ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG
CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG
CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.LƯU KHÁNH THƠ
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Trường Đại học
Khoa học - Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn - PGS.TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... ii
MỤC LỤC .............................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................... 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 6
5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 7
6. Cấu trúc luận văn .............................................................................................. 7
7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 7
Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ
BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ........ 8
1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa ........................... 8
1.1.1 Thời kì niên thiếu .................................................................................... 8
1.1.2. Thời kì trưởng thành ............................................................................. 13
1.2.Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa ................ 17
1.2.1.Nguồn cội văn học dân gian của quê hương ......................................... 17
1.2.2. Truyền thống gia đình .......................................................................... 23
1.2.3. Ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ Việt Nam
hiện đại ........................................................................................................... 25
1.2.4. Không khí sáng tác thơ ca thời chống Mĩ cứu nước ............................ 28
1.3. Những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa ..... 30
1.3.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến ......................................... 30
1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng Khoa ........................................ 33
Tiểu kết chương 1.................................................................................................... 36
Chương 2. SỰ THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................ 37
2.1. Khẳng định chủ quyền lãnh thổ ................................................................... 37
iv
2.2. Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam ....................... 47
2.3. Tiếng thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa ............................................................... 58
Tiểu kết chương 2.................................................................................................... 67
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG
SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ...................................... 68
3.1 Hệ thống biểu tượng ..................................................................................... 68
3.1.1. Khái niệm biểu tượng nghệ thuật ......................................................... 68
3.1.2. Biểu tượng cánh buồm ......................................................................... 71
3.1.3. Biểu tượng tàu và biển ......................................................................... 73
3.1.4. Biểu tượng cánh chim hải âu ................................................................ 77
3.2. Giọng điệu .................................................................................................... 79
3.2.1. Trữ tình, trong sáng, thiết tha ............................................................... 80
3.2.2. Triết lí, suy tư ....................................................................................... 82
3.3. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu .............................................. 85
3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi .................................................................... 85
3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu ...................................................................... 88
3.4. Biện pháp tu từ ............................................................................................. 91
3.4.1. Nhân hóa ............................................................................................... 91
3.4.2. So sánh.................................................................................................. 95
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 99
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 103
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lãnh thổ Việt Nam không chỉ bao gồm phần đất liền mà còn phải kể đến
không phận và vùng lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc. Ngay từ xa xưa ý thức giữ
gìn tài sản quý báu ấy đã luôn được cha ông ta coi trọng, đề cao. Biển là quà tặng vô
giá của thiên nhiên dành tặng cho con người Việt Nam . Biển đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và
tương lai. Việt Nam với 63 tỉnh thành thì trong đó có tới 28 tỉnh, thành phố giáp
biển. Biển không chỉ đem đến nhiều nguồn lợi cho cư dân người Việt mà biển còn
là cửa ngõ để nước ta giao lưu kinh tế trong khu vực và trên thế giới, là nơi trao đổi
và gặp gỡ với nhiều nền văn hóa. Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa
ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy
nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc.
“Bao đời nay, biển đảo luôn là vẻ đẹp tráng lệ của mỗi miền quê, là địa
danh ghi dấu những chiến công hiển hách của lịch sử chống ngoại xâm, là bản sắc
văn hoá và là nguồn cảm hứng bất tận của văn học nghệ thuật... Trong bức tranh
toàn cảnh của văn học Việt Nam nói chung, chủ đề biển đảo làm nên một dòng chảy
liên tục, xuyên suốt từ văn học dân gian sang văn học viết gồm nhiều thể loại như
thơ, phú, kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Mỗi giai đoạn, mỗi thể loại sẽ có những kiểu
sáng tác và hệ hình thi pháp riêng nhưng chung quy đều hướng tới việc khám phá
đời sống con người cùng những đa dạng về sinh thái học: Cảnh sắc thiên nhiên,
chân dung tâm hồn, phong tục tập quán, nguyên tắc và văn hoá ứng xử trước biển…
Biển đảo, do vậy, là một đề tài vừa mang tính duy mĩ, vừa có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Đây thực sự là một lưu vực lớn trong địa lí văn chương Việt’’ [64].
Không chỉ là không gian dành riêng cho đôi lứa, khi đến với biển mỗi người
trong chúng ta như được tiếp thêm sinh lực, bỏ lại sau lưng những bon chen của
cuộc sống hàng ngày, ta như đắm chìm trong thiên nhiên, nhẹ nhõm và thư thái,
biển là người bạn luôn lắng nghe ta chia sẻ, giãi bày. Phải chăng khi đến với biển
mỗi người trong chúng ta dễ dàng tìm được sự đồng điệu giữa tâm trạng và cảnh
quan do đó chủ đề biển đảo đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả
như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh…
2
Trần Đăng Khoa là một tác giả có một diện mạo riêng, khá độc đáo trong nền
thơ Việt Nam hiện đại. Thời niên thiếu với “Góc sân và khoảng trời” cánh thơ Trần
Đăng Khoa đã bay xa đến với mọi miền đất nước như biên cương, hải đảo để khai
thác những khía cạnh mới mẻ, khám phá, tìm tòi và trải nghiệm những điều thú vị ở
những địa hạt ít người đặt chân tới . Chủ đề biển đảo là cảm hứng chủ đạo làm nên
giá trị rất riêng của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Một trong những nơi nhà thơ hái
lượm được nhiều thi tứ nhất là Trường Sa, “cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu
ngầu bọt sóng” của Tổ quốc thân yêu.
Đọc chùm thơ viết về Trường Sa của Trần Đăng Khoa, người đọc bắt gặp nhà thơ
lúc này là anh lính Hải quân chững chạc, có lúc anh đứng bên “Cây bão táp đảo Nam
Yết” để cảm nhận nhựa sống dẻo dai, bền bỉ của nó, có lúc xao xuyến cùng “Cô tổng đài
hải đảo”, có lúc tếu táo, hóm hỉnh cùng “Lính đảo hát trường ca trên đảo”, có lúc khao
khát mong chờ đến rực cháy “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn”. Không gian sống cùng đồng
đội ở Trường Sa, Trần Đăng Khoa được tôi luyện dạn dày qua thời gian bám trụ giữa
bão táp phong ba. Thời gian ấy là quãng thời gian đáng nhớ trong cuộc đời của anh, khó
khăn thử thách chỉ giúp người lính tôi luyện và từ đó tình đồng đội, ý chí kiên cường,
lòng trung thành với Tổ quốc được soi sáng.
Khảo sát các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy chưa có nhiều luận văn,
luận án nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”. Chọn
đề tài: “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”chúng tôi muốn bước
đầu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những đặc điểm riêng biệt của đề tài
cũng như những đóng góp của tác giả với đời sống văn học đương đại. Đồng thời
đặt trong bối cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo và bảo vệ chủ quyền đất
nước đề tài góp phần khẳng định tình yêu biển đảo, yêu quê hương đất nước là một
mạch nguồn không bao giờ vơi cạn trong văn học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những bài nghiên cứu chung về Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ đặc biệt. Vì vậy có nhiều người yêu thơ,
nghiên cứu thơ, văn của anh cũng là điều dễ hiểu. Mỗi người một giọng điệu, một
cách hiểu, một thái độ.
3
Phương diện thứ nhất đề tài nghiên cứu những nhận định chung về Trần
Đăng Khoa. Những bài phê bình thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu được in trên nhiều
tờ báo, ta có thể kể đến một số bài viết sau: Đọc “Góc sân và khoảng trời”. In trên
báo Nhân dân số 7344(9/6/1974)của tác giả Phong Lan; đọc “Em kể chuyện này”
của Nguyễn Hồng Kiên, Cẩm Thơ, Trần Đăng Khoa in trên báo Văn Nghệ số
452(1972- tác giả Lê Đình Kỵ); đọc “Khúc hát người anh hùng” in trên báo Văn
nghệ số 29(1975- Bàng Sỹ Nguyên); đọc tâp thơ “Thư viết bên cửa sổ máy bay” in
trong tạp chí Văn nghệ Quân đội tháng 2/1987 - Hồng Diệu.
Nghiên cứu phê bình gần đây nhất viết về thơ Trần Đăng Khoa tương đối
đầy đủ phải kể đến cuốn “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” (Nhà xuất bản văn
hóa - Thông tin, tháng 3/2000 của nhà phê bình nghiên cứu Vũ Nho). Vũ Nho
được nghe nói về thơ Trần Đăng Khoa khi đang còn là một sinh viên của Đại Từ
(Thái Nguyên) với sự cảm phục, yêu mến. Cái tình ấy cứ theo ngày tháng mà sâu
đậm mãi thêm. Và rồi cuốn sách “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” đã ra đời.
Cuốn sách có 3 phần, phần 1 giới thiệu khái quát về thơ Trần Đăng Khoa, phần 2
là một số bài bình của tác giả về những bài thơ tâm đắc trong tập thơ như“ Trăng
sáng sân nhà em”, “Đánh thức trầu” “Sao không về vàng ơi”. Phần 3 là tập hợp
một số bài bình, nghiên cứu của một số tác giả về thơ Trần Đăng Khoa như
N.Niculin, Phạm Hổ, Tố Hữu, Xuân Diệu, Lại Nguyên Ân - Trần Đình Sử, Phạm
Khải, Lê Thường.
Trong Mạn đàm quanh “ Đảo Chìm” do Phong Điệp thực hiện in trên
Báo Văn Nghệ Trẻ số 14, đã ghi lại những nhận định của các nhà nghiên cứu phê
bình như sau:
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã nhận xét “ Đây là tập sách hay, được
viết trong một thời gian khá dài. Qua tập sách này càng chứng tỏ thêm về khả
năng văn xuôi của Trần Đăng Khoa, mà trước đây, Chân dung và đối thoại đã
nói đến điều đó. Hóm và sắc sảo – có thể nói ngắn gọn về văn xuôi của Trần
Đăng Khoa như vậy. Đảo chìm gồm nhiều bài nhỏ ghép lại được viết trong nhiều
năm. Trần Đăng Khoa đã trả được món nợ tinh thần với đồng chí, đồng đội
trong những năm anh ở Hải quân, ở đảo với các chiến sĩ”.
4
Nhà văn Lê Lựu nhận định rằng: “Tất cả những truyện viết trong Đảo Chìm,
Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần (!), nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy cái gì
như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như
thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe, kể đến thuộc làu rồi. Theo tôi Đảo Chìm là
thần bút, vì những chuyện thông thường, ai ra đảo cũng thấy thế hoặc không thấy thế
mà tự nhiên có và vẫn thấy như là có thật. Ví dụ như chuyện ông tướng ngồi gác, mổ
ruột thừa bằng panh sa lam có thể là Khoa bịa, nhưng vẫn chấp nhận được. Ý tưởng
của tác phẩm đã vượt ra ngoài những chuyện cụ thể, tưởng như rất vụn vặt. Chính vì
thế nó có sức hấp dẫn đối với bạn đọc. Và dù khắt khe thế nào, tôi vẫn phải đánh
giá đây là những trang văn tuyệt vời...”
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến cho rằng “Trần Đăng Khoa đã chứng tỏ mình
là một người lính thực sự. Anh khai thác đời sống những người lính đảo một
cách tài tình, giúp người đọc hiểu được những khó khăn vất vả nơi đây, đồng
thời biết yêu thương, kính trọng họ một cách tự nhiên, chân thành. Tôi đã đọc
Đảo Chìm liền một mạch và không nhận thấy bất khiếm khuyết nào trong tập
sách này. Nếu tôi tỉnh táo hơn một chút, bớt Yêu, bớt Phục, bớt Tin Khoa đi một
chút, chắc chắn sẽ nhận ra khiếm khuyết trong văn của anh”.
Nhà phê bình Ngô Vĩnh Bình cũng đánh giá rất cao về Trần Đăng Khoa: “
Có thể nói, Khoa có cái nhìn khác người, và đặc biệt là rất sâu sắc. Chính vì thế
phần lớn các truyện trong Đảo Chìm viết từ trước đây rất lâu ( thậm chí 15 – 20
năm) nhưng đến nay vẫn mang được tính thời sự của nó. Cho rằng Khoa may
mắn hơn người khác bởi được sống trong một vùng đất “hay” như thế...cũng
không sai. Nhưng nếu không có tài năng văn chương thì tất cả tư liệu quý giá ấy
cũng không thể thành “thời sự” được và không thể cuốn hút được người đọc đến
như thế...”[19].
Qua các nhận định, đánh giá phê bình chúng tôi nhận thấy rằng những bài
viết đi sâu phân tích về biển đảo trong các sáng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa
không nhiều, còn tản mạn chưa sắp xếp thành hệ thống. Tiếp thu và phát triển ý
kiến của những nhà nghiên cứu phê bình đi trước chúng tôi chọn đề tài “ Chủ đề
biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” làm đề tài nghiên cứu của mình
với mong muốn sự thành công của đề tài sẽ là động lực thúc đẩy mọi người
nghiến cứu sâu hơn, toàn diện hơn về mảng đề tài này trong các sáng tác của
Trần Đăng Khoa.
5
2.2. Những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo trong văn học hiện đại
Việt Nam
Phương diện thứ hai là những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo
trong văn học hiện đại Việt Nam. Ta có thể thấy trên các báo Thanh Niên, Biên
Phòng, Sài Gòn Giải Phóng…và các trang báo mạng xuất hiện một số bài viết bàn
về đề tài biển đảo trong thơ Việt Nam.
Trong bài Biển - đảo và tổ quốc trong thơ, tác giả Phạm Thị Phương Thảo
thấy rõ vị trí địa lý và lãnh thổ của Việt Nam - một đất nước có “bờ biển trải dài
theo hình chữ S” nên biển đảo là nơi “ gắn liền với những kỳ quan thiên nhiên của
thế giới bởi những vẻ đẹp và những kiến tạo độc đáo”. Nó không chỉ là “những vị
trí và dấu mốc quạn trọng trước lịch sử”, mà còn là “nguồn cảm hứng bất tận của
thi ca”. Tác giả bài viết còn khẳng định: “lãnh thổ Việt nam chúng ta bây giờ không
chỉ được trải dài từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, mà còn bao gồm cả vùng
trời, vùng biển và hải đảo được trải rộng từ Tây Trường Sơn sangĐông Trường Sa.
Do đó cần thấy rõ ranh giới và lãnh thổ của đất nước ta luôn gắn liền với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”[63].
Tác giả Nguyễn Viết Chính trong bài viết của mình Biển đảo - nguồn cảm
hứng vô tận cho thi ca và cho âm nhạc nhấn mạnh; “Đất nước Việt Nam thân
thương của chúng ta có đến 3670 cây số bờ biển, với hơn 1 triệuKm² diện tích nước
trên biển Đông và trên 4000 đảo chìm, đảo nổi lớn, nhỏ. Biển đã mang lại cho ta
tiềm năng vô tận và đông thời là nguồn cảm hứng cho các sáng tạo của văn học
nghệ thuật, trong đó có thơ ca và âm nhạc”[8]. Tác giả dẫn lời lý giải của nhà văn
Nguyễn Trí Huân về câu hỏi tại sao thơ ca và âm nhạc lại có nhiều tác phẩm viết về
biển như vậy: “Việt Nam là một dân tộc hướng ra biển. Biển “ nóng” lên thế nào,
đất liền cũng sẽ nóng lên như vậy Trên biển không chỉ có sóng, có gió mà có cả con
người - những con người hết sức đẹp đẽ. Trong nhiều năm qua, đã có hàng trăm
nhà văn, nhà thơ đến với Trường Sa, Hoàng Sa…Nhưng không chỉ có Trường Sa,
Hoàng Sa mà những hòn đảo khác nữa trong vùng biển thiêng liêng của tổ quốc
mãi sẽ là vấn đề lớn với thi ca bởi đó là máu thịt, là hương hỏa từ ngàn đời của ông
cha ta bao thế hệ”[8].
Đề tài nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” là
một đề tài khá mới mẻ. Tiếp thu những bài viết trên, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu
6
“Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”để có một cái nhìn toàn
diện về mảng đề tài này và trong văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở đó, chúng
tôi mong góp một tiếng nói nhỏ bé của mình để khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn
những đóng góp của Trần Đăng Khoa trong dòng chảy của văn học dân tộc, nhất là
trước những vấn đề thời sự hôm nay.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Người viết tập trung làm rõ những đặc điểm của thơ, văn viết về biển đảo
cũng như đóng góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong mảng đề tài này.
3.2.Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”
nhằm phát hiện những tìm tòi rất riêng của tác giả khi viết về biển đảo. Đặc biệt để
thấy được tiếng thơ khẳng định chủ quyền lãnh thổ, tình yêu cảnh trí non sông, tình
yêu thương con người. Từ đó khẳng định vị trí, phong cách tiêu biểu nhà thơ Trần
Đăng Khoa và những đóng góp của tác giả với nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu hành trình sáng tác, quan điểm nghệ thuật của nhà thơ
thể hiện qua các tác phẩm nổi bật. Luận văn hướng tới làm rõ chủ đề biển đảo là
cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác củaTrần Đăng Khoa, từ đó khẳng định những
đóng góp của Trần Đăng Khoa đối với văn học Việt Nam hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
chính sau đây
4.2.1. Phương pháp hệ thống
Với quan điểm mỗi sáng tác là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh
thể lớn hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích các biểu tượng nghệ thuật
người viết không đặt nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống
nhất với các yếu tố nghệ thuật khác để làm rõ hơn nội dung tác phẩm.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc
khảo sát tập thơ, người viết thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính
7
khải quát trong tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra
cảm hứng chủ đạo và các biện pháp tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở
này, chúng tôi tìm ra nét riêng, độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
4.2.3 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn. Chúng
tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đáng giá của các nhà phê bình nghiên cứu
cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản các bài thơ trong Tuyển tập
Trường Sa để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt hơn
cho đề tài.
4.2.4 Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những
điểm giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ khác viết cùng
chủ đề để qua đó có một cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng Khoa
và những đóng góp của tác giả cho nền văn học nước nhà.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi khảo sát tuyển tập
Trần Đăng Khoa - Tuyển tập Trường Sa, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, (2014)
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danhmục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1.Hành trình sáng tạo và sự hình thành chủ đề biển đảo trong sáng
tác của Trần Đăng Khoa
Chương 2. Sự thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa
Chương 3. Hình thức thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần
Đăng Khoa
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn tiếp tục đưa ra một hướng tiếp cận mới về chủ đề biển đảo trong
sáng tác của Trần Đăng Khoa và giải mã những mối liên hệ quan yếu giữa ý thức và
sáng tạo nghệ thuật cũng như việc lĩnh hội nghệ thuật. Đưa ra những kiến giải ban
đầu biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Trần Đăng Khoa.
8
Chương 1.
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa
1.1.1 Thời kì niên thiếu
Trần Đăng Khoa - thần đồng thi ca Việt Nam sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958
tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ
Trần Đăng Khoa đã lớn lên cùng những câu chuyện, những bài thơ ca cổ của người
mẹ tảo tần. Anh trai của Trần Đăng Khoa - nhà thơ Trần Nhuận Minh cũng là người
say mê văn học. Có lẽ vì vậy Trần Đăng Khoa khi học hết vỡ lòng đã rất thích đọc
sách và thuộc nhiều ca dao. Sáng tác của Trần Đăng Khoa cho đến thời điểm hiện
tại rất phong phú về thể loại: Thơ, văn xuôi, phê bình văn học, trường ca...Những
sáng tác đó có thể chia làm hai thời kì: Thời kì niên thiếu và thời kì trưởng thành.
Nói đến thơ thiếu nhi không thể không nói đến thơ thời niên thiếu của nhà
thơ Trần Đăng Khoa, người nổi lên như thần đồng thi ca của những năm 60 thế kỷ
XX. Nhà văn Đình Kính đã nhận xét về thơ Trần Đăng Khoa: “Thơ Trần Đăng
Khoa hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây sốc, không làm chúng ta khùng
nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ.”
Thời kì niên thiếu được tính từ khi Trần Đăng Khoa cho ra đời bài thơ Con
bướm vàng năm 1966. Lúc ấy cậu bé 8 tuổi Trần Đăng Khoa chỉ làm thơ một cách
ngẫu hứngcảm xúc đến với anh chân thật và giản dị. Anh từng tâm sự: “ Không biết
các nhà thơ khác làm thơ như thế nào? Còn tôi, bài thơ đến với tôi thường bất chợt.
Có khi đang ngồi nói chuyện với bạn tự dưng trong đầu nảy ra một ý gì đó mà mình
tự thấy hay hay. Cũng có khi đang đọc sách, gặp một chi tiết thú vị, rồi chi tiết đó
cũng gợi cho mình một cái tứ nào đó. Thế rồi bài thơ hình thành, bài thơ đầu tiên ra
đời trong những phút ngẫu hứng ấy”[40, tr.57].
Bài thơ Con bướm vàng là tác phẩm đầu tay của Trần Đăng Khoa nhưng đã
để lại một ấn tượng mạnh mẽ về một giọng thơ trong sáng, hồn nhiên và chân thành.
Nối tiếp sau thành công đó là sự nở rộ của cảm xúc và tài năng Trần Đăng Khoa
9
bằng việc ra đời hàng loạt các bài thơ có giá trị như Chiếc ngõ nhỏ, Trăng sáng sân
nhà em, Trông trăng, Bên kia sông Kinh Thầy, Ảnh Bác, Hạt gạo làng ta, Kể cho bé
nghe,...Những bài thơ ngộ nghĩnh nhưng cũng rất đỗi tinh tế ấy đến với người đọc
với một số lượng lớn. Ta có thể thấy rằng, cùng lứa tuổi với Trần Đăng Khoa cũng
có rất nhiều các bạn nhỏ làm thơ nhưng không phải ai cũng đạt được thành công
như Trần Đăng Khoa, thành công của Trần Đăng Khoa đó là cách cảm nhận những
điều tồn tại xung quanh mình qua lăng kính trẻ thơ, ngây thơ, ngộ nghĩnh, nhưng
quan sát tinh tế, liên tưởng độc đáo và thú vị đưa người đọc đi từ bất ngờ này tới bất
ngờ khác.
Thời kì niên thiếu là thời kì của một tài năng nở rộ, thăng hoa về cảm xúc,
quãng thời gian rực rỡ của Trần Đăng Khoa. Thời thơ ấu tôi và bạn bè đã đọc thuộc
lòng những câu trong Nghe thầy đọc thơ, Hạt gạo làng ta...Mặc dù chưa hiểu hết
được hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn cảm nhận được một cái gì đó
rất gắn bó, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được tác giả của những vần thơ đã đi
theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng thú vị khi biết rằng những
bài thơ đó được sáng tác khi tác giả còn rất nhỏ. Đọc thơ của Trần Đăng Khoa thời
niên thiếu là một thế giới lung linh đầy màu sắc và ánh sáng, ngộ nghĩnh và đáng
yêu mở ra. Thế giới ấy được soi chiếu qua lăng kính trẻ thơ, trong sáng đến kì diệu,
hồn nhiên đến ngộ nghĩnh thơ ngây, sống động đến bất ngờ. Trong thế giới đó ẩn
chứa rất nhiều những hình ảnh điển hình của làng quê Việt từ mảnh vườn, cánh
đồng, cánh cò, dòng sông, cho đến những cây trồng, con vật bé nhỏ, bạn của trẻ con
nhà nông như chú dế, con giun, con kiến, con trâu, con cua, bờ rào, cây chuối, cây
bưởi...Đối với Trần Đăng Khoa tất cả đều trở nên có hồn, tất cả ngộ nghĩnh, đáng
yêu. Trần Đăng Khoa đã thổi linh hồn của cuộc sống khiến cho những vật vô tri vô
giác ấy trở thành thế giới trong trẻo của riêng anh. Độc giả như đắm chìm vào thế
giới ấy khi đọc thơ Trần Đăng Khoa.
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
Trâu ơi uống nước nhá
10
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ.
(Con trâu đen lông mượt)
Cánh đồng là không gian khá quen thuộc đối với làng quê người Việt, đó
không chỉ là không gian sản xuất nông nghiệp mà còn là không gian rất riêng của
đám trẻ thôn quê sau giờ học tập với những trò chơi dân gian thả diều, bắt bóng,
chơi quay, chọi dế. Một không gian rộng mở cho những ước mơ bay xa.
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Hạt gạo có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với cư dân nông nghiệp lúa
nước. Trong thời chiến hạt gạo càng thêm phần giá trị. Hạt gạo“gửi ra tiền tuyến -
gửi về phương xa”. Trần Đăng Khoa đã hiểu rất rõ điều này không hào nhoáng mà
rất chân thật những nỗi vất vả của người dân lao động quanh năm chân lấm tay bùn
và sự khắc nghiệt của khí hậu thời tiết cũng được tác giả khắc họa.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
...Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy...
(Hạt gạo làng ta)
11
Không chỉ sáng tác những bài thơ ngộ nghĩnh con trẻ, chúng ta còn nhận
thấy một Trần Đăng Khoa suy tư, chiêm nghiệm người lớn trước tuổi. Khi Trần
Đăng Khoa viết về chú bộ đội, những anh hùng trong thời chiến.
Có qua những cuộc đấu tranh
Máu người đổ xuống mới thành núi sông
Đẹp sao dòng máu anh hùng
Lại từ sông núi chảy trong tim người
(Khúc hát người anh hùng)
Qua tấm gương anh hùng Mạc Thị Bưởi tác giả thể hiện lòng biết ơn, tự hào
về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Có máu và nước mắt
đổ xuống để dựng lên tượng đài bất diệt về lòng yêu nước của dân tộc.
Có ai có thể nhận ra tác giả của những dòng thơ chiêm nghiệm này lại là một
cậu bé mười hai tuổi khi viết về người mẹ của mình.
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
(Mẹ ốm)
Cậu bé Trần Đăng Khoa không chỉ có tố chất thơ ca mà còn là một tâm hồn
rung động tinh tế, nhạy cảm. Cảm nhận sự vật tồn tại xung quanh mình nhẹ nhàng,
chậm dãi. Những sự vật tưởng chừng rất đỗi tầm thường dưới sự quan sát tỉ mỉ của
Trần Đăng Khoa nổi bật lên ý nghĩa sâu sắc, làm lay động lòng người.
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
(Khúc hát người anh hùng)
Hay
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
(Đêm Côn Sơn)
12
Điều này đã khiến nhiều nhà thơ thuộc thế hệ đàn anh có tuổi đời, tuổi
nghề và vị thế vững chãi trong làng văn thời ấy đưa ra nhận xét về Trần Đăng
Khoa như sau: “Tinh hoa văn học của một dân tộc đã dồn đúc vào một số ít
người, trong đó có Khoa. Giời đã mượn cái miệng trẻ con để làm thơ cho người
lớn đọc. Không hiểu sao một chú bé tám tuổi lại có được những câu thơ như
vậy. Đó là câu thơ của Giời”[59,tr.117].
Có thể thấy rằng, thời niên thiếu Trần Đăng Khoa đã nhanh chóng gặt hái được
nhiều thành công, nền tảng vững chắc trên con đường sáng tạo nghệ thuật sau này của
mình. Chỉ trong vòng mười năm ngoài tập Góc sân và khoảng trời, Trần Đăng Khoa đã
xuất bản 4 tập trường ca: Khúc hát anh hùng, Trừng phạt, Làng quê, Đánh Thần Hạn.
Từ năm 1968- 1983 thơ của anh liên tục được xuất bản, thơ Trần Đăng Khoa khiến
không chỉ các em nhỏ mà bạn đọc xa gần đều đón nhận nhiệt tình, say mê.
Các tác phẩm thơ thời niên thiếu được xuất bản trong nước:
- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Hải Dương, 1968.
- Từ góc sân nhà em, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1968.
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1, Nhà xuất bản Hải Dương, 1970.
- Từ góc sân nhà em(Tập khác), Nhà xuất bản Hải Dương, 1972.
- Góc sân và khoảng trời (tập khác), Nhà xuất bản Kim Đồng, 1973.
- Khúc hát người anh hùng (trường ca),Nhà xuất bản Văn nghệ quân đội, 1974.
- Đánh Thần Hạn(trường ca), Nhà xuất bản văn nghệ, Hà Nội.
- Em kể chuyện này, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1977.
- Kể cho bé nghe, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1979.
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2, Nhà xuất bản Hải Dương, 1982.
- Thơ Trần Đăng Khoa, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1982.
- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1983.
- Hạt gạo làng ta, Nhà xuất bản Hải Hưng, 1983.
- Trần Đăng Khoa, Thơ với tuổi thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2007.
Các tác phẩm xuất bản ở nước ngoài
- Tiếng hát còn tiếp tục, xuất bản ở Pháp, năm 1971.
- Góc sân và khoảng trời, xuất bản tại Cuba, năm 1973.
- Cánh diều no gió, xuất bản tại Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1974.
- Com bướm vàng, xuất bản tại Hunggari, năm 1973.
13
Thơ Trần Đăng Khoa thể hiện một năng lực quan sát nhạy bén của tác giả đối
với cảnh vật và cuộc sống thôn quê. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa đã biết
chọn lựa nhiều cách biểu hiện khác nhau để khắc họa, miêu tả thế giới này phong phú,
đa dạng, ngộ nghĩnh và sinh động vô cùng: Nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ sử dụng
chính xác, gợi cảm khiến cho những hình ảnh vốn quen thuộc trở nên khác lạ, độc đáo,
đầy bất ngờ. Giọng thơ hồn nhiên trong sáng triết lí mà sâu sắc. Thơ thời niên thiếu của
Trần Đăng Khoa không xa lạ mà rất gần gũi quen thuộc, là sản phẩm của đôi mắt trẻ
thơ cộng tài năng thiên bẩm cùng sự học tập tìm tòi, sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ
thuật để từ đó giúp cho tác giả sáng tác lên những trang thơ thật hay. Một tài năng nở rộ
khi tuổi mới thiếu thời, trong khoảng thời gian ngắn Trần Đăng Khoa đã sáng tác một
lượng tác phẩm lớn tỉ lệ thuận với đó là giá trị mà các tác phẩm đó để lại trong lòng độc
giả. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh xưng “Thần đồng thi ca”. Tài năng hiếm có
không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.
1.1.2. Thời kì trưởng thành
Mùa xuân năm 1975 là cột mốc của dân tộc, cũng là cột mốc để đánh giá
sáng tác Trần Đăng Khoa. Thời kì trưởng thành của Trần Đăng Khoa được tính từ
khi anh nhập ngũ, chính thức trở thành người lính cụ Hồ năm anh mười bảy tuổi.
Khi đó anh đang học lớp 10 tại trường phổ thông Nam Sách. Nghe tiếng gọi của đất
nước, anh lên đường tham gia đợt Tổng động viên mùa xuân năm 1975. Và cũng kể
từ đó, Trần Đăng Khoa từ giã thời niên thiếu với thế giới mộng mơ của Góc Sân và
Khoảng Trời để sải đôi cánh của tuổi trẻ bay cao và bay xa với những ước mơ,
nhưng cũng thật nhiều gian nan và thử thách.
Em chẳng còn bé bỏng như xưa
Chiếc khăn quàng em đeo đã bắt đầu thấy chật
Những trang giấy cứ cồn lên mặt đất
Đường hành quân dẫn đến mọi chân trời
Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời
Là Tổ quốc đang một còn, một mất.
... Và sau này, nếu các anh gặp em
Không phải trong góc sân nhà ngồi ngắm trăng lên
Mà trong chớp đạn rực trời, cứ điểm thù tan rã
Thì điều ấy, chắc các anh không lạ.
(Thư thơ)
14
Về thơ Trần Đăng Khoa trước đây đã có phần chững chạc người lớn trước
tuổi. Tuy nhiên chỉ khi khoác lên mình bộ quân phục màu áo lính thì Trần Đăng
Khoa mới chính thức chuyển sang một giai đoạn mới đó là giai đoạn trưởng thành.
Từ giã quê hương thân yêu gắn bó bao ngày, từ giã “góc sân và khoảng trời”
nhà em, chàng trai Trần Đăng Khoa khi ấy mới 17 tuổi lên đường đi tới mọi miền tổ
quốc và tới cả nước Nga xa xôi mang theo khát vọng rực cháy, sức mạnh chiến đấu,
cống hiến cho non sông đất nước.
Hôm nay em đến giảng đường
Anh hằng khao khát
Thế hệ anh, mấy lớp người đi cứu nước
Có bao anh chưa được tới lớp mười
Có bao anh nằm lại dọc đường rồi
Bên con suối không tên, dưới ngọn đồi không tuổi
Có thể sau này em dẫn học trò tới
Chỉ thấy im lìm rừng xanh với núi xanh
(Gửi em gái)
Trong bài Ngày mai ra trận người đọc cùng hồi hộp, nín thở cảm nhận sự
căng thẳng của người lính
Nếu ngày mai chúng mình đều còn cả
Ta sẽ ôm nhau hát vang rừng
Cho mẹ chúng mình ở nhà đừng sốt ruột
Cho sông núi biết chúng mình là những thằng hai mươi
(Ngày mai ra trận)
Tuy nhiên nổi bật nhất trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết ở tuổi
trưởng thành là mảng đề tài người lính và cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Những
tác phẩm của anh thời kì trưởng thành chủ yếu được tập hợp trong tập Đi ngang qua
bão và sau này là Bên cửa sổ máy bay.Trong tập Bên cửa sổ máy bay gồm 3 cụm
chính. Một cụm là các bài thơ về tình yêu, một cụm thơ về đời sống bộ đội trên hải
đảo, một cụm suy ngẫm về cuộc đời, về thơ, về làng quê. Nhưng thú vị nhất vẫn và
cụm thơ viết về người lính trên đảo, Trần Đăng Khoa đã phác họa sự khó khăn,
15
thiếu thốn, hy sinh gian khổ của người lính thời bình. Ở nơi đó chỉ có đảo cá, đảo
chim...những người lính canh giữ lãnh hải tổ quốc thời bình ấy sống trong nhiều
khao khát: khát người, khát đất liền, khát nước ngọt. Qua đó ta thấy người chiến sĩ
không chỉ đấu tranh với kẻ thù mà còn đấu tranh với sự thiếu thốn về vật chất và
tinh thần đặc biệt là nỗi nhớ nhà và cái trơ trọi của một không gian ít bóng người để
biết mỗi người lính ấy họ đã hi sinh nhường nào. Trong bài Lính đảo hát tình ca
trên đảo và Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn ta mới thấy rằng cảm xúc là rất thực và sâu,
truyền tải cảm động tình yêu Tổ quốc tha thiết của những người chiến sĩ nơi đảo xa.
Vừa buồn vừa vui, vừa tự hào vừa nghiêm trang nhưng cũng có khi đùa vui bỡn cợt.
Nếu như trước đây trong thơ Trần Đăng Khoa chỉ diễn tả cảm xúc một chiều như
nhớ chú bộ đội, thấy chú giản dị, mong một ngày chú về đánh bi với cháu... Nay
trong thơ Trần Đăng Khoa là sự giao hòa của những cảm xúc, trong bài Hát về một
hòn đảo là sự xuất hiện đối lập có và không. Hiện tại trên hòn đảo ấy chỉ có đá,
nước và mây trời nhưng sau này khi đảo chìm nhô lên, sẽ có sự sống con người và
có cả tình yêu. Hay trong bài Lính đảo hát trường ca trên đảo cũng nhấn vào hai nét
đối lập: Đảo đá hoang sơ và tiếng hát con người
Ngày mai đảo sẽ nhô lên
Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên
Có con đường cho anh đến với em
Có ngôi nhà dưới vòm cây mát
Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt vời nhất
Có thể gội đầu. Có thể uống no say
Có thể tặng nhau cả một giếng đầy
Hát lên đảo ơi, những niềm tin giản dị
(Hát về một hòn đảo)
Trong bài Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn là nỗi niềm đợi mưa, mong mưa, là
những cung bậc của sự mong đợi. Ở đó tâm thế người lính hiện lên không hề khô
cứng mà đầy lãng mạn tin yêu. Trần Đăng Khoa viết nhiều về sóng gió Trường Sa
nhưng không làm người chiến sĩ bị chìm lấp giữa thiên nhiên trái lại sóng gió được
làm nền cho bức tranh khắc họa chân dung lồng lộng của người chiến sĩ Trường Sa
16
Chúng tôi ngồi ôm súng đợi mưa rơi
Lòng thắc thỏm niềm vui không nói hết
Mưa đi! mưa đi! Mưa cho mãnh liệt
Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu
Hay mưa bụi.. Mưa li ti... Cũng được
Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Tất cả những điều này trước đây chưa xuất hiện trong sáng tác của anh, có lẽ
chính sự trải nghiệm, gian khổ những ngày tháng trong quân ngũ đã khiến cho thơ
anh trưởng thành hơn, lắng sâu hơn và suy ngẫm nhiều hơn.
Bên cạnh những sáng tác thơ, Trần Đăng Khoa còn rất hóm hỉnh, dí dỏm
trong cách viết văn xuôi, phê bình nghiên cứu văn học. Đảo chìm là một tập truyện -
kí của Trần Đăng Khoa viết từ cuối những năm 80. Tác phẩm được nhà văn Lê Lựu
đánh giá là “thần bút”và được bạn đọc yêu mến.
Cuốn sách chưa đầy 80 trang được tách tành 15 truyện ngắn độc lập kể lại
những câu chuyện người thật việc thật. Theo Trần Đăng Khoa, 15 truyện ngắn đó
xếp thành chuỗi thì thành một cuốn tiểu thuyết 15 chương. Cuốn sách ấy chưa đầy
80 trang nhưng có thể được coi là cuốn tiểu thuyết viết về Trường Sa nơi đầu sóng
ngọn gió. Những câu chuyện có vẻ như vỡ vụn, ghi chép tầm phào nhưng đều có
chủ đích của tác giả, với cảm xúc chân thành của một người lính. Đảo chìm đã
chứng tỏ sức mạnh kì diệu của con người và tình yêu tổ quốc mãnh liệt của người
lính. Có lẽ vì lẽ đó mà từ khi ra đời tới nay cuốn sách đã được in nối bản, tái bản
liên tiếp trong nhiều năm.
Cùng với Đảo Chìm, Chân dung và đối thoại còn khẳng định Trần Đăng Khoa
là một nhà bình luận văn học xuất sắc. Năm 1998 Trần Đăng Khoa cho ra đời tập Chân
dung và đối thoại gồm 23 bài viết và được bạn đọc đón nhận như một hiện tượng văn
học tạo lên một làn sóng dư luận sôi nổi với nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Với
Chân dung và đối thoại bạn đọc sẽ gặp lại Trần Đăng Khoa ở tuổi bốn mươi trong địa
17
hạt hoàn hoàn toàn mới, một vùng nghệ thuật khác. Nội dung của cuốn sách chính là
lao động của nhà văn và các vấn đề văn học đương đại. Trần Đăng Khoa không trình
bày các quan điểm một cách nguyên tắc mà cảm nhận theo cách của người sáng tác đã
có quá trình chiêm nghiệm về lao động nghệ thuật. Bên cạnh một Trần Đăng Khoa nhà
thơ, nhà văn còn có một Trần Đăng Khoa phê bình văn học độc đáo. Bằng nghệ thuật
khắc họa chân dung nhân vật, thể tài chân dung văn học trở lên gần gũi, bớt chất hàn
lâm, thêm chất thơ nên sinh động và dễ đi vào lòng người.
1.2.Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa
1.2.1.Nguồn cội văn học dân gian của quê hương
Bất cứ một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng đều có sự ảnh hưởng của
những nhân tố khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa cũng
không phải là một trường hợp ngoại lệ. Nhân tố có ảnh hưởng đầu tiên đến sự hình
thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa đó là nguồn cội văn học dân gian của
quê hương.
Tuổi thơ Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với quê hương ven bờ sông Kinh
Thầy, nơi được mệnh danh là cái nôi văn hóa phía Bắc. Chính nhờ cảnh sắc thôn
quê miền đồng bằng Bắc bộ, với hương đồng gió nội và tấm lòng chân thành, mộc
mạc mà giản dị của bà con nơi đây đã tạo điều kiện thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng
Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa kết trái. Như bao nhiêu thế hệ trẻ em sinh ra và
lớn lên ở thôn quê, từ khi nằm nôi, anh đã được đắm chìm trong dòng sữa văn học
dân gian của quê hương qua lời hát ru à ơi của bà, của mẹ, những câu hát dân ca,
những bài ca dao ngắn gọn mà thấu tình đạt nghĩa, không chỉ vậy mẹ của Trần
Đăng Khoa là người thuộc rất nhiều truyện Kiều. Bà và mẹ không chỉ là người sinh
ra và nuôi nấng Trần Đăng Khoa mà còn thổi vào tâm hồn anh tình yêu quê hương
xứ sở từ khi còn trứng nước. Phải chăng đây chính là cội rễ để ươm mầm một tài
năng thi ca? Một điều rất thú vị ở vùng quê Bắc bộ đó là các lễ hội làng mỗi độ
xuân sang, những tích chèo cổ như Quan âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lễ,
Hoàng Trừu, Tống Trân- Cúc Hoa, lại được chính những những người nông dân
chân lấm tay bùn trong làng đích thân thể hiện tự nhiên mà chân chất như chính con
người của họ vậy.
18
Kìa cô Thị Mầu lên chùa
Đỏng đảnh dáng đi mắt liếc
Ngắm cái tay cô phẩy quạt
Tưởng mình sống đã trăm năm.
...Người xem thoáng như quên chị
Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng
(Cô Thị Mầu)
Những điều này đã tác động mạnh mẽ đến hồn thơ của Trần Đăng
Khoa đặc biệt là đề tài về quê hương đất nước thường được bắt gặp trong thơ anh.
Đó không phải là cái gì chung chung to lớn mà gần gũi, bình dị. Tình yêu ấy gắn bó
với cuộc sống hằng ngày, gắn với thế giới kì diệu của anh, gắn với ý thức trách
nhiệm một người con của quê hương. Trong bài Hạt gạo làng ta thông qua qua hình
tượng hạt gạo đã cho chúng ta thấy quê hương là một điều trân quý, thiêng liêng
trong trái tim nhà thơ.
Hạt gạo làng ta.
Có vị phù sa,
Của sông Kinh Thầy.
Có hương sen thơm,
Trong hồ nước đầy.
Có lời mẹ hát,
Ngọt ngào hôm nay.
Hạt gạo làng ta như một khúc hát của tình yêu thương, ca ngợi những người
nông dân gian khổ.
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(Hạt gạo làng ta)
19
Cái nắng chói chang như muốn thiêu đốt tất cả. Sự đối lập giữa thiên nhiên
và con người. Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
(Ca dao)
Không gian làng quê là một không gian thân thuộc nơi đó có hương sen,
hương nhãn, cánh cò, con sông, ruộng lúa, con đò. Hình ảnh con cò xuất hiện nhiều
trong văn học dân gian như là một dấu hiệu về làng quê nông nghiệp với những con
người lam lũ, vất vả nơi ruộng đồng nhỏ bé trước cuộc đời mà hồn hậu trắng trong.
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non
Mình về nuôi cái cùng con
Để anh đi chẩy nước non Cao Bằng
(Ca dao)
Hay
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
(Ca dao)
Trong thơ Trần Đăng Khoa hình ảnh con cò có lúc nhạt nhòa hư ảo
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)
Nhưng cũng có lúc con cò mang nét riêng mới lạ trong thơ Trần Đăng
Khoa “đánh nhịp bay vào bay ra” như những“chớp trắng trên sông Kinh
Thầy”. Hình ảnh con cò không còn lẻ bóng đơn côi trong đêm tối mịt mờ mà
20
nay là sự xuất hiện trong bầy đàn, với không gian trời trong nắng đẹp yên ả,
thanh bình.
Em vẫn thấy
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa…
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)
Phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn và tài năng của mình Trần Đăng Khoa
đã học tập rất nhiều từ văn học dân gian. Những học tập đó được vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo điển hình trong bài Đám ma bác Giun.
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...
(Đám ma bác Giun)
Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng bài ca dao.
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
21
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.
(Ca dao)
Trần Đăng Khoa đã lấy cảm hứng sáng tác từ phần lời của bài ca dao trên để
vẽ lên một bức tranh dân gian Đám ma bác Giun nghe rất cổ điển nhưng cũng thật
khoa học nhờ sự quan sát tỉ mỉ đặc điểm riêng biệt của từng loại kiến.Trần Đăng
Khoa đã biết chắt lọc, học tập cái hay, cái tinh hoa của văn học dân gian, đặc biệt là
thể thơ, vần, nhịp. Thơ lục bát là một thể thơ của văn học dân tộc, được lưu truyền
trong văn học dân gian. Thể lục bát thường được sử dụng trong việc diễn tả cảm
xúc, thơ lục bát của Trần Đăng Khoa mượt mà mang âm điệu của ca dao thiết tha,
thanh thoát.
Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
Bố em xách điếu đi cày
Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau
Cậu mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ gà cục tác như điên
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi
Cái na đã tỉnh giấc rồi
Cu chuối đứng vỗ tay cười vui sao!
Chị tre chải tóc bờ ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
(Buổi sáng nhà em)
22
Những bài thơ hai chữ, ba chữ, bốn chữ lại là một cấu trúc câu ca quen
thuộc, cách gieo vần trong thơ Trần Đăng Khoa mang đậm chất đồng giao. Bài thơ
thể hiện cách gieo vần chân điển hình nhất là bài Kể cho bé nghe, Trần Đăng Khoa
đã phát hiện những tứ thơ độc đáo trong mỗi bài đồng dao và cũng thật khó phân
biệt đâu là đồng dao và đâu là thơ Trần Đăng Khoa.
Làng chim Kể cho bé nghe
Hay chạy lon ton Hay nói ầm ĩ
Là gà mới nở Là con vịt bầu
Cái mặt hay đỏ Hay hỏi đâu đâu
Là con gà mào Là con chó vện
Hay bơi dưới ao Hay chăng dây điện
Mẹ con nhà vịt Là con nhện con
Hay la hay hát Ăn no quay tròn
Là con bồ nhao… Là cối xay lúa…
Một số bài được gieo vần lưng và vần chân
Bốn bề lên hương
Dịu mát bờ sương
Thoảng hơi gió nhẹ
Vầng trăng mới hé
Làn mây trong ngần
(Hương đồng)
Đặc biệt chúng ta nhận thấy có những bài không phân thành khổ thơ, đúng
với nét đặc trưng của đồng dao: Kể cho bé nghe, Mặt bão, Chụp ảnh…Những ngày
thơ bé Trần Đăng Khoa đã nhận được sự yêu thương, vỗ về dạy bảo từ bà, cùng
những câu chuyện lời ru của bà. Bà chắc hẳn đã căn dặn cậu bé Trần Đăng Khoa
bằng những câu đồng dao sau:
Trẩu trẩu trầu trầu
Mày làm chúa tao
Tao làm chúa mày
Tao không hái ngày
Thì tao hái đêm
(Đồng dao)
23
Phải chăng chính những lời đồng dao này là nguồn cảm hứng cho bài thơ
Đánh thức trầu
Đã ngủ rồi hả trầu
Tao đã đi ngủ đâu
Mà trầu mày đã ngủ
Bà tao vừa đến đó
Muốn có mấy lá trầu
Tao không phải ai đâu
Đáng thức mày để hái!
(Đánh thức trầu)
Cách mượn lời đồng dao của Trần Đăng Khoa không hề rập khuôn máy móc
mà đầy tính sáng tạo, lời đồng dao là điểm tựa là nguồn cảm hứng cho hồn thơ Trần
Đăng Khoa thăng hoa.
Thành công của Trần Đăng Khoa có sự đóng góp không nhỏ nguồn cội văn
học dân gian quê hương. Điều ấy đã giúp cho sáng tác của Trần Đăng Khoa trở nên
gần gũi hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.Văn học dân gian đã góp phần khơi nguồn cảm
hứng làm cho nhà thơ làm nên một phong cách độc đáo, sáng tạo.
1.2.2. Truyền thống gia đình
Gia đình có vai trò rất lớn trong việc ươm mầm tài năng thi ca Trần Đăng
Khoa. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn học. Nguyễn Hà (ông bác
của Trần Đăng Khoa kể): “ Có năm, triều Cảnh Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh
em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm bốn, trong đó cụ Trần Nhuận
Minh Phủ là nhà thơ” [11, tr.217].Một trong những yếu tố hun đúc lên hồn thơ trần
Đăng Khoa đó là truyền thống gia đình.Anh trai Trần Đăng Khoa là nhà thơ Trần
Nhuận Minh có năng khiếu và yêu thích văn chương. Trần Nhuận Minh rất thích
làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình một thế giới tri thức riêng trong căn
nhà bé nhỏ. Thư viện bé nhỏ của Trần Nhuận Minh có rất nhiều sách như tiểu
thuyết Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng, Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng,
Truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ và đen của Stendhal... Ngay từ nhỏ Trần Đăng Khoa
đã yêu thích và lớn lên bên thư viện nhỏ của anh trai mình. Anh trai của Trần Đăng
24
Khoa là một thầy giáo, một nhà thơ mà Trần Đăng Khoa hết sức ngưỡng mộ. Tuy anh
ở xa và khá lâu mới về thăm nhà nhưng tình cảm mà cậu bé Khoa dành cho anh trai
của mình rất sâu đậm. Anh Minh không chỉ là anh mà còn là người bạn thân thiết của
Trần Đăng Khoa. Từ những đồng lương giáo viên ít ỏi anh mua tặng những quyển
sách cho em, góp ý giúp em những bài thơ mới sáng tác. Trần Đăng Khoa sau này có
làm bài thơ Gửi bác Trần Nhuận Minh đầy tình nghĩa trong đó có câu:
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng
Cậu bé Trần Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ và độc giả đầu tiên
của anh lại là cô em gái yêu văn chương – bé Thúy Giang. Em gái Khoa, bé Giang
cũng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Trần Đăng Khoa.
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau lấm người
Ốm đau là mất đi chơi
Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng
Mẹ cha bận việc ngày đêm
Anh ngồi trong lớp lo em ở nhà
(Dặn em)
Thúy Giang rất thích nghe thơ của anh trai, bé đọc đi đọc lại cho bạn bè
nghe. Điều đó đã giúp cho mọi người biết đến thơ Trần Đăng Khoa. Mọi người liên
tục đến nhà xem cậu bé ấy là ai, có người còn tới nhà cùng ăn ở và học tập với cậu
bé ấy để kiểm chứng tài năng của cậu bé và rồi tất cả đều công nhận đây là một
“thần đồng thi ca”.
Cũng từ đây, gia đình trở thành một chủ đề lớn trong sáng tác của anh. Trần
Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của mình. Nhưng gắn bó với Trần Đăng
Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố mẹ, anh Minh, bé Giang. Tất cả những người
này đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng thơ Trần Đăng Khoa. Ngay từ những tác
phẩm đầu tay của anh đến sau này tình cảm gia đình luôn là tình cảm ấm áp, nồng
đượm, da diết trong anh. Trong sáng tác của Trần Đăng Khoa tình cảm được nhắc
nhiều là tình cảm của ông bà, cha mẹ đối với con cái và tình cảm của những đứa
con ngoan, hiếu thảo đối với cha mẹ.
25
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
(Khi mẹ vắng nhà)
Vì yêu thương mẹ ốm, cậu bé Khoa đã xiết bao lo lắng
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
(Mẹ ốm)
Không chỉ có mẹ, hình ảnh bố hiện lên trong thơ anh là một người nông dân
quanh năm chân lấm tay bùn nhưng nghiêm khắc, yêu lao động với tâm thế vững
vàng, trong niềm yêu thương kính trọng của các con
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa
(Mưa)
Trần Đăng Khoa lớn lên bên lời ru của bà. Hình ảnh người bà thân thương
tần tảo cần mẫn, giàu đức hi sinh xuất hiện nhiều trong thơ anh. Bà gắn liền với câu
hát à ơi, cánh cò chớp trắng, những câu chuyện cổ thần kì:
Con cò trong câu ca dao
Bay vào giấc ngủ trắng phau giọng bà
(Hoàng Hiếu Nhân)
Bên cạnh tình cảm con cái dành cho bố mẹ, anh trai dành cho em gái, thơ
Trần Đăng Khoa còn là tình cảm chân thành của người em đối với anh trai, thương
anh, nhớ anh, miền đất anh đang sống cũng trở lên gần gũi thân thương.
Ôi miền đất anh đang sống
Nghe sao mà giản dị thân thương
(Nhận thư anh)
Nhờ có tình yêu thương xuất phát từ sâu thẳm trái tim của mình đã đem đến cho
nhà thơ Trần Đăng Khoa những câu thơ hay, thấm thía và lay động lòng người đến thế.
1.2.3. Ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ Việt Nam hiện đại
Truyền thống gia đình và nguồn cội văn học dân gian của quê hương là hai
yếu tố đã ươm mầm tài năng văn chương của Trần Đăng Khoa. Nhưng bên cạnh đó
26
Trần Đăng Khoa còn nhận được sự hướng dẫn, dìu dắt của những nhà thơ bậc thầy
trong làng thơ hiện đại Việt Nam như thầy giáo Lê Thường, nhà thơ Trần Nhuận
Minh, nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên. Người thầy đầu tiên có
sự ảnh hưởng lớn với anh là thầy giáo Lê Thường (là thầy dạy nhà thơ Trần Nhuận
Minh - anh trai Trần Đăng Khoa) được Ty giáo dục Hải Hưng cử về để hướng dẫn
chỉ bảo Trần Đăng Khoa trong việc sáng tác. Anh đã sáng tác bài thơ Nghe Thầy
đọc thơ như một sự tri ân người thầy mà anh rất mực kính trọng này:
Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa
(Nghe Thầy đọc thơ)
Đặc biệt năm 1968 Trần Đăng Khoa được gặp nhà thơ Xuân Diệu - Ông
hoàng thơ ca Việt Nam. Chính Xuân Diệu đã góp phần định hình, nâng tầm giúp
Trần Đăng Khoa trở thành một thần đồng thi ca. Khi nghe tin về một chú bé có tài
sáng tác Xuân Diệu đã lặn lội về tại quê hương của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Xuân
Diệu đã trở thành người thầy dạy nghề nghiêm khắc nhưng mật thiết gần gũi của
Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Xuân Diệu đã giúp Trần Đăng Khoa ý thức được rằng
văn chương không phải là sự dong chơi nhàn nhã, thơ cần có tính chân thực chứ
không phải là sự sao chép nguyên văn ở đó là sự sáng tạo, linh hoạt nghề thơ văn
cũng lắm công phu: “Là một công việc sáng tạo cực nhọc nếu không muốn nói là
khổ ải.”[62, tr.156]. Hầu như các sáng tác của Trần Đăng Khoa đều được Xuân
Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến. Xuân Diệu thường đưa ra những nhận xét xác
đáng cho Trần Đăng Khoa, không dông dài mà ngắn gọn nhưng hàm xúc tỉ mỉ. Nhà
thơ thường góp ý về tứ thơ hay sáng tạo từ ngữ. Trần Đăng Khoa chịu ảnh hưởng
sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này.
Những bài thơ như Hạt gạo làng ta, Thơ tình người lính biển, Đêm Côn Sơn,
Tiếng nói... đều được Xuân Diệu đóng góp sửa chữa. Có lần Trần Đăng Khoa gửi
cho nhà thơ Xuân Diệubản thảo của bài Hạt gạo làng ta như sau:
27
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về muôn phương xa
Làm nên chiến trường
Làm nên niềm vui
Các cô các bác
Đừng để gạo rơi
Nhà thơ Xuân Diệu sau khi đọc đã góp ý câu Đừng để gạo rơi. Trần Đăng
Khoa đã nghiêm túc tiếp thu và sửa đổi khiến cho câu kết của bài thơ trở nên mềm
mại hơn.
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta
(Hạt gạo làng ta)
Vậy nhưng nhà thơ Xuân Diệu cũng vui và biểu dương Trần Đăng Khoa khi
anh có những tứ thơ hay như bài Em dâng cô một vòng hoa, Bến đò, Tháng ba...
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
(Đêm Côn Sơn)
Câu thơ tinh tế xúc động, sự tinh tế ấy đan xen với sự cẩn trọng trong từng
câu chữ nhưng cũng đầy tình yêu thương và tinh thần trách nhiệm của Xuân Diệu
đã giúp Trần Đăng Khoa trưởng thành và tiến xa hơn trên con đường chinh phục,
sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ tận tâm chỉ dạy Trần Đăng Khoa
mà còn giới thiệu thơ anh với độc giả trong nước và quốc tế. Tháng 12 năm
1968“Đài Truyền hình Pháp đã phát một tiết mục đặc biệt giới thiệu nhà thơ tí hon
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cuốn phim Thế giới nhỏ của em Khoa được
nhận giải thưởng mang tên Paul Vailland Couturier”[58, tr.202]. Nói về những
người có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp sáng tác của anh như một sự tri ân Trần Đăng
Khoa đã thổ lộ: “ Hai nhà thơ có ảnh hưởng sâu sắc nhất với tôi: Một nhà thơ Trần
Nhuận Minh, anh ruột tôi.Anh làm ca dao thơ phú hò vè phục vụ làng xã từ lúc tôi
28
mới ra đời. Việc làm của anh mở ra trước mắt tôi một con đường và tôi đã đi trên
đó từ lúc nào không biết...Hai là nhà thơ lớn Xuân Diệu, thầy dạy nghề của tôi,
người luôn đòi hỏi tôi phải lao động, lao động và lao động...Tôi cũng ghi lại đây
lòng biết ơn các thầy cô giáo, các nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình, anh
chị biên tập và xuất bản sách...[59, tr.6]. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của những bậc
đàn anh đi trước cộng với sự nhạy cảm, thông minh và tinh thần ham học hỏi, rèn
luyện của bản thân đã giúp cho tài năng của Trần Đăng Khoa thăng hoa nở rộ.
1.2.4. Không khí sáng tác thơ ca thời chống Mĩ cứu nước
Yếu tố thời đại có tác động rất lớn đối với những trang sáng tác của tác giả.
Trần Đăng Khoa sinh ra trong thời chiến, hòa cùng không khí sục sôi đánh Mỹ của
cả dân tộc. Mỗi người Việt Nam lúc này như đặt trên vai hai nhiệm vụ vừa sản xuất
vừa chiến đấu, phục vụ cho hậu phương và tiền tuyến. Hơn bao giờ hết tinh thần
yêu nước, trách nhiệm công dân cần đề cao như lúc này. Không đứng bên ngoài thời
cuộc các nhà văn nhà thơ cũng dùng ngòi bút sắc bén của mình, dùng tâm huyết để
viết về thời đại.
Các nhà thơ lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng đóng
góp tiếng nói của mình vào cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhà thơ
Chế Lan Viên đã từng viết “Phá cô đơn ta hòa hợp với người”. Bên cạnh những
nhà thơ đi trước đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như nhà thơ
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông thì các nhà thơ trẻ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mỹ như Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Phạm Tiến Duật, Vũ
Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Xuân
Quỳnh... cũng nhanh chóng dàn thế trận trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Khi đế
quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc năm 1964 cuộc kháng chiến của cả dân tộc
bước sang một giai đoạn căng thẳng mới. Sáng tác của thế hệ nhà thơ trẻ mang tới
một luồng gió của tuổi trẻ, của tinh thần rạo rực chiến đấu.Thơ ca nhanh chóng
nhập cuộc với thời đại, mặt trận ngày càng ác liệt thì không khí sáng tác ngày càng
sôi nổi, độc đáo thể hiện ý chí của thế hệ trẻ. Ý chí đó được kết tinh từ truyền thống
cha anh đi trước nâng tầm lên trở thành hào khí dân tộc, niềm kiêu hãnh về lịch sử
của đất nước. Tuy mang trong mình hơi thở của thời đại nhưng mỗi nhà thơ cũng
đều có một phong cách rất riêng. Nếu như Lê Anh Xuân “Tạc vào thế kỉ” bởi Dáng
dứng Việt Nam. Thanh Thảo cứng cỏi, từng trải với “ Những tráng ca thuở trước”
29
thì Hữu Thỉnh lại dứt khoát, sôi nổi “Muốn tự hát hãy là dòng suối - Hát về mình
đừng bắt chiếc tiếng chim”. Trần Đăng Khoa dường như là nhà thơ trẻ nhất, cũng
như một dòng suối nhỏ đổ về biển lớn những sáng tác của anh là dòng suối ngọt
ngào, tưới mátnhững miền đất khô cằn khi nó chảy qua, dòng suối ấy ngân những
khúc hát du dương về người lính, về những hy sinh cho tổ quốc của bao lớp người
đi trước. Nguyễn Bùi Vợi đã nhận xét về Trần Đăng Khoa như sau: “ Trong thời
điểm cả nước dồn sức đánh Mỹ, trẻ con cũng già đi trước tuổi, các em không được
sống hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà
còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp nhận không khí chính trị, không
khí xã hội một cách nhạy bén”[59, tr.182].
Nối tiếp thế hệ đi trước, Trần Đăng Khoa hòa chung không khí sáng tác thơ
ca thời chống Mỹ cứu nước. Anh đã có nhiều sáng tác hòa nhịp trong nguồn cảm
xúc về đề tài chiến tranh. Những sáng tác của anh khai thác mảng đề tài này nhưng
không hề gò bó, khô cứng, mà nhạy bén, ngộ nghĩnh chứa đầy xúc cảm.
Em biết sáng nào bom Mỹ dội
Phượng đỏ ngổn ngang mái trường tốc ngói
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi
Thầy cầm súng ra đi
Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
(Bàn chân thầy giáo)
Trần Đăng Khoa được tắm mình trong ánh hào quang thời đại chống Mỹ
Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời
Là Tổ quốc đang một còn một mất
(Thư thơ)
Trong thời đất nước đứng lên như thế hồn thơ anh như một hiện tượng lạ.
Hồn thơ ấy nói lên tiếng nói chung cho cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng
hộ và ngưỡng mộ. Nhờ có tố chất văn chương, sự chăm chỉ học tập trau dồi của bản
thân, cộng với cội nguồn văn học dân gian của quê hương, truyền thống từ gia đình,
sự ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ hiện đại Việt Nam hòa chung
không khí sáng tác thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước là những tác nhân
quan trọng để hình thành hồn thơ Trần Đăng Khoa.
30
1.3. Những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa
1.3.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, thống nhất hai miền Nam
Bắc. Đất nước bước vào một giai đoạn mới giai đoạn khôi phục và phát triển. Thời
cơ và thuận lợi đã đến nhưng khó khăn cũng còn rất nhiều. Hậu quả của hai cuộc
chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc vô cùng to lớn. Chiến tranh tàn phá đô
thị, làng mạc, giao thông, trường học, bệnh viện...Môi trường bị hủy hoại nặng nề
bởi hàng triệu tấn bom mìn cùng chất độc màu da cam. Kinh tế từ thời chiến sang
hòa bình, từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan hệ về chính trị, kinh tế hầu như chỉ khép kín
trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đến chủ trương mở cửa hội
nhập cùng thế giới những điều đó tất yếu sẽ kéo theo sự đổi thay về mặt văn hóa -
xã hội thời kì hậu chiến.Trước những đòi hỏi đó văn học cần phải đổi mới mình
tương ứng với trạng thái xã hội - lịch sử ấy, một sự đổi mới dứt khoát và mạnh mẽ
bởi văn học luôn là tiếng nói của thời đại
Trong chiến tranh giữ nước, sức mạnh của tinh thần yêu nước và ý thức cộng
đồng được phát huy cao độ, cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người thu hẹp đến
tối thiểu, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của cả dân tộc. Đặc điểm nổi
bật nhất của văn học 1945 - 1975 là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Đây là nền văn học phục vụ cho công cuộc cách mạng. Lúc này, văn học là vũ khí
đấu tranh làm nhiệm vụ chiến đấu, hướng tới mục tiêu tất cả cho chiến thắng. Đây
là giai đoạn bão táp nhất của lịch sử dân tộc, vì thế văn học cũng sôi nổi và hào
hùng hơn bao giờ hết. Tất cả những vụn vặt của đời sống bình thường đều bị gác
lại, văn học hướng đến mục đích chung của Tổ quốc, theo sát từng nhiệm vụ chính
trị của đất nước: Ca ngợi cách mạng và cuộc sống mới, cổ vũ kháng chiến, ngợi ca
thành tựu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cổ vũ cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Giai đoạn này, nhân vật trung tâm
của văn học là những người có sự kết tinh các phẩm chất cao quý của cộng đồng,
gắn bó số phận mình với số phận đất nước. Đó là những người anh hùng đại diện
cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại.
31
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lúc đó và do yêu cầu của thời đại nên văn học thời kì
này chưa phản ánh được mối quan hệ đa chiều, đa diện của hiện thực cuộc sống. Bao
mất mát đau thương, bao tiêu cực, sai sót… bị bỏ qua. Đó cũng chính là sự hạn chế
của văn học thời kì này. Hạn chế của văn học giai đoạn 1945 - 1975 đã được nền văn
học sau 1975 khắc phục. Với nguyên tắc “tôn trọng sự thật”, văn học thời kì này xem
sự thật như linh hồn của nghệ thuật chân chính, hướng đến phanh phui các mặt trái
của xã hội, của lòng người. Điều nổi bật văn học thời kì này là đã đi sâu vào số phận
của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê, phản ánh sâu sắc những tổn thất cả về
vật chất lẫn tinh thần mà con người phải chịu dù chiến tranh đã đi qua. Từ sau 1975,
văn học đã có sự đổi mới sâu sắc trong quan niệm phản ánh hiện thực. Ta có thể thấy
điều này trong sự đổi mới về đề tài, nội dung, chủ đề của các tác phẩm.
Nếu văn học giai đoạn 1945 - 1975 thường đề cập đến những con người tiêu
biểu cho cộng đồng, thường nói đến cái chung mà ít đề cập đến cái riêng, kể cả vấn đề
riêng tư nhất là tình yêu đôi lứa cũng được đặt trong tình yêu chung - tình yêu Tổ quốc
thì văn học từ 1975 đến nay lại tập trung đi sâu phản ánh đời sống nội tâm, số phận của
con người cá nhân thông qua các mối quan hệ của họ trong cộng đồng. Có thể kể đến
các tác giả như Thu Bồn, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dư Thị Hoàn,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng...
Tháng 02 năm 1975, Trần Đăng Khoa chia tay các thầy cô lên đường nhập
ngũ, sau khóa huấn luyện anh trở thành bộ đội Hải quân. Trở thành người lính đã
từng có mặt ở 25 hòn đảo lớn nhỏ, Trần Đăng Khoa vừa trực tiếp chiến đấu vừa nói
hộ nỗi lòng của bao người lính trên đảo. Sáng tác của Trần Đăng Khoa lúc này đã từ
góc sân nhà em bay tới hải đảo tổ quốc. Bước vào đời sống quân ngũ Trần Đăng
Khoa đã được nếm trải và thấu hiểu nỗi gian khổ của cuộc đời nhà binh. Các anh
luôn phải đối mặt với những hiểm nguy rình rập. Mỗi người lính đảo như cây bão
táp giữa phong ba, kẻ thù và đời sống khắc nghiệt trên đảo đầy thiếu thốn ngay cả
giọt nước ngọt cũng trở lên xa xỉ làm sao.
32
Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương đầy gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong trái tim người.
...Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ
Rồi kháo nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
Ôi ước gì được thấy cơn mưa
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Trong gian khổ anh nhìn vào đồng đội mình những chiến sĩ với tuổi trẻ đã hy
sinh rất nhiều cho tổ quốc. Những người lính thời bình gian khổ thử thách nhưng
đời sống tâm hồn phong phú.
Đất nước không giặc
Tưởng về gần mà xa
Vẫn gian nan làm bạn
Vẫn sương gió làm nhà
(Lính thời bình)
Trần Đăng Khoa vẫn luôn có những tố chất đặc biệt, anh được đào tạo cơ
bản để trở thành một nhà thơ tài năng nên khi ở Trường Sa nhà thơ nảy sinh những
cảm hứng mãnh liệt về biển, đảo đất nước có lẽ cũng là điều dễ hiểu. Phải chăng
những năm tháng rời xa làng quê thân thuộc tới sống, chiến đấu cùng đồng đội trở
thành anh lính đảo tại Trường Sa và sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã giúp nảy
sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa.
Chúng ta có thể thấy hình tượng nhân vật trữ tình trong sáng tác của anh tỏa
sáng vẻ đẹp lí tưởng của những người lính trẻ trong giai đoạn đất nước sang trang.
Chân dung người lính được phản ánh toàn diện, chân thực cuộc sống và tâm hồn
người chiến sĩ ở thời kì sau những năm chống Mỹ. Khác trước đây, những câu thơ
Trần Đăng Khoa viết về người lính làm ở độ tuổi lên tám lên mười thì nay người
lính ấy được soi chiếu đa chiều, trong chiến đấu, lúc bình yên, khi sôi nổi lúc trầm
33
lắng. Từ đó nhận ra đời sống nội tâm phong phú của họ, trong sáng, lạc quan nhưng
không đơn điệu tẻ nhạt, họ vừa trẻ trung, tếu táo vừa chín chắn sâu sắc của lớp
thanh niên có lí tưởng đẹp, tự hào về đất nước và nhiệm vụ được giao phó. Trần
Đăng Khoa đóng góp vào nền văn học Việt Nam bức chân dung sáng tạo về người
lính góp phần làm phong phú thêm những sáng tác về chủ đề biển đảo trong văn học
Việt Nam.
1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng Khoa
Khi bàn luận vấn đề những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của
Trần Đăng Khoa ta thấy rằng bên cạnh yếu tố khách quan là bối cảnh văn hóa - xã hội
thời kì hậu chiến đã tác động nhiều đến đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của nhà thơ thì
yếu tố chủ quan là quan niệm nghệ thuật của tác giả cũng đóng vai trò rất quan trọng
giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện, đa chiều về sáng tác của nhà thơ đó.
Nhà thơ Xuân Diệu có ảnh hưởng rất lớn đối với Trần Đăng Khoa, người thầy mẫu
mực đã để lại trong anh những dấu ấn sâu đậm, những bài học vô giá về nghiệp văn
chương. Xuân Diệu là người đa tài, vừa viết văn, vừa làm thơ, lại vừa là một nhà
phê bình sắc sảo nhưng cũng rất đỗi nghiêm khắc khó tính trong nghề. Ngay từ khi
mới gặp gỡ, nhà thơ Xuân Diệu đã yêu mến cậu bé Khoa đầy tài năng và người thầy
ấy đã định hình giúp Trần Đăng Khoa hiểu nghề văn, nghiêm khắc với chính bản
thân mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Trần Đăng Khoa đã từng bộc bạch
“nhà thơ lớn Xuân Diệu thầy dạy nghề của tôi, người luôn đòi hỏi tôi phải lao
động, lao động và lao động...”[59, tr.6]. Đó là sự khẳng định nghề văn chương
không chỉ là một trò chơi với con chữ mà còn là công việc nghiêm túc, vất vả nhưng
cũng rất vinh quang. Trần Đăng Khoa đã ý thức được làm thơ là một công việc đòi
hỏi sự tập trung, tính sáng tạo cao. Vì vậy các sáng tác của Trần Đăng Khoa bởi vậy
luôn có sự vận động, chuyển biến tích cực. Tài năng và ý thức trách nhiệm đối với
sản phẩm nghệ thuật của bản thân đã giúp Trần Đăng Khoa có những bài thơ có
chiều sâu hơn, phản ánh những suy nghĩ sâu sắc hơn. Bước tiến này trong thơ Trần
Đăng Khoa đã góp phần quan trọng giúp nhà thơ có được những định hướng đúng
đắn trong sáng tác.
34
Nếu bản thân người nghệ sĩ không khắt khe với chính mình thì sẽ không thể
cho ra đời những tác phẩm có giá trị - bài học này đã trở thành kim chỉ nam định
hướng suốt đời cho Trần Đăng Khoa. Quan điểm coi văn chương là sự sáng tạo
nghiêm túc và không ngừng nghỉ cho dù hành trình đó có khó khăn gian khổ. Cho
nên Trần Đăng Khoa không chấp nhận những bước đi cũ quen thuộc và xói mòn
anh đã từng nói “sợ nhất những anh trẻ mà lại tẻ nhạt” anh tìm tòi, lặn lội, trải
nghiệm ở những địa hạt mới, những vùng sáng tác ít được khai thác, cho nên việc
trở thành anh lính đảo được tiếp xúc, trải nghiệm đã tạo điều kiện thuận lợi khiến
nhà thơ có quá trình chuyển đổi khá rõ rệt trong tư duy sáng tác. Lúc này Trần Đăng
Khoa là một người lính, một nhà thơ đã trưởng thành , một cái tôi trữ tình đầy cảm
xúc, khép kín hơn với những tâm tư tình cảm đa chiều, phức tạp. Nhà thơ hướng
lòng mình đến những người đồng đội, đến biển, đảo và tình yêu đôi lứa. Trần Đăng
Khoa viết về những câu chuyện hàng ngày, từ việc chờ mưa đến cháy bỏng, việc
chứng kiến bạn mình chiến đấu với cá mập để có cá mang về nấu cháo anh viết về
đồng đội với tất cả sự gắn bó, tình cảm chân thành nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là
những nỗi niềm xót xa, thương đồng đội, thương mình. Hiện thực bây giờ là những
sóng gió, bão táp trên biển, là việc thường xuyên thiếu thốn, khó khăn trong
những sinh hoạt hàng ngày….Bởi vậy thơ Trần Đăng Khoa giai đoạn này chứa
đựng nhiều tâm trạng, ngẫm nghĩ về cuộc đời, về số phận con người, và vượt lên
trên hết vẫn là niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn giành cho Tổ
quốc mình.
Không chấp nhận cái cũ đã trở lên gò bó, chật hẹp, Trần Đăng Khoa khao
khát tìm kiếm những điều mới mẻ anh đã tự làm mới cảm xúc của mình bằng việc
khám phá một đề tài mới đó là viết về chủ đề biển đảo. Và cũng chính ở địa hạt
mới này anh đã có những thành công vang dội.
Bên cạnh đó, Trần Đăng Khoa không chỉ chú trọng biện pháp tu từ, ngôn
ngữ thơ đẹp mà còn dựa trên cái hồn của người nghệ sĩ được thể hiện trong thơ.
Nhà thơ thổi hồn của mình trong từng câu chữ, màu sắc, thần thái của nhà thơ, đã
tạo lên những câu thơ bất hủ trong văn đàn. Nếu như trước đây cậu bé Trần Đăng
Khoa với tư duy hướng ngoại tích cực đã cất cao tiếng nói hồn nhiên, lạc quan của
35
trẻ em Việt Nam trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước đầy gian lao của dân
tộc, thì nay là một người lính, Trần Đăng Khoa chiến đấu nơi đầu sóng ngọn gió với
những đồng đội thiếu thốn về vật chất.Thơ Trần Đăng Khoa đã có sự chuyển hướng
từ hướng ngoạisang hướng nội anh viết về đồng đội và tâm sự của chính mình bằng
những suy tư, trăn trở về cuộc đời của mỗi con người.
Sự vận động này là một bước ngoặt quan trọng đối với Trần Đăng Khoa.Từ
việc coi trọng nghề viết, xem đây là một nghề gian khổ mà bản thân mỗi người nghệ
sĩ là những người thợ luôn phải cần mẫn, chăm chỉ cày cuốc trên cánh đồng văn
chương, cho đến việc coi trọng các yếu tố nghệ thuật trong một tác phẩm đã phần
nào giúp người đọc hiểu được quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Từ đó là cơ sở để nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của anh.
36
Tiểu kết chương 1
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ tài năng, có đóng góp ở nhiều thể loại văn
học. Hành trình sáng tác của anh, từ tuổi niên thiếu cho đến giai đoạn trưởng thành
là một quá trình tiếp nối và phát triển bền bỉ với những thành tựu đáng ghi nhận.
Con đường đến với thơ ca của Trần Đăng Khoa như là một tất yếu bởi bên cạnh
năng khiếu trời ban, tài năng ấy còn được đắm mình trong dòng sữa văn học dân
gian của quê hương với lời ru của mẹ, câu hát à ơi của bà và khúc hát đồng dao ngộ
nghĩnh của trẻ thơ. Truyền thống gia đình cùng với ảnh hưởng từ các nhà thơ bậc
thầy trong làng thơ hiện đại Việt Nam và không khí sáng tác thơ ca thời kháng
chiến chống Mĩ tất cả những yếu tố đó đã cộng hưởng, trở thành cội dễ bền chặt để
hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa. Chủ đề biển đảo là nguồn cảm
hứng chủ đạo và gặt hái được nhiều thành công trong các sáng tác của Trần Đăng
Khoa sau năm 1975, để có những thành công vang dội ấy bên cạnh yếu tố khách
quan là bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến đã thôi thúc văn học đổi mới trên
nhiều phương diện thì yếu tố chủ quan đó là quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng
Khoa cũng đóng một vai trò không nhỏ. Nhà thơ luôn hướng tới cái mới, tìm kiếm
cái mới trên địa hạt ít người khai phá và đây chính là cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo
trong các sáng tác của anh. Trải qua sự sàng lọc khắt khe của thời gian những sáng
tác của anh viết về mảng đề tài này vẫn luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng
bạn đọc.
37
Chương 2
SỰ THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
2.1. Khẳng định chủ quyền lãnh thổ
"Có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Trường Sa và Hoàng Sa. Mặn như
máu” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng viết như vậy khi giới thiệu cho tuyển tập
thơ viết về biển đảo Trường Sa; và đó cũng là những câu từng xuất hiện trong tập
truyện nổi tiếng Đảo chìm.
Nhắc tới Trường Sa là nhắc tới một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam,
nhắc tới “vòng tròn bất tử” và những trận chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo. Từng tấc
đất, từng vùng biển cha ông ta tự bao đời vẫn được nhân dân ta ngày đêm canh
giữ. Trên mặt trận bút nghiên của mình, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng gửi gắm tình
yêu và quyết tâm gìn giữ biển đảo quê hương qua những vần thơ, con chữ. Mỗi sáng
tác là một cung điệu nói lên tấm lòng của những người con dân đất Việt với nơi đầu
sóng ngọn gió. Tôi đã thực sự xúc động khi đọc những dòng tâm sự của nhà thơ Trần
Đăng Khoa “Tổ quốc Việt Nam của ta trên bản đồ thế giới, trông như một bà mẹ gầy
gò đội nón lá, lưng còng gập, có lẽ vì phải gánh quá nhiều sứ mệnh lịch sử. Bà mẹ
đáng thương ấy vẫn lặn lội thân cò, bước thập thững bên bờ sóng, tấm lưng còng gập
quay ra Biển Đông. Cái phên giậu giữ cho tấm lưng còng ấy khỏi lạnh chính là
Trường Sa, Hoàng Sa đấy. Trường Sa, nói theo chữ của các cụ ta xưa thì nó là một
dải cát dài. Nhưng có hòn đảo tôi dẫn bạn tớicòn chưa có cả cát. Nghĩa là chưa có gì
cả. Nó đang là một vỉa san hô ngầm còn chìm sâu dưới nước, như một cái bào thai.
Bởi thế, những người lính biển của chúng ta đã phải dựng chòi bạt giữa sóng gió
hoang vu để canh giữ, bảo vệ….Nhưng theo cách tính của các nhà khoa học, thì phải
hơn một trăm năm nữa, nó mới chính thức ra đời. Vậy mà bao nhiêu kẻ thù đã nhòm
ngó, rình rập. Máu đã đổ ở Trường Sa, Hoàng Sa rồi đấy” [41, tr.11].
Trường Sa của chúng ta bấy giờ chỉ là một hòn đảo rất bé, nó bé tới mức
người đời khó mà tưởng tượng được “ Đảo nhỏ quá nói một câu là hết” [41,
tr.55]nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ nó, trái lại chúng ta phải canh giữ “ Cái
giang sơn tổ quốc chỉ vẻn vẹn có mấy mét vuông lều này” bởi “ Đây là đất đai
hương hỏa ông cha, thì dù chỉ có đá sỏi gió cát thế này, ta cũng phải canh giữ, một
tấc không đi, một ly không rời, dẫu có phải đổi bằng xương máu…”[41, tr.58].
38
Trên đảo chỉ một thứ cây, đó là loại cây dại sống được trên đá san hô mà lính
gọi là cây Phong ba, nghe cũng dữ dội, vất vả và gian nan. Nhưng nhiều đảo còn
không có cây, bóng râm duy nhất tỏa xuống mặt cát bỏng là bóng dáng người lính:
“Đảo tự giấu mình trong màu nước lam xanh
Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng
Tổ quốc ơi! Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống
Bóng chúng tôi trùm khắp đảo Thuyền Chài…”
(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)
Nhưng ở những người lính đảo vẫn trọn một niềm tin, đó là:
“Ngày mai hòn đảo sẽ nhô lên
Đất nước Việt Nam một lần nữa nối liền
Những quần đảo long lanh như ngọc dát”
(Hát về hòn đảo chìm)
Đối với những người lính thì tình yêu với Tổ quốc đã tiếp thêm cho họ sức
mạnh, ý chí để chiến thắng hoàn thành trọng trách được giao phó. Canh giữ biển
đảo cũng chính là canh giữ “cửa ngõ” của Tổ quốc:
“Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Bằng những con chữ mong manh và đầy sóng gió ấy, Trần Đăng Khoa đã
cắm được cột mốc chủ quyền theo cách của riêng mình cho quần đảo thiêng liêng
và bất khả xâm phạm của chúng ta.
Các anh hàng ngày phải đối mặt với bão tố, cá mập, chim ác và kẻ thù để bảo
toàn sinh mạng và bảo vệ đảo. Cuộc sống nơi đầu sóng ngọn gió của các anh có
những khó khăn không giống như những chiến trường khác. Doanh trại của lính đảo
giữa đại dương mênh mông là:
“Lều bạt chông chênh giữa nước giữa trời
Đến một cái gai cũng không sống được”
(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)
39
Sống giữa bốn bề sóng nước mà vẫn thiếu nước, thèm nước ngọt, các anh
phải kiên nhẫn đợi từng giọt mưa rơi. Nỗi ao ước của những người lính biển thật
giản dị và cảm động:
“Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ
Rồi khao nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
Ôi ước gì được thấy mưa rơi”
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Có những nỗi gian khổ các anh đã trải qua mà trong điều kiện sống ở đất liền
khó có thể hình dung nổi:
“Đảo vẫn chìm dưới ba mét nước
Măng khô hết rồi. Chỉ thăm thẳm biển xanh
Lưới chẳng có mà cá vờn trước mặt
Biết tìm đâu ra một bát canh”
(Ghi chép ở đảo Chìm)
Ở đảo, mỗi năm các anh phải đối mặt với hàng trăm cơn bão. Khi bão ngang
qua qua, mỗi người lính đảo giống như “Cây bão táp” giữa phong ba. Khi đất nước
bình yên, người lính chiến trở thành “Lính thời bình”, nhưng nỗi gian khổ, thử
thách vẫn đồng hành cùng cuộc đời người lính:
“Đất nước không giặc
Tưởng về gần mà xa
Vẫn gian nan làm bạn
Vẫn gió sương làm nhà”
(Lính thời bình)
Và trong gian khổ, các anh đã sống trọn, sâu sắc cuộc đời người lính. Lắng
nghe tiếng nói trữ tình của người lính trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa người
đọc càng thấu hiểu sự hy sinh lớn lao của những người chiến sĩ đang làm nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc nơi biên cương hải đảo xa xôi. Chính ở nơi biên hải đầy gian khó ấy
các anh đã hát vang lên khúc hát chủ quyền, các anh là hiện thân của sự sống, của
nhân dân Việt Nam, là niềm tin vào tương lai đất nước. Chủ quyền của đất nước đã
được đặt tên từ xa xưa, ở nơi đó các anh là dấu tích của những người đi khai phá,
bảo vệ từng hòn đảo để làm nên hình hài đất nước.Tiếng thơ vang lên thật hào sảng,
đầy niềm tự hào thiết tha về vùng lãnh hải của tổ quốc.
40
Trần Đăng Khoa đã mở ra cả khoảng sáng tâm hồn phong phú, cao đẹp của
những người lính trẻ. Trước hết là tình yêu Tổ quốc, tình yêu lý tưởng. Các anh rất
tự hào về trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Dù ở mặt trận nào, làm
nhiệm vụ gì, các anh cũng xác định rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc.
Người lính ấy chắc hẳn đã xác định con đường phía trước anh đi nếu có ngã xuống
trong trận chiến đấu ngày mai anh cũng không hề hối tiếc bởi quê hương anh sẽ
được sống thanh bình
Người lính đảo Nam Yết hiên ngang trên chòi quan sát giữa bốn bề bão tố vì
anh biết, đảo là giọt máu thiêng của Tổ quốc:
“Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Anh lính hải quân tạm biệt người yêu, tạm biệt thành phố rực rỡ ánh đèn đến
nơi “Trời khuya,đảo vắng” vì một tình yêu tổ quốc lớn lao hơn tình yêu đôi lứa:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng”
(Thơ tình người lính biển)
Để bảo vệ Tổ quốc, quê hương, các anh sẵn sàng chấp nhận hi sinh những
khát vọng cá nhân và trong tâm hồn người lính luôn dấy lên niềm tự hào, kiêu hãnh
về cả một thế hệ có lý tưởng sống đẹp, xứng đáng với Tổ quốc. Anh nhìn vào đồng
đội, soi vào lòng mình, càng thấy vững tin vào lý tưởng và con đường đã chọn và từ
những lồng ngực trẻ đó, lời ca yêu đời đã bay lên, trong thăm thẳm rừng đêm,trong
mịt mùng biển cả
Như cây non gió mưa vùi dập
Tôi vịn vào bão táp đứng lên dần
Ngày vào đảng tôi thấy mây trắng lắm
Trang đời chưa viết chữ đầu tiên
Tôi chợt thấy câu thơ như nước biển
Mặn khôn nguôi- máu của ông cha
Tôi đứng gác mà nghe lòng yên tĩnh
Chỉ mình tôi - trời biển với phong ba
(Ở một hòn đảo nhỏ)
41
Người lính đảo xa “ Gió biển mặn bạc bao màu áo”, “cơn sốt rét rừng vẫn
còn run trong da”, thèm từng bát canh rau, từng làn mưa bụi vẫn yêu đảo yêu biển
vô cùng. Biển đảo là quê hương thứ hai của các anh, là một phần máu thịt của Tổ
quốc Việt Nam, xa nhà, xa quê các anh cùng chia nhau tin vui, chia nhau nỗi nhớ
nhà không có nước ngọt không có rau xanh các anh vẫn hát vang khúc hát Trường
Sa, khúc hát tuổi trẻ, đảo xa đã trở thành mảnh đất tâm hồn các anh.
“Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu không có mưa chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong đập trái tim người
(Đợi mưa trên đảo sinh tồn)
Cuộc sống vẫn muôn màu gian khổ nhưng người lính trên đảo vẫn hát vang
khúc hát tình ca khúc hát là hiện thân của sự sống, tiếng hát là tiếng nói của những
người con Đất Việt đánh dấu sự hiện diện của mình ở nơi đây.
Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa
… Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu trong sáng ngực ta đây
Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này…
Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Đây là bức tranh độc đáo, cảnh tượng chưa từng có trong thơ, bức tranh ấy
không chỉ có màu sắc hình khối mà còn chứa đựng bao xúc cảm, xiết bao tự hào về
tinh thần lạc quan yêu đời trẻ trung của người lính được Trần Đăng Khoa thể hiện
bằng trái tim mình. Đó là lớp thanh niên có lí tưởng cao đẹp, luôn tự hào về Tổ
quốc, về trọng trách được giao phó, dù ở nơi biên cương hay hải đảo xa xôi, các anh
đều sống lạc quan yêu đời và yêu tuổi trẻ.
42
Trường Sa vừa là nơi dữ dội nhất vừa phóng khoáng nhất, thiêng liêng nhất
và cũng mong manh nhất. Đó là “Đảo Chìm” tức là những đảo còn chưa nhô lên
khỏi mặt nước. Nó như hình bóng của một xã hội tốt đẹp nhưng ở thì tương lai, cái
gì cũng có. Còn hiện tại thì không có gì cả. Người lính canh giữ Đảo Chìm là canh
giữ cái giọt máu thiêng của Tổ quốc còn chìm trong nước. Nó mới đang còn là một
cái bào thai. Nó đang vật lộn, quẫy đạp trong bầu nước âm u của biển cả để ra đời.
Và không biết đến bao giờ nó mới ra đời, mới nhô lên khỏi mặt biển để trở thành
một xứ sở bình dị."Gọi là đảo nhưng nó chỉ là một vũng cát lờ phờ, to chừng một
cái nong phơi thóc, vừa đủ chỗ để dựng một cái lều bạt dã chiến’’ [41, tr.55].
Đấy chính là cảm nhận đầu tiên của tác giả khi ghé qua Thủ đô Trường Sa,
để rồi khi tới với Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa ớ ra và đưa mắt tìm kiếm bốn phía
trời nhưng vẫn chẳng thấy gì ngoài một đại dương nước đen ngầu, chảy vật vã dưới
vòm mây hoang vu, khô héo: “Đảo đấy! Nó là dải nước xanh phơn phớt nằm dưới
chân lều bạt” [41, tr.62].
Đó là một vùng sóng gió dữ dằn và khốc liệt, đảo chìm còn như một hoang đảo
tràn ngập phân chim như Trần Đăng Khoa miêu tả thì: “mái lều trũng xuống vì phân
chim. Những vệt phân lâu ngày trắng xóa. Những vệt phân tươi nâu sậm, lác đác có cả
những vệt đỏ nhờ, trang điểm cho mái lều một vẻ đẹp sặc sỡ đến quái đản”[41, tr.62].
Câu nói của Hai Ùm với Trần Đăng Khoa đã làm cho người đọc cảm nhận rõ
sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi đây: “Vì ông anh mới ra, còn hơi người, nên
chúng mới nhao đến làm tình làm tội. Mai, chúng sẽ “khinh” ông anh thôi!. Tôi
bàng hoàng. Chẳng lẽ ngày mai, mình không còn hơi người nữa ư?”[41, tr.67].
Nơi đóng quân của các anh cũng thật đặc biệt “Hòn đảo này quanh năm bì
bọp sóng gió. Ngày đêm nước ộc cả vào lều. Bởi vậy,ở lều đảo này lại còn có cả
đảo trong đảo nữa. Đó là những khối giường sắt quét sơn trắng chống gỉ. Mỗi
người lính “cố thủ” một khối giường. Có đến ba, bốn tầng giường xếp chồng lên
nhau. Nên lính gọi là khối. Tầng cuối cùng chọc lên tận nóc bạt, lính quen gọi là
tháp Epphen”[41, tr.71]. Cuộc sống gian khổ và thiếu thốn không khiến các anh
giảm đi lòng yêu nước mà trái lại như ngọn lửa quyết tâm hun đúc tôi luyện các anh
cứng cáp, kiên cường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó.Ý thức
43
viết về chủ quyền trong các sáng tác viết về biển đảo của Trần Đăng Khoa thật sâu
sắc. Điều đó nhắc nhở mỗi người về trách nhiệm đối với biển đảo. Dù chỉ là một
mỏm đá chúng ta cũng quyết tâm giữ gìn bởi đó là tổ quốc là xương máu của bao
thế hệ. Những sáng tác ấy khẳng định chủ quyền bất di bất dịch về vùng lãnh hải mà
hàng nghìn năm nay cha ông ta đã cất công gìn giữ, đó là lớp trầm tích tinh thần
chắt chiu lắng đọng vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian của năm tháng để nối dài
tình yêu với biển. Đến với Đảo Chìm chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn về những khó
khăn, gian khổ của những người lính trên những hòn đảo xa xôi của Tổ quốc. Sự
khó khăn, thiếu thốn ở đây nó không chung chung như những gì chúng ta vẫn cảm
nhận mà rất cụ thể. Nhà thơ của chúng ta, vị khách quý của Đảo Chìm được chào
đón và thiết đãi món “đặc sản” của Đảo Chìm là món trứng chim ngon tựa “mùn
cưa” và một bữa cháo cá không thành.
Trong Đảo Chìm, anh lính Thiêm bị đau ruột thừa nhưng đảo lúc bấy giờ
chưa có bác sĩ, mới chỉ biên chế đến cấp y tá. Khác với đất liền, ở Đảo Chìm thì đây
là một ca khá nghiêm trọng. Hình ảnh Thiêm bị trói chặt vào chiếc giường sắt
chống sóng và được y sĩ Huy mổ ruột thừa bằng lưỡi dao cạo râu là một hình ảnh
làm cho người đọc bị ám ảnh bởi sự khó khăn và thiếu thốn của người lính nơi đây.
Tuy nhiên, trong cái không gian nhỏ bé đó của hòn đảo Chìm chúng ta lại bắt gặp
một cuộc sống không hề tẻ nhạt, đơn điệu mà trái lại nó hiện lên rất rộn ràng và
tươiđẹp. Những khó khăn, nguy hiểm không làm cho những người lính nơi đây
chùn bước mà ngược lại, họ luôn yêu đời, lạc quan và kiên cường. Sự hiện diện của
họ như sự thách thức thiên nhiên ngang tàng gió bão, như khí thế hiên ngang của
con dân đất Việt trước mọi thế lực ngoại xâm. Họ là hiện thân của sự sống, của tuổi
trẻ hoài bão, của niềm tin vào ngày mai và sự khẳng định rõ nét về chủ quyền lãnh
thổ bất khả xâm phạm.
Đọc Đảo chìm có lẽ bạn đọc sẽ ấn tượng với cuộc trò chuyện của vị tướng
Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương với anh lính trẻ trên đảo
“ Vất vả không, các cậu?
Tư lệnh hỏi một cậu lính trẻ, tóc đỏ quạch như tôm luộc, da đen cháy, người
chắc nịch như một thỏi sắt đã tôi qua lửa. Cậu lính trẻ cười khì khì:
44
- … Bố đừng lo! Chúng con ở đây quen khổ rồi! Khổ mấy chúng con cũng
chịu được! Không một kẻ thù nào có thể cướp được đảo đâu. Bố cứ yên tâm! Nhưng
đúng như bố nói đấy. Rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá con liều nghĩ, hay là
ta cứ tạm giấu quách đảo đi!
Tư lệnh ngạc nhiên:
- Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào?
- Bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ ba tiếng là con giấu xong đảo thôi!
Mà không đến ba tiếng đâu. Chỉ tiếng rưỡi đồng hồ là con xúc xong chỗ cát này cho
xuống biển, đố kẻ thù nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu!
- … Đây xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu để cậu giấu đảo!
Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển mà lấy cán xẻng khẽ bẩy những
tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân
đảo, giữ cho cát khỏi bay.
- … Mày làm cái gì thế mày? Giấu đảo à?
- Dạ báo cáo bố, con đang mở mang bờ cõi ạ! Anh lính cười khục khục,
gương mặt nhấp nhóa nước - mà, mà, đúng ra, đúng ra con chỉ “ buông neo” cho
Tổ quốc khỏi bị trôi dạt thôi!”[41, tr.60].
Câu trả lời hài hước của anh lính trẻ như xoáy sâu tâm can người đọc. Ai
trong chúng ta cũngthường nhắc đến câu: Bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ
quốc. Nhưng đến Đảo Chìm khi người chiến sỹ từ ý nghĩ xúc cát đổ xuống biển để
giấu đảo lại là việc làm mà làm cho người đọc ngỡ ngàng. Tình yêu tổ quốc ở đây
không xa vời, sách vở mà gần gũi và đơn giản như những gì con người ở đây đã
làm. Một hành động và một câu trả lời chỉ có thể có ở những con người thật sự yêu
đất nước mình mà thôi! Những hành động đó rất bình thường nhưng chúng ta lại
thấy những điều lớn lao khác, thấy và hiểu những người lính đảo luôn hiểu rõ trách
nhiệm thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc. Và có lẽ đó chính là sức mạnh để họ
luôn đứng vững trước sóng gió của biển khơi.
Những người lính nơi đây chấp nhận gian khổ hy sinh vì tổ quốc. Sự sống
Trường Sa có những biểu hiện độc đáo mà những ai chưa một lần đến đây hay chưa
một lần đọc thơ Trần Đăng Khoa chẳng thể nào ngờ tới được, dẫu cho ai đó có trí
45
tưởng tượng phong phú chăng nữa. Ai có ngờ đâu“in lên màu mây mang bão” của
Trường Sa không chỉ có “bóng anh hải quân hiên ngang” mà còn có cả
những “bóng cây son trẻ”. Con mắt tinh tường của nhà thơ đã nhìn thấy những dáng
vẻ dịu dàng dễ thương của sự sống nơi Trường Sa bão táp:
“Thân cây sao mà mềm mại
Lá cây sao vẫn mượt mà
Mỗi năm hàng trăm cơn bão
Trên mình cây đã đi qua”
(Cây phong ba đảo Nam Yết)
Vẫn dưới đôi mắt nhạy cảm ấy, những đường nét tưởng như là gai góc,
những màu sắc tưởng như là khô khan, những chất liệu tưởng như là trần trụi, thô
nhám của Trường Sa, tất cả đều biến thành thi liệu qua cảm quan nghệ thuật của
Trần Đăng Khoa. Trong sáng tác của Trần Đăng Khoa, đá Trường Sa cũng có hồn
như chiến sĩ Trường Sa vậy: “Đá vững bền”, “hòn đá ngàn năm trong nhịp đập tim
người”, “đảo đá cất thành lời”, “đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên”... Đá được diễn tả
theo lối nhân hoá hay chính đá vốn đã là biểu trưng cho sự sống Trường Sa kiên
cường, vững chãi trong thơ Trần Đăng Khoa, có lẽ là cả hai. Hình ảnh những người
lính Trường Sa “trọc đầu” vì cắt tóc ngắn để “tiết kiệm” nước gội đầu, trong hoàn
cảnh ở Trường Sa thiếu nước ngọt được diễn tả trong bài thơ Lính đảo hát tình ca
trên đảo trông ngạo nghễ và gan lì như đá Trường Sa:
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”
Và nhà thơ đã có sự liên tưởng độc đáo mà thú vị về những hòn đá mang
“hồn lính” Trường Sa:
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...”
46
Hình ảnh những hòn đảo mà “Tổ quốc của tôi đang âm thầm sáng tạo” trở
thành động lực cho những người lính nơi đây hoàn thành nhiệm vụ canh giữ chủ
quyền biển đảo của mình.
Tổ quốc đang âm thầm sáng tạo
Một ngày mai cho tất thảy mọi người
Đảo sẽ nhô lên giữa biển giữa trời
Có hạt lúa, củ khoai, ngọn rau muống luộc
Có viện Hải dương học
Có sân khấu xây
Mây cánh kiến mở màn cho em hát
Có tuổi trẻ và tình yêu. Đấy là điều tuyệt vời nhất
Sự sống lại hồn nhiên trong tiếng trẻ con cười…
Sự sống vẫn sinh sôi bền vững đếnmuốn đời
Việt Nam đấy. Bao giờ cũng lạ
Tôi muốn nói một điều với biển cả
Về dải đất liền hùng vĩ phía sau tôi
Đảo à, đảo ơi!
(Hát về một hòn đảo)
Có thể nói được rằng, cho đến nay chưa có ai viết về biển đảo Trường Sa
trong truyện ký và trong thơ vừa chân thực, xúc động, vừa đầy sức ám ảnh như Trần
Đăng Khoa. Nhà thơ đã nói hộ tất cả những người Việt Nam yêu nước tình yêu đối
với biển đảo- tình cảm thiêng liêng đối với quốc gia dân tộc. Trần Đăng Khoa
không chỉ ghi chép hiện tại, mà còn là nhân chứng hùng hồn cho tương lai. Những
sáng tác viết về biển đảo của anh như lời nhắc nhở mọi người không được hờ hững
với lịch sử tức là không được hờ hững với quá khứ. Từng tấc đất, từng vùng trời,
vùng biển bao la đều là lãnh thổ Việt Nam. Chúng ta đang ngày đêm hướng ra biển,
Trần Đăng Khoa đã viết tiếp bài ca người lính với tình yêu Tổ quốc, tình yêu lý
tưởng, tình yêu đồng đội sâu sắc thiêng liêng. Sáng tác của Trần Đăng Khoa là tiếng
nói khẳng định chủ quyền biển đảo với niềm xúc động thật lớn lao thể hiện một tâm
hồn thấm đẫm tình yêu đất nước. Có thể nói nếu không có một tình yêu lớn đối với
47
tổ quốc thì không có một nhà thơ nào có thể viết được những sáng tác lay động tâm
hồn như vậy. Và đó cũng chính là điều ta nhận thấy ở Trần Đăng Khoa, những sáng
tác của anh về chủ đề biển đảo giống như một bản tuyên ngôn chủ quyền đất nước,
một thông điệp về tình yêu tổ quốc và trách nhiệm công dân.
Biển Đông đôi khi cũng rất hung tợn bất kham. Biết bao người lính như
Thiêm, như Hai Ùm trong Đảo Chìm đang nằmdưới đáy biển kia? Đó chính là cột
mốc khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của quần đảo thiêng liêng này. Và
như thế ở Trường Sa chúng ta không chỉ có cột mốc bằng sắt thép mà còn có những
cột mốc bằng xương máu những người lính qua rất nhiều thế hệ. Rồi còn có cả
những cột mốc đặc biệt đó là những sáng tác viết về biển đảo trong đó có Trần
Đăng Khoa, khi những tác phẩm đó đạt đến độ đích thực thì những cột mốc đó sẽ
còn giá trị đến muôn đời. Bằng những con chữ mong manh nhà thơ đã cùng với cha
ông ta cắm thêm những cột mốc chủ quyền bằng văn chương cho một vùng lãnh hải
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của đất nước.
2.2. Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam
Tình yêu quê hương đất nước luôn là tình cảm cao đẹp đằm thắm trong thơ
ca từ xưa đến nay. Thơ ca Việt Nam luôn được nuôi dưỡng với sức sống mạnh mẽ
của cả dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tình yêu ấy tiếp thêm ánh sáng cho thơ
Trần Đăng Khoa và bao trùm lên tất thảy trong thơ Trần Đăng Khoa là một tình yêu
lớn: Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam
Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam là nguồn cảm
hứng thường trực trong thơ viết về chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng
Khoa. Nhà thơ đã làm sống dậy vẻ đẹp của bao bãi biển, bao hòn đảo thân yêu. Đó
là những kì quan mà tạo hóa đã ban tặng cho đất nước và con người Việt Nam. Biển
đảo Việt Nam có sóng, nước, nắng gió, trăng sao, những rặng san hô, tàu thuyền…
những con người đã kiên cường sống và chiến đấu, thủy chung khi nằm xuống hòa
vào lòng biển mẹ yêu thương.
Biển mang vẻ đẹp thơ mộng mà trầm hùng, yêu thương rất đỗi tự hào của
người lính khi chia tay với người yêu:
48
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào, em lại dịu êm.
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên
(Thơ tình người lính biển)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã mượn hình ảnh biển đối sánh với nhân vật em
để bày tỏ tâm tình của người lính biển. Đó là tấm lòng yêu tha thiết biển quê hương
cùng những suy nghĩ ưu tư về tổ quốc
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Gió thổi chưa ngưng trong nhữngvành tang trắng
Anh đứng gác - trời khuya đảo vắng
Biển một bên và em một bên
(Thơ tình người lính biển)
Ở bài Thơ tình người lính biển, hình ảnh biển - bờ cũng là những biểu
tượng. Bằng cách sử dụng các hình ảnh hết sức quen thuộc, có tính biểu trưng cao,
Trần Đăng Khoa đã để hình ảnh “biển” và “em” luôn xuất hiện bên nhau, đi liền
nhau khiến cho ta cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi lúc, mọi khoảnh khắc thì
“biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn người lính biển, đem lại niềm
tự hào, niềm hạnh phúc cho anh, biển khơi cũng chính là biển của tình yêu.
Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống của người lính biển
đã và sẽ mãi mãi dành cho “biển” và “em”:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.”
Trong thơ Trần Đăng Khoa biển không còn là một đối tượng miêu tả đơn
thuần nữa mà biển đã thành biểu tượng của Tổ quốc. Biển của đất nước gian nan
chưa bao giờ bình yên, biển của những người lính nơi thăm thẳm nước trời và dưới
những chùm sao xa lắc…
49
Biển đảo Việt Nam nơi lấp lánh vẻ đẹp kì thú của những hòn đảo thân thương.
Ai đã một lần được đặt chân tới biển sẽ không thể quên vẻ đẹp tuyệt vời mà dường như
thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Tự hào về biển đảo quê hương với nét đẹp rạng
ngời của một phần lãnh thổ đất nước. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã ngợi ca biển đẹp,
đảo anh hùng hiên ngang bất khuất, trước sóng gió bão tố cũng như trước quân thù.
Đảo Sơn Ca không có sơn ca
Ngày và đêm rùng rùng tiếng sóng
Lúc nào biển cũng là biển động
Sóng ngả nghiêng ầm vỡ quanh nhà
(Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca)
Biển đảo nơi đây hiện lên thật sống động trước mắt người đọc với sự thiêng
liêng và hùng vĩ khôn cùng.
Có tiếng chim nào ríu ran đâu đây
Mà hòn đảo bỗng bồng bềnh hư ảo
Tôi ngước tìm. Thấy anh lính Hải quân
Đứng ngang trời thổi sáo…
(Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca)
Biển đảo đẹp rực rỡ và khoáng đạt hơn trong buổi sơ khai, đứng trước biển
thi nhân như cân bằng được buồn vui muôn kiếp người, nghe được những âm thanh
tha thiết của cuộc sống vĩnh hằng trong lòng tạo vật.
Đảo à, đảo ơi!
Biển vẫn chao như đưa nôi
Biển vẫn âm thầm như người mẹ sáng tạo
Cho tổ quốc ta có thêm một hòn đảo
Ngày mai đảo sẽ nhô lên
Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên
Có con đường cho anh đến với em
Có ngôi nhà dưới vòm cây mát
Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt nhất
Có thể gội đầu. Có thể uống no say
50
Có thể tặng nhau cả một giếng đầy
Hát lên đảo ơi, những niềm tin giản dị
Đã ánh lên trong màu nước xanh ngời
Đã lung linh trước căn lều bạt
Đảo à, đảo ơi!
(Hát về một hòn đảo)
Đến những cơn mưa cũng gợi cảm giác ấm áp, mát lành tươi tốt dù chỉ là
trong suy nghĩ của người chiến sĩ
Mây vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi
Mưa yểu điệu như một nàng công chúa
Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa
Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi…
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Dưới con mắt trữ tình của các nhà thơ, biển, đảo, mây trời xưa nay gắn bó
quấn quýt với nhau không rời, đẹp như mối tình lãng mạn thủy chung. Những áng
mây trắng ngời như những bức thư mà hải đảo gửi về đất liền thân yêu, mang thông
điệp của hòa bình.
Những đám mây trắng ngời từ hải đảo
Bay nôn nao về phía đất liền
Ồ, không phải mây đâu. Những bức thưanh đấy
Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió gửi cho em
(Những đám mây trắng ngời từ hải đảo)
Có thể nói không gian biển đảo gợi về cho nhà thơ biết bao cảm hứng dạt
dào. Tình cảm của nhà thơ đối với biển đảo thật nồng ấm, tự nhiên như hơi thở hằng
ngày. Nhà thơ đã nói hộ tất cả những người Việt Nam yêu nước tình yêu đối với
biển đảo - tình cảm thiêng liêng đối với quốc gia dân tộc mà theo thời gian nó sẽ
sống mãi.
51
Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên biển đảo nhà thơ Trần Đăng Khoa còn tìm
thấy ở biển đảo vẻ đẹp kiên trung của những người lính trên biển đang ngày đêm nắm
chắc tay súng để bảo vệ vùng đất, vùng trời nơi đầu sóng ngọn gió.Ở đó tình đồng đội
được phát huy một cách mạnh mẽ, tình yêu thương thắm thiết con người Việt Nam
dành cho nhau, sự đùm bọc sẻ chia trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời
Đến một cái gai cũng không sống được
(Đồng đội tôi trên đảo thuyền chài)
Sống ở nơi bốn bề mây nước, người lính trải qua những khó khăn thiếu thốn
về vật chất và cả tinh thần. Còn gì thiếu thốn hơn khi bữa tiệc mà người lính khát
khao mong chờ là “bữa tiệc bày toàn nước ngọt” Song ước mơ chỉ là ước mơ. Bởi
lẽ những cơn mưa còn xa vời quá. Lúc đầu người lính mong những trận mưa rào lớn
Mưa đi! Mưa đi ! Mưa cho mãnh liệt
Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nhưng sau đó ước mơ thu nhỏ bé lại
Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu cũng được Hay mưa bụi…mưa li ti… cũng được
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Những người lính trẻ phần lớn ra đi từ đồng ruộng, mùa màng, bờ bãi phù sa.
Mỗi anh một quê, người ở đồng chua, người vùng nước mặn, đã tụ họp về đây trong
tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Càng trong gian khổ thiếu thốn, họ càng sát cánh
bên nhau, chia sẻ mọi vui buồn. Tình đồng chí keo sơn qua những cơn sốt rét rừng
Có gì đâu, chiều ấy trong lều bạt
Cơn sốt thuở Trường Sơn quật tôi tê tái người
Anh bạn tôi hết đứng lại ngồi
Không sao yên lòng được!
(Chuyện ở đảo chìm)
Trong cơn sốt hầm hập, người lính thèm một bát canh nhưng ở đây khó quá.
Ta cảm nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của những người “đồng chí” trong
hoàn cảnh khó khăn. Ở họ, tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng như tình yêu với đất
nước. Vẫn biết phía trước là khó khăn, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng
52
Lưới chả có mà cá vờn trước mặt
Biết tìm đâu ra một bát canh?
Thế rồi
Lựu đạn bất ngờ nổ banh ruột nước
Cá từng đàn bỗng nổi trắng như sao
Anh bạn tôi nhào ra vớt cá
Trong lúc xung quanh lũ mập cũng lao vào
Những ánh chớp đen nhoáng nhoàng trong nước
Thôi, bạn ơi,vài con cá bõ gì
Hãy lên ngay lều bạt
Bạn mỏng manh thế này mập dữ tợn nhường kia
Nhưng bạn tôi vẫn quần nhau với mập
Biển sủi tăm. Tanh ngắt. Đục ngầu
Trong khoảng nước nông, bạn tôi bơi đứng
Mập chỉ chờn vờn, chẳng đớp được đâu…
(Chuyện ở đảo chìm)
Những người đồng đội của tác giả vẫn bất chấp, vẫn lao ra vớt cá, vẫn quần
nhau với mập để dành những con cá, nấu bát canh cho người đồng đội đang bị cơn
sốt hành hạ. Và người đồng đội của tác giả đã cảm thấy lòng mình vui hơn khi mình
làm được một điều gì đó giúp cho bạn mình. Họ có thể là “đôi người xa lạ” nhưng
khi đã là đồng đội của nhau, họ có thể chia ngọt sẻ bùi với nhau. Đó chính là “tình
đồng chí” của những người lính cụ Hồ. Cuộc sống gắn bó cùng đồng đội từng bữa
ăn giấc ngủ, chia sẻ cùng nhau từng cơn sốt rét rừng, từng ngụm nước ngọt đã cho
sáng tác của Trần Đăng Khoa những trang viết chân thực về cuộc đời người lính.
Qua những sáng tác của anh ta hiểu hơn tình đồng chí, đồng đội của những người
lính. Họ có thể hy sinh cả tính mạng mình cho nhau, vì nhau. Đó là tình người ấm
áp mặn nồng, của những con người Việt Nam. Quả là người Việt có sức sống và
niềm tin thật mãnh liệt
Không phải lúc nào cũng bão
Bão tan. Trời lại biếc xanh
(Cây bão táp đảo Nam Yết)
53
Trong mênh mông sóng nước, Trần Đăng Khoa đã khắc họa chân dung
người lính thật đẹp.
Tôi ngước nhìn lên ngọn cây
Lại thấy chòi quan sát đảo
Bóng chàng lính trẻ hiên ngang
In lên màu mây mang bão…
(Cây bão táp đảo Nam Yết)
Ở trên đảo mọi thứ đều thiếu thốn nhưng không làm tâm hồn của anh lính cằn
cỗi, điều đó thể hiện ở mong muốn giản dị và đậm chất lãng mạn của chàng thanh
niên trẻ tuổi đó là: “Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi!
Các cô ấy chẳng phải hát hò gì, chỉ mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi
phơ phất trên đảo, để chúng con “chỉnh” mắt.”[41, tr.56].
Những người lính đảo đều hết sức trẻ trung, tếu táo và hồn hậu, đó là những
người nông dân chân chất đôn hậu như cái cây trồng trên cánh đồng của làng mình,
giờ được bứng ra trông giữ đảo ngày đêm là bạn với sóng gió. Sức sống mãnh liệt
của người nông dân cộng với sự hồn nhiên bản tính đã tạo nên một cuộc sống hồn
hậu và chân thực. Biển dữ dội, biển phóng khoáng, con người trước biển như bị lột
trần, không có gì nương tựa nên cách tốt nhất để tồn tại là hồn nhiên đón nhận mọi
thử thách.
Vẻ đẹp của những người lính bắt đầu bằng sự lạc quan của những người lính
đảo. Giữa biển khơi họ vẫn làm thơ, vẫn mơ màng về một cô gái xinh đẹp mà họ chỉ
biết đến qua lời kể của chính trị viên Thuận (và sau này đảo Chìm mới biết sự thật
cô con gái của chính trị viên Thuận vẫn còn ở tuổi “tè dầm”). Tiếng cười ấy có từ
những con người như Hai Ùm, nhà thơ của đảo với những bài thơ “tuyệt tác, hay
đến chảy nước tai”. Và cả những người rất nghiêm túc như chính trị viên Thuận
cũng đã khiến cả đảo chìm bị lừa và cười nghiêng ngả vì câu chuyện cô con gái
rượu của mình.
Vẻ đẹp ấy còn là sự chân thực trong cuộc sống của những người lính đảo
(Ở đó người ta không thấy những lời nói hoa mỹ, không có sự im lặng đáng sợ
mà chúng ta vẫn gặp giữa cuộc đời). Ấn tượng đẹp nhất mà Trần Đăng Khoa
54
dành cho những anh lính đảo Chìm là anh thi sĩ của đảo -Trần Văn Hai. Anh bơi
lặn như rái cá: “Quê cu cậu nghe đâu ở cầu tõm Hà Nam, cái vùng quê quanh
năm lụt lội. Cánh lính đồn rằng, Hai đẻ rơi dưới nước, nên cậu ta biết bơi trước
khi biết bò. Tên cúng cơm là Hai. Ra đảo, cánh lính nối thêm cái đuôi thành
thằng Hai Ùm” [41, tr.75].
Nhà thơ của chúng ta đã được “thi sĩ” Hai Ùm chào đón bằng một ánh mắt
sửng sốt và những câu nói thú vị:
“- Đúng ông anh thật à? Kinh nhỉ! Em không thể tưởng tượng được! Em cứ
ngỡ ông anh khác kia. Ai ngờ lại xù xì thế này. Kinh thật !
- Kinh à ?
- Vâng! Em nói ông anh đừng tự ái nhé! Trông ông anh cứ ùng ục như cái
lão đào huyệt. Kinh bỏ bà! Thế mà trước đây em cứ tưởng thi sĩ bao giờ cũng mảnh
mai, đôi mắt lúc nào cũng mơ màng, trầm uất và buồn thăm thẳm!”Và những gì là
hình thức cũng được cởi bỏ (đến mức không ngờ):
“Cứ tưởng quần áo là vật trang sức của riêng mình. Nhầm! Nó là đồ đạc
của thiên hạ, nhưng thiên hạ lại bắt mình cứ phải suốt ngày đeo vác lỉnh kỉnh, nom
ti tiện như gã bủn xỉn, lúc nào cũng lo sợ mất trộm. Ở đây, chẳng có thiên hạ nào
hết, nên mình lại nhẹ nhõm, lại hoá anh tự do Hai gườm gườm nhìn tôi, như nhìn
một người ở ngoài hành tinh:
- Trông ông anh đai nịt lỉnh kỉnh, nom rất lạ mắt và buồn cười lắm ý. Cứ như
người trung cổ. Hình như đại ca có khuyết tật gì đó nên cứ phải che che đậy đậy,
giấu giấu, giếm giếm. Chứ văn minh hoàn thiện như chúng em đây, có ai khổ sở,
rúm ró như thế bao giờ…”[41, tr.73].
Với cái giang sơn Tổ quốc vỏn vẹn có mấy mét vuông đất, suốt ngày bó gối
nhìn trời nước nên sinh ra nhàn cư vi bất thiện, bởi vậy chính trị viên Thuận đưa ra
‘‘chiếu chỉ’’là ba ngày phải có một tờ báo tường, phải có chục bài thơ dán kín
quanh cái thùng phuy neo ở cột lều. Mà thơ phú lại là công việc của tài năng. Mà tài
thơ thì ở đây, giời lại chỉ dồn cho chàng Hai Ùm. Hai có thể xuất khẩu thành
chương, đọc vanh vách ra vần ra điệu. Vì vậy, thần dân của đảo cứ phải đến khấu
đầu trước Hai, xin ngài Hai Ùm nhón tay làm phúc, ban cho một bài thơ để dán lên
55
báo tường. Chỉ khổ cho những cậu đến xin chữ mà lại vô sản, chẳng có gì. Nhưng
được cái, mấy cha đó cũng láu. Không ít cha còn vác cả chị gái, em gái ra để cầm
cố cho Hai: “Thật, tớ thề là em gái tớ xinh lắm. Tớ sẽ bảo nó thư cho cậu. Bao
nhiêu vệ tinh vo ve quanh nó, tớ sẽ cho đi tàu ngầm hết. Nó là á hậu thanh lịch ở
huyện tớ đấy”[41, tr.76].
Nhưng không vì thế mà Hai kiêu ngạo, ngược lại ở anh toát lên phẩm chất
giản dị của người lính, luôn giúp đỡ, chia sẻ với đồng đội mình: “Hai Ùm chẳng ăn
riêng cái gì bao giờ. Cậu ta đưa hết của nả, châu ngọc vào kho, là cái ba-lô bạc
phếch gió biển, treo bùng biêng trên nóc lều. Thi thoảng Hai lại ban lộc cho dân
chúng”[41, tr.76].
Tuy nhiên, khi gặp Trần Đăng Khoa anh lại không tự nhận mình là nhà
thơ: “Em là thi sĩ đểu! Chúng nó gọi thi sĩ là gọi đểu đấy!”. Hình như ở anh chàng
này, sóng gió hay những khó khăn thiếu thốn của đảo chỉ là chuyện nhỏ. Anh luôn
yêu đời, lạc quan ngay cả lúc câu cá:
Cái miệng Hai bành ra, giọng nhèn nhẹt:
Hôm (ý) nay
Trời nhiều mây
Thỉnh (a) thoảng (a) có mưa
Tầm nhìn xa (ư) trên mười cây số (ứ hư)” [41, tr.80].
Tiểu thuyết thì có nhân vật phản diện, nhân vật chính diện, nhưng ở Đảo
Chìm lại không có tuyến phản diện, không có mưu mô, không có lừa lọc. Chỉ có
tình yêu thương, giữa đồng đội với đồng đội, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa những
người trên đảo với quê hương, đất nước và thậm chí giữa những người trên đảo với
cây rau, con vật mà họ chăm sóc sớm hôm.
Nhưng đôi lúc Đảo Chìm cũng có nhiều “sóng gió”, nó bắt đầu từ những
điều đơn giản nhưng lại thành phức tạp ở đây: Giữ lại một con vật yêu quý được
sinh ra từ đảo chìm hay giữ những giọt nước ngọt quý giá cho những người lính?
Chuyện nuôi con lợn ở đây đã mang đầy tính nhân bản: “Lính còn phải tắm nước
biển, độn thêm nước biển để nấu cơm. Có chút muối, cơm cứ chuồi chuội còn
nguyên cả lõi gạo. Bát cơm rời rông rổng. Chẳng hạt nào dính với hạt nào, ăn sậm
sậm, chát xít. Lính tráng còn phải sống như thế vậy mà con lợn cứ “đụng” chút nước
56
mặn là đi ỉa tồ tồ. Rõ thật con nhà lính, tính nhà quan. Lại phải thửa một suất riêng
cho lợn, quá bằng chăm người ốm. Đã vậy, mỗi ngày còn phải chi thêm cho nó bốn
lít nước ngọt nguyên chất nữa để làm suất uống. Bốn lít nước bằng tiêu chuẩn của
hai thằng lính biển chứ có ít đâu!” [41, tr.118].
Và cái lý do chính đáng nhất đã được tìm ra để toàn đảo thịt lợn! Tưởng
chừng đây là niềm vui lớn của đảo khi có bữa ăn cải thiện mà lính đảo mong ngóng
bao ngày, thế nhưng, bao nhiêu cánh tay mạnh mẽ vung lên trước sóng to gió lớn,
trước kẻ thù hung bạo thì lại không ai đủ can đảm để chọc tiết con lợn cỏn con...
Hai Ùm và Tư Xồm đã làm cả đảo chìm phải đau đầu và làm cả chính trị viên
Thuận cảm thấy rất khó xử khi phải đưa ra một quyết định. Nhưng nhìn những cuộc
tranh cãi ấy chúng ta lại càng thấy vẻ đẹp của đảo Chìm. Họ giận dữ, mâu thuẫn
không phải vì những lợi ích cá nhân, mà những điều đó xuất phát từ họ nghĩ vì
nhau, nghĩ cho nguồn nước ngọt quý giá của anh em đồng đội. Nhưng rồi chuyện
giết lợn không thành bởi đó là tính nhân văn, con lợn không chỉ là một thứ vật nuôi
mà còn là người bạn tinh thần, hiện thân của sự sống trên đảo.
Và một nhân vật chúng ta không thể không nhắc tới khi nói về Đảo Chìm, đó
là Thượng tướng Giáp Văn Cương -Vị tướng chỉ huy già, người đã nhiều lần có mặt
ở hòn đảo bé nhỏ xa xôi này. Ông đến với Đảo Chìm dường như không chỉ với tư
cách của một vị Tư lệnh, một người chỉ huy mà ông đến với những người lính ở đây
như một người đồng đội, một người lính già từng trải đến để chia sẻ những vất vả
gian lao ở nơi này. Những lời trách mắng, nhắc nhở đối với những người lính trẻ
cũng chan chứa tình cảm như lời một người cha dành cho những đứa con của mình.
Có lẽ không ở đâu mà một nơi đóng quân chỉ có cái lều bạt trên dẻo cát trống trơn,
vài chiếc giường tầng nằm giữa sóng gió lại được khen là: “Đẹp, nền nếp. Đúng
quân phong, quân kỷ”[41, tr.58] như ở Đảo Chìm. Lời khen ấy chính là sự cảm
thông sâu sắc trước những khó khăn gian khổ nơi này. Ông hiểu rằng để giữ gìn
được những gì rất bình thường đó, những người lính đã phải đổ bao mồ hôi và cả
xương máu của mình. Và cũng không ở đâu ta bắt gặp một hình ảnh rất đẹp, một vị
Tư lệnh ngồi gác thay một người lính trong suốt một đêm dài chỉ bởi một điều rất
đơn giản: “Cậu là lính. Tớ cũng là lính. Cậu gác mấy năm trời còn được. Tớ gác
mỗi một đêm bõ bèn gì!”[41, tr.98].
57
Đọc những trang viết ấy chúng ta thấy giữa hòn đảo bé nhỏ này mọi khoảng
cách dường như được xoá bỏ, không còn khoảng cách giữa một vị tướng với một
người lính nữa, ở đó họ là những người đồng đội, đồng chí cùng san sẻ và sẵn sàng
hi sinh vì một mục đích cao cả.
Khi thấy Thiêm bị chới với bên mép san hô lúc cố nhào theo để vớt chiếc
chăn thì Tư Xồm vội lao ra để cứu bạn nhưng cũng bị sóng cuốn. Thấy vậy Hai Ùm
cũng nhảy xuống mặc dù lúc đó, nước chảy rất xiết. Chính điều đó đã tôn lên vẻ đẹp
của tình đồng đội giữa những người lính nơi đây, họ sẵn sàng hi sinh cả sự sống của
bản thân cho đồng đội.
Đó là sự ra đi của Thiêm và sau là sự hi sinh của Hai trong cơn bão biển.
Những trang viết cuối cùng của Đảo Chìm chất chứa những cảm xúc của Trần Đăng
Khoa. Hai vì muốn giữ lại một chút kỉ vật cho Thiêm đã không nghĩ đến sự nguy
hiểm cho bản thân mà đã một mình quay lại đảo giữa cơn bão tố đang đến: “Thằng
Thiêm nó chỉ có mỗi chút đó thôi. Nếu mất biết nói gì với mẹ nó, cực thế. Vả lại còn
một tí tư trang ấy, cũng có thể cho vào cái tiểu sành, đắp cho nó ngôi mộ. Vẫn còn
chút gì của nó để có thể thắp cho nó một nén hương …”[41, tr.130].
Nhưng cơn bão đã đến quá nhanh. Hai đã không kịp làm điều đó. Anh đã lao
về đảo để tìm, và cơn bão dữ đã cướp mất chàng thi sĩ tài ba của đảo Chìm: “Lần đầu
tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển
mặn như ở Đảo chìm. Mặn như máu...”[41, tr.138].Sự hi sinh đó không giống như
sự hi sinh trong trận chiến đấu mà chúng ta thường thấy nhưng nó lớn lao và khiến
chúng ta phải cúi đầu vì đó là sự hi sinh của một con người giàu đức hi sinh xả thân
vì đồng đội.
Con người trước biển thật nhỏ nhoi nhưng chính cái rộng lớn của biển đã
nâng tầm vóc của con người lên với chiều kích của vũ trụ. Thật khó mà nói hết
những tình cảm của tác giả đối với biển đảo, bởi nó là tình yêu nước đậm sâu, lòng
tự hào về quê hương đất nước với biết bao biến cố thăng trầm.Tình cảm ấy khi trải
qua thời gian thì càng được nhân lên và cộng hưởng nhất là khi vùng biển Tổ quốc
đang có những biến động. Từ tình cảm của tác giả đến tình cảm của những người
lính nơi biển đảo đều thấm đẫm và hòa nhịp trong một tình yêu lớn- tình yêu tổ
quốc, quê hương. Vì thế những sáng tác về chủ đề biển đảo là tiếng hát ca ngợi
thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam.
58
2.3. Tiếng thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa
Tâm hồn những người lính biển dường như rất lãng mạn thi vị. Và cũng
chính vì lẽ ấy có không ít sáng tác của Trần Đăng Khoa đã mượn chủ đề biển đảo
để nói đến sự rung động của con tim. Dường như không gian sóng biển dạt dào, cát
biển mặn mòi mới nói hết được những cung bậc đa dạng của tình yêu. Tình yêu đôi
lứa luôn gắn bó sắc son với biển đảo. Tình yêu đôi lứa giúp các anh vượt qua bao
khó khăn khắc nghiệt nơi hải đảo xa xôi, khỏa lấp nỗi cô đơn, lẻ loi và rút ngắn
khoảng cách của không gian và thời gian. Tiếng thơ của Trần Đăng Khoa vang lên
thánh thót với khúc hát tình yêu đi cùng năm tháng Thơ tình người lính biển
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên…
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên…
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên…
Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên…
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên…
(Thơ tình người lính biển)
59
Bài thơ được viết với âm hưởng dạt đào thương nhớ, nhưng cũng rất chủ
động tự tin, nói lên tâm trạng của anh lính trẻ phơi phới tuổi thanh xuân và có ý
thức làm chủ cuộc đời. Mở đầu bài thơ là cảnh chia tay giữa chàng lính biển với
người yêu của mình để xuống tàu làm nhiệm vụ bảo vệ biển trời thân yêu của Tổ
quốc. Tình cảm ấy thật đẹp và lưu luyến, nhưng họ hiểu và thông cảm cho nhau về
nhiệm vụ người bạn trai gánh vác.Thế nên lúc chia tayhọ rảo bước bên nhau trên
bến cảng, dưới những vầng mây treo ngang trời những cánh buồm trắng. Ánh mắt
người lính thủy sắp ra với mênh mang biển cả, mây trời giống như cánh buồm trắng
phiêu du. Giây phút ra khơi của chàng lính trẻ càng lãng mạn hơn khi anh được đi
dạo giữa biển và em. Hạnh phúc thật đơn sơ nhưng cũng rất hiếm hoi với người lính
biển. Từ khoảnh khắc dịu dàng đó, lời ca yêu dấu đã ngân lên: “Biển một bên và em
một bên...”. Sau dấu chấm lửng sẽ có rất nhiều điều chưa nói ra, là khoảng không
gian bao la, là những tháng ngày xa cách biền biệt của đôi lứa. Chàng trai ý thức
được trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc tiếp bước cha anh bảo vệ Tổ quốc, và cũng
chính là bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
Câu thơ kiệm lời mà gợi mở, ý tứ sâu xa, chỉ một câu “Biển một bên và em
một bên”mà được nhà thơ nhắc lại tới năm lần và cả năm lần ấy đều được đặt ở
cuối khổ thơ, kèm theo dấu chấm lửng như không bao giờ là dừng, là một dụng ý
nghệ thuật đắc địa. Giữa câu thơ ấy là những câu giả tưởng tình huống, qua đó bày
tỏ tâm trạng, nỗi niềm, ý chí, nghị lực và quan niệm của tuổi trẻ giữa tình yêu đôi
lứa và nghĩa vụ với tổ quốc. Anh lính biển rất đỗi yêu thương, trân trọng người bạn
gái, có thể là mối tình đầu nhưng cũng ý thức rõ tình yêu chỉ thực sự đến với họ một
khi chính anh làm tròn bổn phận người thanh niên đối với tổ quốc. Đấy chính là
lòng tự hào của tuổi trẻ, của tình yêu đã qua thử thách. Tình yêu chỉ đẹp khi biết đặt
nó giữa cuộc đời và ý thức công dân của tuổi trẻ với Tổ quốc. Cả hai phía, biển và
em,anh đều thấy rất rõ sự dịu dàng, kín đáo đến tinh tế ở em, và cũng như thấy con
tàu đang lắng nghe tiếng sóng, tiếng cười dịu dàng êm ái của em.
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên…
60
Biển và em ở bên anh, một ồn ào và một dịu êm nhưng đều gần gũi thân thiết
với người lính. Biển là Tổ quốc; em là Tình yêu - cái rộng lớn và cái nhỏ bé cùng
vun đắp cho anh, những yêu dấu, niềm tin và khát vọng. Bên nhịp sóng ồn ào,
người lính không nghe rõ lời em nói, chỉ thấy nụ cười lặng lẽ của cô gái. Phảng phất
nét buồn của người ở lại. Người lính đi giữa hai nửa gần gũi thân yêu, giữa chung
và riêng: Biển (Tổ quốc) và em để trong bâng khuâng xao xuyến hóa thân thành con
tàu lắng sóng từ hai phía.Tiếng sóng biển và sóng của nỗi nhớ em lúc nào cũng dạt
dào trong trái tim người lính trẻ. Nghiêng bên nào anh cũng thấy nhớ, thấy yêu em,
nhưng anh không muốn để tình yêu thương em khỏa lấp nhiệm vụ của tuổi trẻ, nên
anh chia đều tình yêu thương cho cả hai. Dẫu tương lai có ra sao thì anh cũng không
thấy cô độc, bởi quanh anh luôn luôn có biển trời, đồng đội và em - hình ảnh của
đất liền, hình ảnh của tình yêu lứa đôi, như tiếp thêm sức lực cho tàu anh lao về
phía trước.
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Một tình yêu thủy chung son sắt. Một tình yêu sáng ngời trong sắc nắng biển
trời.Như bao thế hệ đi trước, người lính hôm nay vẫn phải gánh vác nghĩa vụ giữ
gìn bảo vệ đất nước. Mang trong mình tình yêu Tổ quốc và cả tình yêu đôi lứa nồng
nàn, trong trẻo những người lính biển ra khơi, có mặt trên tàu, trên đảo nổi, đảo
chìm gác canh giữ gìn bờ cõi:
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên…
Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên…
61
Có lẽ đây là phần hay nhất của bài thơ. Hai khổ thơ có những thi ảnh ấn
tượng sâu sắc, tràn đầy cảm xúc, vừa sâu lắng vừa mãnh liệt và giàu nhạc tính: Khi
vút cao, khi trầm lặng, khi nhanh, khi chậm để rồi mở ra mênh mang da diết với
điệp câu “Biển một bên và em một bên”. Biển đảo ngay cả giữa thời bình đã mặn
thêm bao nước mắt và máu của nhân dân và người lính. Phải thấm đau thương với
nhân dân, với đồng đội đến độ nào mới viết được câu thơ xoáy xiết thế này:
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng
Đồng hành cùng anh đi tới những miền đất xa xôi của Tổ quốc, mãi mãi vẫn
là tình yêu đất nước và tình yêu em. Dù có thể xảy ra biến cố gì chăng nữa thì tình
yêu ấy vẫn mãi mãi tồn tại, vẫn xanh tươi đâm chồi nảy lộc trong tâm hồn các anh.
Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển, giúp anh vượt qua muôn
vàn gian nan thử thách. Tình yêu ấy làm cho anh không bao giờ cô độc, trái lại Tổ
quốc và em luôn ở bên anh, trong anh.
Bài thơ của Trần Đăng Khoa mang một chuyện tình hai trong một. Nghĩa là có
một tình yêu đôi lứa xen vào với tình yêu đất nước quê hương. Bài thơ đẹp hài hòa, giữa
tình yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc, giữa rung động cá nhân và trách nhiệm công dân
hòa quyện vào trong nhau, hòa làm một. Sáng tác của Trần Đăng Khoa về chủ đề biển
đảo giàu sức gợi mở, sâu lắng gạn lọc đến từng câu chữ. Mỗi sáng tác hàm chứa một ý
tưởng như những đợt sóng tình yêu. Tình yêu ở đây được hiểu với một khái niệm rộng,
chứ không hề là tình yêu đơn thuần đôi lứa. Bài thơ rất giàu chất nhạc có lẽ vì thế nên
nhiều người thuộc, nhất là câu “ Biển một bên và em một bên…” như lời tâm niệm của
những đôi trai gái mỗi khi xa nhau. Phải là người có một tình yêu biển và yêu người lính
biển đến sâu sắc và đắm say thì mới viết được những câu thơ như thế.
Nếu như tình yêu trong thơ Hữu Thỉnh là cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mỏi mòn và
niềm khát khao cháy bỏng hạnh phúc đến trong tình yêu đôi lứa
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
62
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em…
(Thơ viết ở biển)
Trước mênh mông biển lớn, một mình anh hoang dại nỗi nhớ em. Nỗi buồn trống
vắng và sự hẫng hụt cứ cuộn trào như trăm nghìn ngọn sóng bồi lở lòng anh. Nhưng tất
cả sẽ không có nghĩa lí gì đâu nếu như chiều nay em không đến, cả không gian mênh
mang của đất trời cũng sụp đổ nếu thiếu vắng bóng em. Anh khát khao em, khát khao
tình yêu như nắng khát trời mưa, như sóng khát bờ để mãi được ôm ấp vuốt ve.
Thì trong sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về đề tài tình yêu đôi lứa ta có thể
cảm nhận mặt mạnh của nhà thơ chính là sức trẻ của tuổi hai mươi với tâm hồn rạo rực
yêu đương nhưng cũng có thể thấy những hạn chế nhất định, tình yêu của nhà thơ ít
mang màu sắc cá nhân, có lẽ khi ấy nhà thơ chưa có những trải nghiệm yêu đương đôi
lứa cho lên tình yêu đôi lứa dường như không tách bạch với nhiệm vụ của tổ quốc. Tình
yêu ở đây là sự hòa hợp giữa tình cảm và nhiệm vụ, tình yêu biển và tình yêu em, tình
yêu lứa đôi và tình yêu đất nước. Những niềm rung động, thổn thức của con tim đang
đắm chìm trong men say yêu đương chưa được khai thác sâu sắc, những cung bậc nhớ
nhung, mong chờ, thổn thức hay sự rung động mạnh của con tim yêu đương thì trong các
sáng tác viết về biển đảo của Trần Đăng Khoa ta còn ít bắt gặp.
Nhà thơ Tế Hanh, từ trước đã có bài thơ Sóng gồm 4 câu thế này:
Biển một bên, em một bên
Ta đi trên bãi cát êm đềm
Thân buông theo gió hồn theo mộng
Sóng biển vào anh với sóng em.
63
Bài thơ in trong tập Theo nhịp tháng ngày, năm 1974. Tế Hanh đã từng viết:
“Biển một bên, em một bên”. Trần Đăng Khoa cũng viết : “Biển một bên và em một
bên”. Có thể nói ý nghĩa chung, bao trùm của cả hai câu thơ là khá giống nhau nếu tách
riêng ra. Cũng nói về tình yêu, cũng có các đối tượng biển và em trong đó. Nhưngcái
đích của Tế Hanh nhằm tới chỉ là em, chỉ là tình yêu trai gái. Còn Trần Đăng Khoa, khi
đặt trong toàn bài với sự lặp lại ở cuối mỗi khổ câu “Biển một bên và em một bên” thì
tình yêu ấy bao gồm cả tình yêu Tổ quốc và tình yêu đôi lứa. Biển không còn là một đối
tượng miêu tả đơn thuần nữa mà biển đã thành biểu tượng của Tổ quốc. Biển của đất
nước gian nan chưa bao giờ bình yên, biển của những người lính nơi thăm thẳm nước
trời và dưới những chùm sao xa lắc…Khác nhau thêm ở chỗ một dấu phẩy và một
chữ“và”.“Biển một bên, em một bên” của nhà thơ Tế Hanh hình như đang có một chút
ngăn cách ngập ngừng nào đó. Biển một bên và em một bên thì có vẻ như đã gần gũi
thân thiết lắm rồi. Liên từ “và” nối hai nhân vật biển và em với nhau trong mối đồng
cảm xuyên thông, chia sẻ chung riêng nhất quán.
Người lính biển hồn nhiên, tươi trẻ, vui đùa để quên đi những thiếu thốn
ngoài đảo xa, để chắc thêm tay súng giữa biển trời bao la. Và các anh đã bao lần sử
dụng trí tưởng tượng để ghi lại những phút giây rung động của con tim:
“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Khi bừng tỉnh giấc mơ, mới biết tay mình vẫn nắm lấy tay mình, và các anh
khao khát, mong chờ:
“Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trong bốn phía chỉ âm u mây nước”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
64
Tưởng tượng, nhớ nhung và ao ước đã chắp cánh cho những người lính đảo
hát tình ca trên đảo, dẫu rằng:
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu...”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Trần Đăng Khoa nhà thơ mặc áo lính đã mượn không gian biển để thể hiện
tình yêu đôi lứa. Có lẽ chỉ cái sâu rộng của biển mới ví được với sự trống trải trong
tình yêu. Đã ra đời từ rất lâu rồi Những đám mây trắng ngời từ hải đảo vẫn đi cùng
hành trang của nhiều bạn yêu thơ. Bài thơ chan chứa tình cảm yêu thương chân
thành và cũng đầy thi vị.
Những đám mây trắng ngời từ hải đảo
Bay nôn nao về phía đất liền
Ồ, không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy
Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em
Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở
Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời
Nếu em cũng yêu anh như con tàu yêu biển
Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...
(Những đám mây trắng ngời từ hải đảo)
Nhà thơ đã dùng những hình tượng thiên nhiên như đá hoang, lòng biển để so
sánh sự đơn lẻ trống trải của mình khi xa người yêu. Mạch thơ từ đây được trải ra như
những lời tâm tình thủ thỉ với người yêu xa cách hay cũng chính với trái tim tác giả vậy
Anh ở đây. Đá hoang thành Tổ quốc
Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi
Anh chẳng biết để đâu, đành vùi vào lòng biển
Nên suốt đêm ngày, biển vật vã, sục sôi
Không bão tố. Biển lúc nào cũng động
Nỗi lòng anh cuồn cuộn dưới trời
(Nhớ)
65
Tình yêu của sóng với biển cũng chính là tình yêu của anh với em.Yêu càng sâu
sắc bao nhiêu thì nỗi nhớ càng đầy ắp, da diết bấy nhiêu.Tình yêu là động lực cho
người lính bước tiếp trên con đường anh đã chọn, tình yêu là bến bờ của hạnh phúc.
Ngày mai đảo sẽ nhô lên
Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên
Có con đường đưa anh đến với em
Có ngôi nhà dưới vòm cây mát
(Hát về một hòn đảo)
Khi viết Đảo chìm - một cột mốc sáng tác khác của mình, nhà thơ đã không quên
miêu tả về tình yêu đôi lứa. Nhà thơ tả về hòn đảo chìm - bé đến mức “chỉ nói một câu là
hết” - nhưng bao người lính đã ra đó để sống chết với đảo, với biển. Trần Đăng Khoa tả
những người lính sạm nắng và hiên ngang hơn nắng, hiền hậu mà quả cảm như biển. Họ
sống trong những túp lều hoang sơ, như lều vịt mà ông chủ đãng trí nào đó đã bỏ quên
trên cánh đồng đang cày vỡ. Mái lều trũng xuống vì những vệt phân chim lâu ngày trắng
xóa. Cuộc sống nơi đảo xa khó khăn thiếu thốn vất vả là thế nhưng tâm hồn các anh
không vì vậy mà trở nên nghèo nàn trái lại tình yêu lứa đôi của những chàng lính trẻ nơi
đây lại vô cùng đặc biệt. Họ tha thiết yêu đời, yêu người, yêu cả những bóng hình trong
tưởng tượng mà các anh chỉ nghe qua lời kể và chưa từng gặp mặt. Nhưng tình yêu của
các anh đẹp lắm, mỗi người lính đều có trong tim hình bóng người yêu theo cách tưởng
tượng riêng của mình. Đó là chuyện tình với tiểu thư Mộng Tương con gái đầu lòng của
chính trị viên Thuận “Vâng, đúng như vậy đấy. Cô là Tiên giáng thế. Một cô tiên trên
đảo. Đảo chìm mà có tiên thế mới oách! Nghe đồn cô đẹp lắm. mái tóc dài óng ả. Da
trắng nõn. Cô đi đến đâu là ở đó xao động. Chàng trai nào nhìn thấy cô cũng ngẩn ra,
rồi sững sờ như hóa đá, còn đá đảo lại bồn chồn, lại rạo rực, lại muốn hóa thành người,
thành một chàng trai, để cô lé mắt đến.Nói tóm lại, cô đúng là một nàng Tiên… Nhưng
một người con gái đẹp như thế không thể lại là Thị Tương được. Thị Tương có khác gì
Thị Nở. Nghe cứ ghê cả răng. Thi sĩ Hai Ùm quyết định đặt tên cho cô là Mộng Tương.
Thế rồi cả đảo gọi cô là Mộng Tương. Phải vậy chứ! Người trong mộng cơ mà…Tiểu
66
thư công nương Mộng Tương cũng vẫn trở thành người thân của cả hòn đảo này rồi.
Chỉ tiếc chẳng có ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiều diễm của nàng. Có lẽ cũng vì thế
mà nàng càng trở nên lung linh, kỳ ảo. Ngày nào cánh lính trẻ cũng nhắc tới nàng, vanh
vách kể về nàng, cứ như họ đã quen nàng từ lâu lắm…” [41, tr.85]. Hình ảnh tiểu thư
Mộng Tương như một cơn gió mát thổi qua hòn đảo nắng cháy đầy cát và gió này. Tình
yêu đôi lứa thầm lặng khiến những chàng trai tuổi đôi mươi ấy thêm sức mạnh chiến
đấu, khát khao hạnh phúc lứa đôi đưa các anhvượt qua gian lao thử thách hướng về
những điều tốt đẹp ở tương lai. Và cũng thật dễ hiểu khi nhận được thư của nàng từ đất
liền gửi ra các anh đã có một chút hẫng hụt:“Dạo này con ngoan lắm. Con không quấy
mẹ, cũng không gác chân lên cổ mẹ nữa. Hôm nao bố về, bố nhớ mua cho con ba quả
bóng bay như của cái Tèo. Mí nữa đêm ngủ, con không còn đái dầm đâu bố ợ…Cả đảo
bỗng lặng phắc.Một sự im lặng đến ngột ngạt. Tư xồm bỗng thấy choáng váng. Làm sao
ở hòn đảo này lại không có một người con gái như thế. Ơ kìa, bố Thuận!Trời ơi, bố làm
sao thế? …Làm sao lại có chuyện như thế? Không!Bố Thuận nói đùa đấy! Các cậu
ơi!Bố Thuận nói đùa đấy! Các cậu ơi!Bố Thuận nói đùa đấy!Các cậu ơi! Bố Thuận nói
đùa đấy!Không! Không!...” [41, tr.89]. Dường như không muốn chấp nhận hiện
thựcnày. Dù chỉ là trong tưởng tượng thôi, nhưng các anh vẫn muốn được sống như thế.
Được ao ước, được chờ mong tình yêu lứa đôi, điều đó nuôi dưỡng tâm hồn các anh,
khiến nó không khô héo cằn cỗi ngược lại đó là liều thuốc bổ cho trái tim, giúp các
anh thêm yêu đời và hăng say chiến đấu.
Tình yêu lứa đôi, đôi khi chỉ là yếu tố vô hình, nhưng vai trò của nó thì
chúng ta không thể phủ định. Tình yêu giúp chúng ta thăng hoa cảm xúc, yêu đời và
có thêm sức mạnh cho những dự định tương lai. Với những người lính Trường Sa
cũng vậy. Có thể nhận thấy rằng các sáng tác của Trần Đăng Khoa khi viết về tình
yêu đôi lứa thường lấy biển đảo làm không gian giãi bày. Điều đó làm nên đặc sắc
trong các sáng tác của anh. Phải chăng nhờ sự mặn mòi của biển, sự xao động của
sóng đã làm cho tình yêu thêm đậm sâu, thêm da diết, mang lại sắc nét riêng cho
những trang viết của anh về chủ đề biển đảo
67
Tiểu kết chương 2
Trong lịch sử bảo vệ và gìn giữ đất nước của dân tộc, biển đảo luôn là phần
lãnh thổ thiêng liêng là nơi lưu giữ hình ảnh của dân tộc qua nhiều thăng trầm. Biển
đảo là nơi đầu sóng ngọn gió với biết bao nguy hiểm, mất mát nhưng biển đảo cũng là
nơi nối nhịp thương yêu giữa muôn trùng giông bão. Tất cả điều đó làm lên một biển
đảo sừng sững hiên ngang mà chan chứa tình yêu trường tồn đó là tình yêu Tổ quốc.
Trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa sau năm 1975 viết về biển đảo là
nguồn cảm hứng chủ đạo. Nhà thơ có một cái nhìn rất riêng khi viết về biển cả với
những cảm xúc riêng khi đứng trước sự thiên nhiên bao la rộng lớn. Các sáng tác
của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo trước hết là tiếng thơ khẳng định chủ
quyền lãnh thổ một tiếng nói đanh thép tuyên bố chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Tiếng thơ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người với biển đảo vẻ đẹp tráng
lệ nhưng cũng rất dữ dội, ở đó những người lính luôn bám biển canh giữ vùng trời,
vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc; ca ngợi tình yêu đôi lứa trong sáng mà thiết tha
là động lực cho người lính chiến đấu, nhìn về hạnh phúc tương lai.
Lịch sử chính là mảnh đất ươm mầm, cảm hứng nghệ thuật là hạt nhân sáng
tạo và tài năng chính là bàn tay nâng đỡ những tác phẩm vượt qua mọi sự sàng lọc
khắt khe của thời gian tìm kiếm một vị thế vững chắc trong lòng độc giả và Trần
Đăng Khoa đã làm được điều đó.
68
Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
3.1 Hệ thống biểu tượng
3.1.1. Khái niệm biểu tượng nghệ thuật
Khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về biểu tượng nghệ thuật. Theo
George thì biểu tượng (Symbol) là cái “Tiết lộ mà che dấu và che dấu mà tiết lộ”.
Dựa trên nhiều ý kiến chúng ta có thể đưa ra một cái nhìn thống nhất về biểu tượng
như sau: Biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm
tính và mặt ý nghĩa mang tính tất yếu, có lí do. Mặt hình thức cảm tính: Cái biểu
trưng, tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sức tưởng tượng của con
người. Mặt ý nghĩa: Cái được biểu trưng, mà cái được biểu trưng bao giờ cũng rộng
hơn, dồi dào hơn. Cụ thể, biểu tượng theo một cách khái quát trước hết là hình
ảnhcủa thế giới khách quan bên ngoài con người (màu sắc, vật thể, cơ thể...). Với
phương pháp biểu trưng hóa của hoạt động ý thức, con người đã phản ánh sự vật
khách quan vào trí óc của mình, cấp cho nó một ý nghĩa, một thông tin. Từ đó, tạo
nên một thế giới bên trong thế giới ý niệm, đó là thế giới vô hình, vô hạn và vô khả
tri. Nó vừa phản ánh thực tại, vừa từ thực tại mà tưởng tượng, suy luận đem lại cho
con người một khả năng vô tận: Khả năng trí tuệ, khả năng tâm linh để con người
có thể tư duy, thông báo với nhau. Như vậy bằng cách mô phỏng tự nhiên, con
người đã tự sáng tạo ra một thế giới biểu tượng đa dạng, phong phú và vô cùng sống
động. Biểu tượng không chỉ tồn tại trong một ngành khoa học riêng mà còn là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học : Triết học, phân tâm học, mỹ học, thần
học, ngôn ngữ học...
Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Nói
đến biểu tượng người ta chú ý đến hai dấu hiệu nhận biết. Thứ nhất, biểu tượng là
hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan. Thứ hai, biểu tượng không chỉ mang ý
nghĩa biểu vật mà nói đến nó là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa
biểu cảm. Nó là“một phương thức chuyển nghĩa của lời nói”[23, tr.24].Tuy nhiên,
69
biểu tượng có những đặc điểm ý nghĩa khác với hình ảnh có nội hàm gần gũi là ẩn
dụ và hình tượng. Việc xác định ranh giới giữa biểu tượng và ẩn dụ chỉ là tương đối.
Dựa trên hai dấu hiệu nhận biết của biểu tượng như trên thì biểu tượng có vẻ không
khác gì ẩn dụ. Nên để phân biệt rõ biểu tượng và ẩn dụ thì trước tiên phải xác định
đối tượng. Theo nhà văn Nga V.I.Eremina thì “Ẩn dụ thơ ca được sinh ra nhất thời
và mất đi khá nhanh. Biểu tượng được hình thành trong quá trình dài và sau đó
sống hàng trăm năm, ẩn dụ là yếu tố biến đổi còn biểu tượng là không đổ, bền
vững. Ẩn dụ là phạm trù thẩm mỹ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ.
Biểu tượng thì ngược lại, được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định”
[65, tr.85]. Như vậy, tính biến đổi và bền vững, tự do và ước lệ là những cơ sở để
nhà văn Nga V.I.Eremina phân biệt ranh giới giữa ẩn dụ và biểu tượng. Tác giả
Phạm Thu Yến khi nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian cũng khẳng định:
“ Biểu tượng mang tính kí hiệu, quy ước, nghĩa là chỉ cần nêu hình ảnh biểu tượng
là người đọc đã hiểu ra cái mà nó biểu trưng, Không cần yếu tố giải mã vì nó đã in
sâu vào tư tưởng thẩm mỹ dân gian. Còn ẩn dụ tự do hơn, không chỉ được tạo bằng
một hai hình ảnh mà bằng vài ba hình ảnh. Vì thế các yếu tố cần dựa vào nhau để
giải mã ẩn dụ, ẩn dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng
nhiều hơn nhưng không bền vững bằng...Biểu tượng là hình ảnh ẩn dụ được sử
dụng ở mật độ cao mang tính quy ước”[65, tr.87].
Biểu tượng và hình tượng cùng có giá trị nhận thức cảm tính và chủ quan
trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ. Nhưng giữa biểu
tượng và hình tượng lại có những điểm khác nhau rõ rệt. Sự tồn tại của hình tượng
nghệ thuật không bao giời vượt quá giới hạn của hình thức biểu đạt cụ thể (luôn có
phương tiện biểu hiện trọn vẹn nghĩa của hình tượng), còn sự tồn tại của biểu tượng
thì lại vượt quá giới hạn của một sự biểu đạt, biểu nghĩa (nghĩa là không một
phương tiện nào có thể biểu đạt trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng).Hình tượng bao
giờ cũng tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra khỏi một hệ thống nào đó để
phù hợp với yêu cầu: Tự do, hoàn thiện, độc đáo và khác biệt. Trong khi đó biểu
tượng bao giờ cũng nằm trong một hệ thống nhất định, không thể tách ra đứng độc
lập trong nhận thức của con người. Điểm khác nhau rõ nét nhất là biểu tượng có
70
phạm vi lớn hơn hình tượng rất nhiều. Với tư cách là khách thể tính thể chứ không
phải khách thể thực tại, hình tượng có một số đặc tính của biểu tượng. Chính yếu tố
này khiến cho biểu tượng trong văn học có khi chỉ là một nhưng lại có thể được
diễn tả thành nhiều hình tượng. Ta thấy trong văn chương từ một biểu tượng là biển
có thể có nhiều hình tượng được gửi gắm vào trong đó(Người con gái trong tình
yêu, cảm thức về vũ trụ...) Những hình tượng ấy đều có một số nét liên hệ và phụ
thuộc vào biểu tượng. Chính những mối liên hệ khiến cho hình tượng đưa ra có sức
sống lâu bền trong lòng người đọc. Mặc dù giữa ẩn dụ, hình tượng và biểu tượng có
những nét phân biệt song những thuật ngữ này lại có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Chúng ta không thể tách rời biểu tượng ra một cách độc lập. Vì vậy, khi nhắc đến
biểu tượng nghệ thuật người ta cũng nhắc đến ẩn dụ và hình tượng, hình ảnh.
Các biểu tượng ngôn từ nghệ thuật được cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn
ngữ trong văn học. Trong phạm vi ngôn từ nghệ thuật, các biểu tượng triết học,
phân tâm, văn hóa, văn học, đều được chuyển thành các từ - biểu tượng. Các hình
thức vật chất cụ thể (sự vật, trạng thái, hoạt động...) và các ý niệm trừu tượng trong
đời sống tinh thần con người tín hiệu hóa thông qua hệ thống ngôn từ. Và hệ thống
ngôn từ đó còn mở ra cho các biểu tượng những mối liên hệ mới, hiện thức hóa và
phát triển ý nghĩa biểu tượng trong một năng lực biểu hiện to lớn. Từ đó nảy sinh
nhiều biến thể khác nhau. Mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và hoàn cảnh đã tạo
nên sự tương tác trong một môi trường văn hóa - ngôn ngữ, từ đó nhận diện được sự
biến đổi ý nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa - Cái thực thể tinh thần của thế giới trong nhận
thức của con người được phản ánh trong ngôn ngữ là vô hạn. Do đó, việc sử dụng
ngôn từ như những biểu tượng trong hoạt động sáng tác văn học nói chung và thơ
ca nói riêng có thể gọi là một cách định danh mơ hồ, đòi hỏi một tư duy tưởng
tượng, một cái nhìn khám phá bản thể bị che khuất. Trong văn học cấu trúc ngôn từ
của thi ca được xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ, trong đó vai trò quan
trọng thuộc về các từ - biểu tượng với tư cách là những điểm nhấn trong tổng thể
đó. Sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo đã xây dựng được nhiều
biểu tượng hấp dẫn là những tín hiệu thẩm mỹ đạt những ý nghĩa phong phú: Biểu
tượng cánh buồm, biểu tượng thuyền và biển, biểu tượng cánh chim hải âu.
71
3.1.2. Biểu tượng cánh buồm
Trong lịch sử phát triển lâu đời của mình, các dân tộc đã tạo ra những biểu
tượng văn hóa hội tụ những tinh hoa, tinh thần cho riêng mình và mang tính cộng
đồng cao. Những biểu tượng ấy đã tồn tại qua những biến cố thăng trầm của lịch sử,
những sóng gió của thời gian dần trở thành những hằng số văn hóa đại diện cho mỗi
quốc gia mỗi dân tộc. Các nhà thơ nhà văn dù ít hay nhiều cũng sẽ ảnh hưởng của
những biểu tượng mang tính truyền thống như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa chắc
hẳn cũng không là một ngoại lệ, cùng với hệ thống những biểu tượng mới mẻ mang
đậm dấu ấn cá nhân nhà thơ vẫn có sự tiếp nhận của những biểu tượng truyền thống.
Những biểu tượng này tuy không còn mới mẻ nhưng bằng sự sáng tạo và việc thể
hiện cái tôi đầy bản lĩnh của một tài năng, Trần Đăng Khoa đã đưa những biểu
tượng cũ này lên một tầm đón nhận mới, mang những cung bậc cảm xúc cùng
những sắc thái biểu cảm mới, đạt được những hiệu quả bất ngờ. Biểu tượng trong
sáng tác của Trần Đăng Khoa trong các giai đoạn sáng tác mang những nét khác
nhau, nếu như trong các sáng tác thời thơ ấu của anh ta thường bắt gặp các biểu
tượng như góc sân, khoảng trời và cơn mưa thì trong giai đoạn trưởng thành đặc
biệt là trong quãng thời gian anh thực hiện nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa, Trần
Đăng Khoa đã sáng tạo nên những biểu tượng mới, mang những tâm tư suy nghĩ
của một người lính.
Cánh buồm gắn với hình ảnh những con thuyền xuôi ngược trên biển. Hình
ảnh cách buồm từ lâu đã trở thành một biểu tượng rất đỗi quen thuộc trong văn học:
Cánh buồm tít cõi mờ xa (Lí Bạch), thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Nguyễn Du), cánh buồm trắng - mảnh hồn làng (Tế Hanh)... Cánh buồm no gió là
biểu tượng cho khát vọng đi xa, khát vọng tự do, làm chủ thiên nhiên đất nước,
chiếm lĩnh không gian của con người. Cánh buồm no gió ấy vượt muôn trùng
dương đong đầy bao hoài bão lớn lao của con người để đến với những chân trời
rộng mở.Trong bài Thơ tình người lính biển Trần Đăng Khoa đã từng viết:
Anh xa khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay anh đi dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên...
(Thơ tình người lính biển)
72
Khổ thơ như một bức tranh đẹp, tác giả đã khéo léo hướng đôi mắt đi từ gần
đến xa rồi từ xa về gần để có một bức tranh toàn cảnh bao quát, đa màu sắc có chiều
rộng và chiều sâu, cảnh đoàn tàunối đuôi nhau ra khơi với khí thế sục sôi cống hiến
của tuổi trẻ nhưng cũng không kém phần lãng mạn bởi sự xuất hiện của hình ảnh
những áng mây trắng như treo ngang cánh buồm, rất thơ mộng.
Anh xa khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
(Thơ tình người lính biển)
Trong giây phút ấy không chỉ có sự chia xa của con người mà như cảnh vật
cũng có sự quyến luyến nhau. Cánh buồm lúc này không phải là vật vô tri vô giác
mà như mang trong mình tâm trạng đong đầy. Đất nước ta một quốc gia với bờ biển
rộng lớn trên 3000 km những cư dân của đất nước ấy sẽ mãi mãi bền bỉ trong hành
trình vượt trùng dương hướng ra biển để khẳng định vị thế của mình. Dù chỉ xuất
hiện duy nhất một lần trong thơ viết về chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần
Đăng Khoa nhưng cánh buồm trở thành một biểu tượng hùng tráng trong sáng tác
của Trần Đăng Khoa, cánh buồm mang biểu tượng của sức sống của tâm hồn mở ra
cùng nắng gió, là những khát khao khám phá những miền đất hứa, những chân trời
mới. Cánh buồm bé nhỏ thôi, lênh đênh trên biển cả bao la nhưng đó chính là hình
ảnh của sự sống con người là gạch nối mong manh,nối liền đất liền và hải đảo, là
hình ảnh Tổ quốc thân thương với những làng quê, bờ tre, bãi mía, nương dâu.Hình
tượng đất nước và nhân dân trở nên cao rộng huyền ảo trong hải trình của cánh
buồm trên biển lớn. Biểu tượng cánh buồm trong sáng tác của Trần Đăng Khoa gắn
với khát vọng của tuổi trẻ ra biển là chấp nhận những thử thách nguy hiểm, nghiệt
ngã hơn, to lớn hơn trong đất liền nhưng có lẽ những điều đó chỉ góp phần tôi luyện
ý trí sắt đá của người chiến sĩ tuổi đôi mươi ấy. Các anh sẽ biết ngược chiều cơn gió
thổi để đi đúng con đường đã chọn, trong hành trình đi về phía mặt trời lên, các anh
đã, đang và sẽ vươn ra biển lớn với bản lĩnh và ước mơ mang tên Việt Nam. Tình
yêu tổ quốc đồng hành trong tình yêu lứa đôi và khát vọng tuổi trẻ, trách nhiệm
công dân.
73
Hành trình nào cuối cùng cũng mong gặt hái được nhiều hạnh phúc. Cái
hạnh phúc lớn nhất của một dân tộc, một con người, không gì khác chính là tự
do.Tự do như cánh buồm lộng căng giữa biển bao la.
Nếu như biểu tượng cánh buồm trong sáng tác của Hoàng Trung Thông, hình
ảnh cánh buồm căng gió đưa con thuyền lướt trên biển khơi gợi nỗi nhớ quê hương
mênh mông vô định, lẻ loi, đơn chiếc, gợi sự hoài niệm đưa ta đến bến bờ xa thẳm
của kí ức
Cha lại dắt con đi trên cát mịn
Ánh nắng chảy đầy vai
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời
“Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé,
Để con đi!”
Lời của con hay tiếng sóng thầm thì
Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”.
(Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông)
Tâm trạng tiếc nuối của người cha, những ước mơ tưởng chừng đã mất đi bởi
cuộc đời nghiệt ngã. Cánh buồm ở đây là sự nuối tiếc, có lẽ nó mãi chỉ là cánh
buồm khát vọng, khắc khoải ám ảnh suốt một đời trai trẻ. Thì trong sáng tác của
Trần Đăng Khoa biểu tượng cánh buồm mang những màu sắc mới mẻ, dấu ấn của
tuổi trẻ. Nhà thơ đã rất thành công trong việc khắc họa biểu tượng cánh buồm. Hình
ảnh cánh buồm trong sáng tác của Trần Đăng Khoa mang đầy khao khát làm chủ
thời cuộc, nhà thơ giong cánh buồm của mình cập bến tương lai. Đó là cánh buồm
của tuổi trẻ căng phồng sức mạnh, của thế hệ sau nối dài ước mơ không ngừng phát
triển. Cánh buồm là biểu tượng sức sống, kết nối những miền xa và viết tiếp những
ước mơ dang dở.
3.1.3. Biểu tượng tàu và biển
Biểu tượng thuyền và biển là những biểu tượng khá quen thuộc trong các
sáng tác viết về biển đảo. Biểu tượng thuyền thường được sử dụng để ẩn dụ cho
74
người con trai vì thuyền là vật di chuyển nay đây mai đó không mang tính cố
định. Ngay từ xa xưa ta đã dễ dàng bắt gặp biểu tượng này trong các sáng tác văn
học dân gian:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
Biểu tượng biển là cái đứng yên bất biến ẩn dụ cho người con gái. Tình yêu
vì thế mà sâu sắc kín đáo nhưng cũng rất đỗi tinh tế. Trần Đăng Khoa đã tiếp nối,
vận dụng khá thành công trong việc sử dụng biểu tượng thuyền và biển trong các
sáng tác của mình nhưng Trần Đăng Khoa đã nâng biểu tượng lên một tầm cao biểu
đạt mới phù hợp với thực tế chiến đấu của người lính Hải quân thông qua đó tác giả
gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình đó là biêu tượng “tàu và biển”..Trong bài
Những đám mây trắng ngời từ hải đảoTrần Đăng Khoa đã viết:
Những đám mây trắng ngời từ hải đảo
Bay nôn nao về phía đất liền
Ồ, Không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy
Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em
Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở
Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời
Nếu em cũng biết yêu anh như con tàu yêu biển
Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...
Với cách nói đầy hình tượng, tả ít mà gợi nhiều. Người lính ở đây hiện lên
không chỉ dạn dày với nắng gió miền biên đảo, các anh hiên ngang nhưng cũng rất
đỗi lãng mạn, yêu đời. Trong những giây phút căng mình làm nhiệm vụ khi thư
nhàn các anh nghĩ về tình yêu lứa đôi về hậu phương xa nhớ rất đỗi thi vị. Bài thơ
viết về tình yêu đôi lứa nhưng thông qua cách biểu đạt kín đáo, tinh tế.
Những đám mây trắng ngời từ hải đảo
Bay nôn nao về phía đất liền
Ồ, không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy
Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em
75
Nhà thơ mượn cặp đôi biểu tượng “tàu và biển” để diễn tả sự thủy chung,
son sắt của lứa đôi trong tình yêu,biểu tượng “tàu và biển” được cô đọng trong triết
lí yêu mãnh liệt và sâu sắc với mạch chảy xuôi chiều của tư duy hướng biển, khao
khát hướng về sự đồng thuận lí tưởng và tâm hồn. Bài thơ như đong đầy nỗi nhớ
của chàng lính biển gửi người yêu phương xa.
Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở
Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời
Nếu em cũng biết yêu anh như con tàu yêu biển
Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...
(Thơ tình người lính biển)
Nỗi nhớ thương vì xa cách của tàu và biển da diết bao nhiêu thì nỗi nhớ
thương của đôi lứa yêu nhau càng cháy bỏng bấy nhiêu. Tàu và biển là sự đồng điệu
sinh ra là để dành cho nhau. Chỉ có tàu mới giúp hiểu thấu lòng biển và chỉ có biển
mới giúp tàu đi tới những miền xa cho thỏa khát vọng và đam mê.Ta có thể thấy
rằng biểu tượng tàu và biển tuy không còn xa lạ nhưng qua các sáng tác của Trần
Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo,tác giả không chỉ tiếp nhận những biểu tượng
truyền thống một cách thụ động, bằng tài năng sáng tạo Trần Đăng Khoa đã đưa
những biểu tượng cũ này lên một tầm cao, mới mẻ mang đậm dấu ấn cá nhân với
những sắc thái biểu cảm khác lạ, đạt được hiệu quả bất ngờ.Trong bài Thơ tình
người lính biển, biểu tượng biển xuất hiện nhiều lần. Hình ảnh biển và em luôn
đứng bên nhau, đi liền nhau trong suốt cả bài thơ cùng với lối kết cấu đặc biệt. Bài
thơ gồm năm khổ thì cả năm khổ thơ đều được kết thúc bằng hình ảnh Biển một bên
và em một bên như vậy trong sáng tác này của Trần Đăng Khoa ta thấy rằng cái
đích mà Trần Đăng Khoa hướng tới không chỉ là tình yêu trai gái, biểu tượng biển
không chỉ là hình ảnh của người con gái trong tình yêu nữa mà biểu tượng biển là
tình yêu tổ quốc. Biển không còn là đối tượng miêu tả đơn thuần mà biển đã thành
biểu tượng của tổ quốc:
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên...
76
Điều đó đã giúp cho bạn đọc luôn cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi
lúc, mọi khoảnh khắc thì “biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn
người lính biển, đem lại niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho anh, biển khơi cũng
chính là biển của tình yêu. Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống
của người lính biển đã và sẽ mãi mãi dành cho “biển” và “em”:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.”
Ở bài thơ Ra khơi ta một lần nữa bắt gặp biểu tượng tàu nhưng hình ảnh con
tàu không chỉ là hình ảnh ẩn dụ chàng trai
Vành trăng non vừa vặn
Vòm đêm lung linh sao sáng
Sương buông
Sương buông
Mờ muôn dặm biển
Đêm nay tàu ta lại ra khơi
Cho dải đất liền tím sẫm
Bình yên
Bình yên
Bình yên
Nằm dưới sao trời
Con tàu xuất phát trong đêm như một sự hi sinh thầm lặng của các anh góp
phần bảo vệ tổ quốc, bảo vệ biển đảo thân yêu. Có lẽ điểm giống giữa biểu tượng
thuyền và con tàu đều là hình ảnh biểu trưng cho người con trai, cho thế hệ trẻ, cho
ý chí và nghị lực quyết tâm của những người lính biển như con tuấn mã lướt sóng đi
về phía trước bảo vệ vùng biển, vùng trời và cả phần đất liền thiêng liêng tím sẫm
phía sau lưng các anh. Ở đó có gia đình, bạn bè những điều thân yêu đang tràn đầy
hi vọng gửi gắm trong trái tim những người lính trẻ. Không chỉ vậy, tàu còn là biểu
tượng của đất liền, mang hơi ấm của đất liền ra với đảo. Mỗi lần tàu ra với đảo là
77
ngày đó đảo như ngày hội, tàu không chỉ chuyển đến nhu yếu phẩm mà tàu còn
mang đến những cánh thư – món ăn tinh thần mà người lính khát khao mong chờ
“Ôi chao! Phải nói đó là một ngày náo nhiệt, chộn rộn. Lần nào tàu ra, đảo cũng
như ngày hội. Huống hồ chuyến tàu này lại có thư của tiểu thư công nương. Nhưng
thật oái oăm. Bữa đó biển động. Trời tối mù mịt. Sóng nổi trắng như mây. Tàu
không cập mạn được, cũng không buông nổi neo. Sóng chồm lên cả nóc đài chỉ huy.
Con tàu đành cắtt sóng, chồm lượn quanh đảo. Chẳng có cách chi chuyển được
hàng vào, mà cánh lính thì không thể “nhịn” thêm được. Phải cho anh em “ ngửi”
chút đất liền chứ!’’. [41, tr.87].
Điểm khác biệt giữa biểu tượng thuyền và biểu tượng tàu đó là vị trí địa lý
quá xa đất liền cho nên những con thuyền bé nhỏ thô sơ không đủ sức vượt qua
những con sóng lớn để đến được đảo, chỉ có những con tàu lớn, mạnh mẽ mới có
thể đảm đương hành trình dài xa xôi.
Trần Đăng Khoa không ngừng nỗ lực tìm tòi và trải nghiệm sáng tạo trong
các tác phẩm của mình. Anh đã khéo léo vận dụng biểu tượng “tàu và biển” tưởng
chừng như đã quen thuộc với bạn đọc, thổi hồn của mình vào những biểu tượng ấy
và đưa nó lên một tầm cao mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và nhận được sự đón
đợi nhiệt tình từ phía độc giả. Bằng cách nói đó mà biển đảo hiện lên với vẻ đẹp
chân thực, phong phú và đậm chất thơ hơn.
3.1.4. Biểu tượng cánh chim hải âu
Ngay từ xưa, trong thơ ca cổ cánh chim thường được mượn để làm biểu
tượng của thời gian, của sự trở về sum họp.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
Hay
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
(Chiều tối - Hồ Chí Minh)
78
Cánh chim là tín hiệu cho sự chảy trôi của thời gian. Trong Thơ Mới hơn một
lần ta bắt gặp hình ảnh cánh chim bé nhỏ, cô đơn biểu tượng cho cái tôi Thơ Mới:
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
(Tràng Giang - Huy Cận)
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
(Thơ duyên - Xuân Diệu)
Trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo, hình ảnh
cánh chim hải âu không xuất hiện trong thơ mà chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết Đảo
Chìm. Hình ảnh cánh chim hải âu xuất hiện hai lần, tần xuất ấy không nhiều, nhưng
nó đã trở thành một biểu tượng đầy ý nghĩa. Cánh chim hải âu lướt trên biển xanh là
người bạn đường của những con tàu và ngư dân miền biển. Hải âu báo điềm lành,
điềm dữ cho những người ngư dân. Vì sự gắn kết và thân thiết đó cho nên thật dễ
hiểu cánh chim hải âu là hình ảnh thường được xuất hiện trong các sáng tác thơ ca
viết về biển đảo và nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng không là một ngoại lệ. Trong tiểu
thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng Khoa hình ảnh cánh chim hải âu trở nên
thân thuộc,gần gũi. Qua lời của cậu lính trẻ Hai Ùm ta có thể hiểu rõ hơn điều này
“Tiếc ở đây, chẳng có hải âu - Hai tỏ vẻ tiếc rẻ - Trước đây đọc thơ văn, sách báo,
nghe các nhà văn đàn sáo, em cứ tưởng hải âu là bạn của thủy thủ. Hóa nhầm! hải
âu chỉ là bạn của dân thuyền chài thôi. Ngoài khơi xa này, làm gì có hải âu. Hải âu
chỉ bay ven bờ, cách bờ trăm cây số là cùng. Vì thế, đối với cánh lính biển chúng
em, hải âu là ngọn hải đăng báo hiệu đất liền. Nhìn thấy hải âu là ngửi thấy “mùi”
đất liền rồi. Nếu không may, có phải hy sinh trên biển, được thấy bóng hải âu chớp
qua trước mắt trước khi nước khép mặt thì mừng lắm, vì có thể hy vọng những mẩu
xương tàn của mình sẽ được sóng táp vào đất liền...”[41, tr.69]. Cánh chim hải âu
là biểu tượng cho khát vọng tự do, hòa bình, nó là tín hiệu báo tin từ đất liền gửi ra
hải đảo, nối kết đất liền với hải đảo xa xôi. Vì nhiệm vụ tổ quốc và nhân dân giao
phó các anh lên đường chiến đấu nhưng ở nơi xa xôi ấy các anh luôn trông ngóng
về đất liền ở đó có biết bao điều thân thương đang chờ đợi các anh, sự xuất hiện của
cánh chim hải âu trên đại dương bao la đã khiến không gian địa lí được rút ngắn lại,
biển đảo trở nên gần gũi, thân thương hơn.Cánh chim hải âu trở thành chiếc cầu nối
79
đất liền và tình yêu đôi lứa đã giao hòa sâu lắng cùng với tình yêu thiên nhiên, tình
yêu tổ quốc.
Cánh chim hải âu đo độ dài bao la của biển cả. Cánh chim nhẹ nhàng chao
liệng báo hiệu một ngày biển bình yên. Cánh chim hải âu vội vã xải nhịp cánh báo
hiệu một ngày biển động. Giữa bầu trời bao la đó nhờ có cánh chim mà biển bớt cô
đơn. Trần Đăng Khoa không nhắc nhiều về hình ảnh cánh chim hải âu bởi nơi anh
sống là Trường Sa, một quần đảo nằm phía xa đất liền nơi đó chỉ có loài ó biển, một
loài chim rất dữ tợn. Những cánh chim hải âu như bé nhỏ giữa biển bao la không
bay tới được. Nhưng dù chỉ một lần xuất hiện hình ảnh cánh chim hải âu vẫn nâng
lên tầm biểu tượng bởi giá trị to lớn mà nó biểu đạt. Người lính coi cánh chim hải
âu như ngọn hải đăng báo hiệu đất liền, ngay cả khi hy sinh hòa mình về với biển
các anh vẫn mong muốn một lần được nhìn thấy cánh chim hải âu chớp qua trước
khi nhắm mắt, bởi đó là hình ảnh của sự sống của quê hương. Là tình thương yêu
các anh gửi gắm nơi đất liền và như động lực giúp các anh hoàn thành tốt nhiệm vụ
được tổ quốc giao phó.
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng và mỗi hình thức đời sống, khi
trở thành kết quả của quá trình sáng tạo bao giờ cũng là một biểu tượng góp phần
mã hóa nội dung, tư tưởng nào đó của người nghệ sĩ. Có thể cảm nhận rằng quá
trình lựa chọn các biểu tượng đó chính là quá trình lao động nghệ thuật đầy đam mê
hứng khởi và sự thăng hoa cảm xúc của tác giả.
3.2. Giọng điệu
“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời
văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”[23,tr.112]. Các nhà
nghiên cứu cho rằng: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và
thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà
văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [23, tr.113]. Giọng điệu phản ánh được
phần nào lập trường, tư tưởng, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có
vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách riêng biệt của mỗi nhà văn, làm nên
80
dấu ấn riêng của họ trên văn đàn. “Thiếu một giọng điệu nhất định, các nhà văn
chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có tài liệu và sắp xếp trong hệ thống
nhân vật” [23, tr.113]. Giọng điệu trong tác phẩm thường có nhiều giá trị đa dạng,
có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo chứ không đơn điệu.
3.2.1. Trữ tình, trong sáng, thiết tha
Giọng điệu trong các sáng tác viết về chủ đề biển đảo Trần Đăng Khoa gắn
với mạch cảm xúc tình cảm xuất phát từ trái tim chân thành, từ chiều sâu suy nghĩ
và từ ý thức của một người luôn trân trọng cái đẹp, trân trọng những gì mình đang
có. Các sáng tác thơ ca là tiếng nói từ trái tim của một người và hướng đến trái tim
của vạn người. Chất duyên Trần Đăng Khoa thể hiện ở sự triết lí, trong sáng thiết
tha nhưng sâu sắc về cuộc đời, về con người qua mỗi trang viết nặng tấm lòng của
nhà thơ. Đó là tình yêu quê hương - đất nước, tình yêu mẹ, là những trải nghiệm -
những rung động của anh về tình yêu lứa đôi.
Các sáng tác của Trần Đăng Khoa trước đây thiên về bộc lộ cảm xúc của một
cậu bé tuổi mới lớn bỡ ngỡ, khám phá, cảm nhận mọi thứ tồn tại xung quanh mình
đầy hóm hỉnh:
Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân
(Thả diều)
Thì giờ đây, khi đã là một người lính, trong các sáng tác viết về biển đảo khi
đọc ta thấy ở trong mỗi câu đều là những sự lắng đọng, thiết thacủa anh về cuộc
đời, của một Trần Đăng Khoa trưởng thành và từng trải:
Mẹ ơi, có thể trong cuộc chiến đấu này
Con sẽ ngã xuống
Ngã xuống bình thường
Như bao đồng đội của con
Để mái nhà gianh mẹ được yên ả
Dưới sắc nắng vàng…
81
Và, có thể là, sáng mai bừng mắt ra
Mẹ sẽ nhận về một tờ giấy
Như nhiều bà mẹ ở làng
Tờ giấy mỏng manh
Nhưng lại nặng hơn ngàn tấn bom
Trút xuống tuổi già của mẹ
Cho dù thế, mẹ cũng đừng khóc nhé
(Thư gửi mẹ)
Nhà thơ viết về nỗi nhớ người yêu bằng một giọng điệu trong sáng mà tha thiết:
Anh ở đây. Đá hoang thành Tổ quốc
Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi
Anh chẳng biết để đâu, đành vùi vào
lòng biển
Nên suốt đêm, ngày biển vật vã sục sôi
(Nhớ)
Giọng điệu trữ tình, trong sáng thiết thamang âm hưởng tự sự và lắng đọng
trong chiều sâu cảm xúc. Khi nói về tình yêu, trong bài Thơ tình người lính biển bên
sóng biển ồn ào, người lính không nghe rõ lời em nói mà chỉ thấy nụ cười của cô
gái phảng phất nét buồn xao xuyến của người ở lại. Dù trong hành trình của người
con trai ấy không biết trước điều gì nhưng tình yêu lứa đôi hòa nhập trong tình yêu
Tổ quốc vẫn xanh tươi nảy nở trong anh. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của
người lính biển, giúp anh vượt qua muôn vàn gian nan thử thách. Tình yêu ấy làm
cho anh không bao giờ cô độc, trái lại Tổ quốc và em luôn ở bên anh, trong anh:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên…”
Khi Trần Đăng Khoa viết về tình bạn của những người lính trên đảo thật
thấm thía và lay động trái tim người đọc
82
Chúng tôi rất đông. Mười tám đôi mươi
Sâu sắc và vô tư như bầu trời
Tỉnh táo và đắm say như bầu trời
Màu áo lính hát niềm tâm sự lính
Biển nóng nảy nhưng chúng tôi trầm tĩnh
Những cơn sóng ngầm đến đây phải
bục dậy bất ngờ
(Hát về một hòn đảo)
Những tâm sự, những nỗi niềm sâu lắng của mình được Trần Đăng Khoa gửi
gắm vào trong những câu chữ một cách mộc mạc, sâu lắng, nhẹ nhàng. Giọng điệu
thơ Trần Đăng Khoa là hồn hậu, đằm thắm. Một hồn thơ làng quê chân chất. Một
lối viết nghiêng về tự sự, quen giãi bày. Nhưng bên cạnh một Trần Đăng Khoa chân
chất, hóm hỉnh thì còn có một Trần Đăng Khoasâu lắng, trữ tình thiết tha và đầy
lãng mạn, là biểu hiện của một tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc.
3.2.2. Triết lí, suy tư
Bên cạnh một Trần Đăng Khoa sôi nổi, đôi khi lém lỉnh ta còn bắt gặp trong
các sáng tác của anh một giọng điệu trầm ngâm, triết lí, suy tư, tâm tình sâu lắng.
Nếu như giọng điệu hồn nhiên chỉ có trong thời thơ ấu thì giọng điệu triết lí, suy tư
lại có trong thời kì trưởng thành của anh. Đặc biệt trong quãng thời gian anh sống
và chiến đấu tại Trường Sa, những sáng tác của anh để lại cho bạn đọc sự trải
nghiệm, những triết lí cuộc sống. Trần Đăng Khoa là nhà văn, đồng thời cũng là
người lính hải quân, anh có mặt rất sớm ở Trường Sa.Chính thờ i gian ở biển, đảo đã làm nên một Trần Đăng Khoa trưởng thành chín chắn hơn trong suy nghĩ. Quãng
thời gian gian khổ nhưng cũng để lại trong anh nhiều kỉ niệm góp phần tạo nên
thành công ở thời kì trưởng thành có thể sánh ngang với thành tựu củ a Trần Đăng
Khoa thần đồng của mấy chục năm trướ c.
Những ngày đầu đặt chân lên đảo Trần Đăng Khoa đã cảm nhận, suy tư về
một phần máu thịt của tổ quốc
Đảo tự dấu mình trong màu nước lam xanh
Cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu ngầu bọt sóng
83
Tổ quốc ơi!
Tiếng chúng tôi kêu lên
mà mắt chúng tôi nhìn xuống
Bóng chúng tôi chùm khắp đảo Thuyền Chài
(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)
Hay
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Khi phải chứng kiến những hy sinh mất mát của đồng đội anh là Hai Ùm,
Trần Đăng Khoa có những chiêm nghiệm triết lí “Hai ơi! Tư xồm bỗng nấc lên. Thế
là lại thêm một người lính nữa chết ở đảo Chìm. Người đó tại sao không phải
tôi,mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi khép mặt, Hai được
nhìn thấy cánh chim hải âu. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội
chạy tới vỗ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy
khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát. Lần đầu tiên, tôi
mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn
như ở Đảo Chìm. Mặn như máu”[41, tr 138]. Đoạn văn khiến cho người đọc ngẫm
ngợi nhiều về những hy sinh thầm lặng của các anh trên đảo. Đó là những câu văn
sâu sắc tình đời, tình người, thấm thía những nỗi buồn trong tâm sự của những
người lính đảo nhưng điều đó không khiến anh bi lụy ta có cảm nhận chính điều đó
như một thứ ánh sáng soi đường cho người ở lại. Đọc Đảo Chìm ta không khó để
nhận ra giọng điệu suy tư ấy bắt nguồn từ sự rung động của trái tim đó là những
cảm xúc đời sống rất chân thật mà lại sâu nặng chất nhân văn như những chiêm
nghiệm của một triết gia đã từng chứng kiến nhiều biến đổi của cuộc đời.
Chiều biển lặng ta nhìn xa ngút ngát
Thử thả sợi dây dài đo dạ biển xem sao
Lòng biến cũng nông thôi. Khi mồi chạm cá
Chỉ bụng dạ thế gian là chẳng biết thế nào…
(Trên boong tàu, câu cá)
84
Các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo thường viết không
dàn trải, không ồn ào, không bóng bẩy mà đọc lên thật đong đầy cảm xúc. Có
những bài chỉ để giãi bày những ưu tư,để trải nghiệm cuộc sống như bài Chuyện ở
Đảo Chìm:
- Sao lúc ấy nó không húc cậu
Rồi nuốt luôn khi cậu mất thăng bằng?
Tôi hỏi bạn lúc ngồi bên xoong cá
Thấy bạn vui mừng, lòng tôi vẫn băn khoăn…
…Bạn tôi cười. Hồn nhiên như trẻ nhỏ
Rồi giọng lại vang ầm át cả sóng biển khơi
- Cậu biết không, tớ chỉ sợ người thôi
Nhất là khi người biến thành cá mập
Đọc thơ anh ta thấy ẩn chứa cả nỗi đau. Nỗi đau của Trần Đăng Khoa không
hằn học, mà thể hiện sự xót xa trong nỗi lòng đồng cảm và sẻ chia trước những biến
động của thế gian, sự đánh giá của người đời. Trần Đăng Khoa là vậy, vui đấy, đùa
nghịch đấy nhưng cũng rất nhạy cảm, dễ xúc động. Tất cả hòa quyện trong con
người anh, trong các sáng tác của anh, tạo nên một Trần Đăng Khoa vừa sôi nổi, vui
tươi lại vừa trầm ngâm đa cảm.
Sự đa dạng về giọng điệu tạo nên sự phong phú, đa dạng và hấp dẫn cho từng
trang viết của Trần Đăng Khoa. Nếu như không có bản lĩnh, không có một vốn từ
thật uyển chuyển phong phú thì không thể có những giọng điệu gây ấn tượng cho
người đọc như vậy! Chất giọng thơ Khoa là hồn hậu, đằm thắm. Một hồn thơ làng
quê chân chất. Một giọng hát ru của đồng bằng Bắc Bộ. Một lối thơ nghiêng về tự
sự, quen giãi bày. Để đổi mới sáng tác của mình, Trần Đăng Khoa đã có những trải
nghiệm. Đi về mặt địa lý, ra các đảo xa với tư cách người lính và đã sáng được một
chùm các tác phẩm viết về biển đảo rất thành công. Nhưng những cuộc đi về địa lý
cần được kết hợp với những cuộc đi trong tâm hồn, trong tư duy nghệ thuật, để rèn
lấy một bản lĩnh trong thơ, cái gốc cho một cá tính của sáng tác thơ ca.
85
3.3. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu
“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: “Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu
cơ bản của văn học vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ
M.Gorki khẳng định “ ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [23, tr.185].
Ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ
học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng
ngôn ngữ dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài
phát thanh, trong văn học và khoa học.
Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn của ngôn ngữ văn học và được chọn lọc,
rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình nó lại góp phần nâng
cao, làm phong phú ngôn ngữ nhân dân.
Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể
hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ
cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắn ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao
động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.
Tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là
những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Căn cứ chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ văn
học đối với các hình thái của hoạt động ngôn ngữ chính là ở chỗ ngôn ngữ văn học
là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục
vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vì
vậy, tính hình tượng, tính thẩm mĩ là thuộc tính bản chất nhất xuyên thấm vào mỗi
thuộc tính khác quy định những thuộc tính ấy.
3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi
Trần Đăng Khoa vốn xuất thân là một từ một cậu bé thôn quê, dù ở đâu, đi
đâu, làm gì, ngôn từ trong các sáng tác của anh vẫn luôn mang đậm chất đồng quê,
chất dân dã, mộc mạc đời thường. Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhận xét: “Đọc
Trần Đăng Khoa, tôi lại hình dung ra anh là một lão nông dân nặng nợ với đất
đai, đồng áng, không phải chỉ lo thu hoạch ngày mùa, mà anh đau đáu lo từng
khâu từ cày cuốc đến phân gio, gieo cấy, nước nôi, mưa nắng. Tóm lại là cái nỗi
nhọc nhằn của anh nhà văn cày cuốc trên những thửa ruộng giấy trắng, thật cũng
trần ai khoai củ nhỉ”[dẫn theo 4].
86
Bằng ngôn ngữ giản dị và gần gũi kết hợp với ngòi bút tinh tế và giàu cảm
xúc Trần Đăng Khoa đã đưa chúng ta đến với một thế giới rất mới mẻ và lạ lẫm, thế
giới khiến chúng ta luôn phải nhìn lại và suy nghĩ. Khi viết về Đảo Chìm, Trần
Đăng Khoa đã khiến người đọc cảm thấy thú vị với ngôn ngữ duyên dáng, vừa thơ,
vừa gần gũi mà hóm hỉnh.
Không thể nào nhận ra hòn đảo
Sống bừng bừng dưới màu nước âm u
Không thể nhận ra căn lều bạt hoang sơ
Đứng sập xòe trên đại dương nhàu nát
Trông ngẩn ngơ như cái lều chăn vịt
Ai bỏ quên giữa mặt ruộng đang cày
(Hát về một hòn đảo)
Hay trong chương Biển mặn, Trần Đăng Khoa tả cảnh biển trong cơn bão:
“Mặt biển bạc phếch. Những đám mây bị chẻ tướp đuôi ngựa, bay vun vút như
khói” [41, tr.135]....Tất cả đã tạo nên những cảnh tượng vừa chân thực, vừa sống
động và cũng dễ đi vào lòng người đọc. Trong cuộc đối thoại của anh lính trẻ trên
đảo với vị Tư lệnh hải quân Trần Đăng Khoa đã lựa chọn ngôn ngữ rất giản dị và
gần gũi dường như để xóa nhòa khoảng cách và ranh giới giữa vị tướng chỉ huy cấp
cao với chàng lình trẻ, giữa họ chỉ có tình đồng chí, đồng đội và sự thấu hiểu.
- Thế bố cho con được nói thật nhé!
Ừ! Thì phải nói thật chứ!- Tư lệnh mỉm cười - chả nhẽ tớ già thế này, còn lặn
lội sóng gió ra đây với các cậu, để rồi rốt cuộc, lại nghe các cậu nói dối à?
- Nhưng bố không được phê phán con lãng mạn cơ...
- Cái thằng! Tao còn lãng mạn hơn mày ấy!
Anh lính trẻ nhìn mái đầu bạc trắng của tư lệnh, cười hồn nhiên:
- Thế thì, con đề nghị bố thế này nhé! Bận sau, nếu bố ra đảo, bố chịu khó
giắt lưng mang theo ra đây cho chúng con vài cô gái...
... Chúng mày muốn nghe hát hả? Muốn xem văn công chứ gì?
87
- Không, không! Anh lính bỗng luống cuống - Con đâu dám có voi đòi
tiên!Văncông xem ra xa vời quá! Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô
nuôi quân thôi! Các cô ấy chẳng phải hát hò gì cũng không phải nấu nướng.
Chỉ xin các cô mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi phơ phất trên đảo,
để chúng con ngắm, chúng con “chỉnh” mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy
đấy sang vành hết cả rồi” [41, tr.57].
Chỉ vài câu đối thoại, ta đã nhận ra anh lính cũng là một người thông minh,
lém lỉnh không khác gì Trần Đăng Khoa. Lời văn tự nhiên, ngôn ngữ phong phú
không cầu kì bóng bẩy, Trần Đăng Khoa đã trải lòng mình qua từng trang giấy.
Có lẽ khi viết về người lính về những khó khăn thiếu thốn mà các anh đã trải
qua Trần Đăng Khoa lựa chọn ngôn ngữ giản dị gần gũi là điều đúng đắn, và có lẽ
nhờ có sự chân thật ấy mà tác phẩm của anh đã nhanh chóng chiếm được trái tim
độc giả và gặt hái được những thành công vang dội. Anh đã tìm ra những viên ngọc
trên một bãi cát nhỏ bé, đã nhìn thấy vẻ đẹp của mỗi con người qua những điều bình
thường mà rất nhiều khi người khác không nhìn thấy. Như phần trên đã nhắc đến lời
tự bạch của anhtrong lời tựa khi viết Đảo Chìm:“Tôi đã định biến những con người
mà tôi yêu mến ấy thành nhân vật truyện ngắn, hay tiểu thuyết, nhưng sau lại thấy
không nên, vì bản thân họ đã rất đẹp rồi, rất thật rồi, hà cớ chi ta còn phải hư cấu
thêm nữa cho cồng kềnh rắc rối. Tốt nhất là cứ để như vậy. Cuộc sống vốn chân
thật và giản dị. Chính vì thế mà nó rất hấp dẫn. Tôi tin như thế” [38].
Một độc giả, khi đọc tác phẩm của Trần Đăng Khoa đã viết rằng: “Tôi là
người lính biển, đã nhiều năm làm bác sĩ ở Trường Sa…Tôi rất thích những trang
đối thoại của ông Khoa, vì thấy nó rất sống động, rất lính. Có lẽ sau Phạm Tiến
Duật, đây là cây bút giàu chất lính nhất, mà là lính trẻ. Khá thật, mặc dù ông Khoa
ở Hải quân có mấy năm thôi, và ông ấy cũng đi đảo lớt phớt lắm, chứ không đằm
mình như tụi lính tráng thật sự chúng tôi.”[37]. Và tác phẩm đã cuốn hút người đọc
bằng chính điều đó. Trần Đăng Khoa đã trả được món nợ của mình với Đảo Chìm,
với những người đồng đội.
Bên cạnh đó chúng ta còn nhận thấy nếu như trong những bài thơ thiếu nhi,
Trần Đăng Khoa thích sử dụng những câu thơ ngắn, nhằm diễn tả những hoạt động
nhanh, tất bật của sự vật trước những biến động của tự nhiên, thì trong câu thơ viết
88
trong giai đoạn này lại là những câu thơ ngắn dài đan xen, dàn trải như chính nỗi
niềm tâm sự của tác giả:
Xin mẹ cứ ngồi tựa cửa chờ con
Như những ngày xưa
Mỗi chiều con đi học về
Và mẹ lại lắng nghe
Tiếng bước chân bầy trẻ nhỏ
Chúng ôm sách, bá vai nhau,
rúc rích cười
đi ngang qua cửa sổ
Đi ngang qua chiều
Yên tĩnh
Và đêm xuống
Đầy nhà
Đầy vườn
Đầy cả bầu trời...
(Thư gửi mẹ)
Ngôn ngữ thơ tự do nhà thơ thoải mái giãi bày những tâm tư, tình cảm, của
mình trước cuộc sống. Những bài thơ tự do được Trần Đăng Khoa sáng tác ở giai
đoạn này là sự đóng góp của anh cho một đề tài mới: Thơ viết về chủ đề biển đảo.
Những đóng góp của Trần Đăng Khoa vào việc làm phong phú cho ngôn ngữ thơ là
điều cần khẳng định.
3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu
Thơ là nghệ thuật của ngôn từ, theo nghĩa ngôn từ là những ký hiệu mang
ngữ nghĩa, và như vậy thông điệp quan trọng hàng đầu mà thơ gửi đến người đọc,
người nghe vẫn là thông qua ngữ nghĩa của các từ ngữ. Thơ là một trong những thể
loại văn học gần gũi nhất với nghệ thuật, mà đặc thù tiêu biểu là ngôn ngữ thơ luôn
mang tính nhạc đến mức như một thuộc tính. Người xưa nói “thi trung hữu nhạc” là
để biểu dương những nhà thơ có tài nào đó khéo đưa được nhạc tính vào trong thơ.
Thơ có nhạc tính là điều mặc nhiên, người ta chỉ nhận xét là nó có nhiều hay ít mà
thôi. Ngay cả khi ta đọc thơ bằng mắt thì các từ ngữ vẫn vang lên thành những âm
89
hưởng đâu đó trong tâm trí ta và tâm hồn ta tiếp cận với bài thơ là qua âm hưởng
này chứ không thuần túy qua ngữ nghĩa như khi ta đọc một công trình khoa học
chẳng hạn, bởi thế chỉ cần nghe một người nào đó đọc có diễn cảm một đoạn thơ là
ta có thể biết cái cách người đó cảm thụ đoạn thơ đó như thế nào. Sự khác nhau
giữa đọc thơ dửng dưng vô cảm và đọc thơ diễn cảm phần nào có thể so sánh với sự
khác nhau giữa việc đọc lời ca từ và việc hát những lời đó thành giai điệu - so sánh
có thể quá lên một chút nhưng là để ta thấy vai trò của nhạc tính trong thơ quan
trọng biết chừng nào. Khi nói đến nhạc tính trong thơ là muốn nói đến những yếu tố
tác động ngoài ngữ nghĩa, những yếu tố tạo nên bởi cái vỏ âm thanh của từng từ
ngữ. Nhạc điệu trong thơ Trần Đăng Khoa rất phong phú, đa số các bài đều có nhạc
điệu và âm sắc. Sinh ra trong một làng quê, một gia đình có truyền thống về văn học
dân gian.Trần Đăng Khoa đã sớm chịu ảnh hưởng của những câu ca dao, những làn
điệu hát ru, có lẽ do vậy mà thơ anh giàu tính nhạc với giọng điệu tâm tình thủ thỉ.
Đảo à, đảo ơi!
Biển vẫn chao như đưa nôi
Biển vẫn âm thầm như người mẹ sáng tạo
Cho Tổ quốc ta có thêm một hòn đảo
(Hát về một hòn đảo)
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời gọi trìu mến “Đảo à, đảo ơi!” Thể hiện
sự thân thuộc gắn bó của anh với đảo, họ như hai người bạntâm tình chuyện trò. Họ
kể cho nhau nghe câu chuyện về biển và tương lai của đảo. Điệp từ “có”được đặt ở
đầu câu như hứa hẹn tương lai sáng ngời của đảo. Đảo sẽ bớt cô đơn giữa biển khơi
muôn trùng, rồi sự sống sẽ đâm chồi trên đảo.
… Có con đường cho anh đến với em
Có ngôi nhà dưới vòm cây mát
Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt vời nhất
Có thể gội đầu. Có thể uống no say
Có thể tặng nhau cả một giếng đầy.
(Hát về một hòn đảo)
90
Một trong những bài thơ nổi bật giàu nhạc tính của Trần Đăng Khoa đó là
Thơ tình người lính biển. Bài thơ ngay từ khi ra đời đã được nhiều thế hệ đón nhận.
Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã nhanh chóng đi vào lòng người và trở thành
bài cagắn bó với biết bao thế hệ. Bài thơ thật giản dị, thật gần gũi, cái bình dị, gần
gũi được gói gọn trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng và tình yêu lứa đôi thủy chung
của người lính biển. Câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” được lặp lại như
một điệp khúc khép lạitrong năm khổ thơ của bài thơ. Nhịp điệu bài thơ khoan thai,
dìu dặt tựa như những con sóng vỗ chao mạn thuyền. Nhưng được người lính lắng
lại để cân bằng hai đối trọng. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã đưa giai điệu “Biển một bên”
tha thiết vút cao và “Em một bên” dịu xuống rồi ngân dài. Nhưng giai điệu câu thơ
không vì thế mà mất cân bằng. Luôn tạo ra đối trọng tương trợnhau để con thuyền
băng băng ra biển lớn.Tính nhạc của âm thanh gây nên bởi những yếu tố như: cao
thấp, mạnh nhẹ, nhanh chậm... dưới những cấp độ khác nhau, cho đến cả khả năng
tượng thanh hay tượng hình, tức là khả năng liên tưởng, gợi về những thế giới thanh
âm có gốc thực trong đời.Phải chăng, giai điệu ấy đã thôi thúc người lính biển bao
giờ cũng đặt tình yêu Tổ quốc trên hết. Câu thơ thật lãng mạn và cũng thật trí tuệ.
Biển là Tổ quốc. Em, đấy là tình yêu lứa đôi. Một bên là cái chungvà một bên là cái
riêng. Cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính
biển. Bài thơ được khởi nguyên bằng ba từ thật đơn giản: “Anh ra khơi”. Đằng sau
ba từ ấy lại đong đầy tâm trạng của người lính biển. Đấy là Tổ quốc thiêng liêng, là
tình em chung thủy đan cài…Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ: “Biển một bên và em
một bên…” tạo cho người đọc sự đồng cảm, sẻ chia của sự cách xa trong tình yêu
đôi lứa và những tâm sự thiết tha.
Trong khoảnh khắc hạnh phúc lứa đôi, họ sánh bước bên nhau bên chân sóng,
nơi bến cảng xôn xao, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em: “Biển ồn ào, em
lại dịu êm”. Hai hình ảnh ngỡ như tương phản nhau nhưng đó là sự bổ sung cho nhau .
Bởi cả hai lắng sâu trong trái tim người lính biển giao hòa trong nhau.
Bên biển xanh rì rào, người con gái buông câu nói thiết tha, rồi nén nỗi chia
xa đầy luyến lưu của người ở lại. Rồi lặng lẽ mỉm cười, như lời động viên tha thiết
của mình khi ngoài kia biển đang thôi thúc tinh thần và trách nhiệm làm trai. Để rồi
người lính đi giữa cái chung và riêng trước phút chia tay mà hóa thân thành con tàu
lắng sóng từ hai phía. Và trái tim lại ngân lên: “ Biển một bên và em một bên…”vì
91
lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, đã có không ít chàng trai Việt ra đi không trở
về“Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên/Bão táp chưa ngưng trong những
vành tang trắng”. Nhưng không vì thế làm cho người thanh niên Việt Nam chùn
bước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ sẵn sàng đi đến nơi đầu sóng
ngọn gió để hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách hiên ngang: “Anh đứng gác.
Trời khuya. Đảo vắng”. Tác giả thật tài hoa khi dùng dấu chấm để ngắt nhịp câu
thơ, tạo thành ba cụm câu, đã đem lại hiệu quả biểu cảm thật cao, tạo cho người đọc
sự liên tưởng đến những vất vả, gian lao của người lính biển, nhưng cũng thật tự
hào. Hình ảnh “Anh đứng gác”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh
hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc.
Từ thuở cha ông bằng thuyền nan dong buồm đi cắm mốc chủ quyền quốc gia
trên biển. Các thế hệ của dân tộc ta luôn nối tiếp nhau vượt qua bao gian nan thử thách
để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Các anh luôn trung thành, luôn thủy chung với tình
yêu đất nước, với tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra.
Đó là tình yêu giản dị mà cao quý và thiêng liêng của người lính biểnThơ tình
người lính biển là bài thơ với những hình ảnh ấn tượng. Vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt
cùng với âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Tất cả cùng hòa điệu trong
âm hưởng “Biển một bên và em một bên…” tạo ra sự lan tỏa sâu rộng về tình yêuTổ
quốc quyện hòa cùng tình yêu lứa đôi lay thức trách nhiệm công dân trong lòng bao
thế hệ.
3.4. Biện pháp tu từ
3.4.1. Nhân hóa
“Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ trong đó người ta sử dụng từ ngữ biểu
thị thuộc tính dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính dấu hiệu của đối tượng
không phải là con người nhằm làm cho đối tượng trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn đồng
thời có thể bày tỏ thái độ tâm tư kín đáo của mình”[10, tr.136]. Nhân hóa được sử
dụng nhiều trong thơ ca nhằm làm cho sự vật thêm sinh động. Từ những vật hình
dạng không cụ thể cho đến những vật hữu hình tất cả đều có hành động, cử chỉ của
con người nhờ biện pháp tu từ nhân hóa:
92
Bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh tồn diễn tả được vẻ đẹp tâm hồn tươi tắn, lạc
quan của người lính đảo. Ngồi đợi mưa những người lính đảo hoá trẻ lại tuổi hồn
nhiên dưới một cơn mưa mộng tưởng:
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo
Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng
Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng
Chập chờn bay phía xa khơi…
…Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Chúng tôi sẽ trụi trần, nhảy choi choi trên mặt cát
Giãy giụa tơi bời trên mặt cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
(Đợi mưa trên đảo Sinh tồn)
Miêu tả một trận mưa rào nhưng nhà thơ diễn tả từ lúc dấu hiệu mưa mới bắt
đầu hình thành. “Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời”. Mọi người đang chờ đợi
cơn mưa tới, đến những tưởng tượng được thấy mưa rơi trên đảo cát cháy nắng,
nhưng thiên nhiên như muốn thử thách lòng kiên trì của con người “Cơn mưa vẫn
rập rình ngoài biển”rồi “ Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng”.Mưa không tới đảo
người lính có phần thất vọng nhưng các anh không bi quan, oán trách. Tác giả đã rất
khéo léo sử dụng biện pháp nhân hóa trong việc phác họa tính cách đỏng đảnh kiêu
sa của những cơn mưa nơi hải đảo. Với vai trò to lớn của mình là làm cho sự vật vô
tri vô giác thành những vật mang tâm hồn người, tính cách người, làm tăng giá trị
biểu cảm, nhân hóa đã góp phần làm cho câu thơ thêm đáng yêu, lôi cuốn người đọc
từ đó tô đậm sự thêm khó khăn thiếu thốn của những người lính nơi đây. Từ hiện
thực ấy người lính ấp ủ niềm tin vào tương lai đất nước mạnh giàu, xán lạn và gian
khó chịu đựng chỉ càng nuôi bền thêm khát vọng mãnh liệt để đủ sức vượt lên
phong ba bão táp. Không một thế lực nào có thể làm suy suyển mối gắn bó và niềm
tin yêu son sắt với Trường Sa của dân tộc mà thơ Trần Đăng Khoa đã thể hiện rất
đỗi tha thiết và hùng hồn:
93
Đất nước Việt Nam một lần nữa nối liền
Những quần đảo long lanh như ngọc dát
Hay
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này
(Lính đảo hát tình ca trên đảo)
Trong tiểu thuyết Đảo Chìm hẳn người đọc không thể nào quên hình ảnh chú
lợn con ngộ nghĩnh tinh nghịch mang một cái tên đáng yêu không kém “Nàng A Ta
Ra Mê Na” Đọc những trang viết của Trần Đăng Khoa về nhân vật này khiến người
đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, có lúc là sự thích thú với cách miêu tả đầy
hóm hỉnh của tác giả có lúc rơi lệ vì tình cảm và sự gắn bó mà những người lính
dành cho công dân bé nhỏ và vô tư lự nhất đảo này. “Gọi nàng A Ta Ra Mê Na có
lẽ người đọc tưởng là một hoa hậu hoàn vũ, một diễn viên điện ảnh Quốc tế hay
người đẹp thời trang nào đó. Nhưng không, đấy chính là công dân Đảo Chìm, một
nàng lợn ỉ xinh đẹp ra đời vào đúng cái đêm lịch sử đáng ghi nhớ ấy. Chị em nàng
đông lắm, gồm mười hai sinh linh. Tất cả đều có tên hẳn hoi. Tên do Hai Ùm đặt.
Nghe sang trọng lắm. Mà cũng phải thế thôi. Đã là công dân thì đều bình đẳng
trước vầng nhật nguyệt. Dân Đảo chìm cơ mà. Không thể cứ quê mùa chân đất mắt
toét mà phải đàng hoàng, sang trọng có tầm cỡ quốc tế” [41, tr.101]. Trong con
mắt nhà thơ tất cả đều là sinh thể có tâm hồn, là những vật - người có cuộc sống
riêng bí ẩn và lý thú.
“Hai hào phóng tặng nàng cái áo mới nguyên. Anh chàng còn xẻ ra, tỉ mẩn
khâu lại thành bộ cánh mới vừa khítvới tấm thân tròn ủng của nàng. Hai chít được
cả eo lưng cho nàng. Trên cổ nàng, Hai còn đính thêm một cái dải yếm, như trang
phục của một thủy thủ thực thụ. Bây giờ thì cô nàng cũng diêm dúa, cũng xúng xính
quân phục Hải quân, chẳng kém gì cánh lính cựu ở Đảo Chìm. Hai còn tập cho
nàng đi bằng hai chân sau. A Ta Ra Mê Na có vẻ rất khoái chí khi được Hai túm
chân trước, dắt đi. Nàng dặt dẹo lê từng bước theo Hai. Rồi từ đấy, hầu như chiều
nào trên boong tầu người ta cũng thấy nàng cùng Hai lậng cậng nhảy điệu va- xi-
lô với lời ca nghe vừa lạ tai, vừa thật là kì quái
94
- Va- xi-lô
Cà ri cứ òa tồ tồ
Cha cha cha
Ở đây có cha con ta
Này trời mây, này nước non đẹp thay
Chẳng ai biết được chúng ta đang ở đây” [41, tr.111].
Chú lợn là món quà, là bạn, là con của người lính, là hình ảnh của sự sống
đất liền đang hiện hữu trên đảo. Chuyện nuôi con lợn ở đây đã mang đầy tính nhân
bản, mỗi người lính còn phải uống nước biển, tắm nước biển, độn thêm nước biển
để nấu cơm. Lính tráng còn phải sống như thế vậy mà con lợn cứ "đụng" chút nước
mặn là đi ỉa tồ tồ. “Lại phải thửa một suất riêng cho lợn, quá bằng chăm người ốm.
Đã vậy, mỗi ngày còn phải chi thêm cho nó bốn lít nước ngọt nguyên chất nữa để
làm suất uống. Bốn lít nước bằng tiêu chuẩn của hai thằng lính biển chứ có ít
đâu.Một ngày bốn lít. Mười ngày bốn mươi lít. Một tháng một trăm hai mươi lít.
Một năm là tấn rưỡi nước ngọt. Ối giời đất ơi!” [41, tr.118]. Và cái lý do chính
đáng nhất đã được tìm ra để toàn đảo thịt lợn! Tưởng chừng đây là niềm vui lớn của
đảo khi có bữa ăn tươi mà lính đảo mong ngóng bao ngày, thế nhưng, bao nhiêu
cánh tay mạnh mẽ vung lên lại không ai đủ can đảm để chọc tiết con lợn.
Trần Đăng Khoa kết hợp hài hòa giữa cái nhìn với cái nghe, nghe nhìn với
liên tưởng, tưởng tượng, hài hòa, tinh tế, thú vị. Trần Đăng Khoa đã tạo nên nét
riêng cho mình trong cách sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Với tâm hồn phong
phú, nhạy cảm và tinh tế, sức nhìn, sức nghe phát triển thu nhận được bao điều lạ
kỳ, Trần Đăng Khoa đã tạo nên những hình ảnh sống động trong các sáng tác của
mình.Bởi cách sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa những loài vật quen thuộc khi
bước vào thơ Trần Đăng Khoa luôn ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Có người lại bảo hòn đá làm sao gợi nổi thi hứng, ấy thế mà Trần Đăng Khoa
viết rất nhiều về đá Trường Sa.Trong thơ Trần Đăng Khoa, đá Trường Sa cũng có
hồn như chiến sĩ Trường Sa vậy: “Đá vững bền”, “đá tốt tươi”, “hòn đá ngàn năm
trong nhịp đập tim người”, “đảo đá cất thành lời”, “đá san hô sẽ nảy cỏ xanh
lên”...Đá được diễn tả theo lối nhân hoá hay chính đá vốn đã là biểu trưng cho sự
sống Trường Sa kiên cường, vững chãi trong thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh những
người lính Trường Sa trọc đầu vì cắt tóc ngắn để tiết kiệm nước gội đầu, trong hoàn
95
cảnh ở Trường Sa thiếu nước ngọt được diễn tả trong bài thơ “Lính đảo hát tình ca
trên đảo” trông ngạo nghễ và gan lì như đá Trường Sa:
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau
Nhà thơ đã có sự liên tưởng độc đáo mà thú vị về những hòn đá mangtâm
hồn người lính Trường Sa:
Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...
Dưới đôi mắt nhạy cảm ấy, những đường nét tưởng như là gai góc, những
màu sắc tưởng như là khô khan, những chất liệu tưởng như là trần trụi, thô nhám
của Trường Sa, hết thảy đều biến thành thi liệu qua cảm quan nghệ thuật của Trần
Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa đã tạo nên nét riêng cho mình trong cách sử dụng biện
pháp tu từ nhân hóa và thành công của anh đã được khẳng định bằng vị trí của anh
trong lòng độc giả nhiều thế hệ.
3.4.2. So sánh
“So sánh là biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người ta đối chiếu hai đối
tượng khác nhau của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà
chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới
mẻ về đối tượng”[10, tr.138].So sánh là một biện pháp tu từ được sử dụng nhiều
trong thơ ca, đặc biệt là ca dao. Ca dao thường dùng so sánh để so vật này với vật
kia. So sánh được coi là một dạng thức lời nói hằng ngày bởi vì không có cách gì để
cho người nghe hiểu nhanh điều mình muốn nói bằng một sự so sánh cụ thể:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
(Ca dao)
96
So sánh có vai trò là phương thức tạo hình, phương thức gợi cảm. Trong thơ
ca so sánh thường được sử dụng để nêu lên một sự tri giác mới mẻ, hoàn chỉnh về
đối tượng. Cùng với biện pháp tu từ nhân hóa, biện pháp tu từ so sánh cũng được
Trần Đăng Khoa sử dụng vào các bài thơ của mình để tạo nên những hình ảnh so
sánh độc đáo, làm nên nét riêng cho tác giả.
Hình ảnh giữ một vai trò quan trọng trong phép so sánh, bằng những hình
ảnh câu thơ sẽ được cụ thể hóa và mang tính biểu cảm cao hơn. Trần Đăng Khoa đã
dùng các chất liệu quen thuộc trong cuộc sống đã làm nên giá trị biểu đạt trong các
sáng tác của anh như hiện tượng tự nhiên, những con vật vàcon người với trạng thái
tâm lí hoạt động. Chất liệu so sánh là hiện tượng tự nhiên được Trần Đăng Khoa sử
dụng phong phú nhằm miêu tả, đánh giá, bộc lộ cảm xúc, tạo thêm sự gần gũi về
hình tượng so sánh
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm
trong đập trái tim người
Như đá vững bền như đá tốt tươi…
(Đợi mưa trên đảo Sinh tồn)
Hình ảnh đá trong tự nhiên là một loại khoáng vật rắn, nó tượng trưng cho
những thứ không có linh hồn, không có sự sống, lại nằm bất động trong vũ trụ. Thế
mà Trần Đăng Khoa lại so sánh hai đối tượng có vẻ mâu thuẫn với nhau về bản chất
là: Con người - vốn là thực thể động và đá - vốn là tĩnh vật. Một lần nữa hình ảnh
đá đã khắc họa tâm hồn và tính cách của những người lính hải đảo dù có khó khăn
thiếu thốn vật chất hay sự khắc nghiệt của thiên nhiên thì lòng người lính đảo vẫn
luôn kiên định. Với phẩm chất người chiến sĩ cụ Hồ thì “gió bão” chỉ tôi luyện
thêm chất thép, chất anh hùng trong tâm hồn người chiến sĩ vùng hải đảo xa xôi chứ
không thể quật ngã được họ, họ như “đá” đứng vững với ngàn năm, kiên định sắt
son khó dời đổi. Hiện tượng tự nhiên là một chất liệu so sánh mà bao đời nay được
các thi nhân sử dụng rất nhiều trong sáng tác thơ văn. Nếu trong thơ xưa hiện tượng
tự nhiên mang vẻ trang nghiêm, quý phái bao nhiêu thì hiện tượng tự nhiên trong
thơ Trần Đăng Khoa lại hồn nhiên, giản dị bấy nhiêu. Vẻ đẹp trong thơ Trần Đăng
Khoa là nét đẹp chân phương, đơn giản mà không sơ sài, thơ ngây mà không vụn
vặt, sắc sảo mà không cầu kì.
97
Trần Đăng Khoa vốn xuất thân từ một cậu bé thôn quê, yêu và gắn bó với
cảnh sắc quê hươngnên có lẽ thật dễ hiểu khi anh thường sử dụng chất liệu so sánh
là động vật trong các sáng tác của mình.
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên cát
Giãy giụa tơi bời trên cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Nhà thơ không đề cập đến vấn đề chính trị, xã hội mà chỉ tập trung khắc họa,
cụ thể hóa những cảnh vật, sự việc bằng những loài động vật rất gần gũi. Những cảnh
vật hiển hiện trước mắt nhìn thì gần gũi nhưng khi đưa vào trong thơ là cả một vấn đề
không hề giản đơn. Mà đặc biệt những vần thơ có “cái thần” lại dào dạt cảm xúc thì
đó thuộc về tài năng riêng của mỗi nhà thơ.Bên cạnh đó chất liệu so sánh là thực vật
được sử dụng nhiều trong các sáng của Trần Đăng Khoa vì nó biểu tượng cho cái
đẹp, cái tinh túy thuần khiết, cái sức mạnh tiềm tàng của một dáng vóc Việt Nam.
Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ
Rồi khao nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Hình ảnh "tóc lên như cỏ"diễn tả sức sống bền bỉ kiên trì vươn lên của những
người lính nơi đây, gian nan khó khăn không làm giảm đi ý chí nghị lực của các
anh. Ta thường bắt gặp những hình ảnh thực vậtgần gũi trong các sáng tác của Trần
Đăng Khoa. Nhưng hình ảnh nào cũng có nét riêng, hình ảnh nào cũng mang một
vài đặc tính, để biểu đạt cho những ý nghĩa nhất định.
Không chỉ vậy, chất liệu so sánh là con người được Trần Đăng Khoa thường lựa
chọn sử dụng nhằm để chỉ những phẩm chất, tính cách, trạng thái tâm lí được thể hiện:
“Mưa vẫn dăng màn lộng lẫy phía xa khơi
Mưa yểu điệu như một nàng công chúa
Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa
Thì cứ xin hiện lên thăm thẳm cuối chân trời”
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
98
Hình ảnh cơn mưa là nỗi khát khao trong lòng người lính đảo, những cơn mưa
thật sự hiếm hoi “dăng bức màn lộng lẫy” nhưng vẫn còn ở phía xa khơi. Trần Đăng
Khoađã so sánh “Mưa yểu điệu như một nàng công chúa”. Đây là hình ảnh so sánh vô
cùng độc đáo mượn sự vật thiên nhiên -mưa, để so sánh với “một nàng công chúa”.
Mưa yểu điệu quá khiến các chàng lính đảo cứ ngóng trông, cứ ao ước cho dù: “mưa
chẳng bao giờ đến nữa, thì cứ xin hiện lên thăm thẳm cuối chân trời”.
Tuy sáng tác của Trần Đăng Khoa ít nói về đề tài tình yêu nam nữ nhưng
nhà thơcũng để lại bài thơ tình bất hủ đó là bàiThơ tình người lính biển. Đây là một
hình ảnh so sánh điển hình:
“Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên”.
(Thơ tình người lính biển)
Trong câu thơ này Trần Đăng Khoa đã sử dụng hình ảnh người con trai - so
sánh mình như con tàu lắng sóng từ hai phía. Sóng từ hai phía ở đây có thể hiểu một
bên chính là trách nhiệm của người lính đảo và một bên là tình cảm riêng tư của nhà
thơ. Chính vì thế con tàu - nhà thơ, phải lắng lại suy tư để rồi thốt lên: Biển một bên
và em một bên.Chất liệu này được Trần Đăng Khoa sử dụng khá nhiều nhằm diễn tả
sự lạc quan yêu đời trong tâm hồn nhà thơ. Mặc khác, khẳng định dân tộc hào hùng
với những con người luôn đấu tranh với tinh thần kiên trung, bất khuất.
Tóm lại chất liệu so sánh là các chất liệu khác được sử dụng trong cấu trúc so
sánh dùng để miêu tả, đối chiếu với các hiện tượng xung quanh, tạo cho đối tượng
có sức thu hút, hấp dẫn mà người đọc như có thể thấy được bằng mắt, nghe được
bằng tai, cảm nhận được bằng xúc giác. Hầu hết những hình ảnh trong thơ là những
hình ảnh quen thuộc. Hình ảnh so sánh trong thơ Trần Đăng Khoa là kết quả của sự
vận động, những rung động trước cảnh vật, thiên nhiên. Nhờ so sánh tu từ mà nhà
thơ đã thể hiện được sự quan sát, liên tưởng thật dễ thương, giản dị mà rất đỗi độc
đáo, mở ra cho người đọc những nhận thức mới.Thơ Trần Đăng Khoa có điểm
chung là lấy hình ảnh để so sánh nhằm bộc lộ cảm xúc trước thiên nhiên, vũ trụ bao
la. Tuy nhiên nó cũng có những hình ảnh độc đáo riêng xuất phát từ cách nhìn, cách
nghĩ, cách nói và cách diễn đạt của riêng nhà thơ.
99
Tiểu kết chương 3
Những đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa
viết về chủ đề biển đảo chính là khả năng xây dựng các biểu tượng nghệ thuật giản
dị, gắn bó thân thuộc nhưng đạt giá trị biểu cảm cao.Trong đó nổi bật là biểu tượng
thuyền và biển, biểu tượng cánh buồm và biểu tượng cánh chim hải âu. Mỗi biểu
tượng luôn gắn với tư duy nghệ thuật của tác giả. Nó hiện thực hóa suy nghĩ, sự
thăng hoa của cảm xúc cùng với đó giọng điệu thơ vừa trữ tình, trong sáng, thiết tha
có lúc lại triết lí, suy tư. Tất cả đã tạo nên một chân dung Trần Đăng Khoa bằng
thơ: Hồn hậu mà thông minh, dí dỏm nhưng cũng có khi trầm ngâm chiêm nghiệm
cuộc sống. Một chân dung không thể lẫn trong bầu trời thơ ca Việt Nam. Một nét
rất riêng của Trần Đăng Khoa.
Sinh ra và lớn lên tại làng quê Việt Nam gắn bó với ruộng đồng cho nên các
sáng tác của Trần Đăng Khoa thấm đẫm hơi thở của xứ sở, quê hương. Đặc điểm đó
còn thể hiện ở việc sử dụng ngôn ngữ sáng tác giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu cho
ta thấy hồn thơ chân chất như chính con người anh, thơ ca không phải là một điều gì
đó quá đỗi xa vời, thơ ca là sự cảm nhận của tâm hồn người nghệ sĩ và truyền tải cảm
nhận đó tới độc giả một cách sâu sắc và lắng đọng nhất. Không chỉ vậy, các sáng tác
của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa và
so sánh khá thành công. Trong nhiều tác phẩm của mình bên cạnh những câu thơ
miêu tả sự vật, hiện tượng chính xác, bằng trí tưởng tượng phong phú, Trần Đăng
Khoa đã bất ngờ đưa ra những hình ảnh liên tưởng mới mẻ, những kết luận mang tính
triết lí gây ấn tượng sâu bền trong tâm trí người đọc. Nhờ biện pháp tu từ nhân hóa
mà thiên nhiên, sự vật nơi đảo xa vốn khô cằn, hoang vu nhờ đó mà mang hơi thở con
người, có sức sống, có tâm hồn, thân thiết hơn vớingười lính đảo như những người
bạn tri âm tri kỉ, không xa cách mà gần gũi,nương tựa vào nhau nơi đầu sóng ngọn
gió. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng sự đa dạng trong chất liệu so sánh nhằm bộc lộ xúc
cảm trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Nó cũng là những hình ảnh độc đáo riêng xuất
phát từ cách nhìn, cách nghĩ, cách nói và cách diễn đạt của riêng Trần Đăng Khoa.
Điều đó không phải nhà thơ nào cũng làm được.
100
KẾT LUẬN
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào, đáng kể trong nền
văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của anh luôn có sức hấp dẫn đến kì lạ
đối với đông đảo bạn đọc mọi lứa tuổi. Khái quát các chặng đường sáng tác của anh
chia làm hai thời kì. Thời kì niên thiếu và thời kì trưởng thành. Nếu như trước đây
sáng tác của Trần Đăng Khoa thời thơ ấu là từ “góc sân” đến “khoảng trời”của quê
hương thì sau 1975 đánh dấu giai đoạn trưởng thành của nhà thơ bằng việc anh
tham gia quân ngũ, trở thành người lính hải quân.Ở giai đoạn này các sáng tác của
anh đã có sự thay đổi rõ nét xuất phát từ tư duy nghệ thuật của tác giả.
Hành trình đến với thơ của anh không chông gai nhưng là sự vất vả lao động
nghệ thuật một cách nghiêm túc. May mắn hơn những người khác, anh được sinh ra
và lớn lên trên quê hương và gia đình giàu truyền thống văn học nghệ thuật vùng
đồng bằng Bắc Bộ đã sớm hun đúc tâm hồn thơ của tác giả. Đặc biệt hơn nữa nhà
thơ Trần Đăng Khoa nhận được sự quan tâm dìu dắt của những bậc thầy trong làng
thơ Việt Nam hiện đại. Tất cả yếu tố đó đã cộng hưởng, trở thành cội rễ bền chặt để
hồn thơ Trần Đăng Khoa hình thành và phát triển.
Sau năm 1975 đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, chính bối cảnh
văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến với sự đổi mới sáng tác trên mọi phương diện đòi
hỏi người nghệ sĩ phải có sự thay đổi cộng với việc nhà thơ tham gia quân ngũ thay
đổi môi trường sống và làm việc tại quần đảo Trường Sa đã tác động đến quan điểm
nghệ thuật của nhà thơ và góp phần hình thành chủ đề biển đảo trong các sáng tác
của Trần Đăng Khoa. Sáng tác của anh ở giai đoạn này không chỉ có thơ mà cả văn
xuôi, những sáng tác rất độc đáo, cô đọng và đầy ám ảnh. Trần Đăng Khoa là nhà
thơ nhưng đồng thời cũng là người lính biển, chính thời gian ở biển, đảo đã làm nên
thành công đặc sắc của anh ở giai đoạn trưởng thành.
Chủ đề biển đảo mãi mãi là nguồn mạch vô tận, không bao giờ vơi cạn của
các loại hình nghệ thuật trong đó có thơ ca. Bởi biển là vũ trụ, là thiên nhiên, là sự
sống, là cái đẹp nhưng cũng rất dữ dằn, đầy bão tố. Tâm hồn nhà thơ trước biển bao
giờ cũng mở ra nhiều chiều kích, những trường liên tưởng phong phú, muôn màu,
muôn vẻ. Bằng những vần thơ các nhà thơ có những sự thể hiện chủ đề biển đảo
theo những cách riêng của mình. Trần Đăng Khoa là một minh chứng, mỗi tác
phẩm của anh là một cung điệu nói lên tấm lòng của con dân đất Việt nơi đầu sóng
101
ngọn gió. Chúng ta bắt gặp tiếng thơ ngợi ca những vẻ đẹp thiên nhiên kì thú của
biển đảo đất nước, ca ngợi tình yêu đôi lứa, là khúc trầm tư về cuộc đời và con
người. Trần Đăng Khoa đã gửi gắm niềm tự hào tha thiết, khẳng định chủ quyền bất
di bất dịch của biển đảo Việt Nam. Các sáng tác viết về chủ đề biển đảo của Trần
Đăng Khoa cảm xúc cũng mênh mông như biển, không bao giờ vơi cạn. Nét chung
thống nhất nội dung tư tưởng trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề
biển đảo đó là tình yêu tha thiết của nhà thơ với biển đảo Tổ quốc và tiếng nói
khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước.
Viết về chủ đề biển đảo Trần đăng Khoa cũng tìm cho mình một phương
thức biểu hiện rất riêng tạo nên phong cách cá nhân không trộn lẫn. Biển đảo được
thể hiện qua nhiều biểu tượng đặc sắc: Biểu tượng cánh buồm, biểu tượng thuyền và
biển, biểu tượng cánh chim hải âu. Đó là hiện thực hóa tư duy nghệ thuật của tác
giả. Mỗi góc nhìn tạo nên những biểu tượng độc đáo làm nổi bật tư tưởng tác giả
bao hàm cả tư tưởng nghệ thuật và nhận thức chính trị khi viết về biển đảo.
Trữ tình, trong sáng, thiết tha nhưng giàu triết lí, suy tư là đặc điểm nổi bật
trong giọng điệu thơ Trần Đăng Khoa. Đặc điểm ấy được tạo thành bởi nghệ thuật
lựa chọn, sử dụng ngôn từ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu một cách linh hoạt,
uyển chuyển, rất đỗi tài năng của nhà thơ. Mặt khác trong sáng tác của Trần Đăng
Khoa ta còn bắt gặp những biện pháp tu từ nhân hóa và so sánh độc đáo đạt giá trị
nghệ thuật cao. Sáng tác của Trần Đăng Khoa phản ánh một thế giới nội tâm phong
phú, tài quan sát tinh tế, nhạy cảm, độc đáo và một khả năng liên tưởng, tưởng
tượng phong phú. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh hiệu Thần đồng thơ Việt
Nam, đồng thời anh cũng là một cây bút tài năng, có vị trí quan trọng trong nền văn
học hiện đại Việt Nam.
Trong tình hình hiện nay, vấn đề biển đảo đang ngày một nóng lên, luôn luôn
dậy sóng. Phần máu thịt của Tổ quốc: Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa tiềm ẩn
những mối hiểm nguy mất chủ quyền thì những sáng tác viết về chủ đề biển đảo của
Trần Đăng Khoa càng thêm phần giá trị và giàu ý nghĩa thời sự, bởi nó thổi bùng
lên ngọn lửa yêu nước trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, làm trỗi dậy ý thức
trách nhiệm công dân đối với việc bảo vệ chủ quyền đất nước - biển đảo là quê
hương là Tổ quốc mà bao đời nay cha ông ta đã phải hy sinh xương máu để giữ gìn
và bảo vệ.
102
Với những nỗ lực và sáng tạo không mệt mỏi, trong hơn 50 năm cầm bút,
Trần Đăng Khoa đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thơ ca hiện đại Việt
Nam. Mảng thơ ca về chủ đề biển đảo và tác phẩm văn xuôi Đảo chìm của Trần
Đăng Khoa là minh chứng cho sự bền bỉ bám sát hiện thực cuộc sống và cái
nhìnchiêm nghiệm, mang tính dự báo sâu sắc. Với những thành công đáng trân
trọng cả về nội dung và hình thức ở mỗi thể loại văn học, Trần Đăng Khoa đã đóng
góp tiếng nói riêng, độc đáo cho sáng tác về chủ đề biển đảo nói riêng và sự phát
triển của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trở thành một gương mặt sáng
giá trong đội ngũ tác giả xuất hiện thời kỳ chống Mỹ cứu nước vẫn tiếp tục đóng
góp vào thành tựu chung của đời sống văn học hôm nay.
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arixtot, (1999), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Hà Thị Anh, (2012), Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
3. Vân Anh,(2014), Những bài thơ hay nhất về Trường Sa,http://soha.vn, ngày
15-3-2014.
4. Lại Nguyên Ân, (1999), “Trần Đăng Khoa trước con đường hình thành một
cá tính thơ”, Sống với văn học cùng thời,NXB Văn học, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân, (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
6. Nguyễn Phan Cảnh, (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học vàTrung học chuyên
nghiệp.
7. Nguyễn Chín, (1999), Tiềm năng biển cả,NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Viết Chính, (2013), Biển đảo - nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca âm
nhạc, http://www.baoquangtri.vn, ngày 16-2- 2013.
9. Nguyễn Việt Chiến, (2013), Trường Sa Tổ quốc nhìn từ biển,NXB Lao Động.
10. Phạm Đăng Dư (chủ biên), Lê Lưu Oanh, (2001), Giáo trình lý luận văn học,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Hữu Đảng, (2000), Giai thoại văn học, NXB văn hóadân tộc, Hà Nội.
12. Đài tiếng nói Việt Nam, (2000), Thơ bốn phương cùng bình, NXB Văn học,
Hà Nội.
13. Hữu Đạt, (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam,NXB Giáo dục, Hà Nội
14. Hà Minh Đức, (1993), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Hà Minh Đức, (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức, (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
17. Phạm Đức, (1999), Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, NXB Thanh Niên.
18. Nguyễn Đăng Điệp, (2003), "Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ", tạp chí
Văn học số 9.
19. Phong Điệp, (2000), “Mạn đàm quanh “Đảo Chìm””, Báo Văn nghệ Trẻ, số 14 (175).
20. Phong Điệp, Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú: Biển dạy cho con biết
sống,http:phongdiep.net.
104
21. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Lưu Hà, (2011), Nguyễn Việt Chiến chiêm nghiệm tổ quốc nhìn từ
biểnhttp://giaitri.vnexprees.net, ngày 3 - 6 - 2011.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (2007), Từ điển thuật
ngữvănhọc,NXB Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Hạnh, (2012), Ta viết bài thơ gọi biển về - Huy Cận, NXB Kim Đồng.
25. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, (1998), vấnđềvà
suy ngẫm, NXB Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Hoàng Ngọc Hiến, (1999), Năm bài giảng về thể loại, NXB Giáodục Hà Nội.
27. Hoàng Ngọc Hiến, (1999), Văn học và học văn,NXB Văn học, Hà Nội.
28. Đặng Hiển, (2005), Dạy văn học văn, NXB Đại học sư phạm.
29. Đỗ Đức Hiểu, (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà Văn,Hà Nội.
30. Lưu Hiệp, (1999), Văn tâm điêu long, NXB Văn học, Hà Nội.
31. Việt Hùng - Thảo Trang - Nguyên Ngọc, (2000), Đến với những bàithơhay,
NXB văn hóa thông tin.
32. Bùi Thị Thu Huế, (2014), Thơ Việt Nam hiện đại viết về biển đảo (Khảo sát qua
các tác giả tiêu biểu), Luận văn Thạc sĩ, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
33. Đinh Văn Hồng (2012), Những bài thơ hay viết về biển đảo,
http://dinhvanhong.blogspot.com, ngày 10 - 5 - 2012.
34. Lê Quang Hưng, (2000), Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước năm
1945, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
35. http:// doko.com.vn.
36. IU.M.Lot Man (2007), Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, NXB Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
37. Phạm Khải (2008), “Nhà thơ Trần Đăng Khoa và “nỗi oan giai
thoại”,http://www.vannghesongcuulong.org.vn, 10h15’ ngày 31/05/2008.
38. Trần Đăng Khoa, (2000), Đảo chìm, NXB Thanh niên, Hà Nội.
39. Trần Đăng Khoa, (2005), Thơ Trần Đăng Khoa,NXB KimĐồng, Hà Nội.
40. Trần Đăng Khoa, (2007), Thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
41. Trần Đăng Khoa, (2014), Tuyển tập Trường Sa, NXB Văn học, Hà Nội.
105
42. Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, (2011), Đến với bài thơ tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn
Việt Chiến), http://van vn.net, ngày 16 - 8 - 2011.
43. Kỷ yếu hội thảo 26- 9- 1995, (1997), Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945-
1995),NXB Hội nhà văn Hà Nội.
44. Nguyễn Lai, (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, NXB
Giáo Dục, Hà Nội.
45. Vĩ Lam, Lê Thị Mây, (2012), 40 năm mang trong mình đứa con
từbiển,http://vietnamnet.vn, ngày 28 - 02 - 2012.
46. Mã Giang Lân, (1992), Thơ - Những cuộc đời, NXB Hà Nội.
47. Mã Giang Lân, (1997), Tìm hiểu thơ, NXB Thanh niên.
48. Mã Giang Lân, (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo Dục.
49. Mã Giang Lân, (2003), Nhận xét ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, tạpchívăn
học số 3.
50. Mã Giang Lân, (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận,NXB Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
51. Mã Giang Lân, (2005), Văn học hiện đại Việt Nam vấn đề tác giả, NXB Giáo Dục.
52. Mã Giang Lân, (2011), Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
53. Phong Lê, (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại, nghĩ tiếp..., NXB Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
54. Vân Long, (1998), Xuân Quỳnh, Thơ và đời, NXB văn hóa HàNội.
55. Nguyễn Văn Long, (2012), Văn học Việt Nam hiện đại những vấn đềng hiên
cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục Việt Nam.
56. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,La
Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận văn học,NXB Giáo dục,
Hà Nội.
57. Giang Nam (2014), Những vần thơ nồng nàn về biển đảo quê
hương,http://ww.baotuyenquang.com.vn, ngày 5 - 4 - 2014.
58. Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương, (1998), Giáo trình văn học thiếunhi Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Vũ Nho, (2000), Trần Đăng Khoa - Thần đồng thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin.
106
60. Nguyễn A Say, (2012), Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo ,
Hữu Thỉnh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
61. Trần Đình Sử, (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Trần Đăng Suyền, (2003), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Phạm Thị Phương Thảo, (2011), Biển - đảo và tổ quốc trong thơ,
http://hanglinhthao.com. T11 - 2011.
64. Lý Hoài Thu, (2016), Biển và những biến hình ký hiệu trong thơ,
http://Vannghequandoi.com.vn, 12h10’ ngày 13 – 01 – 2016.
65. Phạm Thu Yến, (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục.