bào dân tộc người Khmer sinh sống; đẩy mạnh phát triển kinh tế

biên mậu, phát huy lợi thế du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước

đến tham quan, tạo đòn bẩy phát triển kinh tế xã hội vùng Bảy Núi có đông

đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Hằng năm, tỉnh thành lập nhiều đoàn

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án ở vùng đồng bào

dân tộc thiểu số, nhằm kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kiến của

người dân để điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế, nhất là

chính sách về nhà ở, đất ở, chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm,

đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc

thiểu số.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội

và lực lượng vũ trang trong tỉnh chủ động đổi mới nội dung, phương thức

hoạt động hướng mạnh về cơ sở; tăng cường phối hợp, làm tốt công tác

tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa

phương; trong đó, tập trung các giải pháp phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ

tầng, đảm bảo an sinh xã hội; tổ chức các phong trào thi đua với nhiều mô

hình đem lại hiệu quả được đông đảo bà con hưởng ứng, từ đó đời sống vật

chất, tinh thần trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ngày càng được cải

thiện; sinh hoạt văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy.

32

Bảng 2.1. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về phân công và phối hợp của các

chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

TT Nội dung đánh giá ĐTB

1 2 3 4 5

Các chủ thể thực hiện

chính sách theo sự phân

công nhiệm vụ rõ ràng và

có sự phối hợp chặt chẽ 1 9,4 16,7 37,5 32,3 4,2 3,05 với nhau trong quá trình

thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer

trên địa bàn tỉnh An Giang

Các chủ thể hiểu rõ và

nhận thức rõ về thực hiện

2 chính sách tôn giáo đối 13,5 19,8 47,9 16,7 2,1 2,74

với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang

Các chủ thể thực hiện

chính sách tôn giáo đối

với người Khmer trên địa 3 4,17 27,08 52,08 11,45 5,21 2,86 bàn tỉnh An Giang nhiệt

tình và sẵn sàng giúp đỡ

các đối tượng chính sách

33

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.1 cho thấy, công tác phân công, phối hợp

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang chưa thực sự tốt. Khi có 2/3 tiêu chí được đánh giá dưới mức 3 (Mức

đánh giá trung bình). Chỉ có tiêu chí “Các chủ thể thực hiện chính sách

theo sự phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ với nhau

trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang” được đánh giá với 3,05/5 điểm. Sở dĩ có kết quả trên là

vấn đề chính sách tôn giáo nói chung và đối với người Khmer nói riêng

luôn là vấn đề nhạy cảm cần được quan tâm nhưng rất khó triển khai.

2.2.2. Công tác chỉ đạo, lãnh đạo về thực hiện chính sách tôn giáo

đối với người Khmer

Thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng (khoá VI) về công tác ở vùng dân tộc Khmer. Tỉnh đã xác định

công tác dân tộc, tôn giáo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nhằm

góp phần phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng

an ninh; hướng mạnh vào mục tiêu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói

giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển

kinh tế - văn hoá - xã hội, giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc trong

cộng đồng dân cư. Tỉnh cũng đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa để chỉ

đạo quán triệt và tổ chức thực hiện trong toàn Đảng bộ như: Chương trình

hành động số 09-CTr/TU, ngày 16-6-2003 “Về công tác dân tộc trong tình

hình mới”, Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 23-01-2007 “Về phát triển kinh

tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2015”; Chương trình hành động số 25-CTr/TU, ngày 26-8-

34

2013 “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

dân vận trong tình hình mới”; Quyết định số 425-QĐ/TU ngày 09-03-2012

của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc ban hành Quy định về đối tượng, tiêu

chuẩn, thẩm quyền cử cán bộ đào tạo sau đại học từ nguồn kinh phí nhà

nước; Nghị quyết số 15/2011/NQ-HĐND ngày 09-12-2011 của Hội đồng

nhân dân tỉnh về chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức và chính sách thu hút, khuyến khích người có trình độ sau đại học

trên địa bàn tỉnh...để thực hiện các Nghị quyết và Chỉ thị của Trung ương

và Chính phủ.

Riêng đối với đồng bào Khmer ở Nam Bộ nói chung và tỉnh An

Giang nói riêng, mỗi thời kỳ cách mạng Đảng và Nhà nước ta đều có

những chính sách cụ thể, thể hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; khẳng định 3 vấn đề lớn đối với

đồng bào Khmer:

Một, xác định chính sách và việc thực hiện chính sách đối với đồng

bào Khmer phải đặc biệt quan tâm chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, văn

hóa, giáo dục, y tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh nthần cho đồng

bào, giúp đồng bào Khmer hội nhập với sự phát triển chung của khu vực và

đất nước.

Hai, tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào; bảo vệ

chùa chiền, sư sãi, phong tục tập quán của đồng bào Khmer; tạo điều kiện

cho các sinh hoạt của Phật giáo Nam Tông được diễn ra thuận lợi; phát huy

vai trò của nhà chùa, của sư sãi và phật tử yêu nước; bảo tồn và phát huy

những di sản văn hoá, những giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc.

35

Ba, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nêu cao tinh thần

cảnh giác, đấu tranh chống âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn

đề tôn giáo, dân tộc chống phá cách mạng.

Nhìn chung, các nghị quyết trên tập trung giải quyết những vấn đề

bức thiết đối với đồng bào Khmer về tín ngưỡng tôn giáo, khẳng định

quyền tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật, bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa của đồng bào, chú trọng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng

bào có đạo đảm bảo đồng bào sống “tốt đời, đẹp đạo”, đập tan âm mưu chia

rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần củng cố, tăng cường Khối

đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới.

Thực hiện nghị quyết trên, Đảng và Nhà nước đã có những quyết

định cụ thể như: Cho phép các chùa Khmer có mẫu dấu thống nhất và mỗi

chùa đều có con dấu để tiện cho việc sinh hoạt và quản lý con người, tài

sản của các chùa; thỏa thuận với Campuchia cho nhập, dịch kinh sách và

phát cho các chùa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tu học của các sư tăng,

đồng ý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam cấp chứng điệp cho các sư tăng

Khmer, hỗ trợ kinh phí cho các điển chù Khmer có lớp học, trang bị sách,

vỡ, đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong các điểm

chùa; hỗ trợ kinh phí và cấp đất cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng

Học viện Phật giáo Nam Tông tại thành phố Cần Thơ. Đảng bộ và chính

quyền các địa phương đã đề ra các chương trình hành động, chỉ thị, nghị

quyết nhằm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng như: Nghị

quyết 01 của tỉnh Ủy An Giang về công tác dân tộc trong vùng Khmer và

kế hoạch hành động số 04 (1991), Đề án số 01 của Ủy ban nhân dân tỉnh

An Giang về hỗ trợ nhà ở đối với hộ cực nghèo vùng đồng bào Khmer và

chương trình hành động số 17-CT/TƯ (09-6-2003) về thực hiện Nghị quyết

hội nghị lần thứ bảy khóa IX…

36

So với các địa phương khác, An Giang có sự đa dạng hơn về tôn

giáo. Theo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang, toàn tỉnh có

hơn 530 cơ sở thờ tự hợp pháp của các tôn giáo và còn một số cơ sở thờ tự

có nguồn gốc tôn giáo chưa được công nhận; có gần 590 chức sắc và gần

3.400 chức việc. Tỉnh có các trung tâm tôn giáo lớn đóng trên địa bàn như:

Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo (PGHH), Tòa Giám mục giáo

phận Long Xuyên, Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh… và còn nhiều

cơ sở chưa được công nhận. Dù địa bàn có nhiều dân tộc, đa tôn giáo, đông

tín đồ và nhiều cơ sở thờ tự, có tôn giáo gắn liền với dân tộc, nhưng đồng

bào tôn giáo luôn nâng cao đạo đức, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp

đạo”, góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

Được sự hướng dẫn của Ban Tôn giáo Chính phủ, chính quyền tỉnh

An Giang đã quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, chủ trì phối hợp với các cấp, các

ngành để giải quyết các vấn đề tôn giáo đúng quy định của pháp luật. Đồng

thời, tranh thủ được sự đồng tình của chức sắc, tín đồ các tôn giáo và dư

luận xã hội, từ đó hoạt động của PGHH đi dần vào ổn định, chấp hành pháp

luật; mối quan hệ giữa chính quyền với các chức việc, tín đồ PGHH ngày

càng gần gũi, cởi mở và thân thiện. Các hoạt động đạo sự của Giáo hội

PGHH phát triển đa dạng, phong phú, tạo được niềm tin trong tín đồ, từ đó

phát huy mặt tích cực trong công tác từ thiện xã hội của tín đồ PGHH.

Bảng 2.2. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

TT Nội dung đánh giá ĐTB

1 2 3 4 5

37

Công tác chỉ đạo, lãnh

đạo thực hiện chính sách

tôn giáo đối với người 1 2,1 28,1 33,3 21,9 14,5 3,19 Khmer trên địa bàn tỉnh

An Giang thường xuyên,

liên tục

Đảm bảo phù hợp với

thực tiễn tình hình tôn 2 10,4 15,6 40,6 21,9 11,5 3,08 giáo của người Khmer

trên địa bàn tỉnh

Đảm bảo lợi ích thực sự

cho đối tượng thụ hưởng 3 4,2 35,4 41,7 13,5 6,3 2,85 chính sách tôn giáo trên

địa bàn tỉnh An Giang

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.2 cho thấy, “Công tác chỉ đạo, lãnh đạo

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang thường xuyên, liên tục” là tiêu chí được đánh giá cao nhất với 3.19/5

điểm thể hiện việc sâu sát của chính quyền địa phương trong công tác,

chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang. Bên cạnh đó, tiêu chí “Đảm

bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách tôn giáo trên địa

bàn tỉnh An Giang” lại chưa được đánh giá cao khí có gần 40% người được

hỏi đánh giá nội dung này dưới 3 điểm và 41,7% người được hỏi đánh giá 3

điểm. Sở dĩ cóa kết quả trên là thời gian qua do tình hình kinh tế - xã hội

của tỉnh An Giang nói chung và của đồng bào Khmer nói riêng còn rất khó

38

khăn nên việc triển khai có hiệu quả chính sách là rất khó khi các điều kiện

đảm bảo thực hiện chính sách là vốn và nhân lực cũng như cở sở hạ tầng

thực hiện chính sách đều rất hạn chế.

2.2.3. Việc xây dựng, ban hành các văn bản thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer tỉnh An Giang

Trong thời gian qua, tỉnh An Giang nghiêm túc triển các các văn bản

của Nhà nước về chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào dân tộc thiểu

số nói chung và đồng bào Khmer nói riêng:

Quyết định 124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Bảo tồn phát

triển văn hóa dân tộc thiểu số miền núi”; Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày

10/9/2014 của thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước về công tác dân tộc.

Quyết định 1527/QĐ-UBND năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh về

việc ban hành Kế hoạch “Triển khai chương trình hành động thực hiện

Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh An Giang;

Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 23/01/2017 của Ủy ban nhân dân

tỉnh về thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào

dân tộc thiểu số gắn với Mục tiêu phát triển bền vững theo Quyết định số

1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Kế hoạch 171/KH- UBND ngày 01/4/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh

về việc thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân

nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”;

Kế hoạch 196/KH- UBND ngày 11/4/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh

triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

39

Quyết định 459/QĐ-UBND năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh về

công bố danh mục thủ tục hành chính lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thuộc

thẩm quyền giải quyết của Sở Nội vụ tỉnh An Giang;

Quyết định 12/2018/QĐ- TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng Chính

phủ về tiêu chí lực chọn, công nhận người có uy tín và chính sách đối với

người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.

40

Bảng 2.3. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác xây dựng, ban

hành văn bản quản lý thực hiện chính sách tôn giáo đối với người

Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá Nội dung/ tiêu chí đánh ĐTB TT giá 1 2 3 4 5

Hệ thống văn bản về quản

lý tôn giáo và dân tộc

Khmer của tỉnh An Giang 1 2,1 22,9 38,5 27,1 9,4 3,19 được xây dựng thống nhất

với chủ trương, chính sách

Đảng, Nhà nước

Hệ thống văn bản quản lý

minh bạch, phù hợp với

2 thực tiễn tình hình chính 8,3 31,3 32,3 17,7 10,4 2,91

sách tôn giáo đối với đồng

bào Khmer

Hệ thống văn bản được bàn 3 21,9 30,2 44,8 11,5 2,1 2,73 hành linh hoạt và kịp thời

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát về hệ thống văn bản quản lý thực hiện chính sách

tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang cho thấy, nội

dung này được đánh giá tương tự như nội dung về công tác lãnh đạo, chỉ

đạo thực hiện chính sách. Tiêu chí “Hệ thống văn bản về quản lý tôn giáo

41

và dân tộc Khmer của tỉnh An Giang được xây dựng thống nhất với chủ

trương, chính sách Đảng, Nhà nước” được đánh giá cao nhất vì hiện nay,

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác dân tộc, tôn giáo, giao Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kết hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ và

Ủy ban Dân tộc thường xuyên triển khai các chính sách sách phù hợp nhằm

tăng cường hiệu quả hơn nữa chính sách tôn giáo đối với người dân tộc

thiểu số nói chung và đối với người Khmer nói riêng.

2.2.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách tôn giáo đối với

người Khmer tỉnh An Giang

Xác định công tác tôn giáo là “công tác vận động quần chúng”, Ban

Tôn giáo tỉnh An Giang đã quan tâm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo

dục, phổ biến chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động

tôn giáo, thường xuyên tổ chức các lớp tuyên truyền với sự tham gia đông

đủ của các chức việc PGHH và đạt được kết quả tốt. Bên cạnh đó, kết hợp

linh hoạt biện pháp tuyên truyền giáo dục và biện pháp xử lý hành chính;

thường xuyên thông tin đầy đủ, kịp thời những âm mưu, hoạt động của đối

tượng cực đoan trong và ngoài nước đến chức sắc, chức việc và bà con tín

đồ PGHH; làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời ngăn chặn, vô hiệu hóa

hoạt động của số đối tượng cực đoan chống đối; củng cố, hoàn chỉnh hồ sơ

để xử lý bằng pháp luật những đối tượng cầm đầu, ngoan cố, chống đối để

ổn định tình hình an ninh trật tự.

Qua đó, bà con tín đồ, đồng bào dân tộc thực hiện tốt các chủ trương,

đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và pháp luật tín

ngưỡng, tôn giáo nói riêng; đề cao cảnh giác đối với những phần tử xấu lợi

dụng tôn giáo, dân tộc để chia rẽ, làm mất trật tự xã hội và an ninh quốc gia.

42

Phối hợp với Sở Tư Pháp triển khai tổ chức tuyên truyền phổ biến

pháp luật cho học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Nội dung chủ yếu

tập trung vào luật giao thông đường bộ, tảo hôn và hôn nhân cận huyết

thống, các chính sách liên quan đến học sinh dân tộc thiểu số. trong năm đã

tổ chức được 04 cuộc với hơn 500 học sinh dân tộc tại các trường dân tộc

nội trú tham gia, cấp phát hơn 500 quyển tài liệu pháp luật với kinh phí

thực hiện hơn 40.000.000 đồng.

Tổ chức lớp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào

dân tộc thiểu số tỉnh An Giang năm 2018 tại các huyện Thoại Sơn, An Phú,

Châu Phú và thành phố Châu Đốc về Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Biên

giới quốc gia, Luật Hôn nhân gia đình, Luật giao thông đường bộ, tín

ngưỡng tôn giáo, tảo hôn…Hình thức chủ yếu là tuyên truyền miệng thông

qua báo cáo viên của Sở tư Pháp. Qua các cuộc tuyên truyền, Ban tổ chức

đã cấp phát gần 2500 tờ bướm tuyên truyền đến đồng bào. Kinh phí thực

hiện 36.000.000 đồng.

Phối hợp với Tỉnh Đoàn tổ chức thành công hội thi Rung Chuông

Vàng tìm hiểu luật giao thông đường bộ cho học sinh dân tộc thiểu số tại 2

trường Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Tri Tôn và Tịnh Biên. Có tổng số

70 học sinh dân tộc thiểu số tham gia hội thi. Kết quả trong top 10 có 2 em

đạt giải xuất sắc, tổng kinh phí thực hiện là 16.000.000 đồng.

Thực hiện 05 lớp tuyên truyền chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu

số khu vực biên giới năm 2018 tại các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, An Phú,

Thị xã Tân Châu và Thành phố Châu Đốc. Nội dung: Tuyên truyền, phổ

biến các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước về công tác dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn

tỉnh An Giang năm 2018, Luật Biên giới quốc gia; Nghị định 34/2014/NĐ-

43

CP của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thông tin về tình hình bầu cử Campuchia năm

2018, hội nghị đã thu hút gần 400 người tham gia, cấp phát hơn 400 quyển

tài liệu tuyên truyền, Kinh phí thực hiện: 60.000.000 đồng.

Tổ chức 03 lớp tuyên truyền, phổ biến, vận động nâng cao nhận thức

của đồng bào DTTS trong hôn nhân và tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống

năm 2018 trên địa bàn các huyện Tịnh Biên, An Phú, TX. Tân Châu. Đối

tượng tuyên truyền là thanh niên, vị thành niên (nam, nữ) là người dân tộc

thiểu số chưa kết hôn, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, người có uy

tín, cán bộ cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ở ấp. Số lượng

người tham gia trên 200 người, cấp phát hơn 200 bộ tài liệu, Kinh phí thực

hiện: 50.000.0000 đồng. Bên cạnh đó mở lớp hướng nghiệp cho thanh niên

dân tộc thiểu số năm 2018 tại huyện Tri Tôn, nội dung hướng dẫn thanh

niên những mô hình khởi nghiệp hiệu quả trong tỉnh, cách thức lập dự án

và tạo lập nguồn vốn khởi nghiệp… Hội nghị thu hút hơn 70 thanh niên

dân tộc thiểu số, kinh phí thực hiện gần 16.000.000 đồng.

Tổ chức liên hoan thanh niên 4 dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang:

Trong tháng 12 năm 2018, Ban Dân tộc phối hợp cùng Tỉnh Đoàn An

Giang tổ chức liên hoan thanh niên 4 dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer trên

địa bàn 5 huyện biên giới. Liên hoan sẽ là dịp để các thanh niên được gặp

gỡ, trao đổi kinh nghiệm, học tập mô hình sản xuất hiệu quả từ huyện bạn.

Giao lưu văn nghệ, thời trang dân tộc, giao hữu thể thao giữa các huyện

nhằm thắt chặt tình đoàn kết trong các cộng đồng dân tộc tỉnh An Giang.

Kinh phí tổ chức trên 40.000.000 đồng.

Trong năm 2018, Ban Tôn giáo tỉnh đã tham mưu Ban Chỉ đạo công

tác tôn giáo tỉnh mở 01 lớp cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị;

44

phối hợp cùng với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh tổ chức lớp triển khai

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) cho 113

chức sắc, chức việc trên địa bàn. Bên cạnh đó, còn phối hợp cùng Ban Đại

diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh và Ban Đại diện Đạo hội Tứ ân Hiếu nghĩa

tổ chức 02 lớp phổ biến pháp luật và công tác hành chính đạo cho chức sắc,

chức việc với số lượng là 100 người/lớp. Ngoài ra, còn tham gia báo cáo

quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng,

tôn giáo tại 20 lớp bồi dưỡng do các ngành, các cấp và tôn giáo tổ chức.

Bảng 2.4. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

ĐTB TT Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5

Nội dung phổ biến, tuyên

truyền về thực hiện chính

1 sách tôn giáo đối với người 4,2 15,6 47,9 20,8 11,5 3,20

Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang

Hình thức tổ chức phổ

biến, tuyên truyền thực

2 hiện chính sách tôn giáo 10,4 22,9 43,8 16,1 7,3 2,86

đối với người Khmer trên

địa bàn tỉnh An Giang

Phương pháp tổ chức phổ 3 11,5 28,1 39,6 19,8 1,1 2,71 biến, tuyên truyền thực

45

hiện chính sách tôn giáo

đối với người Khmer trên

địa bàn tỉnh An Giang

Hoạt động phối hợp tổ

chức phổ biến, tuyên

truyền thực hiện chính sách 8,3 30,2 37,5 20,8 3,1 4 2,80 tôn giáo đối với người

Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang

Công tác chỉ đạo tổ chức

phổ biến, tuyên truyền thực

5 hiện chính sách tôn giáo 7,3 11,5 44,8 27,1 9,4 3,19

đối với người Khmer trên

địa bàn tỉnh An Giang

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang: Nội dung

phổ biến, tuyên truyền về thực hiện chính sách tôn giáo đối với người

Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang và Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến,

tuyên truyền thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang được đánh giá tương đối tốt, ngược lại Hình thức và

phương pháp tổ chức phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách tôn giáo

đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang chưa được đánh giá tốt

với 2,94/5 điểm và 2,86/5 điểm. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực

hiện chính sách tôn giáo của tỉnh An Giang thời gian qua khi đa số việc

46

tuyên truyền phố biến pháp luật, chính sách chủ yếu sử dụng các văn bản

hành chính và thông qua đài truyền hình, truyền thanh cùa tỉnh, trong khi

đó trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay việc tiếp cận công

nghệ là một việc không hề khó đối với hầu hết người dân.

2.2.5. Thực trạng công tác duy trì, điều chỉnh thực hiện chính sách

tôn giáo đối với người Khmer tỉnh An Giang

Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, rõ ràng, ưu

đải đối với người dân tộc, trong đó có người Khmer. Đảng, chính quyền

các cấp thực sự quan tâm chăm sóc đối với người dân tộc, thực hiện tốt chủ

trương chính sách của đảng, Nhà nước đối với người dân tộc, trong đó có

người Khmer, thông qua các đề án lớn như: Hỗ trợ học phí, đất ở, đất sản

xuất, vay vốn chuyển nghề..…từ đó góp phần xóa đói giảm nghèo, đời sống

người dân Khmer từng bước được cải thiện, tạo được niềm tin của người

Khmer, đối với đảng, chính quyền các cấp.

Trong quá trình lãnh chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh An

Giang bán sát vào tình hình thực tế trên địa bàn tỉnh nhà thấy được vấn đề

chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Nam Tông Khmer liên quan mật thiết

với chính sách dân tộc đối với đồng bào dân tộc Khmer nên có sự phối hợp,

lồng ghép giữa hai chính sách này.

* Thực hiện Chương trình 135: Đã triển khai với tổng vốn đầu tư

161.112 triệu đồng; trong đó, vốn Trung ương 148.814 triệu đồng, còn lại

là ngân sách địa phương và khai thác nguồn vốn khác (chưa tính phần tự

nguyện đóng góp của người dân như: hiến đất làm công trình, di dời vật

kiến trúc, vườn cây ăn trái, đóng góp ngày công lao động...)

Trong năm 2018, với Quyết định 1123/QĐ-UBND ngày 22/5/2018,

vốn giao năm 2018: 40.415 triệu đồng. Trong đó;

47

+ Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: 30.764 triệu (ngân sách Trung

ương: 24.734 triệu, ngân sách địa phương: 2.224 triệu) các địa phương

thuộc chương trình đang triển khai thực hiện.

+ Vốn sự nghiệp: 9.651 triệu đồng, giao sở ngành, Ủy ban nhân dân

xã làm chủ đầu tư các tiểu dự án thuộc chương trình 135.

+ Tổ chức mở 06 lớp tập huấn về nâng cao năng lực cán bộ cơ sở các

xã Chương trình 135 năm 2018 trên địa bàn huyện Tri Tôn Tịnh Biên và

An Phú với khoảng 400 học viên, kinh phí gần 1,2 tỷ đồng.

Thông qua việc thực hiện chính sách hỗ trợ của Chương trình 135 đã

làm thay đổi nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng

bào Khmer về quan niệm sống, nâng cao ý chí vượt qua khó khăn của cuộc

sống để từng bước vươn lên thoát nghèo, làm cho người dân hiểu được

chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước đã có nhiều hộ

dân tộc nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 được thụ

hưởng đã góp phần tăng thu nhập cải thiện cuộc sống, từng bước vươn lên

thoát nghèo bền vững.

* Thực hiện Chương trình 134: Đã triển khai đầu tư xây dựng 5.420

căn nhà cho đồng bào dân tộc nghèo, 54 công trình cấp nước sinh hoạt tập

trung cho đồng bào dân tộc thiểu số đời sống khó khăn với tổng kinh phí

51.445 triệu đồng đã đem lại hiệu quả rõ rệt đối với đời sống vật chất và

tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer nghèo; các hộ được thụ hưởng đã có

được nhà ở ổn định và tập trung vào việc sản xuất, chăn nuôi để tăng thu

nhập từng bước vươn lên thoát nghèo.

Đối với tình hình nước sinh hoạt, do đặc điểm ở hai huyện Tri Tôn,

Tịnh Biên thường xảy ra tình trạng khan hiếm nước sinh hoạt vào mùa khô,

nhất là trong khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 hàng năm; tỉnh cùng với huyện

48

đã triển khai các công trình cung cấp nước cho vùng dân tộc thiểu số đến

nay tình trạng này đã được khắc phục cơ bản, hầu hết các hộ đều có nước

sạch sử dụng.

* Thực hiện Quyết định 74/2008/QĐ-TTg của Chính phủ: Ủy ban

nhân dân tỉnh An Giang đã xây dựng Đề án 25/ĐA-UBND ngày

08/12/2008 về thực hiện một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản

xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống

khó khăn tỉnh An Giang giai đoạn 2009-2011 với tổng kinh phí thực hiện

là: 163.249 triệu đồng (vốn Trung ương 61.715 triệu đồng, vốn ngân sách

tỉnh 2.635 triệu đồng). Kết quả thực hiện đề án: đã hỗ trợ đất ở cho 1.603

hộ được thụ hưởng để cất nhà ở ổn định, trong đó có phần do tỉnh chủ động

lồng ghép với các chính sách hỗ trợ nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-

TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ; về hỗ trợ đất sản xuất tuy

có nhu cầu, nhưng thời gian qua chưa thực hiện được do giá cả thực tế ở

địa phương cao so quy định mức giá hỗ trợ, việc này tỉnh đã có kiến nghị

với Trung ương xem xét; đã hỗ trợ lao động học nghề cho 6.658 lao động;

có 10.782 lao động người dân tộc thiểu số được hỗ trợ vốn vay để chuyển

đổi nghề; có 1.113 hộ được hỗ trợ mua máy móc nông cụ (tuy nhiên do

điều kiện sản xuất của đồng bào và suất hỗ trợ thấp nên so với nhu cầu vẫn

còn thấp).

* Thực hiện Quyết định 167/2008/QĐ-TTg:Tỉnh đã xây dựng Đề án

hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo QĐ số 881/QĐ-UBND ngày 23/4/2009 của

Ủy ban nhân dân tỉnh với tổng kinh phí thực hiện là 180,4 tỷ đồng, toàn

tỉnh có 9.366 hộ thuộc đối tượng hỗ trợ nhà ở, trong đó, dân tộc thiểu số là

1.764 hộ (riêng dân tộc Khmer có 1.640 hộ, tương đương kinh phí 32,8 tỷ

đồng).

49

* Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng

bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010 thực hiện theo Quyết định

33/2007/QĐ-TTg và Quyết định 1342/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:

Tỉnh An Giang có 371 hộ đồng bào dân tộc Khmer, với 1.528 nhân

khẩu cần bố trí định canh, định cư để ổn định chỗ ở, tạo việc làm, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer. Những hộ này

phần lớn là không có đất sản xuất ổn định thuộc quyền sở hữu của hộ; nơi

ở không ổn định, di chuyển chỗ ở theo nương rẫy hoặc đang sinh sống tách

biệt, rãi rác thành các nhóm nhỏ, xa các điểm dân cư tập trung; thiếu cơ sở

hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống và sinh hoạt; đồng thời chưa được

hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất, nhà ở, chính

sách di dân theo các Quyết định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ. Đã

cấp đất ở bố trí định cư cho 550 hộ đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng số

vốn đầu tư là 11 tỷ đồng. Năm 2013, Trung ương đã bổ sung 5,5 tỷ đồng

cho ngân sách địa phương để tiếp tục thực hiện chính sách định canh, định

cư cho đồng bào dân tộc Khmer.

* Hỗ trợ vay vốn sản xuất ưu đãi cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số

đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32/2007/QĐ-TTg:

Tính từ 2007 đến nay đã triển khai thực hiện cho 501 hộ khó khăn là

đồng bào Khmer ở các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn vay 2,5 tỷ đồng để chăn

nuôi, buôn bán nhỏ, khung định suất cao nhất 05 triệu đồng/hộ; việc đưa

vốn đến từng hộ đồng bào dân tộc nghèo đã tạo điều kiện cho người dân

tiếp cận nguồn vốn ưu đãi và sử dụng vốn có hiệu quả.

Thực hiện Quyết định số 341/QĐ-UBND ngày 02/3/2011 của Ủy ban

nhân dân tỉnh về việc giao chỉ tiêu dư nợ năm 2011 hỗ trợ đồng bào dân tộc

thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32 (thay thế Quyết định 126) là

50

2.440 triệu đồng; trong đó huyện Tịnh Biên: 1.050 triệu đồng, huyện Tri

Tôn: 1.190 triệu đồng, huyện An Phú: 200 triệu đồng.

* Thực hiện Quyết định 975/QĐ-TTg ngày 20/07/2006 của Chính

phủ về thực hiện cấp một số loại báo, tạp chí cho vùng đồng bào DTTS và

miền núi, vùng đặc biệt khó khăn:

Từ năm 2007 đến nay, tỉnh tiếp nhận và cấp phát hơn 434.500 ấn

phẩm báo, tạp chí các loại (gần 421.200 tờ báo và trên 13.300 tạp chí) đến

các khóm, ấp, trường học của 08 huyện miền núi, biên giới, có đông đồng

bào dân tộc thiểu số để đáp ứng nhu cầu nắm bắt thông tin, nâng cao trình

độ dân trí và đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

Năm 2011, tỉnh đã triển khai tổng hợp đối tượng thụ hưởng và đã báo cáo

về Trung ương tiếp tục triển khai thực hiện hàng năm để thực hiện Quyết

định số 2472/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp miễn phí 20

ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt

khó khăn giai đoạn 2012-2015 thay cho Quyết định 975/2006/QĐ-TTg.

* Thực hiện Quyết định 102/2009/QĐ-TTg về hỗ trợ trực tiếp cho

người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn:

Từ năm 2010 - 2017, tỉnh đã hỗ trợ trực tiếp cho 328.521 người

nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn thuộc 05 huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, An

Phú, Tân Châu và Châu Đốc, với số tiền gần 30 tỷ đồng, giúp bà con cải

thiện một phần khó khăn trong đời sống trước tình hình vật giá tăng

cao.Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở

vùng khó khăn được hỗ trợ trực tiếp theo Quyết định 102/2009/QĐ- TTg

năm 2018 trên địa bàn các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn , An Phú và Thoại

Sơn với tổng kinh phí: 3.680.840.000 đồng, cụ thể:

51

+ Hộ nghèo xã khu vực II: 1.807.840.000 đồng cho 5.603 hộ, 22.598

khẩu

+ Hộ nghèo xã khu vực III: 1.873.000.000 đồng cho 4.880 hộ,

1.8730 khẩu.

* Thực hiện Quyết định 160/2007/QĐ-TTg ngày 10/7/2007 về hỗ trợ

phát triển kinh tế, xã hội các xã vùng biên giới. Thời gian qua, đã đầu tư hỗ

trợ cho 18 xã của 5 huyện, thị, thành biên giới. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng các xã tuyến biên giới từ năm 2008 - 2012 là 46,778 tỷ đồng; cùng với

sự đầu tư đồng bộ có chiến lược, cơ sở hạ tầng của 18 xã biên giới từng

bước được nâng cấp, mạng lưới chợ biên giới được đầu tư phát triển, góp

phần quan trọng trong phát triển kinh tế biên mậu, tạo đòn bẩy cho sự phát

triển kinh tế - xã hội trong vùng biên giới Việt Nam - Camphuchia.

* Thực hiện Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011 và

Quyết định 56/2013/QĐ-TTg ngày 07/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ

về việc thực hiện chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc

thiểu số. Thực hiện từ năm 2013 đến nay, hằng năm được cơ sở bình bầu

có trên 114 người uy tín là đồng bào dân tộc thiểu số (Khmer: 81 người,

Hoa: 19 người, Chăm: 12 người, Nùng: 01 người, Mường: 01 người), trong

đó có 2 nữ (huyện Châu Thành 01, TX. Châu Đốc 01); hàng năm được cấp

phát Báo An Giang (phát hành 05 số/ tuần) từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần

với 29.070 tờ số báo An Giang, tương đương 255 số/người, tổng kinh phí:

72.675.000 đồng. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà dịp Tết cho 114 người có uy

tín, mỗi phần quà 400.000 đồng, hàng năm với kinh phí thực hiện:

45.600.000 đồng. Được cấp phát miễn phí báo Dân tộc và Phát triển theo

Quyết định 2472/QĐ-TTg; đã tổ chức cấp phát 11.970 tờ báo (105

kỳ/năm).

52

* Quyết định 2085/QĐ-TTg ngày 31 tháng 10 năm 2016 của Thủ

tướng Chính phủ: Ngày 12 tháng 10 năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh ban

hành Quyết định số 3038/QĐ-UBND Phê duyệt Đề án thực hiện Quyết

định số 2085/QĐ-TTg về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế- xã

hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020 trên địa bàn

tỉnh An Giang.

Tổng số hộ được thụ hưởng chính sách là 6.736 hộ (hộ Khmer chiếm

khoảng 70%), tổng kinh phí 117.897 triệu đồng. Trong đó: Vốn NSTW và

NSĐP hỗ trợ 24.662 triệu đồng, vốn tín dụng từ Ngân hàng CSXH là

93.235 triệu đồng.Thực hiện các hợp phần về: Hỗ trợ đất ở, đất sản xuất,

nước sinh hoạt và chuyển đổi nghề.

* Thực hiện Quyết định 12/2018/QĐ-TTg: Tham mưu, trình Ủy ban

nhân dân tỉnh phê duyệt danh sách Người có uy tín năm 2018. Tổng số :

114 người, (gồm: 112 nam, 02 nữ). Tổng kinh phí: 327.000.000 đồng.

Trong đó: Khmer: 82 người, Chăm: 14 người, Hoa; 16 người, Nùng: 01

người, Mường: 01 người.

Thực hiện cấp phát miễn phí báo An Giang, báo Dân tộc phát triển

cho 114 người có uy tín với số tiền: 157.000.000 đồng.

* Thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 12 tháng 10 năm

2017, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 3038/QĐ-UBND phê

duyệt Đề án thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg về chính sách đặc thù

hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn

2017- 2020 trên địa bàn tỉnh An Giang. Tổng số hộ được thụ hưởng chính

sách là 6.736 hộ (hộ Khmer chiếm khoảng 70%), tổng kinh phí: 117.897

triệu đồng. Trong đó: Vốn Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa

phương hỗ trợ 24.662 triệu đồng, vốn tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã

53

hội là 93.235 triệu đồng. Thực hiện các hợp phần về: Hỗ trợ đất ở, đất sản

xuất, nước sinh hoạt và chuyển đổi nghề. Thực hiện quyết định 2085 năm

2018 và giai đoạn 2019- 2020 trên địa bàn các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên,

An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Châu Thành và Châu Phú. Năm 2018, Ngân

hàng Chính sách phối hợp với địa phương rà soát lại đúng đối tượng, lập

thủ tục phát vay cho các đối tượng thụ hưởng đã giải ngân được huyện

Tịnh Biên 168 hộ với số tiền:1.344 triệu, huyện Tri Tôn là 38 hộ, số tiền:

967 triệu đồng.

Bảng 2.5. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác duy trì, điều chỉnh thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

ĐTB TT Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5

Thực hiện chính sách tôn giáo đối

với người Khmer tiếp tục được 1 11,5 22,9 32,3 20,8 11,5 2,95 tỉnh An Gian thực hiện thường

xuyên và liên tục

Các chính sách tôn giáo đối với

người Khmer trên địa bàn tỉnh An

2 Giang được duy trì phù hợp với 2,1 31,3 39,6 10,4 16,7 3,08

đặc điểm về kinh tế - xã hội người

Khmer ở An Giang

Các chính sách tôn giáo đối với

3 người Khmer trên địa bàn tỉnh An 6,3 21,9 42,7 19,8 9,4 3,24

Giang được điều chỉnh phù hợp

54

với hoàn cảnh

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát tại bảng 2.5 cho thấy: Tiêu chí “Các chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang được điều chỉnh phù

hợp với hoàn cảnh” được đánh giá tốt nhất với 3,24/5 điểm thể hiện việc

linh hoạt trong triển khai chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer của

lãnh đạo tỉnh An Giang. Ngược lại, nội dung “Thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer tiếp tục được tỉnh An Giang thực hiện thường

xuyên và liên tục” chỉ được đánh giá ở mức điểm 2,95/5 điểm. Kết quả này

đánh giá thực trạng việc triển khai các chính sách tôn giáo của tỉnh An

Giang mới chỉ dừng lại ở mức độ trung bình khi chưa liên tục và thường

xuyên để cho các đối tượng thụ hưởng chính sách không thể thường xuyên

tiếp cận thông tin chính sách để thực hiện và triển khai đúng định hướng

của tỉnh về công tác dân tộc, tôn giáo đối với đồng bào Khmer.

2.2.6. Hoạt động đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

Trên cơ sở Chương trình phối hợp và thống nhất hành động của Ủy

ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, công tác phối hợp với một số

tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan Trung ương có liên quan

trong công tác tôn giáo được tăng cường theo hướng chặt chẽ, có trọng

tâm, trọng điểm, đạt được một số kết quả quan trọng. Việc tuyên truyền,

vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình hành động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam ngày càng được nâng cao và đẩy mạnh.

55

Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang đã triển khai Kế hoạch số 130 -

KH/TU về thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ chính

trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Theo đó, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ An Giang yêu cầu các cấp ủy, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, người đứng đầu

các cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ

trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo

và công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chỉ đạo thực

hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, các chương trình phát triển kinh tế

- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn

tỉnh An Giang nói chung và của đồng bào Khmer nói riêng. Triển khai thực

hiện có hiệu quả Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đối với các chức sắc tôn giáo

và đồng bào người dân tộc Khmer. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước

về tôn giáo của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã yêu cầu các Ban cán sự Đảng, Đảng

đoàn, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn; các huyện ủy, thành ủy, Đảng ủy trực

thuộc xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện phù hợp với tình hình thực tế

của địa phương, đơn vị. Ban cán sự Đảng Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa

các nội dung liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự tôn giáo; bố trí và hướng

dẫn sử dụng ngân sách cho công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội

ngũ cốt cán trong tôn giáo, chính sách thu hút cán bộ làm công tác tôn giáo;

Đến nay mỗi xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều có lực lượng nòng

cốt và cốt cán là người dân tộc thiểu số tiêu biểu tham gia, có nơi tổ chức

những đội tình nguyện tham gia giải quyết điểm nóng khi có yêu cầu;

thường xuyên giữ mối liên hệ với các vị tiêu biểu là người dân tộc thiểu số,

đồng thời thực hiện một số chính sách hỗ trợ trực tiếp như họp mặt, thăm

56

hỏi ốm đau, lễ tết…. Các đoàn thể như Hội Phụ nữ tỉnh tổ chức 607 tổ với

10.226 cô chị là người dân tộc (trong đó có các chị là người dân tộc

Khmer) và tín đồ các tôn giáo; Hội Nông dân xây dựng mạng lưới cung cấp

thông tin tại các điểm nhạy cảm về dân tộc (Tri Tôn, Tịnh Biên); Hội Cựu

chiến binh luôn có hội viên tham gia giải quyết các vụ việc lợi dụng tôn

giáo - dân tộc gây rối tại địa phương. Đây cũng là lực lượng tích cực tham

gia góp phần giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn, ngoài ra các ngành chuyên

môn còn tham mưu lãnh đạo tỉnh, huyện kịp thời giải quyết các nhu cầu

chính đáng, phù hợp pháp luật của bà con người dân tộc; tranh thủ sự đồng

tình người đứng đầu, người có tầm ảnh hưởng trong tổ chức tôn giáo và

cộng đồng người dân tộc; phát huy nhân tố tích cực trong giải quyết các

vấn đề nhạy cảm về tôn giáo, dân tộc.

Hoạt động của lực lượng cốt cán trong tôn giáo và dân tộc thiểu số

đã đóng góp rất hiệu quả trong thời gian qua như: cung cấp thông tin cho

ngành chức năng thu giữ tài liệu, vật phẩm tôn giáo ngoài luồng; nắm ý

định hoạt động của số cực đoan trong tôn giáo - dân tộc; tham gia giải tán

các hoạt động lợi dụng tôn giáo - dân tộc (như trước đây ở Tri Tôn, Tịnh

Biên…); đấu tranh ngăn chặn nhiều trường hợp biến gia thành tự, truyền

đạo trái phép trong vùng dân tộc…; tranh thủ chức sắc ủng hộ quan điểm

của Chính phủ giải quyết các vụ việc liên quan đến đất đai có yếu tố tôn

giáo, đấu tranh phê phán một số tu sĩ Phật giáo (kể cả Nam Tông vi phạm

an ninh trật tự; dựa vào giáo cả chùa dân tộc Chăm để giải quyết bất hòa

giữa bà con người Kinh và người Chăm …. Đặc biệt là xây dựng thái độ

chính trị vững vàng trong các vị chức sắc Phật giáo Nam Tông Khmer, Ban

đại diện cộng đồng Hồi giáo khi tiếp xúc và làm việc với các tổ chức và

đoàn nước ngoài đến nghiên cứu tình hình.

57

Bảng 2.6. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

TT Nội dung đánh giá ĐTB 1 2 3 4 5

Nội dung kiểm tra, thanh tra phù

hợp với kế hoạch thực hiện chính

1 sách tôn giáo đối với người 10,4 15,6 40,6 21,9 11,5 3,08

Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang

Hình thức kiểm tra, thanh tra

thực hiện chính sách tôn giáo đối

2 với người Khmer trên địa bàn 5,2 22,9 53,1 12,5 6,3 2,92

tỉnh An Giang đa dạng, phong

phú

Phương pháp kiểm tra, thanh tra

thực hiện chính sách tôn giáo đối

3 với người Khmer trên địa bàn 2,1 22,9 38,5 27,1 9,4 3,19

tỉnh An Giang phù hợp với điều

kiện của quận

Mức độ kiểm tra, thanh tra thực

hiện chính sách tôn giáo đối với

4 người Khmer trên địa bàn tỉnh 4,17 27,08 52,08 11,45 5,21 2,86

An Giang thường xuyên và liên

tục

58

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

Kết quả khảo sát tại bảng 2.6 cho thấy công tác theo dõi, đôn đốc,

kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang chỉ được đánh giá ở mức trung bình khi đa số các tiêu chí

chỉ được cho điểm ở mức trên dưới 3 điểm. Sở dĩ có kết quả trên là do vấn

đề tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang rất phức tạp với nhiều hệ phái tôn

giáo khác nhau nên việc thường xuyên thực hiện việc thanh tra, kiểm tra và

theo dõi thực hiện chính sách tôn giáo là rất khó khăn. Bên cạnh đó, trình độ

dân trí cũng như đời số vật chất của đồng bào Khmer còn rất nhiều khó khăn

nên việc áp dụng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau trong việc đôn

đốc, theo dõi và kiểm tra chính sách là rất khó và gặp nhiều hạn chế.

2.2.7. Hoạt động tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer tỉnh An Giang

Các cấp chính quyền của tỉnh An Giang luôn xác định công tác đánh

giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện là khâu, là nhiệm vụ quan

trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer.

Trong năm, các cấp chính quyền và ngành chức năng tạo điều kiện

thuận lợi cho tổ chức tôn giáo tổ chức Hội nghị, đại hội nhiệm kỳ như: Đại

hội đại biểu Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh An Giang lần thứ VI, nhiệm

kỳ 2017-2022; hội nghị tổng kết hoạt động năm 2016 và triển khai phương

hướng năm 2017 của Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang;

Ban Đại diện Đạo hội Tứ ân Hiếu nghĩa và Ban Trị sự Tịnh độ Cư sĩ tỉnh

An Giang… Ngoài ra, Ban Tôn giáo cũng chấp thuận cho Ban Đại diện

Cộng đồng Hồi giáo cử 01 tín đồ của tham dự hội nghị nữ thanh niên

59

Muslimah tại Campuchia và 02 chức việc tham dự lễ hội Maulid Nabi

Muhamad do Bộ Nội vụ Thái Lan tổ chức tại Bangkok.

Bảng 2.7. Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác đánh giá tổng kết thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

(ĐVT: %)

Thang đánh giá

TT Nội dung/ tiêu chí đánh giá ĐTB

1 2 3 4 5

Hoạt động tổng kết thực hiện

chính sách tôn giáo đối với

1 người Khmer trên địa bàn tỉnh 4,2 12,5 50,0 21,9 11,5 3,24

An Giang được thực hiện theo

đúng chỉ đạo và kế hoạch

Hoạt động tổng kết thực hiện

chính sách tôn giáo đối với

2 người Khmer trên địa bàn tỉnh 8,3 31,3 32,3 17,7 10,4 2,91

An Giang đã rút ra được các

kết quả, hạn chế

Báo cáo tổng thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người

3 Khmer trên địa bàn tỉnh An 8,3 22,9 31,3 35,4 2,1 3,00

Giang được công khai minh

bạch

Nguồn: Kết quả lấy ý kiến khảo sát của tác giả. Trong đó: 1-Rất kém

đến 5-Rất tốt

60

Kết quả lấy ý kiến khảo sát về công tác đánh giá tổng kết thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang cho

thấytiêu chí “Hoạt động tổng kết thực hiện chính sách tôn giáo đối với người

Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang được thực hiện theo đúng chỉ đạo và kế

hoạch” được đánh giá cao nhất với 3,24/5 điểm, kết quả này phù hợp với

thực tiễn khi Tỉnh ủy An Giang luôn quan tâm chỉ đạo tổ chức tốt các hội

nghị đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện các chính sách tôn giáo đối với

đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn. Ngược lại, nội dung “Hoạt động tổng

kết thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang đã rút ra được các kết quả, hạn chế” chưa được đánh giá cao và cần

được hoàn thiện một cách nhanh chóng vì đây là những điều kiện cần thiết

để đề xuất các giải pháp, nhiệm vụ triển khai thực hiện chính sách.

2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với người

Khmer ở tỉnh An Giang

2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách

Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện, xã quán

triệt tốt các chủ trương, chính sách dân tộc, các mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội đều hướng đến chăm lo cho đồng bào các dân tộc; thực hiện tốt

chính sách dân tộc đã mang lại niềm tin của người dân đối với Đảng và

Nhà nước nhất là các chính sách hỗ trợ đất ở, nhà ở, đào tạo nghề giải

quyết việc làm; đặc biệt là chính sách giáo dục đã góp phần nâng cao trình

độ dân trí, hòa nhập cộng đồng của tầng lớp trẻ trong đồng bào dân tộc

thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Khmer nói riêng.

Thứ hai, Ý thức cho con em đồng bào Khmer tốt hơn trước, số lượng

học sinh dân tộc Khmer ở các cấp học không ngừng tăng lên. Công tác

chăm sóc sức khỏe, khám trị bệnh cho đồng bào dân tộc Khmer ngày càng

61

quan tâm hơn. Đội ngũ cán bộ và các cơ sở y tế, trang thiết bị, thuốc men

phục vụ khám, điều trị bệnh vùng dân tộc Khmer từng bước được tăng

cường tốt hơn.

Thứ ba, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống được phát huy,

nhiều vị chức sắc tiêu biểu có sự đóng góp thiết thực cho sự phát triển của

cộng đồng dân tộc, tham gia xây dựng chính quyền, vận động đồng bào và

sư sãi chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của

Nhà nước.

Thứ tư, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được duy

trì, giữ vững ổn định; đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo được phát

huy; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được đồng bào tích cực

hưởng ứng; những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch tác động xấu

đến vùng dân tộc đều bị vô hiệu hóa.

Thứ năm, nhiều ấp, khóm và hộ gia đình đồng bào dân tộc Khmer

được xét công nhận đạt chuẩn văn hóa; các khiếu kiện về tranh chấp đất đai

trong đồng bào dân tộc được các địa phương quan tâm xem xét giải quyết

kịp thời. Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với gia đình chính sách người

Khmer được quan tâm; việc thực hiện dân chủ cơ sở, giải quyết nguyện

vọng của đồng bào được quan tâm nhiều hơn; niềm tin của đồng bào và các

vị sư sãi đối với sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước

được nâng lên.

Đặc biệt trong những năm gần đây với chủ trương chính sách tăng

cường đào tạo chuyển đổi nghề, tạo việc làm trong đồng bào dân tộc đã

phát huy hiệu quả, có sự dịch chuyển nguồn lao động từ nông thôn lên các

đô thị lớn để xin việc làm, có thu nhập ổn định góp phần xóa đói giảm

nghèo, hòa nhập cộng đồng vươn lên thoát nghèo bền vững.

62

2.3.2. Một số vướng mắc, bất cập và nguyên nhân

Thứ nhất, về công tác quản lý nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông

Khmer đôi lúc còn thiếu chặt chẽ, nhất là khâu quản lý người nhập tu và

những người đã xuất tu, tạo kẽ hở cho các phần tử xấu có điều kiện thâm

nhập vào làm ảnh hưởng đến sư sãi và phật tử, làm ảnh hưởng đến tình

hình an ninh chính trị và trật tự an toàn ở địa phương, tác động ngược tới

chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, có một số không nhỏ

hoài nghi, thậm chí chống lại đường lối đổi mới hòa hợp dân tộc của Đảng

và Nhà nước. Bọn chúng lợi dụng các diễn đàn quốc tế để lên án chúng ta

bóp nghẹt tự do tôn giáo, phân biệt đối xử với dân tộc Khmer nhằm khơi

lại lòng hận thù dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, tuy đời sống người dân Khmer có phát triển khá hơn nhưng

so với kinh tế phát triển hiện nay người Khmer vẫn còn nghèo, trình độ dân

trí vẫn còn thấp, kể cả các chư tăng trình độ văn hóa cũng thấp, có nhiều sư

sãi còn trẻ nghe và nói tiếng Việt không rành, chưa am hiểu nhiều về pháp

luật, dẫn đến tình trạng tuyên truyền trong đồng bào phật tử củng gặp nhiều

khó khăn. Một số vị có nhu cầu đi du học nước ngoài nhưng chưa được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng vẫn tự đi học, từ đó dễ bị

bọn xấu lợi dụng, lôi kéo, xúi giục chống phá cách mạng.

Thứ ba, việc phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong vùng

đồng bào Khmer, có một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, một số loại

hình văn hóa, nghệ thuật của đồng bào dân tộc Khmer có nguy cơ bị mai

một; việc học tập nâng cao trình độ dân trí, nhất là đối với hộ nghèo vẩn

còn nhiều khó khăn.

Thứ tư, về đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo: tuy được kiện toàn

và củng cố nhưng còn thiếu, yếu về chuyên môn nghiệp vụ hiểu biết còn

63

hạn chế về ngôn ngữ, phong tục tập quán của đồng bào và sư sãi, ngại tiếp

xúc đối thoại, nên việc nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng của sư sãi và

tín đồ chưa chặt, tham mưu đề xuất chưa kịp thời.

Nguyên nhân hạn chế

- Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, địa bàn vùng dân tộc và miền núi rộng lớn, địa hình phức

tạp; đồng bào dân tộc phần đông sống ở vùng sâu và sống phân tán, đi lại

khó khăn, ít có cơ hội tiếp xúc với các dịch vụ, khoa học công nghệ tiên

tiến; do lịch sử để lại, kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc còn kém phát triển,

mang nặng tính tự cấp, tự túc, dựa nhiều vào tự nhiên.\

Thứ hai, trình độ dân trí và đời sống vật chất, tinh thần thấp. Trình độ

dân trí số người biết đọc biết viết tiếng phổ thông còn ít, đời sống vật chất,

tinh thần của đồng bào Khmer chưa được đáp ứng tốt, cơ sở vật chất kỹ

thuật hạn chế là một nguyên nhân làm hạn chế công tác tôn giáo của tỉnh.

- Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức của các cấp, các ngành và của một bộ phận cán

bộ, đảng viên về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc ở một số nơi chưa thực

sự sâu sắc, toàn diện; một số chính sách dân tộc chưa được cụ thể hóa và

vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của địa phương; chưa chủ động

khơi dậy và phát huy tốt các nguồn lực của địa phương

Thứ hai, hệ thống tổ chức làm công tác dân tộc ở cấp huyện chưa

được kiện toàn hoàn thiện, nhân lực còn thiếu. Các thế lực thù địch luôn

tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, trình độ dân trí còn thấp

của đồng bào dân tộc và những sai sót của các cấp, các ngành trong quá

64

trình triển khai thực hiện các chính sách để kích động khiếu kiện, gây mất

an ninh trật tự và chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

65

Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận về thực hiện chính sách tôn giáo

đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, chương 2 của luận văn tập

trung làm rõ hơn các vấn đề thực tiễn liên quan đến triển khai thực hiện

chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc người Khnmer trên địa bàn

tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện

chính sách tôn giáo đã được Nhà nước và tỉnh An Giang quan tâm triển

khai thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, công tác phân công, phối hợp thực

hiện chính sách cũng được Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang đã chỉ đạo các

đơn vị phối hợp triển khai tới các đối tượng hưởng thụ chính sách… Bên

cạnh đó, việc thực hiện chính sách vẫn còn những hạn chế nhất định và

chương 2 cũng đã tìm ra các nguyên nhân của hạn chế này, sẽ là cơ sở để

đề xuất các giải pháp tại chương 3 của luận văn.

66

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NGƯỜI KHMER Ở TỈNH

AN GIANG

3.1. Quan điểm cho việc tăng cường hiệu quả thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer ở tỉnh An Giang

Trong xu thế hội nhập và phát triển, vùng đồng bào dân tộc Khmer

có tác động ở hai mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường, sự phân

hóa giàu nghèo, bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số bị

phai nhạt dần, môi trường sinh thái đang bị xâm hại, tình trạng bấp bênh về

giá cả của các mặt hàng ngành trồng trọt và chăn nuôi; đối với hộ có đất

sản xuất ít, hoặc không đất đi làm thuê hiện nay có xu hướng sang nhượng,

cầm cố đất bỏ địa phương lên thành phố Hồ Chí Minh (Củ Chi) và các tỉnh

Bình Dương, Đồng Nai để tìm việc làm có thu nhập ổn định hơn đang có

xu hướng tăng.

Cần có giải pháp, kiểm soát chặt chẽ việc sang nhượng, cầm cố đất

trong vùng đồng bào để đảm bảo cho hộ đồng bào dân tộc có tư liệu sản

xuất nuôi sống gia đình, nhằm tránh sự phá vỡ môi trường sống, xung đột

trong vùng nhất là trong đồng bào dân tộc Khmer.

Chính sách miễn giảm, học phí ở các cấp học nhất là ở cấp đại học

và trung cấp cũng gặp không ít khó khăn; phần lớn hộ đồng bào Khmer có

tỷ lệ hộ nghèo cao, sống phụ thuộc chủ yếu sản xuất nông nghiệp, chăn

nuôi nên gặp không ít khó khăn trong việc chu cấp cho con học đại học.

Các tổ chức phản động đứng chân trên đất nước Campuchia, tổ chức

KKK luôn tìm ẩn những nguy cơ gây mất an ninh trật tự trong vùng dân

tộc, nhất là các huyện, xã giáp biên giữa Việt Nam - Campuchia; Trong

67

thời gian tới tình hình chính trường Campuchia sẽ tiếp tục diễn biến phức

tạp trước sự tác động tranh giành ảnh hưởng, lôi kéo, chi phối của một số

nước lớn như Mỹ, Trung Quốc… thông qua các nguồn viện trợ về kinh tế,

quân sự; các hoạt động của các thế lực thù Cùng với cả nước, An Giang

cũng gặp không ít khó khăn và thách thức như: đặc điểm kinh tế của tỉnh

chủ yếu là nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, những giải

pháp tạo việc làm cho người nghèo thiếu ổn định; mặt khác các yếu tố giá

cả thị trường luôn tác động bất lợi cho người sản xuất, cùng với ảnh hưởng

thiên tai, xạt lỡ, hạn hán hàng năm…gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời

sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer.

3.2. Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả chính sách tôn

giáo đối với đồng bào người Khmer ở tỉnh An Giang

3.2.1. Hiện thực hóa quan điểm bằng Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm

2016

Việc biên soạn và ban hành các bộ luật liên quan đến chính sách dân

tộc cho thấy 2 văn bản Nghị định số 5 và Bản Dự thảo Luật hỗ trợ và phát

triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi có thể thấy một số điểm khác và

mới mang tính cập nhật, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Điểm

khác cơ bản là thay vì dùng cụm từ Chính sách dân tộc thì tên của Luật

Dân tộc là Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhấn

mạnh đối tượng của việc áp dụng luật là dân tộc thiểu số, ngoài ra xác định

Đảng và Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ phát triển cho vùng dân tộc thiểu số

Thêm vào đó điểm khác nhau giữa 2 văn bản này là câu chữ của các

Chương, Điều trong Luật Dân tộc khá dài dòng hơn so với tên các Chương,

Điều ngắn gọn của Nghị định số 5. Có lẽ bộ phận biên soạn Bản Dự thảo

68

Luật Dân tộc muốn thể hiện rõ ràng nội dung của Luật để tránh sự ngộ

nhận vì đây là một văn bản mang tính pháp lý?

Có thể nói, sau hơn 30 năm Đổi mới, đặc biệt khi Nghị quyết số 22-

NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa VI) được ban hành ngày 27-11-1989, Dự

thảo Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ra đời đáp

ứng được yêu cầu về lý luận và thực tiễn, có giá trị pháp lý, một nền tảng

quan trọng trong chính sách dân tộc đối với dân tộc thiểu số hiện nay của

Việt Nam.

Điều quan trọng góp phần cho công tác dân tộc thiểu số qua chính

sách dân tộc là ngoài Nghị định số 5 và Dự thảo Luật hỗ trợ phát triển dân

tộc thiểu số và miền núi là Việt Nam đã ban hành Luật tín ngưỡng, tôn

giáo. Các dân tộc thiểu số tại Việt Nam đều có đời sống tín ngưỡng tôn

giáo riêng rất đa dạng, trong đó các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, chi phối

trực tiếp đến đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội riêng và chung với

toàn dân tộc trong cả nước. Luật tín ngưỡng, tôn giáo ra đời liệu đã thực sự

hỗ trợ tích cực về mặt pháp lý về hoạt động tín ngưỡng tôn giáo trong việc

vận hành chính sách dân tộc, liên quan “sát sườn” với chính sách dân tộc ở

Việt Nam hay chưa?

Luật tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam được Quốc hội khóa XIV thông

qua, ngày 18-11-2016. Bao gồm 9 chương, 68 điều và có hiệu lực thi hành

từ ngày 1-1-2018. Luật tín ngưỡng, tôn giáo này ra đời trên nền tảng Pháp

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo vận hành từ năm 2004 đến nay và sẽ thay thế

hoạt động của Pháp lệnh.

Năm 1990, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 24-NQ/TW, ngày 16-10-

1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Tiếp đến, năm

2004, sự ra đời của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo là một bước phát triển

69

trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Pháp lệnh này cụ thể hóa những quan

điểm cơ bản về chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước,

phù hợp với luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo mà Việt

Nam đã ký kết trong giai đoạn hội nhập với quốc tế. Pháp lệnh tín ngưỡng,

tôn giáo đã có những thời điểm, những trường hợp bất cập, không phù hợp

cũng như kém hiệu lực với thực tiễn phát triển của cuộc sống. Chính vì thế

việc hình thành Luật tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là điều tất yếu. Luật

tín ngưỡng, tôn giáo ra đời năm 1916 có nội dung bổ sung, phát triển hơn

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện tính pháp lý cho tín ngưỡng, tôn

giáo của các dân tộc. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề quan trọng, dễ dẫn

đến sự xung đột dân tộc và ảnh hưởng đến tình đoàn kết giữa các dân tộc.

Nội dung Luật tín ngưỡng, tôn giáo về tư duy lý luận “xem tín

ngưỡng và tôn giáo là hai thực thể độc lập, hai đối tượng riêng trong phạm

vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của bộ luật.” (Ngô Văn Lệ, 2017, tr.61).

Trước tiên, Luật xác định rõ tín ngưỡng là một đối tượng độc lập với

những điều quy định riêng về hoạt động tín ngưỡng. Thứ hai, Luật tín

ngưỡng, tôn giáo 2016 đã mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo không chỉ từ “công dân” mà còn là tất cả “mọi người”,

thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con

người, phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013. Thứ ba trong Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo như còn trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo các cơ chế quản

lý Nhà nước được xóa bỏ, các tổ chức tôn giáo chỉ thông báo cho các cấp

Nhà nước chứ không cần xin phép mà không đòi hỏi (Ngô Văn Lệ, 2017,

tr.61-62).

Luật tín ngưỡng, tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ và thiết yếu với

Luật Dân tộc. Việc vận dụng chính sách dân tộc cần nắm chắc nội dung

Luật tín ngưỡng, tôn giáo để việc thực hiện chính sách dân tộc đạt được

70

hiệu quả chủ trương, chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia về phát

triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng và chính

sách đặc thù dành cho dân tộc Khmer.

Chính sách đối với dân tộc Khmer ở vùng Tây Nam Bộ và ở An

Giang của các thể chế chính trị đương thời từ thời các chúa Nguyễn và

triều Nguyễn, thời Pháp thuộc, dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trước năm

1975, nhìn chung có tác động tiêu cực đến sự phát triển các mối quan hệ

kinh tế, văn hóa và chính trị - xã hội giữa các tộc người, nhất là giữa các

tộc người thiểu số (Khmer, Hoa, Chăm) với tộc người đa số (Kinh) và

thường dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột về nhu cầu, lợi ích và giá trị,

đặc biệt là mâu thuẫn, xung đột giữa người Khmer với dân tộc khác, tôn

giáo khác trong vùng.

Điểm qua số lượng các chủ trương, chính sách, chiến lược, chương

trình, dự án mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm

nghèo, phát triển cộng đồng và các chính sách đặc thù dành cho từng tộc

người thiểu số, cụ thể là đối với người Khmer, có thể nhận thấy số lượng

khá nhiều. Việc vận dụng và thực hiện chính sách dân tộc của các địa

phương cụ thể ở An Giang sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt trong

thời kỳ đổi mới từ 1986 cho đến nay có thể thấy công tác dân tộc, tôn giáo

ở vùng người Khmer đã đạt được những kết quả tích cực, thành tựu trên

nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và an ninh, quốc phòng.

Tuy nhiên, việc thực hiện lồng ghép các chủ trương, chính sách để bảo đảm

an toàn sinh kế, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng… thường chồng chéo

lên nhau khó phân biệt được đâu là chính sách tôn giáo, dân tộc, chính sách

xã hội, chính sách dân vận…

71

3.2.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào Khmer

trong tỉnh An Giang

Trong tình hình hiện nay, giải quyết tốt xóa đói giảm nghèo là vấn đề

có ý nghĩa rất quan trọng để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới còn giúp

phát triển sản xuất, tạo sinh kế, góp phần giảm nghèo bền vững và nâng

cao thu nhập cho người dân. Đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh đã từng

bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào sản xuất, chăn nuôi, trồng rau màu, cây ăn trái… Thực hiện cơ cấu lại

ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, nhiều địa phương đã

khai thác những lợi thế, tiềm năng để thực hiện thành công một số mô hình

chuyển đổi sản xuất gắn với liên kết theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ

cao vào sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Cùng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân

dân ở các xã xây dựng nông thôn mới, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng

tích cực tham gia các phong trào xây dựng nông thôn mới, đóng góp công

sức, hiến đất xây dựng kết cấu hạ tầng như: Làm cầu, đường giao thông

nông thôn, hệ thống thủy lợi, cải tạo vườn tạp, trồng rau màu, phát triển

chăn nuôi… Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước luôn được kịp thời, đáp ứng nguyện vọng và

mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn

tỉnh An Giang.

3.3.3. Nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, trí thức người Khmer

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,

chính sách toàn diện, phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển toàn diện

cho đồng bào Khmer Nam bộ, trong đó có nhiều chính sách chăm lo cho sự

72

nghiệp giáo dục và đào tạo nghề, giúp đồng bào dân tộc từng bước nâng

cao trình độ, nghề nghiệp, tạo việc làm ổn định cuộc sống. Điển hình như

Nghị định số 49/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chế

độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp

thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày

27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho

lao động nông thôn đến năm 2020”...

Nhờ tập trung thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, công

tác giáo dục và đào tạo cho đồng bào dân tộc Khmer vùng Đồng bằng sông

Cửu Long thời gian qua đã có những tiến bộ rõ rệt, mạng lưới giáo dục

phát triển đến tận xã, ấp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng

bào. Bên cạnh đó, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi các cấp đến trường

tăng cao (Tiểu học đạt 99,15%, Trung học cơ sở đạt 86,4%, Trung học phổ

thông đạt 50,9%). Trên 242.000 học sinh dân tộc thiểu số đang học ở các

cấp học. Các tỉnh, thành phố có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống

đều có Trường dân tộc nội trú, toàn vùng có 34 Trường Phổ thông dân tộc

nội trú với 9.634 học sinh, chiếm 10,65% tổng số học sinh dân tộc thiểu số

cấp trung học...

Đối với chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng

bào dân tộc được các cấp, ngành, địa phương quan tâm, tạo điều kiện, tạo

việc làm, tư vấn lao động trong đồng bào dân tộc đi làm việc trong và

ngoài nước...

Chương trình dạy và học tiếng nói, chữ viết dân tộc Khmer trong các

trường phổ thông vùng dân tộc; công tác bồi dưỡng giáo viên trong và

ngoài biên chế dạy tiếng Khmer; đào tạo cán bộ, chiến sĩ công tác ở vùng

dân tộc và biên giới được chú trọng, chất lượng được nâng lên.

73

Để tạo điều kiện nâng cao trình độ cho giáo viên, chư tăng dạy chữ

Khmer, Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có Quyết định số 2673/QĐ-BGDĐT

về việc chứng nhận Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Sóc Trăng bổ sung

hoạt động đào tạo thí điểm ngành sư phạm tiếng Khmer trình độ cao đẳng.

Việc tích cực thực hiện công tác chăm lo giáo dục và đào tạo nghề

cho đồng bào dân tộc Khmer thời gian qua đã góp phần nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần của bà con một cách rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc

Khmer giảm từ 29,59% năm 2005 xuống còn 16,5% năm 2017; tỷ lệ hộ có

phương tiện nghe nhìn trong đồng bào dân tộc chiếm trên 98%, nhiều nơi

đạt 100%; tỷ lệ hộ có điện sử dụng trên 97%, sử dụng nước hợp vệ sinh

trên 80%, có nơi trên 90%.

3.3.4. Làm phong phú giá trị văn hóa, khắc phục mặc cảm, nghi kỵ,

kỳ thị

Trong quá trinh giao lưu văn hóa cần bảo đảm sao không để mất đi

những nét đặc sắc trong sắc thái văn hóa dân tộc Khmer trong đó Phật giáo

Nam tông giữ vai trò chủ đạo, mà còn phải góp phần làm cho nó thêm

phong phú, giàu sức sống, đó là vấn đề quan trọng.

Những điều kiện thuận lợi nêu trên cần phải được tiếp tục tăng

cường hơn nữa trong tình hình mới nhằm phát huy các giá trị tốt đẹp của

Phật giáo Nam tông Khmer góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân

tộc. Quản lý chặt chẽ hoạt động đối ngoại của tôn giáo trong vùng, bảo

đảm các sư sãi đi tu học nước ngoài phải thực hiện đúng quy định của pháp

luật.

74

3.3.5. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động phá

hoại của bọn phản động và các thế lực thù địch chia rẽ, phá hoại khối đại

đoàn kết toàn dân tộc.

- Đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức

dân tộc, tình thần đoàn kết dân tộc cho đồng bào Khmer ở tỉnh An Giang.

Trước tình hình này, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải tăng

cường lãnh đạo, kiên quyết, chủ động đập tan mọi âm mưu của các thế lực

thù địch đối với việc lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá, xem đây là một

“nhiệm vụ nóng” cần thực hiện ngay trước mắt cũng như lâu dài. Để phòng

chống “DBHB” trên lĩnh vực này một cách hiệu quả, chúng ta phải áp dụng

nhiều phương thức kết hợp mà trước hết là phải thông qua việc đưa ra các

nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, các biện pháp tổ chức lãnh

đạo, các biện pháp hành chính, luật pháp để phòng chống có hiệu quả âm

mưu của kẻ địch.

Bên cạnh đó, thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục

để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng và đầy đủ về những âm mưu,

thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, nhận thức rõ trách

nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức, có biện pháp, cách thức phòng và chống

có hiệu quả việc lợi dụng vấn đề dân tộc để thực hiện “DBHB”. Mỗi cán

bộ, đảng viên phải thực sự là chiến sĩ­­­ tiên phong trên lĩnh vực này, thực

sự làm gương, nhân rộng trong cộng đồng xã hội để cùng tạo thành sức

mạnh tổng hợp.

Đồng thời, vai trò của hệ thống Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, các tổ

chức chính trị, xã hội ở vùng miền núi, đồng bào DTTS cần phải được phát

huy để làm sao, quần chúng nhận thức sâu sắc rằng, đại đoàn kết toàn dân

tộc là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta, được cụ

75

thể hóa bằng pháp luật và bảo đảm trên thực tế, qua đó cùng thực hiện

nhiệm vụ phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại

khối đại đoàn kết toàn dân.

Vấn đề quan trọng nhất là Đảng, Nhà nước cần có thêm các chương

trình, đề án hiệu quả thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc đối với đồng

bào DTTS ở các vùng miền núi còn nhiều khó khăn, làm cho người dân yên

tâm, phấn khởi, hoàn toàn tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước. Qua­ đó, đồng bào sẽ tích cực tham gia các phong

trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế-xã hội, đấu tranh

ngăn chặn những hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại chế độ,

góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch, bọn phản động trong

và ngoài nước đang cấu kết với nhau đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn

biến hòa bình” hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.

76

Tiểu kết chương 3

Để thực hiện tốt công tác tôn giáo của tỉnh An Giang hiện nay, cần

thực hiện hệ thống giải pháp một cách đồng bộ, toàn diện, song trước hết

cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau: Một là, nâng cao nhận

thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về tầm quan trọng của công tác

tôn giáo góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn

hiện nay. Hai là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào

Khmer, sớm rút ngắn sự chênh lệch về mọi mặt giữa dân tộc Khmer với các

dân tộc khác trong tỉnh. Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, trí thức

người Khmer. Bốn là, làm phong phú giá trị văn hóa, khắc phục mặc cảm,

nghi kỵ, kỳ thị. Năm là, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt

động phá hoại của bọn phản động và các thế lực thù địch chia rẽ, phá hoại

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

77

KẾT LUẬN

Tôn giáo là vấn đề vô cùng nhạy cảm đối với sự phát triển của đất

nước nói chung và đối với tỉnh An Giang.

Chương 1 tập trung làm rõ một số nội dung liên quan cơ sở các lý

luận về tôn giáo, những hiểu biết về tôn giáo, chính sách công và chính

sách tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo như: Khái niệm tôn giáo, chính

sách tôn giáo, thực hiện chính sách tôn giáo, chủ thể và các bước thực hiện

chính sách tôn giáo. Bên cạnh đó, nội dung chương 1 cũng tập trung nghiên

cứu, trình bày làm rõ đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và tư

tưởng Hồ Chi Minh về tôn giáo, về chính sách tôn giáo. Hiểu biết đầy đủ

về tôn giáo, những vấn đề về tôn giáo, cộng đồng tôn giáo, chính sách tôn

giáo để giúp cho việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề về hiện trạng thực

hiện chính sách tôn giáo đối với dân tộc Khmer ở An Giang cũng như có

những đánh giá mức độ thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào

Khmer và đề xuất những giải pháp có thể triển khai tốt hơn việc thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer ở An Giang. Kết quả nghiên cứu

tại chương 1 sẽ giúp tác giả định hướng, nghiên cứu rõ hơn các nội dung tại

chương 2 của luận văn.

Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận về thực hiện chính sách tôn giáo

đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, chương 2 của luận văn tập

trung làm rõ hơn các vấn đề thực tiễn liên quan đến triển khai thực hiện

chính sách tôn giáo đối với đồng bào dân tộc người Khnmer trên địa bàn

tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện

chính sách tôn giáo đã được Nhà nước và tỉnh An Giang quan tâm triển

khai thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, công tác phân công, phối hợp thực

hiện chính sách cũng được Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang đã chỉ đạo các

78

đơn vị phối hợp triển khai tới các đối tượng hưởng thụ chính sách… Bên

cạnh đó, việc thực hiện chính sách vẫn còn những hạn chế nhất định và

chương 2 cũng đã tìm ra các nguyên nhân của hạn chế này, sẽ là cơ sở để

đề xuất các giải pháp tại chương 3 của luận văn.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan An (1991) Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb

Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

2. Chau Anne (Phó Trưởng ban Dân tộc tỉnh An Giang) (2016) Báo cáo

tham luận: “Kết quả thực hiện một số chủ trương, chính sách đối với đồng

bào dân tộc Khmer và những vấn đề đặt ra trong thực tế thực hiện một số chủ

trương, chính sách đối với đồng bào trên địa bàn tỉnh”.

3. Ban Bí thư (1991) Chỉ thị số 68 CT/TW về công tác ở vùng đồng bào

Khmer, ban hành ngày 18-4-1991, Hà Nội.

4. Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV (1981) Nghị quyết số 40/NQ-

TW về tăng cường công tác tôn giáo, ban hành ngày 01/01/1981, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1998) Chỉ thị số 37/CT-TW về

công tác tôn giáo trong tình hình mới, ban hành ngày 02/7/1998, Hà Nội

6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003) Nghị quyết số 25-

NQ/TW,Về công tác Tôn giáo, ban hành ngày 12/3/2003, Hà Nội

7. Ban Dân tộc tỉnh An Giang (2016) Báo cáo tình hình thực hiện chỉ

thị số 68-CT/TW ngày 18/04/1991 của Ban Bí thư Trung Ương Đảng (Khóa

VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer.

8. Ban Dân tộc tỉnh An Giang (2016) Kết quả thực hiện một số chủ

trương, chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer và những vấn đề đặt ra

trong thực tế thực hiện một số chủ trương, chính sách đối với đồng bào trên

địa bàn tỉnh.

9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2015) Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện

Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo 2004.

10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2003) Tập văn bản về tổ chức và đường

hướng hành đạo của các tôn giáo tại Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

11. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006) Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở

Việt Nam.

12. Ban tôn giáo tỉnh An Giang (2008) Công tác quản lý của Nhà nước

đối với Phật giáo Nam Tông Khmer ở An Giang.

13. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2002) Vấn đề tôn giáo và chính

sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXb Chính trị Quốc gia.

14. Ban Văn hoá tư tưởng Trung ương (2003) Hồ Chí Minh về công tác

tôn giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Lưu Bành (2009) Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb. Tôn giáo & Nxb. Từ

diển Bách khoa, Hà Nội.

16. BBC New (2014) “Sư Khmer Kromphanr chống đối VN bị xử tù”,

k_jailed>, (13/11/2014).

17. Lê Thanh Bình, Đỗ Thanh Hải (2012) Tôn giáo và quan hệ quốc tế,

Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội.

18. Bộ Chính trị (1998) Chỉ thị số 37 - CT/TW về tăng cường công tác

tôn giáo trong tình hình mới, ban hành ngày 02/07/1998, Hà Nội.

19. Bộ Chính trị (1990) Nghị quyết số 24/NQ-TW về tăng cường công

tác tôn giáo trong tình hình mới, ban hành ngày 16/10/1990, Hà Nội.

20. Phạm Văn Búa (2008) “Quá trình thực hiện chính sách văn hóa tôn

giáo của Đảng đối với đồng bào Khmer trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí

khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 10/2008.

21. Chính phủ (2012) Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và

biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, ban hành

ngày 08/11/2012, Hà Nội.

22. Chính phủ (2017) Nghị định 162/2017/NĐ-CP về hướng dẫn Luật tín

ngưỡng, tôn giáo, ban hành ngày 30/12/2017, Hà Nội.

23. Chính phủ (2012) Nghị quyết số 52/NQ-CP về đẩy mạnh phát triển

nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến

năm 2030, ban hành ngày 15 tháng 6 năm 2016, Hà Nội.

24. Chính phủ (1997) Nghị quyết số 297/CP về chính sách đối với tôn

giáo, ban hành ngày 11/11/1997, Hà Nội.

25. Christopher Partridge (2004) Cẩm nang về tôn giáo mới, Nxb.

Oxford University.

26. Trương Văn Chung (2014) Hiện tượng tôn giáo mới và những vấn đề

về chính sách và công tác tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay,

BCTK, ĐHQG TP.HCM tháng 08/ 2014.

27. Nguyễn Mạnh Cường- Nguyễn Minh Ngọc (2003) Tôn giáo- tín

ngưỡng của các cư dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Nxb Phương Đông.

28. Nguyễn Hồng Dương (2012) Quan điểm đường lối của Đảng về tôn

giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,

8/2012.

29. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm

Ban chấp hành TW khóa VIII, Nxb Ch nh trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2003) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

chấp hành TW khóa IX, Nxb Ch nh trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Vũ Hoàng Hải (2016) Thực hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn tỉnh

Phú Thọ, luận văn Thạc sĩ chính sách công, Học viện Khoa học và Xã hội

Việt Nam.

35. Đỗ Phú Hải (2014) “Chính sách công”, Tạp chí Lý luận chính trị, số

2- 2014, tr. 103-104.

36. Đỗ Phú Hải (2012) Những vấn đề cơ bản của Chính sách công, Học

viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

37. Đỗ Phú Hải (2015) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực

xây dựng và thực hiện chính sách công”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số

6/2015, tr. 36-40.77.

38. Đỗ Phú Hải (2012) Quy trình chính sách công tại Việt Nam: Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, Học viện Khoa học

Xã hội.

39. Đỗ Phú Hải (2014) “Về chính sách công hiện nay ở nước ta”, Tạp

chí Cộng sản, số 91, tr. 67-70.

40. Đỗ Phú Hải (2014) “Xây dựng chính sách công: Vấn đề, giải pháp và

các yếu tố ảnh hưởng”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2014, tr. 88-92.

41. Phạm Phương Hoa (2013) Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do

tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

42. Nguyễn Công Hoàng (2013) Chính sách tôn giáo trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

43. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004) Tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc

trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Đỗ Quang Hưng (2013) “Tiến tới một chính sách công về tôn giáo”,

Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 6/2013.

45. Đỗ Quang Hưng (2008) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam

lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

46. Nguyễn Hữu Khiển (2001) Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện

nay, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

47. Đặng Ngọc Lợi (2012) “Chính sách của Nhà nước đối với các vấn đề

kinh tế - xã hội”, Tạp chí Kinh tế dự báo.

48. Chu Việt Lợi (chủ biên) (2004) Tôn giáo Trung Quốc ngày nay,

Nxb. Bắc Kinh.

49. Nguyễn Đức Lữ (2009) Tôn giáo – quan điểm, chính sách đối với tôn

giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính,

Hà Nội.

50. Lê Chi Mai (2013) Giáo trình chính sách công, Học viện Hành chính

Quốc gia, Nxb Khoa hoc ̣ và kỹ thuật, Hà Nội.

51. Trần Thanh Nam (2001) Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào

dân tộc Khmer Nam Bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ

Triết học, Học việc chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

52. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

53. Quốc hội (2016) Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016, Hà Nội.

54. Sở Nội vụ (2015) Báo cáo kết quả công tác tôn giáo, tài liệu lưu trữ,

An Giang

55. Sở Nội vụ (2017) Báo cáo kết quả công tác tôn giáo, tài liệu lưu trữ,

An Giang

56. Sở Nội vụ (2018) Báo cáo kết quả công tác tôn giáo, tài liệu lưu trữ,

An Giang

57. Sueki Fumihiko (2011) Lịch sử tôn giáo Nhật Bản, Nxb. Thế giới,

Hà Nội .

58. Nguyễn Đức Sự (2001) Mác, Ăngghen, Lênin bàn về tôn giáo, Nxb

Tôn giáo, Hà Nội.

59. Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, năm 2004) Chính sách

công, cơ sở lý luận, Viện chính trị học, Học viện hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh;

60. Văn Tất Thu (2015) Những vấn đề lý luận chung về xây dựng và

thực hiện chính sách công, Bài giảng cho lớp cao học.

61. Thủ tướng Chính phủ (2005) Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về một số

công tác đối với đạo Tin Lành, ban hành ngày 04/2/2005, Hà Nội.

62. Thủ tướng Chính phủ (2014) Chỉ thị số 28/CT-TTg của thủ tướng

Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân

tộc, ban hành ngày 10/9/2014, Hà Nội.

63. Thủ tướng Chính phủ (2008) Chỉ thị số 1940/CT-TTg về nhà đất liên

quan đến tôn giáo, ban hành ngày 31/12/2008, Hà Nội.

64. Thủ tướng Chính phủ (2018) Quyết định 12/2018/QĐ- TTg của Thủ

tướng Chính phủ về tiêu chí lực chọn, công nhận người có uy tín và chính

sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, ban hành ngày

06/3/2018, Hà Nội.

65. Thủ tướng Chính phủ (2003) Quyết định số 125/2003/QĐ-TTg về

việc phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác

tôn giáo, ban hành ngày 28/01/2003, Hà Nội.

66. Thủ tướng Chính phủ (2016) Quyết định số 2085/QĐ-TTg về chính

sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền

núi giai đoạn 2017- 2020, ban hành ngày 31/10/2016, Hà Nội.

67. Nguyễn Thu Thủy (2001) Quá trình thực hiện chính sách dân tộc

của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu

Long, Luân án tiến sĩ Lịch sử, Học viện hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

68. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2018) Báo cáo tình hình kinh tế - xã

hội tỉnh An Giang.

69. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2017) Kế hoạch số 35/KH-UBND

của Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ

đối với đồng bào dân tộc thiểu số gắn với Mục tiêu phát triển bền vững theo

Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ, ban

hành ngày 23/01/2017, An Giang.

70. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2016) Kế hoạch 171/KH-UBND

của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến

pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”, ban hành

ngày 01/4/2016, An Giang.

71. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2017) Kế hoạch 196/KH-UBND

năm 2017 triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo do tỉnh An Giang ban

hành.

72. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2018) Quyết định 459/QĐ-UBND

năm 2018 về công bố danh mục thủ tục hành chính lĩnh vực tín ngưỡng, tôn

giáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Nội vụ tỉnh An Giang.

73. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2018) Quyết định 1527/QĐ-UBND

năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Kế hoạch “Triển khai

chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm

2020” trên địa bàn tỉnh An Giang.

74. Đặng Nghiêm Vạn (2001) Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

75. Viện Ngôn ngữ (2003) Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

76. Võ Khánh Vinh (2008) Tài liệu bài giảng Tổng quan môn học Chính

sách công.

77. Võ Khánh Vinh, Đỗ Phú Hải (2012) Những vấn đề cơ bản về chính

sách công, Học viện Khoa học Xã hội.

PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT

(Về thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh

An Giang)

Để đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo đối với người

Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp

hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Rất mong Ông/ bà vui lòng cho ý kiến

đánh giá của mình về các nội dung dưới đây.

Tác giả luận văn xin đảm bảo những thông tin cá nhân trong Phiếu khảo sát

này hoàn toàn được bảo mật và không sử dụng cho mục đích khác. Ý kiến đánh giá

của Ông/ bà chỉ được công bố trong kết quả tổng hợp, không công bố danh tính cá

nhân.

Ông/ bà vui lòng tick mức điểm phù hợp với (1- Yếu, kém đến 5-Rất tốt)

Xin trân trọng cảm ơn!

A. THÔNG TIN CÁ NHÂN (Không bắt buộc)

1. Họ và tên:………………………………Nam……………Nữ…………………

2. Chức vụ:…………… Trình độ chuyên môn ………………………………….

3. Đơn vị công tác:……………………………………………………………….

4. Địa chỉ cơ quan nơi công tác ………………………………………………….

5. Điện thoại ……………Fax…………………. Email ………………………….

B. NỘI DUNG KHẢO SÁT

Câu 1. Đánh giá của ông bà về các chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1

Các chủ thể thực hiện chính sách theo sự phân công

nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ với nhau

trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

2

Các chủ thể hiểu rõ và nhận thức rõ về thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang

3

Các chủ thể thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang nhiệt tình và

sẵn sàng giúp đỡ các đối tượng chính sách

Câu 2. Đánh giá của ông bà về công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1

Công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

thường xuyên, liên tục

2 Đảm bảo phù hợp với thực tiễn tình hình tôn giáo của

người Khmer trên địa bàn tỉnh

3 Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng

chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang

Câu 3. Đánh giá của ông bà về công tác xây dựng, ban hành văn bản quản lý thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1 Hệ thống văn bản về quản lý tôn giáo và dân tộc

Khmer của tỉnh An Giang được xây dựng thống nhất

với chủ trương, chính sách Đảng, Nhà nước

2 Hệ thống văn bản quản lý minh bạch, phù hợp với

thực tiễn tình hình chính sách tôn giáo đối với đồng

bào Khmer

3 Hệ thống văn bản được bàn hành linh hoạt và kịp thời

Câu 4. Đánh giá của ông bà về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách

tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1 Nội dung phổ biến, tuyên truyền về thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh

An Giang

2 Hình thức tổ chức phổ biến, tuyên truyền thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang

3

Phương pháp tổ chức phổ biến, tuyên truyền thực hiện

chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn

tỉnh An Giang

4 Hoạt động phối hợp tổ chức phổ biến, tuyên truyền

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer

trên địa bàn tỉnh An Giang

5

Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên truyền thực

hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang

Câu 5. Đánh giá của ông bà về công tác duy trì, điều chỉnh thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1

Thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer

tiếp tục được tỉnh An Gian thực hiện thường xuyên và

liên tục

2

Các chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang được duy trì phù hợp với đặc điểm

về kinh tế - xã hội người Khmer ở An Giang

3

Các chính sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa

bàn tỉnh An Giang được điều chỉnh phù hợp với hoàn

cảnh

Câu 6. Đánh giá của ông bà về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1 Nội dung kiểm tra, thanh tra phù hợp với kế hoạch

thực hiện chính sách tôn giáo đối với người Khmer

trên địa bàn tỉnh An Giang

2 Hình thức kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

đa dạng, phong phú

3

Phương pháp kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách

tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An

Giang phù hợp với điều kiện của quận

4 Mức độ kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang

thường xuyên và liên tục

Câu 7. Đánh giá của ông bà về công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách tôn

giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

Thang đánh giá

TT Nội dung/ Tiêu chí

5

4

3

2

1

1 Hoạt động tổng kết thực hiện chính sách tôn giáo đối

với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang được

thực hiện theo đúng chỉ đạo và kế hoạch

2 Hoạt động tổng kết thực hiện chính sách tôn giáo đối

với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang đã rút ra

được các kết quả, hạn chế

3

Báo cáo tổng thực hiện chính sách tôn giáo đối với

người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang được công

khai minh bạch

Câu 8. Kiến nghị của ông/ bà nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách tôn giáo đối với người Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang?

……………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………

(Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của ông/bà)