VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÚY VI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

CHO ĐỐI TƯỢNG YẾU THẾ TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÚY VI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

CHO ĐỐI TƯỢNG YẾU THẾ TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TỐNG ĐỨC THẢO

HÀ NỘI, 2021

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách công là chính sách của Nhà nước, là kết quả cụ thể hóa chủ

trương, đường lối của Đảng cầm quyền thành tập hợp các quyết định chính trị

có liên quan với nhau nhằm thực hiện mục tiêu và là công cụ cụ thể nhằm giải

quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, duy trì sự tồn tại

và phát triển của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân.

Bản chất của chính sách công là ý chí chính trị của Đảng cầm quyền được cụ

thể hóa thành các quyết sách, quyết định chính trị của Nhà nước để giải quyết

các vấn đề xã hội, đáp ứng nhu cầu của người dân. Dưới góc độ quản lý, quản

trị quốc gia, Nhà nước sử dụng chính sách như một công cụ quan trọng tác

động vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội để đạt được mục tiêu định

hướng của Nhà nước.

Chính sách trợ giúp pháp lý là một loại chính sách công được nhà nước

sử dụng để tác động vào một đối tượng rất đặc biệt trong xã hội. Trong thời

gian qua, chính sách trợ giúp pháp lý đã khẳng định vị trí của hoạt động này

trong công tác Tư pháp và sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 là

đúng đắn, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong

việc bảo đảm công bằng, trở thành cầu nối giữa chính quyền và nhân dân;

nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân; đồng thời góp phần bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý đặc biệt là quyền lợi của

nhóm người yếu thế. Tuy nhiên, thực tiễn xã hội đã phản ánh những bất cập,

thiếu sót trong lĩnh vực pháp luật trợ giúp pháp lý.

Ở tỉnh An Giang, tỷ lệ người yếu thế còn khá lớn và nhu cầu thụ hưởng

dịch vụ trợ giúp pháp lý tương đối cao. An Giang thuộc vùng đất Tây Nam của

Tổ quốc, là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Với vị trí địa lý có đồng

bằng, đồi núi, sông ngòi, nên An Giang có điều kiện thuận lợi phát triển trên lĩnh

1

vực nông nghiệp. Trong sự phát triển toàn diện của mình, An Giang luôn coi

trọng các chính sách xã hội, an sinh xã hội, cung cấp cho người dân nói chung và

những người yếu thế trong xã hội nói riêng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ pháp

lý, những hỗ trợ pháp lý rất cần thiết cho bà con yếu thế trong việc nắm bắt cơ

hội phát triển.

Nhóm người yếu thế luôn dành được sự quan tâm của cấp ủy, chính

quyền và các Sở, ban ngành. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được

thì hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh An Giang vẫn có những khó

khăn, vướng mắc như về hình thức trợ giúp pháp lý còn dàn trải, nhiều đối

tượng là người yếu thế nhưng lại không thuộc diện trợ giúp pháp lý theo pháp

luật... Việc nghiên cứu, đánh giá pháp luật về trợ giúp pháp lý cho nhóm

người yếu thế càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, việc nghiên cứu

đề tài “Thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trên

địa bàn tỉnh An Giang” không chỉ có tính cấp thiết về mặt lý luận mà còn là

đòi hỏi thực tiễn nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại của hệ thống trợ

giúp pháp lý Việt Nam. Đó là những lý do để tác giả chọn vấn đề này cho

luận văn tốt nghiệp chuyên ngành chính sách công. Từ thực tiễn công tác

trong ngành tư pháp An Giang, học viên mong muốn thông qua nghiên cứu

luận văn này góp phần đề xuất những giải pháp và những kiến nghị cho việc

thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh

An Giang có hiệu quả hơn nữa, góp phần vào sự phát triển chung của mảnh

đất An Giang giàu truyền thống lịch sử và phát huy được những lợi thế cạnh

tranh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long - Tây Nam bộ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Về chủ đề chính sách và thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối

tượng yếu thế đã có một số công trình nghiên cứu như sau:

- Luận án tiến sĩ Luật học: “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở

Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của Tạ Thị Minh Lý - Nguyên Cục trưởng

2

Cục Trợ giúp pháp lý của Bộ Tư pháp. Nội dung Luận án nghiên cứu cơ sở lý

luận, cơ sở pháp lý của điều chỉnh pháp luật về TGPL; thực trạng điều chỉnh

pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về

TGPL trong điều kiện đổi mới. Đây là công trình nghiên cứu rất quan trọng

trong quá trình hình thành hệ thống và mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

nói chung.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp

luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ

Xuân Lân tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về các hình thức tiếp

cận pháp luật; đối tượng người nghèo ở Việt Nam và các hình thức tiếp cận

pháp luật của người nghèo. Những người yếu thế trong xã hội.

- Những giải pháp Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật về

người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam” của Vũ Hồng Tuyến tập trung

nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý”

của Phan Thị Thu Hà đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được

TGPL và các giải pháp nhằm đảm bảo quyền dược TGPL của người dân.

- TS. Lê Vinh Danh: Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935-

2001, NXB Thống kê, HN, 2001. Cuốn sách là một tài liệu quý trong việc

tham khảo kinh nghiệm của Hoa Kỳ một quốc gia phát triển và có nhiều đóng

góp cho khoa học chính sách của thế giới.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các

chương trình giảm nghèo” của Lê Thị Thúy, năm 2012 nghiên cứu cơ sở lý

luận, thực trạng thực hiện hoạt động TGPL trong các chương trình giảm

nghèo và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động TGPL trong

các chương trình giảm nghèo.

- TS. Lê Chi Mai: Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình

3

chính sách, NXB Đại học Quốc gia TP HCM, 2000. Cuốn sách đã khái quát

các khâu của quá trình chính sách, chu trình chính sách, đặc biệt nhấn mạnh

khâu thực thi chính sách nằm trong tổng thể chu trình chính sách.

- PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải, ThS. Lê Văn Hoà: Đại cương về phân

tích chính sách công, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2013. Cuốn sách đã giới

thiệu khái lược về khâu đánh giá chính sách trong chu trình chính sách. Đánh

giá chính sách có mối quan hệ rất khăng khít với thực hiện chính sách.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Thực hiện

pháp luật về TGPL từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, của Nguyễn Thị Kim

Dung, năm 2016 tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về

trợ giúp pháp lý.

- PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải: Chính sách công - những vấn đề cơ bản, NXB

Chính trị Quốc gia, HN, 2015. Cuốn sách đã làm nổi bật những vẫn đề chung về

chính sách công, xây dựng, ban hành, thực thi, đánh giá chính sách công.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc tổ chức thực hiện chính sách

trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

trong tình hình mới. Trên cơ sở kế thừa luận văn sẽ tiếp tục phân tích quá

trình thực hiện chính sách, những điểm nghẽn, rào cản thực hiện chính sách

trợ giúp pháp lý nói chung và thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối

tượng yếu thế nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính

sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang, luận

văn đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ cần

4

thực hiện:

Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của thực hiện chính sách trợ giúp

pháp lý cho đối tượng yếu thế và pháp luật về trợ giúp pháp lý;

Thứ hai, phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý

cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang;

Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách trợ giúp pháp cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An

Giang trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu lý

luận về chính sách trợ giúp pháp lý và thực tiễn thực hiện chính sách trợ giúp

pháp lý cho đối tượng yếu thế.

Về phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn xác định phạm vi

nghiên cứu là việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu

thế trên địa bàn tỉnh An Giang.

Về phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn xác định phạm vi về thời

gian là từ năm 2015 đến 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, tác giả lấy nền tảng Chủ nghĩa Mác -

Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm hiểu và phân tích tiêu chí xây dựng

của chính sách trợ giúp pháp lý.

5.2. Phương pháp cụ thể

Để hoàn thành đề tài luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp cơ

bản như sau:

Một là, các phương pháp để thu thập thông tin bao gồm:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả đã thu thập thông tin từ

5

nhiều nguồn tài liệu thứ cấp như các văn bản quy phạm pháp luật, sách, báo,

ấn phẩm nghiên cứu khoa học, báo cáo của địa phương nghiên cứu… có các

nội dung liên quan đến đề tài.

- Phương pháp thực địa: là phương pháp thu thập thông tin sơ cấp bằng

cách trực tiếp thu thập và xử lý thông tin đã thu thập.

Hai là, trong luận văn tác giả đồng thời còn sử dụng các phương pháp

như thống kê, tổng hợp, phân tích,…số liệu và dữ liệu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Luận văn là tài liệu tham khảo cho công tác trợ giúp pháp lý nói

chung và đối tượng yếu thế trong xã hội nói riêng.

- Luận văn cũng có thể là tài liệu tập huấn cho đối tượng rất cụ thể là

những người nghèo, yếu thế trong xã hội về thụ hưởng trợ giúp pháp lý.

- Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn kiến nghị các đề xuất đối với các cơ

quan thực hiện trợ giúp pháp lý.

7. Kết cấu của luận văn

6

Luận văn ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu với 3 chương 8 tiết.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

1.1. Chính sách và chính sách trợ giúp pháp lý

1.1.1. Khái niệm chính sách và chính sách công

1.1.1.1. Chính sách

Chính sách trong thực tế được dùng với nhiều nghĩa, có những nghĩa

mang tính nguyên tắc chung và dài hạn như chính sách bình đẳng các dân tộc

và quyền tự quyết, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thưởng cổ phiếu

v.v.. Cũng có khi chính sách được dùng với nghĩa là một biện pháp nhất thời,

cụ thể như “Phải có chính sách với ông A để ổn định tư tưởng”. Trong nghiên

cứu khoa học, các chính sách dùng với nghĩa nào cũng có chung một điểm:

chúng đều là các quyết định của chủ thể nắm quyền lực đối với một tập thể

nhất định, dù tập thể đó có thể chỉ là một hội nghề nghiệp, câu lạc bộ, công ty

tư nhân hay một quốc gia.

Trong thực tế cần phân biệt 3 khái niệm: đường lối, chính sách và biện

pháp. Đường lối bao gồm những nguyên tắc và định hướng chung nhất,

thường mang tính dài hạn. Chính sách là cụ thể hóa và thể chế hóa định

hướng đó của đường lối, trong trung hạn và ngắn hạn. Các biện pháp là cụ thể

hóa của chính sách, thường có ý nghĩa là các hành động cụ thể, thực tiễn vì

vậy thường mang tính ngắn hạn hay tính tình huống.

Việc phân biệt như vậy có ý nghĩa về nghiên cứu vì dù cùng là quyết

định, 3 loại quyết định trên có những khác biệt quan trọng trên hai bình diện:

1) khác biệt về cơ sở lý luận, và 2) khác biệt trong tác động thực tiễn. Đương

nhiên, ranh giới giữa 3 cấp độ “đường lối”, “chính sách” và “biện pháp”

(cũng như giữa một loạt các thuật ngữ tương tự như chương trình, cương lĩnh,

7

dự án, quyết sách v.v.) sẽ không dễ phân biệt trong thực tế cách sử dụng.

Có thể coi đường lối, vì là quyết định về các phương hướng chung nhất,

chủ yếu có cơ sở dựa trên triết lý phát triển tổng thể. Trong khi đó, chính

sách, với tư cách là cụ thể hóa đường lối trong các lĩnh vực riêng biệt hơn,

cần dựa trên các lý thuyết khoa học, còn biện pháp hàm ý sự ứng dụng các

kiến thức chung trong tình huống riêng biệt, cụ thể và vì vậy có thể coi là có

tính nghệ thuật trong lãnh đạo thực tiễn.

1.1.1.2. Chính sách công

Chính sách của nhà nước, tức chủ thể nắm quyền lực công, được gọi là

chính sách công.

Khoa học chính trị, hiểu một cách ngắn gọn nhất, là môn học nghiên cứu

về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị (QLCT). Quyền lực chính trị của

giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Thông qua việc thực hiện các

chính sách của nhà nước, giai cấp cầm quyền tiến hành các biện pháp nhằm đạt

được các mục tiêu của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.

Như vậy, chính sách công là một khái niệm chi phối sự hiểu biết của

chúng ta về việc thực thi quyền lực nhà nước. Việc hoạch định và thực thi có

hiệu quả các chính sách, xét cho cùng, là tiêu chí căn bản để đánh giá cả hệ

thống chính trị, chứ không phải là tiêu chí về đa nguyên đa đảng như một số

lý thuyết thường nhấn mạnh.

Đầy đủ hơn chính sách công là chương trình hành động hướng đích

của chủ thể nắm quyền lực công cộng.

Định nghĩa ở trên nhấn mạnh 3 đặc tính căn bản của đối tượng nghiên cứu:

Thứ nhất, chính sách công không phải các quyết định nhất thời (mang

tính tình thế) của Đảng, chính phủ mà là chương trình hoạt động được suy

tính một cách khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những

mục đích tương đối cụ thể.

Thứ hai, chủ thể hoạch định chính sách cũng là chủ thể nắm quyền lực

8

nhà nước, vì vậy có khả năng và công cụ để cưỡng chế hợp pháp. Với nghĩa

này, các chương trình hành động của các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội,

các đại công ty... dù là hợp pháp, không phải là chính sách công, vì không có

công cụ cưỡng chế quan trọng nhất của nhà nước là lực lượng vũ trang, và vì

các tổ chức phi nhà nước đó cũng không có độc quyền thu thuế như nhà nước.

Thứ ba, Chính sách công bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ

không phải chỉ là những tuyên bố. Kết quả thực tế của chính sách là quan

trọng hơn tên gọi hay ý định ban đầu của chính sách đó. Đây phải là nguyên

tắc quan trọng xuyên suốt đối với các nhà nghiên cứu cũng như hoạch định

chính sách.

Theo chủ thể quyền lực công, chính sách công được chia thành hai loại:

chính sách quốc gia (áp dụng cho toàn bộ đất nước) và chính sách địa

phương (cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã). Trong khi chính quyền trung ương

quyết định các chính sách quốc gia cơ bản về đối nội, đối ngoại, về phát triển

kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh, chính quyền địa phương cũng có quyền

quyết định những chính sách thuộc thẩm quyền của mình để phát huy tiềm

năng của địa phương và giải quyết các vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội khác

có tính đặc thù của địa phương.

Chính sách quốc gia luôn là tiêu điểm chủ yếu và quan trọng nhất trong

lĩnh vực nghiên cứu chính sách. Hơn nữa, các kết quả và phương pháp nghiên

cứu chính sách quốc gia có thể áp dụng cho nghiên cứu phân tích chính sách

địa phương. Do vậy, trong bài này “chính sách công” chủ yếu hàm chỉ “chính

sách quốc gia” và cũng được gọi ngắn gọn hơn là “chính sách”.

Khoa học nghiên cứu chính sách đã có một bề dày phát triển trên thế

giới. Tại phương Tây, các nhà chính trị và khoa học bắt đầu tập trung chú ý

phân tích chính sách công từ giữa những năm 1940, chủ yếu do vai trò trung

tâm của nhà nước trong công cuộc tái thiết sau Đại chiến Thế giới II. Trước

đó họ tập trung chủ yếu vào các quá trình chính trị chứ không phải là “sản

9

phẩm” của các quá trình đó. Vào những năm 1950, lĩnh vực nghiên cứu độc

lập về chính sách mới trở nên rõ ràng sau một loạt các nghiên cứu cơ bản

cũng như sự công nhận của giới khoa học và giới chính trị.

Trong những năm 1960, các nghiên cứu chính sách ở phương Tây đã

đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt trong việc ứng dụng thực tiễn.

Những năm 1970 và 1980 đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của lĩnh

vực nghiên cứu này. Các trường đại học đều đã thành lập chuyên ngành riêng

về phân tích chính sách, cung cấp các chuyên gia tư vấn và đánh giá chính

sách cho toàn bộ hệ thống chính trị.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chính sách cũng đã được công bố

nhiều trong các sách, báo và các tạp chí chuyên nghành. Các nghiên cứu này

tập trung vào nội dung cụ thể của chính sách từ góc độ chuyên ngành hẹp, ít

khi xem xét nó từ góc độ chính trị học. Trong khi đó, việc nghiên cứu các

phương diện chính trị của một tiến trình chính sách nói chung, đặc biệt, vai

trò của quyền lực công trong việc hoạch định và triển khai các chính sách như

vậy, có ý nghĩa căn bản cho việc thiết kế cũng như triển khai chính sách một

cách có hiệu quả.

Để làm được điều này, nghiên cứu chính sách không thể tách rời việc

mô tả và phân tích ba mảng vấn đề lớn: các thiết chế chính trị, các qui trình

chính trị và các hành vi chính trị. Mục đích của nghiên cứu chính sách như

vậy có thể qui về 3 điểm lớn: i) Quá trình hoạch định Chính sách công; ii) Nội

dung căn bản của các Chính sách công và iii) Tác động và hậu quả của các

Chính sách công. Trên thế giới, người ta thường tách thành hai lĩnh vực kiến

thức về chính sách: 1- Kiến thức về quá trình chính sách (tức các ưu tiên

chính trị, các ràng buộc thể chế v.v.) 2 - Kiến thức và kỹ năng phân tích dùng

trong quá trình chính sách (tức việc phân tích chi phí, lợi ích, tác động v.v. cụ

thể của một chính sách đối với các nhóm hoặc toàn bộ dân chúng).

10

1.1.2. Cơ sở khoa học của hoạch định chính sách công

Chính sách, với tư cách là thể hiện cụ thể hệ tư tưởng, các nguyên tắc

chỉ đạo và đường lối phát triển của một chính đảng, đóng vai trò quyết định

trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Một chính phủ bị thay

thế bới chính phủ khác chính bởi vì chính phủ đó đã không có những chính

sách hợp lòng dân, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Khả năng đưa

ra và thực hiện được các chính sách đúng đắn, hiệu quả, hợp lòng dân quyết

định một cách cơ bản tính chính đáng của quyền lực.

Khác với đường lối, chiến lược, mọi chính sách đều hướng tới giải

quyết những vấn đề, nhưng nan giải cụ thể, sản xuất hay cung cấp những hàng

hóa và dịch vụ cụ thể như trồng rừng, làm đường, cung cấp vốn cho người

nghèo, bảo hiểm y tế xã hội, trợ cấp thất nghiệp... Tắc nghẽn giao thông, bảo

vệ chủ quyền lãnh thổ, tham nhũng, buôn lậu... cũng đều là các vấn đề công

cộng, cần có chính sách để giải quyết, chứ không thể chỉ dựa vào các biện pháp

nhất thời mang tính tình huống và cảm tính, cũng như không thể trông đợi vào

sự tự giác, tự nguyện của các cá nhân và các tổ chức phi nhà nước khác.

Do bản chất là giải quyết các vấn đề thực tiễn, nên chính sách luôn có

tính tổng hợp liên ngành, tức phải cần nhắc mọi mặt của vấn đề: tâm lý, văn

hóa, đối ngoại... Tuy nhiên, có thể thấy có hai cơ sở khoa học quan trọng của

chính sách công: 1) Chính trị học và 2) Kinh tế học.

Chính trị học đặt cơ sở cho việc xác định các ưu tiên chính trị trong

việc lựa chọn các vấn đề nào cần giải quyết, đối tượng hay tầng lớp, giai cấp nào

cần được ưu tiên của chính sách. Chính trị học cũng đặt việc hoạch định và thực

thi chính sách trong bối cảnh rộng của toàn bộ hệ thống chính trị hiện hành, các

ràng buộc về thể chế cũng như các tính chất cụ thể của sự vận hành trên thực tế

của hệ thống. Nói cách khác, chính trị học cung cấp sự phân tích các khía cạnh

chính trị như mâu thuẫn về lợi ích giữa các cá nhân và nhóm cụ thể, cách thức

11

điều hòa, các thể chế cần có... Một cách hình tượng, chính trị học phân tích về

định hướng của cả con tàu, trong khi kinh tế học sẽ phân tích xem việc vận hành

con tàu theo định hướng đó như thế nào là nhanh nhất và ít tốn kém nhất.

Như vậy, kinh tế học chủ yếu xem xét khía cạnh kỹ thuật của chính

sách, tức vấn đề hiệu quả, hiệu suất. Đây chính là việc tính toán và cân nhắc

các chi phí và lợi ích mang lại của một chính sách. Sở dĩ phải tính toán và cân

nhắc chính vì chúng ta chỉ có các nguồn tài nguyên hữu hạn. Các hạn chế này

thường chỉ rõ ở tầm vĩ mô, phải luôn được nhìn nhận và cân đối giữa các mục

tiêu khi hoạch định chính sách.

Như vậy, nói đến chính sách không thể không nói đến các ưu tiên chính

trị của đảng cầm quyền thông qua nhà nước cũng như tính tối ưu của chính

sách. Do đó, mọi chính sách đều có mục tiêu chung là đạt được lợi ích tối đa

với chi phí thấp nhất.

Tất nhiên, lợi ích và chi phí không chỉ được đo bằng tiền vì nó phụ

thuộc vào quan điểm, hệ giá trị của giai cấp cầm quyền, đặc điểm văn hoá dân

tộc, quan niệm chung của mọi người. Tuy nhiên, trong việc phân tích chính

sách, việc quy các chi phí, lợi ích ra cùng một đơn vị (tiền nội tệ, ngoại tệ)

vẫn là phương pháp chủ đạo để tạo lập cơ sở khoa học cho các quyết định

chính sách.

Trong tổng quát, chính sách phải đáp ứng được những đòi hỏi mang

tính hệ thống sau: những đòi hỏi mang tính giai cấp (chính sách đó phải phù

hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền), những đòi hỏi mang tính dân tộc

(phù hợp với đặc điểm văn hoá - tâm lý - thói quen dân tộc), đòi hỏi mang

tính nhân loại (phù hợp với các xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại).

Ngoài ra, một chính sách được hoạch định tốt còn phải thoả mãn các

đòi hỏi mang tính kỹ thuật khác như: tính khả thi kỹ thuật (đủ trình độ, kiến

thức chuyên ngành để thực hiện), tính khả thi tài chính (đủ nguồn vốn cho

việc thực hiện chính sách), tính tối ưu kinh tế (lợi nhuận nhiều nhất với chi

12

phí thấp nhất).

1.2. Chu trình chính sách công

Chính sách công cần được nhìn nhận như một quá trình từ hoạch định đến

thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Có nhiều cách thức để nhìn nhận các giai

đọan của một quá trình chính sách như vậy. Về tổng thể, chính sách công có thể

được coi là một chu trình gồm bốn giai đọan: 1) Xác lập nghị trình, 2) Xây dựng

và ban hành, 3) Triển khai thực hiện, và 4) Tổng kết và đánh giá tác động.

1.2.1. Xác lập nghị trình

Xác lập nghị trình (chương trình nghị sự) chính là việc tìm kiếm sự

nhất trí về mục tiêu căn bản mà chính sách cần đạt. Sở dĩ phải tìm kiếm sự

nhất trí vì mỗi người, mỗi nhóm, mỗi tầng lớp có thể có cách nhìn nhận

nguyên nhân chính khác nhau của mỗi hiện tượng, tức vấn đề mà chính sách

muốn giải quyết. Việc nhìn nhận nguyên nhân (hay các nguyên nhân) chính sẽ

ảnh hưởng quan trọng đến nội dung và cách thức triển khai của chính sách.

1.2.1.1. Căn cứ lý luận

Căn cứ lý luận chính của việc xác định vấn đề nào cần có chính sách

công là lý luận về sự kém hiệu quả của cơ chế thị trường (tức thuật ngữ “sự

thất bại của thị trường” - Market failure). Lý luận này về căn bản chỉ ra các

trường hợp ở đó các động cơ về lợi nhuận và cơ chế cạnh tranh tự do sẽ

không mang lại kết quả tốt nhất cho các cá nhân, tức không đạt được kết quả

tối ưu như trong bài tóan kinh điển về “sự nan giải của những tù nhân”.

Trong thực tế, những hàng hóa và dịch vụ có hai tính chất:

i) Không loại trừ: tức một người không thể loại trừ sự tiêu dùng của

người khác trong việc sử dụng hàng hóa đó

ii) Không cạnh tranh: Tức sự tiêu dùng của một người không làm giảm

sự tiêu dùng của người khác được gọi là hàng hóa và dịch vụ công cộng (như

sóng radio, TV, hải đăng, không khí trong sạch, an ninh quốc phòng...). Đối

với các hàng hóa này, sự cưỡng chế (trong đóng góp nguồn lực để sản xuất) là

13

cần thiết để đạt được kết quả tối ưu vì ai cũng có động cơ chờ người khác sản

xuất, để trở thành “kẻ ăn theo” - không đóng góp nhưng vẫn hưởng thụ. Do sự

cần thiết này mà nhà nước cần có chính sách công, tức có tính cưỡng chế

trong việc đạt được kết quả tối ưu. Các hàng hóa, dịch vụ có hiệu ứng ngoại

sinh (như giáo dục, môi trường) cũng như có tính độc quyền tự nhiên (như

giao thông, trục cáp điện và điện thoại) đều cần có chính sách công, tức cần

nhà nước và ý chí chung.

Tổng quát hơn, định lý về “kẻ ăn theo” kết luận rằng, trong những

trường hợp khi người ta có thể đóng góp ít hơn mà vẫn được hưởng lợi nhiều

thì người ta có khuynh hướng không muốn đóng góp và đợi ăn theo các kết

quả của người khác.

Như vậy, lập luận chính ở đây là: trong những trường hợp nhất định,

chính sách của nhà nước sẽ mang lại hiệu quả tối ưu trong việc giải quyết các

vấn đề xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng trong việc xác định một vấn đề có

cần chính sách công cũng như nguyên nhân chính của vấn đề đó.

1.2.1.2. Căn cứ thực tế

Sự thất bại của thị trường dường như là lý do đủ để nhà nước đảm nhận

trách nhiệm giải quyết và đưa ra các chính sách công. Tuy nhiên, khoa học

cũng chỉ ra rằng, dù thị trường không hiệu quả, nhưng nhà nước cũng có thể

không hiệu quả. Nhà nước cũng có thể thất bại do nhiều lý do, trong đó có các lý

do về quan liêu, tham nhũng, kém năng lực... tức các chi phí và kém hiệu quả

của việc ra quyết định tập thể, tức các quyết định của chính phủ. Ngay cả trong

các chính thể dân chủ, việc bỏ phiếu theo số đông cũng có thể không hiệu quả

(Đây là hệ quả của định lý cử tri trung dung trong chính trị học).

Như vậy, một trong các căn cứ thực tiễn quan trọng nhất đó là tình

trạng và năng lực hiện thời của bản thân nhà nước. Ví dụ nổi bật là các chính

sách về giáo dục, y tế, an sinh xã hội hay thậm chí các chính sách thúc đẩy thị

trường và thương hiệu quốc gia. Nếu năng lực nhà nước chưa đủ (ngân sách

14

còn hạn chế, cán bộ yếu kém và tham nhũng, các chức năng chồng chéo, bộ

máy cồng kềnh...), việc thực hiện các chính sách này có thể cần bị đình hoãn,

có thể giao cho khu vực tư nhân, hoặc chỉ tập trung cho những dịch vụ và

hàng hóa cơ bản nhất (chăm sóc sức khỏe ban đầu, giáo dục phổ thông...), tức

có tác động xã hội rộng lớn nhất.

Các căn cứ thực tiễn như vậy có thể quy về các điểm chính sau:

1) Nhà nước có làm tốt hơn thị trường trong thực tiễn của đất nước đó

không?

2) Vấn đề chính sách đó có tác động rộng lớn đến đa số dân chúng không?

3) Vấn đề đó có thực sự nằm trong những ưu tiên chính trị không?

Việc phát hiện vấn đề, đưa vào chương trình để thảo luận - tức là xác

lập nghị trình - là điểm khởi đầu của mọi chính sách. Giai đoạn này rất quan

trọng, vì một trong những cách lẩn trốn trách nhiệm tốt nhất chính là giấu vấn

đề cần giải quyết trong phạm vi trách nhiệm.

Trong thực tiễn, mọi vấn đề chính sách đều nảy sinh từ dữ kiện thực tế,

thông qua 3 nguồn quan trọng nhất: số liệu thống kê, các sự kiện và các nhận định.

Các số liệu thống kê luôn là nguồn thông tin quan trọng nhất do tính

khách quan cao của chúng cũng như tính hệ thống trong việc thu thập. Việc

sử dụng số liệu thống kê một cách khoa học cho phép chúng ta vượt qua được

chủ nghĩa kinh nghiệm cũng như nhìn nhận vấn đề chính sách một cách toàn

diện hơn. Đặc biệt đối với các vấn đề chính sách trong những lĩnh vực rộng,

một cá nhân hay một nhóm cá nhân khó có thể bao quát được thông qua các

quan sát hay các kinh nghiệm trực tiếp và vì vậy sẽ dễ trở nên phiến diện nếu

không xem xét đầy đủ các số liệu thống kê liên quan. Như vậy, việc thu thập

số liệu thống kê và xử lý chúng là một điều kiện tiên quyết để có các chính

sách hữu hiệu và có cơ sở khoa học. Việc tổ chức và quan tâm đến chất lượng

của số liệu thống kê, tuy chưa nói được hết cũng cho thấy phần nào chất

15

lượng của quá trình hoạch định chính sách.

Các số liệu thống kê, tuy nhiên, không thể phản ánh được mọi vấn đề

thực tiễn, đặc biệt trong các phát triển mới của đất nước hay tình hình quốc tế.

Vì vậy, các sự kiện cũng là nguồn thông tin quan trọng về các vấn đề mới nảy

sinh. Những sự kiện lớn, như thiên tai, khủng bố... bản thân chúng cũng đặt ra

các vấn đề chính sách mới, thậm chí có thể dẫn đến những thay đổi cả về

đường lối, chiến lược.

Các nhận định, suy luận chủ quan trên cơ sở nhận thức được qui luật

phát triển, cũng là một nguồn quan trọng trong việc xác định vấn đề chính

sách. Dù xét cho cùng cũng phải dựa trên các số liệu và sự kiện, các nhận

định này thông thường thể hiện tầm nhìn xa cũng như định hướng giá trị của

các nhà lãnh đạo. Bởi có tầm nhìn xa, ý kiến của người lãnh đạo (đặc biệt

trong những tình huống không bình thường), lúc đầu, luôn là thiểu số. Mặt

khác, với tư cách đại diện cho nhân dân, ý kiến của họ lại phải đại diện cho đa

số. Đây cũng là một trong những mâu thuẫn cơ bản được Chính trị học nghiên

cứu lâu nay và chỉ có thể giải quyết được thông qua quá trình phát triển thực

tế. Việc xác định được cơ chế để phát huy tính sáng tạo, nhưng cũng ngăn

ngừa được sự chủ quan độc đoán của người lãnh đạo và hoạch định chính

sách luôn là một trong những vấn đề được quan tâm cả trong khoa học lẫn

hoạt động thực tiễn.

Để có thể xác định đúng vấn đề chính sách, cán bộ lãnh đạo cũng cần

nắm được nguyện vọng nhân dân, tận dụng được sự ủng hộ của thông tin đại

chúng và kiểm soát được nghị trình chính thức của chính quyền. Điều này

càng quan trọng trong điều kiện nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân và vì dân.

Trong vô số các vấn đề chính sách, để được đưa vào nghị trình và bàn

luận thực sự, một vấn đề cần thỏa mãn 3 yêu cầu căn bản: tầm quan trọng của

16

vấn đề, hoàn cảnh chính trị thích hợp và sự ủng hộ chính trị.

Từ ba điều kiện căn bản trên có thể thấy 3 nguyên nhân nguyên nhân

chính khiến một vấn đề không được đưa ra bàn luận và do vậy cũng sẽ không

được giải quyết.

Trước hết, vấn đề đó có thể chưa mang tính khái quát cao và không căn

bản, tức không có tầm quan trọng đối với cấp chính quyền cụ thể. Điều này

phụ thuộc một phần quan trọng vào tầm nhìn, động cơ của người đề xướng

vấn đề chính sách, cũng như quan điểm của người lãnh đạo vì họ là người

kiểm soát chương trình nghị sự.

Thứ hai, vấn đề chưa thích hợp với hoàn cảnh chính trị. Một số vấn đề

chính sách có thể chưa được đem ra xem xét (công khai) không phải vì chúng

không quan trọng, mà do tính nhậy cảm văn hóa, lịch sử dân tộc, hoặc quan

hệ quốc tế, bản thân việc đưa ra xem xét đã có thể có những tác động chính trị

không lường trước. Điều này đặc biệt đúng khi vấn đề chính sách liên quan

đến quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc hay nhóm dân tộc, hay liên quan đến

các giá trị, niềm tin truyền thống...

Cuối cùng, nếu vấn đề không được các nhân vật chính trị quan trọng

hoặc các tổ chức liên quan ủng hộ, thì cũng dễ bị gạt ra ngoài chương trình

nghị sự. Bản thân điều này hàm chứa sự phức tạp và mâu thuẫn biện chứng

của cái chủ quan và khách quan trong khoa học chính trị. Về mặt khách quan,

các vấn đề chính sách quan trọng, có ảnh hưởng đến đa số người dân cuối

cùng tất yếu sẽ phải được xem xét và giải quyết (đặc biệt nếu nhìn cả chiều

dài lịch sử). Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định, thời điểm nhất định,

vai trò của cá nhân người lãnh đạo lại nổi lên với tư cách là yếu tố quyết định

trong việc có xem xét chúng hay không, hay lúc nào sẽ xem xét. Tính biện

chứng của mâu thuẫn này cũng tương tự như mâu thuẫn biện chứng của

nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự phân tích trên cho thấy việc xác định cho

đúng nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ là rất quan trọng ngay cả

17

trong giai đoạn này của chính sách.

1.2.2. Xây dựng và ban hành chính sách

Kết quả của việc thảo luận các vấn đề đưa ra trong chương trình nghị

sự chính là sự nhất trí về việc cần thiết phải có các chương trình giải quyết

các vấn đề chính sách. Trong thực tế, sự nhất trí đó phải được cụ thể hoá bằng

các kế hoạch hành động, bằng văn bản pháp quy, tức các quyết định chính

sách. Đây chính là khuôn khổ pháp lý căn bản cho các chương trình hành

động cụ thể của các cơ quan liên quan. Đây không chỉ là kế hoạch có tính kỹ

thuật mà còn là cơ sở pháp lý cho việc sử dụng quyền lực công trong thực

hiện và khi cần thiết, cưỡng chế thi hành chính sách.

Khoa học chính trị phân tích giai đọan này theo hai phần, cũng là hai

quá trình có những đặc điểm khác nhau cả về mặt kỹ thuật chuyên môn cũng

như các khía cạnh chính trị: i) xây dựng [nội dung] chính sách và ii) thông qua,

ban hành [văn bản] chính sách.

Cần phải thấy hai phương diện - tổ chức và nội dung - của giai đoạn

này. Nhận thức về nội dung chính trị của giai đoạn này sẽ qui định việc thiết

kế cách tổ chức xây dựng và thông qua chính sách (tức các qui định pháp lý

về quá trình xây dựng chính sách).

Khác với khoa học pháp lý, khoa học chính trị lấy các quá trình vận

động chính trị, hành vi chính trị thực tế làm trung tâm nghiên cứu, để từ đó có

các kết luận về sự thích hợp của các qui định pháp lý. Nói cách khác, các qui

định pháp lý không thể làm thay đổi các mâu thuẫn chính trị khách quan, chỉ

làm thay đổi hình thức biểu hiện chúng. Chính trị học, do đó, sẽ phải làm rõ

được nội dung chính trị của giai đoạn này, từ đó đưa ra các nhìn nhận về sự

thích hợp của cách tổ chức. Sự hiểu biết các nội dung chính trị là cần thiết cho

người lãnh đạo chính trị để có thể áp dụng vào các môi trường, hoàn cảnh và

con người cụ thể.

Việc phân biệt hai quá trình xây dựng và thông qua chính sách chính là

18

xuất phát từ sự khác biệt trong nội dung chính trị của chúng, mặc dù về mặt tổ

chức, khó có thể tách biệt được hai quá trình này. Bản thân những người xây

dựng chính sách bị ảnh hưởng phần nào bởi nhu cầu và nguyện vọng của họ

về việc chính sách sẽ được chấp nhận (thông qua). Điều này có thể cắt nghĩa

cho các thoả hiệp tiềm ẩn ngay trong một tổ chức (tiểu ban xây dựng chính

sách) và thậm chí một con người, trong giai đoạn xây dựng chính sách.

Từ khía cạnh nội dung, xây dựng chính sách mang tính kỹ thuật chuyên

môn hơn bởi vì nó bao gồm thu thập, phân tích các thông tin, phát triển các

phương án giải quyết vấn đề. Vấn đề trung tâm của việc xây dựng chính sách là

vấn đề so sánh chi phí và kết quả. Kỹ năng chủ yếu ở đây là Phân tích Chi phi -

Lợi ích, từ đó xây dựng các phương án với các lộ trình và tác động khác nhau.

Những người tham gia chính ở đây là các chuyên gia, các nhà tư vấn,

các viên chức có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn tương

ứng. Các tổ chức đóng vai trò chính có thể bao gồm các uỷ ban chuyên môn

của quốc hội, các ban chuyên môn của Đảng, các cơ quan nghiên cứu (trường

đại học, viện nghiên cứu), các bộ liên quan, các tổ chức tư vấn phi chính phủ

và đặc biệt là tiểu ban chuẩn bị chính sách, được thành lập trên cơ sở liên

ngành và bao gồm các cá nhân có kiến thức, kinh nghiệm, các quan hệ chính

trị v.v.. Về căn bản, quy trình này cần có các bước sau:

1) Xác định các đối tượng chính sách

2) Xác định các kết quả cần đạt đối với các đối tượng này

3) Xác định các chi phí dự tính

4) Xác định các phương án chính khả thi

5) Xác định các tác động phụ, các hiệu ứng lan tỏa khác

6) So sánh kỹ thuật giữa các phương án này theo các tiêu chí được định

lượng rõ ràng.

Trên cơ sở các thông tin có tính kỹ thuật này, việc thông qua (phê

chuẩn) chính sách cuối cùng sẽ mang nhiều tính chính trị hơn bởi vì vấn đề

19

trung tâm ở đây là giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích. Vai trò của “các

nhân tố chủ quan” như hệ tư tưởng, quan điểm, các chuẩn mực giá trị là rất

quan trọng trong việc quyết định phương án nào sẽ được lựa chọn.

Ngoài ra, tại nhiều nước trên thế giới, việc đưa ra công chúng lấy ý

kiến từ nhóm người và các tổ chức liên quan thường là một quy định có tính

bắt buộc trong các chính sách lớn. Việc lấy ý kiến như vậy, có hai ý nghĩa:

1- Loại trừ tính cục bộ của các nhà hoạch định, tăng tính khoa học, bổ

sung các khía cạnh mà chỉ có những người liên quan nhìn thấy rõ nhất.

2 - Tạo sự đồng thuận, từ đó, giảm các chi phí cưỡng chế trong quá trình

thực hiện.

Như vậy, có hai hoạt động để ra quyết định một chính sách: Thứ nhất,

các tư tưởng chủ đạo của một chính sách phải được phát triển, đồng thời các loại

(hoặc hình thức) hành động cũng phải được quyết định (xây dựng các phương án

chính sách) và trên cơ sở đó các dự thảo chính sách được đưa ra. Thứ hai, sau

khi đã xác định được các vấn đề trên, chúng phải được cụ thể hoá trong các hình

thức văn bản luật, nghị định, qui định hành chính, v..v và phải được phê chuẩn

bởi các cơ quan có thẩm quyền (tức "thông qua chính sách").

Hai quá trình này hoà quyện và tương tác chặt chẽ trên thực tế. Tính

hoà quyện và tương tác được thể hiện ở ngay trong quá trình xin ý kiến, thăm

dò dư luận, điều chỉnh nội dung trước khi lập tờ trình chính thức. Sự thoả hiệp

trong việc xây dựng và thông qua chính sách, đặc biệt các chính sách phức tạp

và có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội, là dễ thấy không chỉ bởi không thể tính

được hết chi phí và lợi ích, mà còn vì sự đồng thuận chính trị, vốn hết sức

quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với tính khả thi của một chính sách bất

kỳ. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này đã chỉ ra rằng đáng ra, người ta phải

thuyết phục để kiếm được sự nhất trí cho chính sách (được soạn thảo khoa

học), thì đôi lúc, các nhà làm chính sách lại đi tìm một chính sách có khả năng

20

đảm bảo sự nhất trí.

Về mặt tổ chức, các quốc gia khác nhau và tuỳ thuộc vào vấn đề chính

sách, cách tổ chức cũng có thể khác nhau. Thông thường, sau khi đã xác định

rõ mục tiêu, chính phủ sẽ thành lập tiểu ban soạn thảo chính sách. Tiểu ban

này bao gồm các công chức, chuyên gia trong lĩnh vực liên quan. Thành viên

của tiểu ban này phải đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn (nắm vững

các kiến thức, thông tin liên quan), về kinh nghiệm (đã theo dõi các vấn đề

chính sách tương tự), và cả về tính đại diện (đảm bảo sự hài hoà về lợi ích của

các ngành, bộ, nhóm dân cư v.v. bị ảnh hưởng bởi chính sách). Tiểu ban này

có trách nhiệm xây dựng các phương án (chương trình) chính sách trên cơ sở

khoa học và thực tế có tham khảo ý kiến các đối tượng liên quan (kể cả lấy ý

kiến nhân dân, nếu chính sách đó có phạm vi rộng và có ảnh hưởng quan

trọng đến cuộc sống của đa số nhân dân). Sau các tiếp thu ý kiến và chỉnh lý

cần thiết, các phương án chính sách sẽ được trình cho các cấp có thẩm quyền

để thông qua như bộ, ngành, chính phủ hay quốc hội, tuỳ thuộc vào luật và

các qui định pháp lý cụ thể.

Khoa học chính trị đang hướng tới cung cấp các kiến giải để cho việc

thiết kế tổ chức này ngày càng khoa học hơn. Do vậy, việc phân tích nội dung

của quá trình hoạch định chính sách phải lấy giai đoạn xây dựng và thông qua

chính sách là giai đoạn trung tâm.

Trong nhiều thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã tập trung phân tích giai đoạn

này của chu trình chính sách. Hai câu hỏi trung tâm của các nghiên cứu là: Làm

thế nào để có các chính sách tối ưu? Ai là người có tiếng nói quyết định với việc

thông qua chính sách? Dù cách tiếp cận có khác nhau, khái quát lại, các nghiên

cứu trên thế giới và ở nước ta cho thấy có 4 yếu tố chính ảnh hưởng đến mọi

hoạch định chính sách: tính khoa học, tính tiệm tiến, tính đại diện, tính thể chế.

1) Tính khoa học.

Đây là yêu cầu hiển nhiên cho mọi phương án chính sách. Tuy nhiên,

21

bản thân sự tồn tại của các phương án đã tự nói lên vấn đề: chưa phải mọi

điều đều có thể luận giải một cách khoa học, đáng tin cậy và không gây tranh

cãi. Cơ sở khoa học (hay tính tối ưu) của phương án sẽ có ảnh hưởng quan

trọng đến tính khả thi cũng như hiệu quả cuối cùng của chính sách. Từ góc

độ chính trị học cần phân biệt rõ tính hướng đích của chính sách: tính tối ưu

đối với mục đích cụ thể để giải quyết vấn đề cụ thể và vì vậy việc xác định hệ

tiêu chí có ý nghĩa quan trọng. Để làm được việc đó, việc đầu tiên chính là

xác định rõ mục tiêu chính sách, các khả năng giải quyết mục tiêu đó, các ưu

khuyết điểm, cũng như chi phí và ích lợi của từng khả năng. Đây là các

nguyên tắc chung định hướng cho nhóm xây dựng chính sách, trước khi chi

tiết hoá các phương án.

Việc phát triển các phương pháp, công cụ để xác định tính tối ưu là một

hướng quan trọng trong nghiên cứu chính sách. Hiện nay, các lý thuyết trong

kinh tế học về phân tích chi phí lợi nhuận vẫn là nền tảng lý thuyết quan trọng

để đánh giá tính tối ưu của chính sách.

2) Tính tiệm tiến

Trong thực tế, các chính sách có các tác động phức tạp, không thể đánh

giá hết được các chi phí và ích lợi của chúng. Ngoài ra, việc đánh giá những

chính sách lớn đòi hỏi nhiều công sức và các nguồn lực, khiến chính phủ đôi

khi không thể xây dựng các phương án hoàn toàn mới. Thông thường, người

ta thường so sánh với các phương án cũ để cải tiến và hoàn thiện chính sách.

Như vậy, trong thực tế, phần lớn các chính sách được xây dựng theo phương

thức tiệm tiến (thay đổi dần dần để ngày càng tốt hơn). Hơn nữa, các quyết

định chính sách “tối ưu” có thể bị gọt giũa để trở thành “chấp nhận được”.

Thực tế này đôi khi đưa đến kết quả là chính sách được đưa ra có thể chỉ là một

chuỗi các biện pháp không toàn diện vì chứa quá nhiều thỏa hiệp với sức ỳ quá

khứ. Thậm chí, chúng có thể nhằm trì hoãn chứ không phải là giải quyết các

22

vấn đề bức xúc.

Mặt khác, cũng phải nhìn nhận các lý do thực tế của sự tiệm tiến như vậy:

Thứ nhất, các nhà hoạch định chính sách thường không đủ thời gian, thông

tin, nguồn lực để khảo sát kỹ lưỡng mọi phương án chính sách, đặc biệt đối với

các chính sách trong những lĩnh vực rộng lớn. Do vậy, cũng không thể xác định

được chính sách tối ưu. Sự nôn nóng đưa ra các chính sách "cách mạng", "đại

nhảy vọt" trong những điều kiện như vậy có thể đẩy nhân dân vào những thí

nghiệm chính sách với các tổn thất không lường. Từ thực tế này, nếu lấy sự ổn

định và "ít sai" làm trọng, phương pháp tiệm tiến là một phương pháp đáng tin cậy

và hơn thế nữa, ít gây rủi ro chính trị cho những người có trách nhiệm.

Thứ hai, việc chấp nhận tiếp tục các chương trình chính sách hiện có

bao giờ cũng thuận lợi về chính trị hơn. Bởi vì các thay đổi thường sẽ kèm

theo các tranh luận và các tấn công từ nhóm các chủ thể vốn đang có lợi từ

các chương trình hiện có. Không có nhà chính trị muốn bị lôi kéo vào các

tranh cãi thường kỳ như vậy.

Thứ ba, thông thường, người ta sẽ tìm các quyết định dung hòa (một

thoả hiệp giữa tính khả thi và mức độ thoả mãn các yêu cầu đề ra) chứ không

phải là các quyết định tối ưu. Và một khi đạt được một phương án dung hoà

như vậy, ít người sẽ tiếp tục tìm kiếm các phương án thay thế (có thể tốt hơn

phương án được lựa chọn, về mặt chi phí - lợi nhuận).

Như vậy, có thể thấy tính tiệm tiến có mâu thuẫn với tính khoa học,

nhưng đây là thực tế hoạt động chính trị và xét cho cùng, nhìn nhận tính thực

tế của các điều "phi" khoa học cũng chính là khoa học. Nói cách khác, tính

khách quan của khoa học chính là tính đến các điều kiện chủ quan - các dữ

kiện thực tế về trình độ phát triển của con người, xã hội với các môi trường,

tâm lý, thói quen cụ thể.

3) Tính đại diện

Tính khoa học của một chính sách không thể tách rời khỏi tính đại diện

23

cho lợi ích của nhân dân. Bởi vì mọi chính sách đều phải kết hợp được hài

hoà lợi ích của các chủ thể liên quan, đây là vần đề thực chất của chính sách.

Tính dân chủ thực chất cũng thể hiện cô đọng nhất ở đây chứ không phải ở sự

đa đảng hay phổ thông đầu phiếu. Chúng chỉ là các công cụ và vì vậy cũng có

thể được sử dụng cho những mục đích phản hủ. Tuy nhiên, phải thấy rằng nếu

chưa có được các công cụ tốt hơn, việc sử dụng các công cụ này là tất yếu,

trong khi thấy được tất cả các nguy cơ tiềm ẩn của chúng.

Xét từ góc độ chính trị học có thể thấy mâu thuẫn trung tâm ở đây

chính là tầm nhìn xa của người lãnh đạo vốn chiếm thiểu số, với lợi ích trước

mắt của đa số người dân. Nói cách khác, cái đúng, cái thiên tài luôn là thiểu

số khi nó bắt đầu xuất hiện và vì vậy có khả năng lớn là nó không được ủng

hộ bởi đa số. Để vượt qua nan giải này, tính dân chủ bắt buộc phải dựa trên

nền tảng khoa học. Việc bỏ phiếu (lựa chọn chủ quan) phải là bỏ phiếu cho

các phương án được luận chứng khoa học (giữa các phương án có tính khoa

học ngang nhau) chứ không phải là bỏ phiếu cho mọi phương án. Điều này tất

nhiên cũng đúng cho toàn bộ các vấn đề về dân chủ. Đây cũng là một nội

dung quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tham khảo ý kiến

rộng rãi luôn phải dựa trên cơ sở khoa học, nếu không dân chủ sẽ bị lợi dụng

để thực hiện lợi ích cục bộ, thậm chí của một cá nhân.

4) Tính thể chế

Nghiên cứu thực tế cho thấy nội dung của phương án chính sách cũng

dễ bị ảnh hưởng của các lợi ích cục bộ (ví dụ, của cơ quan được giao nhiệm

vụ hoạch định phương án chính sách). Mặc dù không thể hoàn toàn xuất phát

từ lợi ích cục bộ, các phương án chính sách sẽ có thể dễ dàng được thiết kế

theo hướng có lợi cho cơ quan hoạch định và có lợi cho cơ quan nhà nước nói

chung: về ngân sách triển khai, biên chế, cũng như các thuận lợi khác. Đặc

biệt các chính sách mới, mang tính cải cách, thường động chạm đến lợi ích

(ngân sách, biên chế...) sẽ dễ bị ảnh hưởng của các suy tính lợi ích cục bộ của

24

các thể chế liên quan. Lợi ích cục bộ này có tính thể chế (không phải cá nhân)

vì nếu người lãnh đạo thể chế đó được chuyển đến cơ quan khác, họ lại bảo vệ

lợi ích của cơ quan mới. Theo nghĩa này, mặc dù người này không vì mình,

chỉ vì "tập thể", cũng có tác hại không kém những người vị lợi cá nhân. Các

biến tướng của vị lợi ích cục bộ rất tinh vi và không dễ đấu tranh, do tính chất

tập thể của chúng. Người lãnh đạo chính trị không thể không quan tâm đến

tính "dân chủ" kiểu cục bộ này.

Tóm lại, vì việc thiết kế quá trình ra quyết định chính sách là khác nhau

trong các cấp khác nhau và các vấn đề chính sách khác nhau, cũng như các

con người khác nhau, người lãnh đạo chính trị (cũng là người thiết kế quá

trình xây dựng chính sách) cần lưu ý hai khía cạnh chính:

1) Khía cạnh kỹ thuật: Chính sách phải là phương án tối ưu về chi phí

và lợi ích;

2) Khía cạnh chính trị: luôn phải tính đến các nguy cơ tiềm ẩn ngay

trong quá trình chính trị (cục bộ, tham nhũng, quan liêu v.v.) làm giảm hiệu

quả của chính sách hoặc thậm chí có tác dụng ngược lại toàn bộ so với định

hướng lãnh đạo, ngược lại với lợi ích của dân chúng và có thể khác với các ưu

tiên chính trị mà một chính sách cần có. Tất cả các khía cạnh này, trên thực tế

đều phải được thể hiện và tích hợp trong các văn bản có tính pháp lý. Việc

ban hành các văn bản có tính chất pháp lý có thể coi là sản phẩm cụ thể và

cuối cùng của quá trình xây dựng chính sách công.

1.2.3. Triển khai chính sách

Thông thường, việc triển khai một chính sách sẽ được qui định bởi văn

bản pháp lý của chính phủ. Các văn bản này, ngoài các qui định có tính kỹ

thuật còn làm rõ hai vấn đề chính:

1) Chủ thể triển khai: tức ai hoặc cơ quan nào được ủy quyền của chính

phủ và do vậy có sự độc lập nhất định trong triển khai;

2) Khuôn khổ triển khai: tức làm rõ sự ràng buộc của cơ quan triển

25

khai. Sự ràng buộc như vậy không chỉ hạn chế việc sử dụng quyền lực được

ủy nhiệm một cách tùy tiện, mà còn ràng buộc cả về ngân sách, nhân lực và

đôi khi cả cung cách triển khai.

Như vậy, bản thân giai đoạn triển khai cũng bao gồm việc ban hành các

văn bản cụ thể hơn có tính pháp lý, qui định trách nhiệm, quyền hạn cũng như

việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể.

Các chủ thể triển khai quan trọng nhất là các cơ quan hành chính cùng

với các viên chức của mình. Các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng

có những vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách có

liên quan đến các hoạt động tranh tụng, như các chính sách về phá sản, chống

độc quyền, v.v

Để triển khai có hiệu quả, cần đảm bảo 3 điều kiện tối thiểu sau:

1) Cơ quan được giao nhiệm vụ triển khai phải có đủ nguồn tài chính -

nhân lực - vật lực cho việc triển khai đó;

2) Cơ quan này phải có đủ thẩm quyền kỹ thuật chuyên môn để biến

các mục tiêu thành các chương trình hành động cụ thể thích hợp;

3) Cơ quan này cũng phải chịu trách nhiệm giải trình về các hoạt động

triển khai đó. Việc chịu trách nhiệm giải trình, hay đúng hơn tính khả quy

trách nhiệm có hàm ý rằng việc triển khai chính sach đòi hỏi việc quy định rõ

trách nhiệm cho từng công việc. Tính khả quy trách nhiệm khác với tinh thần

trách nhiệm ở chỗ đó là đòi hỏi khách quan của việc cưỡng chế có hiệu lực

(đặc điểm của chính sách công) chứ không phải là đòi hỏi về mặt đạo đức như

“tinh thần trách nhiệm” hàm ý. Tính khả quy trách nhiệm là đòi hỏi tối thiểu,

trong khi tinh thần trách nhiệm là đòi hỏi tối đa, có tính lý tường cần vươn tới

mà trong thực tế không dễ thỏa mãn.

Các cơ quan triển khai chính sách thông thường cũng có tính độc lập

nhất định trong việc cụ thể hóa nội dung chính sách. Sự tham gia "vượt

quyền" này đôi lúc là rất cần thiết, bởi vì xuất hiện nhiều vấn đề thực tế không

26

thể lường được trong giai đoạn hoạch định, cần giải quyết sáng tạo kịp thời.

Tuy nhiên, không thể không có các cơ quan theo dõi kiểm tra sự triển khai

trong thực tế.

Kinh nghiệm trên thế giới luôn nhấn mạnh vào các cơ chế, tổ chức để

giám sát quá trình triển khai. Một trong những cơ chế hiệu quả và ít tốn kém

được gọi là cơ chế “chuông cứu hỏa”. Cơ chế này huy động và khuyến khích

các nhóm dân cư chịu ảnh hưởng của chính sách tham gia vào việc giám sát

chính sách. Vì là quyền lợi thiết thân, các nhóm dân cư này sẵn sàng chia sẻ

chi phí cho việc giám sát. Một khi có các dấu hiệu chệch hướng với mục tiêu

và văn bản pháp lý, các nhóm này sẽ là những người đầu tiên có phản hồi và

ngăn chặn các diễn biến theo hướng tồi tệ hơn. Cơ chế như vậy không chỉ tiết

kiệm được các chi phí của ngân sách mà còn khiến người dân tự nhận thấy

trách nhiệm xã hội của mình. Cơ chế này cũng xuất phát một cách tự nhiên từ

lịch sử vì bản thân các nhóm dân chúng liên quan, ngay cả khi không được ủy

quyền, đã luôn có động cơ giám sát.

Tuy nhiên, bản thân việc giám sát cũng là một dịch vụ công (Vì những

người không giám sát cũng tự động được hưởng lợi từ sự giám sát của những

người khác). Đây là kết quả nghiên cứu quan trọng của khoa học chính sách

vì nó cho thấy rằng, việc giám sát chính sách công cũng cần quyền lực công,

tức vai trò của nhà nước. Với những nới có điều kiện xã hội phát triển, trình

độ nhận thức và ý thức trách nhiệm xã hội cao, việc giám sát như vậy có thể

để cho các tổ chức phi chính phủ đảm nhiệm. Công việc của chính phủ lúc đó

chỉ đơn thuận là tạo hành lang pháp lý và cung cấp thông tin sẵn có chứ không

nhất thiết phải cung cấp tài chính hay nhân lực.

1.2.4. Đánh giá chính sách

Đánh giá chính sách ngày càng được coi trọng trong chu trình chính

sách, bởi vì đây là khâu thường bị quên lãng, hoặc không được tiến hành một

27

cách nghiêm túc.

Giai đoạn đánh giá bao gồm đánh giá kết quả thực tế của việc triển khai

chính sách cũng như việc đánh giá bản thân quá trình xây dựng và triển khai

để tổng kết các kinh nghiệm. Tuy nhiên, để đánh giá được một cách khoa học

thì khả năng đo lường được chính xác các chi phí và kết quả, cũng như khả

năng quy được trách nhiệm là rất quan trọng. Và đây cũng là hai vấn đề trung

tâm của nhiều cải cách hành chính hiện nay trên thế giới cũng như tại nước ta.

Việc đánh giá chính sách được tiến hành ngay cả trước khi triển khai,

trong quá trình xây dựng chính sách và có ảnh hưởng sống còn với chính

sách. Đánh giá chính sách không đơn thuần là các đòi hỏi kỹ thuật khách quan

để hiểu thấu đáo tác động của chính sách đó, mà còn mang tính chính trị ngay từ

khởi đầu và trong suốt mọi khâu từ thông qua kế hoạch, xác định hệ tiêu chí, kết

luận đánh giá về một chính sách giữa các chủ thể chính trị có liên quan.

Theo tính chất và mức độ khái quát có thể chia ra ba loại đánh giá

chính sách chính: Đánh giá chính trị; đánh giá kỹ thuật; và đánh giá toàn diện.

1.2.4.1. Đánh giá chính trị

Kiểu đánh giá này xem xét khía cạnh khả thi chính trị của một chính

sách, đặc biệt trong những giai đoạn đầu của quá trình, khi chính sách chưa

được thông qua, mới đang trong giai đọan hình thành những ý tưởng căn bản.

Những người xây dựng chính sách, không những chỉ quan tâm đến nội dung

cụ thể của một chính sách mà trước hết là tính khả thi về mặt chính trị của nó.

Đánh giá tính khả thi chính trị bao gồm cả đánh giá về cơ chế hành chính và

các mâu thuẫn về lợi ích trong triển khai, tức cung cách xây dựng và triển

khai một chính sách.

Các chính sách mang tính tiệm tiến luôn có lợi thế nếu đánh giá từ góc

độ này bởi vì những gì đã quen thuộc dễ nhận được sự ủng hộ và ít rủi ro

chính trị hơn. Ngoài ra, các cơ chế, thủ tục hiện có cũng chưa cần phải thay

28

đổi nhiều để đáp ứng chính sách.

1.2.4.2. Đánh giá kỹ thuật

Kiểu đánh giá này tập trung vào đánh giá các kết quả theo các tiêu chí

đặt ra ban đầu. Trong đó chủ yếu là đánh giá các tác động trực tiếp, các chi

phí và lợi nhuận trực tiếp của chính sách. Các đánh giá như vậy có thể cho

thấy là chính sách đã được triển khai theo đúng ý định chưa, có hiệu quả nhất

chưa, các nguồn lực được phân bổ cho chính sách đã thích hợp chưa, các tiêu

chí định lượng đã đạt được ở mức độ nào....

Các đánh giá trên mang phạm vi khá hẹp và thường không cho chúng ta

thấy được hết các tác động gián tiếp lên toàn bộ xã hội, do đó cũng chưa đưa

ra được kết luận về việc liệu mục tiêu tổng thể của chính sách đó đã đạt được

chưa. Tuy nhiên, trong những điều kiện hạn hẹp (về ngân sách, thời gian v.v.)

việc đánh giá kỹ thuật như vậy vẫn là nội dung chính, đồng thời là cơ sở quan

trọng cho sự đánh giá toàn diện. Có nhiều hình thức đánh giá tùy thuộc vào

các chính sách cũng như mục tiêu của đánh giá: như đánh giá nhanh (chỉ xem

xét các tiêu chí căn bản nhất, nhằm phát hiện các vấn đề để có điều chỉnh,

hoặc do điều kiện tài chính và thời gian hạn hẹp), đánh giá chi phí (chỉ xem

xét các chi phí mà không xem xét cụ thể các lợi ích. Thích hợp cho các chính

sách xã hội, trong đó các tác động của chính sách là rất rộng và chắc chắn có

lợi cho toàn bộ xã hội nhưng khó có thể lượng hóa), đánh giá lợi ích (không

xem xét chi phí. Kiểu này ít được áp dụng hơn và thường được dùng trong

giai đoạn đầu, đánh giá sơ bộ) v.v.

1.2.4.3. Đánh giá toàn diện

Kiểu đánh giá này đòi hỏi sự khảo sát toàn diện, có hệ thống, khách

quan và nghiêm ngặt nhằm đưa ra đánh giá về sự thành công trong mục tiêu

tổng thể của chính sách. Nó cũng làm sáng tỏ các tác động gián tiếp khác (về

xã hội, môi trường, cũng như các tác động chính trị khác không thể qui ra

tiền) và vì vậy có thể so sánh được chi phí - lợi ích một cách thuyết phục hơn.

29

Trên cơ sở đó, các đánh giá về tính tối ưu được đưa ra. Quá trình đánh giá này

là kênh phản hồi chính sách chủ đạo. Khuynh hướng hiện nay ở các nước trên

thế giới cho thấy càng ngày người ta càng chú trọng vào kiểu đánh giá này.

Trong nhiều nước, các uỷ ban độc lập được lập ra để đánh giá các chính sách.

Các cơ quan chính phủ cũng thành lập các bộ phận chuyên đánh giá toàn diện

ngày càng nhiều.

Kỹ thuật chủ yếu được dùng ở đây là phân tích chi phí - lợi ích xã hội.

Kỹ thuật phân tích như vậy sẽ bao gồm cả các hiệu ứng khác mà trong đánh

giá trực tiếp không có điều kiện tiến hành. Các chính sách lớn như về năng

lượng, môi trường, giáo dục v.v. thông thường đều đòi hỏi sự đánh giá toàn

diện vì một chính sách như giáo dục chẳng hạn, ngoài việc có lợi cho những

người thụ hưởng cũng có thể có lợi về mặt xã hội (văn minh hơn, ổn định

hơn), mặt kinh tế (ví dụ: thu hút nhiều khách du lịch hơn), an ninh quốc

phòng hay quan hệ quốc tế.

Phân tích chi phí - lợi ích xã hội cũng đòi hỏi các phương pháp luận

khoa học và các khóa đào tạo căn bản và có tính đặc thù rất khác so với phân

tích chi phí lợi ích thông thường của cá nhân hay một tổ chức.

Trong mỗi quốc gia hiện nay đều có quy trình chính sách công, bao

gồm việc hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách. Quy trình này là một

trong những công cụ cơ bản được các nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, quy trình này chỉ mới bắt đầu được nghiên

cứu, đề cập đến vào những năm đổi mới. Thuật ngữ "chính sách" đã được

hiến định tại các điều liên quan đến quản lý nhà nước trong Hiến pháp năm

2013. Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử

dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý thực hiện phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước.

Quy trình chính sách công được hiểu như một chu trình và sự khởi đầu

thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách

30

và sau đó là sự kết hợp phân tích, đánh giá chính sách để có sự điều chỉnh, bổ

sung, hoàn thiện chính sách. Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi

đầu của quy trình chính sách công. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Nếu

hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ có được chính sách tốt, là tiền

đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao.

Ở nước ta, việc hoạch định chính sách được thực hiện theo trình tự các

bước sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án

chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án lựa

chọn và quyết định ban hành chính sách. Thực tế hiện nay, các chính sách

công chủ yếu được thể chế hóa bằng nghị quyết của Chính phủ nên quá trình

hoạch định chính sách công ở nước ta được tiến hành theo quy định ban hành

nghị quyết của Chính phủ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

năm 1996, sửa đổi năm 2008. Trong hoạch định chính sách công, Đảng và

Nhà nước ta đã có chủ trương tăng cường lắng nghe ý kiến của nhân dân và

xây dựng quan điểm là mọi cơ chế, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà

nước đều phải vì dân, từ dân mà ra. Đảng và Nhà nước ta cũng đang xây dựng

những phương pháp có thể phát huy được tiềm năng, trí tuệ trong nhân dân,

đặc biệt là sự năng động, sáng tạo của người dân và xuất phát từ thực tiễn để

hình thành những cơ chế, chính sách. Cụ thể như Đảng và Nhà nước ta đang

nghiên cứu, ban hành quy chế về phản biện xã hội của Mặt trận, các đoàn thể

đối với các chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong những năm đổi mới gần đây, việc hoạch định, ban hành và thực

thi chính sách công ở nước ta đã ngày càng đảm bảo phù hợp hơn với thực tế,

đã đem lại những kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, chính sách công nói chung và hoạch định

chính sách công ở nước ta còn bộc lộ những hạn chế. Bởi nếu nhìn bề ngoài,

có thể thấy trong thời kỳ đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta là

tương đối nhanh, nhưng xét từ thực chất của vấn đề thì sự tăng trưởng này

31

được đánh giá là không dựa trên nền tảng của hệ thống chính sách tốt mà nhờ

vào việc trước đây, nền kinh tế do hoàn toàn "đóng", không giao thiệp với thế

giới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới, cộng với có

lực lượng lao động tương đối tốt là chính. Nhìn nhận chung, chính sách công

ở nước ta có nhiều hạn chế, được thể hiện ở những vấn đề sau:

Thứ nhất, việc nhận thức nội hàm về chính sách công ở nước ta còn

chưa được rõ. Thực tế vấn đề chính sách công còn là điều khá mới ở nước ta.

Mặc dù chính sách công là do Nhà nước ban hành, tức chủ thể chính sách

công là Nhà nước, nhưng thực tế, trên sách báo, chúng ta lại thường gặp cụm

từ "chính sách của Đảng và Nhà nước" và từ đây có ý kiến cho rằng, Đảng

cũng là chủ thể ban hành chính sách công. Có ý kiến khác lại cho rằng, Đảng

chỉ vạch ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách để chỉ đạo Nhà

nước ban hành các chính sách công. Nhìn chung, các quan niệm, nhận thức về

chính sách công này chưa làm rõ được vấn đề chính sách công ở Việt Nam.

Do vậy, có thể nói vấn đề chính sách công ở nước ta còn chưa được nghiên

cứu thấu đáo, trong nhận thức còn nhiều bất cập, chưa thể hiện rõ như nhiều

quốc gia khác, khi mà họ đã phát triển khoa học này từ nhiều năm trước đây.

Thứ hai, các kiến nghị hoạch định chính sách công chủ yếu được xuất

phát từ các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước, nên

chính sách công thường thiếu tính toàn diện. Tức chính sách công ở nước ta

được ban hành dựa trên các suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở

những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước như các bộ, cơ quan

ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các đề

xuất chính sách thường dựa trên đề xuất mong muốn, mục đích quản lý của

ngành, địa phương do mình quản lý mà không tính tới tổng thể chung; các cơ

quan này cũng lại là cơ quan dự thảo chính sách, do đó có sự thiếu phối hợp

giữa các bộ, ngành, nên chính sách cũng thường thiếu tính toàn diện. Biểu

hiện của thực trạng này là có vấn đề thì nhiều bộ, ngành ra chính sách thực

32

hiện, nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề

xuất, xây dựng chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản

lý nhà nước. Điều này còn cho thấy, thẩm quyền ra quyết định chính sách ở

nước ta mang tầm vĩ mô là dễ có sự phân tán. Một mặt, nó làm cản trở sự phối

hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính sách; mặt khác, nó cũng gây

khó khăn cho các nhà lãnh đạo ở cấp cao khi họ phải ra quyết định một cách

quyết đoán trong những tình huống cần thiết.

Thứ ba, việc xây dựng chính sách còn nặng cơ chế xin - cho, tính lợi

ích cục bộ chưa được xóa bỏ triệt để. Hiện nay vẫn diễn ra thói quen quản lý

theo cơ chế tập trung, bao cấp, vì lợi ích cục bộ của bộ, ngành, địa phương

trong xây dựng, hoạch định chính sách. Quá trình hoạch định chính sách còn

nhiều rủi ro do việc thiếu thông tin, thiếu số liệu và ít công khai minh bạch.

Chẳng hạn việc diễn ra các vấn đề như thiếu minh bạch trong việc thâm hụt

ngân sách, nợ xấu, dự trữ ngoại tệ trong nền kinh tế....những năm gần đây cho

thấy cơ sở làm chính sách ở nước ta còn nhiều khiếm khuyết, chưa theo chuẩn

mực quốc tế.

Thứ tư, hầu hết các chính sách ở nước ta hiện nay ít có sự tham gia đề

xuất ý tưởng hoạch định, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện

pháp thực hiện của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách. Thực tế hiện

nay rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những

đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng. Đây là một trong những nguyên

nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi

không đem lại hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Thực tế này cũng cho

thấy, việc hoạch định chính sách ở nước ta còn bị khép kín. Sự tham gia vào

hoạch định chính sách của các đối tượng chịu ảnh hưởng quá ít nên có thể nói

quy trình chính sách ở nước ta còn mang tính hình thức. Hiện nay, chưa có

những quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân nói chung, các

chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp nói riêng tham gia vào hoạch

33

định chính sách. Ngay cả trong quá trình hoạch định chính sách cũng chưa tạo

được kênh thông tin tối ưu, thậm chí còn bỏ qua việc tiếp thu ý kiến đóng góp

của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Ví dụ như vừa rồi, Ngân

hàng nhà nước, khi làm dự thảo nghị định thanh toán bằng tiền mặt, dự kiến

phối hợp với Phòng thương mại và Công nghệp Việt Nam để đưa ra lấy ý kiến

rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp tổ chức trong tháng 02/2013 nhưng kế

hoạch này đã bị Ngân hàng nhà nước hủy bỏ.

Thứ năm, chất lượng soạn thảo các văn bản chính sách ở nước ta còn

nhiều bất cập, kể cả tư duy của người làm chính sách và kỹ thuật văn bản chính

sách. Cụ thể như nhiều văn bản, quy định chồng lấn nhau, không đáp ứng với

yêu cầu thực tiễn, từ đó làm cho một số chính sách thiếu tính khả thi, giảm hiệu

lực quản lý nhà nước. Ví dụ thực tế như trong năm 2012-2013, có khá nhiều văn

bản chính sách đã không sát với thực tiễn, thiếu tính khả thi, thậm chí có những

quy định không đồng bộ với các quy định pháp luật đã có, hiện đang áp dụng ở

các luật, chính sách khác của Nhà nước. Cụ thể nhất là Thông tư liên tịch số

06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT được ban hành ngày 28/2 của liên

Bộ Khoa học và Công nghệ, Công thương, Công an, Giao thông vận tải ký về

sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh và sử dụng mũ bảo hiểm, trong đó quy định

phạt với người đội mũ không đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, áp dụng như đối với

hành vi không đội mũ bảo hiểm, hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy

cách. Các nhà nghiên cứu, quản lý cho rằng thông tư này là thiếu thuyết phục,

bởi ngay việc quản lý nhà nước từ khâu sản xuất, nhập khẩu, lưu thông, bán mũ

bảo hiểm cũng còn chưa tốt. Trong khi luật cũng chưa cho phép cảnh sát dừng

xe người đội mũ bảo hiểm rởm để kiểm tra, xử phạt. Hay trước đó, một thông tư

của Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành sửa đổi quy chế thi tốt nghiệp trung học

phổ thông năm 2013, quy định "không được phát tán thông tin tiêu cực". Nhưng

chỉ sau một ngày ban hành, thông tư này đã bị phát hiện vi phạm quy định về

34

quyền khiếu nại, tố cáo của công dân theo Luật Khiếu nại, tố cáo.

Nhìn chung, các văn bản về quy phạm pháp luật, chính sách còn nhiều

sai phạm với các hình thức khác nhau. Theo báo cáo gửi Chính phủ của Bộ

Tư pháp - cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản

pháp luật đã cho thấy, các bộ, ngành và địa phương đã phát hiện 10.130 văn

bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp pháp theo quy định. Trong

đó có 6.230 văn bản quy phạm pháp luật và 3.900 văn bản có chứa quy phạm

pháp luật. Trong tổng số 6.230 văn bản quy phạm pháp luật thì có tới 1.720

văn bản vi phạm về căn cứ pháp lý, 826 văn bản sai thẩm quyền, 1.146 văn

bản sai về nội dung.

Thứ sáu, cùng với yếu kém về hoạch định còn diễn ra khá nhiều bất cập

trong khâu thực thi chính sách công. Chính sách công được thực thi chậm,

khó đi vào cuộc sống; còn nhiều điều bất công bằng; có sự chồng lấn, thiếu

tính trách nhiệm của chủ thể thực thi. Ví dụ cụ thể trong thực thi các chính

sách về giá các mặt hàng như xăng dầu, than, điện, thì việc điều hành giá các

mặt hàng này ở nước ta hiện có nhiều bất cập, thậm chí còn ngược lại với các

tuyên bố và cam kết khi vào WTO (Tổ chức thương mại thế giới). Thực tế, cơ

chế điều hành lãi suất ngân hàng mấy năm vừa qua cho thấy, do đã thực hiện

áp đặt lãi suất huy động, tùy định lãi suất cho vay nên điều đó đã dẫn đến chỉ

đảm bảo lợi ích cho phía ngân hàng và mang lại rủi ro cho người dân và

doanh nghiệp. Chính từ hiệu ứng "kép" của cơ chế điều hành lãi suất như vậy

đã làm suy yếu động cơ gửi tiền của người dân (hạn chế nỗ lực chống lạm

phát) và làm chậm quá trình tiếp cận vốn rẻ của doanh nghiệp (làm suy yếu nỗ

lực phục hồi tăng trưởng kinh tế). Hiện nay, chính sách ở nước ta còn chậm đi

vào cuộc sống. Thực tế cho thấy, có nhiều luật ban hành xong phải mất nhiều

tháng mới có nghị định hướng dẫn, có nghị định rồi lại mất nhiều tháng nữa

mới có thông tư, có quyết định.

Về tổng thể, thực thi chính sách công ở nước ta đang còn những hạn

35

chế sau: công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của

chính sách chưa thật đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên

quan, dẫn đến hiểu sai; các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống

nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau; tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng

phải chờ nghị định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc

áp dụng; sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách

chưa thực sự khoa học, còn chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích;

một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ và sự

trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên

nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách; thủ tục hành

chính còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực thi chính

sách công; do còn thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết

quả thực hiện các chính sách công trở nên khó khăn, không có các thông tin

đáng tin cậy về những hoạt động tốt và những đòi hỏi cần hoàn thiện.

1.3. Chính sách trợ giúp pháp lý

Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo,

người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển

của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một

trong nhữmg tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Năm

1965, Chính phủ một số nước đã phát động một phong trào thành lập các

“Văn phòng pháp luật tình nghĩa” để đấu tranh chống ảnh hưởng của nghèo

đói. Các văn phòng này được đặt ở những khu vực đông người dân nghèo và

có nhân viên chuyên về các lĩnh vực pháp luật liên quan đến người nghèo.

Lịch sử hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý từ năm 1945 đến năm

1987, hoạt động giúp đỡ pháp luật gắn liền với hoạt động của luật sư và cơ

quan tư pháp. Trên nền tảng Hiến pháp năm 1946, các bản Hiến pháp 1959,

1980 vấn đề “tư pháp bảo trợ” được tiếp tục thể hiện gắn với nguyên tắc bảo

36

đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Nhìn chung, dịch vụ trợ giúp pháp lý

ở giai đoạn này đã thể hiện sâu sắc bản chất “dân chủ” của Nhà nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.

Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997, Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm

1987 và Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban

hành quy chế Đoàn Luật sư đã xác định một số vụ việc Luật sư thực hiện giúp

đỡ cho đối tượng mà không được thu phí. Cùng với đó là Công văn số

870/CV-LSTV ngày 23/10/1989 của Bộ Tư pháp cho phép Hội Luật gia và

các Đoàn Luật sư được mở văn phòng tư vấn pháp luật nhằm giúp đỡ pháp

luật cho các đối tượng, trong đó có một số vụ việc giúp đỡ miễn phí. Các văn

bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của các hoạt

động TGPL xã hội do luật sư thực hiện. Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập hệ thống tổ chức

trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách; thành lập Cục Trợ

giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp. Giai đoạn từ 1997 đến 2006, theo thời gian,

TGPL đã được tiếp tục khẳng định trong đường lối và chính sách của Đảng về

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 29/6/2006, dấu mốc quan trọng

trong hoạt động lập pháp về quy định pháp luật là Quốc hội đã thông qua Luật

Luật sư và Luật Trợ giúp pháp lý. Sự ra đời của hai đạo luật này đã thể hiện

được chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ

về mặt pháp lý.

Giai đoạn 2007 đến nay, ngày 12/01/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị

địnhsố 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật Trợ giúp pháp lý. Năm 2013, để khắc phục một số hạn chế, vướng

mắc phát sinh trong quá trình tổ chức triển khai Luật TGPL và các văn bản

hướng dẫn thi hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2013/NĐ-CP

ngày 05/02/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-

CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp

37

pháp lý.

Mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Ở Việt Nam, tổ chức và hoạt

động TGPL theo mô hình hỗn hợp. Hiện nay hoạt động TGPL được thực hiện

chủ yếu bởi các Trung tâm TGPL Nhà nước, còn các tổ chức hành nghề luật

sư, Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã

hội - nghề nghiệp, xã hội nghề nghiệp tham gia TGPL tự nguyện trong phạm

vi họ đăng ký với Nhà nước.

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí

cho người được TGPL (Điều 2 Luật TGPL năm 2017), từ đó, có thể hiểu

TGPL là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, giúp người được

TGPL có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao tri thức,

nhận thức pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào

việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội,

phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và các hành vi vi phạm pháp luật.

1.3.1. Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý

Trợ giúp pháp lý Trợ giúp pháp lý hay tiếng anh là “Legal aid” được sử

dụng trên thế giới từ thế kỷ XV-XVI và phát triển từ giữa thế kỷ XIX đến nay

[13, tr 109]. Ở Việt Nam, năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết

định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập

tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Luật TGPL năm

2006 có quy định “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho

người được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn

trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,

bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và

vi phạm pháp luật”. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Luật đã có nhiều

cách hiểu khác nhau về khái niệm “trợ giúp pháp lý” dẫn đến hoạt động

TGPL đ1.3.2. Người yếu thế về nguyên tắc, mọi người đều bình đẳng trước

38

pháp luật, đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các thông tin, dịch vụ.

Tuy nhiên, thực tế phản ánh rằng do các nguyên nhân như trình độ nhận thức,

điều kiện kinh tế, khả năng tiếp cận pháp luật... nên có những người thường

gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, lựa chọn cách xử sự đúng đắn khi

giải quyết tranh chấp và không có đủ chi phí để thuê luật sư để bảo vệ quyền

lợi cho mình. Đối chiếu với các quy định của pháp luật Việt Nam về trợ giúp

pháp lý cho người yếu thế thì theo Điều 10 Luật TGPL 2006 và Điều 2 Nghị

định 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP

sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 07/2007/NĐ-CP người yếu thế

được trợ giúp pháp lý bao gồm những người sau: Một là người nghèo, Hai là

người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn theo quy định của pháp luật. Ba là người già, người khuyết tật, trẻ

em không nơi nương tựa cụ thể: Bốn là nạn nhân bạo lực gia đình. Trong bối

cảnh các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, pháp luật đang trong quá

trình hoàn thiện, dẫn đến ngày càng có nhiều diện người trong xã hội không

có khả năng thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy

định về người được TGPL hiện hành còn tản mạn trong nhiều văn bản khác

nhau. Hơn nữa, Luật TGPL cũng như Nghị định hướng dẫn bộc lộ một số bất

cập và chưa bao quát hết nội dung Công ước về các quyền dân sự, chính trị

năm 1966 của Liên hợp quốc mà Việt Nam tham gia theo hướng nếu người

nào không có điều kiện chi trả cho sự giúp đỡ pháp lý thì sẽ nhận được sự

TGPL theo chỉ định và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó (Khoản 3d Điều

14).

Nguyên tắc hoạt động TGPL của các tổ chức, đoàn thể và cá nhân phải

bảo đảm các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Luật TGPL năm 2017:

nguyên tắc tuân thủ pháp luật và quy ắc nghề nghiệp TGPL”; nguyên tắc kịp

39

thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; nguyên tắc bảo vệ tốt

nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL; nguyên tắc không thu

tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được TGPL.

1.3.2. Vai trò của pháp luật về trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu

thế trong xã hội

TGPL nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận với pháp luật cho nhóm

người yếu thế, TGPL được coi là một trong những hình thức giúp đỡ pháp

luật, thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng để giúp đỡ những

người yếu thế, đưa pháp luật đến gần hơn với họ, giúp họ nắm vững và hiểu

đúng được những quy định pháp luật. Nói cách khác, với hoạt động này, Nhà

nước đã trao cho nhóm người yếu thế cơ hội được tiếp cận các dịch vụ pháp

lý một cách công bằng với những người khác trong xã hội. Từ đó, người yếu

thế biết cách xử sự cho phù hợp với quy định của pháp luật, nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật.

TGPL giúp nhóm người yếu thế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp.

Phần lớn nhóm người yếu thế hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên khó có thể

tự bảo vệ quyền lợi của mình và nhiều khi phải chịu thiệt thòi là điều tất yếu.

Để khắc phục được điều này, hoạt động TGPL ra đời đã tạo ra cơ chế bảo

đảm quyền lợi cho những đối tượng yếu thế.

TGPL góp phần ổn định trật tự xã hội Trong xã hội hiện đại, TGPL là

hoạt động của Nhà nước và xã hội để ổn định tâm lý và đời sống của người

yếu thế, tạo lòng tin của người dân vào Nhà nước và pháp luật, giúp người

dân và các cơ quan nhà nước nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, từ đó góp

phần ổn định trật tự an toàn xã hội, giữ gìn đoàn kết trong cộng đồng, góp

phần tích cực xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

TGPL là một hình thức hiện thực hóa quyền con người. Nhóm người

yếu thế được coi là nhóm người dễ bị tổn thương, do đó họ có quyền được trợ

giúp pháp lý để nâng cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

40

pháp của chính bản thân họ hay nói cách thực hiện tốt chính sách trợ giúp

pháp lý cho nhóm người yếu thế là một hình thức hiện thực hóa quyền con

người.

Do vậy, TGPL thường hướng đến những người yếu thế trong xã hội

như: người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em, người dân

tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;

người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người thuộc hộ cận nghèo;

người khuyết tật, người cao tuổi, người nhiễm chất độc da cam.

1.3.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu thế

trong xã hội

Các hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý hiện nay, theo quy định về

hình thức tại Điều 27 và Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, theo đó

các hình thức TGPL bao gồm: tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại diện

ngoài tố tụng; các hình thức TGPL khác. Bốn hình thức TGPL này hoàn toàn

phù hợp với bối cảnh pháp luật thời điểm đó, khi mà luật về phổ biến giáo dục

pháp luật và hòa giải cơ sở chưa được ban hành. Tuy nhiên cho đến nay, các

hình thức TGPL có phần dàn trải và trùng lắp với các hoạt động theo Luật

phổ biến giáo dục pháp luật và Luật hòa giải ở cơ sở.

Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý cho

nhóm người yếu thế bao gồm tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện TGPL

Tổ chức thực hiện TGPL Ở Việt Nam, tổ chức thực hiện TGPL nói

chung và cho nhóm người yếu thế nói riêng gồm Trung tâm TGPL Nhà nước

và các tổ chức tham gia TGPL [18, Điều 13]. Trung tâm TGPL Nhà nước do

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Trung

tâm TGPL Nhà nước là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp

nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia chính TGPL

bao gồm tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội –

41

nghề nghiệp [18, Điều 13].

Người thực hiện TGPL về người thực hiện trợ giúp pháp lý, pháp luật

hiện hành quy định người thực hiện TGPL bao gồm: trợ giúp viên pháp lý,

luật sư, cộng tác viên, tư vấn viên pháp luật [18, Điều 20]. Nhìn chung, chủ

thể thực hiện TGPL khá là đa dạng.

Lĩnh vực pháp luật được trợ giúp pháp lý: Nội dung, lĩnh vực cụ thể của

hoạt động trợ giúp pháp lý được quy định cụ thể tại Điều 34 Nghị định số

07/2007/NĐ-CP của Chính phủ như sau: Pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự

và thi hành án hình sự; Pháp luật về dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân

sự; Pháp luật về hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; Pháp luật hành

chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; Pháp luật đất đai, nhà ở, môi

trường và bảo vệ người tiêu dùng; Pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;

Pháp luật về chính sách ưu đãi xã hội; Các lĩnh vực pháp luật liên quan đến

chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp

đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

1.4. Tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý

1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách TGPL

Theo thẩm quyền UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh ban hành một số

văn bản để chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Luật trợ giúp pháp lý ở địa

phương như sau: Quyết định số 1811/QĐ-UBND ngày 10 tháng 7 tháng 2007

đổi tên Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh An Giang thành Trung

tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang (do đồng chí Lý Kim Quyên

giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm); Chỉ thị số 03/2007/CT-UBND ngày

31/01/2007 của UBND tỉnh An Giang về việc triển khai thực hiện Luật Trợ

giúp pháp lý; Quyết định số 953/QĐ-UBND ngày 16/5/2008 của UBND tỉnh

An Giang về việc phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng

lực hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang;

Quyết định số 355/QĐ-UBND ngày 26/02/2009 của UBND tỉnh An Giang

42

ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà

nước tỉnh An Giang; Quyết định số 1675/QĐ-UBND ngày 05/8/2009 của

UBND tỉnh An Giang về việc thành lập Chi nhánh Trợ giúp pháp lý nhà nước

số 1 tỉnh An Giang; Quyết định số 1676/QĐ-UBND ngày 05/08/2009 của

UBND tỉnh An Giang về việc thành lập Chi nhánh Trợ giúp pháp lý nhà nước

số 2 tại huyện Tri Tôn; Quyết định số 2238/QĐ-UBND ngày 06/12/2012 của

UBND tỉnh An Giang về việc thành lập Chi nhánh Trợ giúp pháp lý nhà nước

số 3 tại huyện Chợ Mới; Quyết định số 783/QĐ-UBND ngày 27/4/2010 của

UBND tỉnh An Giang về việc xếp hạng Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà

nước;

Theo phân cấp thẩm quyền, Giám đốc Sở Tư pháp đã ban hành các

Quyết định thành lập các Phòng chức năng thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý

nhà nước tỉnh: Quyết định số 150/QĐ-STP ngày 14/9/2009 của Sở Tư pháp

về việc thành lập Phòng Hành chính - Tổng hợp. Quyết định 151/QĐ-STP

ngày 14/9/2009 của Sở Tư pháp về việc thành lập Phòng Nghiệp vụ. Tổ chức

quán triệt, truyền thông để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về

pháp luật trợ giúp pháp lý.

1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách TGPL

Đầu năm 2007, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị triển khai quán triệt Luật

Trợ giúp pháp lý (TGPL) 2006, Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 10/03/2006

của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và

Nghị định 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật TGPL

cho lãnh đạo các Sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh và Chủ tịch UBND các

huyện, thị, thành phố. Triển khai tập huấn sâu nội dung Luật TGPL và các

văn bản hướng dẫn thi hành Luật cho đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền

viên pháp luật trong tỉnh ngay sau đợt triển khai cho lãnh đạo Sở, ban ngành,

đoàn thể cấp tỉnh. Qua đó, Sở Tư pháp đã phối hợp với Báo An Giang, Đài

Phát thanh - Truyền hình An Giang thông qua Chuyên mục pháp luật và cuộc

43

sống (báo) Chương trình chính sách pháp luật (đài) thường xuyên thông tin

giới thiệu về chính sách trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý và các

hình thức trợ giúp pháp lý theo Luật TGPL và các Nghị định của Chính phủ

hướng dẫn thi hành Luật. Hàng năm trong các đợt bồi dưỡng cán bộ tư pháp

xã, thành viên Ban chủ nhiệm các Câu lạc bộ TGPL, Sở Tư pháp và Trung

tâm TGPLNN đều kết hợp thông tin chính sách pháp luật mới về TGPL như:

Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam, trợ giúp pháp lý cho nhóm đối

tượng đặc thù như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, TGPL cho nạn nhân bị

mua bán. Nhằm thông tin rộng cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh về chính

sách TGPL của Nhà nước, hàng năm Trung tâm TGPLNN đã dành một phần

kinh phí được ngân sách tỉnh cấp biên soạn tờ gấp pháp luật về trợ giúp pháp

lý để cung cấp cho nhân dân trong tỉnh. Tổng số lượng tờ gấp đã thực hiện

trong 08 năm là: 164.000 tờ. Nội dung tập trung thông tin như: Thông tin về

đối tượng TGPL (theo Luật TGPL 2006, Nghị định 07/2007/NĐ-CP và Nghị

định 14/2013/NĐ-CP); Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư

liên tịch số 10/2007/TTLT- BTP-BCABQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC và

Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT- BTPBCA-BQP-BTC-VKSNDTC-

TANDTC); Trợ giúp pháp lý trong khiếu nại quyết định hành chính, hành vi

hành chính (Thông tư liên tịch số 10/2011/TTLT-BTPTTCP); Trợ giúp pháp

lý cho đồng bào dân tộc thiểu số (Theo 01/2012/TTLTBTP-UBDT); Trợ giúp

pháp lý cho người khuyết tật (Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012

của Thủ tướng Chính phủ).

1.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách TGP

Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc triển khai

thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BQP-BTC-VKSNDTC-

TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn quy định về trợ giúp pháp lý trong

hoạt động tố tụng (và hiện này là Thông Tư số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-

BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/20218 của Bộ trưởng Bộ Tư

44

pháp, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài

chính và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch quy định về phối hợp thực hiện trợ

giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng). Phối hợp với Thanh tra nhà nước trong

việc thực hiện công tác tuyên truyền trợ giúp pháp lý vùng đồng bào dân tộc.

Phối hợp Sở Tư pháp với các sở, ngành, đoàn thể khác: Sở Lao động, Thương

binh và Xã hội, Liên Đoàn lao động; Hộ Nông dân, Hội Phụ nữ; Hội chữ thập

đỏ; Bộ đội biên phòng trong hoạt động phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ

em; tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập đối với phụ nữ trẻ em bị mua bán.

Ngoài ra, các Chi nhánh Trợ giúp pháp lý đã phối hợp với Ủy ban nhân

dân cấp xã, phường, thị trấn trong việc thông tin pháp luât về TGPL và tổ

chức TGPL lưu động trên địa bàn.

1.4.4. Duy trì thực hiện chính sách TGPL

Hội động liên ngành về Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng cũng

như tổ giúp việc luôn được kiện toàn kịp thời; xây dựng các kế hoạch triển

khai cụ thể hằng năm, kiểm tra các Cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện

thường xuyên.

Để tăng số lượng Người TGPL, Trung tâm TGPL và Đoàn Luật sư tỉnh

xây dựng các quy chế phối hợp trong hoạt động TGPL nhằm nâng cao trách

nhiệm của luật sư tham gia TGPL.

Để kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Trung tâm TGPL theo

hướng tin gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở

tỉnh: giải thể các Chi nhánh Trung tâm TGPL ở những địa phương hoạt động

không hiệu quả, tuyển dụng viên chức đáp ứng nhu cầu sử dụng, thường

xuyên cử viên chức tham dự các lớp đào tạo nghề luật sư để chuẩn bị nguồn

lực bổ nhiệm Trợ giúp viên.

1.4.5. Điều chỉnh chính sách TGPL tại tỉnh An Giang

Việc điều chỉnh chính sách TGPL là làm cho chính sách hoàn thiện

45

hơn, phù hợp áp dụng tại tỉnh đúng mục tiêu và giải pháp đã đề ra. Trong quá

trình thực hiện chính sách này, Giám đốc Trung tâm TGPL đã tích cực tham

mưu Ban Giám đốc Sở kịp thời điều chỉnh những nhiệm vụ, giải pháp chưa

phù hợp với tình hình thực tế.

Sở Tư pháp với vai trò là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý

công tác này trên địa bàn tỉnh đã chủ trì việc sơ kết, tổng kết Luật Trợ giúp

pháp lý, Đề án trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn có liên quan để

đánh giá những thuận lợi, khó khăn, kịp thời đề xuất kiến nghị lên cơ quan

quản lý nhà nước cấp trên điều chỉnh chính sách phù hợp hơn.

Để duy trì, phát triển đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ngày càng chất

lượng, chuyên nghiệp hơn, Sở Tư pháp đã quan tâm phát triển đội ngũ viên

chức hiện có thành Trợ giúp viên pháp lý bằng các hình thức đưa đi đào tào,

bồi dưỡng các lớp: đào tạo lớp đào tạo nghề luật sư, bồi dưỡng nghiệp vụ Trợ

giúp viên pháp lý, cử các Trợ giúp viên pháp lý hạng III đi thi các kỳ thi nâng

hạng lên Trơ giúp viên pháp lý hạng 2.

1.4.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Hằng năm, Hội đồng phối hợp liên ngành tỉnh gồm Sở Tư pháp, Công

an tỉnh, Tòa án tỉnh, Viện Kiểm sát tỉnh, Sở Tài chính đều xây dựng kế hoạch

và tổ chức ít nhất 04 cuộc kiểm tra thực hiện công tác phối hợp liên ngành

trong hoạt động tố tụng đối với cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện. Qua các

đợt kiểm tra, Hội đồng đã ghi nhận những kết quả đạt được, kịp thời tháo gỡ

những khó khăn, vướn mắc về công tác phối hợp, phân công, thực hiện việc

cử trợ giúp viên TGPL cho các đối tượng yếu thế trên địa địa bàn tỉnh để hoạt

động của Hội đồng ngày càng hiệu quả hơn. Đồng thời, qua đó phát hiện

những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn để có hướng dẫn, chỉ đạo và giải

pháp thực hiện thống nhất trên địa bàn tỉnh.

Kết luận chương 1: Lịch sử phát triển hoạt động TGPL trên thế giới

nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã khẳng định được vai trò, tầm quan

46

trọng của hoạt động này trong việc giúp đỡ pháp lý cho những người yếu thế

với mục tiêu là tạo điều kiện cho những người yếu thế trong xã hội được nâng

cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần bảo

đảm công lý và công bằng xã hội. Hoạt động này thể hiện trách nhiệm của

Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhóm người yếu

thế, bảo đảm công bằng cho mọi tầng lớp trong xã hội được tiếp cận pháp

luật. Luật TGPL đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hình thành và phát triển

hệ thống TGPL. Tuy nhiên trong bối cảnh có sự thay đổi về thể chế, kinh tế -

xã hội liên quan đến công tác TGPL thì hoạt động TGPL vẫn còn những hạn

chế, bất cập về mặt pháp luật cần phải sửa đổi, điều chỉnh phù hợp so với tình

hình mới hiện nay như về đối tượng người yếu thế được TGPL, người thực

hiện, hình thức TGPL..

Theo đó, các lĩnh vực được TGPL bao gồm: pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án

dân sự; pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành

chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi

trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;

pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu

đãi xã hội khác; các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục

tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa

47

vụ cơ bản của công dân.

Chương 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP

PHÁP LÝ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách trợ giúp pháp

lý cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, dân cư của tỉnh An Giang

An Giang thuộc vùng đất Tây Nam của Tổ quốc, là tỉnh thuộc vùng

đồng bằng sông Cửu Long. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp; phía Nam giáp

tỉnh Kiên Giang và Thành phố Cần Thơ; phía Tây và phía Bắc giáp

Campuchia. An Giang có đường biên giới gần 100km giáp với 02 tỉnh Takeo

và Kandal thuộc Vương quốc Campuchia. Trên tuyến biên giới, An Giang có

02 cửa khẩu quốc tế (Xuân Tô - huyện Tịnh Biên; Vĩnh Xương - thị xã Tân

Châu), 02 cửa khẩu Quốc gia (Khánh Bình; Vĩnh Hội Đông - huyện An Phú)

và nhiều cửa khẩu phụ, đường mòn qua lại khác.

Với vị trí địa lý đó, nên trong thời kỳ chiến tranh biên giới Tây Nam,

người dân An Giang nói chung, nhất là người dân vùng biên giới chịu thiệt

hại nhiều về người và của. Ngày nay, tuy trong thời kỳ đất nước đang ổn định

và phát triển, nhưng vấn đề phân giới cấm mốc giữa Việt Nam và Campuchia

vẫn còn chưa thống nhất với nhau ở một số vị trí. Tuy mối quan hệ giữa hai

chính phủ luôn được cũng cố, tăng cường, nhưng tình hình khu vực biên giới

giữa Việt Nam và Campuchia đôi lúc vẫn còn xảy ra tranh chấp. Đặc biệt là

trước, trong và sau những sự kiện chính trị xảy ra ở Campuchia như bầu cử

quốc hội hoặc có biến động tình hình chính trị thì vấn đề biên giới lại trở nên

phức tạp, số Việt Kiều Campuchia chạy về nước lánh nạn, trong đó không

loại trừ những phần tử phản động trà trộn xâm nhập về nước để chống phá.

Thực tiễn vừa qua đã cho thấy, mỗi khi có sự kiện chính trị, hoặc biến động

chính trị tại Campuchia, thì An Giang là tỉnh chịu ảnh hưởng nhiều nhất mà

48

các ngành, các cấp phải tập trung giải quyết nhằm duy trì sự ổn định đất nước,

duy trì sự ổn định biên giới. Hơn thế nữa, với lịch sử hình thành vùng đất

Nam bộ nói chung và vị trí địa lý của An Giang nói riêng cũng dễ bị kẻ địch

lợi dụng để kích động, xúi giục đồng bào dân tộc Khmer khiếu kiện “đòi lại

đất” tạo ra “điểm nóng dân tộc” trên địa bàn. Thực tiễn vừa qua cho thấy, mặc

dù tình hình chính trị trong nước khá ổn định, tuy nhiên mỗi khi có sự kiện

chính trị ở Campuchia, các đảng đối lập Campuchia tranh giành quyền lực,

kích động vấn đề phân giới cấm mốc, kích động người dân tộc Khmer khiếu

kiện “đòi lại đất”, các đảng đối lập gây áp lực với chính quyền Campuchia để

đẩy đuổi Việt kiều đang sinh sống, làm ăn ở Campuchia về Việt Nam, tạo ra

điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc - tôn giáo.

Về dân số và phân bổ dân cư, tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là

353.667 ha. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 297.079 ha, đất phi nông

nghiệp 54.835 ha, đất chưa sử dụng 1.752 ha. Dân số toàn tỉnh 2.155.323

người (nam 1.072.706 người; nữ 1.082.617 người) với 524.159 hộ, trong đó ở

thành thị 651.298 người, ở nông thôn 1.504.025 người. Tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên 0,94% (năm 2013). Mật độ dân số 609 người/km2.

Về địa giới hành chính, An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện

(08 huyện, 01 thị xã, 02 thành phố); 156 đơn vị hành chính cấp xã (119 xã, 21

phường và 16 thị trấn).

Về dân tộc - tôn giáo, tỉnh An Giang có 4 dân tộc sinh sống đó là: Kinh,

Chăm, Hoa, Khmer (trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số, dân tộc Khmer chiếm

4,35% dân số, với 93.717 người; dân tộc Chăm chiếm 0,71% dân số, với

15.327 người; dân tộc Hoa chiếm 0,47% dân số, với 10.079 người; còn lại là

một số dân tộc thiểu số khác).

Về tín ngưỡng tôn giáo, người dân tỉnh An Giang có tín ngưỡng 09 tôn

giáo, trong đó có 4 tôn giáo lớn là: Phật Giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo và

Thiên Chúa giáo với 1.546.892 tín đồ. Toàn tỉnh có 529 cơ sở thờ tự; 938

49

chức sắc, 3.359 chức việc; trên 200 cơ sở tín ngưỡng dân gian và hơn 100 cơ

sở thờ tự có nguồn gốc tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận. Tỉnh An

Giang có các trung tâm tôn giáo như: Văn phòng Ban Trị sự Trung ương Phật

giáo Hòa Hảo, trụ sở Tòa Giám mục Giáo phận Long Xuyên, Văn phòng Đạo

Hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Văn phòng Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo).

Với đặc điểm là tỉnh biên giới giáp với Vương quốc Campuchia lại có

dân tộc Khmer sinh sống ở hai huyện biên giới, vùng núi giáp với biên giới

Campuchia nên các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để kích

động, xúi giục người dân tộc Khmer khiếu kiện tạo ra điểm nóng dân tộc. Mặt

khác, với đặc điểm là địa bàn đa dân tộc, đa tôn giáo nên những vấn đề khác

nhau về phong tục tập quán, khác nhau về văn hóa dân tộc, khác nhau về ngôn

ngữ, nên trong sinh hoạt cộng đồng cũng dễ xảy ra mâu thuẫn, xung đột giữa

cá nhân, nhóm người thuộc dân tộc này với cá nhân, nhóm người thuộc dân

tộc khác. Thực tiễn vừa qua cho thấy, sự khác nhau về ngôn ngữ, về phong

tục tập quán, về nét văn hóa dân tộc nên trong mối quan hệ chung trong cộng

đồng thì thường phát sinh mâu thuẫn giữa người dân, hoặc nhóm người giữa

dân tộc Kinh và dân tộc Chăm. Những mâu thuẫn ấy nếu chưa được quản lý,

giải quyết tốt thì dễ phát sinh điểm nóng dân tộc - tôn giáo.

Mỗi dân tộc ở An Giang đều có tập quán truyền thống và nét văn hóa

riêng góp phần tạo nên bản sắc đậm đà văn hóa dân tộc, tạo nên nét văn hóa

riêng của người dân vùng đồng bằng Nam Bộ là thật thà và mến khách. Tuy

nhiên ở mỗi dân tộc có truyền thống văn hóa riêng, tạo nên những điểm riêng

ở từng nơi của từng dân tộc. Chẳng hạn, đặc điểm riêng của người dân tộc

Khmer ở An Giang sinh sống tập trung ở hai huyện miền núi, biên giới (Tri

Tôn - Tịnh Biên), hầu hết theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng rãi

với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và người

Khmer ở Campuchia. Trong kháng chiến, nơi đây là căn cứ địa cách mạng,

chịu nhiều thiệt hại do bị tàn phá của chiến tranh, bà con người dân tộc

50

Khmer chịu nhiều mất mát về người và của. Đến chiến tranh biên giới Tây

Nam (1979), bà con dân tộc Khmer phải di chuyển về tuyến sau, khi trở về

quê hương sau chiến tranh, hầu hết nhà cửa, ruộng vườn, đất đai đã bị giặc tàn

phá, xáo trộn, gây khó khăn cho đời sống. Thêm vào đó, trình độ dân trí của

bà con Khmer còn thấp, với tập quán sống tập trung theo phum, sóc; chủ yếu

sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và làm thuê mướn theo mùa vụ…đời

sống vật chất và tinh thần của bà con còn thấp so với mặt bằng chung trong

tỉnh. Và do trình độ sản xuất còn lạc hậu trong điều kiện tự nhiên không thuận

lợi (trồng trọt cây hàng năm trên vùng cao, hệ thống thủy lợi chưa hoàn

chỉnh) nên năng suất không cao, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn.

2.1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh An Giang

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định,

Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ quan lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Và

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định, Đảng lãnh đạo bằng chủ trương,

bằng nghị quyết, đảng lãnh đạo thông qua công tác cán bộ và sự gương mẫu

của đảng viên. Với vị trí và vai trò lãnh đạo đã được quy định trong Hiến

pháp và trong Điều lệ Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh An Giang là

Ban Chấp hành Đảng bộ. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang là cơ quan

được Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang bầu ra và là cơ quan lãnh đạo

giữa hai kỳ đại hội. Lãnh đạo trên các lĩnh vực nhằm đạt được mục tiêu chung

đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong phạm vi địa

giới hành chính đã được phân chia. Trong mục tiêu chung đó, Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh An Giang xây dựng nghị quyết Đại hội hướng tới mục tiêu đạt

được đó là phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững quốc phòng

an ninh, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho Nhân dân. Và trong từng

thời kỳ nhất định cũng như những diễn biến xảy ra trên địa bàn quản lý, thì

với vai trò lãnh đạo của mình, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cụ thể hóa Nghị

51

quyết đại hội thành những nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo nhằm đạt mục

tiêu là ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng an ninh, giữ vững sự phát triển

kinh tế - xã hội.

Với vị trí, vai trò đó, trên cơ sở nghị quyết đại hội trong nhiệm kỳ cũng

như diễn biến tình hình trên thế giới và trong nước, Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh đã ban hành nghị quyết hàng năm để lãnh đạo thực hiện nhằm giữ vững

ổn định tình hình chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng -

an ninh. Đồng thời khi có tình huống bất thường xảy ra thì Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh ban hành nghị quyết để lãnh đạo nhằm đảm bảo ổn định tình

hình. Cụ thể, khi tình hình khiếu kiện đất đai trong đồng bào dân tộc Khmer

với người dân tộc Kinh và tình hình khiếu kiện đó đã trở thành “điểm nóng”

thì Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang đã cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị

lần thứ bảy Ban Chấp hành hành Trung ương (khóa IX), Chương trình hành

động của Tỉnh ủy (khóa VII) về công tác dân tộc, xây dựng và ban hành Nghị

quyết số 09-NQ/TU, ngày 23-10-2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An

Giang về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer

đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015 nhằm ổn định tình hình và ngăn

ngừa không cho điểm nóng tái phát.

Thực tế việc xử lý các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc - tôn

giáo tại An Giang vừa qua cho thấy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh với vai trò

lãnh đạo đã ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào

dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Đây là

công cụ chính sách tác động trực tiếp đến lợi ích mà người dân tộc Khmer

nhu cầu trong việc cấp đất sản xuất cho bà con dân tộc nghèo, ổn định cuộc

sống.

2.1.3. Về tổ chức bộ máy của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh

An Giang

52

2.1.3.1. Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2006

Ngày 07 tháng 02 năm 1998, UBND tỉnh An Giang ban hành Quyết

định số 196/QĐ-UB- về việc thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà

nước tỉnh An Giang; giai đoạn này đồng chí Nguyễn Xuân Phúc giữ chức

danh Giám đốc Trung tâm từ tháng 02 năm 1998 đến thánh 8 năm 2003. Tổ

chức biên chế của Trung tâm có 06 viên chức và 40 cộng tác viên; 11 tổ trợ

giúp pháp lý đặt tại cấp huyện; 30 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý đặt tại cấp xã.

Tuy là giai đoạn đầu thanh lập, với số lượng biên chế hạn chế nhưng

với vai trò quan trọng, cao đẹp Trung tâm đã giúp Sở Tư pháp tham mưu Ủy

ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện thành công: Chỉ thị số 19/CT.UB ngày

20 tháng 9 năm 2001 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc tăng cường công tác

trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh An Giang; Kế hoạch số 24/KH.HND-STP

ngày 02 tháng 10 năm 2003 của Sở Tư pháp, Hội nông dân tỉnh về việc thực

hiện chương trình phối hợp tuyên truyền phổ biến giáo dục, pháp luật; Kế

hoạch số 04/KH-LN.PN-STP ngày 02 tháng 02 năm 2004 của Sở Tư pháp,

Hội Phụ nữ tỉnh về trợ giúp pháp lý; Kế hoạch số 09/KHPH.CTĐ-STP ngày

30 tháng 3 năm 2004 của Sở Tư pháp và Hội chữ thập đỏ tỉnh về trợ giúp

pháp lý; Kế hoạch số 02/KHPH.TP.TAND.CA.VKS ngày 05 tháng 01 năm

2006 của Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Tòa an nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát

nhân dân tỉnh về tăng cường công tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho người

nghèo và đối tượng chính sách trong hoạt động tố tụng; Kế hoạch số

12/KH/PH ngày 30/3/2006 của Sở Tư pháp, Bộ đội biên phòng tỉnh về việc

phối hợp tăng cường công tác trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của tội phạm

buôn bán phụ nữ, trẻ em…

2.1.3.2. Giai đoạn từ năm 2007 đến 2015

Thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 (có hiệu lực kể từ ngày

01/01/2007); Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 10/03/2006 của Thủ tướng

Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và Quyết định

53

792/QĐ-TTg ngày 23/06/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

Đề án “Quy hoạch mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi

nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015”.

2.1.3.3. Giai đoạn từ 2015 đến nay

Công tác phát triển mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và

người thực hiện trợ giúp pháp lý Thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006,

Nghị định 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định 792/QĐ-TTg ngày

23/06/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch

mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm

giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015”. Theo đề nghị của Sở Tư

pháp, UBND tỉnh An Giang đã có Quyết định đổi tên Trung tâm Trợ giúp

pháp lý của nhà nước tỉnh An Giang thành Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà

nước tỉnh An Giang (Quyết định 1811/QĐ-UBND ngày 10/7/2007). Trung

tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (Trung tâm TGPLNN ) đã được kiện toàn,

từng bước nâng chất, đến nay Trung tâm TGPLNN có 20 biên chế (trong đó

có 08 Trợ giúp viên pháp lý) Trung tâm có Giám đốc, Phó giám đốc, 02

Phòng chức năng nghiệp vụ, 03 Chi nhánh trực thuộc. Việc bổ nhiệm người

đứng đầu các Phòng chuyên môn, các Chi nhánh đủ tiêu chuẩn, đúng quy

định. Trong tỉnh có 02 Trung tâm tư vấn pháp pháp luật đăng ký tham gia

hoạt động trợ giúp pháp lý (Trung tâm TVPL Hội luật gia và Trung tâm

TVPL Hội nông dân tỉnh) với 06 Tư vấn viên pháp luật đăng ký tham gia hoạt

động trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý. Chưa có tổ chức hành nghề

luật sư nào đăng ký tham gia công tác TGPL theo Luật TGPL, chỉ có một số

luật sư tham gia hoạt động TGPL với tư cách là Cộng tác viên của Trung tâm

TGPL. Thời điểm này, Trung tâm TGPLNN tỉnh An Giang có 92 Cộng tác

viên TGPL (trong đó có 34 Cộng tác viên là luật sư).

Toàn tỉnh có 11 Tổ Trợ giúp pháp lý, với 130 thành viên do Chủ tịch

UBND cấp huyện quyết định thành lập, Trưởng phòng tư pháp cấp huyện

54

kiêm Tổ trưởng tổ TGPL, có 94 Câu lạc bộ TGPL ở cơ sở với 1.034 thành

viên, phần lớn các Câu lạc bộ TGPL do Phó chủ tịch UBND cấp xã làm Chủ

nhiệm, Cán bộ Tư pháp xã làm Phó chủ nhiệm. Thực hiện Chương trình phối

hợp giữa Trung tâm TGPLNN với Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang, trong

tỉnh đã hình thành 24 Tổ phụ nữ TGPL với trên 200 thành viên, đây là lực

lượng nồng cốt của Hội Phụ nữ ở cơ sở chịu sự quản lý chỉ đạo của Hội Phụ

nữ và sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm TGPLNN tỉnh.

Thực hiện Đề án xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp

pháp lý (theo Quyết định 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ tướng Chính

phủ) trong năm 2015 Sở Tư pháp có Kế hoạch phát triển ít nhất 50% tổ chức

hành nghề luật sư và tư vấn pháp luật trong tỉnh tham gia hoạt động trợ giúp

pháp lý, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý của các đoàn thể chính

trị xã hội trong tỉnh.

- Thực trạng số biên chế của Trung tâm và Chi nhánh: Trung tâm được

Ủy ban nhân tỉnh giao 17 biên chế và 01 hợp đồng lao động theo Nghị định

68, trong đó Trung tâm đã sử dụng 16 biên chế, gồm: 12 viên chức, 01 hợp

đồng theo Nghị định số 68 và 03 hợp đồng lao động, cụ thể theo từng vị trí

công việc:

+ Lãnh đạo Trung tâm: Giám đốc

+ Phòng Hành chính - Tổng hợp có 06 biên chế: 01 Trợ giúp viên pháp

lý phụ trách Tổ chức - Hành chính; 01 viên chức tổng hợp thống kê, báo cáo

kiêm thủ quỹ; 01 viên chức phụ trách kế toán, 01 nhân viên lái xe (Hợp đồng

NĐ 68), 01 nhân viên văn thư lưu trữ (Hợp đồng lao động), 01 nhân viên tạp

vụ (Hợp đồng lao động).

+ Phòng Nghiệp vụ có 05 biên chế: 01 Phó Trưởng phòng, 03 Trợ giúp

viên pháp lý hạng III và 01 viên chức tập trung thực hiện các hoạt động nghiệp

vụ trợ giúp pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân

và gia đình, đất đai, hành chính và các lĩnh vực khác có liên quan bằng các

55

hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và tư vấn pháp luật.

+ Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1 huyện Tri Tôn có 04 biên

chế: 01 Trưởng Chi nhánh, 01 Trợ giúp viên pháp lý, 01 cán sự và 01 chuyên

viên (Hợp đồng lao động) tập trung thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trợ giúp

pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình,

đất đai, hành chính và các lĩnh vực khác có liên quan bằng các hình thức tham

gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và tư vấn pháp luật.

- Kết quả rà soát Chi nhánh: Qua rà soát, đánh giá về nhu cầu, nguồn

lực thực hiện trợ giúp pháp lý và hiệu quả hoạt động của Trung tâm Trợ giúp

pháp lý Nhà nước cũng như các Chi nhánh Trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh

An Giang. Sở Tư Pháp tỉnh An Giang trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh

quyết định giải thể, sáp nhập các Chi nhánh của Trung tâm, cụ thể: Ngày 29

tháng 8 năm 2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết

định số 2112/QĐ-UBND về việc giải thể, sáp nhập các Chi nhánh của Trung

tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang, trong văn bản nêu rõ:

+ Giải thể Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 tại huyện Chợ Mới.

+ Sáp nhập Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 1 tại thành phố Châu Đốc

vào Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 2 tại huyện Tri Tôn thành Chi nhánh Trợ

giúp pháp lý số 1 tại huyện Tri Tôn.

Vậy sau khi sáp nhập, giải thể Chi nhánh, bộ máy Trung tâm gồm các

bộ phận như sau: Phòng Hành chính -Tổng hợp, Phòng Nghiệp vụ và Chi

nhánh TGPL số 1 đặt tại huyện Tri Tôn.

2.2. Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng

yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

2.2.1. Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung

Ngày 03/11/2015, Bộ Tư pháp có Công văn số 4035/BTP-TGPL về

việc triển khai Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025

(gọi tắt là Đề án), trên cơ sở đó, để đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý

56

(TGPL) trên địa bàn tỉnh, nâng cao hiệu quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết

49-NQ/TW và Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020”; Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước giúp Sở

Tư pháp trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 199/KH-UBND

ngày 25/4/2016 về việc triển khai thực hiện Đề án đổi mới công tác trợ giúp

pháp lý giai đoạn 2015 - 2025 trên địa bàn tỉnh An Giang và ngày 04/7/2016

Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tham mưu Sở Tư pháp ban hành Kế

hoạch số 60/KH-STP về việc triển khai thực hiện Đề án đổi mới công tác trợ

giúp pháp lý giai đoạn 2015 – 2025. Các hoạt động của Kế hoạch đều đảm

bảo tính khả thi, phát huy tối đa nguồn lực hiện có của cơ quan và tổ chức có

liên quan trong việc triển khai Đề án. Bên cạnh đó, kế hoạch xác định rõ nội

dung, chương trình, phương thức phối hợp của Hội đồng phối hợp liên ngành

về Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, nâng cao nhận thức của các

ngành, thành viên Hội đồng; tạo điều kiện thuận lợi cho Trợ giúp viên pháp

lý, Luật sư cộng tác viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình khi tham gia hoạt

động tố tụng.

2.2.2. Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng

yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

2.2.2.1. Về kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý

- Hình thức TGPL: 20.933

+ Tư vấn: 20.424

+ Đại diện bảo vệ: 171

+ Bào chữa: 280

+ Đại diện ngoài tố tụng: 4

+ Hòa giải:

+ Và hình thức khác: 54

- Diện người được TGPL: 20.939 người

+ Người nghèo: 9.691

57

+ Người có công: 486

+ Người già: 11

+ Trẻ em: 97

+ Người khuyết tật: 9

+ Người nhiễm HIV: 1

+ Người dân tộc thiểu số: 1.139

+ Nạn nhân bị mua bán người: 2

+ Và diện được TGPL khác: 9.503

- Địa điểm thực hiện TGPL: 20.933

+ Trụ sở trung tâm: 5.697

+ Trụ sở Chi nhánh: 1.505

- Trụ sở tổ chức tham gia TGPL:

+ Địa điểm lưu động: 13.677

+ Địa điểm khác: 54 5

Đánh giá chung về kết quả thực hiện TGPL: Từ kết quả trên cho thấy

hoạt động TGPL thông qua hình thức tư vấn pháp luật luôn chiếm tỷ lệ cao

trong toàn bộ hoạt động trợ giúp pháp lý. Số vụ việc tư vấn pháp luật ngày

càng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của đối tượng TGPL theo hướng ngày

càng tăng. Tỷ lệ vụ án có Trợ giúp viên pháp lý và Luật sư - Cộng tác viên

tham gia còn thấp so với thực tế phát sinh (khoảng 20%) chủ yếu trong quá

trình phối hợp thực hiện TTLT số 10, TTLT số 11; trên 70% số vụ việc TGPL

trong tố tụng hình sự có TGVPL và Luật sư - cộng tác viên tham gia từ giai

đoạn điều tra vụ án; các trường hợp (03 vụ) kiến nghị thi hành pháp luật được

nơi tiếp nhận thông tin phản hồi đầy đủ. Trung tâm TGPLNN đã triển khai

thực hiện tốt việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định

của Bộ Tư pháp và hướng dẫn về nghiệp vụ, đánh giá của Cục TGPL thuộc

Bộ Tư pháp (Theo Quyết định 11/2009/QĐ-BTP ngày 29/12/2008 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ

58

giúp pháp lý) với kết quả đánh giá đều đạt chất lượng (100%). Việc lập, quản

lý và lưu trữ, khai thác, sử dụng các hồ sơ nghiệp vụ trợ giúp pháp lý theo

đúng chế độ quy định và hướng dẫn của Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp;

Tập huấn, bồi dưỡng: Tổng số lớp: 27(đợt); tổng số người được tập huấn, bồi

dưỡng: 1.917, trong đó: Tập huấn, bồi dưỡng cho TGVPL và Cộng tác viên

TGPL: 05 đợt; Tập huấn, bồi dưỡng Câu lạc bộ TGPL: 15 đợt; Tập huấn pháp

luật cho cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng: 03 đợt; Tập huấn cho cán bộ tư

pháp xã, phường, thị trấn: Tập huấn trong thực hiện các Chương trình, Dự án:

04; Thực trạng triển khai công tác TGPL tại cơ sở: Tổ chức trợ giúp pháp lý

lưu động: 437 đợt, có 29.124 người tham dự, nhận tư vấn pháp luật 13.677

trường hợp. Sinh hoạt chuyên đề pháp luật: 145 cuộc, có 7.809 người tham

dự. Sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL: 443 cuộc, có 22.608 người tham dự. Số tờ

gấp pháp luật đã thực hiện: 120.000 tờ.

2.2.2.2. Kết quả đào tạo đội ngũ trợ giúp pháp lý

- Cử tham gia Lớp đào tạo nghề luật sư: 02 viên chức

- Đăng ký tập sự trợ giúp pháp lý: 03 viên chức

- Kiểm Tra tập sự TGPL: 01 viên chức

- Bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý: 01 viên chức

- Số lượng, tỷ lệ Trợ giúp viên pháp lý, luật sư được bồi dưỡng:

+ Trợ giúp viên pháp lý: 8/8 TGVPL đạt tỷ lệ 100%

+ Luật sư ký hợp đồng: 25/25 Luật sư đạt tỷ lệ 100%

2.2.2.3. Kết quả công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý

- Thực hiện truyền thông xuống cơ sở tại 108 địa phương có 3958 lượt

người tham dự.

- Biên soạn tài liệu phục vụ phát thanh tại các địa phương.

- Tổ chức tập huấn người thực hiện TGPL: 03 lớp có 260 người tham

dự.

- Đặt bảng thông tin về trợ giúp pháp lý: Số lượng bảng đã đặt là 103

59

bảng

- Biên soạn, in ấn, phát hành tờ gấp pháp luật: Số lượng tờ gấp pháp luật

đã in ấn, phát hành là 25.909 tờ gấp pháp luật.

Nhận xét đánh giá chung: Qua công tác truyền thông trợ giúp pháp lý đã

lồng ghép tuyên truyền Luật TGPL và các văn bản pháp luật có liên quan cho

người dân, từ đó giúp công dân nâng cao ý thức trong việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp

hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý;

phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật; giảm bớt khiếu nại, khiếu

kiện vượt cấp gây tốn kém kinh phí cho Nhà nước và nhân dân.

2.2.2.4. Về kinh phí và cơ sở vật chất

- Về kinh phí

+ Năm 2018: Ngân sách Trung ương hỗ trợ: 340 triệu đồng; Ngân sách

địa phương và các nguồn kinh phí khác: 304 triệu đồng; Tỷ lệ % trong tổng

kinh phí chi cho nghiệp vụ là 46%

+ Năm 2019: Ngân sách Trung ương hỗ trợ: 380 triệu đồng; Ngân sách

địa phương và các nguồn kinh phí khác: 681 triệu đồng; Tỷ lệ % trong tổng

kinh phí chi cho nghiệp vụ là 49%.

+ Năm 2020: Ngân sách Trung ương hỗ trợ là 1.230 triệu đồng; ngân

sách địa phương là 713 triệu đồng.

- Thực trạng về trụ sở, các trang thiết bị, phương tiện làm việc của

Trung tâm và Chi nhánh

+ Trụ sở làm việc: Trung tâm: Có trụ sở riêng, địa chỉ: số nhà 8/18 Lý

Thường Kiệt, phường Mỹ Bình, Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang; Chi nhánh:

Chi nhánh số 1 huyện Tri Tôn có trụ sở riêng.

+ Phương tiện làm việc: Trung tâm có 11 bộ máy vi tính có kết nối

internet, 02 máy photo, 03 máy điều hòa, 01 máy ảnh, 01 máy scan, 01 tủ

60

sách pháp luật; Chi nhánh TGPL số 1 tại Tri Tôn có 03 bộ máy tính kết nối

internet; 01 bộ bàn, ghế tiếp dân; 01 tủ sách pháp luật; 01 điện thoại bàn và

04 bàn làm việc.

Đồng thời, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động hướng

dẫn, phối hợp tốt với Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố trên địa

bàn tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ; Hội Nông dân; Liên đoàn lao động, Đoàn

Luật sư tỉnh… triển khai thực hiện kế hoạch phối hợp tuyên truyền phổ biến

pháp luật về trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân

dân về vai trò của trợ giúp pháp lý.

Thực trạng và kết quả ứng dụng công nghệ thông tin trong trợ giúp

pháp lý: Trung tâm trợ giúp pháp lý cập nhật đầy đủ thông tin quản lý viên

chức lên phần mềm, Trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên thực hiện nhập hồ sơ

tham gia tố tụng, tư vấn để lấy số liệu. Qua quá trình ứng dụng công nghệ

thông tin đem lại nhiều lợi ích trong việc quản lý hồ sơ như: Tìm kiếm những

thông tin hồ sơ một cách dễ dàng, Trợ giúp viên pháp lý học hỏi kinh nghiệm

của đồng nghiệp, thuận lợi trong việc lưu trữ và khai thác hồ sơ vụ việc trợ

giúp pháp lý... Tuy nhiên, đối với một số Luật sư cộng tác viên chưa thực hiện

cập nhật hồ sơ lên phần mềm vì thao tác còn khó khăn và không có công nghệ

thông tin để cập nhật vụ việc trợ giúp pháp lý.

2.2.2.5. Huy động lực lượng xã hội tham gia trợ giúp pháp lý

- Qua thực hiện rà soát trên địa bàn toàn tỉnh hiện có: Người thực hiện

trợ giúp pháp lý (bao gồm Luật sư và Trợ giúp viên pháp lý) là 53 người, tổ

chức tham gia trợ giúp pháp lý là 03 tổ chức, đối tượng được trợ giúp pháp lý

theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 là 1.191.000 lượt người.

- Căn cứ Quy chế số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN về việc Phối hợp giữa

Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam về hoạt động trợ giúp pháp lý của

luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý chủ động xây dựng Quy chế số 07/QCPH-

TTTGPL-ĐLS ngày 31/10/2016 về việc phối hợp giữa Trung tâm Trợ giúp

61

pháp lý Nhà nước và Đoàn Luật sư tỉnh An Giang trong hoạt động Trợ giúp

pháp lý, trong quá trình thực hiện đã phối hợp thực hiện đạt được một số kết

quả sau:

+ Phối hợp thực hiện 162 đợt truyền thông xuống cơ sở.

+ Luật sư cộng tác viên đã tư vấn pháp luật trực tiếp cho 486 trường

hợp liên quan đến các lĩnh vực pháp luật hình sự, dân sự, hộ tịch, đất đai…

+ Thực hiện cử 63 Luật sư cộng tác viên tham gia 63 vụ.

Một số nhận xét đánh giá chung: Chất lượng vụ việc tham gia trợ giúp

pháp lý của Luật sư được nâng lên, một số Luật sư thể hiện tinh thần trách

nhiệm cao khi tham gia trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội, tuy nhiên

bên cạnh vẫn còn một số Luật sư cộng tác viên tham gia vụ việc chưa nhiệt

tình, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa cao, tham gia trợ giúp với tinh

thần từ thiện chưa thể hiện hết tâm huyết và trách nhiệm nghề nghiệp.

- Biên soạn tài liệu phục vụ phát thanh tại các địa phương.

- Tổ chức tập huấn người thực hiện Trợ giúp pháp lý: 03 lớp với 260

người tham dự.

- Đặt bảng thông tin về trợ giúp pháp lý: Số lượng bảng đã đặt là 62 bảng.

- Biên soạn, in ấn, phát hành tờ gấp pháp luật: Số lượng tờ gấp pháp

luật đã in ấn, phát hành là 10.000 tờ gấp pháp luật.

Nhận xét đánh giá chung: Qua công tác truyền thông đã nâng cao hiểu

biết của người dân về công tác trợ giúp pháp lý, nhất là đối với người nghèo,

gia đình chính sách, người có công và một số đối tượng có hoàn cảnh khó

khăn đặc biệt, các đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý đã biết và tiếp

cận ngày càng nhiều hơn các dịch vụ trợ giúp pháp lý so với trước đây. Các

xã nghèo, ấp đặc biệt khó khăn thuộc Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg thì

người dân và đồng bào dân tộc thiểu số đã được tư vấn pháp luật, giúp đỡ

trực tiếp về mặt pháp lý kịp thời.

Phổ biến, giáo dục pháp luật ở vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số,

62

vùng có nhiều đồng bào tín đồ tôn giáo cần phải phát huy vai trò của người có

uy tín trong cộng đồng, như già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo. Để phát

huy vai trò tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội thì cần phải phát huy

vai trò của chức sắc tôn giáo bởi họ là người có vị trí, vai trò đặc biệt quan

trọng đối với quần chúng tín đồ, là lực lượng nòng cốt trong cộng đồng tôn

giáo, quyết định đến sự mạnh yếu, thậm chí sống còn của tôn giáo mình; hơn

nữa, hàng ngũ chức sắc là đội ngũ nòng cốt và xương sống của các tôn giáo,

họ vừa có vị trí, vai trò lãnh đạo, vừa có trình độ giáo lý, giáo luật, có uy tín

lớn trong quần chúng tín đồ, là cầu nối giữa Giáo hội các tôn giáo với tín đồ nên

có tác động to lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến quần chúng tín đồ. Do đó, phát huy vai

trò chức sắc tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật, vì thông qua các vị chức sắc, quần chúng yên tâm tu hành theo luật

pháp và giáo luật, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước; đồng thời chống lại âm mưu của những kẻ đội lốt tôn giáo chống phá cách

mạng, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2.3. Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý

cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

2.3.1. Khuôn khổ pháp luật về trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế,

cơ chế đánh giá về chất lượng trợ giúp pháp lý chưa hoàn thiện

Điều 7 Luật trợ giúp phá lý quy định về Người được trợ giúp pháp lý là

Người có công với cách mạng, Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người dân tộc

thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Người

bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận

nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài

chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi

dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ là đã thu hẹp chính sách TGPL đối với người có

công với cách mạng, phần nào chưa phù hợp với các chính sách đền ơn đáp

nghĩa với người có công. Một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng Trợ

63

giúp viên pháp lý, thi đua hằng năm của mỗi Trợ giúp viên là số vụ việc việc

tối thiểu tham gia trong năm đó. Số lượng vụ việc Trợ giúp phụ thuộc vào

tình hình thực tế của tỉnh, sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo chỉ tiêu số lượng

quên chất lượng của các Trợ giúp viên pháp lý.

2.3.2. Bộ máy Trung tâm TGPL chưa được kiện toàn, số lượng Trợ

giúp viên pháp lý phát triển chậm còn ít so với nhu cầu thực tế, nguồn để đào

tạo bổ nhiệm Trợ giúp viên không nhiều

Yếu tố quan trọng quyết định trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu,

các tiêu chí đề ra trong công cuộc đổi mới công tác TGPL , yếu tố con người cần

đặt ở vị trí hàng đầu mà cụ thể là đội ngũ viên chức thực hiện TGPL, Trợ giúp

viên pháp lý. Đội ngũ này dần được quan tâm, đào tạo bài bản hơn nhưng chất

lượng thực sự vẫn chưa cao. Thời gian qua, nguồn nhân lực thực hiện TGPL tại

Trung tâm và các chi nhánh luôn luôn thiếu, không ổn định mà nguyên nhân

chính và chủ yếu của việc này là vì thu nhập của đội ngũ viên chức rất thấp, chưa

đảm bảo đời sống ổn định để làm việc. Lãnh đạo Trung tâm TGPL tỉnh hiện này

chỉ có Giám đốc Trung tâm sắp đến tuổi nghỉ hưu; khuyết chức danh Phó Giám

đốc Trung tâm đã hơn 02 năm nay nhưng vẫn chưa có nguồn để nhiệm. Trong

khi đó các tiêu chuẩn bổ nhiệm lãnh đạo cấp phòng phải đảm bảo về trình độ

chính trị (Trung cấp lý luận chính trị) tiêu chuẩn về phải qua các lớp bồi dưỡng

(chuyên viên, lãnh đạo cấp phòng…) tiêu chuẩn về ngoại ngữ… và Điều 3 Nghị

định 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định một số điều

của Luật Trợ giúp pháp lý thì “Phó Giám đốc trung tâm phải là Trợ giúp viên

pháp lý”. Vì vậy, trong điều kiện khó khăn về nguồn tại chổ (thiếu các tiêu chuẩn

để bổ nhiệm lãnh đạo cấp phòng) thì các nguồn khác từ các phòng, đơn vị thuộc

sở khác thì đáp ứng được tiêu chuẩn này nhưng lại thiếu tiêu chuẩn về chức danh

Trợ giúp viên pháp lý (người không làm việc tại Trung tâm TGPL thì không

được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý).

64

2.3.3. Nguồn nhân lực thực hiện TGPL còn thiếu và yếu

Chất lượng vụ việc tham gia tố tụng chưa đồng đều, một số Trợ giúp viên

pháp lý, Luật sư cộng tác viên chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, ra tòa chỉ để có, để đề

nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ mà không có lập luận và không có chứng cứ cụ

thể, ít thu thập chứng cứ hoặc chứng cứ đa số không được được Tòa chấp nhận

vì không thuyết phục làm ảnh hưởng đến uy tính của tổ chức trợ giúp pháp lý

cũng như chất lượng vụ việc đó. Một số Luật sư là cộng tác viên (đây là nghĩa vụ

bắt buộc của Luật sư) chưa thật sự tận tâm nên chất lượng tham gia tố tụng chưa

cao. Điều này làm ảnh thiệt hại không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối

tượng được TGPL.

2.3.4. Công tác truyền thông pháp luật về TGPL chưa thật sự hiệu quả

Công tác tuyên truyền, thực hiện nhiều nhưng hiệu quả chưa đạt được

như mong muốn, nhận thức của người được TGPL chưa đúng vì họ nghĩ rẳng

không phải trả thù lao nên các trợ giúp viên pháp lý không nhiệt tình, tâm quyết

với việc bào chữa. Nhận thức của người dân về hoạt động TGPL hiện nay vẫn

còn hạn chế, chưa thống nhất do việc quán triệt, triển khai của mỗi ngành chưa

làm tốt. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn vướn mắc chưa sát sao,

kịp thời.

Công tác truyền thông, phổ biến về TGPL một số huyện còn mang tính

thời vụ, thiếu thường xuyên, liên tục. Việc cung cấp Bảng thông tin, Họp tin, tờ

gấp pháp luật, danh sách và địa chỉ của Trơ giúp viên pháp lý chưa kịp thời và

đầy đủ. Các bảng thông tin, họp thư trợ giúp ở một số nơi chưa phát huy được

nhiều tác dụng do nội dung của các bảng thông tin sơ sài, chữ in quá nhỏ , từ ngữ

dùng chưa mang tính chất phổ thông, gần gũi làm người dân đọc khó hiểu. Việc

giải thích về quyền được TGPL cho người thuộc diện được TGPL; việc hướng

dẫn, giới thiệu họ đến với các tổ chức chức năng TGPL ở một số cơ quan tiến

65

hành tố tụng chưa thường xuyên.

2.3.5. Nhận thức của xã hội và người dân về vị trí, vai trò của chính

sách trợ giúp pháp lý nói chung và chính sách trợ giúp pháp lý đối với đối

tượng yếu thế còn hạn chế

Chính nhận thức hạn chế mà xã hội và các đối tượng yếu thế chưa phát

huy hiệu quả vai trò của chính sách trợ giúp pháp lý đối với đối tượng yếu thế

trong xã hội. Mỗi khi có những vấn đề gì các đối tượng này ít nghĩ đến hệ thống

cơ quan TGPL mà lại bỏ mặc cho số phận, mong muốn những điều từ thế lực

siêu nhiên, bỏ mặc cho may mắn. Hạn chế này kìm hãm sự phát triển của hệ

thống cơ quan trợ giúp pháp lý và tính hiệu quả của chính sách trợ giúp pháp lý

cho đối tượng yếu thế trong xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang thời gian vừa qua.

2.3.6. Công tác xã hội hóa chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng

yếu thế trong xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang còn nhiều hạn chế, bất cập

Chính hạn chế này là rào cản trong việc huy động tổng thể các nguồn lực

tham gia thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trong xã

hội. Xu hướng xã hội hóa là một xu hướng diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của

đời sống xã hội. Xã hội hóa thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý đối với đối

tượng yếu thế là một tất yếu. Tuy nhiên, xã hội hóa thực hiện chính sách trợ giúp

pháp lý đối với đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang thời gian vừa qua

còn nhiều hạn chế và bất cập. Trong sự phát triển của một quốc gia, một địa

phương thì việc xã hội hóa để doanh nghiệp, cá nhân cùng chính quyền chia sẻ

trách nhiệm và nghĩa vụ là việc rất cần thiết. Do vậy, hạn chế này cần được khắc

phục. Tiến hành xã hội hóa thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và đối với đối

tượng yếu thế trong xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang là nhằm huy động các

nguồn lực hỗ trợ góp phần với nhà nước, với chính quyền trong việc phát huy

hiệu quả nhất chính sách trợ giúp pháp lý. Điều này có ý nghĩa quan trọng mang

tính chất quyết định đến tổng thể các giải pháp thực hiện chính sách trợ giúp

66

pháp lý đối với đối tượng yếu thế trong xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang và

khắc phục các hạn chế về xã hội hóa thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho

67

đối tượng yếu thế trong xã hội.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO ĐỐI TƯỢNG YẾU THẾ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm cơ bản

- Thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về

các chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách dân tộc và quan điểm về

quyền con người, quyền công dân nhằm đảm bảo tiếp cận công lý công bằng,

bình đẳng trước pháp luật cho các đối tượng yếu thế trong xã hội. Kết hợp các

chính sách kể trên với chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trong

xã hội.

- Đổi mới công tác TGPL nói chung và TGPL cho đối tượng yếu thế

nói riêng phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, khoa học, toàn diện, khách quan;

kế thừa những kết quả tích cực đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất

cập.

- TGPL cho nhóm người yếu thế phải nhằm ổn định xã hội nói chung

và tỉnh An Giang nói riêng. Thông qua các hoạt động TGPL cho nhóm người

yếu thế nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật để từ đó góp phần xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- TGPL cho nhóm người yếu thế phải xuất phát từ yêu cầu nâng cao ý

thức pháp luật cho người dân nói chung và nhóm người yếu thế nói riêng. Chỉ

khi xuất phát từ lợi ích của người yếu thế, lấy lợi ích của người yếu thế làm

trung tâm thì việc thiết kế các chính sách, xây dựng, sửa đổi các quy định

pháp luật về TGPL sẽ trở nên thiết thực hơn.

- TGPL là một chính sách lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Qua những năm triển khai Luật và các văn bản pháp luật vào đời sống đã đáp

68

ứng được nhu cầu TGPL của nhóm người yếu thế. Tuy nhiên, hiện nay bối

cảnh đã thay đổi, đối tương người yếu thế thuộc diện TGPL cũng có những

xáo trộn. Vì thế, đổi mới công tác TGPL phải phù hợp với định hướng phát

triển 03 trụ cột chính của Nhà nước và xã hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa như đã được khẳng định trong Điều16 Hiến pháp là kinh tế

thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và phát huy quyền dân chủ, bảo vệ

quyền con người, quyền cơ bản của công dân.

3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trợ

giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

3.2.1. Hoàn thiện khung khổ pháp luật về trợ giúp pháp lý cho đối

tượng yếu thế

Sửa đổi khái niệm về trợ giúp pháp lý. Theo chúng tôi, khái niệm

TGPL nên được hiểu như sau: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp

lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp

phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và

bình đẳng trước pháp luật. Sửa đổi, bổ sung đối tượng thuộc nhóm người yếu

thế được trợ giúp pháp lý: Một là, bổ sung đối tượng yếu thế được TGPL bao

gồm: người thuộc hộ cận nghèo; hộ thoát nghèo; nạn nhân bạo lực gia đình

không có khả năng thuê luật sư. Hai là, bỏ quy định về tiêu chí “cô đơn” và

“không nơi nương tựa” của người già từ đủ 60 tuổi trở lên mới thuộc diện

được TGPL. Ba là, đối với nhóm người dân tộc thiểu số nên quy định là

người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn, thay vì quy định thường trú như hiện nay để chính xác hơn và tránh

trường hợp có hộ khẩu ở vùng đặc biệt khó khăn nhưng lại sinh sống ở nơi

khác. Bốn là, nên quy định tất cả trẻ em, người khuyết tật được thụ hưởng

hoạt động TGPL. Sự thay đổi này hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với pháp luật

69

quốc tế và thực tiễn đã diễn ra.

Bổ sung tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý để đảm bảo chất lượng

của việc cung cấp dịch vụ pháp lý, về mặt kinh nghiệm cũng như kỹ năng,

bản lĩnh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý cần phải trải qua chế độ tập sự và

kiểm tra tập sự nhằm khắc phục bất cập hiện nay về trình độ, khả năng nghề

nghiệp của trợ giúp viên. Thu hẹp hình thức trợ giúp pháp lý tại Điều 17 Luật

TGPL sửa đổi nên quy định ba hình thức TGPL đó là: Tư vấn pháp luật, tham

gia tố tụng và TGPL lưu động. Việc thu hẹp các hình thức này nhằm xác định

nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động TGPL là giải quyết vụ việc TGPL cụ thể

liên quan đến tranh chấp, vướng mắc pháp luật trực tiếp của người được

TGPL.

Sửa đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý. Quy định người thực hiện

TGPL bao gồm trợ giúp viên, luật sư cộng tác viên, tư vấn viên vì đội ngũ

cộng tác viên là cán bộ, công chức ở các cơ quan ban ngành không phát huy

vai trò trong hoạt động TGPL, đội ngũ này hoạt động còn mang tính chất hình

thức. Xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý công

khai, minh bạch và hiệu quả. Thứ nhất, thành lập Hội đồng chuyên gia đánh

giá chất lượng vụ việc TGPL, trực thuộc sự quản lý của Cục Trợ giúp pháp lý

- Bộ Tư pháp. Thành viên của hội đồng là các chuyên gia pháp lý, luật sư giàu

kinh nghiệm thực tiễn và uy tín. Thứ hai, nội dung đánh giá được tiến hành từ

thời điểm có yêu cầu TGPL đến khi hoàn tất vụ việc TGPL mà không có bất

kỳ sự gián đoạn nào.

3.2.2. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện trợ giúp pháp lý

Thứ nhất, kiện toàn, bổ sung thêm 01 Phó giám đốc Trung tâm; kiện

toàn lãnh đạo 04 Phòng, 01 Chi nhánh thuộc Trung tâm, bảo đảm về năng lực

lãnh đạo, quản lý, điều hành triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Trung tâm;

Thứ hai, xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL trên địa bàn tỉnh; lựa chọn

70

đội ngũ viên chức giúp việc cho Trợ giúp viên có đủ tiêu chuẩn cử đi đào tạo

nghề Luật sư và tham gia lớp nghiệp vụ Trợ giúp pháp lý để tạo nguồn bổ

nhiệm Trợ giúp viên pháp lý chuyên sâu các lĩnh vực pháp luật.

Tăng cường khả năng tiếp cận hoạt động trợ giúp pháp lý của nhóm

người yếu thế. Sửa đổi về trình tự, thủ tục thực hiện TGPL theo hướng đơn

giản hóa thủ tục yêu cầu TGPL, giảm bớt khâu trung gian để tạo điều kiện

thuận lợi đối với nhóm người yếu thế tiếp cận và thụ hưởng TGPL. Đẩy mạnh

hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong việc thực

hoạt động về trợ giúp pháp lý. Để đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra,

giám sát và xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật về TGPL, với trách

nhiệm của mình Sở Tư pháp phải tiến hành một cách thường xuyên hoạt động

kiểm tra đối với việc thực hiện hoạt động TGPL ở địa phương. Hoạt động

kiểm tra, thanh tra, giám sát phải gắn với việc kết luận đánh giá mức độ thực

thi pháp luật, về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện pháp

luật về TGPL tại địa phương.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa hoạt động Trợ giúp pháp lý. Theo tôi,

đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa công tác TGPL nên theo hướng quy

định các chế độ, chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút các tổ chức hành

nghề luật sư, luật sư có uy tín, kinh nghiệm; các tổ chức xã hội, xã hội nghề

nghiệp, chính trị xã hội thực hiện TGPL. Việc thu hút các chủ thể thực hiện

để người được TGPL có cơ hội sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời.

3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trợ giúp viên pháp lý, chúng ta

cần có những chính sách cụ thể để nâng cao số lượng lẫn chất lượng cho đội

ngũ trợ giúp viên pháp lý thông qua các hoạt động như: đề ra các kế hoạch

ngắn hạn và dài hạn để có sự quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo những cán bộ có

triển vọng, phát triển thành trợ giúp viên pháp lý; thường xuyên tổ chức các

71

lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về TGPL...

- Căn cứ tình hình thực tế về công tác trợ giúp pháp lý tại địa phương,

Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp quan tâm phát triển đội ngũ viên

chức hiện có tại Trung tâm thành Trợ giúp viên pháp lý bằng các hình thức

đưa đi đào tạo, bồi dưỡng các lớp như: Cử viên chức tham gia lớp đào tạo

nghề Luật sư; đang hướng dẫn viên chức tham gia tập sự hành nghề Trợ giúp

pháp lý; khẩn trương xác minh hồ sơ đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm

Trợ giúp viên pháp lý cho người đã đạt kết quả tập sự; cử các Trợ giúp viên

pháp lý hạng III tham dự Lớp nghiệp vụ Trợ giúp viên pháp lý hạng II để

chuẩn bị thi nâng hạng Trợ giúp viên pháp lý.

- Để nâng cao chất lượng cho cán bộ, viên chức và trợ giúp viên pháp

lý về chuyên môn nghiệp vụ; Sở Tư pháp cử viên chức tham dự các Hội nghị

do Bộ Tư pháp, Cục Trợ giúp pháp lý tổ chức gồm: Hội nghị quốc tế chia sẽ

kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, Hội nghị tham vấn dự thảo Luật

Trợ giúp pháp lý tại thành phố Nha Trang - tỉnh Khánh Hòa, Hội nghị tập

huấn chuyên sâu về các Bộ Luật tố tụng Hình sự, Dân sự năm 2015 tại thành

phố Hồ Chí Minh, cử 02 viên chức tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Trợ giúp

pháp lý khóa XV và XVI/2016 tại Hà Nội; tổ chức đưa 16 Trợ giúp viên pháp

lý, viên chức và Luật sư cộng tác viên tham dự Hội nghị tập huấn kỹ năng Trợ

giúp pháp lý trong tham gia tố tụng Dân sự cho người thực hiện Trợ giúp

pháp lý tại thành phố Cao Lãnh - tỉnh Đồng Tháp; Hội nghị tập huấn Quyết

định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ và kỹ

năng trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật tại tỉnh Bình Định.

3.2.4. Đẩy mạnh công tác truyền thông pháp luật về trợ giúp pháp lý

Thứ nhất, tăng cường công tác truyền thông, phổ biến pháp luật về

TGPL, về quyền và nghĩa vụ của người được TGPL, về hệ thống tổ chức thực

hiện TGPL sẵn có, về vai trò, ý nghĩa của công tác TGPL.

Thứ hai, huy động các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan

72

báo chí, các tổ chức chính trị-xã hội trên địa bàn tỉnh tham gia vào công tác

truyền thông để kịp thời thông tin các văn bản pháp luật về TGPL và các hoạt

động TGPL trên địa bàn, nêu gương điển hình trong công tác TGPL.

Đa dạng hóa các phương thức truyền thông về TGPL (qua báo, đài phát

thanh, truyền hình, internet,…) phù hợp với từng đặc thù địa bàn, trình độ dân

trí của người dân. Chẳng hạn như xây dựng video, kịch bản liên quan đến câu

chuyện pháp luật; đối với các dân tộc có chữ viết thì biên soạn tài liệu bằng

tiếng dân tộc, có sự phối hợp giữa tổ chức thực hiện TGPL với các cơ quan

thông tin, đại chúng. Các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh niêm yết

công khai các bảng thông tin về TGPL tại địa điểm tiếp công dân ở trụ sở cơ

quan đúng theo quy định của pháp luật. Qua công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo và định kỳ tiếp công dân hàng tháng, lãnh đạo hoặc kiểm sát viên, điều tra

viên, … khi tiếp công dân nắm thông tin của những người này có thuộc đối

tượng TGPL hay không. Nếu thuộc các trường hợp được TGPL thì hướng dẫn

đến Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh An Giang để được TGPL.

3.2.5. Trung tâm TGPL cần chủ động đến với nhóm người yếu thế

Để tạo điều kiện cho nhóm người yếu thế được thụ hưởng dịch vụ này

Trung tâm nên tiến hành nhiều đợt TGPL lưu động về cơ sở, người thực hiện

TGPL hướng dẫn, giúp đỡ theo từng trường hợp cụ thể bảo đảm tính thiết

thực, gần dân, tạo phương thức đưa pháp luật đến với người dân theo đúng

những gì họ mong muốn.

Trung tâm TGPL phải thường xuyên thông báo danh sách, địa chỉ, số

điện thoại của những người TGPL để các cơ quan tiến hành tố tụng dễ liên lạc

trong quá trình xử lý vụ việc; nâng cao hơn nữa trong việc nhận thức của

người tiến hành tố tụng với người bào chữa, cộng tác viên với Trung tâm

TGPL; tiếp tục củng cố tăng cường công tác phối kết hợp giữa Trung tâm

TGPL với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm giải quyết những khó khăn,

vướng mắc trên thực tế mà luật chưa tiên liệu được.

73

3.2.6. Nâng cao nhận thức về Trợ giúp pháp lý

Đưa hoạt động TGPL gần dân, sát dân, tạo thuận lợi cho dân. Để tạo

điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận và thụ hưởng hoạt động

TGPL, phải đưa hoạt động TGPL đến với cơ ở nơi người dân sinh sống, làm

ăn. Đồng thời tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Trợ

giúp pháp lý và các văn bản pháp luật có liên quan để nâng cao nhận thức của

một số cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở và nhận thức của nhân dân nói chung

về hoạt động trợ giúp pháp lý. Nâng cao vai trò của Trung tâm trợ giúp pháp

lý Nhà nước và tăng cường sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức chính trị - xã

hội trong việc thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý. Thứ nhất, tham mưu với

Sở Tư pháp trình UBND tỉnh ban hành cơ chế phối hợp giữa Trung tâm

TGPL với các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể của địa phương trong triển khai

các hoạt động TGPL tại cơ sở, kiến nghị trong quá trình thực hiện vụ việc

TGPL; ... Thứ hai, Trung tâm chủ động trong việc đào tạo, hướng dẫn chuyên

môn, nghiệp vụ cho các tổ chức tham gia TGPL; thực hiện đa dạng hóa các

phương thức, loại hình TGPL có hiệu quả, thiết thực; đổi mới cách thức tổ

chức các đợt TGPL lưu động để thu hút sự tham gia đông đảo của người được

TGPL tại địa phương.

Trong hoạt động tố tụng, qua công tác việc kiểm sát việc giải quyết tin

báo, tố giác về tội phạm hoặc qua công tác kiểm sát điều tra nếu phát hiện các

đối tượng được TGPL thì Viện kiểm sát trao đổi với cơ quan cảnh sát điều tra

giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự biết về quyền

được TGPL và hướng dẫn họ tiếp cận các thông tin về TGPL. Khi họ có yêu

cầu TGPL thì cung cấp cho họ mẫu đơn yêu cầu TGPL, đồng thời có văn bản

gửi Trung tâm TGPL tỉnh An Giang để cử trợ giúp viên hoặc luật sư cộng tác

tham gia bào chữa, bảo vệ các quyền lợi của họ trong vụ án hình sự.

Quan trọng không kém là việc tuyên truyền, giúp cho người được

74

TGPL nhận thức rằng bản chất của loại hình này chứa đầy đủ những đặc

trưng của một dịch vụ công: là dịch vụ được xác định là chức năng xã hội của

75

Nhà nước; đối tượng được thụ hưởng dịch vụ là người yếu thế.

KẾT LUẬN

Hoạt động TGPL cho nhóm người yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

bên cạnh những thành tựu đạt được, còn tồn tại những hạn chế bất cập không

chỉ về mặt pháp luật mà còn về thực tiễn. Để hoạt động này trở nên hiệu quả

và phát huy vai trò hơn nữa trên thực tế thì cần phải có những giải pháp về

phương hướng, quan điểm chỉ đạo và những giải pháp về mặt pháp luật cũng

như thực tiễn, cụ thể như: mở rộng đối tượng thuộc nhóm người yếu thế được

TGPL, xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL, ... sẽ góp phần khắc phục

những khuyết điểm hiện tại đồng thời nâng cao chất lượng hiệu quả công tác

TGPL trong thực tiễn. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, triển khai

các giải pháp đổi mới nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa công tác

TGPL phát triển ổn định, bền vững, trong thời gian tới công tác xây dựng và

hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực TGPL có ý nghĩa rất quan trọng. Với tinh

thần thực hiện việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xã hội

hóa hoạt động TGPL theo bước đi và lộ trình phù hợp, phát huy vai trò của

TGPL trong đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư

pháp đã được xác định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp. Đồng thời, trong

giai đoạn này cần tập trung nguồn lực để tiếp tục cụ thể hóa tinh thần và nội

dung các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước dân chủ, quản lý mọi mặt đời sống xã

hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế. Nhà nước đó không

chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất, toàn diện, đồng bộ thể hiện ý chí

của nhân dân lao động, phù hợp với điều kiện khách quan, mà còn phải đảm

bảo cho hệ thống pháp luật đó đi vào cuộc sống, bảo đảm cho ý chí của nhân

dân trở thành hiện thực. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan Nhà nước,

tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Trợ

76

giúp pháp lý rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho nhóm người yếu thế nâng

cao trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật để họ thực hiện pháp luật, tự giải

quyết những tranh chấp nhỏ trong cuộc sống, tự giác thực hiện quyền và

nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc nghiên cứu về hoạt động

TGPL cho nhóm người yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang đã phần nào phản

ánh được thực trạng bất cập pháp luật cũng như khó khăn trong thực tiễn triển

khai. Hoạt động TGPL cho nhóm người yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang

cần được nâng cao, cải thiện hơn nữa về mặt chất lượng, để đóng góp một

phần vào hoạt động TGPL nói chung. Để đạt được điều này, tỉnh An Giang

cần có những giải pháp đồng bộ và sự chung tay của các cấp, ngành và cá

nhân mỗi người dân.

Như vậy, các chính sách của chúng ta sẽ phải giải quyết được mối mâu

thuẫn giữa tính hiệu quả kinh tế và sự công bằng xã hội. Đây là nguyên tắc

quan trọng trong quá trình hoạch định mọi chính sách trong thời kỳ này. Vì

nếu không giải quyết thoả đáng mâu thuẫn này, không những nguy cơ chệch

hướng XHCN sẽ ngày càng lớn, mà bản thân nguy cơ về các bất ổn xã hội -

chính trị cũng tăng đáng kể, và từ đó xói mòn uy tín lãnh đạo của Đảng.

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho

người được trợ giúp pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp trong

vụ việc trợ giúp pháp lý theo luật định nhằm góp phần đảm bảo quyền con

người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.

Với phương tư cách là một trong những phương thức bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, đòi hỏi nhà nước có các chính sách để bảo đảm

quyền của người dân được trợ giúp pháp lý theo quy định, nhằm đáp ứng

yêu cầu tiếp cận công dân. Hiện nay, lực lượng làm công tác trợ giúp pháp

lý trên địa bàn tỉnh An Giang bao gồm những công chức, viên chức thuộc

Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, Sở Tư pháp và các nguồn lực là cá

nhân, tổ chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia trợ giúp pháp lý thông

77

qua ký hợp đồng hoặc đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý. Trong thời gian

qua, công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh An Giang đã và đang được

các cấp, các ngành quan tâm phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực

hiện. Bên cạnh đó nhu cầu của người dân được trợ giúp pháp lý ngày càng

nâng cao, công tác trợ giúp pháp lý càng đảm bảo minh bạch và tuân thủ

pháp luật nghiêm minh.

Hy vọng, qua việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách trợ giúp

pháp lý cho đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh An Giang” làm sáng tỏ

những luận cứ khoa học, chỉ ra cơ sở thực tiễn, lý luận và thực tiễn triển

khai Luật Trợ giúp pháp lý trên địa bàn thời gian vừa qua. Từ đó, rút ra

được kinh nghiệm, những định hướng cơ bản trong việc áp dụng, thực hiện

Luật Trợ giúp pháp lý trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu

quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người thuộc diện trợ

giúp pháp lý đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, trước yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

78

nhân dân, hội nhập quốc tế và tình hình thực tiễn mới.