VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
THÁI THỊ THÚY LAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
THÁI THỊ THÚY LAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ THỊ THU HÀ
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công với nội
dung “Thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Thái Thị Thúy Lan
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình dự thảo và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và quý báu của thầy cô giáo, các đồng nghiệp, quý cơ
quan chuyên môn liên quan cũng với sự động viên, cổ vũ của gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp.
Tôi rất chân thành cảm ơn đến các giảng viên Học viện Khoa học Xã hội đã
giảng dạy, cung cấp cho bản thân tôi những phương pháp nghiên cứu khoa học,
những cách nhìn về thế giới quan, nhân sinh quan một cách khoa học. Từ đó rất
giúp ích cho bản thân trong công tác cũng như đề xuất những chủ trương chính sách
cho các cấp, các ngành.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Vũ Thị Thu Hà, cô giáo
hướng dẫn tận tình và chu đáo, cũng như giúp cho tôi được hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo
Huyện ủy, Ban Dân vận Huyện ủy Quế Sơn cũng như sự giúp đỡ, cung cấp các lài
liệu liên quan đến đề tài này của Văn phòng Huyện ủy, Phòng Nội vụ, Công an
huyện,....huyện.
Với năng lực của bản thân và thời gian có hạn, luận văn của tôi chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong nhận được sự cảm thông
chia sẽ cũng như sự góp ý quý báu của quý thầy cô Học viện để tôi có thể an tâm
tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện hơn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO; CÁC
NHÂN TỔ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG
NAM ................................................................................................................ 11
1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 11
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM .......................... 40
2.1. Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay ................ 40
2.2. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân ............................................................ 59
CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở
HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN ĐẾN ......... 66
3.1. Vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................ 66
3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc việc thực hiện chính sách
tôn giáo ở huyện Quế Sơn ......................................................................................... 73
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
ANQG An ninh quốc gia 1
2 ANCT An ninh chính trị
3 ATXH An toàn xã hội
4 AL Âm lịch
5 BCH Ban Chấp hành
6 BCT Bộ Chính trị
7 BBT Ban Bí thư
8 BTG Ban Tôn giáo
9 BCĐ Ban chỉ đạo
10 BTV Ban Thường vụ
11 CT-XH Chính trị - xã hội
12 ĐT Đường tỉnh
13 GHPG Giáo hội Phật giáo
14 HĐND Hội đồng nhân dân
15 QLNN Quản lý nhà nước
16 QSD Quyền sử dụng
17 TC-KH Tài chính - Kế hoạch
18 Tiến sỹ Tiến sỹ
19 UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
1.1 Bảng thống kê các tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay 30
Bảng thống kê số lượng cơ sở, điểm nhóm và chức sắc, chức việc
1.2 31 của các tổ chức tôn giáo
Sự phân bố của các cơ sở, điểm nhóm tôn giáo được Nhà
1.3 33 nước công nhận
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu Tên hình Trang hình
1.1 Biểu đồ các tôn giáo ở Quế Sơn 30
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, ra đời từ rất lâu và tồn tại gắn liền với lịch
sử xã hội loài người. Để tồn tại và phát triển tôn giáo luôn hoàn thiện và biến đổi
thích ứng cùng với sự phát triển của các mối quan hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội và đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ thiết
chế chính trị đến pháp luật, từ văn hóa đến đạo đức, lối sống của con người đến sự
tăng trưởng kinh tế; từ các quan điểm triết học, về nhận định thế giới đến những
ứng xử và phong tục, tập quán của nhiều nước, tộc người trên thế giới và nước ta
cũng không ngoại lệ.
Theo số liệu thống kê của BTG Chính phủ tính đến tháng 6 năm 2017, Việt
Nam có 27% dân số theo tôn giáo với 25,3 triệu tín đồ, trong đó có gần 200.000
chức sắc, chức việc. Tôn giáo ở Việt Nam 15 năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh
chóng. So với số liệu thống kê năm 2003, cả nước có khoảng 18 triệu tín đồ, 34.181
chức sắc, 78.913 chức việc, 20.929 cơ sở thờ tự tôn giáo, thì hiện nay số lượng tín
đồ đã tăng 35%, số lượng chức sắc, chức việc tăng 70%, số lượng cơ sở tôn giáo
tăng 33%.
Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử của đất nước do tác động của nhiều yếu
tố, nguyên nhân khác nhau mà tôn giáo có lúc trở thành điểm nóng, phức tạp gây
mất ổn định ANCT tại một số địa phương trong cả nước, nhất là giai đoạn hiện nay
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì bên cạnh thời cơ, thuận lợi
cũng gặp những hạn chế, thách thức nhất định. Do đó công tác QLNN, thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng gặp không ít khó khăn.
Cũng như các địa bàn trong tỉnh Quảng Nam nói riêng, cả nước nói chung
trong những năm gần đây tôn giáo ở huyện ngày càng phát triển, các tôn giáo đều
có xu hướng mở rộng, nâng cao vị thế của mình, tín đồ các tôn giáo ngày càng tăng
lên hằng năm, trong đó nhiều nhất là đạo Phật. Trên cơ sở xác định là chính sách
quan trọng, nhaỵ cảm, dễ bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, kích
1
động nên trong quá trình lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể CT-XH cũng như các ban, ngành trong hệ
thống chính trị trên địa bàn Quế Sơn đã quan tâm đến công tác tôn giáo; trong quá
trình tổ chức triển khai thực hiện luôn đảm bảo theo chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước và sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh cùng các ngành chức
năng của tỉnh Quảng Nam về công tác tôn giáo. Đến nay đã đạt được những kết quả
tích cực, quan trọng trên các mặt về công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách,
quản lý hoạt động của các tôn giáo, công tác sơ, tổng kết, kiểm tra, giám sát,...qua
đó quyền tự do tôn giáo của công dân được phát huy; tín đồ, chức sắc tôn giáo tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào xã hội
ở địa phương.
Song, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tôn giáo trên địa bàn huyện
Quế Sơn vẫn còn những hạn chế nhất định đó là: công tác tuyên truyền chưa thường
xuyên nên nhận thức của một vài cấp ủy, chính quyền, một số cơ quan, ban ngành
cũng như một bộ phận cán bộ, đảng viên đối với công tác tôn giáo chưa đảm bảo
theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Nhà
nước; công tác quản lý đất đai liên quan đến tôn giáo còn nhiều bất cập, trong quá
trình thực thi có lúc chýa ðúng theo quy ðịnh; sự phối hợp giữa các ban, ngành,
ðoàn thể trong việc giải quyết các vấn ðề liên quan ðến tôn giáo có lúc chýa ðồng
bộ; bên cạnh ðó nhận thức của một bộ phận chức sắc, chức việc, tín ðồ của một số
tôn giáo còn hạn chế, thiếu hợp tác với cơ quan QLNN về công tác đất đai liên quan
đến tôn giáo,...
Là nhóm chính sách nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng gây mất ổn
định CT-XH, xuất phát từ vị trí làm việc của bản thân là chuyên viên công tác tại
Ban Dân vận Huyện ủy huyện Quế Sơn-một cơ quan Thường trực của BCĐ công
tác tôn giáo của huyện có chức năng tham mưu Huyện ủy lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện công tác tôn giáo trên toàn huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình
thực tế việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo tại địa phương trong những năm
qua, tôi nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách tôn giáo nếu chính sách này
2
được triển khai thực hiện tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy sự ổn định xã hội và ngược lại.
Tuy nhiên, cho đến nay tại huyện Quế Sơn chưa có công trình nào nghiên cứu về
việc thực hiện chính sách tôn giáo. Do đó, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách
tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài Luận văn cao
học chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu, cho đến nay có khá nhiều công trình trực tiếp hay gián tiếp của
các nhà khoa học, học giả ngoài nước cũng như trong nước đã đầu tư nghiên cứu, đề
cập đến nhiều khía cạnh, vấn đề khác nhau về lĩnh vực tôn giáo: về quan điểm, lý
luận về tôn giáo; công tác tôn giáo; về chính sách, thực hiện chính sách và công tác
QLNN về tôn giáo trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với luận văn
này bản thân xin nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu lý luận về tôn giáo,
chính sách tôn giáo, mối quan hệ giữa chính trị với tôn giáo như: Ngô Hữu Thảo
(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc
tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Lê Hữu
Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác
tôn giáo, NXB Ban Tôn giáo Chính phủ; Đỗ Quang Hưng (2008) Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng Việt Nam về lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội;
Đỗ Quang Hưng (2009), Vấn đề Tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp
quyền, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước-Tôn
giáo- Pháp luật, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2015), Quan hệ
Nhà nước - Giáo hội và chính sách tôn giáo, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội,...
Đối với công trình nghiên cứu về thực hiện chính sách tôn giáo bản thân đã
tham khảo luận văn của các tác giả như: Tào Gia Cát Linh (2016) thực hiện chính
sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ Chính sách Công,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Thu Oanh (2019) thực hiện chính
3
sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội. Đối với công trình nghiên cứu công tác QLNN về tôn
giáo bản thân đã tham khảo các luận văn của các tác giả như: Lê Ngọc Sĩ (2014)
Công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện đảo Phú Quốc - Kiên Giang
hiện nay, luận văn thạc sĩ Tôn giáo học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội; Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2015) QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Quảng Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội v.v...
Qua tìm hiểu từng công trình nghiên cứu về công tác tôn giáo sẽ thấy được ý
nghĩa, giá trị to lớn của từng công trình, các nhận định, đánh giá ở mỗi công trình
nghiên cứu sẽ được bản thân nghiên cứu, học hỏi, chọn lọc, tiếp thu - là tài liệu hữu
ích tham khảo khi làm luận văn này.
Đối với tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo
của Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003) đã cho thấy Hồ Chí Minh là người
cán bộ mẫu mực, không những giỏi về nghệ thuật quản lý mà còn giỏi về công tác
vận động quần chúng, trong đó có đồng bào theo đạo; người đã chỉ ra những
phương thức vận động quần chúng rất nhạy bén, linh hoạt trước biến động của thực
tiễn; với chính sách này Người đã vận động đông đảo tín đồ trong các tôn giáo cùng
các tầng lớp nhân dân trong cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc
và thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh khi vận dụng tư tưởng về tôn giáo
và công tác tôn giáo của Người trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước. Hiện nay trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo
không chỉ riêng huyện Quế Sơn mà các cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban
ngành ở từng địa phương luôn vận dụng tư tưởng của Bác để vận động các tổ chức,
cá nhân tôn giáo sinh hoạt tôn giáo theo Giáo lý, Giáo luật của từng tôn giáo và theo
quy định của pháp luật.
Đối với công trình nghiên cứu về Nhà nước, Tôn giáo, Luật pháp của Đỗ
Quang Hưng, nội dung công trình của tác giả gồm có 3 phần, phần 1 tác giả đã nêu
4
lên Mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội; phần 2 là tôn giáo, phần 3 là Luật pháp
và tôn giáo. Đây là một công trình vô cùng quí giá, tác giả Luận văn tham khảo
nghiên cứu nhằm không chỉ nắm bắt cụ thể về phần nội dung và đặc điểm đời sống
tôn giáo, về mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo mà còn ở chỗ công trình này
tác giả đã khái quát hóa lộ trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, luật pháp về tôn
giáo của Nhà nước Việt Nam trong quá trình nỗ lực hướng tới một môi trường thích
hợp để các cộng đồng tôn giáo không những thực hiện tốt chính sách, pháp luật của
Nhà nước với tư cách như một tổ chức, một công dân bình thường mà còn thông
qua luật pháp về tôn giáo có thể tìm thấy sự thỏa mãn, đáp ứng được nhu cầu đời
sống tâm linh của người có đạo; đồng thời công trình đã gợi mở những suy ngẫm,
đề xuất đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền về tôn giáo ở nước ta hiện
nay.
Công trình Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam về lý luận và thực
tiễn của tác giả Đỗ Quang Hưng xuất bản năm 2008 cho thấy đây là một công trình
nghiên cứu về quan điểm, chủ trương cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về vấn đề tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam có tính tổng
hợp và toàn diện nhất. Cuốn sách tác giả đã giới thiệu về bối cảnh quốc tế, vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam, Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
cũng như quá trình nhận thức, phát triển quan điểm, đường lối về tôn giáo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo ở
Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất cần thiết đối với luận văn, nó giúp
cho bản thân nắm bắt tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo và thực tiễn về thực hiện chính sách tôn giáo; đồng thời công
trình này cũng đã chỉ ra những bất cập và đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn
thiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua.
Đối với công trình QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Nam
hiện nay (2015), luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Ánh đã phân tích lý luận về tôn giáo,
quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo, khái quát lịch sử hình
5
thành và phát triển của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; đồng thời tác giả
đã nêu lên thực trạng công tác QLNN về tôn giáo ở Quảng Nam, trên cở sở đó đã đề
ra những giải pháp thiết thực, sát thực tiễn nhằm thực hiện tốt công tác QLNN về
tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến. Qua tìm hiểu công trình này bản thân
nắm được đặc điểm hình thành và phát triển của từng tôn giáo cũng như thực trạng
hoạt động của nó trên địa bàn tỉnh, trong đó có Quế Sơn, để từ đó có nhận định
chính xác trên cơ sở đố tham mưu cấp ủy, chính quyền huyện nhà đề ra các giải
pháp hữu hiệu nhằm tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện trong
thời gian đến đạt những kết quả quan trọng hơn.
Đối với công trình Thực hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng của Tào Gia Cát Linh (2016), tác giả đã nêu những vấn đề về lý luận về chính
sách tôn giáo, thực trạng công tác thực hiện chính sách tôn giáo, giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian đến của thŕnh phố. Qua tìm hiểu, bản
thân sẽ tham mưu cấp ủy, chính quyền huyện nhà sẽ có những giải pháp thiết thực
về thực hiện chính sách tôn giáo trong thời gian đến.
Tóm lại, các thông tin cũng như nhận định của những công trình tác giả nêu
trên sẽ được bản thân kế thừa, có chọn lọc cho đề tài luận văn này. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cũng như phân tích tình hình thực
hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, trong khi việc tổ chức thực
hiện chính sách này gặp không ít khó khăn, hạn chế nhất định. Một số vấn đề liên
quan đến chính sách và thực trạng chính sách tôn giáo mới chỉ được đề cập trong
các báo cáo chuyên đề, báo cáo sơ kết và tổng kết của các ban, ngành, đoàn thể ở
huyện Quế Sơn có liên quan đến công tác tôn giáo như: Phòng Nội vụ, Công an,
Ban Dân vận, Mật trận Tổ quốc và các báo cáo cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
6
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc tổ chức triển khai thực hiện
chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam hiện nay đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực thi chính sách tôn giáo trên địa bàn
huyện trong thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được các mục đích nêu trên luận văn sẽ tập trung giải quyết các
vấn đề sau:
Một là: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận, quan điểm của Mác-Lê nin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo;
làm rõ thực tiễn liên quan đến việc thực hiện chính sách và đặc điểm của từng tôn
giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Hai là: Luận văn phân tích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo
tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong những năm qua.
- Ba là: Luận văn đề ra phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao
hiệu quả của việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn
tỉnh Quảng Nam trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu việc tổ chức thực hiện
chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong đó tập trung nghiên
cứu thực trạng của việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở địa
phương trong những năm qua. Tìm hiểu những vấn đề đặt ra hiện nay đồng thời qua
đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm tổ chức thực hiện tốt chính sách tôn giáo
tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện
chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
7
Đây là giai đoạn sau khi chia tách huyện Quế Sơn thành hai huyện: Quế Sơn
và huyện Nông Sơn thì tình hình tôn giáo có những thay đổi nhất định về số lượng
tín đồ cũng như chức sắc, chức việc và cơ sở thờ tự tôn giáo. Bên cạnh đó, trên địa
bàn huyện không còn Phòng tôn giáo (do bị giải thể theo quy định vào năm 2007)
nên không có cán bộ công chức chuyên trách về tôn giáo như trước đây mà chỉ có
cán bộ, chuyên viên Phòng Nội vụ phụ trách công tác tôn giáo (theo quy định).
Phòng tôn giáo - cơ quan chuyên trách về QLNN ở huyện bị giải thể, thay vào đó
BCĐ công tác tôn giáo thuộc Huyện ủy thành lập vào năm 2012 và quản lý về công
tác tôn giáo trên toàn huyện, trong đó về phía Nhà nước phân công Phòng Nội vụ có
trách nhiệm tham mưu UBND huyện triển khai, phổ biến chính sách của Nhà nước
và QLNN về tôn giáo. Đồng thời hiện nay tôn giáo và hoạt động của một số tổ chức
tôn giáo trên địa bàn huyện có một vấn đề cần phải quan tâm đó là: tín đồ tôn giáo
ngày tăng lên, hoạt động của một số cơ sở, tín đồ tôn giáo có biểu hiện trái quy định
của pháp luật vẫn còn, qua đó tiềm ẩn những nguy cơ phức tạp, trong khi đó cấp ủy,
chính quyền một số xã chưa quan tâm, chưa chú trọng đến công tác tôn giáo; công
tác tuyên truyền về các văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo,
nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng còn hạn chế nhất định; chưa có đội ngũ
chuyên trách làm công tác tôn giáo, chỉ có cán bộ phụ trách tôn giáo ở các cấp trên
địa bàn, trong khi đó năng lực của một bộ phận cán bộ phụ trách công tác tôn giáo
còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình mới.
- Phạm vi về không gian: Trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
8
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chuyên ngành chính sách công,
chu trình chính sách: từ hoạch định chính sách đến việc xây dựng, tổ chức thực hiện
chính sách và đánh giá trong đó có sự tham gia của chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, các yêu cầu đặt ra đối với luận văn này, ngoài sử
dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp
chính sách công; tác giả Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành và liên ngành như chính trị học tôn giáo, tôn giáo học kết hợp với các
phương pháp cơ bản như: Phỏng vấn, phương pháp phân tích-tổng hợp, thống kê-so
sánh, nghiên cứu tài liệu, tổng kết, đánh giá thực tiễn tổ chức triển khai thực hiện
chính sách tôn giáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Qua kết quả nghiên cứu sẽ làm rõ thêm những cơ sở lý luận về tôn giáo, công
tác quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo từ góc độ chuyên ngành của chính sách
công. Luận văn sẽ cung cấp những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện
chính sách tôn giáo ở nước ta nói chung, huyện Quế Sơn nói riêng; cung cấp thêm
những cơ sở cho việc nghiên cứu thực hiện chính sách đối với các tôn giáo ở huyện.
Đồng thời góp phần tích cực trong quá trình hoàn thiện chủ trương, chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước nói chung và quá trình thực hiện chính sách tôn giáo tại
địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng trong quá trình đẩy mạnh hội
nhập quốc tế sâu rộng. Ngoài ra, Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao
nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức trên địa bàn về tôn giáo và công tác tôn giáo và việc thực hiện
chính sách tôn giáo từ góc nhìn của chuyên ngành chính sách công hiện nay.
6.1. Ý Nghĩa thực tiễn
9
Qua nghiên cứu đề tài thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế
Sơn thời gian qua sẽ góp phần tích cực quan trọng trong việc duy trì và hoàn thiện
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta nói chung và quá trình thực thi chính
sách tôn giáo nói riêng. Đây là tài liệu rất quý và quan trọng cho việc biên soạn các
chuyên đề về công tác tôn giáo, quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo của các báo
cáo viên của huyện để giảng bài tại các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về công
tác tôn giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp, nhất là đối với
cán bộ chính quyền các cấp trong công tác quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo
trên địa bàn huyện trong thời gian đến.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện
chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 2. Thực trạng công tác thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nam.
Chương 3. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong việc thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn trong thời gian đến
10
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO; CÁC NHÂN TỔ
ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm sử dụng trong luận văn
1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Qua tìm hiểu, trong lịch sử xã hội loài người có khoảng gần mười nghìn tôn
giáo đang tồn tại, về định nghĩa tôn giáo, hiện nay có gần 250 định nghĩa. Theo ḍng
lịch sử định nghĩa về tôn giáo được mở rộng về nội hàm và phạm vi của nó; tùy
theo mỗi tôn giáo khác nhau, cách tiếp cận và mỗi quốc gia mà nó được hiểu theo
nghĩa khác nhau. Trong Tiếng anh, tôn giáo có nghĩa là religion-có nghĩa là thu
lượm thêm sức mạnh siêu nhiên, tôn trọng những gì linh thiên, huyền bí, tôn kính
thần linh; cho rằng giữa Chúa với Thượng đế có sự gắn bó; thể hiện mối quan hệ
giữa con người với thế giới khác-một thế giới siêu nhiên, vô hình; sự tồn tại một
quyền lực huyền bí bên ngoài mà con người chịu tác động, chi phối đến, một cảm
giác đạo mộ mà con người phải tuân theo. Trong tiếng Hy Lạp cho rằng: tôn giáo là
regere-quan niệm rằng giữa con người và thế giới thần linh có mối quan hệ, ràng
buộc lẫn nhau.
Theo từ điển tiếng việt ghi rằng: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [40, tr. 239 ]. Trong
Luật tín ngưỡng, tôn giáo có định nghĩa: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại
với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật,
lễ nghi và tổ chức” [20, tr.8].
1.1.1.2. Khái niệm Chính sách công
Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm quyền
lực công nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời
11
sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và đảm
bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.
1.1.1.3. Khái niệm Chính sách tôn giáo
Chính sách tôn giáo ở nước ta được thể hiện ở chủ trương, đường lối của
Đảng và hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác tôn giáo. Là
quá trình dùng quyền lực của Nhà nước, các cơ quan chức năng liên quan từ trung
ương đến địa phương sử dụng nhằm tác động, định hướng, hướng dẫn, điều chỉnh
hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được Nhà nước công nhận hoạt động
theo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Bên cạnh đó, có
thể hiểu chính sách tôn giáo còn là quá trình chấp hành và tổ chức thực hiện chính
sách pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp nhằm tác động, định
hướng, điều chỉnh hoạt động của tôn giáo và hành vi, hoạt động của tổ chức, cá
nhân tôn giáo theo quy định của Nhà nước đề ra.
1.1.1.4. Khái niệm Thực hiện chính sách tôn giáo
Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong
chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất
định và thực hiện hóa chính sách để đưa chính sách đi vào đời sống xã hội theo định
hướng của Nhà nước.
Trên cơ sở khái niệm thực hiện chính sách ta có thể hiểu về thực hiện chính
sách tôn giáo là quá trình chuyển hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đối với công tác tôn giáo, đưa chính sách này đi vào cuộc
sống, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của một bộ phận nhân dân; đây là
giai đoạn đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong chu trình đối với chính sách tôn
giáo, là trung tâm kết nối giữa các bước trong chu trình chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước ta.
12
1.1.2. Quan điểm của Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối,
chủ chương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo
1.1.2.1. Quan điểm của Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin khi nghiên cứu về tôn giáo đều xuất phát từ những ý
tưởng có tính phương pháp luận và phương pháp cách mạng (chủ nghĩa duy vật biện
chứng) từ đó nhận định rằng tôn giáo có nguồn gốc và bản chất của nó:
Về nguồn gốc tôn giáo là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng.
Từ phương pháp khoa học lịch sử, với thế giới quan duy vật C.Mác và Ăng ghen đã
chỉ ra nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Chính con người sinh
ra tôn giáo, chớ tôn giáo không sáng tạo ra con người và tôn giáo quay lại chi phối
con người trong cuộc sống đời thường. Mà trong đó con người là thế giới con
người - là xã hội loài người, là nhà nước.
Ăngghen, trong tác phẩm Chống Duyrinh đã đưa ra lý giải về nguồn gốc tôn
giáo, là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Như vậy, tôn
giáo với tính cách là một hình thái ý thức phản ánh thế giới tự nhiên vào bộ não con
người một cách sai lầm hoặc là một sự phản ánh không toàn diện thế giới khách
quan, khiến con người hiểu sai hoặc không đầy đủ các hiện tượng trong tự nhiên.
C.Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen
cũng đã khẳng định rằng: " Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn của hiện thực ấy.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân" [34, tr. 570 ]. Với cách nhận định này cho thấy
tính chất của tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó có chức năng và tính xã hội rất
đặc biệt. Tôn giáo ra đời nhằm bù đắp cho sự nghèo nàn của tri thức để lý giải hiện
thực xã hội, thế giới; nguyên nhân là do sự thấp kém của trình độ khoa học kỹ thuật
13
cùng sự bất an, phức tạp của đời sống xã hội. Do đó, con người cần có tôn giáo như
một liều thuốc an thần xoa dịu những nỗi đau, những bất hạnh, trắc ẩn trong đời
sống thường ngày.
Lê-nin trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Mác-Ănghen về tôn giáo, ông đã trình
bày chính kiến của mình về tôn giáo: “Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến
tôn giáo là cùng khổ và dốt nát”, “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về
tinh thần, luôn luôn đè nặng lên vai quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động
cho người khác hưởng vì phải chịu cảnh bần cùng, cô độc”. [32, tr. 221 ].
Qua đó cho thấy ở thời Mác-Ănghen đã nghiên cứu về bản chất của tôn giáo,
đến thời đại Lê nin thì bản chất của tôn giáo là vấn đề trở thành cơ sở để lý giải, giải
quyết về vị trí của tôn giáo trong đời sống xã hội; mối quan hệ giữa tôn giáo với
chính trị, quan điểm của nhà nước mới-xã hội chủ nghĩa về tôn giáo. Như vậy, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc
thượng tầng kiến trúc xã hội, có quan hệ mật thiết và chịu sự chi phối của tồn tại xã
hội.
Phạm trù lịch sử của tôn giáo phản ánh ý thức của con người về tồn tại xã hội
của hiện thực thời đại mình. Chỗ dựa của tôn giáo là những điều bí ẩn của đời sống
hằng ngày không giải thích được và một số hiện tượng mà các nhà khoa học chưa
giải thích được. Đối với tôn giáo trong tiến trình phát triển nhận thức của con người,
khoa học phát triển và dần cắt nghĩa được một số điểm cho tôn giáo làm chỗ dựa và
tồn tại, khoa học phát triển tới đâu, tôn giáo lùi tới đó. Song thế giới mà con người
chúng ta sinh sống là vô cùng vô tận, trong khi nhận thức về thế giới thì có hạn,
khoa học đã chứng minh, giải thích được hiện tượng này lại xuất hiện những cái
mới, chưa giải thích được. Vì thế tôn giáo luôn có chỗ dựa cùng với sự năng động
điều chỉnh theo những tiến bộ của khoa học và biến đổi của xã hội. Đồng thời, hiện
thực sự phát triển của tôn giáo trong xã hội hiện đại cho thấy, cơ sở tồn tại và điều
kiện tiêu vong của tôn giáo trở nên rất phức tạp. Vì ngày nay con người vẫn chưa
giải quyết được một cách triệt để và hợp lý các mối quan hệ đối lập giữa lý tưởng và
14
hiện thực, giữa chủ quan và khách quan, giữa ngẫu nhiên và tất nhiên, giữa hữu hạn
và vô hạn, giữa đau khổ và hạnh phúc,... Nhất là trong giai đoạn hiện nay, con
người vẫn phải đối mặt với những bất hạnh cá nhân, cảm giác thiếu hụt, bất an và
mất cân bằng về tâm lý trước tình hình dịch bệnh tràn lan và bệnh tật hiểm nghèo
ngày càng tăng, sự chênh lệch giàu nghèo, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống,...Đó là
những cơ sở để cho tôn giáo tiếp tục tồn tại và phát triển. Cùng với tiến trình lịch sử
của con người, tôn giáo được sinh ra, tồn tại và mất đi khi nền tảng cho sự tồn tại
của nó không còn. Đó là cả một tiến trình lâu dài trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người.
1.1.2.2.. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Sinh thời Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác tôn giáo, trên cơ sở kế thừa
về quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin về tôn giáo, Người đã vận dụng một cách
linh hoạt vào đặc điểm, điều kiện lịch sử của Việt Nam, Người đã xây dựng nên hệ
thống quan điểm về tôn giáo rất phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng tạo. Trong các
tư tưởng của Người về tôn giáo thì tư tưởng Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc,
nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng nổi bật nhất, chiếm một vị trí
quan trọng trong hệ thống di sản lý luận mà Người để lại cho đất nước. Tư tưởng
này được xây dựng trên đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam là các tôn giáo luôn đoàn
kết, chấp hành tốt chính sách của nhà nước, là đất nước không có xung đột, chiến
tranh tôn giáo như một số quốc gia trên thế giới. Người khẳng định rằng giữa đồng
bào theo đạo hay không theo đạo đều là công dân Việt Nam, đều là người lao động
và sự nghiệp cách mạng là việc lớn, 1à sự nghiệp chung không phải chỉ của một hai
người. Người đã chỉ ra mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo một cách mộc mạc, dễ
hiểu nhưng có ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Kính chúa yêu nước, mỗi người vừa là một
tín đồ chân chính vừa là một công dân yêu nước; nước nhà vinh thì đạo mới sáng,
đất nước có độc lập thì mới có tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Người quan niệm
rằng giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu nước là không mâu thuẫn nhau. Đồng thời,
Người cũng đã chú trọng nội dung tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo của
công dân. Đây là một quan điểm đúng đắn của Người về tôn giáo, sự tôn trọng ấy
15
không chỉ thể hiện trên văn bản, lời nói mà còn trên cả hoạt động thực tiễn của Bác
đối với tôn giáo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Theo Người mọi
công dân Việt Nam đều có quyền tự do tôn giáo. Người nhận ra rằng ở trong mỗi
tôn giáo có những giá trị đạo đức nhân văn cao cả cần tiếp thu, đạo đức là bác ái
(Chúa Giêsu dạy), đạo đức là từ bi (Phật Thích ca dạy), đạo đức là nhân nghĩa
(Khổng tử) mà mọi người cần học hỏi và phát huy.
Đối với nước ta trong quá trình đổi mới, mở rộng hội nhập quốc tế, việc kế
thừa, tiếp thu tư tưởng của Người về đoàn kết tôn giáo xuất phát từ tình hình thực tế
của đất nước, từ truyền thống đoàn kết, từ tinh hoa văn hóa dân tộc, từ lý luận Mác-
Lê Nin xem cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tư tưởng về đảm bảo quyền
tự do tôn giáo và tư tưởng đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc của Hồ Chí Minh
có một ý nghĩa rất to lớn, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là bài học quý giá đối
với quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Tư
tưởng này được thể hiện nhất quán và khẳng định từ Luận cương cách mạng tư sản
dân quyền năm 1930 đến Nghị quyết Đại hội lần thứ 12 của Đảng năm 2016 và
trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.
1.1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo
Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng
tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo cũng như kinh nghiệm của việc giải quyết các vấn đề liên quan đến công
tác tôn giáo trong quá trình lãnh đạo và xây dựng đất nước; đồng thời căn cứ vào
tình hình khu vực và thế giới về tôn giáo và đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt
Nam. Bởi ở nước ta dù tôn giáo nội sinh hay ngoại sinh và mỗi tôn giáo đều có đặc
điểm, tổ chức hoạt động khác nhau nhưng đều có điểm chung là luôn chung sống
hoà hợp, gắn bó với dân tộc, tích cực tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Theo dòng lịch sử, cho thấy trong quá trình dựng và giữ nước, nhất là giai
đoạn khó khăn của dân tộc, đồng bào có đạo cũng như không đạo đã một lòng đoàn
kết bên nhau đứng về phía cách mạng, cùng toàn dân, toàn quân đánh thắng giặc
16
ngoại xâm và trong thời bình họ đã tích cực tham gia xây dựng, phát triển quê
hương, đất nước. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo, quản lý đối với tôn giáo
Đảng, Nhà nước ta thể hiện quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong hệ thống chính
sách tôn giáo trước sau như một đó là luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn
giáo của công dân. Mặt khác lại nghiêm cấm những hành vi miệt thị hay phân biệt
đối xử, giữ khoảng cách đối với người có đạo; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống
lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chính sách tự do tôn giáo để thực hiện mục
đích phi tôn giáo, tổ chức sinh hoạt tôn giáo trái quy định pháp luật Việt Nam; gây
mất trật tự ATXH, làm ảnh hưởng đến ANQG, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết
toàn dân hay xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân
hoặc có những hành vi trái với phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, từ năm 1986 đến nay khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới
các tôn giáo trong nước có sự phục hồi và phát triển; dù tự nhiên hay chủ ý nó đã
tác động và ảnh hưởng trực tiếp đối với tình hình phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội và ANTT ở một số địa phương trong cả nước. Nhận thức điều đó, Đảng ta đã
kịp thời tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả công tác tôn giáo trong thời
gian qua; đồng thời tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Để lãnh đạo và tạo điều kiện
cho tôn giáo phát triển một cách ổn định theo quy định của pháp luật như BCT đã
ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 02/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình
mới, đây được xem là khởi đầu cho bước ngoặc về nhận thức đối với tôn giáo và
công tác tôn giáo trong bối cảnh mới; không lâu sau BCT ban hành Nghị quyết số
24 -NQ/TW ngày 06/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Đặc biệt nhất, đến năm 2003, trên cơ sở đánh giá tình hình tôn giáo và công tác tôn
giáo đạt được những kết quả tích cực trên các mặt, song có những hạn chế, bất cập,
tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, do vậy, tại Hội nghị lần thứ bảy của
BCH Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25 Về công tác tôn
giáo. Nghị quyết này xác định phương hướng và mục đích cơ bản của hoạt động tôn
giáo và công tác tôn giáo; trong đó đã thể hiện 5 quan điểm và chính sách đối với
17
tôn giáo đó là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật;
các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Qua đó, cho thấy đây là lần đầu tiên chính sách tôn giáo được đưa ra bàn bạc,
quyết định ở cấp BCH Trung ương và được phổ biến, quán triệt rộng rãi đến cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước. Trải qua các kỳ đại hội từ Đại
hội Toàn quốc lần thứ X đến đại Hội lần thứ XI và Đại hội lần thứ XII của Đảng
công tác tôn giáo tiếp tục được chú trọng, thể hiện trong các văn kiện Đại hộị; cụ
thể Đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng công tác tôn giáo tiếp tục được
quan tâm và được thể hiện trong văn kiện Đại hội như sau: Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”. Điều đặc
biệt sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25 Về công tác tôn giáo của
BCH Trung ương Đảng khóa IX vào ngày 10/01/2018 BCT đã ban hành Chỉ thị 18-
CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của BCH Trung ương (khóa
IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới và triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo.
Với việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết nêu trên cho thấy rằng trong quá
trình lãnh đạo xây dựng đất nước Đảng ta rất quan tâm đến công tác tôn giáo, trong
các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết công tác tôn giáo được bàn bạc, đều khẳng định
những quan điểm đúng đắn trước đây; đồng thời đã không ngừng đổi mới nhận thức
18
về tôn giáo và trong công tác quản lư trong lĩnh vực này; đề cao những quan điểm,
chính sách đổi mới về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới; nhất là
hiện nay trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế sâu rộng thì công tác này được quan
tâm hơn, cụ thể (Văn kiện tại đại hội lần thứ XII của Đảng nêu tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo).
Qua các quan điểm nêu trên cho thấy trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã có những bước nhận thức mới,
phát triển, hoàn thiện hơn trong công tác tôn giáo; các quan điểm, định hướng của
Đảng về công tác tôn giáo được thể hiện ở các văn kiện đại hội Đảng cũng như các
chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo; các văn bản, văn kiện đã khái
quát được những quan điểm chỉ đạo, định hướng có tính chiến lược và những
phương hướng, giải pháp quan trọng làm nền tảng cho nhận thức mới về công tác
tôn giáo nói chung, thực hiện chính sách về tôn giáo nói riêng trong xu thế mới.
Trên cơ sở đó Nhà nước ta đã kịp thời ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm
pháp luật, có giá trị pháp lý nhằm thể chế, cụ thể hóa những chủ trương, quan điểm
đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình
hình mới.
1.1.2.4. Quy trình thực hiện chính sách tôn giáo
Thực hiện chính sách tôn giáo gồm các bước sau
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo
Việc thực thi chính sách công nói chung và thực thi chính sách tôn giáo nói
riêng là một chu trình diễn ra trong thời gian tương đối dài, do đó để triển khai một
cách hiệu quả, trong quá trình thực hiện phải lập kế hoạch một cách cụ thể để các cơ
quan chức năng QLNN về tôn giáo thực hiện một cách chủ động, không bị lúng
túng. Có thể khẳng định đây là nhiệm vụ đầu tiên trong thực hiện chính sách tôn
giáo. Để chính sách tôn giáo đạt hiệu quả cao, các cấp chính quyền từ trung ương
đến tỉnh, huyện và xã, phường đều phải xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
thành một hệ thống, đồng bộ. Thực hiện chính sách tôn giáo ở cấp nào sẽ do cơ
quan chủ trì của cấp đó xây dựng kế hoạch, thông qua và triển khai thực hiện. Trong
19
quá trình xây dựng kế hoạch nếu cấp có thẩm quyền xây dựng tốt thì việc triển khai
thực hiện chính sách có hiệu quả tốt và không cần phải điều chỉnh, bổ sung trong
quá trình triển khai thực hiện và ngược lại. Việc điều chỉnh kế hoạch trong quá trình
thực hiện chính sách chỉ có những cấp có thẩm quyền xây dựng chính sách tôn giáo
mới có quyền.
- Nội dung Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo:
Thứ nhất, Kế hoạch tổ chức gồm: Các cơ quan chủ trì, phối hợp triển khai
thực hiện chính sách. Số lượng, chất lượng cán bộ phụ trách công tác tôn giáo tham
gia. Sự tác động giữa các cấp thực hiện chính sách và dự kiến về cơ chế trách nhiệm
của cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức thực hiện chính sách.
Thứ hai, Kế hoạch dự kiến các nguồn lực gồm: điều kiện về phương tiện,
trang thiết bị máy móc, hỗ trợ, phục vụ thực hiện chính sách tôn giáo; kinh phí thực
hiện.
Thứ ba, Kế hoạch thời gian thực hiện chính sách: là dự kiến về một khoản
thời gian cho các bước thực hiện chính sách, từ việc tuyên truyền đến công tác sơ,
tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. Trong đó mỗi bước thực hiện đề ra thời gian và
mục đích cần đạt được.
Thứ tư, Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực thi chính sách tôn giáo
gồm: dự kiến về nội quy, quy chế đối với hệ thống các cấp, ngành trong tham gia
thực hiện chính sách; dự kiến về cách thức, phương pháp để kiểm tra, giám sát việc
thực hiện; dự kiến về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước và
đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp. Đồng thời dự kiến các hình thức
khen thưởng những tập thể và cá nhân thực hiện tốt, đồng thời xử lý những tập thể,
cá nhân thực hiện không tốt chính sách tôn giáo.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách tôn giáo
Sau khi lãnh đạo xem xét thông qua kế hoạch thực hiện chính sách tôn giáo,
thì các cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo ở cấp đó bám sát kế hoạch đã
20
được xem xét thông qua để triển khai thực hiện đúng tiến độ đề ra. Nhiệm vụ đầu
tiên là phải phổ biến, tuyên truyền chính sách và vận động quần chúng thực hiện
chính sách. Đây là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước phụ trách công
tác tôn giáo và đối tượng thực hiện chính sách tôn giáo. Bởi công tác phổ biến,
tuyên truyền chính sách tôn giáo tốt sẽ giúp cho chức sắc, chức việc, tín đồ hiểu
mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của chính sách tôn giáo, để từ đó ý thức chấp
hành theo yêu cầu của các cấp chính quyền, cơ quan QLNN về tôn giáo. Hơn thế
nữa đây là chính sách quan trọng, nhạy cảm, nếu công tác tuyên tuyền tốt sẽ giúp
cho đồng bào, các chức sắc tôn giáo hiểu rõ mục tiêu chính sách đặt ra. Phổ biến,
tuyên truyền chính sách tôn giáo đạt hiệu quả bằng các hình thức, phương pháp
như: Hội nghị, tập huấn chuyên đề các tôn giáo, gặp gỡ chức sắc, chức việc, nhà tu
hành,...
Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo
Để tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra thì
trong quá trình tổ chức thực hiện phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ
quan, ngành, các cấp chính quyền địa phương, đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo, trong đó cấp có thẩm quyền cần
phải có sự phân công công việc cụ thể cho các ban, ngành, địa phương cũng như
công tác phối hợp, hỗ trợ và tạo điều kiện của các đơn vị có liên quan đến việc thực
hiện chính sách. Trong hoạt động phân công, phối hợp nhiệm vụ cần được thực hiện
theo tiến trình, có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách
được ổn định, đặc biệt quan tâm đến trình độ chuyên môn và lợi thế của từng tập
thể, cá nhân; trong quá trình phân công phải phân công rõ ràng nhiệm vụ từng cơ
quan, cơ quan nào là chủ trì, cơ quan nào là phối hợp; tránh tình trạng phân công
nhiệm vụ không cụ thể, bị chồng chéo sẽ dẫn đến việc chính sách không đạt được
hiệu quả. Đối với nước ta, đã quy định Chính phủ QLNN về tôn giáo; Bộ Nội vụ-cơ
quan của Chính phủ chịu trách nhiệm QLNN về tôn giáo, có trách nhiệm tuyên
tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật đối với tôn giáo;
BTG Chính phủ-thuộc Bộ Nội vụ có trách nhiệm tham mưu Bộ trưởng của Bộ này
21
có trách nhiệm QLNN về tôn giáo cùng các bộ, ngành của Trung ương; đối với cấp
tỉnh, huyện, xã thì do UBND cấp đó thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo ở cấp
mình.
Bước 4: Duy trì chính sách đối với tôn giáo
Để chính sách tôn giáo được tồn tại trong đời sống xã hội, đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào các tôn giáo đòi hỏi cần có sự thống nhất, đồng
tâm hiệp lực của chủ thể và khách thể trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo
của Đảng, nhà nước và môi trường tồn tại của nó. Trong thực tiễn cho thấy một số
chính sách sau khi ban hành đến giai đoạn triển khai thực hiện thì gặp không ít
những khó khăn, vướng mắc nhất định, nguyên nhân do môi trường thực tế biến
động, trong đó có chính sách tôn giáo. Vì thế, để triển khai thực hiện tốt chính sách
tôn giáo thì các cơ quan QLNN về tôn giáo ở các cấp cần linh hoạt, chủ động, sáng
tạo, sử dụng hệ thống, những công cụ quản lý sao cho phù hợp để tác động, nhằm
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực thi chính sách tôn giáo. Đồng thời, trong
quá trình triển khai thực hiện các cơ quan nhà nước cần chủ động, linh hoạt điều
chỉnh chính sách tôn giáo sao cho cho phù hợp với tình hình của địa phương, đất
nước trong tình hình mới. Trong thực tế, các cơ quan QLNN về tôn giáo trong một
chừng mực nhất định có thể dùng hiện pháp hành chính để duy trì chính sách tôn
giáo để đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
Bước 5: Điều chỉnh chính sách tôn giáo
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo cần phải có sự điều
chỉnh kịp thời để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn; đây
là việc làm cần thiết và diễn ra thường xuyên trong quá trình thực hiện chính sách
tôn giáo; việc điều chỉnh chính sách tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan QLNN ở
cấp Trung ương. Cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh và bổ
sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế, chính
sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, do vậy các cơ quan QLNN ở cấp Trung ương,
các ngành, UBND các cấp về chính sách tôn giáo cần chủ động điều chỉnh biện
22
pháp, cơ chế, chính sách cho phù hợp tình hình và tôn giáo ở cấp mình. Để chính
sách tôn giáo được duy trì, trong khi điều chỉnh chính sách phải chấp hành nguyên
tắc đó là chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu chính sách
hay bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Do đó, nếu
điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu chính sách tôn giáo, thì chính sách đó không tồn
tại.
Bước 6: Đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo
Tôn giáo và tình hình tôn giáo ở từng vùng, địa phương không giống nhau
cũng như trình độ, năng lực của đội ngũ của cán bộ, công chức trong các cơ quan
nhà nước của cả hệ thống chính trị trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách tôn
giáo không đồng nhất, do đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ
chức thực hiện chính sách tôn giáo phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện chính sách. Thông qua đó, nếu phát hiện những hạn chế, bất cập thì
kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền điều chỉnh bổ sung, đính chính hoàn thiện và
chấn chỉnh công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở các cấp, đồng thời giúp cho
việc triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn đạt hiệu quả, đảm bảo theo
nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo của một bộ phận quần chúng
nhân dân. Ngoài ra, qua kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm của các tổ chức,
cá nhân tôn giáo trong hoạt động tôn giáo.
Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn
giáo
Nội dung tổng kết, đánh giá công tác tôn giáo là công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
triển khai, điều hành những văn bản như nội quy, quy định, chương trình phối hợp,
ký kết liên tịch cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác về tôn giáo để xem xét
tình hình thực hiện chính sách tôn giáo. Trong quá trình thực hiện chính sách tôn
giáo, ngoài tổng kết, đánh giá các cơ quan QLNN về kết quả điều hành chính sách
tôn giáo cần phải đánh giá việc ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ
chức, cá nhân tôn giáo. Thực hiện chính sách là một khâu trong chu trình chính sách
23
nhằm chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách đối với các đối tượng quản lý thành
hiện thực, nhằm đạt mục tiêu đề ra. Thực hiện chính sách tôn giáo là một khâu trong
chu trình chính sách của chủ thể cầm quyền, có nhiệm vụ quan trọng trong việc đưa
chính sách này thành hiện thực. Việc thực hiện chính sách được xem như là trung
tâm để tập hợp, kết nối các bước thực hiện thành một hệ thống logic. Việc ban hành
một chính sách đúng, sát với thực tiễn hay không rất quan trọng đối với chủ thể cầm
quyền, nhằm quản lý các đối tượng xã hội, nhưng việc thực hiện chính sách hiệu
quả còn có ý nghĩa quan trọng hơn. Nếu như chính sách của Nhà nước đúng mà
thực hiện không hiệu quả, không đáp ứng được thực tiễn thì chính sách sẽ trở nên
vô nghĩa, ảnh hưởng rất lớn đối với chủ thể ban hành chính sách, đó là Nhà nước.
Chính sách tôn giáo là chính sách quan trọng nếu như thực hiện không đúng sẽ bị
tín đồ, nhân dân thiếu tin tưởng, thậm chí còn phản đối, tổ chức biểu tình ảnh hưởng
đến tình hình ANCT, trật tự ATXH. Đặc biệt nguy hiểm hơn, đây là chính sách rất
nhạy cảm dễ bị các thể lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, xuyên tạc, bóp
méo sự thật, nói xấu đường hướng lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo,
gây biểu tình, bạo động ở một số địa phương, chống phá Đảng, Nhà nước trong quá
trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó gây khó khăn
trong công tác QLNN về tôn giáo.
Qua thực tế cho thấy chỉ có đi sâu sát cơ sở trong quá trình thực thi chính sách
tôn giáo trên cơ sở đó mới xây dựng chính sách phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng của đồng bào có đạo, cũng là sự phù hợp giữa tôn giáo với chính sách
của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Trong quá trình xây dựng và thực hiện
chính sách nói chung và chính sách tôn giáo nói riêng do nguyên nhân chủ quan và
khách quan, các nhà nghiên cứu tham mưu ban hành chính sách chưa lường hết
được những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện, chưa tính đến thì trong
giai đoạn tổ chức thực hiện mới phát sinh cái mới, cho nên khi thực hiện chính sách
nói chung, đặc biệt chính sách đối với tôn giáo nói riêng thì sẽ có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực
tiễn, nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chính sách tôn giáo, đáp ứng nhu cầu sinh
24
hoạt tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Qua đó cũng đã phát huy được những mặt
tích cực của lĩnh vực này trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong
giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình thực hiện Chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam
Nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về tôn
giáo, nước ra đã ban hành hàng loạt văn bản pháp quy về quản lý, hướng dẫn thực
hiện chính sách tôn giáo (pháp lệnh, nghị định, Luật, cùng các văn bản khác) như:
sau khi BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày
16/10/1990 “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” thì ngày
21/3/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 69/NĐ-
HĐBT về Quy định về các hoạt động tôn giáo. Vào năm 1999 sau khi BCT ban
hành Chỉ thị số 37-CT/TW thì ngày 19/4/1999 Thủ tướng Chính phủ ký công bố
ban hành Nghị định 26/1999/NĐ-CP Về các hoạt động tôn giáo. Tại Hội nghị lần
thứ bảy BCH Trung ương khóa IX, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW,
ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo, ngay sau đó Thường vụ Quốc hội khóa XI đã
thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và tháng 6/2004 Chủ tịch nước Trần Đức
Lương ký Sắc lệnh công bố văn bản pháp luật này. Sau khi Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo ban hành, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP ngày
11/3/2005 về Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
(thì ngày 8/11/2012 được thay bằng Nghị định số 92/NĐ-CP). Mới đây nhất trong
kỳ họp thứ 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIV) ngày
18/11/2016 tại Thủ đô Hà Nội, Quốc Hội đã bỏ phiếu tán thành và đã thông qua
Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Luật gồm 9 chương, 68 Điều và để triển khai thực hiện
có hiệu quả Luật tín ngưỡng, tôn giáo vào ngày 30/12/2017 Thủ tướng Chính phủ
ban hành Nghị định Số 162/2017/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016,...
25
Trên đây là những văn bản cụ thể hóa của Nhà nước ta đối với tôn giáo trên cơ
sở thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tôn giáo, bên cạnh đó Nhà
nước ta ban hành các chính sách khác nhằm phát huy những mặc tích cực của từng
tổ chức, cá nhân tôn giáo trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước như: Chỉ thị
số 01/2005 của Thủ tưởng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin Lành, với
việc ban hành Chỉ thị này thể hiện đây là “một chính sách rất táo bạo” đối với tôn
giáo này. Qua đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta rất linh hoạt sáng tạo trong lãnh đạo
đối với công tác tôn giáo hay như ngày 31/12/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chỉ thị số 1940 Về vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo nhằm giải quyết kịp thời
về nhà, đất liên quan đến tôn giáo trong bối cảnh lúc này tình hình đất đai liên quan
đến công tác tôn giáo cần phải quan tâm; hay như chính sách cơ cấu các chức sắc,
chức việc của các tôn giáo tham gia vào các cơ quan bầu cử như Quốc hội, HĐND
và tham gia vào các tổ chức CT-XH các cấp; chính sách phát triển đảng viên là
người có đạo; chính sách xây dựng cốt cán tôn giáo, chính sách đoàn kết các tôn
giáo…Việc ban hành các văn bản pháp lý nêu trên làm nền tảng hết sức quan trọng
trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là xác định rõ hơn quyền và
nghĩa vụ của chủ thể và khách thể trong thực thi chính sách. Từ đó, giúp cho đội
ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nước ta, nhất là đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về quyền tự do tôn giáo của công
dân, về mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với chính quyền các cấp, về trách
nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong quá tŕnh phối hợp và kết hợp giải quyết các
vấn đề trong công tác tôn giáo; qua đó khắc phục những nhận thức lệch lạc và
những hành động không đúng trong quá trình tổ chức thực thi chính sách tôn giáo
theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
1.2.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn
1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tôn giáo ở
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
* Ảnh hưởng của vị trí địa lý, tự nhiên, xã hội
26
Huyện Quế Sơn là huyện đồng bằng-trung du của tỉnh Quảng Nam, diện tích
tự nhiên toàn huyện là 25.117,15 ha. Huyện có diện tích vùng đồi núi chiếm trên
60% tổng diện tích tự nhiên của huyện (nằm chủ yếu ở phía Tây của huyện), đồng
bằng tập trung ở phía Đông (xã Quế Xuân 1, Hương An và phía Đông của xã Quế
Xuân 2) nhưng diện tích không lớn, còn lại là những vùng nhỏ hẹp và nằm đan xen
giữa các khu vực gò đồi. Trung tâm huyện cách Đà Nẵng 50 km về hướng Đông
Bắc, cách Tam kỳ khoảng trên 55 km về phía Đông Nam, về phía Bắc giáp ranh với
huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp với huyện Thăng Bình và phía Đông của huyện
Duy Xuyên, phía Tây và Tây Bắc giáp với huyện Nông Sơn, phía Nam giáp với
huyện Hiệp Đức và phía Tây của huyện Thăng Bình. Với vị trí địa lý thuận lợi như
trên, Quế Sơn là nơi du nhập, tọa lạc của các tôn giáo (với 05 loại hình tôn giáo du
nhập), đồng thời cũng bị tác động của các hoạt động tôn giáo của các vùng lân cận
như Giáo phận Đà Nẵng,...
Đơn vị hành chính của huyện: có 13 xã và 01 thị trấn: nằm dọc theo Quốc lộ 1
A gồm 04 xã (Hương An, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2 và xã Quế Phú), có diện tích tự
nhiên 53,44 km2 , nằm dọc theo tỉnh lộ ĐT 611 là các xã Phú Thọ, Quế Cường, Quế
Thuận, xã Quế Châu, Thị trấn Đông Phú, xã Quế Minh, xã Quế Hiệp, xã Quế Long,
xã Quế An, với diện tích 154,78 km2 và 01 xã Quế Phong xã miền núi, với diện tích
tự nhiên là 30,24 km2.
Giao thông - Thủy lợi: Có tuyến Đường Quốc lộ 1A, có chiều dài là 8,5 km
chạy qua địa bàn các xã: xã Hương An, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2 và xã Quế Phú.
Có tuyến đường ĐT 611A và ĐT 611B với tổng chiều dài tuyến 37,5 km chạy qua
nhiều xã địa bàn huyện. Ngoài ra, trên địa bàn huyện có tuyến đường sắt Bắc Nam
chạy song song với tuyến đường Quốc lộ 1A và chạy trên địa phận của các xã (Quế
Xuân 2, Quế Xuân 1, Phú Thọ và Quế Cường) và tuyến đường cao tốc Đà Nẵng-
Quảng Ngãi đi qua địa bàn của 03 xã (Quế Xuân 2, Quế Cường và xã Phú Thọ).
Với hệ thống giao thông chằng chịt, nhiều loại hình như trên đã tạo điều kiện thuận
lợi trong việc giao lưu, buôn bán, góp phần quan trọng trong việc phát triển KT-XH
ở địa phương. Tuy nhiên, đây cũng chính là yếu tố gây khó khăn trong công tác
27
QLNN về hoạt động tôn giáo, như khó quản lý được lượng tín đồ của các địa
phương khác đến sinh hoạt, việc truyền đạo trái quy định pháp luật ở một số cơ sở
tôn giáo.
* Về đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
Về di tích lịch sử: huyện có Nhà tưởng niệm Cụ Đỗ Quang (một vị Quan Nhà
Nguyễn rất tài giỏi), Nhà thờ Tiến sĩ-Phan Quan, một trong “Ngũ tụng tề phi: của
đất Quảng Nam; đặc biệt là di tích lịch sử địa điểm Chiến thắng Cấm Dơi, nằm
ngay ở Trung tâm huyện lị, Bia Phạm Nhữ Dục-danh tướng thời Nhà Trần, người
có công khai phá vùng Quế Sơn; 02 Khu du lịch, gồm: Khu du lịch sinh thái Suối
Tiên (Quế Hiệp), Suối Nước Mác, Đèo Le (Quế Long). Bên cạnh đó, trên địa bàn
huyện có các di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh, gồm các nhà thờ tộc, các di tích cách
mạng, miếu và các kiến trúc, vật thể Chăm Pa cổ như: Ngôi miếu thờ bò thần
Nandin độc đáo tại xã Quế Phú, Lăng Mộ Phạm Nhữ Tăng (Quế Phú) ,.. là nơi tổ
chức nhiều lễ hội thu hút nhiều người dân ở địa phương tham gia, như Đình Làng
An Long (xã Quế Phong), Đình Làng Châu Sơn xã Quế An,...) cùng hệ thống miếu
thờ, Nhà thờ tộc lớn được phân bổ rải rác các địa phương trong toàn huyện. Đặc
biệt trên địa bàn huyện có Lễ hội Khai Sơn (Thôn Nghi Trung thuộc xã Quế Hiệp)
và 35 cơ sở, điểm nhóm tôn giáo là một trong những địa điểm sinh hoạt tôn giáo của
một bộ phận nhân dân trên địa bàn.
Về dân số: Tính đến thời điểm hiện nay, huyện có 84.000 người, chủ yếu tập
trung ở các xã đồng bằng, chiếm hơn chiếm 60% dân số và còn tại phân tán ở các xã
khu vực trung du, miền núi. Mật độ dân số phân bố không đồng đều giữa khu vực
đồng bằng và khu vực trung du, miền núi, cao nhất là xã đồng bằng Quế Xuân 1 và
xã Quế Hiệp là thấp nhất.
Về kinh tế: Trong những năm qua, Đảng bộ huyện Quế Sơn đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai nhiều phương án, giải pháp để phát triển kinh tế phù hợp với
tiềm năng, lợi thế của địa phương, trong đó chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
con vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, thu hút kêu gọi doanh nghiệp trong và
28
ngoài nước vào đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp của huyện (Khu Công nghiệp
Đông Quế Sơn, Cụm công nghiệp Quế Cường, Đông Phú). Qua đó tạo chuyển biến
tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tăng trưởng kinh tế được duy trì và
có phát triển, năm sau cao hơn năm trước. Qua đó đã nâng cao đời sống vật chất lẫn
tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo, thu nhập bình quân đầu
người được tăng hằng năm. Tuy nhiên, Quế Sơn vẫn là huyện còn nghèo so với các
huyện đồng bằng lân cận trong tỉnh, với cơ cấu kinh tế nông nghiệp là chủ đạo,
nhân dân tham gia trong lĩnh vực này chủ yếu, chiếm 75% dân số của huyện. Song
trong lĩnh vực này do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, có
hai mùa mưa và khô, mùa khô rõ rệt đã gây khó khăn trong sản xuất nông nghiệp,
nhất là cho diện tích đất nông nghiệp ở các xã vùng Trung và vùng Tây trong mùa
khô, trong khi đó mùa đông gây ngập úng ở các xã vùng Đông của huyện nên đời
sống của một bộ phận nhân dân gặp không ít khó khăn, trong đó có đồng bào có
đạo. Bên cạnh đó, do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng người
mắc bệnh hiểm nghèo càng tăng; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, trong cuộc
sống gặp tai nạn, biến cố bất ngờ xảy ra,...ở một bộ phận nhân dân; do đó họ cảm
thấy bất hạnh nên tìm đến tôn giáo để hóa giải; chính vì đó mà số lượng tín đồ tôn
giáo tăng lên hằng năm, nhất là đạo Phật. Bên cạnh đó có một vấn đề cần quan tâm
nữa đó là tình trạng người dân không theo đạo nhưng tự tu tại gia diễn ra rất nhiều ở
hầu hết các xã, chiếm khoảng 40% dân số của huyện (họ không đến chùa thường
xuyên nhưng tự ăn chay vào ngày rằm, mồng một hằng tháng, đầu năm đến chùa và
đến khi cảm thấy bất hạnh. Ngoài ra, số lượng người không theo đạo, không ăn
chay vào ngày rằm, mồng một hằng tháng nhưng đến Chùa hái lộc, bốc thăm,
dương sao, giải hạn đầu năm tăng đáng kể trong những năm gần đây, trung bình
mỗi chùa vào có khoảng trên nghìn người đến dương sao, giải hạn, hái lộc, bốc
thăm đầu năm trong 02 ngày 14-15 tháng giêng, qua đó đã gây khó khăn trong
QLNN về sinh hoạt tôn giáo, nhất là tình hình ANTT trên địa bàn.
1.2.2.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn
29
Là huyện gần như là trung tâm của tỉnh với hệ thống giao thông đa dạng;
Quế Sơn được xem là nơi hội tụ đầy đủ các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Tin Lành,
Công giáo, Cao đài, BaHa’i,..Tính đến thời điểm hiện nay tổng số tín đồ các tôn
giáo trên địa bàn huyện là 4.286 người, chiếm khoảng 5,2% tổng dân số toàn huyện
(thể hiện ở bảng thống kê dưới đây).
Bảng 1.1. Bảng thống kê các tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay
Đơn vị tính: người
STT Tôn giáo Tín đồ (người)
1 Phật giáo 2.396
2 Công giáo 780
3 Tin lành 765
4 Cao đài 265
5 Baha’i 80
Tổng cộng 4.286
Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn
30
2500
2000
1500
1000
500
Tín đồ (người)
0
Cao đài
Bahai
Phật giáo Công giáo Tin lành
Tín đồ (người)
Hình 1.1. Biểu đồ các tôn giáo ở Quế Sơn
Qua bảng 1.1 và biểu đồ hình 1.1 cho thấy trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam gồm có 05 tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài,
Baha,i với tổng tín đồ là 4.286 tín đồ, chiếm 5.2% dân số của huyện, tín đồ từng tôn
giáo như sau: Phật giáo khoảng 2.396 đạo hữu; Công giáo có 780 tín đồ/1281, tín
đồ còn lại từ huyện lân cận đến sinh hoạt tôn giáo; Tin lành có 765 tín đồ; Cao đài
265 đạo hữu; Baha’i có 80 tín đồ.
* Số lượng cơ sở, chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện
Số lượng cơ sở tôn giáo, chức sắc, chức việc các tôn giáo được thể hiện ở
bảng thống kê sau:
Bảng 1.2. Bảng thống kê số lượng cơ sở, điểm nhóm và chức sắc, chức việc của
các tổ chức tôn giáo
Chức Chức STT Cơ sở tôn giáo Điểm nhóm sắc việc
31
23 20 116 Phật giáo
03 01 8 Công giáo
02 (Tin lành Miền Nam 03 điểm Tin lành 05 16 Tin Lành Việt Nam) được công nhận
01 01 8 Cao đài
03 01 6 Baha,i
Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn
Qua bảng thống kê số liệu cơ sở tôn giáo và chức sắc, chức việc tôn giáo cho
thấy: Phật giáo có 23 cơ sở tôn giáo chiếm 66.6% cơ sở tôn giáo toàn huyện, sở dĩ
như vậy là do lịch sử để lại (vùng Đông của huyện nhiều chùa chiền) và số người
theo đạo càng tăng (chưa kể tín đồ ở các xã của các huyện lân cận đến sinh hoạt có
trên 1.000 tín đồ), có 20 chức sắc và 116 chức việc; tiếp đến là Công giáo có 03 cơ
sở (01 Giáo xứ và 01 Nhà nguyện, 01 Giáo họ, có 01 chức sắc và 08 chức việc); về
đạo Tin lành: Tin lành Miền Nam ở huyện có 02 cơ sở và 01 điểm nhóm (Hương
An), 02 điểm nhóm Tin lành được công nhận (Tin lành Trưởng lão Liên hiệp Việt
Nam) với 05 chức sắc và 16 chức việc. Cao đài có 01 cơ sở với 01 chức sắc và 08
chức việc và Baha’i là 03 điểm nhóm đã được công nhận với 01 chức sắc và 06
chức việc.
Huyện với 14 đơn vị hành chính xã, thị trấn, địa bàn nào cũng có tín đồ,
nhưng sự phân bổ các cơ sở không đồng đều, được thể hiện ở bảng thống kê dưới
đây:
32
Bảng 1.3. Sự phân bố của các cơ sở, điểm nhóm tôn giáo được Nhà nước
công nhận
STT Địa bàn phân bố Số lượng
7 chùa, 01 Giáo xứ và 01 cơ sở tin lành MNVN, 01 1 Xã Quế Xuân 1 điểm nhóm sinh hoạt đạo Baha’i
Quế Xuân 2 02 chùa 2
Quế Phú 04 chùa 3
Hương An 06 chùa và 01 điểm nhóm sinh hoạt 4
33
Quế Cường 01 chùa, 01 Nhà nguyện, 01 Giáo họ 5
Phú Thọ 02 chùa 6
01 chùa, 01 cơ sở Tin lành, 2 điểm nhóm sinh hoạt 7 Đông Phú Tin lành
Quế An 01 Thánh thất Trung Kiên 8
Quế Châu 01 điểm sinh hoạt đạo Baha’i 9
10 Quế Minh 01 điểm nhóm sinh hoạt đạo Baha’i
Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn
Qua bảng 1.1.3 cho thấy các cơ sở tôn giáo tập trung ở các xã vùng Đông của
huyện (xã Quế Xuân 1, xã Quế Xuân 2, xã Quế Phú, xã Hương An và xã Quế
Cường) trong đó xã có cơ sở tôn giáo nhiều nhất là xã Quế Xuân 1, các xã vùng
Trung và phía Tây của huyện rất ít cơ sở tôn giáo, chỉ có vài điểm nhóm sinh hoạt,
có đến 04 xã không có cơ sở tôn giáo, nhưng tín đồ có xu hướng tăng hằng năm,
nhưng chủ yếu là đạo Phật.
*. Đặc điểm của từng tôn giáo
Đối với Phật giáo: Phật giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn cũng như các địa
phương của tỉnh Quảng Nam được du nhập từ rất sớm, sau đó phát triển mạnh mẽ
dưới thời các chúa Nguyễn. Phật giáo chủ yếu thuộc GHPG Việt Nam, ngoài ra còn
có một nhóm thuộc Giáo Hội Việt Nam thống nhất (tại thôn Thạch Thượng xã Quế
Phong) chỉ có 10 người. Đến nay, Phật giáo có trên 2.396/5.000 tín đồ Phật giáo (tín
đồ từ các xã của các huyện lân cận), chiếm 56 % tín đồ các tôn giáo có mặt tại
huyện. Trên địa bàn huyện có 23 cơ sở Phật giáo, trong đó có 1 cơ sở Niệm Phật
34
Đường Thạnh Bình trở thành Chùa vào năm 2015 và hiện còn 01 Niệm Phật đường
(NPĐ Thạnh Hòa nằm ở xã Quế Xuân 1).
Về tín đồ Phật giáo sinh sống rải rác tại 14 xã, thị trấn trên địa bàn huyện,
song tập trung chủ yếu là ở các xã vùng Đông của huyện. Theo dòng lịch sử, Phật
giáo du nhập, tồn tại và phát triển ở Quảng Nam nói chung và Quế Sơn nói riêng
sớm hơn so với các tôn giáo khác, nên đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt
của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử, là địa
phương bị tàn phá nhiều trong chiến tranh, quân và dân huyện Quế Sơn có truyền
thống yêu quê hương đất nước lâu đời, sẵn sàng đứng lên đấu tranh vì độc lập, trong
đó có các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ Phật giáo. Có thể khẳng định
rằng, trong số tín đồ các tôn giáo thì tín đồ Phật giáo ở Quế Sơn luôn chiếm số
lượng đông nhất, họ là người dân lao động chân chính, gần gũi, gắn bó với sinh
hoạt, cuộc sống đời thường của đa số quần chúng nhân dân và lao động trong lĩnh
vực sản xuất nông nhiệp là chủ yếu, sống theo phương châm “Tốt đời đẹp đạo”.
Trong giai đoạn hiện nay, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác đã có nhiều đóng
góp tích cực trong quá trình phát triển KT-XH, giữ vững ANCT, trật tự ATXH ở
địa phương.
Công giáo: So với các tôn giáo khác trên địa bàn huyện nói riêng và các đơn
vị của tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng trước đây nói chung thì Công giáo ra đời tương
đối muộn (tỉnh Quảng Nam được tách ra từ tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng vào năm
1997). Bởi Giáo phận Đà Nẵng (thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trước đây) ra
đời tương đối muộn, được thành lập ngày 18.01.1963, do Giáo hoàng Gioan XXIII
thiết lập vẫn được xem là Giáo phận trẻ so với nhiều giáo phận khác. Từ đó được
truyển vào Quảng Nam và phát triển cho đến nay. Đối với Quế Sơn, có 780/1281
người Công giáo sinh sống trên địa bàn huyện, (còn lại là tín đồ từ các xã của các
huyện lân cận Quế Sơn đến sinh hoạt); huyện có giáo xứ Xuân Thạnh nằm trên địa
bàn xã Quế Xuân 1 (Nơi có Quốc lộ 1A đi qua) được thành lập vào năm 1958, đây
là một trong những xứ đạo truyền giáo của Giáo phận Đà Nẵng, nằm trên địa bàn
huyện Quế Sơn (Xuân Thạnh thuộc hạt Trà Kiệu, gần giáo xứ Hà Lam, Hà Lâm.
35
Giáo xứ này có 15 giáo họ, được bố trí 2 huyện Quế Sơn và sát bên là huyện Duy
Xuyên). Ở Quế Sơn, ngoài Giáo xứ Xuân Thạnh còn có Giáo họ Thạch Khê thuộc
xã Quế Cường cách nhà thờ Xuân Thạnh 10 cây số, còn lại là Nhà nguyện Phú
Cường (Quế Cường). Ngoài ra, có điểm nhóm tại thôn Hòa Mỹ xã Quế Xuân 2 chưa
được công nhận. Trong những năm qua, giáo dân Công giáo trên địa bàn huyện làm
tốt bổn phận của giáo dân và bổn phận là công dân của nước Việt Nam, đoàn kết,
phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện tốt đường hướng “Sống phúc Âm giữa
lòng dân tộc”, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các phong trào thi
đua yêu nước do các cấp, các ngành phát động, nhất là trong phong trào xây dựng
nông thôn mới, qua đó góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội, giữ vững trật tự ATXH ở địa phương và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
Tin lành: Tin lành được hình thành sớm tại tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng (cũ),
được du nhập vào năm 1911 tại Đà Nẵng, từ đó được các mục sư đã đến Hội An
truyền đạo và đã phát triển rộng ra các địa bàn trong toàn tỉnh. Hội thánh Tin lành
Đà Nẵng và Quảng Nam là một hội thánh lớn trong Tổng liên hội Hội thánh Tin
lành Việt Nam (Miền Nam). Hiện nay trên địa bàn huyện có 2 tổ chức Tin lành hợp
pháp đó là: Hội thánh Tin lành Miền Nam (Tin lành CMA); Hệ phái Tin lành
Trưởng lão Việt Nam, với các cơ sở và điểm nhóm như sau: Chi Hội Tin lành Quế
Sơn (thị trấn Đông Phú), Chi Hội tin lành Quế Xuân 1 và 03 điểm nhóm được công
nhận.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 03 nhóm Tin lành hoạt động chưa được
nhà nước công nhận, đó là: nhóm hệ phái Tin lành Liên hữu cơ đốc xã Quế Thuận,
nhóm phái Ngũ tuần tại xã Quế An, nhóm phái Ngũ tuần tại Quế Phong với số
lượng 210 tín đồ. Nhìn chung hoạt động của các hệ phái Tin lành cơ bản ổn định,
đúng quy định pháp luật. Trước khi tổ chức các hoạt động đều báo cáo, xin phép
chính quyền địa phương thống nhất rồi mới tổ chức. Đối các điểm nhóm Tin lành
trên địa bàn huyện hầu hết là tổ chức sinh hoạt tại gia, mượn nhà để sinh hoạt.
36
Cao Đài: Đối với Quế Sơn, đạo Cao Đài có 02 hệ phái (Cao đài truyền giáo
và Cao đài Tây Ninh), trong đó Cao đài Truyền giáo chỉ có một Thánh Thất Trung
kiên (được tách ra từ Cao Đài Trung An, xã Bình Lâm huyện Hiệp Đức vào năm
1963), đến nay có 265 đạo hữu, 09 chức sắc, chức việc. Ngoài ra có Cao đài Tây
Ninh 02 tín đồ, sinh hoạt tại gia. Nhìn chung các chức sắc, chức việc, đạo hữu đạo
Cao đài ở huyện tích cực làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, sinh hoạt đạo thuần
túy: tổ chức Lễ vía Đức Chí tôn vào ngày 9 AL hằng năm; tổ chức Hội nhân sinh để
tổng kết công tác đạo sự; củng cố lại Ban cai quản, Lễ Sanh Ngọc Chín Thanh được
cử làm đầu họ. Song vấn đề cần quan tâm đó là: Tranh chấp đất đai về lối đi vào cơ
sở Thánh Thất Trung Kiên giữa cơ sở với các hộ dân lân cận kéo dài nhiều năm
chưa được giải quyết, một vấn đề cần quan tâm nữa là cơ sở này nằm ở vùng Tây
của huyện, nơi giáp tranh với một số xã của Thăng Bình và Hiệp Đức nên gây khó
khăn trong công tác QLNN về hoạt động tôn giáo đối với Đạo này.
Đạo Baha’i với 80 đạo hữu, về tổ chức hoạt động theo hình thức tại gia sinh
hoạt tại 03 ðiểm (Cộng ðồng Baha’i tại xã Quế Xuân 1, Cộng ðồng Baha’i tại xã
Quế Châu, Quế Minh).
Ngoài ra trên địa bàn huyện trong những năm gần đây đã xuất hiện một số
tín ngưỡng, tôn giáo mới như: Ứng đồng bốc thuốc, Hiện tượng “Búp bê Kuman
Thong”; Hội Thánh đức chúa trời mẹ, ...Tuy nhiên đối với các hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo này, chính quyền các cấp trên địa bàn đã dùng nhiều biện pháp
như: tuyên truyền, kiên trì, thuyết phục vận động và nhất là lực lượng an ninh đã
đấu tranh ngăn chặn nên chủ yếu hoạt động lén lút, co cụm.
Nhìn chung tại huyện Quế Sơn có nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau và du
nhập vào mỗi thời điểm khác nhau cũng như số lượng cơ sở tôn giáo, chức sắc,
chức việc, số lượng tín đồ và mỗi tổ chức tôn giáo có hệ thống giáo lý, giáo luật
khác nhau,... nhưng đều tồn tại và phát triển, thực hiện tốt việc đạo và đời ở địa
phương. Cùng với sự phát triển KT-XH của huyện, nhiều cơ sở tôn giáo được cải
tạo, sửa chữa và xây dựng mới khang trang; bên cạnh đời sống vật chất của chức
37
sắc, chức việc, người tu hành, tín đồ các tôn giáo được cải thiện nâng cao thì việc
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cũng được chăm lo, đi vào nề nếp. Chính quyền các
cấp quan tâm, tạo điều kiện cho các tôn giáo cùng tín đồ sinh hoạt tôn giáo thuần
túy theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật và theo quy định của pháp luật. Qua đó tạo
mối quan hệ gần gũi giữa chính quyền với các tổ chức, tín đồ các tôn giáo; đồng
thời giúp họ tin tưởng và tích cực tham gia các phong trào xã hội ở địa phương.
Tiểu kết Chương 1
Nội dung của chương 1 trong luận văn tác giả đã phân tích làm rõ các lý
luận cũng như tư tưởng mang tính chỉ đạo, định hướng về tôn giáo, thực hiện chính
sách tôn giáo, như: quan điểm của Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo;
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.
Trong chương này tác giả làm rõ khái niệm về chính sách công, thực hiện
chính sách công, thực hiện chính sách tôn giáo cũng như quy trình về các bước
trong tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo. Tác giả cũng đã nêu trên một
số đặc điểm của từng tôn giáo sinh hoạt trên địa bàn: Phật giáo, Tin lành, Công
38
giáo, Cao đài, Bahai, trong đó Phật giáo là tổ chức tôn giáo có nhiều cơ sở tôn giáo,
chức sắc và đông tín đồ nhất và ít nhất là Đạo Bahai; đồng thời học viên cũng đã
nêu lên được đặc điểm về vị trí địa lý, tình hình KT-XH đã tác động đến việc triển
khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn trong những năm qua.
Qua nghiên cứu các vấn đề về lý luận, quan điểm, chủ trương đối với chính
sách tôn giáo, cơ sở thực tiễn về chính sách Tôn giáo của Nhà nước hiện nay và đặc
điểm, tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn tại chương này là nền tảng, cơ
sở khoa học cho việc tổng hợp, phân tích đánh giá sâu sát thực trạng công tác thực
hiện chính chính sách tôn giáo thể hiện trong Chương 2 dưới đây và đề ra những
giải pháp hữu hiện trong Chương 3.
39
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
Quy trình thực hiện chính sách tôn giáo gồm bảy bước như tác giả luận văn
đã trình bày ở Chương 1 đó là: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
tôn giáo; phổ biến, tuyên truyền chính sách; phân công phối hợp; duy trì chính sách;
điều chỉnh chính sách; đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách; đánh giá,
tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo. Tuy nhiên, với quy mô của
một huyện nhỏ, dân số không đông và tình hình thực tế trong công tác tổ chức triển
khai thực hiện chính sách ở huyện thì việc điều chỉnh chính sách đến nay chưa được
thực hiện. Do đó trong luận văn này tác giả Luận văn chỉ phân tích 6 bước trong
quy trình thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cụ thể
như sau:
2.1. Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay
2.1.1. Thực trạng việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
tôn giáo
Trong những năm qua, các cấp, các ngành tại huyện Quế Sơn đã xây dựng
kế hoạch thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về tôn giáo dựa trên các bản
chính thống như: Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, Nghị định số
22/NĐ-CP và sau này là Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 8/11/2012 của Chính Phủ
về “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”;
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của BCH Trung ương Đảng (khóa IX)
về công tác tôn giáo; Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31/12/ 2008 của Thủ
tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg,
ngày 4/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành;
Thông tư số 01 của Bộ Nội vụ về ban hành và Hướng dẫn sử dụng biểu mẫu về
thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và Luật tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/ 2017 của Chính
40
phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn
giáo,..và trên cơ sở các văn bản chỉ đạo trực tiếp của tỉnh Quảng Nam như: Kế
hoạch số 160/KH-UBND ngày 07/01/2013 về tiếp tục triển khai Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo của UBND tỉnh Quảng Nam và triển khai thực hiện Nghị định số
92/NĐ-CP ngày 8/11/2012; Quyết định số 603/2011/QĐ-UBND ngày 25/02/2011
của UBND tỉnh về việc chấp thuận để Hội đồng tinh thần tôn giáo Baha'i Việt
Nam thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; Kế hoạch số 65-/KH-UBND ngày
21/12/2017 của UBND tỉnh về bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2020; Chỉ thị số 20/2007/CT-UBND ngày
20/4/2007 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc đăng ký sinh hoạt các tổ chức, hệ
phái đạo tin lành và các tổ chức tôn giáo khác chưa có pháp nhân; Quyết định số
33/2013/QĐ-UBND tỉnh về ban hành quy chế phân cấp về QLNN về tín ngưỡng,
tôn giáo (trên cơ sở thực hiện Nghị định 92 ngày 08/11/2012 của Chính Phủ);
Quyết định số 16/2018/QĐ-UBND ngày 05/12/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam
về ban hành quy chế phân cấp một số công tác QLNN về tín ngưỡng, tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (trên cơ sở thực hiện Nghị định 162 của Chính Phủ);
Quyết định số 2030/2019/QĐ-UBND, ngày 20/6/2019 của UBND tỉnh về việc
đính chính điểm B, Điều 3 quy chế phân cấp một số công tác QLNN về tín ngưỡng,
tôn giáo trên địa bàn huyện,..
Cụ thể: như để triển khai thực hiện Kế hoạch số 160/KH-UBND ngày
07/01/2013 về tiếp tục triển khai Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của UBND tỉnh
Quảng Nam và triển khai thực hiện Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 8/11/2012 Quy
định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, UBND huyện
Quế Sơn đã ban hành Kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 18/2/2013 để triển khai thực
nội dung Kế hoạch trên, tại kế hoạch đã phân công cho Phòng Nội vụ chủ trì có
trách nhiệm xây dựng kế hoạch tập huấn và triển khai Nghị định 192 cho đội ngũ
cán bộ phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện; giao Phòng Tư pháp phối
hợp với Mặt trận, các đoàn thể đẩy mạnh tổ chức các đợt phổ biến, tuyên truyền
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nghị định 192 của Chính phủ và các chủ trương,
41
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo cho hội, đoàn viên của các đoàn thể
và các tầng lớp nhân dân thông qua các buổi sinh hoạt hội, đoàn thể, họp dân,…tại
các khu dân cư, tổ dân phố trên địa bàn; về kinh phí cho mở lớp tập huấn và phổ
biến triển khai UBND huyện giao cho Phòng TC-KH huyện cân đối ngân sách của
địa phương tham mưu phân bổ; thời gian tổ chức thực hiện trong quí 2 năm 2013 và
giao Phòng Nội vụ có trách nhiệm theo dõi việc triển khai Kế hoạch này...Đồng thời
để triển khai thực hiện tốt chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện, UBND huyện đã
ban hành Công văn số 25/UBND-VX ngày 22/3/2013 về chỉ đạo các ngành, các xã
trên địa bàn triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo, trọng tâm là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004,...
Để triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định
số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ theo Công văn số 167/SNV-BTG ngày
15/12/2017 của BTG tỉnh Quảng Nam về thực hiện một số nội dung liên quan đến
Luật tín ngưỡng, Tôn giáo, UBND huyện Quế Sơn đã ban hành Công văn số
1391/UBND -NC ngày 27/12/2017 về thực hiện một số nội dung của Luật tín
ngưỡng, tôn giáo 2016; nội dung công văn này đã chỉ đạo các cấp, các ngành trên
địa bàn huyện chú trọng công tác QLNN về tôn giáo theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
và Nghị định 162 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật.
Nhằm triển khai Kế hoạch số 65-/KH-UBND ngày 21/12/2017 của UBND
tỉnh về bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2018-2020; UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 122/KH-UBND ngày
22/02/2018 về tổ chức tập huấn công tác tôn giáo năm 2018 cho đội ngũ cán bộ phụ
trách công tác tôn giáo trên địa bàn; tại Kế hoạch nêu rõ: Giao Phòng Nội vụ huyện
chủ trì có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tập huấn công tác
tôn giáo cho cán bộ phụ trách công tác tôn giáo, trọng tâm là phổ biến Luật tín
ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng
thời tham mưu UBND huyện ra quyết định triệu tập cán bộ lãnh đạo phụ trách công
tác tôn giáo của các cấp, các ngành liên quan ở huyện (Phòng Tài nguyên-Môi
trường, Phòng Văn Hóa-Thông tin, Công an, Ban Dân vận,…) đi tập huấn công tác
42
tôn giáo ở tỉnh khi tỉnh thông báo triệu tập; nhằm để đảm bảo kinh phí thực hiện
ngoài kinh phỉ tỉnh hỗ trợ, UBND huyện giao Phòng Nội vụ phối hợp với Phòng
TC-KH huyện tham mưu triển khai thực hiện nhằm đảm bảo chế độ, chính sách cho
đội ngũ cán bộ khi tham gia tập huấn công tác công tôn giáo ở huyện cũng như ở
tỉnh.
Thực hiện Kết luận số 08-KL/TW ngày 02/08/2011 của BBT “về xây dựng
lực lượng cốt cán trong tôn giáo” và Hướng dẫn số 21-HD/BCĐ ngày 9/5/2013 của
BCĐ công tác tôn giáo Tỉnh ủy Quảng Nam về hướng dẫn xây dựng lực lượng cốt
cán trong tôn giáo ở các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh, huyện đã ban hành Kế
hoạch số 32-KH/HU, ngày 03/10/2013 về xây dựng lực lượng cốt cán trên địa bàn;
giao Ban Dân vận chủ trì phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể xây dựng cốt cán của
huyện và chỉ đạo các xã triển khai thực hiện. Đến nay huyện đã xây dựng được Đề
án cốt cán phong trào của huyện và 14 xã đã xây dựng đề án với 73 cốt cán trong
các tôn giáo.
Để nắm tình hình Hội thánh Đức chúa trời mẹ theo sự chỉ đạo của UBND
tỉnh và BTG tỉnh Quảng Nam, UBND huyện đã ban hành Công văn số 05/UBND-
NC ngày 21/5/2018 về chỉ đạo các cấp, các ngành chức năng của huyện theo dõi,
nắm tình hình hoạt động của tổ chức tự xưng “Hội thánh Đức chúa trời mẹ” trên cơ
sở chỉ đạo tại Công văn số 62/UBND ngày 58/5/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam.
Hay để triển khai Kế hoạch số 03/KH-BTG, ngày 07/4/2017 của BTG tỉnh
Quảng Nam về kiểm tra tình hình thi hành pháp luật và thực hiện pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2017 trên địa bàn tỉnh, UBND huyện đã xây dựng Kế hoạch
số 37/KH-UBND, ngày 19/4/2017 về triển khai nội dung kế hoạch trên, nội dung kế
hoạch là kiểm tra tình hình thi hành pháp luật và thực hiện pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2017 trên địa bàn huyện; giao Phòng Nội vụ chủ công, đối tượng kiểm
tra là UBND các xã, thị trấn và các cơ sở tôn giáo trên địa bàn; Phòng TC-KH
huyện tham mưu phân bổ hỗ trợ thực hiện nội dung Kế hoạch.
43
Ngoài ra, UBND huyện còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các ngành
hướng dẫn, quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tổ chức sinh
hoạt tôn giáo theo Giáo lý, Giáo luật tôn giáo nhân các ngày lễ trọng của từng tổ
chức tôn giáo. Đồng thời, Phòng Nội vụ cũng đã ban hành hàng loạt các văn bản
chỉ đạo nhằm để triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu quả.
Qua đó cho thấy rằng với việc ban hành các văn triển khai và chỉ đạo thực
hiện công tác tác tôn giáo của Trung ương, Chính phủ, mới đây nhất là Luật tín
ngưỡng, tôn giáo ra đời, các nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành Luật tín
ngưỡng, tôn giáo cùng các văn bản lãnh đạo, triển khai thực hiện chính sách tôn
giáo của tỉnh và việc xây dựng các kế hoạch, công văn,...của huyện về công tác tôn
giáo là những văn bản quy phạm pháp luật, là cơ sở, hành trang pháp lý để cho các
cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, địa phương tổ chức triển khai thực hiện chính
sách tôn giáo và quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định. Trong quá trình thực
hiện luôn định hướng, đưa hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo theo đường
hướng hành đạo với đời; tránh được những hoạt động đội lốt tôn giáo để làm trái
quy định của Nhà nước. Qua đó, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tâm linh của một
bộ phận quần chúng nhân dân; đồng thời với việc ban hành các văn bản như trên
được xem là công cụ sắc bén nhằm để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm mất
ANCT-trật tự ATXH trên địa bàn, góp phần tích cực trong việc tập hợp đoàn kết,
phát huy sức mạnh toàn dân trong trong quá trình xây dựng quê hương giàu đẹp
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện vẫn còn hạn chế nhất định: Việc xây
dựng kế hoạch thực hiện cũng như việc xây dựng các văn bản triển khai thực hiện
công tác tôn giáo có lúc chưa kịp thời như Kế hoạch xây dựng Đề án cốt cán tôn
giáo của tỉnh ban hành năm 2011 nhưng đến năm 2013 huyện mới xây dựng, hay
như kế hoạch phát triển đảng viên trong tôn giáo chưa được chú trọng.
2.1.2 . Thực trạng việc tuyên truyền, phổ biến chính sách tôn giáo
44
Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể CT-XH đã đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo; cụ thể trong những
năm qua cấp ủy đã lồng ghép tổ chức 05 hội nghị quán triệt nội dung các văn bản
của BBT, BCH Trung ương Đảng, Tỉnh ủy về công tác tôn giáo cho 500 lược đội
ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Việc quán triệt
quan điểm về tôn giáo và công tác tôn giáo của Trung ương, của tỉnh, huyện còn
được một số xã quán triệt cho cán bộ, đảng viên trong từng địa bàn.
Thực hiện quyết định số 83/2007/QĐ-TTg về đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm
công tác tôn giáo và sự chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam, UBND huyện đã xây
dựng kế hoạch tập huấn về công tác tôn giáo cho đội ngũ, cán bộ phụ trách công tác
các cấp trên địa bàn và thực hiện chế độ tập huấn theo quy định của Nhà nước.
Để triển khai Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh, UBND huyện đã mở 02 lớp tập huấn cho 250 lược cán bộ phụ trách công
tác tôn giáo trên địa bàn. Và để triển khai Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016,
UBND huyện đã phối hợp mở được 01 lớp tập huấn, phổ biến Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và quán triệt các văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước về công
tác tôn giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo của 14 xã, thị trấn và
Trưởng thôn ở 107 khu dân cư, tổ dân phố trên địa bàn huyện với trên 100 lượt
người tham dự (năm 2017 một lớp). BCĐ công tác tôn giáo của huyện đã mở được
02 lớp tập huấn công tác tôn giáo cho các đối tượng là thành viên BCĐ công tác tôn
giáo của 14/14 xã với gần 140 lượt người tham dự. Bên cạnh đó, UBND huyện đã
cử đội ngũ cán bộ ở các cơ quan, ban ngành ở huyện và cán bộ chủ chốt ở xã đi tập
huấn công tác tôn giáo do BTG Chính phủ và BTG tỉnh Quảng Nam triệu tập đúng
thành phần và thời gian quy định.
Ngoài ra, UBND huyện chỉ đạo Phòng Tư pháp phối với Mặt trận, đoàn thể
của huyện mở được 20 lớp tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà
nước, trong đó có chính sách tôn giáo có 3.000 lượt người tham dự, trong đó có gần
500 lượt tín đồ các tôn giáo tham dự.
45
Bên cạnh việc tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội nghị..., việc quán triệt
công tác tôn giáo của Đảng, phổ biến pháp luật về tôn giáo của Nhà nước cho đội
ngũ cán bộ đảng viên còn được Mặt trận, các đoàn thể huyện lồng ghép tuyên
truyền đến cán bộ, hội, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân thông qua một số lớp tập
huấn về công tác hội, đoàn thể và các cuộc họp dân tại khu dân cư, tổ dân phố trên
địa bàn. Ngoài ra còn được lồng ghép tuyên truyền, phổ biến thông qua các buổi
sinh hoạt, tổng kết, lễ trọng các của các tôn giáo như: Lễ Giáng sinh, Phật đản, Phục
sinh, Vu lan - báo hiếu, An cư Kiết hạ,...cho khoảng 1.000 lượt chức sắc, chức việc,
nhà tu hành, tín đồ tôn giáo.
Với việc đa dạng hóa các hình thức, tuyên truyền, phổ biến pháp luật tôn giáo
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo đã nâng cao nhận thức của cấp ủy,
chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể CT-XH, các ngành chức năng liên quan đến
công tác tôn giáo trên địa bàn huyện; các cấp, các ngành trong quá tŕnh thực thi
chính sách tôn giáo đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về chính sách tôn
giáo; các nhu cầu chính đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được chính quyền
các cấp giải quyết kịp thời theo quy định. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công
tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo; tình hình
ANCT- trật tự ATXH trên địa bàn tiếp tục được giữ vững. Ngoài ra, nhờ làm tốt
công tác tuyên truyền, nhận thức của đội ngũ chức sắc, chức việc, nhà tu hành, cùng
một bộ phận tín đồ của các tổ chức tôn giáo được nâng cao; tích cực tham gia các
phong trào xã hội. Đến nay, tổng số chức sắc, chức việc, tín đồ tham gia vào các tổ
chức CT-XH trên địa bàn huyện là 21 vị, trong đó cấp huyện 06 vị, cấp xã 19 vị.
Nhìn chung, cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về
tôn giáo được các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị triển khai một cách kịp
thời theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND, BTG tỉnh Quảng Nam. Qua đó góp phần
nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, Mặt trận, đoàn
thể trong hệ thống chính trị trên địa bàn huyện về công tác tôn giáo; tạo sự chuyển
biến tích cực trong đội ngũ chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, sinh hoạt tôn
46
giáo được tổ chức theo Giáo lý, Giáo luật và chấp hành tốt chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; đồng bào có đạo tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, nhất là tham gia các hoạt động xã hội - từ thiện nhân
đạo.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, thì công tác vận động quần chúng tín đồ, chức
sắc, chức việc tôn giáo được các cấp, các ngành trên địa bàn huyện chú trọng. Để
thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua, huyện Quế Sơn trong quá trình tổ
chức thực thi chính sách tôn giáo đã chú trọng đến công tác này. Điều đó được thể
hiện trong nghị quyết, chương trình công tác hàng năm của cấp ủy, chính quyền, các
ngành, Mặt trận, đoàn thể, trong những văn bản nêu trên đều đề ra nhiệm vụ là tăng
cường công tác vận động quần chúng nhân dân nói chung, chức sắc, chức việc tín
đồ các tôn giáo nói riêng phải chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu
nước; đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân; vận động đồng bào có đạo
sống theo phương châm “Tốt đời đẹp đạo” và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho
công tác này là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, dân trí cho nhân dân trong đó
có đồng bào có đạo; tạo mối quan hệ tốt đẹp, gần gũi giữa quần chúng với cấp ủy
Đảng và chính quyền; luôn phát huy dân chủ, tiếp thu nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của tín đồ, chức sắc để đề ra biện pháp giải quyết phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong những năm qua cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp tăng cường tiếp xúc, tác động đội ngũ
chức sắc, chức việc, người có uy tín trong tôn giáo nhằm giáo dục chính trị tư tưởng
sâu rộng trong đồng bào theo đạo. Đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của họ đối với các
chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong công tác tôn giáo.
Tích cực vận động lực lượng này không nghe theo sự xúi giục của các thế lực thù
địch, lợi dụng tôn giáo để thực hiện các hoạt động xâm phạm ANQG, chia rẽ Khối
đại đoàn kết toàn dân, kích động gây rối, phòng chống âm mưu chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”.
47
Về chế độ chính sách: khi mở lớp tập huấn công tác tôn giáo trên địa bàn được
thực hiện đầy đủ chế độ cho học viên trên địa bàn huyện theo Quyết định số
83/2007/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng và các nghị quyết
của HĐND tỉnh về chi hỗ trợ tập huấn, bồi dưỡng của tỉnh và theo Nghị quyết số
52/2018/NQ-HĐND tỉnh Quảng Nam về mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã; những người
hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Cán
bộ làm phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện không có kinh phí đặc thù.
Song công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo và công tác vận động chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện
còn có những hạn chế nhất định: Công tác này chưa được thực hiện thường xuyên,
chưa đồng bộ và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
2.1.3. Thực trạng công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách
tôn giáo
*. Về công tác phân công
Trên cơ sở thực hiện các Quyết định về ban hành quy chế phân cấp về
QLNN về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Quyết định số
33/2013/QĐ-UBND tỉnh; Quyết định số 16/2018/QĐ-UBND ngày 05/12/2018 của
UBND tỉnh và Quyết định số 2030/2019/QĐ-UBND, ngày 20/6/2019 của UBND
tỉnh về việc đính chính điểm B, Điều 3 quy chế phân cấp một số công tác quản lý
Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện,... và thực hiện Quyết định số
60- QĐ/HU, ngày 15/3/2011 của BTV Huyện ủy Quế Sơn về thành lập BCĐ công
tác tôn giáo huyện cùng các quy định, nghị định, hướng dẫn trong việc giải quyết
các thủ tục hành chính của các cơ quan chức năng của tỉnh đối với các tổ chức, cá
nhân tôn giáo,..; nhằm phát huy và tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành
trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn: Về Đảng đã thành lập
BCĐ công tác tôn giáo huyện, gồm 12 đồng chí, trong đó cơ cấu đồng chí Phó Bí
thư Huyện ủy làm Trưởng ban, 04 Phó ban, đồng chí Trưởng Ban Dân vận làm Phó
48
ban Thường trực, 03 đồng chí Phó ban còn lại phụ trách công tác QLNN về tôn
giáo, phụ trách Mặt trận, đoàn thể và phụ trách xã, thị trấn; các thành viên được cơ
cấu là lãnh đạo ở các cơ quan, ban, ngành liên quan; Ban này có chức năng tham
mưu cho Huyện ủy chỉ đạo, giải quyết tình hình công tác tôn giáo trên địa bàn theo
đúng quy định của pháp luật và quan điểm về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước. Nhiệm vụ hướng dẫn các ngành, địa phương trong huyện thực hiện tốt các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Nghiên cứu, tham mưu cho Huyện ủy
đề ra các chủ trương, biện pháp, chương trình, kế hoạch về công tác tôn giáo, đồng
thời đề xuất BTV Huyện ủy chỉ đạo giải quyết những vấn đề phức tạp về tôn giáo.
Chủ trì, phối hợp với Mặt trận, đoàn thể, các ngành, địa phương tập trung tuyên
truyền, vận động các chức sắc, tín đồ tôn giáo thực hiện tốt đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giúp Huyện ủy kiểm tra, giám sát
các ngành, địa phương trong việc chấp hành thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ được giao về công tác tôn giáo. Đề xuất
phương án quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo của các ngành, địa phương trên địa bàn huyện. Chỉ đạo việc xây dựng,
bồi dưỡng, quản lý, sử dụng lực lượng nòng cốt trong tôn giáo. Đồng thời, để tạo
điều kiện cho BCĐ công tác tôn giáo hoạt động, hàng năm UBND huyện đã phân
bổ 12.500.000 đồng để làm lộ phí cho thành viên BCĐ này đi công tác cơ sở.
Đối với cấp xã có 14/14 xã, thị trấn trên địa bàn đều thành lập BCĐ công tác
tôn giáo, mỗi ban có từ 10 đến 12 thành viên, do đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy làm
Trưởng Ban, Phó Ban là đồng chí PCT UBND và đồng chí Chủ tịch Mặt trận, thành
viên là các ngành liên quan của xã.
Đối với Khối Nhà nước: Thực hiện Thông tư số 04/2010/TT-BNV ngày
20/5/2010 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn tại mỗi UBND cấp huyện, lĩnh vực tôn giáo
do một phó chủ tịch UBND phụ trách văn hóa, xã hội đảm nhiệm; để triển khai thực
hiện tốt chính sách tôn giáo, đối với Quế Sơn đã bố trí một đồng chí phó chủ tịch
UBND phụ trách văn hóa - xã hội đảm nhiệm công tác tôn giáo của huyện; tại
Phòng Nội vụ phân công 01 Phó Trưởng phòng và 01 chuyên viên của Phòng đảm
49
nhiệm công tác tôn giáo - có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo; chủ trì, phối hợp với các
cơ quan chuyên môn cùng cấp để thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo và giúp
UBND huyện giải quyết những vấn đề cụ thể về tôn giáo theo quy định và theo
hướng dẫn của Sở Nội vụ. Đồng thời, tại các phòng, ban liên quan đến công tác
quản lý hoạt động tôn giáo của huyện như: Phòng Văn Hóa Thông tin- phụ trách
công tác hướng dẫn tổ chức treo cờ, băng rôn, pa nô,.. nhân các ngày lễ trọng của
các tôn giáo theo quy định; Phòng Tài Nguyên Môi Trường, Văn phòng đất đai
huyện-phụ trách công tác cấp giấy chứng nhận QSD đất tôn giáo; Đội Quản lý Trật-
Xây dựng-phụ trách công tác cấp phép xây dựng các công trình chánh điện và phụ
trợ của các cơ sở tôn giáo trên địa bàn huyện đều được UBND huyện chỉ đạo bố trí
lãnh đạo và chuyên viên phụ trách công tác này.
Đối với Lực lượng vũ trang - phụ trách lĩnh vực an ninh nói chung trong đó
có an ninh tôn giáo: về Công an huyện đã phân công 01 Phó Trưởng Công an huyện
và Đội trưởng của Đội An ninh huyện phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn
huyện. Quân sự huyện phân công đồng chí Chính trị viên phó và cán bộ tuyên huấn
phụ trách công tác tôn giáo. Đối với cấp xã có 14/14 xã, thị trấn đã phân công cán
bộ, công chức Văn phòng UBND xã kiêm nhiệm công tác tôn giáo.
Với việc phân công như trên cho thấy rằng các cấp, các ngành trên địa bàn
huyện đã chú trọng công tác phân công các ngành và bố trí cán bộ phụ trách công
tác tôn tôn giáo từ huyện đến cơ sở.
.* Về công tác phối hợp tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo
Trên cơ sở phân công như trên, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo chỉ
đạo trực tiếp của Huyện ủy, UBND huyện, sự hướng dẫn, chỉ đạo của Tỉnh ủy,
UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn của tỉnh Quảng Nam trong quá trình thực
thi công vụ có liên quan đến công tác tôn giáo các cán bộ, công chức phụ trách công
tác này ở cơ quan, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể trên địa bàn huyện đã có sự phối
50
hợp, trao đổi, thông tin với nhau và đã tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương cùng cấp trong giải quyết các thủ tục hành chính, xem xét, giải quyết
các vụ việc phát sinh trong công tác QLNN đối với công tác tôn giáo trên địa bàn
huyện đạt những kết quả quan trọng, không để phát sinh điểm nóng.
Để triển khai thực hiện chính sách tôn giáo, được sự phân công của UBND
huyện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Phòng Nội vụ phụ trách công tác QLNN
đối với công tác tôn giáo đã phối hợp với các ngành chức năng liên quan (Phòng
Tài Nguyên-Môi trường, Phòng Văn hóa-Thông tin, Công an..) chủ động tham mưu
UBND huyện giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo một cách kịp thời không
để nảy sinh điểm nóng liên quan đến tôn giáo. Đã tích cực phối hợp đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo; phối hợp thuyết phục
vận động các chức sắc, chức việc, nhà tu hành cùng đồng bào các tôn giáo thực hiện
tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, Pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo. Trong quá trình tham mưu triển khai thực hiện chính sách tôn giáo luôn đảm
bảo nguyên tắc nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam đó là tôn trọng quyền tự
do tôn giáo và không tôn giáo của công dân; mọi nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính
đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được chính quyền chấp thuận, cho phép sinh
hoạt theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật của các tôn giáo. Đồng thời đã hướng
dẫn cho tổ chức, cá nhân tôn giáo khi sinh hoạt tôn giáo phải trong khuôn khổ Hiến
pháp, pháp luật cho phép. Đối với các ngày lễ trọng của từng tổ chức tôn giáo được
các cấp, các ngành tạo kiện tổ chức trang nghiêm, đúng quy định.
Để nắm chắc tình hình số lượng tín đồ tôn giáo cũng như nhu cầu sử dụng
đất của từng cơ sở tôn giáo trên địa bàn, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND
huyện đã thành lập tổ công tác gồm các ngành chức năng của huyện (Phòng Nội vụ,
Phòng Tài nguyên-Môi trường, Kinh tế-Hạ tầng, Đội quản lý trật tự xây dựng,..) để
thực hiện nhiệm vụ này. Trong quá trình thực hiện các cơ quan, ban, ngành đã phối
hợp với nhau trong công tác khảo sát, điều tra tín đồ các tôn giáo; phối hợp đến tận
các cơ sở tôn giáo để làm việc với chủ cơ sở tôn giáo (trụ trì, Ban hộ tự các chùa,
Ban hộ tự, Ban trị sự chi hội Tin lành, Ban hành giáo Hội đồng giáo xứ,…) cùng
51
chính quyền từng xã để trao đổi, nắm bắt được thực tế hiện trạng sử dụng đất, nhu
cầu sử dụng đất tại các cơ sở tôn giáo trên địa bàn trên cơ sở đó tham chính quyền
giải quyết.
Để nắm chắt tình hình hoạt động của tôn giáo, cấp ủy, chính quyền chỉ đạo
lực lượng an ninh ở huyện đã tăng cường công tác tuần tra nhằm đảm bảo an ninh
trong các hoạt động của tổ chức tôn giáo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này
lực lượng an ninh đã phối hợp với các ngành liên quan, qua đó đã phát hiện và kịp
thời ngăn chặn hoạt động lợi dụng cấp quà từ thiện để tuyên truyền đạo trái pháp
luật tại Hội thánh Tin lành Bà Rén, Hội thánh Tin lành Quế Sơn; nắm bắt kịp thời
đối tượng tham gia sinh hoạt “Hội thánh Đức chúa trời” tại Đà Nẵng; việc tự ý cúng
đất xây chùa tại xã Quế Long; ý đồ chôn cất thi hài của Ông Lê Đình Đào (Thích
Hạnh Hải thuộc Giáo Hội Việt Nam Thống nhất tại khuôn viên Nhà thờ tộc Lê Đình
-Thôn Thạch Thượng xã Quế Phong; việc chôn cất thi hài của cha Thích Đồng An
tại chùa An Xuân - Phú Thọ), ... trên cơ sở đó tham mưu cấp ủy, chính quyền giải
quyết kịp thời không để phát sinh điểm nóng về tôn giáo. Quan trọng hơn lực lượng
an ninh đã chủ động, phân tích, dự báo trước tình hình để chủ động triển khai thực
hiện hiệu quả, không để bị động, lúng túng khi tình huống xấu, bất ngờ liên quan
đến tôn giáo có thể xảy ra; làm tốt công tác quản lý số chức sắc, chức việc ra nước
ngoài và về địa phương và người nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với chức sắc,
chức việc và tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện.
Để đảm bảo ANCT, trật tự ATXH, nhằm tạo điều kiện nhân dân yên tâm lao
động sản xuất, thi đua thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ trên các lĩnh vực
đời sống xã hội chính quyền đã chỉ đạo lực lượng an ninh trên địa bàn huyện đã chủ
động xây dựng phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong toàn
107 khu dân cư, tổ dân phố trân địa bàn. Trong quá trình tổ chức thực hiện lực
lượng Công an đã phối hợp với Mặt trận, đoàn thể xây dựng được nhiều mô hình
dân vận khéo tại khu dân cư trong đó có đồng bào có đạo, tiêu biểu như mô hình:
Tiếng mõ an ninh, Loa an ninh, Tổ dân cư không có tệ nạn xã hội, mô hình đèn
ngoài ngõ, mõ trong nhà, “Tổ hòa giải”, “Mô hình tái hòa nhập cộng đồng 1+”, Ban
52
An toàn trật tự -Tổ tự quản”, “Thắp sáng đường quê phòng chống tội phạm”,
“Camera an ninh”,... Đối với các cơ sở tôn giáo lực lượng an ninh tăng cường chủ
động theo dõi tình hình tại cơ sở.
Ngoài ra, hàng năm, nhân dịp tết cổ truyền của dân tộc và các ngày lễ trọng
của các tổ chức tôn giáo UBND huyện đã phối hợp với các ngành liên quan (Ban
Dân vận, Mặt trận, đoàn thể) xây dựng kế hoạch tổ chức đoàn đến thăm các tôn giáo
trên địa bàn. Qua đó tạo mối quan hệ gần gũi giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận,
đoàn thể với các tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
huyện đã phối hợp và chú trọng trong việc xây dựng và củng cố lực lượng chính trị
cơ sở, nhất là cốt cán trong các tổ chức tôn giáo của cả hệ thống chính trị tại địa
phương để theo dõi, kịp thời phát hiện các vụ việc, vấn đề phát sinh trong công tác
QLNN về tôn giáo; luôn đấu tranh, ngăn chặn và xử lý những hoạt động trái quy
định của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo; để làm tốt công tác này Mặt trận, đoàn
thể đã họp, phân công nhiệm vụ xây dựng cốt cán một cách rõ ràng, cụ thể đối
tượng này giao cho đoàn thể nào xây dựng và quản lý, qua đó đã tránh được sự
trùng lắp trong xây dựng.
Đối với đội ngũ cán bộ, trong quá trình thực thi công vụ đội ngũ cán bộ, công
chức phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện đã làm tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao theo quy định, đã phối hợp tham mưu các cấp ủy Đảng, chính quyền
lãnh, chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách tôn giáo đạt kết quả tích cực; tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo sinh hoạt tôn giáo thuần túy theo
Giáo lý, Giáo luật của từng tổ chức tôn giáo và trên tinh thần thượng tôn pháp luật;
chức sắc, nhà tu hành và đồng bào có đạo cùng toàn dân tích cực tham gia các hoạt
động xã hội, yên tâm sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần; tích cực trong công tác đấu tranh đối với các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để thực hành mê tín, dị đoan, truyền đạo trái pháp luật, gây rối trật tự công
cộng, ảnh hưởng đến ANQG, tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
53
Trong quá trình thực hiện có sự phân công trách nhiệm rõ ràng và có sự phối
hợp, nhưng trong thực hiện vẫn còn hạn chế nhất định ở một số nhiệm vụ trong
công tác QLNN về tôn giáo, nhất là trong công tác quản lý đất đai tôn giáo ở một số
cơ sở.
2.1.4 . Thực trạng việc duy trì chính sách đối với tôn giáo trên địa bàn
huyện Quế Sơn
Để chính sách tôn giáo tiếp tục tồn tại trong đời sống xã hội và phát triển
trong môi trường thực tế trước những biến thiên đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phụ
trách công tác tôn giáo trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo phải có trình
độ chuyên môn phù hợp, có năng lực công tác, nắm vững chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về tôn giáo cũng như đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển của từng tổ
chức tôn giáo đang tồn tại và tôn giáo mới có thể du nhập vào tại địa phương; chủ
động, tích cực trong công tác tuyên truyên, vận động các chức sắc, chức việc, nhà tu
hành, tín đồ tôn giáo cùng toàn xã hội đồng tâm hợp lực thực hiện chính sách để sử
dụng, vận dụng linh hoạt hệ thống công cụ quản lý của Nhà nước nhằm tác động tạo
môi trường thích hợp để thực thi chính sách tôn giáo đúng theo chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với huyện Quế Sơn, trong những năm qua, trên cơ sở quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các văn bản chỉ đạo,
quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách tôn giáo của tỉnh Quảng Nam trong quá
trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo các cấp, các ngành trong hệ
thống chính trị trong huyện đã nâng cao nhận thức, thống nhất chủ trương, trách
nhiệm trong thực hiện, luôn tạo điều kiện để tín đồ các tôn giáo được cấp phép hoạt
động và từng tổ chức tôn giáo sinh hoạt thuần túy. Đã giải quyết kịp thời nhu cầu
phong chức, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc; tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn
giáo thực hiện việc thành lập mới các điểm nhóm sinh hoạt, đến nay công nhận mới
54
03 điểm nhóm Tin Lành theo Chỉ thị số 01/2005 của Thủ tướng chính phủ gồm:
Hương An (01 điểm), thị trấn Đông Phú (02 điểm) và đã thống nhất đề nghị chuyển
danh xưng Niệm Phật đường Thạnh Bình xã Quế Xuân 1 thành chùa Thạnh Bình,...
Các ngày lễ trọng các tôn giáo xin phép và được chính quyền cho phép hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật.
UBND huyện đã chấp thuận việc việc đăng ký, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử đội
ngũ chức việc của tổ chức tôn giáo trực thuộc (Ban trị sự GHPG huyện, Ban hộ tự
các chùa, Ban hành giáo đạo Công giáo, Ban trị sự Chi hội Tin lành, Ban cai quản
họ đạo Cao đài,...); tiếp nhận thông báo của các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo
trực thuộc trong việc thuyên chuyển chức sắc, chức việc đối với các cơ sở thờ tự
trên địa bàn; công văn thống nhất việc tổ chức trại họp bạn cho các em Gia đình
Phật tử huyện; việc tổ chức trại họp ngành nữ Gia đình Phật tử huyện; công văn cho
phép Ban Trị sự GHPG huyện tổ chức khóa tu học tập trung tín đồ toàn huyện hằng
năm; Công văn thống nhất tổ chức Lễ Vu lan, cầu siêu Bồ tạt của Đạo Phật...
UBND huyện đã chấp thuận cho Ban Trị sự GHPGVN huyện và Ban hộ tự
Chùa Thạnh Bình (Quế Xuân 1) tổ chức lễ công bố Quyết định bổ nhiệm trụ trì đối
với Sư cô Thích Nữ Đồng Hiếu; chấp thuận cho Ban trị sự GHPGVN huyện tổ chức
Trại họp bạn hè cho các em gia đình phật tử huyện Quế Sơn tại chùa Linh Sơn, xã
Hương An,..
Nhằm tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền với tổ chức tôn
giáo, UBND huyện đã chủ trì tổ chức gặp mặt chức sắc, chức việc trên địa bàn
huyện, tại buổi gặp mặt lãnh đạo huyện báo cáo tóm tắt tình hình phát triển KT-XH
ở địa phương, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn
giáo, ghi nhận những đóng góp tích cực của tôn giáo trong các lĩnh vực đời sống xã
hội, nhất là trong công tác nhân đạo từ thiện, đồng thời qua đó biểu dương, khen
thưởng những tập thể, cá nhân chức sắc tôn giáo tiêu biểu.
Song trong quá trình tổ chức thực hiện, chính quyền sẽ không giải quyết nếu
chưa đảm bảo các quy định như: UBND huyện không chấp thuận việc bổ nhiệm trụ
55
trì đối với Đại đức Thích Chúc Đạt vì chưa đủ điều kiện và tu sĩ Thích Nữ Đồng
Châu do không sinh hoạt tại huyện Quế Sơn trong năm 2016. Đến năm 2018 mới
chấp thuận việc bổ nhiệm trụ trì đối với Đại đức Thích Chúc Đạt vì mới đủ điều
kiện chấp thuận theo quy định.
2.1.5. Thực trạng việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn
giáo
Công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách tôn giáo là nhiệm
vụ rất vô cùng quan trọng của các cấp chính quyền; nhằm đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân; đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo sinh
hoạt tôn giáo theo quy định của Pháp luật; qua đó tuyên truyền nâng cao nhận thức
trong các tầng lớp nhân dân, nhất là các tổ chức, cá nhân tôn giáo nắm vững quan
điểm, chính sách của Nhà nước về tôn giáo; đề xuất các các giải pháp nhằm để đẩy
mạnh phát triển KT-XH, nâng cao đời sống người dân trong đó có đồng bào có
đạo. Qua theo dõi, kiểm tra, đôn đốc sẽ phát hiện những hạn chế, bất cập phát sinh
trong thực tế mà khi ban hành các chủ thể ban hành chính sách chưa tính đến, trên
cơ sở đó sẽ khắc phục, chấn chỉnh những hạn chế, thiết sót trong công tác tổ chức
thực thi chính sách và điều chỉnh, hoàn thiện chính sách, đưa chính sách đi vào
cuộc sống, đáp ứng nhu cầu tâm linh chính đáng của đồng bào có đạo; qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước trong tình hình mới.
Thông qua kiểm tra, sẽ giúp cho UBND huyện Quế Sơn nắm bắt cụ thể về
tình hình thực tế việc thực hiện chính sách tôn giáo tại từng xã, trên cơ sở đó có
nhận xét, đánh giá một cách chính xác, khách quan về mặt được cũng như chưa
được trong công tác triển khai thực hiện chính sách tôn giáo của từng cơ quan, đơn
vị trên địa bàn có tôn giáo; giúp Phòng Nội vụ phát hiện những hạn chế, thiếu sót
trong xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách tôn giáo, trên cơ sở đó
tham mưu cấp chính quyền xử lý quyết liệt và có những kiến nghị, đề xuất với cấp
trên phù hợp. Tạo điều kiện cho các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phụ trách công
56
tác tôn giáo trong hệ thống chính trị cùng các tổ chức, cá nhân, tín đồ tôn giáo ở địa
phương trong triển khai thực hiện chính sách tôn giáo đạt mục tiêu của chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đề ra. Qua kiểm tra công tác tôn giáo, Phòng Nội
vụ sẽ có cơ sở đề xuất UBND huyện biểu dương những tập thể, cá nhân của các cơ
quan phụ trách công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị cùng tổ chức, cá nhân tôn
giáo hoàn thành tốt trong tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo; đưa chính sách đi
vào cuộc sống, tạo điều kiện cho đồng bào các tôn giáo yên tâm sinh hoạt tôn giáo
theo Giáo lý, Giáo luật và trong khuôn khổ pháp luật, tích cực tham gia các phong
trào thi đua yêu nước ở địa phương.
Kết quả, từ năm 2014 đến năm 2019, BCĐ công tác tôn giáo và UBND
huyện Quế Sơn đã thành lập 25 Tổ kiểm tra và tiến hành kiểm tra việc thực hiện
chính sách tôn giáo các xã có cơ sở tôn giáo. UBND huyện đã kiểm tra được 9
cuộc, BCĐ công tác tôn giáo huyện kiểm tra 16 cuộc. Ngoài ra, hằng năm, BCĐ
công tác tôn giáo huyện cũng như UBND huyện tổ chức giao ban nắm tình hình
tôn giáo ở các xã, thị trấn trên địa bàn; đối với những địa phương có những phát
sinh trong công tác tôn giáo, cấp ủy, chính quyền, các ngành chuyên môn của
huyện đã đến địa bàn đó để nắm tình hình, phân tích và định hướng giải quyết kịp
thời, nhất là những phát sinh trong công tác quản lý đất đai tôn giáo, ý đồ chôn chất
thi hài của các đại đức khi qua đời, việc dựng tượng trái phép,....
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra
thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn chưa được thường
xuyên, công tác này chỉ được tiến hành khi có sự chỉ đạo của Huyện hay những
vấn đề phát sinh trong công tác tôn giáo.
2.1.6. Thực trạng việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính
sách tôn giáo
Những năm qua, Huyện ủy và UBND huyện Quế Sơn luôn quan tâm, chú
trọng đến công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai
thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,
57
UBND tỉnh và BTG Tỉnh ủy Quảng Nam. Cụ thể trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên
huyện đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền từ huyện đến 14 xã,
thị trấn tiến hành tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện các chỉ
thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo nói chung và đối
với từng tổ chức tôn giáo nói riêng như: Năm 2013, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của BCH ương Đảng (khóa IX) về công tác
tôn giáo; năm 2015, tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và
tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04/2/2005 của Chính
phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; năm 2016, đã sơ kết 05 năm thực hiện
Kết luận số 08-KL/TW của BBT về “Xây dựng lực lượng cốt cán trong tôn giáo”;
năm 2017, tổng kết 25 năm thực hiện Thông báo số 34-TB/TW, ngày 14-11-1992
của BBT về chủ trương công tác đối với đạo Cao Đài; năm 2018, báo cáo tổng kết
việc thực hiện Chỉ thị số 1940 Về vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo của Thủ
tướng Chính phủ và 10 năm thực hiện Thông báo số 148-TB/TW, ngày 04-4-2008
của BCT về việc giải quyết nhà, đất liên quan đến tôn giáo và sơ kết 05 năm thực
hiện Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 05-01-2013 của BBT khóa XI về chủ trương, giải
pháp giải quyết vấn đề hoạt động phục hồi “GHPG Việt Nam thống nhất”; năm
2019: tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005 của Thủ tưởng Chính phủ Về
một số công tác đối với đạo Tin Lành và Kết luận số 101-KL/TW, ngày 03/9/2014
của BBT về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới, ...
Trên cơ sở các báo cáo sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà
nước về công tác tôn giáo, các cấp, các ngành trên địa bàn huyện đã rà roát, tổng
hợp những kết của đạt được về công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện về
công tác quán triệt, phổ biến, công tác phân công, phối hợp thực hiện, công tác
QLNN về tôn giáo, nhất là công tác QLNN về đất đai tôn giáo; công tác đẩy mạnh
thực hiện chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển KT-XH, nâng cao
đời sống của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo; công tác vận động, tập
hợp quần chúng xây dựng lực lượng chính trị trong địa bàn có đạo; kết nạp đảng
viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo; công tác
58
xây dựng và sử dụng cốt cán phong trào ở các tôn giáo; công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện, những hạn chế trong từng lĩnh vực và đã rút ra được những bài học
kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện, trên cơ sở đó đề ra những nhiệm vụ,
giải pháp để tổ chức thực hiện tốt các chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Đảng, chính
sách của Nhà nước về công tác tôn giáo trong thời gian đến. Đồng thời đã tổ chức
các hội nghị sơ kết, tổng kết, qua hội nghị đã tuyên dương, khen thưởng những tập
thể, cá nhân thực hiện tốt công tác tôn giáo. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức
của các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
vị trí, vai trò của chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong giai đoạn
hiện nay.
2.2. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
2.2.1. Những thành tựu
Trong những năm qua các cấp, các ngành trên địa bàn huyện đã quan tâm
đến công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về tôn giáo đến đội ngũ
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khi tiếp cận các văn bản mới về công tác
tôn giáo; xây dựng kế hoạch và các văn bản triển khai thực hiện công tác tôn giáo
theo chỉ đạo của cấp trên; để thực hiện tốt chính sách tôn giáo trong quá trình thực
hiện chính sách có sự phân công phối hợp với nhau giữa các cơ quan, ban ngành
một cách cụ thể và đã đạt được những kết quả tích cực:
Đã làm tốt công tác mở hội nghị quán triệt (05 hội nghị với 500 lược cán bộ,
đảng viên tham dự) và làm tốt công tác tập huấn: UBND huyện đã phối hợp mở
được 03 lớp, BCĐ công tác tôn giáo của huyện đã mở được 02 lớp tập huấn công
tác tôn giáo cho gần 500 cán bộ, đảng viên phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn.
Qua đó nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ đảng viên, hội, đoàn viên về công
tác tôn giáo.
Đội ngũ chức sắc, chức việc trên địa bàn huyện đã tham gia các lớp phổ biến
pháp luật (Luật tín ngưỡng, tôn giáo) năm 2017 do BTG tỉnh tổ chức tại Tam Kỳ.
Qua đó đa số các chức sắc, chức việc, nhà tu hành của từng tổ chức tôn giáo đã chấp
59
hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo;
hành động một cách tự giác; người chịu trách nhiệm trước cơ quan QLNN về tôn
giáo của cơ sở tôn giáo tổ chức đăng ký, thông báo chương trình, nội dung sinh hoạt
tôn giáo sẽ diễn ra theo tháng, theo quý của năm sau cho chính quyền. Sau khi xem
xét nếu thấy chương trình, nội dung sinh hoạt đảm bảo theo Giáo lý, Giáo luật của
từng tổ chức tôn giáo và đúng quy định của pháp luật thì chính quyền tạo điều kiện
cho các tổ chức tôn giáo hoạt động; ngược lại, đối với những chương trình, nội
dung sinh hoạt tôn giáo chưa đảm bảo thì chính quyền huyện không thống nhất và
đã có văn bản trả lời với lý do thuyết phục để tổ chức, cá nhân tôn giáo biết và
thống nhất chấp hành như: Không thống nhất cho Chùa Xuân Yên xã Hương An tổ
chức cúng Bàu Xuân Yên tại thôn Xuân Yên vì không có trong chương trình đăng
ký đầu năm; Không cho Ban Hộ tự Chùa Hương Lư- Hương An tổ chức đêm văn
nghệ gây quỹ vì tại nơi tổ chức không đảm bảo về ANTT; không thống nhất cho
Ban trị sự GHPG huyện tổ chức cầu siêu ở tượng Đài Chiến thấng cấm Dơi, dựng
tượng phật tại chân Đèo Le,...vì không đảm bảo điều kiện.
Trong công tác quản lý nhà đất tôn giáo: UBND huyện thành lập đoàn khảo
sát, thống kê hiện trạng đất của 27/27 cơ sở tôn giáo, qua khảo sát thực tế UBND
huyện đã đề xuất với BCĐ công tác tôn giáo huyện và tham mưu thường trực
Huyện ủy phương án giải quyết những vấn đề tồn tại về nhà, đất tôn giáo. UBND
huyện chỉ đạo các ngành chuyên môn phối hợp với UBND các xã, thị trấn hướng
dẫn các cơ sở tôn giáo đủ điều kiện lập thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Qua
khảo sát, đến nay tổng diện tích đất sử dụng trong tôn giáo là 51.611,5 m2; trong đó:
Phật giáo có 23 cơ sở với diện tích 41.867,7 m2; Tin lành 02 cơ sở với diện tích là
2.852 m2; Công giáo có 03 cơ sở với diện tích 4.541,8 m2; Cao đài có 1 cơ sở với
diện tích 2.350 m2. Nếu như trước năm 2009, trên địa bàn huyện có 09 cơ sở tôn
giáo được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) với diện
tích là 11.180,5 m2 thì đến nay trên địa bàn huyện đã có 21 cơ sở tôn giáo được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ, với tổng diện tích là 30.091m2, chiếm 58,3% diện tích
đang sử dụng (Chùa Thạnh Bình; chùa Xuân Phú; chùa Phú Thạnh; chùa Hòa Lạc;
60
chùa Trung Vĩnh; chùa Phú Trạch; chùa Thượng Vĩnh; chùa Linh Sơn; chùa An
Xuân; Chùa Trung Sơn; chùa Xuân Lư; chùa Hương Sơn; chùa Phú Phương; chùa
Hương Xuân, chùa Phú Trang Quế Xuân 1; chùa Phú Phong, chùa Xuân Phước;
giáo xứ Xuân Thạnh; nhà thờ Tinh lành Đông Phú; nhà thờ Tin lành Quế Xuân 1;
thánh thất Trung Kiên Quế An).
Việc cải tạo, xây mới cơ sở thờ tự được chính quyền các cấp tạo điều kiện và
giải quyết nhanh các thủ tục theo quy định của pháp luật, đến nay có 20 cơ sở tôn
giáo được sữa chữa, nâng cấp. Cho phép xây dựng mới 05 cơ sở (Chùa An Xuân,
Chùa Xuân Lư, Chùa Hương Sơn, Chùa Phú Phong, Thánh Thất Trung Kiên).
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đất đai tôn giáo đã tổ chức
kiểm tra, đình chỉ một số cơ sở thờ tự xây dựng trái phép chưa đảm bảo quy hoạch
và thủ tục xây dựng như: Kiểm tra, đình chỉ Giáo họ Thạch Khê xây dựng Tượng
Đức Mẹ trái phép; việc lấn chiếm đất đai trái phép tại Chùa An Xuân và hướng dẫn
lập các thủ tục liên quan theo quy định. Tiến hành kiểm tra, hướng dẫn thủ tục, giải
quyết nhu cầu mở rộng các cơ sở tôn giáo tại Chùa Hương Quế (Hương An), Chùa
Linh Sơn (xã Quế Phú); Chùa Xuân Phước (Phú Thọ); Chùa Thạnh Bình (Quế
Xuân 1),....Qua đó cho thấy, công tác quản lý xây dựng các công trình tôn giáo
được quan tâm, bảo đảm từ xây dựng mới đến việc cải tạo, sửa chữa cơ sở tôn giáo
được cấp phép, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chân chính của nhân dân, góp
phần tích cực trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước.
Việt giải quyết khiếu kiện liên quan đến tôn giáo, công tác đấu tranh chống lợi
dụng tôn giáo: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo trên địa
bàn huyện, Phòng Nội vụ tham mưu với UBND huyện xây dựng quy định về việc
tiếp nhận, giải quyết hồ sơ theo cơ chế “một cửa”; đồng thời, niêm yết công khai tất
cả các thủ tục hành chính liên quan đến tôn giáo cho chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
được biết và thực hiện. Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ bản hồ sơ
hành chính của tổ chức, chức sắc tôn giáo đều được giải quyết hoặc trình UBND
61
huyện giải quyết theo thẩm quyền, tuân thủ đúng thời gian, được các tổ chức tôn
giáo đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của các tổ
chức, cá nhân tôn giáo nhìn chung đảm bảo, thời gian qua việc khiếu nại trong tôn
giáo có chiều hướng gia tăng, trong đó chủ yếu là tranh chấp đất đai, liên quan đến
tôn giáo. Các ngành, các cấp đã tiếp 25 lượt người, nhận 15 hồ sơ khiếu nại phản
ánh của các tôn giáo (chủ yếu là về lĩnh vực đất đai), đã tham mưu cho UBND các
cấp giải quyết kịp thời, thỏa đáng, phù hợp, được các tổ chức tôn giáo đồng tình,
không có đơn thư vượt cấp.
2.2.2. Hạn chế, bất cập
Việc xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo có
lúc, có nơi chưa chủ động và đồng bộ; một số chủ trương, chính sách đối với công
tác tôn giáo chậm thể chế hóa, chưa quy định rõ ràng gây khó khăn cho địa
phương như: vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo, theo Nghị định 162/NĐ-CP
năm 2017 vẫn chưa quy định cụ thể diện tích đất cho một cơ sở tôn giáo, đồng thời
cũng chưa quy định có bao nhiêu tín đồ để thành lập một cơ sở tôn giáo mới. Hay
như công tác xây dựng cốt cán tôn giáo, trong Hướng dẫn xây dựng cốt cán chưa
quy định một số ngành như UBND, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo,..xây dựng cốt
cán, nhưng khi yêu cầu báo cáo kết của xây dựng cốt cán và nhu cầu sử dụng cốt
cốt trong thời gian đến thì ban hành công văn, biểu mẫu báo cáo việc xây dựng cốt
cán đối với các ngành này.
Về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo và
công tác vận động chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện còn có
những hạn chế nhất định: Công tác này chưa được thực hiện thường xuyên, chưa
đồng bộ và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Chưa mở được lớp phổ biến
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ chức việc trên địa bàn,
đội ngũ này mới chỉ được BTG tỉnh triệu tập, quán triệt.
62
Trong công tác phân công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo, tuy có sự
phân công nhiệm vụ từng ngành, từng ngành có phân công cán bộ phụ trách nhưng
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hiệu quả không cao, do hoạt động phối hợp
giữa các cơ quan QLNN với nhau của huyện giữa các cơ quan QLNN với các đoàn
thể còn mang tính hình thức, phối hợp một cách cứng nhắc; đồng thời trong quá
trình thực hiện thiếu kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở nên một số nhiệm vụ kéo dài
chưa giải quyết dứt điểm.
Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo trên
địa bàn huyện Quế Sơn chưa được triển khai thực hiện thường xuyên; các cấp ủy,
chính quyền chưa chủ động xây dựng kế hoạch tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm
thực hiện mà chỉ tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện khi có sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,
UBND và BTG tỉnh. Chính vì lẽ đó việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn
huyện còn những hạn chế nhất định, nhất là trong công tác QLNN về đất đai liên
quan đến tôn giáo; một số cơ sở tôn giáo đã thành lập trên 50 năm mà vẫn chưa
được cấp Giấy chứng nhận QSD đất, nhiều cơ sở lấn chiếm để xây dựng các công
trình phụ trợ tôn giáo chưa được giải quyết dứt điểm kéo dài hàng chục năm.
2.2.3. Nguyên nhân hạn chế
Do chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến nên một vài cấp ủy đảng,
chính quyền và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa am hiểu rõ và đầy đủ về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, có lúc
còn xem nhẹ công tác tôn giáo.
Chưa chủ động trong việc xây dựng một số văn bản triển khai thực hiện công
tác tôn giáo, chỉ xây dựng khi có văn bản của cấp trên chỉ đạo, trong quá trình thực
hiện có lúc chưa kịp thời, nội dung chưa sát, chủ yếu là dựa vào văn bản của cấp
trên.
Công tác QLNN đối với tôn giáo ở một số xã hiệu quả chưa cao, công tác
nắm bắt tình hình tôn giáo có lúc chưa kịp thời, những vấn đề phát sinh liên quan
63
đến công tác tôn giáo còn lúng túng, thậm chí có xã còn buông lỏng vai trò quản lý
về công tác đất đai liên quan đến tôn giáo.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo không ổn định, thường xuyên thay
đổi, cán bộ phụ trách công tác tôn giáo đều hoạt động kiêm nhiệm, phần lớn chưa
được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ nên việc thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều
khó khăn. Một số cán bộ có lúc, có nơi chưa làm tốt công tác vận động chức sắc,
chức việc, đồng bào có đạo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Qua phỏng vấn một số tín đồ trong các tổ chức tôn giáo cho rằng
họ không biết gì về Luật tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng hay các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo.
Công tác tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện chính tôn giáo có
lúc chưa kịp thời.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 tác giả luận văn đã phân tích thực trạng các bước trong tổ
chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam: từ
thực trạng xây dựng các văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về tôn giáo;
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật và công tác vận động quần
chúng là tín đồ, chức sắc tôn giáo; thực trạng phân công, phối hợp giữa các ngành
trong thực hiện chính sách, tôn giáo; việc phân công tác cán bộ phụ trách công tác
tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và của lực lượng vũ trang;
công tác bồi dưỡng, tập huấn và đảm bảo chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo; công tác kiểm tra theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách
tôn giáo; thực trạng công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm và đánh giá việc thực
hiện chính sách trên địa bàn huyện trong những năm qua.
Với việc phân tích thực trạng các bước tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo
nêu trên sẽ là nền tảng để bản thân đánh giá một cách toàn diện về những mặt được,
chưa được trong thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện, qua đó làm cơ sở nền tảng
để bản thân có nhận định chính xác về tôn giáo, tình hình tôn giáo ở huyện và sẽ đề
64
ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo
ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
65
CHƯƠNG 3
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ
SƠN, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN ĐẾN
3.1. Vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
Nhìn chung, trong những năm qua việc tổ chức triển khai thực hiện quan
điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tôn
giáo trên địa bản huyện Quế Sơn đã đạt được những kết quả quan trọng trên các
mặt. Huyện đã làm tốt công tác phổ biến, tuyên tuyền; công tác QLNN về hoạt động
tôn giáo có nhiều khởi sắc, định hướng cho tổ chức, cá nhân tôn giáo trong tổ chức
sinh hoạt tôn giáo đi vào nề nếp theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật trong khuôn
khổ pháp luật quy định. Công tác vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành và
đồng bào có đạo ngày được quan tâm, đã thành lập Đề án vận động đồng bào có đạo
trên địa bàn, qua đó đã vận động các tổ chức, cá nhân tôn giáo tích cực tham gia các
hoạt động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước như phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào “Xây dựng gia đình, tộc
văn hóa”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn
minh” ,.. Mọi nhu cầu sinh hoạt thuần túy và các ngày lễ trọng của từng tổ chức, cá
nhân tôn giáo được chính quyền tạo điều kiện tổ chức. Chức sắc, tín đồ tôn giáo
thực hiện phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”, chăm lo phát triển kinh tế gia đình, cải
thiện cuộc sống. Đồng thời tham gia tích cực phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ
quốc, giữ vững ANCT, trật tự ATXH tại địa phương.
Qua đó khẳng định rằng chức sắc, chức việc cùng tín đồ các tôn giáo đã tích
cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, không né tránh các hoạt động ở địa
phương nói riêng, của đất nước nói chung, đồng hành cùng toàn quân, toàn dân trên
địa bàn huyện trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương Quế Sơn phát triển
66
bền vững nói riêng. Đồng thời góp phần tích cực vào thắng lợi trong công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Tuy nhiên trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trên
địa bàn huyện đặt ra một số vần đề như sau:
3.1.1. Về phía chính quyền
Thứ nhất, Trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện
chủ trương, chính sách tôn giáo, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên
địa bàn huyện Quế Sơn nhìn chung cho thấy công tác triển khai thực hiện chính
sách tôn giáo trên địa bàn đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng việc xây
dựng chương trình, kế hoạch công tác tôn giáo có lúc chưa kịp thời và đồng bộ
trong hệ thống chính trị trên địa bàn (chủ yếu ở cấp huyện, đa số các xã chưa xây
dựng). Song hiệu quả cũng như giá trị thực tiễn của các chương trình, kế hoạch
công tác tôn giáo theo từng giai đoạn, hằng năm chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn trong công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Nhiều kế
hoạch, chương trình ban hành còn chung chung, chưa mang tính giải quyết vấn về
bức thiết, thiếu định hướng cụ thể, trong quá trình xây dựng còn chủ yếu dựa vào
các năm trước để xây dựng năm sau, do đó nhiều vấn đề chưa giải quyết dứt điểm;
nhiều kế hoạch, đề án chưa thực hiện hiệu quả như Đề án xây dựng cốt cán các cấp;
Kế hoạch vận động, đoàn kết các tôn giáo; công tác phát triển đảng viên là người có
đạo (mới chỉ phát triển được 01 đảng viên là người có đạo).
Thứ hai, Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo đôi lúc
chưa thường xuyên, chưa sát đối tượng và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân nên
trong quá trình tổ chức thực hiện một số cán bộ, đảng viên ở huyện và xã chưa nhận
thức đúng được tầm quan trọng và đầy đủ về các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo; trong công tác quản lý nhà đất tôn giáo:
chính quyền một số xã còn chủ quan, buông lỏng quản lý trong việc giải quyết vấn
67
đề liên quan đến tôn giáo điển hình xã Phú Thọ đã gây khăn trong công tác quản lý
về hoạt động và diện tích đất của một số cơ sở tôn giáo.
Thứ ba, Trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo:
Trong những năm qua các cấp, các ngành cùng cơ quan chức năng trên địa bàn
huyện đã có sự phân công, phối hợp với nhau trong quá trình tổ chức thực hiện
chính sách tôn giáo, trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến công
tác tôn giáo. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có lúc phối hợp cứng nhắc, thiếu
linh hoạt, còn mang tính hình thức, khi xảy ra vụ việc còn đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau. Hơn nữa mối quan hệ hỗ trợ giữa UBND huyện với các xã, giữa các cơ quan
chức năng của huyện với xã còn mang tính áp đặt, mệnh lệnh chỉ đạo; phần lớn mối
quan hệ có tính một chiều là UBND huyện giao cho xã thực hiện, đôi khi còn thiếu
sự hướng dẫn trực tiếp để giải quyết vấn đề còn tồn tại trong công tác QLNN về tôn
giáo, trọng tâm là vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo.
Hơn nữa hiện nay đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp trên địa
bàn huyện chưa đảm bảo về chất lượng, nhất là cán bộ cấp xã do đa phần đội ngũ
cán bộ phụ trách công tác tôn giáo không có chuyên môn về công tác tôn giáo. Tuy
đội ngũ này có lợi thế là gắn bó thường xuyên với tín đồ, chức sắc ở địa phương
nhưng lại thường xuyên bị thay đổi công tác qua các kỳ Đại hội Đảng, HĐND, Mặt
trận, đoàn thể nên chưa được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ kịp thời. Bên
cạnh đó số cán bộ không bị thay đổi thì một số đồng chí lại thiếu kỹ năng làm công
tác tôn giáo; hơn nữa cán bộ phụ trách công tác tôn giáo lại kiêm nhiệm nhiều việc
nên không có thời gian cho việc đầu tư nghiên cứu tìm hiểu kỹ về tình hình và chính
sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Đặc biệt là đơn vị hành chính cấp xã hiện nay
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tôn giáo trong những năm tới khi hoạt động của
các tôn giáo ngày càng đa dạng và chuyên nghiệp hơn. Do đó yêu cầu đặt ra đó là
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này một
cách kịp thời là yêu cầu cấp thiết để góp phần thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
68
Thứ tư, Theo sự phân cấp, hiện nay Phòng Nội vụ có trách nhiệm tham mưu
UBND huyện QLNN và tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về tín ngưỡng
tôn giáo, trong khi việc bố trí cán bộ phụ trách công tác tôn giáo tại Phòng Nội vụ
hiện nay chưa ngang tầm với nhiệm vụ chính trị được giao, bên cạnh đó chưa có
đồng chí nào có chuyên môn về công tác tôn giáo hay am hiểu sâu rộng lĩnh vực
này nên quá trình tham mưu hiệu quả có lúc chưa cao; hơn nữa việc giao cho Phòng
Nội trực tiếp tham mưu phụ trách công tác tôn giáo là một đơn vị đa lĩnh vực,
nhưng nhiều lĩnh vực không cùng chức năng và đối tượng quản lý, nên có nhiều bất
cập trong thực hiện.
Thứ năm, Về công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn
giáo: Để giải quyết các vụ việc phát sinh liên quan đến tôn giáo, UBND huyện đã
thành lập đoàn kiểm tra, khảo sát tình hình công tác tôn giáo tại xã, thị trấn nhưng
hiệu quả chưa cao; có lúc các đoàn công tác làm việc còn mang tính hình thức, quá
nể nang, chưa đột xuất nên vẫn còn tình trạng dựng tượng, tổ chức lễ an vị, cầu siêu,
cầu an…không xin phép vẫn còn xảy ra; tình hình tự ý chuyển nhượng, lấn chiếm
đất đai trái phép để cơi nới, mở rộng cơ sở thờ tự vẫn còn diễn ra nhưng chưa giải
quyết triệt để trong khi công tác phối hợp giải quyết giữa huyện và xã chưa đồng
bộ, chặt chẽ, trong quá trình tổ chức thực hiện còn lúng túng, có lúc đùn đẩy.
Thứ sáu, Trong công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính
sách tôn giáo chưa chủ động, chủ yếu tổ chức theo sự chỉ đạo của Trung ương, của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh và BTG tỉnh. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này nhiều
chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước còn mang tính hình thức, một số
nội dung chỉ tổng hợp báo cáo cấp trên đúng thời gian quy định, chưa khảo sát,
kiểm tra, giám sát trước khi sơ kết; bên cạnh đó chưa tổ chức hội nghị tổng kết
chuyên đề về thực hiện chính sách tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng, có
chăng chỉ là lồng ghép trong các hội nghị tổng kết chính quyền và công tác xây
dựng Đảng hàng năm. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải chú trọng công tác đánh giá,
tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn một cách kịp
thời và đạt chất lượng.
69
3.1.2. Về phía các tổ chức tôn giáo
3.1.2.1. Đối với hoạt động của Phật giáo
Ban Trị sự Phật giáo huyện đã thành lập nhưng có lúc hoạt động chưa chặt
chẽ, chưa nề nếp, không rõ nét, nên hiệu lực thấp dẫn đến vai trò mờ nhạt, định
hướng các hoạt động còn hạn chế, quản lý tăng ni chưa hiệu quả. Đây là một nhân
tố khiến cho một số tăng ni sao nhãng Phật sự, coi thường giới luật, nảy sinh mâu
thuẫn trong quần chúng tín đồ cũng như nảy sinh mâu thuẫn giữa trụ trì với tín đồ,
dễ bị các phần tử xấu lợi dụng kích động, trục lợi.
Một số tăng chưa đăng ký thuyên chuyển với Ban Trị sự GHPG Việt Nam
huyện (Thích Đồng Ngộ chùa Phú Phương, Thích Thông Nghiêm chùa Trung
Vĩnh.,… và tình trạng một số sư cô xuất cảnh ra nước ngoài không báo cáo với Ban
Trị sự và chính quyền địa phương gây khó khăn trong công tác QLNN về tôn giáo.
3.1.2.2. Về việc trùng tu sửa chữa cơ sở thờ tự:
Do kinh tế phát triển, đời sống của người dân huyện Quế Sơn ngày càng được
nâng lên, sinh hoạt tín tôn giáo càng trở nên sầm uất, nên việc trùng tu, mở rộng
diện tích khuôn viên cơ sở tôn giáo ngày càng nhiều. Do đó, hiện nay Ban Trị sự
Phật giáo huyện có nhu cầu khôi phục tại một số chùa cũ và thành lập mới (như tại
xã Quế Minh, Quế Hiệp, Quế Long, Quế Phú) với lý do là trong 14 xã, chỉ có 7 xã
có chùa lại tập trung ở vùng Đông của huyện, trong khi vùng Trung của huyện có
một cơ sở tại Đông Phú và vùng Tây không có, vả lại nơi đây có một số nền móng
chùa cũ và trong 40 năm qua chưa thành lập mới được Chùa nào trong khi tín đồ
vùng này tăng lên nên Ban trị sự PHPG huyện luôn đề nghị với UBND huyện cho
chủ trương khôi phục nhưng cấp ủy, chính quyền địa phương xét thấy chưa hợp lư v́
ở trung tâm huyện có Chùa Trung Sơn - là chùa trung tâm của khu vực này nên cấp
ủy, chính quyền địa phương chưa thống nhất, do đó Ban trị sự GHPG Việt Nam
huyện nhiều lần cho rằng chính quyền địa phương thiếu quan tâm.
70
Bên cạnh đó, hiện nay nhiều cơ sở Phật giáo xây dựng ở trong khu dân cư,
nên việc sinh hoạt tôn giáo đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của những hộ dân
xung quanh cơ sở tôn giáo đó, gây khó khăn trong công tác QLNN về đảm bảo
quyền tự do sinh hoạt tôn giáo theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, hiện nay tình trạng một số chùa tự ý xây dựng tháp thờ trong khuôn
viên chùa để đặt tượng phật trái phép và xây “Mộ gió” để chôn cất di cốt trụ trì chùa
(Chùa Trung Vĩnh xã Quế Xuân 1 xây dựng để chôn cất Thích Thông Nghiêm -
nguyên trụ trì Chùa Trung Vĩnh, Chùa Xuân Phước xã Phú Thọ để chôn cất cha của
Đại đức Thích Đồng An), .. tình trạng này có chiều hướng tăng gây khó khăn trong
công tác QLNN về tôn giáo và tình trạng tự ý xây móng, đặt tượng phật trái pháp
luật diễn ra nhiều nơi của tín đồ, như hộ bà Võ Thị Sanh, quế Châu, Ông nguyễn Du
xã Hương An,..gây khó khăn trong công tác QLNN về đạo Phật.
3.1.2.3. Đối với hoạt động của Công giáo:
Hoạt động của giáo xứ Xuân Thạnh, Giáo họ Thạch Khê nhìn chung đảm bảo
theo quy định, tập trung củng cố đức tin; song đối với đạo này cũng còn một số vấn
đề cần phải quan tâm đó là: tình trạng tự dựng tượng trái phép đối với đạo này vẫn
còn xảy ra, như Họ đạo giáo xứ Thạch khê dựng tượng Đức Mẹ gần Nhà nguyện
không xin phép hay khi xin phép qua kiểm tra không đủ thủ tục nên chính quyền
không cho phép, cho rằng chính quyền xã Quế Cường không quan tâm và Giáo họ
này chưa được cấp giấp chứng nhận QSD đất dù đã thành lập và hoạt động từ lâu;
bên cạnh đó tình trạng Chi họ Công giáo tại thôn Hòa Mỹ Tây, xã Quế Xuân 2 biến
tư gia thành điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo. Do đó đòi hỏi công tác QLNN đối với
hoạt động của Công giáo phải sâu sát, chặt chẽ hơn nữa.
3.1.2.4. Đối với hoạt động của đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới
Tại Quế Sơn, đối với Đạo Tin lành đến nay chưa phát hiện hoạt động lợi dụng
đạo Tin lành nhằm truyền bá để công kích, chống Đảng, Nhà nước, gây mất ANCT,
trật tự ATXH, gây ảnh hưởng xấu đến khối đại đoàn kết dân, đoàn kết tôn giáo.
Nhưng trong 06 điểm nhóm mới chỉ được công nhận 03 (Nhóm Tin lành Trưởng lão
71
Liên hiệp Việt Nam sinh hoạt tại Tổ Dân phố Cang tây, Nhóm Tin lành Trưởng lão
Liên hiệp Việt Nam sinh hoạt tại TDP Mỹ Đông- thị trấn Đông Phú và nhóm Tin
lành MNVN sinh hoạt tại xã Hương An) và 03 điểm nhóm chưa được công nhận (
Nhóm Liên hữu Cơ đốc tại Quế Thuận); nhóm phái Ngũ tuần tại xã Quế An và xã
Quế Phong). Vào các dịp Lễ trọng như Lễ giáng sinh (Noel), Lễ Phục sinh…các tín
đồ thường liên kết với nhau để tổ chức sinh hoạt. Tuy nhiên, thời gian qua vẫn nổi
lên một số vấn đề cần quan tâm đó là: Tình trạng lợi dụng sinh hoạt đạo để truyền
đạo Tin lành trái pháp luật vẫn còn; việc sinh hoạt đạo của các điểm nhóm Hệ phái
Tin lành tư gia, tín đồ phụ thuộc vào ý chí người đứng đầu, khi người đứng đầu tin
theo một Hệ phái khác (do không phù hợp giáo lý và thiếu nguồn tài trợ thì người
đứng đầu thay đổi hệ phái, trong đó có cả những hệ phái chưa được công nhận; bên
cạnh đó do mâu thuẫn trong quá trình sinh hoạt, một số tín đồ bỏ điểm nhóm về
sinh hoạt tại tư gia, dẫn đến số lượng Tin lành trong từng hệ phái thường xuyên biến
động. Một điều cần phải quan tâm đến đó là do khó khăn trong việc xin đất để xây
dựng cơ sở thờ tự, các hệ phái Tin lành đã biến tướng bằng cách cho một tín đồ
đứng tên mua đất, xin phép xây dựng nhà ở có kiến trúc như nhà thờ, rồi hợp thức
hóa việc thuê mượn nhà ở để làm điểm sinh hoạt nhóm, như: Điểm Nhóm Tin Lành
Hương An, Điểm nhóm Tin lành tại Thị Trấn Đông Phú,..Bên cạnh đó đạo Tin lành
đã gây nên những xáo trộn trong sinh hoạt của nhân dân, làm chia rẽ, mất đoàn kết,
ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự địa phương. Tôn giáo này trở thành vấn đề
cấp thiết và lâu dài mà công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải quan tâm
giải quyết triệt để.
Điều quan trọng nữa là một số cơ sở tôn giáo thiếu hợp tác với chính quyền
địa phương trong việc xử lý vi phạm do cơi nới, mở rộng diện tích trái phép và một
số cơ sở tôn giáo chưa quan tâm đến việc lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất
theo quy định. Bên cạnh đó xuất hiện tình trạng một số tín đồ tôn giáo (Tin Lành,
Công giáo vì lý do không thể đến cơ sở tôn giáo để sinh hoạt mà tụ tập khoảng 20-
30 người để sinh hoạt tôn giáo, qua tìm hiểu mục đích chính là tụ tập để sinh hoạt
72
tôn giáo thuần túy (cầu nguyện điềm lành cho gia đình đó), nhưng phần nào cũng đã
ảnh hưởng đến trật tự ở địa phương.
Ngoài ra trên địa bàn xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới, đều không rõ đối
tượng cầm đầu, không có kinh sách riêng, không có trụ sở để tổ chức truyền giáo,
chủ yếu tuyên truyền mê tín. Người theo các hiện tượng tôn giáo mới chủ yếu có
hoàn cảnh đặc biệt, thuộc tầng lớp yếu thế trong xã hội. Trước tình hình đó, các cấp,
các ngành trên địa bàn đã quan tâm và ngăn chặn xử lý kịp thời các hiện tượng tôn
giáo mới ở trên địa bàn. Lực lượng Công an huyện Quế Sơn làm tốt công tác nắm
tình hình, đánh giá đúng tính chất mức độ, phạm vi hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới.
Ngoài các tôn giáo nêu trên, trên địa bàn huyện Quế Sơn xuất hiện các hiện
tượng mê tín dị đoan, ứng đồng bốc thuốc chữa bệnh như hộ ông Hồ Tấn Tuyết và
bà Đinh Thị Kiều Thu tại thôn Thắng Đông 2 xã Quế An, Hộ bà Phan Thị Mai ở
Thôn Tam Hòa, Thị trấn Đông Phú,… vẫn lén lút hoạt động. Do đó, đòi hỏi các cơ
quan QLNN về tôn giáo cần phải phát huy tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc việc thực hiện
chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn
Thứ nhất, Để kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo, công tác
QLNN đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo hàng năm của cấp ủy, chính
quyền có giá trị thực tiễn và đạt hiệu quả trong quá trình quản lý thì việc xây dựng
kế hoạch phải có định hướng cụ thể rõ ràng và căn cứ vào tình hình thực tế để xây
dựng kế hoạch một cách chi tiết, có tính khả thi, như: Để giải quyết tốt công tác
QLNN về đất đai tôn giáo huyện cần chỉ đạo Phòng Tài nguyên -Môi trường phối
hợp với UBND các xã, thị trấn khi lập Kế hoạch sử dụng đất tổng thể nên căn cứ
tình hình tôn giáo, số lượng tín đồ cũng như nhu cầu sử dụng đất của từng cơ sở ở
địa bàn để tính toán bố trí hay để dành quỹ đất tôn giáo sao cho hợp lý. Hay để triển
khai thực hiện Đề án cốt cán tôn giáo của huyện và 14 xã, thị trấn trên địa bàn
huyện thì cấp chính quyền huyện cần đề nghị HĐND tỉnh cần có nghị quyết bố trí
73
kinh phí đối với công tác tôn giáo; bởi đề án này được xây dựng từ năm 2014 nhưng
đến nay chưa có kinh phí thực hiện. Hay như để thực hiện tốt chính sách phát triển
đảng viên là người có đạo theo chủ trương của Đảng, Nhà nước cần theo dõi, phát
hiện những quần chúng ưu tú là người có đạo để tạo nguồn phát triển đảng viên,
đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và đúng quy định.
Thứ hai, Cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo một cách thường xuyên, đồng bộ và sâu rộng trong các tầng
lớp nhân dân. Hằng năm mở lớp phổ biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo, ban chỉ đạo cong tác tôn giáo
các cấp, cán bộ Mặt trận, đoàn thể, 73 cốt cán trong các tôn giáo của các cấp trên
địa bàn, tiếp đến là cho đội ngũ chức việc, người tu hành và đồng bào có đạo ở địa
phương. Trong quá trình phổ biến, tuyên truyền, nên đa dạng hóa các hình thức
tuyên tuyền, ngoài tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề về công tác tôn giáo cần
vận dụng linh hoạt trong các cuộc họp dân tại các khu dân cư, tổ dân phố trên địa
bàn, trên phương tiện thông tin đại chúng các cấp (truyền thanh xã, phát thanh và
truyền hình huyện; qua các cuộc thi tìm tiểu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo),..
Đồng thời trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo phải xác định nội dung cốt lõi
của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, do đó cần đẩy mạnh công
tác vận động chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước; sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật; cần tổ
chức thực hiện tốt Đề án “Tăng cường vận động, đoàn kết các tôn giáo” trên địa bàn
huyện Quế Sơn đã được xây dựng trong năm 2019 và tổ chức gặp mặt chức sắc,
chức việc hàng năm, nhằm tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền với tổ
chức, cá nhân tôn giáo trên địa bàn.
Thứ ba, Để thực hiện tốt công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách
tôn giáo: Các cấp chính quyền cần xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể, xác định rõ
trách nhiệm của các ban, ngành, từng đoàn thể, chống sự đùn đẩy, né tránh trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Cần xây dựng chi tiết cơ chế phối hợp đồng bộ
trong công tác tôn giáo giữa các cơ quan hợp thành hệ thống chính trị, hạn chế tình
74
trạng khoán trắng, chồng chéo, lấn sân. Trong quá thực hiện cần có những quy định
cụ thể về chính sách, pháp luật nhằm để làm cơ sở cho sự phối hợp trong giải quyết
các vấn đề tôn giáo có sự thống nhất giữa các cấp, các ngành trong hệ thống chính
trị. Cần quy định rõ về quyền hạn, trách nhiệm chính của mỗi cơ quan, đơn vị, qua
đó nâng cao trách nhiệm của mỗi đơn vị về công tác ton giáo. Trong quá trình thực
hiện cần quy định cả yếu tố thời gian, nhất là khi giải quyết các vụ việc cụ thể, tránh
tình trạng mất quá nhiều thời gian để tạo ra sự phối hợp thống nhất, hiệu quả.
Thứ tư, Từ huyện đến 14 xã, thị trấn cần bố trí cán bộ chuyên trách làm
công tác tôn giáo, trước tiên là bố trí cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo tại
huyện - thuộc Phòng Nội vụ huyện quản lý, sau đó bố trí tại những xã có cơ sở tôn
giáo. Để làm điều đó, trong thời gian tới cần quy hoạch cử một số cán bộ có năng
lực, kinh nghiệm trong công tác QLNN về tôn giáo, hay những đồng chí có triển
vọng thực hiện tốt công tác này tham gia học tập lớp cử nhân tôn giáo do Học viện
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội để nâng cao trình độ nhằm đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Điều này là rất cần thiết, bởi hiện nay số
lượng chức sắc, chức việc trong các tổ chức tôn giáo ngày tăng, họ được đào tạo bài
bản, tham gia học tập chuyên ngành nên trình độ lý luận cao.
Thứ năm, Để duy trì chính sách tôn giáo, trong quá trình tổ chức thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên trên
địa bàn huyện được phân công phụ trách công tác tôn giáo cần nắm tình hình tôn
giáo ở cơ sở một cách kịp thời và chính xác để từ đó tham mưu cấp ủy Đảng, chính
quyền định hướng cho các cơ quan chức năng xem xét giải quyết những phát sinh
trong công tác tôn giáo đạt hiểu quả, đúng quy định của pháp luật theo chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo là tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tôn giáo của công dân, không để phát sinh điểm nóng liên quan đến
công tác tôn giáo.
Trong công tác tôn giáo phải chú trọng đến lực lượng chức sắc, chức việc
của các tổ chức tôn giáo, phải biết vận dụng lực lượng này, bởi họ là những người
75
truyền đạo rất có uy tín do đó có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến với tín đồ tôn
giáo, trong khi chủ trương, chính sách tôn giáo của ta ban hành nhiều người không
nắm hết. Do đó, phải có kế hoạch chủ động phối hợp giữa các cấp, các ngành, các
đoàn thể quần chúng phải tranh thủ lực lượng chức sắc, nhà tu hành vận động bào
có đạo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, qua
đó để họ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Bởi thực tế cho thấy nếu đáp ứng
những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của đồng bào có đạo sẽ tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo,
đồng thời kiên quyết chống các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện cần phát huy hơn nữa tinh thần trách
nhiệm của từng thành viên BCĐ công tác tôn giáo huyện, thường xuyên theo dõi,
nắm bắt tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo tại địa bàn, lĩnh vực được phân công
phụ trách; khi phát hiện báo cáo về cấp trên kịp thời, không để nảy sinh thành điểm
nóng liên quan đến công tác tôn giáo. Đối với thành viên BCĐ công tác tôn giáo cấp
xã phải thường xuyên đến thăm hỏi, chúc mừng các chức sắc, chức việc tôn giáo
nhân các ngày lễ trọng của đất nước nói chung và của từng tổ chức tôn giáo nói
riêng nhằm tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cán bộ, công chức Nhà nước
với nhà tu hành. Đồng thời, huyện cần đẩy mạnh việc chỉ đạo các ngành chức năng
của huyện cùng cấp xã tăng cường nắm tình hình hoạt động tôn giáo của các chức
sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, nhất là những địa bàn trọng điểm; gặp gỡ trao
đổi thông tin, nắm bắt kịp thời tâm tư cũng như nguyện vọng chính đáng của tổ
chức, cá nhân tôn giáo như: nhu cầu xây mới, mở rộng, tu bổ cơ sở tôn giáo, thuyên
chuyển, bổ nhiệm, thẩm tra tư cách công dân của tu sĩ,...
Thứ sáu: Cần củng cố, kiện toàn lực lượng cốt cán phong trào trong các tổ
chức tôn giáo của cả hệ thống chính trị trên địa bàn huyện và thường xuyên mở các
lớp bồi dưỡng, tập huấn cho lực lượng này. Bởi đây là lực lượng được xem như là
cánh tay nối dài của Đảng, là lực lượng trực tiếp theo dõi, nắm tình hình hoạt động
của các tổ chức, cá nhân trong các tôn giáo trên địa bàn cũng là lực lượng tham gia
vận động các tổ chức, cá nhân cùng tín đồ tôn giáo sinh hoạt đạo theo Hiến chương,
76
Giáo lý, Giáo luật của từng tổ chức tôn giáo. Phải đến thăm hỏi, động viên, giúp đỡ
đối với những cốt cán gặp khó khăn trong cuộc sống, quan tâm giúp đỡ họ, tạo điều
kiện cho họ vay vốn để đầu tư sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, vươn lên
làm giàu chính đáng; đối với những cốt cán hoàn thành tốt nhiệm vụ nên biểu
dương, khen thưởng kịp thời. Đối với cốt cán không hoàn thành nhiệm vụ nên đưa
ra khỏi Đề án.
Thứ bảy, Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác tôn giáo
tại các địa phương, nhất là công tác quản lý đất đai liên quan đến công tác tôn giáo;
trước mắt cần tập trung giải quyết công tác đất đai tại một số cơ sở tôn giáo còn tồn
đọng, kéo dài trong những năm qua.
Cuối cùng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ
chức, cá nhân tôn giáo phát huy những giá trị đạo đức, nhân văn cao cả của tôn
giáo; tích cực tham gia công tác nhân đạo từ thiện nhưng phải đảm bảo theo quy
định của pháp luật, nhằm giúp đỡ những tín đồ tôn giáo nói riêng và những người
dân nói chung có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Qua đó góp phần đáng kể
cùng với cấp ủy, chính quyền giải quyết tốt chính sách an sinh xã hội trên địa bàn
huyện, nhằm xây dựng quê hương giàu đẹp.
Tiểu kết Chương 3
Đối với chương này học viên đã đặt ra những vấn đề có tính cấp thiết trên cơ
sở đánh giá những hạn chế, tồn tại trong tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo ở địa
phương như về phía chính quyền và từ các tổ chức tôn giáo trên địa bàn huyện trong
những năm qua; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có
hiệu quả chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện trong thời gian đến. Trong các giải
pháp mà học viên đề xuất đều quan trọng, nhằm làm tốt việc thực hiện chính sách
tôn giáo tại huyện, trong đó giải pháp mang nội dung tuyên truyền, vận động thực
hiện chính sách tôn giáo và giải pháp giải quyết công tác đất đai về tôn giáo được
nhấn mạnh.
77
78
KẾT LUẬN
Trên cơ sở lý luận về quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo Đảng và Nhà nước
ta luôn coi trọng chính sách tôn giáo, xem chính sách tôn giáo là chính sách có tính
chiến lược và có ý nghĩa quan trọng trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Chính sách
tôn giáo ở nước ta được thể hiện qua quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật và các văn bản quy định liên quan đến tôn giáo, hoạt động tôn
giáo của Nhà nước; chính sách này được quán triệt và thực hiện nhất quán đối với
từng cấp trong phạm vi cả nước. Song, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở mỗi địa
phương lại khác nhau nhất định, chưa được đồng bộ, do tác động của nhiều yếu tố
khác nhau như tùy thuộc vào điều kiện KT-XH, chủ thể và khách thể trong thực
hiện. Thực hiện chính sách tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược
quyết định sự thành công của chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Qua đó đã
đặt ra nhiệm vụ là phải làm sao để mối quan hệ giữa chính quyền các cấp với các tổ
chức, cá nhân tôn giáo được hài hòa, nhằm thực hiện tốt cho quá trình hội nhập và
đổi mới của đất nước, vừa đảm bảo quyền tự do tôn giáo của một bộ phận nhân dân;
đồng thời qua đó sẽ ngăn ngừa, đẩy lùi những hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo
của các thể lực thù địch chính trị làm ảnh hưởng ANQG, xâm hại danh dự đất nước
trong tình hình hiện nay.
Huyện Quế Sơn là một trong những huyện gần như là trung tâm của tỉnh với
hệ thống giao thông đa dạng. Đây nơi hội tụ đầy đủ các tôn giáo lớn như: Phật giáo,
Tin Lành, Công giáo, Cao đài, BaHa’i,..Tính đến thời điểm hiện nay tổng số tín đồ
các tôn giáo trên địa bàn huyện là 4.286 người, chiếm khoảng 5,2% tổng dân số
toàn huyện. Với số lượng tín đồ các tôn giáo như vậy, trong những năm qua, các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo nói chung và từng tổ chức
tôn giáo cụ thể nói riêng được các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trên địa bàn
huyện quan tâm, chú trọng. Công tác quán triệt và triển khai thực hiện chính sách,
pháp luật của Nhà nước nói chung và thực hiện chính sách tôn giáo nói riêng đã đạt
79
được những kết quả đáng khích lệ. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
về tôn giáo, nhất là Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã được chính quyền triển khai thực
hiện. Chính quyền các cấp cũng như các ngành chức năng của huyện chú trọng công
tác phổ biến tuyên truyền, phân công phối hợp; ban hành nhiều đề án, dự án phát
triển kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triể KT-XH; Mặt trận, đoàn thể các cấp
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chính sách,
pháp luật của Nhà nước; chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo
thực tốt phương châm “Sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực tham gia các phong trào thi
đua yêu nước. Qua đó góp phần thực tốt nhiệm vụ phát triển nhiệm vụ phát triển
KT-XH, giữ vững ANCT, trật tự ATXH ở địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt
được, trong quá trình thực hiện chính tôn giáo trên địa bàn huyện vẫn còn những
hạn chế từ phía chính quyền, đồng thời cũng có những khó khăn thách thức không
nhỏ từ phía các tổ chức tôn giáo.
Phân tích thực trạng các bước thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện
cho thấy: Thứ nhất, việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chủ trương, chính
sách tôn giáo, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo nhìn chung đã đạt
được những kết quả quan trọng nhưng đôi khi hiệu quả đạt được chưa cao, có lúc
chưa kịp thời và đồng bộ, có lúc còn chung chung chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn trong công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Thứ hai,
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo đôi lúc chưa thường xuyên,
chưa sát đối tượng. Thứ ba, Trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính
sách tôn giáo có lúc phối hợp cứng nhắc, thiếu linh hoạt, còn mang tính hình thức,
khi xảy ra vụ việc còn đẩy trách nhiệm cho nhau. Thứ tư, Để chính sách tôn giáo
sách được duy trì, các cơ quan QLNN về tôn giáo đã quan tâm, tạo điều kiện cho
các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động nhưng phải trên tinh thần thượng tôn pháp
luật. Thứ năm, Công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo
có lúc chưa chủ động. Thứ sáu, Trong công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
80
thực hiện chính sách tôn giáo chưa chủ động, chủ yếu tổ chức theo sự chỉ đạo của
Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và BTG tỉnh.
Thực tế tình hình tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay đang có chiều hướng
phát triển, số lượng tín đồ tôn giáo ngày càng tăng, xuất hiện ngày càng nhiều các
trường hợp vi phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo.
Để khắc phục những vấn đề trên, tôi đã đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn trong thời gian
đến, những giải pháp này được đúc rút từ việc quán triệt chủ trương, đường lối,
chính sách của Ðảng và Nhà nước, của Ðảng bộ, chính quyền địa phương về
phương hướng thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện. Các giải pháp tạo
thành một hệ thống, từ việc hoàn thiện khuôn khổ cơ chế, chính sách đến tổ chức
triển khai, phối hợp thực hiện.
Thông qua kết quả nghiên cứu của Luận văn, tác giả mong muốn từ thực tiễn
được trình bày trong Luận văn phần nào có những đóng góp giúp cho công tác
nghiên cứu cũng như lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn việc thực hiện chính sách tôn giáo
địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2015) Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Quảng Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt 3.1.2.2. Nam, (1990), Nghị
quyết số 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới, Lưu hành nội bộ.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (1998), Chỉ thị số 37 -
CT/TW ngày 02/07/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Lưu hành
nội bộ.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (2003), Nghị quyết số
25 - NQ/TW Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa
IX, về công tác tôn giáo, Lưu hành nội bộ.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (2009), Công văn số
57 - KL/TW ngày 03 tháng 11 năm 2009 của Ban Chấp hành TW Đảng Cộng
sản Việt Nam về Kết luận của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng Khóa IX về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo, Lưu hành nội bộ.
6. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) (2018) Chỉ thị 18-CT/TW về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Lưu hành nội bộ.
7. Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24/TW, (1998), Báo cáo tổng kết việc thực
hiện Nghị quyết số 24 NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) về tăng cường công
tác tôn giáo trong tình hình mới; Phương hướng công tác tôn giáo thời kỳ
mới, Lưu hành nội bộ.
8. Ban Tôn giáo Chính phủ, (2012), Tài liệu hướng dẫn thực hiện Nghị định số
92/2012/NĐ - CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Lưu hành nội bộ.
9. Ban Tôn giáo Chính phủ, (1995), Các văn bản của nhà nước về hoạt động tôn
giáo, Nxb Tôn giáo.
10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Tôn giáo.
11. Ban Tôn giáo Chính phủ, (2012), Tài liệu hướng dẫn thực hiện Nghị định số
92/2012/NĐ - CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Lưu hành nội bộ.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quế Sơn (2018) Báo cáo tổng kết 15 thực hiện
Nghi quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác
tôn giá’ báo cáo; báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Thông báo số 148-
TB/TW, ngày 04-4-2008 của Bộ Chính trị về việc giải quyết nhà, đất liên quan
đến tôn giáo; báo cáo 05 năm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 05-01-
2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chủ trương, giải pháp giải quyết
vấn đề hoạt động phục hồi “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; Lưu trữ
tại Văn phòng Huyện ủy Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
13. Ban Chỉ đạo Công tác Tôn giáo huyện Quế Sơn, Báo cáo tổng kết công tác tôn
giáo năm:,2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Ban Dân vận Huyển
ủy Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
14. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết
công tác xây dựng Đảng năm 2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại
Văn phòng Huyện ủy, Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.
15. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Uỷ ban nhân dân huyện Quế Sơn tỉnh
Quảng Nam: 2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Văn phòng Ủy ban
nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
16. Báo cáo tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo năm
2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn.
17. Chính Phủ, (2005), Nghị định số 22/2005/NĐ - CP về Hướng dẫn thi hành một
số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.
18. Chính Phủ, (2013), Nghị định số 92/2012/NĐ - CP về Quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.
19. Chính phủ (2017)Nghị định số 162/2012/NĐ - CP về quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
20. Chính phủ, (2016) Luật tín ngưỡng, tôn giáo và hỏi đáp. NXB Chính trị quốc
gia sự thật.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành TW khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bày Ban Chấp
hành TW khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Đỗ Quang Hưng (2008) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam về lý luận
và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội;
27. Đỗ Quang Hưng (2009), Vấn đề Tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội;
28. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội;
29. Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước-Tôn giáo -Pháp luật, Nxb Công an Nhân
dân, Hà Nội;
30. Đỗ Quang Hưng (2015), Quan hệ Nhà nước – Giáo hội và chính sách tôn giáo,
Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội,...
31. Hội đồng lý luận Trung ương và Viện Hàn lâm KHXH VN – Viện Nghiên cứu
Tôn giáo tổ chức tháng 11 năm 2018: báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị
quyết số 25 của các tỉnh, thành ủy. Dẫn theo Bùi Thanh Hà, Định hướng phát
huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học:
Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước hiện nay.
32. Lênin. Toàn tập, (1977) t.37. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Tào Gia Cát Linh (2016) thực hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện Khoa học xã hội, Hà
Nội.
34. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
35. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
36. Lê Hữu Nghĩa và PGS, TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Ban Tôn giáo Chính phủ.
37. Hoàng Văn Nghĩa, (2013). Hội thảo khoa học - tôn giáo và nhà nước pháp
quyền XHCN, Tài liệu tham khảo, Ban Tôn giáo Chính phủ.
38. Nguyễn Thị Thu Oanh (2019) thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên
hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện Khoa học xã hội, Hà
Nội.
39. Lê Ngọc Sĩ (2014) Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
huyện đảo Phú Quốc - Kiên Giang hiện nay, luận văn thạc sĩ Tôn giáo học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
40. Từ điển Tiếng Việt (1995), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Ngô Hữu Thảo (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ