ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG

CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC

CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG

CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC

CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.LƯU KHÁNH THƠ

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận

văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang Nhung

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm

ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Trường Đại học

Khoa học - Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng

dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên

hướng dẫn - PGS.TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo

trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang Nhung

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... ii

MỤC LỤC .............................................................................................................. iii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................... 6

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 6

5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 7

6. Cấu trúc luận văn .............................................................................................. 7

7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 7

Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ

BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ........ 8

1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa ........................... 8

1.1.1 Thời kì niên thiếu .................................................................................... 8

1.1.2. Thời kì trưởng thành ............................................................................. 13

1.2.Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa ................ 17

1.2.1.Nguồn cội văn học dân gian của quê hương ......................................... 17

1.2.2. Truyền thống gia đình .......................................................................... 23

1.2.3. Ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ Việt Nam

hiện đại ........................................................................................................... 25

1.2.4. Không khí sáng tác thơ ca thời chống Mĩ cứu nước ............................ 28

1.3. Những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa ..... 30

1.3.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến ......................................... 30

1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng Khoa ........................................ 33

Tiểu kết chương 1.................................................................................................... 36

Chương 2. SỰ THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC

CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................ 37

2.1. Khẳng định chủ quyền lãnh thổ ................................................................... 37

iv

2.2. Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam ....................... 47

2.3. Tiếng thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa ............................................................... 58

Tiểu kết chương 2.................................................................................................... 67

Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG

SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ...................................... 68

3.1 Hệ thống biểu tượng ..................................................................................... 68

3.1.1. Khái niệm biểu tượng nghệ thuật ......................................................... 68

3.1.2. Biểu tượng cánh buồm ......................................................................... 71

3.1.3. Biểu tượng tàu và biển ......................................................................... 73

3.1.4. Biểu tượng cánh chim hải âu ................................................................ 77

3.2. Giọng điệu .................................................................................................... 79

3.2.1. Trữ tình, trong sáng, thiết tha ............................................................... 80

3.2.2. Triết lí, suy tư ....................................................................................... 82

3.3. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu .............................................. 85

3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi .................................................................... 85

3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu ...................................................................... 88

3.4. Biện pháp tu từ ............................................................................................. 91

3.4.1. Nhân hóa ............................................................................................... 91

3.4.2. So sánh.................................................................................................. 95

Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 99

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 103

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Lãnh thổ Việt Nam không chỉ bao gồm phần đất liền mà còn phải kể đến

không phận và vùng lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc. Ngay từ xa xưa ý thức giữ

gìn tài sản quý báu ấy đã luôn được cha ông ta coi trọng, đề cao. Biển là quà tặng vô

giá của thiên nhiên dành tặng cho con người Việt Nam . Biển đóng vai trò vô cùng

quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và

tương lai. Việt Nam với 63 tỉnh thành thì trong đó có tới 28 tỉnh, thành phố giáp

biển. Biển không chỉ đem đến nhiều nguồn lợi cho cư dân người Việt mà biển còn

là cửa ngõ để nước ta giao lưu kinh tế trong khu vực và trên thế giới, là nơi trao đổi

và gặp gỡ với nhiều nền văn hóa. Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa

ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy

nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc.

“Bao đời nay, biển đảo luôn là vẻ đẹp tráng lệ của mỗi miền quê, là địa

danh ghi dấu những chiến công hiển hách của lịch sử chống ngoại xâm, là bản sắc

văn hoá và là nguồn cảm hứng bất tận của văn học nghệ thuật... Trong bức tranh

toàn cảnh của văn học Việt Nam nói chung, chủ đề biển đảo làm nên một dòng chảy

liên tục, xuyên suốt từ văn học dân gian sang văn học viết gồm nhiều thể loại như

thơ, phú, kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Mỗi giai đoạn, mỗi thể loại sẽ có những kiểu

sáng tác và hệ hình thi pháp riêng nhưng chung quy đều hướng tới việc khám phá

đời sống con người cùng những đa dạng về sinh thái học: Cảnh sắc thiên nhiên,

chân dung tâm hồn, phong tục tập quán, nguyên tắc và văn hoá ứng xử trước biển…

Biển đảo, do vậy, là một đề tài vừa mang tính duy mĩ, vừa có ý nghĩa nhân văn sâu

sắc. Đây thực sự là một lưu vực lớn trong địa lí văn chương Việt’’ [64].

Không chỉ là không gian dành riêng cho đôi lứa, khi đến với biển mỗi người

trong chúng ta như được tiếp thêm sinh lực, bỏ lại sau lưng những bon chen của

cuộc sống hàng ngày, ta như đắm chìm trong thiên nhiên, nhẹ nhõm và thư thái,

biển là người bạn luôn lắng nghe ta chia sẻ, giãi bày. Phải chăng khi đến với biển

mỗi người trong chúng ta dễ dàng tìm được sự đồng điệu giữa tâm trạng và cảnh

quan do đó chủ đề biển đảo đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả

như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh…

2

Trần Đăng Khoa là một tác giả có một diện mạo riêng, khá độc đáo trong nền

thơ Việt Nam hiện đại. Thời niên thiếu với “Góc sân và khoảng trời” cánh thơ Trần

Đăng Khoa đã bay xa đến với mọi miền đất nước như biên cương, hải đảo để khai

thác những khía cạnh mới mẻ, khám phá, tìm tòi và trải nghiệm những điều thú vị ở

những địa hạt ít người đặt chân tới . Chủ đề biển đảo là cảm hứng chủ đạo làm nên

giá trị rất riêng của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Một trong những nơi nhà thơ hái

lượm được nhiều thi tứ nhất là Trường Sa, “cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu

ngầu bọt sóng” của Tổ quốc thân yêu.

Đọc chùm thơ viết về Trường Sa của Trần Đăng Khoa, người đọc bắt gặp nhà thơ

lúc này là anh lính Hải quân chững chạc, có lúc anh đứng bên “Cây bão táp đảo Nam

Yết” để cảm nhận nhựa sống dẻo dai, bền bỉ của nó, có lúc xao xuyến cùng “Cô tổng đài

hải đảo”, có lúc tếu táo, hóm hỉnh cùng “Lính đảo hát trường ca trên đảo”, có lúc khao

khát mong chờ đến rực cháy “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn”. Không gian sống cùng đồng

đội ở Trường Sa, Trần Đăng Khoa được tôi luyện dạn dày qua thời gian bám trụ giữa

bão táp phong ba. Thời gian ấy là quãng thời gian đáng nhớ trong cuộc đời của anh, khó

khăn thử thách chỉ giúp người lính tôi luyện và từ đó tình đồng đội, ý chí kiên cường,

lòng trung thành với Tổ quốc được soi sáng.

Khảo sát các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy chưa có nhiều luận văn,

luận án nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”. Chọn

đề tài: “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”chúng tôi muốn bước

đầu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những đặc điểm riêng biệt của đề tài

cũng như những đóng góp của tác giả với đời sống văn học đương đại. Đồng thời

đặt trong bối cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo và bảo vệ chủ quyền đất

nước đề tài góp phần khẳng định tình yêu biển đảo, yêu quê hương đất nước là một

mạch nguồn không bao giờ vơi cạn trong văn học.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Những bài nghiên cứu chung về Trần Đăng Khoa

Trần Đăng Khoa là một nhà thơ đặc biệt. Vì vậy có nhiều người yêu thơ,

nghiên cứu thơ, văn của anh cũng là điều dễ hiểu. Mỗi người một giọng điệu, một

cách hiểu, một thái độ.

3

Phương diện thứ nhất đề tài nghiên cứu những nhận định chung về Trần

Đăng Khoa. Những bài phê bình thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu được in trên nhiều

tờ báo, ta có thể kể đến một số bài viết sau: Đọc “Góc sân và khoảng trời”. In trên

báo Nhân dân số 7344(9/6/1974)của tác giả Phong Lan; đọc “Em kể chuyện này”

của Nguyễn Hồng Kiên, Cẩm Thơ, Trần Đăng Khoa in trên báo Văn Nghệ số

452(1972- tác giả Lê Đình Kỵ); đọc “Khúc hát người anh hùng” in trên báo Văn

nghệ số 29(1975- Bàng Sỹ Nguyên); đọc tâp thơ “Thư viết bên cửa sổ máy bay” in

trong tạp chí Văn nghệ Quân đội tháng 2/1987 - Hồng Diệu.

Nghiên cứu phê bình gần đây nhất viết về thơ Trần Đăng Khoa tương đối

đầy đủ phải kể đến cuốn “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” (Nhà xuất bản văn

hóa - Thông tin, tháng 3/2000 của nhà phê bình nghiên cứu Vũ Nho). Vũ Nho

được nghe nói về thơ Trần Đăng Khoa khi đang còn là một sinh viên của Đại Từ

(Thái Nguyên) với sự cảm phục, yêu mến. Cái tình ấy cứ theo ngày tháng mà sâu

đậm mãi thêm. Và rồi cuốn sách “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” đã ra đời.

Cuốn sách có 3 phần, phần 1 giới thiệu khái quát về thơ Trần Đăng Khoa, phần 2

là một số bài bình của tác giả về những bài thơ tâm đắc trong tập thơ như“ Trăng

sáng sân nhà em”, “Đánh thức trầu” “Sao không về vàng ơi”. Phần 3 là tập hợp

một số bài bình, nghiên cứu của một số tác giả về thơ Trần Đăng Khoa như

N.Niculin, Phạm Hổ, Tố Hữu, Xuân Diệu, Lại Nguyên Ân - Trần Đình Sử, Phạm

Khải, Lê Thường.

Trong Mạn đàm quanh “ Đảo Chìm” do Phong Điệp thực hiện in trên

Báo Văn Nghệ Trẻ số 14, đã ghi lại những nhận định của các nhà nghiên cứu phê

bình như sau:

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã nhận xét “ Đây là tập sách hay, được

viết trong một thời gian khá dài. Qua tập sách này càng chứng tỏ thêm về khả

năng văn xuôi của Trần Đăng Khoa, mà trước đây, Chân dung và đối thoại đã

nói đến điều đó. Hóm và sắc sảo – có thể nói ngắn gọn về văn xuôi của Trần

Đăng Khoa như vậy. Đảo chìm gồm nhiều bài nhỏ ghép lại được viết trong nhiều

năm. Trần Đăng Khoa đã trả được món nợ tinh thần với đồng chí, đồng đội

trong những năm anh ở Hải quân, ở đảo với các chiến sĩ”.

4

Nhà văn Lê Lựu nhận định rằng: “Tất cả những truyện viết trong Đảo Chìm,

Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần (!), nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy cái gì

như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như

thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe, kể đến thuộc làu rồi. Theo tôi Đảo Chìm là

thần bút, vì những chuyện thông thường, ai ra đảo cũng thấy thế hoặc không thấy thế

mà tự nhiên có và vẫn thấy như là có thật. Ví dụ như chuyện ông tướng ngồi gác, mổ

ruột thừa bằng panh sa lam có thể là Khoa bịa, nhưng vẫn chấp nhận được. Ý tưởng

của tác phẩm đã vượt ra ngoài những chuyện cụ thể, tưởng như rất vụn vặt. Chính vì

thế nó có sức hấp dẫn đối với bạn đọc. Và dù khắt khe thế nào, tôi vẫn phải đánh

giá đây là những trang văn tuyệt vời...”

Nhà văn Phạm Ngọc Tiến cho rằng “Trần Đăng Khoa đã chứng tỏ mình

là một người lính thực sự. Anh khai thác đời sống những người lính đảo một

cách tài tình, giúp người đọc hiểu được những khó khăn vất vả nơi đây, đồng

thời biết yêu thương, kính trọng họ một cách tự nhiên, chân thành. Tôi đã đọc

Đảo Chìm liền một mạch và không nhận thấy bất khiếm khuyết nào trong tập

sách này. Nếu tôi tỉnh táo hơn một chút, bớt Yêu, bớt Phục, bớt Tin Khoa đi một

chút, chắc chắn sẽ nhận ra khiếm khuyết trong văn của anh”.

Nhà phê bình Ngô Vĩnh Bình cũng đánh giá rất cao về Trần Đăng Khoa: “

Có thể nói, Khoa có cái nhìn khác người, và đặc biệt là rất sâu sắc. Chính vì thế

phần lớn các truyện trong Đảo Chìm viết từ trước đây rất lâu ( thậm chí 15 – 20

năm) nhưng đến nay vẫn mang được tính thời sự của nó. Cho rằng Khoa may

mắn hơn người khác bởi được sống trong một vùng đất “hay” như thế...cũng

không sai. Nhưng nếu không có tài năng văn chương thì tất cả tư liệu quý giá ấy

cũng không thể thành “thời sự” được và không thể cuốn hút được người đọc đến

như thế...”[19].

Qua các nhận định, đánh giá phê bình chúng tôi nhận thấy rằng những bài

viết đi sâu phân tích về biển đảo trong các sáng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa

không nhiều, còn tản mạn chưa sắp xếp thành hệ thống. Tiếp thu và phát triển ý

kiến của những nhà nghiên cứu phê bình đi trước chúng tôi chọn đề tài “ Chủ đề

biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” làm đề tài nghiên cứu của mình

với mong muốn sự thành công của đề tài sẽ là động lực thúc đẩy mọi người

nghiến cứu sâu hơn, toàn diện hơn về mảng đề tài này trong các sáng tác của

Trần Đăng Khoa.

5

2.2. Những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo trong văn học hiện đại

Việt Nam

Phương diện thứ hai là những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo

trong văn học hiện đại Việt Nam. Ta có thể thấy trên các báo Thanh Niên, Biên

Phòng, Sài Gòn Giải Phóng…và các trang báo mạng xuất hiện một số bài viết bàn

về đề tài biển đảo trong thơ Việt Nam.

Trong bài Biển - đảo và tổ quốc trong thơ, tác giả Phạm Thị Phương Thảo

thấy rõ vị trí địa lý và lãnh thổ của Việt Nam - một đất nước có “bờ biển trải dài

theo hình chữ S” nên biển đảo là nơi “ gắn liền với những kỳ quan thiên nhiên của

thế giới bởi những vẻ đẹp và những kiến tạo độc đáo”. Nó không chỉ là “những vị

trí và dấu mốc quạn trọng trước lịch sử”, mà còn là “nguồn cảm hứng bất tận của

thi ca”. Tác giả bài viết còn khẳng định: “lãnh thổ Việt nam chúng ta bây giờ không

chỉ được trải dài từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, mà còn bao gồm cả vùng

trời, vùng biển và hải đảo được trải rộng từ Tây Trường Sơn sangĐông Trường Sa.

Do đó cần thấy rõ ranh giới và lãnh thổ của đất nước ta luôn gắn liền với quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa”[63].

Tác giả Nguyễn Viết Chính trong bài viết của mình Biển đảo - nguồn cảm

hứng vô tận cho thi ca và cho âm nhạc nhấn mạnh; “Đất nước Việt Nam thân

thương của chúng ta có đến 3670 cây số bờ biển, với hơn 1 triệuKm² diện tích nước

trên biển Đông và trên 4000 đảo chìm, đảo nổi lớn, nhỏ. Biển đã mang lại cho ta

tiềm năng vô tận và đông thời là nguồn cảm hứng cho các sáng tạo của văn học

nghệ thuật, trong đó có thơ ca và âm nhạc”[8]. Tác giả dẫn lời lý giải của nhà văn

Nguyễn Trí Huân về câu hỏi tại sao thơ ca và âm nhạc lại có nhiều tác phẩm viết về

biển như vậy: “Việt Nam là một dân tộc hướng ra biển. Biển “ nóng” lên thế nào,

đất liền cũng sẽ nóng lên như vậy Trên biển không chỉ có sóng, có gió mà có cả con

người - những con người hết sức đẹp đẽ. Trong nhiều năm qua, đã có hàng trăm

nhà văn, nhà thơ đến với Trường Sa, Hoàng Sa…Nhưng không chỉ có Trường Sa,

Hoàng Sa mà những hòn đảo khác nữa trong vùng biển thiêng liêng của tổ quốc

mãi sẽ là vấn đề lớn với thi ca bởi đó là máu thịt, là hương hỏa từ ngàn đời của ông

cha ta bao thế hệ”[8].

Đề tài nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” là

một đề tài khá mới mẻ. Tiếp thu những bài viết trên, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu

6

“Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”để có một cái nhìn toàn

diện về mảng đề tài này và trong văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở đó, chúng

tôi mong góp một tiếng nói nhỏ bé của mình để khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn

những đóng góp của Trần Đăng Khoa trong dòng chảy của văn học dân tộc, nhất là

trước những vấn đề thời sự hôm nay.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Người viết tập trung làm rõ những đặc điểm của thơ, văn viết về biển đảo

cũng như đóng góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong mảng đề tài này.

3.2.Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”

nhằm phát hiện những tìm tòi rất riêng của tác giả khi viết về biển đảo. Đặc biệt để

thấy được tiếng thơ khẳng định chủ quyền lãnh thổ, tình yêu cảnh trí non sông, tình

yêu thương con người. Từ đó khẳng định vị trí, phong cách tiêu biểu nhà thơ Trần

Đăng Khoa và những đóng góp của tác giả với nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Qua việc nghiên cứu hành trình sáng tác, quan điểm nghệ thuật của nhà thơ

thể hiện qua các tác phẩm nổi bật. Luận văn hướng tới làm rõ chủ đề biển đảo là

cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác củaTrần Đăng Khoa, từ đó khẳng định những

đóng góp của Trần Đăng Khoa đối với văn học Việt Nam hiện đại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp

chính sau đây

4.2.1. Phương pháp hệ thống

Với quan điểm mỗi sáng tác là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh

thể lớn hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích các biểu tượng nghệ thuật

người viết không đặt nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống

nhất với các yếu tố nghệ thuật khác để làm rõ hơn nội dung tác phẩm.

4.2.2. Phương pháp thống kê

Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc

khảo sát tập thơ, người viết thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính

7

khải quát trong tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra

cảm hứng chủ đạo và các biện pháp tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở

này, chúng tôi tìm ra nét riêng, độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.

4.2.3 Phương pháp phân tích - tổng hợp

Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn. Chúng

tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đáng giá của các nhà phê bình nghiên cứu

cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản các bài thơ trong Tuyển tập

Trường Sa để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt hơn

cho đề tài.

4.2.4 Phương pháp so sánh

Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những

điểm giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ khác viết cùng

chủ đề để qua đó có một cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng Khoa

và những đóng góp của tác giả cho nền văn học nước nhà.

5. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi khảo sát tuyển tập

Trần Đăng Khoa - Tuyển tập Trường Sa, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, (2014)

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danhmục tài liệu tham khảo, cấu trúc

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1.Hành trình sáng tạo và sự hình thành chủ đề biển đảo trong sáng

tác của Trần Đăng Khoa

Chương 2. Sự thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa

Chương 3. Hình thức thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần

Đăng Khoa

7. Đóng góp của luận văn

Luận văn tiếp tục đưa ra một hướng tiếp cận mới về chủ đề biển đảo trong

sáng tác của Trần Đăng Khoa và giải mã những mối liên hệ quan yếu giữa ý thức và

sáng tạo nghệ thuật cũng như việc lĩnh hội nghệ thuật. Đưa ra những kiến giải ban

đầu biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Trần Đăng Khoa.

8

Chương 1.

HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO

TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa

1.1.1 Thời kì niên thiếu

Trần Đăng Khoa - thần đồng thi ca Việt Nam sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958

tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ

Trần Đăng Khoa đã lớn lên cùng những câu chuyện, những bài thơ ca cổ của người

mẹ tảo tần. Anh trai của Trần Đăng Khoa - nhà thơ Trần Nhuận Minh cũng là người

say mê văn học. Có lẽ vì vậy Trần Đăng Khoa khi học hết vỡ lòng đã rất thích đọc

sách và thuộc nhiều ca dao. Sáng tác của Trần Đăng Khoa cho đến thời điểm hiện

tại rất phong phú về thể loại: Thơ, văn xuôi, phê bình văn học, trường ca...Những

sáng tác đó có thể chia làm hai thời kì: Thời kì niên thiếu và thời kì trưởng thành.

Nói đến thơ thiếu nhi không thể không nói đến thơ thời niên thiếu của nhà

thơ Trần Đăng Khoa, người nổi lên như thần đồng thi ca của những năm 60 thế kỷ

XX. Nhà văn Đình Kính đã nhận xét về thơ Trần Đăng Khoa: “Thơ Trần Đăng

Khoa hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây sốc, không làm chúng ta khùng

nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ.”

Thời kì niên thiếu được tính từ khi Trần Đăng Khoa cho ra đời bài thơ Con

bướm vàng năm 1966. Lúc ấy cậu bé 8 tuổi Trần Đăng Khoa chỉ làm thơ một cách

ngẫu hứngcảm xúc đến với anh chân thật và giản dị. Anh từng tâm sự: “ Không biết

các nhà thơ khác làm thơ như thế nào? Còn tôi, bài thơ đến với tôi thường bất chợt.

Có khi đang ngồi nói chuyện với bạn tự dưng trong đầu nảy ra một ý gì đó mà mình

tự thấy hay hay. Cũng có khi đang đọc sách, gặp một chi tiết thú vị, rồi chi tiết đó

cũng gợi cho mình một cái tứ nào đó. Thế rồi bài thơ hình thành, bài thơ đầu tiên ra

đời trong những phút ngẫu hứng ấy”[40, tr.57].

Bài thơ Con bướm vàng là tác phẩm đầu tay của Trần Đăng Khoa nhưng đã

để lại một ấn tượng mạnh mẽ về một giọng thơ trong sáng, hồn nhiên và chân thành.

Nối tiếp sau thành công đó là sự nở rộ của cảm xúc và tài năng Trần Đăng Khoa

9

bằng việc ra đời hàng loạt các bài thơ có giá trị như Chiếc ngõ nhỏ, Trăng sáng sân

nhà em, Trông trăng, Bên kia sông Kinh Thầy, Ảnh Bác, Hạt gạo làng ta, Kể cho bé

nghe,...Những bài thơ ngộ nghĩnh nhưng cũng rất đỗi tinh tế ấy đến với người đọc

với một số lượng lớn. Ta có thể thấy rằng, cùng lứa tuổi với Trần Đăng Khoa cũng

có rất nhiều các bạn nhỏ làm thơ nhưng không phải ai cũng đạt được thành công

như Trần Đăng Khoa, thành công của Trần Đăng Khoa đó là cách cảm nhận những

điều tồn tại xung quanh mình qua lăng kính trẻ thơ, ngây thơ, ngộ nghĩnh, nhưng

quan sát tinh tế, liên tưởng độc đáo và thú vị đưa người đọc đi từ bất ngờ này tới bất

ngờ khác.

Thời kì niên thiếu là thời kì của một tài năng nở rộ, thăng hoa về cảm xúc,

quãng thời gian rực rỡ của Trần Đăng Khoa. Thời thơ ấu tôi và bạn bè đã đọc thuộc

lòng những câu trong Nghe thầy đọc thơ, Hạt gạo làng ta...Mặc dù chưa hiểu hết

được hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn cảm nhận được một cái gì đó

rất gắn bó, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được tác giả của những vần thơ đã đi

theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng thú vị khi biết rằng những

bài thơ đó được sáng tác khi tác giả còn rất nhỏ. Đọc thơ của Trần Đăng Khoa thời

niên thiếu là một thế giới lung linh đầy màu sắc và ánh sáng, ngộ nghĩnh và đáng

yêu mở ra. Thế giới ấy được soi chiếu qua lăng kính trẻ thơ, trong sáng đến kì diệu,

hồn nhiên đến ngộ nghĩnh thơ ngây, sống động đến bất ngờ. Trong thế giới đó ẩn

chứa rất nhiều những hình ảnh điển hình của làng quê Việt từ mảnh vườn, cánh

đồng, cánh cò, dòng sông, cho đến những cây trồng, con vật bé nhỏ, bạn của trẻ con

nhà nông như chú dế, con giun, con kiến, con trâu, con cua, bờ rào, cây chuối, cây

bưởi...Đối với Trần Đăng Khoa tất cả đều trở nên có hồn, tất cả ngộ nghĩnh, đáng

yêu. Trần Đăng Khoa đã thổi linh hồn của cuộc sống khiến cho những vật vô tri vô

giác ấy trở thành thế giới trong trẻo của riêng anh. Độc giả như đắm chìm vào thế

giới ấy khi đọc thơ Trần Đăng Khoa.

Trâu ơi, ăn cỏ mật

Hay là ăn cỏ gà

Đừng ăn lúa đồng ta

Trâu ơi uống nước nhá

10

Trâu cứ chén cho no

Ngày mai cày thật khỏe

Đừng lo đồng nứt nẻ.

(Con trâu đen lông mượt)

Cánh đồng là không gian khá quen thuộc đối với làng quê người Việt, đó

không chỉ là không gian sản xuất nông nghiệp mà còn là không gian rất riêng của

đám trẻ thôn quê sau giờ học tập với những trò chơi dân gian thả diều, bắt bóng,

chơi quay, chọi dế. Một không gian rộng mở cho những ước mơ bay xa.

Cánh đồng làng Điền Trì

Sớm nay sao mà rộng

Sương tan trên mũi súng

Trên sừng trâu cong veo

(Cánh đồng làng Điền Trì)

Hạt gạo có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với cư dân nông nghiệp lúa

nước. Trong thời chiến hạt gạo càng thêm phần giá trị. Hạt gạo“gửi ra tiền tuyến -

gửi về phương xa”. Trần Đăng Khoa đã hiểu rất rõ điều này không hào nhoáng mà

rất chân thật những nỗi vất vả của người dân lao động quanh năm chân lấm tay bùn

và sự khắc nghiệt của khí hậu thời tiết cũng được tác giả khắc họa.

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

...Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy...

(Hạt gạo làng ta)

11

Không chỉ sáng tác những bài thơ ngộ nghĩnh con trẻ, chúng ta còn nhận

thấy một Trần Đăng Khoa suy tư, chiêm nghiệm người lớn trước tuổi. Khi Trần

Đăng Khoa viết về chú bộ đội, những anh hùng trong thời chiến.

Có qua những cuộc đấu tranh

Máu người đổ xuống mới thành núi sông

Đẹp sao dòng máu anh hùng

Lại từ sông núi chảy trong tim người

(Khúc hát người anh hùng)

Qua tấm gương anh hùng Mạc Thị Bưởi tác giả thể hiện lòng biết ơn, tự hào

về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Có máu và nước mắt

đổ xuống để dựng lên tượng đài bất diệt về lòng yêu nước của dân tộc.

Có ai có thể nhận ra tác giả của những dòng thơ chiêm nghiệm này lại là một

cậu bé mười hai tuổi khi viết về người mẹ của mình.

Nắng mưa từ những ngày xưa

Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan

Cả đời đi gió đi sương

Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi

(Mẹ ốm)

Cậu bé Trần Đăng Khoa không chỉ có tố chất thơ ca mà còn là một tâm hồn

rung động tinh tế, nhạy cảm. Cảm nhận sự vật tồn tại xung quanh mình nhẹ nhàng,

chậm dãi. Những sự vật tưởng chừng rất đỗi tầm thường dưới sự quan sát tỉ mỉ của

Trần Đăng Khoa nổi bật lên ý nghĩa sâu sắc, làm lay động lòng người.

Mái gianh ơi hỡi mái gianh

Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương

(Khúc hát người anh hùng)

Hay

Ngoài thềm rơi chiếc lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng

(Đêm Côn Sơn)

12

Điều này đã khiến nhiều nhà thơ thuộc thế hệ đàn anh có tuổi đời, tuổi

nghề và vị thế vững chãi trong làng văn thời ấy đưa ra nhận xét về Trần Đăng

Khoa như sau: “Tinh hoa văn học của một dân tộc đã dồn đúc vào một số ít

người, trong đó có Khoa. Giời đã mượn cái miệng trẻ con để làm thơ cho người

lớn đọc. Không hiểu sao một chú bé tám tuổi lại có được những câu thơ như

vậy. Đó là câu thơ của Giời”[59,tr.117].

Có thể thấy rằng, thời niên thiếu Trần Đăng Khoa đã nhanh chóng gặt hái được

nhiều thành công, nền tảng vững chắc trên con đường sáng tạo nghệ thuật sau này của

mình. Chỉ trong vòng mười năm ngoài tập Góc sân và khoảng trời, Trần Đăng Khoa đã

xuất bản 4 tập trường ca: Khúc hát anh hùng, Trừng phạt, Làng quê, Đánh Thần Hạn.

Từ năm 1968- 1983 thơ của anh liên tục được xuất bản, thơ Trần Đăng Khoa khiến

không chỉ các em nhỏ mà bạn đọc xa gần đều đón nhận nhiệt tình, say mê.

Các tác phẩm thơ thời niên thiếu được xuất bản trong nước:

- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Hải Dương, 1968.

- Từ góc sân nhà em, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1968.

- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1, Nhà xuất bản Hải Dương, 1970.

- Từ góc sân nhà em(Tập khác), Nhà xuất bản Hải Dương, 1972.

- Góc sân và khoảng trời (tập khác), Nhà xuất bản Kim Đồng, 1973.

- Khúc hát người anh hùng (trường ca),Nhà xuất bản Văn nghệ quân đội, 1974.

- Đánh Thần Hạn(trường ca), Nhà xuất bản văn nghệ, Hà Nội.

- Em kể chuyện này, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1977.

- Kể cho bé nghe, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1979.

- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2, Nhà xuất bản Hải Dương, 1982.

- Thơ Trần Đăng Khoa, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1982.

- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1983.

- Hạt gạo làng ta, Nhà xuất bản Hải Hưng, 1983.

- Trần Đăng Khoa, Thơ với tuổi thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2007.

Các tác phẩm xuất bản ở nước ngoài

- Tiếng hát còn tiếp tục, xuất bản ở Pháp, năm 1971.

- Góc sân và khoảng trời, xuất bản tại Cuba, năm 1973.

- Cánh diều no gió, xuất bản tại Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1974.

- Com bướm vàng, xuất bản tại Hunggari, năm 1973.

13

Thơ Trần Đăng Khoa thể hiện một năng lực quan sát nhạy bén của tác giả đối

với cảnh vật và cuộc sống thôn quê. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa đã biết

chọn lựa nhiều cách biểu hiện khác nhau để khắc họa, miêu tả thế giới này phong phú,

đa dạng, ngộ nghĩnh và sinh động vô cùng: Nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ sử dụng

chính xác, gợi cảm khiến cho những hình ảnh vốn quen thuộc trở nên khác lạ, độc đáo,

đầy bất ngờ. Giọng thơ hồn nhiên trong sáng triết lí mà sâu sắc. Thơ thời niên thiếu của

Trần Đăng Khoa không xa lạ mà rất gần gũi quen thuộc, là sản phẩm của đôi mắt trẻ

thơ cộng tài năng thiên bẩm cùng sự học tập tìm tòi, sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ

thuật để từ đó giúp cho tác giả sáng tác lên những trang thơ thật hay. Một tài năng nở rộ

khi tuổi mới thiếu thời, trong khoảng thời gian ngắn Trần Đăng Khoa đã sáng tác một

lượng tác phẩm lớn tỉ lệ thuận với đó là giá trị mà các tác phẩm đó để lại trong lòng độc

giả. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh xưng “Thần đồng thi ca”. Tài năng hiếm có

không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.

1.1.2. Thời kì trưởng thành

Mùa xuân năm 1975 là cột mốc của dân tộc, cũng là cột mốc để đánh giá

sáng tác Trần Đăng Khoa. Thời kì trưởng thành của Trần Đăng Khoa được tính từ

khi anh nhập ngũ, chính thức trở thành người lính cụ Hồ năm anh mười bảy tuổi.

Khi đó anh đang học lớp 10 tại trường phổ thông Nam Sách. Nghe tiếng gọi của đất

nước, anh lên đường tham gia đợt Tổng động viên mùa xuân năm 1975. Và cũng kể

từ đó, Trần Đăng Khoa từ giã thời niên thiếu với thế giới mộng mơ của Góc Sân và

Khoảng Trời để sải đôi cánh của tuổi trẻ bay cao và bay xa với những ước mơ,

nhưng cũng thật nhiều gian nan và thử thách.

Em chẳng còn bé bỏng như xưa

Chiếc khăn quàng em đeo đã bắt đầu thấy chật

Những trang giấy cứ cồn lên mặt đất

Đường hành quân dẫn đến mọi chân trời

Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời

Là Tổ quốc đang một còn, một mất.

... Và sau này, nếu các anh gặp em

Không phải trong góc sân nhà ngồi ngắm trăng lên

Mà trong chớp đạn rực trời, cứ điểm thù tan rã

Thì điều ấy, chắc các anh không lạ.

(Thư thơ)

14

Về thơ Trần Đăng Khoa trước đây đã có phần chững chạc người lớn trước

tuổi. Tuy nhiên chỉ khi khoác lên mình bộ quân phục màu áo lính thì Trần Đăng

Khoa mới chính thức chuyển sang một giai đoạn mới đó là giai đoạn trưởng thành.

Từ giã quê hương thân yêu gắn bó bao ngày, từ giã “góc sân và khoảng trời”

nhà em, chàng trai Trần Đăng Khoa khi ấy mới 17 tuổi lên đường đi tới mọi miền tổ

quốc và tới cả nước Nga xa xôi mang theo khát vọng rực cháy, sức mạnh chiến đấu,

cống hiến cho non sông đất nước.

Hôm nay em đến giảng đường

Anh hằng khao khát

Thế hệ anh, mấy lớp người đi cứu nước

Có bao anh chưa được tới lớp mười

Có bao anh nằm lại dọc đường rồi

Bên con suối không tên, dưới ngọn đồi không tuổi

Có thể sau này em dẫn học trò tới

Chỉ thấy im lìm rừng xanh với núi xanh

(Gửi em gái)

Trong bài Ngày mai ra trận người đọc cùng hồi hộp, nín thở cảm nhận sự

căng thẳng của người lính

Nếu ngày mai chúng mình đều còn cả

Ta sẽ ôm nhau hát vang rừng

Cho mẹ chúng mình ở nhà đừng sốt ruột

Cho sông núi biết chúng mình là những thằng hai mươi

(Ngày mai ra trận)

Tuy nhiên nổi bật nhất trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết ở tuổi

trưởng thành là mảng đề tài người lính và cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Những

tác phẩm của anh thời kì trưởng thành chủ yếu được tập hợp trong tập Đi ngang qua

bão và sau này là Bên cửa sổ máy bay.Trong tập Bên cửa sổ máy bay gồm 3 cụm

chính. Một cụm là các bài thơ về tình yêu, một cụm thơ về đời sống bộ đội trên hải

đảo, một cụm suy ngẫm về cuộc đời, về thơ, về làng quê. Nhưng thú vị nhất vẫn và

cụm thơ viết về người lính trên đảo, Trần Đăng Khoa đã phác họa sự khó khăn,

15

thiếu thốn, hy sinh gian khổ của người lính thời bình. Ở nơi đó chỉ có đảo cá, đảo

chim...những người lính canh giữ lãnh hải tổ quốc thời bình ấy sống trong nhiều

khao khát: khát người, khát đất liền, khát nước ngọt. Qua đó ta thấy người chiến sĩ

không chỉ đấu tranh với kẻ thù mà còn đấu tranh với sự thiếu thốn về vật chất và

tinh thần đặc biệt là nỗi nhớ nhà và cái trơ trọi của một không gian ít bóng người để

biết mỗi người lính ấy họ đã hi sinh nhường nào. Trong bài Lính đảo hát tình ca

trên đảo và Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn ta mới thấy rằng cảm xúc là rất thực và sâu,

truyền tải cảm động tình yêu Tổ quốc tha thiết của những người chiến sĩ nơi đảo xa.

Vừa buồn vừa vui, vừa tự hào vừa nghiêm trang nhưng cũng có khi đùa vui bỡn cợt.

Nếu như trước đây trong thơ Trần Đăng Khoa chỉ diễn tả cảm xúc một chiều như

nhớ chú bộ đội, thấy chú giản dị, mong một ngày chú về đánh bi với cháu... Nay

trong thơ Trần Đăng Khoa là sự giao hòa của những cảm xúc, trong bài Hát về một

hòn đảo là sự xuất hiện đối lập có và không. Hiện tại trên hòn đảo ấy chỉ có đá,

nước và mây trời nhưng sau này khi đảo chìm nhô lên, sẽ có sự sống con người và

có cả tình yêu. Hay trong bài Lính đảo hát trường ca trên đảo cũng nhấn vào hai nét

đối lập: Đảo đá hoang sơ và tiếng hát con người

Ngày mai đảo sẽ nhô lên

Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên

Có con đường cho anh đến với em

Có ngôi nhà dưới vòm cây mát

Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt vời nhất

Có thể gội đầu. Có thể uống no say

Có thể tặng nhau cả một giếng đầy

Hát lên đảo ơi, những niềm tin giản dị

(Hát về một hòn đảo)

Trong bài Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn là nỗi niềm đợi mưa, mong mưa, là

những cung bậc của sự mong đợi. Ở đó tâm thế người lính hiện lên không hề khô

cứng mà đầy lãng mạn tin yêu. Trần Đăng Khoa viết nhiều về sóng gió Trường Sa

nhưng không làm người chiến sĩ bị chìm lấp giữa thiên nhiên trái lại sóng gió được

làm nền cho bức tranh khắc họa chân dung lồng lộng của người chiến sĩ Trường Sa

16

Chúng tôi ngồi ôm súng đợi mưa rơi

Lòng thắc thỏm niềm vui không nói hết

Mưa đi! mưa đi! Mưa cho mãnh liệt

Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu

Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu

Hay mưa bụi.. Mưa li ti... Cũng được

Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước

Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Tất cả những điều này trước đây chưa xuất hiện trong sáng tác của anh, có lẽ

chính sự trải nghiệm, gian khổ những ngày tháng trong quân ngũ đã khiến cho thơ

anh trưởng thành hơn, lắng sâu hơn và suy ngẫm nhiều hơn.

Bên cạnh những sáng tác thơ, Trần Đăng Khoa còn rất hóm hỉnh, dí dỏm

trong cách viết văn xuôi, phê bình nghiên cứu văn học. Đảo chìm là một tập truyện -

kí của Trần Đăng Khoa viết từ cuối những năm 80. Tác phẩm được nhà văn Lê Lựu

đánh giá là “thần bút”và được bạn đọc yêu mến.

Cuốn sách chưa đầy 80 trang được tách tành 15 truyện ngắn độc lập kể lại

những câu chuyện người thật việc thật. Theo Trần Đăng Khoa, 15 truyện ngắn đó

xếp thành chuỗi thì thành một cuốn tiểu thuyết 15 chương. Cuốn sách ấy chưa đầy

80 trang nhưng có thể được coi là cuốn tiểu thuyết viết về Trường Sa nơi đầu sóng

ngọn gió. Những câu chuyện có vẻ như vỡ vụn, ghi chép tầm phào nhưng đều có

chủ đích của tác giả, với cảm xúc chân thành của một người lính. Đảo chìm đã

chứng tỏ sức mạnh kì diệu của con người và tình yêu tổ quốc mãnh liệt của người

lính. Có lẽ vì lẽ đó mà từ khi ra đời tới nay cuốn sách đã được in nối bản, tái bản

liên tiếp trong nhiều năm.

Cùng với Đảo Chìm, Chân dung và đối thoại còn khẳng định Trần Đăng Khoa

là một nhà bình luận văn học xuất sắc. Năm 1998 Trần Đăng Khoa cho ra đời tập Chân

dung và đối thoại gồm 23 bài viết và được bạn đọc đón nhận như một hiện tượng văn

học tạo lên một làn sóng dư luận sôi nổi với nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Với

Chân dung và đối thoại bạn đọc sẽ gặp lại Trần Đăng Khoa ở tuổi bốn mươi trong địa

17

hạt hoàn hoàn toàn mới, một vùng nghệ thuật khác. Nội dung của cuốn sách chính là

lao động của nhà văn và các vấn đề văn học đương đại. Trần Đăng Khoa không trình

bày các quan điểm một cách nguyên tắc mà cảm nhận theo cách của người sáng tác đã

có quá trình chiêm nghiệm về lao động nghệ thuật. Bên cạnh một Trần Đăng Khoa nhà

thơ, nhà văn còn có một Trần Đăng Khoa phê bình văn học độc đáo. Bằng nghệ thuật

khắc họa chân dung nhân vật, thể tài chân dung văn học trở lên gần gũi, bớt chất hàn

lâm, thêm chất thơ nên sinh động và dễ đi vào lòng người.

1.2.Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa

1.2.1.Nguồn cội văn học dân gian của quê hương

Bất cứ một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng đều có sự ảnh hưởng của

những nhân tố khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa cũng

không phải là một trường hợp ngoại lệ. Nhân tố có ảnh hưởng đầu tiên đến sự hình

thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa đó là nguồn cội văn học dân gian của

quê hương.

Tuổi thơ Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với quê hương ven bờ sông Kinh

Thầy, nơi được mệnh danh là cái nôi văn hóa phía Bắc. Chính nhờ cảnh sắc thôn

quê miền đồng bằng Bắc bộ, với hương đồng gió nội và tấm lòng chân thành, mộc

mạc mà giản dị của bà con nơi đây đã tạo điều kiện thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng

Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa kết trái. Như bao nhiêu thế hệ trẻ em sinh ra và

lớn lên ở thôn quê, từ khi nằm nôi, anh đã được đắm chìm trong dòng sữa văn học

dân gian của quê hương qua lời hát ru à ơi của bà, của mẹ, những câu hát dân ca,

những bài ca dao ngắn gọn mà thấu tình đạt nghĩa, không chỉ vậy mẹ của Trần

Đăng Khoa là người thuộc rất nhiều truyện Kiều. Bà và mẹ không chỉ là người sinh

ra và nuôi nấng Trần Đăng Khoa mà còn thổi vào tâm hồn anh tình yêu quê hương

xứ sở từ khi còn trứng nước. Phải chăng đây chính là cội rễ để ươm mầm một tài

năng thi ca? Một điều rất thú vị ở vùng quê Bắc bộ đó là các lễ hội làng mỗi độ

xuân sang, những tích chèo cổ như Quan âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lễ,

Hoàng Trừu, Tống Trân- Cúc Hoa, lại được chính những những người nông dân

chân lấm tay bùn trong làng đích thân thể hiện tự nhiên mà chân chất như chính con

người của họ vậy.

18

Kìa cô Thị Mầu lên chùa

Đỏng đảnh dáng đi mắt liếc

Ngắm cái tay cô phẩy quạt

Tưởng mình sống đã trăm năm.

...Người xem thoáng như quên chị

Chiều nay gánh lúa trên đồng

Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ

Mười năm ròng rã chờ chồng

(Cô Thị Mầu)

Những điều này đã tác động mạnh mẽ đến hồn thơ của Trần Đăng

Khoa đặc biệt là đề tài về quê hương đất nước thường được bắt gặp trong thơ anh.

Đó không phải là cái gì chung chung to lớn mà gần gũi, bình dị. Tình yêu ấy gắn bó

với cuộc sống hằng ngày, gắn với thế giới kì diệu của anh, gắn với ý thức trách

nhiệm một người con của quê hương. Trong bài Hạt gạo làng ta thông qua qua hình

tượng hạt gạo đã cho chúng ta thấy quê hương là một điều trân quý, thiêng liêng

trong trái tim nhà thơ.

Hạt gạo làng ta.

Có vị phù sa,

Của sông Kinh Thầy.

Có hương sen thơm,

Trong hồ nước đầy.

Có lời mẹ hát,

Ngọt ngào hôm nay.

Hạt gạo làng ta như một khúc hát của tình yêu thương, ca ngợi những người

nông dân gian khổ.

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy

(Hạt gạo làng ta)

19

Cái nắng chói chang như muốn thiêu đốt tất cả. Sự đối lập giữa thiên nhiên

và con người. Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần

(Ca dao)

Không gian làng quê là một không gian thân thuộc nơi đó có hương sen,

hương nhãn, cánh cò, con sông, ruộng lúa, con đò. Hình ảnh con cò xuất hiện nhiều

trong văn học dân gian như là một dấu hiệu về làng quê nông nghiệp với những con

người lam lũ, vất vả nơi ruộng đồng nhỏ bé trước cuộc đời mà hồn hậu trắng trong.

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non

Mình về nuôi cái cùng con

Để anh đi chẩy nước non Cao Bằng

(Ca dao)

Hay

Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

(Ca dao)

Trong thơ Trần Đăng Khoa hình ảnh con cò có lúc nhạt nhòa hư ảo

Xưa mẹ ru em

Cũng tiếng võng này

Cánh cò trắng muốt

Bay - bay - bay - bay...

(Tiếng võng kêu)

Nhưng cũng có lúc con cò mang nét riêng mới lạ trong thơ Trần Đăng

Khoa “đánh nhịp bay vào bay ra” như những“chớp trắng trên sông Kinh

Thầy”. Hình ảnh con cò không còn lẻ bóng đơn côi trong đêm tối mịt mờ mà

20

nay là sự xuất hiện trong bầy đàn, với không gian trời trong nắng đẹp yên ả,

thanh bình.

Em vẫn thấy

Con cò

Trắng muốt

Bay ra đón cơn mưa…

Mừng đón cơn mưa

(Con cò trắng muốt)

Phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn và tài năng của mình Trần Đăng Khoa

đã học tập rất nhiều từ văn học dân gian. Những học tập đó được vận dụng một cách

linh hoạt, sáng tạo điển hình trong bài Đám ma bác Giun.

Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà

Họ hàng nhà kiến kéo ra

Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương kiến Đất bạc đầu

Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang

Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng

Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai

Đám ma đưa đến là dài

Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà

Kiến Đen uống rượu la đà

Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...

(Đám ma bác Giun)

Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng bài ca dao.

Con cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

21

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.

(Ca dao)

Trần Đăng Khoa đã lấy cảm hứng sáng tác từ phần lời của bài ca dao trên để

vẽ lên một bức tranh dân gian Đám ma bác Giun nghe rất cổ điển nhưng cũng thật

khoa học nhờ sự quan sát tỉ mỉ đặc điểm riêng biệt của từng loại kiến.Trần Đăng

Khoa đã biết chắt lọc, học tập cái hay, cái tinh hoa của văn học dân gian, đặc biệt là

thể thơ, vần, nhịp. Thơ lục bát là một thể thơ của văn học dân tộc, được lưu truyền

trong văn học dân gian. Thể lục bát thường được sử dụng trong việc diễn tả cảm

xúc, thơ lục bát của Trần Đăng Khoa mượt mà mang âm điệu của ca dao thiết tha,

thanh thoát.

Ông trời nổi lửa đằng đông

Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

Bố em xách điếu đi cày

Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau

Cậu mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ gà cục tác như điên

Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi

Cái na đã tỉnh giấc rồi

Cu chuối đứng vỗ tay cười vui sao!

Chị tre chải tóc bờ ao

Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương

(Buổi sáng nhà em)

22

Những bài thơ hai chữ, ba chữ, bốn chữ lại là một cấu trúc câu ca quen

thuộc, cách gieo vần trong thơ Trần Đăng Khoa mang đậm chất đồng giao. Bài thơ

thể hiện cách gieo vần chân điển hình nhất là bài Kể cho bé nghe, Trần Đăng Khoa

đã phát hiện những tứ thơ độc đáo trong mỗi bài đồng dao và cũng thật khó phân

biệt đâu là đồng dao và đâu là thơ Trần Đăng Khoa.

Làng chim Kể cho bé nghe

Hay chạy lon ton Hay nói ầm ĩ

Là gà mới nở Là con vịt bầu

Cái mặt hay đỏ Hay hỏi đâu đâu

Là con gà mào Là con chó vện

Hay bơi dưới ao Hay chăng dây điện

Mẹ con nhà vịt Là con nhện con

Hay la hay hát Ăn no quay tròn

Là con bồ nhao… Là cối xay lúa…

Một số bài được gieo vần lưng và vần chân

Bốn bề lên hương

Dịu mát bờ sương

Thoảng hơi gió nhẹ

Vầng trăng mới hé

Làn mây trong ngần

(Hương đồng)

Đặc biệt chúng ta nhận thấy có những bài không phân thành khổ thơ, đúng

với nét đặc trưng của đồng dao: Kể cho bé nghe, Mặt bão, Chụp ảnh…Những ngày

thơ bé Trần Đăng Khoa đã nhận được sự yêu thương, vỗ về dạy bảo từ bà, cùng

những câu chuyện lời ru của bà. Bà chắc hẳn đã căn dặn cậu bé Trần Đăng Khoa

bằng những câu đồng dao sau:

Trẩu trẩu trầu trầu

Mày làm chúa tao

Tao làm chúa mày

Tao không hái ngày

Thì tao hái đêm

(Đồng dao)

23

Phải chăng chính những lời đồng dao này là nguồn cảm hứng cho bài thơ

Đánh thức trầu

Đã ngủ rồi hả trầu

Tao đã đi ngủ đâu

Mà trầu mày đã ngủ

Bà tao vừa đến đó

Muốn có mấy lá trầu

Tao không phải ai đâu

Đáng thức mày để hái!

(Đánh thức trầu)

Cách mượn lời đồng dao của Trần Đăng Khoa không hề rập khuôn máy móc

mà đầy tính sáng tạo, lời đồng dao là điểm tựa là nguồn cảm hứng cho hồn thơ Trần

Đăng Khoa thăng hoa.

Thành công của Trần Đăng Khoa có sự đóng góp không nhỏ nguồn cội văn

học dân gian quê hương. Điều ấy đã giúp cho sáng tác của Trần Đăng Khoa trở nên

gần gũi hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.Văn học dân gian đã góp phần khơi nguồn cảm

hứng làm cho nhà thơ làm nên một phong cách độc đáo, sáng tạo.

1.2.2. Truyền thống gia đình

Gia đình có vai trò rất lớn trong việc ươm mầm tài năng thi ca Trần Đăng

Khoa. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn học. Nguyễn Hà (ông bác

của Trần Đăng Khoa kể): “ Có năm, triều Cảnh Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh

em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm bốn, trong đó cụ Trần Nhuận

Minh Phủ là nhà thơ” [11, tr.217].Một trong những yếu tố hun đúc lên hồn thơ trần

Đăng Khoa đó là truyền thống gia đình.Anh trai Trần Đăng Khoa là nhà thơ Trần

Nhuận Minh có năng khiếu và yêu thích văn chương. Trần Nhuận Minh rất thích

làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình một thế giới tri thức riêng trong căn

nhà bé nhỏ. Thư viện bé nhỏ của Trần Nhuận Minh có rất nhiều sách như tiểu

thuyết Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng, Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng,

Truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ và đen của Stendhal... Ngay từ nhỏ Trần Đăng Khoa

đã yêu thích và lớn lên bên thư viện nhỏ của anh trai mình. Anh trai của Trần Đăng

24

Khoa là một thầy giáo, một nhà thơ mà Trần Đăng Khoa hết sức ngưỡng mộ. Tuy anh

ở xa và khá lâu mới về thăm nhà nhưng tình cảm mà cậu bé Khoa dành cho anh trai

của mình rất sâu đậm. Anh Minh không chỉ là anh mà còn là người bạn thân thiết của

Trần Đăng Khoa. Từ những đồng lương giáo viên ít ỏi anh mua tặng những quyển

sách cho em, góp ý giúp em những bài thơ mới sáng tác. Trần Đăng Khoa sau này có

làm bài thơ Gửi bác Trần Nhuận Minh đầy tình nghĩa trong đó có câu:

Thung thăng em với bác

Ta cưỡi thơ ra đồng

Cậu bé Trần Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ và độc giả đầu tiên

của anh lại là cô em gái yêu văn chương – bé Thúy Giang. Em gái Khoa, bé Giang

cũng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Trần Đăng Khoa.

Đừng đi bêu nắng nhức đầu

Đừng vầy nghịch đất, mắt đau lấm người

Ốm đau là mất đi chơi

Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng

Mẹ cha bận việc ngày đêm

Anh ngồi trong lớp lo em ở nhà

(Dặn em)

Thúy Giang rất thích nghe thơ của anh trai, bé đọc đi đọc lại cho bạn bè

nghe. Điều đó đã giúp cho mọi người biết đến thơ Trần Đăng Khoa. Mọi người liên

tục đến nhà xem cậu bé ấy là ai, có người còn tới nhà cùng ăn ở và học tập với cậu

bé ấy để kiểm chứng tài năng của cậu bé và rồi tất cả đều công nhận đây là một

“thần đồng thi ca”.

Cũng từ đây, gia đình trở thành một chủ đề lớn trong sáng tác của anh. Trần

Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của mình. Nhưng gắn bó với Trần Đăng

Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố mẹ, anh Minh, bé Giang. Tất cả những người

này đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng thơ Trần Đăng Khoa. Ngay từ những tác

phẩm đầu tay của anh đến sau này tình cảm gia đình luôn là tình cảm ấm áp, nồng

đượm, da diết trong anh. Trong sáng tác của Trần Đăng Khoa tình cảm được nhắc

nhiều là tình cảm của ông bà, cha mẹ đối với con cái và tình cảm của những đứa

con ngoan, hiếu thảo đối với cha mẹ.

25

Áo mẹ mưa bạc màu

Đầu mẹ nắng cháy tóc

(Khi mẹ vắng nhà)

Vì yêu thương mẹ ốm, cậu bé Khoa đã xiết bao lo lắng

Nắng mưa từ những ngày xưa

Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan

(Mẹ ốm)

Không chỉ có mẹ, hình ảnh bố hiện lên trong thơ anh là một người nông dân

quanh năm chân lấm tay bùn nhưng nghiêm khắc, yêu lao động với tâm thế vững

vàng, trong niềm yêu thương kính trọng của các con

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa

(Mưa)

Trần Đăng Khoa lớn lên bên lời ru của bà. Hình ảnh người bà thân thương

tần tảo cần mẫn, giàu đức hi sinh xuất hiện nhiều trong thơ anh. Bà gắn liền với câu

hát à ơi, cánh cò chớp trắng, những câu chuyện cổ thần kì:

Con cò trong câu ca dao

Bay vào giấc ngủ trắng phau giọng bà

(Hoàng Hiếu Nhân)

Bên cạnh tình cảm con cái dành cho bố mẹ, anh trai dành cho em gái, thơ

Trần Đăng Khoa còn là tình cảm chân thành của người em đối với anh trai, thương

anh, nhớ anh, miền đất anh đang sống cũng trở lên gần gũi thân thương.

Ôi miền đất anh đang sống

Nghe sao mà giản dị thân thương

(Nhận thư anh)

Nhờ có tình yêu thương xuất phát từ sâu thẳm trái tim của mình đã đem đến cho

nhà thơ Trần Đăng Khoa những câu thơ hay, thấm thía và lay động lòng người đến thế.

1.2.3. Ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ Việt Nam hiện đại

Truyền thống gia đình và nguồn cội văn học dân gian của quê hương là hai

yếu tố đã ươm mầm tài năng văn chương của Trần Đăng Khoa. Nhưng bên cạnh đó

26

Trần Đăng Khoa còn nhận được sự hướng dẫn, dìu dắt của những nhà thơ bậc thầy

trong làng thơ hiện đại Việt Nam như thầy giáo Lê Thường, nhà thơ Trần Nhuận

Minh, nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên. Người thầy đầu tiên có

sự ảnh hưởng lớn với anh là thầy giáo Lê Thường (là thầy dạy nhà thơ Trần Nhuận

Minh - anh trai Trần Đăng Khoa) được Ty giáo dục Hải Hưng cử về để hướng dẫn

chỉ bảo Trần Đăng Khoa trong việc sáng tác. Anh đã sáng tác bài thơ Nghe Thầy

đọc thơ như một sự tri ân người thầy mà anh rất mực kính trọng này:

Em nghe thầy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà

Mái chèo nghiêng mặt sông xa

Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa

(Nghe Thầy đọc thơ)

Đặc biệt năm 1968 Trần Đăng Khoa được gặp nhà thơ Xuân Diệu - Ông

hoàng thơ ca Việt Nam. Chính Xuân Diệu đã góp phần định hình, nâng tầm giúp

Trần Đăng Khoa trở thành một thần đồng thi ca. Khi nghe tin về một chú bé có tài

sáng tác Xuân Diệu đã lặn lội về tại quê hương của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Xuân

Diệu đã trở thành người thầy dạy nghề nghiêm khắc nhưng mật thiết gần gũi của

Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Xuân Diệu đã giúp Trần Đăng Khoa ý thức được rằng

văn chương không phải là sự dong chơi nhàn nhã, thơ cần có tính chân thực chứ

không phải là sự sao chép nguyên văn ở đó là sự sáng tạo, linh hoạt nghề thơ văn

cũng lắm công phu: “Là một công việc sáng tạo cực nhọc nếu không muốn nói là

khổ ải.”[62, tr.156]. Hầu như các sáng tác của Trần Đăng Khoa đều được Xuân

Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến. Xuân Diệu thường đưa ra những nhận xét xác

đáng cho Trần Đăng Khoa, không dông dài mà ngắn gọn nhưng hàm xúc tỉ mỉ. Nhà

thơ thường góp ý về tứ thơ hay sáng tạo từ ngữ. Trần Đăng Khoa chịu ảnh hưởng

sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này.

Những bài thơ như Hạt gạo làng ta, Thơ tình người lính biển, Đêm Côn Sơn,

Tiếng nói... đều được Xuân Diệu đóng góp sửa chữa. Có lần Trần Đăng Khoa gửi

cho nhà thơ Xuân Diệubản thảo của bài Hạt gạo làng ta như sau:

27

Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về muôn phương xa

Làm nên chiến trường

Làm nên niềm vui

Các cô các bác

Đừng để gạo rơi

Nhà thơ Xuân Diệu sau khi đọc đã góp ý câu Đừng để gạo rơi. Trần Đăng

Khoa đã nghiêm túc tiếp thu và sửa đổi khiến cho câu kết của bài thơ trở nên mềm

mại hơn.

Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta

(Hạt gạo làng ta)

Vậy nhưng nhà thơ Xuân Diệu cũng vui và biểu dương Trần Đăng Khoa khi

anh có những tứ thơ hay như bài Em dâng cô một vòng hoa, Bến đò, Tháng ba...

Ngoài thềm rơi chiếc lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng

(Đêm Côn Sơn)

Câu thơ tinh tế xúc động, sự tinh tế ấy đan xen với sự cẩn trọng trong từng

câu chữ nhưng cũng đầy tình yêu thương và tinh thần trách nhiệm của Xuân Diệu

đã giúp Trần Đăng Khoa trưởng thành và tiến xa hơn trên con đường chinh phục,

sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ tận tâm chỉ dạy Trần Đăng Khoa

mà còn giới thiệu thơ anh với độc giả trong nước và quốc tế. Tháng 12 năm

1968“Đài Truyền hình Pháp đã phát một tiết mục đặc biệt giới thiệu nhà thơ tí hon

của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cuốn phim Thế giới nhỏ của em Khoa được

nhận giải thưởng mang tên Paul Vailland Couturier”[58, tr.202]. Nói về những

người có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp sáng tác của anh như một sự tri ân Trần Đăng

Khoa đã thổ lộ: “ Hai nhà thơ có ảnh hưởng sâu sắc nhất với tôi: Một nhà thơ Trần

Nhuận Minh, anh ruột tôi.Anh làm ca dao thơ phú hò vè phục vụ làng xã từ lúc tôi

28

mới ra đời. Việc làm của anh mở ra trước mắt tôi một con đường và tôi đã đi trên

đó từ lúc nào không biết...Hai là nhà thơ lớn Xuân Diệu, thầy dạy nghề của tôi,

người luôn đòi hỏi tôi phải lao động, lao động và lao động...Tôi cũng ghi lại đây

lòng biết ơn các thầy cô giáo, các nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình, anh

chị biên tập và xuất bản sách...[59, tr.6]. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của những bậc

đàn anh đi trước cộng với sự nhạy cảm, thông minh và tinh thần ham học hỏi, rèn

luyện của bản thân đã giúp cho tài năng của Trần Đăng Khoa thăng hoa nở rộ.

1.2.4. Không khí sáng tác thơ ca thời chống Mĩ cứu nước

Yếu tố thời đại có tác động rất lớn đối với những trang sáng tác của tác giả.

Trần Đăng Khoa sinh ra trong thời chiến, hòa cùng không khí sục sôi đánh Mỹ của

cả dân tộc. Mỗi người Việt Nam lúc này như đặt trên vai hai nhiệm vụ vừa sản xuất

vừa chiến đấu, phục vụ cho hậu phương và tiền tuyến. Hơn bao giờ hết tinh thần

yêu nước, trách nhiệm công dân cần đề cao như lúc này. Không đứng bên ngoài thời

cuộc các nhà văn nhà thơ cũng dùng ngòi bút sắc bén của mình, dùng tâm huyết để

viết về thời đại.

Các nhà thơ lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng đóng

góp tiếng nói của mình vào cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhà thơ

Chế Lan Viên đã từng viết “Phá cô đơn ta hòa hợp với người”. Bên cạnh những

nhà thơ đi trước đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như nhà thơ

Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông thì các nhà thơ trẻ trưởng thành

trong kháng chiến chống Mỹ như Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Phạm Tiến Duật, Vũ

Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Xuân

Quỳnh... cũng nhanh chóng dàn thế trận trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Khi đế

quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc năm 1964 cuộc kháng chiến của cả dân tộc

bước sang một giai đoạn căng thẳng mới. Sáng tác của thế hệ nhà thơ trẻ mang tới

một luồng gió của tuổi trẻ, của tinh thần rạo rực chiến đấu.Thơ ca nhanh chóng

nhập cuộc với thời đại, mặt trận ngày càng ác liệt thì không khí sáng tác ngày càng

sôi nổi, độc đáo thể hiện ý chí của thế hệ trẻ. Ý chí đó được kết tinh từ truyền thống

cha anh đi trước nâng tầm lên trở thành hào khí dân tộc, niềm kiêu hãnh về lịch sử

của đất nước. Tuy mang trong mình hơi thở của thời đại nhưng mỗi nhà thơ cũng

đều có một phong cách rất riêng. Nếu như Lê Anh Xuân “Tạc vào thế kỉ” bởi Dáng

dứng Việt Nam. Thanh Thảo cứng cỏi, từng trải với “ Những tráng ca thuở trước”

29

thì Hữu Thỉnh lại dứt khoát, sôi nổi “Muốn tự hát hãy là dòng suối - Hát về mình

đừng bắt chiếc tiếng chim”. Trần Đăng Khoa dường như là nhà thơ trẻ nhất, cũng

như một dòng suối nhỏ đổ về biển lớn những sáng tác của anh là dòng suối ngọt

ngào, tưới mátnhững miền đất khô cằn khi nó chảy qua, dòng suối ấy ngân những

khúc hát du dương về người lính, về những hy sinh cho tổ quốc của bao lớp người

đi trước. Nguyễn Bùi Vợi đã nhận xét về Trần Đăng Khoa như sau: “ Trong thời

điểm cả nước dồn sức đánh Mỹ, trẻ con cũng già đi trước tuổi, các em không được

sống hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà

còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp nhận không khí chính trị, không

khí xã hội một cách nhạy bén”[59, tr.182].

Nối tiếp thế hệ đi trước, Trần Đăng Khoa hòa chung không khí sáng tác thơ

ca thời chống Mỹ cứu nước. Anh đã có nhiều sáng tác hòa nhịp trong nguồn cảm

xúc về đề tài chiến tranh. Những sáng tác của anh khai thác mảng đề tài này nhưng

không hề gò bó, khô cứng, mà nhạy bén, ngộ nghĩnh chứa đầy xúc cảm.

Em biết sáng nào bom Mỹ dội

Phượng đỏ ngổn ngang mái trường tốc ngói

Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi

Thầy cầm súng ra đi

Bài tập đọc dạy chúng em dang dở

Hoa phượng cháy một góc trời như lửa

(Bàn chân thầy giáo)

Trần Đăng Khoa được tắm mình trong ánh hào quang thời đại chống Mỹ

Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời

Là Tổ quốc đang một còn một mất

(Thư thơ)

Trong thời đất nước đứng lên như thế hồn thơ anh như một hiện tượng lạ.

Hồn thơ ấy nói lên tiếng nói chung cho cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng

hộ và ngưỡng mộ. Nhờ có tố chất văn chương, sự chăm chỉ học tập trau dồi của bản

thân, cộng với cội nguồn văn học dân gian của quê hương, truyền thống từ gia đình,

sự ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ hiện đại Việt Nam hòa chung

không khí sáng tác thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước là những tác nhân

quan trọng để hình thành hồn thơ Trần Đăng Khoa.

30

1.3. Những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa

1.3.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, thống nhất hai miền Nam

Bắc. Đất nước bước vào một giai đoạn mới giai đoạn khôi phục và phát triển. Thời

cơ và thuận lợi đã đến nhưng khó khăn cũng còn rất nhiều. Hậu quả của hai cuộc

chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc vô cùng to lớn. Chiến tranh tàn phá đô

thị, làng mạc, giao thông, trường học, bệnh viện...Môi trường bị hủy hoại nặng nề

bởi hàng triệu tấn bom mìn cùng chất độc màu da cam. Kinh tế từ thời chiến sang

hòa bình, từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan hệ về chính trị, kinh tế hầu như chỉ khép kín

trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đến chủ trương mở cửa hội

nhập cùng thế giới những điều đó tất yếu sẽ kéo theo sự đổi thay về mặt văn hóa -

xã hội thời kì hậu chiến.Trước những đòi hỏi đó văn học cần phải đổi mới mình

tương ứng với trạng thái xã hội - lịch sử ấy, một sự đổi mới dứt khoát và mạnh mẽ

bởi văn học luôn là tiếng nói của thời đại

Trong chiến tranh giữ nước, sức mạnh của tinh thần yêu nước và ý thức cộng

đồng được phát huy cao độ, cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người thu hẹp đến

tối thiểu, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của cả dân tộc. Đặc điểm nổi

bật nhất của văn học 1945 - 1975 là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Đây là nền văn học phục vụ cho công cuộc cách mạng. Lúc này, văn học là vũ khí

đấu tranh làm nhiệm vụ chiến đấu, hướng tới mục tiêu tất cả cho chiến thắng. Đây

là giai đoạn bão táp nhất của lịch sử dân tộc, vì thế văn học cũng sôi nổi và hào

hùng hơn bao giờ hết. Tất cả những vụn vặt của đời sống bình thường đều bị gác

lại, văn học hướng đến mục đích chung của Tổ quốc, theo sát từng nhiệm vụ chính

trị của đất nước: Ca ngợi cách mạng và cuộc sống mới, cổ vũ kháng chiến, ngợi ca

thành tựu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cổ vũ cuộc đấu

tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Giai đoạn này, nhân vật trung tâm

của văn học là những người có sự kết tinh các phẩm chất cao quý của cộng đồng,

gắn bó số phận mình với số phận đất nước. Đó là những người anh hùng đại diện

cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại.

31

Tuy nhiên, do hoàn cảnh lúc đó và do yêu cầu của thời đại nên văn học thời kì

này chưa phản ánh được mối quan hệ đa chiều, đa diện của hiện thực cuộc sống. Bao

mất mát đau thương, bao tiêu cực, sai sót… bị bỏ qua. Đó cũng chính là sự hạn chế

của văn học thời kì này. Hạn chế của văn học giai đoạn 1945 - 1975 đã được nền văn

học sau 1975 khắc phục. Với nguyên tắc “tôn trọng sự thật”, văn học thời kì này xem

sự thật như linh hồn của nghệ thuật chân chính, hướng đến phanh phui các mặt trái

của xã hội, của lòng người. Điều nổi bật văn học thời kì này là đã đi sâu vào số phận

của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê, phản ánh sâu sắc những tổn thất cả về

vật chất lẫn tinh thần mà con người phải chịu dù chiến tranh đã đi qua. Từ sau 1975,

văn học đã có sự đổi mới sâu sắc trong quan niệm phản ánh hiện thực. Ta có thể thấy

điều này trong sự đổi mới về đề tài, nội dung, chủ đề của các tác phẩm.

Nếu văn học giai đoạn 1945 - 1975 thường đề cập đến những con người tiêu

biểu cho cộng đồng, thường nói đến cái chung mà ít đề cập đến cái riêng, kể cả vấn đề

riêng tư nhất là tình yêu đôi lứa cũng được đặt trong tình yêu chung - tình yêu Tổ quốc

thì văn học từ 1975 đến nay lại tập trung đi sâu phản ánh đời sống nội tâm, số phận của

con người cá nhân thông qua các mối quan hệ của họ trong cộng đồng. Có thể kể đến

các tác giả như Thu Bồn, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dư Thị Hoàn,

Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng...

Tháng 02 năm 1975, Trần Đăng Khoa chia tay các thầy cô lên đường nhập

ngũ, sau khóa huấn luyện anh trở thành bộ đội Hải quân. Trở thành người lính đã

từng có mặt ở 25 hòn đảo lớn nhỏ, Trần Đăng Khoa vừa trực tiếp chiến đấu vừa nói

hộ nỗi lòng của bao người lính trên đảo. Sáng tác của Trần Đăng Khoa lúc này đã từ

góc sân nhà em bay tới hải đảo tổ quốc. Bước vào đời sống quân ngũ Trần Đăng

Khoa đã được nếm trải và thấu hiểu nỗi gian khổ của cuộc đời nhà binh. Các anh

luôn phải đối mặt với những hiểm nguy rình rập. Mỗi người lính đảo như cây bão

táp giữa phong ba, kẻ thù và đời sống khắc nghiệt trên đảo đầy thiếu thốn ngay cả

giọt nước ngọt cũng trở lên xa xỉ làm sao.

32

Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu

Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo

Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương đầy gió bão

Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong trái tim người.

...Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ

Rồi kháo nhau

Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt

Ôi ước gì được thấy cơn mưa

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Trong gian khổ anh nhìn vào đồng đội mình những chiến sĩ với tuổi trẻ đã hy

sinh rất nhiều cho tổ quốc. Những người lính thời bình gian khổ thử thách nhưng

đời sống tâm hồn phong phú.

Đất nước không giặc

Tưởng về gần mà xa

Vẫn gian nan làm bạn

Vẫn sương gió làm nhà

(Lính thời bình)

Trần Đăng Khoa vẫn luôn có những tố chất đặc biệt, anh được đào tạo cơ

bản để trở thành một nhà thơ tài năng nên khi ở Trường Sa nhà thơ nảy sinh những

cảm hứng mãnh liệt về biển, đảo đất nước có lẽ cũng là điều dễ hiểu. Phải chăng

những năm tháng rời xa làng quê thân thuộc tới sống, chiến đấu cùng đồng đội trở

thành anh lính đảo tại Trường Sa và sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã giúp nảy

sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa.

Chúng ta có thể thấy hình tượng nhân vật trữ tình trong sáng tác của anh tỏa

sáng vẻ đẹp lí tưởng của những người lính trẻ trong giai đoạn đất nước sang trang.

Chân dung người lính được phản ánh toàn diện, chân thực cuộc sống và tâm hồn

người chiến sĩ ở thời kì sau những năm chống Mỹ. Khác trước đây, những câu thơ

Trần Đăng Khoa viết về người lính làm ở độ tuổi lên tám lên mười thì nay người

lính ấy được soi chiếu đa chiều, trong chiến đấu, lúc bình yên, khi sôi nổi lúc trầm

33

lắng. Từ đó nhận ra đời sống nội tâm phong phú của họ, trong sáng, lạc quan nhưng

không đơn điệu tẻ nhạt, họ vừa trẻ trung, tếu táo vừa chín chắn sâu sắc của lớp

thanh niên có lí tưởng đẹp, tự hào về đất nước và nhiệm vụ được giao phó. Trần

Đăng Khoa đóng góp vào nền văn học Việt Nam bức chân dung sáng tạo về người

lính góp phần làm phong phú thêm những sáng tác về chủ đề biển đảo trong văn học

Việt Nam.

1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng Khoa

Khi bàn luận vấn đề những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của

Trần Đăng Khoa ta thấy rằng bên cạnh yếu tố khách quan là bối cảnh văn hóa - xã hội

thời kì hậu chiến đã tác động nhiều đến đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của nhà thơ thì

yếu tố chủ quan là quan niệm nghệ thuật của tác giả cũng đóng vai trò rất quan trọng

giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện, đa chiều về sáng tác của nhà thơ đó.

Nhà thơ Xuân Diệu có ảnh hưởng rất lớn đối với Trần Đăng Khoa, người thầy mẫu

mực đã để lại trong anh những dấu ấn sâu đậm, những bài học vô giá về nghiệp văn

chương. Xuân Diệu là người đa tài, vừa viết văn, vừa làm thơ, lại vừa là một nhà

phê bình sắc sảo nhưng cũng rất đỗi nghiêm khắc khó tính trong nghề. Ngay từ khi

mới gặp gỡ, nhà thơ Xuân Diệu đã yêu mến cậu bé Khoa đầy tài năng và người thầy

ấy đã định hình giúp Trần Đăng Khoa hiểu nghề văn, nghiêm khắc với chính bản

thân mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Trần Đăng Khoa đã từng bộc bạch

“nhà thơ lớn Xuân Diệu thầy dạy nghề của tôi, người luôn đòi hỏi tôi phải lao

động, lao động và lao động...”[59, tr.6]. Đó là sự khẳng định nghề văn chương

không chỉ là một trò chơi với con chữ mà còn là công việc nghiêm túc, vất vả nhưng

cũng rất vinh quang. Trần Đăng Khoa đã ý thức được làm thơ là một công việc đòi

hỏi sự tập trung, tính sáng tạo cao. Vì vậy các sáng tác của Trần Đăng Khoa bởi vậy

luôn có sự vận động, chuyển biến tích cực. Tài năng và ý thức trách nhiệm đối với

sản phẩm nghệ thuật của bản thân đã giúp Trần Đăng Khoa có những bài thơ có

chiều sâu hơn, phản ánh những suy nghĩ sâu sắc hơn. Bước tiến này trong thơ Trần

Đăng Khoa đã góp phần quan trọng giúp nhà thơ có được những định hướng đúng

đắn trong sáng tác.

34

Nếu bản thân người nghệ sĩ không khắt khe với chính mình thì sẽ không thể

cho ra đời những tác phẩm có giá trị - bài học này đã trở thành kim chỉ nam định

hướng suốt đời cho Trần Đăng Khoa. Quan điểm coi văn chương là sự sáng tạo

nghiêm túc và không ngừng nghỉ cho dù hành trình đó có khó khăn gian khổ. Cho

nên Trần Đăng Khoa không chấp nhận những bước đi cũ quen thuộc và xói mòn

anh đã từng nói “sợ nhất những anh trẻ mà lại tẻ nhạt” anh tìm tòi, lặn lội, trải

nghiệm ở những địa hạt mới, những vùng sáng tác ít được khai thác, cho nên việc

trở thành anh lính đảo được tiếp xúc, trải nghiệm đã tạo điều kiện thuận lợi khiến

nhà thơ có quá trình chuyển đổi khá rõ rệt trong tư duy sáng tác. Lúc này Trần Đăng

Khoa là một người lính, một nhà thơ đã trưởng thành , một cái tôi trữ tình đầy cảm

xúc, khép kín hơn với những tâm tư tình cảm đa chiều, phức tạp. Nhà thơ hướng

lòng mình đến những người đồng đội, đến biển, đảo và tình yêu đôi lứa. Trần Đăng

Khoa viết về những câu chuyện hàng ngày, từ việc chờ mưa đến cháy bỏng, việc

chứng kiến bạn mình chiến đấu với cá mập để có cá mang về nấu cháo anh viết về

đồng đội với tất cả sự gắn bó, tình cảm chân thành nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là

những nỗi niềm xót xa, thương đồng đội, thương mình. Hiện thực bây giờ là những

sóng gió, bão táp trên biển, là việc thường xuyên thiếu thốn, khó khăn trong

những sinh hoạt hàng ngày….Bởi vậy thơ Trần Đăng Khoa giai đoạn này chứa

đựng nhiều tâm trạng, ngẫm nghĩ về cuộc đời, về số phận con người, và vượt lên

trên hết vẫn là niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn giành cho Tổ

quốc mình.

Không chấp nhận cái cũ đã trở lên gò bó, chật hẹp, Trần Đăng Khoa khao

khát tìm kiếm những điều mới mẻ anh đã tự làm mới cảm xúc của mình bằng việc

khám phá một đề tài mới đó là viết về chủ đề biển đảo. Và cũng chính ở địa hạt

mới này anh đã có những thành công vang dội.

Bên cạnh đó, Trần Đăng Khoa không chỉ chú trọng biện pháp tu từ, ngôn

ngữ thơ đẹp mà còn dựa trên cái hồn của người nghệ sĩ được thể hiện trong thơ.

Nhà thơ thổi hồn của mình trong từng câu chữ, màu sắc, thần thái của nhà thơ, đã

tạo lên những câu thơ bất hủ trong văn đàn. Nếu như trước đây cậu bé Trần Đăng

Khoa với tư duy hướng ngoại tích cực đã cất cao tiếng nói hồn nhiên, lạc quan của

35

trẻ em Việt Nam trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước đầy gian lao của dân

tộc, thì nay là một người lính, Trần Đăng Khoa chiến đấu nơi đầu sóng ngọn gió với

những đồng đội thiếu thốn về vật chất.Thơ Trần Đăng Khoa đã có sự chuyển hướng

từ hướng ngoạisang hướng nội anh viết về đồng đội và tâm sự của chính mình bằng

những suy tư, trăn trở về cuộc đời của mỗi con người.

Sự vận động này là một bước ngoặt quan trọng đối với Trần Đăng Khoa.Từ

việc coi trọng nghề viết, xem đây là một nghề gian khổ mà bản thân mỗi người nghệ

sĩ là những người thợ luôn phải cần mẫn, chăm chỉ cày cuốc trên cánh đồng văn

chương, cho đến việc coi trọng các yếu tố nghệ thuật trong một tác phẩm đã phần

nào giúp người đọc hiểu được quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Trần Đăng Khoa.

Từ đó là cơ sở để nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của anh.

36

Tiểu kết chương 1

Trần Đăng Khoa là một nhà thơ tài năng, có đóng góp ở nhiều thể loại văn

học. Hành trình sáng tác của anh, từ tuổi niên thiếu cho đến giai đoạn trưởng thành

là một quá trình tiếp nối và phát triển bền bỉ với những thành tựu đáng ghi nhận.

Con đường đến với thơ ca của Trần Đăng Khoa như là một tất yếu bởi bên cạnh

năng khiếu trời ban, tài năng ấy còn được đắm mình trong dòng sữa văn học dân

gian của quê hương với lời ru của mẹ, câu hát à ơi của bà và khúc hát đồng dao ngộ

nghĩnh của trẻ thơ. Truyền thống gia đình cùng với ảnh hưởng từ các nhà thơ bậc

thầy trong làng thơ hiện đại Việt Nam và không khí sáng tác thơ ca thời kháng

chiến chống Mĩ tất cả những yếu tố đó đã cộng hưởng, trở thành cội dễ bền chặt để

hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa. Chủ đề biển đảo là nguồn cảm

hứng chủ đạo và gặt hái được nhiều thành công trong các sáng tác của Trần Đăng

Khoa sau năm 1975, để có những thành công vang dội ấy bên cạnh yếu tố khách

quan là bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến đã thôi thúc văn học đổi mới trên

nhiều phương diện thì yếu tố chủ quan đó là quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng

Khoa cũng đóng một vai trò không nhỏ. Nhà thơ luôn hướng tới cái mới, tìm kiếm

cái mới trên địa hạt ít người khai phá và đây chính là cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo

trong các sáng tác của anh. Trải qua sự sàng lọc khắt khe của thời gian những sáng

tác của anh viết về mảng đề tài này vẫn luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng

bạn đọc.

37

Chương 2

SỰ THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC

CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

2.1. Khẳng định chủ quyền lãnh thổ

"Có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Trường Sa và Hoàng Sa. Mặn như

máu” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng viết như vậy khi giới thiệu cho tuyển tập

thơ viết về biển đảo Trường Sa; và đó cũng là những câu từng xuất hiện trong tập

truyện nổi tiếng Đảo chìm.

Nhắc tới Trường Sa là nhắc tới một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam,

nhắc tới “vòng tròn bất tử” và những trận chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo. Từng tấc

đất, từng vùng biển cha ông ta tự bao đời vẫn được nhân dân ta ngày đêm canh

giữ. Trên mặt trận bút nghiên của mình, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng gửi gắm tình

yêu và quyết tâm gìn giữ biển đảo quê hương qua những vần thơ, con chữ. Mỗi sáng

tác là một cung điệu nói lên tấm lòng của những người con dân đất Việt với nơi đầu

sóng ngọn gió. Tôi đã thực sự xúc động khi đọc những dòng tâm sự của nhà thơ Trần

Đăng Khoa “Tổ quốc Việt Nam của ta trên bản đồ thế giới, trông như một bà mẹ gầy

gò đội nón lá, lưng còng gập, có lẽ vì phải gánh quá nhiều sứ mệnh lịch sử. Bà mẹ

đáng thương ấy vẫn lặn lội thân cò, bước thập thững bên bờ sóng, tấm lưng còng gập

quay ra Biển Đông. Cái phên giậu giữ cho tấm lưng còng ấy khỏi lạnh chính là

Trường Sa, Hoàng Sa đấy. Trường Sa, nói theo chữ của các cụ ta xưa thì nó là một

dải cát dài. Nhưng có hòn đảo tôi dẫn bạn tớicòn chưa có cả cát. Nghĩa là chưa có gì

cả. Nó đang là một vỉa san hô ngầm còn chìm sâu dưới nước, như một cái bào thai.

Bởi thế, những người lính biển của chúng ta đã phải dựng chòi bạt giữa sóng gió

hoang vu để canh giữ, bảo vệ….Nhưng theo cách tính của các nhà khoa học, thì phải

hơn một trăm năm nữa, nó mới chính thức ra đời. Vậy mà bao nhiêu kẻ thù đã nhòm

ngó, rình rập. Máu đã đổ ở Trường Sa, Hoàng Sa rồi đấy” [41, tr.11].

Trường Sa của chúng ta bấy giờ chỉ là một hòn đảo rất bé, nó bé tới mức

người đời khó mà tưởng tượng được “ Đảo nhỏ quá nói một câu là hết” [41,

tr.55]nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ nó, trái lại chúng ta phải canh giữ “ Cái

giang sơn tổ quốc chỉ vẻn vẹn có mấy mét vuông lều này” bởi “ Đây là đất đai

hương hỏa ông cha, thì dù chỉ có đá sỏi gió cát thế này, ta cũng phải canh giữ, một

tấc không đi, một ly không rời, dẫu có phải đổi bằng xương máu…”[41, tr.58].

38

Trên đảo chỉ một thứ cây, đó là loại cây dại sống được trên đá san hô mà lính

gọi là cây Phong ba, nghe cũng dữ dội, vất vả và gian nan. Nhưng nhiều đảo còn

không có cây, bóng râm duy nhất tỏa xuống mặt cát bỏng là bóng dáng người lính:

“Đảo tự giấu mình trong màu nước lam xanh

Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng

Tổ quốc ơi! Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống

Bóng chúng tôi trùm khắp đảo Thuyền Chài…”

(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)

Nhưng ở những người lính đảo vẫn trọn một niềm tin, đó là:

“Ngày mai hòn đảo sẽ nhô lên

Đất nước Việt Nam một lần nữa nối liền

Những quần đảo long lanh như ngọc dát”

(Hát về hòn đảo chìm)

Đối với những người lính thì tình yêu với Tổ quốc đã tiếp thêm cho họ sức

mạnh, ý chí để chiến thắng hoàn thành trọng trách được giao phó. Canh giữ biển

đảo cũng chính là canh giữ “cửa ngõ” của Tổ quốc:

“Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Bằng những con chữ mong manh và đầy sóng gió ấy, Trần Đăng Khoa đã

cắm được cột mốc chủ quyền theo cách của riêng mình cho quần đảo thiêng liêng

và bất khả xâm phạm của chúng ta.

Các anh hàng ngày phải đối mặt với bão tố, cá mập, chim ác và kẻ thù để bảo

toàn sinh mạng và bảo vệ đảo. Cuộc sống nơi đầu sóng ngọn gió của các anh có

những khó khăn không giống như những chiến trường khác. Doanh trại của lính đảo

giữa đại dương mênh mông là:

“Lều bạt chông chênh giữa nước giữa trời

Đến một cái gai cũng không sống được”

(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)

39

Sống giữa bốn bề sóng nước mà vẫn thiếu nước, thèm nước ngọt, các anh

phải kiên nhẫn đợi từng giọt mưa rơi. Nỗi ao ước của những người lính biển thật

giản dị và cảm động:

“Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ

Rồi khao nhau

Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt

Ôi ước gì được thấy mưa rơi”

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Có những nỗi gian khổ các anh đã trải qua mà trong điều kiện sống ở đất liền

khó có thể hình dung nổi:

“Đảo vẫn chìm dưới ba mét nước

Măng khô hết rồi. Chỉ thăm thẳm biển xanh

Lưới chẳng có mà cá vờn trước mặt

Biết tìm đâu ra một bát canh”

(Ghi chép ở đảo Chìm)

Ở đảo, mỗi năm các anh phải đối mặt với hàng trăm cơn bão. Khi bão ngang

qua qua, mỗi người lính đảo giống như “Cây bão táp” giữa phong ba. Khi đất nước

bình yên, người lính chiến trở thành “Lính thời bình”, nhưng nỗi gian khổ, thử

thách vẫn đồng hành cùng cuộc đời người lính:

“Đất nước không giặc

Tưởng về gần mà xa

Vẫn gian nan làm bạn

Vẫn gió sương làm nhà”

(Lính thời bình)

Và trong gian khổ, các anh đã sống trọn, sâu sắc cuộc đời người lính. Lắng

nghe tiếng nói trữ tình của người lính trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa người

đọc càng thấu hiểu sự hy sinh lớn lao của những người chiến sĩ đang làm nhiệm vụ

bảo vệ tổ quốc nơi biên cương hải đảo xa xôi. Chính ở nơi biên hải đầy gian khó ấy

các anh đã hát vang lên khúc hát chủ quyền, các anh là hiện thân của sự sống, của

nhân dân Việt Nam, là niềm tin vào tương lai đất nước. Chủ quyền của đất nước đã

được đặt tên từ xa xưa, ở nơi đó các anh là dấu tích của những người đi khai phá,

bảo vệ từng hòn đảo để làm nên hình hài đất nước.Tiếng thơ vang lên thật hào sảng,

đầy niềm tự hào thiết tha về vùng lãnh hải của tổ quốc.

40

Trần Đăng Khoa đã mở ra cả khoảng sáng tâm hồn phong phú, cao đẹp của

những người lính trẻ. Trước hết là tình yêu Tổ quốc, tình yêu lý tưởng. Các anh rất

tự hào về trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Dù ở mặt trận nào, làm

nhiệm vụ gì, các anh cũng xác định rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc.

Người lính ấy chắc hẳn đã xác định con đường phía trước anh đi nếu có ngã xuống

trong trận chiến đấu ngày mai anh cũng không hề hối tiếc bởi quê hương anh sẽ

được sống thanh bình

Người lính đảo Nam Yết hiên ngang trên chòi quan sát giữa bốn bề bão tố vì

anh biết, đảo là giọt máu thiêng của Tổ quốc:

“Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Anh lính hải quân tạm biệt người yêu, tạm biệt thành phố rực rỡ ánh đèn đến

nơi “Trời khuya,đảo vắng” vì một tình yêu tổ quốc lớn lao hơn tình yêu đôi lứa:

“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên

Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng”

(Thơ tình người lính biển)

Để bảo vệ Tổ quốc, quê hương, các anh sẵn sàng chấp nhận hi sinh những

khát vọng cá nhân và trong tâm hồn người lính luôn dấy lên niềm tự hào, kiêu hãnh

về cả một thế hệ có lý tưởng sống đẹp, xứng đáng với Tổ quốc. Anh nhìn vào đồng

đội, soi vào lòng mình, càng thấy vững tin vào lý tưởng và con đường đã chọn và từ

những lồng ngực trẻ đó, lời ca yêu đời đã bay lên, trong thăm thẳm rừng đêm,trong

mịt mùng biển cả

Như cây non gió mưa vùi dập

Tôi vịn vào bão táp đứng lên dần

Ngày vào đảng tôi thấy mây trắng lắm

Trang đời chưa viết chữ đầu tiên

Tôi chợt thấy câu thơ như nước biển

Mặn khôn nguôi- máu của ông cha

Tôi đứng gác mà nghe lòng yên tĩnh

Chỉ mình tôi - trời biển với phong ba

(Ở một hòn đảo nhỏ)

41

Người lính đảo xa “ Gió biển mặn bạc bao màu áo”, “cơn sốt rét rừng vẫn

còn run trong da”, thèm từng bát canh rau, từng làn mưa bụi vẫn yêu đảo yêu biển

vô cùng. Biển đảo là quê hương thứ hai của các anh, là một phần máu thịt của Tổ

quốc Việt Nam, xa nhà, xa quê các anh cùng chia nhau tin vui, chia nhau nỗi nhớ

nhà không có nước ngọt không có rau xanh các anh vẫn hát vang khúc hát Trường

Sa, khúc hát tuổi trẻ, đảo xa đã trở thành mảnh đất tâm hồn các anh.

“Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu

Dẫu không có mưa chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo

Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão

Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong đập trái tim người

(Đợi mưa trên đảo sinh tồn)

Cuộc sống vẫn muôn màu gian khổ nhưng người lính trên đảo vẫn hát vang

khúc hát tình ca khúc hát là hiện thân của sự sống, tiếng hát là tiếng nói của những

người con Đất Việt đánh dấu sự hiện diện của mình ở nơi đây.

Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà

Em đừng trách chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa

… Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu trong sáng ngực ta đây

Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này…

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển người đâu lên đông thế

Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Đây là bức tranh độc đáo, cảnh tượng chưa từng có trong thơ, bức tranh ấy

không chỉ có màu sắc hình khối mà còn chứa đựng bao xúc cảm, xiết bao tự hào về

tinh thần lạc quan yêu đời trẻ trung của người lính được Trần Đăng Khoa thể hiện

bằng trái tim mình. Đó là lớp thanh niên có lí tưởng cao đẹp, luôn tự hào về Tổ

quốc, về trọng trách được giao phó, dù ở nơi biên cương hay hải đảo xa xôi, các anh

đều sống lạc quan yêu đời và yêu tuổi trẻ.

42

Trường Sa vừa là nơi dữ dội nhất vừa phóng khoáng nhất, thiêng liêng nhất

và cũng mong manh nhất. Đó là “Đảo Chìm” tức là những đảo còn chưa nhô lên

khỏi mặt nước. Nó như hình bóng của một xã hội tốt đẹp nhưng ở thì tương lai, cái

gì cũng có. Còn hiện tại thì không có gì cả. Người lính canh giữ Đảo Chìm là canh

giữ cái giọt máu thiêng của Tổ quốc còn chìm trong nước. Nó mới đang còn là một

cái bào thai. Nó đang vật lộn, quẫy đạp trong bầu nước âm u của biển cả để ra đời.

Và không biết đến bao giờ nó mới ra đời, mới nhô lên khỏi mặt biển để trở thành

một xứ sở bình dị."Gọi là đảo nhưng nó chỉ là một vũng cát lờ phờ, to chừng một

cái nong phơi thóc, vừa đủ chỗ để dựng một cái lều bạt dã chiến’’ [41, tr.55].

Đấy chính là cảm nhận đầu tiên của tác giả khi ghé qua Thủ đô Trường Sa,

để rồi khi tới với Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa ớ ra và đưa mắt tìm kiếm bốn phía

trời nhưng vẫn chẳng thấy gì ngoài một đại dương nước đen ngầu, chảy vật vã dưới

vòm mây hoang vu, khô héo: “Đảo đấy! Nó là dải nước xanh phơn phớt nằm dưới

chân lều bạt” [41, tr.62].

Đó là một vùng sóng gió dữ dằn và khốc liệt, đảo chìm còn như một hoang đảo

tràn ngập phân chim như Trần Đăng Khoa miêu tả thì: “mái lều trũng xuống vì phân

chim. Những vệt phân lâu ngày trắng xóa. Những vệt phân tươi nâu sậm, lác đác có cả

những vệt đỏ nhờ, trang điểm cho mái lều một vẻ đẹp sặc sỡ đến quái đản”[41, tr.62].

Câu nói của Hai Ùm với Trần Đăng Khoa đã làm cho người đọc cảm nhận rõ

sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi đây: “Vì ông anh mới ra, còn hơi người, nên

chúng mới nhao đến làm tình làm tội. Mai, chúng sẽ “khinh” ông anh thôi!. Tôi

bàng hoàng. Chẳng lẽ ngày mai, mình không còn hơi người nữa ư?”[41, tr.67].

Nơi đóng quân của các anh cũng thật đặc biệt “Hòn đảo này quanh năm bì

bọp sóng gió. Ngày đêm nước ộc cả vào lều. Bởi vậy,ở lều đảo này lại còn có cả

đảo trong đảo nữa. Đó là những khối giường sắt quét sơn trắng chống gỉ. Mỗi

người lính “cố thủ” một khối giường. Có đến ba, bốn tầng giường xếp chồng lên

nhau. Nên lính gọi là khối. Tầng cuối cùng chọc lên tận nóc bạt, lính quen gọi là

tháp Epphen”[41, tr.71]. Cuộc sống gian khổ và thiếu thốn không khiến các anh

giảm đi lòng yêu nước mà trái lại như ngọn lửa quyết tâm hun đúc tôi luyện các anh

cứng cáp, kiên cường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó.Ý thức

43

viết về chủ quyền trong các sáng tác viết về biển đảo của Trần Đăng Khoa thật sâu

sắc. Điều đó nhắc nhở mỗi người về trách nhiệm đối với biển đảo. Dù chỉ là một

mỏm đá chúng ta cũng quyết tâm giữ gìn bởi đó là tổ quốc là xương máu của bao

thế hệ. Những sáng tác ấy khẳng định chủ quyền bất di bất dịch về vùng lãnh hải mà

hàng nghìn năm nay cha ông ta đã cất công gìn giữ, đó là lớp trầm tích tinh thần

chắt chiu lắng đọng vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian của năm tháng để nối dài

tình yêu với biển. Đến với Đảo Chìm chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn về những khó

khăn, gian khổ của những người lính trên những hòn đảo xa xôi của Tổ quốc. Sự

khó khăn, thiếu thốn ở đây nó không chung chung như những gì chúng ta vẫn cảm

nhận mà rất cụ thể. Nhà thơ của chúng ta, vị khách quý của Đảo Chìm được chào

đón và thiết đãi món “đặc sản” của Đảo Chìm là món trứng chim ngon tựa “mùn

cưa” và một bữa cháo cá không thành.

Trong Đảo Chìm, anh lính Thiêm bị đau ruột thừa nhưng đảo lúc bấy giờ

chưa có bác sĩ, mới chỉ biên chế đến cấp y tá. Khác với đất liền, ở Đảo Chìm thì đây

là một ca khá nghiêm trọng. Hình ảnh Thiêm bị trói chặt vào chiếc giường sắt

chống sóng và được y sĩ Huy mổ ruột thừa bằng lưỡi dao cạo râu là một hình ảnh

làm cho người đọc bị ám ảnh bởi sự khó khăn và thiếu thốn của người lính nơi đây.

Tuy nhiên, trong cái không gian nhỏ bé đó của hòn đảo Chìm chúng ta lại bắt gặp

một cuộc sống không hề tẻ nhạt, đơn điệu mà trái lại nó hiện lên rất rộn ràng và

tươiđẹp. Những khó khăn, nguy hiểm không làm cho những người lính nơi đây

chùn bước mà ngược lại, họ luôn yêu đời, lạc quan và kiên cường. Sự hiện diện của

họ như sự thách thức thiên nhiên ngang tàng gió bão, như khí thế hiên ngang của

con dân đất Việt trước mọi thế lực ngoại xâm. Họ là hiện thân của sự sống, của tuổi

trẻ hoài bão, của niềm tin vào ngày mai và sự khẳng định rõ nét về chủ quyền lãnh

thổ bất khả xâm phạm.

Đọc Đảo chìm có lẽ bạn đọc sẽ ấn tượng với cuộc trò chuyện của vị tướng

Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương với anh lính trẻ trên đảo

“ Vất vả không, các cậu?

Tư lệnh hỏi một cậu lính trẻ, tóc đỏ quạch như tôm luộc, da đen cháy, người

chắc nịch như một thỏi sắt đã tôi qua lửa. Cậu lính trẻ cười khì khì:

44

- … Bố đừng lo! Chúng con ở đây quen khổ rồi! Khổ mấy chúng con cũng

chịu được! Không một kẻ thù nào có thể cướp được đảo đâu. Bố cứ yên tâm! Nhưng

đúng như bố nói đấy. Rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá con liều nghĩ, hay là

ta cứ tạm giấu quách đảo đi!

Tư lệnh ngạc nhiên:

- Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào?

- Bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ ba tiếng là con giấu xong đảo thôi!

Mà không đến ba tiếng đâu. Chỉ tiếng rưỡi đồng hồ là con xúc xong chỗ cát này cho

xuống biển, đố kẻ thù nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu!

- … Đây xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu để cậu giấu đảo!

Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển mà lấy cán xẻng khẽ bẩy những

tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân

đảo, giữ cho cát khỏi bay.

- … Mày làm cái gì thế mày? Giấu đảo à?

- Dạ báo cáo bố, con đang mở mang bờ cõi ạ! Anh lính cười khục khục,

gương mặt nhấp nhóa nước - mà, mà, đúng ra, đúng ra con chỉ “ buông neo” cho

Tổ quốc khỏi bị trôi dạt thôi!”[41, tr.60].

Câu trả lời hài hước của anh lính trẻ như xoáy sâu tâm can người đọc. Ai

trong chúng ta cũngthường nhắc đến câu: Bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ

quốc. Nhưng đến Đảo Chìm khi người chiến sỹ từ ý nghĩ xúc cát đổ xuống biển để

giấu đảo lại là việc làm mà làm cho người đọc ngỡ ngàng. Tình yêu tổ quốc ở đây

không xa vời, sách vở mà gần gũi và đơn giản như những gì con người ở đây đã

làm. Một hành động và một câu trả lời chỉ có thể có ở những con người thật sự yêu

đất nước mình mà thôi! Những hành động đó rất bình thường nhưng chúng ta lại

thấy những điều lớn lao khác, thấy và hiểu những người lính đảo luôn hiểu rõ trách

nhiệm thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc. Và có lẽ đó chính là sức mạnh để họ

luôn đứng vững trước sóng gió của biển khơi.

Những người lính nơi đây chấp nhận gian khổ hy sinh vì tổ quốc. Sự sống

Trường Sa có những biểu hiện độc đáo mà những ai chưa một lần đến đây hay chưa

một lần đọc thơ Trần Đăng Khoa chẳng thể nào ngờ tới được, dẫu cho ai đó có trí

45

tưởng tượng phong phú chăng nữa. Ai có ngờ đâu“in lên màu mây mang bão” của

Trường Sa không chỉ có “bóng anh hải quân hiên ngang” mà còn có cả

những “bóng cây son trẻ”. Con mắt tinh tường của nhà thơ đã nhìn thấy những dáng

vẻ dịu dàng dễ thương của sự sống nơi Trường Sa bão táp:

“Thân cây sao mà mềm mại

Lá cây sao vẫn mượt mà

Mỗi năm hàng trăm cơn bão

Trên mình cây đã đi qua”

(Cây phong ba đảo Nam Yết)

Vẫn dưới đôi mắt nhạy cảm ấy, những đường nét tưởng như là gai góc,

những màu sắc tưởng như là khô khan, những chất liệu tưởng như là trần trụi, thô

nhám của Trường Sa, tất cả đều biến thành thi liệu qua cảm quan nghệ thuật của

Trần Đăng Khoa. Trong sáng tác của Trần Đăng Khoa, đá Trường Sa cũng có hồn

như chiến sĩ Trường Sa vậy: “Đá vững bền”, “hòn đá ngàn năm trong nhịp đập tim

người”, “đảo đá cất thành lời”, “đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên”... Đá được diễn tả

theo lối nhân hoá hay chính đá vốn đã là biểu trưng cho sự sống Trường Sa kiên

cường, vững chãi trong thơ Trần Đăng Khoa, có lẽ là cả hai. Hình ảnh những người

lính Trường Sa “trọc đầu” vì cắt tóc ngắn để “tiết kiệm” nước gội đầu, trong hoàn

cảnh ở Trường Sa thiếu nước ngọt được diễn tả trong bài thơ Lính đảo hát tình ca

trên đảo trông ngạo nghễ và gan lì như đá Trường Sa:

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”

Và nhà thơ đã có sự liên tưởng độc đáo mà thú vị về những hòn đá mang

“hồn lính” Trường Sa:

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...”

46

Hình ảnh những hòn đảo mà “Tổ quốc của tôi đang âm thầm sáng tạo” trở

thành động lực cho những người lính nơi đây hoàn thành nhiệm vụ canh giữ chủ

quyền biển đảo của mình.

Tổ quốc đang âm thầm sáng tạo

Một ngày mai cho tất thảy mọi người

Đảo sẽ nhô lên giữa biển giữa trời

Có hạt lúa, củ khoai, ngọn rau muống luộc

Có viện Hải dương học

Có sân khấu xây

Mây cánh kiến mở màn cho em hát

Có tuổi trẻ và tình yêu. Đấy là điều tuyệt vời nhất

Sự sống lại hồn nhiên trong tiếng trẻ con cười…

Sự sống vẫn sinh sôi bền vững đếnmuốn đời

Việt Nam đấy. Bao giờ cũng lạ

Tôi muốn nói một điều với biển cả

Về dải đất liền hùng vĩ phía sau tôi

Đảo à, đảo ơi!

(Hát về một hòn đảo)

Có thể nói được rằng, cho đến nay chưa có ai viết về biển đảo Trường Sa

trong truyện ký và trong thơ vừa chân thực, xúc động, vừa đầy sức ám ảnh như Trần

Đăng Khoa. Nhà thơ đã nói hộ tất cả những người Việt Nam yêu nước tình yêu đối

với biển đảo- tình cảm thiêng liêng đối với quốc gia dân tộc. Trần Đăng Khoa

không chỉ ghi chép hiện tại, mà còn là nhân chứng hùng hồn cho tương lai. Những

sáng tác viết về biển đảo của anh như lời nhắc nhở mọi người không được hờ hững

với lịch sử tức là không được hờ hững với quá khứ. Từng tấc đất, từng vùng trời,

vùng biển bao la đều là lãnh thổ Việt Nam. Chúng ta đang ngày đêm hướng ra biển,

Trần Đăng Khoa đã viết tiếp bài ca người lính với tình yêu Tổ quốc, tình yêu lý

tưởng, tình yêu đồng đội sâu sắc thiêng liêng. Sáng tác của Trần Đăng Khoa là tiếng

nói khẳng định chủ quyền biển đảo với niềm xúc động thật lớn lao thể hiện một tâm

hồn thấm đẫm tình yêu đất nước. Có thể nói nếu không có một tình yêu lớn đối với

47

tổ quốc thì không có một nhà thơ nào có thể viết được những sáng tác lay động tâm

hồn như vậy. Và đó cũng chính là điều ta nhận thấy ở Trần Đăng Khoa, những sáng

tác của anh về chủ đề biển đảo giống như một bản tuyên ngôn chủ quyền đất nước,

một thông điệp về tình yêu tổ quốc và trách nhiệm công dân.

Biển Đông đôi khi cũng rất hung tợn bất kham. Biết bao người lính như

Thiêm, như Hai Ùm trong Đảo Chìm đang nằmdưới đáy biển kia? Đó chính là cột

mốc khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của quần đảo thiêng liêng này. Và

như thế ở Trường Sa chúng ta không chỉ có cột mốc bằng sắt thép mà còn có những

cột mốc bằng xương máu những người lính qua rất nhiều thế hệ. Rồi còn có cả

những cột mốc đặc biệt đó là những sáng tác viết về biển đảo trong đó có Trần

Đăng Khoa, khi những tác phẩm đó đạt đến độ đích thực thì những cột mốc đó sẽ

còn giá trị đến muôn đời. Bằng những con chữ mong manh nhà thơ đã cùng với cha

ông ta cắm thêm những cột mốc chủ quyền bằng văn chương cho một vùng lãnh hải

thiêng liêng, bất khả xâm phạm của đất nước.

2.2. Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam

Tình yêu quê hương đất nước luôn là tình cảm cao đẹp đằm thắm trong thơ

ca từ xưa đến nay. Thơ ca Việt Nam luôn được nuôi dưỡng với sức sống mạnh mẽ

của cả dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tình yêu ấy tiếp thêm ánh sáng cho thơ

Trần Đăng Khoa và bao trùm lên tất thảy trong thơ Trần Đăng Khoa là một tình yêu

lớn: Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam

Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam là nguồn cảm

hứng thường trực trong thơ viết về chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng

Khoa. Nhà thơ đã làm sống dậy vẻ đẹp của bao bãi biển, bao hòn đảo thân yêu. Đó

là những kì quan mà tạo hóa đã ban tặng cho đất nước và con người Việt Nam. Biển

đảo Việt Nam có sóng, nước, nắng gió, trăng sao, những rặng san hô, tàu thuyền…

những con người đã kiên cường sống và chiến đấu, thủy chung khi nằm xuống hòa

vào lòng biển mẹ yêu thương.

Biển mang vẻ đẹp thơ mộng mà trầm hùng, yêu thương rất đỗi tự hào của

người lính khi chia tay với người yêu:

48

Anh ra khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên

Biển ồn ào, em lại dịu êm.

Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên

(Thơ tình người lính biển)

Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã mượn hình ảnh biển đối sánh với nhân vật em

để bày tỏ tâm tình của người lính biển. Đó là tấm lòng yêu tha thiết biển quê hương

cùng những suy nghĩ ưu tư về tổ quốc

Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên

Gió thổi chưa ngưng trong nhữngvành tang trắng

Anh đứng gác - trời khuya đảo vắng

Biển một bên và em một bên

(Thơ tình người lính biển)

Ở bài Thơ tình người lính biển, hình ảnh biển - bờ cũng là những biểu

tượng. Bằng cách sử dụng các hình ảnh hết sức quen thuộc, có tính biểu trưng cao,

Trần Đăng Khoa đã để hình ảnh “biển” và “em” luôn xuất hiện bên nhau, đi liền

nhau khiến cho ta cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi lúc, mọi khoảnh khắc thì

“biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn người lính biển, đem lại niềm

tự hào, niềm hạnh phúc cho anh, biển khơi cũng chính là biển của tình yêu.

Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống của người lính biển

đã và sẽ mãi mãi dành cho “biển” và “em”:

“Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên.”

Trong thơ Trần Đăng Khoa biển không còn là một đối tượng miêu tả đơn

thuần nữa mà biển đã thành biểu tượng của Tổ quốc. Biển của đất nước gian nan

chưa bao giờ bình yên, biển của những người lính nơi thăm thẳm nước trời và dưới

những chùm sao xa lắc…

49

Biển đảo Việt Nam nơi lấp lánh vẻ đẹp kì thú của những hòn đảo thân thương.

Ai đã một lần được đặt chân tới biển sẽ không thể quên vẻ đẹp tuyệt vời mà dường như

thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Tự hào về biển đảo quê hương với nét đẹp rạng

ngời của một phần lãnh thổ đất nước. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã ngợi ca biển đẹp,

đảo anh hùng hiên ngang bất khuất, trước sóng gió bão tố cũng như trước quân thù.

Đảo Sơn Ca không có sơn ca

Ngày và đêm rùng rùng tiếng sóng

Lúc nào biển cũng là biển động

Sóng ngả nghiêng ầm vỡ quanh nhà

(Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca)

Biển đảo nơi đây hiện lên thật sống động trước mắt người đọc với sự thiêng

liêng và hùng vĩ khôn cùng.

Có tiếng chim nào ríu ran đâu đây

Mà hòn đảo bỗng bồng bềnh hư ảo

Tôi ngước tìm. Thấy anh lính Hải quân

Đứng ngang trời thổi sáo…

(Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca)

Biển đảo đẹp rực rỡ và khoáng đạt hơn trong buổi sơ khai, đứng trước biển

thi nhân như cân bằng được buồn vui muôn kiếp người, nghe được những âm thanh

tha thiết của cuộc sống vĩnh hằng trong lòng tạo vật.

Đảo à, đảo ơi!

Biển vẫn chao như đưa nôi

Biển vẫn âm thầm như người mẹ sáng tạo

Cho tổ quốc ta có thêm một hòn đảo

Ngày mai đảo sẽ nhô lên

Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên

Có con đường cho anh đến với em

Có ngôi nhà dưới vòm cây mát

Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt nhất

Có thể gội đầu. Có thể uống no say

50

Có thể tặng nhau cả một giếng đầy

Hát lên đảo ơi, những niềm tin giản dị

Đã ánh lên trong màu nước xanh ngời

Đã lung linh trước căn lều bạt

Đảo à, đảo ơi!

(Hát về một hòn đảo)

Đến những cơn mưa cũng gợi cảm giác ấm áp, mát lành tươi tốt dù chỉ là

trong suy nghĩ của người chiến sĩ

Mây vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi

Mưa yểu điệu như một nàng công chúa

Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa

Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời

Để bao giờ cánh lính chúng tôi

Cũng có một niềm vui đón đợi…

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Dưới con mắt trữ tình của các nhà thơ, biển, đảo, mây trời xưa nay gắn bó

quấn quýt với nhau không rời, đẹp như mối tình lãng mạn thủy chung. Những áng

mây trắng ngời như những bức thư mà hải đảo gửi về đất liền thân yêu, mang thông

điệp của hòa bình.

Những đám mây trắng ngời từ hải đảo

Bay nôn nao về phía đất liền

Ồ, không phải mây đâu. Những bức thưanh đấy

Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió gửi cho em

(Những đám mây trắng ngời từ hải đảo)

Có thể nói không gian biển đảo gợi về cho nhà thơ biết bao cảm hứng dạt

dào. Tình cảm của nhà thơ đối với biển đảo thật nồng ấm, tự nhiên như hơi thở hằng

ngày. Nhà thơ đã nói hộ tất cả những người Việt Nam yêu nước tình yêu đối với

biển đảo - tình cảm thiêng liêng đối với quốc gia dân tộc mà theo thời gian nó sẽ

sống mãi.

51

Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên biển đảo nhà thơ Trần Đăng Khoa còn tìm

thấy ở biển đảo vẻ đẹp kiên trung của những người lính trên biển đang ngày đêm nắm

chắc tay súng để bảo vệ vùng đất, vùng trời nơi đầu sóng ngọn gió.Ở đó tình đồng đội

được phát huy một cách mạnh mẽ, tình yêu thương thắm thiết con người Việt Nam

dành cho nhau, sự đùm bọc sẻ chia trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời

Đến một cái gai cũng không sống được

(Đồng đội tôi trên đảo thuyền chài)

Sống ở nơi bốn bề mây nước, người lính trải qua những khó khăn thiếu thốn

về vật chất và cả tinh thần. Còn gì thiếu thốn hơn khi bữa tiệc mà người lính khát

khao mong chờ là “bữa tiệc bày toàn nước ngọt” Song ước mơ chỉ là ước mơ. Bởi

lẽ những cơn mưa còn xa vời quá. Lúc đầu người lính mong những trận mưa rào lớn

Mưa đi! Mưa đi ! Mưa cho mãnh liệt

Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu

Nhưng sau đó ước mơ thu nhỏ bé lại

Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu cũng được Hay mưa bụi…mưa li ti… cũng được

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Những người lính trẻ phần lớn ra đi từ đồng ruộng, mùa màng, bờ bãi phù sa.

Mỗi anh một quê, người ở đồng chua, người vùng nước mặn, đã tụ họp về đây trong

tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Càng trong gian khổ thiếu thốn, họ càng sát cánh

bên nhau, chia sẻ mọi vui buồn. Tình đồng chí keo sơn qua những cơn sốt rét rừng

Có gì đâu, chiều ấy trong lều bạt

Cơn sốt thuở Trường Sơn quật tôi tê tái người

Anh bạn tôi hết đứng lại ngồi

Không sao yên lòng được!

(Chuyện ở đảo chìm)

Trong cơn sốt hầm hập, người lính thèm một bát canh nhưng ở đây khó quá.

Ta cảm nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của những người “đồng chí” trong

hoàn cảnh khó khăn. Ở họ, tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng như tình yêu với đất

nước. Vẫn biết phía trước là khó khăn, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng

52

Lưới chả có mà cá vờn trước mặt

Biết tìm đâu ra một bát canh?

Thế rồi

Lựu đạn bất ngờ nổ banh ruột nước

Cá từng đàn bỗng nổi trắng như sao

Anh bạn tôi nhào ra vớt cá

Trong lúc xung quanh lũ mập cũng lao vào

Những ánh chớp đen nhoáng nhoàng trong nước

Thôi, bạn ơi,vài con cá bõ gì

Hãy lên ngay lều bạt

Bạn mỏng manh thế này mập dữ tợn nhường kia

Nhưng bạn tôi vẫn quần nhau với mập

Biển sủi tăm. Tanh ngắt. Đục ngầu

Trong khoảng nước nông, bạn tôi bơi đứng

Mập chỉ chờn vờn, chẳng đớp được đâu…

(Chuyện ở đảo chìm)

Những người đồng đội của tác giả vẫn bất chấp, vẫn lao ra vớt cá, vẫn quần

nhau với mập để dành những con cá, nấu bát canh cho người đồng đội đang bị cơn

sốt hành hạ. Và người đồng đội của tác giả đã cảm thấy lòng mình vui hơn khi mình

làm được một điều gì đó giúp cho bạn mình. Họ có thể là “đôi người xa lạ” nhưng

khi đã là đồng đội của nhau, họ có thể chia ngọt sẻ bùi với nhau. Đó chính là “tình

đồng chí” của những người lính cụ Hồ. Cuộc sống gắn bó cùng đồng đội từng bữa

ăn giấc ngủ, chia sẻ cùng nhau từng cơn sốt rét rừng, từng ngụm nước ngọt đã cho

sáng tác của Trần Đăng Khoa những trang viết chân thực về cuộc đời người lính.

Qua những sáng tác của anh ta hiểu hơn tình đồng chí, đồng đội của những người

lính. Họ có thể hy sinh cả tính mạng mình cho nhau, vì nhau. Đó là tình người ấm

áp mặn nồng, của những con người Việt Nam. Quả là người Việt có sức sống và

niềm tin thật mãnh liệt

Không phải lúc nào cũng bão

Bão tan. Trời lại biếc xanh

(Cây bão táp đảo Nam Yết)

53

Trong mênh mông sóng nước, Trần Đăng Khoa đã khắc họa chân dung

người lính thật đẹp.

Tôi ngước nhìn lên ngọn cây

Lại thấy chòi quan sát đảo

Bóng chàng lính trẻ hiên ngang

In lên màu mây mang bão…

(Cây bão táp đảo Nam Yết)

Ở trên đảo mọi thứ đều thiếu thốn nhưng không làm tâm hồn của anh lính cằn

cỗi, điều đó thể hiện ở mong muốn giản dị và đậm chất lãng mạn của chàng thanh

niên trẻ tuổi đó là: “Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi!

Các cô ấy chẳng phải hát hò gì, chỉ mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi

phơ phất trên đảo, để chúng con “chỉnh” mắt.”[41, tr.56].

Những người lính đảo đều hết sức trẻ trung, tếu táo và hồn hậu, đó là những

người nông dân chân chất đôn hậu như cái cây trồng trên cánh đồng của làng mình,

giờ được bứng ra trông giữ đảo ngày đêm là bạn với sóng gió. Sức sống mãnh liệt

của người nông dân cộng với sự hồn nhiên bản tính đã tạo nên một cuộc sống hồn

hậu và chân thực. Biển dữ dội, biển phóng khoáng, con người trước biển như bị lột

trần, không có gì nương tựa nên cách tốt nhất để tồn tại là hồn nhiên đón nhận mọi

thử thách.

Vẻ đẹp của những người lính bắt đầu bằng sự lạc quan của những người lính

đảo. Giữa biển khơi họ vẫn làm thơ, vẫn mơ màng về một cô gái xinh đẹp mà họ chỉ

biết đến qua lời kể của chính trị viên Thuận (và sau này đảo Chìm mới biết sự thật

cô con gái của chính trị viên Thuận vẫn còn ở tuổi “tè dầm”). Tiếng cười ấy có từ

những con người như Hai Ùm, nhà thơ của đảo với những bài thơ “tuyệt tác, hay

đến chảy nước tai”. Và cả những người rất nghiêm túc như chính trị viên Thuận

cũng đã khiến cả đảo chìm bị lừa và cười nghiêng ngả vì câu chuyện cô con gái

rượu của mình.

Vẻ đẹp ấy còn là sự chân thực trong cuộc sống của những người lính đảo

(Ở đó người ta không thấy những lời nói hoa mỹ, không có sự im lặng đáng sợ

mà chúng ta vẫn gặp giữa cuộc đời). Ấn tượng đẹp nhất mà Trần Đăng Khoa

54

dành cho những anh lính đảo Chìm là anh thi sĩ của đảo -Trần Văn Hai. Anh bơi

lặn như rái cá: “Quê cu cậu nghe đâu ở cầu tõm Hà Nam, cái vùng quê quanh

năm lụt lội. Cánh lính đồn rằng, Hai đẻ rơi dưới nước, nên cậu ta biết bơi trước

khi biết bò. Tên cúng cơm là Hai. Ra đảo, cánh lính nối thêm cái đuôi thành

thằng Hai Ùm” [41, tr.75].

Nhà thơ của chúng ta đã được “thi sĩ” Hai Ùm chào đón bằng một ánh mắt

sửng sốt và những câu nói thú vị:

“- Đúng ông anh thật à? Kinh nhỉ! Em không thể tưởng tượng được! Em cứ

ngỡ ông anh khác kia. Ai ngờ lại xù xì thế này. Kinh thật !

- Kinh à ?

- Vâng! Em nói ông anh đừng tự ái nhé! Trông ông anh cứ ùng ục như cái

lão đào huyệt. Kinh bỏ bà! Thế mà trước đây em cứ tưởng thi sĩ bao giờ cũng mảnh

mai, đôi mắt lúc nào cũng mơ màng, trầm uất và buồn thăm thẳm!”Và những gì là

hình thức cũng được cởi bỏ (đến mức không ngờ):

“Cứ tưởng quần áo là vật trang sức của riêng mình. Nhầm! Nó là đồ đạc

của thiên hạ, nhưng thiên hạ lại bắt mình cứ phải suốt ngày đeo vác lỉnh kỉnh, nom

ti tiện như gã bủn xỉn, lúc nào cũng lo sợ mất trộm. Ở đây, chẳng có thiên hạ nào

hết, nên mình lại nhẹ nhõm, lại hoá anh tự do Hai gườm gườm nhìn tôi, như nhìn

một người ở ngoài hành tinh:

- Trông ông anh đai nịt lỉnh kỉnh, nom rất lạ mắt và buồn cười lắm ý. Cứ như

người trung cổ. Hình như đại ca có khuyết tật gì đó nên cứ phải che che đậy đậy,

giấu giấu, giếm giếm. Chứ văn minh hoàn thiện như chúng em đây, có ai khổ sở,

rúm ró như thế bao giờ…”[41, tr.73].

Với cái giang sơn Tổ quốc vỏn vẹn có mấy mét vuông đất, suốt ngày bó gối

nhìn trời nước nên sinh ra nhàn cư vi bất thiện, bởi vậy chính trị viên Thuận đưa ra

‘‘chiếu chỉ’’là ba ngày phải có một tờ báo tường, phải có chục bài thơ dán kín

quanh cái thùng phuy neo ở cột lều. Mà thơ phú lại là công việc của tài năng. Mà tài

thơ thì ở đây, giời lại chỉ dồn cho chàng Hai Ùm. Hai có thể xuất khẩu thành

chương, đọc vanh vách ra vần ra điệu. Vì vậy, thần dân của đảo cứ phải đến khấu

đầu trước Hai, xin ngài Hai Ùm nhón tay làm phúc, ban cho một bài thơ để dán lên

55

báo tường. Chỉ khổ cho những cậu đến xin chữ mà lại vô sản, chẳng có gì. Nhưng

được cái, mấy cha đó cũng láu. Không ít cha còn vác cả chị gái, em gái ra để cầm

cố cho Hai: “Thật, tớ thề là em gái tớ xinh lắm. Tớ sẽ bảo nó thư cho cậu. Bao

nhiêu vệ tinh vo ve quanh nó, tớ sẽ cho đi tàu ngầm hết. Nó là á hậu thanh lịch ở

huyện tớ đấy”[41, tr.76].

Nhưng không vì thế mà Hai kiêu ngạo, ngược lại ở anh toát lên phẩm chất

giản dị của người lính, luôn giúp đỡ, chia sẻ với đồng đội mình: “Hai Ùm chẳng ăn

riêng cái gì bao giờ. Cậu ta đưa hết của nả, châu ngọc vào kho, là cái ba-lô bạc

phếch gió biển, treo bùng biêng trên nóc lều. Thi thoảng Hai lại ban lộc cho dân

chúng”[41, tr.76].

Tuy nhiên, khi gặp Trần Đăng Khoa anh lại không tự nhận mình là nhà

thơ: “Em là thi sĩ đểu! Chúng nó gọi thi sĩ là gọi đểu đấy!”. Hình như ở anh chàng

này, sóng gió hay những khó khăn thiếu thốn của đảo chỉ là chuyện nhỏ. Anh luôn

yêu đời, lạc quan ngay cả lúc câu cá:

Cái miệng Hai bành ra, giọng nhèn nhẹt:

Hôm (ý) nay

Trời nhiều mây

Thỉnh (a) thoảng (a) có mưa

Tầm nhìn xa (ư) trên mười cây số (ứ hư)” [41, tr.80].

Tiểu thuyết thì có nhân vật phản diện, nhân vật chính diện, nhưng ở Đảo

Chìm lại không có tuyến phản diện, không có mưu mô, không có lừa lọc. Chỉ có

tình yêu thương, giữa đồng đội với đồng đội, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa những

người trên đảo với quê hương, đất nước và thậm chí giữa những người trên đảo với

cây rau, con vật mà họ chăm sóc sớm hôm.

Nhưng đôi lúc Đảo Chìm cũng có nhiều “sóng gió”, nó bắt đầu từ những

điều đơn giản nhưng lại thành phức tạp ở đây: Giữ lại một con vật yêu quý được

sinh ra từ đảo chìm hay giữ những giọt nước ngọt quý giá cho những người lính?

Chuyện nuôi con lợn ở đây đã mang đầy tính nhân bản: “Lính còn phải tắm nước

biển, độn thêm nước biển để nấu cơm. Có chút muối, cơm cứ chuồi chuội còn

nguyên cả lõi gạo. Bát cơm rời rông rổng. Chẳng hạt nào dính với hạt nào, ăn sậm

sậm, chát xít. Lính tráng còn phải sống như thế vậy mà con lợn cứ “đụng” chút nước

56

mặn là đi ỉa tồ tồ. Rõ thật con nhà lính, tính nhà quan. Lại phải thửa một suất riêng

cho lợn, quá bằng chăm người ốm. Đã vậy, mỗi ngày còn phải chi thêm cho nó bốn

lít nước ngọt nguyên chất nữa để làm suất uống. Bốn lít nước bằng tiêu chuẩn của

hai thằng lính biển chứ có ít đâu!” [41, tr.118].

Và cái lý do chính đáng nhất đã được tìm ra để toàn đảo thịt lợn! Tưởng

chừng đây là niềm vui lớn của đảo khi có bữa ăn cải thiện mà lính đảo mong ngóng

bao ngày, thế nhưng, bao nhiêu cánh tay mạnh mẽ vung lên trước sóng to gió lớn,

trước kẻ thù hung bạo thì lại không ai đủ can đảm để chọc tiết con lợn cỏn con...

Hai Ùm và Tư Xồm đã làm cả đảo chìm phải đau đầu và làm cả chính trị viên

Thuận cảm thấy rất khó xử khi phải đưa ra một quyết định. Nhưng nhìn những cuộc

tranh cãi ấy chúng ta lại càng thấy vẻ đẹp của đảo Chìm. Họ giận dữ, mâu thuẫn

không phải vì những lợi ích cá nhân, mà những điều đó xuất phát từ họ nghĩ vì

nhau, nghĩ cho nguồn nước ngọt quý giá của anh em đồng đội. Nhưng rồi chuyện

giết lợn không thành bởi đó là tính nhân văn, con lợn không chỉ là một thứ vật nuôi

mà còn là người bạn tinh thần, hiện thân của sự sống trên đảo.

Và một nhân vật chúng ta không thể không nhắc tới khi nói về Đảo Chìm, đó

là Thượng tướng Giáp Văn Cương -Vị tướng chỉ huy già, người đã nhiều lần có mặt

ở hòn đảo bé nhỏ xa xôi này. Ông đến với Đảo Chìm dường như không chỉ với tư

cách của một vị Tư lệnh, một người chỉ huy mà ông đến với những người lính ở đây

như một người đồng đội, một người lính già từng trải đến để chia sẻ những vất vả

gian lao ở nơi này. Những lời trách mắng, nhắc nhở đối với những người lính trẻ

cũng chan chứa tình cảm như lời một người cha dành cho những đứa con của mình.

Có lẽ không ở đâu mà một nơi đóng quân chỉ có cái lều bạt trên dẻo cát trống trơn,

vài chiếc giường tầng nằm giữa sóng gió lại được khen là: “Đẹp, nền nếp. Đúng

quân phong, quân kỷ”[41, tr.58] như ở Đảo Chìm. Lời khen ấy chính là sự cảm

thông sâu sắc trước những khó khăn gian khổ nơi này. Ông hiểu rằng để giữ gìn

được những gì rất bình thường đó, những người lính đã phải đổ bao mồ hôi và cả

xương máu của mình. Và cũng không ở đâu ta bắt gặp một hình ảnh rất đẹp, một vị

Tư lệnh ngồi gác thay một người lính trong suốt một đêm dài chỉ bởi một điều rất

đơn giản: “Cậu là lính. Tớ cũng là lính. Cậu gác mấy năm trời còn được. Tớ gác

mỗi một đêm bõ bèn gì!”[41, tr.98].

57

Đọc những trang viết ấy chúng ta thấy giữa hòn đảo bé nhỏ này mọi khoảng

cách dường như được xoá bỏ, không còn khoảng cách giữa một vị tướng với một

người lính nữa, ở đó họ là những người đồng đội, đồng chí cùng san sẻ và sẵn sàng

hi sinh vì một mục đích cao cả.

Khi thấy Thiêm bị chới với bên mép san hô lúc cố nhào theo để vớt chiếc

chăn thì Tư Xồm vội lao ra để cứu bạn nhưng cũng bị sóng cuốn. Thấy vậy Hai Ùm

cũng nhảy xuống mặc dù lúc đó, nước chảy rất xiết. Chính điều đó đã tôn lên vẻ đẹp

của tình đồng đội giữa những người lính nơi đây, họ sẵn sàng hi sinh cả sự sống của

bản thân cho đồng đội.

Đó là sự ra đi của Thiêm và sau là sự hi sinh của Hai trong cơn bão biển.

Những trang viết cuối cùng của Đảo Chìm chất chứa những cảm xúc của Trần Đăng

Khoa. Hai vì muốn giữ lại một chút kỉ vật cho Thiêm đã không nghĩ đến sự nguy

hiểm cho bản thân mà đã một mình quay lại đảo giữa cơn bão tố đang đến: “Thằng

Thiêm nó chỉ có mỗi chút đó thôi. Nếu mất biết nói gì với mẹ nó, cực thế. Vả lại còn

một tí tư trang ấy, cũng có thể cho vào cái tiểu sành, đắp cho nó ngôi mộ. Vẫn còn

chút gì của nó để có thể thắp cho nó một nén hương …”[41, tr.130].

Nhưng cơn bão đã đến quá nhanh. Hai đã không kịp làm điều đó. Anh đã lao

về đảo để tìm, và cơn bão dữ đã cướp mất chàng thi sĩ tài ba của đảo Chìm: “Lần đầu

tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển

mặn như ở Đảo chìm. Mặn như máu...”[41, tr.138].Sự hi sinh đó không giống như

sự hi sinh trong trận chiến đấu mà chúng ta thường thấy nhưng nó lớn lao và khiến

chúng ta phải cúi đầu vì đó là sự hi sinh của một con người giàu đức hi sinh xả thân

vì đồng đội.

Con người trước biển thật nhỏ nhoi nhưng chính cái rộng lớn của biển đã

nâng tầm vóc của con người lên với chiều kích của vũ trụ. Thật khó mà nói hết

những tình cảm của tác giả đối với biển đảo, bởi nó là tình yêu nước đậm sâu, lòng

tự hào về quê hương đất nước với biết bao biến cố thăng trầm.Tình cảm ấy khi trải

qua thời gian thì càng được nhân lên và cộng hưởng nhất là khi vùng biển Tổ quốc

đang có những biến động. Từ tình cảm của tác giả đến tình cảm của những người

lính nơi biển đảo đều thấm đẫm và hòa nhịp trong một tình yêu lớn- tình yêu tổ

quốc, quê hương. Vì thế những sáng tác về chủ đề biển đảo là tiếng hát ca ngợi

thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam.

58

2.3. Tiếng thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa

Tâm hồn những người lính biển dường như rất lãng mạn thi vị. Và cũng

chính vì lẽ ấy có không ít sáng tác của Trần Đăng Khoa đã mượn chủ đề biển đảo

để nói đến sự rung động của con tim. Dường như không gian sóng biển dạt dào, cát

biển mặn mòi mới nói hết được những cung bậc đa dạng của tình yêu. Tình yêu đôi

lứa luôn gắn bó sắc son với biển đảo. Tình yêu đôi lứa giúp các anh vượt qua bao

khó khăn khắc nghiệt nơi hải đảo xa xôi, khỏa lấp nỗi cô đơn, lẻ loi và rút ngắn

khoảng cách của không gian và thời gian. Tiếng thơ của Trần Đăng Khoa vang lên

thánh thót với khúc hát tình yêu đi cùng năm tháng Thơ tình người lính biển

Anh ra khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên…

Biển ồn ào, em lại dịu êm

Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ

Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên…

Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc

Biển một bên và em một bên…

Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên

Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng

Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng

Biển một bên và em một bên…

Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên…

(Thơ tình người lính biển)

59

Bài thơ được viết với âm hưởng dạt đào thương nhớ, nhưng cũng rất chủ

động tự tin, nói lên tâm trạng của anh lính trẻ phơi phới tuổi thanh xuân và có ý

thức làm chủ cuộc đời. Mở đầu bài thơ là cảnh chia tay giữa chàng lính biển với

người yêu của mình để xuống tàu làm nhiệm vụ bảo vệ biển trời thân yêu của Tổ

quốc. Tình cảm ấy thật đẹp và lưu luyến, nhưng họ hiểu và thông cảm cho nhau về

nhiệm vụ người bạn trai gánh vác.Thế nên lúc chia tayhọ rảo bước bên nhau trên

bến cảng, dưới những vầng mây treo ngang trời những cánh buồm trắng. Ánh mắt

người lính thủy sắp ra với mênh mang biển cả, mây trời giống như cánh buồm trắng

phiêu du. Giây phút ra khơi của chàng lính trẻ càng lãng mạn hơn khi anh được đi

dạo giữa biển và em. Hạnh phúc thật đơn sơ nhưng cũng rất hiếm hoi với người lính

biển. Từ khoảnh khắc dịu dàng đó, lời ca yêu dấu đã ngân lên: “Biển một bên và em

một bên...”. Sau dấu chấm lửng sẽ có rất nhiều điều chưa nói ra, là khoảng không

gian bao la, là những tháng ngày xa cách biền biệt của đôi lứa. Chàng trai ý thức

được trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc tiếp bước cha anh bảo vệ Tổ quốc, và cũng

chính là bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.

Câu thơ kiệm lời mà gợi mở, ý tứ sâu xa, chỉ một câu “Biển một bên và em

một bên”mà được nhà thơ nhắc lại tới năm lần và cả năm lần ấy đều được đặt ở

cuối khổ thơ, kèm theo dấu chấm lửng như không bao giờ là dừng, là một dụng ý

nghệ thuật đắc địa. Giữa câu thơ ấy là những câu giả tưởng tình huống, qua đó bày

tỏ tâm trạng, nỗi niềm, ý chí, nghị lực và quan niệm của tuổi trẻ giữa tình yêu đôi

lứa và nghĩa vụ với tổ quốc. Anh lính biển rất đỗi yêu thương, trân trọng người bạn

gái, có thể là mối tình đầu nhưng cũng ý thức rõ tình yêu chỉ thực sự đến với họ một

khi chính anh làm tròn bổn phận người thanh niên đối với tổ quốc. Đấy chính là

lòng tự hào của tuổi trẻ, của tình yêu đã qua thử thách. Tình yêu chỉ đẹp khi biết đặt

nó giữa cuộc đời và ý thức công dân của tuổi trẻ với Tổ quốc. Cả hai phía, biển và

em,anh đều thấy rất rõ sự dịu dàng, kín đáo đến tinh tế ở em, và cũng như thấy con

tàu đang lắng nghe tiếng sóng, tiếng cười dịu dàng êm ái của em.

Biển ồn ào, em lại dịu êm

Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ

Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên…

60

Biển và em ở bên anh, một ồn ào và một dịu êm nhưng đều gần gũi thân thiết

với người lính. Biển là Tổ quốc; em là Tình yêu - cái rộng lớn và cái nhỏ bé cùng

vun đắp cho anh, những yêu dấu, niềm tin và khát vọng. Bên nhịp sóng ồn ào,

người lính không nghe rõ lời em nói, chỉ thấy nụ cười lặng lẽ của cô gái. Phảng phất

nét buồn của người ở lại. Người lính đi giữa hai nửa gần gũi thân yêu, giữa chung

và riêng: Biển (Tổ quốc) và em để trong bâng khuâng xao xuyến hóa thân thành con

tàu lắng sóng từ hai phía.Tiếng sóng biển và sóng của nỗi nhớ em lúc nào cũng dạt

dào trong trái tim người lính trẻ. Nghiêng bên nào anh cũng thấy nhớ, thấy yêu em,

nhưng anh không muốn để tình yêu thương em khỏa lấp nhiệm vụ của tuổi trẻ, nên

anh chia đều tình yêu thương cho cả hai. Dẫu tương lai có ra sao thì anh cũng không

thấy cô độc, bởi quanh anh luôn luôn có biển trời, đồng đội và em - hình ảnh của

đất liền, hình ảnh của tình yêu lứa đôi, như tiếp thêm sức lực cho tàu anh lao về

phía trước.

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc

Một tình yêu thủy chung son sắt. Một tình yêu sáng ngời trong sắc nắng biển

trời.Như bao thế hệ đi trước, người lính hôm nay vẫn phải gánh vác nghĩa vụ giữ

gìn bảo vệ đất nước. Mang trong mình tình yêu Tổ quốc và cả tình yêu đôi lứa nồng

nàn, trong trẻo những người lính biển ra khơi, có mặt trên tàu, trên đảo nổi, đảo

chìm gác canh giữ gìn bờ cõi:

Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc

Biển một bên và em một bên…

Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên

Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng

Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng

Biển một bên và em một bên…

61

Có lẽ đây là phần hay nhất của bài thơ. Hai khổ thơ có những thi ảnh ấn

tượng sâu sắc, tràn đầy cảm xúc, vừa sâu lắng vừa mãnh liệt và giàu nhạc tính: Khi

vút cao, khi trầm lặng, khi nhanh, khi chậm để rồi mở ra mênh mang da diết với

điệp câu “Biển một bên và em một bên”. Biển đảo ngay cả giữa thời bình đã mặn

thêm bao nước mắt và máu của nhân dân và người lính. Phải thấm đau thương với

nhân dân, với đồng đội đến độ nào mới viết được câu thơ xoáy xiết thế này:

Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng

Đồng hành cùng anh đi tới những miền đất xa xôi của Tổ quốc, mãi mãi vẫn

là tình yêu đất nước và tình yêu em. Dù có thể xảy ra biến cố gì chăng nữa thì tình

yêu ấy vẫn mãi mãi tồn tại, vẫn xanh tươi đâm chồi nảy lộc trong tâm hồn các anh.

Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển, giúp anh vượt qua muôn

vàn gian nan thử thách. Tình yêu ấy làm cho anh không bao giờ cô độc, trái lại Tổ

quốc và em luôn ở bên anh, trong anh.

Bài thơ của Trần Đăng Khoa mang một chuyện tình hai trong một. Nghĩa là có

một tình yêu đôi lứa xen vào với tình yêu đất nước quê hương. Bài thơ đẹp hài hòa, giữa

tình yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc, giữa rung động cá nhân và trách nhiệm công dân

hòa quyện vào trong nhau, hòa làm một. Sáng tác của Trần Đăng Khoa về chủ đề biển

đảo giàu sức gợi mở, sâu lắng gạn lọc đến từng câu chữ. Mỗi sáng tác hàm chứa một ý

tưởng như những đợt sóng tình yêu. Tình yêu ở đây được hiểu với một khái niệm rộng,

chứ không hề là tình yêu đơn thuần đôi lứa. Bài thơ rất giàu chất nhạc có lẽ vì thế nên

nhiều người thuộc, nhất là câu “ Biển một bên và em một bên…” như lời tâm niệm của

những đôi trai gái mỗi khi xa nhau. Phải là người có một tình yêu biển và yêu người lính

biển đến sâu sắc và đắm say thì mới viết được những câu thơ như thế.

Nếu như tình yêu trong thơ Hữu Thỉnh là cảm giác cô đơn, nỗi nhớ mỏi mòn và

niềm khát khao cháy bỏng hạnh phúc đến trong tình yêu đôi lứa

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

62

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Vì sóng đã làm anh

Nghiêng ngả

Vì em…

(Thơ viết ở biển)

Trước mênh mông biển lớn, một mình anh hoang dại nỗi nhớ em. Nỗi buồn trống

vắng và sự hẫng hụt cứ cuộn trào như trăm nghìn ngọn sóng bồi lở lòng anh. Nhưng tất

cả sẽ không có nghĩa lí gì đâu nếu như chiều nay em không đến, cả không gian mênh

mang của đất trời cũng sụp đổ nếu thiếu vắng bóng em. Anh khát khao em, khát khao

tình yêu như nắng khát trời mưa, như sóng khát bờ để mãi được ôm ấp vuốt ve.

Thì trong sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về đề tài tình yêu đôi lứa ta có thể

cảm nhận mặt mạnh của nhà thơ chính là sức trẻ của tuổi hai mươi với tâm hồn rạo rực

yêu đương nhưng cũng có thể thấy những hạn chế nhất định, tình yêu của nhà thơ ít

mang màu sắc cá nhân, có lẽ khi ấy nhà thơ chưa có những trải nghiệm yêu đương đôi

lứa cho lên tình yêu đôi lứa dường như không tách bạch với nhiệm vụ của tổ quốc. Tình

yêu ở đây là sự hòa hợp giữa tình cảm và nhiệm vụ, tình yêu biển và tình yêu em, tình

yêu lứa đôi và tình yêu đất nước. Những niềm rung động, thổn thức của con tim đang

đắm chìm trong men say yêu đương chưa được khai thác sâu sắc, những cung bậc nhớ

nhung, mong chờ, thổn thức hay sự rung động mạnh của con tim yêu đương thì trong các

sáng tác viết về biển đảo của Trần Đăng Khoa ta còn ít bắt gặp.

Nhà thơ Tế Hanh, từ trước đã có bài thơ Sóng gồm 4 câu thế này:

Biển một bên, em một bên

Ta đi trên bãi cát êm đềm

Thân buông theo gió hồn theo mộng

Sóng biển vào anh với sóng em.

63

Bài thơ in trong tập Theo nhịp tháng ngày, năm 1974. Tế Hanh đã từng viết:

“Biển một bên, em một bên”. Trần Đăng Khoa cũng viết : “Biển một bên và em một

bên”. Có thể nói ý nghĩa chung, bao trùm của cả hai câu thơ là khá giống nhau nếu tách

riêng ra. Cũng nói về tình yêu, cũng có các đối tượng biển và em trong đó. Nhưngcái

đích của Tế Hanh nhằm tới chỉ là em, chỉ là tình yêu trai gái. Còn Trần Đăng Khoa, khi

đặt trong toàn bài với sự lặp lại ở cuối mỗi khổ câu “Biển một bên và em một bên” thì

tình yêu ấy bao gồm cả tình yêu Tổ quốc và tình yêu đôi lứa. Biển không còn là một đối

tượng miêu tả đơn thuần nữa mà biển đã thành biểu tượng của Tổ quốc. Biển của đất

nước gian nan chưa bao giờ bình yên, biển của những người lính nơi thăm thẳm nước

trời và dưới những chùm sao xa lắc…Khác nhau thêm ở chỗ một dấu phẩy và một

chữ“và”.“Biển một bên, em một bên” của nhà thơ Tế Hanh hình như đang có một chút

ngăn cách ngập ngừng nào đó. Biển một bên và em một bên thì có vẻ như đã gần gũi

thân thiết lắm rồi. Liên từ “và” nối hai nhân vật biển và em với nhau trong mối đồng

cảm xuyên thông, chia sẻ chung riêng nhất quán.

Người lính biển hồn nhiên, tươi trẻ, vui đùa để quên đi những thiếu thốn

ngoài đảo xa, để chắc thêm tay súng giữa biển trời bao la. Và các anh đã bao lần sử

dụng trí tưởng tượng để ghi lại những phút giây rung động của con tim:

“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình”

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Khi bừng tỉnh giấc mơ, mới biết tay mình vẫn nắm lấy tay mình, và các anh

khao khát, mong chờ:

“Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?

Trong bốn phía chỉ âm u mây nước”

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

64

Tưởng tượng, nhớ nhung và ao ước đã chắp cánh cho những người lính đảo

hát tình ca trên đảo, dẫu rằng:

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu...”

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Trần Đăng Khoa nhà thơ mặc áo lính đã mượn không gian biển để thể hiện

tình yêu đôi lứa. Có lẽ chỉ cái sâu rộng của biển mới ví được với sự trống trải trong

tình yêu. Đã ra đời từ rất lâu rồi Những đám mây trắng ngời từ hải đảo vẫn đi cùng

hành trang của nhiều bạn yêu thơ. Bài thơ chan chứa tình cảm yêu thương chân

thành và cũng đầy thi vị.

Những đám mây trắng ngời từ hải đảo

Bay nôn nao về phía đất liền

Ồ, không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy

Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em

Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở

Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời

Nếu em cũng yêu anh như con tàu yêu biển

Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...

(Những đám mây trắng ngời từ hải đảo)

Nhà thơ đã dùng những hình tượng thiên nhiên như đá hoang, lòng biển để so

sánh sự đơn lẻ trống trải của mình khi xa người yêu. Mạch thơ từ đây được trải ra như

những lời tâm tình thủ thỉ với người yêu xa cách hay cũng chính với trái tim tác giả vậy

Anh ở đây. Đá hoang thành Tổ quốc

Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi

Anh chẳng biết để đâu, đành vùi vào lòng biển

Nên suốt đêm ngày, biển vật vã, sục sôi

Không bão tố. Biển lúc nào cũng động

Nỗi lòng anh cuồn cuộn dưới trời

(Nhớ)

65

Tình yêu của sóng với biển cũng chính là tình yêu của anh với em.Yêu càng sâu

sắc bao nhiêu thì nỗi nhớ càng đầy ắp, da diết bấy nhiêu.Tình yêu là động lực cho

người lính bước tiếp trên con đường anh đã chọn, tình yêu là bến bờ của hạnh phúc.

Ngày mai đảo sẽ nhô lên

Sẽ có cuộc đời, sẽ có tên

Có con đường đưa anh đến với em

Có ngôi nhà dưới vòm cây mát

(Hát về một hòn đảo)

Khi viết Đảo chìm - một cột mốc sáng tác khác của mình, nhà thơ đã không quên

miêu tả về tình yêu đôi lứa. Nhà thơ tả về hòn đảo chìm - bé đến mức “chỉ nói một câu là

hết” - nhưng bao người lính đã ra đó để sống chết với đảo, với biển. Trần Đăng Khoa tả

những người lính sạm nắng và hiên ngang hơn nắng, hiền hậu mà quả cảm như biển. Họ

sống trong những túp lều hoang sơ, như lều vịt mà ông chủ đãng trí nào đó đã bỏ quên

trên cánh đồng đang cày vỡ. Mái lều trũng xuống vì những vệt phân chim lâu ngày trắng

xóa. Cuộc sống nơi đảo xa khó khăn thiếu thốn vất vả là thế nhưng tâm hồn các anh

không vì vậy mà trở nên nghèo nàn trái lại tình yêu lứa đôi của những chàng lính trẻ nơi

đây lại vô cùng đặc biệt. Họ tha thiết yêu đời, yêu người, yêu cả những bóng hình trong

tưởng tượng mà các anh chỉ nghe qua lời kể và chưa từng gặp mặt. Nhưng tình yêu của

các anh đẹp lắm, mỗi người lính đều có trong tim hình bóng người yêu theo cách tưởng

tượng riêng của mình. Đó là chuyện tình với tiểu thư Mộng Tương con gái đầu lòng của

chính trị viên Thuận “Vâng, đúng như vậy đấy. Cô là Tiên giáng thế. Một cô tiên trên

đảo. Đảo chìm mà có tiên thế mới oách! Nghe đồn cô đẹp lắm. mái tóc dài óng ả. Da

trắng nõn. Cô đi đến đâu là ở đó xao động. Chàng trai nào nhìn thấy cô cũng ngẩn ra,

rồi sững sờ như hóa đá, còn đá đảo lại bồn chồn, lại rạo rực, lại muốn hóa thành người,

thành một chàng trai, để cô lé mắt đến.Nói tóm lại, cô đúng là một nàng Tiên… Nhưng

một người con gái đẹp như thế không thể lại là Thị Tương được. Thị Tương có khác gì

Thị Nở. Nghe cứ ghê cả răng. Thi sĩ Hai Ùm quyết định đặt tên cho cô là Mộng Tương.

Thế rồi cả đảo gọi cô là Mộng Tương. Phải vậy chứ! Người trong mộng cơ mà…Tiểu

66

thư công nương Mộng Tương cũng vẫn trở thành người thân của cả hòn đảo này rồi.

Chỉ tiếc chẳng có ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiều diễm của nàng. Có lẽ cũng vì thế

mà nàng càng trở nên lung linh, kỳ ảo. Ngày nào cánh lính trẻ cũng nhắc tới nàng, vanh

vách kể về nàng, cứ như họ đã quen nàng từ lâu lắm…” [41, tr.85]. Hình ảnh tiểu thư

Mộng Tương như một cơn gió mát thổi qua hòn đảo nắng cháy đầy cát và gió này. Tình

yêu đôi lứa thầm lặng khiến những chàng trai tuổi đôi mươi ấy thêm sức mạnh chiến

đấu, khát khao hạnh phúc lứa đôi đưa các anhvượt qua gian lao thử thách hướng về

những điều tốt đẹp ở tương lai. Và cũng thật dễ hiểu khi nhận được thư của nàng từ đất

liền gửi ra các anh đã có một chút hẫng hụt:“Dạo này con ngoan lắm. Con không quấy

mẹ, cũng không gác chân lên cổ mẹ nữa. Hôm nao bố về, bố nhớ mua cho con ba quả

bóng bay như của cái Tèo. Mí nữa đêm ngủ, con không còn đái dầm đâu bố ợ…Cả đảo

bỗng lặng phắc.Một sự im lặng đến ngột ngạt. Tư xồm bỗng thấy choáng váng. Làm sao

ở hòn đảo này lại không có một người con gái như thế. Ơ kìa, bố Thuận!Trời ơi, bố làm

sao thế? …Làm sao lại có chuyện như thế? Không!Bố Thuận nói đùa đấy! Các cậu

ơi!Bố Thuận nói đùa đấy! Các cậu ơi!Bố Thuận nói đùa đấy!Các cậu ơi! Bố Thuận nói

đùa đấy!Không! Không!...” [41, tr.89]. Dường như không muốn chấp nhận hiện

thựcnày. Dù chỉ là trong tưởng tượng thôi, nhưng các anh vẫn muốn được sống như thế.

Được ao ước, được chờ mong tình yêu lứa đôi, điều đó nuôi dưỡng tâm hồn các anh,

khiến nó không khô héo cằn cỗi ngược lại đó là liều thuốc bổ cho trái tim, giúp các

anh thêm yêu đời và hăng say chiến đấu.

Tình yêu lứa đôi, đôi khi chỉ là yếu tố vô hình, nhưng vai trò của nó thì

chúng ta không thể phủ định. Tình yêu giúp chúng ta thăng hoa cảm xúc, yêu đời và

có thêm sức mạnh cho những dự định tương lai. Với những người lính Trường Sa

cũng vậy. Có thể nhận thấy rằng các sáng tác của Trần Đăng Khoa khi viết về tình

yêu đôi lứa thường lấy biển đảo làm không gian giãi bày. Điều đó làm nên đặc sắc

trong các sáng tác của anh. Phải chăng nhờ sự mặn mòi của biển, sự xao động của

sóng đã làm cho tình yêu thêm đậm sâu, thêm da diết, mang lại sắc nét riêng cho

những trang viết của anh về chủ đề biển đảo

67

Tiểu kết chương 2

Trong lịch sử bảo vệ và gìn giữ đất nước của dân tộc, biển đảo luôn là phần

lãnh thổ thiêng liêng là nơi lưu giữ hình ảnh của dân tộc qua nhiều thăng trầm. Biển

đảo là nơi đầu sóng ngọn gió với biết bao nguy hiểm, mất mát nhưng biển đảo cũng là

nơi nối nhịp thương yêu giữa muôn trùng giông bão. Tất cả điều đó làm lên một biển

đảo sừng sững hiên ngang mà chan chứa tình yêu trường tồn đó là tình yêu Tổ quốc.

Trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa sau năm 1975 viết về biển đảo là

nguồn cảm hứng chủ đạo. Nhà thơ có một cái nhìn rất riêng khi viết về biển cả với

những cảm xúc riêng khi đứng trước sự thiên nhiên bao la rộng lớn. Các sáng tác

của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo trước hết là tiếng thơ khẳng định chủ

quyền lãnh thổ một tiếng nói đanh thép tuyên bố chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

Tiếng thơ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người với biển đảo vẻ đẹp tráng

lệ nhưng cũng rất dữ dội, ở đó những người lính luôn bám biển canh giữ vùng trời,

vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc; ca ngợi tình yêu đôi lứa trong sáng mà thiết tha

là động lực cho người lính chiến đấu, nhìn về hạnh phúc tương lai.

Lịch sử chính là mảnh đất ươm mầm, cảm hứng nghệ thuật là hạt nhân sáng

tạo và tài năng chính là bàn tay nâng đỡ những tác phẩm vượt qua mọi sự sàng lọc

khắt khe của thời gian tìm kiếm một vị thế vững chắc trong lòng độc giả và Trần

Đăng Khoa đã làm được điều đó.

68

Chương 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC

CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

3.1 Hệ thống biểu tượng

3.1.1. Khái niệm biểu tượng nghệ thuật

Khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về biểu tượng nghệ thuật. Theo

George thì biểu tượng (Symbol) là cái “Tiết lộ mà che dấu và che dấu mà tiết lộ”.

Dựa trên nhiều ý kiến chúng ta có thể đưa ra một cái nhìn thống nhất về biểu tượng

như sau: Biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm

tính và mặt ý nghĩa mang tính tất yếu, có lí do. Mặt hình thức cảm tính: Cái biểu

trưng, tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sức tưởng tượng của con

người. Mặt ý nghĩa: Cái được biểu trưng, mà cái được biểu trưng bao giờ cũng rộng

hơn, dồi dào hơn. Cụ thể, biểu tượng theo một cách khái quát trước hết là hình

ảnhcủa thế giới khách quan bên ngoài con người (màu sắc, vật thể, cơ thể...). Với

phương pháp biểu trưng hóa của hoạt động ý thức, con người đã phản ánh sự vật

khách quan vào trí óc của mình, cấp cho nó một ý nghĩa, một thông tin. Từ đó, tạo

nên một thế giới bên trong thế giới ý niệm, đó là thế giới vô hình, vô hạn và vô khả

tri. Nó vừa phản ánh thực tại, vừa từ thực tại mà tưởng tượng, suy luận đem lại cho

con người một khả năng vô tận: Khả năng trí tuệ, khả năng tâm linh để con người

có thể tư duy, thông báo với nhau. Như vậy bằng cách mô phỏng tự nhiên, con

người đã tự sáng tạo ra một thế giới biểu tượng đa dạng, phong phú và vô cùng sống

động. Biểu tượng không chỉ tồn tại trong một ngành khoa học riêng mà còn là đối

tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học : Triết học, phân tâm học, mỹ học, thần

học, ngôn ngữ học...

Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Nói

đến biểu tượng người ta chú ý đến hai dấu hiệu nhận biết. Thứ nhất, biểu tượng là

hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan. Thứ hai, biểu tượng không chỉ mang ý

nghĩa biểu vật mà nói đến nó là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa

biểu cảm. Nó là“một phương thức chuyển nghĩa của lời nói”[23, tr.24].Tuy nhiên,

69

biểu tượng có những đặc điểm ý nghĩa khác với hình ảnh có nội hàm gần gũi là ẩn

dụ và hình tượng. Việc xác định ranh giới giữa biểu tượng và ẩn dụ chỉ là tương đối.

Dựa trên hai dấu hiệu nhận biết của biểu tượng như trên thì biểu tượng có vẻ không

khác gì ẩn dụ. Nên để phân biệt rõ biểu tượng và ẩn dụ thì trước tiên phải xác định

đối tượng. Theo nhà văn Nga V.I.Eremina thì “Ẩn dụ thơ ca được sinh ra nhất thời

và mất đi khá nhanh. Biểu tượng được hình thành trong quá trình dài và sau đó

sống hàng trăm năm, ẩn dụ là yếu tố biến đổi còn biểu tượng là không đổ, bền

vững. Ẩn dụ là phạm trù thẩm mỹ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ.

Biểu tượng thì ngược lại, được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định”

[65, tr.85]. Như vậy, tính biến đổi và bền vững, tự do và ước lệ là những cơ sở để

nhà văn Nga V.I.Eremina phân biệt ranh giới giữa ẩn dụ và biểu tượng. Tác giả

Phạm Thu Yến khi nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian cũng khẳng định:

“ Biểu tượng mang tính kí hiệu, quy ước, nghĩa là chỉ cần nêu hình ảnh biểu tượng

là người đọc đã hiểu ra cái mà nó biểu trưng, Không cần yếu tố giải mã vì nó đã in

sâu vào tư tưởng thẩm mỹ dân gian. Còn ẩn dụ tự do hơn, không chỉ được tạo bằng

một hai hình ảnh mà bằng vài ba hình ảnh. Vì thế các yếu tố cần dựa vào nhau để

giải mã ẩn dụ, ẩn dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng

nhiều hơn nhưng không bền vững bằng...Biểu tượng là hình ảnh ẩn dụ được sử

dụng ở mật độ cao mang tính quy ước”[65, tr.87].

Biểu tượng và hình tượng cùng có giá trị nhận thức cảm tính và chủ quan

trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ. Nhưng giữa biểu

tượng và hình tượng lại có những điểm khác nhau rõ rệt. Sự tồn tại của hình tượng

nghệ thuật không bao giời vượt quá giới hạn của hình thức biểu đạt cụ thể (luôn có

phương tiện biểu hiện trọn vẹn nghĩa của hình tượng), còn sự tồn tại của biểu tượng

thì lại vượt quá giới hạn của một sự biểu đạt, biểu nghĩa (nghĩa là không một

phương tiện nào có thể biểu đạt trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng).Hình tượng bao

giờ cũng tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra khỏi một hệ thống nào đó để

phù hợp với yêu cầu: Tự do, hoàn thiện, độc đáo và khác biệt. Trong khi đó biểu

tượng bao giờ cũng nằm trong một hệ thống nhất định, không thể tách ra đứng độc

lập trong nhận thức của con người. Điểm khác nhau rõ nét nhất là biểu tượng có

70

phạm vi lớn hơn hình tượng rất nhiều. Với tư cách là khách thể tính thể chứ không

phải khách thể thực tại, hình tượng có một số đặc tính của biểu tượng. Chính yếu tố

này khiến cho biểu tượng trong văn học có khi chỉ là một nhưng lại có thể được

diễn tả thành nhiều hình tượng. Ta thấy trong văn chương từ một biểu tượng là biển

có thể có nhiều hình tượng được gửi gắm vào trong đó(Người con gái trong tình

yêu, cảm thức về vũ trụ...) Những hình tượng ấy đều có một số nét liên hệ và phụ

thuộc vào biểu tượng. Chính những mối liên hệ khiến cho hình tượng đưa ra có sức

sống lâu bền trong lòng người đọc. Mặc dù giữa ẩn dụ, hình tượng và biểu tượng có

những nét phân biệt song những thuật ngữ này lại có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Chúng ta không thể tách rời biểu tượng ra một cách độc lập. Vì vậy, khi nhắc đến

biểu tượng nghệ thuật người ta cũng nhắc đến ẩn dụ và hình tượng, hình ảnh.

Các biểu tượng ngôn từ nghệ thuật được cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn

ngữ trong văn học. Trong phạm vi ngôn từ nghệ thuật, các biểu tượng triết học,

phân tâm, văn hóa, văn học, đều được chuyển thành các từ - biểu tượng. Các hình

thức vật chất cụ thể (sự vật, trạng thái, hoạt động...) và các ý niệm trừu tượng trong

đời sống tinh thần con người tín hiệu hóa thông qua hệ thống ngôn từ. Và hệ thống

ngôn từ đó còn mở ra cho các biểu tượng những mối liên hệ mới, hiện thức hóa và

phát triển ý nghĩa biểu tượng trong một năng lực biểu hiện to lớn. Từ đó nảy sinh

nhiều biến thể khác nhau. Mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và hoàn cảnh đã tạo

nên sự tương tác trong một môi trường văn hóa - ngôn ngữ, từ đó nhận diện được sự

biến đổi ý nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa - Cái thực thể tinh thần của thế giới trong nhận

thức của con người được phản ánh trong ngôn ngữ là vô hạn. Do đó, việc sử dụng

ngôn từ như những biểu tượng trong hoạt động sáng tác văn học nói chung và thơ

ca nói riêng có thể gọi là một cách định danh mơ hồ, đòi hỏi một tư duy tưởng

tượng, một cái nhìn khám phá bản thể bị che khuất. Trong văn học cấu trúc ngôn từ

của thi ca được xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ, trong đó vai trò quan

trọng thuộc về các từ - biểu tượng với tư cách là những điểm nhấn trong tổng thể

đó. Sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo đã xây dựng được nhiều

biểu tượng hấp dẫn là những tín hiệu thẩm mỹ đạt những ý nghĩa phong phú: Biểu

tượng cánh buồm, biểu tượng thuyền và biển, biểu tượng cánh chim hải âu.

71

3.1.2. Biểu tượng cánh buồm

Trong lịch sử phát triển lâu đời của mình, các dân tộc đã tạo ra những biểu

tượng văn hóa hội tụ những tinh hoa, tinh thần cho riêng mình và mang tính cộng

đồng cao. Những biểu tượng ấy đã tồn tại qua những biến cố thăng trầm của lịch sử,

những sóng gió của thời gian dần trở thành những hằng số văn hóa đại diện cho mỗi

quốc gia mỗi dân tộc. Các nhà thơ nhà văn dù ít hay nhiều cũng sẽ ảnh hưởng của

những biểu tượng mang tính truyền thống như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa chắc

hẳn cũng không là một ngoại lệ, cùng với hệ thống những biểu tượng mới mẻ mang

đậm dấu ấn cá nhân nhà thơ vẫn có sự tiếp nhận của những biểu tượng truyền thống.

Những biểu tượng này tuy không còn mới mẻ nhưng bằng sự sáng tạo và việc thể

hiện cái tôi đầy bản lĩnh của một tài năng, Trần Đăng Khoa đã đưa những biểu

tượng cũ này lên một tầm đón nhận mới, mang những cung bậc cảm xúc cùng

những sắc thái biểu cảm mới, đạt được những hiệu quả bất ngờ. Biểu tượng trong

sáng tác của Trần Đăng Khoa trong các giai đoạn sáng tác mang những nét khác

nhau, nếu như trong các sáng tác thời thơ ấu của anh ta thường bắt gặp các biểu

tượng như góc sân, khoảng trời và cơn mưa thì trong giai đoạn trưởng thành đặc

biệt là trong quãng thời gian anh thực hiện nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa, Trần

Đăng Khoa đã sáng tạo nên những biểu tượng mới, mang những tâm tư suy nghĩ

của một người lính.

Cánh buồm gắn với hình ảnh những con thuyền xuôi ngược trên biển. Hình

ảnh cách buồm từ lâu đã trở thành một biểu tượng rất đỗi quen thuộc trong văn học:

Cánh buồm tít cõi mờ xa (Lí Bạch), thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

(Nguyễn Du), cánh buồm trắng - mảnh hồn làng (Tế Hanh)... Cánh buồm no gió là

biểu tượng cho khát vọng đi xa, khát vọng tự do, làm chủ thiên nhiên đất nước,

chiếm lĩnh không gian của con người. Cánh buồm no gió ấy vượt muôn trùng

dương đong đầy bao hoài bão lớn lao của con người để đến với những chân trời

rộng mở.Trong bài Thơ tình người lính biển Trần Đăng Khoa đã từng viết:

Anh xa khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay anh đi dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên...

(Thơ tình người lính biển)

72

Khổ thơ như một bức tranh đẹp, tác giả đã khéo léo hướng đôi mắt đi từ gần

đến xa rồi từ xa về gần để có một bức tranh toàn cảnh bao quát, đa màu sắc có chiều

rộng và chiều sâu, cảnh đoàn tàunối đuôi nhau ra khơi với khí thế sục sôi cống hiến

của tuổi trẻ nhưng cũng không kém phần lãng mạn bởi sự xuất hiện của hình ảnh

những áng mây trắng như treo ngang cánh buồm, rất thơ mộng.

Anh xa khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

(Thơ tình người lính biển)

Trong giây phút ấy không chỉ có sự chia xa của con người mà như cảnh vật

cũng có sự quyến luyến nhau. Cánh buồm lúc này không phải là vật vô tri vô giác

mà như mang trong mình tâm trạng đong đầy. Đất nước ta một quốc gia với bờ biển

rộng lớn trên 3000 km những cư dân của đất nước ấy sẽ mãi mãi bền bỉ trong hành

trình vượt trùng dương hướng ra biển để khẳng định vị thế của mình. Dù chỉ xuất

hiện duy nhất một lần trong thơ viết về chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần

Đăng Khoa nhưng cánh buồm trở thành một biểu tượng hùng tráng trong sáng tác

của Trần Đăng Khoa, cánh buồm mang biểu tượng của sức sống của tâm hồn mở ra

cùng nắng gió, là những khát khao khám phá những miền đất hứa, những chân trời

mới. Cánh buồm bé nhỏ thôi, lênh đênh trên biển cả bao la nhưng đó chính là hình

ảnh của sự sống con người là gạch nối mong manh,nối liền đất liền và hải đảo, là

hình ảnh Tổ quốc thân thương với những làng quê, bờ tre, bãi mía, nương dâu.Hình

tượng đất nước và nhân dân trở nên cao rộng huyền ảo trong hải trình của cánh

buồm trên biển lớn. Biểu tượng cánh buồm trong sáng tác của Trần Đăng Khoa gắn

với khát vọng của tuổi trẻ ra biển là chấp nhận những thử thách nguy hiểm, nghiệt

ngã hơn, to lớn hơn trong đất liền nhưng có lẽ những điều đó chỉ góp phần tôi luyện

ý trí sắt đá của người chiến sĩ tuổi đôi mươi ấy. Các anh sẽ biết ngược chiều cơn gió

thổi để đi đúng con đường đã chọn, trong hành trình đi về phía mặt trời lên, các anh

đã, đang và sẽ vươn ra biển lớn với bản lĩnh và ước mơ mang tên Việt Nam. Tình

yêu tổ quốc đồng hành trong tình yêu lứa đôi và khát vọng tuổi trẻ, trách nhiệm

công dân.

73

Hành trình nào cuối cùng cũng mong gặt hái được nhiều hạnh phúc. Cái

hạnh phúc lớn nhất của một dân tộc, một con người, không gì khác chính là tự

do.Tự do như cánh buồm lộng căng giữa biển bao la.

Nếu như biểu tượng cánh buồm trong sáng tác của Hoàng Trung Thông, hình

ảnh cánh buồm căng gió đưa con thuyền lướt trên biển khơi gợi nỗi nhớ quê hương

mênh mông vô định, lẻ loi, đơn chiếc, gợi sự hoài niệm đưa ta đến bến bờ xa thẳm

của kí ức

Cha lại dắt con đi trên cát mịn

Ánh nắng chảy đầy vai

Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời

“Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé,

Để con đi!”

Lời của con hay tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”.

(Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông)

Tâm trạng tiếc nuối của người cha, những ước mơ tưởng chừng đã mất đi bởi

cuộc đời nghiệt ngã. Cánh buồm ở đây là sự nuối tiếc, có lẽ nó mãi chỉ là cánh

buồm khát vọng, khắc khoải ám ảnh suốt một đời trai trẻ. Thì trong sáng tác của

Trần Đăng Khoa biểu tượng cánh buồm mang những màu sắc mới mẻ, dấu ấn của

tuổi trẻ. Nhà thơ đã rất thành công trong việc khắc họa biểu tượng cánh buồm. Hình

ảnh cánh buồm trong sáng tác của Trần Đăng Khoa mang đầy khao khát làm chủ

thời cuộc, nhà thơ giong cánh buồm của mình cập bến tương lai. Đó là cánh buồm

của tuổi trẻ căng phồng sức mạnh, của thế hệ sau nối dài ước mơ không ngừng phát

triển. Cánh buồm là biểu tượng sức sống, kết nối những miền xa và viết tiếp những

ước mơ dang dở.

3.1.3. Biểu tượng tàu và biển

Biểu tượng thuyền và biển là những biểu tượng khá quen thuộc trong các

sáng tác viết về biển đảo. Biểu tượng thuyền thường được sử dụng để ẩn dụ cho

74

người con trai vì thuyền là vật di chuyển nay đây mai đó không mang tính cố

định. Ngay từ xa xưa ta đã dễ dàng bắt gặp biểu tượng này trong các sáng tác văn

học dân gian:

Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

(Ca dao)

Biểu tượng biển là cái đứng yên bất biến ẩn dụ cho người con gái. Tình yêu

vì thế mà sâu sắc kín đáo nhưng cũng rất đỗi tinh tế. Trần Đăng Khoa đã tiếp nối,

vận dụng khá thành công trong việc sử dụng biểu tượng thuyền và biển trong các

sáng tác của mình nhưng Trần Đăng Khoa đã nâng biểu tượng lên một tầm cao biểu

đạt mới phù hợp với thực tế chiến đấu của người lính Hải quân thông qua đó tác giả

gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình đó là biêu tượng “tàu và biển”..Trong bài

Những đám mây trắng ngời từ hải đảoTrần Đăng Khoa đã viết:

Những đám mây trắng ngời từ hải đảo

Bay nôn nao về phía đất liền

Ồ, Không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy

Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em

Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở

Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời

Nếu em cũng biết yêu anh như con tàu yêu biển

Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...

Với cách nói đầy hình tượng, tả ít mà gợi nhiều. Người lính ở đây hiện lên

không chỉ dạn dày với nắng gió miền biên đảo, các anh hiên ngang nhưng cũng rất

đỗi lãng mạn, yêu đời. Trong những giây phút căng mình làm nhiệm vụ khi thư

nhàn các anh nghĩ về tình yêu lứa đôi về hậu phương xa nhớ rất đỗi thi vị. Bài thơ

viết về tình yêu đôi lứa nhưng thông qua cách biểu đạt kín đáo, tinh tế.

Những đám mây trắng ngời từ hải đảo

Bay nôn nao về phía đất liền

Ồ, không phải mây đâu. Những bức thư anh đấy

Từ xa thẳm muôn trùng nhờ gió chuyển cho em

75

Nhà thơ mượn cặp đôi biểu tượng “tàu và biển” để diễn tả sự thủy chung,

son sắt của lứa đôi trong tình yêu,biểu tượng “tàu và biển” được cô đọng trong triết

lí yêu mãnh liệt và sâu sắc với mạch chảy xuôi chiều của tư duy hướng biển, khao

khát hướng về sự đồng thuận lí tưởng và tâm hồn. Bài thơ như đong đầy nỗi nhớ

của chàng lính biển gửi người yêu phương xa.

Ta vẫn ở bên nhau, dù muôn vời cách trở

Lúc nào nhớ anh, em hãy ngẩng nhìn trời

Nếu em cũng biết yêu anh như con tàu yêu biển

Em sẽ dễ dàng đọc được thư thôi...

(Thơ tình người lính biển)

Nỗi nhớ thương vì xa cách của tàu và biển da diết bao nhiêu thì nỗi nhớ

thương của đôi lứa yêu nhau càng cháy bỏng bấy nhiêu. Tàu và biển là sự đồng điệu

sinh ra là để dành cho nhau. Chỉ có tàu mới giúp hiểu thấu lòng biển và chỉ có biển

mới giúp tàu đi tới những miền xa cho thỏa khát vọng và đam mê.Ta có thể thấy

rằng biểu tượng tàu và biển tuy không còn xa lạ nhưng qua các sáng tác của Trần

Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo,tác giả không chỉ tiếp nhận những biểu tượng

truyền thống một cách thụ động, bằng tài năng sáng tạo Trần Đăng Khoa đã đưa

những biểu tượng cũ này lên một tầm cao, mới mẻ mang đậm dấu ấn cá nhân với

những sắc thái biểu cảm khác lạ, đạt được hiệu quả bất ngờ.Trong bài Thơ tình

người lính biển, biểu tượng biển xuất hiện nhiều lần. Hình ảnh biển và em luôn

đứng bên nhau, đi liền nhau trong suốt cả bài thơ cùng với lối kết cấu đặc biệt. Bài

thơ gồm năm khổ thì cả năm khổ thơ đều được kết thúc bằng hình ảnh Biển một bên

và em một bên như vậy trong sáng tác này của Trần Đăng Khoa ta thấy rằng cái

đích mà Trần Đăng Khoa hướng tới không chỉ là tình yêu trai gái, biểu tượng biển

không chỉ là hình ảnh của người con gái trong tình yêu nữa mà biểu tượng biển là

tình yêu tổ quốc. Biển không còn là đối tượng miêu tả đơn thuần mà biển đã thành

biểu tượng của tổ quốc:

Biển ồn ào, em lại dịu êm

Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ

Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên...

76

Điều đó đã giúp cho bạn đọc luôn cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi

lúc, mọi khoảnh khắc thì “biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn

người lính biển, đem lại niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho anh, biển khơi cũng

chính là biển của tình yêu. Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống

của người lính biển đã và sẽ mãi mãi dành cho “biển” và “em”:

“Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên.”

Ở bài thơ Ra khơi ta một lần nữa bắt gặp biểu tượng tàu nhưng hình ảnh con

tàu không chỉ là hình ảnh ẩn dụ chàng trai

Vành trăng non vừa vặn

Vòm đêm lung linh sao sáng

Sương buông

Sương buông

Mờ muôn dặm biển

Đêm nay tàu ta lại ra khơi

Cho dải đất liền tím sẫm

Bình yên

Bình yên

Bình yên

Nằm dưới sao trời

Con tàu xuất phát trong đêm như một sự hi sinh thầm lặng của các anh góp

phần bảo vệ tổ quốc, bảo vệ biển đảo thân yêu. Có lẽ điểm giống giữa biểu tượng

thuyền và con tàu đều là hình ảnh biểu trưng cho người con trai, cho thế hệ trẻ, cho

ý chí và nghị lực quyết tâm của những người lính biển như con tuấn mã lướt sóng đi

về phía trước bảo vệ vùng biển, vùng trời và cả phần đất liền thiêng liêng tím sẫm

phía sau lưng các anh. Ở đó có gia đình, bạn bè những điều thân yêu đang tràn đầy

hi vọng gửi gắm trong trái tim những người lính trẻ. Không chỉ vậy, tàu còn là biểu

tượng của đất liền, mang hơi ấm của đất liền ra với đảo. Mỗi lần tàu ra với đảo là

77

ngày đó đảo như ngày hội, tàu không chỉ chuyển đến nhu yếu phẩm mà tàu còn

mang đến những cánh thư – món ăn tinh thần mà người lính khát khao mong chờ

“Ôi chao! Phải nói đó là một ngày náo nhiệt, chộn rộn. Lần nào tàu ra, đảo cũng

như ngày hội. Huống hồ chuyến tàu này lại có thư của tiểu thư công nương. Nhưng

thật oái oăm. Bữa đó biển động. Trời tối mù mịt. Sóng nổi trắng như mây. Tàu

không cập mạn được, cũng không buông nổi neo. Sóng chồm lên cả nóc đài chỉ huy.

Con tàu đành cắtt sóng, chồm lượn quanh đảo. Chẳng có cách chi chuyển được

hàng vào, mà cánh lính thì không thể “nhịn” thêm được. Phải cho anh em “ ngửi”

chút đất liền chứ!’’. [41, tr.87].

Điểm khác biệt giữa biểu tượng thuyền và biểu tượng tàu đó là vị trí địa lý

quá xa đất liền cho nên những con thuyền bé nhỏ thô sơ không đủ sức vượt qua

những con sóng lớn để đến được đảo, chỉ có những con tàu lớn, mạnh mẽ mới có

thể đảm đương hành trình dài xa xôi.

Trần Đăng Khoa không ngừng nỗ lực tìm tòi và trải nghiệm sáng tạo trong

các tác phẩm của mình. Anh đã khéo léo vận dụng biểu tượng “tàu và biển” tưởng

chừng như đã quen thuộc với bạn đọc, thổi hồn của mình vào những biểu tượng ấy

và đưa nó lên một tầm cao mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và nhận được sự đón

đợi nhiệt tình từ phía độc giả. Bằng cách nói đó mà biển đảo hiện lên với vẻ đẹp

chân thực, phong phú và đậm chất thơ hơn.

3.1.4. Biểu tượng cánh chim hải âu

Ngay từ xưa, trong thơ ca cổ cánh chim thường được mượn để làm biểu

tượng của thời gian, của sự trở về sum họp.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)

Hay

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

(Chiều tối - Hồ Chí Minh)

78

Cánh chim là tín hiệu cho sự chảy trôi của thời gian. Trong Thơ Mới hơn một

lần ta bắt gặp hình ảnh cánh chim bé nhỏ, cô đơn biểu tượng cho cái tôi Thơ Mới:

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

(Tràng Giang - Huy Cận)

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần

(Thơ duyên - Xuân Diệu)

Trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo, hình ảnh

cánh chim hải âu không xuất hiện trong thơ mà chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết Đảo

Chìm. Hình ảnh cánh chim hải âu xuất hiện hai lần, tần xuất ấy không nhiều, nhưng

nó đã trở thành một biểu tượng đầy ý nghĩa. Cánh chim hải âu lướt trên biển xanh là

người bạn đường của những con tàu và ngư dân miền biển. Hải âu báo điềm lành,

điềm dữ cho những người ngư dân. Vì sự gắn kết và thân thiết đó cho nên thật dễ

hiểu cánh chim hải âu là hình ảnh thường được xuất hiện trong các sáng tác thơ ca

viết về biển đảo và nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng không là một ngoại lệ. Trong tiểu

thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng Khoa hình ảnh cánh chim hải âu trở nên

thân thuộc,gần gũi. Qua lời của cậu lính trẻ Hai Ùm ta có thể hiểu rõ hơn điều này

“Tiếc ở đây, chẳng có hải âu - Hai tỏ vẻ tiếc rẻ - Trước đây đọc thơ văn, sách báo,

nghe các nhà văn đàn sáo, em cứ tưởng hải âu là bạn của thủy thủ. Hóa nhầm! hải

âu chỉ là bạn của dân thuyền chài thôi. Ngoài khơi xa này, làm gì có hải âu. Hải âu

chỉ bay ven bờ, cách bờ trăm cây số là cùng. Vì thế, đối với cánh lính biển chúng

em, hải âu là ngọn hải đăng báo hiệu đất liền. Nhìn thấy hải âu là ngửi thấy “mùi”

đất liền rồi. Nếu không may, có phải hy sinh trên biển, được thấy bóng hải âu chớp

qua trước mắt trước khi nước khép mặt thì mừng lắm, vì có thể hy vọng những mẩu

xương tàn của mình sẽ được sóng táp vào đất liền...”[41, tr.69]. Cánh chim hải âu

là biểu tượng cho khát vọng tự do, hòa bình, nó là tín hiệu báo tin từ đất liền gửi ra

hải đảo, nối kết đất liền với hải đảo xa xôi. Vì nhiệm vụ tổ quốc và nhân dân giao

phó các anh lên đường chiến đấu nhưng ở nơi xa xôi ấy các anh luôn trông ngóng

về đất liền ở đó có biết bao điều thân thương đang chờ đợi các anh, sự xuất hiện của

cánh chim hải âu trên đại dương bao la đã khiến không gian địa lí được rút ngắn lại,

biển đảo trở nên gần gũi, thân thương hơn.Cánh chim hải âu trở thành chiếc cầu nối

79

đất liền và tình yêu đôi lứa đã giao hòa sâu lắng cùng với tình yêu thiên nhiên, tình

yêu tổ quốc.

Cánh chim hải âu đo độ dài bao la của biển cả. Cánh chim nhẹ nhàng chao

liệng báo hiệu một ngày biển bình yên. Cánh chim hải âu vội vã xải nhịp cánh báo

hiệu một ngày biển động. Giữa bầu trời bao la đó nhờ có cánh chim mà biển bớt cô

đơn. Trần Đăng Khoa không nhắc nhiều về hình ảnh cánh chim hải âu bởi nơi anh

sống là Trường Sa, một quần đảo nằm phía xa đất liền nơi đó chỉ có loài ó biển, một

loài chim rất dữ tợn. Những cánh chim hải âu như bé nhỏ giữa biển bao la không

bay tới được. Nhưng dù chỉ một lần xuất hiện hình ảnh cánh chim hải âu vẫn nâng

lên tầm biểu tượng bởi giá trị to lớn mà nó biểu đạt. Người lính coi cánh chim hải

âu như ngọn hải đăng báo hiệu đất liền, ngay cả khi hy sinh hòa mình về với biển

các anh vẫn mong muốn một lần được nhìn thấy cánh chim hải âu chớp qua trước

khi nhắm mắt, bởi đó là hình ảnh của sự sống của quê hương. Là tình thương yêu

các anh gửi gắm nơi đất liền và như động lực giúp các anh hoàn thành tốt nhiệm vụ

được tổ quốc giao phó.

Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng và mỗi hình thức đời sống, khi

trở thành kết quả của quá trình sáng tạo bao giờ cũng là một biểu tượng góp phần

mã hóa nội dung, tư tưởng nào đó của người nghệ sĩ. Có thể cảm nhận rằng quá

trình lựa chọn các biểu tượng đó chính là quá trình lao động nghệ thuật đầy đam mê

hứng khởi và sự thăng hoa cảm xúc của tác giả.

3.2. Giọng điệu

“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập

trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời

văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,

thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”[23,tr.112]. Các nhà

nghiên cứu cho rằng: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và

thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà

văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [23, tr.113]. Giọng điệu phản ánh được

phần nào lập trường, tư tưởng, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có

vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách riêng biệt của mỗi nhà văn, làm nên

80

dấu ấn riêng của họ trên văn đàn. “Thiếu một giọng điệu nhất định, các nhà văn

chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có tài liệu và sắp xếp trong hệ thống

nhân vật” [23, tr.113]. Giọng điệu trong tác phẩm thường có nhiều giá trị đa dạng,

có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo chứ không đơn điệu.

3.2.1. Trữ tình, trong sáng, thiết tha

Giọng điệu trong các sáng tác viết về chủ đề biển đảo Trần Đăng Khoa gắn

với mạch cảm xúc tình cảm xuất phát từ trái tim chân thành, từ chiều sâu suy nghĩ

và từ ý thức của một người luôn trân trọng cái đẹp, trân trọng những gì mình đang

có. Các sáng tác thơ ca là tiếng nói từ trái tim của một người và hướng đến trái tim

của vạn người. Chất duyên Trần Đăng Khoa thể hiện ở sự triết lí, trong sáng thiết

tha nhưng sâu sắc về cuộc đời, về con người qua mỗi trang viết nặng tấm lòng của

nhà thơ. Đó là tình yêu quê hương - đất nước, tình yêu mẹ, là những trải nghiệm -

những rung động của anh về tình yêu lứa đôi.

Các sáng tác của Trần Đăng Khoa trước đây thiên về bộc lộ cảm xúc của một

cậu bé tuổi mới lớn bỡ ngỡ, khám phá, cảm nhận mọi thứ tồn tại xung quanh mình

đầy hóm hỉnh:

Cánh diều no gió

Tiếng nó trong ngần

Diều hay chiếc thuyền

Trôi trên sông Ngân

(Thả diều)

Thì giờ đây, khi đã là một người lính, trong các sáng tác viết về biển đảo khi

đọc ta thấy ở trong mỗi câu đều là những sự lắng đọng, thiết thacủa anh về cuộc

đời, của một Trần Đăng Khoa trưởng thành và từng trải:

Mẹ ơi, có thể trong cuộc chiến đấu này

Con sẽ ngã xuống

Ngã xuống bình thường

Như bao đồng đội của con

Để mái nhà gianh mẹ được yên ả

Dưới sắc nắng vàng…

81

Và, có thể là, sáng mai bừng mắt ra

Mẹ sẽ nhận về một tờ giấy

Như nhiều bà mẹ ở làng

Tờ giấy mỏng manh

Nhưng lại nặng hơn ngàn tấn bom

Trút xuống tuổi già của mẹ

Cho dù thế, mẹ cũng đừng khóc nhé

(Thư gửi mẹ)

Nhà thơ viết về nỗi nhớ người yêu bằng một giọng điệu trong sáng mà tha thiết:

Anh ở đây. Đá hoang thành Tổ quốc

Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi

Anh chẳng biết để đâu, đành vùi vào

lòng biển

Nên suốt đêm, ngày biển vật vã sục sôi

(Nhớ)

Giọng điệu trữ tình, trong sáng thiết thamang âm hưởng tự sự và lắng đọng

trong chiều sâu cảm xúc. Khi nói về tình yêu, trong bài Thơ tình người lính biển bên

sóng biển ồn ào, người lính không nghe rõ lời em nói mà chỉ thấy nụ cười của cô

gái phảng phất nét buồn xao xuyến của người ở lại. Dù trong hành trình của người

con trai ấy không biết trước điều gì nhưng tình yêu lứa đôi hòa nhập trong tình yêu

Tổ quốc vẫn xanh tươi nảy nở trong anh. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của

người lính biển, giúp anh vượt qua muôn vàn gian nan thử thách. Tình yêu ấy làm

cho anh không bao giờ cô độc, trái lại Tổ quốc và em luôn ở bên anh, trong anh:

“Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên…”

Khi Trần Đăng Khoa viết về tình bạn của những người lính trên đảo thật

thấm thía và lay động trái tim người đọc

82

Chúng tôi rất đông. Mười tám đôi mươi

Sâu sắc và vô tư như bầu trời

Tỉnh táo và đắm say như bầu trời

Màu áo lính hát niềm tâm sự lính

Biển nóng nảy nhưng chúng tôi trầm tĩnh

Những cơn sóng ngầm đến đây phải

bục dậy bất ngờ

(Hát về một hòn đảo)

Những tâm sự, những nỗi niềm sâu lắng của mình được Trần Đăng Khoa gửi

gắm vào trong những câu chữ một cách mộc mạc, sâu lắng, nhẹ nhàng. Giọng điệu

thơ Trần Đăng Khoa là hồn hậu, đằm thắm. Một hồn thơ làng quê chân chất. Một

lối viết nghiêng về tự sự, quen giãi bày. Nhưng bên cạnh một Trần Đăng Khoa chân

chất, hóm hỉnh thì còn có một Trần Đăng Khoasâu lắng, trữ tình thiết tha và đầy

lãng mạn, là biểu hiện của một tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc.

3.2.2. Triết lí, suy tư

Bên cạnh một Trần Đăng Khoa sôi nổi, đôi khi lém lỉnh ta còn bắt gặp trong

các sáng tác của anh một giọng điệu trầm ngâm, triết lí, suy tư, tâm tình sâu lắng.

Nếu như giọng điệu hồn nhiên chỉ có trong thời thơ ấu thì giọng điệu triết lí, suy tư

lại có trong thời kì trưởng thành của anh. Đặc biệt trong quãng thời gian anh sống

và chiến đấu tại Trường Sa, những sáng tác của anh để lại cho bạn đọc sự trải

nghiệm, những triết lí cuộc sống. Trần Đăng Khoa là nhà văn, đồng thời cũng là

người lính hải quân, anh có mặt rất sớm ở Trường Sa.Chính thờ i gian ở biển, đảo đã làm nên một Trần Đăng Khoa trưởng thành chín chắn hơn trong suy nghĩ. Quãng

thời gian gian khổ nhưng cũng để lại trong anh nhiều kỉ niệm góp phần tạo nên

thành công ở thời kì trưởng thành có thể sánh ngang với thành tựu củ a Trần Đăng

Khoa thần đồng của mấy chục năm trướ c.

Những ngày đầu đặt chân lên đảo Trần Đăng Khoa đã cảm nhận, suy tư về

một phần máu thịt của tổ quốc

Đảo tự dấu mình trong màu nước lam xanh

Cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu ngầu bọt sóng

83

Tổ quốc ơi!

Tiếng chúng tôi kêu lên

mà mắt chúng tôi nhìn xuống

Bóng chúng tôi chùm khắp đảo Thuyền Chài

(Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài)

Hay

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Khi phải chứng kiến những hy sinh mất mát của đồng đội anh là Hai Ùm,

Trần Đăng Khoa có những chiêm nghiệm triết lí “Hai ơi! Tư xồm bỗng nấc lên. Thế

là lại thêm một người lính nữa chết ở đảo Chìm. Người đó tại sao không phải

tôi,mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi khép mặt, Hai được

nhìn thấy cánh chim hải âu. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội

chạy tới vỗ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy

khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát. Lần đầu tiên, tôi

mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn

như ở Đảo Chìm. Mặn như máu”[41, tr 138]. Đoạn văn khiến cho người đọc ngẫm

ngợi nhiều về những hy sinh thầm lặng của các anh trên đảo. Đó là những câu văn

sâu sắc tình đời, tình người, thấm thía những nỗi buồn trong tâm sự của những

người lính đảo nhưng điều đó không khiến anh bi lụy ta có cảm nhận chính điều đó

như một thứ ánh sáng soi đường cho người ở lại. Đọc Đảo Chìm ta không khó để

nhận ra giọng điệu suy tư ấy bắt nguồn từ sự rung động của trái tim đó là những

cảm xúc đời sống rất chân thật mà lại sâu nặng chất nhân văn như những chiêm

nghiệm của một triết gia đã từng chứng kiến nhiều biến đổi của cuộc đời.

Chiều biển lặng ta nhìn xa ngút ngát

Thử thả sợi dây dài đo dạ biển xem sao

Lòng biến cũng nông thôi. Khi mồi chạm cá

Chỉ bụng dạ thế gian là chẳng biết thế nào…

(Trên boong tàu, câu cá)

84

Các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo thường viết không

dàn trải, không ồn ào, không bóng bẩy mà đọc lên thật đong đầy cảm xúc. Có

những bài chỉ để giãi bày những ưu tư,để trải nghiệm cuộc sống như bài Chuyện ở

Đảo Chìm:

- Sao lúc ấy nó không húc cậu

Rồi nuốt luôn khi cậu mất thăng bằng?

Tôi hỏi bạn lúc ngồi bên xoong cá

Thấy bạn vui mừng, lòng tôi vẫn băn khoăn…

…Bạn tôi cười. Hồn nhiên như trẻ nhỏ

Rồi giọng lại vang ầm át cả sóng biển khơi

- Cậu biết không, tớ chỉ sợ người thôi

Nhất là khi người biến thành cá mập

Đọc thơ anh ta thấy ẩn chứa cả nỗi đau. Nỗi đau của Trần Đăng Khoa không

hằn học, mà thể hiện sự xót xa trong nỗi lòng đồng cảm và sẻ chia trước những biến

động của thế gian, sự đánh giá của người đời. Trần Đăng Khoa là vậy, vui đấy, đùa

nghịch đấy nhưng cũng rất nhạy cảm, dễ xúc động. Tất cả hòa quyện trong con

người anh, trong các sáng tác của anh, tạo nên một Trần Đăng Khoa vừa sôi nổi, vui

tươi lại vừa trầm ngâm đa cảm.

Sự đa dạng về giọng điệu tạo nên sự phong phú, đa dạng và hấp dẫn cho từng

trang viết của Trần Đăng Khoa. Nếu như không có bản lĩnh, không có một vốn từ

thật uyển chuyển phong phú thì không thể có những giọng điệu gây ấn tượng cho

người đọc như vậy! Chất giọng thơ Khoa là hồn hậu, đằm thắm. Một hồn thơ làng

quê chân chất. Một giọng hát ru của đồng bằng Bắc Bộ. Một lối thơ nghiêng về tự

sự, quen giãi bày. Để đổi mới sáng tác của mình, Trần Đăng Khoa đã có những trải

nghiệm. Đi về mặt địa lý, ra các đảo xa với tư cách người lính và đã sáng được một

chùm các tác phẩm viết về biển đảo rất thành công. Nhưng những cuộc đi về địa lý

cần được kết hợp với những cuộc đi trong tâm hồn, trong tư duy nghệ thuật, để rèn

lấy một bản lĩnh trong thơ, cái gốc cho một cá tính của sáng tác thơ ca.

85

3.3. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu

“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: “Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu

cơ bản của văn học vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ

M.Gorki khẳng định “ ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [23, tr.185].

Ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ

học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng

ngôn ngữ dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài

phát thanh, trong văn học và khoa học.

Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn của ngôn ngữ văn học và được chọn lọc,

rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình nó lại góp phần nâng

cao, làm phong phú ngôn ngữ nhân dân.

Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể

hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ

cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắn ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao

động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.

Tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là

những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Căn cứ chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ văn

học đối với các hình thái của hoạt động ngôn ngữ chính là ở chỗ ngôn ngữ văn học

là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục

vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vì

vậy, tính hình tượng, tính thẩm mĩ là thuộc tính bản chất nhất xuyên thấm vào mỗi

thuộc tính khác quy định những thuộc tính ấy.

3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi

Trần Đăng Khoa vốn xuất thân là một từ một cậu bé thôn quê, dù ở đâu, đi

đâu, làm gì, ngôn từ trong các sáng tác của anh vẫn luôn mang đậm chất đồng quê,

chất dân dã, mộc mạc đời thường. Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhận xét: “Đọc

Trần Đăng Khoa, tôi lại hình dung ra anh là một lão nông dân nặng nợ với đất

đai, đồng áng, không phải chỉ lo thu hoạch ngày mùa, mà anh đau đáu lo từng

khâu từ cày cuốc đến phân gio, gieo cấy, nước nôi, mưa nắng. Tóm lại là cái nỗi

nhọc nhằn của anh nhà văn cày cuốc trên những thửa ruộng giấy trắng, thật cũng

trần ai khoai củ nhỉ”[dẫn theo 4].

86

Bằng ngôn ngữ giản dị và gần gũi kết hợp với ngòi bút tinh tế và giàu cảm

xúc Trần Đăng Khoa đã đưa chúng ta đến với một thế giới rất mới mẻ và lạ lẫm, thế

giới khiến chúng ta luôn phải nhìn lại và suy nghĩ. Khi viết về Đảo Chìm, Trần

Đăng Khoa đã khiến người đọc cảm thấy thú vị với ngôn ngữ duyên dáng, vừa thơ,

vừa gần gũi mà hóm hỉnh.

Không thể nào nhận ra hòn đảo

Sống bừng bừng dưới màu nước âm u

Không thể nhận ra căn lều bạt hoang sơ

Đứng sập xòe trên đại dương nhàu nát

Trông ngẩn ngơ như cái lều chăn vịt

Ai bỏ quên giữa mặt ruộng đang cày

(Hát về một hòn đảo)

Hay trong chương Biển mặn, Trần Đăng Khoa tả cảnh biển trong cơn bão:

“Mặt biển bạc phếch. Những đám mây bị chẻ tướp đuôi ngựa, bay vun vút như

khói” [41, tr.135]....Tất cả đã tạo nên những cảnh tượng vừa chân thực, vừa sống

động và cũng dễ đi vào lòng người đọc. Trong cuộc đối thoại của anh lính trẻ trên

đảo với vị Tư lệnh hải quân Trần Đăng Khoa đã lựa chọn ngôn ngữ rất giản dị và

gần gũi dường như để xóa nhòa khoảng cách và ranh giới giữa vị tướng chỉ huy cấp

cao với chàng lình trẻ, giữa họ chỉ có tình đồng chí, đồng đội và sự thấu hiểu.

- Thế bố cho con được nói thật nhé!

Ừ! Thì phải nói thật chứ!- Tư lệnh mỉm cười - chả nhẽ tớ già thế này, còn lặn

lội sóng gió ra đây với các cậu, để rồi rốt cuộc, lại nghe các cậu nói dối à?

- Nhưng bố không được phê phán con lãng mạn cơ...

- Cái thằng! Tao còn lãng mạn hơn mày ấy!

Anh lính trẻ nhìn mái đầu bạc trắng của tư lệnh, cười hồn nhiên:

- Thế thì, con đề nghị bố thế này nhé! Bận sau, nếu bố ra đảo, bố chịu khó

giắt lưng mang theo ra đây cho chúng con vài cô gái...

... Chúng mày muốn nghe hát hả? Muốn xem văn công chứ gì?

87

- Không, không! Anh lính bỗng luống cuống - Con đâu dám có voi đòi

tiên!Văncông xem ra xa vời quá! Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô

nuôi quân thôi! Các cô ấy chẳng phải hát hò gì cũng không phải nấu nướng.

Chỉ xin các cô mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi phơ phất trên đảo,

để chúng con ngắm, chúng con “chỉnh” mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy

đấy sang vành hết cả rồi” [41, tr.57].

Chỉ vài câu đối thoại, ta đã nhận ra anh lính cũng là một người thông minh,

lém lỉnh không khác gì Trần Đăng Khoa. Lời văn tự nhiên, ngôn ngữ phong phú

không cầu kì bóng bẩy, Trần Đăng Khoa đã trải lòng mình qua từng trang giấy.

Có lẽ khi viết về người lính về những khó khăn thiếu thốn mà các anh đã trải

qua Trần Đăng Khoa lựa chọn ngôn ngữ giản dị gần gũi là điều đúng đắn, và có lẽ

nhờ có sự chân thật ấy mà tác phẩm của anh đã nhanh chóng chiếm được trái tim

độc giả và gặt hái được những thành công vang dội. Anh đã tìm ra những viên ngọc

trên một bãi cát nhỏ bé, đã nhìn thấy vẻ đẹp của mỗi con người qua những điều bình

thường mà rất nhiều khi người khác không nhìn thấy. Như phần trên đã nhắc đến lời

tự bạch của anhtrong lời tựa khi viết Đảo Chìm:“Tôi đã định biến những con người

mà tôi yêu mến ấy thành nhân vật truyện ngắn, hay tiểu thuyết, nhưng sau lại thấy

không nên, vì bản thân họ đã rất đẹp rồi, rất thật rồi, hà cớ chi ta còn phải hư cấu

thêm nữa cho cồng kềnh rắc rối. Tốt nhất là cứ để như vậy. Cuộc sống vốn chân

thật và giản dị. Chính vì thế mà nó rất hấp dẫn. Tôi tin như thế” [38].

Một độc giả, khi đọc tác phẩm của Trần Đăng Khoa đã viết rằng: “Tôi là

người lính biển, đã nhiều năm làm bác sĩ ở Trường Sa…Tôi rất thích những trang

đối thoại của ông Khoa, vì thấy nó rất sống động, rất lính. Có lẽ sau Phạm Tiến

Duật, đây là cây bút giàu chất lính nhất, mà là lính trẻ. Khá thật, mặc dù ông Khoa

ở Hải quân có mấy năm thôi, và ông ấy cũng đi đảo lớt phớt lắm, chứ không đằm

mình như tụi lính tráng thật sự chúng tôi.”[37]. Và tác phẩm đã cuốn hút người đọc

bằng chính điều đó. Trần Đăng Khoa đã trả được món nợ của mình với Đảo Chìm,

với những người đồng đội.

Bên cạnh đó chúng ta còn nhận thấy nếu như trong những bài thơ thiếu nhi,

Trần Đăng Khoa thích sử dụng những câu thơ ngắn, nhằm diễn tả những hoạt động

nhanh, tất bật của sự vật trước những biến động của tự nhiên, thì trong câu thơ viết

88

trong giai đoạn này lại là những câu thơ ngắn dài đan xen, dàn trải như chính nỗi

niềm tâm sự của tác giả:

Xin mẹ cứ ngồi tựa cửa chờ con

Như những ngày xưa

Mỗi chiều con đi học về

Và mẹ lại lắng nghe

Tiếng bước chân bầy trẻ nhỏ

Chúng ôm sách, bá vai nhau,

rúc rích cười

đi ngang qua cửa sổ

Đi ngang qua chiều

Yên tĩnh

Và đêm xuống

Đầy nhà

Đầy vườn

Đầy cả bầu trời...

(Thư gửi mẹ)

Ngôn ngữ thơ tự do nhà thơ thoải mái giãi bày những tâm tư, tình cảm, của

mình trước cuộc sống. Những bài thơ tự do được Trần Đăng Khoa sáng tác ở giai

đoạn này là sự đóng góp của anh cho một đề tài mới: Thơ viết về chủ đề biển đảo.

Những đóng góp của Trần Đăng Khoa vào việc làm phong phú cho ngôn ngữ thơ là

điều cần khẳng định.

3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu

Thơ là nghệ thuật của ngôn từ, theo nghĩa ngôn từ là những ký hiệu mang

ngữ nghĩa, và như vậy thông điệp quan trọng hàng đầu mà thơ gửi đến người đọc,

người nghe vẫn là thông qua ngữ nghĩa của các từ ngữ. Thơ là một trong những thể

loại văn học gần gũi nhất với nghệ thuật, mà đặc thù tiêu biểu là ngôn ngữ thơ luôn

mang tính nhạc đến mức như một thuộc tính. Người xưa nói “thi trung hữu nhạc” là

để biểu dương những nhà thơ có tài nào đó khéo đưa được nhạc tính vào trong thơ.

Thơ có nhạc tính là điều mặc nhiên, người ta chỉ nhận xét là nó có nhiều hay ít mà

thôi. Ngay cả khi ta đọc thơ bằng mắt thì các từ ngữ vẫn vang lên thành những âm

89

hưởng đâu đó trong tâm trí ta và tâm hồn ta tiếp cận với bài thơ là qua âm hưởng

này chứ không thuần túy qua ngữ nghĩa như khi ta đọc một công trình khoa học

chẳng hạn, bởi thế chỉ cần nghe một người nào đó đọc có diễn cảm một đoạn thơ là

ta có thể biết cái cách người đó cảm thụ đoạn thơ đó như thế nào. Sự khác nhau

giữa đọc thơ dửng dưng vô cảm và đọc thơ diễn cảm phần nào có thể so sánh với sự

khác nhau giữa việc đọc lời ca từ và việc hát những lời đó thành giai điệu - so sánh

có thể quá lên một chút nhưng là để ta thấy vai trò của nhạc tính trong thơ quan

trọng biết chừng nào. Khi nói đến nhạc tính trong thơ là muốn nói đến những yếu tố

tác động ngoài ngữ nghĩa, những yếu tố tạo nên bởi cái vỏ âm thanh của từng từ

ngữ. Nhạc điệu trong thơ Trần Đăng Khoa rất phong phú, đa số các bài đều có nhạc

điệu và âm sắc. Sinh ra trong một làng quê, một gia đình có truyền thống về văn học

dân gian.Trần Đăng Khoa đã sớm chịu ảnh hưởng của những câu ca dao, những làn

điệu hát ru, có lẽ do vậy mà thơ anh giàu tính nhạc với giọng điệu tâm tình thủ thỉ.

Đảo à, đảo ơi!

Biển vẫn chao như đưa nôi

Biển vẫn âm thầm như người mẹ sáng tạo

Cho Tổ quốc ta có thêm một hòn đảo

(Hát về một hòn đảo)

Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời gọi trìu mến “Đảo à, đảo ơi!” Thể hiện

sự thân thuộc gắn bó của anh với đảo, họ như hai người bạntâm tình chuyện trò. Họ

kể cho nhau nghe câu chuyện về biển và tương lai của đảo. Điệp từ “có”được đặt ở

đầu câu như hứa hẹn tương lai sáng ngời của đảo. Đảo sẽ bớt cô đơn giữa biển khơi

muôn trùng, rồi sự sống sẽ đâm chồi trên đảo.

… Có con đường cho anh đến với em

Có ngôi nhà dưới vòm cây mát

Có nước ngọt. Đó là điều tuyệt vời nhất

Có thể gội đầu. Có thể uống no say

Có thể tặng nhau cả một giếng đầy.

(Hát về một hòn đảo)

90

Một trong những bài thơ nổi bật giàu nhạc tính của Trần Đăng Khoa đó là

Thơ tình người lính biển. Bài thơ ngay từ khi ra đời đã được nhiều thế hệ đón nhận.

Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã nhanh chóng đi vào lòng người và trở thành

bài cagắn bó với biết bao thế hệ. Bài thơ thật giản dị, thật gần gũi, cái bình dị, gần

gũi được gói gọn trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng và tình yêu lứa đôi thủy chung

của người lính biển. Câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” được lặp lại như

một điệp khúc khép lạitrong năm khổ thơ của bài thơ. Nhịp điệu bài thơ khoan thai,

dìu dặt tựa như những con sóng vỗ chao mạn thuyền. Nhưng được người lính lắng

lại để cân bằng hai đối trọng. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã đưa giai điệu “Biển một bên”

tha thiết vút cao và “Em một bên” dịu xuống rồi ngân dài. Nhưng giai điệu câu thơ

không vì thế mà mất cân bằng. Luôn tạo ra đối trọng tương trợnhau để con thuyền

băng băng ra biển lớn.Tính nhạc của âm thanh gây nên bởi những yếu tố như: cao

thấp, mạnh nhẹ, nhanh chậm... dưới những cấp độ khác nhau, cho đến cả khả năng

tượng thanh hay tượng hình, tức là khả năng liên tưởng, gợi về những thế giới thanh

âm có gốc thực trong đời.Phải chăng, giai điệu ấy đã thôi thúc người lính biển bao

giờ cũng đặt tình yêu Tổ quốc trên hết. Câu thơ thật lãng mạn và cũng thật trí tuệ.

Biển là Tổ quốc. Em, đấy là tình yêu lứa đôi. Một bên là cái chungvà một bên là cái

riêng. Cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính

biển. Bài thơ được khởi nguyên bằng ba từ thật đơn giản: “Anh ra khơi”. Đằng sau

ba từ ấy lại đong đầy tâm trạng của người lính biển. Đấy là Tổ quốc thiêng liêng, là

tình em chung thủy đan cài…Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ: “Biển một bên và em

một bên…” tạo cho người đọc sự đồng cảm, sẻ chia của sự cách xa trong tình yêu

đôi lứa và những tâm sự thiết tha.

Trong khoảnh khắc hạnh phúc lứa đôi, họ sánh bước bên nhau bên chân sóng,

nơi bến cảng xôn xao, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em: “Biển ồn ào, em

lại dịu êm”. Hai hình ảnh ngỡ như tương phản nhau nhưng đó là sự bổ sung cho nhau .

Bởi cả hai lắng sâu trong trái tim người lính biển giao hòa trong nhau.

Bên biển xanh rì rào, người con gái buông câu nói thiết tha, rồi nén nỗi chia

xa đầy luyến lưu của người ở lại. Rồi lặng lẽ mỉm cười, như lời động viên tha thiết

của mình khi ngoài kia biển đang thôi thúc tinh thần và trách nhiệm làm trai. Để rồi

người lính đi giữa cái chung và riêng trước phút chia tay mà hóa thân thành con tàu

lắng sóng từ hai phía. Và trái tim lại ngân lên: “ Biển một bên và em một bên…”vì

91

lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, đã có không ít chàng trai Việt ra đi không trở

về“Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên/Bão táp chưa ngưng trong những

vành tang trắng”. Nhưng không vì thế làm cho người thanh niên Việt Nam chùn

bước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ sẵn sàng đi đến nơi đầu sóng

ngọn gió để hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách hiên ngang: “Anh đứng gác.

Trời khuya. Đảo vắng”. Tác giả thật tài hoa khi dùng dấu chấm để ngắt nhịp câu

thơ, tạo thành ba cụm câu, đã đem lại hiệu quả biểu cảm thật cao, tạo cho người đọc

sự liên tưởng đến những vất vả, gian lao của người lính biển, nhưng cũng thật tự

hào. Hình ảnh “Anh đứng gác”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh

hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc.

Từ thuở cha ông bằng thuyền nan dong buồm đi cắm mốc chủ quyền quốc gia

trên biển. Các thế hệ của dân tộc ta luôn nối tiếp nhau vượt qua bao gian nan thử thách

để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Các anh luôn trung thành, luôn thủy chung với tình

yêu đất nước, với tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra.

Đó là tình yêu giản dị mà cao quý và thiêng liêng của người lính biểnThơ tình

người lính biển là bài thơ với những hình ảnh ấn tượng. Vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt

cùng với âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Tất cả cùng hòa điệu trong

âm hưởng “Biển một bên và em một bên…” tạo ra sự lan tỏa sâu rộng về tình yêuTổ

quốc quyện hòa cùng tình yêu lứa đôi lay thức trách nhiệm công dân trong lòng bao

thế hệ.

3.4. Biện pháp tu từ

3.4.1. Nhân hóa

“Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ trong đó người ta sử dụng từ ngữ biểu

thị thuộc tính dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính dấu hiệu của đối tượng

không phải là con người nhằm làm cho đối tượng trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn đồng

thời có thể bày tỏ thái độ tâm tư kín đáo của mình”[10, tr.136]. Nhân hóa được sử

dụng nhiều trong thơ ca nhằm làm cho sự vật thêm sinh động. Từ những vật hình

dạng không cụ thể cho đến những vật hữu hình tất cả đều có hành động, cử chỉ của

con người nhờ biện pháp tu từ nhân hóa:

92

Bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh tồn diễn tả được vẻ đẹp tâm hồn tươi tắn, lạc

quan của người lính đảo. Ngồi đợi mưa những người lính đảo hoá trẻ lại tuổi hồn

nhiên dưới một cơn mưa mộng tưởng:

Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo

Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng

Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng

Chập chờn bay phía xa khơi…

…Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Chúng tôi sẽ trụi trần, nhảy choi choi trên mặt cát

Giãy giụa tơi bời trên mặt cát

Như con cá rô rạch nước đón mưa rào

Úp miệng vào tay chúng tôi sẽ cùng gào

Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo

(Đợi mưa trên đảo Sinh tồn)

Miêu tả một trận mưa rào nhưng nhà thơ diễn tả từ lúc dấu hiệu mưa mới bắt

đầu hình thành. “Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời”. Mọi người đang chờ đợi

cơn mưa tới, đến những tưởng tượng được thấy mưa rơi trên đảo cát cháy nắng,

nhưng thiên nhiên như muốn thử thách lòng kiên trì của con người “Cơn mưa vẫn

rập rình ngoài biển”rồi “ Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng”.Mưa không tới đảo

người lính có phần thất vọng nhưng các anh không bi quan, oán trách. Tác giả đã rất

khéo léo sử dụng biện pháp nhân hóa trong việc phác họa tính cách đỏng đảnh kiêu

sa của những cơn mưa nơi hải đảo. Với vai trò to lớn của mình là làm cho sự vật vô

tri vô giác thành những vật mang tâm hồn người, tính cách người, làm tăng giá trị

biểu cảm, nhân hóa đã góp phần làm cho câu thơ thêm đáng yêu, lôi cuốn người đọc

từ đó tô đậm sự thêm khó khăn thiếu thốn của những người lính nơi đây. Từ hiện

thực ấy người lính ấp ủ niềm tin vào tương lai đất nước mạnh giàu, xán lạn và gian

khó chịu đựng chỉ càng nuôi bền thêm khát vọng mãnh liệt để đủ sức vượt lên

phong ba bão táp. Không một thế lực nào có thể làm suy suyển mối gắn bó và niềm

tin yêu son sắt với Trường Sa của dân tộc mà thơ Trần Đăng Khoa đã thể hiện rất

đỗi tha thiết và hùng hồn:

93

Đất nước Việt Nam một lần nữa nối liền

Những quần đảo long lanh như ngọc dát

Hay

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này

(Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Trong tiểu thuyết Đảo Chìm hẳn người đọc không thể nào quên hình ảnh chú

lợn con ngộ nghĩnh tinh nghịch mang một cái tên đáng yêu không kém “Nàng A Ta

Ra Mê Na” Đọc những trang viết của Trần Đăng Khoa về nhân vật này khiến người

đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, có lúc là sự thích thú với cách miêu tả đầy

hóm hỉnh của tác giả có lúc rơi lệ vì tình cảm và sự gắn bó mà những người lính

dành cho công dân bé nhỏ và vô tư lự nhất đảo này. “Gọi nàng A Ta Ra Mê Na có

lẽ người đọc tưởng là một hoa hậu hoàn vũ, một diễn viên điện ảnh Quốc tế hay

người đẹp thời trang nào đó. Nhưng không, đấy chính là công dân Đảo Chìm, một

nàng lợn ỉ xinh đẹp ra đời vào đúng cái đêm lịch sử đáng ghi nhớ ấy. Chị em nàng

đông lắm, gồm mười hai sinh linh. Tất cả đều có tên hẳn hoi. Tên do Hai Ùm đặt.

Nghe sang trọng lắm. Mà cũng phải thế thôi. Đã là công dân thì đều bình đẳng

trước vầng nhật nguyệt. Dân Đảo chìm cơ mà. Không thể cứ quê mùa chân đất mắt

toét mà phải đàng hoàng, sang trọng có tầm cỡ quốc tế” [41, tr.101]. Trong con

mắt nhà thơ tất cả đều là sinh thể có tâm hồn, là những vật - người có cuộc sống

riêng bí ẩn và lý thú.

“Hai hào phóng tặng nàng cái áo mới nguyên. Anh chàng còn xẻ ra, tỉ mẩn

khâu lại thành bộ cánh mới vừa khítvới tấm thân tròn ủng của nàng. Hai chít được

cả eo lưng cho nàng. Trên cổ nàng, Hai còn đính thêm một cái dải yếm, như trang

phục của một thủy thủ thực thụ. Bây giờ thì cô nàng cũng diêm dúa, cũng xúng xính

quân phục Hải quân, chẳng kém gì cánh lính cựu ở Đảo Chìm. Hai còn tập cho

nàng đi bằng hai chân sau. A Ta Ra Mê Na có vẻ rất khoái chí khi được Hai túm

chân trước, dắt đi. Nàng dặt dẹo lê từng bước theo Hai. Rồi từ đấy, hầu như chiều

nào trên boong tầu người ta cũng thấy nàng cùng Hai lậng cậng nhảy điệu va- xi-

lô với lời ca nghe vừa lạ tai, vừa thật là kì quái

94

- Va- xi-lô

Cà ri cứ òa tồ tồ

Cha cha cha

Ở đây có cha con ta

Này trời mây, này nước non đẹp thay

Chẳng ai biết được chúng ta đang ở đây” [41, tr.111].

Chú lợn là món quà, là bạn, là con của người lính, là hình ảnh của sự sống

đất liền đang hiện hữu trên đảo. Chuyện nuôi con lợn ở đây đã mang đầy tính nhân

bản, mỗi người lính còn phải uống nước biển, tắm nước biển, độn thêm nước biển

để nấu cơm. Lính tráng còn phải sống như thế vậy mà con lợn cứ "đụng" chút nước

mặn là đi ỉa tồ tồ. “Lại phải thửa một suất riêng cho lợn, quá bằng chăm người ốm.

Đã vậy, mỗi ngày còn phải chi thêm cho nó bốn lít nước ngọt nguyên chất nữa để

làm suất uống. Bốn lít nước bằng tiêu chuẩn của hai thằng lính biển chứ có ít

đâu.Một ngày bốn lít. Mười ngày bốn mươi lít. Một tháng một trăm hai mươi lít.

Một năm là tấn rưỡi nước ngọt. Ối giời đất ơi!” [41, tr.118]. Và cái lý do chính

đáng nhất đã được tìm ra để toàn đảo thịt lợn! Tưởng chừng đây là niềm vui lớn của

đảo khi có bữa ăn tươi mà lính đảo mong ngóng bao ngày, thế nhưng, bao nhiêu

cánh tay mạnh mẽ vung lên lại không ai đủ can đảm để chọc tiết con lợn.

Trần Đăng Khoa kết hợp hài hòa giữa cái nhìn với cái nghe, nghe nhìn với

liên tưởng, tưởng tượng, hài hòa, tinh tế, thú vị. Trần Đăng Khoa đã tạo nên nét

riêng cho mình trong cách sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Với tâm hồn phong

phú, nhạy cảm và tinh tế, sức nhìn, sức nghe phát triển thu nhận được bao điều lạ

kỳ, Trần Đăng Khoa đã tạo nên những hình ảnh sống động trong các sáng tác của

mình.Bởi cách sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa những loài vật quen thuộc khi

bước vào thơ Trần Đăng Khoa luôn ngộ nghĩnh, đáng yêu.

Có người lại bảo hòn đá làm sao gợi nổi thi hứng, ấy thế mà Trần Đăng Khoa

viết rất nhiều về đá Trường Sa.Trong thơ Trần Đăng Khoa, đá Trường Sa cũng có

hồn như chiến sĩ Trường Sa vậy: “Đá vững bền”, “đá tốt tươi”, “hòn đá ngàn năm

trong nhịp đập tim người”, “đảo đá cất thành lời”, “đá san hô sẽ nảy cỏ xanh

lên”...Đá được diễn tả theo lối nhân hoá hay chính đá vốn đã là biểu trưng cho sự

sống Trường Sa kiên cường, vững chãi trong thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh những

người lính Trường Sa trọc đầu vì cắt tóc ngắn để tiết kiệm nước gội đầu, trong hoàn

95

cảnh ở Trường Sa thiếu nước ngọt được diễn tả trong bài thơ “Lính đảo hát tình ca

trên đảo” trông ngạo nghễ và gan lì như đá Trường Sa:

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau

Nhà thơ đã có sự liên tưởng độc đáo mà thú vị về những hòn đá mangtâm

hồn người lính Trường Sa:

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...

Dưới đôi mắt nhạy cảm ấy, những đường nét tưởng như là gai góc, những

màu sắc tưởng như là khô khan, những chất liệu tưởng như là trần trụi, thô nhám

của Trường Sa, hết thảy đều biến thành thi liệu qua cảm quan nghệ thuật của Trần

Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa đã tạo nên nét riêng cho mình trong cách sử dụng biện

pháp tu từ nhân hóa và thành công của anh đã được khẳng định bằng vị trí của anh

trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

3.4.2. So sánh

“So sánh là biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người ta đối chiếu hai đối

tượng khác nhau của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà

chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới

mẻ về đối tượng”[10, tr.138].So sánh là một biện pháp tu từ được sử dụng nhiều

trong thơ ca, đặc biệt là ca dao. Ca dao thường dùng so sánh để so vật này với vật

kia. So sánh được coi là một dạng thức lời nói hằng ngày bởi vì không có cách gì để

cho người nghe hiểu nhanh điều mình muốn nói bằng một sự so sánh cụ thể:

Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em sắc như là dao cau

Nụ cười như thể hoa ngâu

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen

(Ca dao)

96

So sánh có vai trò là phương thức tạo hình, phương thức gợi cảm. Trong thơ

ca so sánh thường được sử dụng để nêu lên một sự tri giác mới mẻ, hoàn chỉnh về

đối tượng. Cùng với biện pháp tu từ nhân hóa, biện pháp tu từ so sánh cũng được

Trần Đăng Khoa sử dụng vào các bài thơ của mình để tạo nên những hình ảnh so

sánh độc đáo, làm nên nét riêng cho tác giả.

Hình ảnh giữ một vai trò quan trọng trong phép so sánh, bằng những hình

ảnh câu thơ sẽ được cụ thể hóa và mang tính biểu cảm cao hơn. Trần Đăng Khoa đã

dùng các chất liệu quen thuộc trong cuộc sống đã làm nên giá trị biểu đạt trong các

sáng tác của anh như hiện tượng tự nhiên, những con vật vàcon người với trạng thái

tâm lí hoạt động. Chất liệu so sánh là hiện tượng tự nhiên được Trần Đăng Khoa sử

dụng phong phú nhằm miêu tả, đánh giá, bộc lộ cảm xúc, tạo thêm sự gần gũi về

hình tượng so sánh

Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão

Chúng tôi như hòn đá ngàn năm

trong đập trái tim người

Như đá vững bền như đá tốt tươi…

(Đợi mưa trên đảo Sinh tồn)

Hình ảnh đá trong tự nhiên là một loại khoáng vật rắn, nó tượng trưng cho

những thứ không có linh hồn, không có sự sống, lại nằm bất động trong vũ trụ. Thế

mà Trần Đăng Khoa lại so sánh hai đối tượng có vẻ mâu thuẫn với nhau về bản chất

là: Con người - vốn là thực thể động và đá - vốn là tĩnh vật. Một lần nữa hình ảnh

đá đã khắc họa tâm hồn và tính cách của những người lính hải đảo dù có khó khăn

thiếu thốn vật chất hay sự khắc nghiệt của thiên nhiên thì lòng người lính đảo vẫn

luôn kiên định. Với phẩm chất người chiến sĩ cụ Hồ thì “gió bão” chỉ tôi luyện

thêm chất thép, chất anh hùng trong tâm hồn người chiến sĩ vùng hải đảo xa xôi chứ

không thể quật ngã được họ, họ như “đá” đứng vững với ngàn năm, kiên định sắt

son khó dời đổi. Hiện tượng tự nhiên là một chất liệu so sánh mà bao đời nay được

các thi nhân sử dụng rất nhiều trong sáng tác thơ văn. Nếu trong thơ xưa hiện tượng

tự nhiên mang vẻ trang nghiêm, quý phái bao nhiêu thì hiện tượng tự nhiên trong

thơ Trần Đăng Khoa lại hồn nhiên, giản dị bấy nhiêu. Vẻ đẹp trong thơ Trần Đăng

Khoa là nét đẹp chân phương, đơn giản mà không sơ sài, thơ ngây mà không vụn

vặt, sắc sảo mà không cầu kì.

97

Trần Đăng Khoa vốn xuất thân từ một cậu bé thôn quê, yêu và gắn bó với

cảnh sắc quê hươngnên có lẽ thật dễ hiểu khi anh thường sử dụng chất liệu so sánh

là động vật trong các sáng tác của mình.

Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên cát

Giãy giụa tơi bời trên cát

Như con cá rô rạch nước đón mưa rào

Úp miệng vào tay chúng tôi sẽ cùng gào

Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Nhà thơ không đề cập đến vấn đề chính trị, xã hội mà chỉ tập trung khắc họa,

cụ thể hóa những cảnh vật, sự việc bằng những loài động vật rất gần gũi. Những cảnh

vật hiển hiện trước mắt nhìn thì gần gũi nhưng khi đưa vào trong thơ là cả một vấn đề

không hề giản đơn. Mà đặc biệt những vần thơ có “cái thần” lại dào dạt cảm xúc thì

đó thuộc về tài năng riêng của mỗi nhà thơ.Bên cạnh đó chất liệu so sánh là thực vật

được sử dụng nhiều trong các sáng của Trần Đăng Khoa vì nó biểu tượng cho cái

đẹp, cái tinh túy thuần khiết, cái sức mạnh tiềm tàng của một dáng vóc Việt Nam.

Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ

Rồi khao nhau

Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

Hình ảnh "tóc lên như cỏ"diễn tả sức sống bền bỉ kiên trì vươn lên của những

người lính nơi đây, gian nan khó khăn không làm giảm đi ý chí nghị lực của các

anh. Ta thường bắt gặp những hình ảnh thực vậtgần gũi trong các sáng tác của Trần

Đăng Khoa. Nhưng hình ảnh nào cũng có nét riêng, hình ảnh nào cũng mang một

vài đặc tính, để biểu đạt cho những ý nghĩa nhất định.

Không chỉ vậy, chất liệu so sánh là con người được Trần Đăng Khoa thường lựa

chọn sử dụng nhằm để chỉ những phẩm chất, tính cách, trạng thái tâm lí được thể hiện:

“Mưa vẫn dăng màn lộng lẫy phía xa khơi

Mưa yểu điệu như một nàng công chúa

Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa

Thì cứ xin hiện lên thăm thẳm cuối chân trời”

(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)

98

Hình ảnh cơn mưa là nỗi khát khao trong lòng người lính đảo, những cơn mưa

thật sự hiếm hoi “dăng bức màn lộng lẫy” nhưng vẫn còn ở phía xa khơi. Trần Đăng

Khoađã so sánh “Mưa yểu điệu như một nàng công chúa”. Đây là hình ảnh so sánh vô

cùng độc đáo mượn sự vật thiên nhiên -mưa, để so sánh với “một nàng công chúa”.

Mưa yểu điệu quá khiến các chàng lính đảo cứ ngóng trông, cứ ao ước cho dù: “mưa

chẳng bao giờ đến nữa, thì cứ xin hiện lên thăm thẳm cuối chân trời”.

Tuy sáng tác của Trần Đăng Khoa ít nói về đề tài tình yêu nam nữ nhưng

nhà thơcũng để lại bài thơ tình bất hủ đó là bàiThơ tình người lính biển. Đây là một

hình ảnh so sánh điển hình:

“Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên”.

(Thơ tình người lính biển)

Trong câu thơ này Trần Đăng Khoa đã sử dụng hình ảnh người con trai - so

sánh mình như con tàu lắng sóng từ hai phía. Sóng từ hai phía ở đây có thể hiểu một

bên chính là trách nhiệm của người lính đảo và một bên là tình cảm riêng tư của nhà

thơ. Chính vì thế con tàu - nhà thơ, phải lắng lại suy tư để rồi thốt lên: Biển một bên

và em một bên.Chất liệu này được Trần Đăng Khoa sử dụng khá nhiều nhằm diễn tả

sự lạc quan yêu đời trong tâm hồn nhà thơ. Mặc khác, khẳng định dân tộc hào hùng

với những con người luôn đấu tranh với tinh thần kiên trung, bất khuất.

Tóm lại chất liệu so sánh là các chất liệu khác được sử dụng trong cấu trúc so

sánh dùng để miêu tả, đối chiếu với các hiện tượng xung quanh, tạo cho đối tượng

có sức thu hút, hấp dẫn mà người đọc như có thể thấy được bằng mắt, nghe được

bằng tai, cảm nhận được bằng xúc giác. Hầu hết những hình ảnh trong thơ là những

hình ảnh quen thuộc. Hình ảnh so sánh trong thơ Trần Đăng Khoa là kết quả của sự

vận động, những rung động trước cảnh vật, thiên nhiên. Nhờ so sánh tu từ mà nhà

thơ đã thể hiện được sự quan sát, liên tưởng thật dễ thương, giản dị mà rất đỗi độc

đáo, mở ra cho người đọc những nhận thức mới.Thơ Trần Đăng Khoa có điểm

chung là lấy hình ảnh để so sánh nhằm bộc lộ cảm xúc trước thiên nhiên, vũ trụ bao

la. Tuy nhiên nó cũng có những hình ảnh độc đáo riêng xuất phát từ cách nhìn, cách

nghĩ, cách nói và cách diễn đạt của riêng nhà thơ.

99

Tiểu kết chương 3

Những đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa

viết về chủ đề biển đảo chính là khả năng xây dựng các biểu tượng nghệ thuật giản

dị, gắn bó thân thuộc nhưng đạt giá trị biểu cảm cao.Trong đó nổi bật là biểu tượng

thuyền và biển, biểu tượng cánh buồm và biểu tượng cánh chim hải âu. Mỗi biểu

tượng luôn gắn với tư duy nghệ thuật của tác giả. Nó hiện thực hóa suy nghĩ, sự

thăng hoa của cảm xúc cùng với đó giọng điệu thơ vừa trữ tình, trong sáng, thiết tha

có lúc lại triết lí, suy tư. Tất cả đã tạo nên một chân dung Trần Đăng Khoa bằng

thơ: Hồn hậu mà thông minh, dí dỏm nhưng cũng có khi trầm ngâm chiêm nghiệm

cuộc sống. Một chân dung không thể lẫn trong bầu trời thơ ca Việt Nam. Một nét

rất riêng của Trần Đăng Khoa.

Sinh ra và lớn lên tại làng quê Việt Nam gắn bó với ruộng đồng cho nên các

sáng tác của Trần Đăng Khoa thấm đẫm hơi thở của xứ sở, quê hương. Đặc điểm đó

còn thể hiện ở việc sử dụng ngôn ngữ sáng tác giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu cho

ta thấy hồn thơ chân chất như chính con người anh, thơ ca không phải là một điều gì

đó quá đỗi xa vời, thơ ca là sự cảm nhận của tâm hồn người nghệ sĩ và truyền tải cảm

nhận đó tới độc giả một cách sâu sắc và lắng đọng nhất. Không chỉ vậy, các sáng tác

của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề biển đảo đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa và

so sánh khá thành công. Trong nhiều tác phẩm của mình bên cạnh những câu thơ

miêu tả sự vật, hiện tượng chính xác, bằng trí tưởng tượng phong phú, Trần Đăng

Khoa đã bất ngờ đưa ra những hình ảnh liên tưởng mới mẻ, những kết luận mang tính

triết lí gây ấn tượng sâu bền trong tâm trí người đọc. Nhờ biện pháp tu từ nhân hóa

mà thiên nhiên, sự vật nơi đảo xa vốn khô cằn, hoang vu nhờ đó mà mang hơi thở con

người, có sức sống, có tâm hồn, thân thiết hơn vớingười lính đảo như những người

bạn tri âm tri kỉ, không xa cách mà gần gũi,nương tựa vào nhau nơi đầu sóng ngọn

gió. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng sự đa dạng trong chất liệu so sánh nhằm bộc lộ xúc

cảm trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Nó cũng là những hình ảnh độc đáo riêng xuất

phát từ cách nhìn, cách nghĩ, cách nói và cách diễn đạt của riêng Trần Đăng Khoa.

Điều đó không phải nhà thơ nào cũng làm được.

100

KẾT LUẬN

Trần Đăng Khoa là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào, đáng kể trong nền

văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của anh luôn có sức hấp dẫn đến kì lạ

đối với đông đảo bạn đọc mọi lứa tuổi. Khái quát các chặng đường sáng tác của anh

chia làm hai thời kì. Thời kì niên thiếu và thời kì trưởng thành. Nếu như trước đây

sáng tác của Trần Đăng Khoa thời thơ ấu là từ “góc sân” đến “khoảng trời”của quê

hương thì sau 1975 đánh dấu giai đoạn trưởng thành của nhà thơ bằng việc anh

tham gia quân ngũ, trở thành người lính hải quân.Ở giai đoạn này các sáng tác của

anh đã có sự thay đổi rõ nét xuất phát từ tư duy nghệ thuật của tác giả.

Hành trình đến với thơ của anh không chông gai nhưng là sự vất vả lao động

nghệ thuật một cách nghiêm túc. May mắn hơn những người khác, anh được sinh ra

và lớn lên trên quê hương và gia đình giàu truyền thống văn học nghệ thuật vùng

đồng bằng Bắc Bộ đã sớm hun đúc tâm hồn thơ của tác giả. Đặc biệt hơn nữa nhà

thơ Trần Đăng Khoa nhận được sự quan tâm dìu dắt của những bậc thầy trong làng

thơ Việt Nam hiện đại. Tất cả yếu tố đó đã cộng hưởng, trở thành cội rễ bền chặt để

hồn thơ Trần Đăng Khoa hình thành và phát triển.

Sau năm 1975 đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, chính bối cảnh

văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến với sự đổi mới sáng tác trên mọi phương diện đòi

hỏi người nghệ sĩ phải có sự thay đổi cộng với việc nhà thơ tham gia quân ngũ thay

đổi môi trường sống và làm việc tại quần đảo Trường Sa đã tác động đến quan điểm

nghệ thuật của nhà thơ và góp phần hình thành chủ đề biển đảo trong các sáng tác

của Trần Đăng Khoa. Sáng tác của anh ở giai đoạn này không chỉ có thơ mà cả văn

xuôi, những sáng tác rất độc đáo, cô đọng và đầy ám ảnh. Trần Đăng Khoa là nhà

thơ nhưng đồng thời cũng là người lính biển, chính thời gian ở biển, đảo đã làm nên

thành công đặc sắc của anh ở giai đoạn trưởng thành.

Chủ đề biển đảo mãi mãi là nguồn mạch vô tận, không bao giờ vơi cạn của

các loại hình nghệ thuật trong đó có thơ ca. Bởi biển là vũ trụ, là thiên nhiên, là sự

sống, là cái đẹp nhưng cũng rất dữ dằn, đầy bão tố. Tâm hồn nhà thơ trước biển bao

giờ cũng mở ra nhiều chiều kích, những trường liên tưởng phong phú, muôn màu,

muôn vẻ. Bằng những vần thơ các nhà thơ có những sự thể hiện chủ đề biển đảo

theo những cách riêng của mình. Trần Đăng Khoa là một minh chứng, mỗi tác

phẩm của anh là một cung điệu nói lên tấm lòng của con dân đất Việt nơi đầu sóng

101

ngọn gió. Chúng ta bắt gặp tiếng thơ ngợi ca những vẻ đẹp thiên nhiên kì thú của

biển đảo đất nước, ca ngợi tình yêu đôi lứa, là khúc trầm tư về cuộc đời và con

người. Trần Đăng Khoa đã gửi gắm niềm tự hào tha thiết, khẳng định chủ quyền bất

di bất dịch của biển đảo Việt Nam. Các sáng tác viết về chủ đề biển đảo của Trần

Đăng Khoa cảm xúc cũng mênh mông như biển, không bao giờ vơi cạn. Nét chung

thống nhất nội dung tư tưởng trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết về chủ đề

biển đảo đó là tình yêu tha thiết của nhà thơ với biển đảo Tổ quốc và tiếng nói

khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước.

Viết về chủ đề biển đảo Trần đăng Khoa cũng tìm cho mình một phương

thức biểu hiện rất riêng tạo nên phong cách cá nhân không trộn lẫn. Biển đảo được

thể hiện qua nhiều biểu tượng đặc sắc: Biểu tượng cánh buồm, biểu tượng thuyền và

biển, biểu tượng cánh chim hải âu. Đó là hiện thực hóa tư duy nghệ thuật của tác

giả. Mỗi góc nhìn tạo nên những biểu tượng độc đáo làm nổi bật tư tưởng tác giả

bao hàm cả tư tưởng nghệ thuật và nhận thức chính trị khi viết về biển đảo.

Trữ tình, trong sáng, thiết tha nhưng giàu triết lí, suy tư là đặc điểm nổi bật

trong giọng điệu thơ Trần Đăng Khoa. Đặc điểm ấy được tạo thành bởi nghệ thuật

lựa chọn, sử dụng ngôn từ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu một cách linh hoạt,

uyển chuyển, rất đỗi tài năng của nhà thơ. Mặt khác trong sáng tác của Trần Đăng

Khoa ta còn bắt gặp những biện pháp tu từ nhân hóa và so sánh độc đáo đạt giá trị

nghệ thuật cao. Sáng tác của Trần Đăng Khoa phản ánh một thế giới nội tâm phong

phú, tài quan sát tinh tế, nhạy cảm, độc đáo và một khả năng liên tưởng, tưởng

tượng phong phú. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh hiệu Thần đồng thơ Việt

Nam, đồng thời anh cũng là một cây bút tài năng, có vị trí quan trọng trong nền văn

học hiện đại Việt Nam.

Trong tình hình hiện nay, vấn đề biển đảo đang ngày một nóng lên, luôn luôn

dậy sóng. Phần máu thịt của Tổ quốc: Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa tiềm ẩn

những mối hiểm nguy mất chủ quyền thì những sáng tác viết về chủ đề biển đảo của

Trần Đăng Khoa càng thêm phần giá trị và giàu ý nghĩa thời sự, bởi nó thổi bùng

lên ngọn lửa yêu nước trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, làm trỗi dậy ý thức

trách nhiệm công dân đối với việc bảo vệ chủ quyền đất nước - biển đảo là quê

hương là Tổ quốc mà bao đời nay cha ông ta đã phải hy sinh xương máu để giữ gìn

và bảo vệ.

102

Với những nỗ lực và sáng tạo không mệt mỏi, trong hơn 50 năm cầm bút,

Trần Đăng Khoa đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thơ ca hiện đại Việt

Nam. Mảng thơ ca về chủ đề biển đảo và tác phẩm văn xuôi Đảo chìm của Trần

Đăng Khoa là minh chứng cho sự bền bỉ bám sát hiện thực cuộc sống và cái

nhìnchiêm nghiệm, mang tính dự báo sâu sắc. Với những thành công đáng trân

trọng cả về nội dung và hình thức ở mỗi thể loại văn học, Trần Đăng Khoa đã đóng

góp tiếng nói riêng, độc đáo cho sáng tác về chủ đề biển đảo nói riêng và sự phát

triển của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trở thành một gương mặt sáng

giá trong đội ngũ tác giả xuất hiện thời kỳ chống Mỹ cứu nước vẫn tiếp tục đóng

góp vào thành tựu chung của đời sống văn học hôm nay.

103

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Arixtot, (1999), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học, Hà Nội.

2. Hà Thị Anh, (2012), Đặc điểm nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ,

Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

3. Vân Anh,(2014), Những bài thơ hay nhất về Trường Sa,http://soha.vn, ngày

15-3-2014.

4. Lại Nguyên Ân, (1999), “Trần Đăng Khoa trước con đường hình thành một

cá tính thơ”, Sống với văn học cùng thời,NXB Văn học, Hà Nội.

5. Lại Nguyên Ân, (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc Gia

Hà Nội.

6. Nguyễn Phan Cảnh, (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học vàTrung học chuyên

nghiệp.

7. Nguyễn Chín, (1999), Tiềm năng biển cả,NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Nguyễn Viết Chính, (2013), Biển đảo - nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca âm

nhạc, http://www.baoquangtri.vn, ngày 16-2- 2013.

9. Nguyễn Việt Chiến, (2013), Trường Sa Tổ quốc nhìn từ biển,NXB Lao Động.

10. Phạm Đăng Dư (chủ biên), Lê Lưu Oanh, (2001), Giáo trình lý luận văn học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Hữu Đảng, (2000), Giai thoại văn học, NXB văn hóadân tộc, Hà Nội.

12. Đài tiếng nói Việt Nam, (2000), Thơ bốn phương cùng bình, NXB Văn học,

Hà Nội.

13. Hữu Đạt, (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam,NXB Giáo dục, Hà Nội

14. Hà Minh Đức, (1993), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

15. Hà Minh Đức, (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Hà Minh Đức, (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

17. Phạm Đức, (1999), Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, NXB Thanh Niên.

18. Nguyễn Đăng Điệp, (2003), "Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ", tạp chí

Văn học số 9.

19. Phong Điệp, (2000), “Mạn đàm quanh “Đảo Chìm””, Báo Văn nghệ Trẻ, số 14 (175).

20. Phong Điệp, Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú: Biển dạy cho con biết

sống,http:phongdiep.net.

104

21. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

22. Lưu Hà, (2011), Nguyễn Việt Chiến chiêm nghiệm tổ quốc nhìn từ

biểnhttp://giaitri.vnexprees.net, ngày 3 - 6 - 2011.

23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (2007), Từ điển thuật

ngữvănhọc,NXB Giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Thị Hạnh, (2012), Ta viết bài thơ gọi biển về - Huy Cận, NXB Kim Đồng.

25. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, (1998), vấnđềvà

suy ngẫm, NXB Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Hoàng Ngọc Hiến, (1999), Năm bài giảng về thể loại, NXB Giáodục Hà Nội.

27. Hoàng Ngọc Hiến, (1999), Văn học và học văn,NXB Văn học, Hà Nội.

28. Đặng Hiển, (2005), Dạy văn học văn, NXB Đại học sư phạm.

29. Đỗ Đức Hiểu, (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà Văn,Hà Nội.

30. Lưu Hiệp, (1999), Văn tâm điêu long, NXB Văn học, Hà Nội.

31. Việt Hùng - Thảo Trang - Nguyên Ngọc, (2000), Đến với những bàithơhay,

NXB văn hóa thông tin.

32. Bùi Thị Thu Huế, (2014), Thơ Việt Nam hiện đại viết về biển đảo (Khảo sát qua

các tác giả tiêu biểu), Luận văn Thạc sĩ, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc Gia Hà Nội.

33. Đinh Văn Hồng (2012), Những bài thơ hay viết về biển đảo,

http://dinhvanhong.blogspot.com, ngày 10 - 5 - 2012.

34. Lê Quang Hưng, (2000), Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước năm

1945, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.

35. http:// doko.com.vn.

36. IU.M.Lot Man (2007), Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, NXB Đại học

Quốc Gia Hà Nội.

37. Phạm Khải (2008), “Nhà thơ Trần Đăng Khoa và “nỗi oan giai

thoại”,http://www.vannghesongcuulong.org.vn, 10h15’ ngày 31/05/2008.

38. Trần Đăng Khoa, (2000), Đảo chìm, NXB Thanh niên, Hà Nội.

39. Trần Đăng Khoa, (2005), Thơ Trần Đăng Khoa,NXB KimĐồng, Hà Nội.

40. Trần Đăng Khoa, (2007), Thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng, Hà Nội.

41. Trần Đăng Khoa, (2014), Tuyển tập Trường Sa, NXB Văn học, Hà Nội.

105

42. Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, (2011), Đến với bài thơ tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn

Việt Chiến), http://van vn.net, ngày 16 - 8 - 2011.

43. Kỷ yếu hội thảo 26- 9- 1995, (1997), Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945-

1995),NXB Hội nhà văn Hà Nội.

44. Nguyễn Lai, (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, NXB

Giáo Dục, Hà Nội.

45. Vĩ Lam, Lê Thị Mây, (2012), 40 năm mang trong mình đứa con

từbiển,http://vietnamnet.vn, ngày 28 - 02 - 2012.

46. Mã Giang Lân, (1992), Thơ - Những cuộc đời, NXB Hà Nội.

47. Mã Giang Lân, (1997), Tìm hiểu thơ, NXB Thanh niên.

48. Mã Giang Lân, (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo Dục.

49. Mã Giang Lân, (2003), Nhận xét ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, tạpchívăn

học số 3.

50. Mã Giang Lân, (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận,NXB Đại học Quốc Gia

Hà Nội.

51. Mã Giang Lân, (2005), Văn học hiện đại Việt Nam vấn đề tác giả, NXB Giáo Dục.

52. Mã Giang Lân, (2011), Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.

53. Phong Lê, (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại, nghĩ tiếp..., NXB Đại học

Quốc Gia Hà Nội.

54. Vân Long, (1998), Xuân Quỳnh, Thơ và đời, NXB văn hóa HàNội.

55. Nguyễn Văn Long, (2012), Văn học Việt Nam hiện đại những vấn đềng hiên

cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục Việt Nam.

56. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,La

Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận văn học,NXB Giáo dục,

Hà Nội.

57. Giang Nam (2014), Những vần thơ nồng nàn về biển đảo quê

hương,http://ww.baotuyenquang.com.vn, ngày 5 - 4 - 2014.

58. Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương, (1998), Giáo trình văn học thiếunhi Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

59. Vũ Nho, (2000), Trần Đăng Khoa - Thần đồng thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin.

106

60. Nguyễn A Say, (2012), Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo ,

Hữu Thỉnh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

61. Trần Đình Sử, (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Trần Đăng Suyền, (2003), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

Nxb Văn học, Hà Nội.

63. Phạm Thị Phương Thảo, (2011), Biển - đảo và tổ quốc trong thơ,

http://hanglinhthao.com. T11 - 2011.

64. Lý Hoài Thu, (2016), Biển và những biến hình ký hiệu trong thơ,

http://Vannghequandoi.com.vn, 12h10’ ngày 13 – 01 – 2016.

65. Phạm Thu Yến, (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục.