VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THÁI THỊ THÚY LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THÁI THỊ THÚY LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VŨ THỊ THU HÀ

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công với nội

dung “Thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng

Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Quảng Nam, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Thái Thị Thúy Lan

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình dự thảo và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự

giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và quý báu của thầy cô giáo, các đồng nghiệp, quý cơ

quan chuyên môn liên quan cũng với sự động viên, cổ vũ của gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp.

Tôi rất chân thành cảm ơn đến các giảng viên Học viện Khoa học Xã hội đã

giảng dạy, cung cấp cho bản thân tôi những phương pháp nghiên cứu khoa học,

những cách nhìn về thế giới quan, nhân sinh quan một cách khoa học. Từ đó rất

giúp ích cho bản thân trong công tác cũng như đề xuất những chủ trương chính sách

cho các cấp, các ngành.

Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Vũ Thị Thu Hà, cô giáo

hướng dẫn tận tình và chu đáo, cũng như giúp cho tôi được hoàn thiện luận văn này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo

Huyện ủy, Ban Dân vận Huyện ủy Quế Sơn cũng như sự giúp đỡ, cung cấp các lài

liệu liên quan đến đề tài này của Văn phòng Huyện ủy, Phòng Nội vụ, Công an

huyện,....huyện.

Với năng lực của bản thân và thời gian có hạn, luận văn của tôi chắc chắn

sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong nhận được sự cảm thông

chia sẽ cũng như sự góp ý quý báu của quý thầy cô Học viện để tôi có thể an tâm

tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện hơn.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO; CÁC

NHÂN TỔ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG

NAM ................................................................................................................ 11

1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 11

1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM .......................... 40

2.1. Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay ................ 40

2.2. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân ............................................................ 59

CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở

HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN ĐẾN ......... 66

3.1. Vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn,

tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................ 66

3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc việc thực hiện chính sách

tôn giáo ở huyện Quế Sơn ......................................................................................... 73

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ

ANQG An ninh quốc gia 1

2 ANCT An ninh chính trị

3 ATXH An toàn xã hội

4 AL Âm lịch

5 BCH Ban Chấp hành

6 BCT Bộ Chính trị

7 BBT Ban Bí thư

8 BTG Ban Tôn giáo

9 BCĐ Ban chỉ đạo

10 BTV Ban Thường vụ

11 CT-XH Chính trị - xã hội

12 ĐT Đường tỉnh

13 GHPG Giáo hội Phật giáo

14 HĐND Hội đồng nhân dân

15 QLNN Quản lý nhà nước

16 QSD Quyền sử dụng

17 TC-KH Tài chính - Kế hoạch

18 Tiến sỹ Tiến sỹ

19 UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

1.1 Bảng thống kê các tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay 30

Bảng thống kê số lượng cơ sở, điểm nhóm và chức sắc, chức việc

1.2 31 của các tổ chức tôn giáo

Sự phân bố của các cơ sở, điểm nhóm tôn giáo được Nhà

1.3 33 nước công nhận

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu Tên hình Trang hình

1.1 Biểu đồ các tôn giáo ở Quế Sơn 30

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, ra đời từ rất lâu và tồn tại gắn liền với lịch

sử xã hội loài người. Để tồn tại và phát triển tôn giáo luôn hoàn thiện và biến đổi

thích ứng cùng với sự phát triển của các mối quan hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa -

xã hội và đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ thiết

chế chính trị đến pháp luật, từ văn hóa đến đạo đức, lối sống của con người đến sự

tăng trưởng kinh tế; từ các quan điểm triết học, về nhận định thế giới đến những

ứng xử và phong tục, tập quán của nhiều nước, tộc người trên thế giới và nước ta

cũng không ngoại lệ.

Theo số liệu thống kê của BTG Chính phủ tính đến tháng 6 năm 2017, Việt

Nam có 27% dân số theo tôn giáo với 25,3 triệu tín đồ, trong đó có gần 200.000

chức sắc, chức việc. Tôn giáo ở Việt Nam 15 năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh

chóng. So với số liệu thống kê năm 2003, cả nước có khoảng 18 triệu tín đồ, 34.181

chức sắc, 78.913 chức việc, 20.929 cơ sở thờ tự tôn giáo, thì hiện nay số lượng tín

đồ đã tăng 35%, số lượng chức sắc, chức việc tăng 70%, số lượng cơ sở tôn giáo

tăng 33%.

Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử của đất nước do tác động của nhiều yếu

tố, nguyên nhân khác nhau mà tôn giáo có lúc trở thành điểm nóng, phức tạp gây

mất ổn định ANCT tại một số địa phương trong cả nước, nhất là giai đoạn hiện nay

trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì bên cạnh thời cơ, thuận lợi

cũng gặp những hạn chế, thách thức nhất định. Do đó công tác QLNN, thực hiện

chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng gặp không ít khó khăn.

Cũng như các địa bàn trong tỉnh Quảng Nam nói riêng, cả nước nói chung

trong những năm gần đây tôn giáo ở huyện ngày càng phát triển, các tôn giáo đều

có xu hướng mở rộng, nâng cao vị thế của mình, tín đồ các tôn giáo ngày càng tăng

lên hằng năm, trong đó nhiều nhất là đạo Phật. Trên cơ sở xác định là chính sách

quan trọng, nhaỵ cảm, dễ bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, kích

1

động nên trong quá trình lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các cấp ủy đảng,

chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể CT-XH cũng như các ban, ngành trong hệ

thống chính trị trên địa bàn Quế Sơn đã quan tâm đến công tác tôn giáo; trong quá

trình tổ chức triển khai thực hiện luôn đảm bảo theo chủ trương của Đảng, chính

sách của Nhà nước và sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh cùng các ngành chức

năng của tỉnh Quảng Nam về công tác tôn giáo. Đến nay đã đạt được những kết quả

tích cực, quan trọng trên các mặt về công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách,

quản lý hoạt động của các tôn giáo, công tác sơ, tổng kết, kiểm tra, giám sát,...qua

đó quyền tự do tôn giáo của công dân được phát huy; tín đồ, chức sắc tôn giáo tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào xã hội

ở địa phương.

Song, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tôn giáo trên địa bàn huyện

Quế Sơn vẫn còn những hạn chế nhất định đó là: công tác tuyên truyền chưa thường

xuyên nên nhận thức của một vài cấp ủy, chính quyền, một số cơ quan, ban ngành

cũng như một bộ phận cán bộ, đảng viên đối với công tác tôn giáo chưa đảm bảo

theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Nhà

nước; công tác quản lý đất đai liên quan đến tôn giáo còn nhiều bất cập, trong quá

trình thực thi có lúc chýa ðúng theo quy ðịnh; sự phối hợp giữa các ban, ngành,

ðoàn thể trong việc giải quyết các vấn ðề liên quan ðến tôn giáo có lúc chýa ðồng

bộ; bên cạnh ðó nhận thức của một bộ phận chức sắc, chức việc, tín ðồ của một số

tôn giáo còn hạn chế, thiếu hợp tác với cơ quan QLNN về công tác đất đai liên quan

đến tôn giáo,...

Là nhóm chính sách nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng gây mất ổn

định CT-XH, xuất phát từ vị trí làm việc của bản thân là chuyên viên công tác tại

Ban Dân vận Huyện ủy huyện Quế Sơn-một cơ quan Thường trực của BCĐ công

tác tôn giáo của huyện có chức năng tham mưu Huyện ủy lãnh đạo, chỉ đạo triển

khai thực hiện công tác tôn giáo trên toàn huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình

thực tế việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo tại địa phương trong những năm

qua, tôi nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách tôn giáo nếu chính sách này

2

được triển khai thực hiện tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy sự ổn định xã hội và ngược lại.

Tuy nhiên, cho đến nay tại huyện Quế Sơn chưa có công trình nào nghiên cứu về

việc thực hiện chính sách tôn giáo. Do đó, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách

tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài Luận văn cao

học chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu

Qua tìm hiểu, cho đến nay có khá nhiều công trình trực tiếp hay gián tiếp của

các nhà khoa học, học giả ngoài nước cũng như trong nước đã đầu tư nghiên cứu, đề

cập đến nhiều khía cạnh, vấn đề khác nhau về lĩnh vực tôn giáo: về quan điểm, lý

luận về tôn giáo; công tác tôn giáo; về chính sách, thực hiện chính sách và công tác

QLNN về tôn giáo trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với luận văn

này bản thân xin nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu lý luận về tôn giáo,

chính sách tôn giáo, mối quan hệ giữa chính trị với tôn giáo như: Ngô Hữu Thảo

(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc

tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay, đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Lê Hữu

Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác

tôn giáo, NXB Ban Tôn giáo Chính phủ; Đỗ Quang Hưng (2008) Vấn đề tôn giáo

trong cách mạng Việt Nam về lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội;

Đỗ Quang Hưng (2009), Vấn đề Tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, NXB Lý luận

Chính trị, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp

quyền, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước-Tôn

giáo- Pháp luật, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2015), Quan hệ

Nhà nước - Giáo hội và chính sách tôn giáo, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội,...

Đối với công trình nghiên cứu về thực hiện chính sách tôn giáo bản thân đã

tham khảo luận văn của các tác giả như: Tào Gia Cát Linh (2016) thực hiện chính

sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ Chính sách Công,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Thu Oanh (2019) thực hiện chính

3

sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội. Đối với công trình nghiên cứu công tác QLNN về tôn

giáo bản thân đã tham khảo các luận văn của các tác giả như: Lê Ngọc Sĩ (2014)

Công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện đảo Phú Quốc - Kiên Giang

hiện nay, luận văn thạc sĩ Tôn giáo học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội; Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2015) QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở tỉnh

Quảng Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội v.v...

Qua tìm hiểu từng công trình nghiên cứu về công tác tôn giáo sẽ thấy được ý

nghĩa, giá trị to lớn của từng công trình, các nhận định, đánh giá ở mỗi công trình

nghiên cứu sẽ được bản thân nghiên cứu, học hỏi, chọn lọc, tiếp thu - là tài liệu hữu

ích tham khảo khi làm luận văn này.

Đối với tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo

của Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003) đã cho thấy Hồ Chí Minh là người

cán bộ mẫu mực, không những giỏi về nghệ thuật quản lý mà còn giỏi về công tác

vận động quần chúng, trong đó có đồng bào theo đạo; người đã chỉ ra những

phương thức vận động quần chúng rất nhạy bén, linh hoạt trước biến động của thực

tiễn; với chính sách này Người đã vận động đông đảo tín đồ trong các tôn giáo cùng

các tầng lớp nhân dân trong cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc

và thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh khi vận dụng tư tưởng về tôn giáo

và công tác tôn giáo của Người trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây

dựng đất nước. Hiện nay trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

không chỉ riêng huyện Quế Sơn mà các cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban

ngành ở từng địa phương luôn vận dụng tư tưởng của Bác để vận động các tổ chức,

cá nhân tôn giáo sinh hoạt tôn giáo theo Giáo lý, Giáo luật của từng tôn giáo và theo

quy định của pháp luật.

Đối với công trình nghiên cứu về Nhà nước, Tôn giáo, Luật pháp của Đỗ

Quang Hưng, nội dung công trình của tác giả gồm có 3 phần, phần 1 tác giả đã nêu

4

lên Mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội; phần 2 là tôn giáo, phần 3 là Luật pháp

và tôn giáo. Đây là một công trình vô cùng quí giá, tác giả Luận văn tham khảo

nghiên cứu nhằm không chỉ nắm bắt cụ thể về phần nội dung và đặc điểm đời sống

tôn giáo, về mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo mà còn ở chỗ công trình này

tác giả đã khái quát hóa lộ trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, luật pháp về tôn

giáo của Nhà nước Việt Nam trong quá trình nỗ lực hướng tới một môi trường thích

hợp để các cộng đồng tôn giáo không những thực hiện tốt chính sách, pháp luật của

Nhà nước với tư cách như một tổ chức, một công dân bình thường mà còn thông

qua luật pháp về tôn giáo có thể tìm thấy sự thỏa mãn, đáp ứng được nhu cầu đời

sống tâm linh của người có đạo; đồng thời công trình đã gợi mở những suy ngẫm,

đề xuất đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền về tôn giáo ở nước ta hiện

nay.

Công trình Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam về lý luận và thực

tiễn của tác giả Đỗ Quang Hưng xuất bản năm 2008 cho thấy đây là một công trình

nghiên cứu về quan điểm, chủ trương cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước

ta về vấn đề tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam có tính tổng

hợp và toàn diện nhất. Cuốn sách tác giả đã giới thiệu về bối cảnh quốc tế, vấn đề

tôn giáo ở Việt Nam, Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo

cũng như quá trình nhận thức, phát triển quan điểm, đường lối về tôn giáo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo ở

Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất cần thiết đối với luận văn, nó giúp

cho bản thân nắm bắt tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước về tôn giáo và thực tiễn về thực hiện chính sách tôn giáo; đồng thời công

trình này cũng đã chỉ ra những bất cập và đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn

thiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua.

Đối với công trình QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Nam

hiện nay (2015), luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Ánh đã phân tích lý luận về tôn giáo,

quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo, khái quát lịch sử hình

5

thành và phát triển của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; đồng thời tác giả

đã nêu lên thực trạng công tác QLNN về tôn giáo ở Quảng Nam, trên cở sở đó đã đề

ra những giải pháp thiết thực, sát thực tiễn nhằm thực hiện tốt công tác QLNN về

tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến. Qua tìm hiểu công trình này bản thân

nắm được đặc điểm hình thành và phát triển của từng tôn giáo cũng như thực trạng

hoạt động của nó trên địa bàn tỉnh, trong đó có Quế Sơn, để từ đó có nhận định

chính xác trên cơ sở đố tham mưu cấp ủy, chính quyền huyện nhà đề ra các giải

pháp hữu hiệu nhằm tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện trong

thời gian đến đạt những kết quả quan trọng hơn.

Đối với công trình Thực hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà

Nẵng của Tào Gia Cát Linh (2016), tác giả đã nêu những vấn đề về lý luận về chính

sách tôn giáo, thực trạng công tác thực hiện chính sách tôn giáo, giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian đến của thŕnh phố. Qua tìm hiểu, bản

thân sẽ tham mưu cấp ủy, chính quyền huyện nhà sẽ có những giải pháp thiết thực

về thực hiện chính sách tôn giáo trong thời gian đến.

Tóm lại, các thông tin cũng như nhận định của những công trình tác giả nêu

trên sẽ được bản thân kế thừa, có chọn lọc cho đề tài luận văn này. Tuy nhiên, cho

đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cũng như phân tích tình hình thực

hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, trong khi việc tổ chức thực

hiện chính sách này gặp không ít khó khăn, hạn chế nhất định. Một số vấn đề liên

quan đến chính sách và thực trạng chính sách tôn giáo mới chỉ được đề cập trong

các báo cáo chuyên đề, báo cáo sơ kết và tổng kết của các ban, ngành, đoàn thể ở

huyện Quế Sơn có liên quan đến công tác tôn giáo như: Phòng Nội vụ, Công an,

Ban Dân vận, Mật trận Tổ quốc và các báo cáo cấp ủy đảng, chính quyền địa

phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

6

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc tổ chức triển khai thực hiện

chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam hiện nay đưa ra một số giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực thi chính sách tôn giáo trên địa bàn

huyện trong thời gian đến.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhằm đạt được các mục đích nêu trên luận văn sẽ tập trung giải quyết các

vấn đề sau:

Một là: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận, quan điểm của Mác-Lê nin,

Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo;

làm rõ thực tiễn liên quan đến việc thực hiện chính sách và đặc điểm của từng tôn

giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Hai là: Luận văn phân tích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo

tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong những năm qua.

- Ba là: Luận văn đề ra phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao

hiệu quả của việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn

tỉnh Quảng Nam trong tình hình mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước ta trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Phạm vi về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu việc tổ chức thực hiện

chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong đó tập trung nghiên

cứu thực trạng của việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở địa

phương trong những năm qua. Tìm hiểu những vấn đề đặt ra hiện nay đồng thời qua

đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm tổ chức thực hiện tốt chính sách tôn giáo

tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

- Phạm vi về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện

chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn giai đoạn từ năm 2013 đến nay.

7

Đây là giai đoạn sau khi chia tách huyện Quế Sơn thành hai huyện: Quế Sơn

và huyện Nông Sơn thì tình hình tôn giáo có những thay đổi nhất định về số lượng

tín đồ cũng như chức sắc, chức việc và cơ sở thờ tự tôn giáo. Bên cạnh đó, trên địa

bàn huyện không còn Phòng tôn giáo (do bị giải thể theo quy định vào năm 2007)

nên không có cán bộ công chức chuyên trách về tôn giáo như trước đây mà chỉ có

cán bộ, chuyên viên Phòng Nội vụ phụ trách công tác tôn giáo (theo quy định).

Phòng tôn giáo - cơ quan chuyên trách về QLNN ở huyện bị giải thể, thay vào đó

BCĐ công tác tôn giáo thuộc Huyện ủy thành lập vào năm 2012 và quản lý về công

tác tôn giáo trên toàn huyện, trong đó về phía Nhà nước phân công Phòng Nội vụ có

trách nhiệm tham mưu UBND huyện triển khai, phổ biến chính sách của Nhà nước

và QLNN về tôn giáo. Đồng thời hiện nay tôn giáo và hoạt động của một số tổ chức

tôn giáo trên địa bàn huyện có một vấn đề cần phải quan tâm đó là: tín đồ tôn giáo

ngày tăng lên, hoạt động của một số cơ sở, tín đồ tôn giáo có biểu hiện trái quy định

của pháp luật vẫn còn, qua đó tiềm ẩn những nguy cơ phức tạp, trong khi đó cấp ủy,

chính quyền một số xã chưa quan tâm, chưa chú trọng đến công tác tôn giáo; công

tác tuyên truyền về các văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo,

nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng còn hạn chế nhất định; chưa có đội ngũ

chuyên trách làm công tác tôn giáo, chỉ có cán bộ phụ trách tôn giáo ở các cấp trên

địa bàn, trong khi đó năng lực của một bộ phận cán bộ phụ trách công tác tôn giáo

còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình mới.

- Phạm vi về không gian: Trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.

8

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chuyên ngành chính sách công,

chu trình chính sách: từ hoạch định chính sách đến việc xây dựng, tổ chức thực hiện

chính sách và đánh giá trong đó có sự tham gia của chủ thể chính sách.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích, các yêu cầu đặt ra đối với luận văn này, ngoài sử

dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp

chính sách công; tác giả Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên

ngành và liên ngành như chính trị học tôn giáo, tôn giáo học kết hợp với các

phương pháp cơ bản như: Phỏng vấn, phương pháp phân tích-tổng hợp, thống kê-so

sánh, nghiên cứu tài liệu, tổng kết, đánh giá thực tiễn tổ chức triển khai thực hiện

chính sách tôn giáo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Qua kết quả nghiên cứu sẽ làm rõ thêm những cơ sở lý luận về tôn giáo, công

tác quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo từ góc độ chuyên ngành của chính sách

công. Luận văn sẽ cung cấp những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện

chính sách tôn giáo ở nước ta nói chung, huyện Quế Sơn nói riêng; cung cấp thêm

những cơ sở cho việc nghiên cứu thực hiện chính sách đối với các tôn giáo ở huyện.

Đồng thời góp phần tích cực trong quá trình hoàn thiện chủ trương, chính sách tôn

giáo của Đảng, Nhà nước nói chung và quá trình thực hiện chính sách tôn giáo tại

địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng trong quá trình đẩy mạnh hội

nhập quốc tế sâu rộng. Ngoài ra, Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao

nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên,

công chức, viên chức trên địa bàn về tôn giáo và công tác tôn giáo và việc thực hiện

chính sách tôn giáo từ góc nhìn của chuyên ngành chính sách công hiện nay.

6.1. Ý Nghĩa thực tiễn

9

Qua nghiên cứu đề tài thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế

Sơn thời gian qua sẽ góp phần tích cực quan trọng trong việc duy trì và hoàn thiện

chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta nói chung và quá trình thực thi chính

sách tôn giáo nói riêng. Đây là tài liệu rất quý và quan trọng cho việc biên soạn các

chuyên đề về công tác tôn giáo, quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo của các báo

cáo viên của huyện để giảng bài tại các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về công

tác tôn giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp, nhất là đối với

cán bộ chính quyền các cấp trong công tác quản lý, thực hiện chính sách tôn giáo

trên địa bàn huyện trong thời gian đến.

7. Kết cấu của luận văn

Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện

chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 2. Thực trạng công tác thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn

huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nam.

Chương 3. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

trong việc thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn trong thời gian đến

10

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO; CÁC NHÂN TỔ

ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm sử dụng trong luận văn

1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo

Qua tìm hiểu, trong lịch sử xã hội loài người có khoảng gần mười nghìn tôn

giáo đang tồn tại, về định nghĩa tôn giáo, hiện nay có gần 250 định nghĩa. Theo ḍng

lịch sử định nghĩa về tôn giáo được mở rộng về nội hàm và phạm vi của nó; tùy

theo mỗi tôn giáo khác nhau, cách tiếp cận và mỗi quốc gia mà nó được hiểu theo

nghĩa khác nhau. Trong Tiếng anh, tôn giáo có nghĩa là religion-có nghĩa là thu

lượm thêm sức mạnh siêu nhiên, tôn trọng những gì linh thiên, huyền bí, tôn kính

thần linh; cho rằng giữa Chúa với Thượng đế có sự gắn bó; thể hiện mối quan hệ

giữa con người với thế giới khác-một thế giới siêu nhiên, vô hình; sự tồn tại một

quyền lực huyền bí bên ngoài mà con người chịu tác động, chi phối đến, một cảm

giác đạo mộ mà con người phải tuân theo. Trong tiếng Hy Lạp cho rằng: tôn giáo là

regere-quan niệm rằng giữa con người và thế giới thần linh có mối quan hệ, ràng

buộc lẫn nhau.

Theo từ điển tiếng việt ghi rằng: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội

hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [40, tr. 239 ]. Trong

Luật tín ngưỡng, tôn giáo có định nghĩa: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại

với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật,

lễ nghi và tổ chức” [20, tr.8].

1.1.1.2. Khái niệm Chính sách công

Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm quyền

lực công nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời

11

sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và đảm

bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.

1.1.1.3. Khái niệm Chính sách tôn giáo

Chính sách tôn giáo ở nước ta được thể hiện ở chủ trương, đường lối của

Đảng và hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác tôn giáo. Là

quá trình dùng quyền lực của Nhà nước, các cơ quan chức năng liên quan từ trung

ương đến địa phương sử dụng nhằm tác động, định hướng, hướng dẫn, điều chỉnh

hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được Nhà nước công nhận hoạt động

theo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Bên cạnh đó, có

thể hiểu chính sách tôn giáo còn là quá trình chấp hành và tổ chức thực hiện chính

sách pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp nhằm tác động, định

hướng, điều chỉnh hoạt động của tôn giáo và hành vi, hoạt động của tổ chức, cá

nhân tôn giáo theo quy định của Nhà nước đề ra.

1.1.1.4. Khái niệm Thực hiện chính sách tôn giáo

Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong

chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất

định và thực hiện hóa chính sách để đưa chính sách đi vào đời sống xã hội theo định

hướng của Nhà nước.

Trên cơ sở khái niệm thực hiện chính sách ta có thể hiểu về thực hiện chính

sách tôn giáo là quá trình chuyển hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước đối với công tác tôn giáo, đưa chính sách này đi vào cuộc

sống, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của một bộ phận nhân dân; đây là

giai đoạn đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong chu trình đối với chính sách tôn

giáo, là trung tâm kết nối giữa các bước trong chu trình chính sách tôn giáo của

Đảng, Nhà nước ta.

12

1.1.2. Quan điểm của Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối,

chủ chương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo

1.1.2.1. Quan điểm của Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin khi nghiên cứu về tôn giáo đều xuất phát từ những ý

tưởng có tính phương pháp luận và phương pháp cách mạng (chủ nghĩa duy vật biện

chứng) từ đó nhận định rằng tôn giáo có nguồn gốc và bản chất của nó:

Về nguồn gốc tôn giáo là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng.

Từ phương pháp khoa học lịch sử, với thế giới quan duy vật C.Mác và Ăng ghen đã

chỉ ra nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Chính con người sinh

ra tôn giáo, chớ tôn giáo không sáng tạo ra con người và tôn giáo quay lại chi phối

con người trong cuộc sống đời thường. Mà trong đó con người là thế giới con

người - là xã hội loài người, là nhà nước.

Ăngghen, trong tác phẩm Chống Duyrinh đã đưa ra lý giải về nguồn gốc tôn

giáo, là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở

bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những

lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Như vậy, tôn

giáo với tính cách là một hình thái ý thức phản ánh thế giới tự nhiên vào bộ não con

người một cách sai lầm hoặc là một sự phản ánh không toàn diện thế giới khách

quan, khiến con người hiểu sai hoặc không đầy đủ các hiện tượng trong tự nhiên.

C.Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen

cũng đã khẳng định rằng: " Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự

nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn của hiện thực ấy.

Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có

trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn

giáo là thuốc phiện của nhân dân" [34, tr. 570 ]. Với cách nhận định này cho thấy

tính chất của tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó có chức năng và tính xã hội rất

đặc biệt. Tôn giáo ra đời nhằm bù đắp cho sự nghèo nàn của tri thức để lý giải hiện

thực xã hội, thế giới; nguyên nhân là do sự thấp kém của trình độ khoa học kỹ thuật

13

cùng sự bất an, phức tạp của đời sống xã hội. Do đó, con người cần có tôn giáo như

một liều thuốc an thần xoa dịu những nỗi đau, những bất hạnh, trắc ẩn trong đời

sống thường ngày.

Lê-nin trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Mác-Ănghen về tôn giáo, ông đã trình

bày chính kiến của mình về tôn giáo: “Nguồn gốc sâu xa nhất của các thành kiến

tôn giáo là cùng khổ và dốt nát”, “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về

tinh thần, luôn luôn đè nặng lên vai quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động

cho người khác hưởng vì phải chịu cảnh bần cùng, cô độc”. [32, tr. 221 ].

Qua đó cho thấy ở thời Mác-Ănghen đã nghiên cứu về bản chất của tôn giáo,

đến thời đại Lê nin thì bản chất của tôn giáo là vấn đề trở thành cơ sở để lý giải, giải

quyết về vị trí của tôn giáo trong đời sống xã hội; mối quan hệ giữa tôn giáo với

chính trị, quan điểm của nhà nước mới-xã hội chủ nghĩa về tôn giáo. Như vậy, theo

quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc

thượng tầng kiến trúc xã hội, có quan hệ mật thiết và chịu sự chi phối của tồn tại xã

hội.

Phạm trù lịch sử của tôn giáo phản ánh ý thức của con người về tồn tại xã hội

của hiện thực thời đại mình. Chỗ dựa của tôn giáo là những điều bí ẩn của đời sống

hằng ngày không giải thích được và một số hiện tượng mà các nhà khoa học chưa

giải thích được. Đối với tôn giáo trong tiến trình phát triển nhận thức của con người,

khoa học phát triển và dần cắt nghĩa được một số điểm cho tôn giáo làm chỗ dựa và

tồn tại, khoa học phát triển tới đâu, tôn giáo lùi tới đó. Song thế giới mà con người

chúng ta sinh sống là vô cùng vô tận, trong khi nhận thức về thế giới thì có hạn,

khoa học đã chứng minh, giải thích được hiện tượng này lại xuất hiện những cái

mới, chưa giải thích được. Vì thế tôn giáo luôn có chỗ dựa cùng với sự năng động

điều chỉnh theo những tiến bộ của khoa học và biến đổi của xã hội. Đồng thời, hiện

thực sự phát triển của tôn giáo trong xã hội hiện đại cho thấy, cơ sở tồn tại và điều

kiện tiêu vong của tôn giáo trở nên rất phức tạp. Vì ngày nay con người vẫn chưa

giải quyết được một cách triệt để và hợp lý các mối quan hệ đối lập giữa lý tưởng và

14

hiện thực, giữa chủ quan và khách quan, giữa ngẫu nhiên và tất nhiên, giữa hữu hạn

và vô hạn, giữa đau khổ và hạnh phúc,... Nhất là trong giai đoạn hiện nay, con

người vẫn phải đối mặt với những bất hạnh cá nhân, cảm giác thiếu hụt, bất an và

mất cân bằng về tâm lý trước tình hình dịch bệnh tràn lan và bệnh tật hiểm nghèo

ngày càng tăng, sự chênh lệch giàu nghèo, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống,...Đó là

những cơ sở để cho tôn giáo tiếp tục tồn tại và phát triển. Cùng với tiến trình lịch sử

của con người, tôn giáo được sinh ra, tồn tại và mất đi khi nền tảng cho sự tồn tại

của nó không còn. Đó là cả một tiến trình lâu dài trong lịch sử phát triển của xã hội

loài người.

1.1.2.2.. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo

Sinh thời Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác tôn giáo, trên cơ sở kế thừa

về quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin về tôn giáo, Người đã vận dụng một cách

linh hoạt vào đặc điểm, điều kiện lịch sử của Việt Nam, Người đã xây dựng nên hệ

thống quan điểm về tôn giáo rất phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng tạo. Trong các

tư tưởng của Người về tôn giáo thì tư tưởng Đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc,

nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là tư tưởng nổi bật nhất, chiếm một vị trí

quan trọng trong hệ thống di sản lý luận mà Người để lại cho đất nước. Tư tưởng

này được xây dựng trên đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam là các tôn giáo luôn đoàn

kết, chấp hành tốt chính sách của nhà nước, là đất nước không có xung đột, chiến

tranh tôn giáo như một số quốc gia trên thế giới. Người khẳng định rằng giữa đồng

bào theo đạo hay không theo đạo đều là công dân Việt Nam, đều là người lao động

và sự nghiệp cách mạng là việc lớn, 1à sự nghiệp chung không phải chỉ của một hai

người. Người đã chỉ ra mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo một cách mộc mạc, dễ

hiểu nhưng có ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Kính chúa yêu nước, mỗi người vừa là một

tín đồ chân chính vừa là một công dân yêu nước; nước nhà vinh thì đạo mới sáng,

đất nước có độc lập thì mới có tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Người quan niệm

rằng giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu nước là không mâu thuẫn nhau. Đồng thời,

Người cũng đã chú trọng nội dung tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo của

công dân. Đây là một quan điểm đúng đắn của Người về tôn giáo, sự tôn trọng ấy

15

không chỉ thể hiện trên văn bản, lời nói mà còn trên cả hoạt động thực tiễn của Bác

đối với tôn giáo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Theo Người mọi

công dân Việt Nam đều có quyền tự do tôn giáo. Người nhận ra rằng ở trong mỗi

tôn giáo có những giá trị đạo đức nhân văn cao cả cần tiếp thu, đạo đức là bác ái

(Chúa Giêsu dạy), đạo đức là từ bi (Phật Thích ca dạy), đạo đức là nhân nghĩa

(Khổng tử) mà mọi người cần học hỏi và phát huy.

Đối với nước ta trong quá trình đổi mới, mở rộng hội nhập quốc tế, việc kế

thừa, tiếp thu tư tưởng của Người về đoàn kết tôn giáo xuất phát từ tình hình thực tế

của đất nước, từ truyền thống đoàn kết, từ tinh hoa văn hóa dân tộc, từ lý luận Mác-

Lê Nin xem cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tư tưởng về đảm bảo quyền

tự do tôn giáo và tư tưởng đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc của Hồ Chí Minh

có một ý nghĩa rất to lớn, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là bài học quý giá đối

với quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Tư

tưởng này được thể hiện nhất quán và khẳng định từ Luận cương cách mạng tư sản

dân quyền năm 1930 đến Nghị quyết Đại hội lần thứ 12 của Đảng năm 2016 và

trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.

1.1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo

Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng

tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về

tôn giáo cũng như kinh nghiệm của việc giải quyết các vấn đề liên quan đến công

tác tôn giáo trong quá trình lãnh đạo và xây dựng đất nước; đồng thời căn cứ vào

tình hình khu vực và thế giới về tôn giáo và đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt

Nam. Bởi ở nước ta dù tôn giáo nội sinh hay ngoại sinh và mỗi tôn giáo đều có đặc

điểm, tổ chức hoạt động khác nhau nhưng đều có điểm chung là luôn chung sống

hoà hợp, gắn bó với dân tộc, tích cực tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ

quốc. Theo dòng lịch sử, cho thấy trong quá trình dựng và giữ nước, nhất là giai

đoạn khó khăn của dân tộc, đồng bào có đạo cũng như không đạo đã một lòng đoàn

kết bên nhau đứng về phía cách mạng, cùng toàn dân, toàn quân đánh thắng giặc

16

ngoại xâm và trong thời bình họ đã tích cực tham gia xây dựng, phát triển quê

hương, đất nước. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo, quản lý đối với tôn giáo

Đảng, Nhà nước ta thể hiện quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong hệ thống chính

sách tôn giáo trước sau như một đó là luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn

giáo của công dân. Mặt khác lại nghiêm cấm những hành vi miệt thị hay phân biệt

đối xử, giữ khoảng cách đối với người có đạo; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống

lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chính sách tự do tôn giáo để thực hiện mục

đích phi tôn giáo, tổ chức sinh hoạt tôn giáo trái quy định pháp luật Việt Nam; gây

mất trật tự ATXH, làm ảnh hưởng đến ANQG, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết

toàn dân hay xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân

hoặc có những hành vi trái với phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam.

Đặc biệt, từ năm 1986 đến nay khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới

các tôn giáo trong nước có sự phục hồi và phát triển; dù tự nhiên hay chủ ý nó đã

tác động và ảnh hưởng trực tiếp đối với tình hình phát triển kinh tế - văn hóa - xã

hội và ANTT ở một số địa phương trong cả nước. Nhận thức điều đó, Đảng ta đã

kịp thời tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả công tác tôn giáo trong thời

gian qua; đồng thời tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo

nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Để lãnh đạo và tạo điều kiện

cho tôn giáo phát triển một cách ổn định theo quy định của pháp luật như BCT đã

ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 02/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình

mới, đây được xem là khởi đầu cho bước ngoặc về nhận thức đối với tôn giáo và

công tác tôn giáo trong bối cảnh mới; không lâu sau BCT ban hành Nghị quyết số

24 -NQ/TW ngày 06/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Đặc biệt nhất, đến năm 2003, trên cơ sở đánh giá tình hình tôn giáo và công tác tôn

giáo đạt được những kết quả tích cực trên các mặt, song có những hạn chế, bất cập,

tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, do vậy, tại Hội nghị lần thứ bảy của

BCH Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25 Về công tác tôn

giáo. Nghị quyết này xác định phương hướng và mục đích cơ bản của hoạt động tôn

giáo và công tác tôn giáo; trong đó đã thể hiện 5 quan điểm và chính sách đối với

17

tôn giáo đó là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,

đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta;

đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện nhất

quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không

theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật;

các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

Qua đó, cho thấy đây là lần đầu tiên chính sách tôn giáo được đưa ra bàn bạc,

quyết định ở cấp BCH Trung ương và được phổ biến, quán triệt rộng rãi đến cán bộ,

đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước. Trải qua các kỳ đại hội từ Đại

hội Toàn quốc lần thứ X đến đại Hội lần thứ XI và Đại hội lần thứ XII của Đảng

công tác tôn giáo tiếp tục được chú trọng, thể hiện trong các văn kiện Đại hộị; cụ

thể Đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng công tác tôn giáo tiếp tục được

quan tâm và được thể hiện trong văn kiện Đại hội như sau: Tiếp tục hoàn thiện

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo

đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo

sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công

nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những

hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc

hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”. Điều đặc

biệt sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25 Về công tác tôn giáo của

BCH Trung ương Đảng khóa IX vào ngày 10/01/2018 BCT đã ban hành Chỉ thị 18-

CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của BCH Trung ương (khóa

IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới và triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn

giáo.

Với việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết nêu trên cho thấy rằng trong quá

trình lãnh đạo xây dựng đất nước Đảng ta rất quan tâm đến công tác tôn giáo, trong

các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết công tác tôn giáo được bàn bạc, đều khẳng định

những quan điểm đúng đắn trước đây; đồng thời đã không ngừng đổi mới nhận thức

18

về tôn giáo và trong công tác quản lư trong lĩnh vực này; đề cao những quan điểm,

chính sách đổi mới về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới; nhất là

hiện nay trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế sâu rộng thì công tác này được quan

tâm hơn, cụ thể (Văn kiện tại đại hội lần thứ XII của Đảng nêu tiếp tục hoàn thiện

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo).

Qua các quan điểm nêu trên cho thấy trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã có những bước nhận thức mới,

phát triển, hoàn thiện hơn trong công tác tôn giáo; các quan điểm, định hướng của

Đảng về công tác tôn giáo được thể hiện ở các văn kiện đại hội Đảng cũng như các

chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo; các văn bản, văn kiện đã khái

quát được những quan điểm chỉ đạo, định hướng có tính chiến lược và những

phương hướng, giải pháp quan trọng làm nền tảng cho nhận thức mới về công tác

tôn giáo nói chung, thực hiện chính sách về tôn giáo nói riêng trong xu thế mới.

Trên cơ sở đó Nhà nước ta đã kịp thời ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm

pháp luật, có giá trị pháp lý nhằm thể chế, cụ thể hóa những chủ trương, quan điểm

đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình

hình mới.

1.1.2.4. Quy trình thực hiện chính sách tôn giáo

Thực hiện chính sách tôn giáo gồm các bước sau

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo

Việc thực thi chính sách công nói chung và thực thi chính sách tôn giáo nói

riêng là một chu trình diễn ra trong thời gian tương đối dài, do đó để triển khai một

cách hiệu quả, trong quá trình thực hiện phải lập kế hoạch một cách cụ thể để các cơ

quan chức năng QLNN về tôn giáo thực hiện một cách chủ động, không bị lúng

túng. Có thể khẳng định đây là nhiệm vụ đầu tiên trong thực hiện chính sách tôn

giáo. Để chính sách tôn giáo đạt hiệu quả cao, các cấp chính quyền từ trung ương

đến tỉnh, huyện và xã, phường đều phải xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

thành một hệ thống, đồng bộ. Thực hiện chính sách tôn giáo ở cấp nào sẽ do cơ

quan chủ trì của cấp đó xây dựng kế hoạch, thông qua và triển khai thực hiện. Trong

19

quá trình xây dựng kế hoạch nếu cấp có thẩm quyền xây dựng tốt thì việc triển khai

thực hiện chính sách có hiệu quả tốt và không cần phải điều chỉnh, bổ sung trong

quá trình triển khai thực hiện và ngược lại. Việc điều chỉnh kế hoạch trong quá trình

thực hiện chính sách chỉ có những cấp có thẩm quyền xây dựng chính sách tôn giáo

mới có quyền.

- Nội dung Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo:

Thứ nhất, Kế hoạch tổ chức gồm: Các cơ quan chủ trì, phối hợp triển khai

thực hiện chính sách. Số lượng, chất lượng cán bộ phụ trách công tác tôn giáo tham

gia. Sự tác động giữa các cấp thực hiện chính sách và dự kiến về cơ chế trách nhiệm

của cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức thực hiện chính sách.

Thứ hai, Kế hoạch dự kiến các nguồn lực gồm: điều kiện về phương tiện,

trang thiết bị máy móc, hỗ trợ, phục vụ thực hiện chính sách tôn giáo; kinh phí thực

hiện.

Thứ ba, Kế hoạch thời gian thực hiện chính sách: là dự kiến về một khoản

thời gian cho các bước thực hiện chính sách, từ việc tuyên truyền đến công tác sơ,

tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. Trong đó mỗi bước thực hiện đề ra thời gian và

mục đích cần đạt được.

Thứ tư, Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực thi chính sách tôn giáo

gồm: dự kiến về nội quy, quy chế đối với hệ thống các cấp, ngành trong tham gia

thực hiện chính sách; dự kiến về cách thức, phương pháp để kiểm tra, giám sát việc

thực hiện; dự kiến về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước và

đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp. Đồng thời dự kiến các hình thức

khen thưởng những tập thể và cá nhân thực hiện tốt, đồng thời xử lý những tập thể,

cá nhân thực hiện không tốt chính sách tôn giáo.

Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách tôn giáo

Sau khi lãnh đạo xem xét thông qua kế hoạch thực hiện chính sách tôn giáo,

thì các cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo ở cấp đó bám sát kế hoạch đã

20

được xem xét thông qua để triển khai thực hiện đúng tiến độ đề ra. Nhiệm vụ đầu

tiên là phải phổ biến, tuyên truyền chính sách và vận động quần chúng thực hiện

chính sách. Đây là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước phụ trách công

tác tôn giáo và đối tượng thực hiện chính sách tôn giáo. Bởi công tác phổ biến,

tuyên truyền chính sách tôn giáo tốt sẽ giúp cho chức sắc, chức việc, tín đồ hiểu

mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của chính sách tôn giáo, để từ đó ý thức chấp

hành theo yêu cầu của các cấp chính quyền, cơ quan QLNN về tôn giáo. Hơn thế

nữa đây là chính sách quan trọng, nhạy cảm, nếu công tác tuyên tuyền tốt sẽ giúp

cho đồng bào, các chức sắc tôn giáo hiểu rõ mục tiêu chính sách đặt ra. Phổ biến,

tuyên truyền chính sách tôn giáo đạt hiệu quả bằng các hình thức, phương pháp

như: Hội nghị, tập huấn chuyên đề các tôn giáo, gặp gỡ chức sắc, chức việc, nhà tu

hành,...

Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo

Để tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra thì

trong quá trình tổ chức thực hiện phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ

quan, ngành, các cấp chính quyền địa phương, đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo, trong đó cấp có thẩm quyền cần

phải có sự phân công công việc cụ thể cho các ban, ngành, địa phương cũng như

công tác phối hợp, hỗ trợ và tạo điều kiện của các đơn vị có liên quan đến việc thực

hiện chính sách. Trong hoạt động phân công, phối hợp nhiệm vụ cần được thực hiện

theo tiến trình, có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách

được ổn định, đặc biệt quan tâm đến trình độ chuyên môn và lợi thế của từng tập

thể, cá nhân; trong quá trình phân công phải phân công rõ ràng nhiệm vụ từng cơ

quan, cơ quan nào là chủ trì, cơ quan nào là phối hợp; tránh tình trạng phân công

nhiệm vụ không cụ thể, bị chồng chéo sẽ dẫn đến việc chính sách không đạt được

hiệu quả. Đối với nước ta, đã quy định Chính phủ QLNN về tôn giáo; Bộ Nội vụ-cơ

quan của Chính phủ chịu trách nhiệm QLNN về tôn giáo, có trách nhiệm tuyên

tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật đối với tôn giáo;

BTG Chính phủ-thuộc Bộ Nội vụ có trách nhiệm tham mưu Bộ trưởng của Bộ này

21

có trách nhiệm QLNN về tôn giáo cùng các bộ, ngành của Trung ương; đối với cấp

tỉnh, huyện, xã thì do UBND cấp đó thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo ở cấp

mình.

Bước 4: Duy trì chính sách đối với tôn giáo

Để chính sách tôn giáo được tồn tại trong đời sống xã hội, đáp ứng được nhu

cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào các tôn giáo đòi hỏi cần có sự thống nhất, đồng

tâm hiệp lực của chủ thể và khách thể trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo

của Đảng, nhà nước và môi trường tồn tại của nó. Trong thực tiễn cho thấy một số

chính sách sau khi ban hành đến giai đoạn triển khai thực hiện thì gặp không ít

những khó khăn, vướng mắc nhất định, nguyên nhân do môi trường thực tế biến

động, trong đó có chính sách tôn giáo. Vì thế, để triển khai thực hiện tốt chính sách

tôn giáo thì các cơ quan QLNN về tôn giáo ở các cấp cần linh hoạt, chủ động, sáng

tạo, sử dụng hệ thống, những công cụ quản lý sao cho phù hợp để tác động, nhằm

tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực thi chính sách tôn giáo. Đồng thời, trong

quá trình triển khai thực hiện các cơ quan nhà nước cần chủ động, linh hoạt điều

chỉnh chính sách tôn giáo sao cho cho phù hợp với tình hình của địa phương, đất

nước trong tình hình mới. Trong thực tế, các cơ quan QLNN về tôn giáo trong một

chừng mực nhất định có thể dùng hiện pháp hành chính để duy trì chính sách tôn

giáo để đảm bảo lợi ích chung của xã hội.

Bước 5: Điều chỉnh chính sách tôn giáo

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo cần phải có sự điều

chỉnh kịp thời để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn; đây

là việc làm cần thiết và diễn ra thường xuyên trong quá trình thực hiện chính sách

tôn giáo; việc điều chỉnh chính sách tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan QLNN ở

cấp Trung ương. Cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh và bổ

sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế, chính

sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, do vậy các cơ quan QLNN ở cấp Trung ương,

các ngành, UBND các cấp về chính sách tôn giáo cần chủ động điều chỉnh biện

22

pháp, cơ chế, chính sách cho phù hợp tình hình và tôn giáo ở cấp mình. Để chính

sách tôn giáo được duy trì, trong khi điều chỉnh chính sách phải chấp hành nguyên

tắc đó là chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu chính sách

hay bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Do đó, nếu

điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu chính sách tôn giáo, thì chính sách đó không tồn

tại.

Bước 6: Đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo

Tôn giáo và tình hình tôn giáo ở từng vùng, địa phương không giống nhau

cũng như trình độ, năng lực của đội ngũ của cán bộ, công chức trong các cơ quan

nhà nước của cả hệ thống chính trị trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách tôn

giáo không đồng nhất, do đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ

chức thực hiện chính sách tôn giáo phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc

việc thực hiện chính sách. Thông qua đó, nếu phát hiện những hạn chế, bất cập thì

kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền điều chỉnh bổ sung, đính chính hoàn thiện và

chấn chỉnh công tác thực hiện chính sách tôn giáo ở các cấp, đồng thời giúp cho

việc triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn đạt hiệu quả, đảm bảo theo

nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo của một bộ phận quần chúng

nhân dân. Ngoài ra, qua kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm của các tổ chức,

cá nhân tôn giáo trong hoạt động tôn giáo.

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn

giáo

Nội dung tổng kết, đánh giá công tác tôn giáo là công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

triển khai, điều hành những văn bản như nội quy, quy định, chương trình phối hợp,

ký kết liên tịch cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác về tôn giáo để xem xét

tình hình thực hiện chính sách tôn giáo. Trong quá trình thực hiện chính sách tôn

giáo, ngoài tổng kết, đánh giá các cơ quan QLNN về kết quả điều hành chính sách

tôn giáo cần phải đánh giá việc ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ

chức, cá nhân tôn giáo. Thực hiện chính sách là một khâu trong chu trình chính sách

23

nhằm chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách đối với các đối tượng quản lý thành

hiện thực, nhằm đạt mục tiêu đề ra. Thực hiện chính sách tôn giáo là một khâu trong

chu trình chính sách của chủ thể cầm quyền, có nhiệm vụ quan trọng trong việc đưa

chính sách này thành hiện thực. Việc thực hiện chính sách được xem như là trung

tâm để tập hợp, kết nối các bước thực hiện thành một hệ thống logic. Việc ban hành

một chính sách đúng, sát với thực tiễn hay không rất quan trọng đối với chủ thể cầm

quyền, nhằm quản lý các đối tượng xã hội, nhưng việc thực hiện chính sách hiệu

quả còn có ý nghĩa quan trọng hơn. Nếu như chính sách của Nhà nước đúng mà

thực hiện không hiệu quả, không đáp ứng được thực tiễn thì chính sách sẽ trở nên

vô nghĩa, ảnh hưởng rất lớn đối với chủ thể ban hành chính sách, đó là Nhà nước.

Chính sách tôn giáo là chính sách quan trọng nếu như thực hiện không đúng sẽ bị

tín đồ, nhân dân thiếu tin tưởng, thậm chí còn phản đối, tổ chức biểu tình ảnh hưởng

đến tình hình ANCT, trật tự ATXH. Đặc biệt nguy hiểm hơn, đây là chính sách rất

nhạy cảm dễ bị các thể lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, xuyên tạc, bóp

méo sự thật, nói xấu đường hướng lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo,

gây biểu tình, bạo động ở một số địa phương, chống phá Đảng, Nhà nước trong quá

trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó gây khó khăn

trong công tác QLNN về tôn giáo.

Qua thực tế cho thấy chỉ có đi sâu sát cơ sở trong quá trình thực thi chính sách

tôn giáo trên cơ sở đó mới xây dựng chính sách phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng

chính đáng của đồng bào có đạo, cũng là sự phù hợp giữa tôn giáo với chính sách

của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Trong quá trình xây dựng và thực hiện

chính sách nói chung và chính sách tôn giáo nói riêng do nguyên nhân chủ quan và

khách quan, các nhà nghiên cứu tham mưu ban hành chính sách chưa lường hết

được những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện, chưa tính đến thì trong

giai đoạn tổ chức thực hiện mới phát sinh cái mới, cho nên khi thực hiện chính sách

nói chung, đặc biệt chính sách đối với tôn giáo nói riêng thì sẽ có ý nghĩa cực kỳ

quan trọng trong việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực

tiễn, nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chính sách tôn giáo, đáp ứng nhu cầu sinh

24

hoạt tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Qua đó cũng đã phát huy được những mặt

tích cực của lĩnh vực này trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong

giai đoạn hiện nay.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Tình hình thực hiện Chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam

Nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về tôn

giáo, nước ra đã ban hành hàng loạt văn bản pháp quy về quản lý, hướng dẫn thực

hiện chính sách tôn giáo (pháp lệnh, nghị định, Luật, cùng các văn bản khác) như:

sau khi BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày

16/10/1990 “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” thì ngày

21/3/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 69/NĐ-

HĐBT về Quy định về các hoạt động tôn giáo. Vào năm 1999 sau khi BCT ban

hành Chỉ thị số 37-CT/TW thì ngày 19/4/1999 Thủ tướng Chính phủ ký công bố

ban hành Nghị định 26/1999/NĐ-CP Về các hoạt động tôn giáo. Tại Hội nghị lần

thứ bảy BCH Trung ương khóa IX, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW,

ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo, ngay sau đó Thường vụ Quốc hội khóa XI đã

thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và tháng 6/2004 Chủ tịch nước Trần Đức

Lương ký Sắc lệnh công bố văn bản pháp luật này. Sau khi Pháp lệnh tín ngưỡng,

tôn giáo ban hành, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP ngày

11/3/2005 về Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo

(thì ngày 8/11/2012 được thay bằng Nghị định số 92/NĐ-CP). Mới đây nhất trong

kỳ họp thứ 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIV) ngày

18/11/2016 tại Thủ đô Hà Nội, Quốc Hội đã bỏ phiếu tán thành và đã thông qua

Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Luật gồm 9 chương, 68 Điều và để triển khai thực hiện

có hiệu quả Luật tín ngưỡng, tôn giáo vào ngày 30/12/2017 Thủ tướng Chính phủ

ban hành Nghị định Số 162/2017/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện

pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016,...

25

Trên đây là những văn bản cụ thể hóa của Nhà nước ta đối với tôn giáo trên cơ

sở thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tôn giáo, bên cạnh đó Nhà

nước ta ban hành các chính sách khác nhằm phát huy những mặc tích cực của từng

tổ chức, cá nhân tôn giáo trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước như: Chỉ thị

số 01/2005 của Thủ tưởng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin Lành, với

việc ban hành Chỉ thị này thể hiện đây là “một chính sách rất táo bạo” đối với tôn

giáo này. Qua đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta rất linh hoạt sáng tạo trong lãnh đạo

đối với công tác tôn giáo hay như ngày 31/12/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành

Chỉ thị số 1940 Về vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo nhằm giải quyết kịp thời

về nhà, đất liên quan đến tôn giáo trong bối cảnh lúc này tình hình đất đai liên quan

đến công tác tôn giáo cần phải quan tâm; hay như chính sách cơ cấu các chức sắc,

chức việc của các tôn giáo tham gia vào các cơ quan bầu cử như Quốc hội, HĐND

và tham gia vào các tổ chức CT-XH các cấp; chính sách phát triển đảng viên là

người có đạo; chính sách xây dựng cốt cán tôn giáo, chính sách đoàn kết các tôn

giáo…Việc ban hành các văn bản pháp lý nêu trên làm nền tảng hết sức quan trọng

trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là xác định rõ hơn quyền và

nghĩa vụ của chủ thể và khách thể trong thực thi chính sách. Từ đó, giúp cho đội

ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nước ta, nhất là đội ngũ cán bộ làm

công tác tôn giáo nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về quyền tự do tôn giáo của công

dân, về mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với chính quyền các cấp, về trách

nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong quá tŕnh phối hợp và kết hợp giải quyết các

vấn đề trong công tác tôn giáo; qua đó khắc phục những nhận thức lệch lạc và

những hành động không đúng trong quá trình tổ chức thực thi chính sách tôn giáo

theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

1.2.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn

1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tôn giáo ở

huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

* Ảnh hưởng của vị trí địa lý, tự nhiên, xã hội

26

Huyện Quế Sơn là huyện đồng bằng-trung du của tỉnh Quảng Nam, diện tích

tự nhiên toàn huyện là 25.117,15 ha. Huyện có diện tích vùng đồi núi chiếm trên

60% tổng diện tích tự nhiên của huyện (nằm chủ yếu ở phía Tây của huyện), đồng

bằng tập trung ở phía Đông (xã Quế Xuân 1, Hương An và phía Đông của xã Quế

Xuân 2) nhưng diện tích không lớn, còn lại là những vùng nhỏ hẹp và nằm đan xen

giữa các khu vực gò đồi. Trung tâm huyện cách Đà Nẵng 50 km về hướng Đông

Bắc, cách Tam kỳ khoảng trên 55 km về phía Đông Nam, về phía Bắc giáp ranh với

huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp với huyện Thăng Bình và phía Đông của huyện

Duy Xuyên, phía Tây và Tây Bắc giáp với huyện Nông Sơn, phía Nam giáp với

huyện Hiệp Đức và phía Tây của huyện Thăng Bình. Với vị trí địa lý thuận lợi như

trên, Quế Sơn là nơi du nhập, tọa lạc của các tôn giáo (với 05 loại hình tôn giáo du

nhập), đồng thời cũng bị tác động của các hoạt động tôn giáo của các vùng lân cận

như Giáo phận Đà Nẵng,...

Đơn vị hành chính của huyện: có 13 xã và 01 thị trấn: nằm dọc theo Quốc lộ 1

A gồm 04 xã (Hương An, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2 và xã Quế Phú), có diện tích tự

nhiên 53,44 km2 , nằm dọc theo tỉnh lộ ĐT 611 là các xã Phú Thọ, Quế Cường, Quế

Thuận, xã Quế Châu, Thị trấn Đông Phú, xã Quế Minh, xã Quế Hiệp, xã Quế Long,

xã Quế An, với diện tích 154,78 km2 và 01 xã Quế Phong xã miền núi, với diện tích

tự nhiên là 30,24 km2.

Giao thông - Thủy lợi: Có tuyến Đường Quốc lộ 1A, có chiều dài là 8,5 km

chạy qua địa bàn các xã: xã Hương An, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2 và xã Quế Phú.

Có tuyến đường ĐT 611A và ĐT 611B với tổng chiều dài tuyến 37,5 km chạy qua

nhiều xã địa bàn huyện. Ngoài ra, trên địa bàn huyện có tuyến đường sắt Bắc Nam

chạy song song với tuyến đường Quốc lộ 1A và chạy trên địa phận của các xã (Quế

Xuân 2, Quế Xuân 1, Phú Thọ và Quế Cường) và tuyến đường cao tốc Đà Nẵng-

Quảng Ngãi đi qua địa bàn của 03 xã (Quế Xuân 2, Quế Cường và xã Phú Thọ).

Với hệ thống giao thông chằng chịt, nhiều loại hình như trên đã tạo điều kiện thuận

lợi trong việc giao lưu, buôn bán, góp phần quan trọng trong việc phát triển KT-XH

ở địa phương. Tuy nhiên, đây cũng chính là yếu tố gây khó khăn trong công tác

27

QLNN về hoạt động tôn giáo, như khó quản lý được lượng tín đồ của các địa

phương khác đến sinh hoạt, việc truyền đạo trái quy định pháp luật ở một số cơ sở

tôn giáo.

* Về đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

Về di tích lịch sử: huyện có Nhà tưởng niệm Cụ Đỗ Quang (một vị Quan Nhà

Nguyễn rất tài giỏi), Nhà thờ Tiến sĩ-Phan Quan, một trong “Ngũ tụng tề phi: của

đất Quảng Nam; đặc biệt là di tích lịch sử địa điểm Chiến thắng Cấm Dơi, nằm

ngay ở Trung tâm huyện lị, Bia Phạm Nhữ Dục-danh tướng thời Nhà Trần, người

có công khai phá vùng Quế Sơn; 02 Khu du lịch, gồm: Khu du lịch sinh thái Suối

Tiên (Quế Hiệp), Suối Nước Mác, Đèo Le (Quế Long). Bên cạnh đó, trên địa bàn

huyện có các di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh, gồm các nhà thờ tộc, các di tích cách

mạng, miếu và các kiến trúc, vật thể Chăm Pa cổ như: Ngôi miếu thờ bò thần

Nandin độc đáo tại xã Quế Phú, Lăng Mộ Phạm Nhữ Tăng (Quế Phú) ,.. là nơi tổ

chức nhiều lễ hội thu hút nhiều người dân ở địa phương tham gia, như Đình Làng

An Long (xã Quế Phong), Đình Làng Châu Sơn xã Quế An,...) cùng hệ thống miếu

thờ, Nhà thờ tộc lớn được phân bổ rải rác các địa phương trong toàn huyện. Đặc

biệt trên địa bàn huyện có Lễ hội Khai Sơn (Thôn Nghi Trung thuộc xã Quế Hiệp)

và 35 cơ sở, điểm nhóm tôn giáo là một trong những địa điểm sinh hoạt tôn giáo của

một bộ phận nhân dân trên địa bàn.

Về dân số: Tính đến thời điểm hiện nay, huyện có 84.000 người, chủ yếu tập

trung ở các xã đồng bằng, chiếm hơn chiếm 60% dân số và còn tại phân tán ở các xã

khu vực trung du, miền núi. Mật độ dân số phân bố không đồng đều giữa khu vực

đồng bằng và khu vực trung du, miền núi, cao nhất là xã đồng bằng Quế Xuân 1 và

xã Quế Hiệp là thấp nhất.

Về kinh tế: Trong những năm qua, Đảng bộ huyện Quế Sơn đã tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo triển khai nhiều phương án, giải pháp để phát triển kinh tế phù hợp với

tiềm năng, lợi thế của địa phương, trong đó chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng,

con vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, thu hút kêu gọi doanh nghiệp trong và

28

ngoài nước vào đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp của huyện (Khu Công nghiệp

Đông Quế Sơn, Cụm công nghiệp Quế Cường, Đông Phú). Qua đó tạo chuyển biến

tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tăng trưởng kinh tế được duy trì và

có phát triển, năm sau cao hơn năm trước. Qua đó đã nâng cao đời sống vật chất lẫn

tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo, thu nhập bình quân đầu

người được tăng hằng năm. Tuy nhiên, Quế Sơn vẫn là huyện còn nghèo so với các

huyện đồng bằng lân cận trong tỉnh, với cơ cấu kinh tế nông nghiệp là chủ đạo,

nhân dân tham gia trong lĩnh vực này chủ yếu, chiếm 75% dân số của huyện. Song

trong lĩnh vực này do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, có

hai mùa mưa và khô, mùa khô rõ rệt đã gây khó khăn trong sản xuất nông nghiệp,

nhất là cho diện tích đất nông nghiệp ở các xã vùng Trung và vùng Tây trong mùa

khô, trong khi đó mùa đông gây ngập úng ở các xã vùng Đông của huyện nên đời

sống của một bộ phận nhân dân gặp không ít khó khăn, trong đó có đồng bào có

đạo. Bên cạnh đó, do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng người

mắc bệnh hiểm nghèo càng tăng; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, trong cuộc

sống gặp tai nạn, biến cố bất ngờ xảy ra,...ở một bộ phận nhân dân; do đó họ cảm

thấy bất hạnh nên tìm đến tôn giáo để hóa giải; chính vì đó mà số lượng tín đồ tôn

giáo tăng lên hằng năm, nhất là đạo Phật. Bên cạnh đó có một vấn đề cần quan tâm

nữa đó là tình trạng người dân không theo đạo nhưng tự tu tại gia diễn ra rất nhiều ở

hầu hết các xã, chiếm khoảng 40% dân số của huyện (họ không đến chùa thường

xuyên nhưng tự ăn chay vào ngày rằm, mồng một hằng tháng, đầu năm đến chùa và

đến khi cảm thấy bất hạnh. Ngoài ra, số lượng người không theo đạo, không ăn

chay vào ngày rằm, mồng một hằng tháng nhưng đến Chùa hái lộc, bốc thăm,

dương sao, giải hạn đầu năm tăng đáng kể trong những năm gần đây, trung bình

mỗi chùa vào có khoảng trên nghìn người đến dương sao, giải hạn, hái lộc, bốc

thăm đầu năm trong 02 ngày 14-15 tháng giêng, qua đó đã gây khó khăn trong

QLNN về sinh hoạt tôn giáo, nhất là tình hình ANTT trên địa bàn.

1.2.2.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn

29

Là huyện gần như là trung tâm của tỉnh với hệ thống giao thông đa dạng;

Quế Sơn được xem là nơi hội tụ đầy đủ các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Tin Lành,

Công giáo, Cao đài, BaHa’i,..Tính đến thời điểm hiện nay tổng số tín đồ các tôn

giáo trên địa bàn huyện là 4.286 người, chiếm khoảng 5,2% tổng dân số toàn huyện

(thể hiện ở bảng thống kê dưới đây).

Bảng 1.1. Bảng thống kê các tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay

Đơn vị tính: người

STT Tôn giáo Tín đồ (người)

1 Phật giáo 2.396

2 Công giáo 780

3 Tin lành 765

4 Cao đài 265

5 Baha’i 80

Tổng cộng 4.286

Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn

30

2500

2000

1500

1000

500

Tín đồ (người)

0

Cao đài

Bahai

Phật giáo Công giáo Tin lành

Tín đồ (người)

Hình 1.1. Biểu đồ các tôn giáo ở Quế Sơn

Qua bảng 1.1 và biểu đồ hình 1.1 cho thấy trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh

Quảng Nam gồm có 05 tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài,

Baha,i với tổng tín đồ là 4.286 tín đồ, chiếm 5.2% dân số của huyện, tín đồ từng tôn

giáo như sau: Phật giáo khoảng 2.396 đạo hữu; Công giáo có 780 tín đồ/1281, tín

đồ còn lại từ huyện lân cận đến sinh hoạt tôn giáo; Tin lành có 765 tín đồ; Cao đài

265 đạo hữu; Baha’i có 80 tín đồ.

* Số lượng cơ sở, chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện

Số lượng cơ sở tôn giáo, chức sắc, chức việc các tôn giáo được thể hiện ở

bảng thống kê sau:

Bảng 1.2. Bảng thống kê số lượng cơ sở, điểm nhóm và chức sắc, chức việc của

các tổ chức tôn giáo

Chức Chức STT Cơ sở tôn giáo Điểm nhóm sắc việc

31

23 20 116 Phật giáo

03 01 8 Công giáo

02 (Tin lành Miền Nam 03 điểm Tin lành 05 16 Tin Lành Việt Nam) được công nhận

01 01 8 Cao đài

03 01 6 Baha,i

Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn

Qua bảng thống kê số liệu cơ sở tôn giáo và chức sắc, chức việc tôn giáo cho

thấy: Phật giáo có 23 cơ sở tôn giáo chiếm 66.6% cơ sở tôn giáo toàn huyện, sở dĩ

như vậy là do lịch sử để lại (vùng Đông của huyện nhiều chùa chiền) và số người

theo đạo càng tăng (chưa kể tín đồ ở các xã của các huyện lân cận đến sinh hoạt có

trên 1.000 tín đồ), có 20 chức sắc và 116 chức việc; tiếp đến là Công giáo có 03 cơ

sở (01 Giáo xứ và 01 Nhà nguyện, 01 Giáo họ, có 01 chức sắc và 08 chức việc); về

đạo Tin lành: Tin lành Miền Nam ở huyện có 02 cơ sở và 01 điểm nhóm (Hương

An), 02 điểm nhóm Tin lành được công nhận (Tin lành Trưởng lão Liên hiệp Việt

Nam) với 05 chức sắc và 16 chức việc. Cao đài có 01 cơ sở với 01 chức sắc và 08

chức việc và Baha’i là 03 điểm nhóm đã được công nhận với 01 chức sắc và 06

chức việc.

Huyện với 14 đơn vị hành chính xã, thị trấn, địa bàn nào cũng có tín đồ,

nhưng sự phân bổ các cơ sở không đồng đều, được thể hiện ở bảng thống kê dưới

đây:

32

Bảng 1.3. Sự phân bố của các cơ sở, điểm nhóm tôn giáo được Nhà nước

công nhận

STT Địa bàn phân bố Số lượng

7 chùa, 01 Giáo xứ và 01 cơ sở tin lành MNVN, 01 1 Xã Quế Xuân 1 điểm nhóm sinh hoạt đạo Baha’i

Quế Xuân 2 02 chùa 2

Quế Phú 04 chùa 3

Hương An 06 chùa và 01 điểm nhóm sinh hoạt 4

33

Quế Cường 01 chùa, 01 Nhà nguyện, 01 Giáo họ 5

Phú Thọ 02 chùa 6

01 chùa, 01 cơ sở Tin lành, 2 điểm nhóm sinh hoạt 7 Đông Phú Tin lành

Quế An 01 Thánh thất Trung Kiên 8

Quế Châu 01 điểm sinh hoạt đạo Baha’i 9

10 Quế Minh 01 điểm nhóm sinh hoạt đạo Baha’i

Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn

Qua bảng 1.1.3 cho thấy các cơ sở tôn giáo tập trung ở các xã vùng Đông của

huyện (xã Quế Xuân 1, xã Quế Xuân 2, xã Quế Phú, xã Hương An và xã Quế

Cường) trong đó xã có cơ sở tôn giáo nhiều nhất là xã Quế Xuân 1, các xã vùng

Trung và phía Tây của huyện rất ít cơ sở tôn giáo, chỉ có vài điểm nhóm sinh hoạt,

có đến 04 xã không có cơ sở tôn giáo, nhưng tín đồ có xu hướng tăng hằng năm,

nhưng chủ yếu là đạo Phật.

*. Đặc điểm của từng tôn giáo

Đối với Phật giáo: Phật giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn cũng như các địa

phương của tỉnh Quảng Nam được du nhập từ rất sớm, sau đó phát triển mạnh mẽ

dưới thời các chúa Nguyễn. Phật giáo chủ yếu thuộc GHPG Việt Nam, ngoài ra còn

có một nhóm thuộc Giáo Hội Việt Nam thống nhất (tại thôn Thạch Thượng xã Quế

Phong) chỉ có 10 người. Đến nay, Phật giáo có trên 2.396/5.000 tín đồ Phật giáo (tín

đồ từ các xã của các huyện lân cận), chiếm 56 % tín đồ các tôn giáo có mặt tại

huyện. Trên địa bàn huyện có 23 cơ sở Phật giáo, trong đó có 1 cơ sở Niệm Phật

34

Đường Thạnh Bình trở thành Chùa vào năm 2015 và hiện còn 01 Niệm Phật đường

(NPĐ Thạnh Hòa nằm ở xã Quế Xuân 1).

Về tín đồ Phật giáo sinh sống rải rác tại 14 xã, thị trấn trên địa bàn huyện,

song tập trung chủ yếu là ở các xã vùng Đông của huyện. Theo dòng lịch sử, Phật

giáo du nhập, tồn tại và phát triển ở Quảng Nam nói chung và Quế Sơn nói riêng

sớm hơn so với các tôn giáo khác, nên đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt

của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử, là địa

phương bị tàn phá nhiều trong chiến tranh, quân và dân huyện Quế Sơn có truyền

thống yêu quê hương đất nước lâu đời, sẵn sàng đứng lên đấu tranh vì độc lập, trong

đó có các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ Phật giáo. Có thể khẳng định

rằng, trong số tín đồ các tôn giáo thì tín đồ Phật giáo ở Quế Sơn luôn chiếm số

lượng đông nhất, họ là người dân lao động chân chính, gần gũi, gắn bó với sinh

hoạt, cuộc sống đời thường của đa số quần chúng nhân dân và lao động trong lĩnh

vực sản xuất nông nhiệp là chủ yếu, sống theo phương châm “Tốt đời đẹp đạo”.

Trong giai đoạn hiện nay, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác đã có nhiều đóng

góp tích cực trong quá trình phát triển KT-XH, giữ vững ANCT, trật tự ATXH ở

địa phương.

Công giáo: So với các tôn giáo khác trên địa bàn huyện nói riêng và các đơn

vị của tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng trước đây nói chung thì Công giáo ra đời tương

đối muộn (tỉnh Quảng Nam được tách ra từ tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng vào năm

1997). Bởi Giáo phận Đà Nẵng (thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trước đây) ra

đời tương đối muộn, được thành lập ngày 18.01.1963, do Giáo hoàng Gioan XXIII

thiết lập vẫn được xem là Giáo phận trẻ so với nhiều giáo phận khác. Từ đó được

truyển vào Quảng Nam và phát triển cho đến nay. Đối với Quế Sơn, có 780/1281

người Công giáo sinh sống trên địa bàn huyện, (còn lại là tín đồ từ các xã của các

huyện lân cận Quế Sơn đến sinh hoạt); huyện có giáo xứ Xuân Thạnh nằm trên địa

bàn xã Quế Xuân 1 (Nơi có Quốc lộ 1A đi qua) được thành lập vào năm 1958, đây

là một trong những xứ đạo truyền giáo của Giáo phận Đà Nẵng, nằm trên địa bàn

huyện Quế Sơn (Xuân Thạnh thuộc hạt Trà Kiệu, gần giáo xứ Hà Lam, Hà Lâm.

35

Giáo xứ này có 15 giáo họ, được bố trí 2 huyện Quế Sơn và sát bên là huyện Duy

Xuyên). Ở Quế Sơn, ngoài Giáo xứ Xuân Thạnh còn có Giáo họ Thạch Khê thuộc

xã Quế Cường cách nhà thờ Xuân Thạnh 10 cây số, còn lại là Nhà nguyện Phú

Cường (Quế Cường). Ngoài ra, có điểm nhóm tại thôn Hòa Mỹ xã Quế Xuân 2 chưa

được công nhận. Trong những năm qua, giáo dân Công giáo trên địa bàn huyện làm

tốt bổn phận của giáo dân và bổn phận là công dân của nước Việt Nam, đoàn kết,

phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện tốt đường hướng “Sống phúc Âm giữa

lòng dân tộc”, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các phong trào thi

đua yêu nước do các cấp, các ngành phát động, nhất là trong phong trào xây dựng

nông thôn mới, qua đó góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã

hội, giữ vững trật tự ATXH ở địa phương và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

hiện nay.

Tin lành: Tin lành được hình thành sớm tại tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng (cũ),

được du nhập vào năm 1911 tại Đà Nẵng, từ đó được các mục sư đã đến Hội An

truyền đạo và đã phát triển rộng ra các địa bàn trong toàn tỉnh. Hội thánh Tin lành

Đà Nẵng và Quảng Nam là một hội thánh lớn trong Tổng liên hội Hội thánh Tin

lành Việt Nam (Miền Nam). Hiện nay trên địa bàn huyện có 2 tổ chức Tin lành hợp

pháp đó là: Hội thánh Tin lành Miền Nam (Tin lành CMA); Hệ phái Tin lành

Trưởng lão Việt Nam, với các cơ sở và điểm nhóm như sau: Chi Hội Tin lành Quế

Sơn (thị trấn Đông Phú), Chi Hội tin lành Quế Xuân 1 và 03 điểm nhóm được công

nhận.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 03 nhóm Tin lành hoạt động chưa được

nhà nước công nhận, đó là: nhóm hệ phái Tin lành Liên hữu cơ đốc xã Quế Thuận,

nhóm phái Ngũ tuần tại xã Quế An, nhóm phái Ngũ tuần tại Quế Phong với số

lượng 210 tín đồ. Nhìn chung hoạt động của các hệ phái Tin lành cơ bản ổn định,

đúng quy định pháp luật. Trước khi tổ chức các hoạt động đều báo cáo, xin phép

chính quyền địa phương thống nhất rồi mới tổ chức. Đối các điểm nhóm Tin lành

trên địa bàn huyện hầu hết là tổ chức sinh hoạt tại gia, mượn nhà để sinh hoạt.

36

Cao Đài: Đối với Quế Sơn, đạo Cao Đài có 02 hệ phái (Cao đài truyền giáo

và Cao đài Tây Ninh), trong đó Cao đài Truyền giáo chỉ có một Thánh Thất Trung

kiên (được tách ra từ Cao Đài Trung An, xã Bình Lâm huyện Hiệp Đức vào năm

1963), đến nay có 265 đạo hữu, 09 chức sắc, chức việc. Ngoài ra có Cao đài Tây

Ninh 02 tín đồ, sinh hoạt tại gia. Nhìn chung các chức sắc, chức việc, đạo hữu đạo

Cao đài ở huyện tích cực làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, sinh hoạt đạo thuần

túy: tổ chức Lễ vía Đức Chí tôn vào ngày 9 AL hằng năm; tổ chức Hội nhân sinh để

tổng kết công tác đạo sự; củng cố lại Ban cai quản, Lễ Sanh Ngọc Chín Thanh được

cử làm đầu họ. Song vấn đề cần quan tâm đó là: Tranh chấp đất đai về lối đi vào cơ

sở Thánh Thất Trung Kiên giữa cơ sở với các hộ dân lân cận kéo dài nhiều năm

chưa được giải quyết, một vấn đề cần quan tâm nữa là cơ sở này nằm ở vùng Tây

của huyện, nơi giáp tranh với một số xã của Thăng Bình và Hiệp Đức nên gây khó

khăn trong công tác QLNN về hoạt động tôn giáo đối với Đạo này.

Đạo Baha’i với 80 đạo hữu, về tổ chức hoạt động theo hình thức tại gia sinh

hoạt tại 03 ðiểm (Cộng ðồng Baha’i tại xã Quế Xuân 1, Cộng ðồng Baha’i tại xã

Quế Châu, Quế Minh).

Ngoài ra trên địa bàn huyện trong những năm gần đây đã xuất hiện một số

tín ngưỡng, tôn giáo mới như: Ứng đồng bốc thuốc, Hiện tượng “Búp bê Kuman

Thong”; Hội Thánh đức chúa trời mẹ, ...Tuy nhiên đối với các hình thức tín

ngưỡng, tôn giáo này, chính quyền các cấp trên địa bàn đã dùng nhiều biện pháp

như: tuyên truyền, kiên trì, thuyết phục vận động và nhất là lực lượng an ninh đã

đấu tranh ngăn chặn nên chủ yếu hoạt động lén lút, co cụm.

Nhìn chung tại huyện Quế Sơn có nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau và du

nhập vào mỗi thời điểm khác nhau cũng như số lượng cơ sở tôn giáo, chức sắc,

chức việc, số lượng tín đồ và mỗi tổ chức tôn giáo có hệ thống giáo lý, giáo luật

khác nhau,... nhưng đều tồn tại và phát triển, thực hiện tốt việc đạo và đời ở địa

phương. Cùng với sự phát triển KT-XH của huyện, nhiều cơ sở tôn giáo được cải

tạo, sửa chữa và xây dựng mới khang trang; bên cạnh đời sống vật chất của chức

37

sắc, chức việc, người tu hành, tín đồ các tôn giáo được cải thiện nâng cao thì việc

sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cũng được chăm lo, đi vào nề nếp. Chính quyền các

cấp quan tâm, tạo điều kiện cho các tôn giáo cùng tín đồ sinh hoạt tôn giáo thuần

túy theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật và theo quy định của pháp luật. Qua đó tạo

mối quan hệ gần gũi giữa chính quyền với các tổ chức, tín đồ các tôn giáo; đồng

thời giúp họ tin tưởng và tích cực tham gia các phong trào xã hội ở địa phương.

Tiểu kết Chương 1

Nội dung của chương 1 trong luận văn tác giả đã phân tích làm rõ các lý

luận cũng như tư tưởng mang tính chỉ đạo, định hướng về tôn giáo, thực hiện chính

sách tôn giáo, như: quan điểm của Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo;

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.

Trong chương này tác giả làm rõ khái niệm về chính sách công, thực hiện

chính sách công, thực hiện chính sách tôn giáo cũng như quy trình về các bước

trong tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo. Tác giả cũng đã nêu trên một

số đặc điểm của từng tôn giáo sinh hoạt trên địa bàn: Phật giáo, Tin lành, Công

38

giáo, Cao đài, Bahai, trong đó Phật giáo là tổ chức tôn giáo có nhiều cơ sở tôn giáo,

chức sắc và đông tín đồ nhất và ít nhất là Đạo Bahai; đồng thời học viên cũng đã

nêu lên được đặc điểm về vị trí địa lý, tình hình KT-XH đã tác động đến việc triển

khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn trong những năm qua.

Qua nghiên cứu các vấn đề về lý luận, quan điểm, chủ trương đối với chính

sách tôn giáo, cơ sở thực tiễn về chính sách Tôn giáo của Nhà nước hiện nay và đặc

điểm, tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn tại chương này là nền tảng, cơ

sở khoa học cho việc tổng hợp, phân tích đánh giá sâu sát thực trạng công tác thực

hiện chính chính sách tôn giáo thể hiện trong Chương 2 dưới đây và đề ra những

giải pháp hữu hiện trong Chương 3.

39

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Quy trình thực hiện chính sách tôn giáo gồm bảy bước như tác giả luận văn

đã trình bày ở Chương 1 đó là: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

tôn giáo; phổ biến, tuyên truyền chính sách; phân công phối hợp; duy trì chính sách;

điều chỉnh chính sách; đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách; đánh giá,

tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo. Tuy nhiên, với quy mô của

một huyện nhỏ, dân số không đông và tình hình thực tế trong công tác tổ chức triển

khai thực hiện chính sách ở huyện thì việc điều chỉnh chính sách đến nay chưa được

thực hiện. Do đó trong luận văn này tác giả Luận văn chỉ phân tích 6 bước trong

quy trình thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cụ thể

như sau:

2.1. Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay

2.1.1. Thực trạng việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

tôn giáo

Trong những năm qua, các cấp, các ngành tại huyện Quế Sơn đã xây dựng

kế hoạch thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về tôn giáo dựa trên các bản

chính thống như: Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, Nghị định số

22/NĐ-CP và sau này là Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 8/11/2012 của Chính Phủ

về “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”;

Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của BCH Trung ương Đảng (khóa IX)

về công tác tôn giáo; Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31/12/ 2008 của Thủ

tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg,

ngày 4/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành;

Thông tư số 01 của Bộ Nội vụ về ban hành và Hướng dẫn sử dụng biểu mẫu về

thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và Luật tín ngưỡng, tôn

giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/ 2017 của Chính

40

phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn

giáo,..và trên cơ sở các văn bản chỉ đạo trực tiếp của tỉnh Quảng Nam như: Kế

hoạch số 160/KH-UBND ngày 07/01/2013 về tiếp tục triển khai Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo của UBND tỉnh Quảng Nam và triển khai thực hiện Nghị định số

92/NĐ-CP ngày 8/11/2012; Quyết định số 603/2011/QĐ-UBND ngày 25/02/2011

của UBND tỉnh về việc chấp thuận để Hội đồng tinh thần tôn giáo Baha'i Việt

Nam thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; Kế hoạch số 65-/KH-UBND ngày

21/12/2017 của UBND tỉnh về bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo

trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2020; Chỉ thị số 20/2007/CT-UBND ngày

20/4/2007 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc đăng ký sinh hoạt các tổ chức, hệ

phái đạo tin lành và các tổ chức tôn giáo khác chưa có pháp nhân; Quyết định số

33/2013/QĐ-UBND tỉnh về ban hành quy chế phân cấp về QLNN về tín ngưỡng,

tôn giáo (trên cơ sở thực hiện Nghị định 92 ngày 08/11/2012 của Chính Phủ);

Quyết định số 16/2018/QĐ-UBND ngày 05/12/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam

về ban hành quy chế phân cấp một số công tác QLNN về tín ngưỡng, tôn giáo

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (trên cơ sở thực hiện Nghị định 162 của Chính Phủ);

Quyết định số 2030/2019/QĐ-UBND, ngày 20/6/2019 của UBND tỉnh về việc

đính chính điểm B, Điều 3 quy chế phân cấp một số công tác QLNN về tín ngưỡng,

tôn giáo trên địa bàn huyện,..

Cụ thể: như để triển khai thực hiện Kế hoạch số 160/KH-UBND ngày

07/01/2013 về tiếp tục triển khai Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của UBND tỉnh

Quảng Nam và triển khai thực hiện Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 8/11/2012 Quy

định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, UBND huyện

Quế Sơn đã ban hành Kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 18/2/2013 để triển khai thực

nội dung Kế hoạch trên, tại kế hoạch đã phân công cho Phòng Nội vụ chủ trì có

trách nhiệm xây dựng kế hoạch tập huấn và triển khai Nghị định 192 cho đội ngũ

cán bộ phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện; giao Phòng Tư pháp phối

hợp với Mặt trận, các đoàn thể đẩy mạnh tổ chức các đợt phổ biến, tuyên truyền

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nghị định 192 của Chính phủ và các chủ trương,

41

chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo cho hội, đoàn viên của các đoàn thể

và các tầng lớp nhân dân thông qua các buổi sinh hoạt hội, đoàn thể, họp dân,…tại

các khu dân cư, tổ dân phố trên địa bàn; về kinh phí cho mở lớp tập huấn và phổ

biến triển khai UBND huyện giao cho Phòng TC-KH huyện cân đối ngân sách của

địa phương tham mưu phân bổ; thời gian tổ chức thực hiện trong quí 2 năm 2013 và

giao Phòng Nội vụ có trách nhiệm theo dõi việc triển khai Kế hoạch này...Đồng thời

để triển khai thực hiện tốt chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện, UBND huyện đã

ban hành Công văn số 25/UBND-VX ngày 22/3/2013 về chỉ đạo các ngành, các xã

trên địa bàn triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước

về tín ngưỡng, tôn giáo, trọng tâm là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004,...

Để triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định

số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ theo Công văn số 167/SNV-BTG ngày

15/12/2017 của BTG tỉnh Quảng Nam về thực hiện một số nội dung liên quan đến

Luật tín ngưỡng, Tôn giáo, UBND huyện Quế Sơn đã ban hành Công văn số

1391/UBND -NC ngày 27/12/2017 về thực hiện một số nội dung của Luật tín

ngưỡng, tôn giáo 2016; nội dung công văn này đã chỉ đạo các cấp, các ngành trên

địa bàn huyện chú trọng công tác QLNN về tôn giáo theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo

và Nghị định 162 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật.

Nhằm triển khai Kế hoạch số 65-/KH-UBND ngày 21/12/2017 của UBND

tỉnh về bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh giai

đoạn 2018-2020; UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 122/KH-UBND ngày

22/02/2018 về tổ chức tập huấn công tác tôn giáo năm 2018 cho đội ngũ cán bộ phụ

trách công tác tôn giáo trên địa bàn; tại Kế hoạch nêu rõ: Giao Phòng Nội vụ huyện

chủ trì có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tập huấn công tác

tôn giáo cho cán bộ phụ trách công tác tôn giáo, trọng tâm là phổ biến Luật tín

ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng

thời tham mưu UBND huyện ra quyết định triệu tập cán bộ lãnh đạo phụ trách công

tác tôn giáo của các cấp, các ngành liên quan ở huyện (Phòng Tài nguyên-Môi

trường, Phòng Văn Hóa-Thông tin, Công an, Ban Dân vận,…) đi tập huấn công tác

42

tôn giáo ở tỉnh khi tỉnh thông báo triệu tập; nhằm để đảm bảo kinh phí thực hiện

ngoài kinh phỉ tỉnh hỗ trợ, UBND huyện giao Phòng Nội vụ phối hợp với Phòng

TC-KH huyện tham mưu triển khai thực hiện nhằm đảm bảo chế độ, chính sách cho

đội ngũ cán bộ khi tham gia tập huấn công tác công tôn giáo ở huyện cũng như ở

tỉnh.

Thực hiện Kết luận số 08-KL/TW ngày 02/08/2011 của BBT “về xây dựng

lực lượng cốt cán trong tôn giáo” và Hướng dẫn số 21-HD/BCĐ ngày 9/5/2013 của

BCĐ công tác tôn giáo Tỉnh ủy Quảng Nam về hướng dẫn xây dựng lực lượng cốt

cán trong tôn giáo ở các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh, huyện đã ban hành Kế

hoạch số 32-KH/HU, ngày 03/10/2013 về xây dựng lực lượng cốt cán trên địa bàn;

giao Ban Dân vận chủ trì phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể xây dựng cốt cán của

huyện và chỉ đạo các xã triển khai thực hiện. Đến nay huyện đã xây dựng được Đề

án cốt cán phong trào của huyện và 14 xã đã xây dựng đề án với 73 cốt cán trong

các tôn giáo.

Để nắm tình hình Hội thánh Đức chúa trời mẹ theo sự chỉ đạo của UBND

tỉnh và BTG tỉnh Quảng Nam, UBND huyện đã ban hành Công văn số 05/UBND-

NC ngày 21/5/2018 về chỉ đạo các cấp, các ngành chức năng của huyện theo dõi,

nắm tình hình hoạt động của tổ chức tự xưng “Hội thánh Đức chúa trời mẹ” trên cơ

sở chỉ đạo tại Công văn số 62/UBND ngày 58/5/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam.

Hay để triển khai Kế hoạch số 03/KH-BTG, ngày 07/4/2017 của BTG tỉnh

Quảng Nam về kiểm tra tình hình thi hành pháp luật và thực hiện pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo năm 2017 trên địa bàn tỉnh, UBND huyện đã xây dựng Kế hoạch

số 37/KH-UBND, ngày 19/4/2017 về triển khai nội dung kế hoạch trên, nội dung kế

hoạch là kiểm tra tình hình thi hành pháp luật và thực hiện pháp luật về tín ngưỡng,

tôn giáo năm 2017 trên địa bàn huyện; giao Phòng Nội vụ chủ công, đối tượng kiểm

tra là UBND các xã, thị trấn và các cơ sở tôn giáo trên địa bàn; Phòng TC-KH

huyện tham mưu phân bổ hỗ trợ thực hiện nội dung Kế hoạch.

43

Ngoài ra, UBND huyện còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các ngành

hướng dẫn, quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tổ chức sinh

hoạt tôn giáo theo Giáo lý, Giáo luật tôn giáo nhân các ngày lễ trọng của từng tổ

chức tôn giáo. Đồng thời, Phòng Nội vụ cũng đã ban hành hàng loạt các văn bản

chỉ đạo nhằm để triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu quả.

Qua đó cho thấy rằng với việc ban hành các văn triển khai và chỉ đạo thực

hiện công tác tác tôn giáo của Trung ương, Chính phủ, mới đây nhất là Luật tín

ngưỡng, tôn giáo ra đời, các nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành Luật tín

ngưỡng, tôn giáo cùng các văn bản lãnh đạo, triển khai thực hiện chính sách tôn

giáo của tỉnh và việc xây dựng các kế hoạch, công văn,...của huyện về công tác tôn

giáo là những văn bản quy phạm pháp luật, là cơ sở, hành trang pháp lý để cho các

cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, địa phương tổ chức triển khai thực hiện chính

sách tôn giáo và quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định. Trong quá trình thực

hiện luôn định hướng, đưa hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo theo đường

hướng hành đạo với đời; tránh được những hoạt động đội lốt tôn giáo để làm trái

quy định của Nhà nước. Qua đó, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tâm linh của một

bộ phận quần chúng nhân dân; đồng thời với việc ban hành các văn bản như trên

được xem là công cụ sắc bén nhằm để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các

thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm mất

ANCT-trật tự ATXH trên địa bàn, góp phần tích cực trong việc tập hợp đoàn kết,

phát huy sức mạnh toàn dân trong trong quá trình xây dựng quê hương giàu đẹp

Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện vẫn còn hạn chế nhất định: Việc xây

dựng kế hoạch thực hiện cũng như việc xây dựng các văn bản triển khai thực hiện

công tác tôn giáo có lúc chưa kịp thời như Kế hoạch xây dựng Đề án cốt cán tôn

giáo của tỉnh ban hành năm 2011 nhưng đến năm 2013 huyện mới xây dựng, hay

như kế hoạch phát triển đảng viên trong tôn giáo chưa được chú trọng.

2.1.2 . Thực trạng việc tuyên truyền, phổ biến chính sách tôn giáo

44

Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể CT-XH đã đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo; cụ thể trong những

năm qua cấp ủy đã lồng ghép tổ chức 05 hội nghị quán triệt nội dung các văn bản

của BBT, BCH Trung ương Đảng, Tỉnh ủy về công tác tôn giáo cho 500 lược đội

ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Việc quán triệt

quan điểm về tôn giáo và công tác tôn giáo của Trung ương, của tỉnh, huyện còn

được một số xã quán triệt cho cán bộ, đảng viên trong từng địa bàn.

Thực hiện quyết định số 83/2007/QĐ-TTg về đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm

công tác tôn giáo và sự chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam, UBND huyện đã xây

dựng kế hoạch tập huấn về công tác tôn giáo cho đội ngũ, cán bộ phụ trách công tác

các cấp trên địa bàn và thực hiện chế độ tập huấn theo quy định của Nhà nước.

Để triển khai Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi hành

Pháp lệnh, UBND huyện đã mở 02 lớp tập huấn cho 250 lược cán bộ phụ trách công

tác tôn giáo trên địa bàn. Và để triển khai Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016,

UBND huyện đã phối hợp mở được 01 lớp tập huấn, phổ biến Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo và quán triệt các văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước về công

tác tôn giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo của 14 xã, thị trấn và

Trưởng thôn ở 107 khu dân cư, tổ dân phố trên địa bàn huyện với trên 100 lượt

người tham dự (năm 2017 một lớp). BCĐ công tác tôn giáo của huyện đã mở được

02 lớp tập huấn công tác tôn giáo cho các đối tượng là thành viên BCĐ công tác tôn

giáo của 14/14 xã với gần 140 lượt người tham dự. Bên cạnh đó, UBND huyện đã

cử đội ngũ cán bộ ở các cơ quan, ban ngành ở huyện và cán bộ chủ chốt ở xã đi tập

huấn công tác tôn giáo do BTG Chính phủ và BTG tỉnh Quảng Nam triệu tập đúng

thành phần và thời gian quy định.

Ngoài ra, UBND huyện chỉ đạo Phòng Tư pháp phối với Mặt trận, đoàn thể

của huyện mở được 20 lớp tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà

nước, trong đó có chính sách tôn giáo có 3.000 lượt người tham dự, trong đó có gần

500 lượt tín đồ các tôn giáo tham dự.

45

Bên cạnh việc tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội nghị..., việc quán triệt

công tác tôn giáo của Đảng, phổ biến pháp luật về tôn giáo của Nhà nước cho đội

ngũ cán bộ đảng viên còn được Mặt trận, các đoàn thể huyện lồng ghép tuyên

truyền đến cán bộ, hội, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân thông qua một số lớp tập

huấn về công tác hội, đoàn thể và các cuộc họp dân tại khu dân cư, tổ dân phố trên

địa bàn. Ngoài ra còn được lồng ghép tuyên truyền, phổ biến thông qua các buổi

sinh hoạt, tổng kết, lễ trọng các của các tôn giáo như: Lễ Giáng sinh, Phật đản, Phục

sinh, Vu lan - báo hiếu, An cư Kiết hạ,...cho khoảng 1.000 lượt chức sắc, chức việc,

nhà tu hành, tín đồ tôn giáo.

Với việc đa dạng hóa các hình thức, tuyên truyền, phổ biến pháp luật tôn giáo

cho các tầng lớp nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về chủ trương,

chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo đã nâng cao nhận thức của cấp ủy,

chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể CT-XH, các ngành chức năng liên quan đến

công tác tôn giáo trên địa bàn huyện; các cấp, các ngành trong quá tŕnh thực thi

chính sách tôn giáo đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về chính sách tôn

giáo; các nhu cầu chính đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được chính quyền

các cấp giải quyết kịp thời theo quy định. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công

tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo; tình hình

ANCT- trật tự ATXH trên địa bàn tiếp tục được giữ vững. Ngoài ra, nhờ làm tốt

công tác tuyên truyền, nhận thức của đội ngũ chức sắc, chức việc, nhà tu hành, cùng

một bộ phận tín đồ của các tổ chức tôn giáo được nâng cao; tích cực tham gia các

phong trào xã hội. Đến nay, tổng số chức sắc, chức việc, tín đồ tham gia vào các tổ

chức CT-XH trên địa bàn huyện là 21 vị, trong đó cấp huyện 06 vị, cấp xã 19 vị.

Nhìn chung, cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

tôn giáo được các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị triển khai một cách kịp

thời theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND, BTG tỉnh Quảng Nam. Qua đó góp phần

nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, Mặt trận, đoàn

thể trong hệ thống chính trị trên địa bàn huyện về công tác tôn giáo; tạo sự chuyển

biến tích cực trong đội ngũ chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, sinh hoạt tôn

46

giáo được tổ chức theo Giáo lý, Giáo luật và chấp hành tốt chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; đồng bào có đạo tích cực tham gia các

phong trào thi đua yêu nước, nhất là tham gia các hoạt động xã hội - từ thiện nhân

đạo.

Bên cạnh công tác tuyên truyền, thì công tác vận động quần chúng tín đồ, chức

sắc, chức việc tôn giáo được các cấp, các ngành trên địa bàn huyện chú trọng. Để

thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua, huyện Quế Sơn trong quá trình tổ

chức thực thi chính sách tôn giáo đã chú trọng đến công tác này. Điều đó được thể

hiện trong nghị quyết, chương trình công tác hàng năm của cấp ủy, chính quyền, các

ngành, Mặt trận, đoàn thể, trong những văn bản nêu trên đều đề ra nhiệm vụ là tăng

cường công tác vận động quần chúng nhân dân nói chung, chức sắc, chức việc tín

đồ các tôn giáo nói riêng phải chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu

nước; đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân; vận động đồng bào có đạo

sống theo phương châm “Tốt đời đẹp đạo” và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho

công tác này là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, dân trí cho nhân dân trong đó

có đồng bào có đạo; tạo mối quan hệ tốt đẹp, gần gũi giữa quần chúng với cấp ủy

Đảng và chính quyền; luôn phát huy dân chủ, tiếp thu nhu cầu, nguyện vọng chính

đáng của tín đồ, chức sắc để đề ra biện pháp giải quyết phù hợp với tình hình thực tế

của địa phương. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong những năm qua cấp ủy Đảng,

chính quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp tăng cường tiếp xúc, tác động đội ngũ

chức sắc, chức việc, người có uy tín trong tôn giáo nhằm giáo dục chính trị tư tưởng

sâu rộng trong đồng bào theo đạo. Đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của họ đối với các

chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong công tác tôn giáo.

Tích cực vận động lực lượng này không nghe theo sự xúi giục của các thế lực thù

địch, lợi dụng tôn giáo để thực hiện các hoạt động xâm phạm ANQG, chia rẽ Khối

đại đoàn kết toàn dân, kích động gây rối, phòng chống âm mưu chiến lược “Diễn

biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”.

47

Về chế độ chính sách: khi mở lớp tập huấn công tác tôn giáo trên địa bàn được

thực hiện đầy đủ chế độ cho học viên trên địa bàn huyện theo Quyết định số

83/2007/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng và các nghị quyết

của HĐND tỉnh về chi hỗ trợ tập huấn, bồi dưỡng của tỉnh và theo Nghị quyết số

52/2018/NQ-HĐND tỉnh Quảng Nam về mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã; những người

hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Cán

bộ làm phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện không có kinh phí đặc thù.

Song công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,

tôn giáo và công tác vận động chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện

còn có những hạn chế nhất định: Công tác này chưa được thực hiện thường xuyên,

chưa đồng bộ và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.

2.1.3. Thực trạng công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách

tôn giáo

*. Về công tác phân công

Trên cơ sở thực hiện các Quyết định về ban hành quy chế phân cấp về

QLNN về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Quyết định số

33/2013/QĐ-UBND tỉnh; Quyết định số 16/2018/QĐ-UBND ngày 05/12/2018 của

UBND tỉnh và Quyết định số 2030/2019/QĐ-UBND, ngày 20/6/2019 của UBND

tỉnh về việc đính chính điểm B, Điều 3 quy chế phân cấp một số công tác quản lý

Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện,... và thực hiện Quyết định số

60- QĐ/HU, ngày 15/3/2011 của BTV Huyện ủy Quế Sơn về thành lập BCĐ công

tác tôn giáo huyện cùng các quy định, nghị định, hướng dẫn trong việc giải quyết

các thủ tục hành chính của các cơ quan chức năng của tỉnh đối với các tổ chức, cá

nhân tôn giáo,..; nhằm phát huy và tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành

trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn: Về Đảng đã thành lập

BCĐ công tác tôn giáo huyện, gồm 12 đồng chí, trong đó cơ cấu đồng chí Phó Bí

thư Huyện ủy làm Trưởng ban, 04 Phó ban, đồng chí Trưởng Ban Dân vận làm Phó

48

ban Thường trực, 03 đồng chí Phó ban còn lại phụ trách công tác QLNN về tôn

giáo, phụ trách Mặt trận, đoàn thể và phụ trách xã, thị trấn; các thành viên được cơ

cấu là lãnh đạo ở các cơ quan, ban, ngành liên quan; Ban này có chức năng tham

mưu cho Huyện ủy chỉ đạo, giải quyết tình hình công tác tôn giáo trên địa bàn theo

đúng quy định của pháp luật và quan điểm về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước. Nhiệm vụ hướng dẫn các ngành, địa phương trong huyện thực hiện tốt các chỉ

thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Nghiên cứu, tham mưu cho Huyện ủy

đề ra các chủ trương, biện pháp, chương trình, kế hoạch về công tác tôn giáo, đồng

thời đề xuất BTV Huyện ủy chỉ đạo giải quyết những vấn đề phức tạp về tôn giáo.

Chủ trì, phối hợp với Mặt trận, đoàn thể, các ngành, địa phương tập trung tuyên

truyền, vận động các chức sắc, tín đồ tôn giáo thực hiện tốt đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giúp Huyện ủy kiểm tra, giám sát

các ngành, địa phương trong việc chấp hành thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ được giao về công tác tôn giáo. Đề xuất

phương án quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công

tác tôn giáo của các ngành, địa phương trên địa bàn huyện. Chỉ đạo việc xây dựng,

bồi dưỡng, quản lý, sử dụng lực lượng nòng cốt trong tôn giáo. Đồng thời, để tạo

điều kiện cho BCĐ công tác tôn giáo hoạt động, hàng năm UBND huyện đã phân

bổ 12.500.000 đồng để làm lộ phí cho thành viên BCĐ này đi công tác cơ sở.

Đối với cấp xã có 14/14 xã, thị trấn trên địa bàn đều thành lập BCĐ công tác

tôn giáo, mỗi ban có từ 10 đến 12 thành viên, do đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy làm

Trưởng Ban, Phó Ban là đồng chí PCT UBND và đồng chí Chủ tịch Mặt trận, thành

viên là các ngành liên quan của xã.

Đối với Khối Nhà nước: Thực hiện Thông tư số 04/2010/TT-BNV ngày

20/5/2010 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn tại mỗi UBND cấp huyện, lĩnh vực tôn giáo

do một phó chủ tịch UBND phụ trách văn hóa, xã hội đảm nhiệm; để triển khai thực

hiện tốt chính sách tôn giáo, đối với Quế Sơn đã bố trí một đồng chí phó chủ tịch

UBND phụ trách văn hóa - xã hội đảm nhiệm công tác tôn giáo của huyện; tại

Phòng Nội vụ phân công 01 Phó Trưởng phòng và 01 chuyên viên của Phòng đảm

49

nhiệm công tác tôn giáo - có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện chỉ đạo,

hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo; chủ trì, phối hợp với các

cơ quan chuyên môn cùng cấp để thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo và giúp

UBND huyện giải quyết những vấn đề cụ thể về tôn giáo theo quy định và theo

hướng dẫn của Sở Nội vụ. Đồng thời, tại các phòng, ban liên quan đến công tác

quản lý hoạt động tôn giáo của huyện như: Phòng Văn Hóa Thông tin- phụ trách

công tác hướng dẫn tổ chức treo cờ, băng rôn, pa nô,.. nhân các ngày lễ trọng của

các tôn giáo theo quy định; Phòng Tài Nguyên Môi Trường, Văn phòng đất đai

huyện-phụ trách công tác cấp giấy chứng nhận QSD đất tôn giáo; Đội Quản lý Trật-

Xây dựng-phụ trách công tác cấp phép xây dựng các công trình chánh điện và phụ

trợ của các cơ sở tôn giáo trên địa bàn huyện đều được UBND huyện chỉ đạo bố trí

lãnh đạo và chuyên viên phụ trách công tác này.

Đối với Lực lượng vũ trang - phụ trách lĩnh vực an ninh nói chung trong đó

có an ninh tôn giáo: về Công an huyện đã phân công 01 Phó Trưởng Công an huyện

và Đội trưởng của Đội An ninh huyện phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn

huyện. Quân sự huyện phân công đồng chí Chính trị viên phó và cán bộ tuyên huấn

phụ trách công tác tôn giáo. Đối với cấp xã có 14/14 xã, thị trấn đã phân công cán

bộ, công chức Văn phòng UBND xã kiêm nhiệm công tác tôn giáo.

Với việc phân công như trên cho thấy rằng các cấp, các ngành trên địa bàn

huyện đã chú trọng công tác phân công các ngành và bố trí cán bộ phụ trách công

tác tôn tôn giáo từ huyện đến cơ sở.

.* Về công tác phối hợp tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

Trên cơ sở phân công như trên, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo chỉ

đạo trực tiếp của Huyện ủy, UBND huyện, sự hướng dẫn, chỉ đạo của Tỉnh ủy,

UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn của tỉnh Quảng Nam trong quá trình thực

thi công vụ có liên quan đến công tác tôn giáo các cán bộ, công chức phụ trách công

tác này ở cơ quan, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể trên địa bàn huyện đã có sự phối

50

hợp, trao đổi, thông tin với nhau và đã tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền

địa phương cùng cấp trong giải quyết các thủ tục hành chính, xem xét, giải quyết

các vụ việc phát sinh trong công tác QLNN đối với công tác tôn giáo trên địa bàn

huyện đạt những kết quả quan trọng, không để phát sinh điểm nóng.

Để triển khai thực hiện chính sách tôn giáo, được sự phân công của UBND

huyện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Phòng Nội vụ phụ trách công tác QLNN

đối với công tác tôn giáo đã phối hợp với các ngành chức năng liên quan (Phòng

Tài Nguyên-Môi trường, Phòng Văn hóa-Thông tin, Công an..) chủ động tham mưu

UBND huyện giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo một cách kịp thời không

để nảy sinh điểm nóng liên quan đến tôn giáo. Đã tích cực phối hợp đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo; phối hợp thuyết phục

vận động các chức sắc, chức việc, nhà tu hành cùng đồng bào các tôn giáo thực hiện

tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, Pháp luật của Nhà nước về tôn

giáo. Trong quá trình tham mưu triển khai thực hiện chính sách tôn giáo luôn đảm

bảo nguyên tắc nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam đó là tôn trọng quyền tự

do tôn giáo và không tôn giáo của công dân; mọi nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính

đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được chính quyền chấp thuận, cho phép sinh

hoạt theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật của các tôn giáo. Đồng thời đã hướng

dẫn cho tổ chức, cá nhân tôn giáo khi sinh hoạt tôn giáo phải trong khuôn khổ Hiến

pháp, pháp luật cho phép. Đối với các ngày lễ trọng của từng tổ chức tôn giáo được

các cấp, các ngành tạo kiện tổ chức trang nghiêm, đúng quy định.

Để nắm chắc tình hình số lượng tín đồ tôn giáo cũng như nhu cầu sử dụng

đất của từng cơ sở tôn giáo trên địa bàn, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND

huyện đã thành lập tổ công tác gồm các ngành chức năng của huyện (Phòng Nội vụ,

Phòng Tài nguyên-Môi trường, Kinh tế-Hạ tầng, Đội quản lý trật tự xây dựng,..) để

thực hiện nhiệm vụ này. Trong quá trình thực hiện các cơ quan, ban, ngành đã phối

hợp với nhau trong công tác khảo sát, điều tra tín đồ các tôn giáo; phối hợp đến tận

các cơ sở tôn giáo để làm việc với chủ cơ sở tôn giáo (trụ trì, Ban hộ tự các chùa,

Ban hộ tự, Ban trị sự chi hội Tin lành, Ban hành giáo Hội đồng giáo xứ,…) cùng

51

chính quyền từng xã để trao đổi, nắm bắt được thực tế hiện trạng sử dụng đất, nhu

cầu sử dụng đất tại các cơ sở tôn giáo trên địa bàn trên cơ sở đó tham chính quyền

giải quyết.

Để nắm chắt tình hình hoạt động của tôn giáo, cấp ủy, chính quyền chỉ đạo

lực lượng an ninh ở huyện đã tăng cường công tác tuần tra nhằm đảm bảo an ninh

trong các hoạt động của tổ chức tôn giáo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này

lực lượng an ninh đã phối hợp với các ngành liên quan, qua đó đã phát hiện và kịp

thời ngăn chặn hoạt động lợi dụng cấp quà từ thiện để tuyên truyền đạo trái pháp

luật tại Hội thánh Tin lành Bà Rén, Hội thánh Tin lành Quế Sơn; nắm bắt kịp thời

đối tượng tham gia sinh hoạt “Hội thánh Đức chúa trời” tại Đà Nẵng; việc tự ý cúng

đất xây chùa tại xã Quế Long; ý đồ chôn cất thi hài của Ông Lê Đình Đào (Thích

Hạnh Hải thuộc Giáo Hội Việt Nam Thống nhất tại khuôn viên Nhà thờ tộc Lê Đình

-Thôn Thạch Thượng xã Quế Phong; việc chôn cất thi hài của cha Thích Đồng An

tại chùa An Xuân - Phú Thọ), ... trên cơ sở đó tham mưu cấp ủy, chính quyền giải

quyết kịp thời không để phát sinh điểm nóng về tôn giáo. Quan trọng hơn lực lượng

an ninh đã chủ động, phân tích, dự báo trước tình hình để chủ động triển khai thực

hiện hiệu quả, không để bị động, lúng túng khi tình huống xấu, bất ngờ liên quan

đến tôn giáo có thể xảy ra; làm tốt công tác quản lý số chức sắc, chức việc ra nước

ngoài và về địa phương và người nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với chức sắc,

chức việc và tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện.

Để đảm bảo ANCT, trật tự ATXH, nhằm tạo điều kiện nhân dân yên tâm lao

động sản xuất, thi đua thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ trên các lĩnh vực

đời sống xã hội chính quyền đã chỉ đạo lực lượng an ninh trên địa bàn huyện đã chủ

động xây dựng phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong toàn

107 khu dân cư, tổ dân phố trân địa bàn. Trong quá trình tổ chức thực hiện lực

lượng Công an đã phối hợp với Mặt trận, đoàn thể xây dựng được nhiều mô hình

dân vận khéo tại khu dân cư trong đó có đồng bào có đạo, tiêu biểu như mô hình:

Tiếng mõ an ninh, Loa an ninh, Tổ dân cư không có tệ nạn xã hội, mô hình đèn

ngoài ngõ, mõ trong nhà, “Tổ hòa giải”, “Mô hình tái hòa nhập cộng đồng 1+”, Ban

52

An toàn trật tự -Tổ tự quản”, “Thắp sáng đường quê phòng chống tội phạm”,

“Camera an ninh”,... Đối với các cơ sở tôn giáo lực lượng an ninh tăng cường chủ

động theo dõi tình hình tại cơ sở.

Ngoài ra, hàng năm, nhân dịp tết cổ truyền của dân tộc và các ngày lễ trọng

của các tổ chức tôn giáo UBND huyện đã phối hợp với các ngành liên quan (Ban

Dân vận, Mặt trận, đoàn thể) xây dựng kế hoạch tổ chức đoàn đến thăm các tôn giáo

trên địa bàn. Qua đó tạo mối quan hệ gần gũi giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận,

đoàn thể với các tổ chức, cá nhân tôn giáo.

Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn

huyện đã phối hợp và chú trọng trong việc xây dựng và củng cố lực lượng chính trị

cơ sở, nhất là cốt cán trong các tổ chức tôn giáo của cả hệ thống chính trị tại địa

phương để theo dõi, kịp thời phát hiện các vụ việc, vấn đề phát sinh trong công tác

QLNN về tôn giáo; luôn đấu tranh, ngăn chặn và xử lý những hoạt động trái quy

định của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo; để làm tốt công tác này Mặt trận, đoàn

thể đã họp, phân công nhiệm vụ xây dựng cốt cán một cách rõ ràng, cụ thể đối

tượng này giao cho đoàn thể nào xây dựng và quản lý, qua đó đã tránh được sự

trùng lắp trong xây dựng.

Đối với đội ngũ cán bộ, trong quá trình thực thi công vụ đội ngũ cán bộ, công

chức phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn huyện đã làm tốt chức trách, nhiệm vụ

được giao theo quy định, đã phối hợp tham mưu các cấp ủy Đảng, chính quyền

lãnh, chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách tôn giáo đạt kết quả tích cực; tạo điều

kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo sinh hoạt tôn giáo thuần túy theo

Giáo lý, Giáo luật của từng tổ chức tôn giáo và trên tinh thần thượng tôn pháp luật;

chức sắc, nhà tu hành và đồng bào có đạo cùng toàn dân tích cực tham gia các hoạt

động xã hội, yên tâm sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất, tinh

thần; tích cực trong công tác đấu tranh đối với các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn

giáo để thực hành mê tín, dị đoan, truyền đạo trái pháp luật, gây rối trật tự công

cộng, ảnh hưởng đến ANQG, tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

53

Trong quá trình thực hiện có sự phân công trách nhiệm rõ ràng và có sự phối

hợp, nhưng trong thực hiện vẫn còn hạn chế nhất định ở một số nhiệm vụ trong

công tác QLNN về tôn giáo, nhất là trong công tác quản lý đất đai tôn giáo ở một số

cơ sở.

2.1.4 . Thực trạng việc duy trì chính sách đối với tôn giáo trên địa bàn

huyện Quế Sơn

Để chính sách tôn giáo tiếp tục tồn tại trong đời sống xã hội và phát triển

trong môi trường thực tế trước những biến thiên đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phụ

trách công tác tôn giáo trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo phải có trình

độ chuyên môn phù hợp, có năng lực công tác, nắm vững chính sách của Đảng, Nhà

nước ta về tôn giáo cũng như đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển của từng tổ

chức tôn giáo đang tồn tại và tôn giáo mới có thể du nhập vào tại địa phương; chủ

động, tích cực trong công tác tuyên truyên, vận động các chức sắc, chức việc, nhà tu

hành, tín đồ tôn giáo cùng toàn xã hội đồng tâm hợp lực thực hiện chính sách để sử

dụng, vận dụng linh hoạt hệ thống công cụ quản lý của Nhà nước nhằm tác động tạo

môi trường thích hợp để thực thi chính sách tôn giáo đúng theo chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đối với huyện Quế Sơn, trong những năm qua, trên cơ sở quan điểm, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các văn bản chỉ đạo,

quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách tôn giáo của tỉnh Quảng Nam trong quá

trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo các cấp, các ngành trong hệ

thống chính trị trong huyện đã nâng cao nhận thức, thống nhất chủ trương, trách

nhiệm trong thực hiện, luôn tạo điều kiện để tín đồ các tôn giáo được cấp phép hoạt

động và từng tổ chức tôn giáo sinh hoạt thuần túy. Đã giải quyết kịp thời nhu cầu

phong chức, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc; tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn

giáo thực hiện việc thành lập mới các điểm nhóm sinh hoạt, đến nay công nhận mới

54

03 điểm nhóm Tin Lành theo Chỉ thị số 01/2005 của Thủ tướng chính phủ gồm:

Hương An (01 điểm), thị trấn Đông Phú (02 điểm) và đã thống nhất đề nghị chuyển

danh xưng Niệm Phật đường Thạnh Bình xã Quế Xuân 1 thành chùa Thạnh Bình,...

Các ngày lễ trọng các tôn giáo xin phép và được chính quyền cho phép hoạt động

trong khuôn khổ pháp luật.

UBND huyện đã chấp thuận việc việc đăng ký, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử đội

ngũ chức việc của tổ chức tôn giáo trực thuộc (Ban trị sự GHPG huyện, Ban hộ tự

các chùa, Ban hành giáo đạo Công giáo, Ban trị sự Chi hội Tin lành, Ban cai quản

họ đạo Cao đài,...); tiếp nhận thông báo của các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo

trực thuộc trong việc thuyên chuyển chức sắc, chức việc đối với các cơ sở thờ tự

trên địa bàn; công văn thống nhất việc tổ chức trại họp bạn cho các em Gia đình

Phật tử huyện; việc tổ chức trại họp ngành nữ Gia đình Phật tử huyện; công văn cho

phép Ban Trị sự GHPG huyện tổ chức khóa tu học tập trung tín đồ toàn huyện hằng

năm; Công văn thống nhất tổ chức Lễ Vu lan, cầu siêu Bồ tạt của Đạo Phật...

UBND huyện đã chấp thuận cho Ban Trị sự GHPGVN huyện và Ban hộ tự

Chùa Thạnh Bình (Quế Xuân 1) tổ chức lễ công bố Quyết định bổ nhiệm trụ trì đối

với Sư cô Thích Nữ Đồng Hiếu; chấp thuận cho Ban trị sự GHPGVN huyện tổ chức

Trại họp bạn hè cho các em gia đình phật tử huyện Quế Sơn tại chùa Linh Sơn, xã

Hương An,..

Nhằm tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền với tổ chức tôn

giáo, UBND huyện đã chủ trì tổ chức gặp mặt chức sắc, chức việc trên địa bàn

huyện, tại buổi gặp mặt lãnh đạo huyện báo cáo tóm tắt tình hình phát triển KT-XH

ở địa phương, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn

giáo, ghi nhận những đóng góp tích cực của tôn giáo trong các lĩnh vực đời sống xã

hội, nhất là trong công tác nhân đạo từ thiện, đồng thời qua đó biểu dương, khen

thưởng những tập thể, cá nhân chức sắc tôn giáo tiêu biểu.

Song trong quá trình tổ chức thực hiện, chính quyền sẽ không giải quyết nếu

chưa đảm bảo các quy định như: UBND huyện không chấp thuận việc bổ nhiệm trụ

55

trì đối với Đại đức Thích Chúc Đạt vì chưa đủ điều kiện và tu sĩ Thích Nữ Đồng

Châu do không sinh hoạt tại huyện Quế Sơn trong năm 2016. Đến năm 2018 mới

chấp thuận việc bổ nhiệm trụ trì đối với Đại đức Thích Chúc Đạt vì mới đủ điều

kiện chấp thuận theo quy định.

2.1.5. Thực trạng việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn

giáo

Công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách tôn giáo là nhiệm

vụ rất vô cùng quan trọng của các cấp chính quyền; nhằm đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo của công dân; đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo sinh

hoạt tôn giáo theo quy định của Pháp luật; qua đó tuyên truyền nâng cao nhận thức

trong các tầng lớp nhân dân, nhất là các tổ chức, cá nhân tôn giáo nắm vững quan

điểm, chính sách của Nhà nước về tôn giáo; đề xuất các các giải pháp nhằm để đẩy

mạnh phát triển KT-XH, nâng cao đời sống người dân trong đó có đồng bào có

đạo. Qua theo dõi, kiểm tra, đôn đốc sẽ phát hiện những hạn chế, bất cập phát sinh

trong thực tế mà khi ban hành các chủ thể ban hành chính sách chưa tính đến, trên

cơ sở đó sẽ khắc phục, chấn chỉnh những hạn chế, thiết sót trong công tác tổ chức

thực thi chính sách và điều chỉnh, hoàn thiện chính sách, đưa chính sách đi vào

cuộc sống, đáp ứng nhu cầu tâm linh chính đáng của đồng bào có đạo; qua đó góp

phần nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước trong tình hình mới.

Thông qua kiểm tra, sẽ giúp cho UBND huyện Quế Sơn nắm bắt cụ thể về

tình hình thực tế việc thực hiện chính sách tôn giáo tại từng xã, trên cơ sở đó có

nhận xét, đánh giá một cách chính xác, khách quan về mặt được cũng như chưa

được trong công tác triển khai thực hiện chính sách tôn giáo của từng cơ quan, đơn

vị trên địa bàn có tôn giáo; giúp Phòng Nội vụ phát hiện những hạn chế, thiếu sót

trong xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách tôn giáo, trên cơ sở đó

tham mưu cấp chính quyền xử lý quyết liệt và có những kiến nghị, đề xuất với cấp

trên phù hợp. Tạo điều kiện cho các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phụ trách công

56

tác tôn giáo trong hệ thống chính trị cùng các tổ chức, cá nhân, tín đồ tôn giáo ở địa

phương trong triển khai thực hiện chính sách tôn giáo đạt mục tiêu của chính sách

tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đề ra. Qua kiểm tra công tác tôn giáo, Phòng Nội

vụ sẽ có cơ sở đề xuất UBND huyện biểu dương những tập thể, cá nhân của các cơ

quan phụ trách công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị cùng tổ chức, cá nhân tôn

giáo hoàn thành tốt trong tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo; đưa chính sách đi

vào cuộc sống, tạo điều kiện cho đồng bào các tôn giáo yên tâm sinh hoạt tôn giáo

theo Giáo lý, Giáo luật và trong khuôn khổ pháp luật, tích cực tham gia các phong

trào thi đua yêu nước ở địa phương.

Kết quả, từ năm 2014 đến năm 2019, BCĐ công tác tôn giáo và UBND

huyện Quế Sơn đã thành lập 25 Tổ kiểm tra và tiến hành kiểm tra việc thực hiện

chính sách tôn giáo các xã có cơ sở tôn giáo. UBND huyện đã kiểm tra được 9

cuộc, BCĐ công tác tôn giáo huyện kiểm tra 16 cuộc. Ngoài ra, hằng năm, BCĐ

công tác tôn giáo huyện cũng như UBND huyện tổ chức giao ban nắm tình hình

tôn giáo ở các xã, thị trấn trên địa bàn; đối với những địa phương có những phát

sinh trong công tác tôn giáo, cấp ủy, chính quyền, các ngành chuyên môn của

huyện đã đến địa bàn đó để nắm tình hình, phân tích và định hướng giải quyết kịp

thời, nhất là những phát sinh trong công tác quản lý đất đai tôn giáo, ý đồ chôn chất

thi hài của các đại đức khi qua đời, việc dựng tượng trái phép,....

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra

thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn chưa được thường

xuyên, công tác này chỉ được tiến hành khi có sự chỉ đạo của Huyện hay những

vấn đề phát sinh trong công tác tôn giáo.

2.1.6. Thực trạng việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính

sách tôn giáo

Những năm qua, Huyện ủy và UBND huyện Quế Sơn luôn quan tâm, chú

trọng đến công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai

thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,

57

UBND tỉnh và BTG Tỉnh ủy Quảng Nam. Cụ thể trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên

huyện đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền từ huyện đến 14 xã,

thị trấn tiến hành tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện các chỉ

thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo nói chung và đối

với từng tổ chức tôn giáo nói riêng như: Năm 2013, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị

quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của BCH ương Đảng (khóa IX) về công tác

tôn giáo; năm 2015, tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và

tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04/2/2005 của Chính

phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; năm 2016, đã sơ kết 05 năm thực hiện

Kết luận số 08-KL/TW của BBT về “Xây dựng lực lượng cốt cán trong tôn giáo”;

năm 2017, tổng kết 25 năm thực hiện Thông báo số 34-TB/TW, ngày 14-11-1992

của BBT về chủ trương công tác đối với đạo Cao Đài; năm 2018, báo cáo tổng kết

việc thực hiện Chỉ thị số 1940 Về vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo của Thủ

tướng Chính phủ và 10 năm thực hiện Thông báo số 148-TB/TW, ngày 04-4-2008

của BCT về việc giải quyết nhà, đất liên quan đến tôn giáo và sơ kết 05 năm thực

hiện Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 05-01-2013 của BBT khóa XI về chủ trương, giải

pháp giải quyết vấn đề hoạt động phục hồi “GHPG Việt Nam thống nhất”; năm

2019: tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005 của Thủ tưởng Chính phủ Về

một số công tác đối với đạo Tin Lành và Kết luận số 101-KL/TW, ngày 03/9/2014

của BBT về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới, ...

Trên cơ sở các báo cáo sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà

nước về công tác tôn giáo, các cấp, các ngành trên địa bàn huyện đã rà roát, tổng

hợp những kết của đạt được về công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện về

công tác quán triệt, phổ biến, công tác phân công, phối hợp thực hiện, công tác

QLNN về tôn giáo, nhất là công tác QLNN về đất đai tôn giáo; công tác đẩy mạnh

thực hiện chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển KT-XH, nâng cao

đời sống của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo; công tác vận động, tập

hợp quần chúng xây dựng lực lượng chính trị trong địa bàn có đạo; kết nạp đảng

viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo; công tác

58

xây dựng và sử dụng cốt cán phong trào ở các tôn giáo; công tác kiểm tra, giám sát

việc thực hiện, những hạn chế trong từng lĩnh vực và đã rút ra được những bài học

kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện, trên cơ sở đó đề ra những nhiệm vụ,

giải pháp để tổ chức thực hiện tốt các chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Đảng, chính

sách của Nhà nước về công tác tôn giáo trong thời gian đến. Đồng thời đã tổ chức

các hội nghị sơ kết, tổng kết, qua hội nghị đã tuyên dương, khen thưởng những tập

thể, cá nhân thực hiện tốt công tác tôn giáo. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức

của các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về

vị trí, vai trò của chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong giai đoạn

hiện nay.

2.2. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân

2.2.1. Những thành tựu

Trong những năm qua các cấp, các ngành trên địa bàn huyện đã quan tâm

đến công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về tôn giáo đến đội ngũ

cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khi tiếp cận các văn bản mới về công tác

tôn giáo; xây dựng kế hoạch và các văn bản triển khai thực hiện công tác tôn giáo

theo chỉ đạo của cấp trên; để thực hiện tốt chính sách tôn giáo trong quá trình thực

hiện chính sách có sự phân công phối hợp với nhau giữa các cơ quan, ban ngành

một cách cụ thể và đã đạt được những kết quả tích cực:

Đã làm tốt công tác mở hội nghị quán triệt (05 hội nghị với 500 lược cán bộ,

đảng viên tham dự) và làm tốt công tác tập huấn: UBND huyện đã phối hợp mở

được 03 lớp, BCĐ công tác tôn giáo của huyện đã mở được 02 lớp tập huấn công

tác tôn giáo cho gần 500 cán bộ, đảng viên phụ trách công tác tôn giáo trên địa bàn.

Qua đó nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ đảng viên, hội, đoàn viên về công

tác tôn giáo.

Đội ngũ chức sắc, chức việc trên địa bàn huyện đã tham gia các lớp phổ biến

pháp luật (Luật tín ngưỡng, tôn giáo) năm 2017 do BTG tỉnh tổ chức tại Tam Kỳ.

Qua đó đa số các chức sắc, chức việc, nhà tu hành của từng tổ chức tôn giáo đã chấp

59

hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo;

hành động một cách tự giác; người chịu trách nhiệm trước cơ quan QLNN về tôn

giáo của cơ sở tôn giáo tổ chức đăng ký, thông báo chương trình, nội dung sinh hoạt

tôn giáo sẽ diễn ra theo tháng, theo quý của năm sau cho chính quyền. Sau khi xem

xét nếu thấy chương trình, nội dung sinh hoạt đảm bảo theo Giáo lý, Giáo luật của

từng tổ chức tôn giáo và đúng quy định của pháp luật thì chính quyền tạo điều kiện

cho các tổ chức tôn giáo hoạt động; ngược lại, đối với những chương trình, nội

dung sinh hoạt tôn giáo chưa đảm bảo thì chính quyền huyện không thống nhất và

đã có văn bản trả lời với lý do thuyết phục để tổ chức, cá nhân tôn giáo biết và

thống nhất chấp hành như: Không thống nhất cho Chùa Xuân Yên xã Hương An tổ

chức cúng Bàu Xuân Yên tại thôn Xuân Yên vì không có trong chương trình đăng

ký đầu năm; Không cho Ban Hộ tự Chùa Hương Lư- Hương An tổ chức đêm văn

nghệ gây quỹ vì tại nơi tổ chức không đảm bảo về ANTT; không thống nhất cho

Ban trị sự GHPG huyện tổ chức cầu siêu ở tượng Đài Chiến thấng cấm Dơi, dựng

tượng phật tại chân Đèo Le,...vì không đảm bảo điều kiện.

Trong công tác quản lý nhà đất tôn giáo: UBND huyện thành lập đoàn khảo

sát, thống kê hiện trạng đất của 27/27 cơ sở tôn giáo, qua khảo sát thực tế UBND

huyện đã đề xuất với BCĐ công tác tôn giáo huyện và tham mưu thường trực

Huyện ủy phương án giải quyết những vấn đề tồn tại về nhà, đất tôn giáo. UBND

huyện chỉ đạo các ngành chuyên môn phối hợp với UBND các xã, thị trấn hướng

dẫn các cơ sở tôn giáo đủ điều kiện lập thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Qua

khảo sát, đến nay tổng diện tích đất sử dụng trong tôn giáo là 51.611,5 m2; trong đó:

Phật giáo có 23 cơ sở với diện tích 41.867,7 m2; Tin lành 02 cơ sở với diện tích là

2.852 m2; Công giáo có 03 cơ sở với diện tích 4.541,8 m2; Cao đài có 1 cơ sở với

diện tích 2.350 m2. Nếu như trước năm 2009, trên địa bàn huyện có 09 cơ sở tôn

giáo được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) với diện

tích là 11.180,5 m2 thì đến nay trên địa bàn huyện đã có 21 cơ sở tôn giáo được cấp

giấy chứng nhận QSDĐ, với tổng diện tích là 30.091m2, chiếm 58,3% diện tích

đang sử dụng (Chùa Thạnh Bình; chùa Xuân Phú; chùa Phú Thạnh; chùa Hòa Lạc;

60

chùa Trung Vĩnh; chùa Phú Trạch; chùa Thượng Vĩnh; chùa Linh Sơn; chùa An

Xuân; Chùa Trung Sơn; chùa Xuân Lư; chùa Hương Sơn; chùa Phú Phương; chùa

Hương Xuân, chùa Phú Trang Quế Xuân 1; chùa Phú Phong, chùa Xuân Phước;

giáo xứ Xuân Thạnh; nhà thờ Tinh lành Đông Phú; nhà thờ Tin lành Quế Xuân 1;

thánh thất Trung Kiên Quế An).

Việc cải tạo, xây mới cơ sở thờ tự được chính quyền các cấp tạo điều kiện và

giải quyết nhanh các thủ tục theo quy định của pháp luật, đến nay có 20 cơ sở tôn

giáo được sữa chữa, nâng cấp. Cho phép xây dựng mới 05 cơ sở (Chùa An Xuân,

Chùa Xuân Lư, Chùa Hương Sơn, Chùa Phú Phong, Thánh Thất Trung Kiên).

Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đất đai tôn giáo đã tổ chức

kiểm tra, đình chỉ một số cơ sở thờ tự xây dựng trái phép chưa đảm bảo quy hoạch

và thủ tục xây dựng như: Kiểm tra, đình chỉ Giáo họ Thạch Khê xây dựng Tượng

Đức Mẹ trái phép; việc lấn chiếm đất đai trái phép tại Chùa An Xuân và hướng dẫn

lập các thủ tục liên quan theo quy định. Tiến hành kiểm tra, hướng dẫn thủ tục, giải

quyết nhu cầu mở rộng các cơ sở tôn giáo tại Chùa Hương Quế (Hương An), Chùa

Linh Sơn (xã Quế Phú); Chùa Xuân Phước (Phú Thọ); Chùa Thạnh Bình (Quế

Xuân 1),....Qua đó cho thấy, công tác quản lý xây dựng các công trình tôn giáo

được quan tâm, bảo đảm từ xây dựng mới đến việc cải tạo, sửa chữa cơ sở tôn giáo

được cấp phép, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chân chính của nhân dân, góp

phần tích cực trong việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước.

Việt giải quyết khiếu kiện liên quan đến tôn giáo, công tác đấu tranh chống lợi

dụng tôn giáo: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo trên địa

bàn huyện, Phòng Nội vụ tham mưu với UBND huyện xây dựng quy định về việc

tiếp nhận, giải quyết hồ sơ theo cơ chế “một cửa”; đồng thời, niêm yết công khai tất

cả các thủ tục hành chính liên quan đến tôn giáo cho chức sắc, nhà tu hành tôn giáo

được biết và thực hiện. Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ bản hồ sơ

hành chính của tổ chức, chức sắc tôn giáo đều được giải quyết hoặc trình UBND

61

huyện giải quyết theo thẩm quyền, tuân thủ đúng thời gian, được các tổ chức tôn

giáo đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của các tổ

chức, cá nhân tôn giáo nhìn chung đảm bảo, thời gian qua việc khiếu nại trong tôn

giáo có chiều hướng gia tăng, trong đó chủ yếu là tranh chấp đất đai, liên quan đến

tôn giáo. Các ngành, các cấp đã tiếp 25 lượt người, nhận 15 hồ sơ khiếu nại phản

ánh của các tôn giáo (chủ yếu là về lĩnh vực đất đai), đã tham mưu cho UBND các

cấp giải quyết kịp thời, thỏa đáng, phù hợp, được các tổ chức tôn giáo đồng tình,

không có đơn thư vượt cấp.

2.2.2. Hạn chế, bất cập

Việc xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo có

lúc, có nơi chưa chủ động và đồng bộ; một số chủ trương, chính sách đối với công

tác tôn giáo chậm thể chế hóa, chưa quy định rõ ràng gây khó khăn cho địa

phương như: vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo, theo Nghị định 162/NĐ-CP

năm 2017 vẫn chưa quy định cụ thể diện tích đất cho một cơ sở tôn giáo, đồng thời

cũng chưa quy định có bao nhiêu tín đồ để thành lập một cơ sở tôn giáo mới. Hay

như công tác xây dựng cốt cán tôn giáo, trong Hướng dẫn xây dựng cốt cán chưa

quy định một số ngành như UBND, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo,..xây dựng cốt

cán, nhưng khi yêu cầu báo cáo kết của xây dựng cốt cán và nhu cầu sử dụng cốt

cốt trong thời gian đến thì ban hành công văn, biểu mẫu báo cáo việc xây dựng cốt

cán đối với các ngành này.

Về công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo và

công tác vận động chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn huyện còn có

những hạn chế nhất định: Công tác này chưa được thực hiện thường xuyên, chưa

đồng bộ và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Chưa mở được lớp phổ biến

chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ chức việc trên địa bàn,

đội ngũ này mới chỉ được BTG tỉnh triệu tập, quán triệt.

62

Trong công tác phân công phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo, tuy có sự

phân công nhiệm vụ từng ngành, từng ngành có phân công cán bộ phụ trách nhưng

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hiệu quả không cao, do hoạt động phối hợp

giữa các cơ quan QLNN với nhau của huyện giữa các cơ quan QLNN với các đoàn

thể còn mang tính hình thức, phối hợp một cách cứng nhắc; đồng thời trong quá

trình thực hiện thiếu kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở nên một số nhiệm vụ kéo dài

chưa giải quyết dứt điểm.

Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo trên

địa bàn huyện Quế Sơn chưa được triển khai thực hiện thường xuyên; các cấp ủy,

chính quyền chưa chủ động xây dựng kế hoạch tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm

thực hiện mà chỉ tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện khi có sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,

UBND và BTG tỉnh. Chính vì lẽ đó việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn

huyện còn những hạn chế nhất định, nhất là trong công tác QLNN về đất đai liên

quan đến tôn giáo; một số cơ sở tôn giáo đã thành lập trên 50 năm mà vẫn chưa

được cấp Giấy chứng nhận QSD đất, nhiều cơ sở lấn chiếm để xây dựng các công

trình phụ trợ tôn giáo chưa được giải quyết dứt điểm kéo dài hàng chục năm.

2.2.3. Nguyên nhân hạn chế

Do chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến nên một vài cấp ủy đảng,

chính quyền và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa am hiểu rõ và đầy đủ về chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, có lúc

còn xem nhẹ công tác tôn giáo.

Chưa chủ động trong việc xây dựng một số văn bản triển khai thực hiện công

tác tôn giáo, chỉ xây dựng khi có văn bản của cấp trên chỉ đạo, trong quá trình thực

hiện có lúc chưa kịp thời, nội dung chưa sát, chủ yếu là dựa vào văn bản của cấp

trên.

Công tác QLNN đối với tôn giáo ở một số xã hiệu quả chưa cao, công tác

nắm bắt tình hình tôn giáo có lúc chưa kịp thời, những vấn đề phát sinh liên quan

63

đến công tác tôn giáo còn lúng túng, thậm chí có xã còn buông lỏng vai trò quản lý

về công tác đất đai liên quan đến tôn giáo.

Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo không ổn định, thường xuyên thay

đổi, cán bộ phụ trách công tác tôn giáo đều hoạt động kiêm nhiệm, phần lớn chưa

được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ nên việc thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều

khó khăn. Một số cán bộ có lúc, có nơi chưa làm tốt công tác vận động chức sắc,

chức việc, đồng bào có đạo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước. Qua phỏng vấn một số tín đồ trong các tổ chức tôn giáo cho rằng

họ không biết gì về Luật tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng hay các chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo.

Công tác tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện chính tôn giáo có

lúc chưa kịp thời.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 tác giả luận văn đã phân tích thực trạng các bước trong tổ

chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam: từ

thực trạng xây dựng các văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về tôn giáo;

công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật và công tác vận động quần

chúng là tín đồ, chức sắc tôn giáo; thực trạng phân công, phối hợp giữa các ngành

trong thực hiện chính sách, tôn giáo; việc phân công tác cán bộ phụ trách công tác

tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và của lực lượng vũ trang;

công tác bồi dưỡng, tập huấn và đảm bảo chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ làm

công tác tôn giáo; công tác kiểm tra theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách

tôn giáo; thực trạng công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm và đánh giá việc thực

hiện chính sách trên địa bàn huyện trong những năm qua.

Với việc phân tích thực trạng các bước tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

nêu trên sẽ là nền tảng để bản thân đánh giá một cách toàn diện về những mặt được,

chưa được trong thực hiện chính sách tôn giáo tại huyện, qua đó làm cơ sở nền tảng

để bản thân có nhận định chính xác về tôn giáo, tình hình tôn giáo ở huyện và sẽ đề

64

ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao việc tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo

ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

65

CHƯƠNG 3

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở HUYỆN QUẾ

SƠN, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN ĐẾN

3.1. Vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Nhìn chung, trong những năm qua việc tổ chức triển khai thực hiện quan

điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tôn

giáo trên địa bản huyện Quế Sơn đã đạt được những kết quả quan trọng trên các

mặt. Huyện đã làm tốt công tác phổ biến, tuyên tuyền; công tác QLNN về hoạt động

tôn giáo có nhiều khởi sắc, định hướng cho tổ chức, cá nhân tôn giáo trong tổ chức

sinh hoạt tôn giáo đi vào nề nếp theo Hiến chương, Giáo lý, Giáo luật trong khuôn

khổ pháp luật quy định. Công tác vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành và

đồng bào có đạo ngày được quan tâm, đã thành lập Đề án vận động đồng bào có đạo

trên địa bàn, qua đó đã vận động các tổ chức, cá nhân tôn giáo tích cực tham gia các

hoạt động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước như phong trào “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào “Xây dựng gia đình, tộc

văn hóa”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn

minh” ,.. Mọi nhu cầu sinh hoạt thuần túy và các ngày lễ trọng của từng tổ chức, cá

nhân tôn giáo được chính quyền tạo điều kiện tổ chức. Chức sắc, tín đồ tôn giáo

thực hiện phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”, chăm lo phát triển kinh tế gia đình, cải

thiện cuộc sống. Đồng thời tham gia tích cực phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ

quốc, giữ vững ANCT, trật tự ATXH tại địa phương.

Qua đó khẳng định rằng chức sắc, chức việc cùng tín đồ các tôn giáo đã tích

cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, không né tránh các hoạt động ở địa

phương nói riêng, của đất nước nói chung, đồng hành cùng toàn quân, toàn dân trên

địa bàn huyện trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương Quế Sơn phát triển

66

bền vững nói riêng. Đồng thời góp phần tích cực vào thắng lợi trong công cuộc xây

dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Tuy nhiên trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trên

địa bàn huyện đặt ra một số vần đề như sau:

3.1.1. Về phía chính quyền

Thứ nhất, Trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện

chủ trương, chính sách tôn giáo, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên

địa bàn huyện Quế Sơn nhìn chung cho thấy công tác triển khai thực hiện chính

sách tôn giáo trên địa bàn đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng việc xây

dựng chương trình, kế hoạch công tác tôn giáo có lúc chưa kịp thời và đồng bộ

trong hệ thống chính trị trên địa bàn (chủ yếu ở cấp huyện, đa số các xã chưa xây

dựng). Song hiệu quả cũng như giá trị thực tiễn của các chương trình, kế hoạch

công tác tôn giáo theo từng giai đoạn, hằng năm chưa đáp ứng được nhu cầu thực

tiễn trong công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Nhiều kế

hoạch, chương trình ban hành còn chung chung, chưa mang tính giải quyết vấn về

bức thiết, thiếu định hướng cụ thể, trong quá trình xây dựng còn chủ yếu dựa vào

các năm trước để xây dựng năm sau, do đó nhiều vấn đề chưa giải quyết dứt điểm;

nhiều kế hoạch, đề án chưa thực hiện hiệu quả như Đề án xây dựng cốt cán các cấp;

Kế hoạch vận động, đoàn kết các tôn giáo; công tác phát triển đảng viên là người có

đạo (mới chỉ phát triển được 01 đảng viên là người có đạo).

Thứ hai, Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo đôi lúc

chưa thường xuyên, chưa sát đối tượng và sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân nên

trong quá trình tổ chức thực hiện một số cán bộ, đảng viên ở huyện và xã chưa nhận

thức đúng được tầm quan trọng và đầy đủ về các chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo; trong công tác quản lý nhà đất tôn giáo:

chính quyền một số xã còn chủ quan, buông lỏng quản lý trong việc giải quyết vấn

67

đề liên quan đến tôn giáo điển hình xã Phú Thọ đã gây khăn trong công tác quản lý

về hoạt động và diện tích đất của một số cơ sở tôn giáo.

Thứ ba, Trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách tôn giáo:

Trong những năm qua các cấp, các ngành cùng cơ quan chức năng trên địa bàn

huyện đã có sự phân công, phối hợp với nhau trong quá trình tổ chức thực hiện

chính sách tôn giáo, trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến công

tác tôn giáo. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có lúc phối hợp cứng nhắc, thiếu

linh hoạt, còn mang tính hình thức, khi xảy ra vụ việc còn đùn đẩy trách nhiệm cho

nhau. Hơn nữa mối quan hệ hỗ trợ giữa UBND huyện với các xã, giữa các cơ quan

chức năng của huyện với xã còn mang tính áp đặt, mệnh lệnh chỉ đạo; phần lớn mối

quan hệ có tính một chiều là UBND huyện giao cho xã thực hiện, đôi khi còn thiếu

sự hướng dẫn trực tiếp để giải quyết vấn đề còn tồn tại trong công tác QLNN về tôn

giáo, trọng tâm là vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo.

Hơn nữa hiện nay đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo các cấp trên địa

bàn huyện chưa đảm bảo về chất lượng, nhất là cán bộ cấp xã do đa phần đội ngũ

cán bộ phụ trách công tác tôn giáo không có chuyên môn về công tác tôn giáo. Tuy

đội ngũ này có lợi thế là gắn bó thường xuyên với tín đồ, chức sắc ở địa phương

nhưng lại thường xuyên bị thay đổi công tác qua các kỳ Đại hội Đảng, HĐND, Mặt

trận, đoàn thể nên chưa được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ kịp thời. Bên

cạnh đó số cán bộ không bị thay đổi thì một số đồng chí lại thiếu kỹ năng làm công

tác tôn giáo; hơn nữa cán bộ phụ trách công tác tôn giáo lại kiêm nhiệm nhiều việc

nên không có thời gian cho việc đầu tư nghiên cứu tìm hiểu kỹ về tình hình và chính

sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Đặc biệt là đơn vị hành chính cấp xã hiện nay

ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tôn giáo trong những năm tới khi hoạt động của

các tôn giáo ngày càng đa dạng và chuyên nghiệp hơn. Do đó yêu cầu đặt ra đó là

đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này một

cách kịp thời là yêu cầu cấp thiết để góp phần thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

68

Thứ tư, Theo sự phân cấp, hiện nay Phòng Nội vụ có trách nhiệm tham mưu

UBND huyện QLNN và tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về tín ngưỡng

tôn giáo, trong khi việc bố trí cán bộ phụ trách công tác tôn giáo tại Phòng Nội vụ

hiện nay chưa ngang tầm với nhiệm vụ chính trị được giao, bên cạnh đó chưa có

đồng chí nào có chuyên môn về công tác tôn giáo hay am hiểu sâu rộng lĩnh vực

này nên quá trình tham mưu hiệu quả có lúc chưa cao; hơn nữa việc giao cho Phòng

Nội trực tiếp tham mưu phụ trách công tác tôn giáo là một đơn vị đa lĩnh vực,

nhưng nhiều lĩnh vực không cùng chức năng và đối tượng quản lý, nên có nhiều bất

cập trong thực hiện.

Thứ năm, Về công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn

giáo: Để giải quyết các vụ việc phát sinh liên quan đến tôn giáo, UBND huyện đã

thành lập đoàn kiểm tra, khảo sát tình hình công tác tôn giáo tại xã, thị trấn nhưng

hiệu quả chưa cao; có lúc các đoàn công tác làm việc còn mang tính hình thức, quá

nể nang, chưa đột xuất nên vẫn còn tình trạng dựng tượng, tổ chức lễ an vị, cầu siêu,

cầu an…không xin phép vẫn còn xảy ra; tình hình tự ý chuyển nhượng, lấn chiếm

đất đai trái phép để cơi nới, mở rộng cơ sở thờ tự vẫn còn diễn ra nhưng chưa giải

quyết triệt để trong khi công tác phối hợp giải quyết giữa huyện và xã chưa đồng

bộ, chặt chẽ, trong quá trình tổ chức thực hiện còn lúng túng, có lúc đùn đẩy.

Thứ sáu, Trong công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính

sách tôn giáo chưa chủ động, chủ yếu tổ chức theo sự chỉ đạo của Trung ương, của

Tỉnh ủy, UBND tỉnh và BTG tỉnh. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này nhiều

chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước còn mang tính hình thức, một số

nội dung chỉ tổng hợp báo cáo cấp trên đúng thời gian quy định, chưa khảo sát,

kiểm tra, giám sát trước khi sơ kết; bên cạnh đó chưa tổ chức hội nghị tổng kết

chuyên đề về thực hiện chính sách tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng, có

chăng chỉ là lồng ghép trong các hội nghị tổng kết chính quyền và công tác xây

dựng Đảng hàng năm. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải chú trọng công tác đánh giá,

tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn một cách kịp

thời và đạt chất lượng.

69

3.1.2. Về phía các tổ chức tôn giáo

3.1.2.1. Đối với hoạt động của Phật giáo

Ban Trị sự Phật giáo huyện đã thành lập nhưng có lúc hoạt động chưa chặt

chẽ, chưa nề nếp, không rõ nét, nên hiệu lực thấp dẫn đến vai trò mờ nhạt, định

hướng các hoạt động còn hạn chế, quản lý tăng ni chưa hiệu quả. Đây là một nhân

tố khiến cho một số tăng ni sao nhãng Phật sự, coi thường giới luật, nảy sinh mâu

thuẫn trong quần chúng tín đồ cũng như nảy sinh mâu thuẫn giữa trụ trì với tín đồ,

dễ bị các phần tử xấu lợi dụng kích động, trục lợi.

Một số tăng chưa đăng ký thuyên chuyển với Ban Trị sự GHPG Việt Nam

huyện (Thích Đồng Ngộ chùa Phú Phương, Thích Thông Nghiêm chùa Trung

Vĩnh.,… và tình trạng một số sư cô xuất cảnh ra nước ngoài không báo cáo với Ban

Trị sự và chính quyền địa phương gây khó khăn trong công tác QLNN về tôn giáo.

3.1.2.2. Về việc trùng tu sửa chữa cơ sở thờ tự:

Do kinh tế phát triển, đời sống của người dân huyện Quế Sơn ngày càng được

nâng lên, sinh hoạt tín tôn giáo càng trở nên sầm uất, nên việc trùng tu, mở rộng

diện tích khuôn viên cơ sở tôn giáo ngày càng nhiều. Do đó, hiện nay Ban Trị sự

Phật giáo huyện có nhu cầu khôi phục tại một số chùa cũ và thành lập mới (như tại

xã Quế Minh, Quế Hiệp, Quế Long, Quế Phú) với lý do là trong 14 xã, chỉ có 7 xã

có chùa lại tập trung ở vùng Đông của huyện, trong khi vùng Trung của huyện có

một cơ sở tại Đông Phú và vùng Tây không có, vả lại nơi đây có một số nền móng

chùa cũ và trong 40 năm qua chưa thành lập mới được Chùa nào trong khi tín đồ

vùng này tăng lên nên Ban trị sự PHPG huyện luôn đề nghị với UBND huyện cho

chủ trương khôi phục nhưng cấp ủy, chính quyền địa phương xét thấy chưa hợp lư v́

ở trung tâm huyện có Chùa Trung Sơn - là chùa trung tâm của khu vực này nên cấp

ủy, chính quyền địa phương chưa thống nhất, do đó Ban trị sự GHPG Việt Nam

huyện nhiều lần cho rằng chính quyền địa phương thiếu quan tâm.

70

Bên cạnh đó, hiện nay nhiều cơ sở Phật giáo xây dựng ở trong khu dân cư,

nên việc sinh hoạt tôn giáo đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của những hộ dân

xung quanh cơ sở tôn giáo đó, gây khó khăn trong công tác QLNN về đảm bảo

quyền tự do sinh hoạt tôn giáo theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, hiện nay tình trạng một số chùa tự ý xây dựng tháp thờ trong khuôn

viên chùa để đặt tượng phật trái phép và xây “Mộ gió” để chôn cất di cốt trụ trì chùa

(Chùa Trung Vĩnh xã Quế Xuân 1 xây dựng để chôn cất Thích Thông Nghiêm -

nguyên trụ trì Chùa Trung Vĩnh, Chùa Xuân Phước xã Phú Thọ để chôn cất cha của

Đại đức Thích Đồng An), .. tình trạng này có chiều hướng tăng gây khó khăn trong

công tác QLNN về tôn giáo và tình trạng tự ý xây móng, đặt tượng phật trái pháp

luật diễn ra nhiều nơi của tín đồ, như hộ bà Võ Thị Sanh, quế Châu, Ông nguyễn Du

xã Hương An,..gây khó khăn trong công tác QLNN về đạo Phật.

3.1.2.3. Đối với hoạt động của Công giáo:

Hoạt động của giáo xứ Xuân Thạnh, Giáo họ Thạch Khê nhìn chung đảm bảo

theo quy định, tập trung củng cố đức tin; song đối với đạo này cũng còn một số vấn

đề cần phải quan tâm đó là: tình trạng tự dựng tượng trái phép đối với đạo này vẫn

còn xảy ra, như Họ đạo giáo xứ Thạch khê dựng tượng Đức Mẹ gần Nhà nguyện

không xin phép hay khi xin phép qua kiểm tra không đủ thủ tục nên chính quyền

không cho phép, cho rằng chính quyền xã Quế Cường không quan tâm và Giáo họ

này chưa được cấp giấp chứng nhận QSD đất dù đã thành lập và hoạt động từ lâu;

bên cạnh đó tình trạng Chi họ Công giáo tại thôn Hòa Mỹ Tây, xã Quế Xuân 2 biến

tư gia thành điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo. Do đó đòi hỏi công tác QLNN đối với

hoạt động của Công giáo phải sâu sát, chặt chẽ hơn nữa.

3.1.2.4. Đối với hoạt động của đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới

Tại Quế Sơn, đối với Đạo Tin lành đến nay chưa phát hiện hoạt động lợi dụng

đạo Tin lành nhằm truyền bá để công kích, chống Đảng, Nhà nước, gây mất ANCT,

trật tự ATXH, gây ảnh hưởng xấu đến khối đại đoàn kết dân, đoàn kết tôn giáo.

Nhưng trong 06 điểm nhóm mới chỉ được công nhận 03 (Nhóm Tin lành Trưởng lão

71

Liên hiệp Việt Nam sinh hoạt tại Tổ Dân phố Cang tây, Nhóm Tin lành Trưởng lão

Liên hiệp Việt Nam sinh hoạt tại TDP Mỹ Đông- thị trấn Đông Phú và nhóm Tin

lành MNVN sinh hoạt tại xã Hương An) và 03 điểm nhóm chưa được công nhận (

Nhóm Liên hữu Cơ đốc tại Quế Thuận); nhóm phái Ngũ tuần tại xã Quế An và xã

Quế Phong). Vào các dịp Lễ trọng như Lễ giáng sinh (Noel), Lễ Phục sinh…các tín

đồ thường liên kết với nhau để tổ chức sinh hoạt. Tuy nhiên, thời gian qua vẫn nổi

lên một số vấn đề cần quan tâm đó là: Tình trạng lợi dụng sinh hoạt đạo để truyền

đạo Tin lành trái pháp luật vẫn còn; việc sinh hoạt đạo của các điểm nhóm Hệ phái

Tin lành tư gia, tín đồ phụ thuộc vào ý chí người đứng đầu, khi người đứng đầu tin

theo một Hệ phái khác (do không phù hợp giáo lý và thiếu nguồn tài trợ thì người

đứng đầu thay đổi hệ phái, trong đó có cả những hệ phái chưa được công nhận; bên

cạnh đó do mâu thuẫn trong quá trình sinh hoạt, một số tín đồ bỏ điểm nhóm về

sinh hoạt tại tư gia, dẫn đến số lượng Tin lành trong từng hệ phái thường xuyên biến

động. Một điều cần phải quan tâm đến đó là do khó khăn trong việc xin đất để xây

dựng cơ sở thờ tự, các hệ phái Tin lành đã biến tướng bằng cách cho một tín đồ

đứng tên mua đất, xin phép xây dựng nhà ở có kiến trúc như nhà thờ, rồi hợp thức

hóa việc thuê mượn nhà ở để làm điểm sinh hoạt nhóm, như: Điểm Nhóm Tin Lành

Hương An, Điểm nhóm Tin lành tại Thị Trấn Đông Phú,..Bên cạnh đó đạo Tin lành

đã gây nên những xáo trộn trong sinh hoạt của nhân dân, làm chia rẽ, mất đoàn kết,

ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự địa phương. Tôn giáo này trở thành vấn đề

cấp thiết và lâu dài mà công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải quan tâm

giải quyết triệt để.

Điều quan trọng nữa là một số cơ sở tôn giáo thiếu hợp tác với chính quyền

địa phương trong việc xử lý vi phạm do cơi nới, mở rộng diện tích trái phép và một

số cơ sở tôn giáo chưa quan tâm đến việc lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất

theo quy định. Bên cạnh đó xuất hiện tình trạng một số tín đồ tôn giáo (Tin Lành,

Công giáo vì lý do không thể đến cơ sở tôn giáo để sinh hoạt mà tụ tập khoảng 20-

30 người để sinh hoạt tôn giáo, qua tìm hiểu mục đích chính là tụ tập để sinh hoạt

72

tôn giáo thuần túy (cầu nguyện điềm lành cho gia đình đó), nhưng phần nào cũng đã

ảnh hưởng đến trật tự ở địa phương.

Ngoài ra trên địa bàn xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới, đều không rõ đối

tượng cầm đầu, không có kinh sách riêng, không có trụ sở để tổ chức truyền giáo,

chủ yếu tuyên truyền mê tín. Người theo các hiện tượng tôn giáo mới chủ yếu có

hoàn cảnh đặc biệt, thuộc tầng lớp yếu thế trong xã hội. Trước tình hình đó, các cấp,

các ngành trên địa bàn đã quan tâm và ngăn chặn xử lý kịp thời các hiện tượng tôn

giáo mới ở trên địa bàn. Lực lượng Công an huyện Quế Sơn làm tốt công tác nắm

tình hình, đánh giá đúng tính chất mức độ, phạm vi hoạt động của các hiện tượng

tôn giáo mới.

Ngoài các tôn giáo nêu trên, trên địa bàn huyện Quế Sơn xuất hiện các hiện

tượng mê tín dị đoan, ứng đồng bốc thuốc chữa bệnh như hộ ông Hồ Tấn Tuyết và

bà Đinh Thị Kiều Thu tại thôn Thắng Đông 2 xã Quế An, Hộ bà Phan Thị Mai ở

Thôn Tam Hòa, Thị trấn Đông Phú,… vẫn lén lút hoạt động. Do đó, đòi hỏi các cơ

quan QLNN về tôn giáo cần phải phát huy tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.

3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc việc thực hiện

chính sách tôn giáo ở huyện Quế Sơn

Thứ nhất, Để kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tôn giáo, công tác

QLNN đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo hàng năm của cấp ủy, chính

quyền có giá trị thực tiễn và đạt hiệu quả trong quá trình quản lý thì việc xây dựng

kế hoạch phải có định hướng cụ thể rõ ràng và căn cứ vào tình hình thực tế để xây

dựng kế hoạch một cách chi tiết, có tính khả thi, như: Để giải quyết tốt công tác

QLNN về đất đai tôn giáo huyện cần chỉ đạo Phòng Tài nguyên -Môi trường phối

hợp với UBND các xã, thị trấn khi lập Kế hoạch sử dụng đất tổng thể nên căn cứ

tình hình tôn giáo, số lượng tín đồ cũng như nhu cầu sử dụng đất của từng cơ sở ở

địa bàn để tính toán bố trí hay để dành quỹ đất tôn giáo sao cho hợp lý. Hay để triển

khai thực hiện Đề án cốt cán tôn giáo của huyện và 14 xã, thị trấn trên địa bàn

huyện thì cấp chính quyền huyện cần đề nghị HĐND tỉnh cần có nghị quyết bố trí

73

kinh phí đối với công tác tôn giáo; bởi đề án này được xây dựng từ năm 2014 nhưng

đến nay chưa có kinh phí thực hiện. Hay như để thực hiện tốt chính sách phát triển

đảng viên là người có đạo theo chủ trương của Đảng, Nhà nước cần theo dõi, phát

hiện những quần chúng ưu tú là người có đạo để tạo nguồn phát triển đảng viên,

đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và đúng quy định.

Thứ hai, Cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật

về tín ngưỡng, tôn giáo một cách thường xuyên, đồng bộ và sâu rộng trong các tầng

lớp nhân dân. Hằng năm mở lớp phổ biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác tôn giáo, ban chỉ đạo cong tác tôn giáo

các cấp, cán bộ Mặt trận, đoàn thể, 73 cốt cán trong các tôn giáo của các cấp trên

địa bàn, tiếp đến là cho đội ngũ chức việc, người tu hành và đồng bào có đạo ở địa

phương. Trong quá trình phổ biến, tuyên truyền, nên đa dạng hóa các hình thức

tuyên tuyền, ngoài tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề về công tác tôn giáo cần

vận dụng linh hoạt trong các cuộc họp dân tại các khu dân cư, tổ dân phố trên địa

bàn, trên phương tiện thông tin đại chúng các cấp (truyền thanh xã, phát thanh và

truyền hình huyện; qua các cuộc thi tìm tiểu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo),..

Đồng thời trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo phải xác định nội dung cốt lõi

của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, do đó cần đẩy mạnh công

tác vận động chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước; sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật; cần tổ

chức thực hiện tốt Đề án “Tăng cường vận động, đoàn kết các tôn giáo” trên địa bàn

huyện Quế Sơn đã được xây dựng trong năm 2019 và tổ chức gặp mặt chức sắc,

chức việc hàng năm, nhằm tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền với tổ

chức, cá nhân tôn giáo trên địa bàn.

Thứ ba, Để thực hiện tốt công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách

tôn giáo: Các cấp chính quyền cần xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể, xác định rõ

trách nhiệm của các ban, ngành, từng đoàn thể, chống sự đùn đẩy, né tránh trong

việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Cần xây dựng chi tiết cơ chế phối hợp đồng bộ

trong công tác tôn giáo giữa các cơ quan hợp thành hệ thống chính trị, hạn chế tình

74

trạng khoán trắng, chồng chéo, lấn sân. Trong quá thực hiện cần có những quy định

cụ thể về chính sách, pháp luật nhằm để làm cơ sở cho sự phối hợp trong giải quyết

các vấn đề tôn giáo có sự thống nhất giữa các cấp, các ngành trong hệ thống chính

trị. Cần quy định rõ về quyền hạn, trách nhiệm chính của mỗi cơ quan, đơn vị, qua

đó nâng cao trách nhiệm của mỗi đơn vị về công tác ton giáo. Trong quá trình thực

hiện cần quy định cả yếu tố thời gian, nhất là khi giải quyết các vụ việc cụ thể, tránh

tình trạng mất quá nhiều thời gian để tạo ra sự phối hợp thống nhất, hiệu quả.

Thứ tư, Từ huyện đến 14 xã, thị trấn cần bố trí cán bộ chuyên trách làm

công tác tôn giáo, trước tiên là bố trí cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo tại

huyện - thuộc Phòng Nội vụ huyện quản lý, sau đó bố trí tại những xã có cơ sở tôn

giáo. Để làm điều đó, trong thời gian tới cần quy hoạch cử một số cán bộ có năng

lực, kinh nghiệm trong công tác QLNN về tôn giáo, hay những đồng chí có triển

vọng thực hiện tốt công tác này tham gia học tập lớp cử nhân tôn giáo do Học viện

Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội để nâng cao trình độ nhằm đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Điều này là rất cần thiết, bởi hiện nay số

lượng chức sắc, chức việc trong các tổ chức tôn giáo ngày tăng, họ được đào tạo bài

bản, tham gia học tập chuyên ngành nên trình độ lý luận cao.

Thứ năm, Để duy trì chính sách tôn giáo, trong quá trình tổ chức thực hiện

chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên trên

địa bàn huyện được phân công phụ trách công tác tôn giáo cần nắm tình hình tôn

giáo ở cơ sở một cách kịp thời và chính xác để từ đó tham mưu cấp ủy Đảng, chính

quyền định hướng cho các cơ quan chức năng xem xét giải quyết những phát sinh

trong công tác tôn giáo đạt hiểu quả, đúng quy định của pháp luật theo chủ trương,

chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo là tôn trọng và đảm bảo

quyền tự do tôn giáo của công dân, không để phát sinh điểm nóng liên quan đến

công tác tôn giáo.

Trong công tác tôn giáo phải chú trọng đến lực lượng chức sắc, chức việc

của các tổ chức tôn giáo, phải biết vận dụng lực lượng này, bởi họ là những người

75

truyền đạo rất có uy tín do đó có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến với tín đồ tôn

giáo, trong khi chủ trương, chính sách tôn giáo của ta ban hành nhiều người không

nắm hết. Do đó, phải có kế hoạch chủ động phối hợp giữa các cấp, các ngành, các

đoàn thể quần chúng phải tranh thủ lực lượng chức sắc, nhà tu hành vận động bào

có đạo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, qua

đó để họ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Bởi thực tế cho thấy nếu đáp ứng

những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của đồng bào có đạo sẽ tạo được sự

chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo,

đồng thời kiên quyết chống các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo trên địa bàn huyện.

Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện cần phát huy hơn nữa tinh thần trách

nhiệm của từng thành viên BCĐ công tác tôn giáo huyện, thường xuyên theo dõi,

nắm bắt tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo tại địa bàn, lĩnh vực được phân công

phụ trách; khi phát hiện báo cáo về cấp trên kịp thời, không để nảy sinh thành điểm

nóng liên quan đến công tác tôn giáo. Đối với thành viên BCĐ công tác tôn giáo cấp

xã phải thường xuyên đến thăm hỏi, chúc mừng các chức sắc, chức việc tôn giáo

nhân các ngày lễ trọng của đất nước nói chung và của từng tổ chức tôn giáo nói

riêng nhằm tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cán bộ, công chức Nhà nước

với nhà tu hành. Đồng thời, huyện cần đẩy mạnh việc chỉ đạo các ngành chức năng

của huyện cùng cấp xã tăng cường nắm tình hình hoạt động tôn giáo của các chức

sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, nhất là những địa bàn trọng điểm; gặp gỡ trao

đổi thông tin, nắm bắt kịp thời tâm tư cũng như nguyện vọng chính đáng của tổ

chức, cá nhân tôn giáo như: nhu cầu xây mới, mở rộng, tu bổ cơ sở tôn giáo, thuyên

chuyển, bổ nhiệm, thẩm tra tư cách công dân của tu sĩ,...

Thứ sáu: Cần củng cố, kiện toàn lực lượng cốt cán phong trào trong các tổ

chức tôn giáo của cả hệ thống chính trị trên địa bàn huyện và thường xuyên mở các

lớp bồi dưỡng, tập huấn cho lực lượng này. Bởi đây là lực lượng được xem như là

cánh tay nối dài của Đảng, là lực lượng trực tiếp theo dõi, nắm tình hình hoạt động

của các tổ chức, cá nhân trong các tôn giáo trên địa bàn cũng là lực lượng tham gia

vận động các tổ chức, cá nhân cùng tín đồ tôn giáo sinh hoạt đạo theo Hiến chương,

76

Giáo lý, Giáo luật của từng tổ chức tôn giáo. Phải đến thăm hỏi, động viên, giúp đỡ

đối với những cốt cán gặp khó khăn trong cuộc sống, quan tâm giúp đỡ họ, tạo điều

kiện cho họ vay vốn để đầu tư sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, vươn lên

làm giàu chính đáng; đối với những cốt cán hoàn thành tốt nhiệm vụ nên biểu

dương, khen thưởng kịp thời. Đối với cốt cán không hoàn thành nhiệm vụ nên đưa

ra khỏi Đề án.

Thứ bảy, Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác tôn giáo

tại các địa phương, nhất là công tác quản lý đất đai liên quan đến công tác tôn giáo;

trước mắt cần tập trung giải quyết công tác đất đai tại một số cơ sở tôn giáo còn tồn

đọng, kéo dài trong những năm qua.

Cuối cùng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ

chức, cá nhân tôn giáo phát huy những giá trị đạo đức, nhân văn cao cả của tôn

giáo; tích cực tham gia công tác nhân đạo từ thiện nhưng phải đảm bảo theo quy

định của pháp luật, nhằm giúp đỡ những tín đồ tôn giáo nói riêng và những người

dân nói chung có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Qua đó góp phần đáng kể

cùng với cấp ủy, chính quyền giải quyết tốt chính sách an sinh xã hội trên địa bàn

huyện, nhằm xây dựng quê hương giàu đẹp.

Tiểu kết Chương 3

Đối với chương này học viên đã đặt ra những vấn đề có tính cấp thiết trên cơ

sở đánh giá những hạn chế, tồn tại trong tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo ở địa

phương như về phía chính quyền và từ các tổ chức tôn giáo trên địa bàn huyện trong

những năm qua; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có

hiệu quả chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện trong thời gian đến. Trong các giải

pháp mà học viên đề xuất đều quan trọng, nhằm làm tốt việc thực hiện chính sách

tôn giáo tại huyện, trong đó giải pháp mang nội dung tuyên truyền, vận động thực

hiện chính sách tôn giáo và giải pháp giải quyết công tác đất đai về tôn giáo được

nhấn mạnh.

77

78

KẾT LUẬN

Trên cơ sở lý luận về quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo Đảng và Nhà nước

ta luôn coi trọng chính sách tôn giáo, xem chính sách tôn giáo là chính sách có tính

chiến lược và có ý nghĩa quan trọng trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Chính sách

tôn giáo ở nước ta được thể hiện qua quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật và các văn bản quy định liên quan đến tôn giáo, hoạt động tôn

giáo của Nhà nước; chính sách này được quán triệt và thực hiện nhất quán đối với

từng cấp trong phạm vi cả nước. Song, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở mỗi địa

phương lại khác nhau nhất định, chưa được đồng bộ, do tác động của nhiều yếu tố

khác nhau như tùy thuộc vào điều kiện KT-XH, chủ thể và khách thể trong thực

hiện. Thực hiện chính sách tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược

quyết định sự thành công của chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Qua đó đã

đặt ra nhiệm vụ là phải làm sao để mối quan hệ giữa chính quyền các cấp với các tổ

chức, cá nhân tôn giáo được hài hòa, nhằm thực hiện tốt cho quá trình hội nhập và

đổi mới của đất nước, vừa đảm bảo quyền tự do tôn giáo của một bộ phận nhân dân;

đồng thời qua đó sẽ ngăn ngừa, đẩy lùi những hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo

của các thể lực thù địch chính trị làm ảnh hưởng ANQG, xâm hại danh dự đất nước

trong tình hình hiện nay.

Huyện Quế Sơn là một trong những huyện gần như là trung tâm của tỉnh với

hệ thống giao thông đa dạng. Đây nơi hội tụ đầy đủ các tôn giáo lớn như: Phật giáo,

Tin Lành, Công giáo, Cao đài, BaHa’i,..Tính đến thời điểm hiện nay tổng số tín đồ

các tôn giáo trên địa bàn huyện là 4.286 người, chiếm khoảng 5,2% tổng dân số

toàn huyện. Với số lượng tín đồ các tôn giáo như vậy, trong những năm qua, các

chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo nói chung và từng tổ chức

tôn giáo cụ thể nói riêng được các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trên địa bàn

huyện quan tâm, chú trọng. Công tác quán triệt và triển khai thực hiện chính sách,

pháp luật của Nhà nước nói chung và thực hiện chính sách tôn giáo nói riêng đã đạt

79

được những kết quả đáng khích lệ. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta

về tôn giáo, nhất là Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã được chính quyền triển khai thực

hiện. Chính quyền các cấp cũng như các ngành chức năng của huyện chú trọng công

tác phổ biến tuyên truyền, phân công phối hợp; ban hành nhiều đề án, dự án phát

triển kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triể KT-XH; Mặt trận, đoàn thể các cấp

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chính sách,

pháp luật của Nhà nước; chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo

thực tốt phương châm “Sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực tham gia các phong trào thi

đua yêu nước. Qua đó góp phần thực tốt nhiệm vụ phát triển nhiệm vụ phát triển

KT-XH, giữ vững ANCT, trật tự ATXH ở địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt

được, trong quá trình thực hiện chính tôn giáo trên địa bàn huyện vẫn còn những

hạn chế từ phía chính quyền, đồng thời cũng có những khó khăn thách thức không

nhỏ từ phía các tổ chức tôn giáo.

Phân tích thực trạng các bước thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện

cho thấy: Thứ nhất, việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chủ trương, chính

sách tôn giáo, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo nhìn chung đã đạt

được những kết quả quan trọng nhưng đôi khi hiệu quả đạt được chưa cao, có lúc

chưa kịp thời và đồng bộ, có lúc còn chung chung chưa đáp ứng được nhu cầu thực

tiễn trong công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Thứ hai,

Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo đôi lúc chưa thường xuyên,

chưa sát đối tượng. Thứ ba, Trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính

sách tôn giáo có lúc phối hợp cứng nhắc, thiếu linh hoạt, còn mang tính hình thức,

khi xảy ra vụ việc còn đẩy trách nhiệm cho nhau. Thứ tư, Để chính sách tôn giáo

sách được duy trì, các cơ quan QLNN về tôn giáo đã quan tâm, tạo điều kiện cho

các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động nhưng phải trên tinh thần thượng tôn pháp

luật. Thứ năm, Công tác đôn đốc, theo dõi, kiểm tra thực hiện chính sách tôn giáo

có lúc chưa chủ động. Thứ sáu, Trong công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

80

thực hiện chính sách tôn giáo chưa chủ động, chủ yếu tổ chức theo sự chỉ đạo của

Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và BTG tỉnh.

Thực tế tình hình tôn giáo ở huyện Quế Sơn hiện nay đang có chiều hướng

phát triển, số lượng tín đồ tôn giáo ngày càng tăng, xuất hiện ngày càng nhiều các

trường hợp vi phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo.

Để khắc phục những vấn đề trên, tôi đã đề xuất những giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Quế Sơn trong thời gian

đến, những giải pháp này được đúc rút từ việc quán triệt chủ trương, đường lối,

chính sách của Ðảng và Nhà nước, của Ðảng bộ, chính quyền địa phương về

phương hướng thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện. Các giải pháp tạo

thành một hệ thống, từ việc hoàn thiện khuôn khổ cơ chế, chính sách đến tổ chức

triển khai, phối hợp thực hiện.

Thông qua kết quả nghiên cứu của Luận văn, tác giả mong muốn từ thực tiễn

được trình bày trong Luận văn phần nào có những đóng góp giúp cho công tác

nghiên cứu cũng như lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn việc thực hiện chính sách tôn giáo

địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2015) Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo ở tỉnh Quảng Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện

Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt 3.1.2.2. Nam, (1990), Nghị

quyết số 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong

tình hình mới, Lưu hành nội bộ.

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (1998), Chỉ thị số 37 -

CT/TW ngày 02/07/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Lưu hành

nội bộ.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (2003), Nghị quyết số

25 - NQ/TW Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa

IX, về công tác tôn giáo, Lưu hành nội bộ.

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, (2009), Công văn số

57 - KL/TW ngày 03 tháng 11 năm 2009 của Ban Chấp hành TW Đảng Cộng

sản Việt Nam về Kết luận của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị

quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng Khóa IX về phát huy sức mạnh đại

đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo, Lưu hành nội bộ.

6. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) (2018) Chỉ thị 18-CT/TW về tiếp tục

thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW của về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Lưu hành nội bộ.

7. Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24/TW, (1998), Báo cáo tổng kết việc thực

hiện Nghị quyết số 24 NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) về tăng cường công

tác tôn giáo trong tình hình mới; Phương hướng công tác tôn giáo thời kỳ

mới, Lưu hành nội bộ.

8. Ban Tôn giáo Chính phủ, (2012), Tài liệu hướng dẫn thực hiện Nghị định số

92/2012/NĐ - CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Lưu hành nội bộ.

9. Ban Tôn giáo Chính phủ, (1995), Các văn bản của nhà nước về hoạt động tôn

giáo, Nxb Tôn giáo.

10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam,

Nxb Tôn giáo.

11. Ban Tôn giáo Chính phủ, (2012), Tài liệu hướng dẫn thực hiện Nghị định số

92/2012/NĐ - CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Lưu hành nội bộ.

12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quế Sơn (2018) Báo cáo tổng kết 15 thực hiện

Nghi quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác

tôn giá’ báo cáo; báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Thông báo số 148-

TB/TW, ngày 04-4-2008 của Bộ Chính trị về việc giải quyết nhà, đất liên quan

đến tôn giáo; báo cáo 05 năm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 05-01-

2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chủ trương, giải pháp giải quyết

vấn đề hoạt động phục hồi “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; Lưu trữ

tại Văn phòng Huyện ủy Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

13. Ban Chỉ đạo Công tác Tôn giáo huyện Quế Sơn, Báo cáo tổng kết công tác tôn

giáo năm:,2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Ban Dân vận Huyển

ủy Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

14. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết

công tác xây dựng Đảng năm 2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại

Văn phòng Huyện ủy, Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

15. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Uỷ ban nhân dân huyện Quế Sơn tỉnh

Quảng Nam: 2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Văn phòng Ủy ban

nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

16. Báo cáo tổng kết công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo năm

2014,2015,2016,2017,2018,2019, Lưu trữ tại Phòng Nội vụ huyện Quế Sơn.

17. Chính Phủ, (2005), Nghị định số 22/2005/NĐ - CP về Hướng dẫn thi hành một

số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.

18. Chính Phủ, (2013), Nghị định số 92/2012/NĐ - CP về Quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.

19. Chính phủ (2017)Nghị định số 162/2012/NĐ - CP về quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.

20. Chính phủ, (2016) Luật tín ngưỡng, tôn giáo và hỏi đáp. NXB Chính trị quốc

gia sự thật.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành TW khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bày Ban Chấp

hành TW khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

26. Đỗ Quang Hưng (2008) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam về lý luận

và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội;

27. Đỗ Quang Hưng (2009), Vấn đề Tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, Nxb Lý

luận Chính trị, Hà Nội;

28. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb.

Đại học Quốc gia Hà Nội;

29. Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước-Tôn giáo -Pháp luật, Nxb Công an Nhân

dân, Hà Nội;

30. Đỗ Quang Hưng (2015), Quan hệ Nhà nước – Giáo hội và chính sách tôn giáo,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội,...

31. Hội đồng lý luận Trung ương và Viện Hàn lâm KHXH VN – Viện Nghiên cứu

Tôn giáo tổ chức tháng 11 năm 2018: báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị

quyết số 25 của các tỉnh, thành ủy. Dẫn theo Bùi Thanh Hà, Định hướng phát

huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học:

Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước hiện nay.

32. Lênin. Toàn tập, (1977) t.37. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

33. Tào Gia Cát Linh (2016) thực hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố

Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện Khoa học xã hội, Hà

Nội.

34. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

35. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

36. Lê Hữu Nghĩa và PGS, TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về

tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Ban Tôn giáo Chính phủ.

37. Hoàng Văn Nghĩa, (2013). Hội thảo khoa học - tôn giáo và nhà nước pháp

quyền XHCN, Tài liệu tham khảo, Ban Tôn giáo Chính phủ.

38. Nguyễn Thị Thu Oanh (2019) thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên

hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính sách Công, Học viện Khoa học xã hội, Hà

Nội.

39. Lê Ngọc Sĩ (2014) Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở

huyện đảo Phú Quốc - Kiên Giang hiện nay, luận văn thạc sĩ Tôn giáo học,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;

40. Từ điển Tiếng Việt (1995), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Ngô Hữu Thảo (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ