ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

----------------------

ĐOÀN VĂN NAM

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN

Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BẮC GIANG - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

----------------------

ĐOÀN VĂN NAM

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN

Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

MÃ NGÀNH: 60 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS ĐẶNG THỊ LAN

BẮC GIANG - 2015

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................ 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 8

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 9

6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 9

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ........................................... 9

8. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 9

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG

VĂN HÓA TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

TINH THẦN .............................................................................................. 10

1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần .............................................................................................. 10

1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần .......................................... 10

1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần .......................... 22

1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần ..................................................................................................... 30

1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần ..................................................................................................... 38

1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ................... 38

1.3.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................. 41

1.3.3. Toàn cầu hóa .............................................................................. 43

1.3.4. Diễn biến hoà bình ..................................................................... 46

CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở

TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP . 50

2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang .............................. 50

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc .................................... 50

2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội .......................................................... 51

2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc

Giang hiện nay ........................................................................................... 55

2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng ........................................................ 56

2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống .......................................................... 60

2.2.3. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng ..................................................... 63

2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ .............. 66

2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ...................................................... 71

2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá

trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay .. 75

2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời

sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ................................. 76

2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời sống

văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ......................................... 79

KẾT LUẬN .............................................................................................. 100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 102

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa

mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc” do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra

đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây

dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung

và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X(2006) đã nhấn mạnh:

Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển

kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống

xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ

sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định:

“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát

triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần

nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu

vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức

mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[34; 76].

Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá

nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân

tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm

sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia

đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta

đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục

vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,

1

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa

xã hội”[33; 106].

Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất

nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu công

nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của quá trình

toàn cầu hóa sẽ không đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển

văn hóa một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới

đất nước, nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở

rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành công

có được từ nền kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa, chúng ta

không tránh khỏi những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu

không có sức mạnh của đời sống văn hóa tinh thần, không có định hướng

vững vàng thì sự tồn tại của con người cũng như chế độ chính trị nước ta

cũng khó giữ gìn.

Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh thần giúp con người tự nhận thức

chính mình, hướng con người tới sự hoàn thiện. Đời sống văn hóa tinh thần

còn giúp con người chống lại sự tha hóa trong môi trường của sản xuất

hàng hóa, của chủ nghĩa tiêu dùng, chiến tranh và tội ác. Vì vậy song song

với nhiệm vụ phát triển kinh tế, tất yếu là nhiệm vụ xây dựng văn hóa, công

tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trở thành một nhiệm vụ cấp thiết

trước một thế giới đang biến đổi nhanh chóng như hiện nay.

Trước sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá, bên cạnh những thời cơ

thuận lợi không tránh khỏi những tác động tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến

cá nhân, tổ chức, thậm chí sự vong tồn của một quốc gia. Đó là cơ hội để

văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình, đó là sự

hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn,

tiện nghi thuận lợi hơn. Tuy nhiên đi cùng với đó là vấn đề giữ gìn cơ cấu

2

và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc, đó là vấn đề tha hoá lối sống, nhân

cách, rối loạn những giá trị xã hội, quan hệ xã hội.

Chiến lược “diễn biến hoà bình” là âm mưu cực kỳ thâm độc của các

thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh

vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an

ninh. Để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch tìm

mọi cách du nhập lối sống, đạo đức, văn hóa không lành mạnh vào nước ta,

làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ

nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn

hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc

biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng,

vụ lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.

Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các

địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc

biệt ở khu vực trung du và miền núi trong quá trình chuyển mình phát triển

cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây

dựng đời sống văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một trong

những vấn đề trọng tâm đối với hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai

trò của văn hóa ở cấp cơ sở tại các địa phương làm cho văn hóa thực sự trở

thành nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế –

xã hội trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Bắc Giang là tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống (trong đó

8 dân tộc có số dân trên 1.000 người), cùng với đó sự đa dạng về tôn giáo,

tín ngưỡng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang còn lưu giữ, bảo tồn

nhiều giá trị văn hoá văn nghệ đặc sắc, cần được duy trì và phát triển.

Sinh ra và lớn lên tại Tỉnh Bắc Giang, được thừa hưởng những truyền

thống quý báu, được tiếp thu những giá trị truyền thống của cha ông. Điều

này là vinh dự hết sức to lớn đối với tôi. Hòa chung với sự phát triển khu

3

vực cũng như cả nước, Bắc giang đang tiếp tục chú trọng phát triển công

nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính

sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và

vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn

đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự,

cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh

thần là vô cùng quan trọng, tôi lựa chọn vấn đề: “xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết

học của mình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho

tỉnh nhà, cho quê hương vào một lĩnh vực hết sức rộng lớn nhưng vô cùng

hấp dẫn và mang tính thời sự hiện nay.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Chủ nghĩa Mác – Lênin khi bàn về văn hóa đã khẳng định đó là một

trong những động lực để phát triển xã hội. Trong quá trình đổi mới của đất

nước, sự biến đổi đời sống tinh thần đã được các nhà khoa học nghiên cứu,

xem xét trên những bình diện khác nhau, đến nay chúng ta có thể chỉ ra

những công trình tiêu biểu theo các nhóm sau đây:

2.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa và xây dựng văn hóa, xây

dựng đời sống văn hóa tinh thần

- Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam: Cái

nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách,

bằng các phương pháp khoa học tác giả đã cung cấp cho người đọc một bức

tranh tổng quan về văn hóa Việt Nam với cách trình bày hết sức rõ ràng và

mạch lạc. Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức năng, các

4

loại hình văn hóa (những vấn đề văn hóa học đại cương) để từ đó xác định

tọa độ và con đường phát triển của văn hóa Việt Nam. Đi vào các yếu tố

văn hóa, tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa nhận thức dựa trên cơ

sở triết lý âm dương, mô hình tam tài, ngũ hành của phương Nam (trong đó

có Việt Nam) và chỉ ra sự khác biệt của chúng với con đường phát triển tư

duy phương ắc (chủ yếu là Trung Hoa) cũng đi từ triết lý âm dương (được

gọi là lưỡng nghi ) đến mô hình tứ tượng, bát quái. Về văn hóa t chức

cộng đ ng, tác giả đi vào hai lĩnh vực: đời sống tập thể (với các tổ chức từ

nông thôn đến đô thị và quốc gia) và đời sống cá nhân (tín ngưỡng, phong

tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngôn từ – thanh sắc – hình khối). Từ cấu

trúc văn hóa nêu trên, tác giả phân tích cách ứng x c a người Việt với môi

trường tự nhiên (ăn, mặc, ở, đi lại) và môi trường x hội (sự giao lưu văn

hóa với các giá trị ngoại lai du nhập vào Việt Nam: các tôn giáo, các nền

văn hóa n Độ, Trung Hoa, phương Tây...) và sự đối phó, dung hợp văn

hóa Đông–Tây.

- Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn

hoá ở nước ta, Viện Văn hoá & Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn

sách đã nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ

sở – bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc – đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống thường ngày của

nhân dân.

- Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa trong mối quan hệ thống

nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, từ đó đặt ra yêu

cầu trong hoạt động xây dựng môi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài

hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã

hội nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển

của văn hóa và xã hội.

5

- Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta

hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả đã bàn

đến vai trò của văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, đồng

thời đi sâu nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc và thực trạng văn hóa trong

quá trình đô thị hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng nền văn

hóa dân tộc.

- Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả tiếp cận văn hóa như một tổng thể

chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn cao cả. Từ

đó tác giả đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề

phương pháp luận trong quá trình xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.

Tác giả đã bước đầu đưa ra phương pháp luận nghiên cứu về văn hóa và

phương hướng thực hiện thằng lợi cuộc vân động “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa” ở nước ta hiện nay. Cuốn sách tiếp tục khẳng định

quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” thúc

đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

- Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hoá dân tộc, NX Văn hoá Thông

tin, Hà Nội. Ở đây, văn hóa cũng được tiếp cận dưới góc độ: tiếp cận hoạt

động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận công nghệ. Tác giả cho

rằng “văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất và giá trị tinh thần theo tính

chân, mỹ, thiện, do hoạt động của con người sáng tạo ra, thông qua các

phương thức sinh tồn của đời sống xã hội, và ngày càng phát triển. Văn hóa

là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là văn hóa”

- Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay từ

góc nhìn giá trị văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn sách đã

tiếp cận văn hóa theo thước đo giá trị lịch sử – xã hội, làm hiện diện bản

chất của môi trường văn hóa như một di sản quý báu mà các thế hệ nối tiếp

phải giữ gìn và phát triển.

6

- Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hoá và xây

dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung trình bày những nội dung cơ bản về tư

tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người, mối

quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới, phát triển con người

và xây dựng lối sống đạo đức và chuẩn mực giá trị mới,… Đồng thời cuốn

sách cũng đã đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề

trên.

Các công trình này cũng đó đề cập đến đặc điểm, vai trò của văn hóa

và văn hóa tinh thần cũng như đề cập đến các giải pháp bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên các công trình khoa

học đó nghiên cứu trên một phạm vi rộng, đề xuất những giải pháp ở tầm vĩ

mô.

2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Bắc Giang

- Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2011), Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn,

Nxb Văn hóa – Thông tin. Cuốn sách là những suy nghĩ, đánh giá, trao đổi

có tính học thuật, nghiệp vụ về văn hóa các dân tộc thiểu số trong địa bàn

Tỉnh Bắc Giang, về lễ hội tiêu biển, về văn hóa – du lịch cũng như những

nghiên cứu thực tế về công tác văn hóa tại Tỉnh Bắc Giang.

- Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2006), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, Nxb

Văn hóa dân tộc. Cuốn sách là một nghiên cứu về lịch sử, phong tục, tập

quán, lối sống của một dân tộc cụ thể sống trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang.

Ngoài một số các công trình trên còn có các bài viết in trên các

báo và tạp chí như: Đỗ Huy (2001), “Xây dựng môi trường văn hóa ở nước

ta từ góc nhìn giá trị học”, Văn hóa nghệ thuật, (4); Thu Linh (1994), “Mô

hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (6).

Các bài viết này đã khai thác ở một vài khía cạnh của đời sống văn hóa

tinh thần, khẳng định vai trò của văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần là

động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

7

Nhìn chung các tác giả đều khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng

và phát triển văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần; cho thấy sự quan trọng

của văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần trong quá trình phát triển của đất

nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về

vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở một số vấn đề lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần, luận văn làm rõ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở

Tỉnh Bắc Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian

tới.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ

sau:

+ Thứ nhất, làm rõ khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa tinh

thần, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần.

+ Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở

Tỉnh Bắc Giang hiện nay.

+ Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng

đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh

Bắc Giang hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu giới hạn trong phạm vi đời sống văn hóa tinh

thần ở Tỉnh Bắc Giang; Phạm vi về thời gian: từ khi đổi mới (1986) đến

nay.

8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh về văn hóa. Những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về

văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và có kế thừa những giá trị

của các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố.

- Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân

tích - tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, so sánh…Các phương pháp trên

được sử dụng linh hoạt phù hợp với từng nội dung của đề tài luận văn.

6. Đóng góp của luận văn

Với việc đi sâu nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở

Tỉnh Bắc Giang hiện nay, đề tài giúp chúng ta hiểu rõ hơn thực trạng đời

sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài

bước đầu đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời

sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận c a luận văn

Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản về đời sống văn hóa

tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta hiện nay nói

chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng.

- Ý nghĩa thực tiễn c a luận văn

Luận văn là sự vận dụng những kiến thức đã được học vào nghiên

cứu thực tế. Là tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập, nghiên cứu, công

tác quản lý, xây dựng, hoạch định chính sách về văn hóa cho các cá nhân,

đơn vị, tổ chức có liên quan.

8. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm 4 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu

tham khảo. Riêng phần Nội dung bao gồm 2 chương với 6 tiết.

9

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN

1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống

văn hóa tinh thần

1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần

1.1.1.1.Khái niệm văn hoá, văn hóa tinh thần

Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa đã tiếp tục đưa ra

nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác

nhau. Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, cho đến nay đã có

trên 400 định nghĩa về văn hóa. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để

cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và phong phú. Trong bản

tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mexicô do UNESCO chủ trì họp từ

26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như

sau: Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về

tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội

hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn

chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ

thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng"[86; 5].

Nhờ có văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức đư-

ợc bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành , đặt ra để

xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những "ý

nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân

mình".

Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm

của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà

nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: Văn hóa là toàn

bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn

xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông

10

qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá

trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng

xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của

những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy"[102; 43].

Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là

nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói

chung và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu

và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân,

gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là quá trình vận động

đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá nhân

và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự

thống nhất cao giữa mỗi cá nhân – gia đình – cộng đồng làng xã và toàn xã

hội vì sự tồn tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội.

Ngày nay một quan niệm đầy đủ về bản chất của văn hoá ngày càng

được xác định. Nếu trước đây khái niệm văn hoá chỉ được hiểu theo

nghĩa hẹp trong giới hạn các hoạt động văn học, nghệ thuật thì ngày nay

văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể các hệ thống giá trị bao

gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất và tinh thần của xã hội do con

người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn – lịch sử của mình, trong mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội.

Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao

động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho

con người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những

sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và

dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân –

thiện – mỹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh

nhân văn hoá thế giới đã đưa ra quan điểm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh

tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh

11

ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,

nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn

hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu

hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời

sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [70; 431]. Như vậy từ trong quan niệm

của Hồ Chí Minh toát lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về

nguồn gốc lịch sử của văn hoá, về phạm vi rộng lớn của văn hoá, về mặt

biểu hiện của văn hoá trong đời sống và toàn bộ sinh hoạt của con người.

Hồ Chí Minh soi xét cả hai mặt vật chất và tinh thần của văn hóa.

Về mặt vật chất đó là những công cụ của sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc

ở và các phương thức sử dụng những công cụ ấy. Về mặt tinh thần đó là

ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ

thuật… Đó là hai mặt cơ bản thống nhất biện chứng của văn hóa. Văn

hóa tinh thần được nâng cao bao giờ cũng dựa trên nền tảng văn hóa vật

chất và không có văn hóa vật chất nào của con người lại không chịu sự

tác động của văn hóa tinh thần. Quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ

Chí Minh về văn hoá có ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong sự nghiệp xây dựng

và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khi

mà Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội".

Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng văn hóa được

hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên

nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và

cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở

thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa.

Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng

đồng mà còn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên

thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc,

cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn

12

hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những

nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung

của nhân loại.

Chủ nghĩa Mác – Lênin xem “văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất

và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã

hội – lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”

[64; 507].

Thông thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật,

kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ

thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục...). “Văn hóa là một hiện

tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế –

xã hội” [64; 505].

Là sản phẩm đặc trưng của con người, văn hoá có hai dạng tổng quát:

văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng với

nhau, tuy nhiên việc phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Thực tế,

trong các sản phẩm văn hoá vật chất, dưới cái vỏ vật chất là năng lực sáng

tạo, thẩm mỹ, là dấu ấn văn hoá của người làm ra chúng. Ngược lại, nhiều

sản phẩm văn hoá tinh thần lại thể hiện thông qua dưới dạng vật chất cụ thể

nào đó.

Văn hoá tinh thần bao gồm các sản phẩm tinh thần mang giá trị văn

hoá, do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của

con người, mà trước hết là các hình thái ý thức xã hội như: hệ tư tưởng,

chính trị, đạo đức, khoa học, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… Các sản

phẩm văn hóa tinh thần do hoạt động sản xuất văn hoá tinh thần sáng tạo

ra. Tuy nhiên, so với sản suất các sản phẩm vật chất, sản xuất các sản phẩm

tinh thần có đặc điểm: Nó là quá trình phản ánh hiện thực khách quan

thông qua nhận thức của con người, tái tạo hiện thực trong tư duy và thể

hiện thông qua những hình thức, phương pháp khác nhau (khái niệm, phạm

trù, quy luật, hình tượng nghệ thuật); quần chúng nhân dân suy cho cùng là

13

người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần, nhưng việc sản xuất ra các

giá trị văn hoá tinh thần đòi hỏi phải có năng lực, có kiến thức, có kinh

nghiệm kỹ năng, vì vậy, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra các giá trị văn hoá

tinh thần, nhất là các sản phẩm văn hoá tinh thần mang tính “bác học”

thuộc về đội ngũ trí thức.

Bản thân sản phẩm văn hoá tinh thần cũng gồm hai loại: vô hình và

hữu hình. Sản phẩm văn hoá vô hình là những sản phẩm không có hình thể,

nó tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi trong ký ức xã hội như huyền thoại,

truyền thuyết, tín ngưỡng, truyền thống dân tộc. Sản phẩm văn hoá hữu

hình là những sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới dạng vật thể như bức tranh,

bức tượng, tác phẩm văn học, di tích lịch sử...

Ngoài ra UNESCO cũng phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực, đó là:

“Văn hóa hữu thể và văn hóa vô thể. Việc phân chia này cần thiết để có

cách nhìn toàn diện, tổng thể về văn hóa. Tuy nhiên ranh giới của sự phân

chia này cũng chỉ mang tính tương đối, không thể tách bạch tách rời các

lĩnh vực, bởi lẽ ngay trong văn hóa hữu thể lại có văn hóa vô thể” [105;

100].

Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân

tộc, những nhận thức mới về văn hóa luôn được bổ sung thêm những nội

dung mới, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối

cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc

gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra

trên quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân

tộc do đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu

quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển về kinh tế,

có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo

vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng hóa về văn

hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia, đặc biệt đối với

các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

14

1.1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần

“Đời sống” là một khái niệm rất rộng, trong mỗi khía cạnh xem xét lại

có cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có thể hiểu đời sống là tình trạng

tồn tại của sinh vật như: đời sống của cỏ cây, đời sống của súc vật, đời sống

của con người. Cũng có thể hiểu đời sống là lối sống của cá nhân hay tập thể

như: Đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm. Tuy nhiên trong khuôn khổ của

luận văn, tác giả hiểu: Đời sống là khái niệm dùng để chỉ sự hoạt động của

con người trong từng lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là lĩnh vực văn hóa.

Khái niệm “đời sống văn hóa” có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động

của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống

xã hội để hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái

tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ, đào thải những biểu hiện tiêu

cực tha hoá con người.

Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt

động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá

trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống

vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân

văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời

sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu

cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội

để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính

bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho

cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị

truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề

khẳng định những giá trị mới.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn

luôn có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh

15

dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần

của con người.

Đời sống văn hóa là một bộ phận trọng yếu c a đời sống tinh thần.

Đời sống văn hóa được quan niệm là toàn bộ phương thức sinh hoạt tinh

thần; là một phạm trù phản ảnh một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội,

dùng để chỉ toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hóa;

là tổng thể các dạng hoạt động của con người trên các lĩnh vực: tư tưởng,

đạo đức, nghệ thuật, khoa học, giáo dục – đào tạo, thẩm mỹ, sinh hoạt tôn

giáo, tín ngưỡng, thể dục thể thao... hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Do

đó, xây dựng đời sống văn hóa cũng phải được xác lập trong cái nhìn tổng

thể, bao quát toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ của đời sống xã hội, thể hiện

trong mọi lĩnh vực và các yếu tố cấu thành; chất lượng của đời sống văn

hóa cao hay thấp đều phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của con người để tạo

ra các sản phẩm văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa bao giờ cũng phải

gắn với một bối cảnh, một phạm vi không gian, một cộng đồng dân cư nhất

định, tức là phải gắn liền với cơ sở được xác định. Đời sống văn hóa của

toàn thể xã hội thực thể chỉ tồn tại thông qua đời sống văn hóa cơ sở, thông

qua đời sống văn hóa của từng cá nhân và cộng đồng trong xã hội. Từ

những quan niệm trên, tác giả mạnh dạn khái quát khái niệm “Đời sống văn

hóa tinh thần” như sau:

Đời sống văn hóa tinh thần là t ng hòa sống động các hoạt động sản

xuất, trao đ i, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần làm cho các giá trị đó

thẩm thấu sâu vào từng con người, từng cộng đ ng người trở thành yếu tố

khăng khít c a toàn bộ đời sống hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng

nhu cầu văn hóa tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên c a mọi thành

viên trong xã hội.

Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần là một khái niệm rộng để chỉ toàn

bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương

thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày.

16

Tiêu chí căn bản để xem xét đánh giá đời sống văn hóa tinh thần của

một con người hoặc một cộng đồng người: Trình độ được vun trồng của

con người là sự phát triển của các mặt chân - thiện - mỹ của mặt đời sống,

hoạt động và quan hệ thực tiễn của con người hay cộng đồng đó.

Đời sống tinh thần có cái hay, cái dở, cái tốt, cái không tốt, nhưng đời

sống văn hoá tinh thần chỉ có cái hay, cái tốt. Đời sống văn hoá tinh thần là

biểu hiện và là một bộ phận của đời sống tinh thần nhưng không đồng nhất

với đời sống tinh thần. Bởi vì, nói đến văn hoá là nói đến những giá trị cao

đẹp mà sự hưởng thụ nó giúp con người phát triển, hoàn thiện theo hướng

chân – thiện – mỹ. Mọi con người, mọi cộng đồng xã hội đều có đời sống

tinh thần. Nhưng trên thực tế, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội, cộng

đồng xã hội cao đẹp, lành mạnh, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội,

cộng đồng xã hội thấp kém. Đời sống tinh thần là khái niệm chỉ tất cả các

bộ phận, các lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn đời sống văn hoá tinh thần là

khái niệm nói lên mặt chất lượng của đời sống văn hoá tinh thần, của các

hoạt động tinh thần. Đời sống văn hoá tinh thần là bộ mặt tinh thần của xã

hội, nói lên trình độ đạt được của một cá nhân, cộng đồng, một xã hội về

văn hoá. Đời sống văn hoá tinh thần của một dân tộc được sàng lọc, kết

tinh thành hệ giá trị văn hoá tinh thần, nói lên trình độ, đặc điểm, phẩm

chất, bản sắc của dân tộc đó.

*Cấu trúc đời sống văn hóa tinh thần

Đời sống văn hóa tinh thần không chỉ ở một lĩnh vực mà bao quát rất

nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội như: tư tưởng, nghệ thuật, khoa học,

giáo dục, tín ngưỡng, tôn giáo.

Hoạt động tư tưởng: Nhằm hình thành thế giới quan khoa học. Thế

giới quan khoa học bao gồm không chỉ tri thức, nhận thức, quan niệm mà

còn cả tình cảm, niềm tin. Thế giới quan khoa học vì vậy được coi là cốt lõi

của văn hoá, văn hoá tinh thần, có vai trò định hướng hoạt động và quan hệ

giữa con người với nhau và với thế giới xung quanh, là kim chỉ nam cho

17

hành động. Chính nhờ đó mà tư tưởng, đạo đức, lối sống luôn đi liền nhau,

kết dính với nhau tạo thành lĩnh vực then chốt của đời sống văn hoá tinh

thần. Ngay khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh yêu cầu mở ngay một chiến

dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân. Trong hoàn cảnh mới, Hồ Chí Minh

luôn nhắc nhở phải không ngừng học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập

suốt đời bởi vì: “không có lý luận thì lòng tòng như nhắm mắt mà đi”. Theo

Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là rèn luyện một thế giới

quan, một phương pháp tư duy khoa học, là vận dụng những chân lý phổ

biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta một cách

sáng tạo nhằm giải quyết những công việc thực tế. Vì lẽ đó nên Hồ Chí

Minh luôn yêu cầu lý luận phải gắn với thực tiễn. Học tập chủ nghĩa Mác –

Lênin, thấm nhuần tư tưởng Mác – Lênin nhằm chống lại những hành động

xuyên tạc và tiến công của bọn phá hoại vào đường lối của Đảng, đấu tranh

chống ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại. Có thể nói, chủ nghĩa Mác

– Lênin đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và

trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đời sống văn

hoá tinh thần mới của nhân dân ta. Nó là hoạt động chủ đạo, quy định

phương hướng, trình độ và phẩm chất của toàn bộ đời sống văn hoá tinh

thần cũng như từng bộ phận của nó, đảm bảo cho đời sống văn hoá tinh

thần phát triển đúng hướng, có cơ sở, có gốc rễ vững chắc, lâu bền và có

chất lượng thật sự.

Hoạt động văn hoá nghệ thuật: Văn hoá nghệ thuật là đỉnh cao của

đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong các xã hội trước

đây, nghệ thuật được coi như một loại hình giải trí, mua vui. Những nghệ sĩ

chỉ được coi là lũ xướng ca vô loài”. Nhưng hiện nay lại có quan điểm

khác hẳn, những người người nghệ sĩ rất được coi trọng. Nghệ sĩ biết sử

dụng ngòi bút của mình như “vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ

tà” là những người có lập trường chính trị đúng đắn, để phục vụ nhân dân,

18

đồng thời phục vụ tinh thần quốc tế. Bởi vì, dân tộc bị áp bức thì văn nghệ

cũng mất tự do, văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng.

Hoạt động nghệ thuật phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Chỉ có

thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn

nghệ, thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn

nghệ sĩ, từ đó họ có thể tạo nên những tác phẩm có tác dụng nâng cao tư

tưởng, tình cảm của quần chúng, bồi dưỡng đời sống tinh thần con người,

hướng con người đến những giá trị cao đẹp nhất. Đó phải là những tác

phẩm mô tả vừa hay, vừa chân thật, vừa hùng hồn, phải là những tác phẩm

cá tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao, thể hiện ở nội dung và hình thức

của tác phẩm.

Hoạt động khoa học: Hiện nay chúng ta cũng rất quan tâm và chú

trọng bởi đây là một bộ phận rất quan trọng góp phần nâng cao đời sống

văn hoá tinh thần của nhân dân. Đó là hoạt động sáng tạo và phổ biến tri

thức cần thiết cho con người và xã hội, đáp ứng yêu cầu chinh phục tự

nhiên, cải tạo xã hội và hoàn thiện con người theo hướng đạt tới chân,

thiện, mỹ.

Khoa học đi sâu vào đời sống sẽ nâng cao trình độ dân trí, xoá bỏ

những phong tục, tập quán lạc hậu. Khoa học bản thân nó là một bộ phận

hữu cơ của đời sống văn hoá tinh thần. Những tư tưởng sáng tạo của nhà

khoa học, những thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học, những phát

minh khoa học là những giá trị văn hoá.

Để có những hoạt động khoa học, nghệ thuật, thì con người ai cũng

cần phải học tập, vì vậy cần phải có một nền giáo dục. Giáo dục chính là

hoạt động nhằm trang bị những tri thức cho con người trên mọi lĩnh vực

của đời sống giúp họ có được những phẩm chất và năng lực cần thiết để

sáng tạo những giá trị mới cho cuộc sống, trong đó có giá trị tinh thần. Chỉ

thông qua giáo dục thì mới có thể bảo tồn những giá trị tinh thần, những

truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu, phát triển những giá trị mới.

19

Vì vậy, ngay sau khi chính quyền về tay nhân dân, việc xây dựng một nền

văn hoá giáo dục mới đó chính thức được đặt ra như một trong những

nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là một nhiệm vụ cấp

bách phải tiến hành ngay, không thể chậm trễ.

Để xây dựng một nền giáo dục mới phải đào tạo những con người mới

vừa có đức, vừa có tài, để đúng góp tích cực vào công cuộc kiến thiết đất

nước. Học không phải để chạy theo bằng cấp, mà phải có thực học. Vì thế,

muốn xây dựng được đời sống văn hoá tinh thần mới xã hội chủ nghĩa,

chúng ta phải học nhiều, phải cố gắng học. Nếu không chịu khó học thì

không thể tiến bộ được. Xã hội càng phát triển, công việc càng nhiều, máy

móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị

đào thải. Tự mình đào thải mình, học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời.

Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết

hợp với lao động. Và quan trọng nhất, học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi

người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.

Hoạt động giáo dục đã góp phần to lớn trong việc hình thành một nền

giáo dục mới, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho cụng cuộc xây dựng đời sống

văn hoá tinh thần mới ở nước ta ngày ấy và bây giờ.

Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo

Bên cạnh những yếu tố trên, một yêu tố hết sức nhạy cảm đó là hoạt

động tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một hoạt động có ảnh hưởng rất lớn tới

đời sống tinh thần con người, nó hướng về một thế giới siêu nghiệm với

niềm tin tuyệt đối, không thể chứng minh, nhưng có ảnh hưởng chi phối

mạnh mẽ, sâu sắc đến đạo đức và lối sống của người theo đạo và có tín

ngưỡng, tôn giáo.

Cần sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng,

không được có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,

giữa người có đạo và người không có đạo. Đồng bào lương hay giáo đều là

20

người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là việc lớn,

là sự nghiệp chung không phải chỉ của một, hai người.

Đó là xét dưới góc độ các dạng, các hình thức hoạt động văn hóa cụ

thể. Còn xét dưới góc độ vận động và phát triển đời sống văn hoá tinh thần

là một quá trình vận động qua năm khâu: nhu cầu văn hóa tinh thần; sản

xuất giá trị văn hoá tinh thần; bảo quản các giá trị văn hoá tinh thần; trao

đổi chuyển giao các giá trị văn hoá tinh thần; tiêu dùng các giá trị tinh thần.

Nhu cầu văn hoá tinh thần bao gồm nhu cầu hưởng thụ và nhu cầu

sáng tạo các giá trị văn hoá tinh thần nảy sinh ở con người, cộng đồng

người do tác động của hoàn cảnh sinh sống. Nhu cầu văn hoá tinh thần

khác với nhu cầu tinh thần nói chung. Chỉ những nhu cầu tinh thần nào

hướng tới các giá trị cao cả và sự đáp ứng góp phần phát triển con người

theo hướng lành mạnh, tiến bộ mới được coi là nhu cầu văn hoá tinh thần.

Sản xuất văn hoá tinh thần là hoạt động tìm tòi, phát hiện, phản ánh,

sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần

của con người.

Bảo quản văn hoá tinh thần là các hoạt động bảo lưu, giữ gìn, cất giữ

các giá trị văn hoá tinh thần do con người sáng tạo ra như hoạt động bảo

tồn, bảo tàng, lưu trữ…

Trao đổi văn hoá tinh thần là hoạt động giao lưu văn hoá, trao đổi qua

lại những sản phẩm văn hoá tinh thần giữa người với người, giữa các thế

hệ, giữa các cộng đồng người. Sự trao đổi văn hoá tinh thần cũng là sự

thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hoá.

Tiêu dùng văn hoá tinh thần là quá trình con người, cộng đồng người

lựa chọn, tiếp nhận và hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần của quá khứ

để lại và của đương thời tạo ra đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo các

giá trị văn hoá tinh thần.

21

1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần

1.1.2.1.Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần

“Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần” là một vấn đề rộng, nó bao

hàm tất cả các mặt đời sống văn hóa tinh thần. Hồ Chí Minh chủ trương

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân dựa trên quy luật cơ bản

tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện trong mối

quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị với văn hóa như đã trình bày ở

trên. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần giúp xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là: Xây dựng “Đời sống tinh

thần có văn hóa”; là quá trình thông qua các hoạt động văn hóa làm cho

những giá trị văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, tạo ra một đời sống

tinh thần của xã hội phong phú, lành mạnh và cao đẹp.

Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là:

“Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiến lên, đậm đà bản sắc dân

tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào

toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng con người, từng tập thể

và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan

hệ con người, tạo ra trên đất nước ra một đời sống tinh thần cao đẹp,

trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[30;

54-55].

Hội nghị lần thứ năm an Chấp hành Trung ương khóa VIII cũng

khẳng định cốt lõi của xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta

hiện nay là xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, tình cảm, đạo

đức, lối sống, nhân cách, theo các chuẩn mực sau:

22

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo

nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp vì hòa bình,

độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vị lợi ích chung;

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,

nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của công đồng; có ý

thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái;

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng

tạo, năng suất cao vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội;

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,

trình độ thẩm mỹ và thể lực. [30; 58-59].

Như vậy, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần bao gồm nội dung

khá rộng, bao gồm tổng hợp các hoạt động để đạt được các mục tiêu cơ

bản sau đây:

Một là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trước hết phải kế thừa

được các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc.

Các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tồn tại bền vững trong nền

văn hóa Việt Nam là những giá trị không thể thiếu trong quá trình xây dựng

nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Hai là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cũng chính là xây dựng

những con người mới có chuẩn mực đạo đức, có lối sống lành mạnh, lý

tưởng cao đẹp.

Con người mới được xây dựng có sự kết hợp hài hòa giữa truyền

thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại dựa trên mức sống

ổn định và ngày càng phát triển. Như vậy, muốn xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần lành mạnh, phong phú và cao đẹp, cần phải tập trung vào

nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, không ngừng

nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, đồng thời

23

cần chú trọng xây dựng lý tưởng chính trị, đạo đức phẩm chất cho con

người. Chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn, khách quan về các quan hệ,

chuẩn mực, giá trị văn hóa tinh thần truyền thống với sự biến đổi của nó

trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Xây dựng những con người phát triển cao về mặt thể lực, trí tuệ và

tình cảm, có ý thức công dân, xây dựng những con người sống và làm việc

theo pháp luật của nhà nước tránh tư tưởng tùy tiện gây cản trở trong quá

trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. Trình độ dân trí cao là điều kiện

cần thiết để phát huy sáng kiến, giải phóng năng lực cá nhân một cách

mạnh mẽ, giúp con người lao động có khoa học, có kỹ thuật, tiếp thu các

thành tựu khoa học tiên tiến của nhân loại và nâng cao năng suất lao động.

Hơn nữa, khi trình độ dân trí được nâng lên, nó sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy

lùi các phong tục tập quán lỗi thời, lạc hậu tạo điều kiện thuận lợi cho việc

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, cao đẹp.

Ba là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là t ng hợp những hoạt

động c a các cơ quan làm công tác giáo dục văn hóa nhằm tuyên truyền,

giáo dục, truyền bá văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hóa

tinh thần c a nhân dân.

Xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương cũng có nghĩa là xây dựng

đời sống vật chất và tinh thần phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Định hướng phát triển văn hóa Đại

hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ

phát triển văn hóa... làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng

gia đình, từng người... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,

chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân... Đẩy mạnh việc xây dựng đời

sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh” [33; 212-213].

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở từng địa phương là điều kiện

thiết yếu để bồi đắp nền tảng tinh thần cho xã hội; là nền tảng, là bước đi

ban đầu mang tính hiện thực, trực tiếp để xây dựng nền văn hóa tiên tiến,

24

đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế văn hóa

cộng đồng; góp phần tạo điều kiện cần thiết để nhân dân phát huy và thực

thi quyền làm chủ của mình trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn

hóa, nghệ thuật, xây dựng lối sống văn minh, lịch sự, giữ gìn trật tự, kỷ

cương; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,

tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – văn hóa xã hội và đảm bảo

sự ổn định chính trị.

1.1.2.2. Vai trò c a văn hóa tinh thần đối với sự phát triển xã hội

Thứ nhất, văn hóa tinh thần đối với phát triển kinh tế

Kinh tế và văn hóa, văn hóa tinh thần có mối quan hệ biện chứng

với nhau. Kinh tế là kết quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của

kinh tế. Thực tiễn ngày càng cho thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà

phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực

mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Mỗi nấc thang của tăng

trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn hóa phát triển lại

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển

kinh tế. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, vì phát triển kinh tế để phát triển

con người. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng

một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người

được hạnh phúc và phát triển toàn diện. Vì vậy, văn hóa đóng vai trò là

mục tiêu trước mắt và lâu dài của sự phát triển kinh tế.

Theo khẳng định của UNESCO: “Nước nào tự đặt cho mình mục

tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá, thì nhất định sẽ

xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá và tiềm

năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân

chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi

cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các

mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa” [86; 6].

25

Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết vì nó là

nền tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu cứu cánh mà nó đặt ra

cho tất cả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển

kinh tế đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản

nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc

sống con người. Bất cứ chính sách, biện pháp kinh tế nào về sản xuất, lưu

thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm hàng hóa đều phải thực hiện

mục tiêu cao nhất đó yêu cầu cơ bản đó, tức là vì chính lợi ích của con

người. Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất phát từ

văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bằng nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng ta có

thể làm chủ được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào

hoạt động kinh tế theo chiều sức mạnh thúc đẩy.

Văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định. Văn hóa phát triển

tương xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách toàn diện. Văn hóa và

tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ đa chiều. Mỗi chiều cạnh của quan hệ

này có thể phát huy khả năng của mình, nhưng các chiều cạnh đó lại có mối

quan hệ mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng lực khác

nhau. Với luận điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng

xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn,

năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân

và cộng đồng. Chính vì thế mà văn hóa sẽ là điều kiện không thể thiếu để

thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định. Thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ,

lành mạnh sẽ không có sự phát triển kinh tế bền vững.

Thứ hai, văn hóa tinh thần góp phần điều tiết sự phát triển c a xã

hội, có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững

Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn làm tròn

trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội, cải biến

xã hội: ứng với nó là văn hóa chính trị, văn hóa pháp quyền, văn hóa quản

26

lý xã hội, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân, văn hóa giao tiếp, văn hóa

ứng xử, văn hóa đối thoại, văn hóa lối sống và nếp sống, văn hóa giáo dục,

văn hóa môi trường… Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoá IX của

Đảng đã khẳng định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh

tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng

nâng cao văn hoá – nền tảng tinh thần xã hội bảo đảm cho sự phát triển

toàn diện và bền vững của đất nước” [58; 4].

Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền

vững hiện nay. Văn hóa là nền tảng của đời sống tinh thần bởi văn hóa có

chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối

các hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị,

chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến

trình lịch sử của dân tộc, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một

dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học, nghệ

thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán, lối sống, tạo nên cái cốt, cái

hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi nói bản sắc văn hóa

của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu nước với

những khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng

lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập,

tự do. Những giá trị đó là truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế

thừa và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của

dân tộc.

Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội, là chìa khóa

của sự phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những nhân tố

như: Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công

nghệ, nguồn lực con người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ

chốt. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8

nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình phát triển, thì quy nguyên

tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên là con người, ngu n lực con người có vai

27

trò quyết định, đây là chìa khoá c a mọi chìa khoá. Con người là trung tâm

của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất

và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán

trong mọi giai đoạn phát triển. Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con

người mới, có đủ phẩm chất, năng lực đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất

cần thiết trong quá trình phát triển bền vững.

Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác định nhiệm vụ: “Mở

cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và

phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Phong trào

này đã nhanh chóng được triển khai sâu rộng và sáng tạo, góp phần làm

cho đời sống chính trị ổn định, kinh tế phát triển, giảm bớt các hộ đói

nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, phát huy được tình làng nghĩa xóm, làm

đẹp cảnh quan môi trường, làm cho đời sống văn hoá tinh thần ngày

càng phong phú hơn.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng văn hoá, giáo dục

đào tạo và khoa học công nghệ. Các văn kiện Hội nghị Trung ương khoá

VII, VIII, IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh văn hoá là nền

tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển kinh tế – xã hội. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của

Đảng, Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng

cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn

kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa

thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá

trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế”. [33;

106].

28

Thứ ba, văn hóa tinh thần đối với bảo bệ môi trường

Văn hóa xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự

nhiên là vấn đề chính cần quan tâm để đảm bảo tốt nhất môi trường sống

của con người. Văn hóa Việt Nam gắn với văn minh nông nghiệp, từ trước

đến nay, người Việt Nam đã có mối liên hệ đặc biệt, phụ thuộc vào tự

nhiên. Vì vậy, con người có mối quan hệ gắn bó vô cùng mật thiết với tự

nhiên. Tự nhiên chính là môi trường sống của con người. Môi trường sống

không chỉ cung cấp những điều kiện cơ bản cho con người sinh hoạt như:

ăn, mặc, ở… Như vậy, có thể nhìn nhận thấy tầm quan trọng của môi

trường tự nhiên đối với con người. Trong quá trình phát triển bền vững, vô

tình sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại đến môi trường tự nhiên.

Điều này sẽ đe dọa đến sự sống của con người. Con người luôn nhận thức

rõ mối quan hệ hài hòa của mình với tự nhiên. Cần phải giữ gìn và bảo vệ

tài nguyên là vấn đề cấp bách để có thể phát triển bền vững.

Xây dựng con người tự ý thức, tự giác đối với việc bảo vệ môi

trường là vai trò quan trọng của văn hóa. Ở Việt Nam, vấn đề môi trường

và ảnh hưởng của nó đến phát triển con người đang trở thành thách thức. Ô

nhiễm trên quy mô rộng, suy thoái cục bộ, có dấu hiệu khủng hoảng môi

trường do quá trình phát triển ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ bảo

vệ môi trường đang trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của

chính con người Việt Nam – được hiểu như quá trình không ngừng mở

rộng cơ hội và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người. Thứ nhất, sức

khỏe, tính mạng người dân bị đe dọa trực tiếp do tình trạng nhiễm khuẩn

không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng phát dịch bệnh. Thứ hai, suy thoái

môi trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên tái sinh nuôi sống con người

như biển, sông, hồ, đất màu, rừng, v.v…

Hiện nay, khủng hoảng môi trường, thiên tai bùng phát, biến đổi

khí hậu đe dọa an ninh, tính mạng và tài sản của con người. Chính vì vậy

xây dựng ý thức tự giác của con người đối với việc bảo vệ môi trường

29

chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đến sự sống còn của con người. Văn hóa

xây dựng ý thức tự giác của con người, trước hết bởi chức năng nhận thức

của nó. Con người là trung tâm của văn hóa, tất cả hành vi, hoạt động của

con người đều liên quan đến văn hóa. Văn hóa tạo dựng cho con cách ứng

xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi

ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của

mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu

biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành

vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường.

Vào thời đại ngày nay, sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân, phát

triển hay trì trệ của một dân tộc, thành công hay thất bại của một chiến

lược phát triển, sự hưng thịnh của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào

chỗ văn hóa được nhận thức và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh

tế – xã hội và bảo vệ môi trường để tạo nên sự phát triển bền vững.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định vai trò của văn hóa cũng

như đời sống văn hóa tinh thần đối với sự phát triển của xã hội là đặc

biệt quan trọng, mọi mặt của đời sống con người đều cần đến văn hóa.

Trong đó yêu tố văn hóa tinh thần chiếm một vị trí quan trọng góp phần

vào sự phát triển và tính bền vững trong sự phát triển của xã hội.

1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần

Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác văn hóa, xác định

công tác văn hóa là một bộ phạn của cách mạng Việt Nam. Đây là một chủ

trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nó mang ý nghĩa chiến lược lâu dài

và thực hiện suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) đã khẳng định: ”Một

nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập

vào đời sống hàng ngày của người dân. Đặc biệt là xây dựng đời sống văn

hóa cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học,

30

bệnh viện, cửa hàng, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa”. [26;

101].

Đến Đại hội VI (1986), Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh các hoạt động

văn hóa quần chúng, phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, nâng

cao chất lượng thông tin, đưa đến tận các đơn vị cơ sở, những giá trị văn

hóa nghệ thuật của dân tộc và của thế giới, những kiến thức phổ thông và

hiện đại về khoa học và kỹ thuật. Đưa văn hóa văn nghệ đến vùng rừng núi

và nông thôn hẻo lánh”[27; 91-92]. Đồng thời Đại hội cũng nhấn mạnh đến

vai trò và vị trí của gia đình trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh

tế mới: “Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra các phương

hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức về thực hiện xây dựng gia đình

văn hóa mới bảo đảm hạnh phúc gia đình”[27; 95].

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII, năm

1994 khi đề ra một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ trong những năm trước

mắt đã thấy tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng và phát

triển đất nước, nên Đại hội xác định cần phải: “Đưa đến từng gia đình các

giá trị văn hóa, văn học và nghệ thuật, giáo dục cái tốt, cái đẹp, nâng cao

trình độ hiểu biết và trình độ thẩm mĩ của nhân dân, ngăn chặn những nọc

độc của văn hóa phẩm đồi trụy”[28; 50].

Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, năm 1998 đã

đưa ra: “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc” đề ra phương hướng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, nhất là

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở, “làm cho văn hóa thấm sâu

vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình,

từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt

và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta một đời sống tinh thần cao

đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển”; “tạo ra ở các cơ sở đời sống

văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không những tăng

lên của các tầng lớp nhân dân”; “coi trọng xây dựng gia đình văn hóa”;

31

“đẩy mạnh xây dựng phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa,

nâng cao tính tự quản cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp

sống văn minh”; “phát triển và nâng cao chất lượng hoạt đồng của các thiết

chế văn hóa cơ sở”; “phát động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa”[30; 54-55, 59-60].

Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần, nhất là đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở, trong nhiều năm

qua Nhà nước và các Đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến cơ sở đã có

nhiều chính sách, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đời

sống văn hóa tinh thần nói chung và văn hóa tinh thần ở cơ sở nói riêng.

Tiêu biểu là các chỉ thị, nghị quyết: Năm 1998, ộ chính trị ra chỉ thị số

27/CT–TW và Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 14/1998/CT–TTg “Về

thực hiện nếp sống văn mình trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; Ngày

19/06/1998, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT–TTg

“Về xây dựng và thực hiện hương ước”; Ngày 23/12/1999, Thủ tướng

Chính phủ ra Quyết định số 235/1999/QĐ–TTg về việc thành lập ban chỉ

đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; Ngày 13/12/2001,

theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Bộ Văn

hóa Thông Tin, Thủ tướng chinh phủ đã đồng ý thống nhất hai cuộc vận

động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và phong

trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thành “Cuộc vận

động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do Mặt

trận tổ quốc xã, phường, thị trấn chủ trì, quản lý. Khu dân cư ở đây bao

gồm: thôn, bản, làng, ấp, khu phố, khối phố.; Ngày 02/01/2002, Bộ Văn

hóa Thông tin đã ra quyết định số 01/2002/QĐ–BVHTT về việc ban hành

“Quy chế công nhân danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu văn

hóa”. ên cạnh đó còn rất nhiều văn bản, nghị quyết khác có liên quan.

Điều này cho thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, tiến

hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm chuẩn bị những tiền đề về cơ sở

32

vật chất cho chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng không quên vai

trò của đời sống văn hóa ở cơ sở, bởi đời sống văn hóa của một nước được

thể hiện qua những đơn vị cơ sở, thể hiện ngay trong những môi trường văn

hóa nhỏ của cộng đồng người.

- Mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở khu dân cư

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, năm 1998,

xác định mục tiêu chung của việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ

sở nước ta hiện nay là: “ Tạo ra ở đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã,

phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường

học, đơn vị quân ngũ,…), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi,…)

một đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và

không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân”, “ làm cho văn hóa thấm

sâu vào toàn bộ đời sống và họa động xã hội, vào từng người, từng gia

đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư , vào mọi lĩnh vực

sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần

cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực cho sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[30;

54-55].

Hiện nay, chúng ta thực hiện xây dựng văn hóa ở các địa phương vẫn

lấy việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa làm phương thức chủ yếu.

Chính vì vậy, việc cụ thể hóa mục tiêu nói trên được thể hiện trong nội

dung thực hiện của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống

mới ở khu dân cư” và “Quy chế công nhận gia đình văn hóa, làng văn hóa,

khu phố văn hóa”. Cụ thể:

- Nội dung cơ bản của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng

cuộc sống mới ở khu dân cư” là:

+ Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế;

33

+ Đoàn kết phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương

thân tương ái”;

+ Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, mọi người sống và

làm việc theo pháp luật, theo quy ước, thực hiện quy chế dân chủ;

+ Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc và thuần phong mỹ tục, bảo vệ các di tích lịch sử – văn

hóa, di tích cách mạng, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh;

+ Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển thể dục, thể thao và

chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình;

+ Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh gắn bó mật thiết với

nhân dân trong khu dân cư [101; 6-8].

- Tiêu chuẩn Làng văn hóa có “đời sống văn hóa lành mạnh, phong

phú”:

+ Có các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế phù hợp, có đội văn nghệ

quần chúng; tổ chức văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí;

+ Thực hiện nếp sống văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội. Sinh

hoạt cộng đồng. Không có tệ nạn xã hội, không tàng trữ và sử dụng văn hóa

phẩm thuộc loại cấm lưu hành;

+ Có từ 80% số hộ gia đình trở lên được công nhận gia đình văn hóa.

Đối với làng miền núi được coi là “có đời sống văn hóa lành mạnh,

phong phú” khi đạt tiêu chí sau:

+ Có tụ điểm sinh hoạt văn hóa – thông tin, có đội văn nghệ quần

chúng được duy trì;

+ Tổ chức việc cưới, việc tang, lễ hội theo nếp sống văn hóa phù hợp

với phong tục, tập quán dân tộc;

+ Không tệ nạn xã hội, không trồng, buôn bán và sử dụng thuốc phiện,

ma túy, không tàng trữ và sử dụng văn hóa phẩm thuộc lại cấm lưu hành;

+ Có 60% số hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa.

- Tiêu chuẩn gia đình văn hóa:

34

+ Gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ, mạnh khỏe, hạnh phúc;

+ Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân;

+ Thực hiện kế hoạch hóa gia đình;

+ Đoàn kết, tương trợ cộng đồng dân cư.

- Mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay là:

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Bắc Giang hiện nay là mục

tiêu quan trọng có tầm chiến lược, nhằm nâng cao đời sống văn hóa, xây

dựng con người phát triển toàn diện: Xây dựng nền văn hóa và con người

phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần giá trị văn

hóa dân tộc, dân chủ và khoa học; Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh

thần, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Cụ thể:

 Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người, tạo môi

trường và điều kiện để phát triển trí lực, tâm lực và thể lực, luôn có ý thức

trách nhiệm đối với gia đình, quê hương, đất nước.

 Hoàn thiện các thể chế, chính sách văn hóa đảm bảo xây dựng và

phát triển văn hóa, con người trong giai đoạn hiện nay.

 Từng bước thu hẹp khoảng cách về văn hóa giữa thành thị và nông

thôn, giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi

sự xuống cấp về đời sống văn hóa tinh thần.

- Nội dung xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay bao gồm:

Thứ nhất, t chức xây dựng vững chắc, n đinh chính trị, tư tưởng

Đây là một nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự

nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Chính trị, tư tưởng có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển, tính ổn định

của xã hội. Nó được thể hiện thông qua từng đường lối, chính sách, chiến

lược của Đảng và Nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội; thông qua

thái độ, niềm tin, ý thức của nhân dân trong công cuộc xây dựng quê

hương, đất nước.

35

Thứ hai, xây dựng đạo đức, lối sống

Nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài và thường xuyên của sự nghiệp văn hóa là

xây dựng con người đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác xây

dựng đất nước. Văn hóa xã hội chủ nghĩa xác định lối sống, đạo đức và

chuẩn mực giá trị “mình vì mọi người, mọi người vì mình” và “sự phát

triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người”.

Hiện nay, quá trình phân hóa, phân tầng các loại quan hệ xã hội và gây khó

khăn cho việc tổng hòa các quan hệ xã hội trong bản chất hiện thực của con

người. Mặc khác, các loại hoạt động xã hội của con người hiện đang dần

dần chuyển sang ưu tiên các giá trị vật chất, nhằm đảm bảo và nâng cao

mức sống vật chất. Do đó các giá trị tinh thần – văn hóa phần nào bị coi

nhẹ. Hậu quả là rất khó xác lập được mối tương tác hài hòa giữa giá trị vật

chất và giá trị tinh thần. Trong những điều kiện như vậy, việc xây dựng lối

sống, đạo đức nhằm cân bằng các giá trị vật chất – tinh thần ở mỗi con

người và trong toàn xã hội là rất cần thiết.

Thứ ba, chú trọng đến tôn giáo, tín ngưỡng

Đây là một bộ phận không tách rời của đời sống văn hóa tinh thần. Vì

vị trí, tầm quan trọng của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội là rất

quan trọng và có ảnh hưởng lớn cho nên Đảng và Nhà nước luôn coi trọng

quyền tự do tín ngưỡng, khuyến khích ý tưởng công bằng bác ái, hướng

thiện trong tôn giáo, đồng thời vận động nhân dân xóa bỏ những gì là mê

tín, dị đoan trong các hành vi tín ngưỡng, đặc biệt là ngăn chặn bài trừ các

hoạt động lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây rối, chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Cần phát huy tốt mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng nhằm làm phong

phú và đa dạng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Thứ tư, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, khoa học – công

nghệ

Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, trình độ hiểu biết khoa học,

công nghệ là điều có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc xây dựng nền

36

tảng cơ sở văn hóa. Ở đây chúng ta thấy nổi bật vị trí then chốt của sự

nghiệp giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề cập một cách thấu đáo, đặc biệt là

những kiến thức thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn vần được chú

trọng hơn nữa sao cho lớp trẻ ngay từ tuổi đi học đã được thấm nhuần

những trị thức tối thiểu để “làm người”, để biết “đối nhân xử thế” hòa hợp

với tập thể, với cộng đồng sau này, biết tôn trong những quy định xã hội

một cách căn bản.

Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật

Xây dựng môi trường văn hóa, cụ thể là đẩy mạnh phong trào xây

dựng các làng xã văn hóa, ấp văn hóa, khu văn hóa, các cơ quan xí nghiệp,

trường học, doanh trại trở thành những điểm sáng văn hóa. Phong trào cần

đi vào thực chất một cách vững chắc tránh tình trạng hình thức. Phải củng

cố, hoàn thiện và phát triển một cách lành mạnh các thiết chế văn hóa tại

địa phương (bảo tàng, nhà văn hóa, phòng truyền thống, thư viện, câu lạc

bộ,…), khuyến khích các hình thức sinh hoạt văn hóa (lễ hội, hội diễn văn

nghệ,…) theo hướng phát huy tích cực chủ động, tính tự quản của nhân

dân. Trên cơ sở xây dựng tốt mới có thể chống tốt, đẩy lùi các hiện tượng

không lành mạnh trong sinh hoạt văn hóa. Ở đây, đối tượng cần quan tâm

nhiều nhất là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên – lứa tuổi dễ định hướng

phát triển theo hướng tích cực cũng như dễ rơi vào cạm bẫy, sa ngã.

Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác chăm lo đời sống văn hóa

tinh thần, phát huy tính sáng tạo của các nghệ sĩ, nhà văn hóa; vun trồng

những tài năng văn hóa nghê thuật mới; Tích cực bảo tồn và phát huy các

di sản văn hóa dân tộc nhằm giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trong bối

cảnh mới.

Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa việc xây dựng

đời sống văn hóa tinh thần có ý nghĩa chiến lược, trở thành động lực cho sự

phát triển kinh tế - xã hội.

37

1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn

hóa tinh thần

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là một sự nghiệp lâu dài, cần

phải tiến hành một cách bền bỉ, vững chắc đòi hỏi phải được sự quan tâm,

nhận thức đúng đắn của toàn xã hội. Quá trình này cũng chịu sự tác động

của rất nhiều yếu tố trong đó có 4 yếu tố cơ bản sau:

1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào

đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam

đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng,

đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa

Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên ch nghĩa x

hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6–1991) đã xác định nền văn

hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản

của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ

trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn

kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư an Chấp hành Trung ương

Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta l nh đạo toàn dân xây

dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ

năm an Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng

về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng

38

định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục

tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội"[31; 114].

Tháng 7–2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương

khóa IX đã ra Kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5

(khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4–2006)

khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với

phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội”[33; 106].

Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ

và giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống

nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai các nghị quyết

của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng thời,

đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý

luận này để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 –

2020.

Dưới sự dẫn dắt, soi đường chỉ lối của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực

văn hoá tinh thần của xã hội đã có những thành tựu nổi bật có thể nêu ra

như sau:

- Tư tưởng đạo đức, lối sống có những chuyển biến quan trọng. Chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt hình thành nền

tảng tư tưởng, chỉ đạo cuộc sống. Năng lực đổi mới của cán bộ, nhân dân

được nâng lên.

- Những nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức, tính tích

cực công dân, không khí dân chủ, trình độ dân trí được phát huy.

- Sự nghiệp giáo dục, khoa học đạt những thành tựu mới.

- Lĩnh vực văn học, nghệ thuật tiếp tục phát triển.

39

- Thông tin đại chúng phát triển nhanh về quy mô và số lượng.

- Giao lưu văn hoá với các quốc gia trên thế giới được mở rộng.

- Các thể chế văn hoá từng bước được hoàn chỉnh, nâng cao năng lực

quản lý và trình độ phục vụ nhân dân [14; 8].

Dưới sự tác động của các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước,

công tác văn hoá nói chung cũng như các thể chế văn hoá được mở rộng,

năng lực sáng tạo được tăng cường, quản lý nhà nước ngày càng được đề

cao đã mở ra môi trường văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng, được

hướng dẫn và định hướng ngày càng rõ nét.

Đây là sự khẳng định phương thức mới trong hoạt động văn hoá xã

hội, tạo tiền đề cho quá trình xã hội hoá đời sống văn hoá. Sự hình thành cơ

chế mới, đội ngũ mới, những thiết chế và pháp luật là những cơ sở rất quan

trọng cho bước phát triển lâu dài của đời sống văn hoá tinh thần ở nước ta.

Dựa vào quan điểm chỉ đạo của Đảng, mối quan tâm thực tế của các

cấp uỷ, chính quyền Trung ương và địa phương đối với văn hoá đã tăng

lên. Nhu cầu phát triển văn hoá trở thành mối quan tâm thường xuyên trong

mỗi gia đình và cộng đồng. Những huý kỵ đã giảm bớt (về thị trường, tự do

sáng tạo, giao lưu văn hoá…). Khối lượng sách báo, phim ảnh nghiên cứu

về văn hoá tăng nhanh, Việt Nam học, Văn hoá học từng bước được hình

thành và có vị trí. Nước ta dần có thế và lực mới để phát triển văn hoá.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì còn một số mặt yếu

kém cần được sớm khắc phục, sửa chữa như:

- Sa sút về tư tưởng, đạo đức, lối sống; đáng chú ý là sự sa sút trong

cán bộ đảng viên.

- Thiếu những công trình văn học, nghệ thuật có sức mạnh tư tưởng và

thẩm mĩ cao.

- Sản phẩm văn hoá độc hại lan tràn trong xã hội. Hủ tục mê tín dị

đoan phát triển.

- Trình độ thông tin còn thấp.

40

- Giao lưu văn hoá tuy có phát triển nhưng vẫn còn hạn hẹp.

- Đổi mới về thể chế còn chậm. Việc tăng cường quản lý nhà nước

chưa theo kịp yêu cầu. Đầu tư ngân sách thấp. Xuất hiện sự thiếu hụt các

bộ phận văn hoá chủ chốt [14; 10-11].

1.3.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Sự tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ ảnh hưởng

to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tạo

điều kiện thay đổi về chất của nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động,

tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát

triển kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết

định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác động mạnh mẽ và làm

thay đổi nhiều mặt đối với đời sống xã hội. Quá trình này không thể tách

rời việc tiếp thu, sử dụng những thành quả của khoa học, công nghệ hiện

đại.

– Khoa học và công nghệ đã và đang tăng cường khả năng truyền dẫn,

lan toả và khuyếch tán văn hoá trong quá trình phát triển. Cuộc cách mạng

về khoa học công nghệ đang hàng ngày hàng giờ thay đổi tư duy nhân loại.

Các thành quả khoa học công nghệ đã làm cho loài người xích lại gần nhau

hơn để tiếp nhận những gì mới lạ đến từ ngoài lãnh thổ. Khoa học công

nghệ đã được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, dĩ nhiên là trên “đôi

vai” của khoa học công nghệ là các giá trị văn hoá ngoại sinh thường xuyên

cùng đến với các dân tộc trên thế giới. Với những thành tựu về công nghệ

thông tin, phát thanh, truyền hình, internet, văn hoá nhân loại được lan toả

khắp hành tinh hết sức nhanh chóng, ngoài sức tưởng tượng của con người.

– Khoa học và công nghệ đang làm thay đổi căn bản đời sống văn hoá

của thế hệ trẻ hiện nay so với văn hoá truyền thống của dân tộc. Khi công

nghệ tự động phát triển, Internet cùng với điện thoại di động và truyền hình

vô cùng phổ biến đã tạo ra đời sống văn hoá mới. Khái niệm không gian và

41

thời gian thay đổi. Trái đất như nhỏ bé hơn. Cảm thức thời gian giữa hai

nửa bán cầu đã đổi khác, nghĩa là người ta thường xuyên gặp nhau hơn

bằng kỹ thuật công nghệ. Khái niệm “không gian” được mở thêm biên độ,

nhất là khi người ta là cộng đồng cư dân mạng cư trú trên những địa chỉ vô

hình và “sống thật” trong một “thế giới ảo”. Quan hệ xã hội chằng chéo

phức tạp hơn thế kỷ trước. Người ta kết bạn vô cùng vô tận trên xa lộ thông

tin thế giới. Người ta cũng học được vô số tri thức trên mạng thông tin toàn

cầu. Các yếu tố văn hoá và các yếu tố phản văn hoá đan xen dữ dội. Văn

hoá cá nhân được đề cao trên các trang web riêng tư. Dường như có một

kiểu văn hoá nhiều tầng bậc đang hình thành. Hình như đó là kiểu văn hoá

“bộc lộ” không ngại ngần của hàng triệu cư dân mạng. Nghiên cứu tiếp cận

các trạng thái văn hoá của con người hiện nay có thể thuận lợi nhiều hơn so

với thế kỷ trước.

– Khoa học và công nghệ tác động đến sự biến đổi văn hoá. ước sang

thế kỷ XXI, người ta đã chứng kiến cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ toàn cầu đang diễn ra như vũ bão. Khoa học và công nghệ đã rút ngắn

thời gian cho các quá trình sáng tạo, sản xuất, giúp con người làm việc

nhanh chóng hơn. Người kiến trúc sư giờ đây có thể không biết vẽ bằng bút

chì khi sáng tạo bản thiết kế như những năm 80 của thế kỷ trước, mà vẽ nhà

bằng công nghệ 3D. Trẻ em viết chữ xấu hơn trước và văn bản sẽ giống

nhau đồng loạt khi gõ bàn máy vi tính. Con người đã dựa vào máy tính điện

tử để làm các thuật toán sơ cấp và có thể đã không thuộc bảng cửu chương.

Xét đến cùng, giá trị then chốt của văn hoá là trí tuệ, hiểu biết phong phú

của nhân loại. Khoa học công nghệ một mặt làm cho một nhóm xã hội

thông minh hơn, mặt khác lại có thể làm cho nhiều nhóm xã hội khác

không chịu tư duy nữa. Tất cả như có thể được “lập trình”, kể cả tình yêu

và hạnh phúc gia đình.

– Khoa học và công nghệ tác động đến sự hình thành và phát triển của

thị trường văn hoá phẩm. Với những đột biến của khoa học và công nghệ,

42

thị trường văn hoá phẩm được hình thành với sự đa dạng của các sản phẩm

văn hoá đem đến cho con người. Từ hoạt động tạo tác thủ công chuyển

sang máy móc dây chuyền sản xuất, công nghệ cao, chất liệu mới, các sản

phẩm văn hoá thay đổi rất nhiều so với quá khứ, tạo ra sự hưởng thụ văn

hoá phong phú trong cộng đồng. Chỉ riêng về các sản phẩm trò chơi cho trẻ

em và các sản phẩm lưu niệm, trang trí, tranh ảnh, tượng, phù điêu, vật

phẩm trang trí nội thất... đã đem lại cho đời sống văn hoá nhiều cảm hứng

mới cho con người, tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá xã hội.

– Khoa học và công nghệ tạo ra bước nhảy vọt của ngành công nghiệp

văn hoá. Khoa học công nghệ phát triển đã đem sức mạnh đến cho ngành

công nghiệp điện ảnh những hình ảnh và âm thanh khác xa so với thế kỷ

XX. Hiệu ứng thị giác được công nghệ tiếp sức đã đạt những ấn tượng ảo

giác phi thường cho con người. Các lĩnh vực văn hoá vui chơi giải trí, văn

hoá thông tin, phát thanh, truyền hình, thông tin mạng toàn cầu... đang tác

động mạnh mẽ đến con người và cộng đồng xã hội, làm đổi thay văn hoá

một cách toàn diện và đầy bất ngờ. Nhờ khoa học và công nghệ mà thế giới

tinh thần của con người trở nên phong phú hơn bao giờ hết, làm nên sự đa

dạng văn hoá vô cùng vô tận.

Tóm lại, khoa học và công nghệ hiện nay đã tác động nhiều chiều đến

sự phát triển văn hoá, tác động đến đời sống tinh thần con người. Để phát

huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động trái chiều của khoa

học công nghệ, đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu sâu sắc và cập

nhật về từng lĩnh vực khoa học công nghệ và vận dụng phù hợp trong phát

triển văn hoá.

1.3.3. Toàn cầu hóa

Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

đang trong quá trình hội nhập quốc tế với các dấu hiệu như: gia tăng

thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới;

gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài;

43

gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công

nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại; Phát triển hạ tầng viễn

thông toàn cầu;… Đây là các dấu hiệu rất cơ bản cho thấy nước ta đang

nằm trong quá trình toàn cầu hóa. Hiện tượng này tác động mạnh mẽ đến

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả lĩnh vực văn hóa.

Văn hóa, cũng như các lĩnh vực khác, chịu sự tác động sâu sắc của quá

trình toàn cầu hóa kinh tế. Bản thân văn hóa không chỉ thể hiện ở những

sản phẩm văn hóa tinh thần, trong các hoạt động văn hóa tinh thần mà còn

ẩn chứa bên trong tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, trong tất cả các

nhóm dân cư, trong đời sống tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người,

trong các thể chế chính trị – xã hội của đất nước... Lĩnh vực sản xuất vật

chất đơn thuần cũng hàm chứa trong nó những nội dung văn hóa, phản ánh

đặc tính văn hóa của con người, của cộng đồng người trong lĩnh vực sản

xuất vật chất đó. Một sản phẩm vật chất cụ thể bao giờ cũng kết tinh những

giá trị văn hóa nào đó. Một công ty liên doanh kinh tế không phải đơn

thuần chỉ có nội dung kinh tế mà chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá,

những mối quan hệ văn hóa giữa các bên liên doanh: văn hóa giao tiếp, ứng

xử; văn hóa sản xuất, kinh doanh... và cả những yếu tố chính trị – tư tưởng.

Sự tác động của quá trình này đối với văn hóa vừa biểu hiện trên các lĩnh

vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác, vừa trực tiếp tác động đến

văn hóa, đến các giá trị văn hóa, đến phong tục tập quán, các giá trị truyền

thống và các thiết chế văn hóa của xã hội... mà hiện nay chúng ta khó có

thể lường hết được.

Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta nhận thức sâu

sắc rằng toàn cầu hoá là cơ hội để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy

các giá trị của mình. Song chúng ta cũng đối mặt với các thách thức to

lớn của quá trình toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống dân tộc.

Logíc tồn tại của nền văn hoá dân tộc hiện nay đang diễn ra trong hai

quá trình: Quá trình đẩy nhanh sự hợp tác trao đổi và quá trình gia tăng

44

bản sắc của dân tộc. Hai quá trình này thống nhất biện chứng trong quá

trình toàn cầu hoá. Chúng ta nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để

đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc

nhưng mở cửa để hội nhập và phát triển, mở cửa phải giữ vững nền độc

lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ được cơ cấu và giá trị

nội sinh của văn hoá dân tộc.

Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và trong xu thế toàn cầu

hoá, các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vất chất

và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn, tiện nghi thuận lợi hơn song nó

có khả năng thúc đẩy lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hoá nhân cách,

làm rối loạn những giá trị xã hội, nó phá vỡ sự cân bằng của môi trường

truyền thống, nó thương mại hoá không ít các hoạt động văn hoá và quan

hệ xã hội. Hệ giá trị làng xã Việt Nam với một cơ cấu cộng đồng bền chặt

đang phải thử thách trước làn sóng đầu tư trong quá trình toàn cầu hoá.

Các mối quan hệ trong gia đình, làng xóm có phần lỏng lẻo dần. Khát

vọng làm giàu của các thế hệ đặc biệt là thanh niên đang gia tăng trước

thời cơ và vận hội này với không ít lệch lạc làm thay đổi cơ cấu giá trị của

nền kinh tế cũ để chuyển sang nền kinh tế thị trường.

Việt Nam đã tham gia hội nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á

(ASEAN), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái ình Dương

(APEC) Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm liên kết các giá trị

khu vực và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá gia tăng

mạnh mẽ. Chúng ta cũng bước đầu xây dựng một chiến lược giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong chiến lược này, văn hoá được

coi là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của sự phát triển kinh tế–xã hội. Để Việt Nam phát triển được trong

quá trình toàn cầu hoá, trước hết phải quan tâm xây dựng nền văn hoá

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá đó xác lập hệ giá trị cơ

bản là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân

45

tộc và chủ nghĩa xã hội, có chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưỏng Hồ Chí

Minh làm định hướng và thước đo giá trị.

Tuy nhiên, dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, mặt trái của

kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, thì những thách

thức đối với giá trị văn hóa truyền thống cũng gia tăng. Các nấc thang giá

trị có sự thay đổi sâu sắc, làm cho việc phân biệt đúng – sai", "tốt – xấu"

trong nhiều trường hợp trở nên hết sức phức tạp. Những yếu tố ngoại lai,

lai căng có điều kiện xâm nhập, phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống

văn hóa tinh thần xã hội. Những "nọc độc" về văn hóa, chính trị thâm nhập

vào bằng nhiều con đường, với nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho

tư tưởng, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc; vấn đề "bảo vệ an

ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội"

được đặt ra một cách gắt gao hơn. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lối sống

vì đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, các tệ nạn xã hội... có điều kiện phát

triển. Trong bối cảnh đó, nếu không có chiến lược văn hóa phù hợp, thì sự

ảnh hưởng này sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.

1.3.4. Diễn biến hoà bình

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Các thế lực

thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn

lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi

chế độ chính trị ở nước ta” [34; 185]. Đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”

trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng quyết liệt, là

mặt trận nóng bỏng hàng đầu.

Diễn biến hoà bình được Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch

thực hiện chống Việt Nam trong suốt vài thập kỷ qua. Nội dung của nó bao

gồm chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,

làm cho việc thực hiện chủ trương, đường lối không thành công trên thực

tế, chống phá các cơ quan, tập thể và cá nhân lãnh đạo Đảng và Nhà nước;

Chống phá hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá

46

nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các giá trị văn hoá truyền

thống và cách mạng, chống phá sự nghiệp đổi mới đất nước, âm mưu làm

chệch hướng công cuộc đổi mới, ngăn trở, kìm hãm làm chệch hướng sự

phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

ta, chống phá sự nghiệp quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân,…

Để thực hiện các nội dung trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù

địch sử dụng nhiều phương tiện, nhiều con đường và biện pháp phi vũ

trang rất tinh xảo, trong đó chú trọng sử dụng hệ thống thông tin – truyền

thông toàn cầu như: Đài phát thanh, truyền hình, sách, báo, tạp chí, mạng

internet,…. để tuyên truyền chống phá về chính trị, tư tưởng, tuyên truyền

chống Đảng, chống chế độ, kích động, gây hoang mang và rối loạn xã hội.

Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh

chiến lược “Diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

và “xâm lăng văn hóa” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và bản sắc

văn hóa Việt Nam. Chúng coi tiến hành “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực

tư tưởng, văn hóa là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về

lý luận và tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư

tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhằm chuyển

hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

Các thế lực thù địch thâm nhập, lợi dụng một số cơ quan báo chí, xuất

bản và một số nhà báo bằng thủ đoạn nham hiểm, như: chú trọng đào tạo,

lôi kéo, “chuyển hóa tư tưởng” một số phóng viên. Thông qua “hợp tác,

giúp đỡ” về đào tạo và tiếp cận những nhà báo trẻ có tư tưởng tự do, phóng

khoáng, dễ giao lưu; từ đó lôi kéo họ làm báo theo kiểu “tự do” của phương

Tây. Ra sức thúc đẩy thành lập báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân làm cơ

quan ngôn luận cho “lực lượng dân chủ”; triệt để lợi dụng công nghệ thông

tin, mạng Internet, log… để “công bố” rộng rãi các tài liệu, văn hóa phẩm

có nội dung xấu, phản động; truyền bá thông tin, quan điểm sai trái, thù

địch và khuyến khích nhiều người lên mạng để “trao đổi”, “thu nhận”

47

thông tin; dùng báo mạng làm “nóng” các vấn đề của đất nước; đổi trắng

thay đen, tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây

rối, bạo loạn lật đổ. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, thông qua

nhiều kênh phương tiện, chúng du nhập những sản phẩm văn hóa đồi trụy,

lối sống phương Tây thực dụng, trụy lạc, coi đồng tiền là trên hết, sống ích

kỷ, phi đạo đức, không lý trí, không hoài bảo để kích động lối sống tư bản

trong thanh niên, từng bước làm phai mờ bản sắc văn hóa và giá trị văn hóa

của dân tộc Việt Nam. Chúng huy động tối đa các phương tiện thông tin đại

chúng và tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động người Việt lưu

vong ở nước ngoài để chống phá Việt Nam.

Các thế lực thù địch gia tăng kích động văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác,

tự do công bố các tác phẩm văn học nghệ thuật, phản đối sự kiểm duyệt của

cơ quan Nhà nước, đòi được công khai, đánh giá lại các sự kiện, nhân vật

lịch sử theo quan điểm của phương Tây, từng bước thoát ly sự lãnh đạo của

Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Tiến hành tiếp xúc, lôi kéo các phần

tử văn nghệ sĩ “cấp tiến”, văn nghệ sĩ có biểu hiện dao động chính trị, thông

qua việc mời họ ra nước ngoài giao lưu, hội thảo, tham quan, tham gia biểu

diễn nghệ thuật và trao giải thưởng cho các tác phẩm có nội dung lệch lạc,

phản động, tiêu cực; tài trợ xuất bản những cuốn sách dưới danh nghĩa “văn

hóa tri thức nhân loại” nhưng thực chất là truyền bá tư tưởng tư sản vào

nước ta. Mặt khác, chúng tăng cường tán phát băng đĩa, các bộ phim có nội

dung bạo lực, đồi truỵ gây tác động xấu đến một bộ phận giới trẻ.

48

Tiểu kết chƣơng 1

Trong nội dung của chương 1, luận văn đã phân tích một loạt những

khái niệm cơ bản như: Văn hoá, văn hóa tinh thần, đời sống văn hoá tinh

thần – cấu trúc. Đặc biệt là khái niệm xây dựng đời sống văn hoá tinh thần,

xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở cơ sở, vai trò của văn hóa tinh thần

đối với sự phát triển xã hội. Đó là những khái niệm căn bản cần phải nắm

vững khi tìm hiểu và nghiên cứu về lĩnh vực đời sống văn hoá tinh thần.

Tiếp theo, tác giả chỉ rõ mục tiêu và những nội dung cơ bản của xây dựng

đời sống văn hoá tinh thần cũng như nội dung của vấn đề xây dựng đời

sống văn hoá tinh thần ở nước ta hiện nay. Quá trình xây dựng đời sống

văn hóa tinh thần cũng tùy thuộc vào những yếu tố quan trọng như: đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa; toàn cầu hóa; diễn biến hòa bình.

49

CHƢƠNG 2

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở TỈNH BẮC

GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc

Bắc Giang là tỉnh thuộc vùng Đông ắc Việt Nam, nằm ở toạ độ địa lý

210 vĩ độ Bắc, 106 độ kinh Ðông. Về quy hoạch kinh tế trước đây ắc

Giang nằm trong vùng trung du và miền núi phía Bắc, từ năm 2012 là tỉnh

nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang giáp với

nhiều tỉnh, thành: Phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp tỉnh Quảng

Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên và thủ đô Hà Nội, phía Nam

giáp tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách

trung tâm thủ đô Hà Nội 51 km về phía Bắc. Trên địa bàn tỉnh có các

đường giao thông quan trọng như đường quốc lộ 1A (kết nối Hà Nội – Bắc

Ninh – Bắc Giang – Lạng Sơn); quốc lộ 37 (kết nối Hải Dương – Bắc

Giang – Hà Nội và Thái Nguyên); quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang đi

Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Ðộng, gặp quốc lộ 4A Lạng Sơn đi cảng Mũi

Chùa – Tiên Yên và cửa khẩu Móng Cái–Quảng Ninh; đường tỉnh lộ 279

từ Hoạ Mi – Sơn Ðộng đến Tân Sơn – Lục Ngạn; đường sắt Hà Nội – Ðồng

Ðăng (Lạng Sơn) chạy qua.

Bắc Giang có diện tích tự nhiên 382.200 ha (chiếm 1,2% diện tích tự

nhiên của Việt Nam), trong đó đất nông nghiệp 123.000 ha, đất lâm

nghiệp 110.000 ha, đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở 66.500 ha, còn lại

khoảng 82.700 ha là các loại đất khác [106; 1].

Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi

phía Bắc với châu thổ sông Hồng ở phía Nam. Tuy phần lớn diện tích tự

nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt

nhiều. Bắc Giang nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung và cùng mở ra

như nan quạt, rộng ở hướng Đông ắc, chụm ở phía Tây Nam. Phía Đông

50

và Đông Nam tỉnh là cánh cung Đông Triều với ngọn núi Yên Tử nổi tiếng,

cao trung bình 300 – 900m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068

m. Phía Tây Bắc là dãy núi cánh cung Bắc Sơn ăn lan vào tới huyện Yên

Thế, cao trung bình 300 – 500m. Tại vùng núi phía Đông ắc tỉnh, giáp

với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với

hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài

cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.

Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông, suối trong đó ba sông lớn

là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Ngoài sông suối, Bắc Giang

còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm

Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000

ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha.

Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 20 dân tộc chung sống như: Kinh, Tày,

Hoa, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Mường, Thái, Khơ Me, H’Mông,...

trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số (84,1%); các dân tộc chiếm tỉ lệ nhỏ

là Khơ–me (0,002%), H’Mông (0,002%), Thái (0,004%).

Dân số toàn tỉnh (tính đến hết năm 2010) là 1.567.557 người, mật độ dân số bình quân là 408,1 người/km2, cao hơn so với bình quân của

khu vực và cả nước. Dân số sống ở khu vực thành thị khoảng 151.000

người, chiếm khoảng 9,62% dân số, dân số ở khu vực nông thôn là

1.416.614 người, chiếm 90,38%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,85%

dân số, nữ giới khoảng 50,15% dân số. Số người trong độ tuổi lao động

chiếm khoảng 64,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề

chiếm 24%; số hộ nghèo chiếm 9,78%[106; 2].

2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội

+ Về phát triển kinh tế

Các doanh nghiệp sản xuất thuộc các lĩnh vực như may mặc, điện tử,

hóa chất vẫn sản xuất ổn định và có mức tăng trưởng khá, một số doanh

nghiệp lớn tiếp tục đầu tư thêm cho sản xuất. Các cụm công nghiệp, khu

51

công nghiệp tiếp tục được mở rộng cũng như xây mới như: Khu công

nghiệp Đình trám, khu công nghiệp Vân trung, khu công nghiệp Quang

châu... Điều này làm cho nền kinh tế ở Bắc Giang có sự phát triển rõ rệt.

Các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đều có

sự phát triển nhất định. Đặc biệt là các làng nghề truyền thống như làng

mỳ, làng bánh đa, làng mộc,... có sự phát triển rất mạnh mang lại nguồn thu

nhập khá lớn cho người dân.

Bên cạnh những mặt tích cực do sự phát triển kinh tế mang lại, nó còn

có những yêu tố tiêu cực tác động sâu sắc đến đời sống văn hoá tinh thần

của người dân Bắc Giang. Vì vậy cần phải có những biện pháp cụ thể và

cần thiết để bảo vệ và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của người dân

Bắc Giang.

+ Về tôn giáo, tín ngưỡng

Bắc Giang có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo. Đối với Phật

giáo, hiện nay trên toàn tỉnh Phật giáo có 118 chức sắc, 784 ngôi chùa, có

165.993 phật tử. Đạo Công giáo hiện có 14 giáo xứ, 78 họ đạo, 78 cơ sở

thờ tự (55 nhà thờ, 13 nhà nguyện), 13 linh mục, 348 chức việc, 80 ban

hành giáo, 26.702 giáo dân phân bố ở 58 xã, phường, thị trấn.

Nhìn chung, những năm vừa qua tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh

tương đối ổn định. Về cơ bản, chức sắc và tín đồ các tôn giáo hoạt động

tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật; không có hiện tượng truyền đạo trái

phép; chức sắc và tín đồ các tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo, tham gia tích

cực vào các phong trào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương[3; 1].

Hiện các tín ngưỡng, tôn giáo với những quy định, lệ tục của mình có

ảnh hưởng không nhỏ đối với lối sống, đạo đức và chuẩn mực xã hội. Bên

cạnh yêu tố tác động tích cực vẫn còn tác động tiêu cực của tín ngưỡng, tôn

giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Cụ thể như: Các

thành phần xấu lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, các cá nhân lợi

dụng tín ngưỡng tôn giáo vào mục đích mưu lợi cá nhân....

52

+ Về giáo dục – đào tạo

Ngành giáo dục và đào tạo phối hợp với các địa phương tiếp tục chỉ

đạo các đơn vị tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2013–2014. Tổ

chức kiểm tra, bồi dưỡng công tác quản lý, chuyên môn cho các cán bộ

quản lý, giáo viên các cấp; ban hành hướng dẫn và tổ chức sinh hoạt cụm

chuyên môn cấp THPT và THCS; chỉ đạo các đơn vị tiếp tục triển khai

công tác tự đánh giá ngoài theo ộ tiêu chuẩn mới; kiểm tra, chấn chỉnh,

xử lý vi phạm về thu chi tài chính, dạy thêm học thêm trong các cơ sở

giáo dục...

+ Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao

Chủ yếu tập trung vào tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị,

tình hình kinh tế – xã hội của địa phương; các hoạt động văn hóa, phát

thanh, truyền hình, báo chí luôn cập nhật những thông tin trong và ngoài

nước.

Trong lĩnh vực thể dục, thể thao, đã tổ chức thành công Đại hội thể

dục thể thao các huyện, thành phố và Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh lần

thứ VII. Đồng thời, tham gia thi đấu một số giải thể thao toàn quốc như giải

Vô địch Đẩy gậy, giải Cầu lông trung, cao tuổi...

Bắc Giang có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được quy tụ và

thể hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của cộng

đồng mỗi dân tộc; biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín

ngưỡng, tôn giáo ở lễ hội truyền thống. Hội làng tồn tại hàng ngàn năm với

các nghi lễ, nội dung, hình thức riêng song mục đích chính của lễ hội đều

nhằm giúp cho sự thống nhất, đoàn kết trong cộng đồng làng xã, giáo dục

truyền thống văn hoá, lịch sử, truyền thống chống ngoại xâm, truyền thống

hiếu học, phát triển ngành nghề. Hàng năm, ắc Giang có hơn 500 lễ hội

truyền thống được tổ chức; một số lễ hội tiêu biểu ở Bắc Giang như: Lễ hội

Yên Thế, lễ hội Xương Giang, lễ hội Suối Mỡ, lễ hội Thổ Hà, lễ hội chùa

Bổ Đà, lễ hội Chùa La (Vĩnh Nghiêm), lễ hội Tiên Lục, lễ hội Cầu Vồng, lễ

53

hội An Châu…

Bắc Giang có hàng nghìn công trình tôn giáo, tín ngưỡng cổ đặc sắc

với nhiều loại hình khác nhau như: Đình, đền, chùa, miếu, phủ, từ đường,

văn chỉ, lăng… Mặc dù đã bị mai một đi nhiều do chiến tranh, song những

công trình còn lại như: Đình Lỗ Hạnh (Đồng Lỗ – Hiệp Hoà), xây năm

1576; đình Thổ Hà (Vân Hà – Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão

(Đào Mỹ – Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Cao Thượng, đình

Vường, đình Hả (Tân Yên); chùa Vĩnh Nghiêm (Trí Yên – Yên Dũng);

chùa Bổ Đà (Việt Yên); lăng họ Ngọ, lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa)… đã

thể hiện những dấu ấn lịch sử – văn hóa, nghệ thuật hội họa, điêu khắc

tuyệt tác của người Bắc Giang.

Bắc Giang cũng là nơi có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú như:

truyện thần thoại, truyện cổ tích, huyền thoại, giai thoại, truyện cười, tục

ngữ, ca dao, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát quan họ, chèo, ca trù và dân

ca của các dân tộc thiểu số. Dân ca Quan họ đã được UNESCO công nhận

là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và ca trù là Di sản văn

hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

Bắc Giang có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: khu thắng

cảnh Suối Mỡ (huyện Lục Nam); hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần (huyện Lục

Ngạn); rừng nguyên sinh Khe Rỗ, khu bảo tồn Tây Yên Tử (huyện Sơn

Động) với những hệ động, thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều

loại sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam đang được bảo tồn. Đó

là điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển nhiều loại hình du lịch.

Có thể thấy rằng, Bắc Giang là một vùng đất có bề dày lịch sử, có

truyền thống văn hiến lâu đời. Các dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh có

truyền thống đoàn kết, yêu nước, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc

cũng như cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.

Trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc, những di tích lịch sử – văn

hóa, những tên đất, tên người đã chứng minh, ở bất kỳ giai đoạn nào của

54

lịch sử Bắc giang cũng là một mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và

văn hiến. Mỗi dân tộc sinh sống lâu đời trên đất Bắc Giang đều có truyền

thống tốt đẹp, mỗi địa phương trong tỉnh đều có tiềm năng phát triển. Mặc

dù trải qua những thăng trầm của lịch sử, nhân dân các dân tộc trong tỉnh

đã luôn hòa mình cùng nhân dân của nước chiến đấu, chiến thắng thiên tai,

địch họa, giữ vững và phát huy những tinh hoa văn hóa của cả cộng đồng

nói chung và của các dân tộc nói riêng.

2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh

Bắc Giang hiện nay

Trong thời gian qua, công tác xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở

Bắc Giang đã được các cấp uỷ đảng, chính quyền, các đoàn thể và quần

chúng nhân dân quan tâm xây dựng rộng khắp trên toàn tỉnh. Các chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng đời sống văn hoá ở Bắc Giang được

thực hiện nghiêm túc và hiệu quả với các dự án, đầu tư tập trung vào những

khu vực gặp khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các

dân tộc thiểu số. Việc đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của

các thiết chế văn hoá được chú ý. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông

tin đại chúng, tuyên truyền cổ động của Trung ương, địa phương hướng về

cơ sở và hoạt động văn nghệ quần chúng đã đạt nhiều kết quả tốt. Hệ thống

các thiết chế văn hoá ở Bắc Giang như nhà văn hoá, sân thể thao, câu lạc

bộ, trung tâm văn hoá, nhà giáo dục cộng đồng…đã được xây dựng rộng

khắp làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng của phong trào “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Hầu hết các đơn vị cơ sở đều có các

hoạt động văn hoá, nhân dân được đọc sách báo, nghe đài, xem vô tuyến,

xem biểu diễn nghệ thuật, xoá các “điểm trắng” về hoạt động văn hoá

thông tin. Các phong trào “xây dựng nếp sống văn minh”, “gia đình văn

hoá”, “làng văn hoá”…đã tạo nên sự chuyển biến trong ý thức của cộng

đồng dân cư về vai trò của văn hoá và cuốn hút sự tham gia đông đảo của

các tầng lớp nhân dân.

55

Chính sách xã hội hoá hoạt động văn hoá thông tin ở Bắc Giang đã

huy động được rất nhiều đóng góp của nhân dân vào xây dựng cơ sở hạ

tầng và thiết chế văn hoá trong tỉnh, tạo nên sự thay đổi nhanh chóng đời

sống văn hoá của cộng đồng dân cư. Đời sống văn hoá tinh thần ở Bắc

Giang đã được nâng lên tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống, góp

phần phát huy dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ gìn an ninh, trật tự an

toàn xã hội, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.

Thông qua việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, các yếu tố văn

hoá và nhân tố con người đã được phát huy tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế

phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết các chính sách xã hội.

Thông qua quá trình lãnh đạo, triển khai thực hiện chủ trương xây

dựng đời sống văn hoá tinh thần, nhất là các phong trào xây dựng gia đình

văn hoá, làng văn hoá, khu phố văn hoá, cơ quan, đơn vị văn hoá, doanh

nghiệp văn hoá đã góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển văn hoá, làm

cho văn hoá thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, từng bước xây dựng nếp

sống văn minh và môi trường văn hoá tinh thần lành mạnh; góp phần giữ

gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống

tinh thần cho các tầng lớp cư dân trong Tỉnh.

Những điểm tích cực và hạn chế trong quá trình xây dựng đời sống đời

sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang được biểu hiện cụ thể ở 5 lĩnh

vực dưới đây:

2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng

*Thành tựu và nguyên nhân:

Muốn phát triển kinh tế xã hội, muốn xây dựng đời sống văn hoá trong

sạch, lành mạnh trước hết phải tạo lập cho được một môi trường chính trị

lành mạnh và nhân văn. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và ảnh

hưởng của việc giữ vững ổn định chính trị làm cơ sở cho sự tăng trưởng

kinh tế và phát triển văn hóa của thành phố, từ khi đổi mới, các cấp ủy

Đảng của tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức các hoạt động chính trị của

56

tỉnh một cách đầy đủ và có chất lượng. Công tác tư tưởng được thực hiện

một cách khoa học, có tác dụng chỉ đạo, khơi nguồn cho hoạt động chính

trị đều khắp ở các địa phương, các đơn vị. Hàng năm đã tổ chức các đợt

sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ tỉnh về học tập, triển khai

thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Thường xuyên thông báo tình hình thời

sự trong nước và quốc tế, phổ biến tuyên truyền vận động nhân dân thực

hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Việc triển khai thi hành Hiến pháp đã được Ủy ban nhân dân Tỉnh

quan tâm chỉ đạo triển khai, quán triệt, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội

dung Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức viên chức,

lực lượng vũ trang và người lao động, do vậy Bắc Giang là địa phương

thực hiện triển khai thi hành Hiến pháp sớm trong tốp đầu của cả nước và

tổ chức tập trung quy mô toàn Tỉnh; Chất lượng công tác xây dựng, theo

dõi thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp

luật từng bước được nâng lên, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống

văn bản pháp luật của tỉnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở

địa phương; Các sở, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện thành phố đang

khẩn trương tiến hành rà soát, lập danh mục đề xuất văn bản pháp luật cần

bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với quy định của Hiến

pháp và văn bản của Trung ương.

Công tác cải cách hành chính và đấu tranh chống tham nhũng có nhiều

cố gắng trong triển khai thực hiện. Việc giải quyết thủ tục hành chính tại

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả các cấp tiếp tục được duy trì và từng

bước có chuyển biến tích cực. Các địa phương đã chú trọng triển khai ứng

dụng mô hình một cửa điện tử liên thông hiện đại giữa Uỷ ban nhân dân

các huyện, thành phố với các xã, phường, thị trấn, nhằm giảm thời gian chờ

đợi của tổ chức và người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính. Bên

cạnh đó, công tác kiểm tra cải cách hành chính và kiểm tra đột xuất việc

chấp hành quy tắc ứng xử, chấp hành chế độ công vụ, công chức của công

57

chức, viên chức tại các cơ quan đơn vị được đẩy mạnh. Qua đó kịp thời

chấn chỉnh tác phong, thái độ, ứng xử của đội ngũ công chức, viên chức

trong thực thi nhiệm vụ.

Ở mỗi địa phương cơ sở, trong từng đơn vị công tác, không khí dân

chủ được phát huy mạnh mẽ theo phương châm dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra" là những điểm mới, trái ngược với sự quan liêu, sách

nhiễu, cửa quyền... trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trước đây, tạo

điều kiện cho người dân được trực tiếp biết đến những chủ trương, kế

hoạch hoạt động của đơn vị, tổ chức; được đóng góp ý kiến xây dựng biện

pháp hành động; được trực tiếp tham gia các hoạt động, tham gia vào việc

kiểm tra, đánh giá hoạt động của đơn vị. Những nét mới này đem lại cho

người dân trong toàn tỉnh niềm tin tưởng phấn khởi và ý thức lao động sáng

tạo, phát huy năng lực của mình đóng góp vào sự phát triển chung của quê

hương.

Có thể nói, ở lĩnh vực chính trị, tư tưởng, trong thời kỳ đổi mới, đặc

biệt là những năm gần đây, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có

nhiều cố gắng trong việc giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức đảng

viên. Có sự thống nhất tư tưởng trong Đảng về chủ nghĩa Mác – Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh, về quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, vì vậy

đã tạo được sự ổn định chính trị – xã hội của tỉnh. Sự vươn lên mạnh mẽ

của tỉnh trong những năm qua là kết quả tất yếu bởi được tạo đà phát triển

từ một nền tảng chính trị – tư tưởng vững chắc.

Nguyên nhân c a những thành tựu trên:

 Các cấp uỷ đảng, chính quyền đã vận dụng sáng tạo, phù hợp các chủ

trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với điều

kiện cụ thể của địa phương. Đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp

nhân dân trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo

trong lao động, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.

58

 Tỉnh uỷ và các cấp, các ngành đã có sự đổi mới trong lãnh đạo, chỉ

đạo, điều hành, bám sát mục tiêu Đại hội đề ra, cụ thể hoá các mục tiêu,

nhiệm vụ, giải pháp thành các chương trình, kế hoạch, đề án; thường xuyên

đôn đốc, kiểm tra tổ chức thực hiện; định kỳ sơ kết, tổng kết đánh giá rút

kinh nghiệm.

 Được sự quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương trên lĩnh vực

này.

*Hạn chế và nguyên nhân:

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa theo kịp tình hình, có lúc,

có nơi còn bị xem nhẹ. “Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức H Chí Minh" ở một số nơi chưa đi vào chiều sâu. Tính tiên

phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Chất lượng sinh

hoạt chi bộ có nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác phát triển

đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, địa bàn nông thôn, miền

núi còn khó khăn. Việc đánh giá chất lượng, phân loại tổ chức cơ sở đảng

và đảng viên một số nơi làm chưa thực chất”[23; 10].

Một bộ phận cán bộ đảng viên xa rời quần chúng, có biểu hiện lệch lạc

về mặt tư tưởng, thoái hoá, biến chất làm mất niềm tin của nhân dân vào

đội ngũ cán bộ.

Sự am hiểu về hiến pháp và pháp luận của nhân dân trong Tỉnh còn

hạn chế ở một số nơi như vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Thủ

tục hành chính tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều thiếu

sót gây mất thời gian, công sức của nhân dân; Tình trạng tham nhũng có

giảm so với thời gian trước nhưng vẫn còn cao, chỉ riêng 6 tháng đầu năm

2014 qua thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đã phát hiện sai phạm với số

tiền 26.3 tỉ đồng và 134.644 m2 đất các loại; kiến nghị thu hồi về ngân sách

nhà nước 3,5 tỷ đồng; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cơ

quan có thẩm quyền xử lý 22,8 tỷ đồng; ban hành 352 quyết định xử phạt

vi phạm hành chính với số tiền 1,2 tỷ đồng; kiến nghị cơ quan có thẩm

59

quyền xử lý hành chính đối với 02 tập thể, 30 cá nhân có các hành vi sai

phạm bị phát hiện qua thanh tra[25; 10].

Nguyên nhân c a một số hạn chế:

 Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động

tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý

thức tư tưởng của nhân dân ta.

 Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong đảng và bộ máy

nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều

cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và

các đoàn thể rất yếu.

 Công tác giáo dục tư tưởng chưa được đề cao và thực hiện có hiệu

quả.

Từ những hạn chế trên đòi hỏi cấp bách là phải có biện pháp chấn

chỉnh, sửa đổi ngay để tạo nên sự ổn định trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Tạo điều kiện quan trọng để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong

sáng, lành mạnh, tốt đẹp trong thời gian tới.

2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống

Thành tựu và nguyên nhân:

Với xu hướng phát triển của xã hội đã làm hình thành những nét mới

trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức, trước hết là ở tính năng động,

tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được

khuyến khích trên nhiều lĩnh vực: công tác, học tập, tham gia hoạt động xã

hội. Đây là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong

những năm gần đây, đóng góp quan trọng cho kinh tế của toàn Tỉnh: “Năm

2013, tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân 9%/năm; trong đó: Nông nghiệp,

lâm nghiệp, thủy sản tăng 1,7%; Công nghiệp – xây dựng tăng 13,9%; Dịch

vụ tăng 8,1%”[23; 1].

Những hoạt động tích cực nhằm xây dựng đạo đức, lối sống mới còn

được thể hiện rõ nét ở thế hệ trẻ – đại diện của tương lai với khả năng tiếp

60

thu nhanh những kiến thức mới, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hàng năm, cơ quan Đoàn các cấp tổ chức nhiều

lớp tập huấn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhiều mô

hình phát triển kinh tế giỏi của đoàn viên được thăm quan và học tập.

Những hoạt động này tác động không nhỏ vào thay đổi tư duy, lề lối làm

việc, ý thức của thế hệ trẻ tạo động lực, môi trường tốt cho sự hình thành,

phát triển của một nền đạo đức, lối sống mới.

Thành quả nổi bật nhất trong lĩnh vực đạo đức xã hội được thể hiện

thông qua việc hình thành ý thức đạo đức mới, thiết lập các mối quan hệ,

xây dựng các hành vi ứng xử cộng đồng của mọi người dân. Phát huy

truyền thống đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau theo tinh thần "lá lành

đùm lá rách , hàng loạt các phong trào hoạt động được tổ chức và triển

khai một cách thường xuyên, sâu rộng đã cho những kết quả rất tốt đẹp. Đó

là các phong trào Đền ơn đáp nghĩa , Xóa đói giảm nghèo", "Uống nước

nhớ nguồn", giúp nhau làm kinh tế gia đình, cứu trợ đồng bào vùng thiên

tai, bão lụt, giúp đỡ đồng bào vùng sâu vùng xa kinh tế còn khó khăn...

cùng một số các hoạt động từ thiện, khuyến học, giúp đỡ trẻ em mồ côi, tàn

tật và người già cô đơn..., xây dựng nếp sống văn minh trong ma chay, cưới

xin... Kết hợp lồng ghép với các phong trào trên là các phong trào xây dựng

nếp sống văn minh, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa , làng

văn hóa, gia đình văn hóa. Những hoạt động này được nhân dân trong Tỉnh

hết sức ủng hộ và thực hiện tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến đạo đức,

lối sống trong xã hội.

Trong môi trường giáo dục – đào tạo, vấn đề chăm lo, xây dựng đạo

đức, lối sống cho học sinh, sinh viên được đề cao. Công tác đấu tranh

phòng chống các tệ nạn xã hội tại các trường học được thiện nghiêm túc,

kịp thời đề ra những giải pháp nhằm ngăn chặn. Học sinh, sinh viên tích

cực học tập, rèn luyện bản thân thông qua các hoạt động của các đoàn thể.

61

Công tác tuyên truyền, nếu gương người tốt, việc tốt được Sở thông tin

– truyền thông của Tỉnh đẩy mạnh trên các phương tiện thông tin đại chúng

nhằm giáo dục nhân dân trong Tỉnh nâng cao ý thức đạo đức, lối sống bản

thân.

Một số vấn đề xã hội có ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng môi

trường đạo đức ổn định, trong sạch như: giải quyết công ăn việc làm, chăm

sóc sức khỏe cho người dân, phòng chống tệ nạn xã hội cũng được Tỉnh hết

sức quan tâm.

Nguyên nhân c a các thành công trên lĩnh vực đạo đức, lối sống là:

 Công tác giáo dục và xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh với đấu

tranh khắc phục các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của nhân dân

được kết hợp chặt chẽ.

 Việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo

đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên được phát huy hiệu quả. Có tác dụng

làm gương cho nhân dân noi theo.

 Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ được nhà trường,

gia đình quan tâm, tăng cường và đổi mới cho phù hợp với sự phát triển

của xã hội. Thông qua các hoạt động giáo dục, các phong trào đã tạo môi

trường lành mạnh để thế hệ trẻ rèn luyện, trưởng thành, góp phần hình

thành đạo đức cao đẹp, lối sống lành mạnh, từng bước hoàn thiện nhân

cách.

Bên cạnh các thành tựu đạt được không thể không nhắc đến các hạn chế

còn tồn tại trên lĩnh vực đạo đức, lối sống cần có giải pháp giải quyết. Cụ thể đó

là: Tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn ở mức cao, tình trạng mất cân bằng giới tính có

chiều hướng gia tăng, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được đảm bảo, giảm

nghèo chưa thực sự bền vững, còn tình trạng tái nghèo.

Tình trạng học sinh phổ thông kết bè, kéo cánh, hùa vào những việc xấu

như đánh nhau, trốn học, la cà quán xá, thậm chí nghiện ngập xuất hiện trên địa

bàn Tỉnh không phải là con số nhỏ.

62

Đặc biệt nghiêm trọng là tệ nạn mại dâm, nghiện hút vẫn tồn tại và diễn ra

hết sức phức tạp đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu để tạo ra đời sống

văn hóa lành mạnh.

Nguyên nhân của các hạn chế nói trên: Do điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ

tầng miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn;

trình độ dân trí thấp, tập tục xã hội lạc hậu, tính ỷ lại còn khá phổ biến trong

đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó là việc thực hiện chính sách xã hội để

xảy ra sai lầm ở một số nơi. Những điều này làm cho vấn đề đạo đức, lối sống

vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục sớm nhất có thể. Thêm nữa công tác

giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao nhận thức cho nhân dân trong Tỉnh chưa

đủ mạnh đặc biệt là ở miền núi, vùng xâu, gây ra những hệ luỵ trên lĩnh vực

này.

2.2.3. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng

*Thành tựu và nguyên nhân:

Bắc Giang với đặc thù là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía bắc đất

nước với sự cư trú của đông đảo đồng bảo dân tộc thiểu số tạo nên một đời

sống tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán rất đa dạng và phong phú ở

nơi đây. “Trong Tỉnh hiện có 2 tôn giáo chính đó là Phật giáo và Công giáo

với hơn 186000 tín đồ chiếm hơn 11% dân số toàn tỉnh”[4; 2].

Được sự quan tâm của Ban Tôn giáo Sở nội vụ tỉnh phối hợp với các

tổ chức chính trị xã hội, quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng

đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của các

dân tộc: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động bà con nông dân là tín

đồ các tôn giáo hăng hái thi đua yêu nước, tích cực tham gia thực hiện có

hiệu quả phong trào: “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu

dân cư”, “sống tốt đời đẹp đạo”; đẩy mạnh phong trào chống tội phạm, ma

tuý, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới, hàng năm bà con giáo dân đều

đăng ký và đạt danh hiệu gia đình văn hoá, ký cam kết nói không với các tệ

nạn xã hội, tham gia vào các tổ liên quan tự quản; xây dựng và thực hiện

63

tốt các quy ước, hương ước của thôn xóm, khu dân cư trong việc cưới, việc

tang và lễ hội, không mê tín dị đoan trong hoạt động tín ngưỡng…đã góp

phần tích cực trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và đẩy lùi

các tệ nạn xã hội xây dựng địa bàn dân cư trong sạch, vững mạnh, tạo hình

ảnh đẹp về tinh thần lương giáo đoàn kết gắn bó, giúp đỡ nhau trong cộng

đồng. Hàng chục km đường, nhiều công trình điện, hàng trăm công trình

văn hoá đã được nhân dân và các tín đồ tôn giáo đóng góp xây dựng với

hàng chục tỷ đồng, bộ mặt thôn xóm khang trang, đời sống không ngừng

được cải thiện, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.

Nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, nâng cấp, xây dựng mới đã tạo điều kiện để

đồng bào Công giáo thực hiện việc đạo, chấp hành tốt đường lối, chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Điển hình như họ đạo

Cầu Chính xã Tân Dĩnh, họ Trám, họ Sàn xã Mỹ Hà, họ đạo thôn Tây, xã

Tiên Lục (Lạng Giang), bà con giáo dân xã Châu Minh (Hiệp Hoà) đóng

góp xây dựng một trường học trị giá hàng tỷ đồng, bà con giáo dân Tam Dị

(Lục Nam)… Trên nền tảng đó, với sự quyết tâm cao độ, Sở văn hóa – thể

thao – du lịch tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo xây dựng phong trào “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” sôi động, có sức lan toả và thấm sâu

đến mọi mặt đời sống xã hội ở từng cơ sở.

Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, Ban tôn giáo Sở nội vụ và

các tổ chức chính trị xã hội của Tỉnh tiếp tục phối hợp tuyên truyền giáo

dục chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, vận động các tín đồ tôn

giáo tích cực đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, dân

tộc nhằm chống phá cách mạng; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá

truyền thống, đạo đức lành mạnh của tôn giáo, làm cho tín đồ tôn giáo gắn

bó với dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp, nâng

cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng theo hướng bám sát thực tiễn,

bám sát cơ sở, nắm bắt kịp thời diễn biến. Dự báo đúng chiều hướng tư

tưởng của các tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc trên địa bàn trọng điểm để chỉ

64

đạo, kịp thời cùng với tăng cường đối thoại, thuyết phục: công tác tư tưởng

gắn với công tác tổ chức, nói đi đôi với làm, phát hiện kịp thời, cổ vũ động

viên, nhân rộng các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến trong đồng bào các

tôn giáo; tiếp tục triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho nông dân và hội viên nông dân

vùng đồng bào có đạo, tạo sự đồng thuận, đoàn kết giữa các tôn giáo và

trong cộng đồng dân cư cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc,

góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật

của Nhà nước; xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và bồi

dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, thành phố và đội ngũ

tuyên truyền viên cấp xã, phường, thị trấn.

Sự phối hợp trên đã đạt được những kết quả: giúp cho đồng bào các tôn

giáo nâng cao nhận thức, hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình. Đồng

thời động viên đồng bào tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo” tích cực tham gia

các phong trào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa bàn dân cư.

Nguyên nhân của những thành công trên lĩnh vực này là:

 Công tác tuyên truyền quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật

của nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng được Tỉnh thực hiện tốt góp phần

nâng cao nhận thức của đồng bào tôn giáo góp phần giữ vững ổn định

chính trị, động viên đồng bào tôn giáo tích cực tham gia xây dựng quê

hương.

 Công tác chăm lo đời sống vật chất cho đồng bào tôn giáo được chú

trọng, Ban tôn giáo Sở nội vụ Tỉnh tích cực nhân rộng các phong trào

“Xóm đạo bình yên”, “Chùa cảnh văn hóa”, “Gia đình công giáo gương

mẫu”….

 Vấn đề quản lý tôn giáo, tín ngưỡng được Tỉnh quan tâm và có

những quy chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng tập chung đông

đồng bào tôn giáo; công tác quản lý được tiến hành đồng bộ, xác định rõ

65

ràng chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức khắc phục tình trạng đùn đẩy

trách nhiệm gây phiền hà cho đồng bào tôn giáo.

*Hạn chế và nguyên nhân:

Tuy nhiên, ngoài những yếu tố tích cực thì đời sống tôn giáo,

tín ngưỡng ở Bắc Giang có những dấu hiệu tiêu cực ảnh hưởng xấu

đến sự phát triển kinh tế, xã hội, làm biến dạng ý nghĩa nhân văn,

mất dần những giá trị truyền thống. Những biểu hiện tiêu cực đó là:

Hoạt động mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh. Đặc biệt một số kẻ

xấu lợi dụng sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ người có

công với nước, Đạo giáo phù thủy... để tổ chức các hoạt động nhằm

trục lợi riêng. Lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng vào mục đích xấu.

Nguyên nhân của các hạn chế trên là do: Nhận thức của đồng bào dân

tộc thiểu số ở một số nơi còn hạn chế, hủ tục chưa được bãi bỏ. Ở một số

địa phương công tác quản lý của các cấp chính quyền còn lỏng lẻo chưa

hiệu quả trên lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng.

2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ

*Thành tựu và nguyên nhân:

Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này, sự nghiệp giáo dục –

đào tạo, khoa học – công nghệ được Tỉnh đặc biệt chú trọng và đã có

những bước phát triển mới. Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển. Toàn

tỉnh hiện có 838 cơ sở giáo dục và đào tạo. Mạng lưới các trường được bố

trí hợp lý, bảo đảm mỗi xã có đủ 03 trường (mầm non, tiểu học, trung học

cơ sở); cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được đầu tư nâng cấp theo hướng

kiên cố, hiện đại và từng bước chuẩn hoá, cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu học

tập của người dân; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 80%, vượt mục tiêu đề

ra. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục phát triển về số lượng và tiếp

tục nâng cao về chất lượng, 100% đội ngũ cán bộ, giáo viên đã đạt chuẩn

và trên chuẩn. Công tác quản lý giáo dục và phương pháp dạy học có nhiều

66

đổi mới. Chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học có nhiều chuyển biến

tiến bộ. Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia năm 2015 xếp thứ 11/63 tỉnh,

thành phố trong cả nước; hằng năm có trên 10 nghìn học sinh đỗ đại học,

cao đẳng.

Chất lượng giáo dục toàn diện, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, học

sinh năng khiếu đạt kết quả đáng khá. Việc tổ chức xét tốt nghiệp THCS,

bổ túc THCS nghiêm túc, đánh giá đúng thực chất; tổ chức kỳ thi tốt

nghiệp THPT năm 2013–2014 đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế,

tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt khá cao; Năm 2014: “Cơ sở vật chất, quy mô mạng

lưới trường, lớp học tiếp tục được quan tâm đầu tư theo hướng kiên cố hoá,

chuẩn hoá và hiện đại hoá; tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học bậc mầm non

đạt 67,6%, khối tiểu học đạt 84,9%, khối THCS, THPT đạt 92,4%; tỷ lệ

trường đạt chuẩn quốc gia chiếm 73,4%; Công tác phổ cập giáo dục mầm

non cho trẻ 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 được

chỉ đạo tích cực, trong đó: phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đạt sớm

trước 01 năm so với kế hoạch, 163/230 xã phường, thị trấn đạt phổ cập giáo

dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2, vượt 12 xã so với kế hoạch”[99; 6]. Xã

hội hóa giáo dục, đào tạo tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào khuyến học,

khuyến tài, xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học phát triển sâu

rộng. Tại các cấp học, trường học đều phát động, triển khai các phong trào

thi tìm hiểu pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho sinh

viên, học sinh. Tổ chức các cuộc thi học sinh, sinh viên thanh lịch nhằm

giáo dục nhận thức thẩm mỹ và phong cách ứng xử trong cuộc sống... Các

hoạt động này tạo ra những sân chơi bổ ích, sinh hoạt văn hóa lành mạnh

nhằm phát triển con người toàn diện. Thông qua các hoạt động này, mối

quan hệ giáo viên – học sinh được cải thiện, kỷ cương trật tự học đường

được xây dựng củng cố. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh nhằm ngăn chặn

và đẩy lùi tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy học đường được đẩy mạnh.

67

Mô hình giáo dục toàn diện được xác lập và được nhân dân tin tưởng,

ủng hộ. Các hội khuyến học được thành lập là nguồn trợ giúp lớn lao về cả

vật chất và tinh thần đối với học sinh nghèo vượt khó, con em các gia đình

chính sách và các tài năng trẻ..., do vậy thu hút được sự đồng tình ủng hộ

của mọi tầng lớp, mọi tổ chức xã hội, thúc đẩy các cá nhân, gia đình chủ

động tích cực kết hợp cùng nhà trường và xã hội tạo nên môi trường giáo dục

toàn diện cho học sinh.

Công tác đào tạo nghề được quan tâm đầu tư, từng bước gắn kết giữa

cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm;

mỗi năm, các cơ sở trên địa bàn đào tạo nghề cho gần 3 vạn lao động, ước

đến hết năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 50,5%[24; 6].

Khoa học, công nghệ có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh

tế – xã hội của Tỉnh. Tích cực triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ

trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội

của Tỉnh. Đã ứng dụng các loại giống mới, quy trình kỹ thuật tiên tiến gắn

với áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Một số đề tài, dự án cải

tiến kỹ thuật trong nông nghiệp được triển khai áp dụng có hiệu quả ở địa

phương, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Nhiều sáng

kiến, giải pháp công nghệ tiên tiến được ứng dụng trong lĩnh vực công

nghiệp, y tế, giáo dục, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và

nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ người dân. Hoạt động tiêu chuẩn,

đo lường, chất lượng được đẩy mạnh, quan tâm triển khai áp dụng tiêu chuẩn

ISO trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp áp

dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và xây dựng sản phẩm chứng

nhận hợp chuẩn. Đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng phát triển; trình độ

chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh được nâng lên, đóng

góp tích cực vào việc xây dựng các cơ chế, chính sách của địa phương và tổ

chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

68

Một số tiến bộ kỹ thuật mới về biện pháp canh tác, giống cây trồng,

vật nuôi được đưa vào ứng dụng và nhân ra đại trà. Một số doanh nghiệp

được hỗ trợ đầu tư cải tiến công nghệ, tạo sản phẩm mới, nâng chất lượng.

Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến đã được áp dụng ở nhiều cơ quan nhà

nước và doanh nghiệp. Một số sản phẩm hàng hoá được hỗ trợ xây dựng

thương hiệu sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động khoa

học xã hội, quản lý góp phần tích cực vào việc phát huy nhân tố con người.

Nguyên nhân dẫn đến các thành công trên lĩnh vực này là:

 Bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của học sinh, sinh viên trong

Tỉnh và sự quan tâm chăm lo của các cơ quan, đoàn thể đối với lĩnh vực

này.

 Nhờ những cố gắng phấn đấu vươn lên của ngành giáo dục, đồng

thời có sự quan tâm liên kết của các cấp, các ngành, hoạt động giáo dục –

đào tạo của tỉnh trong những năm gần đây có sự phát triển hơn hẳn cả về

quy mô và chất lượng đào tạo.

 Việc cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về

phát triển giáo dục – đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng

đầu” được các cơ quan lãnh đạo Tỉnh thực hiện nghiêm túc có hiệu quả. Việc

xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch và chương trình phát

triển giáo dục – đào tạo đang dần đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh một số những thành quả đáng khích lệ, lĩnh vực

giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ vẫn còn một số yếu kém, hạn chế

nhất định cần được cải thiện nhanh để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã

hội. Cụ thể là:

Nhiều cơ sở đào tạo và trường học chưa thực sự coi trọng vấn đề xây

dựng môi trường giáo dục lành mạnh để đào tạo những con người phát

triển toàn diện. Nhiều trường học mới chỉ quan tâm tới việc truyền thụ kiến

thức cho học sinh, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục phẩm chất

đạo đức, phát triển nhân cách con người. Một số hiện tượng tiêu cực nảy

69

sinh không được kịp thời uốn nắn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc trong

học sinh, sinh viên: lang thang bụi đời, trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại

dâm v.v... Trật tự học đường ở một số trường chưa được đảm bảo, mối

quan hệ giữa nhà trường – gia đình – xã hội lỏng lẻo, tạo điều kiện cho các

tệ nạn xã hội luồn lách, thâm nhập vào học đường; Môi trường giáo dục ở

một số nơi còn thiếu lành mạnh bởi hoạt động thương mại hóa giáo dục"

của một số thầy cô giáo. Việc mở lớp dạy chui ngoài giờ còn phổ biến ở

các cấp học, trường học làm cho các giờ chính khóa bị coi nhẹ, ảnh hưởng

đến chất lượng đào tạo chung. Hoạt động lãnh đạo quản lý có khi còn buông

lỏng dẫn đến hiện tượng văn bằng, chứng chỉ giả. Trong giáo dục vẫn còn

tình trạng chạy theo “bệnh thành tích”, Nội dung đào tạo, phương pháp

giáo dục còn lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực của học sinh, sinh viên.

Chất lượng đầu ra còn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội….

*Hạn chế và nguyên nhân:

Trong lĩnh vực khoa học – công nghệ cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế:

trình độ phát triển chưa tương xứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng

mới, kết quả đạt được còn nhỏ bé, chưa khai thác và phát huy thế mạnh ở

nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Đội ngũ cán bộ khoa học còn mỏng, chất lượng chưa cao. Công tác đào tạo

đội ngũ cán bộ khoa học và chính sách đãi ngộ đối với những người làm công

tác khoa học chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức dẫn đến tình trạng thiếu

cán bộ đầu ngành và các chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực. Đáng lo ngại nhất

là tình trạng hẫng hụt thế hệ kế cận trong những năm tới khi mà đội ngũ cán

bộ khoa học lớp trước nghỉ hưu.

Nguyên nhân của hạn chế là do: Công tác giáo dục – đào tạo còn mang

nặng về số lượng chưa chú trọng phát triển chất lượng. Bệnh thành tích

trong giáo dục vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nguồn kinh phí cho thí

nghiệm khoa học còn hạn chế…; Việc phân định quản lý Nhà nước với

70

hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo còn chưa rõ ràng, công

tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa thực sự hiệu quả.

2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật

*Thành tựu và nguyên nhân:

Dưới sự chỉ đạo của Sở văn hóa – thể thao – du lịch, Trung tâm văn

hóa tỉnh phối hợp với Nhà hát Chèo tổ chức các chương tình ca, múa , nhạc

phục vụ quần chúng nhân dân cũng như các hội nghị, các sự kiện trong tỉnh

cũng như trong khu vực Bắc bộ.

“Nhà hát Chèo ắc Giang đã tổ chức hàng trăm buổi biểu diễn phục

vụ quần chúng cũng như phục vụ công tác chính trị. Song song với đó là

công tác bảo tồn các hoạt động nghệ thuật như: Chèo, ca trù, quan họ, hát

then…” [84; 5-6].

Bên cạnh những lễ hội truyền thống được tổ chức sôi nổi hàng năm,

ngành đã xây dựng và mở rộng nhiều hình thức hoạt động mới mẻ như: Hội

văn hóa các dân tộc thiểu số, hội thi giọng hát hay thiếu niên toàn tỉnh, hội

diễn nghệ thuật quần chúng, liên hoan văn hoá – văn nghệ các làng văn hoá

tiêu biểu,… thu hút hàng vạn lượt người tham gia. Các lớp bồi dưỡng, tập

huấn nghiệp vụ và năng khiếu nghệ thuật cho cơ sở được triển khai rộng

rãi, giúp cơ sở tiếp cận và phát triển nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá mới,

thúc đẩy phong trào giao lưu văn hoá, văn nghệ giữa các thôn bản. Bên

cạnh đó, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí như: óng bàn, cầu long,

đẩy tạ, thi hát chèo, thi hát quan họ cũng liên tục được tổ chức nhằm khơi

dạy những nếp sinh hoạt văn hóa lành mạnh của địa phương.

Song song với công tác khơi dạy những nếp sinh hoạt văn hóa, Công

tác giữ gìn, tu bổ, tôn tạo “các di sản văn hóa” cũng được quan tâm để các

di sản, di tích trở thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách tới tham

quan. Ban Quản lý các khu di tích lịch sử đã xây dựng và hoàn chỉnh đề án

"Bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di tích lịch sử – văn hóa, danh

71

thắng trên địa bàn tỉnh". Nhằm thu hút khách du lịch cũng như giáo dục

truyền thống đạo đức văn hoá của địa phương cho quần chúng nhân dân.

Trên địa bàn Tỉnh diễn ra nhiều phong trào hoạt động làm đẹp cảnh quan

phường xã làng xóm, giữ cho đường thông hè thoáng, bảo vệ môi trường

chung của xã hội, tạo nét sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng. Tại các

phường, xã, thôn xóm đều triển khai thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn

kết xây dựng cuộc sống mới". Hệ thống trường phổ thông tổ chức các cuộc

thi học sinh thanh lịch, tìm hiểu pháp luật, tìm hiểu luật giao thông, thi đọc

sách, kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Đoàn thanh niên ở các

phường xã, trường học phát động phong trào thanh niên tình nguyện hướng

dẫn giao thông ở các trục đường chính trong giờ cao điểm. Ở vùng sâu,

vùng còn lại hậu, Đoàn thanh niên tích cực phối hợp với các Đoàn trường

học để đón các đợt sinh viên trường học về địa phương thực hiện công tác

tình nguyện góp phần làm đẹp cho cơ sở. Tỉnh chú trọng tổ chức trọng thể

các buổi mít tinh, diễu hành trước các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày kỷ niệm

truyền thống của địa phương, thu hút sự chú ý và tham gia của đông đảo

nhân dân... Đó là những hoạt động được tổ chức thường xuyên, vừa tạo nên

vẻ đẹp về diện mạo của tỉnh, vừa tạo nên nét đẹp trong nếp cảm, nếp nghĩ,

cách ứng xử văn minh, lịch sự, tiến bộ của mọi người dân. Trình độ nhận

thức, ý thức tự giác tham gia vào các hoạt động xây dựng và bảo vệ môi

trường, bảo vệ mỹ quan làng xã của nhân dân, đặc biệt là thanh niên học

sinh ngày càng được nâng lên.

Một không gian văn hóa, nghệ thuật lành mạnh sẽ là môi trường văn hoá

lý tưởng bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời thanh lọc, loại

trừ dần những hủ tục mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, có tác động xấu

tới nhân dân. môi trường văn hoá ấy đủ mạnh để vừa tiếp thu những tinh

hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm nền văn hóa địa phương, vừa có

khả năng đấu tranh chống lại các tệ nạn xã hội đang gia tăng và sự xâm nhập

của văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài tràn vào. Để xây dựng được môi

72

trường văn hoá ấy, cùng với việc khơi dậy và phát huy nét đẹp văn hóa truyền

thống, củng cố và ổn định những giá trị văn hóa hiện đại, tiến bộ, Tỉnh đã đẩy

mạnh những hoạt động tích cực giữ cho môi trường văn hoá trong sạch,

lành mạnh.

Nguyên nhân c a những thành tựu:

 Trong giai đoạn gần đây, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật được

Tỉnh thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Đội ngũ cán bộ làm

công tác văn hóa, nghệ thuật được đào tạo một cách căn bản, năng động và

nhiệt tình với công việc.

 Do đời sống vật chất của nhân dân đã dần đi vào ổn định vì vậy nhu

cầu thỏa mãn những giá trị văn hóa tinh thần được tăng lên tạo ra sự ủng

hộ, tham gia nhiệt tình của nhân dân vào các phong trào, hoạt động văn

hóa, nghệ thuật làm cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật thành công trên nhiều

phương diện.

 Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tài năng văn hóa, nghệ thuật

được chú trọng cùng với các cơ chế, chính sách mới trong việc phát hiện

nhân tài đã tạo ra môi trường tốt cho hoạt động văn nghệ thuật phát triển.

*Hạn chế và nguyên nhân:

Các sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật ở các cộng đồng dân cư còn chưa

đồng đều, công tác tự kiểm tra nâng cao chất lượng chưa được chú ý, một

số lễ hội tổ chức ở các cơ sở còn mang tính chất hình thức, đơn điệu, chưa

khai thác được các nét đẹp trong phong tục tập quán ở các địa phương.

Ở một số đơn vị, cơ sở, phong trào văn hóa mới chỉ có tác dụng về bề

nổi của hoạt động, nhiều khi mang tính hình thức gây nên tình trạng tham

gia vào phong trào như một nghĩa vụ, chưa khơi dậy được tình cảm và ý

thức tự giác của người dân. Trình độ hiểu biết về truyền thống văn hóa, lịch

sử, truyền thống cách mạng của địa phương còn rất mờ nhạt, nhất là đối với

thanh thiếu niên học sinh, chưa trở thành động lực thôi thúc các hoạt động

học tập, rèn luyện, sáng tạo, cống hiến cho quê hương.

73

Nếp sống hiện đại cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh của đời sống đã

làm phai nhạt dần một số tập quán, lễ thức tốt đẹp của địa phương. Các

chuẩn mực của nếp sống văn minh công nghiệp đang trong quá trình hình

thành, chưa trở thành lối sống, nếp sống quen thuộc của nhân dân. Không ít

những hủ tục lạc hậu còn tồn tại gây nên những tác động tâm lý, ảnh hưởng

không tốt đến đời sống sinh hoạt của nhân dân như tư tưởng "trọng nam

khinh nữ", mê tín dị đoan, những tập tục nặng nề trong ma chay, cưới xin...

Đó cũng chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh các tệ nạn xã hội,

hành vi vi phạm pháp luật, lối sống thực dụng, tệ tham nhũng, lừa đảo, làm

ăn phi pháp..., những căn bệnh" của kinh tế thị trường không dễ bề chữa

trị.

Nguyên nhân c a một số hạn chế:

Do chưa nhận thức được thấu đáo vị thế quan trọng của vấn đề xây

dựng môi trường văn hoá trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của

tỉnh, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

cho nên các cấp lãnh đạo chưa tạo lập được một hệ thống cơ chế chính sách

đồng bộ, thống nhất, chưa vạch ra được những chương trình hành động

thiết thực để từ đó xây dựng một hệ thống các giải pháp hữu hiệu, xây dựng

môi trường văn hoá phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh của địa

phương. Các hoạt động văn hóa và xây dựng môi trường văn hoá dường

như là hoạt động độc lập của ngành văn hóa, chưa có sự chỉ đạo phối hợp

tích cực, đồng bộ hoạt động của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể có liên

quan cùng hướng vào một mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế kết hợp

xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đảm bảo sự phát triển hài hòa cả

đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân trong Tỉnh.

74

2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy

mạnh quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc

Giang hiện nay

Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần là một bộ phận quan trọng của sự

nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo xây dựng đời sống

văn hoá tinh thần là chăm lo hạnh phúc của con người – mục tiêu phấn đấu

cao nhất của chế độ ta. Mặt khác, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần là

xây dựng con người, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người – nguồn

lực quyết định nhất trong các nguồn lực của sự phát triển. Từ ngày đổi mới

đất nước đến nay, vấn đề xây dựng nền văn hóa được đặt ra một cách cấp

thiết. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, VII, VIII, IX, X, XI

của Đảng và các nghị quyết của Bộ chính trị, Hội đồng lí luận Trung ương

không ngừng hoàn thiện tư tưởng về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần.

Trong quá trình thực hiện các đường lối chính sách của Đảng trong

việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, Tỉnh Bắc Giang đã đạt được

những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt: Chính trị, tư tưởng, đạo

đức, lối sống, giáo dục – đào tạo và khoa học, văn học, nghệ thuật…, bên

cạnh đó thì cũng còn tồn tại không ít hạn chế, những mặt trái nhất định.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp uỷ đảng và chính quyền

chưa thường xuyên, liên tục. Những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực đời

sống văn hoá tinh thần còn chưa vững chắc, chất lượng chưa cao, nhiều

phong trào còn mang tính hình thức và mắc bệnh thành tích. Cơ sở vật chất

và hệ thống thiết chế văn hoá xã hội ở một số nơi còn thiếu thốn, nhất là

vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số. Đội

ngũ cán bộ quản lý hoạt động văn hoá còn thiếu và yếu, chính sách đãi ngộ

chưa thoả đáng. Các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức

tạp, chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời…Để khắc phục những hạn chế,

yếu điểm trên cần phải có một phương hướng chỉ đạo chung và hệ thống

75

giải pháp nhằm xây dựng và phát triển hơn nữa đời sống văn hoá tinh thần

ở Bắc Giang hiện nay.

2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng

đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay

Một là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hướng đến xây dựng và

phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển con

người toàn diện

Mọi hoạt động văn hóa văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển

nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc tộc, xây dựng con người Việt Nam về

tư tưởng, đạo đức, tinh thần, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn

hóa lành mạnh cho sự phát triển của xã hội. Đời sống văn hóa tinh thần mà

chúng ta đang xây dựng phải thấm đậm trong tất cả các khâu nhu cầu, sản

xuất, trao đổi giao lưu và tiêu dùng giá trị tinh thần trong mọi lĩnh vực hoạt

động: chính trị, tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục và tín ngưỡng tôn

giáo sao cho ở mọi khâu, mọi lĩnh vực chúng ta đều có cách nghĩ, cách làm

và có sản phẩm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam.

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

là nhằm xây dựng con người phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí

tuệ, đạo đức, thể chất năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,

khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa

trong gia đình, cộng đồng xã hội.

Hai là, coi trọng, tiến hành đ ng bộ trong xây dựng các khâu,

các lĩnh vực c a đời sống văn hóa tinh thần.

Đời sống văn hóa tinh thần là một hệ thống hữu cơ bao gồm nhiều

khâu, nhiều lĩnh vực hoạt động lồng ghép hòa quyện vào nhau, có quan hệ

tương tác, chi phối và chế ước lẫn nhau. Trong mỗi khâu đều bao hàm các

lĩnh vực và trong mỗi lĩnh vực đều bao hàm các khâu. Chẳng hạn, trong

khâu sản xuất giá trị tinh thần có các lĩnh vực hoạt động sản xuất tư tưởng,

nghệ thuật, khoa học…hay ngược lại trong lĩnh vực hoạt động tư tưởng có

76

các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi…giá trị tư tưởng. Và như thế bản thân

mỗi khâu, mỗi lĩnh vực của đời sống văn hóa tinh thần có văn hóa riêng của

mình đòi hỏi phải được xây dựng và thường xuyên nâng cao: văn hóa sản

xuất, văn hóa tiêu dùng, văn hóa nghệ thuật…đồng thời, hoạt động và kết

quả trong mỗi khâu, lĩnh vực đều tác động qua lại lẫn nhau và với đời sống

văn hóa tinh thần chung của toàn xã hội. Như vậy, các khâu, các lĩnh vực

của đời sống văn hóa tinh thần vận động trong sự tác động tương hỗ và tùy

thuộc lẫn nhau. Sự tiến bộ nhịp nhàng của các khâu và các lĩnh vực đó tạo

lên sự phát triển hài hòa và vững chắc của đời sống văn hóa tinh thần.

Ba là, kết hợp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần với phát triển kinh tế và hoàn thiện

đời sống chính trị.

Sự vận động và phát triển của đời sống văn hóa tinh thần trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn liền, phụ thuộc và tác động trở lại tiến

trình và kết quả của việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế và chính trị của

chủ nghĩa xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần không thể không

tính đến khả năng cung cấp, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất của xã hội,

phải lượng sức mà làm; và ngược lại, sự phát triển kinh tế không thể bằng

mọi giá mà bỏ mặc hoặc hy sinh đời sống văn hóa tinh thần để theo đuổi lợi

nhuận cho riêng mình một cách phiến diện. Xử lý đúng đắn mối quan hệ

giữa phát triển kinh tế và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là làm cho

hai bên tự giác, thích ứng với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát

triển, bảo đảm cho xã hội tiến bộ toàn diện và phát triển bền vững.

Đời sống văn hóa tinh thần chịu sự tác động mạnh mẽ của đời sống

chính trị. Đời sống chính trị không ổn định hoặc lệch lạc, yếu kém thì

không thể thành công trong nhiệm cụ xây dựng đời sống văn hóa tinh thần.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhất là trong điều kiện quá trình

toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và các thế lực thù địch đang ra sức lợi

dụng quá trình này để đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” như hiện nay thì sự

77

ổn định chính trị đang phải chịu sức ép từ nhiều phía. Nhưng ổn định chính

trị là điều kiện tiên quyết cơ bản để thành công. Cố nhiên, chính trị ổn định

không có nghĩa là trì trệ, không đổi mới và hoàn thiện dần. Ổn định chính

trị ở đây là giữ cho chế độ ta – chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà

nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh

đạo của Đảng, không xảy ra rối loạn chính trị.

Hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh bảo đảm quản lý nhà nước,

phát huy được mặt tích cự, ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh những mặt

tiêu cực của cơ chế thị trường, từ đó mới bảo đảm xây dựng và quản lý có

hiệu quả toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần cũng như từng khâu, từng lĩnh

vực hợp thành của nó. Phát triển kinh tế, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây

dựng đời sống văn hóa tinh thần có quan hệ tương tác chế định lẫn nhau

một cách chặt chẽ. Do đó, trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần đòi

hỏi phải kết hợp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa xây dựng

đời sống văn hóa tinh thần với phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống

chính trị.

Bốn là, lựa chọn và tập trung các ngu n lực giải quyết các

nhiệm vụ trọng tâm, các mục tiêu trọng điểm, có ảnh hưởng quyết định đến

xu thế vận động c a đời sống văn hóa tinh thần.

Xác định đúng đắn phạm vi và đối tượng ưu tiên trong chương trình

tổng thể xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là rất quan trọng và cần thiết

để tập trung sự chỉ đạo và nguồn lực mạnh vào giải quyết một số mắt khâu,

lĩnh vực và một số đối tượng có ảnh hưởng quyết định đến xu thế phát triển

của đời sống văn hóa tinh thần, nhanh chóng giành cho được những thành

quả rõ rệt và phát huy những thành quả đó để thúc đẩy sự chuyển biến tích

cực của các khâu, các lĩnh vực, các đối tượng cần xây dựng khác. Đương

nhiên, sự lựa chọn này không thể tùy tiện, chủ quan mà nhất thiết phải dựa

trên những căn cứ khoa học, những điều kiện thực tế khách quan.

78

Năm là, bảo t n, tôn tạo các di tích lịch s các di sản văn hóa,

sáng tạo các giá trị văn hóa mới, xây dựng môi trường văn hóa, x hội

lành mạnh.

Tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện luật di sản văn hóa (đã sửa đổi năm

2009) bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Tăng

cường nguồn vốn đầu tư kết hợp với công tác xã hội hóa để chống xuống

cấp các di tích do thời tiết, chiến tranh làm hư hỏng nặng, tăng cường công

tác bảo vệ cổ vật tại các đình, đền, chùa và nạn chảy máu cổ vật ra nước

ngoài. Đầu tư nghiên cứu phục hồi các lễ hội truyền thống và lập hồ sơ

khoa học bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tiêu biểu.

Chú trọng công tác sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác, trình diễn, quảng bá

văn học nghệ thuật; phát triển toàn diện đồng bộ các lĩnh vực, các chuyên

ngành, các loại hình văn hóa; văn học nghệ thuật trên cơ sở kế thừa và phát

triển những tinh hoa văn hóa, văn nghệ truyền thống, sáng tạo nhiều tác

phẩm có giá trị tư tưởng và có tính nghệ thuật cao.

Đặc biệt quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; khôi phục

và giữ gìn những phong tục tập quan tốt đẹp, hình thành văn hóa lãnh đạo,

văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp, đấu tranh từng

bước xóa bỏ tiêu cực, tệ nạn trong đời sống văn hóa.

Chủ động mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các Tỉnh trong khu

vực cũng như trong cả nước, tăng cường quảng bá những giá trị văn hóa

tiêu biểu, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa và những xu hướng, trào

lưu văn hóa tiến bộ.

2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời

sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay

2.3.2.1. Nhóm giải pháp về tổ chức, chỉ đạo xây dựng môi trường văn

hóa

Một là, nâng cao nhận thức về bảo vệ và xây dựng đời sống văn hóa

cho cán bộ, nhân dân

79

Đây là giải pháp tổng thể nhằm tạo ra những hiểu biết toàn diện về văn

hóa, về công tác văn hóa tư tưởng, về đời sống văn hoá và nhiệm vụ xây dựng

đời sống văn hoá cho nhân dân, trên cơ sở đó biến quá trình xây dựng đời sống

văn hoá thành quá trình tự giác, xây dựng động cơ đúng đắn và hành động

thiết thực cho mỗi người.

Thực tế cho thấy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, khiếm

khuyết trong công tác xây dựng đời sống văn hoá là do một bộ phận cán bộ,

nhân dân chưa thực sự ý thức được một cách đầy đủ về vai trò quan trọng

của xây dựng đời sống văn hoá. Vì vậy, trong việc hoạch định các kế hoạch,

chương trình hành động cũng như trong chỉ đạo thực hiện xây dựng đời

sống văn hoá ở cơ sở hầu hết chú trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế, xây

dựng cơ sở hạ tầng, bài trừ tệ nạn xã hội và giữ gìn vệ sinh môi trường. Do

công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách văn hóa ở cơ sở làm

chưa tốt dẫn đến tình trạng chính các cán bộ này cũng hiểu một cách đơn

giản rằng, hoạt động xây dựng đời sống văn hoá là việc cụ thể hóa cuộc vận

động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư và các

phong trào xây dựng gia đình văn hóa... Cũng từ những hiểu biết phiến diện

đó, hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang, mà

cụ thể là ở phần lớn các xã, phường mới chỉ đạt kết quả ở mặt hình thức như:

giữ trật tự kỷ cương đường phố, giữ vệ sinh nơi công cộng, nhà cửa gọn

gàng, ngăn nắp, ăn mặc sạch sẽ, cử chỉ lịch thiệp... Thực chất, đó là những

phong trào hoạt động cụ thể nhằm tạo ra nếp sống, nếp sinh hoạt văn minh,

hiện đại nên có tính giai đoạn, tính thời điểm, và chỉ là một trong nhiều yếu

tố cấu thành đời sống văn hoá.

Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ngoài những nội dung trên còn

nhằm vào những mục tiêu hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất

lượng cuộc sống như: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, hình thành

nên các chuẩn mực, quy tắc ứng xử, phong cách sinh hoạt..., vì vậy là hoạt

80

động mang tính liên tục, toàn diện và đi vào chiều sâu. Xây dựng đời sống

văn hoá tinh thần không thể mang tính thời điểm và không được phép đứt

đoạn bởi lẽ bản thân đời sống văn hoá tồn tại, vận động và phát triển ở mọi

nơi, mọi lúc, gắn chặt với mọi hoạt động của con người trong đời sống xã

hội. Với cái đích cuối cùng là xây dựng con người – vấn đề có tính chiến

lược, lâu dài mà Đảng ta đã khẳng định.

Để nâng cao nhận thức về bảo vệ và xây dựng đời sống văn hoá cho

cán bộ và nhân dân Tỉnh Bắc Giang đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền,

các cơ quan ban ngành và đoàn thể trên địa tỉnh, nhất là ngành văn hóa

thông tin phải quán triệt sâu sắc đường lối phát triển văn hóa trong các Văn

kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh các nhiệm vụ cụ

thể về văn hóa mà các Nghị quyết Trung ương đề ra, nhất là các Nghị quyết

chỉ đạo sâu sắc lĩnh vực văn hóa như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4

(khóa VII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Những Pháp lệnh, Nghị

định, Chỉ thị mới ban hành về lĩnh vực văn hóa phải nhanh chóng được tổ

chức học tập và triển khai thực hiện sâu rộng trong quần chúng nhân dân.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức tuyên truyền

vận động và thực tiễn hoạt động văn hóa, phải làm cho các cấp lãnh đạo và

bản thân mỗi người dân nhận thức sâu sắc rằng, việc bảo vệ và xây dựng

đời sống văn hoá là trách nhiệm chung của toàn xã hội chứ không phải của

riêng một cơ quan chức năng nào. Từ chỗ nhận thức rõ vai trò quan trọng

của mình trước nhiệm vụ chung đó của xã hội, các cấp ủy Đảng, chính

quyền và các cơ quan đoàn thể sẽ có sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc các phong

trào, tích cực chủ động đề ra các biện pháp thích hợp, có hình thức động

viên khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xây dựng đời

sống văn hoá một cách có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng coi xây dựng

81

đời sống văn hoá tinh thần chỉ đơn thuần là các hoạt động bề nổi, mang tính

hình thức, để trang điểm thêm cho các lĩnh vực hoạt động khác.

Hai là, tăng cường sự l nh đạo c a các cấp y Đảng và chính quyền

Chức năng hàng đầu của đời sống văn hoá là đáp ứng nhu cầu văn hóa

và giáo dục con người bằng văn hóa, đòi hỏi phải nâng cao vai trò lãnh đạo

của các tổ chức đảng, vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước, sự năng

động tích cực của các cơ quan chức năng, cán bộ chuyên trách cũng như sự

tham gia tự giác của mọi người dân trong việc thực hiện nhiệm vụ xây

dựng đời sống văn hoá của tỉnh. Quá trình này nhất thiết phải được xây

dựng có kế hoạch, có sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng và chính

quyền, được triển khai thực hiện một cách chu đáo, tăng cường khâu kiểm

tra, giám sát, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời.

Thực tiễn ở Tỉnh Bắc Giang những năm qua cho thấy, mặc dù có nhiều

cố gắng ở một số lĩnh vực hoạt động nhằm phát triển kinh tế – xã hội, song

trong công tác tổ chức lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá, các cấp ủy

Đảng và chính quyền ở địa phương, cơ sở chưa phát huy đầy đủ vai trò của

mình theo yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.

Để khắc phục tình trạng trên, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban

ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội cần có sự phân công, phân trách nhiệm vụ

rõ ràng, rành mạch, đồng thời đảm bảo sự liên kết, phối hợp đồng bộ, cùng

hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đời sống văn hoá, của nhân dân

trong sạch, lành mạnh. Cụ thể như sau:

– Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân các cấp cần có sự phối hợp xây dựng một

hệ thống các thể chế, chính sách phù hợp, đề ra những biện pháp thực hiện

có sự liên kết chặt chẽ, đồng bộ giữa các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền,

Mặt trận và đoàn thể từ thành phố đến các đơn vị cơ sở. Trong đó, Đảng giữ

vai trò lãnh đạo, bảo đảm mọi hoạt động luôn tuân thủ theo đúng chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa; chính quyền có nhiệm vụ tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ

82

đạt tới mục tiêu đã đề ra, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động, xử lý kịp thời

những sai phạm, tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra; Mặt trận, đoàn thể

và các tổ chức xã hội phải làm tốt công tác vận động quần chúng, giải

thích, động viên, thuyết phục, kêu gọi, tổ chức các hình thức thi đua, các

phương thức hoạt động thực hiện nhiệm vụ cách mạng của quần chúng.

Trong sự liên kết phối hợp giữa Đảng và chính quyền, các cấp ủy Đảng

phải luôn luôn trực tiếp đi sâu đi sát phong trào, kịp thời đề ra những biện

pháp sát hợp, uốn nắn những sai phạm, khơi dậy và phát huy những nhân tố

tích cực của phong trào, đồng thời còn phải quan tâm giúp đỡ các cơ quan

nhà nước thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng, hỗ trợ giải

quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước trong xây dựng đời sống văn hoá.

Có thể nói, toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công tác xây dựng

đời sống văn hoá, gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng

mà trực tiếp ở đơn vị cơ sở là các cấp ủy Đảng. Hiệu quả xây dựng đời

sống văn hoá tinh thần phụ thuộc vào tổng hợp của nhiều nhân tố, song

nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định chính là vai trò lãnh đạo của các

cấp ủy Đảng ở địa phương.

– Chú trọng nâng cao trình độ nhận thức, phát huy vai trò lãnh đạo của

các cấp ủy Đảng, chính quyền trong lĩnh vực văn hóa và xây dựng đời sống

văn hoá. Đây là nhiệm vụ quan trọng và hết sức cần thiết. Làm tốt công tác

này, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương mới định ra được những

chủ trương đúng đắn, thực hiện tốt công tác tuyên truyền giáo dục giúp

nhân dân nhận thức đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đời sống văn hoá.

Thực tiễn cho thấy, địa phương nào, cơ sở nào có sự lãnh đạo quản lý

chặt chẽ của cấp ủy Đảmg và chính quyền thì nơi đó hoạt động xây dựng đời

sống văn hoá đạt được kết quả tốt. Nguyên do ở chỗ, khi mà cấp ủy Đảng

và chính quyền thực sự quan tâm đến hoạt động này thì hàng loạt điều kiện

thuận lợi sẽ nảy sinh như: tình hình thực trạng được điều tra kỹ, ngân sách chi

83

cho hoạt động xây dựng đời sống văn hoá được bảo đảm, công tác đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa thông tin được triển khai thực hiện, các

chế độ, chính sách khuyến khích được áp dụng kịp thời, thỏa đáng đối với

các cán bộ chuyên trách văn hóa thông tin.

Trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá tinh

thần, Đảng không can thiệp vào các hoạt động cụ thể, không làm thay chức

năng quản lý nhà nước, nhưng Đảng không dừng lại ở việc chỉ ra các quan

điểm và đường lối chính sách, trái lại, từ quan điểm đường lối chung, Đảng

phải chỉ đạo cả quá trình triển khai quan điểm và đường lối chung đó trong

thực tiễn.

– Phát huy vai trò quan trọng của cấp ủy, chính quyền địa phương trong

việc đưa chủ trương xây dựng đời sống văn hoá vào cuộc sống thông qua

hệ thống pháp luật và các chính sách văn hóa. Các cấp ủy Đảng, chính quyền

cần nắm vững và sử dụng luật pháp như một công cụ hữu hiệu để quản lý

hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở địa phương. Đó là hệ thống các văn

bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, các văn bản pháp quy... về văn hóa

để điều chỉnh các hoạt động văn hóa.

Ở các khu dân cư, cơ quan, trường học, bệnh viện, xí nghiệp, doanh

trại bộ đội... cần hướng dẫn và khuyến khích xây dựng những quy ước về

nếp sống, nếp sinh hoạt, phong cách làm việc, ứng xử, giao tiếp... để hình

thành một môi trường công tác – học tập lành mạnh, có kỷ cương.

Từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kết hợp với nhận thức về xây dựng

văn hóa và đời sống văn hoá trong tình hình mới có thể thấy, việc nâng cao

nhận thức và tăng cường vai trò lãnh đạo quản lý của cấp ủy Đảng và chính

quyền địa phương trong xây dựng đời sống văn hoá là hết sức quan trọng và

cần thiết. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã khẳng định: Để đảm

bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng,

trong bộ máy nhà nước..."[27; 149]. Hoạt động đó sẽ tạo ra những tấm gương

84

sáng, những điểm sáng văn hóa và những giá trị văn hóa cho nhân dân học

tập, noi theo.

Ba là, phát huy sức mạnh t ng hợp c a các cơ quan, đoàn thể, t chức xã

hội và nhân dân

Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Hoạt động

xây dựng đời sống văn hoá ở địa phương muốn đạt được hiệu quả cần có sự

huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức

xã hội và đông đảo nhân dân trên địa bàn.

Để làm tốt nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc

Giang hiện nay, mọi tổ chức chính trị – xã hội trên địa bàn tỉnh (Mặt trận

Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, Hội người cao

tuổi...) một mặt phải tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động cụ thể,

mặt khác phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần

chúng tự giác, tích cực tham gia vào các phong trào Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa để từng bước hòa nhập vào hoạt động xây dựng

đời sống văn hoá trên qui mô toàn thành phố. Một số các phong trào hoạt

động thiết thực như: đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia

đình văn hóa, xây dựng phường xã, khối phố văn hóa, thôn văn hóa, xây

dựng công sở văn hóa... cần được tiếp tục đẩy mạnh và duy trì thường

xuyên để trở thành những lối sống, nếp sống tiến bộ, văn minh, hiện đại.

Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, kinh

phí bao cấp không còn, ngân sách sự nghiệp hạn hẹp, nhiệm vụ xây dựng đời

sống văn hoá của tỉnh hiện nay sẽ không thực hiện được nếu thiếu đi một

sự đổi mới trong lãnh đạo và quản lý văn hóa, đó là thực hiện "xã hội hóa

các hoạt động văn hóa .

Xã hội hóa chính là bước chuyển tiếp và là đỉnh cao của phương châm

Nhà nước và nhân dân cùng làm đã được thực hiện trong hoạt động văn

hóa lâu nay, có tác dụng quan trọng tạo ra sự chuyển đổi theo chiều hướng

tích cực cả phương thức hoạt động, cả nội dung, hình thức và chất lượng của

85

đời sống văn hoá tinh thần. Thực chất, đó là việc các hoạt động văn hóa ở

cơ sở chủ yếu do dân tự đảm nhiệm. Bằng các nguồn kinh phí tự đóng góp,

nhân dân sẽ tự tổ chức các hoạt động để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh

thần của mình như: xây dựng cơ sở hạ tầng (điện – đường – trường – trạm),

xây dựng nhà văn hóa xã, thôn v.v... Nhà nước chỉ quản lý các hoạt động

này bằng cách hỗ trợ lập chương trình, kế hoạch, hướng dẫn, điều chỉnh sao

cho nhân dân thực hiện đúng chương trình, kế hoạch đã đề ra, phù hợp với

điều kiện kinh tế, tập quán và tuân thủ những qui định của pháp luật. Cho

nên cũng có thể nói, xã hội hóa văn hóa chính là dân chủ hóa đời sống văn

hóa tinh thần . Đây là vấn đề có giá trị thiết thực và cấp bách trong tổ chức

hoạt động văn hóa, góp phần xây dựng đời sống văn hoá nhằm nâng cao mọi

mặt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Hiện nay, do nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ

và xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, hoạt động xây dựng đời sống văn

hoá tinh thần ở một số đơn vị, cơ quan nhiều khi mang tính hình thức, áp đặt,

không gắn với chức năng nhiệm vụ của đơn vị, do đó không khơi động được

phong trào. Để khắc phục tình trạng này, mỗi cơ quan, đơn vị phải làm tốt

công tác giáo dục, vận động cán bộ, quần chúng, đồng thời phải chấn chỉnh

tổ chức, tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, phòng ban trong đơn

vị hướng vào nhiệm vụ chung là xây dựng ở đơn vị một môi trường lành

mạnh, phong phú, tốt đẹp có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng và hiệu quả

hoạt động của đơn vị, góp phần xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của

thành phố. Cụ thể là, phải chủ động xây dựng và tích cực triển khai các

phong trào hoạt động văn hóa có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với yêu cầu của

đơn vị mình như: thực hiện nghiêm túc nội quy của đơn vị, giữ trật tự vệ

sinh nơi công sở, xây dựng tác phong làm việc khoa học, xây dựng mối quan

hệ trong sáng lành mạnh, đoàn kết gắn bó giữa các tổ chức và cá nhân trong

đơn vị, giao tiếp ứng xử văn minh, lịch thiệp... Trong quá trình tổ chức triển

khai hoạt động cần có các hình thức tuyên truyền vận động hướng về nội

86

dung xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của nông thôn, xây dựng và củng

cố ý thức tham gia đóng góp vào lợi ích chung của cộng đồng. Mặt khác,

cũng cần có sự liên hệ phối hợp với hoạt động của các đơn vị khác, tổ chức

khác, tạo ra hoạt động đồng bộ và đạt hiệu quả cao.

Bốn là, tăng cường xây dựng ngu n lực và phương tiện cho các hoạt

động văn hóa

Xây dựng nguồn lực là điều kiện tối quan trọng cho hoạt động văn hóa

nói chung và xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện

nay nói riêng. Đề thực hiện yêu cầu này, trước hết phải chú trọng công tác

đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cũng như cán bộ làm

chuyên môn nghiệp vụ trong ngành văn hóa.

Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin

chuyên trách ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay, nhất là ở các cơ sở xã, thôn còn

thiếu và yếu. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ này còn nhiều hạn chế. ở một

số cơ sở, công việc của cán bộ văn hóa thông tin chủ yếu là phục vụ các

phong trào, mang tính sự vụ, thụ động, trông chờ vào mệnh lệnh của cấp

trên. Tình hình mới hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

phải có kiến thức văn hóa và trình độ nghiệp vụ nhất định đủ sức đảm

đương công việc được giao. Cán bộ văn hóa phải thực sự là những người

trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

nước vào cuộc sống, là người chủ động, tích cực trong các hoạt động tổ

chức, vận động quần chúng tham gia các phong trào, các cuộc vận động

phát triển văn hóa ở địa phương. Tình trạng hẫng hụt nghiêm trọng về đội

ngũ cán bộ quản lý và cán bộ hoạt động chuyên môn văn hóa trong những

năm tới là vấn đề rất đáng lo ngại. Do vậy, phải gấp rút đào tạo, bồi dưỡng

cho được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên trách văn hóa từ thành

phố tới các cơ sở.

Cùng với việc bồi dưỡng về mặt quản lý, nghiệp vụ, cần phải có chính

sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người làm công tác văn hóa thông tin

87

chuyên trách ở cơ sở để họ yên tâm, phấn khởi công tác. Nghị quyết số

159/HĐ T của Hội đồng Bộ trưởng về công tác văn hóa thông tin đã chỉ

rõ, từ nay các cơ sở đều phải có cán bộ văn hóa thông tin chuyên trách,

được hưởng thù lao như cán bộ giáo dục, y tế. Đây là một quyết định đúng

đắn, sáng suốt trong công tác cán bộ ngành Văn hóa thông tin.

Trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa nói chung, rất cần có chính

sách ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa cho các xã miền núi và nông

thôn, bảo đảm cho họ có thể trở về công tác ở địa phương. Đào tạo phải đi

đôi với sử dụng, đãi ngộ tốt, tránh tình trạng "chảy máu chất xám như ở

ngành khoa học – công nghệ và một số lĩnh vực khác.

Để làm tốt công tác xây dựng nguồn lực, các cơ sở, trung tâm bồi

dưỡng huấn luyện công tác văn hóa của tỉnh không chỉ cần có sự quan tâm

đầu tư về cán bộ, mà còn phải chú trọng củng cố, kiện toàn và sắp xếp hợp

lý tổ chức bộ máy.

Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy của các đơn vị, phòng ban, đoàn

thể, tổ chức ngành văn hóa thông tin từ địa phương đến cơ sở là công tác có

ý nghĩa then chốt, đảm bảo những bước đi vững chắc trong hoạt động xây

dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đòi hỏi cấp

bách trước mắt là phải sắp xếp, bố trí tổ chức ngành Văn hóa thông tin cả

về mặt Đảng, chính quyền và đoàn thể sao cho có thể phát huy tối đa khả

năng và hiệu lực lãnh đạo quản lý đối với lĩnh vực này (đặc biệt là với khối

thông tin).

Cùng với việc chú trọng xây dựng nguồn lực cho các hoạt động văn

hóa, cần tăng cường đầu tư ngân sách xây dựng hệ thống các thiết chế văn

hóa từ thành phố tới cơ sở. Đây là công việc không kém phần quan trọng,

tạo ra những điều kiện vật chất để thu hút nhân dân tham gia vào các hoạt

động văn hóa, chẳng hạn việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa như:

xây dựng câu lạc bộ, nhà văn hóa, thư viện, rạp hát, nhà bảo tàng, khu công

viên giải trí..., việc mua sắm trang thiết bị, phương tiện văn hóa như: trang

88

bị hệ thống loa máy cho câu lạc bộ, bổ sung sách báo cho thư viện, mua

dụng cụ thể thao... nhằm đưa văn hóa đến đông đảo nhân dân. Vì vậy, nó

có vai trò quan trọng trong việc cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống văn

hoá ở cơ sở.

Hiện nay, ở các phường, xã của tỉnh Bắc Giang đã tiến hành tu bổ,

nâng cấp các thiết chế văn hóa đã có, song nhìn chung, hệ thống thiết chế

văn hóa chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhân dân thành phố, có nơi chưa

làm tốt chức năng của thiết chế văn hóa (ví dụ: nhà văn hoá, rạp chiếu

phim) nên việc thu hút quần chúng còn hạn chế; có nơi qui mô còn nhỏ

hẹp, trang thiết bị nghèo nàn hoặc xuống cấp làm giảm nhiệt tình của

những người làm công tác văn hóa, làm cho hoạt động văn hóa đơn điệu,

hình thức, kém hiệu quả.

Tóm lại, trên đây là những giải pháp chủ yếu trong nhóm giải pháp về

tổ chức chỉ đạo hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc

Giang hiện nay. Thực chất, đây là những giải pháp tích cực nhằm nâng cao

vai trò lãnh đạo quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền nhằm đạt tới hiệu

quả cao trong các hoạt động văn hóa ở địa phương, cơ sở. Vì vậy, trong

nhận thức cũng như trong chỉ đạo thực hiện của các cấp lãnh đạo, không

được quá coi trọng hoặc xem nhẹ một giải pháp nào. Các giải pháp trên phải

được tiến hành một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của thực tiễn

đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Bắc Giang và phải luôn có sự điều

chỉnh kịp thời để thống nhất với nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa

của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa.

2.3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện chương trình, kế hoạch xây

dựng môi trường văn hóa

Đây là những giải pháp chủ yếu để cụ thể hóa các chủ trương, đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa

bằng một hệ thống chương trình hành động và những bước đi cụ thể, chính

89

xác nhằm xây dựng có hiệu quả đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc

Giang trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

Một là, phát huy vai trò c a văn hóa trên mọi lĩnh vực c a đời sống xã

hội nhằm xây dựng đời sống văn hoá tinh thần trong sạch, lành mạnh

Trong thời đại ngày nay, văn hóa ngày càng thể hiện rõ vai trò động

lực cho sự phát triển, là nguồn lực nội sinh để phát triển bền vững. Hội

nghị Trung Ương lần thứ 5 (khóa VIII) của Đảng đã nhấn mạnh: "Các nhân

tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi

phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương..., biến thành

nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển"[29; 55].

Sự gắn kết giữa văn hóa với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra

một không gian lành mạnh để phát triển mọi mặt đời sống xã hội, đồng thời

cũng tạo ra những nhân tố tích cực để xây dựng môi trường văn hóa. Để

thực hiện tốt giải pháp này, cần làm tốt các nhiệm vụ cụ thể sau:

Phát huy vai trò của văn hóa trong lĩnh vực kinh tế nhằm xây dựng

một môi trường kinh tế ổn định, vững chắc, làm nền tảng cho hoạt động

xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang.

Về chức năng xã hội, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là

mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội". Bởi vậy,

nhiệm vụ đặt ra là phải tăng cường sự phát triển của văn hóa, tạo dựng một

môi trường thuận lợi làm cơ sở để phát triển kinh tế. Muốn thế, phải làm

cho văn hóa hòa nhập vào lĩnh vực kinh tế, đồng thời làm cho sự phát triển

kinh tế phải được "bắt rễ" trong một đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh.

Cuộc sống thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi đa yếu tố văn hóa vào kinh

tế, vào làm ăn kinh doanh, dịch vụ kinh tế, trao đổi hàng hóa thị trường

cũng như văn hóa hóa cao độ các hoạt động kinh tế trong văn hóa. Nhiệm

vụ của chúng ta là phải làm cho ở đâu và lúc nào, văn hóa cũng trở thành

nhân tố tích cực, tạo thành môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế.

90

Ở Tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây, nhịp độ tăng trưởng kinh

tế khá nhanh dẫn đến đời sống vật chất của nhân dân ngày một được cải

thiện, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần được nâng lên rõ rệt. Nhân dân

phấn khởi, tích cực tham gia lao động sản xuất, sáng tạo trên mọi lĩnh vực

của cuộc sống. Tuy nhiên, mặt trái của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế thị

trường cùng với những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu

bao cấp còn rơi rớt lại gây nên những tác hại nghiêm trọng như lối sản xuất

tiểu nông, manh mún, tư duy trì trệ, chậm đổi mới, tệ tham nhũng, hối lộ,

làm ăn phi pháp... là những cản trở đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của

nhân dân, càng đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa trong lĩnh

vực kinh tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải làm tốt các công tác sau:

– Bằng nhiều hình thức phong phú, tuyên truyền giáo dục làm chuyển

biến nhận thức trong toàn xã hội, trước hết trong các cấp ủy đảng, đảng

viên, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ các đoàn thể quần chúng về tầm

quan trọng, sự cần thiết cấp bách của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn

hóa về trách nhiệm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ văn hóa trong thời kỳ mới.

– Giáo dục chủ nghĩa yêu nước phải gắn chặt với phong trào thi đua

yêu nước và giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu; làm cho mọi người

thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, đóng góp xứng

đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

– Các hoạt động tuyên truyền giáo dục phải gắn với quản lý xã hội

bằng pháp luật, phát huy sức mạnh dư luận xã hội, gắn với các phong trào

hành động của quần chúng.

– Phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa”, huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên

xuống, từ trong đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích

cực tham gia phong trào.

91

– Phong trào đó bao gồm các phong trào hiện có như : Người tốt việc

tốt, Uống nước nhớ ngu n, Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo, Xây

dựng gia đình văn hóa, làng, x , phường văn hóa, Toàn dân đoàn kết xây

dựng cuộc sống mới ở các khu dân cư và toàn bộ các phong trào ấy đều

hướng vào cuộc thi đua yêu nước “Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, văn minh”.

Hai là, xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa

-Xây dựng, ban hành luật pháp

Xây dựng các luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy điều chỉnh các

hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Bổ sung những luật đã ban hành cho phù

hợp với tình hình mới. Nghiên cứu xây dựng Luật di sản văn hóa dân tộc,

Luật quảng cáo, Pháp lệnh thư viện. Xây dựng quy chế về giải thưởng, tặng

thưởng trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, báo chí; quy chế kỷ niệm các sự

kiện lịch sử và danh nhân (trong nước và thế giới), đặt tên đường phố, lập

nhà bảo tàng, xây dựng tượng đài, v.v..

Bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định về lễ

hội, việc tang, việc cưới, việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã,

việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng.v.v…

Khuyến khích nhân dân các xã, phường, thôn ấp, cụm dân cư, khu tập

thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các quy ước về nếp sống văn hóa, giữ gìn

trật tự vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, cảnh quan sạch

đẹp. Hoàn thiện hệ thống thanh tra chuyên ngành, thanh tra nhân dân, tăng

cường công tác thanh tra văn hóa.

- Xây dựng, ban hành các chính sách

– Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt

động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển

văn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn

hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

92

+ Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động

thể thao, dịch vụ văn hóa), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp

của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.

+ Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ

thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí, trợ giá cho một số báo chí,

văn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại và

sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

+ Quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn

hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí,

nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích) được hưởng mức thuế ưu

đãi trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản).

+ Cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước

ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt

động văn hóa theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng,

đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội

dung lành mạnh, bổ ích.

– Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ

trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo

điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.

Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục

tiêu, giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất,

kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn

hóa kinh doanh.

Chú ý tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại của kiến trúc

trong xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp. Trong quy hoạch xây

dựng các công trình lớn phải tính đến một số thiết chế văn hóa cần thiết

nhất như thư viện, nhà thông tin, khu giải trí, bảo đảm cảnh quan môi

trường cho các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh.

93

Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu tư,

đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa.

– Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức

người, sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng

và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc

nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về

văn hóa của Nhà nước. Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng

dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.

– Chính sách bảo t n, phát huy di sản văn hóa dân tộc hướng vào cả

văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiến hành sớm việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh

lý vốn văn hóa truyền thống (bao gồm văn hóa bác học và văn hóa dân

gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số; phiên dịch, giới thiệu kho tàng

văn hóa Hán Nôm. ảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và các danh lam

thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống. Trọng đãi những nghệ

nhân bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống.

– Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa đòi

hỏi tăng nguồn đầu tư thích đáng cho khu vực sáng tạo văn hóa, văn học,

nghệ thuật. Chú trọng đầu tư hỗ trợ cho những tác giả có uy tín cao, những

tài năng trẻ, đầu tư cho lực lượng chuyên nghiệp và cả cho phong trào quần

chúng. Có chính sách chăm sóc đặc biệt đối với các văn nghệ sĩ cao tuổi

tiêu biểu, các mầm non nghệ thuật xuất sắc.

Sửa đổi chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới; có chính sách

khuyến khích đối với lao động nghệ thuật và báo chí.

Thành lập quỹ văn hóa quốc gia và quỹ sáng tác của các hội văn học,

nghệ thuật, tạo thêm nguồn hỗ trợ tài chính cho xây dựng các tác phẩm.

Có chính sách khuyến khích các văn nghệ sĩ, nhà báo gắn bó với cơ

sở, với thực tiễn lao động sản xuất.

94

Tiếp tục thực hiện Pháp lệnh về giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng

nhà nước và Pháp lệnh công nhận danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu

tú.

– Xây dựng và ban hành chính sách đặc thù hợp lý, hợp tình cho

những loại đối tượng xã hội cần được ưu đ i tham gia và hưởng thụ văn

hóa: thương binh, bệnh binh, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ em, những

người già không nơi nương tựa, những người thuộc các dân tộc thiểu số,

những người tàn tật.

Mở rộng, khuyến khích xuất khẩu sách, báo, văn hóa phẩm. Nâng

công suất và thời lượng phát thanh, truyền hình ra nước ngoài. Tăng cường

trao đổi các đoàn nghệ thuật, điện ảnh, các cuộc triển lãm, các cuộc thi đấu

thể thao. Hình thành cơ chế phối hợp, chỉ đạo tập trung các cơ quan và lực

lượng làm công tác đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa – thông tin.

Ba là, tăng cường ngu n lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.

– Tăng mức đầu tư cho văn hóa từ nguồn chi thường xuyên và nguồn

chi phát triển trong ngân sách nhà nước. Tỉ trọng chi ngân sách cho văn hóa

phải tăng tương ứng nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Khuyến khích các địa

phương tăng thêm nguồn đầu tư cho văn hóa. Tích cực huy động các nguồn

lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển văn hóa.

– Thực hiện các chương trình cho mục tiêu về văn hóa nhằm đầu tư có

trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách.

– Củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan lãnh

đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức nghề nghiệp của hoạt

động văn hóa từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm hoạt động có hiệu quả.

Điều chỉnh, xác định rõ cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, phương thức

hoạt động của các ban của Đảng và các tổ chức đảng trong Bộ Văn hóa –

Thông tin, các hội văn học, nghệ thuật (các ban cán sự Đảng, Đoàn). Xây

dựng quy chế về mối quan hệ làm việc giữa các tổ chức này, bảo đảm sự

phối hợp nhịp nhàng.

95

Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn

hóa các cấp. Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng

quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới (cán bộ lãnh

đạo, cán bộ quản lý, chuyên gia) đủ phẩm chất và năng lực đảm đương

công việc trong những năm tới.

Củng cố, kiện toàn hệ thống các khoa, trường đào tạo cán bộ văn hóa,

nghệ thuật, thông tin, báo chí, các viện nghiên cứu cả về tổ chức, đội ngũ

giảng viên, chương trình, giáo trình. Tăng thêm điều kiện và phương tiện

kỹ thuật giảng dạy, học tập. Tổ chức tốt đào tạo trên đại học.

Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ văn hóa.

Bốn là, nâng cao hiệu quả l nh đạo c a Đảng trên lĩnh vực văn hóa

Yêu cầu xây dựng và phát triển đát nước trong giai đoạn mới đòi hỏi

Đảng ta phải tăng cường và nâng tầm lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa.

– Nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong

việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới – xã

hội chủ nghĩa. Khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên

lĩnh vực văn hóa.

– Thường xuyên chăm lo việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về lý

tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối, chính sách của Đảng và tình hình đất nước cho đội ngũ trí thức, văn

nghệ sĩ, cán bộ văn hóa; làm tốt công tác kết nạp đảng trong bộ phận trí

thức, văn nghệ sĩ ưu tú.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm

cho văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính

trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá

nhân trong sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ

trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn.

96

– Phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo

văn hóa – văn nghệ trong việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức

thực hiện nhiệm vụ văn hóa, làm chủ văn hóa.

– Đi sát, nắm chắc tình hình hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa;

lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sắc bén, giúp các cơ quan nhà nước thể chế hóa

các chủ trương, chính sách của Đảng. Hỗ trợ giải quyết kịp thời những khó

khăn vướng mắc đối với ngành văn hóa trong quá trình triển khai thực hiện

nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa

từ trong đảng, trong bộ máy nhà nước như ác Hồ đã dạy “ Đảng ta là đạo

đức, là văn minh”. Phải đặt mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí

Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Văn hóa đạo đức và lối sống

lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước,

đoàn thể, trong cán bộ, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên,

ở các bậc cha mẹ, ở các thầy cô giáo. Từ sự gương mẫu về mọi mặt của các

tổ chức và từng cán bộ trong bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể mà phát huy

vai trò lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa”. Gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu

trong công việc lãnh đạo của Đảng.

Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ

trẻ. Có chính sách trọng dụng người tài.

Làm tốt công tác kiểm tra của Đảng trong việc xem xét tư tưởng, đạo

đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Để quán triệt và thực hiện tốt các yêu cầu nêu trên, các cấp ủy và tổ

chức đảng nghiêm túc xem xét trách nhiệm lãnh đạo của mình, rút ra những

bài học kinh nghiệm lãnh đạo văn hóa, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.

Tiến hành sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo đức,

lối sống trong toàn Đảng và bộ máy nhà nước, trước hết là trong đội ngũ

cán bộ lãnh đạo và quản lý. Kết quả nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết phải

97

được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động của

các cấp, các ngành, trong việc phát huy vai trò gương mẫu về tư tưởng, đạo

đức, lối sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước.

Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ

nghĩa của nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên định, trình độ trí tuệ và

tính tự giác cao. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là các Uỷ viên Ban Chấp

hành Trung ương nêu cao vai trò gương mẫu của người cộng sản, động

viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết, làm theo lời Bác Hồ

– muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã

hội chủ nghĩa.

Toàn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc

gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không

ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sử và trong

thế giới hiện đại.

98

Tiểu kết chƣơng 2

Trên cơ sở giới thiệu khái quát về mặt điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã

hội của địa bàn nghiên cứu – Tỉnh Bắc Giang, luận văn đã phân tích thực

trạng xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Từ

đó tác giả đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời

sống văn hoá tinh thần ở Bắc Giang hướng tới một đời sống văn hóa tinh

thần trở nên cao đẹp, lành mạnh hơn. Có thể thấy rằng, đời sống văn hoá

tinh thần ở Bắc Giang trong thời kỳ đổi mới có nhiều diễn biến phức tạp,

bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn tồn tại không ít hạn chế, yếu

kém cần khắc phục. Tình hình đó đặt ra nhiệm vụ cho toàn tỉnh trong thời

gian tới là phải kiên quyết đấu tranh, phòng ngừa, loại bỏ những cái xấu,

cái ác, cái phản tiến bộ đang có nguy cơ làm suy thoái đời sống văn hoá

tinh thần, ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi, đạo đức, lối sống, nhân cách của

các tầng lớp dân cư. Đồng thời, phải tích cực xây dựng những nhân tố mới,

những chuẩn mực mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, tạo thế cân

bằng, ổn định vững chắc cho đời sống văn hoá trong toàn Tỉnh. Quyết tâm

xây dựng thành công đời sống văn hoá lành mạnh, trong sạch, có khả năng

đề kháng trước những biến động phức tạp của đời sống xã hội, là "vòng

tay nuôi dưỡng tâm hồn và phát triển nhân cách con người. Để phát huy

những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đòi hỏi phải

thực hiện những phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hoá

tinh thần thực sự hiệu quả nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân

dân Bắc Giang trong thời gian tới.

99

KẾT LUẬN

Ngày nay, hòa cùng sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng bộ

và nhân dân các dân tộc trong tỉnh Bắc Giang đang ra sức phấn đấu thực

hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, bằng việc phát huy cao độ

nội lực, tiềm năng, tài nguyên và con người Bắc Giang, phát triển mọi mặt

đời sống kinh tế – xã hội – văn hóa của địa phương.

Các lĩnh vực thuộc đời sống văn hóa tinh thần, hệ thống cơ sở vật chất

phục vụ các hoạt động văn hoá cũng được tỉnh chú trọng phát triển. Được

sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Trung ương và địa phương, công tác xây

dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Bắc Giang đã đạt được nhiều thành tựu

đáng kể. Trong điều kiện mới khẳng định vị trí, vai trò của văn hoá đời

sống văn hóa tinh thần bên cạnh nhiệm vụ chính trị và kinh tế là một quyết

tâm lớn của Đảng, nhằm từng bước tăng cường củng cố nền tảng văn hóa

tinh thần của xã hội trước thách thức khôn lường của thời đại, mở ra một

tương quan hợp lý giữa các nhân tố chính trị, văn hoá đảm bảo tính đồng

bộ trong phát triển. Mối quan tâm của Đảng với văn hoá thể hiện rõ trong

chủ trương: Tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam

đương đại, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc và

tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt nhịp cùng sự phát triển

của thời đại.

Kết luận hội nghị trung ương X (khoá IX) tiếp tục đặt lên đầu nhiệm

vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh,

chăm lo xây dựng con người Việt Nam. Xuất phát từ những nguyên lý của

chủ nghĩa Mác–Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về

văn hoá, văn hoá tinh thần, tác giả đã làm rõ những đặc điểm kinh tế xã hội

chi phối đời sống văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang, phân tích thực trạng

những biểu hiện tích cực cũng như những hạn chế của nó trong sự vận

động phát triển của xã hội. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp trong

100

việc phát huy bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang.

Toàn bộ các giải pháp ấy đều lấy điểm xuất phát là đổi mới nhận thức trong

điều kiện mới.

Với phương pháp tiếp cận đó, luận văn đã trình bày một số giải pháp

cụ thể đối với từng lĩnh vực trong đời sống văn hoá tinh thần, nếu được sử

dụng nó sẽ là một trong những động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở

Tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.

Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sĩ, có thể nội dung của đề

tài chưa bao quát hết các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu, nhưng tác giả

luận văn đã cố gắng khái quát, đánh giá tổng thể những nét cơ bản về đời

sống văn hoá tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc

Giang với tất cả những mặt tích cực và những hạn chế cùng nguyên nhân

của nó và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích

cực, tốt đẹp của đời sống văn hoá tinh thần tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên,

nghiên cứu về vấn đề văn hoá, xây dựng đời sống văn hóa tính thần là vấn

đề vừa cũ vừa mới, vừa rộng lại vừa hẹp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực

khác nhau. Bởi vậy, việc nghiên cứu những vấn đề thuộc đời sống văn hoá

tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cần phải được tiếp tục

trong các công trình tiếp theo. Tác giả mong muốn nhận được những ý kiến

đống góp quý báu của các thầy cô và bạn bè để công trình nghiên cứu đầu

tay này được hoàn thiện hơn./.

101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hoá” toàn quốc (2004), Một số nghiên cứu về triển khai phong trào “Toàn

dân đoàn kết xấy dựng đời sống văn hoá”.

2. an Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2001), Một số Văn kiện c a

Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa, tập 2 (1986 – 2000), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo thống kê danh sách

chức sắc, nhà tu hành năm 2013.

4. Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo t ng kết tình hình

tôn giáo năm 2013.

5. Bảo tàng Bắc Giang (2006), Di sản văn hóa Bắc Giang – Bước đầu

tìm hiểu truyền thống văn hóa các dân tộc.

6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá

dân tộc, Hà Nội.

7. Trần Văn ính (1996), Văn hóa dân tộc trong quá trình mở c a ở

nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước

ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Bộ Văn hoá – Thông tin, Cục văn hoá – Thông tin cơ sở (1999),

Hỏi đáp về xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn hoá, t

chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb CTQG, Hà Nội.

10. Bộ Văn hoá – Thông tin (1995), Đường lối văn hoá nghệ thuật c a

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

11. Bộ Văn hoá – Thông tin (1997), Xã hội hoá văn hoá và sự nghiệp

phát triển văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

12. Bộ Văn hoá – Thông tin (2003), Hội thảo truyền thống và phát

triển trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở vùng Tây Bắc.

102

13. Bộ văn hóa – thông tin (2004), Tiếp tục đẩy mạnh công tác văn hóa

– thông tin ở vùng đ ng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

14. Bộ văn hoá – Thông tin, Tập bài giảng b i dưỡng kiến thức ngành

văn hoá – thông tin, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà nội 1999.

15. Hoàng Sơn Cường (2003), Văn hóa một góc nhìn, Nxb Đại học sư

phạm, Hà Nội.

16. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước những

thách thức c a toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Phạm Quỳnh Chinh (2007), Đô thị hoá và ảnh hưởng c a nó đến

xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở ngoại thành Hà Nội hiện nay, Luận

văn Thạc sĩ Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Trương Minh Dục – Lê Văn Định (2010), văn hóa và lối sống đô

thị Việt Nam một cách tiếp cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Dung (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá –

Thông tin, Hà Nội.

20. Thành Duy (1996), Văn hoá trong phát triển c a xã hội Việt Nam,

Nxb KHXH, Hà Nội.

21. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông

Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp c a người Việt,

Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

23. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2010), Báo cáo chính trị c a Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang lần thứ XVII.

24. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2015), Báo cáo chính trị c a Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang lần thứ XVIII.

103

25. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội

Tỉnh Bắc Giang 6 tháng đầu năm 2014.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ V, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Trung ương

giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5

khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5,

khoá IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh

tế – xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Nguyễn Khoa Điềm (2006), Văn hoá là nền tảng tinh thần c a xã

hội. Theo Vietnam.net

37. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hoá

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bẳn sắc dân tộc, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà

Nội.

38. Trần Khải Định (2003), Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở

Đắc Lắc hiện nay, Tạp chí “Lý luận chính trị”, số 9/2000.

104

39. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hoá và đ i mới, Nxb Chính trị quốc

gia Hà Nội.

40. Phùng Văn Đông (2006), Một số vấn đề về thực trạng và định

hướng phát triển đời sống tinh thần ở nước ta. Theo Vietnam.net

41. Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hoá đối với sự phát triển văn

hoá nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Lê Quí Đức (2004), “Di sản văn hoá nhìn từ góc độ kinh tế", Trích

trong: Văn hoá và phát triển ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

43. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống c a dân tộc

Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

44. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hoá và xây

dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

45. Dương Phú Hiệp (2012), cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên

cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Lê Như Hoa (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối

cảnh công nghiệp hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

47. Nguyễn Huy Hoàng (2000), Văn hoá trong nhận thức duy vật lịch

s c a C .Mác, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

48. Nguyễn Huy Hoàng (2003), Triết học – văn hóa, giá trị và con

người, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

49. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình lý luận văn

hoá và đường lối văn hoá c a Đảng Công sản Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

50. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay

từ góc nhìn giá trị văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

51. Đỗ Huy – Trường Lưu (1990), Bản sắc dân tộc c a văn hóa, Nxb

Viện văn hóa, Hà Nội.

105

52. Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hoá thẩm mĩ và sự phát triển c a

con người Việt Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

53. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

54. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Văn hoá

dân tộc, Hà Nội.

55. Vũ Ngọc Khánh (2004), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Tập I, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

56. Khoa Văn hóa Xã hội Chủ nghĩa – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh (2003), Giáo Trình Lý Luận Văn Hóa Và Đường Lối Văn Hóa

C a Đảng Cộng Sản Việt Nam (Dùng Cho Hệ Lý Luận Chính Trị Cao

Cấp), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

57. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa – Học Viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh (1997), Giáo trình văn hoá x hội ch nghĩa, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

58. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa – Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh (2004), “Kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khoá IX)" (2004), Tạp chí Thông tin Văn hoá và phát triển.

59. Lương Quỳnh Khuê (1992), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc, một nhu cầu phát triển c a xã hội hiện đại, Tạp chí Triết học (số

4).

60. Vũ Khiêu (2003), Văn hóa Việt Nam. Xã hội và con người, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Đinh Xuân Lâm (1998), H Chí Minh văn hóa và đ i mới, Nxb.

Lao động, Hà Nội.

62. Nguyễn Thu Linh (2003), Về vai trò c a Nhà nước trong quản lý

văn hóa hiện nay, Tạp chí triết học (số 3).

63. Thanh Lê (2000), Văn hoá và lối sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

106

64. V.I.Lênin (1970), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa, Nxb Tiến

bộ, Matxcơva.

65. Ngô Văn Lệ (1998), Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

66. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống c a các dân tộc thiểu số

ở miền Bắc Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

67. Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

68. Lê Hồng Lý (2000), "Du lịch và vấn đề về vấn đề giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc ở Hà Nội", Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật.

69. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn

học, Hà Nội.

70. H Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

71. H Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội

72. Nhiều tác giả (1998), Tư tưởng H Chí Minh về xây dựng nền văn

hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

73. Nhiều tác giả (2006), Văn hóa thời hội nhập (2006), Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

74. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hoá và sự phát triển, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

75. Phạm Xuân Nam (1993), Phương pháp luận về vai trò c a văn hóa

trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

76. Hữu Ngọc – Dương Phú Hiệp – Lê Hữu Tầng (1987), Từ điển triết

học giản yếu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

77. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

107

78. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

79. Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

80. Nguyễn Hồng Phong (1994), Mấy vấn đề truyền thống dân tộc

trong công cuộc hiện đại hóa ở nước ta, văn hóa và phát triển kinh tế, xã

hội ở nước ta, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.

81. Đình Quang (2005), Đời sống văn hoá đô thị và khu công nghiệp

Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

82. Lương Hồng Quang (1999), Dân trí và sự hình thành văn hóa cá

nhân, Nxb Viện văn hóa và Văn hóa thông tin, Hà Nội.

83. Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá

truyền thống c a dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

84. Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo kết

quả công tác văn hóa, thể thao và du lịch năm 2013; Phương hướng, nhiệm

vụ trọng tâm 2014.

85. Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo kết

quả công tác văn hóa, thể thao và du lịch 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng

tâm 6 tháng cuối năm 2014.

86. Tạp chí Người đưa tin c a UNESCO (11/1988).

87. Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

88. Hoàng Thị Như Thanh (1998), Hướng tới một nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thong

tin, Hà Nội.

108

91. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam:

Cái nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

92. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Lê Quang Thiêm (chủ biên), Trần Đình Hượu, Nguyễn Kim Đính

(1998), Văn hoá với sự phát triển c a xã hội Việt Nam theo định hướng xã

hội ch nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (chủ biên, 1998), Văn hoá lối

sống với môi trường, Nxb Văn hoá – Thông tin, Trung tâm nghiên cứu và

tư vấn về phát triển, Hà Nội.

95. Nguyễn Chí Tình (2003), Văn hóa và thời đại, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

96. Lê Quang Trang – Nguyễn Trọng Hoàn (1998), Những vấn đề văn

hóa Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

97. Hoàng Trinh (1996), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

98. Ngô Văn Trụ (2011). Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn, Nxb Văn

hóa – Thông tin, Hà Nội.

99. Ủy bạn nhân dân tỉnh Bắc Giang(2014), Báo cáo tình hình thực

hiện kế hoạch kinh tế – xã hội 6 tháng đầu năm; nhiệm vụ, biện pháp ch

yếu cần tập trung chỉ đạo 6 tháng cuối năm 2014.

100. Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (2002), Một số

vấn đề về việc triển khai, t chức chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, Hà Nội.

101. Ủy ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1993),

Mấy vấn đề văn hóa và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

102. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn

hoá ở nước ta, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

109

103. Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hoá – phát triển con

người, Nxb Văn hoá – thông tin, Hà Nội.

104. Hồ Sĩ Vịnh (1999), Văn hoá Việt Nam trong tiến trình đ i mới,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

105. Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

Danh mục các Website tham khảo:

106. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang (07/2015),

http://www.bacgiang.gov.vn/.

107. Website: Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch Tỉnh Bắc Giang

(07/2015), http://www.vanhoabacgiang.vn/.

108. Website: Sở Giáo Dục và Đào Tạo Tỉnh Bắc Giang (07/2015),

http://bacgiang.edu.vn/.

109. Website: Sở Lao Động Thương inh Và Xã Hội Tỉnh Bắc Giang

(07/2015), http://sldtbxh.bacgiang.gov.vn/.

110. Website: Sở Khoa Học Và Công Nghệ Tỉnh Bắc Giang (07/2015),

http://skhcn.bacgiang.gov.vn/.

110