ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
----------------------
ĐOÀN VĂN NAM
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
BẮC GIANG - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
----------------------
ĐOÀN VĂN NAM
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ NGÀNH: 60 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS ĐẶNG THỊ LAN
BẮC GIANG - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ........................................... 9
8. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 9
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN .............................................................................................. 10
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần .............................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần .......................................... 10
1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần .......................... 22
1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần ..................................................................................................... 30
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần ..................................................................................................... 38
1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ................... 38
1.3.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................. 41
1.3.3. Toàn cầu hóa .............................................................................. 43
1.3.4. Diễn biến hoà bình ..................................................................... 46
CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP . 50
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang .............................. 50
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc .................................... 50
2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội .......................................................... 51
2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang hiện nay ........................................................................................... 55
2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng ........................................................ 56
2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống .......................................................... 60
2.2.3. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng ..................................................... 63
2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ .............. 66
2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ...................................................... 71
2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá
trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay .. 75
2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ................................. 76
2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ......................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa
mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra
đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây
dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung
và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X(2006) đã nhấn mạnh:
Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[34; 76].
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá
nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm
sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia
đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta
đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục
vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,
1
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội”[33; 106].
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của quá trình
toàn cầu hóa sẽ không đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển
văn hóa một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới
đất nước, nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở
rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành công
có được từ nền kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa, chúng ta
không tránh khỏi những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu
không có sức mạnh của đời sống văn hóa tinh thần, không có định hướng
vững vàng thì sự tồn tại của con người cũng như chế độ chính trị nước ta
cũng khó giữ gìn.
Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh thần giúp con người tự nhận thức
chính mình, hướng con người tới sự hoàn thiện. Đời sống văn hóa tinh thần
còn giúp con người chống lại sự tha hóa trong môi trường của sản xuất
hàng hóa, của chủ nghĩa tiêu dùng, chiến tranh và tội ác. Vì vậy song song
với nhiệm vụ phát triển kinh tế, tất yếu là nhiệm vụ xây dựng văn hóa, công
tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trở thành một nhiệm vụ cấp thiết
trước một thế giới đang biến đổi nhanh chóng như hiện nay.
Trước sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá, bên cạnh những thời cơ
thuận lợi không tránh khỏi những tác động tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến
cá nhân, tổ chức, thậm chí sự vong tồn của một quốc gia. Đó là cơ hội để
văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình, đó là sự
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn,
tiện nghi thuận lợi hơn. Tuy nhiên đi cùng với đó là vấn đề giữ gìn cơ cấu
2
và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc, đó là vấn đề tha hoá lối sống, nhân
cách, rối loạn những giá trị xã hội, quan hệ xã hội.
Chiến lược “diễn biến hoà bình” là âm mưu cực kỳ thâm độc của các
thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh. Để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch tìm
mọi cách du nhập lối sống, đạo đức, văn hóa không lành mạnh vào nước ta,
làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ
nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng,
vụ lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.
Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các
địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc
biệt ở khu vực trung du và miền núi trong quá trình chuyển mình phát triển
cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một trong
những vấn đề trọng tâm đối với hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai
trò của văn hóa ở cấp cơ sở tại các địa phương làm cho văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế –
xã hội trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bắc Giang là tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống (trong đó
8 dân tộc có số dân trên 1.000 người), cùng với đó sự đa dạng về tôn giáo,
tín ngưỡng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang còn lưu giữ, bảo tồn
nhiều giá trị văn hoá văn nghệ đặc sắc, cần được duy trì và phát triển.
Sinh ra và lớn lên tại Tỉnh Bắc Giang, được thừa hưởng những truyền
thống quý báu, được tiếp thu những giá trị truyền thống của cha ông. Điều
này là vinh dự hết sức to lớn đối với tôi. Hòa chung với sự phát triển khu
3
vực cũng như cả nước, Bắc giang đang tiếp tục chú trọng phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và
vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự,
cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần là vô cùng quan trọng, tôi lựa chọn vấn đề: “xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết
học của mình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho
tỉnh nhà, cho quê hương vào một lĩnh vực hết sức rộng lớn nhưng vô cùng
hấp dẫn và mang tính thời sự hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ nghĩa Mác – Lênin khi bàn về văn hóa đã khẳng định đó là một
trong những động lực để phát triển xã hội. Trong quá trình đổi mới của đất
nước, sự biến đổi đời sống tinh thần đã được các nhà khoa học nghiên cứu,
xem xét trên những bình diện khác nhau, đến nay chúng ta có thể chỉ ra
những công trình tiêu biểu theo các nhóm sau đây:
2.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa và xây dựng văn hóa, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần
- Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách,
bằng các phương pháp khoa học tác giả đã cung cấp cho người đọc một bức
tranh tổng quan về văn hóa Việt Nam với cách trình bày hết sức rõ ràng và
mạch lạc. Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức năng, các
4
loại hình văn hóa (những vấn đề văn hóa học đại cương) để từ đó xác định
tọa độ và con đường phát triển của văn hóa Việt Nam. Đi vào các yếu tố
văn hóa, tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa nhận thức dựa trên cơ
sở triết lý âm dương, mô hình tam tài, ngũ hành của phương Nam (trong đó
có Việt Nam) và chỉ ra sự khác biệt của chúng với con đường phát triển tư
duy phương ắc (chủ yếu là Trung Hoa) cũng đi từ triết lý âm dương (được
gọi là lưỡng nghi ) đến mô hình tứ tượng, bát quái. Về văn hóa t chức
cộng đ ng, tác giả đi vào hai lĩnh vực: đời sống tập thể (với các tổ chức từ
nông thôn đến đô thị và quốc gia) và đời sống cá nhân (tín ngưỡng, phong
tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngôn từ – thanh sắc – hình khối). Từ cấu
trúc văn hóa nêu trên, tác giả phân tích cách ứng x c a người Việt với môi
trường tự nhiên (ăn, mặc, ở, đi lại) và môi trường x hội (sự giao lưu văn
hóa với các giá trị ngoại lai du nhập vào Việt Nam: các tôn giáo, các nền
văn hóa n Độ, Trung Hoa, phương Tây...) và sự đối phó, dung hợp văn
hóa Đông–Tây.
- Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hoá ở nước ta, Viện Văn hoá & Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn
sách đã nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở – bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc – đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống thường ngày của
nhân dân.
- Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa trong mối quan hệ thống
nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, từ đó đặt ra yêu
cầu trong hoạt động xây dựng môi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài
hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển
của văn hóa và xã hội.
5
- Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả đã bàn
đến vai trò của văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, đồng
thời đi sâu nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc và thực trạng văn hóa trong
quá trình đô thị hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng nền văn
hóa dân tộc.
- Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả tiếp cận văn hóa như một tổng thể
chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn cao cả. Từ
đó tác giả đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề
phương pháp luận trong quá trình xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.
Tác giả đã bước đầu đưa ra phương pháp luận nghiên cứu về văn hóa và
phương hướng thực hiện thằng lợi cuộc vân động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” ở nước ta hiện nay. Cuốn sách tiếp tục khẳng định
quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
- Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hoá dân tộc, NX Văn hoá Thông
tin, Hà Nội. Ở đây, văn hóa cũng được tiếp cận dưới góc độ: tiếp cận hoạt
động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận công nghệ. Tác giả cho
rằng “văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất và giá trị tinh thần theo tính
chân, mỹ, thiện, do hoạt động của con người sáng tạo ra, thông qua các
phương thức sinh tồn của đời sống xã hội, và ngày càng phát triển. Văn hóa
là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là văn hóa”
- Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay từ
góc nhìn giá trị văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn sách đã
tiếp cận văn hóa theo thước đo giá trị lịch sử – xã hội, làm hiện diện bản
chất của môi trường văn hóa như một di sản quý báu mà các thế hệ nối tiếp
phải giữ gìn và phát triển.
6
- Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hoá và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung trình bày những nội dung cơ bản về tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người, mối
quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới, phát triển con người
và xây dựng lối sống đạo đức và chuẩn mực giá trị mới,… Đồng thời cuốn
sách cũng đã đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề
trên.
Các công trình này cũng đó đề cập đến đặc điểm, vai trò của văn hóa
và văn hóa tinh thần cũng như đề cập đến các giải pháp bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên các công trình khoa
học đó nghiên cứu trên một phạm vi rộng, đề xuất những giải pháp ở tầm vĩ
mô.
2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Bắc Giang
- Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2011), Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn,
Nxb Văn hóa – Thông tin. Cuốn sách là những suy nghĩ, đánh giá, trao đổi
có tính học thuật, nghiệp vụ về văn hóa các dân tộc thiểu số trong địa bàn
Tỉnh Bắc Giang, về lễ hội tiêu biển, về văn hóa – du lịch cũng như những
nghiên cứu thực tế về công tác văn hóa tại Tỉnh Bắc Giang.
- Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2006), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, Nxb
Văn hóa dân tộc. Cuốn sách là một nghiên cứu về lịch sử, phong tục, tập
quán, lối sống của một dân tộc cụ thể sống trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang.
Ngoài một số các công trình trên còn có các bài viết in trên các
báo và tạp chí như: Đỗ Huy (2001), “Xây dựng môi trường văn hóa ở nước
ta từ góc nhìn giá trị học”, Văn hóa nghệ thuật, (4); Thu Linh (1994), “Mô
hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (6).
Các bài viết này đã khai thác ở một vài khía cạnh của đời sống văn hóa
tinh thần, khẳng định vai trò của văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần là
động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
7
Nhìn chung các tác giả đều khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng
và phát triển văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần; cho thấy sự quan trọng
của văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần trong quá trình phát triển của đất
nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về
vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở một số vấn đề lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần, luận văn làm rõ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
Tỉnh Bắc Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian
tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ
sau:
+ Thứ nhất, làm rõ khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa tinh
thần, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần.
+ Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
Tỉnh Bắc Giang hiện nay.
+ Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh
Bắc Giang hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu giới hạn trong phạm vi đời sống văn hóa tinh
thần ở Tỉnh Bắc Giang; Phạm vi về thời gian: từ khi đổi mới (1986) đến
nay.
8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa. Những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về
văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và có kế thừa những giá trị
của các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân
tích - tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, so sánh…Các phương pháp trên
được sử dụng linh hoạt phù hợp với từng nội dung của đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Với việc đi sâu nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở
Tỉnh Bắc Giang hiện nay, đề tài giúp chúng ta hiểu rõ hơn thực trạng đời
sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài
bước đầu đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận c a luận văn
Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản về đời sống văn hóa
tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta hiện nay nói
chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn c a luận văn
Luận văn là sự vận dụng những kiến thức đã được học vào nghiên
cứu thực tế. Là tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập, nghiên cứu, công
tác quản lý, xây dựng, hoạch định chính sách về văn hóa cho các cá nhân,
đơn vị, tổ chức có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 4 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo. Riêng phần Nội dung bao gồm 2 chương với 6 tiết.
9
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần
1.1.1.1.Khái niệm văn hoá, văn hóa tinh thần
Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa đã tiếp tục đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, cho đến nay đã có
trên 400 định nghĩa về văn hóa. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để
cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và phong phú. Trong bản
tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mexicô do UNESCO chủ trì họp từ
26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như
sau: Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội
hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng"[86; 5].
Nhờ có văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức đư-
ợc bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành , đặt ra để
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những "ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân
mình".
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà
nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: Văn hóa là toàn
bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn
xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông
10
qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá
trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng
xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của
những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy"[102; 43].
Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là
nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói
chung và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu
và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân,
gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là quá trình vận động
đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá nhân
và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự
thống nhất cao giữa mỗi cá nhân – gia đình – cộng đồng làng xã và toàn xã
hội vì sự tồn tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội.
Ngày nay một quan niệm đầy đủ về bản chất của văn hoá ngày càng
được xác định. Nếu trước đây khái niệm văn hoá chỉ được hiểu theo
nghĩa hẹp trong giới hạn các hoạt động văn học, nghệ thuật thì ngày nay
văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể các hệ thống giá trị bao
gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất và tinh thần của xã hội do con
người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn – lịch sử của mình, trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội.
Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao
động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những
sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân –
thiện – mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới đã đưa ra quan điểm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
11
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn
hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [70; 431]. Như vậy từ trong quan niệm
của Hồ Chí Minh toát lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về
nguồn gốc lịch sử của văn hoá, về phạm vi rộng lớn của văn hoá, về mặt
biểu hiện của văn hoá trong đời sống và toàn bộ sinh hoạt của con người.
Hồ Chí Minh soi xét cả hai mặt vật chất và tinh thần của văn hóa.
Về mặt vật chất đó là những công cụ của sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc
ở và các phương thức sử dụng những công cụ ấy. Về mặt tinh thần đó là
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ
thuật… Đó là hai mặt cơ bản thống nhất biện chứng của văn hóa. Văn
hóa tinh thần được nâng cao bao giờ cũng dựa trên nền tảng văn hóa vật
chất và không có văn hóa vật chất nào của con người lại không chịu sự
tác động của văn hóa tinh thần. Quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ
Chí Minh về văn hoá có ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khi
mà Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội".
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng văn hóa được
hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên
nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và
cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở
thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa.
Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng
đồng mà còn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc,
cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn
12
hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những
nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung
của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin xem “văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã
hội – lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”
[64; 507].
Thông thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật,
kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ
thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục...). “Văn hóa là một hiện
tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế –
xã hội” [64; 505].
Là sản phẩm đặc trưng của con người, văn hoá có hai dạng tổng quát:
văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tuy nhiên việc phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Thực tế,
trong các sản phẩm văn hoá vật chất, dưới cái vỏ vật chất là năng lực sáng
tạo, thẩm mỹ, là dấu ấn văn hoá của người làm ra chúng. Ngược lại, nhiều
sản phẩm văn hoá tinh thần lại thể hiện thông qua dưới dạng vật chất cụ thể
nào đó.
Văn hoá tinh thần bao gồm các sản phẩm tinh thần mang giá trị văn
hoá, do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của
con người, mà trước hết là các hình thái ý thức xã hội như: hệ tư tưởng,
chính trị, đạo đức, khoa học, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… Các sản
phẩm văn hóa tinh thần do hoạt động sản xuất văn hoá tinh thần sáng tạo
ra. Tuy nhiên, so với sản suất các sản phẩm vật chất, sản xuất các sản phẩm
tinh thần có đặc điểm: Nó là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
thông qua nhận thức của con người, tái tạo hiện thực trong tư duy và thể
hiện thông qua những hình thức, phương pháp khác nhau (khái niệm, phạm
trù, quy luật, hình tượng nghệ thuật); quần chúng nhân dân suy cho cùng là
13
người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần, nhưng việc sản xuất ra các
giá trị văn hoá tinh thần đòi hỏi phải có năng lực, có kiến thức, có kinh
nghiệm kỹ năng, vì vậy, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra các giá trị văn hoá
tinh thần, nhất là các sản phẩm văn hoá tinh thần mang tính “bác học”
thuộc về đội ngũ trí thức.
Bản thân sản phẩm văn hoá tinh thần cũng gồm hai loại: vô hình và
hữu hình. Sản phẩm văn hoá vô hình là những sản phẩm không có hình thể,
nó tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi trong ký ức xã hội như huyền thoại,
truyền thuyết, tín ngưỡng, truyền thống dân tộc. Sản phẩm văn hoá hữu
hình là những sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới dạng vật thể như bức tranh,
bức tượng, tác phẩm văn học, di tích lịch sử...
Ngoài ra UNESCO cũng phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực, đó là:
“Văn hóa hữu thể và văn hóa vô thể. Việc phân chia này cần thiết để có
cách nhìn toàn diện, tổng thể về văn hóa. Tuy nhiên ranh giới của sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đối, không thể tách bạch tách rời các
lĩnh vực, bởi lẽ ngay trong văn hóa hữu thể lại có văn hóa vô thể” [105;
100].
Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân
tộc, những nhận thức mới về văn hóa luôn được bổ sung thêm những nội
dung mới, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc
gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra
trên quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân
tộc do đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu
quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển về kinh tế,
có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo
vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng hóa về văn
hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia, đặc biệt đối với
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
14
1.1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
“Đời sống” là một khái niệm rất rộng, trong mỗi khía cạnh xem xét lại
có cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có thể hiểu đời sống là tình trạng
tồn tại của sinh vật như: đời sống của cỏ cây, đời sống của súc vật, đời sống
của con người. Cũng có thể hiểu đời sống là lối sống của cá nhân hay tập thể
như: Đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm. Tuy nhiên trong khuôn khổ của
luận văn, tác giả hiểu: Đời sống là khái niệm dùng để chỉ sự hoạt động của
con người trong từng lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là lĩnh vực văn hóa.
Khái niệm “đời sống văn hóa” có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động
của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống
xã hội để hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái
tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ, đào thải những biểu hiện tiêu
cực tha hoá con người.
Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt
động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá
trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống
vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân
văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời
sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu
cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội
để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính
bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho
cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị
truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề
khẳng định những giá trị mới.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn
luôn có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh
15
dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần
của con người.
Đời sống văn hóa là một bộ phận trọng yếu c a đời sống tinh thần.
Đời sống văn hóa được quan niệm là toàn bộ phương thức sinh hoạt tinh
thần; là một phạm trù phản ảnh một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội,
dùng để chỉ toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hóa;
là tổng thể các dạng hoạt động của con người trên các lĩnh vực: tư tưởng,
đạo đức, nghệ thuật, khoa học, giáo dục – đào tạo, thẩm mỹ, sinh hoạt tôn
giáo, tín ngưỡng, thể dục thể thao... hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Do
đó, xây dựng đời sống văn hóa cũng phải được xác lập trong cái nhìn tổng
thể, bao quát toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ của đời sống xã hội, thể hiện
trong mọi lĩnh vực và các yếu tố cấu thành; chất lượng của đời sống văn
hóa cao hay thấp đều phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của con người để tạo
ra các sản phẩm văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa bao giờ cũng phải
gắn với một bối cảnh, một phạm vi không gian, một cộng đồng dân cư nhất
định, tức là phải gắn liền với cơ sở được xác định. Đời sống văn hóa của
toàn thể xã hội thực thể chỉ tồn tại thông qua đời sống văn hóa cơ sở, thông
qua đời sống văn hóa của từng cá nhân và cộng đồng trong xã hội. Từ
những quan niệm trên, tác giả mạnh dạn khái quát khái niệm “Đời sống văn
hóa tinh thần” như sau:
Đời sống văn hóa tinh thần là t ng hòa sống động các hoạt động sản
xuất, trao đ i, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần làm cho các giá trị đó
thẩm thấu sâu vào từng con người, từng cộng đ ng người trở thành yếu tố
khăng khít c a toàn bộ đời sống hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng
nhu cầu văn hóa tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên c a mọi thành
viên trong xã hội.
Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần là một khái niệm rộng để chỉ toàn
bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương
thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày.
16
Tiêu chí căn bản để xem xét đánh giá đời sống văn hóa tinh thần của
một con người hoặc một cộng đồng người: Trình độ được vun trồng của
con người là sự phát triển của các mặt chân - thiện - mỹ của mặt đời sống,
hoạt động và quan hệ thực tiễn của con người hay cộng đồng đó.
Đời sống tinh thần có cái hay, cái dở, cái tốt, cái không tốt, nhưng đời
sống văn hoá tinh thần chỉ có cái hay, cái tốt. Đời sống văn hoá tinh thần là
biểu hiện và là một bộ phận của đời sống tinh thần nhưng không đồng nhất
với đời sống tinh thần. Bởi vì, nói đến văn hoá là nói đến những giá trị cao
đẹp mà sự hưởng thụ nó giúp con người phát triển, hoàn thiện theo hướng
chân – thiện – mỹ. Mọi con người, mọi cộng đồng xã hội đều có đời sống
tinh thần. Nhưng trên thực tế, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội, cộng
đồng xã hội cao đẹp, lành mạnh, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội,
cộng đồng xã hội thấp kém. Đời sống tinh thần là khái niệm chỉ tất cả các
bộ phận, các lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn đời sống văn hoá tinh thần là
khái niệm nói lên mặt chất lượng của đời sống văn hoá tinh thần, của các
hoạt động tinh thần. Đời sống văn hoá tinh thần là bộ mặt tinh thần của xã
hội, nói lên trình độ đạt được của một cá nhân, cộng đồng, một xã hội về
văn hoá. Đời sống văn hoá tinh thần của một dân tộc được sàng lọc, kết
tinh thành hệ giá trị văn hoá tinh thần, nói lên trình độ, đặc điểm, phẩm
chất, bản sắc của dân tộc đó.
*Cấu trúc đời sống văn hóa tinh thần
Đời sống văn hóa tinh thần không chỉ ở một lĩnh vực mà bao quát rất
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội như: tư tưởng, nghệ thuật, khoa học,
giáo dục, tín ngưỡng, tôn giáo.
Hoạt động tư tưởng: Nhằm hình thành thế giới quan khoa học. Thế
giới quan khoa học bao gồm không chỉ tri thức, nhận thức, quan niệm mà
còn cả tình cảm, niềm tin. Thế giới quan khoa học vì vậy được coi là cốt lõi
của văn hoá, văn hoá tinh thần, có vai trò định hướng hoạt động và quan hệ
giữa con người với nhau và với thế giới xung quanh, là kim chỉ nam cho
17
hành động. Chính nhờ đó mà tư tưởng, đạo đức, lối sống luôn đi liền nhau,
kết dính với nhau tạo thành lĩnh vực then chốt của đời sống văn hoá tinh
thần. Ngay khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh yêu cầu mở ngay một chiến
dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân. Trong hoàn cảnh mới, Hồ Chí Minh
luôn nhắc nhở phải không ngừng học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập
suốt đời bởi vì: “không có lý luận thì lòng tòng như nhắm mắt mà đi”. Theo
Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là rèn luyện một thế giới
quan, một phương pháp tư duy khoa học, là vận dụng những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta một cách
sáng tạo nhằm giải quyết những công việc thực tế. Vì lẽ đó nên Hồ Chí
Minh luôn yêu cầu lý luận phải gắn với thực tiễn. Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin, thấm nhuần tư tưởng Mác – Lênin nhằm chống lại những hành động
xuyên tạc và tiến công của bọn phá hoại vào đường lối của Đảng, đấu tranh
chống ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại. Có thể nói, chủ nghĩa Mác
– Lênin đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và
trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần mới của nhân dân ta. Nó là hoạt động chủ đạo, quy định
phương hướng, trình độ và phẩm chất của toàn bộ đời sống văn hoá tinh
thần cũng như từng bộ phận của nó, đảm bảo cho đời sống văn hoá tinh
thần phát triển đúng hướng, có cơ sở, có gốc rễ vững chắc, lâu bền và có
chất lượng thật sự.
Hoạt động văn hoá nghệ thuật: Văn hoá nghệ thuật là đỉnh cao của
đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong các xã hội trước
đây, nghệ thuật được coi như một loại hình giải trí, mua vui. Những nghệ sĩ
chỉ được coi là lũ xướng ca vô loài”. Nhưng hiện nay lại có quan điểm
khác hẳn, những người người nghệ sĩ rất được coi trọng. Nghệ sĩ biết sử
dụng ngòi bút của mình như “vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ
tà” là những người có lập trường chính trị đúng đắn, để phục vụ nhân dân,
18
đồng thời phục vụ tinh thần quốc tế. Bởi vì, dân tộc bị áp bức thì văn nghệ
cũng mất tự do, văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng.
Hoạt động nghệ thuật phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Chỉ có
thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn
nghệ, thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn
nghệ sĩ, từ đó họ có thể tạo nên những tác phẩm có tác dụng nâng cao tư
tưởng, tình cảm của quần chúng, bồi dưỡng đời sống tinh thần con người,
hướng con người đến những giá trị cao đẹp nhất. Đó phải là những tác
phẩm mô tả vừa hay, vừa chân thật, vừa hùng hồn, phải là những tác phẩm
cá tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao, thể hiện ở nội dung và hình thức
của tác phẩm.
Hoạt động khoa học: Hiện nay chúng ta cũng rất quan tâm và chú
trọng bởi đây là một bộ phận rất quan trọng góp phần nâng cao đời sống
văn hoá tinh thần của nhân dân. Đó là hoạt động sáng tạo và phổ biến tri
thức cần thiết cho con người và xã hội, đáp ứng yêu cầu chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội và hoàn thiện con người theo hướng đạt tới chân,
thiện, mỹ.
Khoa học đi sâu vào đời sống sẽ nâng cao trình độ dân trí, xoá bỏ
những phong tục, tập quán lạc hậu. Khoa học bản thân nó là một bộ phận
hữu cơ của đời sống văn hoá tinh thần. Những tư tưởng sáng tạo của nhà
khoa học, những thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học, những phát
minh khoa học là những giá trị văn hoá.
Để có những hoạt động khoa học, nghệ thuật, thì con người ai cũng
cần phải học tập, vì vậy cần phải có một nền giáo dục. Giáo dục chính là
hoạt động nhằm trang bị những tri thức cho con người trên mọi lĩnh vực
của đời sống giúp họ có được những phẩm chất và năng lực cần thiết để
sáng tạo những giá trị mới cho cuộc sống, trong đó có giá trị tinh thần. Chỉ
thông qua giáo dục thì mới có thể bảo tồn những giá trị tinh thần, những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu, phát triển những giá trị mới.
19
Vì vậy, ngay sau khi chính quyền về tay nhân dân, việc xây dựng một nền
văn hoá giáo dục mới đó chính thức được đặt ra như một trong những
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là một nhiệm vụ cấp
bách phải tiến hành ngay, không thể chậm trễ.
Để xây dựng một nền giáo dục mới phải đào tạo những con người mới
vừa có đức, vừa có tài, để đúng góp tích cực vào công cuộc kiến thiết đất
nước. Học không phải để chạy theo bằng cấp, mà phải có thực học. Vì thế,
muốn xây dựng được đời sống văn hoá tinh thần mới xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải học nhiều, phải cố gắng học. Nếu không chịu khó học thì
không thể tiến bộ được. Xã hội càng phát triển, công việc càng nhiều, máy
móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị
đào thải. Tự mình đào thải mình, học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời.
Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết
hợp với lao động. Và quan trọng nhất, học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi
người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Hoạt động giáo dục đã góp phần to lớn trong việc hình thành một nền
giáo dục mới, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho cụng cuộc xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần mới ở nước ta ngày ấy và bây giờ.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
Bên cạnh những yếu tố trên, một yêu tố hết sức nhạy cảm đó là hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một hoạt động có ảnh hưởng rất lớn tới
đời sống tinh thần con người, nó hướng về một thế giới siêu nghiệm với
niềm tin tuyệt đối, không thể chứng minh, nhưng có ảnh hưởng chi phối
mạnh mẽ, sâu sắc đến đạo đức và lối sống của người theo đạo và có tín
ngưỡng, tôn giáo.
Cần sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng,
không được có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,
giữa người có đạo và người không có đạo. Đồng bào lương hay giáo đều là
20
người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là việc lớn,
là sự nghiệp chung không phải chỉ của một, hai người.
Đó là xét dưới góc độ các dạng, các hình thức hoạt động văn hóa cụ
thể. Còn xét dưới góc độ vận động và phát triển đời sống văn hoá tinh thần
là một quá trình vận động qua năm khâu: nhu cầu văn hóa tinh thần; sản
xuất giá trị văn hoá tinh thần; bảo quản các giá trị văn hoá tinh thần; trao
đổi chuyển giao các giá trị văn hoá tinh thần; tiêu dùng các giá trị tinh thần.
Nhu cầu văn hoá tinh thần bao gồm nhu cầu hưởng thụ và nhu cầu
sáng tạo các giá trị văn hoá tinh thần nảy sinh ở con người, cộng đồng
người do tác động của hoàn cảnh sinh sống. Nhu cầu văn hoá tinh thần
khác với nhu cầu tinh thần nói chung. Chỉ những nhu cầu tinh thần nào
hướng tới các giá trị cao cả và sự đáp ứng góp phần phát triển con người
theo hướng lành mạnh, tiến bộ mới được coi là nhu cầu văn hoá tinh thần.
Sản xuất văn hoá tinh thần là hoạt động tìm tòi, phát hiện, phản ánh,
sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần
của con người.
Bảo quản văn hoá tinh thần là các hoạt động bảo lưu, giữ gìn, cất giữ
các giá trị văn hoá tinh thần do con người sáng tạo ra như hoạt động bảo
tồn, bảo tàng, lưu trữ…
Trao đổi văn hoá tinh thần là hoạt động giao lưu văn hoá, trao đổi qua
lại những sản phẩm văn hoá tinh thần giữa người với người, giữa các thế
hệ, giữa các cộng đồng người. Sự trao đổi văn hoá tinh thần cũng là sự
thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hoá.
Tiêu dùng văn hoá tinh thần là quá trình con người, cộng đồng người
lựa chọn, tiếp nhận và hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần của quá khứ
để lại và của đương thời tạo ra đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo các
giá trị văn hoá tinh thần.
21
1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
1.1.2.1.Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
“Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần” là một vấn đề rộng, nó bao
hàm tất cả các mặt đời sống văn hóa tinh thần. Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân dựa trên quy luật cơ bản
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện trong mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị với văn hóa như đã trình bày ở
trên. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần giúp xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là: Xây dựng “Đời sống tinh
thần có văn hóa”; là quá trình thông qua các hoạt động văn hóa làm cho
những giá trị văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, tạo ra một đời sống
tinh thần của xã hội phong phú, lành mạnh và cao đẹp.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là:
“Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiến lên, đậm đà bản sắc dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng con người, từng tập thể
và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan
hệ con người, tạo ra trên đất nước ra một đời sống tinh thần cao đẹp,
trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[30;
54-55].
Hội nghị lần thứ năm an Chấp hành Trung ương khóa VIII cũng
khẳng định cốt lõi của xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta
hiện nay là xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, lối sống, nhân cách, theo các chuẩn mực sau:
22
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vị lợi ích chung;
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của công đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái;
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội;
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực. [30; 58-59].
Như vậy, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần bao gồm nội dung
khá rộng, bao gồm tổng hợp các hoạt động để đạt được các mục tiêu cơ
bản sau đây:
Một là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trước hết phải kế thừa
được các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc.
Các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tồn tại bền vững trong nền
văn hóa Việt Nam là những giá trị không thể thiếu trong quá trình xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Hai là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cũng chính là xây dựng
những con người mới có chuẩn mực đạo đức, có lối sống lành mạnh, lý
tưởng cao đẹp.
Con người mới được xây dựng có sự kết hợp hài hòa giữa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại dựa trên mức sống
ổn định và ngày càng phát triển. Như vậy, muốn xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần lành mạnh, phong phú và cao đẹp, cần phải tập trung vào
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, không ngừng
nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, đồng thời
23
cần chú trọng xây dựng lý tưởng chính trị, đạo đức phẩm chất cho con
người. Chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn, khách quan về các quan hệ,
chuẩn mực, giá trị văn hóa tinh thần truyền thống với sự biến đổi của nó
trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng những con người phát triển cao về mặt thể lực, trí tuệ và
tình cảm, có ý thức công dân, xây dựng những con người sống và làm việc
theo pháp luật của nhà nước tránh tư tưởng tùy tiện gây cản trở trong quá
trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. Trình độ dân trí cao là điều kiện
cần thiết để phát huy sáng kiến, giải phóng năng lực cá nhân một cách
mạnh mẽ, giúp con người lao động có khoa học, có kỹ thuật, tiếp thu các
thành tựu khoa học tiên tiến của nhân loại và nâng cao năng suất lao động.
Hơn nữa, khi trình độ dân trí được nâng lên, nó sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi các phong tục tập quán lỗi thời, lạc hậu tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, cao đẹp.
Ba là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là t ng hợp những hoạt
động c a các cơ quan làm công tác giáo dục văn hóa nhằm tuyên truyền,
giáo dục, truyền bá văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hóa
tinh thần c a nhân dân.
Xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương cũng có nghĩa là xây dựng
đời sống vật chất và tinh thần phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Định hướng phát triển văn hóa Đại
hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ
phát triển văn hóa... làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng
gia đình, từng người... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân... Đẩy mạnh việc xây dựng đời
sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh” [33; 212-213].
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở từng địa phương là điều kiện
thiết yếu để bồi đắp nền tảng tinh thần cho xã hội; là nền tảng, là bước đi
ban đầu mang tính hiện thực, trực tiếp để xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
24
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế văn hóa
cộng đồng; góp phần tạo điều kiện cần thiết để nhân dân phát huy và thực
thi quyền làm chủ của mình trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn
hóa, nghệ thuật, xây dựng lối sống văn minh, lịch sự, giữ gìn trật tự, kỷ
cương; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – văn hóa xã hội và đảm bảo
sự ổn định chính trị.
1.1.2.2. Vai trò c a văn hóa tinh thần đối với sự phát triển xã hội
Thứ nhất, văn hóa tinh thần đối với phát triển kinh tế
Kinh tế và văn hóa, văn hóa tinh thần có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Kinh tế là kết quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của
kinh tế. Thực tiễn ngày càng cho thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực
mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Mỗi nấc thang của tăng
trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn hóa phát triển lại
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển
kinh tế. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, vì phát triển kinh tế để phát triển
con người. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người
được hạnh phúc và phát triển toàn diện. Vì vậy, văn hóa đóng vai trò là
mục tiêu trước mắt và lâu dài của sự phát triển kinh tế.
Theo khẳng định của UNESCO: “Nước nào tự đặt cho mình mục
tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá, thì nhất định sẽ
xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá và tiềm
năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân
chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi
cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các
mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa” [86; 6].
25
Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết vì nó là
nền tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu cứu cánh mà nó đặt ra
cho tất cả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển
kinh tế đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản
nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc
sống con người. Bất cứ chính sách, biện pháp kinh tế nào về sản xuất, lưu
thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm hàng hóa đều phải thực hiện
mục tiêu cao nhất đó yêu cầu cơ bản đó, tức là vì chính lợi ích của con
người. Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất phát từ
văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bằng nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng ta có
thể làm chủ được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào
hoạt động kinh tế theo chiều sức mạnh thúc đẩy.
Văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định. Văn hóa phát triển
tương xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách toàn diện. Văn hóa và
tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ đa chiều. Mỗi chiều cạnh của quan hệ
này có thể phát huy khả năng của mình, nhưng các chiều cạnh đó lại có mối
quan hệ mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng lực khác
nhau. Với luận điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng
xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn,
năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân
và cộng đồng. Chính vì thế mà văn hóa sẽ là điều kiện không thể thiếu để
thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định. Thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ,
lành mạnh sẽ không có sự phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, văn hóa tinh thần góp phần điều tiết sự phát triển c a xã
hội, có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững
Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn làm tròn
trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội, cải biến
xã hội: ứng với nó là văn hóa chính trị, văn hóa pháp quyền, văn hóa quản
26
lý xã hội, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân, văn hóa giao tiếp, văn hóa
ứng xử, văn hóa đối thoại, văn hóa lối sống và nếp sống, văn hóa giáo dục,
văn hóa môi trường… Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoá IX của
Đảng đã khẳng định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh
tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng
nâng cao văn hoá – nền tảng tinh thần xã hội bảo đảm cho sự phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước” [58; 4].
Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền
vững hiện nay. Văn hóa là nền tảng của đời sống tinh thần bởi văn hóa có
chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối
các hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị,
chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến
trình lịch sử của dân tộc, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một
dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học, nghệ
thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán, lối sống, tạo nên cái cốt, cái
hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi nói bản sắc văn hóa
của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu nước với
những khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng
lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập,
tự do. Những giá trị đó là truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế
thừa và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của
dân tộc.
Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội, là chìa khóa
của sự phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những nhân tố
như: Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công
nghệ, nguồn lực con người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ
chốt. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8
nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình phát triển, thì quy nguyên
tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên là con người, ngu n lực con người có vai
27
trò quyết định, đây là chìa khoá c a mọi chìa khoá. Con người là trung tâm
của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất
và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong mọi giai đoạn phát triển. Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con
người mới, có đủ phẩm chất, năng lực đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất
cần thiết trong quá trình phát triển bền vững.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác định nhiệm vụ: “Mở
cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Phong trào
này đã nhanh chóng được triển khai sâu rộng và sáng tạo, góp phần làm
cho đời sống chính trị ổn định, kinh tế phát triển, giảm bớt các hộ đói
nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, phát huy được tình làng nghĩa xóm, làm
đẹp cảnh quan môi trường, làm cho đời sống văn hoá tinh thần ngày
càng phong phú hơn.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng văn hoá, giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ. Các văn kiện Hội nghị Trung ương khoá
VII, VIII, IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế – xã hội. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá
trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế”. [33;
106].
28
Thứ ba, văn hóa tinh thần đối với bảo bệ môi trường
Văn hóa xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự
nhiên là vấn đề chính cần quan tâm để đảm bảo tốt nhất môi trường sống
của con người. Văn hóa Việt Nam gắn với văn minh nông nghiệp, từ trước
đến nay, người Việt Nam đã có mối liên hệ đặc biệt, phụ thuộc vào tự
nhiên. Vì vậy, con người có mối quan hệ gắn bó vô cùng mật thiết với tự
nhiên. Tự nhiên chính là môi trường sống của con người. Môi trường sống
không chỉ cung cấp những điều kiện cơ bản cho con người sinh hoạt như:
ăn, mặc, ở… Như vậy, có thể nhìn nhận thấy tầm quan trọng của môi
trường tự nhiên đối với con người. Trong quá trình phát triển bền vững, vô
tình sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại đến môi trường tự nhiên.
Điều này sẽ đe dọa đến sự sống của con người. Con người luôn nhận thức
rõ mối quan hệ hài hòa của mình với tự nhiên. Cần phải giữ gìn và bảo vệ
tài nguyên là vấn đề cấp bách để có thể phát triển bền vững.
Xây dựng con người tự ý thức, tự giác đối với việc bảo vệ môi
trường là vai trò quan trọng của văn hóa. Ở Việt Nam, vấn đề môi trường
và ảnh hưởng của nó đến phát triển con người đang trở thành thách thức. Ô
nhiễm trên quy mô rộng, suy thoái cục bộ, có dấu hiệu khủng hoảng môi
trường do quá trình phát triển ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ bảo
vệ môi trường đang trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của
chính con người Việt Nam – được hiểu như quá trình không ngừng mở
rộng cơ hội và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người. Thứ nhất, sức
khỏe, tính mạng người dân bị đe dọa trực tiếp do tình trạng nhiễm khuẩn
không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng phát dịch bệnh. Thứ hai, suy thoái
môi trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên tái sinh nuôi sống con người
như biển, sông, hồ, đất màu, rừng, v.v…
Hiện nay, khủng hoảng môi trường, thiên tai bùng phát, biến đổi
khí hậu đe dọa an ninh, tính mạng và tài sản của con người. Chính vì vậy
xây dựng ý thức tự giác của con người đối với việc bảo vệ môi trường
29
chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đến sự sống còn của con người. Văn hóa
xây dựng ý thức tự giác của con người, trước hết bởi chức năng nhận thức
của nó. Con người là trung tâm của văn hóa, tất cả hành vi, hoạt động của
con người đều liên quan đến văn hóa. Văn hóa tạo dựng cho con cách ứng
xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi
ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của
mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu
biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành
vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường.
Vào thời đại ngày nay, sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân, phát
triển hay trì trệ của một dân tộc, thành công hay thất bại của một chiến
lược phát triển, sự hưng thịnh của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào
chỗ văn hóa được nhận thức và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh
tế – xã hội và bảo vệ môi trường để tạo nên sự phát triển bền vững.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định vai trò của văn hóa cũng
như đời sống văn hóa tinh thần đối với sự phát triển của xã hội là đặc
biệt quan trọng, mọi mặt của đời sống con người đều cần đến văn hóa.
Trong đó yêu tố văn hóa tinh thần chiếm một vị trí quan trọng góp phần
vào sự phát triển và tính bền vững trong sự phát triển của xã hội.
1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần
Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác văn hóa, xác định
công tác văn hóa là một bộ phạn của cách mạng Việt Nam. Đây là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nó mang ý nghĩa chiến lược lâu dài
và thực hiện suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) đã khẳng định: ”Một
nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập
vào đời sống hàng ngày của người dân. Đặc biệt là xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học,
30
bệnh viện, cửa hàng, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa”. [26;
101].
Đến Đại hội VI (1986), Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh các hoạt động
văn hóa quần chúng, phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, nâng
cao chất lượng thông tin, đưa đến tận các đơn vị cơ sở, những giá trị văn
hóa nghệ thuật của dân tộc và của thế giới, những kiến thức phổ thông và
hiện đại về khoa học và kỹ thuật. Đưa văn hóa văn nghệ đến vùng rừng núi
và nông thôn hẻo lánh”[27; 91-92]. Đồng thời Đại hội cũng nhấn mạnh đến
vai trò và vị trí của gia đình trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh
tế mới: “Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra các phương
hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức về thực hiện xây dựng gia đình
văn hóa mới bảo đảm hạnh phúc gia đình”[27; 95].
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII, năm
1994 khi đề ra một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ trong những năm trước
mắt đã thấy tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, nên Đại hội xác định cần phải: “Đưa đến từng gia đình các
giá trị văn hóa, văn học và nghệ thuật, giáo dục cái tốt, cái đẹp, nâng cao
trình độ hiểu biết và trình độ thẩm mĩ của nhân dân, ngăn chặn những nọc
độc của văn hóa phẩm đồi trụy”[28; 50].
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, năm 1998 đã
đưa ra: “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” đề ra phương hướng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, nhất là
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở, “làm cho văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình,
từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt
và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta một đời sống tinh thần cao
đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển”; “tạo ra ở các cơ sở đời sống
văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không những tăng
lên của các tầng lớp nhân dân”; “coi trọng xây dựng gia đình văn hóa”;
31
“đẩy mạnh xây dựng phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa,
nâng cao tính tự quản cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp
sống văn minh”; “phát triển và nâng cao chất lượng hoạt đồng của các thiết
chế văn hóa cơ sở”; “phát động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”[30; 54-55, 59-60].
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần, nhất là đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở, trong nhiều năm
qua Nhà nước và các Đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến cơ sở đã có
nhiều chính sách, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đời
sống văn hóa tinh thần nói chung và văn hóa tinh thần ở cơ sở nói riêng.
Tiêu biểu là các chỉ thị, nghị quyết: Năm 1998, ộ chính trị ra chỉ thị số
27/CT–TW và Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 14/1998/CT–TTg “Về
thực hiện nếp sống văn mình trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; Ngày
19/06/1998, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT–TTg
“Về xây dựng và thực hiện hương ước”; Ngày 23/12/1999, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 235/1999/QĐ–TTg về việc thành lập ban chỉ
đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; Ngày 13/12/2001,
theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Bộ Văn
hóa Thông Tin, Thủ tướng chinh phủ đã đồng ý thống nhất hai cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thành “Cuộc vận
động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do Mặt
trận tổ quốc xã, phường, thị trấn chủ trì, quản lý. Khu dân cư ở đây bao
gồm: thôn, bản, làng, ấp, khu phố, khối phố.; Ngày 02/01/2002, Bộ Văn
hóa Thông tin đã ra quyết định số 01/2002/QĐ–BVHTT về việc ban hành
“Quy chế công nhân danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu văn
hóa”. ên cạnh đó còn rất nhiều văn bản, nghị quyết khác có liên quan.
Điều này cho thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm chuẩn bị những tiền đề về cơ sở
32
vật chất cho chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng không quên vai
trò của đời sống văn hóa ở cơ sở, bởi đời sống văn hóa của một nước được
thể hiện qua những đơn vị cơ sở, thể hiện ngay trong những môi trường văn
hóa nhỏ của cộng đồng người.
- Mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở khu dân cư
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, năm 1998,
xác định mục tiêu chung của việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ
sở nước ta hiện nay là: “ Tạo ra ở đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã,
phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường
học, đơn vị quân ngũ,…), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi,…)
một đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và
không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân”, “ làm cho văn hóa thấm
sâu vào toàn bộ đời sống và họa động xã hội, vào từng người, từng gia
đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư , vào mọi lĩnh vực
sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần
cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[30;
54-55].
Hiện nay, chúng ta thực hiện xây dựng văn hóa ở các địa phương vẫn
lấy việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa làm phương thức chủ yếu.
Chính vì vậy, việc cụ thể hóa mục tiêu nói trên được thể hiện trong nội
dung thực hiện của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới ở khu dân cư” và “Quy chế công nhận gia đình văn hóa, làng văn hóa,
khu phố văn hóa”. Cụ thể:
- Nội dung cơ bản của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
cuộc sống mới ở khu dân cư” là:
+ Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế;
33
+ Đoàn kết phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương
thân tương ái”;
+ Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, mọi người sống và
làm việc theo pháp luật, theo quy ước, thực hiện quy chế dân chủ;
+ Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và thuần phong mỹ tục, bảo vệ các di tích lịch sử – văn
hóa, di tích cách mạng, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh;
+ Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển thể dục, thể thao và
chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình;
+ Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh gắn bó mật thiết với
nhân dân trong khu dân cư [101; 6-8].
- Tiêu chuẩn Làng văn hóa có “đời sống văn hóa lành mạnh, phong
phú”:
+ Có các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế phù hợp, có đội văn nghệ
quần chúng; tổ chức văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí;
+ Thực hiện nếp sống văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội. Sinh
hoạt cộng đồng. Không có tệ nạn xã hội, không tàng trữ và sử dụng văn hóa
phẩm thuộc loại cấm lưu hành;
+ Có từ 80% số hộ gia đình trở lên được công nhận gia đình văn hóa.
Đối với làng miền núi được coi là “có đời sống văn hóa lành mạnh,
phong phú” khi đạt tiêu chí sau:
+ Có tụ điểm sinh hoạt văn hóa – thông tin, có đội văn nghệ quần
chúng được duy trì;
+ Tổ chức việc cưới, việc tang, lễ hội theo nếp sống văn hóa phù hợp
với phong tục, tập quán dân tộc;
+ Không tệ nạn xã hội, không trồng, buôn bán và sử dụng thuốc phiện,
ma túy, không tàng trữ và sử dụng văn hóa phẩm thuộc lại cấm lưu hành;
+ Có 60% số hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa.
- Tiêu chuẩn gia đình văn hóa:
34
+ Gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ, mạnh khỏe, hạnh phúc;
+ Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân;
+ Thực hiện kế hoạch hóa gia đình;
+ Đoàn kết, tương trợ cộng đồng dân cư.
- Mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay là:
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Bắc Giang hiện nay là mục
tiêu quan trọng có tầm chiến lược, nhằm nâng cao đời sống văn hóa, xây
dựng con người phát triển toàn diện: Xây dựng nền văn hóa và con người
phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần giá trị văn
hóa dân tộc, dân chủ và khoa học; Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Cụ thể:
Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển trí lực, tâm lực và thể lực, luôn có ý thức
trách nhiệm đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Hoàn thiện các thể chế, chính sách văn hóa đảm bảo xây dựng và
phát triển văn hóa, con người trong giai đoạn hiện nay.
Từng bước thu hẹp khoảng cách về văn hóa giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi
sự xuống cấp về đời sống văn hóa tinh thần.
- Nội dung xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, t chức xây dựng vững chắc, n đinh chính trị, tư tưởng
Đây là một nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính trị, tư tưởng có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển, tính ổn định
của xã hội. Nó được thể hiện thông qua từng đường lối, chính sách, chiến
lược của Đảng và Nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội; thông qua
thái độ, niềm tin, ý thức của nhân dân trong công cuộc xây dựng quê
hương, đất nước.
35
Thứ hai, xây dựng đạo đức, lối sống
Nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài và thường xuyên của sự nghiệp văn hóa là
xây dựng con người đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác xây
dựng đất nước. Văn hóa xã hội chủ nghĩa xác định lối sống, đạo đức và
chuẩn mực giá trị “mình vì mọi người, mọi người vì mình” và “sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người”.
Hiện nay, quá trình phân hóa, phân tầng các loại quan hệ xã hội và gây khó
khăn cho việc tổng hòa các quan hệ xã hội trong bản chất hiện thực của con
người. Mặc khác, các loại hoạt động xã hội của con người hiện đang dần
dần chuyển sang ưu tiên các giá trị vật chất, nhằm đảm bảo và nâng cao
mức sống vật chất. Do đó các giá trị tinh thần – văn hóa phần nào bị coi
nhẹ. Hậu quả là rất khó xác lập được mối tương tác hài hòa giữa giá trị vật
chất và giá trị tinh thần. Trong những điều kiện như vậy, việc xây dựng lối
sống, đạo đức nhằm cân bằng các giá trị vật chất – tinh thần ở mỗi con
người và trong toàn xã hội là rất cần thiết.
Thứ ba, chú trọng đến tôn giáo, tín ngưỡng
Đây là một bộ phận không tách rời của đời sống văn hóa tinh thần. Vì
vị trí, tầm quan trọng của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội là rất
quan trọng và có ảnh hưởng lớn cho nên Đảng và Nhà nước luôn coi trọng
quyền tự do tín ngưỡng, khuyến khích ý tưởng công bằng bác ái, hướng
thiện trong tôn giáo, đồng thời vận động nhân dân xóa bỏ những gì là mê
tín, dị đoan trong các hành vi tín ngưỡng, đặc biệt là ngăn chặn bài trừ các
hoạt động lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây rối, chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Cần phát huy tốt mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng nhằm làm phong
phú và đa dạng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Thứ tư, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, khoa học – công
nghệ
Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, trình độ hiểu biết khoa học,
công nghệ là điều có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc xây dựng nền
36
tảng cơ sở văn hóa. Ở đây chúng ta thấy nổi bật vị trí then chốt của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề cập một cách thấu đáo, đặc biệt là
những kiến thức thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn vần được chú
trọng hơn nữa sao cho lớp trẻ ngay từ tuổi đi học đã được thấm nhuần
những trị thức tối thiểu để “làm người”, để biết “đối nhân xử thế” hòa hợp
với tập thể, với cộng đồng sau này, biết tôn trong những quy định xã hội
một cách căn bản.
Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật
Xây dựng môi trường văn hóa, cụ thể là đẩy mạnh phong trào xây
dựng các làng xã văn hóa, ấp văn hóa, khu văn hóa, các cơ quan xí nghiệp,
trường học, doanh trại trở thành những điểm sáng văn hóa. Phong trào cần
đi vào thực chất một cách vững chắc tránh tình trạng hình thức. Phải củng
cố, hoàn thiện và phát triển một cách lành mạnh các thiết chế văn hóa tại
địa phương (bảo tàng, nhà văn hóa, phòng truyền thống, thư viện, câu lạc
bộ,…), khuyến khích các hình thức sinh hoạt văn hóa (lễ hội, hội diễn văn
nghệ,…) theo hướng phát huy tích cực chủ động, tính tự quản của nhân
dân. Trên cơ sở xây dựng tốt mới có thể chống tốt, đẩy lùi các hiện tượng
không lành mạnh trong sinh hoạt văn hóa. Ở đây, đối tượng cần quan tâm
nhiều nhất là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên – lứa tuổi dễ định hướng
phát triển theo hướng tích cực cũng như dễ rơi vào cạm bẫy, sa ngã.
Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác chăm lo đời sống văn hóa
tinh thần, phát huy tính sáng tạo của các nghệ sĩ, nhà văn hóa; vun trồng
những tài năng văn hóa nghê thuật mới; Tích cực bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa dân tộc nhằm giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trong bối
cảnh mới.
Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa việc xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần có ý nghĩa chiến lược, trở thành động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
37
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là một sự nghiệp lâu dài, cần
phải tiến hành một cách bền bỉ, vững chắc đòi hỏi phải được sự quan tâm,
nhận thức đúng đắn của toàn xã hội. Quá trình này cũng chịu sự tác động
của rất nhiều yếu tố trong đó có 4 yếu tố cơ bản sau:
1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng,
đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên ch nghĩa x
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6–1991) đã xác định nền văn
hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ
trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn
kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư an Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta l nh đạo toàn dân xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ
năm an Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng
38
định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội"[31; 114].
Tháng 7–2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX đã ra Kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4–2006)
khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội”[33; 106].
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ
và giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống
nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai các nghị quyết
của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng thời,
đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý
luận này để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020.
Dưới sự dẫn dắt, soi đường chỉ lối của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực
văn hoá tinh thần của xã hội đã có những thành tựu nổi bật có thể nêu ra
như sau:
- Tư tưởng đạo đức, lối sống có những chuyển biến quan trọng. Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt hình thành nền
tảng tư tưởng, chỉ đạo cuộc sống. Năng lực đổi mới của cán bộ, nhân dân
được nâng lên.
- Những nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức, tính tích
cực công dân, không khí dân chủ, trình độ dân trí được phát huy.
- Sự nghiệp giáo dục, khoa học đạt những thành tựu mới.
- Lĩnh vực văn học, nghệ thuật tiếp tục phát triển.
39
- Thông tin đại chúng phát triển nhanh về quy mô và số lượng.
- Giao lưu văn hoá với các quốc gia trên thế giới được mở rộng.
- Các thể chế văn hoá từng bước được hoàn chỉnh, nâng cao năng lực
quản lý và trình độ phục vụ nhân dân [14; 8].
Dưới sự tác động của các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước,
công tác văn hoá nói chung cũng như các thể chế văn hoá được mở rộng,
năng lực sáng tạo được tăng cường, quản lý nhà nước ngày càng được đề
cao đã mở ra môi trường văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng, được
hướng dẫn và định hướng ngày càng rõ nét.
Đây là sự khẳng định phương thức mới trong hoạt động văn hoá xã
hội, tạo tiền đề cho quá trình xã hội hoá đời sống văn hoá. Sự hình thành cơ
chế mới, đội ngũ mới, những thiết chế và pháp luật là những cơ sở rất quan
trọng cho bước phát triển lâu dài của đời sống văn hoá tinh thần ở nước ta.
Dựa vào quan điểm chỉ đạo của Đảng, mối quan tâm thực tế của các
cấp uỷ, chính quyền Trung ương và địa phương đối với văn hoá đã tăng
lên. Nhu cầu phát triển văn hoá trở thành mối quan tâm thường xuyên trong
mỗi gia đình và cộng đồng. Những huý kỵ đã giảm bớt (về thị trường, tự do
sáng tạo, giao lưu văn hoá…). Khối lượng sách báo, phim ảnh nghiên cứu
về văn hoá tăng nhanh, Việt Nam học, Văn hoá học từng bước được hình
thành và có vị trí. Nước ta dần có thế và lực mới để phát triển văn hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì còn một số mặt yếu
kém cần được sớm khắc phục, sửa chữa như:
- Sa sút về tư tưởng, đạo đức, lối sống; đáng chú ý là sự sa sút trong
cán bộ đảng viên.
- Thiếu những công trình văn học, nghệ thuật có sức mạnh tư tưởng và
thẩm mĩ cao.
- Sản phẩm văn hoá độc hại lan tràn trong xã hội. Hủ tục mê tín dị
đoan phát triển.
- Trình độ thông tin còn thấp.
40
- Giao lưu văn hoá tuy có phát triển nhưng vẫn còn hạn hẹp.
- Đổi mới về thể chế còn chậm. Việc tăng cường quản lý nhà nước
chưa theo kịp yêu cầu. Đầu tư ngân sách thấp. Xuất hiện sự thiếu hụt các
bộ phận văn hoá chủ chốt [14; 10-11].
1.3.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Sự tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ ảnh hưởng
to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tạo
điều kiện thay đổi về chất của nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát
triển kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết
định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác động mạnh mẽ và làm
thay đổi nhiều mặt đối với đời sống xã hội. Quá trình này không thể tách
rời việc tiếp thu, sử dụng những thành quả của khoa học, công nghệ hiện
đại.
– Khoa học và công nghệ đã và đang tăng cường khả năng truyền dẫn,
lan toả và khuyếch tán văn hoá trong quá trình phát triển. Cuộc cách mạng
về khoa học công nghệ đang hàng ngày hàng giờ thay đổi tư duy nhân loại.
Các thành quả khoa học công nghệ đã làm cho loài người xích lại gần nhau
hơn để tiếp nhận những gì mới lạ đến từ ngoài lãnh thổ. Khoa học công
nghệ đã được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, dĩ nhiên là trên “đôi
vai” của khoa học công nghệ là các giá trị văn hoá ngoại sinh thường xuyên
cùng đến với các dân tộc trên thế giới. Với những thành tựu về công nghệ
thông tin, phát thanh, truyền hình, internet, văn hoá nhân loại được lan toả
khắp hành tinh hết sức nhanh chóng, ngoài sức tưởng tượng của con người.
– Khoa học và công nghệ đang làm thay đổi căn bản đời sống văn hoá
của thế hệ trẻ hiện nay so với văn hoá truyền thống của dân tộc. Khi công
nghệ tự động phát triển, Internet cùng với điện thoại di động và truyền hình
vô cùng phổ biến đã tạo ra đời sống văn hoá mới. Khái niệm không gian và
41
thời gian thay đổi. Trái đất như nhỏ bé hơn. Cảm thức thời gian giữa hai
nửa bán cầu đã đổi khác, nghĩa là người ta thường xuyên gặp nhau hơn
bằng kỹ thuật công nghệ. Khái niệm “không gian” được mở thêm biên độ,
nhất là khi người ta là cộng đồng cư dân mạng cư trú trên những địa chỉ vô
hình và “sống thật” trong một “thế giới ảo”. Quan hệ xã hội chằng chéo
phức tạp hơn thế kỷ trước. Người ta kết bạn vô cùng vô tận trên xa lộ thông
tin thế giới. Người ta cũng học được vô số tri thức trên mạng thông tin toàn
cầu. Các yếu tố văn hoá và các yếu tố phản văn hoá đan xen dữ dội. Văn
hoá cá nhân được đề cao trên các trang web riêng tư. Dường như có một
kiểu văn hoá nhiều tầng bậc đang hình thành. Hình như đó là kiểu văn hoá
“bộc lộ” không ngại ngần của hàng triệu cư dân mạng. Nghiên cứu tiếp cận
các trạng thái văn hoá của con người hiện nay có thể thuận lợi nhiều hơn so
với thế kỷ trước.
– Khoa học và công nghệ tác động đến sự biến đổi văn hoá. ước sang
thế kỷ XXI, người ta đã chứng kiến cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ toàn cầu đang diễn ra như vũ bão. Khoa học và công nghệ đã rút ngắn
thời gian cho các quá trình sáng tạo, sản xuất, giúp con người làm việc
nhanh chóng hơn. Người kiến trúc sư giờ đây có thể không biết vẽ bằng bút
chì khi sáng tạo bản thiết kế như những năm 80 của thế kỷ trước, mà vẽ nhà
bằng công nghệ 3D. Trẻ em viết chữ xấu hơn trước và văn bản sẽ giống
nhau đồng loạt khi gõ bàn máy vi tính. Con người đã dựa vào máy tính điện
tử để làm các thuật toán sơ cấp và có thể đã không thuộc bảng cửu chương.
Xét đến cùng, giá trị then chốt của văn hoá là trí tuệ, hiểu biết phong phú
của nhân loại. Khoa học công nghệ một mặt làm cho một nhóm xã hội
thông minh hơn, mặt khác lại có thể làm cho nhiều nhóm xã hội khác
không chịu tư duy nữa. Tất cả như có thể được “lập trình”, kể cả tình yêu
và hạnh phúc gia đình.
– Khoa học và công nghệ tác động đến sự hình thành và phát triển của
thị trường văn hoá phẩm. Với những đột biến của khoa học và công nghệ,
42
thị trường văn hoá phẩm được hình thành với sự đa dạng của các sản phẩm
văn hoá đem đến cho con người. Từ hoạt động tạo tác thủ công chuyển
sang máy móc dây chuyền sản xuất, công nghệ cao, chất liệu mới, các sản
phẩm văn hoá thay đổi rất nhiều so với quá khứ, tạo ra sự hưởng thụ văn
hoá phong phú trong cộng đồng. Chỉ riêng về các sản phẩm trò chơi cho trẻ
em và các sản phẩm lưu niệm, trang trí, tranh ảnh, tượng, phù điêu, vật
phẩm trang trí nội thất... đã đem lại cho đời sống văn hoá nhiều cảm hứng
mới cho con người, tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá xã hội.
– Khoa học và công nghệ tạo ra bước nhảy vọt của ngành công nghiệp
văn hoá. Khoa học công nghệ phát triển đã đem sức mạnh đến cho ngành
công nghiệp điện ảnh những hình ảnh và âm thanh khác xa so với thế kỷ
XX. Hiệu ứng thị giác được công nghệ tiếp sức đã đạt những ấn tượng ảo
giác phi thường cho con người. Các lĩnh vực văn hoá vui chơi giải trí, văn
hoá thông tin, phát thanh, truyền hình, thông tin mạng toàn cầu... đang tác
động mạnh mẽ đến con người và cộng đồng xã hội, làm đổi thay văn hoá
một cách toàn diện và đầy bất ngờ. Nhờ khoa học và công nghệ mà thế giới
tinh thần của con người trở nên phong phú hơn bao giờ hết, làm nên sự đa
dạng văn hoá vô cùng vô tận.
Tóm lại, khoa học và công nghệ hiện nay đã tác động nhiều chiều đến
sự phát triển văn hoá, tác động đến đời sống tinh thần con người. Để phát
huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động trái chiều của khoa
học công nghệ, đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu sâu sắc và cập
nhật về từng lĩnh vực khoa học công nghệ và vận dụng phù hợp trong phát
triển văn hoá.
1.3.3. Toàn cầu hóa
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đang trong quá trình hội nhập quốc tế với các dấu hiệu như: gia tăng
thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới;
gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài;
43
gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công
nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại; Phát triển hạ tầng viễn
thông toàn cầu;… Đây là các dấu hiệu rất cơ bản cho thấy nước ta đang
nằm trong quá trình toàn cầu hóa. Hiện tượng này tác động mạnh mẽ đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả lĩnh vực văn hóa.
Văn hóa, cũng như các lĩnh vực khác, chịu sự tác động sâu sắc của quá
trình toàn cầu hóa kinh tế. Bản thân văn hóa không chỉ thể hiện ở những
sản phẩm văn hóa tinh thần, trong các hoạt động văn hóa tinh thần mà còn
ẩn chứa bên trong tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, trong tất cả các
nhóm dân cư, trong đời sống tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người,
trong các thể chế chính trị – xã hội của đất nước... Lĩnh vực sản xuất vật
chất đơn thuần cũng hàm chứa trong nó những nội dung văn hóa, phản ánh
đặc tính văn hóa của con người, của cộng đồng người trong lĩnh vực sản
xuất vật chất đó. Một sản phẩm vật chất cụ thể bao giờ cũng kết tinh những
giá trị văn hóa nào đó. Một công ty liên doanh kinh tế không phải đơn
thuần chỉ có nội dung kinh tế mà chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá,
những mối quan hệ văn hóa giữa các bên liên doanh: văn hóa giao tiếp, ứng
xử; văn hóa sản xuất, kinh doanh... và cả những yếu tố chính trị – tư tưởng.
Sự tác động của quá trình này đối với văn hóa vừa biểu hiện trên các lĩnh
vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác, vừa trực tiếp tác động đến
văn hóa, đến các giá trị văn hóa, đến phong tục tập quán, các giá trị truyền
thống và các thiết chế văn hóa của xã hội... mà hiện nay chúng ta khó có
thể lường hết được.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta nhận thức sâu
sắc rằng toàn cầu hoá là cơ hội để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy
các giá trị của mình. Song chúng ta cũng đối mặt với các thách thức to
lớn của quá trình toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống dân tộc.
Logíc tồn tại của nền văn hoá dân tộc hiện nay đang diễn ra trong hai
quá trình: Quá trình đẩy nhanh sự hợp tác trao đổi và quá trình gia tăng
44
bản sắc của dân tộc. Hai quá trình này thống nhất biện chứng trong quá
trình toàn cầu hoá. Chúng ta nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để
đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc
nhưng mở cửa để hội nhập và phát triển, mở cửa phải giữ vững nền độc
lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ được cơ cấu và giá trị
nội sinh của văn hoá dân tộc.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và trong xu thế toàn cầu
hoá, các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vất chất
và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn, tiện nghi thuận lợi hơn song nó
có khả năng thúc đẩy lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hoá nhân cách,
làm rối loạn những giá trị xã hội, nó phá vỡ sự cân bằng của môi trường
truyền thống, nó thương mại hoá không ít các hoạt động văn hoá và quan
hệ xã hội. Hệ giá trị làng xã Việt Nam với một cơ cấu cộng đồng bền chặt
đang phải thử thách trước làn sóng đầu tư trong quá trình toàn cầu hoá.
Các mối quan hệ trong gia đình, làng xóm có phần lỏng lẻo dần. Khát
vọng làm giàu của các thế hệ đặc biệt là thanh niên đang gia tăng trước
thời cơ và vận hội này với không ít lệch lạc làm thay đổi cơ cấu giá trị của
nền kinh tế cũ để chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đã tham gia hội nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái ình Dương
(APEC) Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm liên kết các giá trị
khu vực và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá gia tăng
mạnh mẽ. Chúng ta cũng bước đầu xây dựng một chiến lược giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong chiến lược này, văn hoá được
coi là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế–xã hội. Để Việt Nam phát triển được trong
quá trình toàn cầu hoá, trước hết phải quan tâm xây dựng nền văn hoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá đó xác lập hệ giá trị cơ
bản là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
45
tộc và chủ nghĩa xã hội, có chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưỏng Hồ Chí
Minh làm định hướng và thước đo giá trị.
Tuy nhiên, dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, mặt trái của
kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, thì những thách
thức đối với giá trị văn hóa truyền thống cũng gia tăng. Các nấc thang giá
trị có sự thay đổi sâu sắc, làm cho việc phân biệt đúng – sai", "tốt – xấu"
trong nhiều trường hợp trở nên hết sức phức tạp. Những yếu tố ngoại lai,
lai căng có điều kiện xâm nhập, phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
văn hóa tinh thần xã hội. Những "nọc độc" về văn hóa, chính trị thâm nhập
vào bằng nhiều con đường, với nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho
tư tưởng, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc; vấn đề "bảo vệ an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội"
được đặt ra một cách gắt gao hơn. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lối sống
vì đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, các tệ nạn xã hội... có điều kiện phát
triển. Trong bối cảnh đó, nếu không có chiến lược văn hóa phù hợp, thì sự
ảnh hưởng này sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.
1.3.4. Diễn biến hoà bình
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Các thế lực
thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn
lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi
chế độ chính trị ở nước ta” [34; 185]. Đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”
trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng quyết liệt, là
mặt trận nóng bỏng hàng đầu.
Diễn biến hoà bình được Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
thực hiện chống Việt Nam trong suốt vài thập kỷ qua. Nội dung của nó bao
gồm chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
làm cho việc thực hiện chủ trương, đường lối không thành công trên thực
tế, chống phá các cơ quan, tập thể và cá nhân lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
Chống phá hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá
46
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các giá trị văn hoá truyền
thống và cách mạng, chống phá sự nghiệp đổi mới đất nước, âm mưu làm
chệch hướng công cuộc đổi mới, ngăn trở, kìm hãm làm chệch hướng sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, chống phá sự nghiệp quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân,…
Để thực hiện các nội dung trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch sử dụng nhiều phương tiện, nhiều con đường và biện pháp phi vũ
trang rất tinh xảo, trong đó chú trọng sử dụng hệ thống thông tin – truyền
thông toàn cầu như: Đài phát thanh, truyền hình, sách, báo, tạp chí, mạng
internet,…. để tuyên truyền chống phá về chính trị, tư tưởng, tuyên truyền
chống Đảng, chống chế độ, kích động, gây hoang mang và rối loạn xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh
chiến lược “Diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
và “xâm lăng văn hóa” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và bản sắc
văn hóa Việt Nam. Chúng coi tiến hành “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tư tưởng, văn hóa là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về
lý luận và tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư
tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhằm chuyển
hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Các thế lực thù địch thâm nhập, lợi dụng một số cơ quan báo chí, xuất
bản và một số nhà báo bằng thủ đoạn nham hiểm, như: chú trọng đào tạo,
lôi kéo, “chuyển hóa tư tưởng” một số phóng viên. Thông qua “hợp tác,
giúp đỡ” về đào tạo và tiếp cận những nhà báo trẻ có tư tưởng tự do, phóng
khoáng, dễ giao lưu; từ đó lôi kéo họ làm báo theo kiểu “tự do” của phương
Tây. Ra sức thúc đẩy thành lập báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân làm cơ
quan ngôn luận cho “lực lượng dân chủ”; triệt để lợi dụng công nghệ thông
tin, mạng Internet, log… để “công bố” rộng rãi các tài liệu, văn hóa phẩm
có nội dung xấu, phản động; truyền bá thông tin, quan điểm sai trái, thù
địch và khuyến khích nhiều người lên mạng để “trao đổi”, “thu nhận”
47
thông tin; dùng báo mạng làm “nóng” các vấn đề của đất nước; đổi trắng
thay đen, tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây
rối, bạo loạn lật đổ. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, thông qua
nhiều kênh phương tiện, chúng du nhập những sản phẩm văn hóa đồi trụy,
lối sống phương Tây thực dụng, trụy lạc, coi đồng tiền là trên hết, sống ích
kỷ, phi đạo đức, không lý trí, không hoài bảo để kích động lối sống tư bản
trong thanh niên, từng bước làm phai mờ bản sắc văn hóa và giá trị văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Chúng huy động tối đa các phương tiện thông tin đại
chúng và tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động người Việt lưu
vong ở nước ngoài để chống phá Việt Nam.
Các thế lực thù địch gia tăng kích động văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác,
tự do công bố các tác phẩm văn học nghệ thuật, phản đối sự kiểm duyệt của
cơ quan Nhà nước, đòi được công khai, đánh giá lại các sự kiện, nhân vật
lịch sử theo quan điểm của phương Tây, từng bước thoát ly sự lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Tiến hành tiếp xúc, lôi kéo các phần
tử văn nghệ sĩ “cấp tiến”, văn nghệ sĩ có biểu hiện dao động chính trị, thông
qua việc mời họ ra nước ngoài giao lưu, hội thảo, tham quan, tham gia biểu
diễn nghệ thuật và trao giải thưởng cho các tác phẩm có nội dung lệch lạc,
phản động, tiêu cực; tài trợ xuất bản những cuốn sách dưới danh nghĩa “văn
hóa tri thức nhân loại” nhưng thực chất là truyền bá tư tưởng tư sản vào
nước ta. Mặt khác, chúng tăng cường tán phát băng đĩa, các bộ phim có nội
dung bạo lực, đồi truỵ gây tác động xấu đến một bộ phận giới trẻ.
48
Tiểu kết chƣơng 1
Trong nội dung của chương 1, luận văn đã phân tích một loạt những
khái niệm cơ bản như: Văn hoá, văn hóa tinh thần, đời sống văn hoá tinh
thần – cấu trúc. Đặc biệt là khái niệm xây dựng đời sống văn hoá tinh thần,
xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở cơ sở, vai trò của văn hóa tinh thần
đối với sự phát triển xã hội. Đó là những khái niệm căn bản cần phải nắm
vững khi tìm hiểu và nghiên cứu về lĩnh vực đời sống văn hoá tinh thần.
Tiếp theo, tác giả chỉ rõ mục tiêu và những nội dung cơ bản của xây dựng
đời sống văn hoá tinh thần cũng như nội dung của vấn đề xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần ở nước ta hiện nay. Quá trình xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần cũng tùy thuộc vào những yếu tố quan trọng như: đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; toàn cầu hóa; diễn biến hòa bình.
49
CHƢƠNG 2
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở TỈNH BẮC
GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc
Bắc Giang là tỉnh thuộc vùng Đông ắc Việt Nam, nằm ở toạ độ địa lý
210 vĩ độ Bắc, 106 độ kinh Ðông. Về quy hoạch kinh tế trước đây ắc
Giang nằm trong vùng trung du và miền núi phía Bắc, từ năm 2012 là tỉnh
nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang giáp với
nhiều tỉnh, thành: Phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên và thủ đô Hà Nội, phía Nam
giáp tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách
trung tâm thủ đô Hà Nội 51 km về phía Bắc. Trên địa bàn tỉnh có các
đường giao thông quan trọng như đường quốc lộ 1A (kết nối Hà Nội – Bắc
Ninh – Bắc Giang – Lạng Sơn); quốc lộ 37 (kết nối Hải Dương – Bắc
Giang – Hà Nội và Thái Nguyên); quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang đi
Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Ðộng, gặp quốc lộ 4A Lạng Sơn đi cảng Mũi
Chùa – Tiên Yên và cửa khẩu Móng Cái–Quảng Ninh; đường tỉnh lộ 279
từ Hoạ Mi – Sơn Ðộng đến Tân Sơn – Lục Ngạn; đường sắt Hà Nội – Ðồng
Ðăng (Lạng Sơn) chạy qua.
Bắc Giang có diện tích tự nhiên 382.200 ha (chiếm 1,2% diện tích tự
nhiên của Việt Nam), trong đó đất nông nghiệp 123.000 ha, đất lâm
nghiệp 110.000 ha, đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở 66.500 ha, còn lại
khoảng 82.700 ha là các loại đất khác [106; 1].
Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi
phía Bắc với châu thổ sông Hồng ở phía Nam. Tuy phần lớn diện tích tự
nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt
nhiều. Bắc Giang nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung và cùng mở ra
như nan quạt, rộng ở hướng Đông ắc, chụm ở phía Tây Nam. Phía Đông
50
và Đông Nam tỉnh là cánh cung Đông Triều với ngọn núi Yên Tử nổi tiếng,
cao trung bình 300 – 900m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068
m. Phía Tây Bắc là dãy núi cánh cung Bắc Sơn ăn lan vào tới huyện Yên
Thế, cao trung bình 300 – 500m. Tại vùng núi phía Đông ắc tỉnh, giáp
với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với
hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài
cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.
Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông, suối trong đó ba sông lớn
là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Ngoài sông suối, Bắc Giang
còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm
Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000
ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 20 dân tộc chung sống như: Kinh, Tày,
Hoa, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Mường, Thái, Khơ Me, H’Mông,...
trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số (84,1%); các dân tộc chiếm tỉ lệ nhỏ
là Khơ–me (0,002%), H’Mông (0,002%), Thái (0,004%).
Dân số toàn tỉnh (tính đến hết năm 2010) là 1.567.557 người, mật độ dân số bình quân là 408,1 người/km2, cao hơn so với bình quân của
khu vực và cả nước. Dân số sống ở khu vực thành thị khoảng 151.000
người, chiếm khoảng 9,62% dân số, dân số ở khu vực nông thôn là
1.416.614 người, chiếm 90,38%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,85%
dân số, nữ giới khoảng 50,15% dân số. Số người trong độ tuổi lao động
chiếm khoảng 64,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề
chiếm 24%; số hộ nghèo chiếm 9,78%[106; 2].
2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội
+ Về phát triển kinh tế
Các doanh nghiệp sản xuất thuộc các lĩnh vực như may mặc, điện tử,
hóa chất vẫn sản xuất ổn định và có mức tăng trưởng khá, một số doanh
nghiệp lớn tiếp tục đầu tư thêm cho sản xuất. Các cụm công nghiệp, khu
51
công nghiệp tiếp tục được mở rộng cũng như xây mới như: Khu công
nghiệp Đình trám, khu công nghiệp Vân trung, khu công nghiệp Quang
châu... Điều này làm cho nền kinh tế ở Bắc Giang có sự phát triển rõ rệt.
Các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đều có
sự phát triển nhất định. Đặc biệt là các làng nghề truyền thống như làng
mỳ, làng bánh đa, làng mộc,... có sự phát triển rất mạnh mang lại nguồn thu
nhập khá lớn cho người dân.
Bên cạnh những mặt tích cực do sự phát triển kinh tế mang lại, nó còn
có những yêu tố tiêu cực tác động sâu sắc đến đời sống văn hoá tinh thần
của người dân Bắc Giang. Vì vậy cần phải có những biện pháp cụ thể và
cần thiết để bảo vệ và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của người dân
Bắc Giang.
+ Về tôn giáo, tín ngưỡng
Bắc Giang có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo. Đối với Phật
giáo, hiện nay trên toàn tỉnh Phật giáo có 118 chức sắc, 784 ngôi chùa, có
165.993 phật tử. Đạo Công giáo hiện có 14 giáo xứ, 78 họ đạo, 78 cơ sở
thờ tự (55 nhà thờ, 13 nhà nguyện), 13 linh mục, 348 chức việc, 80 ban
hành giáo, 26.702 giáo dân phân bố ở 58 xã, phường, thị trấn.
Nhìn chung, những năm vừa qua tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh
tương đối ổn định. Về cơ bản, chức sắc và tín đồ các tôn giáo hoạt động
tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật; không có hiện tượng truyền đạo trái
phép; chức sắc và tín đồ các tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo, tham gia tích
cực vào các phong trào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương[3; 1].
Hiện các tín ngưỡng, tôn giáo với những quy định, lệ tục của mình có
ảnh hưởng không nhỏ đối với lối sống, đạo đức và chuẩn mực xã hội. Bên
cạnh yêu tố tác động tích cực vẫn còn tác động tiêu cực của tín ngưỡng, tôn
giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Cụ thể như: Các
thành phần xấu lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, các cá nhân lợi
dụng tín ngưỡng tôn giáo vào mục đích mưu lợi cá nhân....
52
+ Về giáo dục – đào tạo
Ngành giáo dục và đào tạo phối hợp với các địa phương tiếp tục chỉ
đạo các đơn vị tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2013–2014. Tổ
chức kiểm tra, bồi dưỡng công tác quản lý, chuyên môn cho các cán bộ
quản lý, giáo viên các cấp; ban hành hướng dẫn và tổ chức sinh hoạt cụm
chuyên môn cấp THPT và THCS; chỉ đạo các đơn vị tiếp tục triển khai
công tác tự đánh giá ngoài theo ộ tiêu chuẩn mới; kiểm tra, chấn chỉnh,
xử lý vi phạm về thu chi tài chính, dạy thêm học thêm trong các cơ sở
giáo dục...
+ Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao
Chủ yếu tập trung vào tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
tình hình kinh tế – xã hội của địa phương; các hoạt động văn hóa, phát
thanh, truyền hình, báo chí luôn cập nhật những thông tin trong và ngoài
nước.
Trong lĩnh vực thể dục, thể thao, đã tổ chức thành công Đại hội thể
dục thể thao các huyện, thành phố và Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh lần
thứ VII. Đồng thời, tham gia thi đấu một số giải thể thao toàn quốc như giải
Vô địch Đẩy gậy, giải Cầu lông trung, cao tuổi...
Bắc Giang có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được quy tụ và
thể hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của cộng
đồng mỗi dân tộc; biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín
ngưỡng, tôn giáo ở lễ hội truyền thống. Hội làng tồn tại hàng ngàn năm với
các nghi lễ, nội dung, hình thức riêng song mục đích chính của lễ hội đều
nhằm giúp cho sự thống nhất, đoàn kết trong cộng đồng làng xã, giáo dục
truyền thống văn hoá, lịch sử, truyền thống chống ngoại xâm, truyền thống
hiếu học, phát triển ngành nghề. Hàng năm, ắc Giang có hơn 500 lễ hội
truyền thống được tổ chức; một số lễ hội tiêu biểu ở Bắc Giang như: Lễ hội
Yên Thế, lễ hội Xương Giang, lễ hội Suối Mỡ, lễ hội Thổ Hà, lễ hội chùa
Bổ Đà, lễ hội Chùa La (Vĩnh Nghiêm), lễ hội Tiên Lục, lễ hội Cầu Vồng, lễ
53
hội An Châu…
Bắc Giang có hàng nghìn công trình tôn giáo, tín ngưỡng cổ đặc sắc
với nhiều loại hình khác nhau như: Đình, đền, chùa, miếu, phủ, từ đường,
văn chỉ, lăng… Mặc dù đã bị mai một đi nhiều do chiến tranh, song những
công trình còn lại như: Đình Lỗ Hạnh (Đồng Lỗ – Hiệp Hoà), xây năm
1576; đình Thổ Hà (Vân Hà – Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão
(Đào Mỹ – Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Cao Thượng, đình
Vường, đình Hả (Tân Yên); chùa Vĩnh Nghiêm (Trí Yên – Yên Dũng);
chùa Bổ Đà (Việt Yên); lăng họ Ngọ, lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa)… đã
thể hiện những dấu ấn lịch sử – văn hóa, nghệ thuật hội họa, điêu khắc
tuyệt tác của người Bắc Giang.
Bắc Giang cũng là nơi có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú như:
truyện thần thoại, truyện cổ tích, huyền thoại, giai thoại, truyện cười, tục
ngữ, ca dao, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát quan họ, chèo, ca trù và dân
ca của các dân tộc thiểu số. Dân ca Quan họ đã được UNESCO công nhận
là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và ca trù là Di sản văn
hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Bắc Giang có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: khu thắng
cảnh Suối Mỡ (huyện Lục Nam); hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần (huyện Lục
Ngạn); rừng nguyên sinh Khe Rỗ, khu bảo tồn Tây Yên Tử (huyện Sơn
Động) với những hệ động, thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều
loại sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam đang được bảo tồn. Đó
là điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển nhiều loại hình du lịch.
Có thể thấy rằng, Bắc Giang là một vùng đất có bề dày lịch sử, có
truyền thống văn hiến lâu đời. Các dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh có
truyền thống đoàn kết, yêu nước, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
cũng như cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc, những di tích lịch sử – văn
hóa, những tên đất, tên người đã chứng minh, ở bất kỳ giai đoạn nào của
54
lịch sử Bắc giang cũng là một mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và
văn hiến. Mỗi dân tộc sinh sống lâu đời trên đất Bắc Giang đều có truyền
thống tốt đẹp, mỗi địa phương trong tỉnh đều có tiềm năng phát triển. Mặc
dù trải qua những thăng trầm của lịch sử, nhân dân các dân tộc trong tỉnh
đã luôn hòa mình cùng nhân dân của nước chiến đấu, chiến thắng thiên tai,
địch họa, giữ vững và phát huy những tinh hoa văn hóa của cả cộng đồng
nói chung và của các dân tộc nói riêng.
2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh
Bắc Giang hiện nay
Trong thời gian qua, công tác xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở
Bắc Giang đã được các cấp uỷ đảng, chính quyền, các đoàn thể và quần
chúng nhân dân quan tâm xây dựng rộng khắp trên toàn tỉnh. Các chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng đời sống văn hoá ở Bắc Giang được
thực hiện nghiêm túc và hiệu quả với các dự án, đầu tư tập trung vào những
khu vực gặp khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số. Việc đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của
các thiết chế văn hoá được chú ý. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông
tin đại chúng, tuyên truyền cổ động của Trung ương, địa phương hướng về
cơ sở và hoạt động văn nghệ quần chúng đã đạt nhiều kết quả tốt. Hệ thống
các thiết chế văn hoá ở Bắc Giang như nhà văn hoá, sân thể thao, câu lạc
bộ, trung tâm văn hoá, nhà giáo dục cộng đồng…đã được xây dựng rộng
khắp làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng của phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Hầu hết các đơn vị cơ sở đều có các
hoạt động văn hoá, nhân dân được đọc sách báo, nghe đài, xem vô tuyến,
xem biểu diễn nghệ thuật, xoá các “điểm trắng” về hoạt động văn hoá
thông tin. Các phong trào “xây dựng nếp sống văn minh”, “gia đình văn
hoá”, “làng văn hoá”…đã tạo nên sự chuyển biến trong ý thức của cộng
đồng dân cư về vai trò của văn hoá và cuốn hút sự tham gia đông đảo của
các tầng lớp nhân dân.
55
Chính sách xã hội hoá hoạt động văn hoá thông tin ở Bắc Giang đã
huy động được rất nhiều đóng góp của nhân dân vào xây dựng cơ sở hạ
tầng và thiết chế văn hoá trong tỉnh, tạo nên sự thay đổi nhanh chóng đời
sống văn hoá của cộng đồng dân cư. Đời sống văn hoá tinh thần ở Bắc
Giang đã được nâng lên tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống, góp
phần phát huy dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ gìn an ninh, trật tự an
toàn xã hội, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.
Thông qua việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, các yếu tố văn
hoá và nhân tố con người đã được phát huy tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết các chính sách xã hội.
Thông qua quá trình lãnh đạo, triển khai thực hiện chủ trương xây
dựng đời sống văn hoá tinh thần, nhất là các phong trào xây dựng gia đình
văn hoá, làng văn hoá, khu phố văn hoá, cơ quan, đơn vị văn hoá, doanh
nghiệp văn hoá đã góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển văn hoá, làm
cho văn hoá thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, từng bước xây dựng nếp
sống văn minh và môi trường văn hoá tinh thần lành mạnh; góp phần giữ
gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống
tinh thần cho các tầng lớp cư dân trong Tỉnh.
Những điểm tích cực và hạn chế trong quá trình xây dựng đời sống đời
sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang được biểu hiện cụ thể ở 5 lĩnh
vực dưới đây:
2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng
*Thành tựu và nguyên nhân:
Muốn phát triển kinh tế xã hội, muốn xây dựng đời sống văn hoá trong
sạch, lành mạnh trước hết phải tạo lập cho được một môi trường chính trị
lành mạnh và nhân văn. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và ảnh
hưởng của việc giữ vững ổn định chính trị làm cơ sở cho sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa của thành phố, từ khi đổi mới, các cấp ủy
Đảng của tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức các hoạt động chính trị của
56
tỉnh một cách đầy đủ và có chất lượng. Công tác tư tưởng được thực hiện
một cách khoa học, có tác dụng chỉ đạo, khơi nguồn cho hoạt động chính
trị đều khắp ở các địa phương, các đơn vị. Hàng năm đã tổ chức các đợt
sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ tỉnh về học tập, triển khai
thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Thường xuyên thông báo tình hình thời
sự trong nước và quốc tế, phổ biến tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Việc triển khai thi hành Hiến pháp đã được Ủy ban nhân dân Tỉnh
quan tâm chỉ đạo triển khai, quán triệt, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội
dung Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức viên chức,
lực lượng vũ trang và người lao động, do vậy Bắc Giang là địa phương
thực hiện triển khai thi hành Hiến pháp sớm trong tốp đầu của cả nước và
tổ chức tập trung quy mô toàn Tỉnh; Chất lượng công tác xây dựng, theo
dõi thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp
luật từng bước được nâng lên, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống
văn bản pháp luật của tỉnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở
địa phương; Các sở, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện thành phố đang
khẩn trương tiến hành rà soát, lập danh mục đề xuất văn bản pháp luật cần
bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với quy định của Hiến
pháp và văn bản của Trung ương.
Công tác cải cách hành chính và đấu tranh chống tham nhũng có nhiều
cố gắng trong triển khai thực hiện. Việc giải quyết thủ tục hành chính tại
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả các cấp tiếp tục được duy trì và từng
bước có chuyển biến tích cực. Các địa phương đã chú trọng triển khai ứng
dụng mô hình một cửa điện tử liên thông hiện đại giữa Uỷ ban nhân dân
các huyện, thành phố với các xã, phường, thị trấn, nhằm giảm thời gian chờ
đợi của tổ chức và người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính. Bên
cạnh đó, công tác kiểm tra cải cách hành chính và kiểm tra đột xuất việc
chấp hành quy tắc ứng xử, chấp hành chế độ công vụ, công chức của công
57
chức, viên chức tại các cơ quan đơn vị được đẩy mạnh. Qua đó kịp thời
chấn chỉnh tác phong, thái độ, ứng xử của đội ngũ công chức, viên chức
trong thực thi nhiệm vụ.
Ở mỗi địa phương cơ sở, trong từng đơn vị công tác, không khí dân
chủ được phát huy mạnh mẽ theo phương châm dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" là những điểm mới, trái ngược với sự quan liêu, sách
nhiễu, cửa quyền... trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trước đây, tạo
điều kiện cho người dân được trực tiếp biết đến những chủ trương, kế
hoạch hoạt động của đơn vị, tổ chức; được đóng góp ý kiến xây dựng biện
pháp hành động; được trực tiếp tham gia các hoạt động, tham gia vào việc
kiểm tra, đánh giá hoạt động của đơn vị. Những nét mới này đem lại cho
người dân trong toàn tỉnh niềm tin tưởng phấn khởi và ý thức lao động sáng
tạo, phát huy năng lực của mình đóng góp vào sự phát triển chung của quê
hương.
Có thể nói, ở lĩnh vực chính trị, tư tưởng, trong thời kỳ đổi mới, đặc
biệt là những năm gần đây, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có
nhiều cố gắng trong việc giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức đảng
viên. Có sự thống nhất tư tưởng trong Đảng về chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, về quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, vì vậy
đã tạo được sự ổn định chính trị – xã hội của tỉnh. Sự vươn lên mạnh mẽ
của tỉnh trong những năm qua là kết quả tất yếu bởi được tạo đà phát triển
từ một nền tảng chính trị – tư tưởng vững chắc.
Nguyên nhân c a những thành tựu trên:
Các cấp uỷ đảng, chính quyền đã vận dụng sáng tạo, phù hợp các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với điều
kiện cụ thể của địa phương. Đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo
trong lao động, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
58
Tỉnh uỷ và các cấp, các ngành đã có sự đổi mới trong lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành, bám sát mục tiêu Đại hội đề ra, cụ thể hoá các mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp thành các chương trình, kế hoạch, đề án; thường xuyên
đôn đốc, kiểm tra tổ chức thực hiện; định kỳ sơ kết, tổng kết đánh giá rút
kinh nghiệm.
Được sự quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương trên lĩnh vực
này.
*Hạn chế và nguyên nhân:
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa theo kịp tình hình, có lúc,
có nơi còn bị xem nhẹ. “Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức H Chí Minh" ở một số nơi chưa đi vào chiều sâu. Tính tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Chất lượng sinh
hoạt chi bộ có nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác phát triển
đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, địa bàn nông thôn, miền
núi còn khó khăn. Việc đánh giá chất lượng, phân loại tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên một số nơi làm chưa thực chất”[23; 10].
Một bộ phận cán bộ đảng viên xa rời quần chúng, có biểu hiện lệch lạc
về mặt tư tưởng, thoái hoá, biến chất làm mất niềm tin của nhân dân vào
đội ngũ cán bộ.
Sự am hiểu về hiến pháp và pháp luận của nhân dân trong Tỉnh còn
hạn chế ở một số nơi như vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Thủ
tục hành chính tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều thiếu
sót gây mất thời gian, công sức của nhân dân; Tình trạng tham nhũng có
giảm so với thời gian trước nhưng vẫn còn cao, chỉ riêng 6 tháng đầu năm
2014 qua thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đã phát hiện sai phạm với số
tiền 26.3 tỉ đồng và 134.644 m2 đất các loại; kiến nghị thu hồi về ngân sách
nhà nước 3,5 tỷ đồng; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cơ
quan có thẩm quyền xử lý 22,8 tỷ đồng; ban hành 352 quyết định xử phạt
vi phạm hành chính với số tiền 1,2 tỷ đồng; kiến nghị cơ quan có thẩm
59
quyền xử lý hành chính đối với 02 tập thể, 30 cá nhân có các hành vi sai
phạm bị phát hiện qua thanh tra[25; 10].
Nguyên nhân c a một số hạn chế:
Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động
tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý
thức tư tưởng của nhân dân ta.
Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong đảng và bộ máy
nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều
cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và
các đoàn thể rất yếu.
Công tác giáo dục tư tưởng chưa được đề cao và thực hiện có hiệu
quả.
Từ những hạn chế trên đòi hỏi cấp bách là phải có biện pháp chấn
chỉnh, sửa đổi ngay để tạo nên sự ổn định trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Tạo điều kiện quan trọng để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong
sáng, lành mạnh, tốt đẹp trong thời gian tới.
2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống
Thành tựu và nguyên nhân:
Với xu hướng phát triển của xã hội đã làm hình thành những nét mới
trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức, trước hết là ở tính năng động,
tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được
khuyến khích trên nhiều lĩnh vực: công tác, học tập, tham gia hoạt động xã
hội. Đây là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong
những năm gần đây, đóng góp quan trọng cho kinh tế của toàn Tỉnh: “Năm
2013, tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân 9%/năm; trong đó: Nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản tăng 1,7%; Công nghiệp – xây dựng tăng 13,9%; Dịch
vụ tăng 8,1%”[23; 1].
Những hoạt động tích cực nhằm xây dựng đạo đức, lối sống mới còn
được thể hiện rõ nét ở thế hệ trẻ – đại diện của tương lai với khả năng tiếp
60
thu nhanh những kiến thức mới, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hàng năm, cơ quan Đoàn các cấp tổ chức nhiều
lớp tập huấn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhiều mô
hình phát triển kinh tế giỏi của đoàn viên được thăm quan và học tập.
Những hoạt động này tác động không nhỏ vào thay đổi tư duy, lề lối làm
việc, ý thức của thế hệ trẻ tạo động lực, môi trường tốt cho sự hình thành,
phát triển của một nền đạo đức, lối sống mới.
Thành quả nổi bật nhất trong lĩnh vực đạo đức xã hội được thể hiện
thông qua việc hình thành ý thức đạo đức mới, thiết lập các mối quan hệ,
xây dựng các hành vi ứng xử cộng đồng của mọi người dân. Phát huy
truyền thống đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau theo tinh thần "lá lành
đùm lá rách , hàng loạt các phong trào hoạt động được tổ chức và triển
khai một cách thường xuyên, sâu rộng đã cho những kết quả rất tốt đẹp. Đó
là các phong trào Đền ơn đáp nghĩa , Xóa đói giảm nghèo", "Uống nước
nhớ nguồn", giúp nhau làm kinh tế gia đình, cứu trợ đồng bào vùng thiên
tai, bão lụt, giúp đỡ đồng bào vùng sâu vùng xa kinh tế còn khó khăn...
cùng một số các hoạt động từ thiện, khuyến học, giúp đỡ trẻ em mồ côi, tàn
tật và người già cô đơn..., xây dựng nếp sống văn minh trong ma chay, cưới
xin... Kết hợp lồng ghép với các phong trào trên là các phong trào xây dựng
nếp sống văn minh, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa , làng
văn hóa, gia đình văn hóa. Những hoạt động này được nhân dân trong Tỉnh
hết sức ủng hộ và thực hiện tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến đạo đức,
lối sống trong xã hội.
Trong môi trường giáo dục – đào tạo, vấn đề chăm lo, xây dựng đạo
đức, lối sống cho học sinh, sinh viên được đề cao. Công tác đấu tranh
phòng chống các tệ nạn xã hội tại các trường học được thiện nghiêm túc,
kịp thời đề ra những giải pháp nhằm ngăn chặn. Học sinh, sinh viên tích
cực học tập, rèn luyện bản thân thông qua các hoạt động của các đoàn thể.
61
Công tác tuyên truyền, nếu gương người tốt, việc tốt được Sở thông tin
– truyền thông của Tỉnh đẩy mạnh trên các phương tiện thông tin đại chúng
nhằm giáo dục nhân dân trong Tỉnh nâng cao ý thức đạo đức, lối sống bản
thân.
Một số vấn đề xã hội có ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng môi
trường đạo đức ổn định, trong sạch như: giải quyết công ăn việc làm, chăm
sóc sức khỏe cho người dân, phòng chống tệ nạn xã hội cũng được Tỉnh hết
sức quan tâm.
Nguyên nhân c a các thành công trên lĩnh vực đạo đức, lối sống là:
Công tác giáo dục và xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh với đấu
tranh khắc phục các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của nhân dân
được kết hợp chặt chẽ.
Việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên được phát huy hiệu quả. Có tác dụng
làm gương cho nhân dân noi theo.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ được nhà trường,
gia đình quan tâm, tăng cường và đổi mới cho phù hợp với sự phát triển
của xã hội. Thông qua các hoạt động giáo dục, các phong trào đã tạo môi
trường lành mạnh để thế hệ trẻ rèn luyện, trưởng thành, góp phần hình
thành đạo đức cao đẹp, lối sống lành mạnh, từng bước hoàn thiện nhân
cách.
Bên cạnh các thành tựu đạt được không thể không nhắc đến các hạn chế
còn tồn tại trên lĩnh vực đạo đức, lối sống cần có giải pháp giải quyết. Cụ thể đó
là: Tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn ở mức cao, tình trạng mất cân bằng giới tính có
chiều hướng gia tăng, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được đảm bảo, giảm
nghèo chưa thực sự bền vững, còn tình trạng tái nghèo.
Tình trạng học sinh phổ thông kết bè, kéo cánh, hùa vào những việc xấu
như đánh nhau, trốn học, la cà quán xá, thậm chí nghiện ngập xuất hiện trên địa
bàn Tỉnh không phải là con số nhỏ.
62
Đặc biệt nghiêm trọng là tệ nạn mại dâm, nghiện hút vẫn tồn tại và diễn ra
hết sức phức tạp đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu để tạo ra đời sống
văn hóa lành mạnh.
Nguyên nhân của các hạn chế nói trên: Do điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ
tầng miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn;
trình độ dân trí thấp, tập tục xã hội lạc hậu, tính ỷ lại còn khá phổ biến trong
đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó là việc thực hiện chính sách xã hội để
xảy ra sai lầm ở một số nơi. Những điều này làm cho vấn đề đạo đức, lối sống
vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục sớm nhất có thể. Thêm nữa công tác
giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao nhận thức cho nhân dân trong Tỉnh chưa
đủ mạnh đặc biệt là ở miền núi, vùng xâu, gây ra những hệ luỵ trên lĩnh vực
này.
2.2.3. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng
*Thành tựu và nguyên nhân:
Bắc Giang với đặc thù là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía bắc đất
nước với sự cư trú của đông đảo đồng bảo dân tộc thiểu số tạo nên một đời
sống tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán rất đa dạng và phong phú ở
nơi đây. “Trong Tỉnh hiện có 2 tôn giáo chính đó là Phật giáo và Công giáo
với hơn 186000 tín đồ chiếm hơn 11% dân số toàn tỉnh”[4; 2].
Được sự quan tâm của Ban Tôn giáo Sở nội vụ tỉnh phối hợp với các
tổ chức chính trị xã hội, quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng
đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của các
dân tộc: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động bà con nông dân là tín
đồ các tôn giáo hăng hái thi đua yêu nước, tích cực tham gia thực hiện có
hiệu quả phong trào: “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư”, “sống tốt đời đẹp đạo”; đẩy mạnh phong trào chống tội phạm, ma
tuý, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới, hàng năm bà con giáo dân đều
đăng ký và đạt danh hiệu gia đình văn hoá, ký cam kết nói không với các tệ
nạn xã hội, tham gia vào các tổ liên quan tự quản; xây dựng và thực hiện
63
tốt các quy ước, hương ước của thôn xóm, khu dân cư trong việc cưới, việc
tang và lễ hội, không mê tín dị đoan trong hoạt động tín ngưỡng…đã góp
phần tích cực trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và đẩy lùi
các tệ nạn xã hội xây dựng địa bàn dân cư trong sạch, vững mạnh, tạo hình
ảnh đẹp về tinh thần lương giáo đoàn kết gắn bó, giúp đỡ nhau trong cộng
đồng. Hàng chục km đường, nhiều công trình điện, hàng trăm công trình
văn hoá đã được nhân dân và các tín đồ tôn giáo đóng góp xây dựng với
hàng chục tỷ đồng, bộ mặt thôn xóm khang trang, đời sống không ngừng
được cải thiện, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.
Nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, nâng cấp, xây dựng mới đã tạo điều kiện để
đồng bào Công giáo thực hiện việc đạo, chấp hành tốt đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Điển hình như họ đạo
Cầu Chính xã Tân Dĩnh, họ Trám, họ Sàn xã Mỹ Hà, họ đạo thôn Tây, xã
Tiên Lục (Lạng Giang), bà con giáo dân xã Châu Minh (Hiệp Hoà) đóng
góp xây dựng một trường học trị giá hàng tỷ đồng, bà con giáo dân Tam Dị
(Lục Nam)… Trên nền tảng đó, với sự quyết tâm cao độ, Sở văn hóa – thể
thao – du lịch tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo xây dựng phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” sôi động, có sức lan toả và thấm sâu
đến mọi mặt đời sống xã hội ở từng cơ sở.
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, Ban tôn giáo Sở nội vụ và
các tổ chức chính trị xã hội của Tỉnh tiếp tục phối hợp tuyên truyền giáo
dục chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, vận động các tín đồ tôn
giáo tích cực đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, dân
tộc nhằm chống phá cách mạng; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống, đạo đức lành mạnh của tôn giáo, làm cho tín đồ tôn giáo gắn
bó với dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng theo hướng bám sát thực tiễn,
bám sát cơ sở, nắm bắt kịp thời diễn biến. Dự báo đúng chiều hướng tư
tưởng của các tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc trên địa bàn trọng điểm để chỉ
64
đạo, kịp thời cùng với tăng cường đối thoại, thuyết phục: công tác tư tưởng
gắn với công tác tổ chức, nói đi đôi với làm, phát hiện kịp thời, cổ vũ động
viên, nhân rộng các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến trong đồng bào các
tôn giáo; tiếp tục triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho nông dân và hội viên nông dân
vùng đồng bào có đạo, tạo sự đồng thuận, đoàn kết giữa các tôn giáo và
trong cộng đồng dân cư cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và bồi
dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, thành phố và đội ngũ
tuyên truyền viên cấp xã, phường, thị trấn.
Sự phối hợp trên đã đạt được những kết quả: giúp cho đồng bào các tôn
giáo nâng cao nhận thức, hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình. Đồng
thời động viên đồng bào tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo” tích cực tham gia
các phong trào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa bàn dân cư.
Nguyên nhân của những thành công trên lĩnh vực này là:
Công tác tuyên truyền quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng được Tỉnh thực hiện tốt góp phần
nâng cao nhận thức của đồng bào tôn giáo góp phần giữ vững ổn định
chính trị, động viên đồng bào tôn giáo tích cực tham gia xây dựng quê
hương.
Công tác chăm lo đời sống vật chất cho đồng bào tôn giáo được chú
trọng, Ban tôn giáo Sở nội vụ Tỉnh tích cực nhân rộng các phong trào
“Xóm đạo bình yên”, “Chùa cảnh văn hóa”, “Gia đình công giáo gương
mẫu”….
Vấn đề quản lý tôn giáo, tín ngưỡng được Tỉnh quan tâm và có
những quy chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng tập chung đông
đồng bào tôn giáo; công tác quản lý được tiến hành đồng bộ, xác định rõ
65
ràng chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức khắc phục tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm gây phiền hà cho đồng bào tôn giáo.
*Hạn chế và nguyên nhân:
Tuy nhiên, ngoài những yếu tố tích cực thì đời sống tôn giáo,
tín ngưỡng ở Bắc Giang có những dấu hiệu tiêu cực ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển kinh tế, xã hội, làm biến dạng ý nghĩa nhân văn,
mất dần những giá trị truyền thống. Những biểu hiện tiêu cực đó là:
Hoạt động mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh. Đặc biệt một số kẻ
xấu lợi dụng sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ người có
công với nước, Đạo giáo phù thủy... để tổ chức các hoạt động nhằm
trục lợi riêng. Lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng vào mục đích xấu.
Nguyên nhân của các hạn chế trên là do: Nhận thức của đồng bào dân
tộc thiểu số ở một số nơi còn hạn chế, hủ tục chưa được bãi bỏ. Ở một số
địa phương công tác quản lý của các cấp chính quyền còn lỏng lẻo chưa
hiệu quả trên lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng.
2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ
*Thành tựu và nguyên nhân:
Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này, sự nghiệp giáo dục –
đào tạo, khoa học – công nghệ được Tỉnh đặc biệt chú trọng và đã có
những bước phát triển mới. Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển. Toàn
tỉnh hiện có 838 cơ sở giáo dục và đào tạo. Mạng lưới các trường được bố
trí hợp lý, bảo đảm mỗi xã có đủ 03 trường (mầm non, tiểu học, trung học
cơ sở); cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được đầu tư nâng cấp theo hướng
kiên cố, hiện đại và từng bước chuẩn hoá, cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu học
tập của người dân; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 80%, vượt mục tiêu đề
ra. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục phát triển về số lượng và tiếp
tục nâng cao về chất lượng, 100% đội ngũ cán bộ, giáo viên đã đạt chuẩn
và trên chuẩn. Công tác quản lý giáo dục và phương pháp dạy học có nhiều
66
đổi mới. Chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học có nhiều chuyển biến
tiến bộ. Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia năm 2015 xếp thứ 11/63 tỉnh,
thành phố trong cả nước; hằng năm có trên 10 nghìn học sinh đỗ đại học,
cao đẳng.
Chất lượng giáo dục toàn diện, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, học
sinh năng khiếu đạt kết quả đáng khá. Việc tổ chức xét tốt nghiệp THCS,
bổ túc THCS nghiêm túc, đánh giá đúng thực chất; tổ chức kỳ thi tốt
nghiệp THPT năm 2013–2014 đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế,
tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt khá cao; Năm 2014: “Cơ sở vật chất, quy mô mạng
lưới trường, lớp học tiếp tục được quan tâm đầu tư theo hướng kiên cố hoá,
chuẩn hoá và hiện đại hoá; tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học bậc mầm non
đạt 67,6%, khối tiểu học đạt 84,9%, khối THCS, THPT đạt 92,4%; tỷ lệ
trường đạt chuẩn quốc gia chiếm 73,4%; Công tác phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 được
chỉ đạo tích cực, trong đó: phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đạt sớm
trước 01 năm so với kế hoạch, 163/230 xã phường, thị trấn đạt phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2, vượt 12 xã so với kế hoạch”[99; 6]. Xã
hội hóa giáo dục, đào tạo tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào khuyến học,
khuyến tài, xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học phát triển sâu
rộng. Tại các cấp học, trường học đều phát động, triển khai các phong trào
thi tìm hiểu pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
viên, học sinh. Tổ chức các cuộc thi học sinh, sinh viên thanh lịch nhằm
giáo dục nhận thức thẩm mỹ và phong cách ứng xử trong cuộc sống... Các
hoạt động này tạo ra những sân chơi bổ ích, sinh hoạt văn hóa lành mạnh
nhằm phát triển con người toàn diện. Thông qua các hoạt động này, mối
quan hệ giáo viên – học sinh được cải thiện, kỷ cương trật tự học đường
được xây dựng củng cố. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh nhằm ngăn chặn
và đẩy lùi tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy học đường được đẩy mạnh.
67
Mô hình giáo dục toàn diện được xác lập và được nhân dân tin tưởng,
ủng hộ. Các hội khuyến học được thành lập là nguồn trợ giúp lớn lao về cả
vật chất và tinh thần đối với học sinh nghèo vượt khó, con em các gia đình
chính sách và các tài năng trẻ..., do vậy thu hút được sự đồng tình ủng hộ
của mọi tầng lớp, mọi tổ chức xã hội, thúc đẩy các cá nhân, gia đình chủ
động tích cực kết hợp cùng nhà trường và xã hội tạo nên môi trường giáo dục
toàn diện cho học sinh.
Công tác đào tạo nghề được quan tâm đầu tư, từng bước gắn kết giữa
cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm;
mỗi năm, các cơ sở trên địa bàn đào tạo nghề cho gần 3 vạn lao động, ước
đến hết năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 50,5%[24; 6].
Khoa học, công nghệ có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh
tế – xã hội của Tỉnh. Tích cực triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ
trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội
của Tỉnh. Đã ứng dụng các loại giống mới, quy trình kỹ thuật tiên tiến gắn
với áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Một số đề tài, dự án cải
tiến kỹ thuật trong nông nghiệp được triển khai áp dụng có hiệu quả ở địa
phương, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Nhiều sáng
kiến, giải pháp công nghệ tiên tiến được ứng dụng trong lĩnh vực công
nghiệp, y tế, giáo dục, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và
nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ người dân. Hoạt động tiêu chuẩn,
đo lường, chất lượng được đẩy mạnh, quan tâm triển khai áp dụng tiêu chuẩn
ISO trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và xây dựng sản phẩm chứng
nhận hợp chuẩn. Đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng phát triển; trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh được nâng lên, đóng
góp tích cực vào việc xây dựng các cơ chế, chính sách của địa phương và tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
68
Một số tiến bộ kỹ thuật mới về biện pháp canh tác, giống cây trồng,
vật nuôi được đưa vào ứng dụng và nhân ra đại trà. Một số doanh nghiệp
được hỗ trợ đầu tư cải tiến công nghệ, tạo sản phẩm mới, nâng chất lượng.
Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến đã được áp dụng ở nhiều cơ quan nhà
nước và doanh nghiệp. Một số sản phẩm hàng hoá được hỗ trợ xây dựng
thương hiệu sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động khoa
học xã hội, quản lý góp phần tích cực vào việc phát huy nhân tố con người.
Nguyên nhân dẫn đến các thành công trên lĩnh vực này là:
Bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của học sinh, sinh viên trong
Tỉnh và sự quan tâm chăm lo của các cơ quan, đoàn thể đối với lĩnh vực
này.
Nhờ những cố gắng phấn đấu vươn lên của ngành giáo dục, đồng
thời có sự quan tâm liên kết của các cấp, các ngành, hoạt động giáo dục –
đào tạo của tỉnh trong những năm gần đây có sự phát triển hơn hẳn cả về
quy mô và chất lượng đào tạo.
Việc cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về
phát triển giáo dục – đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng
đầu” được các cơ quan lãnh đạo Tỉnh thực hiện nghiêm túc có hiệu quả. Việc
xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch và chương trình phát
triển giáo dục – đào tạo đang dần đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh một số những thành quả đáng khích lệ, lĩnh vực
giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ vẫn còn một số yếu kém, hạn chế
nhất định cần được cải thiện nhanh để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã
hội. Cụ thể là:
Nhiều cơ sở đào tạo và trường học chưa thực sự coi trọng vấn đề xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh để đào tạo những con người phát
triển toàn diện. Nhiều trường học mới chỉ quan tâm tới việc truyền thụ kiến
thức cho học sinh, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục phẩm chất
đạo đức, phát triển nhân cách con người. Một số hiện tượng tiêu cực nảy
69
sinh không được kịp thời uốn nắn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc trong
học sinh, sinh viên: lang thang bụi đời, trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại
dâm v.v... Trật tự học đường ở một số trường chưa được đảm bảo, mối
quan hệ giữa nhà trường – gia đình – xã hội lỏng lẻo, tạo điều kiện cho các
tệ nạn xã hội luồn lách, thâm nhập vào học đường; Môi trường giáo dục ở
một số nơi còn thiếu lành mạnh bởi hoạt động thương mại hóa giáo dục"
của một số thầy cô giáo. Việc mở lớp dạy chui ngoài giờ còn phổ biến ở
các cấp học, trường học làm cho các giờ chính khóa bị coi nhẹ, ảnh hưởng
đến chất lượng đào tạo chung. Hoạt động lãnh đạo quản lý có khi còn buông
lỏng dẫn đến hiện tượng văn bằng, chứng chỉ giả. Trong giáo dục vẫn còn
tình trạng chạy theo “bệnh thành tích”, Nội dung đào tạo, phương pháp
giáo dục còn lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực của học sinh, sinh viên.
Chất lượng đầu ra còn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội….
*Hạn chế và nguyên nhân:
Trong lĩnh vực khoa học – công nghệ cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế:
trình độ phát triển chưa tương xứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng
mới, kết quả đạt được còn nhỏ bé, chưa khai thác và phát huy thế mạnh ở
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ khoa học còn mỏng, chất lượng chưa cao. Công tác đào tạo
đội ngũ cán bộ khoa học và chính sách đãi ngộ đối với những người làm công
tác khoa học chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức dẫn đến tình trạng thiếu
cán bộ đầu ngành và các chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực. Đáng lo ngại nhất
là tình trạng hẫng hụt thế hệ kế cận trong những năm tới khi mà đội ngũ cán
bộ khoa học lớp trước nghỉ hưu.
Nguyên nhân của hạn chế là do: Công tác giáo dục – đào tạo còn mang
nặng về số lượng chưa chú trọng phát triển chất lượng. Bệnh thành tích
trong giáo dục vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nguồn kinh phí cho thí
nghiệm khoa học còn hạn chế…; Việc phân định quản lý Nhà nước với
70
hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo còn chưa rõ ràng, công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa thực sự hiệu quả.
2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật
*Thành tựu và nguyên nhân:
Dưới sự chỉ đạo của Sở văn hóa – thể thao – du lịch, Trung tâm văn
hóa tỉnh phối hợp với Nhà hát Chèo tổ chức các chương tình ca, múa , nhạc
phục vụ quần chúng nhân dân cũng như các hội nghị, các sự kiện trong tỉnh
cũng như trong khu vực Bắc bộ.
“Nhà hát Chèo ắc Giang đã tổ chức hàng trăm buổi biểu diễn phục
vụ quần chúng cũng như phục vụ công tác chính trị. Song song với đó là
công tác bảo tồn các hoạt động nghệ thuật như: Chèo, ca trù, quan họ, hát
then…” [84; 5-6].
Bên cạnh những lễ hội truyền thống được tổ chức sôi nổi hàng năm,
ngành đã xây dựng và mở rộng nhiều hình thức hoạt động mới mẻ như: Hội
văn hóa các dân tộc thiểu số, hội thi giọng hát hay thiếu niên toàn tỉnh, hội
diễn nghệ thuật quần chúng, liên hoan văn hoá – văn nghệ các làng văn hoá
tiêu biểu,… thu hút hàng vạn lượt người tham gia. Các lớp bồi dưỡng, tập
huấn nghiệp vụ và năng khiếu nghệ thuật cho cơ sở được triển khai rộng
rãi, giúp cơ sở tiếp cận và phát triển nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá mới,
thúc đẩy phong trào giao lưu văn hoá, văn nghệ giữa các thôn bản. Bên
cạnh đó, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí như: óng bàn, cầu long,
đẩy tạ, thi hát chèo, thi hát quan họ cũng liên tục được tổ chức nhằm khơi
dạy những nếp sinh hoạt văn hóa lành mạnh của địa phương.
Song song với công tác khơi dạy những nếp sinh hoạt văn hóa, Công
tác giữ gìn, tu bổ, tôn tạo “các di sản văn hóa” cũng được quan tâm để các
di sản, di tích trở thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách tới tham
quan. Ban Quản lý các khu di tích lịch sử đã xây dựng và hoàn chỉnh đề án
"Bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di tích lịch sử – văn hóa, danh
71
thắng trên địa bàn tỉnh". Nhằm thu hút khách du lịch cũng như giáo dục
truyền thống đạo đức văn hoá của địa phương cho quần chúng nhân dân.
Trên địa bàn Tỉnh diễn ra nhiều phong trào hoạt động làm đẹp cảnh quan
phường xã làng xóm, giữ cho đường thông hè thoáng, bảo vệ môi trường
chung của xã hội, tạo nét sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng. Tại các
phường, xã, thôn xóm đều triển khai thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới". Hệ thống trường phổ thông tổ chức các cuộc
thi học sinh thanh lịch, tìm hiểu pháp luật, tìm hiểu luật giao thông, thi đọc
sách, kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Đoàn thanh niên ở các
phường xã, trường học phát động phong trào thanh niên tình nguyện hướng
dẫn giao thông ở các trục đường chính trong giờ cao điểm. Ở vùng sâu,
vùng còn lại hậu, Đoàn thanh niên tích cực phối hợp với các Đoàn trường
học để đón các đợt sinh viên trường học về địa phương thực hiện công tác
tình nguyện góp phần làm đẹp cho cơ sở. Tỉnh chú trọng tổ chức trọng thể
các buổi mít tinh, diễu hành trước các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày kỷ niệm
truyền thống của địa phương, thu hút sự chú ý và tham gia của đông đảo
nhân dân... Đó là những hoạt động được tổ chức thường xuyên, vừa tạo nên
vẻ đẹp về diện mạo của tỉnh, vừa tạo nên nét đẹp trong nếp cảm, nếp nghĩ,
cách ứng xử văn minh, lịch sự, tiến bộ của mọi người dân. Trình độ nhận
thức, ý thức tự giác tham gia vào các hoạt động xây dựng và bảo vệ môi
trường, bảo vệ mỹ quan làng xã của nhân dân, đặc biệt là thanh niên học
sinh ngày càng được nâng lên.
Một không gian văn hóa, nghệ thuật lành mạnh sẽ là môi trường văn hoá
lý tưởng bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời thanh lọc, loại
trừ dần những hủ tục mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, có tác động xấu
tới nhân dân. môi trường văn hoá ấy đủ mạnh để vừa tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm nền văn hóa địa phương, vừa có
khả năng đấu tranh chống lại các tệ nạn xã hội đang gia tăng và sự xâm nhập
của văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài tràn vào. Để xây dựng được môi
72
trường văn hoá ấy, cùng với việc khơi dậy và phát huy nét đẹp văn hóa truyền
thống, củng cố và ổn định những giá trị văn hóa hiện đại, tiến bộ, Tỉnh đã đẩy
mạnh những hoạt động tích cực giữ cho môi trường văn hoá trong sạch,
lành mạnh.
Nguyên nhân c a những thành tựu:
Trong giai đoạn gần đây, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật được
Tỉnh thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Đội ngũ cán bộ làm
công tác văn hóa, nghệ thuật được đào tạo một cách căn bản, năng động và
nhiệt tình với công việc.
Do đời sống vật chất của nhân dân đã dần đi vào ổn định vì vậy nhu
cầu thỏa mãn những giá trị văn hóa tinh thần được tăng lên tạo ra sự ủng
hộ, tham gia nhiệt tình của nhân dân vào các phong trào, hoạt động văn
hóa, nghệ thuật làm cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật thành công trên nhiều
phương diện.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tài năng văn hóa, nghệ thuật
được chú trọng cùng với các cơ chế, chính sách mới trong việc phát hiện
nhân tài đã tạo ra môi trường tốt cho hoạt động văn nghệ thuật phát triển.
*Hạn chế và nguyên nhân:
Các sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật ở các cộng đồng dân cư còn chưa
đồng đều, công tác tự kiểm tra nâng cao chất lượng chưa được chú ý, một
số lễ hội tổ chức ở các cơ sở còn mang tính chất hình thức, đơn điệu, chưa
khai thác được các nét đẹp trong phong tục tập quán ở các địa phương.
Ở một số đơn vị, cơ sở, phong trào văn hóa mới chỉ có tác dụng về bề
nổi của hoạt động, nhiều khi mang tính hình thức gây nên tình trạng tham
gia vào phong trào như một nghĩa vụ, chưa khơi dậy được tình cảm và ý
thức tự giác của người dân. Trình độ hiểu biết về truyền thống văn hóa, lịch
sử, truyền thống cách mạng của địa phương còn rất mờ nhạt, nhất là đối với
thanh thiếu niên học sinh, chưa trở thành động lực thôi thúc các hoạt động
học tập, rèn luyện, sáng tạo, cống hiến cho quê hương.
73
Nếp sống hiện đại cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh của đời sống đã
làm phai nhạt dần một số tập quán, lễ thức tốt đẹp của địa phương. Các
chuẩn mực của nếp sống văn minh công nghiệp đang trong quá trình hình
thành, chưa trở thành lối sống, nếp sống quen thuộc của nhân dân. Không ít
những hủ tục lạc hậu còn tồn tại gây nên những tác động tâm lý, ảnh hưởng
không tốt đến đời sống sinh hoạt của nhân dân như tư tưởng "trọng nam
khinh nữ", mê tín dị đoan, những tập tục nặng nề trong ma chay, cưới xin...
Đó cũng chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh các tệ nạn xã hội,
hành vi vi phạm pháp luật, lối sống thực dụng, tệ tham nhũng, lừa đảo, làm
ăn phi pháp..., những căn bệnh" của kinh tế thị trường không dễ bề chữa
trị.
Nguyên nhân c a một số hạn chế:
Do chưa nhận thức được thấu đáo vị thế quan trọng của vấn đề xây
dựng môi trường văn hoá trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của
tỉnh, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cho nên các cấp lãnh đạo chưa tạo lập được một hệ thống cơ chế chính sách
đồng bộ, thống nhất, chưa vạch ra được những chương trình hành động
thiết thực để từ đó xây dựng một hệ thống các giải pháp hữu hiệu, xây dựng
môi trường văn hoá phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh của địa
phương. Các hoạt động văn hóa và xây dựng môi trường văn hoá dường
như là hoạt động độc lập của ngành văn hóa, chưa có sự chỉ đạo phối hợp
tích cực, đồng bộ hoạt động của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể có liên
quan cùng hướng vào một mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế kết hợp
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đảm bảo sự phát triển hài hòa cả
đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân trong Tỉnh.
74
2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy
mạnh quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần là một bộ phận quan trọng của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần là chăm lo hạnh phúc của con người – mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta. Mặt khác, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần là
xây dựng con người, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người – nguồn
lực quyết định nhất trong các nguồn lực của sự phát triển. Từ ngày đổi mới
đất nước đến nay, vấn đề xây dựng nền văn hóa được đặt ra một cách cấp
thiết. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, VII, VIII, IX, X, XI
của Đảng và các nghị quyết của Bộ chính trị, Hội đồng lí luận Trung ương
không ngừng hoàn thiện tư tưởng về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần.
Trong quá trình thực hiện các đường lối chính sách của Đảng trong
việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, Tỉnh Bắc Giang đã đạt được
những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt: Chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống, giáo dục – đào tạo và khoa học, văn học, nghệ thuật…, bên
cạnh đó thì cũng còn tồn tại không ít hạn chế, những mặt trái nhất định.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp uỷ đảng và chính quyền
chưa thường xuyên, liên tục. Những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực đời
sống văn hoá tinh thần còn chưa vững chắc, chất lượng chưa cao, nhiều
phong trào còn mang tính hình thức và mắc bệnh thành tích. Cơ sở vật chất
và hệ thống thiết chế văn hoá xã hội ở một số nơi còn thiếu thốn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số. Đội
ngũ cán bộ quản lý hoạt động văn hoá còn thiếu và yếu, chính sách đãi ngộ
chưa thoả đáng. Các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức
tạp, chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời…Để khắc phục những hạn chế,
yếu điểm trên cần phải có một phương hướng chỉ đạo chung và hệ thống
75
giải pháp nhằm xây dựng và phát triển hơn nữa đời sống văn hoá tinh thần
ở Bắc Giang hiện nay.
2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Một là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hướng đến xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển con
người toàn diện
Mọi hoạt động văn hóa văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc tộc, xây dựng con người Việt Nam về
tư tưởng, đạo đức, tinh thần, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh cho sự phát triển của xã hội. Đời sống văn hóa tinh thần mà
chúng ta đang xây dựng phải thấm đậm trong tất cả các khâu nhu cầu, sản
xuất, trao đổi giao lưu và tiêu dùng giá trị tinh thần trong mọi lĩnh vực hoạt
động: chính trị, tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục và tín ngưỡng tôn
giáo sao cho ở mọi khâu, mọi lĩnh vực chúng ta đều có cách nghĩ, cách làm
và có sản phẩm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam.
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là nhằm xây dựng con người phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí
tuệ, đạo đức, thể chất năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa
trong gia đình, cộng đồng xã hội.
Hai là, coi trọng, tiến hành đ ng bộ trong xây dựng các khâu,
các lĩnh vực c a đời sống văn hóa tinh thần.
Đời sống văn hóa tinh thần là một hệ thống hữu cơ bao gồm nhiều
khâu, nhiều lĩnh vực hoạt động lồng ghép hòa quyện vào nhau, có quan hệ
tương tác, chi phối và chế ước lẫn nhau. Trong mỗi khâu đều bao hàm các
lĩnh vực và trong mỗi lĩnh vực đều bao hàm các khâu. Chẳng hạn, trong
khâu sản xuất giá trị tinh thần có các lĩnh vực hoạt động sản xuất tư tưởng,
nghệ thuật, khoa học…hay ngược lại trong lĩnh vực hoạt động tư tưởng có
76
các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi…giá trị tư tưởng. Và như thế bản thân
mỗi khâu, mỗi lĩnh vực của đời sống văn hóa tinh thần có văn hóa riêng của
mình đòi hỏi phải được xây dựng và thường xuyên nâng cao: văn hóa sản
xuất, văn hóa tiêu dùng, văn hóa nghệ thuật…đồng thời, hoạt động và kết
quả trong mỗi khâu, lĩnh vực đều tác động qua lại lẫn nhau và với đời sống
văn hóa tinh thần chung của toàn xã hội. Như vậy, các khâu, các lĩnh vực
của đời sống văn hóa tinh thần vận động trong sự tác động tương hỗ và tùy
thuộc lẫn nhau. Sự tiến bộ nhịp nhàng của các khâu và các lĩnh vực đó tạo
lên sự phát triển hài hòa và vững chắc của đời sống văn hóa tinh thần.
Ba là, kết hợp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần với phát triển kinh tế và hoàn thiện
đời sống chính trị.
Sự vận động và phát triển của đời sống văn hóa tinh thần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn liền, phụ thuộc và tác động trở lại tiến
trình và kết quả của việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế và chính trị của
chủ nghĩa xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần không thể không
tính đến khả năng cung cấp, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất của xã hội,
phải lượng sức mà làm; và ngược lại, sự phát triển kinh tế không thể bằng
mọi giá mà bỏ mặc hoặc hy sinh đời sống văn hóa tinh thần để theo đuổi lợi
nhuận cho riêng mình một cách phiến diện. Xử lý đúng đắn mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là làm cho
hai bên tự giác, thích ứng với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển, bảo đảm cho xã hội tiến bộ toàn diện và phát triển bền vững.
Đời sống văn hóa tinh thần chịu sự tác động mạnh mẽ của đời sống
chính trị. Đời sống chính trị không ổn định hoặc lệch lạc, yếu kém thì
không thể thành công trong nhiệm cụ xây dựng đời sống văn hóa tinh thần.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhất là trong điều kiện quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và các thế lực thù địch đang ra sức lợi
dụng quá trình này để đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” như hiện nay thì sự
77
ổn định chính trị đang phải chịu sức ép từ nhiều phía. Nhưng ổn định chính
trị là điều kiện tiên quyết cơ bản để thành công. Cố nhiên, chính trị ổn định
không có nghĩa là trì trệ, không đổi mới và hoàn thiện dần. Ổn định chính
trị ở đây là giữ cho chế độ ta – chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà
nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, không xảy ra rối loạn chính trị.
Hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh bảo đảm quản lý nhà nước,
phát huy được mặt tích cự, ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh những mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường, từ đó mới bảo đảm xây dựng và quản lý có
hiệu quả toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần cũng như từng khâu, từng lĩnh
vực hợp thành của nó. Phát triển kinh tế, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần có quan hệ tương tác chế định lẫn nhau
một cách chặt chẽ. Do đó, trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần đòi
hỏi phải kết hợp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần với phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống
chính trị.
Bốn là, lựa chọn và tập trung các ngu n lực giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm, các mục tiêu trọng điểm, có ảnh hưởng quyết định đến
xu thế vận động c a đời sống văn hóa tinh thần.
Xác định đúng đắn phạm vi và đối tượng ưu tiên trong chương trình
tổng thể xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là rất quan trọng và cần thiết
để tập trung sự chỉ đạo và nguồn lực mạnh vào giải quyết một số mắt khâu,
lĩnh vực và một số đối tượng có ảnh hưởng quyết định đến xu thế phát triển
của đời sống văn hóa tinh thần, nhanh chóng giành cho được những thành
quả rõ rệt và phát huy những thành quả đó để thúc đẩy sự chuyển biến tích
cực của các khâu, các lĩnh vực, các đối tượng cần xây dựng khác. Đương
nhiên, sự lựa chọn này không thể tùy tiện, chủ quan mà nhất thiết phải dựa
trên những căn cứ khoa học, những điều kiện thực tế khách quan.
78
Năm là, bảo t n, tôn tạo các di tích lịch s các di sản văn hóa,
sáng tạo các giá trị văn hóa mới, xây dựng môi trường văn hóa, x hội
lành mạnh.
Tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện luật di sản văn hóa (đã sửa đổi năm
2009) bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Tăng
cường nguồn vốn đầu tư kết hợp với công tác xã hội hóa để chống xuống
cấp các di tích do thời tiết, chiến tranh làm hư hỏng nặng, tăng cường công
tác bảo vệ cổ vật tại các đình, đền, chùa và nạn chảy máu cổ vật ra nước
ngoài. Đầu tư nghiên cứu phục hồi các lễ hội truyền thống và lập hồ sơ
khoa học bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tiêu biểu.
Chú trọng công tác sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác, trình diễn, quảng bá
văn học nghệ thuật; phát triển toàn diện đồng bộ các lĩnh vực, các chuyên
ngành, các loại hình văn hóa; văn học nghệ thuật trên cơ sở kế thừa và phát
triển những tinh hoa văn hóa, văn nghệ truyền thống, sáng tạo nhiều tác
phẩm có giá trị tư tưởng và có tính nghệ thuật cao.
Đặc biệt quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; khôi phục
và giữ gìn những phong tục tập quan tốt đẹp, hình thành văn hóa lãnh đạo,
văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp, đấu tranh từng
bước xóa bỏ tiêu cực, tệ nạn trong đời sống văn hóa.
Chủ động mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các Tỉnh trong khu
vực cũng như trong cả nước, tăng cường quảng bá những giá trị văn hóa
tiêu biểu, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa và những xu hướng, trào
lưu văn hóa tiến bộ.
2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
2.3.2.1. Nhóm giải pháp về tổ chức, chỉ đạo xây dựng môi trường văn
hóa
Một là, nâng cao nhận thức về bảo vệ và xây dựng đời sống văn hóa
cho cán bộ, nhân dân
79
Đây là giải pháp tổng thể nhằm tạo ra những hiểu biết toàn diện về văn
hóa, về công tác văn hóa tư tưởng, về đời sống văn hoá và nhiệm vụ xây dựng
đời sống văn hoá cho nhân dân, trên cơ sở đó biến quá trình xây dựng đời sống
văn hoá thành quá trình tự giác, xây dựng động cơ đúng đắn và hành động
thiết thực cho mỗi người.
Thực tế cho thấy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, khiếm
khuyết trong công tác xây dựng đời sống văn hoá là do một bộ phận cán bộ,
nhân dân chưa thực sự ý thức được một cách đầy đủ về vai trò quan trọng
của xây dựng đời sống văn hoá. Vì vậy, trong việc hoạch định các kế hoạch,
chương trình hành động cũng như trong chỉ đạo thực hiện xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở hầu hết chú trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế, xây
dựng cơ sở hạ tầng, bài trừ tệ nạn xã hội và giữ gìn vệ sinh môi trường. Do
công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách văn hóa ở cơ sở làm
chưa tốt dẫn đến tình trạng chính các cán bộ này cũng hiểu một cách đơn
giản rằng, hoạt động xây dựng đời sống văn hoá là việc cụ thể hóa cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư và các
phong trào xây dựng gia đình văn hóa... Cũng từ những hiểu biết phiến diện
đó, hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang, mà
cụ thể là ở phần lớn các xã, phường mới chỉ đạt kết quả ở mặt hình thức như:
giữ trật tự kỷ cương đường phố, giữ vệ sinh nơi công cộng, nhà cửa gọn
gàng, ngăn nắp, ăn mặc sạch sẽ, cử chỉ lịch thiệp... Thực chất, đó là những
phong trào hoạt động cụ thể nhằm tạo ra nếp sống, nếp sinh hoạt văn minh,
hiện đại nên có tính giai đoạn, tính thời điểm, và chỉ là một trong nhiều yếu
tố cấu thành đời sống văn hoá.
Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ngoài những nội dung trên còn
nhằm vào những mục tiêu hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng cuộc sống như: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, hình thành
nên các chuẩn mực, quy tắc ứng xử, phong cách sinh hoạt..., vì vậy là hoạt
80
động mang tính liên tục, toàn diện và đi vào chiều sâu. Xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần không thể mang tính thời điểm và không được phép đứt
đoạn bởi lẽ bản thân đời sống văn hoá tồn tại, vận động và phát triển ở mọi
nơi, mọi lúc, gắn chặt với mọi hoạt động của con người trong đời sống xã
hội. Với cái đích cuối cùng là xây dựng con người – vấn đề có tính chiến
lược, lâu dài mà Đảng ta đã khẳng định.
Để nâng cao nhận thức về bảo vệ và xây dựng đời sống văn hoá cho
cán bộ và nhân dân Tỉnh Bắc Giang đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các cơ quan ban ngành và đoàn thể trên địa tỉnh, nhất là ngành văn hóa
thông tin phải quán triệt sâu sắc đường lối phát triển văn hóa trong các Văn
kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh các nhiệm vụ cụ
thể về văn hóa mà các Nghị quyết Trung ương đề ra, nhất là các Nghị quyết
chỉ đạo sâu sắc lĩnh vực văn hóa như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
(khóa VII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Những Pháp lệnh, Nghị
định, Chỉ thị mới ban hành về lĩnh vực văn hóa phải nhanh chóng được tổ
chức học tập và triển khai thực hiện sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức tuyên truyền
vận động và thực tiễn hoạt động văn hóa, phải làm cho các cấp lãnh đạo và
bản thân mỗi người dân nhận thức sâu sắc rằng, việc bảo vệ và xây dựng
đời sống văn hoá là trách nhiệm chung của toàn xã hội chứ không phải của
riêng một cơ quan chức năng nào. Từ chỗ nhận thức rõ vai trò quan trọng
của mình trước nhiệm vụ chung đó của xã hội, các cấp ủy Đảng, chính
quyền và các cơ quan đoàn thể sẽ có sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc các phong
trào, tích cực chủ động đề ra các biện pháp thích hợp, có hình thức động
viên khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xây dựng đời
sống văn hoá một cách có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng coi xây dựng
81
đời sống văn hoá tinh thần chỉ đơn thuần là các hoạt động bề nổi, mang tính
hình thức, để trang điểm thêm cho các lĩnh vực hoạt động khác.
Hai là, tăng cường sự l nh đạo c a các cấp y Đảng và chính quyền
Chức năng hàng đầu của đời sống văn hoá là đáp ứng nhu cầu văn hóa
và giáo dục con người bằng văn hóa, đòi hỏi phải nâng cao vai trò lãnh đạo
của các tổ chức đảng, vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước, sự năng
động tích cực của các cơ quan chức năng, cán bộ chuyên trách cũng như sự
tham gia tự giác của mọi người dân trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng đời sống văn hoá của tỉnh. Quá trình này nhất thiết phải được xây
dựng có kế hoạch, có sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng và chính
quyền, được triển khai thực hiện một cách chu đáo, tăng cường khâu kiểm
tra, giám sát, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời.
Thực tiễn ở Tỉnh Bắc Giang những năm qua cho thấy, mặc dù có nhiều
cố gắng ở một số lĩnh vực hoạt động nhằm phát triển kinh tế – xã hội, song
trong công tác tổ chức lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá, các cấp ủy
Đảng và chính quyền ở địa phương, cơ sở chưa phát huy đầy đủ vai trò của
mình theo yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
Để khắc phục tình trạng trên, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban
ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội cần có sự phân công, phân trách nhiệm vụ
rõ ràng, rành mạch, đồng thời đảm bảo sự liên kết, phối hợp đồng bộ, cùng
hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đời sống văn hoá, của nhân dân
trong sạch, lành mạnh. Cụ thể như sau:
– Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân các cấp cần có sự phối hợp xây dựng một
hệ thống các thể chế, chính sách phù hợp, đề ra những biện pháp thực hiện
có sự liên kết chặt chẽ, đồng bộ giữa các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền,
Mặt trận và đoàn thể từ thành phố đến các đơn vị cơ sở. Trong đó, Đảng giữ
vai trò lãnh đạo, bảo đảm mọi hoạt động luôn tuân thủ theo đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa; chính quyền có nhiệm vụ tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ
82
đạt tới mục tiêu đã đề ra, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động, xử lý kịp thời
những sai phạm, tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra; Mặt trận, đoàn thể
và các tổ chức xã hội phải làm tốt công tác vận động quần chúng, giải
thích, động viên, thuyết phục, kêu gọi, tổ chức các hình thức thi đua, các
phương thức hoạt động thực hiện nhiệm vụ cách mạng của quần chúng.
Trong sự liên kết phối hợp giữa Đảng và chính quyền, các cấp ủy Đảng
phải luôn luôn trực tiếp đi sâu đi sát phong trào, kịp thời đề ra những biện
pháp sát hợp, uốn nắn những sai phạm, khơi dậy và phát huy những nhân tố
tích cực của phong trào, đồng thời còn phải quan tâm giúp đỡ các cơ quan
nhà nước thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng, hỗ trợ giải
quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước trong xây dựng đời sống văn hoá.
Có thể nói, toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công tác xây dựng
đời sống văn hoá, gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng
mà trực tiếp ở đơn vị cơ sở là các cấp ủy Đảng. Hiệu quả xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần phụ thuộc vào tổng hợp của nhiều nhân tố, song
nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định chính là vai trò lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng ở địa phương.
– Chú trọng nâng cao trình độ nhận thức, phát huy vai trò lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, chính quyền trong lĩnh vực văn hóa và xây dựng đời sống
văn hoá. Đây là nhiệm vụ quan trọng và hết sức cần thiết. Làm tốt công tác
này, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương mới định ra được những
chủ trương đúng đắn, thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục giúp
nhân dân nhận thức đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đời sống văn hoá.
Thực tiễn cho thấy, địa phương nào, cơ sở nào có sự lãnh đạo quản lý
chặt chẽ của cấp ủy Đảmg và chính quyền thì nơi đó hoạt động xây dựng đời
sống văn hoá đạt được kết quả tốt. Nguyên do ở chỗ, khi mà cấp ủy Đảng
và chính quyền thực sự quan tâm đến hoạt động này thì hàng loạt điều kiện
thuận lợi sẽ nảy sinh như: tình hình thực trạng được điều tra kỹ, ngân sách chi
83
cho hoạt động xây dựng đời sống văn hoá được bảo đảm, công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa thông tin được triển khai thực hiện, các
chế độ, chính sách khuyến khích được áp dụng kịp thời, thỏa đáng đối với
các cán bộ chuyên trách văn hóa thông tin.
Trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá tinh
thần, Đảng không can thiệp vào các hoạt động cụ thể, không làm thay chức
năng quản lý nhà nước, nhưng Đảng không dừng lại ở việc chỉ ra các quan
điểm và đường lối chính sách, trái lại, từ quan điểm đường lối chung, Đảng
phải chỉ đạo cả quá trình triển khai quan điểm và đường lối chung đó trong
thực tiễn.
– Phát huy vai trò quan trọng của cấp ủy, chính quyền địa phương trong
việc đưa chủ trương xây dựng đời sống văn hoá vào cuộc sống thông qua
hệ thống pháp luật và các chính sách văn hóa. Các cấp ủy Đảng, chính quyền
cần nắm vững và sử dụng luật pháp như một công cụ hữu hiệu để quản lý
hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở địa phương. Đó là hệ thống các văn
bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, các văn bản pháp quy... về văn hóa
để điều chỉnh các hoạt động văn hóa.
Ở các khu dân cư, cơ quan, trường học, bệnh viện, xí nghiệp, doanh
trại bộ đội... cần hướng dẫn và khuyến khích xây dựng những quy ước về
nếp sống, nếp sinh hoạt, phong cách làm việc, ứng xử, giao tiếp... để hình
thành một môi trường công tác – học tập lành mạnh, có kỷ cương.
Từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kết hợp với nhận thức về xây dựng
văn hóa và đời sống văn hoá trong tình hình mới có thể thấy, việc nâng cao
nhận thức và tăng cường vai trò lãnh đạo quản lý của cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương trong xây dựng đời sống văn hoá là hết sức quan trọng và
cần thiết. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã khẳng định: Để đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng,
trong bộ máy nhà nước..."[27; 149]. Hoạt động đó sẽ tạo ra những tấm gương
84
sáng, những điểm sáng văn hóa và những giá trị văn hóa cho nhân dân học
tập, noi theo.
Ba là, phát huy sức mạnh t ng hợp c a các cơ quan, đoàn thể, t chức xã
hội và nhân dân
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Hoạt động
xây dựng đời sống văn hoá ở địa phương muốn đạt được hiệu quả cần có sự
huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức
xã hội và đông đảo nhân dân trên địa bàn.
Để làm tốt nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang hiện nay, mọi tổ chức chính trị – xã hội trên địa bàn tỉnh (Mặt trận
Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, Hội người cao
tuổi...) một mặt phải tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động cụ thể,
mặt khác phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng tự giác, tích cực tham gia vào các phong trào Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa để từng bước hòa nhập vào hoạt động xây dựng
đời sống văn hoá trên qui mô toàn thành phố. Một số các phong trào hoạt
động thiết thực như: đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia
đình văn hóa, xây dựng phường xã, khối phố văn hóa, thôn văn hóa, xây
dựng công sở văn hóa... cần được tiếp tục đẩy mạnh và duy trì thường
xuyên để trở thành những lối sống, nếp sống tiến bộ, văn minh, hiện đại.
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, kinh
phí bao cấp không còn, ngân sách sự nghiệp hạn hẹp, nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hoá của tỉnh hiện nay sẽ không thực hiện được nếu thiếu đi một
sự đổi mới trong lãnh đạo và quản lý văn hóa, đó là thực hiện "xã hội hóa
các hoạt động văn hóa .
Xã hội hóa chính là bước chuyển tiếp và là đỉnh cao của phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm đã được thực hiện trong hoạt động văn
hóa lâu nay, có tác dụng quan trọng tạo ra sự chuyển đổi theo chiều hướng
tích cực cả phương thức hoạt động, cả nội dung, hình thức và chất lượng của
85
đời sống văn hoá tinh thần. Thực chất, đó là việc các hoạt động văn hóa ở
cơ sở chủ yếu do dân tự đảm nhiệm. Bằng các nguồn kinh phí tự đóng góp,
nhân dân sẽ tự tổ chức các hoạt động để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh
thần của mình như: xây dựng cơ sở hạ tầng (điện – đường – trường – trạm),
xây dựng nhà văn hóa xã, thôn v.v... Nhà nước chỉ quản lý các hoạt động
này bằng cách hỗ trợ lập chương trình, kế hoạch, hướng dẫn, điều chỉnh sao
cho nhân dân thực hiện đúng chương trình, kế hoạch đã đề ra, phù hợp với
điều kiện kinh tế, tập quán và tuân thủ những qui định của pháp luật. Cho
nên cũng có thể nói, xã hội hóa văn hóa chính là dân chủ hóa đời sống văn
hóa tinh thần . Đây là vấn đề có giá trị thiết thực và cấp bách trong tổ chức
hoạt động văn hóa, góp phần xây dựng đời sống văn hoá nhằm nâng cao mọi
mặt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Hiện nay, do nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ
và xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, hoạt động xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần ở một số đơn vị, cơ quan nhiều khi mang tính hình thức, áp đặt,
không gắn với chức năng nhiệm vụ của đơn vị, do đó không khơi động được
phong trào. Để khắc phục tình trạng này, mỗi cơ quan, đơn vị phải làm tốt
công tác giáo dục, vận động cán bộ, quần chúng, đồng thời phải chấn chỉnh
tổ chức, tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, phòng ban trong đơn
vị hướng vào nhiệm vụ chung là xây dựng ở đơn vị một môi trường lành
mạnh, phong phú, tốt đẹp có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng và hiệu quả
hoạt động của đơn vị, góp phần xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của
thành phố. Cụ thể là, phải chủ động xây dựng và tích cực triển khai các
phong trào hoạt động văn hóa có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với yêu cầu của
đơn vị mình như: thực hiện nghiêm túc nội quy của đơn vị, giữ trật tự vệ
sinh nơi công sở, xây dựng tác phong làm việc khoa học, xây dựng mối quan
hệ trong sáng lành mạnh, đoàn kết gắn bó giữa các tổ chức và cá nhân trong
đơn vị, giao tiếp ứng xử văn minh, lịch thiệp... Trong quá trình tổ chức triển
khai hoạt động cần có các hình thức tuyên truyền vận động hướng về nội
86
dung xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của nông thôn, xây dựng và củng
cố ý thức tham gia đóng góp vào lợi ích chung của cộng đồng. Mặt khác,
cũng cần có sự liên hệ phối hợp với hoạt động của các đơn vị khác, tổ chức
khác, tạo ra hoạt động đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
Bốn là, tăng cường xây dựng ngu n lực và phương tiện cho các hoạt
động văn hóa
Xây dựng nguồn lực là điều kiện tối quan trọng cho hoạt động văn hóa
nói chung và xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện
nay nói riêng. Đề thực hiện yêu cầu này, trước hết phải chú trọng công tác
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cũng như cán bộ làm
chuyên môn nghiệp vụ trong ngành văn hóa.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin
chuyên trách ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay, nhất là ở các cơ sở xã, thôn còn
thiếu và yếu. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ này còn nhiều hạn chế. ở một
số cơ sở, công việc của cán bộ văn hóa thông tin chủ yếu là phục vụ các
phong trào, mang tính sự vụ, thụ động, trông chờ vào mệnh lệnh của cấp
trên. Tình hình mới hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
phải có kiến thức văn hóa và trình độ nghiệp vụ nhất định đủ sức đảm
đương công việc được giao. Cán bộ văn hóa phải thực sự là những người
trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước vào cuộc sống, là người chủ động, tích cực trong các hoạt động tổ
chức, vận động quần chúng tham gia các phong trào, các cuộc vận động
phát triển văn hóa ở địa phương. Tình trạng hẫng hụt nghiêm trọng về đội
ngũ cán bộ quản lý và cán bộ hoạt động chuyên môn văn hóa trong những
năm tới là vấn đề rất đáng lo ngại. Do vậy, phải gấp rút đào tạo, bồi dưỡng
cho được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên trách văn hóa từ thành
phố tới các cơ sở.
Cùng với việc bồi dưỡng về mặt quản lý, nghiệp vụ, cần phải có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người làm công tác văn hóa thông tin
87
chuyên trách ở cơ sở để họ yên tâm, phấn khởi công tác. Nghị quyết số
159/HĐ T của Hội đồng Bộ trưởng về công tác văn hóa thông tin đã chỉ
rõ, từ nay các cơ sở đều phải có cán bộ văn hóa thông tin chuyên trách,
được hưởng thù lao như cán bộ giáo dục, y tế. Đây là một quyết định đúng
đắn, sáng suốt trong công tác cán bộ ngành Văn hóa thông tin.
Trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa nói chung, rất cần có chính
sách ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa cho các xã miền núi và nông
thôn, bảo đảm cho họ có thể trở về công tác ở địa phương. Đào tạo phải đi
đôi với sử dụng, đãi ngộ tốt, tránh tình trạng "chảy máu chất xám như ở
ngành khoa học – công nghệ và một số lĩnh vực khác.
Để làm tốt công tác xây dựng nguồn lực, các cơ sở, trung tâm bồi
dưỡng huấn luyện công tác văn hóa của tỉnh không chỉ cần có sự quan tâm
đầu tư về cán bộ, mà còn phải chú trọng củng cố, kiện toàn và sắp xếp hợp
lý tổ chức bộ máy.
Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy của các đơn vị, phòng ban, đoàn
thể, tổ chức ngành văn hóa thông tin từ địa phương đến cơ sở là công tác có
ý nghĩa then chốt, đảm bảo những bước đi vững chắc trong hoạt động xây
dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đòi hỏi cấp
bách trước mắt là phải sắp xếp, bố trí tổ chức ngành Văn hóa thông tin cả
về mặt Đảng, chính quyền và đoàn thể sao cho có thể phát huy tối đa khả
năng và hiệu lực lãnh đạo quản lý đối với lĩnh vực này (đặc biệt là với khối
thông tin).
Cùng với việc chú trọng xây dựng nguồn lực cho các hoạt động văn
hóa, cần tăng cường đầu tư ngân sách xây dựng hệ thống các thiết chế văn
hóa từ thành phố tới cơ sở. Đây là công việc không kém phần quan trọng,
tạo ra những điều kiện vật chất để thu hút nhân dân tham gia vào các hoạt
động văn hóa, chẳng hạn việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa như:
xây dựng câu lạc bộ, nhà văn hóa, thư viện, rạp hát, nhà bảo tàng, khu công
viên giải trí..., việc mua sắm trang thiết bị, phương tiện văn hóa như: trang
88
bị hệ thống loa máy cho câu lạc bộ, bổ sung sách báo cho thư viện, mua
dụng cụ thể thao... nhằm đưa văn hóa đến đông đảo nhân dân. Vì vậy, nó
có vai trò quan trọng trong việc cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống văn
hoá ở cơ sở.
Hiện nay, ở các phường, xã của tỉnh Bắc Giang đã tiến hành tu bổ,
nâng cấp các thiết chế văn hóa đã có, song nhìn chung, hệ thống thiết chế
văn hóa chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhân dân thành phố, có nơi chưa
làm tốt chức năng của thiết chế văn hóa (ví dụ: nhà văn hoá, rạp chiếu
phim) nên việc thu hút quần chúng còn hạn chế; có nơi qui mô còn nhỏ
hẹp, trang thiết bị nghèo nàn hoặc xuống cấp làm giảm nhiệt tình của
những người làm công tác văn hóa, làm cho hoạt động văn hóa đơn điệu,
hình thức, kém hiệu quả.
Tóm lại, trên đây là những giải pháp chủ yếu trong nhóm giải pháp về
tổ chức chỉ đạo hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang hiện nay. Thực chất, đây là những giải pháp tích cực nhằm nâng cao
vai trò lãnh đạo quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền nhằm đạt tới hiệu
quả cao trong các hoạt động văn hóa ở địa phương, cơ sở. Vì vậy, trong
nhận thức cũng như trong chỉ đạo thực hiện của các cấp lãnh đạo, không
được quá coi trọng hoặc xem nhẹ một giải pháp nào. Các giải pháp trên phải
được tiến hành một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của thực tiễn
đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Bắc Giang và phải luôn có sự điều
chỉnh kịp thời để thống nhất với nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa
của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2.3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện chương trình, kế hoạch xây
dựng môi trường văn hóa
Đây là những giải pháp chủ yếu để cụ thể hóa các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa
bằng một hệ thống chương trình hành động và những bước đi cụ thể, chính
89
xác nhằm xây dựng có hiệu quả đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Một là, phát huy vai trò c a văn hóa trên mọi lĩnh vực c a đời sống xã
hội nhằm xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong sạch, lành mạnh
Trong thời đại ngày nay, văn hóa ngày càng thể hiện rõ vai trò động
lực cho sự phát triển, là nguồn lực nội sinh để phát triển bền vững. Hội
nghị Trung Ương lần thứ 5 (khóa VIII) của Đảng đã nhấn mạnh: "Các nhân
tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương..., biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển"[29; 55].
Sự gắn kết giữa văn hóa với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra
một không gian lành mạnh để phát triển mọi mặt đời sống xã hội, đồng thời
cũng tạo ra những nhân tố tích cực để xây dựng môi trường văn hóa. Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần làm tốt các nhiệm vụ cụ thể sau:
Phát huy vai trò của văn hóa trong lĩnh vực kinh tế nhằm xây dựng
một môi trường kinh tế ổn định, vững chắc, làm nền tảng cho hoạt động
xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang.
Về chức năng xã hội, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội". Bởi vậy,
nhiệm vụ đặt ra là phải tăng cường sự phát triển của văn hóa, tạo dựng một
môi trường thuận lợi làm cơ sở để phát triển kinh tế. Muốn thế, phải làm
cho văn hóa hòa nhập vào lĩnh vực kinh tế, đồng thời làm cho sự phát triển
kinh tế phải được "bắt rễ" trong một đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh.
Cuộc sống thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi đa yếu tố văn hóa vào kinh
tế, vào làm ăn kinh doanh, dịch vụ kinh tế, trao đổi hàng hóa thị trường
cũng như văn hóa hóa cao độ các hoạt động kinh tế trong văn hóa. Nhiệm
vụ của chúng ta là phải làm cho ở đâu và lúc nào, văn hóa cũng trở thành
nhân tố tích cực, tạo thành môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế.
90
Ở Tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây, nhịp độ tăng trưởng kinh
tế khá nhanh dẫn đến đời sống vật chất của nhân dân ngày một được cải
thiện, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần được nâng lên rõ rệt. Nhân dân
phấn khởi, tích cực tham gia lao động sản xuất, sáng tạo trên mọi lĩnh vực
của cuộc sống. Tuy nhiên, mặt trái của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế thị
trường cùng với những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp còn rơi rớt lại gây nên những tác hại nghiêm trọng như lối sản xuất
tiểu nông, manh mún, tư duy trì trệ, chậm đổi mới, tệ tham nhũng, hối lộ,
làm ăn phi pháp... là những cản trở đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của
nhân dân, càng đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa trong lĩnh
vực kinh tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải làm tốt các công tác sau:
– Bằng nhiều hình thức phong phú, tuyên truyền giáo dục làm chuyển
biến nhận thức trong toàn xã hội, trước hết trong các cấp ủy đảng, đảng
viên, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ các đoàn thể quần chúng về tầm
quan trọng, sự cần thiết cấp bách của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn
hóa về trách nhiệm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ văn hóa trong thời kỳ mới.
– Giáo dục chủ nghĩa yêu nước phải gắn chặt với phong trào thi đua
yêu nước và giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu; làm cho mọi người
thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, đóng góp xứng
đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
– Các hoạt động tuyên truyền giáo dục phải gắn với quản lý xã hội
bằng pháp luật, phát huy sức mạnh dư luận xã hội, gắn với các phong trào
hành động của quần chúng.
– Phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên
xuống, từ trong đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích
cực tham gia phong trào.
91
– Phong trào đó bao gồm các phong trào hiện có như : Người tốt việc
tốt, Uống nước nhớ ngu n, Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo, Xây
dựng gia đình văn hóa, làng, x , phường văn hóa, Toàn dân đoàn kết xây
dựng cuộc sống mới ở các khu dân cư và toàn bộ các phong trào ấy đều
hướng vào cuộc thi đua yêu nước “Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh”.
Hai là, xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa
-Xây dựng, ban hành luật pháp
Xây dựng các luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy điều chỉnh các
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Bổ sung những luật đã ban hành cho phù
hợp với tình hình mới. Nghiên cứu xây dựng Luật di sản văn hóa dân tộc,
Luật quảng cáo, Pháp lệnh thư viện. Xây dựng quy chế về giải thưởng, tặng
thưởng trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, báo chí; quy chế kỷ niệm các sự
kiện lịch sử và danh nhân (trong nước và thế giới), đặt tên đường phố, lập
nhà bảo tàng, xây dựng tượng đài, v.v..
Bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định về lễ
hội, việc tang, việc cưới, việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã,
việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng.v.v…
Khuyến khích nhân dân các xã, phường, thôn ấp, cụm dân cư, khu tập
thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các quy ước về nếp sống văn hóa, giữ gìn
trật tự vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, cảnh quan sạch
đẹp. Hoàn thiện hệ thống thanh tra chuyên ngành, thanh tra nhân dân, tăng
cường công tác thanh tra văn hóa.
- Xây dựng, ban hành các chính sách
– Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt
động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển
văn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn
hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
92
+ Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động
thể thao, dịch vụ văn hóa), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp
của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.
+ Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ
thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí, trợ giá cho một số báo chí,
văn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại và
sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
+ Quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn
hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí,
nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích) được hưởng mức thuế ưu
đãi trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản).
+ Cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước
ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt
động văn hóa theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng,
đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội
dung lành mạnh, bổ ích.
– Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ
trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo
điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.
Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục
tiêu, giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất,
kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn
hóa kinh doanh.
Chú ý tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại của kiến trúc
trong xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp. Trong quy hoạch xây
dựng các công trình lớn phải tính đến một số thiết chế văn hóa cần thiết
nhất như thư viện, nhà thông tin, khu giải trí, bảo đảm cảnh quan môi
trường cho các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh.
93
Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu tư,
đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa.
– Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức
người, sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng
và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc
nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về
văn hóa của Nhà nước. Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng
dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.
– Chính sách bảo t n, phát huy di sản văn hóa dân tộc hướng vào cả
văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiến hành sớm việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh
lý vốn văn hóa truyền thống (bao gồm văn hóa bác học và văn hóa dân
gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số; phiên dịch, giới thiệu kho tàng
văn hóa Hán Nôm. ảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và các danh lam
thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống. Trọng đãi những nghệ
nhân bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống.
– Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa đòi
hỏi tăng nguồn đầu tư thích đáng cho khu vực sáng tạo văn hóa, văn học,
nghệ thuật. Chú trọng đầu tư hỗ trợ cho những tác giả có uy tín cao, những
tài năng trẻ, đầu tư cho lực lượng chuyên nghiệp và cả cho phong trào quần
chúng. Có chính sách chăm sóc đặc biệt đối với các văn nghệ sĩ cao tuổi
tiêu biểu, các mầm non nghệ thuật xuất sắc.
Sửa đổi chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới; có chính sách
khuyến khích đối với lao động nghệ thuật và báo chí.
Thành lập quỹ văn hóa quốc gia và quỹ sáng tác của các hội văn học,
nghệ thuật, tạo thêm nguồn hỗ trợ tài chính cho xây dựng các tác phẩm.
Có chính sách khuyến khích các văn nghệ sĩ, nhà báo gắn bó với cơ
sở, với thực tiễn lao động sản xuất.
94
Tiếp tục thực hiện Pháp lệnh về giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng
nhà nước và Pháp lệnh công nhận danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu
tú.
– Xây dựng và ban hành chính sách đặc thù hợp lý, hợp tình cho
những loại đối tượng xã hội cần được ưu đ i tham gia và hưởng thụ văn
hóa: thương binh, bệnh binh, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ em, những
người già không nơi nương tựa, những người thuộc các dân tộc thiểu số,
những người tàn tật.
Mở rộng, khuyến khích xuất khẩu sách, báo, văn hóa phẩm. Nâng
công suất và thời lượng phát thanh, truyền hình ra nước ngoài. Tăng cường
trao đổi các đoàn nghệ thuật, điện ảnh, các cuộc triển lãm, các cuộc thi đấu
thể thao. Hình thành cơ chế phối hợp, chỉ đạo tập trung các cơ quan và lực
lượng làm công tác đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa – thông tin.
Ba là, tăng cường ngu n lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.
– Tăng mức đầu tư cho văn hóa từ nguồn chi thường xuyên và nguồn
chi phát triển trong ngân sách nhà nước. Tỉ trọng chi ngân sách cho văn hóa
phải tăng tương ứng nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Khuyến khích các địa
phương tăng thêm nguồn đầu tư cho văn hóa. Tích cực huy động các nguồn
lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển văn hóa.
– Thực hiện các chương trình cho mục tiêu về văn hóa nhằm đầu tư có
trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách.
– Củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan lãnh
đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức nghề nghiệp của hoạt
động văn hóa từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm hoạt động có hiệu quả.
Điều chỉnh, xác định rõ cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, phương thức
hoạt động của các ban của Đảng và các tổ chức đảng trong Bộ Văn hóa –
Thông tin, các hội văn học, nghệ thuật (các ban cán sự Đảng, Đoàn). Xây
dựng quy chế về mối quan hệ làm việc giữa các tổ chức này, bảo đảm sự
phối hợp nhịp nhàng.
95
Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn
hóa các cấp. Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng
quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới (cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, chuyên gia) đủ phẩm chất và năng lực đảm đương
công việc trong những năm tới.
Củng cố, kiện toàn hệ thống các khoa, trường đào tạo cán bộ văn hóa,
nghệ thuật, thông tin, báo chí, các viện nghiên cứu cả về tổ chức, đội ngũ
giảng viên, chương trình, giáo trình. Tăng thêm điều kiện và phương tiện
kỹ thuật giảng dạy, học tập. Tổ chức tốt đào tạo trên đại học.
Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ văn hóa.
Bốn là, nâng cao hiệu quả l nh đạo c a Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Yêu cầu xây dựng và phát triển đát nước trong giai đoạn mới đòi hỏi
Đảng ta phải tăng cường và nâng tầm lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa.
– Nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong
việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới – xã
hội chủ nghĩa. Khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên
lĩnh vực văn hóa.
– Thường xuyên chăm lo việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về lý
tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng và tình hình đất nước cho đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ, cán bộ văn hóa; làm tốt công tác kết nạp đảng trong bộ phận trí
thức, văn nghệ sĩ ưu tú.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm
cho văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính
trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá
nhân trong sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ
trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn.
96
– Phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo
văn hóa – văn nghệ trong việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức
thực hiện nhiệm vụ văn hóa, làm chủ văn hóa.
– Đi sát, nắm chắc tình hình hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa;
lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sắc bén, giúp các cơ quan nhà nước thể chế hóa
các chủ trương, chính sách của Đảng. Hỗ trợ giải quyết kịp thời những khó
khăn vướng mắc đối với ngành văn hóa trong quá trình triển khai thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa
từ trong đảng, trong bộ máy nhà nước như ác Hồ đã dạy “ Đảng ta là đạo
đức, là văn minh”. Phải đặt mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Văn hóa đạo đức và lối sống
lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước,
đoàn thể, trong cán bộ, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên,
ở các bậc cha mẹ, ở các thầy cô giáo. Từ sự gương mẫu về mọi mặt của các
tổ chức và từng cán bộ trong bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể mà phát huy
vai trò lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”. Gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu
trong công việc lãnh đạo của Đảng.
Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ
trẻ. Có chính sách trọng dụng người tài.
Làm tốt công tác kiểm tra của Đảng trong việc xem xét tư tưởng, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Để quán triệt và thực hiện tốt các yêu cầu nêu trên, các cấp ủy và tổ
chức đảng nghiêm túc xem xét trách nhiệm lãnh đạo của mình, rút ra những
bài học kinh nghiệm lãnh đạo văn hóa, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.
Tiến hành sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong toàn Đảng và bộ máy nhà nước, trước hết là trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý. Kết quả nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết phải
97
được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động của
các cấp, các ngành, trong việc phát huy vai trò gương mẫu về tư tưởng, đạo
đức, lối sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa của nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên định, trình độ trí tuệ và
tính tự giác cao. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là các Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương nêu cao vai trò gương mẫu của người cộng sản, động
viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết, làm theo lời Bác Hồ
– muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa.
Toàn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc
gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không
ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sử và trong
thế giới hiện đại.
98
Tiểu kết chƣơng 2
Trên cơ sở giới thiệu khái quát về mặt điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã
hội của địa bàn nghiên cứu – Tỉnh Bắc Giang, luận văn đã phân tích thực
trạng xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Từ
đó tác giả đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần ở Bắc Giang hướng tới một đời sống văn hóa tinh
thần trở nên cao đẹp, lành mạnh hơn. Có thể thấy rằng, đời sống văn hoá
tinh thần ở Bắc Giang trong thời kỳ đổi mới có nhiều diễn biến phức tạp,
bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn tồn tại không ít hạn chế, yếu
kém cần khắc phục. Tình hình đó đặt ra nhiệm vụ cho toàn tỉnh trong thời
gian tới là phải kiên quyết đấu tranh, phòng ngừa, loại bỏ những cái xấu,
cái ác, cái phản tiến bộ đang có nguy cơ làm suy thoái đời sống văn hoá
tinh thần, ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi, đạo đức, lối sống, nhân cách của
các tầng lớp dân cư. Đồng thời, phải tích cực xây dựng những nhân tố mới,
những chuẩn mực mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, tạo thế cân
bằng, ổn định vững chắc cho đời sống văn hoá trong toàn Tỉnh. Quyết tâm
xây dựng thành công đời sống văn hoá lành mạnh, trong sạch, có khả năng
đề kháng trước những biến động phức tạp của đời sống xã hội, là "vòng
tay nuôi dưỡng tâm hồn và phát triển nhân cách con người. Để phát huy
những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đòi hỏi phải
thực hiện những phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hoá
tinh thần thực sự hiệu quả nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân
dân Bắc Giang trong thời gian tới.
99
KẾT LUẬN
Ngày nay, hòa cùng sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc trong tỉnh Bắc Giang đang ra sức phấn đấu thực
hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, bằng việc phát huy cao độ
nội lực, tiềm năng, tài nguyên và con người Bắc Giang, phát triển mọi mặt
đời sống kinh tế – xã hội – văn hóa của địa phương.
Các lĩnh vực thuộc đời sống văn hóa tinh thần, hệ thống cơ sở vật chất
phục vụ các hoạt động văn hoá cũng được tỉnh chú trọng phát triển. Được
sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Trung ương và địa phương, công tác xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Bắc Giang đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Trong điều kiện mới khẳng định vị trí, vai trò của văn hoá đời
sống văn hóa tinh thần bên cạnh nhiệm vụ chính trị và kinh tế là một quyết
tâm lớn của Đảng, nhằm từng bước tăng cường củng cố nền tảng văn hóa
tinh thần của xã hội trước thách thức khôn lường của thời đại, mở ra một
tương quan hợp lý giữa các nhân tố chính trị, văn hoá đảm bảo tính đồng
bộ trong phát triển. Mối quan tâm của Đảng với văn hoá thể hiện rõ trong
chủ trương: Tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam
đương đại, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc và
tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt nhịp cùng sự phát triển
của thời đại.
Kết luận hội nghị trung ương X (khoá IX) tiếp tục đặt lên đầu nhiệm
vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh,
chăm lo xây dựng con người Việt Nam. Xuất phát từ những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác–Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về
văn hoá, văn hoá tinh thần, tác giả đã làm rõ những đặc điểm kinh tế xã hội
chi phối đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang, phân tích thực trạng
những biểu hiện tích cực cũng như những hạn chế của nó trong sự vận
động phát triển của xã hội. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp trong
100
việc phát huy bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang.
Toàn bộ các giải pháp ấy đều lấy điểm xuất phát là đổi mới nhận thức trong
điều kiện mới.
Với phương pháp tiếp cận đó, luận văn đã trình bày một số giải pháp
cụ thể đối với từng lĩnh vực trong đời sống văn hoá tinh thần, nếu được sử
dụng nó sẽ là một trong những động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở
Tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sĩ, có thể nội dung của đề
tài chưa bao quát hết các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu, nhưng tác giả
luận văn đã cố gắng khái quát, đánh giá tổng thể những nét cơ bản về đời
sống văn hoá tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc
Giang với tất cả những mặt tích cực và những hạn chế cùng nguyên nhân
của nó và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích
cực, tốt đẹp của đời sống văn hoá tinh thần tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên,
nghiên cứu về vấn đề văn hoá, xây dựng đời sống văn hóa tính thần là vấn
đề vừa cũ vừa mới, vừa rộng lại vừa hẹp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau. Bởi vậy, việc nghiên cứu những vấn đề thuộc đời sống văn hoá
tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cần phải được tiếp tục
trong các công trình tiếp theo. Tác giả mong muốn nhận được những ý kiến
đống góp quý báu của các thầy cô và bạn bè để công trình nghiên cứu đầu
tay này được hoàn thiện hơn./.
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá” toàn quốc (2004), Một số nghiên cứu về triển khai phong trào “Toàn
dân đoàn kết xấy dựng đời sống văn hoá”.
2. an Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2001), Một số Văn kiện c a
Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa, tập 2 (1986 – 2000), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo thống kê danh sách
chức sắc, nhà tu hành năm 2013.
4. Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo t ng kết tình hình
tôn giáo năm 2013.
5. Bảo tàng Bắc Giang (2006), Di sản văn hóa Bắc Giang – Bước đầu
tìm hiểu truyền thống văn hóa các dân tộc.
6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.
7. Trần Văn ính (1996), Văn hóa dân tộc trong quá trình mở c a ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Văn hoá – Thông tin, Cục văn hoá – Thông tin cơ sở (1999),
Hỏi đáp về xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn hoá, t
chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Bộ Văn hoá – Thông tin (1995), Đường lối văn hoá nghệ thuật c a
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
11. Bộ Văn hoá – Thông tin (1997), Xã hội hoá văn hoá và sự nghiệp
phát triển văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
12. Bộ Văn hoá – Thông tin (2003), Hội thảo truyền thống và phát
triển trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở vùng Tây Bắc.
102
13. Bộ văn hóa – thông tin (2004), Tiếp tục đẩy mạnh công tác văn hóa
– thông tin ở vùng đ ng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
14. Bộ văn hoá – Thông tin, Tập bài giảng b i dưỡng kiến thức ngành
văn hoá – thông tin, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà nội 1999.
15. Hoàng Sơn Cường (2003), Văn hóa một góc nhìn, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
16. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước những
thách thức c a toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phạm Quỳnh Chinh (2007), Đô thị hoá và ảnh hưởng c a nó đến
xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở ngoại thành Hà Nội hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Trương Minh Dục – Lê Văn Định (2010), văn hóa và lối sống đô
thị Việt Nam một cách tiếp cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Đăng Dung (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá –
Thông tin, Hà Nội.
20. Thành Duy (1996), Văn hoá trong phát triển c a xã hội Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
21. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông
Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp c a người Việt,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
23. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2010), Báo cáo chính trị c a Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lần thứ XVII.
24. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2015), Báo cáo chính trị c a Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lần thứ XVIII.
103
25. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội
Tỉnh Bắc Giang 6 tháng đầu năm 2014.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Trung ương
giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5
khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5,
khoá IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh
tế – xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Khoa Điềm (2006), Văn hoá là nền tảng tinh thần c a xã
hội. Theo Vietnam.net
37. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bẳn sắc dân tộc, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà
Nội.
38. Trần Khải Định (2003), Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở
Đắc Lắc hiện nay, Tạp chí “Lý luận chính trị”, số 9/2000.
104
39. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hoá và đ i mới, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội.
40. Phùng Văn Đông (2006), Một số vấn đề về thực trạng và định
hướng phát triển đời sống tinh thần ở nước ta. Theo Vietnam.net
41. Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hoá đối với sự phát triển văn
hoá nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Lê Quí Đức (2004), “Di sản văn hoá nhìn từ góc độ kinh tế", Trích
trong: Văn hoá và phát triển ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
43. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống c a dân tộc
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hoá và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
45. Dương Phú Hiệp (2012), cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Lê Như Hoa (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh công nghiệp hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
47. Nguyễn Huy Hoàng (2000), Văn hoá trong nhận thức duy vật lịch
s c a C .Mác, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
48. Nguyễn Huy Hoàng (2003), Triết học – văn hóa, giá trị và con
người, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
49. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình lý luận văn
hoá và đường lối văn hoá c a Đảng Công sản Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
50. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay
từ góc nhìn giá trị văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
51. Đỗ Huy – Trường Lưu (1990), Bản sắc dân tộc c a văn hóa, Nxb
Viện văn hóa, Hà Nội.
105
52. Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hoá thẩm mĩ và sự phát triển c a
con người Việt Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
53. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
54. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.
55. Vũ Ngọc Khánh (2004), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Tập I, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
56. Khoa Văn hóa Xã hội Chủ nghĩa – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh (2003), Giáo Trình Lý Luận Văn Hóa Và Đường Lối Văn Hóa
C a Đảng Cộng Sản Việt Nam (Dùng Cho Hệ Lý Luận Chính Trị Cao
Cấp), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa – Học Viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (1997), Giáo trình văn hoá x hội ch nghĩa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
58. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa – Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (2004), “Kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX)" (2004), Tạp chí Thông tin Văn hoá và phát triển.
59. Lương Quỳnh Khuê (1992), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, một nhu cầu phát triển c a xã hội hiện đại, Tạp chí Triết học (số
4).
60. Vũ Khiêu (2003), Văn hóa Việt Nam. Xã hội và con người, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Đinh Xuân Lâm (1998), H Chí Minh văn hóa và đ i mới, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
62. Nguyễn Thu Linh (2003), Về vai trò c a Nhà nước trong quản lý
văn hóa hiện nay, Tạp chí triết học (số 3).
63. Thanh Lê (2000), Văn hoá và lối sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
106
64. V.I.Lênin (1970), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa, Nxb Tiến
bộ, Matxcơva.
65. Ngô Văn Lệ (1998), Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
66. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống c a các dân tộc thiểu số
ở miền Bắc Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
67. Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Lê Hồng Lý (2000), "Du lịch và vấn đề về vấn đề giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc ở Hà Nội", Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật.
69. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn
học, Hà Nội.
70. H Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
71. H Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội
72. Nhiều tác giả (1998), Tư tưởng H Chí Minh về xây dựng nền văn
hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Nhiều tác giả (2006), Văn hóa thời hội nhập (2006), Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
74. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hoá và sự phát triển, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
75. Phạm Xuân Nam (1993), Phương pháp luận về vai trò c a văn hóa
trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Hữu Ngọc – Dương Phú Hiệp – Lê Hữu Tầng (1987), Từ điển triết
học giản yếu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
77. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
107
78. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
79. Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
80. Nguyễn Hồng Phong (1994), Mấy vấn đề truyền thống dân tộc
trong công cuộc hiện đại hóa ở nước ta, văn hóa và phát triển kinh tế, xã
hội ở nước ta, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
81. Đình Quang (2005), Đời sống văn hoá đô thị và khu công nghiệp
Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
82. Lương Hồng Quang (1999), Dân trí và sự hình thành văn hóa cá
nhân, Nxb Viện văn hóa và Văn hóa thông tin, Hà Nội.
83. Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá
truyền thống c a dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội
84. Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo kết
quả công tác văn hóa, thể thao và du lịch năm 2013; Phương hướng, nhiệm
vụ trọng tâm 2014.
85. Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo kết
quả công tác văn hóa, thể thao và du lịch 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng
tâm 6 tháng cuối năm 2014.
86. Tạp chí Người đưa tin c a UNESCO (11/1988).
87. Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Hoàng Thị Như Thanh (1998), Hướng tới một nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thong
tin, Hà Nội.
108
91. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam:
Cái nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
92. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Lê Quang Thiêm (chủ biên), Trần Đình Hượu, Nguyễn Kim Đính
(1998), Văn hoá với sự phát triển c a xã hội Việt Nam theo định hướng xã
hội ch nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (chủ biên, 1998), Văn hoá lối
sống với môi trường, Nxb Văn hoá – Thông tin, Trung tâm nghiên cứu và
tư vấn về phát triển, Hà Nội.
95. Nguyễn Chí Tình (2003), Văn hóa và thời đại, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
96. Lê Quang Trang – Nguyễn Trọng Hoàn (1998), Những vấn đề văn
hóa Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
97. Hoàng Trinh (1996), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
98. Ngô Văn Trụ (2011). Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn, Nxb Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
99. Ủy bạn nhân dân tỉnh Bắc Giang(2014), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch kinh tế – xã hội 6 tháng đầu năm; nhiệm vụ, biện pháp ch
yếu cần tập trung chỉ đạo 6 tháng cuối năm 2014.
100. Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (2002), Một số
vấn đề về việc triển khai, t chức chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, Hà Nội.
101. Ủy ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1993),
Mấy vấn đề văn hóa và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
102. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hoá ở nước ta, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
109
103. Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hoá – phát triển con
người, Nxb Văn hoá – thông tin, Hà Nội.
104. Hồ Sĩ Vịnh (1999), Văn hoá Việt Nam trong tiến trình đ i mới,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
Danh mục các Website tham khảo:
106. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang (07/2015),
http://www.bacgiang.gov.vn/.
107. Website: Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch Tỉnh Bắc Giang
(07/2015), http://www.vanhoabacgiang.vn/.
108. Website: Sở Giáo Dục và Đào Tạo Tỉnh Bắc Giang (07/2015),
http://bacgiang.edu.vn/.
109. Website: Sở Lao Động Thương inh Và Xã Hội Tỉnh Bắc Giang
(07/2015), http://sldtbxh.bacgiang.gov.vn/.
110. Website: Sở Khoa Học Và Công Nghệ Tỉnh Bắc Giang (07/2015),
http://skhcn.bacgiang.gov.vn/.
110