ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN TUYẾT NHUNG

CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH

TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2014

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN TUYẾT NHUNG

CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH

TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC

Hà Nội – 2014

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan những luận điểm đƣợc trình bày trong Luận văn này là kết

quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm trƣớc những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này.

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2014

Tác giả luận văn

Nguyễn Tuyết Nhung

3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Văn Đức, ngƣời

thày đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tri ân tới các thày cô giáo trong khoa Văn học,

trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã

giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Xin cảm ơn sự động viên, quan tâm giúp đỡ của những ngƣời thân

trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn ở bên tôi trong suốt quá trình

học tập và thực hiện đề tài.

Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn Chủ nghĩa xê dịch

trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945 không

tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận đƣợc sự góp ý chân

thành của thày cô và các bạn. Tôi hi vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận

văn sẽ trở thành nguồn tƣ liệu có giá trị đối với việc dạy học tác phẩm văn

chƣơng của nhà văn Nguyễn Tuân.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Tác giả luận văn

Nguyễn Tuyết Nhung

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7

1. Lí do lựa chọn đề tài .................................................................................. 7

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 9

3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu .............................................. 13

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 14

5. Những đóng góp của Luận văn ............................................................... 14

6. Cấu trúc của Luận văn ............................................................................. 15

CHƢƠNG 1. CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN TUÂN .................................................................................. 16

1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa ............................................. 16

1.2. Hành trình sáng tác và những tác phẩm chính về đề tài xê dịch .......... 21

1.2.1. Hành trình sáng tác của một cuộc đời phong phú ........................ 21

1.2.2. Những tác phẩm chính về đề tài xê dịch .................................... 24

1.3. Đề tài chủ nghĩa xê dịch trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945 .................. 25

1.3.1. Giới thuyết ..................................................................................... 25

1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và đề tài xê dịch ............... 25

1.3.3. Quan niệm về xê dịch .................................................................... 31

CHƢƠNG 2. NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG ĐỀ TÀI XÊ DỊCH

CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .............. 35

2.1. Cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên ....................................................... 35

2.1.1. Cảnh sắc đất nước quê hương ...................................................... 35

2.1.2. Cảnh sắc những miền đất lạ ......................................................... 43

2.2. Cảm hứng về con ngƣời ....................................................................... 48

2.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người ................ 48

2.2.2. Các kiểu người giang hồ xê dịch................................................... 49

5

CHƢƠNG 3. CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH NHÌN TỪ NHỮNG PHƢƠNG

THỨC NGHỆ THUẬT .................................................................................. 82

3.1. Xây dựng thành công những biểu tƣợng độc đáo về xê dịch .............. 82

3.1.1. Biểu tượng thiên nhiên .................................................................. 83

3.1.2. Biểu tượng hành động, ngôn ngữ .................................................. 89

3.1.3. Biểu tượng sự vật, đồ vật .............................................................. 90

3.2. Sử dụng thể loại tùy bút ....................................................................... 95

3.2.1. Nguyễn Tuân gắn bó với thể loại tùy bút ...................................... 95

3.2.2. Tùy bút thể hiện thành công đề tài xê dịch ................................... 97

3.2.3. Tùy bút xê dịch chứa đựng thông tin phong phú, đậm yếu tố tự sự

và giàu chất thơ ..................................................................................... 101

3.3. Lối hành văn tài hoa, uyên bác .......................................................... 106

3.4. Vẻ đẹp ngôn ngữ, nghệ thuật từ pháp ................................................ 113

KẾT LUẬN ................................................................................................... 120

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 123

6

MỞ ĐẦU

1. Lí do lựa chọn đề tài

Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một tác gia lớn của văn học hiện đại

Việt Nam, “là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn

xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi), đồng thời cũng là một trong

những hiện tƣợng phức tạp của văn học. Ông là một cây bút có sức hút kì lạ,

có cách viết độc đáo lôi cuốn. Đọc Nguyễn Tuân độc giả cảm nhận đƣợc

những nét đặc biệt, mới mẻ, không bị hoà lẫn vào những cái lờ nhờ, không

màu sắc. Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật

nghiêm túc, ông đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu

thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho văn học

hiện đại Việt Nam.

Nguyễn Tuân còn là một định nghĩa về ngƣời nghệ sĩ tài hoa. Ông viết

văn với phong cách lạ, “ngông”, uyên bác, là bậc thầy trong việc sáng tạo và

sử dụng tiếng Việt. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên,

gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác

của ông tồn tại vừa nhƣ những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích

tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. Có thể nói trong suốt cuộc đời, bằng ngòi

bút điêu luyện, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Ông là nhà văn

duy mĩ, có quan niệm nghiêm túc về văn chƣơng nghệ thuật: là nhà văn thì

phải để lại một dấu ấn độc đáo, không giống ai trong cuộc đời. Sinh thời,

Nguyễn Tuân từng ao ƣớc không ai giống đƣợc mình, khi chết là đem theo

nguyên cảo, nguyên bản không để lại một bản sao nào ở đời. Ông đến với

cuộc đời, đến với làng văn để đóng một dấu ấn lạ, đem đến một luồng gió mới

rồi đột ngột biến mất. Không giống tiền nhân, chẳng có hậu duệ, ông là ngƣời

cực đoan, hết mình, đã đẩy sự độc đáo lên thành chủ nghĩa độc đáo.

Giống nhƣ một số nhà văn, nhà thơ lớn cùng thời nhƣ Tô Hoài, Xuân

Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... Nguyễn Tuân có hai chặng đƣờng sáng tác,

7

trƣớc và sau Cách mạng. Chặng đƣờng nào cũng thành công, đều có những

thành tựu nổi bật, những cống hiến nghệ thuật lớn lao cho nền văn học hiện

đại của dân tộc. Trƣớc Cách mạng, Nguyễn Tuân say mê đi tìm hạnh phúc

trong chủ nghĩa xê dịch, trong quá khứ Nho giáo đẹp đẽ, đôi khi lại là tìm

quên trong truỵ lạc. Sau Cách mạng, nhà văn lại hăm hở hoà mình vào cuộc

sống muôn màu muôn sắc của nhân dân. Ngƣời đọc luôn bắt gặp một Nguyễn

Tuân đầy cá tính với những trang văn độc đáo, tinh thần lao động nghệ thuật

công phu, nghiêm túc trên hành trình đi khám phá tìm hiểu cái đẹp. Văn

Nguyễn Tuân còn là một lối văn kén độc giả, chỉ người ưa suy xét đọc

Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để

người nông nổi thưởng thức (Vũ Ngọc Phan).

Là một nhà văn tài hoa, ngƣời đọc mến Nguyễn Tuân về tài nhƣng còn

trọng về nhân cách. Mặc dù những sáng tác của ông coi trọng tính thẩm mĩ

cao nhƣng Nguyễn Tuân không phải là ngƣời theo chủ nghĩa hình thức. Các

tác phẩm của ông bộc lộ quan niệm Tài phải đi với Tâm. Đó là Thiên lƣơng

trong sạch, là lòng yêu thiên nhiên yêu nƣớc thiết tha, là nhân cách cứng cỏi

trƣớc uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.

Xê dịch là một đề tài quen thuộc, chiếm một mảng quan trọng của sáng

tác Nguyễn Tuân. Đề tài này phù hợp với tâm hồn lãng mạn, tự do, phóng

túng, ghét sự gò bó của nhà văn. Đọc những sáng tác này ngƣời đọc vô cùng

thích thú, nhƣ đƣợc nhập cuộc trong những cuộc du hí hấp dẫn qua những

miền đất lạ, khám phá cảm giác mới mẻ, lạ lẫm trƣớc phong cảnh, phong tục,

con ngƣời; thấy rõ hơn những tâm tƣ sâu kín của tác giả và thêm yêu mến

thiên nhiên, con ngƣời của đất nƣớc quê hƣơng.

Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân

nhƣng chúng tôi nhận thấy chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề

Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng

tháng Tám 1945. Là một giáo viên phổ thông, chƣơng trình dạy ở Nhà trƣờng

8

có hai tác phẩm tiêu biểu cho hai chặng đƣờng sáng tác của nhà văn, đó là

truyện ngắn Chữ người tử tù (trích trong Vang bóng một thời) và tùy bút

Người lái đò Sông Đà (trích tùy bút Sông Đà). Nhƣng để hiểu thấu đáo cái

hay cái đẹp của từng trang viết, từng đặc trƣng thể loại văn Nguyễn Tuân đến

học sinh phổ thông không phải là dễ dàng. Bản thân tôi luôn hứng thú, yêu

mến những trang viết tài hoa và phong cách độc đáo của ông. Đi sâu tìm hiểu

về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân thêm

phong phú, vững vàng; hiểu hơn về một nhà văn mà tôi luôn yêu mến, kính

trọng cũng nhƣ mang lại có cái nhìn rộng mở hơn khi dạy các tác phẩm của

ông trong nhà trƣờng.

2. Lịch sử vấn đề

Hơn một nửa thế kỷ qua, từ khi Nguyễn Tuân xuất bản tác phẩm đầu

tay Một chuyến đi cho đến hôm nay, văn chƣơng và con ngƣời của ông luôn

trở thành đề tài gây sự chú ý cho ngƣời đọc nói chung và cho các nhà nghiên

cứu nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con

ngƣời và các sáng tác của ông trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám 1945.

2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung

Là một nhà văn lớn tài hoa, độc đáo, là một hiện tƣợng văn học phức

tạp, nên sáng tác của Nguyễn Tuân thu hút sự chú ý, quan tâm mạnh mẽ của

các nhà nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh, Giáo sƣ Phan Cự Đệ,

Giáo sƣ Trƣơng Chính, Giáo sƣ Phong Lê, nhà văn Vũ Ngọc Phan, nhà

nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn, Ngọc Trai, Nguyễn Thị Thanh Minh, Hoài Anh,

Nguyễn Thành, Lê Quang Trang, PGS.TS Hà Văn Đức, PGS.TS Tôn Thảo

Miên, ...

Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung. Ở

nhóm này, tập trung các bài viết của các nhà phê bình nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ

Nguyễn Đăng Mạnh với Con đường Nguyễn Tuân đi đến với bút ký chống

Mỹ. Nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn với bài Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn

9

Tuân - huyền thoại một thời. Nguyễn Trung Thành với Nguyễn Tuân, người

săn tìm cái đẹp. Nguyễn Thị Thanh Minh với Nguyễn Tuân và cái đẹp...

Những bài viết về phong cách Nguyễn Tuân qua một số tác phẩm cụ

thể. Ở nhóm này, có một số bài viết cụ thể sau: Đọc lại Vang bóng một thời

của nhà văn Thạch Lam, Tác phẩm Chùa Đàn của Giáo sƣ Hoàng Nhƣ Mai,

Cái thật và cái tài hoa trong Chữ người tử tù của Nguyễn Ngọc Hóa, Đọc

Sông Đà của Nguyễn Tuân của Trƣơng Chính, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của

Hoài Anh...

Những bài viết ghi lại những hồi ức kỷ niệm về Nguyễn Tuân. Ở nhóm

này có thể kể đến những bài viết của vợ nhà văn, của bạn bè viết về ngƣời

chồng, ngƣời chú, ngƣời bạn và ngƣời thầy của mình. Đây là những bài viết

bộc lộ những cảm xúc rất thật, rất chân thành về nhân cách và tài năng của

Nguyễn Tuân. Hồi ức của họ là một trong những tƣ liệu quý giá nhất về nhà

văn.

Những bài nghiên cứu về tùy bút Nguyễn Tuân: bài viết của Giáo sƣ

Phong Lê Nguyễn Tuân trong tùy bút; Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể

tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới thiệu cuốn Tuyển tập

Nguyễn Tuân, tập một, NXB Văn học 1981). Đó làm rõ mối quan hệ giữa thể

văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng nhƣ sở

trƣờng của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá

tính và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút nhƣ là một tất

yếu”. Trong văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất”.

PGS.TS Hà Văn Đức có bài Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng

Tám (Một số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam

sau Cách mạng Tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996) đã đƣa ra

nhiều đánh giá và nhận định sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn

Tuân xét về mặt thể loại...

10

2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài chủ nghĩa xê

dịch của Nguyễn Tuân

Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết giới thiệu về Tuyển tập

Nguyễn Tuân (1981) đã khẳng định: trƣớc Cách mạng Nguyễn Tuân không

thuộc số những cây bút hoàn toàn thoát li xã hội, mất hẳn gốc rễ với cuộc

đời. Con người ấy có thói quen đi để viết, để thỏa mãn khao khát tự do, khao

khát sự thoải mái, khao khát được ngắm trời ngắm biển, được thưởng thức

cho đầy đủ, thỏa thuê vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình ... Một cái tôi xê

dịch và hưởng lạc coi cuộc đời chỉ như một trường du hí. Đi không mục đích và

qua những bức tranh ngoại cảnh đã bộc lộ chất thơ của một tâm hồn xê dịch.

PGS.TS Hà Văn Đức cũng cho rằng: không gian có một sức cuốn hút

mãnh liệt đối với Nguyễn Tuân. Ông khao khát được tự do, được thỏa sức

ngắm trời, ngắm biển. Tâm hồn của nhà văn lãng mạn Nguyễn Tuân hướng

tới sự xê dịch cũng là để thỏa mãn những đòi hỏi của giác quan và thưởng

thức những khoái cảm thẩm mĩ mà những miền đất mới, xa lạ đem lại ... Cái

đẹp mà Nguyễn Tuân tìm kiếm trước hết là vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh vật trên

con đường xê dịch. Những cảnh sắc thiên nhiên của nhiều miền quê khác

nhau được Nguyễn Tuân miêu tả thật đẹp, thật nên thơ, nên họa (Nguyễn

Tuân và cái đẹp, Tạp chí khoa học, 5/1994).

Nhà văn Vũ Ngọc Phan lại đánh giá về ham muốn xê dịch của Nguyễn

Tuân: du lịch trở nên một bệnh, vai chính trong truyện là một chàng thiếu nên

lúc nào cũng muốn đi, lúc nào cũng muốn mình cần phải đi. Không đi thì

buồn bã, mệt mỏi, rầu rĩ, khổ não, đau đớn. Chiếc vali, tẩu thuốc lá, sân ga,

con tàu là những vật chính để đưa người lãng tử lê gót bốn phương trời.

Nhưng đây là đi, không có định kiến; không có mục đích gì cả, đi cho chán

chân, rồi lại trở về nhà ít lâu rồi lại lấy sức mà đi nữa. Con bệnh cố nhiên

không phải là một người ốm yếu mà là người sung sức quá, lại không có một

công việc gì lớn lao dùng cái sức của chàng nên chàng phải tiêu đi trong sự

11

xê dịch, tiêu đi để cho não cân được căng thẳng, tiêu đi để mua lấy sự phát

triển giác quan. (Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989).

Nhận định của Giáo sƣ Trƣơng Chính đã chỉ ra nguyên nhân lối sống

và đề tài xê dịch trong sáng tác Nguyễn Tuân: Ông là một nhà văn lãng mạn

đại diện cho phong trào lãng mạn của ta khi đã suy vong. Cái lối sống ấy chỉ

có thể đưa ông đến một cái tự tử, tự tử dần trong cuộc sống: tức là sự trác

táng và sự xê dịch. Xê dịch không mục đích, xê dịch mà để xê dịch. Trác táng

là thoát li trong thời gian và xê dịch là thoát li trong không gian. Thế rồi,

rượu, thuốc phiện, ả đào, và đi, đi để thay đổi hoàn cảnh, để có dịp trụy lạc

thêm. Những khi không có dịp trụy lạc và xê dịch thì hiu quạnh, thẫn thờ như

người không hồn, buồn da diết, buồn có thể tự tiêu diệt mình được. Ông kéo

dài cuộc sống bê tha đó, tưởng không có ngày nào chấm dứt. Đó không phải

là hình ảnh riêng của Nguyễn Tuân mà còn là hình ảnh của một số thanh niên

trí thức tiểu tư sản thành thị sống bế tắc trong chế độ cũ (Vài nét về con

người và tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tuyển tập Trƣơng Chính, tập 2, NXB

Văn học, Hà Nội ,1997).

Giáo sƣ Phan Cự Đệ cũng có nhiều bài nghiên cứu với cái nhìn mới mẻ

và xác đáng. Bài viết trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, tập 2, Phan

Cự Đệ đã có cái nhìn tổng quát về quá trình “lột xác” đầy đau khổ và sự thay

đổi quan điểm thẩm mỹ của nhà văn. Ông cũng có những đánh giá mới mẻ

nghiêng về khía cạnh nghệ thuật: Trước Cách mạng, các nhân vật trong tùy

bút lãng mạn của Nguyễn Tuân chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của tính

cách nhà văn mà thôi. Tác giả đã hóa thân ra thành Nguyễn, Vi, Bạch,

Hoàng, Thông Phu để tìm cách nói lên những cạnh khía khác nhau của cái

Tôi kênh kiệu, lập dị, của cái Tôi nổi loạn đập phá, của cái Tôi giang hồ lãng

tử [16;110]...

Nhìn chung, những bài nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã cung cấp cho

chúng tôi nhiều thông tin về nhà văn này. Các bài viết đều đã tiếp cận và đánh

12

giá về nhân cách cũng nhƣ những đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân đối với

nền văn học Việt Nam, một cái tôi vận động trƣởng thành qua hai giai đoạn

trƣớc và sau 1945, gắn với những bƣớc ngoặt to lớn của lịch sử dân tộc.

Đặc biệt, các bài viết về đề tài xê dịch đều khẳng định: Nguyễn Tuân là

ngƣời ham đi, luôn thích xê dịch, đam mê cuộc sống phiêu lãng giang hồ;

một cái Tôi cá nhân độc đáo, ngông ngạo; gắn bó thủy chung với thể tùy

bút, có sở trƣờng về tùy bút và chỉ ở thể văn này ông mới bộc lộ rõ nhất cái

tôi khinh bạc, lãng tử, tài hoa của chính mình. Những bài viết đó đã mang

đến cho chúng tôi những hiểu biết ban đầu khi nghiên cứu đề tài này.

Tiếp thu truyền thống nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi

xin góp một chút công sức của mình vào kho tƣ liệu nghiên cứu về tác gia

Nguyễn Tuân với đề tài Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân

trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đề tài của chúng tôi chủ yếu phác họa

hình tượng cái tôi giang hồ lãng tử Nguyễn Tuân qua việc tìm hiểu và phân

tích một số tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài xê dịch cũng nhƣ tập trung

khảo sát thế giới nghệ thuật của nhà văn thông qua các tác phẩm ấy.

3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng:

Luận văn chúng tôi quan tâm tới là những biểu hiện của bức tranh thiên

nhiên, cảnh vật, phong tục, con ngƣời; cái Tôi tác giả đƣợc miêu tả trong

những sáng tác ở đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, chúng ta thấy cả trƣớc và sau Cách

mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đều thể hiện niềm đam mê xê dịch. Tuy

nhiên, ở mỗi chặng đƣờng sáng tác, mục đích và cảm hứng xê dịch của ông

khác nhau. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát đề

tài xê dịch trong các tác phẩm trƣớc 1945 đƣợc in trong Nguyễn Tuân toàn

tập, Tập I và Tập II do Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh sƣu tầm và biên soạn.

13

Chúng tôi tiến hành khảo sát du kí Một chuyến đi (1938), tiểu thuyết Thiếu

quê hương (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943) để làm nổi bật những

đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong đề tài xê dịch.

3.3. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu:

Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu, lí giải trên cơ sở khoa học những

đặc điểm thiên nhiên, cảnh vật, con ngƣời đƣợc miêu tả trong những sáng tác

xê dịch; những đặc sắc nghệ thuật và đánh giá về thế giới quan, hình tƣợng

cái Tôi Nguyễn Tuân trƣớc 1945. Từ đó, chúng tôi muốn một lần nữa tái

khẳng định tài năng và phong cách độc đáo của ông.

Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc, có hệ thống đề tài xê dịch của Nguyễn

Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám. Từ đó, thấy đƣợc vị trí của đề tài xê dịch

trong sự nghiệp sáng tác của ông, đặc biệt thấy đƣợc hình tƣợng cái tôi lãng

tử cũng nhƣ tài năng của một ngƣời nghệ sĩ suốt đời cống hiến cho nghệ

thuật.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những công trình đi trƣớc kết

hợp với những tìm hiểu, nghiên cứu riêng trong phạm vi một đề tài nghiên

cứu, luận văn của chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau: Phƣơng

pháp lịch sử; phƣơng pháp hệ thống; phƣơng pháp loại hình; phƣơng pháp

phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp tiếp cận

thi pháp học.

5. Những đóng góp của Luận văn

5.1. Luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu

đi trƣớc, vừa tìm tòi lựa chọn khám phá để từ đó làm hiện rõ những đặc điểm

của chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng.

5.2. Kết quả của Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hƣớng tiếp cận, đọc hiểu

những tác phẩm của Nguyễn Tuân ở đề tài xê dịch nói riêng và các tác phẩm

14

văn xuôi cùng đề tài xê dịch của một số nhà văn khác nói chung trên phƣơng

diện lí thuyết loại hình và đặc trƣng thi pháp. Giải quyết những vấn đề đặt ra,

luận văn không chỉ đem lại cho độc giả không chỉ yêu mến nhà văn Nguyễn

Tuân mà còn có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tác giả. Đồng thời luận văn

có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh khi nghiên cứu về tác

phẩm, tác giả Nguyễn Tuân.

6. Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn chúng tôi gồm có 3 chƣơng

với các nội dung sau:

Chƣơng 1: Chủ đề xê dịch trong hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân

Chƣơng 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân

trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945

Chƣơng 3: Chủ nghĩa xê dịch nhìn từ những phƣơng thức nghệ thuật

Và cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.

15

CHƢƠNG 1

CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN

1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa

Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910, quê ở làng Nhân Mục, Thƣợng

Đình, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông là nhà

văn chính gốc Hà Nội, mặc dù ông có một thời gian khá dài sống lang thang

xê dịch nhiều nơi, sau này mới gắn bó với Hà Nội. Nguyễn Tuân trƣởng thành

trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Cả một thế hệ, trong đó có cụ

Tú Lan, thân sinh của nhà văn, vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng

dƣng trở nên lỗi thời trƣớc xã hội giao thời lộn xộn, sinh ra tƣ tƣởng chán nản

bất đắc chí. Ngay từ nhỏ, ông đã đƣợc lớn lên trong nền văn hóa cổ truyền của

dân tộc với những phong tục, nề nếp từ một thời xƣa đang tàn dần và biến đổi

vì sự xâm nhập của văn minh phƣơng Tây. Bối cảnh xã hội, không khí gia

đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tƣ tƣởng cũng nhƣ

phong cách nghệ thuật của ông. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc,

Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc,

tuyệt vọng.

Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (1929) thì bị đuổi vì tham

gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu ngƣời Việt. Học

bạ ghi trong 5 năm không công sở nào đƣợc nhận vào làm việc. Lúc này cha

mẹ, vợ và các em đều ở thị xã Thanh Hóa, nơi cụ thân sinh làm việc. Sau đó ít

lâu ông lại bị tù vì "xê dịch" qua biên giới Đông Dƣơng sang đất Thái Lan

không có giấy phép. Theo hồi kí Cát bụi chân ai của Tô Hoài kể lại trong

chuyến tàu hoả từ Nôm Pênh ra đến Poipet có hai ngƣời trẻ tuổi, mặt non

choẹt, vƣợt biên giới sang Xiêm, đó là Nguyễn Tuân và Lƣơng Đức Thiệp. Cả

hai từng tham gia bãi khóa phản đối rồi bị đuổi học. Không biết ai đã nghĩ ra

cuộc đi mạo hiểm này, có thể bởi những uất ức khi bị đuổi học, cuộc sống tù

16

túng, cùng quẫn hay cách nghĩ bồng bột tƣởng bƣớc chân đến những nơi xa

xôi là lên hƣơng đổi đời. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai,

khuyên vàng của vợ. Đến Thái Lan, hai ngƣời bị cảnh sát bắt vì vƣợt biên trái

phép; bị giam chung với những tội phạm ngƣời Xiêm rồi bị giải về Nôm

Pênh. Đến Nôm Pênh, bị tống ngay xuống Sài Gòn, giam ở bóp cảnh sát.

Hôm sau giải ra Hải Phòng, Hà Nội, rồi về giam tại Thanh Hóa khoảng một

năm. Ở tù ra, ông định vào Nam Kỳ nhƣng đi đến Vinh thì bị bắt trở lại. Kể từ

đây, ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con

đƣờng ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "bất đắc chí", nhƣ một ngƣời hư hỏng hoàn toàn.

Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp gỡ, tiếp

xúc với những ngƣời hoạt động chính trị. Gia đình dựng nhà cho ông tại quê,

tức làng Mọc, Ngã Tƣ Sở, Hà Nội. Ngôi nhà hai tầng, Nguyễn Tuân gọi là

“Am Sông Tô”. Theo Tô Hoài trong Cát bụi chân ai, ông còn có một chỗ ở

khác là một gian gác xép tại phố Hàng Đẫy (tức phố Nguyễn Thái Học ngày

nay): Khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho

ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương tự ngoài đời,

người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán chê rồi rời

bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà... Nguyễn Tuân có một gian gác

nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế,

không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển

sách dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không

ló ra đường, không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá

trái, khước từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất

thần lại biền biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu

mình ở cái buồng con [29]. Từ 1942 -1945, Nguyễn Tuân ngày càng bế tắc,

suy sụp và đã có ý định tự sát. Cách mạng tháng Tám đã thay đổi cuộc đời và

trang viết nhà văn. Ông nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến; hân

hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" đứng vào hàng ngũ nhà văn

17

Cách mạng. Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc đi kháng chiến, liên tục đi và

viết. Từ 1948 - 1957, ông giữ chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông

đi nói chuyện nhiều nơi và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học

mới. Nguyễn Tuân mất ngày 28/7/1987 tại Hà Nội để lại một sự nghiệp văn

học phong phú với những trang viết độc đáo tài hoa. Năm 1996, ông đƣợc

Nhà nƣớc truy tặng Giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Nguyễn Tuân là một nhà văn hóa lớn, một trí thức giàu lòng yêu nƣớc

và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nƣớc của ông có những nét riêng: yêu phong

cảnh đẹp của quê hƣơng đất nƣớc, tha thiết với tiếng Việt và gắn bó với

những giá trị văn hóa cổ truyền, những nhạc điệu đài các của lối hát ca trù,

những thú chơi tao nhã cổ truyền, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.

Nguyễn Tuân là nhà văn có cá tính rất độc đáo và ý thức cá nhân phát

triển cao. Ông là ngƣời tự do, phóng túng; ông quan niệm “đời là một trƣờng

du hí”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Viết là một hình thức chơi văn độc

đáo nhƣng ông đã đẩy việc chơi đến đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật.

Viết văn trƣớc hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ham du lịch,

Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý thuyết - “chủ nghĩa xê

dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao thích phiêu

lƣu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đƣờng, những miền đất

mới, đƣợc gặp gỡ muôn mặt ngƣời trên con đƣờng giang hồ mê mải. Với ông,

xê dịch là một nguồn sống bồng bột để giải thoát những bế tắc chán chƣờng

trong cuộc đời. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những

cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt,

khuôn phép, yên ổn, cầu toàn; ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt

mĩ của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...

Nguyễn Tuân còn là ngƣời rất mực rất mực tài hoa uyên bác, am tƣờng

Hán học, Tây học. Rất mực đề cao và gìn giữ nhân cách nghệ sĩ nên ông trân

trọng những thú chơi tao nhã của những trí thức Nho gia tài hoa sinh bất

18

phùng thời, căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa. Ông am hiểu

nhiều ngành văn hóa, nhiều môn nghệ thuật khác nhau nhƣ hội họa, điêu

khắc, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, địa lí... để tăng cƣờng khả năng diễn tả của

nghệ thuật ngôn từ. Sự tài hoa uyên bác khiến cho các trang tùy bút Nguyễn

Tuân lấp lánh chất trí tuệ; mang đến cho ngƣời đọc những khoái cảm thẩm

mỹ và vốn tri thức văn hóa, khoa học ở nhiều các lĩnh vực khác nhau.

Nguyễn Tuân là nghệ sĩ chân chính có tinh thần lao động nghệ thuật

nghiêm túc, quý trọng nghề nghiệp và ý thức cá nhân phát triển cao. Ông

quan niệm nghề văn đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn (truyện Nhà

Nguyễn,1945); ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp

(truyện Hai tấm vé số, 1944) và nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm

túc, thậm chí khổ hạnh (Tùy bút Những đứa con hoang, 1943). Đối với ông

văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng, nghệ thuật trƣớc hết phải là nghệ

thuật và làm nghệ thuật phải có phong cách độc đáo. Ông đƣợc đánh giá là

định nghĩa hoàn hảo nhất về ngƣời nghệ sĩ. Nhƣng về bản chất ông không

theo chủ nghĩa hình thức thuần túy, đánh đu biến hóa với tu từ chữ nghĩa mà

Tài phải đi với Tâm. Đó chính là Thiên lƣơng trong sạch; là lòng yêu đất

nƣớc, tha thiết với những giá trị cổ truyền; là nhân cách cứng cỏi, đức tính

thẳng thắn trung thực. Bạn đọc khâm phục ông về tài nhƣng còn trọng ông về

nhân cách. Khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi

lỏng mà ngƣợc lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ông thực sự là một nhà

văn suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật (Nguyễn Ðình Thi), là ngƣời "sinh ra để

thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông dồn sức chủ yếu vào

việc phục hiện các giá trị văn hóa tinh thần. Trên trang viết Nguyễn Tuân,

những "vẻ đẹp xƣa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù

điều kiện không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài, ngƣời đọc

vẫn cảm nhận đƣợc một tấm lòng chân thành đối với dân, với nƣớc. Ông đã

19

ghé vai vào chống chọi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị

thiêng liêng vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví

trang sách nhƣ tấm lá chắn hữu hiệu thì Nguyễn Tuân, giai đoạn trƣớc 1945,

chính là ngƣời chiến sĩ chiến đấu với cái Xấu cái Ác, để bảo vệ thành trì Chân

- Thiện - Mĩ.

Là nhà văn yêu cái Đẹp, nhƣng trƣớc Cách mạng tháng Tám, quan

niệm về cái Ðẹp của ông đậm màu sắc chủ quan; là cái Đẹp thuần túy, duy

mỹ, nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông chủ trƣơng một cái Đẹp không có nội dung

xã hội, giai cấp, thời đại; tách rời cái có ích và quan niệm đạo đức, một cái

đẹp chỉ nhằm thỏa mãn những khoái cảm thẩm mĩ cá nhân. Sau Cách mạng,

quan niệm của ông đã có sự hài hòa cân đối. Cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực

tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân nhƣ có thể cầm lên tay mà nâng niu

ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà đƣợc nâng

lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, trung tâm thế giới nghệ thuật Nguyễn

Tuân là những cái tôi xê dịch: những con ngƣời buồn chán sống vô vị; mang

tâm trạng dằn vặt. Không gian thiên nhiên chỉ là những cái mơ hồ vụn vặt gắn

với nỗi ám ảnh thời gian và gợi sự bức bối, ngột ngạt. Ngƣợc lại sau Cách

mạng, thực tế phong phú tƣơi rói, sống động trang văn của ông: vùng đất Tây

Bắc, vùng giới tuyến Vĩnh Linh. Cảnh vật mang tầm vóc lớn lao kỳ vĩ và là

bè bạn với con ngƣời, tham gia vào công cuộc cải tạo của con ngƣời. Không

còn bắt gặp những cá nhân luôn đấu tranh nội tâm mà đại diện cho những

phẩm chất đẹp, tƣ thế khoẻ, tinh thần hứng khởi của ngƣời công dân một

nƣớc độc lập. Ông có dịp đi nhiều, mở lòng đón nhận thanh sắc của cuộc sống

mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trƣớc kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự

yêu nƣớc thƣơng dân một cách kín đáo, thì giờ đây con ngƣời tài hoa uyên

20

bác ấy nhƣ đƣợc tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trƣờng, cất cao lời ngợi

ca đất nƣớc con ngƣời Việt Nam trong thời đại mới.

1.2. Hành trình sáng tác và những tác phẩm chính về đề tài xê dịch

1.2.1. Hành trình sáng tác của một cuộc đời phong phú

Nguyễn Tuân không thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông

đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng

trƣớc khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút. Chủ nghĩa xê dịch, đề tài quá khứ,

truỵ lạc là ba mảng đề tài trung tâm của ông trƣớc 1945. Bộ ba đề tài này nhƣ

ba nhánh của một dòng sông cùng quy tụ lại một điểm để tạo nên một Nguyễn

Tuân vô cùng mới mẻ, độc đáo và đem lại sức sống mới cho dòng văn học

lãng mạn 1930 -1945 đang thoái trào, có nguy cơ đi vào ngõ cụt.

Do chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông trƣớc năm

1937 (Giang hồ hành, Vườn xuân lan tạ chủ) đƣợc viết theo bút pháp cổ điển

và chƣa gây đƣợc tiếng vang. Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các

báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, với những tràng cƣời châm

biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu,

Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lƣu hiện thực phê

phán lúc đó đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn nhƣ Ngô Tất Tố,

Nguyễn Công Hoan... cho nên không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc

tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Hơn nữa, ông sớm nhận ra rằng thể loại

trào phúng vẫn chƣa phù hợp với sở trƣờng của mình.

Nguyễn Tuân chỉ thực sự đƣợc công nhận nhƣ một phong cách văn

chƣơng độc đáo kể từ tùy bút Một chuyến đi (1938), tập hợp những trang viết

từ chuyến xê dịch sang Hƣơng Cảng tham gia bộ phim Cánh đồng ma - một

trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Theo Nguyễn Ðăng Mạnh, nét đặc

sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu riêng hết sức phóng túng, linh

hoạt: Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh

21

thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh

choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa [1;111]. Nhân vật

chính là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc sau quá nhiều đắng cay tủi cực hầu

nhƣ hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở xúc cảm của mình trên bƣớc đƣờng xê dịch.

Với tập truyện Vang bóng một thời (1939), Nguyễn Tuân đã vƣơn đến

đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ toàn thiện toàn

mỹ (Vũ Ngọc Phan) ấy góp phần đƣa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển

thêm trên con đƣờng hiện đại hóa. Vang bóng một thời vẽ lại những cái "đẹp

xƣa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú

thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà

trong sƣơng sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Thời gian

đƣợc đo bằng mùa, bằng tiết. Nhƣng những vẻ đẹp truyền thống ấy đang có

nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ,

gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. Vang bóng một thời

vì thế có thể đƣợc xem nhƣ một bảo tàng lƣu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền

của dân tộc.

Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân

dần đi vào ngõ cụt. Nếu nhƣ ở Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt

cua (1941), Tùy bút I (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi"

vẫn còn đầy tự trọng và giữ đƣợc ý thức về bản thân thì từ 1942, đời sống tinh

thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc.

Những trang viết thƣa dần. Bên cạnh những đề tài cũ viết về vẻ đẹp xƣa, đề

tài xê dịch, đời sống trụy lạc nhƣ Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943),

Nguyễn (1945), xuất hiện thêm các đề tài mới hƣớng về thế giới của yêu tinh,

ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm Xác ngọc lam, Ðới roi, Rượu bệnh, Loạn

âm cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.

Những năm đầu sau Cách mạng, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại

tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác"

22

để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn

Tuân còn có Chùa Ðàn - về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa,

ích kỷ tàn nhẫn; nhƣng từ sau 1945, nhƣ đƣợc uống liều thuốc tiên, tự cải tạo

vƣơn lên thành con ngƣời mới, chan hòa với xung quanh. Mới đọc qua, dễ có

ấn tƣợng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhƣng nếu

xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác thì Chùa Ðàn là một cố gắng

đáng trân trọng.

Tiếp theo, hai tập tùy bút Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950)

ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu

gọi của Ðảng, ông hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đƣờng

chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà

rƣng rƣng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu sôi nổi tin

yêu, tràn ngập tình cảm chân thành đối với quê hƣơng đất nƣớc. Nguyễn Tuân

tiếp tục bôn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những

giá trị ấy giờ đây không phải mất công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình

nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực sinh sôi cuồn cuộn trƣớc mắt.

Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy: Phở, Cây Hà Nội,

Con rùa thủ đô, Tìm hiểu Sê Khốp,...

Từ năm 1958 – 1969, ông đi thực tế liên tục đi về hai vùng nóng bỏng

nhất của đất nƣớc: Tây Bắc và Vĩnh Linh. Ngoài ra ông còn đi Cẩm Phả, Trà

Cổ, Móng Cái, Cô Tô,... Những chuyến đi không chỉ thỏa mãn khát khao “xê

dịch”, mà còn cung cấp chất liệu thực tế nóng hổi để nhà văn khám phá ra vẻ

đẹp, chất vàng của thiên nhiên con ngƣời Việt Nam đang âm thầm lao động

chiến đấu. Ông phát hiện ra chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những nhân

vật phi thƣờng, những nhà nho một thời quá khứ mà cả ở những ngƣời dân

bình thƣờng nhất: ông lái đò, chị dân quân, anh bộ đội, anh bán phở, chị hàng

cốm... Tùy bút Sông Ðà là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong sáng tác

23

của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng

tử của Nguyễn Tuân nhƣ mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào.

Từ sau Sông Ðà, Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở

thể tùy bút, đƣợc tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu: Hà Nội ta đánh

Mỹ giỏi (1972), Ký (1976). Ông viết về tình cảm Bắc – Nam, tiếp tục khai

thác vẻ đẹp đất nƣớc con ngƣời Việt Nam trong thời đại mới: ngƣời Việt Nam

vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tƣ thế ung dung, sang trọng và tài hoa; tƣ thế

của một dân tộc giành đƣợc chính nghĩa trong chiến đấu và có bề dày truyền

thống văn hóa lâu đời.

Đất nƣớc thống nhất, Nguyễn Tuân đã đi dọc hành trình đất nƣớc. Ông

đến Cà Mau, Hà Tiên, tham quan Côn Đảo, đóng phim Chị Dậu. Ông xuất

bản Tuyển tập Nguyễn Tuân (1982), Chuyện nghề (1986), Hương vị và cảnh

sắc đất nước (1988), đi nói chuyện văn học ở nhiều nơi và luôn thể hiện văn

phong tự do, ngông, phóng túng, tài hoa uyên bác và ý thức sâu sắc về cái tôi

cá nhân.

1.2.2. Những tác phẩm chính về đề tài xê dịch

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, xê dịch là một đề tài lớn trong sáng tác

của Nguyễn Tuân. Ông đã viết một loạt những tác phẩm thể hiện niềm đam

mê cuộc sống giang hồ lãng du của mình nhƣ Một chuyến đi (1938), Thiếu

quê hương (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943). Sau Cách mạng,

Nguyễn Tuân hòa vào cuộc sống và kháng chiến với những công tác bận rộn

của một nghệ sĩ giàu tinh thần dân tộc nhƣng dòng máu đam mê những

chuyến đi, những mảnh đất lạ vẫn tuôn chảy trong những tác phẩm nhƣ

Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình

I,II (1955), Bút kí đi thăm Trung Hoa (1955), Tùy bút Sông Đà (1960), Cảnh

sắc và hương vị đất nước (1988)... Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là nhà

văn Việt Nam đam mê và viết nhiều nhất về những chuyến đi.

24

1.3. Đề tài chủ nghĩa xê dịch trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945

1.3.1. Giới thuyết

Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng năm

2008, “xê dịch” là chuyển vị trí đi một quãng ngắn; là thay đổi, biến đổi trong

một khoảng nhất định [23;1414]. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay

mƣợn của phƣơng Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đề cao lối sống cá nhân

tự do phóng túng đi rộng biết nhiều để thỏa mãn sở thích cá nhân và trải

nghiệm cảm giác thực tế. Chủ nghĩa xê dịch theo đó đƣợc hiểu nhƣ là sự

chuyển đổi vị trí về địa lý, chuyển đổi cảm giác về hình ảnh. Nhiều nhà văn

trên thế giới thích viết về du lịch.

Cảm hứng “không gian” có thể xem nhƣ là một chủ đề quan trọng của

các nhà văn viết du ký. Ngƣời viết xê dịch thƣờng thích đi đó đây để thay đổi

nhãn quan tâm hồn. Rõ ràng chỉ khi đi qua những vùng đất, liên tục xê dịch,

họ mới thể hiện đƣợc những giá trị của bản thân. Đi nhiều, vừa thể hiện đƣợc

cá tính, thỏa mãn “thị dục” và nỗi khát khao mơ ƣớc, đồng thời làm giàu có,

phong phú thêm vốn sống tri thức, hiểu biết của mình về con ngƣời và những

mảnh đất đã qua. Nhƣ một nhu cầu chia sẻ, những trang viết du kí luôn thôi

thúc tâm hồn những ngƣời muốn khám phá thế giới.

1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và đề tài xê dịch

Chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân chịu ảnh hƣởng lớn từ của văn học

phƣơng Tây. Tác giả mà ông chịu ảnh hƣởng nhiều nhất là nhà văn A. Gide,

Pôn Môrăng, nhà triết học Friedrich Nietzsche... André Gide (1869 – 1951) là

một trong những nhà văn xuất chúng nƣớc Pháp thế kỷ XX từng đoạt giải

Nobel Văn học năm 1947, ông là ngƣời rất ham mê du lịch khắp nơi trên thế

giới. Friedrich Nietzsche (1844 –1900) là một nhà triết học nổi tiếng ngƣời

Đức. Nietzsche thƣờng xuyên đi du lịch để đi tìm nơi có khí hậu dễ chịu để

phù hợp với sức khỏe của mình. Ông từng sống trong nhiều thành phố khác

25

nhau: mùa hè ở Sils Maria, gần St. Moritz ở Thụy Sĩ, mùa đông ở các thành

phố của Ý nhƣ là Genova, Rapallo và Turino, và ở thành phố Nice ở Pháp.

Nietzsche đã đƣợc xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hƣởng lớn trong

triết học hiện đại.

Văn học du ký là một thể loại không xa lạ và luôn hấp dẫn với nhiều

bạn đọc có năng lực tƣởng tƣợng, ý thích phiêu lƣu, muốn ra đi khám phá

những bí ẩn về địa lý. Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel

Defoe (1660-1731), cuốn sách On The Road (Trên đường) của nhà văn Mỹ

Jack Kerouac, Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux, nhà văn du

ký nổi tiếng ngƣời Mỹ, nhà văn Bairơn với hình ảnh anh chàng Saiđơ Hêrôn,

các nhân vật của Satôbriăng du lịch sang châu Mĩ, Tây du kí – Ngô Thừa

Ân..., đã trở thành cuốn sách thúc giục ngƣời ta lên đƣờng sau khi đọc xong.

Ở Trung Quốc, có nhiều tài tử thích du ngoạn, điển hình là những cuộc du

viễn của thi nhân thời Đƣờng nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ. Lý Bạch (701- 762) là

một trong những nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đƣờng, đã viết hơn cả

ngàn bài thơ bất hủ. Ông xuất thân trong một gia đình thƣơng nhân giàu có.

Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn

thủy, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ

rồi xuôi Trƣờng Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng bạn

lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rƣợu ca hát). Ông từng đƣợc tiến cử

với Đƣờng Minh Hoàng, nhƣng nhà vua chỉ dùng ông nhƣ một "văn nhân ngự

dụng" nên ông bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dƣơng, gặp Đỗ Phủ

kết làm bạn "vong niên", cùng vui chơi, thƣởng trăng ngắm hoa, săn bắn. Rồi

ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phƣơng Nam. Tƣơng truyền năm

61 tuổi, ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, uống say, thấy trăng lung

linh đáy nƣớc, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Ngƣời đời phong danh hiệu cho

ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu

trung tiên (ông tiên trong làng rƣợu)... Tóm lại, những cuốn sách du kí và lối

26

sống xê dịch của các danh nhân trên thế giới đã ảnh hƣởng rất nhiều đến các

nhà văn Việt Nam.

Văn học Việt Nam cũng có nhiều tác giả thích cuộc sống lãng du nhƣ

Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản

Đà... Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng - cũng là một ngƣời nổi tiếng ham lãng du. Bà là

một “kì nữ”, thông minh, cá tính, bản lĩnh, giao du rộng rãi, từng đi du lãm

nhiều danh lam thắng cảnh của đất nƣớc. Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá: Ở cái

thời mà giang sơn của ngƣời đàn bà Việt Nam chỉ quẩn quanh nơi buồng the,

bếp núc thì Xuân Hƣơng lại muốn là con ngƣời của trời đất bốn phƣơng,

gót lãng du lui tới đề thơ ở biết bao thắng cảnh nổi tiếng (Kẽm Trống, Hang

Cắc Cớ, Đèo Ba Dội, Đá ông chồng bà chồng, Chùa Quán Sứ, Động Hương

Tích...).

Nhà thơ Cao Bá Quát cũng là con ngƣời say mê với những cảnh đẹp

của non sông đất nƣớc. Các danh lam thắng cảnh ông đề thơ ngâm vịnh nhƣ:

núi Ba Vì, hồ Tây, núi Dục Thúy, sông Hƣơng, núi Tản Viên, miền đất đầy

nắng gió cát trắng Quảng Bình... ông đều đã từng qua. Dải sông Hƣơng mềm

mại đến thế mà khi hiện lên trong thơ ông mang một hào khí hùng tráng:

Trường giang như kiếm lập thanh thiên (Con sông dài nhƣ thanh kiếm dựng

giữa trời xanh). Nhà thơ Tản Đà - con ngƣời của “hai thế kỉ” cũng là một

ngƣời nổi tiếng ham xê dịch, đƣợc mệnh danh quê hương thời có, cửa nhà

thời không Tản Đà thƣờng đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nƣớc -

Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào Trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi

thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về

Hải Phòng. Ông vừa làm báo vừa đi chơi, vang danh khắp chốn với câu thơ

bất hủ:

“Tài cao phận thấp chí khí uất.

Giang hồ mê chơi quên quê hương.”

27

Tản Đà từng đi chơi vào đúng ba mƣơi Tết, mê mải quên lối về: Chơi

xuân kể lại hành trình/ Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi. Đặc biệt lối sống

phóng túng của Tản Đà đã ảnh hƣởng rất lớn tới sự hình thành tính cách và sở

thích xê dịch ở Nguyễn Tuân.

Giang hồ xê dịch còn là bệnh của chủ nghĩa lãng mạn mà Nguyễn Tuân

là một đại diện. Những chuyến đi với thú “giang hồ vặt” của các nhà thơ Mới,

nhƣ khách chinh phu Thế Lữ, li khách Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng

Chƣơng, Lƣu Trọng Lƣ... Bên cạnh đó, các bạn văn cùng thời nhƣ Nam Cao,

Tô Hoài cũng rất thích cuộc sống nay đây mai đó. Trong hồi kí Những gương

mặt - Chân dung văn học (1988), Tô Hoài kể về chuyện ham đi của Nam Cao:

“Nam Cao lấy vợ được chưa đầy một năm thì anh đi Sài Gòn. Cũng chẳng có

mục đích gì mà đi... Anh cũng đến báo Kịch Bóng, xin được cái thẻ làm phóng

viên, chưa viết được bài nào, cũng đi Nha Trang bằng tiền túi của mình dành

dụm được”. Ngay cả Tô Hoài cũng là ngƣời đích thực của giang hồ. Ông đi

khắp đất nƣớc, đi ra thế giới, quan sát tỉ mỉ, lắng nghe, ghi nhận và viêt. Có lẽ

vì vậy Tô Hoài đƣợc đánh giá là nhà văn phong tục, có hiểu biết sâu sắc về

tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Tô Hoài từng kể chuyện mình và

Nam Cao đi chơi vặt: một đêm chúng tôi cố tình đi chơi bơ vơ một chuyến

hóng cái viết. Nghe còi tàu hoả trong đêm, tưởng như đã gợi hứng rồi. Nửa

đêm, từ Hà Nội xuống Nam Định. Không phải về quê, nhà Nam Cao chỉ cách

thành phố khoảng chục cây số. Chúng tôi đương giang hồ vặt mà. Chuyến đi

này Nam Cao gặp gỡ với một cô gái điếm và có tƣ liệu để viết lên truyện dài

“Một đời ngƣời” rất xuất sắc.

Nhƣng khác với cái đi nhiều, đi để lấy tƣ liệu thực tế nóng hổi phục vụ

sáng tác, Nguyễn Tuân giang hồ là để “đi chơi”, đi chẳng vì mục đích gì cả, đi

chỉ là đi, đi không xác định địa điểm trƣớc. Tóm lại, nhiều nhà văn, nhà thơ

Việt Nam viết xê dịch, dƣờng nhƣ đây là “một cuộc chạy tiếp sức” và Nguyễn

28

Tuân là ngƣời đi xa nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất; sáng tác của ông

mang tính chất điển hình, sâu đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghĩa xê dịch.

Sở thích xê dịch bắt nguồn từ chính cá tính con ngƣời Nguyễn Tuân.

Ông là một cái tôi độc đáo, lập dị, có tính cách lối sống phóng túng và yêu

thích tự do. Ông bƣớc vào nghề văn nhƣ để chơi ngông với thiên hạ; là phản

ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống

nhƣng bế tắc. Ông nhiều phen rong chơi bên cạnh nhà thơ nổi tiếng với những

bài thơ giang hồ Lƣu Trọng Lƣ. Theo Vƣơng Trí Nhàn: Trước Cách mạng,

ông từng là khách quen của các chuyến tàu xuyên Việt, cứ hứng lên là người

lữ hành ấy xách vali đi, và thích đi đâu là dừng lại ở đó: Thanh Hoá, Huế,

Hội An... Sau Cách mạng, những chuyến lên rừng xuống biển của Nguyễn

Tuân càng dày hơn. Một lần nào đó, sau khi đặt chân lên một ngọn núi trong

dãy Hoàng Liên Sơn ... Một lần khác, ông đi tới Lũng Cú tột bắc. Một lần

khác nữa, đi một chuyến dọc Cẩm Phả, Cô Tô, Vân Hải. (Tạp chí Sông

Hƣơng số 31, tháng 6/1988). Cuộc đời Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng có nét

phảng phất giống nhƣ những thi sĩ giang hồ xƣa với “một bầu rƣợu, một túi

thơ” ngao du khắp mọi nơi “Trông vời trời bể mênh mang”; giống nhƣ thú

tiêu dao của các tao nhân mặc khách xƣa Giương buồm giong gió chơi vơi/

Lướt bể chơi trăng mải miết (Trƣơng Hán Siêu).

Chủ nghĩa xê dịch Nguyễn Tuân thẩm thấu ảnh hƣởng phƣơng Tây và

còn có màu sắc cổ điển chịu ảnh hƣởng từ những nhà nho tài tử nhƣ Nguyễn

Công Trứ, Chu Mạnh Trinh. Trong khi không quên những nền nếp đã miêu tả

trong Vang bóng một thời, nhà văn đã tạo nên một loại “lãng tử hiện đại”.

Vƣơng Trí Nhàn trong bài “Lời giới thiệu viết cho Quê hƣơng, truyện dài của

Nguyễn Tuân”, cho rằng: Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người

lửng lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường. Họ như không đi mà

chỉ bay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hoá ra

không ràng buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Gia đình nhà

29

cửa, không thiết tha. Cho đến cả tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều

họ quan tâm đuổi bắt... Niềm say mê mà nhân vật và ông cả đời theo đuổi là say

mê tìm hiểu chính mình và khắc hoạ chân dung tinh thần khác người của mình.

Ham mê xê dịch còn đƣợc “di truyền” từ gia đình. Nhà ông mấy đời

liền, đặt tên đều lấy theo bộ thủy, ông đặt tên con gái là Hƣơng Cảng sau

chuyến đi Hồng Kông chữ Cảng cũng thuộc bộ thủy. Phải chăng có sự ảnh

hƣởng ghê gớm và thần bí của chữ tên đối với cuộc đời từng ngƣời? Bởi Thủy

là nước. Nước vốn ít tụ mà lại hay đi. Cái sứ mệnh của chất nước là mãi mãi

phải trôi xuôi...vì có một cái tên đặt theo bộ thủy, mà ông nội tôi đã là người

hành nhân đi theo một phái bộ qua sứ Tàu... Thừa tự cái tính ấy, thầy tôi đã

có một dĩ vãng “lang bạt kì hồ” mà ngày nay, mỗi lúc nhắc tới, mẹ tôi chỉ biết

có kêu giời”[1;233]. Ông không hề giấu giếm khi chia sẻ với nhà phê bình

Ngọc Trai: “Phải nói rằng nhà tôi có cái gen giang hồ. Không hiểu cụ tổ tôi

thế nào, chứ từ ông nội tôi đến bố tôi và tôi thì cái gen ấy nhƣ ngày càng

mạnh hơn”.

Một nguyên nhân nữa chính là quan niệm độc đáo của Nguyễn Tuân về

cuộc sống giang hồ: Xê dịch mang lại cho ông nhiều trải nghiệm giang hồ

không những là một nghệ thuật mà còn là một khoa học thực nghiệm nữa.

Người giang hồ lại lấy luôn cái đời giang hồ ra làm trường học và tự mình

đem luôn cái thân mình ra mà thực nghiệm và tìm bài học ở những cái quán

bỏ vắng bên đường, ở một vũng bùn nước giữa nghìn dặm cát, ở một cái lều

cát thiếu củi lửa trên đỉnh non băng, ở một ngụm nước ngọt phải dành dụm

hàng tuần lễ trên một cái mặt bể lạc phương hướng [2; 944]. Ngƣời Việt Nam

có câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, có lẽ điều đó thật

thích hợp với Nguyễn Tuân. Là trí thức có học vấn cao, giống nhƣ các nhân

vật của mình, nhƣng ông lại không mơ ƣớc một cuộc sống công danh, đề huề

vợ con; mà chỉ thích những trải nghiệm, tìm niềm vui trong cuộc đời gió bụi

nhọc nhằn, thiếu thốn. Ham đi đến mức không nhìn thấy những khó khăn của

30

cuộc đời mƣa gió, thiếu thốn đang chờ đón mà chỉ thấy những quyến rũ của

con đƣờng xa và cuộc sống bên ngoài thật mê hoặc, ngọt ngào nhƣ men rƣợu

say trong mưa gió có cả một bài thơ muôn vận dành riêng cho những người

sống ở ngoài trời. Trong tiếng mưa, có một tiếng gọi thần diệu. Không đi thì uổng

lắm [2;771]. Đó cũng là một quan niệm sống rất nghệ sĩ của Nguyễn Tuân.

1.3.3. Quan niệm về xê dịch

Tự nhận mình là môn đệ của trƣờng phái “chủ nghĩa xê dịch”, xê dịch

không chỉ đơn thuần chỉ là sở thích mà đƣợc Nguyễn Tuân nâng lên thành hệ

thống những quan điểm tƣ tƣởng, làm thành cơ sở lí thuyết chi phối hoạt động

của nhà văn. Chủ nghĩa xê dịch Nguyễn Tuân vừa mang sắc thái phƣơng

Đông vừa chịu ảnh hƣởng tinh thần hiện đại phƣơng Tây. Song ở ông chất tài

tử giang hồ vẫn có nét riêng: tỉnh táo và luôn có ý thức về mọi hành động.

Dƣờng nhƣ ông cố ý làm cho các hành động của mình trở lên kỳ cục để gây

ấn tƣợng và đam mê đến mức ngông. Ngông trong xê dịch là biểu hiện của

một sự chống trả với mọi thứ nền nếp phép tắc, "đạo lý" thông thƣờng; làm

ngƣợc lại quan niệm nam nhi phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” với

thái độ ngạo đời. Nhu cầu chơi ngông đã đẩy mọi cái thông thƣờng tới cực

đoan, thậm chí tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết. Vì thế ở văn

Nguyễn Tuân, dƣờng nhƣ cái gì cũng đƣợc quan tâm, viết nhiều, nâng lên

thành ra những "chủ nghĩa" chứ không dừng lại ở mức giới thiệu. Đó là: chủ

nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hƣởng lạc,

chủ nghĩa cảm giác, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực và bao trùm lên tất cả

là chủ nghĩa độc đáo. Nguyễn Tuân lo nhất là mất đi cá tính và giống ngƣời

khác. Ông ao ƣớc khi chết đi đƣợc đem luôn theo mình "nguyên cảo" chứ

không để lại một bản sao nào khác ở đời.

Đam mê xê dịch ở Nguyễn Tuân đã xác lập một khuynh hƣớng, hình

thành một chủ nghĩa tƣ tƣởng, tuyên ngôn bất thành văn nhƣng đầy quả

31

quyết: đi và viết luôn đồng hành, đồng điệu trong đời sống và văn chƣơng.

Ông chủ trƣơng đi không cần mục đích, để thay đổi chỗ ở, để tìm cảm giác

mới lạ, thoát li mọi trách nhiệm với gia đình quê hƣơng. Xê dịch còn để thay

đổi thực đơn cho các giác quan, thỏa mãn “thị dục” và biểu hiện thái độ bất

mãn với hiện thực xã hội “ối a ba phèng” trƣớc 1945. Nguyễn Tuân đã tìm

đến lí thuyết "chủ nghĩa xê dịch" trong tâm trạng bất mãn và bất lực trƣớc

thời cuộc xã hội mất chủ quyền. Ông chăm đi, đi nhiều, đã đặt chân lên mọi

miền Tổ quốc. Đây là kiểu xê dịch không biết mệt mỏi, không biết bao giờ về.

Đi là để trải nghiệm tất cả các hƣơng vị, cung bậc của cuộc sống; đi để thấy rõ

hơn những con ngƣời ở mọi miền đất. Mỗi khi có cơ hội đƣợc đi, ông chỉ

muốn khởi hành cho thật nhanh, để trải nghiệm sự hoan hỉ với cái thƣơng nhớ

những ngƣời vừa chia tay, cái hồi hộp của phút sắp đƣợc đến nơi sẽ tới. Hạnh

phúc đích thực có lẽ chỉ tìm thấy ở những nhà ga. Niềm vui trong cuộc đời

đƣợc tạo nên bởi một chuỗi những hành trình: mùa nắng vào Tây Kỳ, trốn

nắng ở vùng cao nguyên Lâm Viên, nhân tiên chơi Đà Lạt hoặc đi Vân Nam

Phủ, ở Côn Minh tha hồ mà ăn đào, lê, mận, lựu,... vào chùa Hương nửa

tháng, trước ngày hội, xem rừng mơ non và uống nước gỗ mai già với đám

tăng lữ tại Chùa Trong [1;693]. Dám sống tự tại, phóng khoáng thần tiên nhƣ

thế chỉ có thể là Nguyễn Tuân.

Thể hiện lòng yêu nƣớc, tinh thần dân tộc qua những “trang hoa”,“tờ

hoa”, Nguyễn Tuân có những khám phá thú vị về phong cảnh bằng ngòi bút

tài hoa và tấm lòng gắn bó với quê hƣơng đất nƣớc. Đi không chỉ là nhu cầu

nội tại, lấy tùy hứng làm nội lực cho văn chƣơng mà cực đoan hơn, ông còn

coi đó là triết lí, mục đích sống, niềm vui trong cuộc đời. Đi để viết, đi và

viết, đi để đƣợc sống đúng nghĩa, dù có đủ điều kiện hay không đủ điều kiện.

Nguyễn Tuân thích ngay ở sự đi, đƣợc đi chứ không phải mục đích của

sự đi và không xác định địa điểm sẽ đến. Lối đi lang thang, lãng du, giang hồ

nhƣ các kiếm khách cổ trang. Ông thích đi, mê mải đi, chán ghét sự dừng lại,

32

muốn đi không phải ngừng lại, không phải là sở thích du lịch thƣởng ngoạn ở

một điểm định trƣớc thông thƣờng. Khi đến một địa điểm nào đó, phải dừng

lại, nhân vật của ông thƣờng có cảm giác chán nản, ngẩn ngơ nhƣ nhớ tiếc

một cái gì quý giá đã tan mất. Đó là chất thi vị rất đặc biệt ngụ trong cái sự

đƣợc đi mà không bao giờ phải dừng.

Trong hoàn cảnh đất nƣớc mất chủ quyền, lí thuyết "chủ nghĩa xê dịch"

với Nguyễn Tuân nhƣ một cứu cánh, một sự giải thoát, một hƣớng đi giúp

ông thoát khỏi những mâu thuẫn bế tắc trong tâm hồn sau những giấc mơ một

thời vang bóng dang dở. Ông từng sa lầy hơn khi thoát li vào trụy lạc nhƣng

cũng không khỏa lấp hết nỗi trống vắng, trống trải trong tâm hồn. Viết về

"chủ nghĩa xê dịch" còn là biểu hiện sống động của tình yêu đất nƣớc thầm

kín. Tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ – những ngƣời sống giữa quê hƣơng mà

vẫn thấy mình thiếu quê hƣơng:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

(Tràng giang - Huy Cận)

Tóm lại, ở chƣơng này chúng tôi tiến hành tìm hiểu hành trình sáng tác

của Nguyễn Tuân, đặc điểm con ngƣời, những sự kiện quan trọng trong cuộc

đời nhà văn ảnh hƣởng đến sáng tác, đặc biệt là những yếu tố tác động ảnh

hƣởng đến lối sống và đề tài xê dịch. Cái tôi nhà văn lãng mạn, ngông nghênh

kiêu bạc không thể hài hòa với những gì là khuôn mẫu, gò bó, chật chội của

xã hội cũ. Là một trí thức Tây học chịu ảnh hƣởng văn hóa phƣơng Tây, trong

hoàn cảnh đất nƣớc mất chủ quyền, lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" nhƣ một sự

giải thoát, một hƣớng thoát li giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi những mâu thuẫn

bế tắc trong tâm hồn sau những giấc mơ một thời vang bóng dang dở. Ông

từng sa lầy hơn khi thoát li vào trụy lạc nhƣng cũng không khỏa lấp hết nỗi

trống trải trong tâm hồn. Nhƣ vậy, viết về "xê dịch" chính là biểu hiện sống

33

động của tình yêu đất nƣớc thầm kín, là dịp nhà văn bày tỏ tấm lòng gắn bó

tha thiết đối với cảnh sắc và phong vị của đất nƣớc bằng một ngòi bút đầy trìu

mến, yêu thƣơng và tài hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ sống giữa quê

hƣơng mà vẫn thấy mình thiếu quê hƣơng, bởi nhà, chàng làm gì có nhà. Đến

quê hương chàng cũng còn đang đi tìm nữa là. Không chỉ thế Nguyễn Tuân

đã thực sự sống xê dịch trƣớc khi viết về xê dịch, những quan niệm về xê dịch

của nhà văn cũng không giống thái độ mục đích du lịch thông thƣờng mà thực

sự đã trở thành một hệ thống tƣ tƣởng, lý thuyết chủ nghĩa độc đáo. Sở thích

lãng du thậm chí dám vƣợt biên giới để kiếm tìm và trải nghiệm những cảm

giác khác lạ của nhà văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang lụi tàn trong tâm

hồn không ít thanh niên tâm huyết với đất nƣớc mà bất lực trƣớc thời cuộc

đƣơng thời.

34

CHƢƠNG 2

NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG ĐỀ TÀI XÊ DỊCH CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

2.1. Cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên

2.1.1. Cảnh sắc đất nước quê hương

Nguyễn Tuân học theo chủ nghĩa xê dịch chẳng qua là luôn thèm khát

những cảm giác mới lạ về những miền đất và những con ngƣời mới. Là ngƣời

giàu trải nghiệm, ông đã thực hành xê dịch thực sự trƣớc khi viết xê dịch.

Trên đƣờng giang hồ, ông đã ghi lại những bức tranh chân thực sinh động về

cảnh sắc quê hƣơng đất nƣớc nhƣ một nhà ga, một bến phà, một con đƣờng,

một dòng sông, một thị trấn, một thành phố... Những bức tranh khi thì chỉ

chấm phá vài nét, khi thì đƣợc vẽ hết sức tỉ mỉ mà chúng ta có thể nhận thấy

nhà văn đã đặt tất cả tâm hồn mình vào đấy. Có những cảnh hết sức quen

thuộc vậy mà dƣới ngòi bút Nguyễn Tuân rất giàu chất họa chất thơ, sống

động vô cùng. Ông đã lang thang ngao du sơn thủy khắp chốn Nam Bắc: đi

chơi Chợ Giời vùng Hòa Bình, ngâm vịnh những lúc nhàn tản ở Chợ Cột,

Đông Triều, vào trong Quảng Nam chơi chùa Non Nước, đề đá núi Ngũ

Hành..., tứ tỉnh đường ngoài và ngũ tỉnh đường trong đều có in vết chân cả

[2;423].

Là nhà văn của những tính cách độc đáo, những cảm giác mãnh liệt,

ngòi bút Nguyễn Tuân bị kích thích mạnh mẽ trƣớc những cảnh vật gợi những

rung động cảm giác mãnh liệt. Là nhà văn duy mĩ, thiên nhiên trong trang văn

của Nguyễn không phải là cảnh vật bất kì tùy tiện bắt gặp trên đƣờng mà phải

độc đáo, ấn tƣợng, tác động mạnh đến xúc cảm của nhà văn. Đó là những bức

tranh độc đáo, tinh khôi, thanh khiết khiết của Chùa Thầy – núi Sài Sơn (Về

quê); cảnh sắc xứ Mƣờng sơn lâm, huyện đƣờng rừng Cẩm Thủy, Thanh Hóa

với “mƣa dầm, gió heo, sƣơng đêm” ảm đạm, lạnh lẽo. Cảnh sƣơng sớm nơi

35

huyện miền núi rất nên thơ và lãng mạn đã hiện lên dƣới ngòi bút miêu tả tài

hoa: Những giọt sương sớm đậu trên búi cỏ trông lóng lánh như thủy ngân

hòe trên tấm mạng nhện mà chỉ tơ giăng bằng nước hạt móc sa...Chỉ có mùi

cỏ, mùi đất và hoa đất của loài giun dế. Xa xa một vài điểm chàm. Người

nông phu xứ Mường. Cảnh lành và khí trời cũng lành [1;722]. Phong cảnh

bình yên nhƣ thế này đã làm khỏa lấp nỗi trống vắng, trống trải vì “thiếu quê

hƣơng”, làm dịu đi những cơn khát đƣợc lên đƣờng, đồng thời cũng cho thấy

tình cảm gắn bó với những miền quê nghèo xa xôi của nhà văn.

Ấn tƣợng mạnh mẽ tới ngƣời đọc phải kể đến bức tranh độc đáo về

vùng mỏ Vành Danh, Uông Bí, Điền Công đầy nắng gắt, hoang sơ khắc

nghiệt: một vùng cảnh thổ hoang vu và khắc khổ. Người đen, cảnh đen và cây

cỏ cũng đều đen cả. Thật là tổ quốc của than [1;803]. Vùng đất mỏ đen nhƣ

những “cảnh tang tóc kéo dài quanh năm bất phân mộ dạ”. Cái khắc nghiệt

nắng gắt nhƣ đổ lửa của thiên nhiên vùng mỏ khiến cho mọi sự sống của thực

vật nơi đây chỉ còn thoi thóp “một vùng cỏ vàng ệch, cứng nhƣ que mà không

có một con bò con ngựa nào muốn ngốn lúc đói... cỏ gianh ở đây không bao

giờ đƣợc xanh lấy tí ngọn. Lửa trời đã đốt xém trụi hết cỏ gianh”. Một không

gian chỉ than là than: nền đất than đen dẫm kêu sào sạo nhƣ là cát bể, cái

thung lũng đen xì những khói, muội bụi than, mùi thán khí trong những con

đƣờng hầm tối om khiến cho ngƣời ta nghẹt thở. Những cơn gió ở đây cũng

thật đặc biệt, chúng quẩn giữa thung lũng Vàng Danh, thổi ào ào trong đêm

từng cơn, làm não lòng ngƣời cũng làm cho ngƣời ta phải suy nghĩ về cái bức

bối, nghẹt thở của cuộc đời. Cảnh vật dẫu có khắc nghiệt nhƣng khác thƣờng,

độc đáo càng gợi hứng thú ở Nguyễn. Cái xứ Vàng Danh nghiệt ngã này

khiến cho anh bạn đồng hành Sƣơng khó chịu, liên tƣởng tới những vùng sa

mạc hoang sơ xứ Texas ở Mĩ và những vung khai thác dầu hỏa Hoa Kì. Ở

đây, chắc không ai ngâm vịnh được; nhƣng Bạch vẫn nhận thấy chất thơ rung

động của nó bởi cái ấn tƣợng quá mạnh mẽ nó gợi lên cho con ngƣời một lần

36

đến đây là nhớ mãi: Ở đây người ta sẽ làm thơ mà vận là đá, là sắt, là khoáng

chất và âm điệu sẽ dự vào tiếng gió lạnh tối lùa vào trong lò mỏ, tiếng một

mũi cuốc nhọn hoắt mổ vào lòng đá đen già [1;806]. Đằng sau cái cảm nhận

đầy chất thơ đó cho ta thấy cái nhìn đầy trìu mến, cảm thông, thƣơng cảm của

của nhà văn với những con ngƣời lao động, phu mỏ nơi đây đang phải làm

việc trong một hoàn cảnh thật độc hại.

Tùy bút Một lần đi thăm nhau (Tùy bút II) cũng là những khám phá

mới mẻ về cảnh vật đất nƣớc. Những quang cảnh thiên nhiên đặc trƣng của

các vùng miền dọc hành trình Bắc Nam đã hiện ra: Mảnh đất Quảng Bình,

một vùng rộng hoang vu nghèo khó chỉ có cát và cây cằn không một ngọn tre

quen thuộc. Ánh mặt trời đã làm cho những đám bụi đỏ của con đường thiên

lí hiện ra. Cát trắng đã thành cát vàng. Từng cồn cát vàng. Màu cồn cát đè

lên màu quan lục của từng vũng bể Đông [1;612]. Rồi qua Quảng Trị, Huế.

Đặc trƣng mƣa dầm của Huế đƣợc Nguyễn gợi tả với nhiều sắc độ: mưa đay

nghiến chì chiết đến lòng người; mưa mang mang vô tuyệt kì; Mưa mãi. Mưa

hoài. Mưa rào đổ xuống mái nhà mau nghe như tiếng máy khâu [16;617], cho

nên Huế đƣợc mệnh danh là “nàng sùi sụt”. Huế không có Tết Trung thu vì

“vào cữ này kim phong vũ biểu ở đây lúc nào cũng chỉ lả lay ở khoảng mƣa

và ấm thôi”. Tạm biệt Huế, dời ga Lăng Cô lên đƣờng cũng trong ngày mƣa

“Mây đèo Hải Vân kéo dài ra vời xám mịt mù”. Con tàu đƣa khách giang hồ

qua những ruộng mía vùng Quảng Ngãi trổ hoa lá lay trên cánh đồng gió đẹp

như những ngọn cờ bông lau đất Hoa Lư. Bãi biển Sa Huỳnh thơ mộng với

cát, trời, nƣớc, mây quyến rũ đến mức suýt xui tác giả bỏ con tàu dừng lại.

Hai ngọn tháp Hời của ngƣời Chămpa cổ xƣa ở ga Vân Sơn, Bình Định.

Nguyễn qua Nha Trang rồi ga Sài Gòn với nắng Nam Kì chào đón.Thành phố

hoa lệ đẹp nhất phƣơng Nam với chợ Bến Thành, vƣờn hoa Bùng Binh, Thƣ

Viện thành phố..., nhƣng cũng không lƣu giữ đƣợc lâu bƣớc chân của ngƣời

lãng tử. Nguyễn đã xuống tận xứ miền Tây gạo trắng nƣớc trong Cần Thơ,

37

Hậu Giang, Lâm Viên của xứ Tây Kì... Có thể nói, tùy bút này giống nhƣ

những trang nhật kí cuộc đời của nhà văn, đã mang đến cho bạn đọc những

bức tranh cảnh vật thiên nhiên đất nƣớc thật gần gũi, nên thơ nên họa.

Tùy bút Cửa Đại, Nguyễn đã tái hiện một thƣớc phim màu đặc biệt về

vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của thiên nhiên và con ngƣời miền Trung. Nhiều

ngƣời Việt Nam chƣa từng đến Cửa Đại, nhƣng khi đọc tác phẩm này không

chỉ đƣợc bồi đắp thêm kiến thức địa lí, văn hóa, phong tục, con ngƣời mà

càng thấy gắn bó, mến yêu, tự hào trƣớc vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc mảnh đất

miền Trung. Dƣới ngòi bút ghi chép, quan sát tỉ mỉ của Nguyễn, nét đẹp đầy

bản sắc văn hóa nơi đây đã hiện ra. Cửa Đại - thuộc tỉnh Quảng Nam, có tên

chữ là “Đại Chiếm hải khẩu”. Quảng Nam có hai thủ phủ tỉnh lị. Một là phố

Tây mệnh danh là “Faifo”(Hội An), nơi có tòa công sứ Pháp, đồn lính tập, sở

Giây Thép, ty Mật Thám của ngƣời Pháp. Bên cạnh đó có tỉnh lị đặt ngoài

thành cũ Bến Điện, có dinh quan Thủ hiến ngƣời Việt, cách phố Tây “hơn

mƣời cây số đƣờng đất đỏ nắng chang chang”. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ

của nƣớc Việt Nam thuộc địa trƣớc Cách mạng, bên cạnh dinh Thủ hiến của

quan ngƣời Việt là dinh quan Công sứ ngƣời Pháp. Thành cũ Bến Điện có vẻ

đẹp thật cổ điển lãng mạn và nên thơ; nổi tiếng với “kĩ nghệ làm hàng tơ, có

tiếng về nghề dệt lụa nhiễu”; có những bến nƣớc trong veo, tuyệt đẹp khiến

cho ngƣời khách giang hồ mê mẩn mà liên tƣởng tới cảnh ngƣời đẹp Tây Thi

giặt lụa nơi bến nƣớc Trung Hoa. Cảnh tiếng chày đập áo “tiếng nện vải lụa

trên hòn đá bến nƣớc lúc hoàng hôn”, giống với âm thanh trong bài thơ “Thu

hứng” của Đỗ Phủ “Thành Bạch dồn châm buổi ác tà”. Cuộc sống êm đềm,

thơ mộng, quyến rũ, lấp lánh trên sông nƣớc ở Hội An luôn vẫy gọi ngƣời

khách nghệ sĩ giang hồ khám phá: Tôi ngắm bóng trăng thanh rọi xuống mặt

sông Hội An. Trên mặt sông, thực là cái rừng cột thuyền buồm, mành ghe chi

chít dây bèo buồm, dây thừng. Bấy nhiêu nét đen sắc đều nhấp nhô lay động

theo mực nước thủy triều đang dâng lên rất mạnh. Ánh trăng bị dầm tan

38

trong lòng con sông mà nước ngọt đang bị bể ngoài pha rót vào bao nhiêu

thứ muối chát mặn [2;541]. Cẩm Phô - “một cái làng rất giàu có” ở Hội An,

chuyên bán “những con hến luộc nhỏ xíu dùng làm đồ ăn điểm tâm với bánh

tráng”; núi Trà Kiệu “in dài giữa con đƣờng đi Cửa Đại một cái bóng xe

ngựa; cù lao Chàm “tổ quốc của yến sào”; phía bắc là Ngũ Hành Sơn, đèo Hải

Vân. Cửa Đại thực sự không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình

khoáng đạt, quyến rũ lòng ngƣời mà còn có vị trí chiến lƣợc chính trị quân sự

hiểm yếu, đặc biệt quan trọng, án ngữ Bắc Nam và là một trong “thập nhị hải

khẩu ghi ở sử cũ” (mƣời hai cửa biển lớn) của Việt Nam. Cảnh biển và con

ngƣời nơi đây mang vẻ đẹp mộc mạc, hoang sơ, tinh khôi nhƣ chƣa từng bị

cuộc sống vật chất, xô bồ, dục vọng ảnh hƣởng của văn minh phƣơng Tây làm

cho biến chất: cảnh ở đây hiền lành thế, ở đây chỉ có cát vàng, cây xanh, sóng

trắng đầu. Cảnh tự nhiên như chưa bị hoen ố bởi những tấm biển quảng cáo.

Tạo vật được kính trọng đến cả trong những tiếng động. Ngoài cái bản đàn

của sóng khơi và gió ngàn thông, tịnh không có tiếng âm nhạc hỗn xược của

nhà khiêu vũ hay của khách sạn [2;548]. Cảnh đêm ở Cửa Đại cũng thật thơ

mộng: Đêm, chúng tôi ngắm sao trên vòm trời như những kẻ đi biển tìm

phương hướng; Trăng đêm khuyết hẳn một góc và kềnh càng mãi, bắt tôi nằm

chờ đợi rất lâu nơi cửa sổ khoang thuyền. Dưới bóng lờ mờ, những chiếc

thuyền con rao bán chè đậu ván và mì cu ly lượn lên lượn xuống như vào một

ngày hội hoa thuyền [2;550].

Cửa Đại còn tái hiện bức tranh về cảnh sinh hoạt cần lao vất vả của

nhân dân ta ngày trƣớc. Đó là cảnh những ngƣời dân nghèo buôn bán chen

chúc trên bến Hội An. Những con đƣờng đá vắng vẻ với những phƣơng tiện

vận tải thô sơ của một thời trung cổ nay vẫn tồn tại: “cái xe ngựa lọc cọc, lạch

cạch chạy rất chậm trên con đƣờng vắng...Nó giống nhƣ cái xe thổ mộ của

Nam kì”. Cái xe chốc chốc lại phải dừng lại để sửa lại vành xe cũ nát, rồi lại

từ từ lăn vòng bánh trệu trạo trên đoạn đƣờng lởm chởm. Những chiếc xe tay

39

có lục lạc đồng lêu loong coong nhƣ tiếng nhạc ngựa. Bãi biển ở đây cũng

thật đặc biệt, khác hẳn bãi biển đánh đĩ để chỉ Đồ Sơn hay Sầm Sơn... Cửa

Đại là một đất thừa lương rất lương thiện. Ngƣời dân Cửa Đại cũng là những

con ngƣời lao động thật thà, hiền lành chất phác, đơn giản, dễ mến, hồn nhiên

nhƣ sóng biển gió trời nơi đây: Con nhà chài ở đây chưa biết đánh lừa người

ta mỗi khi bán mớ tôm, mớ cá. Những thiếu phụ góa bụa quấn dải khăn

ngang để tang một người thuyền chài chết vì mẻ cá nục ngoài bể sâu mấy con

sào nước, những người sương phụ đó có cái vẻ đẹp của Thánh Maria đó chưa

biết đến việc mãi dâm, một thứ hàng mà người thành thị đi nghỉ mát để khoe

của đã đem du nhập vào mọi chỗ hải tần đổi mới. Ở đây, người ta đi tắm là đi

tắm. Hít gió ở đây là cứu cánh chứ không phải là một phương tiện trá hình

của đám trưởng giả [2;517]. Những con ngƣời tự do hồn nhiên nhƣ bãi bể,

hồn hậu, hiền lành và rất mến khách nhƣ ông cụ Điều “một ông già vẫn giữ

đƣợc cái búi tóc trắng, là ngƣời rất vui tính”; Nhân – con trai ông cụ; anh Bảy

đánh xe ngựa; những ngƣời em trai, em gái, em dâu, em rể của tác giả “lành

lắm”. Họ sống không phiền ai và cũng không muốn ai phiền quấy mình, chƣa

biết khủng hoảng, băn khoăn bao giờ cả”, nhƣ “những củ hoài sơn” rất lành

trong vị thuốc bắc; tự tại thanh thản nhƣ gió trời nơi đây.

Phong vị văn hóa ẩm thực của Cửa Đại cũng đƣợc nhà văn khám phá

một cách tinh tế: hến luộc nhỏ xíu của làng Cẩm Phô để ăn điểm tâm với bánh

tráng; cá trảnh – thứ cá chỉ có ở sông Phố, thơm nhƣ cá sông Hƣơng; trái

loòng boong – “một thứ thời chân rất quý của xứ Quảng”, còn gọi là Nam

Trân vì đã có công giúp cho vua Gia Long và ba quân no lòng đi đánh giặc.

Có thể nói, dƣới bƣớc chân xê dịch phóng lãng và con mắt tài hoa của ngƣời

nghệ sĩ giang hồ, cảnh sắc thiên nhiên, con ngƣời miền Trung hiện lên thật ấm

áp, gần gũi, cảnh mến ngƣời, ngƣời quyến luyến với cảnh. Cảnh vật và con

ngƣời đã phần nào khỏa lấp nỗi trống vắng thiếu quê hƣơng của một con

ngƣời giàu tinh thần dân tộc.

40

Cảnh sông nƣớc giang hồ cũng hiện lên sống động, ấm nồng khơi gợi

lên sự bao sự tò mò khám phá. Trong tùy bút Chiếc vali mới ghi chép hành

trình của Nguyễn trên chiếc tàu Hồng Cơ từ Thanh Hóa ra Uông Bí lấy than,

một cơ hội xê dịch trên sông nƣớc dài ngày hiếm có của Nguyễn hàng mấy

tuần, con thuyền sẽ rập rờn trên sóng ngòi, sóng kệnh, sóng sông cái, sóng

biển rộng..., tha hồ thăm các bến, các giang khẩu, các phụ đầu [2;600]. Một

loạt các địa danh của chuỗi hành trình trên biển đã hiện ra: kênh Toán – một

đƣờng thủy gay go nhất, một sông đào kiểu chữ chi vào một buổi tối nhƣ trát

hắc ín, “toàn bè là bè. Hết gốc bồ đề lại đến nứa”; đồn Lạch Trƣờng; cửa bể

Thần Phù, hang Từ Thức, Vƣờn Đào, Bến Chúa – những địa danh đầy cám

dỗ, mời gọi. Sau ba tiếng thuận gió, tàu lách vào đất Phát Diệm, Ninh Bình,

quê hƣơng của sự gieo mầm đạo vào xứ này – với bao nhiêu nóc nhà thờ đạo.

Và hai bên ven lạch, bên phải bên trái, quá trong những làng mạc xa kia đều

là nhà thờ cả [2;607]. Cửa biển Đồn Cống (Ninh Bình) thực là một thƣơng

cảng sầm uất, trạm nghỉ chân của những con tàu ra Bắc vào Nam san sát

những cột buồm và giây lèo. Thuyền Thanh, mành Nghệ, thuyền Nam thôi thì

đủ. Ở đây có thể gọi là cái rừng cột buồm được [2;607]. Trang tùy bút mang

đậm chất du kí của Nguyễn Tuân đã làm đắm say những tấm lòng ƣa phiêu

lƣu. Phong cảnh thiên nhiên cảnh biển của Tổ quốc hiện lên thật gợi cảm hấp

dẫn, qua đôi mắt quan sát tài hoa làm siêu lòng bất kì ai khi nhà văn tả những

cánh buồm trên mặt bể: hôm nay tôi mới nhận thấy hết cái ý vui sướng ngụ

trong mấy chữ “thuận buồm xuôi gió”. Tất cả bấy nhiêu thuyền đều dong

buồm hết. Buồm lá trướng của thuyền Nam đúng là những bức trướng vải

đám ma. Buồm chỉ thiên của đoàn thuyền Thanh đẹp nhất. Và mạnh bạo nhất

thì vẫn là những cánh buồm dơi vẽ lại cái dáng điệu của những chiếc thuyền

Tàu Ô đi trên biển [2;608].

Tùy bút Chiếc va li mới không chỉ tái hiện những bức tranh thiên nhiên

biển trời mây nƣớc, mà còn thể hiện cái nhìn trìu mến, ấm áp đầy trân trọng

41

cảm thông của nhà văn trƣớc bức tranh đời sống con ngƣời. Những ngƣời lao

động Sơn Nam Hạ ở ven các bờ biển phía Bắc Thanh Hóa có tính cách hiền

lành, chân phƣơng. Đó là các cô gái buôn ở xứ đạo Phát Diệm đảm đang, tháo

vát, chịu thƣơng chịu khó, vất vả trên sông nƣớc bập bềnh có khuôn mặt và

cặp mắt xinh đẹp đều rập theo cái vẻ đẹp nhu mì của thánh Maria.... những

cô gái Kim Sơn chèo những chiếc thuyền thúng đi chào hàng. Họ quỳ gối

xuống sạp thuyền, hai tay chèo đều, thuyền nan lướt qua, len vào kẽ các

thuyền gỗ... Cái đám phụ nữ bán hàng tạp hóa trên mặt nước này có đùa họ,

không bao giờ họ biết giận [2;608]. Đặc biệt, cảnh những ngƣời dân chài cửa

biển Lạch Trƣờng lặn bắt những con hầu vô cùng khó nhọc cổ lòng thòng cái

dây có thánh giá đang rỏ nhiều giọt nước. Họ ngậm ngang mồm một con dao,

lặn xuống nước một lúc lâu, tìm những tảng hầu cắn vào sườn đá cạy ra rồi

ngoi lên mặt nước, vuốt mặt nhổ và thở phì phì; họ vuốt mặt, vuốt mắt và nhìn

lại chân trời đẹp với sự khó nhọc đăm chiêu [2;605]. Những cặp mắt toét và

những cái miệng mếu máo đầy nƣớc mặn ấy của những ngƣời đi cạy hầu

khiến cho lòng nhà văn trĩu nặng suy tƣ về sự khó nhọc vất vả, nguy hiểm của

những ngƣời dân chài nghèo. Họ phải đánh đổi, đánh cuộc mạng sống hàng

ngày vì miếng cơm manh áo, có ngƣời lặn xuống có khi không nổi tăm lên

nữa, lấy luôn cái đáy bể có lót bọt đá ấy làm một cái mồ.

Nhƣ vậy, những bức tranh thiên nhiên cảnh vật đất nƣớc và bức tranh tả

thực cuộc sống lao động ấy cho thấy Nguyễn Tuân không phải là một khách

giang hồ chỉ biết kiếm tìm niềm vui xê dịch thỏa mãn đam mê bản thân. Ông

không phải là một con ngƣời vô tâm, vô cảm hoàn toàn dửng dƣng với ngoại

cảnh và thời cuộc. Ông không hoàn toàn thoát li xã hội, mất hẳn gốc rễ với

cuộc đời, mà luôn trìu mến đau đáu, giàu lòng trắc ẩn, giàu tấm lòng đôn hậu

với con ngƣời, đất nƣớc quê hƣơng. Qua đó giúp chúng ta hiểu thêm một cái

tôi Nguyễn Tuân tha thiết yêu thiên nhiên và quê hƣơng đất nƣớc nhƣng lại rất

42

cô đơn, bất lực trƣớc thực tại và càng yêu mến, trân trọng ngƣời nghệ sĩ tài tử

với tấm lòng thiết tha với cái đẹp.

2.1.2. Cảnh sắc những miền đất lạ

Nguyễn Tuân mê xê dịch nhƣng trong hoàn cảnh đƣơng thời, ông

không có nhiều cơ hội đƣợc xuất ngoại ra ngoài biên giới. Chuyến đi Thái

Lan thời học sinh rồi bị bắt lại quản thúc coi nhƣ thất bại, nhƣng ông không

ngừng tìm kiếm những cơ hội đƣợc đi ra khỏi biên giới để trải nghiệm cuộc

sống nơi đất khách quê ngƣời. Chuyến đi Hồng Kông có thực đƣợc ông ghi

chép lại trong du kí Một chuyến đi, còn những chuyến lênh đênh trên biển

khắp thế giới châu Âu, châu Mĩ của nhân vật Bạch trong Thiếu quê hương là

ông đi trong ƣớc mơ, trong trí tƣởng tƣợng vô cùng phong phú của mình.

Trƣớc đó chắc cũng đã khá nhiều ngƣời Việt Nam có dịp đặt chân tới Hồng

Kông nhƣ Phan Bội Châu cùng nhiều nhà ái quốc khác ghé Hồng Kông vào

đầu thế kỷ XX trong lúc bôn ba hải ngoại tìm đƣờng cứu nƣớc. Tới mà "thăm

thú" không biết đã có những ai, chỉ biết đến năm 1938 thì có Nguyễn Tuân.

Chính thức, Nguyễn Tuân qua Hồng Kông để đóng phim. Nhƣng đó chỉ là cớ

để nhà văn thỏa mãn cái sở thích xê dịch nổi tiếng của mình. Với Nguyễn, ĐI

đã là ĐẾN rồi! Nếu chỗ đến lại đáng thăm nữa, thì càng hay.

Đi xa, dễ thấy nhiều cái lạ. Chỉ kể những cái mà mắt ai cũng thấy đƣợc,

bằng những lời mà ai cũng viết đƣợc, đã đủ lôi cuốn nhiều ngƣời đọc. Huống

chi Nguyễn Tuân nhìn vừa bằng mắt y nhƣ mọi ngƣời vừa bằng một tâm hồn

nhạy cảm khác thƣờng và kể những cái đã thấy thành một thứ văn xuôi đẹp

đẽ. Viết về "Một chuyến đi" xa, có khi Nguyễn không kể chuyện lạ nào hết,

mà say sƣa vẽ tâm trạng Nguyễn. Vẫn là mình, nhƣng có khi ở nơi xa mình

mới dễ thấy một nét chân tƣớng của mình! Du kí Một chuyến đi đƣợc coi nhƣ

một dạng tự truyện, ông đã kể lại kỹ lƣỡng nhiều chuyện liên quan đến cái lần

nhà tài tử nghiệp dƣ cùng với một số bè bạn trong chuyến đi Hồng Kông năm

43

ấy. Những trang đặc sắc để lại ấn tƣợng mạnh với ngƣời đọc là những trang

ghi lại đƣợc một cách sắc sảo, tài hoa và chân thực một số nét riêng của phong

cảnh cũng nhƣ phong tục trong sinh hoạt của con ngƣời trên đất Hƣơng Cảng.

Rời cảng Đồ Sơn – Hải Phòng, con tàu say rƣợu Kinh Châu đƣa

Nguyễn ra khơi trong tâm trạng hào hứng, phấn khích cực độ. Anh chàng lãng

tử trẻ tuổi dƣờng nhƣ không ngủ chỉ để tận dụng thời gian trải nghiệm hành

trình. Qua thành phố Bắc Hải, tên tiếng Anh là Pakhoi, nổi tiếng là nơi đánh

nhiều cá mực ngon. Những mái nhà lầu lợp toàn thứ ngói đá đen màu trắng

mốc khiến Nguyễn liên tƣởng đến “những con cá mực phơi đƣợc già nắng

đang phô màu nắng ngon lành của thứ hải vị đắt tiền”. Mỗi hải trình qua đi

với anh đều thật thú vị. Mảnh đất Hồng Kông hoa lệ đã hiện lên trong con mắt

quan sát tỉ mỉ cảnh vật của ngƣời nghệ sĩ. Một thành phố sôi động, đông đúc

với các phƣơng tiên giao thông hiện đại. Đêm Hồng Kông rực rỡ thực sự là

một kinh đô ánh sáng: Ánh sáng của Hồng Kông là ánh một kinh thành tự

cháy bùng lên theo điện học làm mờ mắt và nóng mặt những lữ khách chưa

quen [1;248]. Đây còn là thiên đƣờng của sự ăn chơi giải trí đắt đỏ: đờn, hát,

rƣợu chè. Mua danh, đốt cháy hết cơ nghiệp ở phố ăn chơi Sạch Sùng Chủi

của khách thƣợng lƣu chỉ trong một đêm, bởi “một thồi rƣợu hạng cuối cũng

phải trả một trăm đồng bạc Anh, một đôi chục bạc để ăn một trái lê trái đào”

đƣợc ngƣời đẹp nơi đây cắt gọt nghệ thuật. Những cao lâu, tửu điếm san sát

“dội lại những tiếng đồng vọng trận cƣời”. Các khu ăn chơi ở Hồng Kông nhƣ

Kim Lăng tửu điếm, khách sạn Quảng Châu sang trọng, lộng lẫy, hiện đại

nhƣng đắt đỏ vì mỗi dịch vụ ở đây dù là đi tiểu, châm thuốc, chải bụi trên

áo...cũng phải trả tiền “boa” rất hậu. Hồng Kông thực sự còn là nơi ăn chơi

giải trí số một khi về đêm bến nước sáng như ban ngày, đèn thắp quá sao sa,

soi mình xuống mặt nước cửa sông Châu Giang, nơi khách lãng tử yêu sống

đêm, đổi ngày làm đêm không sợ thiếu chỗ tụ họp hành lạc [1;258] ở những

kè đá bến Hƣơng Cảng, tiệm hút hồng phiến, vũ quán, tửu điếm, nhà chứa, trà

44

đình... Những vũ nữ Hồng Kông trong những tiệm nhảy vô cùng xinh đẹp

“tiếng trong nhƣ thủy tinh, ấm áp nhƣ hạnh phúc” với những cái tên Tàu gợi

cảm: Trần Lệ Liễu, Thu Muội Muội, Hoài Thanh Thanh, Cúc Tiểu Muội...

Không khí ăn chơi không kém Pari chút nào. Hƣơng Cảng thực là đẹp lộng

lẫy một cách dữ dội, xa xỉ một cách tàn nhẫn với khách phong lƣu, nhƣng ẩn

chứa đằng sau sự phồn hoa ấy là những mảng tối buồn của bức tranh. Đó

chính là cuộc sống của những ngƣời dân nghèo với rất đông những đứa trẻ

lang thang đánh giầy kiếm tiền trên phố chẳng khác gì ở Việt Nam chúng cứ

lăn xả vào giữa hai chân ôm lấy ống chân, rồi không đợi nói năng, lấy sì –

đạt trát lia lịa trên mặt giầy, rồi chải nhanh như chớp [1;265].

Đơn độc ngay trên quê hƣơng mình, trốn tránh mọi ngƣời, chỉ lấy sự

lang thang chỗ này chỗ nọ làm vui, những tƣởng ở Nguyễn Tuân đã chết hẳn

con ngƣời bình thƣờng. Nhƣng không, đến khi có dịp xa quê thực sự, thì

Nguyễn Tuân lại có một cái Tết thật buồn, đến mức ngƣời ta phải tự hỏi

không biết đâu mới là bản chất thực của con ngƣời phiền toái, phức tạp, mâu

thuẫn đó. Cảnh ông ăn Tết ở xứ ngƣời xảy ra vào đầu năm Dần (1939). Hiện

lên trƣớc mắt chúng ta là một bức tranh hai màu đối lập. Một bên là cảnh dân

địa phƣơng náo nức vui thú. Những tràng pháo dài hàng vạn quả đua nhau nổ

dữ dội: Pháo nổ vang cả một góc trời Tàu. Xác pháo bay xuống như trận mưa

khô...Xác pháo họ đốt rơi xuống mặt hè dầy có đến mười lăm phân tây. Xác

pháo ngập mắt cá chân khách bộ hành là thường [1;329]. Những gốc đào tƣơi

tua tủa hoa nhạt và nụ thắm. Đêm Hƣơng Cảng đỏ rực với phiên chợ Tết “nhƣ

cảnh bài trí trong một truyện thần tiên hoặc trong Liêu Trai”. Một bên là tâm

trạng buồn thiu của ngƣời lữ khách cô độc, tiền không có, bạn cũng không, đi

giữa đƣờng vui phải giơ tay nắm chắc lấy lòng can đảm của chính mình để

khỏi chán chƣờng thêm: Tôi đi qua phố Hương Cảng như một thằng người

máy, như một tên lính mệt mỏi từ mặt trận về; mắt mờ, hồn mê và chân vẫn

bước. Vốn là điều làm nên sự kiêu hãnh của ngƣời lãng tử, sự khác ngƣời với

45

Nguyễn Tuân trong những ngày Tết năm ấy chỉ còn là một cái gì nặng nề, cô

đơn, lòng lạnh giá không sao chịu nổi. Trong lúc tỉnh táo, tác giả cảm thấy rất

rõ là mình đang đánh mất mình: Tôi chiều nay hằn học với số phận, dám cáu

kỉnh với cả cuộc đời phiêu lưu mà xưa nay tôi vẫn ca ngợi. Chiều nay, tôi

cũng muốn vứt đi một cái gì...Giữa cái tưng bừng của một thị trấn lớn, tôi

lang thang, cô độc như một kẻ bị đi đày [1;330]. Nghe tiếng pháo nổ, ngắm

sắc thắm hoa đào mà nỗi nhớ quê nhà trào dâng khôn xiết: chiều hôm nay, tôi

tưởng như đang đứng ở phố Hàng Bồ, Hà Nội; cảm động, ngồi thừ ra, đâm

nhớ quê hương và phần mộ ông bà, hương vòng, hương nén, trầm, bạch đàn

nghi ngút cháy thi với bạch lạp [1;352]. Cảnh tƣợng cái Tết trong quá khứ đó

với Nguyễn lúc này hiện lên thật ấm áp, đáng yêu. Nét đẹp văn hóa truyền

thống ngàn xƣa bỗng chốc hiện về rõ rệt trong niềm bâng khuâng tiếc nuối.

Chƣa bao giờ con ngƣời Nguyễn lại hiện ra yếu đuối, phức tạp đến thế: vừa

hào hứng thích thú, vừa trống trải cô đơn! Song cũng cho thấy đây là lúc

Nguyễn đáng yêu hơn bao giờ hết: sau cái lần vỏ ngạo ngƣợc, ngông nghênh,

hoang tàng kia, hoá ra cũng rất mềm yếu, tình cảm, yêu và gắn bó với quê

hƣơng. Nghĩa là rất gần với mọi ngƣời, ta hiểu thêm một cái tôi Nguyễn Tuân

lúc tha hƣơng tha thiết yêu quê hƣơng đất nƣớc; cô đơn bất lực trƣớc thực tại

và càng yêu mến, trân trọng ngƣời nghệ sĩ có tấm lòng thiết tha với cái đẹp.

Chứng tỏ những ký ức, con ngƣời gắn bó truyền thống, con ngƣời bổn phận

trách nhiệm luôn tồn tại trong tiềm thức chứ không hẳn chỉ là con ngƣời lƣu

đãng, chỉ biết đến đi và đi, đƣợc đi mãi là niềm vui.

Trong Thiếu quê hương, bằng trí tƣởng tƣợng phong phú tài hoa, nhà

văn đã gợi lên những bức tranh phong cảnh rộng lớn, thơ mộng, xuyên quốc

gia của anh chàng Bạch từng là bồi tàu biển nƣớc ngoài, nhƣ: đồn điền cao su

Sít Nun ở Cao Miên có những trận gió lốc mỗi cơn hai tiếng đồng hồ cứ xoáy

tít trên diện tích độ trăm mẫu trông nhƣ rồng đất lấy nƣớc ở trên cạn và xoáy

đến đâu thì thì nhổ cả rễ cỏ và lá khô đến đấy; tiếng gió rừng thổi vào tỉnh

46

Lạc Hòn- một vùng địa đầu Xiêm La, cạnh sông Cửu Long, đối ngạn với tỉnh

Lào Thà Khẹt. Những địa danh xa hoa nổi tiếng thế giới mà đời ngƣời bồi tàu

giang hồ đã đặt bƣớc chân: các thƣơng khẩu nổi tiếng sầm uất, tháp Eiffel,

cầu Alexandre III, sông Seine của Pari. Các hải cảng nổi tiếng: cảng Macxay,

cảng Le Havre - điểm giao thông hàng hải quan trọng của nƣớc Pháp. Các

thành phố, thủ đô hoa lệ nhƣ Pari, Chicago, Nữu Ƣớc (New York), San

Francisco (Cựu Kim Sơn); rồi Thƣợng Hải, Hƣơng Cảng, Hoành Tân,

Hambourg, Rotterdam... đều lần lƣợt hiện lên. Các eo biển tên tuổi trên hải

đồ, kênh Panama, kênh Tô Di Sĩ ở biển Hồng Hải. Mây trời Ý Đại Lợi; các

giang khẩu xứ Nam Mĩ; những bộ lạc Mọi (da đen) đốt lửa, nhảy múa, bắn

tên lửa lên nền trời chiêu dƣơng tỏ lời mừng các thủy thủ. Những thiếu phụ

Hồi giáo Thổ Nhĩ Kì đeo mạng che mặt đầy bí hiểm ở bờ biển Hắc Hải;

những cô Geisha in hình vào núi Phú Sĩ xứ sở Phù Tang (Geisha: Nghệ giả,

con ngƣời của nghệ thuật, là nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả

năng trò chuyện, một nghệ thuật giải trí truyền thống của Nhật Bản). Các đại

dƣơng lớn nhƣ Thái Bình Dƣơng, biển Hắc Hải, Hồng Hải, Địa Trung Hải,

Ấn Độ Dƣơng...

Tóm lại, có những địa danh gắn với hành trình đi thực của Nguyễn

Tuân, nhƣng cũng có những địa danh đƣợc tác giả viết bằng khát vọng đƣợc

đi, của trí tƣởng tƣợng phong phú, bay bổng và sự tài hoa uyên bác nhƣng

hiện lên rất sống động và chân thực. Những không gian xa xôi, bát ngát, hoa

lệ đó không chỉ cho thấy ƣớc muốn mãnh liệt đƣợc xê dịch đi xa vƣợt giới

hạn biên giới của mà còn biểu hiện thế giới tinh thần bế tắc, tù túng, ngột ngạt

của Nguyễn Tuân và lớp trí thức đƣơng thời. Họ đành tìm đƣờng thoát li tƣ

tƣởng vào những chuyến đi trong tâm tƣởng. Đó là những bức tranh cảnh vật

thiên nhiên phong phú đƣợc tái hiện bằng ngôn từ giàu hình tƣợng và tài hoa.

Bên cạnh những cảnh vật giàu sang, hoa lệ, rực rỡ ánh sáng khiến cho ngƣời

khách tài tử choáng ngợp say mê lạ lẫm, những bức tranh mộc mạc mà thanh

47

tú diễm lệ của quê hƣơng, nhà văn cũng gợi lên những mảng màu tối xám của

cuộc sống lao động lam lũ khốn khó của ngƣời dân đồng thời thể hiện cái

nhìn trìu mến, cảm thông xót xa đôn hậu của mình. Thế mới biết, dẫu có đam

mê dong duổi và tâm hồn lãng đãng phiêu du nhƣng con ngƣời Nguyễn Tuân

cũng thật giàu trắc ẩn và nhạy cảm trƣớc đời sống con ngƣời. Ham đi, ham

khám phá nhƣng trong lòng vẫn đầy tha thiết gắn bó với cảnh sắc đất nƣớc

quê hƣơng.

2.2. Cảm hứng về con ngƣời

2.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người

Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa và có cá tính độc đáo. Cái Tôi cá

nhân luôn tỏ ra là “ngƣời lỗi lạc một cách đặc biệt, không giống ai và không

cho ai bắt chƣớc đƣợc mình; một cái Tôi lập dị, ngang bƣớng, đi lù lù giữa

cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung quanh, khiêu khích với xung quanh”

(Phan Cự Đệ). Sinh thời Nguyễn Tuân quan niệm và chia con ngƣời làm hai

loại: những ngƣời tài hoa, nghệ sĩ – chiếm số lƣợng ít, nhóm nhỏ và đám

chúng nhân tầm thƣờng và tẻ nhạt – chiếm số lƣợng nhiều, đám đông. Nhà

văn rất có ý thức đề cao con ngƣời tài hoa nghệ sĩ, thậm chí quan niệm này

còn đƣợc ông đẩy đến mức cực đoan: đã làm ngƣời thì làm con ngƣời thiên

thần hoặc xấu xa tệ hại còn hơn làm con ngƣời tầm thƣờng, những ngƣời

trong mắt không có ánh hoàng hôn và ánh lửa. Nguyễn Tuân thích những kiểu

ngƣời nhƣ Thúy Kiều và vô cùng dị ứng, không thể chịu nổi với kiểu ngƣời

nhàn nhạt Thúy Vân. Hoặc làm một chiến sĩ xã hội, hoặc sa đọa nhƣ một kẻ

trác táng; hoặc trắng hẳn hoặc đen hẳn; không nên làm cái đám chúng nhân

mờ mờ, xam xám ở giữa. Thà cứ vụt lóe lên rồi tắt còn hơn kéo dài một cuộc

đời vô vị, tẻ nhạt; giống nhƣ:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

(Xuân Diệu)

48

Thế giới nhân vật xê dịch của ông luôn là những con ngƣời đặc biệt: rất

lạ, lập dị, mang phẩm chất nghệ sĩ, tài hoa tài tử; phóng túng, tự do, tự tại;

ham đi, muốn đi, thích phiêu du qua không cần mục đích, phƣơng hƣớng. Đi

để tận hƣởng vẻ đẹp của thiên nhiên, các vùng đất lạ và dƣờng nhƣ để thoát li

cái thực tại đau buồn đang hiện hữu trƣớc mắt. Họ còn là những ngƣời không

màng vật chất, địa vị, thậm chí không màng cả tình yêu; không bị những tình

cảm cá nhân, gia đình thông thƣờng chi phối; tìm niềm vui, hạnh phúc và ý

nghĩa cuộc sống trong những chuyến đi. Là con ngƣời phóng lãng, nhƣng họ

cũng không hề vô tâm mà rất nặng tình. Mặc dù mang những cái tên khác

nhau, nhƣng họ đều là sự phân thân của chính Nguyễn Tuân.

2.2.2. Các kiểu người giang hồ xê dịch

2.2.2.1. Chân dung những con người tài tử, xem xê dịch như một thú vui,

một triết lí sống

Một quy luật trong văn học là bạn đọc tò mò và yêu thích tác phẩm của

một nhà văn có lẽ còn vì những bí hiểm độc đáo, khác ngƣời trong lối sống

của nhà văn đó. Nhà văn Ơnit Hemingway (1899 -1961) của nƣớc Mĩ là một

ví dụ. Sinh thời, ông là ngƣời đƣợc gần nhƣ cả xã hội quan tâm. Những cá

tính kỳ lạ nhƣ: khả năng cô độc, kiên trì ngồi xem đấu bò tót, đi săn, đi câu

giữa đại dƣơng…, đƣợc ngƣời ta săn tìm, truyền tụng, đồn thổi bàn tán sôi

nổi. Có ngƣời cho rằng hình nhƣ ông cố ý trình ra trƣớc xã hội một con ngƣời

lập dị để gây sự chú ý của thiên hạ. Bởi những giai thoại độc đáo kia giúp cho

ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi hơn. Văn học trung đại Việt

Nam có Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hƣơng... cũng là những nhà thơ có lối

sống phóng khoáng vƣợt ra ngoài khuôn khổ. Thời hiện đại cũng đã có một

nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway, chính là Nguyễn

Tuân. Trong khoảng gần nửa thế kỉ cầm bút, ông đã tạo nên quanh mình cả

núi giai thoại, chất xúc tác rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh,

49

bí hiểm mà ngƣời đọc tò mò cố tìm biết. Trƣớc Cách mạng, ngay từ khi chƣa

viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng trong giới làm văn làm

báo nhƣ một ngƣời chơi ngông, tiêu tiền nhƣ rác, luôn xê dịch, hết sức khinh

bạc, có những cách ứng xử vƣợt lên mọi quy cách thông thƣờng. Từ khi

chƣa đầy 30 tuổi, ngƣời tài tử ấy đã mấy phen ngồi uống rƣợu ngang hàng và

kết giao thân thiết với thần ngông Tản Đà; mấy lần vƣợt biên giới chẳng vì

mục đích gì cả. Không có gì lạ khi thấy trong văn xuôi, những khía cạnh đó

của con ngƣời chàng Nguyễn vẫn đƣợc giữ nguyên, thậm chí đƣợc tô đậm

lên. Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết, thậm chí chẳng

thèm che xấu thói tật xấu. Ông có đặt cho nhân vật tên họ khác đi thì ngƣời

đọc cũng nhận ngay ra bóng dáng tự truyện. Đọc văn Nguyễn Tuân, bạn đọc

luôn thắc mắc không biết Bạch, Nguyễn, Hoàng, Ng, Ngh, những kẻ xƣng

“tôi” trong các tùy bút và nhà văn có mối quan hệ nhƣ thế nào. Thế là sự tiếp

xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Điều đó làm cho ngƣời ta cứ phải nấn

ná giữa các trang sách để tìm hiểu thêm về con ngƣời Nguyễn. Khi đã đọc kỹ

lƣỡng, sẽ bắt gặp một con ngƣời ngông ngạo, lập dị nhƣng rất tha thiết với

đời; một ngƣời nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp; gắn bó với vẻ

đẹp nghệ thuật truyền thống bằng một óc thẩm mỹ độc đáo. Đây chính là lý

do mà ngƣời ta yêu thích ông lâu dài. Nhƣng nếu không có cái tầng thứ nhất

với những trò chơi trội độc đáo thì không chắc ngay từ đầu tác phẩm của ông

đƣợc chú ý và cuốn hút nhƣ thế. Huyền thoại đã làm cho bạn đọc chú ý nhiều

hơn đến sáng tác của Nguyễn Tuân.

Trƣớc Cách mạng, Nguyễn Tuân bƣớc vào văn đàn và gắn liền với trào

lƣu văn học lãng mạn. Thời điểm không khí ngột ngạt và tù túng của chế độ

thuộc địa bao trùm toàn bộ xã hội Việt Nam. Văn học lãng mạn bộc lúc này lộ

những biểu hiện cực đoan, tiêu cực; những yếu tố tích cực, tiến bộ đang dần

mờ nhạt và lùi xa. Cái tôi lãng mạn rơi dần vào bế tắc, chán chƣờng. Các văn

nghệ sĩ luôn cảm thấy bất hòa sâu sắc với xã hội bức bối, ngột ngạt; nên trong

50

ý thức, mỗi nhà văn luôn muốn tìm sự giải thoát. Nguyễn Tuân cũng đã đặt

mình trƣớc bao câu hỏi lớn: đi đâu? về đâu? sống ra sao? làm gì? làm nhƣ thế

nào? Tìm lấy một cớ chắc chắn để thoát li, có người chọn các môn thể thao,

hoặc thuốc phiện, hoặc ái tình. Có người chọn rượu, có người chọn cái quên

trong sự phụng sự âm nhạc, hội họa, văn chương. Ta sẽ dựa vào cái cớ nào

sống cho đỡ nhạt?[1;719]. Và cuối cùng ông đã hành động giống Thế Lữ,

Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên chọn cho mình một lối

sống. Nhƣng chỉ khác đó không phải là cõi tiên Bồng Lai, lâu đài tình yêu, lời

thơ miên man thiên cổ sầu về cái đẹp xƣa và cũng không phải là bóng ma Hời

sờ soạng đêm khuya, mà là thoát li vào không gian. Lấy cái kì vĩ, rộng lớn

của vũ trụ để khỏa lấp nỗi trống vắng trong lòng, tự nguyện làm ngƣời lữ

khách của mãi mãi.

Con ngƣời lãng tử, giang hồ ấy vẫn mang trong mình vẻ đẹp tài hoa tài

tử nhƣ những con ngƣời của một thời vang bóng. Nhƣng Nguyễn không thể

suốt đời đơn độc trở về với vang và bóng, sống với những nhân vật đã già, đã

mất hết ham muốn. Bây giờ nhân vật của ông là những ngƣời trẻ tuổi, có trí

tuệ học vấn, tràn đầy sinh lực, có khát vọng tự do giải phóng cái tôi cá nhân,

đam mê xê dịch và muốn tận hƣởng cho no say mọi hƣơng sắc cuộc sống trần

thế. Nguyễn là con ngƣời của những đam mê và những đắm đuối không định

trƣớc; chạy theo quan niệm “sự đổi chỗ trong không gian là thoát li khỏi hoàn

cảnh tủn mủn của đời đứng yên mãi một chỗ”. Vốn thông minh và nhạy cảm,

con ngƣời ấy thèm khát tắm mình vào cái không khí hiện tại, nắm bắt cho hết

mọi hình sắc, lắng đọng mọi thanh âm, muốn buông thả, muốn vùng vẫy

trong hiện tại, để rồi nói ngay về cái hiện tại ấy, trình ra trƣớc mọi ngƣời

những xúc động mà mình thu nhận đƣợc và lấy sự độc đáo của cái tiếng nói

riêng ấy làm lý do tồn tại của ngòi bút. Sự sùng bái hiện tại khiến cho một

thời gian dài sau Vang bóng một thời, gần nhƣ Nguyễn không bao giờ trở lại

với cái quá vãng vàng son ấy nữa. Thay cho lịch sử quá khứ là cái đời sống

51

đang trôi chảy. Không còn những ông già ngồi uống trà, nhấm nháp hƣơng

cuội, thả thơ và bảo ban con cháu làm đèn trung thu. Giờ đây, trên trang sách

là hình ảnh những chàng trai trí thức sôi sục ham muốn, bƣơn bả đi và viết,

coi trọng hƣởng thụ hiện tại; lẽ sống hƣớng về hƣơng thơm, mật ngọt của

cuộc đời hôm nay. Các tập sách xê dịch nổi tiếng của Nguyễn Tuân đều xoay

quanh những biến thể khác nhau của cùng một công việc là định hƣớng vào

hiện tại và ghi lại những bƣớc đƣờng trôi nổi của con ngƣời vừa tìm cách

cƣỡng lại hoàn cảnh, vừa luôn thích thú vì sự thích ứng kỳ lạ của mình với

mọi đổi thay của hoàn cảnh.

Chất khinh bạc và lối sống lãng tử đã trở thành nét phong cách, tín

hiệu thẩm mĩ đặc biệt của các nhân vật. Chính chất khinh bạc, lãng tử đã trở

thành sợi tơ óng ánh thắt buộc, kết nối những nhân vật ham xê dịch trong mối

“đồng bệnh tƣơng liên”. Đó là thái độ, sự trải lòng mình ra trƣớc cuộc đời

chật hẹp, tù túng trƣớc 1945. Những tƣởng chất khinh bạc sẽ làm mất đi ý

thức trách nhiệm, sẽ khiến ông triền miên trong những đêm dài khói thuốc

phiện; lùi về quá khứ, chạy vào trụy lạc, và vào cái tôi lập dị và ngang bƣớng.

Nhƣng tất cả những miền trú ẩn ấy đều không đủ rộng để chở che tâm hồn

vốn nhiều đau đáu trăn trở. Cuối cùng, không thể trốn chạy mãi đƣợc, nhà văn

đành phải đối diện với bản thân ở hiện tại; chất vấn chính mình, tìm niềm vui,

cảm hứng cuộc đời ở những chuyến đi thoát li vào không gian bao la. Nhà văn

lao vào giang hồ xê dịch để phát triển giác quan, để hƣởng cho hết những sinh

thú bất thình lình và những cảm xúc không chờ đợi. Ông cho rằng sống ở đời

là phải đƣợc phơi mình ra trong gió bụi, đƣợc ngủ lúc đứng, đƣợc nằm mà

thức cả đêm cho thấm thía cái hƣơng vị đƣờng trƣờng.

Sự ham đi, ham quan sát đƣợc đẩy đến tận cùng, đƣợc nâng lên cực

đoan thành bệnh “xê dịch”. Mất tin tƣởng vào cuộc đời, chẳng thể tìm lại quá

khứ vàng son, Nguyễn rút cuộc chỉ tin vào cảm giác hiện tại là có thật. Du kí

Một chuyến đi có thể xem là một chuyến xê dịch xa đầu tiên trong văn

52

Nguyễn Tuân. Ông đã tận dụng mọi cơ hội để đƣợc đi xa, ông vƣợt biển đến

tận Hồng Kông chỉ để đóng một vai rất phụ, xuất hiện trên màn ảnh không

đầy năm giây! Nhƣng đó là một cơ hội chính đáng hiếm có để ông đƣợc vƣợt

biên giới một cách đàng hoàng. Các nhân vật xê dịch dƣờng nhƣ phảng phất

bóng dáng một số nhân vật sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan của Andre

Gide. Nhƣ tên gọi của các thiên tuỳ bút đã chỉ rõ, họ chỉ có mỗi căn bệnh duy

nhất là thèm đi, trở thành mãn tính, khó chữa, “bệnh xê dịch” (Bạch, Ng). Họ

luôn luôn thèm đi, ham đi, muốn đi, chúng ta là hạng người đem cả một kiếp

sống để phụng sự du lịch [2;420]. Những lãng tử giang hồ chỉ thích sống một

cuộc đời vô định “không có bờ bến, không có ngày tháng”. Những “bệnh

nhân không gian” đó hoàn toàn khác với xung quanh, có suy nghĩ và hành

động nhƣ ngƣợc với tất cả thiên hạ; tính cách phóng túng, “đều là những hòn

bi lăn ngƣợc dốc trong khi thiên hạ đang từ trên thuận chiều thoải xuống”

(Phan Cự Đệ). Sau những ngày ngồi một chỗ, để cho trí tƣởng tƣợng bay

bổng và thấy hết thi vị của việc đi, Nguyễn lại dồn mọi hăm hở và tìm thấy đủ

vui buồn trong những chuyến xuôi ngƣợc: Khi là chuyến dềnh dàng trên một

con thuyền lênh đênh từ Thanh Hoá ra tới vùng biển Quảng Ninh (Chiếc va li

mới); khi theo đƣờng sắt rong ruổi một cách tuỳ tiện, qua các tỉnh miền

Trung, sẵn sàng nghỉ lại vùng nào đó vài ngày mới đi tiếp... Cứ thế kéo dài

cuộc chơi cho tới khi đặt chân tới cái ga cuối cùng trên tuyến đƣờng sắt Bắc

Nam là ga Sài Gòn (Một chuyến đi thăm nhau), rồi xuống miền Tây Lâm

Viên gạo trắng nƣớc trong. Cho tới Thiếu quê hương thì nhà văn còn để nhân

vật của mình lang thang sang tận châu Âu, châu Mỹ.

Đối với Nguyễn Tuân, cuộc sống là bể rộng mênh mông và ngƣời nghệ

sĩ là con thuyền lênh đênh không có bến đậu. Đi và đi, đã trở thành một mệnh

lệnh trái tim để thực thi trong suốt cuộc đời các nhân vật. Họ muốn đƣợc đi,

sống chết với chuyện đi. Đi, tức là tất cả. Đi, tức là hạnh phúc; chỉ muốn sống

để đi cho đến chết. Chỉ có chết thì mới nghỉ. Ăn ngon, quần áo đẹp, cảnh yên

53

nhàn phú quý, một ngƣời vợ hiền, một đứa trẻ đĩnh ngộ, một ngƣời bạn trai

trung thành, một thiếu nữ tri âm liên tài bấy nhiêu các giá trị về tinh thần, về

luân lí, đem cộng lại vẫn cứ không bằng được những giây lát lãng du, những

cảm giác chuyển di linh tinh [1;929].

Ham mê xê dịch còn đƣợc nâng lên thành triết lí sống. Ngay mở đầu

tiểu thuyết Thiếu quê hương, Nguyễn đã lấy câu nói nổi tiếng của Paul

Morand làm châm ngôn sống của mình: Ta muốn sau khi ta chết đi có người

thuộc da ta làm chiếc vali [1;669]. Một nguyên tắc kiên định, bất di dịch

trong đời sống của anh chàng tài tử là triết lí sống gắn với không gian: Đời

chàng không thể có người giai nhân dính vào, chàng canh giữ lòng chàng,

tịnh không để một cuộc ngoại xâm đàn bà nào lẻn vào mà phá rối, hơn nữa

cần phải giữ tự do của mình cho được toàn vẹn và quý tự do hơn tất cả những

sắc đẹp đàn bà trên đời, và lòng chàng là gỗ đá. Gỗ đá ấy chỉ còn rung động

trở lại trước những đợt sóng gió của bể lớn thôi [1;948,949].Tiểu thuyết dài

370 trang ấy chủ yếu xoay quanh nhân vật Bạch với căn bệnh xê dịch, luôn

thích đi, thèm đi. Bạch đi không cần mục đích, đi để thoát li mọi trách nhiệm,

lấy việc đi làm cái thú ở đời. Không đƣợc đi, Bạch thấy mình lâm vào bi kịch

đau khổ vô cùng,...thấy mình bây giờ đã hết là mình rồi và những ngày sống

chỉ còn là rất dài và rất nhạt thôi [1;735]. Hạnh phúc êm ấm của cuộc sống

gia đình trở nên bé mọn, chẳng hề có ý nghĩa; chỉ có nhà ga, bến tàu, con

đường thiên lí, mặt nước rộng là mời gọi được cho Bạch ý nghĩa của cuộc

sống đích đáng [15;847]; một ngƣời bạn ra đi, thậm chí cả mùi thán khí khói

than đá đầu tàu hỏa thoảng qua cũng đã gợi lên nỗi nhớ, nỗi khát khao đƣợc

hòa mình vào không gian cao rộng. Trong cái thú xê dịch, Bạch còn khám phá

ra bao điều thú vị, đó là một loại khoa học đặc biệt, làm giàu cho sự hiểu biết

của mình: Giang hồ không những là một nghệ thuật mà còn là một khoa học

thực nghiệm nữa. Từng trải nghiệm cuộc sống lênh đênh xuyên đại dƣơng và

qua những khoái cảm sự đi của Bạch, nhà văn muốn truyền đến cho ta hứng

54

thú về những chuyến đi xa phảng phất hơi gió mặn của đại dƣơng và những

chân trời xa.

Đi nhiều nhƣng là kiểu đi không mục đích, không xác định rõ đích đến,

nhân vật xê dịch còn là ngƣời rất đặc biệt, lại có bệnh đãng trí và vô tình với

ngoại cảnh, ít khi chịu nhớ tên tỉnh tên xứ tên người ở các vùng đã đi qua.

Đối với tôi thì đi chỉ là đi. Được đặt mình trong xê dịch là tôi thấy khoái rồi,

tôi cần gì phải chọn hành trình và nhớ đến các tên về địa dư. Tôi đi để có

được một nơi mà rời bỏ chứ không phải là cốt đến cho được một chỗ nhất

định nào đã dự tính trước [1;1006,1007]. Mục đích xê dịch của họ vừa đơn

giản vừa rất trừu tƣợng, không giống cách du lịch thông thƣờng; không có ý

thức tìm hiểu về “dân số, về mậu dịch tiền tệ, cái tiện lợi về ăn ở, thời tiết,

cách đi, sự ăn ở mỗi nơi”. Đã từng đi đi lại lại mãi giữa hai biển Hồng Hải và

Địa Trung Hải, nhƣng Bạch không hề biết đến giá tiền tàu, mù tịt về tiền nong

đổi chác ở các vùng ấy, và nếu có phải trở lại những khách sạn cũ rải rác ở

duyên hải hai bể ấy anh vẫn cảm thấy nhƣ mới đặt chân đến lần đầu! Đi chỉ là

đi, đi là để “đổi món” cho giác quan, để đƣợc thay đổi chỗ ở, để đƣợc dời bỏ nơi

đang ở, chứ không có ý định chủ động tìm hiểu về văn hóa phong tục. Tóm lại,

đó là những con ngƣời lãng tử xem xê dịch nhƣ một thú vui trong đời.

Chán lối sống cố định tầm thƣờng, lại là cái tôi cá nhân tài hoa, cá tính

bậc nhất, Nguyễn Tuân còn đẩy ham mê xê dịch lên đến đỉnh cao của sự độc

đáo, ngông ngạo, khác ngƣời khi ông luôn khởi hành vào ban đêm, thức dậy

giữa cái xán lạn của bình minh [1;699]. Hoặc thích trải nghiệm cảm giác xê

dịch trong những hoàn cảnh thời tiết nghiệt ngã “những đêm mƣa to gió lớn,

vào những giờ khuya khoắt”, Bạch lại đấm cửa nhà bạn mình để rủ đi chơi

phiếm! Trong chuyến xê dịch lên xứ Mƣờng để hƣởng “sơn lâm chƣớng khí”,

trƣớc cảnh tiêu điều ảm đạm của bến phà sông Mã một buổi mƣa đêm, anh

bạn Hồ sợ rét lạnh và mƣa gió, ngại ngần trƣớc năm mƣơi cây số đƣờng rừng

với những đèo dốc nhiều đoạn phải xuống xe đi bộ. Thời tiết vô cùng khắc

55

nghiệt “mƣa dầm, gió heo, sƣơng tỏa” nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng với

Bạch lại là một niềm vui lớn vì đƣợc đi. Lúc Hồ yên lòng và sung sƣớng khi

đƣợc nghỉ ngơi trong căn nhà ấm cúng của nha huyện Cẩm Thủy sau chặng

đƣờng xa mệt mỏi và màn đêm đã buông; thì Bạch lại bực mình vì hành trình

phải dừng lại. Anh chỉ muốn hành trình không bao giờ ngừng, mãi mãi đƣợc

trên con đƣờng. Bạch muốn chạy một mạch đến xứ Mƣờng, không phải dừng

ở Cẩm Thủy, vì từ Hà Nội vào đây mới chạy chƣa đƣợc ba trăm cây số! Anh

muốn tìm khoái cảm với một cuộc đi dài, say sƣa với một con đƣờng núi có

mƣa, có đêm, có gió, có bao nhiêu thi vị của viễn trình. Cách suy nghĩ về sự

đi của Bạch thật chẳng giống ai, bởi Bạch là hạng hành khách có thể ngồi

trong một chuyến xe hỏa vét chỉ chạy độ 20 cây số một giờ, nhưng xe phải

chạy luôn một mạch từ nơi này đến nơi nọ, cứ chậm chạp lăn bánh trên

đường sắt, cứ uể oải mà tiến lắc lư, bao giờ đến đâu cũng được, nhưng miễn

là con tàu vét ấy đừng phải đỗ luôn luôn trong những ga xép[1;702]. Đƣợc đi

chàng thấy vui, phải dừng nghỉ chàng thấy nhớ nhung và thèm thuồng. Những

phút phải ngừng bên ga xép ấy dài tựa năm và nặng nhƣ một kiếp con ngƣời.

Ngƣời lãng tử ấy luôn tận dụng từng phút từng giây xê dịch trên đƣờng để tận

hƣởng cảm giác lãng du đƣợc đi. Ở Cẩm Thủy, Bạch thức cả đêm trắng.

Không phải vì lạ nhà, vì lo lắng cho gia đình hay tính toán cho chặng đƣờng

ngày mai, mà anh muốn thấm thía cảm giác trải qua một đêm dài nơi xứ lạ,

đƣợc thở sơn lâm chướng khí; thích tận hƣởng một đêm dài với những mẩu

thuốc lá vứt đầy nền nhà, cái đĩa gạt tàn cũng đầy tú hụ một đống tro xám có

ngọn [1;721].

Trong du kí Một chuyến đi, trên hành trình lênh đênh trên biển dƣờng

nhƣ Nguyễn không hề chợp mắt, không muốn chợp mắt để đƣợc tận hƣởng

niềm hân hoan vô tận của việc xuất hành: tôi thấy tôi sống nhiều. Sống trong

lúc thức tỉnh, thấy tâm hồn ngây ngất như bị bị con tàu hấp dẫn và bập bềnh

trên con đường bọt bể trắng điên cuồng. Tâm hồn lâng lâng, không phải vì

56

say sóng mà vì tâm trạng háo hức, say cảnh con tàu bồng bềnh giữa đại

dƣơng. Khi tàu cập bến Hƣơng Cảng, mọi ngƣời sung sƣớng hò reo, thì tác

giả lại buồn bã nuối tiếc: Đã đến rồi kia à! Chỉ mình Nguyễn ngơ ngẩn buồn

vì chuyện tàu cập bến: Riêng tôi ngẩn ngơ như nhớ tiếc một cái gì quý giá đã

tan biến mất. Cái gì quý giá đó tức là thi vị ngụ trong sự được đi mà không

bao giờ phải ngừng [1;247]. Sau đó có lúc tâm trạng hoài hƣơng lạnh lẽo,

nặng nề khi phải ăn Tết truyền thống ở Hƣơng Cảng, nhƣng đến ngày đoàn

làm phim phải lên tàu về nƣớc, chàng lãng tử lại thấy lòng mình thật rã rời,

buồn nản, đau khổ: Bước chân lên tàu ruột đau như cắt [1;370]. Không phải

vì chia tay với miền đất hoa lệ mà vì chuyến đi sắp chấm dứt, Nguyễn sắp

phải trở về với cuộc sống tù túng ngƣng đọng. Tâm trạng phức tạp, mâu thuẫn

của Nguyễn chính là biểu hiện phức tạp của cuộc đấu tranh nội tâm giữa khát

vọng và hiện thực, giữa con ngƣời đam mê và thực tiễn cuộc sống.

Mê xê dịch, nhƣng nhân vật lãng tử lại ngại kỉ niệm, thói quen và vật

cũ: sợ nhất thói quen, là những cái gì đã trở nên cũ. Một người cố nhân. Một

cái vết xe. Một cái bến trùng phùng. Ngại lắm [1;719]. Bởi họ thèm một cuộc

sống mới tinh, một hành trình chƣa bao giờ đến, một miền đất chƣa hề lƣu giữ

bƣớc chân chính họ. Họ không muốn quay lại miền đất đã đi qua trong quá

khứ. Mà nếu có đi đến miền đất ấy một lần nữa, họ sẽ chọn một cung đƣờng

khác để lại có đƣợc trải nghiệm mới mẻ trên hành trình. Cách đi nhởn nha

dông dài, bất tận để tận hƣởng vẻ đẹp của thiên nhiên, các vùng đất lạ và để

thoát li thực tại ngƣng đọng. Đi để mong thay đổi thực đơn cho giác quan.

Sau một ngày rong chơi ở nha huyện Cẩm Thủy, anh bạn Hồ không còn hứng

thú đi tiếp vào Hồi Xuân, mỏi mệt muốn về Hà Nội. Trái lại, Bạch lại mong

những chuyến đi không rõ ngày về, đƣợc tiếp tục đi mãi những tháng ngày

rong ruổi. Với Bạch, thế nào là lãng du? Đi chơi xa, phải rộng rãi thời khắc,

rộng rãi tấm lòng. Và không phải tính đến ngày về mới thỏa... Lên miền rừng

để tìm những cảnh không chờ đợi mà anh muốn định trước một cái thời khắc

57

biểu thì anh bất cận sự vật quá [1;725]. Những ngƣời nhƣ Bạch trở nên khó

hiểu và lập dị trong con mắt những ngƣời khác. Nguyễn Tuân đã mƣợn lời

của anh chàng Hồ để tự bạch về tính cách những lãng tử giang hồ: người đâu

mà kềnh càng quá. Bắt chước thế nào được anh ấy. Cứ được như anh ấy thì

suốt đời là chỉ có du lịch, du lịch ngắn, du lịch dài. Chỗ nào cũng mò tới.

Lắm lúc ăn mặc thật sang, lắm lúc như con mẹ ngộ. Đang vui bỗng buồn. Có

lúc nằm mà thức cả đêm tuy rằng mắt có nhắm. Có lúc mở mắt mà ngủ đứng.

Ăn uống thì không ra bữa. Đến cái ngủ thì càng là không chịu nổi. Lắm buổi

chỉ ngủ mười lăm phút. Có giấc ngủ li bì một đêm không đủ lại lấn sang cả

ngày hôm sau, trời đã vàng mặt, đánh thức dậy thì gắt và ngủ vật vã thêm một

nửa đêm nữa [1;725]. Những nhân vật xê dịch trở nên khó hiểu, khó đoán,

khó nắm bắt trong con mắt những ngƣời xung quanh “dở dở ƣơng ƣơng, nhƣ

ngƣời loạn óc, nói không ai hiểu, mà có làm gì cũng không ai hiểu”. Chính

Dung – vợ Bạch, cũng không hiểu chồng mình đột ngột biến mất, không rõ

tin tức vài ngày hoặc hàng tháng trời; vì sao Bạch đột nhiên “chết lặng” nhƣ

ngƣời bị trúng gió, không ăn, không nói đƣợc bao ngày chỉ vì cô cọ rửa sạch

sẽ và xé bỏ những “giấy dán nhằng nhịt” trên chiếc vali cũ bụi bặm. Anh cũng

là đứa con ngỗ ngƣợc không chịu ở yên tại gia, vui thú đoàn viên, không chịu

tu chí làm ăn. Đi đã trở thành triết lí sống, ý nghĩa sống của họ. Không đƣợc

đi là một bi kịch đau khổ.

Nhƣ vậy, nhân vật Bạch là một ví dụ điển hình cho quan điểm “hạnh

phúc là bƣớc đi”. Với Bạch, không đƣợc đi, không đƣợc thay đổi không gian

thì cuộc sống đó chỉ thật tẻ nhạt, vô vị, chìm đắm trong băng giá lãnh lẽo.

Bạch đã từng muốn rời xa ngƣời vợ rất đỗi thục hiền, chỉ vì muốn tìm lại cái

bản ngã của mình. Nhân vật này đã trở thành hình bóng của Nguyễn Tuân, là

hình bóng để nhà văn thể hiện cái bản ngã khác ngƣời của mình. Cái tôi cá

nhân đam mê không gian và hƣởng lạc, coi cuộc đời nhƣ một trƣờng du hí,

58

Bạch đã mắc một chứng tâm bệnh mãn tính, bệnh nan y khó chữa mà chỉ có

gió trời và vũ trụ cao rộng mới có thể làm cho nguôi ngoai.

Sau bao nhiêu chuyện xê dịch của Bạch - tức chuyện đột ngột bỏ nhà

lang thang; ngày nào cũng ra ga để rình rập quan sát cảnh mọi ngƣời lên

đƣờng; rồi trốn vợ, trốn con thuê một chỗ ở riêng để bày biện ra một khung

cảnh viễn du với những đồ đạc là kỉ vật của cuộc đời giang hồ trong quá khứ -

tức là tự mình hâm nóng niềm hứng thú xê dịch của mình. Bấy nhiêu “chiêu

trò” mà nhân vật Bạch phô ra trƣớc bạn đọc chỉ là những cách khác nhau để

nhà văn nói cho hết, nói đến cùng, nói một cách cặn kẽ về sự thiết yếu của

nhu cầu muốn đƣợc đi của mình. Toàn bộ cuốn truyện dài này là một minh

hoạ đẹp đẽ cho sự đồng điệu tâm hồn và những tác động, ảnh hƣởng của Gide

đến Nguyễn Tuân: “Sự khẳng định cái mình có, trƣớc hết là một sự tìm kiếm,

là quyền tuyệt đối đƣợc lang thang, là một cuộc săn lùng Tự Do”.

Bạch đã chọn công việc bồi tàu bể để đƣợc ngƣợc xuôi khắp các đại

dƣơng. Dấu chân lãng tử đã theo những con tàu nƣớc ngoài đặt chân tới mọi

xó xỉnh trên thế giới, những hải cảng nhộn nhịp, những thƣơng cảng sầm uất,

những thành phố, khách sạn lộng lẫy, xa hoa khắp Á, Âu. Bạch là ngƣời có

tài, đi nhiều hiểu biết rộng, nhƣng anh không thiết công danh, địa vị, tiền bạc.

Anh sẵn sàng từ bỏ công việc thƣ kí nhàn hạ và thu nhập cũng không đến nỗi

nào ở một cửa hiệu Tây chỉ để đƣợc sống phóng túng và tiện cho những

chuyến đi bất thình lình, không dự báo trƣớc. Anh sợ sự ràng buộc của công

việc và sợ sự cố định, dậm chân một chỗ. Ngay chính ông quan huyện Cẩm

Thủy, ngƣời bạn tâm giao của Bạch, luôn than tiếc cho Bạch: Người thông

minh như thế, tài hoa như thế, răng lại không chịu làm một việc chi?Chỉ thấy

ông ta du lịch hoài. Cái lối đi chơi không có kì hạn và không biết chán mỏi ấy

đã để nhiều thiệt thòi riêng cho đời ông ta và luôn cả cho cuộc sống chung

của chung quanh nữa [1;729]. Đam mê dông dài với những chuyến ra khơi

bất tận theo con tàu Nhật đi khắp bốn phƣơng trời, tuổi trẻ của Bạch gắn liền

59

với những hải cảng lớn. Nhà của anh là những khách sạn bên bờ duyên hải và

ngƣời bạn đồng hành tri kỉ của anh là chiếc vali, chiếc tẩu thuốc, cây gậy ba

toong, gói thuốc lá; lồng ngực của anh chứa đầy gió biển... Một cuộc sống tự

do, tự tại phóng túng biết bao. Anh làm bạn với những cơn gió biển, những

cánh buồm, những chân trời xa. Khi gió đã nổi lên, những neo tàu đã nhổ

cũng là lúc ngƣời lữ khách lên đƣờng đến những bến bờ xa lạ. Đó chính là

cuộc sống lí tƣởng, đáng mơ ƣớc nhất, là hạnh phúc niềm vui của anh.

Nhƣng rồi tất cả cuộc sống đầy đam mê ấy đã hoàn toàn thay đổi. Vì

bổn phận trách nhiệm của một con trƣởng dòng tộc, vì cha già, anh đồng ý lấy

vợ để có ngƣời ở nhà đỡ đần công việc gia đình. Dung, vợ Bạch, một cô gái

truyền thống xinh xắn, dễ thƣơng, rất đỗi dịu dàng, nhẫn nhục cùng đứa con

trai kháu khỉnh cũng không giữ đƣợc bƣớc chân lãng du của Bạch ở lại. Gia

đình, vợ con chỉ giữ đƣợc thể xác chứ không níu giữ đƣợc trái tim và khát

vọng lên đƣờng của Bạch. Bệnh ham du lịch của anh không hề thuyên giảm,

không thể chữa khỏi đƣợc bằng cái hoàn cảnh tƣơi vui của gia đình đoàn tụ.

Anh vẫn âm thầm đau khổ, tâm trạng “rề rề nhƣ một ngƣời ốm”. Bạch ân hận

vì đã lấy vợ, đẻ con, tự ràng buộc mình với cuộc sống gia đình để phải vƣớng

chân, làm bận mình không thể xê dịch đƣợc nữa, Bạch đâm buồn bã và bực

dọc khi sực nhớ thấy mình cũng là một người đàn ông có vợ [1;748]. Anh

sống những tháng ngày nhạt nhẽo, vô nghĩa, nặng nề; tâm hồn chỉ bay bổng

theo những chuyến đi của bạn bè. Lòng anh ngổn ngang nhƣ một bãi chiến

trƣờng, luôn có sự đấu tranh giằng xé, bất phân thắng bại giữa đam mê và

trách nhiệm. Bạch ở nhà mình mà nhƣ một ngƣời khách lạ, đang sống giữa

quê hƣơng mà vẫn thấy thiếu quê hƣơng. Tâm trạng bực dọc muốn đạp phá

tung hê tất cả nhƣng chƣa dám đập phá một cái gì thật sự, đành chịu thân

phận muôn năm phải đứng yên để mãi mãi du lịch trong tƣởng tƣợng trong

đau khổ. Anh nhƣ con chim trời đã lấy làm hối hận vì đã thăm lại tổ cũ trong

một buổi bạc gió mỏi cánh. Anh cho cuộc hôn nhân rất đẹp của mình là

60

“nghiệt chƣớng và nghiệp chƣớng”. Không đủ vô cảm tàn nhẫn vứt bỏ tất cả

để dứt tình ra đi, Bạch “tiếc đời, thƣơng xuân”, ghen tị với bạn bè, đâm ra

căm ghét Dung. Anh nghĩ ra và tƣởng tƣợng thêm nhiều thói xấu của Dung để

có cớ ghét vợ, để có đƣợc lí do li dị Dung hoặc làm cho Dung chán mình mà

bỏ, để anh đƣợc tự do trở về với cuộc sống luôn đƣợc đổi chỗ xê dịch trƣớc

kia. Anh kết án Dung “tội do thám rất bỉ ổi”, hành động “ngu ngốc” khi lau

chùi chiếc vali mốc meo. Nhƣ vậy, với Bạch, một gia đình yên ấm, vợ đẹp

con ngoan, vật chất đầy đủ, công thành danh toại,.. không phải là điều anh

mong muốn trong cuộc đời. Hạnh phúc niềm vui mãi không bao giờ chán và

không bao giờ mai một, bị mòn đi trong anh là cuộc đời của một lữ khách hẹn

sống với trôi nổi, là đƣợc lên đƣờng, đƣợc đi, đi đâu cũng đƣợc. Đó mới là

đời sống đích đáng. Tất cả những cái khác là không kể.

Bạch đau khổ, chán chƣờng tột độ khi bạn liên tục báo tin khởi hành

còn anh thì dậm chân tại chỗ lòng chàng chỉ là một bãi tha ma đang muốn nẻ

sụt thêm một lỗ huyệt mới nữa để chôn xuống đấy một chút kỉ niệm gì của

chàng [1;880]. Mỗi lần nhận đƣợc điện báo lên đƣờng của bạn bè, bệnh xê

dịch của anh lại “tái phát”, thế là hạnh phúc gia đình lại đổ nhào. Khi không

đƣợc lên đƣờng, ghen tị với bạn bè, Bạch đành chạy trốn nỗi cô đơn vào thế

giới riêng ở căn gác nhỏ phố Hàng Gai để đƣợc tự do đắm chìm trong những

giấc mơ xê dịch trong tƣởng tƣợng. Căn phòng ấy đƣợc trang hoàng nhƣ một

gian phòng trên con tàu bể, bày biện những vật dụng kỉ niệm của một đời

giang hồ lênh đênh của ngƣời bồi tàu. Bạch còn mắc một cái võng gai để

đƣợc sống với cảm giác bồng bềnh của ngƣời thủy thủ trên biển lớn. Căn

phòng ấy ngƣời thân không đƣợc bƣớc vào, chỉ có những bạn tri âm tri kỉ

đƣợc đến. Đó là một thế giới riêng xoa dịu những nỗi đau trong lòng. Anh

trốn vào đó khi cô đơn, khi những ngƣời bạn đƣợc đi, còn mình mãi dẫm chân

tại chỗ. Trốn vào đó để chẳng làm gì cả, nằm dài trên ghế bố hoặc đu đƣa trên

võng, nhắm mắt để tƣởng tƣợng hoặc nhìn trân trân vào tấm bìa lịch có con

61

tàu đang tung bọt trắng xóa trên đại dƣơng. Bạch đang thôi miên tâm tƣởng

và thị dục của mình, đắm chìm vào giấc mơ xê dịch đến “quên cả thời gian và

mất cả ý thức về không gian”, để di dƣỡng cái tinh thần trôi dạt, bập bềnh.

Anh gọi đó là “những ngày lánh nạn”... Nhƣng nỗi buồn đau đó chỉ đƣợc xoa

dịu trong chốc lát, Bạch lại phải quay lại với cuộc sống hiện tại và tiếp tục cái

vòng luẩn quẩn đau khổ vì không đƣợc lên đƣờng. Khi ƣớc mơ không đƣợc

thực hiện thì đó chính là bi kịch. Bạch đã sống giằng xé giữa đam mê và trách

nhiệm trong những ngày tháng bi kịch vô vị, chán chƣờng. Đã hơn một lần

anh quyết tâm dứt áo ra đi, nghĩ mọi cách để có thể li dị Dung. Bạch muốn

ghét vợ, tìm cớ nói xấu vợ... Ngày lại ngày, Bạch cố gom góp những tật xấu

của Dung thu thập lại thành một một tập hồ sơ; để anh không phải yêu

thương người nào hơn là chỉ yêu thương có một mình chàng thôi thì Bạch tha

hồ mặc sức mà sống với hoài bão của mình nghĩa là chàng có quyền đi mà

không bao giờ phải nghĩ đến ngày về hoặc đi mà không bao giờ phải đắn đo

từ biệt ai cả [1;869]. Không đoạn tuyệt hẳn đƣợc với gia đình, không thể li dị

đƣợc vì Bạch lại rất thƣơng vợ con. Anh đành chọn cách ứng xử thứ hai: đối

xử tốt những ngày còn ở nhà, không tùy tiện bỏ đi, cũng không đƣa tiễn bạn

lên đƣờng nữa. Bạch đã cố gắng tìm mọi cách để đƣợc đi San Francisco, rồi ở lại

luôn đó không chừng, nếu nhƣ chuyến đi của làng Xuân Phả không bị hủy bỏ.

Con ngƣời xê dịch dẫu lập dị nhƣng rất thẳng thắn, trung thực, không

bị che mờ nhân cách bởi vật chất. Mặc dù những ngày ở lại với gia đình, xa

con tàu bể, trải qua một thời kì khủng hoảng cả về tinh thần lẫn tài chính, phải

bán dần những kỉ vật cũ nhƣ cái đài bán dẫn, cái vali quý, cái phong vũ y –

rain coat, nhƣng Bạch lại sẵn sàng từ chối công việc biên tập giới thiệu về du

lịch mà ông chủ nhà in Đức Trần nhờ cậy. Một công việc trong tầm tay anh,

hứa hẹn sẽ mang lại cho anh một khoản tiền rất lớn. Lí do mà Bạch đƣa ra từ

chối cũng rất ...vớ vẩn, điên khùng, khó hiểu, anh trở thành kẻ dở dở ương

ương, như người loạn óc, nói không ai hiểu, mà có làm gì thì cũng không ai

62

hiểu ương gàn [1;1009] trong mắt ngƣời làm ăn thực tế nhƣ ông Đức Trần.

Bạch cần tiền nhƣng lại từ chối cơ hội kiếm tiền vì hai lẽ. Thứ nhất, xƣa nay

anh xê dịch chứ không phải đi du lịch! Anh đi chỉ để là đi, để thỏa mãn khát

khao giải tỏa không gian chứ không có ý thức tìm hiểu về phong tục, địa lí,

giá cả, văn hóa, con ngƣời, những tiện lợi về ăn ở khách sạn... nhƣ khách du

lịch thông thƣờng: Đối với tôi đi chỉ là đi. Được đặt mình trong xê dịch là tôi

thấy khoái rồi, tôi cần gì phải chọn hành trình và nhớ đến các tên về địa dư.

Tôi đi để có được một nơi mà rời bỏ chứ không phải cốt đến cho được một

chỗ nhất định nào đã dự tính trước [1;1006]. Mặc dù với anh từ Hồng Hải

đến Địa Trung Hải “hai cái bể này tôi đi đi lại lại mãi rồi”, nhƣng anh cũng

không biết giá tiền tàu vì anh là ngƣời chuyên đi lậu vé và trả tiền lộ phí ăn ở

lúc giang hồ nhƣ thế bằng rất nhiều ứng biến tùy cơ hoặc bằng quần áo hòm

xiểng của mình! Thứ hai, con ngƣời Bạch nhƣ một cánh chim trời tự do,

không muốn sống cố định ở đâu, là người phóng lãng, trong người gần như

mất hết cả những khả năng về sự làm ăn trong những bầu không khí chật

chội,..., chỉ mong chờ một dịp để bước khỏi xứ này [1;1004]. Anh không dám

nhận vì sợ công việc đang dang dở, bất thình lình anh lại có cơ hội lên đƣờng

thì không ai có thể giữ anh ở lại đƣợc. Lúc đó sẽ lỡ việc tất cả. Bức thƣ Bạch

gửi cho ông Đức Trần một lần nữa thể hiện nhân cách thẳng thắn, trung thực

đồng thời cũng cho thấy nét ngông ngạo khác đời của những nhân vật giang

hồ. Họ rất đam mê tự do, không chấp nhận bất cứ sự ràng buộc nào, dù đó là

ngƣời thân, gia đình hay tiền tài vật chất. Họ cũng không phải là những kẻ vô

dụng, vô công rồi nghề, lang bạt kì hồ vất vƣởng, mà là những trí thức lãng tử

tài hoa, dám cháy hết mình cho những đam mê! Những con ngƣời bề ngoài

tƣởng chừng phóng lãng nhƣng không hề vô cảm mà rất nặng tình với quê

hƣơng, gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã tập trung miêu

tả rất tỉ mỉ những dằn vặt, đau khổ của Bạch khi anh nhận thức đƣợc niềm

đam mê của mình đã gây lên những khổ sở cho ngƣời thân. Tâm trạng không

63

nỡ tàn nhẫn vứt bỏ vợ con để lên đƣờng, những chuyến đột ngột bỏ nhà ra đi

của anh rồi lại quay trở lại. Kết thúc tác phẩm, cũng không phải ngẫu nhiên

mà nhà văn để cho Bạch không thể thực hiện giấc mơ giang hồ sang châu Mĩ,

chính là thể hiện bức thông điệp: những nhân vật giang hồ xê dịch của

Nguyễn Tuân mặc dù sống trong tình cảnh “thiếu quê hƣơng” nhƣng họ lại rất

nặng tình với quê hƣơng đất nƣớc!

Đi, không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê không gian trời bể, mà còn là

một cơ hội để tích lũy kinh nghiệm sống, tích lũy những nguyên mẫu để hình

thành nên những nhân vật văn chƣơng nổi tiếng trong sáng tác Nguyễn Tuân.

Nhà văn Tô Hoài đã viết trong hồi kí “Cát bụi chân ai”: Nhiều lần Nguyễn

Tuân, Nguyên Hồng và tôi thường lên Sơn. Chúng tôi ngồi bên hào thành,

dưới cây sữa. Mặc Nguyên Hồng với bà cai ách bán hàng - khuôn khổ người

đẹp kiểu của ông ấy. Tôi hỏi Nguyễn Tuân: Chữ người tử tù, Đỉnh non Tản và

tất cả vang bóng của ông đều phảng phất Sơn Tây, thế ông đã đi ả đào ở

Đông Tác chỗ gần chốt Nghệ kia chưa? Nguyễn Tuân tủm tỉm và lặng yên.

Việc mô tả tinh tế, tài hoa các thú chơi hƣởng lạc của tầng lớp nhà nho tài tử

cũng nhƣ các phong tục tốt đẹp của dân tộc trong tập Vang bóng một thời phải

chăng cũng chịu ảnh hƣởng và là sản phẩm của những chuyến đi xê dịch miệt

mài? Những câu chuyện hƣởng lạc trong khói hồng phiến ở những sáng tác đề

tài trụy lạc nhƣ Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua...

phải chăng cũng đƣợc lấy tƣ liệu từ những tháng ngày ăn chơi xê dịch trong

nƣớc, ngoài nƣớc của cụ Nguyễn? Có ngƣời kể rằng để mô tả ống khói tàu

hỏa, Nguyễn Tuân đã ăn nằm tại ga Thanh Hóa mất gần cả tháng để quan sát

cho bằng đƣợc các thời điểm khác nhau của ống khói hoạt động: lúc bắt nổ

máy, lúc khởi hành từ từ bò ra khỏi ga, lúc tàu đạt đến tốc độ tối đa cho phép,

khi tàu giảm tốc độ để vào ga; hay nhƣ để nắm bắt thật cụ thể, tỉ mỉ, rõ ràng

thời gian biểu xuất hành và trở lại của những con tàu… Trong tùy bút “Chiếc

vali mới”, nhân vật “tôi” có một mong muốn duy nhất đi để viết. Viết để lấy

64

cái mà đi. Anh quan niệm: chỉ có giang hồ mới cho con ngƣời ta túi khôn:

Không giang hồ, không bôn ba sao nói được những câu khôn như cái khôn

của người sắp từ trần như thế? Sách vở nào mà chép dạy được những lời ấy,

chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có đường đời vô thường vô định mới dạy cho

người ta biết được những câu đẹp đẽ [2;588]. Trải nghiệm cuộc sống gió bụi,

lang thang với những chuyến đi xa đã giúp Nguyễn Tuân tích lũy, bồi đắp vốn

sống, vốn hiểu biết thêm rộng mở, uyên bác về con ngƣời, phong tục tập

quán, văn hóa của những vùng đất đã đi qua. Kiến thức phong phú và sự am

hiểu về các đại dƣơng, các hải trình, thủy trình, các cung đƣờng biển, về

ngành đƣờng sắt... của ông cũng đã mang lại những tri thức quý giá cho ngƣời

đọc.

Một vấn đề lớn của con ngƣời hiện đại chính là sự phân thân, tức là sự

biểu hiện nhập thân của cái tôi tác giả qua các nhân vật. Nhà văn Nguyễn

Đình Thi viết: “Cả trong những tiểu thuyết và truyện, các nhân vật của ông

nhiều khi chỉ là biến thân độc tấu của ông”. Các tập sách Nguyễn Tuân viết

sau Vang bóng một thời có nhiều nhân vật khác nhau, khi mang tên Hoàng,

khi đƣợc gọi là Nguyễn, là Bạch..., song các nhân vật ở đây đều là những hoá

thân, là sự phân thân của cùng một con ngƣời, là những biến điệu từ cùng một

tính cách nghệ sĩ. Đó là lối độc tấu khi xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân,

lòng kiêu căng đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu. Lời tự thú ấy, không chỉ

liên quan đến thể tuỳ bút mà trƣớc hết liên quan đến các nhân vật đi về trên

các trang sách của ông. L. Pirandello, nhà văn Italia hiện đại, từng cho rằng:

mỗi ngƣời chúng ta thƣờng uổng công tƣởng tƣợng mình là một cái gì nguyên

vẹn, nhất trí, một thực thể duy nhất trên đời; có biết đâu là trong mỗi chúng ta

có thể có hàng trăm hàng nghìn dáng vẻ khác nhau, nó cứ bộc lộ ngoài ý

muốn của ta, ta không sao kiểm soát nổi. Những nhận xét này rất đúng với

nhiều nhân vật giang hồ của Nguyễn Tuân. Họ chính là Nguyễn. Con ngƣời,

suy nghĩ của Nguyễn chính là tâm trạng phức tạp, bộn bề của các nhân vật.

65

Tóm lại, với một ngƣời có nội tâm phong phú và tài hoa nhƣ Nguyễn

Tuân không bao giờ chấp nhận cuộc sống yên vị, yên ấm, an cƣ lạc nghiệp.

Và nguyên nhân do đâu mà lại xuất hiện lớp ngƣời đam mê xê dịch đến nhƣ

vậy trong những trang viết Nguyễn Tuân? Có lẽ sống dƣới chế độ thuộc địa

mất chủ quyền tẻ nhạt tù túng, Nguyễn Tuân là ngƣời có tinh thần dân tộc

nhƣng chƣa đủ dũng khí để dấn bƣớc vào con đƣờng cách mạng. Ông lại là

ngƣời say mê, chịu ảnh hƣởng từ Đoxtoiepxki – nhà văn thiên tài nƣớc Nga

thế kỉ XIX nổi tiếng với những nhân vật nổi loạn. Chán ghét cái hiện thực,

những nhân vật của Nguyễn tìm lối thoát ở cuộc sống giang hồ phóng đãng.

Từ cái tôi cá tính, ông đã đề cao, tôn vinh, thi vị hóa lối sống lập dị, khinh bạc

của những kẻ giang hồ lạc phách, nổi loạn. Cuộc sống và không gian bao la

xung quanh có quá nhiều điều bí hiểm, mới lạ và hấp dẫn mà ông chƣa từng

biết, chƣa khám phá hết. Cho nên phải đi. Đi để biết đó biết đây, để mở rộng

tầm nhìn, tầm mắt; để có nhãn quan rộng rãi, uyên bác về cuộc đời. Đi còn để

kiếm tìm niềm vui, để khỏi phải sống những ngày tháng tầm thƣờng, nhạt

nhẽo, bình lặng, vô vị. Đi để đƣợc dấn mình vào cuộc sống đƣờng trƣờng bụi

bặm, để trải nghiệm hết những cảm giác phiêu lƣu của cuộc sống giang hồ gió

bụi. Đi chính là kiếm tìm hạnh phúc, niềm vui và hƣởng thụ những khoái cảm

cuộc đời, là lí tƣởng sống mà ông quyết tâm theo đuổi. Nhƣng lao về phía

nào, xê dịch đi đâu họ cũng cảm thấy bế tắc, chán nản, hụt hẫng, không lấp

2.2.2.2. Những con người nghệ sĩ đam mê tự do, không chấp nhận sự ràng buộc

đầy cảm giác thiếu quê hƣơng.

Nhƣ trên đã nói, Nguyễn Tuân sống trong bối cảnh xã hội trƣớc cách

mạng tháng Tám. Đây là giai đoạn giao thời, có nhiều mâu thuẫn, nhiều lớp

lang chằng chịt. Con ngƣời sống trong giai đoạn này phải gánh chịu sự ngột

ngạt, bức bối của một xã hội nô lệ. Nhà văn sống ngay giữa quê hƣơng mình

mà lại thấy nó khác xa với hình ảnh Việt Nam trong tiềm thức. Nguyễn Tuân

cũng nhƣ nhiều nhà văn cùng thời chƣa có cơ hội giác ngộ cách mạng, đồng

66

thời họ cũng không chịu uốn gối khom lƣng chịu đựng số kiếp nô lệ. Vì vậy

thoát ly khỏi cuộc sống hiện thực là một cách lựa chọn dƣờng nhƣ đƣợc coi là

ƣu việt nhất. Tuy nhiên cũng có cách thoát ly mang màu sắc tích cực nhƣng

vẫn tồn tại những cách thoát ly mang màu sắc tiêu cực. Nguyễn Tuân cố gắng

thoát khỏi sự bế tắc, điên loạn trong văn học lãng mạn thời kỳ suy tàn. Ông

tìm đến chủ nghĩa xê dịch để thả tâm hồn mình vào cõi tự do, phóng túng nơi

phƣơng trời xa xôi. Ông muốn đi khắp mọi nơi để kiếm tìm sự mới mẻ, để

cho lòng mình có đƣợc “men say của chén rƣợu mỗi tối tân hôn”. Để cho các

giác quan đƣợc thay đổi thực đơn, cho bản thân mình đƣợc tận hƣởng cái cảm

xúc bất ngờ trong dòng đời đầy gió bụi. Nguyễn Tuân đã biến “đi” trở thành

một lý tƣởng sống, một cách sống mới; biến “xê dịch” trở thành một đề tài

mới cho văn học lãng mạn đang bƣớc vào giai đoạn suy tàn và đang dần bộc

lộ nhiều yếu tố tiêu cực; biến nhân vật xê dịch thành những chân dung nghệ sĩ

đầy đam mê, không chấp nhận bất cứ sự trói buộc nào. Chủ nghĩa xê dịch đã

phần nào giúp nhà văn nói riêng, giúp văn học đƣơng thời thoát ra khỏi cái

khung chật hẹp gò bó, thoát ra khỏi cái tủn mủn chỉ có “cơm áo gạo tiền”.

Tuy nhiên, xê dịch của Nguyễn Tuân có màu sắc độc đáo, Nguyễn đề cao chủ

nghĩa TỰ DO, xê dịch gắn với hai chữ TỰ DO.

Chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân đã trình bày một ý tƣởng quan

trọng: quan niệm về sự tự do của con ngƣời. Ông quan niệm tự do không

giống một ai. Tự do là thoát li mọi sự ràng buộc bổn phận trách nhiệm với gia

đình và cuộc đời; đến mức dám đi ngƣợc mọi thành kiến thông thƣờng, mọi

thói quen thông thƣờng, miễn sao nó tạo ra niềm khoái lạc và trúng với ý

thích cá nhân. Tự do còn là đƣợc sống, dám sống với những ƣớc mơ, khao

khát của bản thân. Tự do là không vƣớng bận tình cảm, dù là tình yêu nam nữ,

dù có là ngƣời đẹp mĩ nhân cũng không giữ đƣợc bƣớc chân giang hồ. Tự do

hoàn toàn, tự do trong tâm hồn, trong lối sống, trong đam mê và không chấp

nhận bất cứ sự ràng buộc nào. Tự do nhƣ thế mà gây ra khó chịu với ngƣời

67

chung quanh thì cũng ông cũng không ngại, không quan tâm, miễn là vẫn

đƣợc sống theo ý thích của mình. Quan niệm về tự do ấy có chút ngông ngạo

của một con ngƣời luôn tự tin vào bản chất con ngƣời mình: vẫn lƣơng thiện,

không hại ai; vẫn không làm ảnh hƣởng đến lợi ích của ai; vẫn sống trong

phạm vi luật pháp và đạo đức. Xê dịch, nhƣng không xa vào các tệ nạn xã hội.

Giang hồ mê mải nhƣng không phải là lối sống lang bạt trôi dạt bất cần, xô

bồ, bất chấp đạo đức và luật pháp. Chủ nghĩa cá nhân và cá tính phát triển khá

cao ở cái tôi nghệ sĩ đam mê tự do, đƣợc thể hiện trong cách chọn quan hệ

bạn bè (chỉ có hứng thú kết giao bằng hữu với những ngƣời cùng đam mê, sở

thích), trong cách tiêu tiền và ăn mặc theo cách riêng không giống thói

thƣờng. Dƣờng nhƣ ngƣời đời càng khó chịu thì cái tôi ấy lại càng phô ra,

càng thể hiện rõ, không cần phải giấu giếm.

Không phải ngẫu nhiên trong Thiếu quê hương, chỉ qua vài trang đầu

truyện nhà văn đã để lại ấn tƣợng sâu đậm về một mẫu nhân vật giang hồ

nghệ sĩ, cuộc sống nay đây mai đó, không phải cố định ở đâu cả, coi bốn bể là

nhà, là quê hƣơng. Đó là hai chị em Jack và Caroline. Ngƣời em là lính lê

dƣơng (lính lê dƣơng là đơn vị đặc biệt của quân đội Pháp vì các binh sĩ là

những ngƣời nƣớc ngoài tình nguyện chiến đấu cho nƣớc Pháp [37]), cuộc

đời lính chiến đem tha lê cái thân bách chiến qua khắp nơi quan tái, với cái

mùi hương phiêu lãng ướp ủ những bộ nhung phục của một thứ lính rất hào

hùng, rất hiệp sĩ và rất quái đản [1;686]. Ngƣời chị là một đào nƣơng, một mĩ

nhân Tây Phƣơng hàng năm đi hát ở khắp các hí viện lớn ở Âu – Mĩ, Hƣơng

Cảng, Cựu Kim Sơn... Nhân vật của Nguyễn Tuân luôn đƣợc nhà văn tiếp cận

trên phƣơng diện tài hoa nghệ sĩ, không có dấu ấn của quan điểm chính trị,

đạo đức về ngƣời lính của quân đội viễn chinh Pháp hiện diện trên đất nƣớc

Việt Nam. Dƣới con mắt của ông, hai chị em thật đáng ngƣỡng mộ bởi họ có

tâm hồn tài hoa nghệ sĩ, theo đuổi lối sống tự do, tự tại, giang hồ. Họ có đời

sống rất tự lập và rất cá nhân. Chị làm ngƣời con hát đi khắp thế giới, mang

68

tiếng hát tô điểm cuộc đời, vừa đi vừa ca hát không biết gì là già, không biết

gì là ngày mai. Em làm lính chinh chiến mọi phƣơng trời, mọi chiến trƣờng

trên khắp thế giới. Chị em nhà họ đi nhiều lắm, góc bể chân trời. Thỉnh

thoảng chị lại hát cho em nghe, thỉnh thoảng em lại nghe tiếng hát chị qua làn

sóng ra đi ô. Giữa họ là khoảng cách hàng ngàn vạn dặm đất liền và ngàn vạn

dặm biển cách. Ngƣời chị là ca nữ có tâm hồn nghệ sĩ phiêu lãng đã đành, đến

ngƣời lính lê dƣơng trong con mắt nhà văn cũng là một con ngƣời có tâm hồn

nghệ sĩ thật đáng quý: hồi tôi chưa vào lính lê dương, tôi cũng hay bỏ nhà chỉ

cốt đi theo chị tôi trong đoàn ca vũ, bởi họ trọng cuộc sống TỰ DO. Họ đã

đƣợc chủ động lựa chọn cuộc đời rất cá nhân, riêng tƣ mà không hề bị chi

phối bởi ngƣời này ngƣời khác, không bị quan điểm tƣ tƣởng này khác làm

cho vƣớng bận. Họ không bị bổn phận trách nhiệm ràng buộc trói chân. Họ là

những cánh chim trời đã đƣợc đắm mình thỏa mãn trong những không gian

vũ trụ cao rộng. Cuộc sống nghệ sĩ giang hồ của chị em Jack và Caroline

chính là ƣớc mơ lí tƣởng lớn, là mong muốn khát khao hƣớng đến của chính

nhà văn. Họ là nhân vật nghệ sĩ giang hồ xê dịch lí tƣởng của Nguyễn Tuân.

Nhân vật giang hồ là những cái tôi cá tính độc đáo đến vị kỉ, hết sức lập

dị, khó hiểu, khó đoán, khó nắm bắt trong con mắt những ngƣời xung quanh.

Khi bắt buộc Nguyễn Tuân làm nhà (Nhà Nguyễn), cụ Tú Lan đã đi tới một

nhận định khá cơ bản về ngƣời con trai luôn sống một cách vô thƣờng ngoài

gia đình. Ông cụ cho rằng “biết rằng mình vốn sinh ra nó nhƣng thời đại mới

chính là ngƣời định cho nó tất cả những tính nết kia”. Thời đại ở đây, chính là

lối sống, cách sống mới, sản phẩm của một nền văn hoá phƣơng Tây đang ồ ạt

ảnh hƣởng khá lớn đến những trí thức Tây học hồi ấy. Khi đã buộc đƣợc

Nguyễn Tuân trở về làm nhà, tức cụ Tú Lan đã thắng thế đƣợc thời đại, buộc

thời đại phải khuất phục trƣớc những truyền thống. Ngƣợc lại, trong cái việc

Nguyễn mặc kệ cái nhà mới làm, vẫn tiếp tục sống dông dài, lại biểu hiện một

thông điệp ngƣợc lại: cuối cùng thì nền nếp lại ở vào thế thất bại, không đủ

69

sức đóng cƣơng vào con ngựa bất kham đã đi hoang ấy nữa. Và gộp cả Thiếu

quê hương, Chiếc va li mới, Một lần đi thăm nhau lại, đã có thể rút ra một

nhận định nhất quán về nhân vật xê dịch: tâm hồn luôn luôn là bãi chiến

trƣờng ngổn ngang, luôn diễn ra sự đấu tranh nội tâm giằng xé dữ dội. Ở đó,

hai khuynh hƣớng văn hoá trái ngƣợc phƣơng Đông và phƣơng Tây luôn giao

chiến với nhau. Cuộc giao chiến ấy mãi mãi kịch liệt, và phần thắng lợi bao

giờ cũng thuộc về cái nền văn hoá truyền thống đã hình thành nên trong lịch

sử lâu dài của đất nƣớc đã ngấm sâu, hoá thành phần vô thức trong mỗi con

ngƣời. Con ngƣời tự do, rất mực cá nhân chủ nghĩa ấy đã nhiều lần phải thống

thiết đau khổ mà kêu lên rằng “cái thân của mình đã không hẳn là của mình”,

đã bị cái nguồn gốc văn hoá sâu xa mà chàng hấp thụ từ nhỏ níu kéo, giằng

giữ lại. Cái khao khát bay nhảy tự do mà chàng học đƣợc ở phía trời Tây luôn

nằm ngoài tầm tay, luôn thất bại trong cuộc chiến giữa sở thích và trách

nhiệm bổn phận. Có điều lý do của sự giằng xé và bất lực không phải nằm ở

con ngƣời chàng, mà ở mối quan hệ phức tạp giữa kẻ trí thức với hoàn cảnh,

trong sự đa đoan rắc rối, phức tạp của chính hoàn cảnh. Nhƣng có lúc, hai nền

văn hoá Đông và Tây đã gặp nhau, văn hóa phƣơng Tây đã chịu nhƣờng

bƣớc, thỏa hiệp và tƣởng đã có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Song suy cho cùng

giữa hai nền văn hoá xa lạ, vẫn chƣa bao giờ có sự đồng nhất hoàn toàn,

những cá nhân đi tiên phong trong việc du nhập cái mới lạ của phƣơng Tây

vào với cái xã hội đậm chất phƣơng Đông này sẽ chỉ trở thành vật hy sinh cho

những thể nghiệm phiêu lƣu của họ. Cho nên, ban đầu khi mới đăng báo, cuốn

tiểu thuyết dày dặn nhất của Nguyễn Tuân là Thiếu quê hương. Quê hƣơng

đây không phải chỉ là bạn bè, gia đình, nhà cửa; quê hƣơng là cả hoàn cảnh

thời đại rộng rãi, cho phép cả những cá tính độc đáo nhất có dịp nảy nở, phát

triển. Nếu thiếu đi một hoàn cảnh cởi mở nhƣ thế tức không có một môi

trƣờng hoạt động khác đi, thì mọi sự đổi mới và du nhập ảnh hƣởng qua

những tính cách lẻ tẻ rút cục trong chừng mực nào đó đều dẫn tới bi kịch. Và

70

cái bi kịch đầu tiên ở một ngƣời quyết liệt nhƣ Nguyễn Tuân chính là là một

sự dang dở. Nguyễn không bao giờ đi đến cùng đƣợc trên con đƣờng đã lựa

chọn, luôn nửa đƣờng đứt gánh. Nguyễn Tuân thực là tài hoa khi diễn tả sự

dùng dằng lui tới giữa đi hay ở của các nhân vật thành những trang viết rất

đẹp, rất thực nữa. Ngƣời đọc Thiếu quê hương thƣờng không bao giờ quên

những đoạn tả một đêm gió ở vùng mỏ Vàng Danh, hoặc những buổi chia tay

ở sân ga, bến tàu hoặc khung cảnh một huyện miền núi Thanh Hoá. Cảnh vật

hiện ra sinh động lạ lùng, thấm đẫm tình ngƣời. Hoá ra, những thành kiến về

Nguyễn xƣa nay là sai lầm. Trong con mắt ông không chỉ có màu khinh bạc,

ngông ngạo, bất cần, vô trách nhiệm mà thực ra là một cái nhìn đằm thắm

quyến luyến với ngƣời, tha thiết với cảnh; là những ý nghĩ chân thành muốn

cho chung quanh ngày một đẹp tốt hơn. Con ngƣời nhà văn nổi tiếng thƣờng

phong phú hơn so với những huyền thoại về họ mà ngƣời đời vẫn truyền tụng.

Nhân vật xê dịch không màng vật chất, công danh, địa vị, thậm chí

không màng cả tình yêu, không bị những tình cảm cá nhân, gia đình thông

thƣờng chi phối. Họ tìm niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong

những chuyến đi. Bằng một loạt những tác phẩm, Nguyễn Tuân đã tự khắc

họa chân dung con ngƣời đam mê tự do đến mức không chấp nhận sự ràng

buộc. Tùy bút Một lá thư không gửi (Tùy bút I), nhà văn đã mƣợn hình thức

viết tâm thƣ để làm nổi bật chân dung một ngƣời mắc “bệnh xê dịch” khá

nặng, anh chàng Ngh. Đó là một ngƣời bộ hành, không quê hương, không biết

biên thùy của xứ sở, không có chương trình ngày mai và không mấy khi sống

luôn lấy độ ba bốn tháng liền trong một hoàn cảnh. Đến một nơi, gửi lại đấy

chút ít bản sắc của mình, để rồi lại đi. Đi cho thực nhanh với mọi kỉ niệm

mang theo của nơi vừa rời bỏ [2;415]. Nhân vật Ngh chính là ngƣời phát

ngôn cho triết lí xê dịch và lí giải đam mê nghệ sĩ lớn ấy của Nguyễn Tuân:

không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở. Giống ớt quý cay đến

chảy nước mắt, trồng mãi trong một khoảng vườn, có ngày chỉ sinh ra những

71

quả nhạt nhẽo... Đấng tài hoa sinh ra không phải chỉ để yêu một người đẹp

hay một cái đẹp. Cõi trời đất có vô vàn tác phẩm. Vả chăng miếng cao lương,

ăm lắm đâm ra nhàm. Phải thay thực đơn đi. Thay thực đơn cho dạ dày, thay

thực đơn cho giác quan. Trong cuộc sống, tôi muốn đừng bao giờ ngày hôm

nay của tôi lại giống hệt ngày hôm qua...Sinh thú của người là hưởng cho

nhiều cái bất thình lình và mọi cái không chờ đợi. Tôi muốn mỗi ngày trong

cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say sưa của rượu tối tân hôn [2;416].

Tùy bút Phong vị tỉnh xép, Nguyễn Tuân đã viết lên tự truyện của chính

mình. Cái anh chàng Nguyễn ham rong chơi hiện lên trong con mắt bạn bè là

ngƣời: Người gì mà như con chim... Điều đáng phiền hơn nữa: Nguyễn lại là

một con chim không chịu yên vui với cái tổ ấm của mình. Sau mỗi một chuyến

đi chơi, chàng chỉ đảo qua nhà mình ở Thanh Hóa có một ngày: Nhiều bạn cũ,

bắt gặp Nguyễn ở ga xuống, hôm sau lại tìm chàng chơi thì Nguyễn lại đi mất

rồi. Hỏi đi đâu thì người nhà Nguyễn đều trả lời một cách buồn nản rằng

cũng không hiểu [1;450]. Tâm hồn lãng tử của họ hình nhƣ không quen với sự

ấm cúng và cách chiều đãi của thân quyến. Họ không hứng thú và không ngon

miệng trƣớc những bữa ăn gia đình đã đƣợc nấu cầu kì bằng cả tình cảm yêu

thƣơng, chiều chuộng níu giữ. Những cốc cà phê, những món ăn ngon cầu kì

đó thiếu đi hƣơng vị của bụi đƣờng trƣờng giang hồ, cái gia vị của lữ thứ, mùi

thơm của cuộc sống tự do luôn đƣợc xê dịch liên tục trong cái đời lang thang

hải hồ. Họ - những “kiếp ngựa tù chân lại nhớ đƣờng”, chỉ thèm hƣơng vị của

miếng bánh quy lƣơng khô trên con tàu bể, cảm nhận đƣợc sự ngon miệng

những món ăn dân dã, chém to kho mặn dọc đƣờng. Sau mỗi chuyến đi, con

ngƣời lãng du bốn phƣơng trời ấy mỗi lần về thăm nhà chƣa ngơi nghỉ đƣợc

mấy ngày đã có vài lá thƣ hay vài tờ báo gửi theo. Cả nhà anh sợ đến tái xanh

“cái mẩu giấy màu xanh da trời này”; bởi mỗi lần cái mẩu giấy “tai ác” ấy

đƣợc chuyển tới là Nguyễn lại lồng lên như ngựa vía và đòi đi ngay lập tức.

Quần áo vừa mới giặt chưa khô, Nguyễn cũng cứ nằng nặc đòi đi, quơ cả lại,

72

tấn vào cái vali da cũ mà chàng lấy làm quý hơn cả những người sống sờ sờ

ra đấy. Nhiều khi Nguyễn không kịp thưởng thức cả đến đĩa tiết canh vịt do

tay người em gái đánh rất đông [1; 453]. Tiếng gọi của cuộc sống giang hồ có

sức mạnh và sức hút kì lạ, đã dễ dàng tách anh ra khỏi cuộc sống gia đình yên

ấm, khỏi vòng tay những ngƣời thân yêu. Bỏ mặc lại tất cả, Nguyễn đi theo

tiếng gọi của đam mê, của ngƣời bạn phƣơng xa. Anh vui sƣớng vì cái tin

điện, tiếp tục miệt mài dong duổi lang thang chán chê; cho đến khi manh áo

đứt hết cả hàng khuy, tuột hết đường chỉ gấu, thân thể tàn tạ, mệt nhọc vì

giang hồ họ mới chịu bước chân về nhà. Nhƣng cũng chẳng đƣợc bao lâu khi

cái tao khang chi thê của họ đã khíu, đã mạng, đã vá xong những tấm áo rách

của họ, thì họ lại đùng đùng đòi lên đường. Ai mà ngăn được [1;451].

Trong tùy bút Lại đi nữa (Tùy bút I), nhân vật Nguyễn Văn Gi cũng là

một chân dung nghệ sĩ. Mê xê dịch nên anh đã chọn cách sống không để bị

ràng buộc vào ai, vào bất cứ điều gì: không vợ, không nhà. Gi rất vui với cuộc

đời cô độc của mình và chưa bao giờ thấy mệt mỏi với đời tự do. Gi chưa

ghép một người khác vào hẳn cuộc sống của mình là vì Gi không muốn tự

buộc vào chân những hòn chì nặng. Gi sống một mình để những lúc có dịp

cất chân, không phải bận bịu vì những bổn phận nhận lấy sớm quá. Gi lướt

qua cuộc đời như một cái bóng [2;477]. Hình ảnh một anh chàng “ngậm một

tẩu thuốc lá tựa khung cửa sổ một toa tàu tốc hành”, đúng là chân dung một

“bệnh nhân xê dịch”, một nghệ sĩ giang hồ tự do, gắn với những chuyến đi,

không chấp nhận sự ràng buộc!

Không chỉ đam mê tự do, Gi còn có một tâm hồn đặc biệt, lập dị, khác

đời khác ngƣời. Vì muốn đƣợc đi nhiều, muốn luôn đƣợc thay đổi chỗ, anh đã

ép xác, hành xác mình một cách khổ hạnh tự đè nén lòng mình, không cho nó

rung động trước mọi vẻ đẹp của Tự Nhiên. Đi đến một xứ nào mà gặp cây, cỏ,

nước, mây, trời êm dịu, tươi sáng là anh lại đùng đùng ra đi ngay như một kẻ

biết trốn chạy người nhân tình cũ có sứ thôi miên ghê gớm. Anh sợ phải

73

quyến luyến với một chỗ, nấn ná ở lại rồi khi mà đã quen với khí hậu và vẻ

đẹp ở đấy thì không bao giờ anh lên đường một cách nhẹ nhõm được [2;477].

Không chỉ để tâm hồn tự do của mình cảnh giác trƣớc cảnh đẹp quyến rũ của

thiên nhiên, anh còn luôn cảnh giác trƣớc những ngƣời đàn bà đẹp. Có lẽ câu

“Anh hùng không qua nổi ải mĩ nhân” không thể vận vào con ngƣời Gi, bởi

anh luôn để lí trí, trái tim của mình tăng “sức đề kháng”, “miễn nhiễm” trƣớc

ngƣời đẹp. Bởi, với anh người đẹp còn nguy hiểm gấp mấy lần cảnh đẹp. Khi

mà người đàn bà đẹp đã tìm cách lẻn vào lòng kẻ giang hồ, thì trên bến nước,

lại thêm một cái neo vứt xuống bể để...không bao giờ kéo lên nữa [2;478].

Đây là chân dung một con ngƣời hoàn toàn sống theo tôn giáo của chủ nghĩa

Tự Do, theo sở thích cá nhân, đề cao cá tính, bản ngã lên trên tất thảy. Anh

dám sống hết mình với những đam mê mà không cần để ý đến xung quanh

ngƣời ta sống theo một lối mòn cuộc đời nhƣ thế nào và nghĩ gì về mình: anh

không thèm thở những cái không khí của những gia đình nền nếp. Bộ phổi lớn

của anh đang đòi hỏi cả một bầu dưỡng khí của thế giới kia [2;479]. Anh sợ

gia đình, sợ những bổn phận trách nhiệm phải gánh vác, sợ phải trả những

món nợ tình cảm, nghĩ đến cái chết đuối tình cảm trong đĩa đèn tâm tình mà

thêm rùng mình. Anh không chấp nhận bất cứ ràng buộc nào vào cuộc đời, để

mãi mãi là con chim trời tự do bay nhảy, thích bay là bay, thích dừng là dừng.

Không chỉ sợ ràng buộc tình cảm, nhân vật xê dịch còn sợ dính dáng

vào công danh, vật chất. Con ngƣời ham dông dài này không phải là một kẻ

lông bông, bất tài mà ngƣợc lại: Gi là một thiếu niên có tài. Nếu anh chịu đổi

quan niệm về cuộc đời thì anh có thể tạo lấy một địa vị xã hội rất đáng kể.

Nhưng anh không muốn làm người đứng đắn [2;479]. Anh cũng không kí hợp

đồng cộng sự, làm việc với một ngƣời nào, bởi sợ sự ràng buộc. Để luôn đƣợc

chủ động trong những chuyến đi, để kiếm kế sinh nhai, con ngƣời đặc biệt ấy

sẵn sàng nhận lấy mọi thứ nghề tự do rất nhiều bạc bẽo, cũng như anh vui

lòng từ chối những hợp tác có nhiều lợi nhưng lại buộc anh phải ở nhất định

74

một chỗ... nếu muốn đi thì đừng có óc kinh doanh. Có một cơ nghiệp tức là đủ

điều kiện để đứng im [2;480]. Ngƣời trí thức tài hoa ấy đã chấp nhận đánh đổi

công danh, sự nghiệp, tiền tài và một cuộc sống yên ấm ổn định chỉ để đƣợc

đi, đƣợc tự do theo đúng nghĩa cả thể xác lẫn tâm hồn! Suy nghĩ này có vẻ lập

dị, cực đoan nhƣng ngẫm kĩ chúng ta càng cảm phục con ngƣời lãng tử nghệ

sĩ rất tự trọng, trung thực, thẳng thắn và có tinh thần trách nhiệm này. Anh

không giả dối và cũng không tầm thƣờng khi chạy theo và làm nô lệ cho vật

chất. Đây là mẫu nhân vật trí thức mà Nguyễn Tuân cả đời xây dựng và

kính phục “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng

khuất”. Những chia sẻ về sự “đi” của anh cũng thật chân thành, sâu sắc và

nhân văn càng được đi, ta càng biết yêu mọi người chung quanh... Ta sẽ

không rẻ rúng cái giá trị của thằng người và ta cũng không kì vọng ở người

nhiều quá... Sự kiến thiết xã hội ngày mai sẽ đẹp vững và bền lắm nếu ở thế

giới này người ta ai cũng được đi về như trẩy chợ [2; 481,482].

Nhân vật xƣng “tôi” trong tùy bút Chiếc vali mới cũng là một điển hình

cho lối sống nghệ sĩ tự do, không chấp nhận sự ràng buộc. Cuộc đời anh luôn

thèm những khoảng trống rộng rãi. Sở thích của anh là “đi mua vali”, vì con

ngƣời “thích đổi chỗ suốt cả năm” nhƣ anh thì “mấy cái vali mà chẳng vừa”.

Anh đang có dự định xê dịch vào Tây Kỳ và nếu “cảnh Lâm Viên xứ Tây Kỳ

ấy vẫn là hay thì ở luôn mãi”. Anh đã ngán ở mãi đất Bắc, ngán mãi nhìn thấy

những gƣơng mặt quen thuộc của bạn bè tri kỉ và muốn đổi gió cuộc đời. Tác

phẩm nhƣ một tự truyện khi ông kể việc đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa

thì nhận đƣợc tin dữ báo tin con trai nhỏ mất đã ba ngày. Đó cũng là thời

điểm diễn ra lễ kỉ niệm ngày mất một nhà thi sĩ mà ông rất đỗi kính trọng

(Tản Đà). Nguyễn cũng không che dấu suy nghĩ mà nhiều ngƣời cho là tàn

nhẫn: Sự tỏ dấu tiếc thương lỡ đã muộn rồi, thôi thì cho nó chậm luôn một

thể. Mai tôi hãy về, và đêm nay tôi hãy đi dự lễ kỉ niệm một nhà thi sĩ đã. Đối

với ngày tử này tính theo âm lịch, lòng tôi có lẽ còn nặng hơn việc chết kia

75

[2;592]. Cái lối ham đi, xem nhẹ việc qua đời của đứa con nhỏ hơn ngày giỗ

của một bậc tiên sinh tri kỉ, có lẽ chỉ Nguyễn mới dám công khai bày tỏ

không cần giấu giếm những suy nghĩ lòng mình nhƣ thế và chẳng bận tâm đến

đánh giá của thiên hạ. Đó chính là cái ngông của Nguyễn mà không ai bắt

chƣớc nổi! Nhƣng về nhà đƣợc mấy hôm, đi thăm viếng mộ của con, “cái

buồn của tang đã lắng xuống”, Nguyễn đã có ý định lên đƣờng ngay. Ngƣời

nhà nhìn chiếc vali mới của anh mà kinh hãi, vợ anh tủi thân cằn nhằn vừa

chân ướt chân ráo về tới nhà, đã lại đòi đi. Chẳng mấy khi về tới nhà; động

về là đã đùng đùng đòi đi ngay chẳng còn thiết đến ai cả. Kìa, lại cái vali mới

nữa chứ! [2;595]. Vì đây sự xuất hiện của chiếc vali mới chính là những “dấu

hiệu” quen thuộc của một chuyến đi xa. Anh cũng chẳng rõ mình sẽ đi đâu,

nhƣng chắc chắn phải đi, đi để đƣợc rời bỏ nơi đang ở. Thế là sau lời mời của

một ngƣời bạn chu du một chuyến trên biển từ Thanh Hóa ra Uông Bí,

Nguyễn “mừng rơn, mừng cho tôi, mừng cho chiếc vali của tôi” sẽ đƣợc khởi

hành một chuyến đi giang hồ xứng đáng. Thế là Nguyễn đi. Mặc kệ mọi việc

tang gia còn đang dang dở ở nhà. Mặc kệ gia đình chuyện cúng tuần đủ bẩy

bẩy bốn chín ngày theo phong tục truyền thống. Mặc kệ cả chuyện an ủi

ngƣời vợ tội nghiệp vừa mới mất con. Mặc kệ ngƣời cha già đã chán cảnh giữ

chân đứa con bất trị. Nguyễn lại tiếp tục hành trình dông dài chƣa rõ ngày về.

Tâm trạng Nguyễn chỉ để tâm cho những tháng ngày xê dịch trƣớc mắt! Nhƣ

vậy, thú vui đƣợc xê dịch, lên đƣờng, đƣợc tự do bay nhảy của anh đã thoát li

hẳn mọi ràng buộc về bổn phận trách nhiệm.

Nguyễn Tuân đã đẩy niềm đam mê lên tới đỉnh cao và có phần cực

đoan thái quá khi ông mê xê dịch đến mức xem nhẹ tình thân. Điều đó tạo nên

cảm giác khó chịu, không đồng tình ở không ít độc giả. Nhƣng ngƣời đọc

cũng khâm phục một cái Tôi cá nhân ngông ngạo, nhƣng rất trung thực, thẳng

thắn, dám dãi bày, phơi tỏ tất cả cõi lòng mình, cả điểm sáng lẫn mảng tối mà

không cần giả dối che đậy, ngụy biện hay giấu diếm. Trong cuộc sống, ít ai

76

dám nói ra cái tật, cái xấu của mình mà thƣờng tìm cách che đậy bản chất

bằng bộ mặt đạo mạo. Ở Nguyễn Tuân thì lại khác, ông đã dựng lên bức chân

dung chính mình là một con ngƣời ham chơi, hoang tàn, thiếu trách nhiệm, ƣa

đàn đúm, đàn hát, bàn đèn thuốc phiện, thậm chí từng nếm trải cả cuộc sống

với kĩ nữ giang hồ không dƣới một lần. Ông từng tâm sự “tôi chơi bời cũng là

một cách tự phá phách để lẩn trốn mình, chứ có thích thú gì đâu. Sau mỗi

cuộc chơi bời phá phách gì, mình lại tự chán mình, tự xỉ vả mình, nhƣng sau

đó lại lao vào con đƣờng cũ”. Có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới dám đi đến tận

cùng lòng mình, trải nghiệm cả cuộc sống dƣới đáy xã hội, mới dám giãi bày

gan ruột tất cả con ngƣời mình đến thế. Nguyễn Tuân kiêu bạc nhƣng không

sống giả dối. Trung thực, thẳng thắn và dũng cảm nhƣ thế chả hiếm có và

đáng trọng lắm sao?

Tuy nhiên, chúng tôi thấy ở con ngƣời ham đi, muốn cuộc đời là những

chuyến đi không bao giờ phải dừng lại, chỉ mong đƣợc mau dời bỏ nơi mình

đang sống; thế mà có lúc tâm trạng cũng thật mâu thuẫn, xung đột. Khi mọi

thứ cho chuyến đi đã đƣợc chuẩn bị sẵn sàng, chiếc vali không còn thiếu một

thứ gì, thuyền sắp nhổ neo đƣợc rồi, thế mà trong lòng ngƣời nghệ sĩ giang hồ

tƣởng nhƣ rất vô tâm, tàn nhẫn ấy lại thấy dội lên những làn sóng cảm xúc

trào dâng miên man: Vẫn còn ở Hà Nội mà lòng tôi đã thấy xa lìa hẳn chỗ

này rồi. Và chưa chi mà tôi đã thấy nhớ Hà Nội, nhớ phố Hà Nội, nhớ người

Hà Nội – nhớ đến cả một thằng bé đánh bóng giầy da. Kì diệu thay! Những

cái phút sắp được khởi hành. Tôi phải cái tật là chỉ quý yêu được trong tiếc

thương, tôi phải cái bệnh là chỉ biết quý yêu trong khuất vắng [2;591]. Nhƣ

thế chúng ta nhận thấy sự phức tạp, mâu thuẫn trong tâm hồn con ngƣời lãng

đãng, giang hồ ấy: thích đi, ham đi, nhƣng không phải là kẻ vô tâm, vô tình,

ích kỉ mà cũng rất hữu tình, giàu tình cảm, cũng quyến luyến bịn rin, rƣng

rƣng trong giây phút lên đƣờng, cũng có tình cảm rất gắn bó với nơi mình

đang muốn dời bỏ.

77

Đứng ở góc độ tâm lý học thì toàn bộ văn chƣơng Nguyễn Tuân trƣớc

cách mạng chỉ xoay quanh mối bận tâm lớn nhất là về chính mình. Tƣ tƣởng

khinh bạc, chán đời, sớm thấm thía trong các tác phẩm đầu tay của ông và

ngày càng đƣợc ông đẩy mãi lên. Tuy Nguyễn Tuân không đƣa ra đƣợc nhiều

bộ mặt con ngƣời khác nhau nhƣ Vũ Trọng Phụng, Khái Hƣng, Nguyên

Hồng, Nam Cao..., song các nhân vật xê dịch mang nhiều tính cách tự truyện,

dù đƣợc gọi bằng những tên khác nhƣng vẫn là một tính cách trộn không lẫn.

Nhắm mắt lại nhiều ngƣời vẫn hình dung ngay đƣợc cốt cách con ngƣời tài tử

kiêu bạc Nguyễn Tuân thƣờng xuyên đi lại trên trang sách. Phải mạnh dạn nói

rằng, nhân vật của Nguyễn không xa lạ với ngƣời bình thƣờng. Trong mỗi

chúng ta không ít thì nhiều đều có những nét, những khía cạnh đó. Nhiều ý

tƣởng cảm giác của chàng là những điều đôi lúc chúng ta cũng cảm thấy,

chẳng qua ta lẩn tránh không dám công nhận, càng không muốn trình ra trƣớc

mọi ngƣời. Ngƣợc lại, ông đã tự tạc rất sống động bức chân dung tự họa: từng

trải, ham hƣởng lạc theo kiểu nhà nho tài tử, lăn lộn nhiều với đời sống trụy

lạc; một ngƣời phóng túng nhƣng rất trung thực thẳn thắn; đối với cuộc sống

quê hƣơng nhƣ kẻ ăn tạm ở nhờ, không chịu gánh lấy một trách nhiệm nào.

Nhiều ngƣời tƣởng tƣợng rằng con ngƣời ham đi, ham xê dịch đó phải

là ngƣời có chí lớn cao cả, làm nên những chuyện kinh thiên động địa xoay

chuyển cả bánh xe lịch sử; hoặc lang bạt kì hồ nhƣ thế sẽ gây ra những

chuyện rắc rối, khiến cho những ngƣời thân phải nhiều phen cuống cuồng, lo

lắng. Nhƣng không, quan niệm sống của Nguyễn Tuân không phức tạp, lớn

lao theo kiểu ấy. Nhân vật của ông chỉ mắc có mỗi căn bệnh đam mê không

gian, một thứ đam mê kỳ thú siêu việt; đến mức những ai thƣờng phải quanh

quẩn trong bốn bức tƣờng gia đình cũng phải tò mò, thèm muốn, ao ƣớc đƣợc

một lần thực hành lên đƣờng. Đọc văn Nguyễn Tuân không chỉ có niềm vui,

sự sƣớng tai bởi đƣợc nghe một ngƣời lợi khẩu kể chuyện, mà có thể ngƣời

đọc sẽ thấy buồn, thấy ngứa ngáy, cảm thấy đời mình tầm thƣờng, nhạt nhẽo,

78

vô vị chả ra làm sao. Trêu tức mọi ngƣời, qua các nhân vật lãng tử, nhà văn

cho thấy xê dịch cũng là một niềm vui lành mạnh, bởi chẳng qua cái việc xê

dịch ấy nó tô đậm thêm quan niệm: dù hay dù dở, mỗi con ngƣời là một cá

tính độc đáo, không giống ai, không ai thay thế nổi. Và ông cũng không muốn

ai giống mình.

Nhân vật là hoá thân của Nguyễn Tuân nên chúng ta thƣờng tự hỏi: thế

thì trong Nguyễn Tuân con ngƣời phóng túng cực đoan với con ngƣời biết

điều nhạy cảm, nghe đƣợc từng vui buồn thoáng qua trong một cái nhìn, một

giọng nói, luôn biết tự điều chỉnh cho hợp với chung quanh, đâu là con ngƣời

chân thực? Và, Nguyễn Tuân là cả hai con ngƣời ấy cộng lại, là cả sự thái

quá, lẫn sự do dự. Cái sợi dây làm nên mối quan hệ của Nguyễn Tuân với

hoàn cảnh quanh ông thật dài, thật quanh co, nhƣng bao giờ cũng có. Nhƣ

vậy, xét đến cùng, chúng ta thấy, chủ nghĩa xê dịch, thú giang hồ lãng tử của

Nguyễn Tuân biểu hiện đời sống tâm lí tinh thần khá phức tạp của ông nói

riêng, của một bộ phận trí thức đƣơng thời nói chung. Phải chăng, đất nƣớc bị

nô dịch thì mỗi ngƣời dân sống ở chính trên quê hƣơng mình mà lòng vẫn

cảm thấy trống trải, bơ vơ, lạc lõng, thiếu quê hƣơng!

Tóm lại, với biệt tài khai thác và thể hiện thành công diễn biến tâm lí

nhân vật, Nguyễn Tuân đã xây dựng, miêu tả tỉ mỉ kiểu nhân vật xê dịch điển

hình tiêu biểu; đam mê đã đƣợc đẩy lên tuyệt đối; hoàn toàn sống theo chủ

nghĩa tự do, không muốn bất cứ một sự vƣớng bận nào. Nhân vật trong thế

giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân luôn là nhƣ thế, cực đoan, dũng cảm dám

sống hết mình. Họ không dễ thỏa hiệp, hi sinh những sở thích để làm đẹp lòng

ngƣời khác và chiều theo xã hội. Họ dám sống cho mình, không chấp nhận

cuộc sống nhạt nhẽo chìm đắm vào cái tầm thƣờng khuôn khổ chung quanh.

Họ không phải là con ngƣời của bổn phận, trách nhiệm, của gia đình dòng

tộc, của công việc công danh... tất cả trở lên vô nghĩa với họ. Họ thất thƣờng,

lạ lùng; vừa từng trải, vừa khờ khạo; khá sâu sắc song cũng khá nông nổi;

79

cứng cỏi có nhiều phen đến sắt đá, song cũng là con ngƣời thật mềm yếu và

dễ bị thƣơng. Trong mọi hoạt động, cƣ xử, dƣờng nhƣ có hai con ngƣời song

song tồn tại: Một mặt, ham sống và thèm khát sống một cách thực cá nhân,

không muốn quanh mình luẩn quẩn có ai vƣớng bận. Mặt khác, lại rất nhạy

cảm, day dứt với hạnh phúc gia đình và luôn bị dằn vặt giữa bổn phận và

trách nhiệm. Những lúc say sƣa, đam mê, cố nhiên họ chỉ tha thiết với những

vui buồn bản thân. Lúc tỉnh táo, họ biết rất rõ rằng những ngƣời thân chung

quanh đều đáng yêu, tội nghiệp và nên cƣ xử cho biết điều, đừng vì mình mà

để cho họ phiền muộn. Thậm chí, quan niệm xê dịch của họ cũng đã đầy mâu

thuẫn với những suy nghĩ tiền hậu bất nhất. Đúng là có lúc “đi chỉ để mà đi”,

đi để quên nơi vừa đi mà nhớ tới những nơi chƣa tới; đi để quên đi tất cả hiện

thực tối tăm trƣớc mắt. Song chẳng qua đấy là những lúc hứng lên nói cho

sƣớng miệng, rồi sau đó ngay giữa sân ga họ lại rền rẫm lên rằng thật ra nếu

đi không mục đích thì buồn lắm, ngƣời lãng tử thật sự chỉ đẹp trong những

chuyến đi có mục đích trong lành; xa nhà, những lúc thấy trời mƣa gió thì

thấy nhớ một ngọn đèn tỏ ngọn, một mâm cơm gọn ghẽ, một tiếng trẻ con

khóc bú. Lúc lên đƣờng, trong lòng cũng không hoàn toàn là niềm hân hoan,

vui sƣớng mà là một bãi chiến trƣờng ngổn ngang miệng thì ca điệp khúc

Giang hồ hành và lòng thì vẫn mang nặng một thảm kịch về bổn phận. Nhiều

lúc xuất hiện cả nỗi buồn chán, thất vọng, bởi đích đến cũng chẳng để làm gì,

khiến Nguyễn Tuân rơi vào bế tắc, tuyệt vọng, phải than thở kêu la: Ta đi để

mà đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ối ta ơi là ta ơi; và bao nhiêu sốt sắng,

bồng bột của phút đi, đã nhường chỗ cho thờ ơ của phút đến. Đi, để mà đến.

Đến...nhưng sau đó, còn gì nữa? Hay chỉ còn lòng khao khát bị bỏ rơi vì ý

nghĩa của giới hạn [2;417]. Có lúc ông lại hoàn toàn phủ định triết lí xê dịch

mà cho rằng “Không bao giờ ngƣời ta có thể nâng sự xê dịch lên thành một lí

tƣởng đƣợc”. Đã có thời ông ao ƣớc đƣợc đi đến mức mang hành lí ra ngồi ở

nhà ga cả ngày để mong đƣợc tận hƣởng cái cảm giác đƣợc xê dịch. Nhƣng

80

cũng có lúc ông phải thốt lên với chính bản thân mình rằng liệu xê dịch có thể

thoát khỏi nỗi cô đơn, buồn chán không? Hay càng đi lại càng cảm nhận rõ

hơn nỗi cô đơn mà thôi? Nhƣ vậy, qua những trang viết chúng ta thấy một cái

tôi Nguyễn Tuân luôn muốn vƣợt ra cái vòng kiêm tỏa của xã hội, vƣợt ra

khỏi sự ràng buộc chật chội, tù túng của cuộc đời để tìm đến vùng đất của

riêng mình. Những trang văn xê dịch không chỉ mang đến cho ngƣời đọc

thƣởng ngoạn, hiểu biết sâu sắc hơn về bức tranh cảnh sắc con ngƣời Việt

Nam và một phần thế giới trƣớc năm 1945, mà còn làm nổi bật con ngƣời

Nguyễn Tuân thẳng thắn trung thực, rất đỗi uyên bác tài hoa, có con mắt quan

sát cuộc sống sắc sảo và am hiểu kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Chân dung một

cái tôi cô đơn có phần hoang mang, bế tắc trong thực tế cuộc sống, muốn

dùng không gian rộng lớn, mênh mông trên hành trình lãng du để lãng quên

và khỏa lấp cái trống vắng trong tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn. Lao động nghệ

thuật nghiêm túc và sự tài hoa uyên bác đã tạo nên sự hấp dẫn của những

trang văn xê dịch của Nguyễn Tuân.

81

CHƢƠNG 3

CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH NHÌN TỪ NHỮNG PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT

3.1. Xây dựng thành công những biểu tƣợng độc đáo về xê dịch

Biểu tƣợng là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn. Cho đến nay, vẫn

còn nhiều ý kiến bất đồng về vấn đề này. Việc đi tìm một định nghĩa thống

nhất hay một cách hiểu chung về biểu tƣợng cũng hoàn toàn không đơn giản.

Từ điển tiếng Việt đã đƣa ra ba nét nghĩa của biểu tƣợng, trong đó có

hai nét nghĩa liên quan đến biểu tƣợng trong văn học là: Hình ảnh sáng tạo

nghệ thuật có một ý nghĩa tượng trưng trừu tượng; Hình thức nhận thức cao

hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc tấu khi tác

động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt [2;88].

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, biểu tƣợng đƣợc định nghĩa nhƣ sau:

theo nghĩa rộng: biểu tƣợng thể hiện “đặc trƣng phản ánh cuộc sống bằng

hình tƣợng văn học nghệ thuật”, “bằng hình tƣợng, nghệ thuật sáng tạo ra

một thế giới hoàn toàn mang tính biểu tƣợng”; theo nghĩa hẹp: biểu tƣợng là

“một phƣơng thức chuyển mã của lời nói” hoặc là một loại hình tƣợng nghệ

thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát đƣợc bản chất của

một hiện tƣợng nào đó vừa thể hiện một quan niệm, một tƣ tƣởng hay một

triết lý sâu xa về con ngƣời và cuộc đời ”.

Nhƣ vậy theo nghĩa rộng biểu tƣợng là hình tƣợng đƣợc hiểu ở bình

diện ký hiệu gần gũi với tính ƣớc lệ trong văn học. Theo nghĩa hẹp biểu tƣợng

gần giống với ẩn dụ. Văn học là một hình thái ý thức xã hội đồng thời cũng là

một loại hình nghệ thuật đặc biệt sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dung hình

tƣợng biểu tƣợng, biểu tƣợng trong văn học không phải là sự sao chép chụp

ảnh hiện thực mà là một sự phản ánh đầy năng động sáng tạo, đầy tính chủ

quan của ngƣời nghệ sĩ. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ tìm hiểu, khám

phá những biểu tƣợng xê dịch trong sáng tác Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng.

82

Trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân bên cạnh hình tƣợng nhân

vật xê dịch là những biểu tƣợng thiên nhiên đồ vật, hành động, ngôn ngữ. Đó

là những mô tip nghệ thuật có ý nghĩa thẩm mĩ cao, đƣợc lặp lại nhƣng luôn

mang ý nghĩa mới. Qua đó, chúng ta có thể thấy đƣợc quan niệm suy nghĩ tâm

trạng về cuộc sống và nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

3.1.1. Biểu tượng thiên nhiên

Biểu tƣợng gió mƣa. Gió mƣa là những hiện tƣợng tự nhiên quan trọng

của sự sống. Trong những tác phẩm xê dịch, gió mƣa là hình tƣợng đƣợc nói

khá nhiều. Thiên nhiên đƣợc nhân cách hóa mang tâm trạng nhƣ con ngƣời.

Những cơn gió, các loại gió xuất hiện với tần số cao, phản ánh rất rõ tâm

trạng và suy nghĩ của Nguyễn Tuân về cuộc đời. Hình tƣợng gió đƣợc thể

hiện nhiều nhất trong Thiếu quê hương và Tùy bút Gió đã lên. Đấy là “những

cơn gió man rợ, hoang vắng, dữ dội đều gắn liền với cái tôi bế tắc, nổi loạn,

bất đắc chí của Nguyễn Tuân” (Phan Cự Đệ). Đó là những cơn gió heo may

cuối thu Hà Nội, nổi lên rất nhiều, chạy rì rào trên hè phố lạnh (Gió đã lên);

hoặc những cơn gió trên sông Mã chạy vù vù trong mƣa. Những cơn gió nổi

lên ngoài biển lớn cùng con tàu lênh đênh phiêu bạt bốn phƣơng trời. Rồi gió

Vàng Danh, gió Ai Lao, Cao Miên... Các loại gió cứ thế mà nổi lên, lùa mãi,

chạy hoài trong tùy bút Nguyễn Tuân. Đối với những ngƣời lấy sự đi làm mục

đích cuộc đời thì những cơn gió có một sức hấp dẫn kì lạ, khó có thể cƣỡng

lại đƣợc thấy gió đã khởi, ngƣời ta liền lên đƣờng.

Đối với Nguyễn Tuân, gió mƣa gắn với những ám ảnh, nhận thức của

cái tôi cá nhân về thân phận, về lẽ tồn tại và định mệnh.Trong con ngƣời tài

hoa bất đắc chí ấy trƣớc 1945, gió mƣa không chỉ mang cái sầu của thiên

nhiên mà còn mang cái não nề của tâm trạng con ngƣời. Gió mƣa - xƣa nay

vốn thƣờng gợi thiên nhiên thất thƣờng khắc nghiệt, phải chăng còn là biểu

tƣợng cho cuộc đời phong trần thích sự sống phong phú dãi dầu mƣa nắng,

không thể ngồi yên một chỗ, không chịu đƣợc sự an nhàn của các nhân vật xê

83

dịch. Gió mƣa cũng nói lên tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do; tính cách lập dị

khác ngƣời của lãng tử luôn thích chọn những lúc “đêm khuya, mƣa to gió

lớn” mà gõ cửa nhà bạn rủ đi chơi. Trong Thiếu quê hương, cảnh xứ Mƣờng

trong những ngày thu mƣa gió, lạnh giá, ẩm ƣớt và niềm khoan khoái của

Bạch khi trần mình trong đêm khuya lạnh nơi đất khách quê ngƣời. Hít thở

cái không gian tinh khiết giá lạnh của núi rừng càng làm cho tinh thần anh

khoan khoái, thỏa mãn. Gió mƣa còn gắn với tâm trạng buồn tủi của những kẻ

xê dịch sắp phải trở về chốn cũ: đêm nay không những gió mà còn mưa nữa...

Mưa trên mặt biển, mưa cả trong lòng người... Lắng mưa rơi như khóc, nhậm

nó với giọt thời gian cứ đều đều rút vợi mực nước đồng hồ, tôi đinh ninh tôi

đang là một triết nhân muốn tắt lửa lòng [1;376]. Mƣa chính là biểu tƣợng

của nỗi cô đơn buốt lạnh chán nản của ngƣời lãng tử phải kết thúc hành trình,

phải tạm biệt với những ngày lãng du mê mải nơi bến nƣớc Hồng Kông sôi

động phải trở về với những ngày tháng ngƣng đọng, tầm thƣờng, bế tắc.

Gió mƣa thƣờng đi với nhau, nhƣng có lúc gió chỉ xuất hiện một mình

và đƣợc nhà văn miêu tả tỉ mi, đầy ám ảnh, chứa chất tâm trạng cô đơn, buồn

nản của kẻ giang hồ: Đêm nay, tôi ngủ trên mặt sông. Gió sông rộng có cả

sức tò mò của một trận gió vàng. Mỗi đợt gió lọt vào khoang thuyền là một sự

tọc mạch đến chuyện riêng của lòng. Tôi trằn trọc, thèm muốn một tấm chăn

đơn [2;542]. Song song với cái Tôi ngày càng bế tắc, cái vẻ phóng túng của

những cơn gió lúc đầu dần mất đi, thay vào đó là những cơn gió u uẩn, luẩn

quẩn man rợ, hoang vắng, dữ dội thể hiện sự quẩn quanh, u uất, không lối

thoát của những con ngƣời “thiếu quê hƣơng”. Cái thứ gió tiền oan nghiệp

chƣớng ấy gây ấn tƣợng rất mạnh trong lòng ngƣời. Những cơn gió từ trên

cao rơi xuống thung lũng, không có chỗ thoát, cứ chạy quanh trong vực thẳm,

rền rĩ khóc than hút bụi than lên và tung vãi rộng những mảnh bụi sắc. Hay

cái gió trong mỏ làm não lòng người. Gió gì mà như khóc. Một người có tâm

bệnh, một người đàn bà góa trẻ, gặp luồng gió Vàng Danh này sẽ phải suy

84

tưởng nhiều trong thâm tâm...Gió tốc những tấm tôn mái nhà...Gió mỗi lúc

một thổi mạnh thì những con chó đều thất thanh và rống lên như bị bóp cổ

[2;814]. Phép nhân hóa độc đáo đã làm nổi bật thứ gió còn kinh buồn gấp

mấy mƣa, thứ gió thổi chết lòng ngƣời, rú mạnh, vỗ vào cửa hàng khàn khàn

mỗi cơn hai tiếng đồng hồ, cứ xoáy tít trên diện tích độ trăm mẫu, trông như

rồng đất lấy nước trên cạn và xoáy đến đâu thì nhổ cả rễ cỏ và lá khô đến

đấy. Có cả những thứ gió thật quái dị, kinh hoàng ào ào như cây ngàn thiêng

gặp tuần rung lộc...Những trận gió như được đánh xổng từ âm phần địa ngục

nào vụt bay lên để ai điếu một loài sinh vật bị lấp vùi trong hoàn cảnh tối tăm

[1;826]. Bút pháp và ngôn ngữ miêu tả của nhà văn thật sinh động, đã biểu

hiện hết đƣợc cái dữ dội, ghê rợn của những cơn gió vùng mỏ quay tròn trong

thung lũng. Những thứ gió vùng than bị níu quẩn trong vùng thung lũng đầy

núi non bao quanh chật hẹp, tối thấp. Nó muốn tìm con đƣờng vùng thoát bay

lên nhƣng không đƣợc nên nổi loạn, dữ dằn, muốn phá phách. Nó thúc giục

con ngƣời thoát khỏi những gì quẩn quanh, tù túng; kêu gọi khách lãng du

chống gậy lên đƣờng, từ bỏ cuộc sống chật hẹp để đến với những chân trời xa

rộng. Nhƣ vậy, nó là những cơn gió lòng, đánh thức dậy bản ngã, tâm sự của

những ngƣời đang phải sống trong cảnh nhẫn nhục, tẻ nhạt và vô vị: hễ bể

động, gió thổi như tát vào mặt tường gạch cây đèn bể là hắn lại mang cá khô

ra nướng nhắm rượu, vừa nhắm vừa khóc. Hắn bảo rằng thứ gió đó bắt hắn

phải khóc! Có những thứ gió thổi làm chết lòng người đấy [1;816]. Ngay cả

những lúc bế tắc nhất, trống rỗng nhất của cõi lòng, Nguyễn xem gió nhƣ

ngƣời bạn tri âm, chia sẻ, khỏa lấp nỗi buồn Gió biển giục tôi nghĩ đến một

việc gì nên làm ngay đi kẻo lại muộn mất [2;837]. Gió Vàng Danh kết hợp với

các thứ gió giang hồ tạo thành một hệ thống các hình tƣợng về gió trƣớc Cách

mạng của Nguyễn. Hình tƣợng những cơn gió biểu hiện một trạng thái mất

cân bằng, bế tắc, quẩn quanh; ít nhiều cho thấy cái tôi bất đắc chí, u uất,

85

không lối thoát và một thái độ từ chối, phá phách, nổi loạn của Nguyễn Tuân

đối với xã hội cũ.

Biểu tƣợng sông biển

Với khách lãng tử thì sông nước, con thuyền, con tàu, cánh buồm chính

là ngƣời bạn đồng hành đƣa con ngƣời đến nơi họ cần đến, muốn đến và tận

hƣởng cuộc sống du lãng. Trên trang sách xê dịch, sông biển con thuyền con

tàu xuất hiện rất nhiều gắn liền với những chuyến đi xa và biểu tƣợng cho ƣớc

mơ đƣợc lên đƣờng của ngƣời giang hồ. Đó là con tàu Kinh Châu “say rƣợu”

ở cảng Hải Phòng, với “khói đen đặc, lắc nhiều, tuôn mùi than đá nồng nặc

làm ngƣời ta có thể mửa đến mật xanh mật vàng” nhƣng lại khiến cho tâm

hồn ngƣời lãng tử thêm hƣng phấn, say sƣa. Tàu Doumer trên hành trình từ

Hƣơng Cảng trở về Hải Phòng “lắc mạnh theo chiều dọc. Sóng uốn khúc nhƣ

đội đƣợc tàu và dựng đứng đƣợc cả khối sắt nặng sáu ngàn tấn”, khiến ngƣời

ta say sóng. Nhƣng thật thú vị, hấp dẫn, không có gì đáng phàn nàn với

Nguyễn, bởi nó là biểu tƣợng của sự lên đƣờng và đƣợc ra đi. Những con tàu

biển gắn với ƣớc mơ đƣợc đi xa, đƣợc vƣợt biên giới. Tàu Compiègne đƣa

ngƣời bạn Sƣơng lên đƣờng; những con tàu nƣớc ngoài mà Bạch và các bạn

giang hồ của anh làm việc trên đó, nhƣ tàu Nhật Kiku Maru, tàu Nam Tƣ Nạp

Phu, tàu André Lebon, tàu Athes, tàu Aramis, tàu Hồng Cƣ, Hồng Lập... Khi

không đƣợc gắn bó với con tàu trong những chuyến đi thực, Bạch thả hồn

tƣởng tƣợng, phiêu du với hình ảnh con tàu trên mặt đại dƣơng xanh thẳm ở

tấm bìa lịch trong căn gác nhỏ phố Hàng Gai, cái tàu bể ba ống khói điểm

đốm trắng trên cái toàn khối xanh biếc, bể cũng xanh và trời cũng xanh. Quá

nửa đời ngƣời Bạch đã bị cái màu xanh này chi phối tâm và óc. Cái lòng thèm

khát trôi nổi gửi gắm hết vào cái nhìn chăm chú không chớp mắt, nhƣ xuất hết

cả tinh thần ra mà chú mục, nhìn nhƣ thôi miên khiến cái tàu bể đang chết

trên tấm bìa lịch bỗng dưng sống như một con tù thực, con tầu đang chạy trên

cái bìa lịch, đang chạy trên bức tường vôi, cũng cầy xuống sóng bể xanh, có

86

khói trắng [1;899]. Trong cơn mê khao khát đƣợc đi, căn phòng của Bạch

bỗng thành một cái ca bin tàu bể, tràn ngập mùi tanh của gió biển, mùi mặn

chát của muối, có cả tiếng chuông gọi thủy thủ và mọi ngƣời đi ăn cơm, gió

thổi trên khối nƣớc thiên vạn cổ trôi chảy không bao giờ mỏi mệt.

Trong tùy bút Cửa Đại, sông nƣớc lại gợi nỗi niềm hoài cổ, hoài niệm

về một cuộc sống êm đềm, quyến rũ trên sông nƣớc luôn vẫy gọi khám phá

trên mặt sông, thực là cái rừng cột thuyền buồm, mành ghe chi chít dây bèo

buồm, dây thừng. Bấy nhiêu nét đen sắc đều nhấp nhô lay động theo mực

nước thủy triều đang dâng lên rất mạnh [2;541]. Cảnh vật nhƣ thế sao mà

lòng không đam mê, mến yêu, thôi thúc bƣớc chân muốn mãi mãi được là một

lá buồm căng như thế, mỗi lúc có gió sớm nổi dọn đường cho một mặt trời

mới nhô lên sau ngấn nước bể Đông”[2;542]. Việc ngƣời lãng tử muốn sƣu

tầm những dãy bình nƣớc các dòng sông Tiền Đƣờng, Hằng Hà, Cửu Long,

Seine và mọi con sông lớn của hai Tân Cựu luc địa chính là biểu tƣợng cho

tâm hồn phóng khoáng, muốn đƣợc tan chảy vào thiên nhiên vĩnh hằng và

ham đi, mê đi cho thực nhiều của ngƣời nghệ sĩ.

Biểu tƣợng con đƣờng, sân ga, bến tàu

Trên bƣớc đƣờng xê dịch, cùng với tần số xuất hiện nhiều của những

cơn gió giang hồ, chúng ta thấy Nguyễn Tuân hay nói đến những con đƣờng

vô định gắn với những kẻ lữ hành không biết mệt mỏi. Những con đƣờng gắn

bó với những ngƣời mắc bệnh giang hồ nhƣ máu thịt. Không thể kể hết những

con đƣờng mà Nguyễn đã đi qua, có những con đƣờng vô định, phiếm định và

cả những cung đƣờng cụ thể. Đó là những con đƣờng cụ thể, quẩn quanh nhƣ:

Hà Nội – Thanh Hóa, Hà Nội – Hải Phòng, hay xa hơn nữa là Hà Nội –

Quảng Nam, Hà Nội – Sài Gòn - Lục tỉnh Nam Bộ. Hoặc những con đƣờng

trong tƣởng tƣợng sang tận Pháp, Hoa Kì, Tân Thế Giới, Ý Đại Lợi của ngƣời

lữ khách. Những con đƣờng bộ, đƣờng biển, đƣờng sông, đƣờng sắt, nhân vật

của Nguyễn Tuân cứ thế mặc sức dấn bƣớc. Khi đi đã trở thành lí tƣởng, triết

87

lí sống nên nhà văn nguyện nhƣ một trái bóng lăn mãi trên con đƣờng vô

định. Bất kể thứ đƣờng gì, xê dịch bằng cách nào cũng là niềm hạnh phúc lớn

lao, bất tận cho một tâm hồn cô đơn, quẩn quanh. Họ chỉ thèm muốn đƣợc đổi

chỗ, đƣợc rong ruổi trên con đƣờng hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng

chẳng có điểm kết thúc, một con đƣờng mà chính anh cũng chƣa xác định rõ.

Nhà văn đã mƣợn hình ảnh những con đƣờng để nói lên quan điểm của mình:

chƣa thụ phép giang hồ, chƣa đƣợc gió mƣa của khởi hành tẩm cho ít bụi bặm

thì không thể nói đƣợc những câu khôn, chƣa thể trƣởng thành. Phải chăng,

khát vọng xê dịch qua hình tƣợng những con đƣờng cũng là một cách nhà văn

muốn thoát li thực tại xã hội ngột ngạt, đen tối, mất chủ quyền đƣơng thời và

thể hiện niềm khao khát mong một con đƣờng đời mới, phóng khoáng, thênh

thang, tự do.

Sân ga, bến tàu cũng là những địa danh gắn với những hành trình đi về

không mệt mỏi của ngƣời nghệ sĩ giang hồ. Không phải là hình tƣợng sân ga,

bến nƣớc trong ca dao dân ca biểu tƣợng cho những cuộc chia li bịn rịn, lƣu

luyến; mà là địa điểm khởi đầu một chuyến đi, biểu tƣợng cho những chuyến

lên đƣờng đi xa. Đó là cảng Hải Phòng, bến nƣớc Hƣơng Cảng, thƣơng cảng

Marseille sầm uất lộng lẫy, bến cảng Cựu Kim Sơn tƣơi đẹp của nƣớc Mĩ, bến

cảng Điền Công – cái bến lao động, cảng than nghèo nàn lạc hậu của mỏ

Vàng Danh. Khi ƣớc mơ xê dịch bị dập tắt bởi bổn phận, nhân vật chỉ còn

một cách duy nhất để giảm bớt những khao khát giang hồ bằng cách ngày

ngày lê mình ra một cái bến nƣớc, nhìn nƣớc trôi xuôi, nhìn bèo dạt xuôi,

nhìn những cánh buồm xuôi ngƣợc và những làn khói than đá nhòe trên sông.

Các buổi chiều hôm, đến hàng nửa tháng, vào lúc tịch dƣơng, anh ra bến ga

xe lửa, mất cái vé vào cửa năm xu, nhƣng không phải đƣa tiễn hay chờ đón ai

đó, mà chỉ để chứng kiến một con tàu tốc hành đến hoặc để nhìn thiên hạ lên

đƣờng, tựa lưng vào cái cột sắt nhìn trời, nhìn khói, nhìn tất cả mặt người tay

xách nách mang, thẫn thờ nhìn tàu đi để dưỡng cái bệnh đổi chỗ [1;851]. Anh

88

ngắm say sƣa cảnh nhộn nhạo, vội vã, ầm ĩ và lầm tƣởng mình cũng đƣợc lên

đƣờng. Anh thuộc lòng thời gian xuất hành của từng chuyến tàu. Anh trở

thành một con ngƣời bí mật, kì dị, khó hiểu cho những khối óc tò mò nơi đây

suy đoán. Đúng là một bệnh nhân đau khổ của xê dịch! Bến sông, bến cảng,

nhà ga đã trở thành biểu tƣợng cho khát vọng lên đƣờng, đƣợc ra đi của ngƣời

lữ thứ.

3.1.2. Biểu tượng hành động, ngôn ngữ

Trong các tác phẩm xê dịch, Nguyễn Tuân hay lặp lại một số hành

động, ngôn ngữ. Đó là những hành động nhƣ chuẩn bị tƣ trang lau chùi, phơi

phóng hong khô vali hoặc mua vali quần áo, gậy ba toong, tẩu thuốc. Thậm

chí cả những hành động “rất tình cảm” đột xuất bất ngờ với vợ con nhƣ rủ họ

đi chụp hình, đi ăn tiệm khiến cho ngƣời vợ tội nghiệp ấy rƣng rƣng nƣớc

mắt, không phải vì hạnh phúc mà là đau khổ khi nhận ra dấu hiệu ông chồng

lãng tử lại sắp bỏ nhà đi. Lúc đó, họ có tâm trạng “vui lắm” khác hẳn với con

ngƣời ủ dột, rầu rĩ, buồn bã thƣờng ngày. Những hành động đó thật kinh

hoàng, khủng khiếp với những ngƣời thân. Nó báo hiệu cánh chim giang hồ

sắp cất cánh bay đi không hẹn ngày về sau những ngày nghỉ ngơi lại sức tại tổ

ấm, đã thấy cuồng chân, tê chân. Nó kéo họ khỏi vòng tay ngƣời thân, trƣớc

tiếng thở dài bất lực của cha già, trƣớc ánh mắt sợ hãi tuyệt vọng của ngƣời

vợ trẻ, tiếng khóc ré của đứa con thơ. Những hành động ấy đã chứng tỏ trong

cuộc đấu tranh nội tâm, niềm đam mê không gian và tiếng gọi cuộc sống tự

do đã thắng thế tình yêu gia đình. Con ngƣời lãng tử đã chiến thắng con ngƣời

bổn phận trách nhiệm. Những ngƣời thân đã quá quen với những hành động

sửa soạn, sắm sửa đồ đạc ấy để làm gì rồi, buồn bã tuyệt vọng vì không thể

nào giữ đƣợc cánh chim trời luôn khát khao bầu trời bao la và những chân trời

rộng ấy.

Những câu nói “Gió đã lên”, “nhổ neo” cũng mang đầy hàm nghĩa. Đó

là những lời thông báo đã lên đƣờng. Đây vốn là ngôn ngữ chuyên ngành

89

hàng hải. Gió đã nổi lên để ngƣời thủy thủ căng buồm vƣơn khơi; nhổ neo

báo hiệu con tàu sắp dời bến cảng, bắt đầu một hành trình mới trên mặt biển

tới các miền đất xa lạ. Những câu nói đó càng xoáy sâu vào tâm can đang

chán chƣờng, buồn nản vì phải ở lâu một chỗ. Chúng không chỉ đơn thuần là

những lời thông báo tin tức tình hình của bạn hữu, mà còn là lời mời mọc, kêu

gọi lên đƣờng đầy quyến rũ: Hãy từ bỏ tất cả những ràng buộc để đƣợc sống

với đam mê; cuộc đời thật hữu hạn, tuổi trẻ quá ngắn ngủi, sao không tận

dụng thời gian xƣơng cốt còn cứng cáp để lên đƣờng, để đƣợc sống thực sự là

mình và thỏa nỗi đam mê. Hãy sống một cuộc đời cháy hết những đam mê

trong gió bụi cho khỏi hoài phí một cuộc đời. Có thể nói, những hành động và

ngôn ngữ đặc thù đó đã làm nên nét hấp dẫn riêng và có thể trở thành điển

tích điển cố của trang văn xê dịch.

3.1.3. Biểu tượng sự vật, đồ vật

Với Nguyễn Tuân, cuộc sống là bể rộng và ngƣời nghệ sĩ là con thuyền

lênh đênh không có bến đậu. Ông đã từng quan niệm hạnh phúc có lẽ chỉ tìm

thấy ở những nhà ga và từng có niềm mong ƣớc giống Paul Morand: Ta chỉ

muốn sau khi chết đi có người thuộc da ta làm chiếc vali. Có lẽ chỉ có chiếc

vali mới có khả năng chở cả tâm hồn và ƣớc muốn của Nguyễn Tuân đi khắp

nhân gian. Cái tay nải, chiếc vali, tẩu thuốc lá, cây gậy ba toong, những vật kỉ

niệm nhƣ cái đồng hồ, quả địa cầu, cái “phong vũ y”, mấy hòn đá, cái máy đĩa

hát... đã trở thành những biểu tƣợng xê dịch thật sống động, độc đáo .

Cuộc đời ngƣời lãng tử giang hồ không thể thiếu chiếc vali để đựng

hành lí, vật dụng cá nhân. Đó là chiếc vali đặc biệt, có thật, theo Nguyễn sang

Hồng Kông đƣợc miêu tả rất kì công, tỉ mỉ: chiếc vali da cũ sờn, góc tuột hết

gần hết đường chỉ khâu, là người bạn gắn bó với cuộc sống giang hồ lạc

phách gần mười năm từ nơi này đến nơi nọ, bất cứ nơi đâu, là người bạn

trung thành chia xẻ cùng tôi mọi nỗi nhục nhã và phong lưu nơi lữ thứ

[1;349]. Trong Thiếu quê hương lại là chiếc vali của ngƣời bồi tàu biển từng

90

có quãng đời thú vị sống lênh đênh trên các đại dƣơng, bƣớc chân đặt tới

khắp năm châu. Cái vali là niềm hạnh phúc, tự hào của ngƣời lãng tử thì cũng

là vật vô cùng đáng ghét trong con mắt những ngƣời thân.

Chiếc vali đẹp, giá trị thì phải nhuốm màu bụi bặm của cuộc đời phong

trần, phải phơi mình trên đƣờng trƣờng nắng gió. Nó chỉ có giá trị thực sự khi

đã cũ, càng cũ càng tốt, càng chứng tỏ chủ nhân là ngƣời đi rất nhiều, từng

trải cuộc đời gió bụi: có những vật chỉ cũ đi thì mới có giá. Xách một cái vali

mới rất sạch lên tàu, tức là đã oan uổng góp một cái ngây thơ đáng tức cười

vào cảnh xô bồ phiền phức,... đem lại rất nhiều xấu hổ cho những đấng bôn

ba biết quý chút phẩm giá của giang hồ. Cái vali mới sẽ bị chê mùi da hăng

lắm, cần những trận gió đường trường thổi vào cho nhiều mới hả hết cái mùi

tanh nồng mới dùng được; bị chê màu da sáng quá, tươi quá, sạch quá, thiếu

mất cái đẹp của phong trần [2;587]. Quan niệm về cái Đẹp ở đây thật kì lạ!

Không phải là cái đẹp thẩm mĩ bắt mắt, cuốn hút bởi cái bề ngoài đẹp đẽ, sang

trọng, sạch sẽ, thơm tho; mà đẹp và giá trị bởi quá khứ lẫy lừng theo bƣớc

chân giang hồ lênh đênh. Thân nó đƣợc dán vô số những con tem thƣơng hiệu

của các khách sạn danh tiếng, các quốc gia chủ nhân của nó từng qua. Càng

nhiều những con tem, trên tem càng nhiều các thứ tiếng ngoại quốc thì chiếc

vali càng đáng giá, chủ nhân của nó càng đƣợc vị nể, kính trọng. Mỗi con tem

trên vali là một kỉ niệm vô giá, không gì có thể sánh bằng. Chiếc vali

Hartmann quý giá gặp nƣớc mặn lâu ngày cũng không bị han rỉ và cái lần da

hóa học phủ ngoài cũng không trƣơng không bở mủn ra; đóng kĩ lại rồi, có

vứt xuống hàng tháng nƣớc bên ngoài cũng không thấm đƣợc vào ruột trong.

Chiếc vali “hàng hiệu” giang hồ đã đem lại cho Bạch sự ngƣỡng mộ tôn kính

của tụi bồi tàu, đầu sai khách sạn những khi không còn đồng xu trong túi. Anh

có thể ăn ở tràn lan cả tháng ở khách sạn sang trọng Bắc Mĩ mà không ai dám

hỏi tiền buồng, tiền cơm rƣợu. Chỉ cần những cái nhãn giấy in xanh đỏ dán

chi chít là bạn bè giang hồ kiêng nể rồi, bởi nó là cả một kho địa dƣ chính trị

91

thế giới với tên các thủ đô, hải cảng lớn chỉ những ngƣời lang bạt kì hồ mới

cắp đƣợc về thôi. Chiếc vali Hartmann quý giá đó còn đƣợc nhà văn nhắc lại

một lần nữa trong tùy bút Một lá thư không gửi và là vật bất li thân của kẻ

giang hồ gắn cuộc đời với gió bụi. Nó trị giá không nhỏ: 450$, cao gần bằng

đầu người, mỗi khi dựng đứng nó lên là có một cái tủ áo. Ở trong đựng đủ

quần, áo, giầy mũ, cả mùa nóng và mùa lạnh. Thực là một vật đáng làm bạn

với kẻ giang hồ biết tự trọng [2;430]. Nó không chỉ là chứng cứ sót lại những

kỉ niệm của một thời phong trần tự do, tự tại mà còn là tài sản tinh thần to lớn

không vật chất gì sánh bằng, bởi tiền bạc không mua đƣợc thời gian và hành

trang kỉ niệm, bởi ở đời có những kỉ niệm vụn vặt mà ngƣời ta không thể sƣu

tầm lần thứ hai.

Bởi thế mà khi ngƣời thân vô tình lau chùi sạch sẽ chiếc vali cũ ngƣời

lãng tử sững sờ, điếng cả ngƣời, nhƣ điên nhƣ dại, đứng buồn thiu hàng nửa

giờ trƣớc cái vali giữa sân nắng chang chang rồi lịm dần ngƣời đi. Suốt mấy

ngày anh không ăn, không nói, không ngủ đƣợc vì đau khổ, tiếc nuối. Hành

động vô tình “ngu ngốc” đó có khác chăng đánh rơi xuống thềm hoa một cái

chén ngọc liệu, đạp tan một cái bình pha lê gọt [1;914]. Thế là hết, hỏng hết

giá trị của cái hòm giang hồ. Đã không đƣợc lên đƣờng lại còn mất đi những

cái nhãn giấy, cái vali đắt tiền kia trở thành đồ vứt đi, không còn giá trị gì

nữa. Nó đã trở thành chiếc vali tầm thƣờng, không có quá khứ, không còn dấu

tích kỉ niệm, không còn bằng chứng một cuộc đời phong trần trong sƣơng gió.

Bây giờ nó cũng giống nhƣ cuộc sống rời rạc, chán chƣờng, cuộc đời “vứt

đi”, vô nghĩa, “đời thừa”, mòn đi, cũ đi, rỉ ra của ngƣời lãng tử khi phải dừng

chân bên những bổn phận trách nhiệm với gia đình.

Chiếc tẩu thuốc cũng là một vật tùy thân không thể thiếu của ngƣời

lãng tử. Bạch có một bộ sƣu tập vô cùng phong phú quý giá những chiếc tẩu

thuốc những vật kỉ niệm cũ. Có rất nhiều loại: to, nhỏ, dài, ngắn, lục lăng, bát

giác, tròn vuông, bầu dục; bằng gỗ, bằng đất, bằng bọt bể; cái điếu Istamboul

92

1930 có hình vẽ đầu mĩ nhân Thổ Nhĩ Kì trùm khăn kín dung nhan. Cái quý

giá của tẩu thuốc không phải vì mới, chƣa sử dụng mà càng cũ càng quý, khổ

nhất cho một người hút điếu là bị thất lạc điếu cũ và bất đắc dĩ phải mua điếu

mới mà đền vào[1;779]. Là ngƣời cá tính, cách sử dụng điếu của Nguyễn

cũng thật cầu kì lắm công phu, phải tôi điếu bằng mỡ chó mỡ gà cho hết mùi

đất đi đã, rồi mới lăn thuốc phiện lên trên, phải luyện cho thuộc cái lòng điếu

gỗ bằng rƣợu mía mạnh, rƣợu nho nặng hoặc dầu ô lƣu. Những chiếc tẩu

thuốc không chỉ là vật tùy thân mà đã trở thành ngƣời bạn tri kỉ đầy thâm tình

của ngƣời giang hồ. Nó còn làm thức gợi kỉ niệm của ngƣời lữ thứ khi giấc

mộng giang hồ giang dở: lắm lúc phải nằm meo ở nhà, buồn đem cái điếu cũ

ra hút, tự dưng thấy thương, thấy nhớ một cách xa xôi. Nhớ một căn phòng

trọ. Nhớ một mốc đá ở bến. Nhớ một cơn gió. Nhớ một trận mưa giữa trời.

Mỗi một giọt nước bọt chảy vào ruột điếu... là cả một tiếng nấc của người lữ

khách mạt lộ bị nằm bệt trệ lại một nơi [1;780].

Những con tem thƣ, đặc biệt cái “mẩu giấy dây thép xanh xanh” (điện

báo) – những vật tƣởng chừng vớ vẩn, nhỏ bé, vặt vãnh thế mà cũng trở thành

những biểu tƣợng độc đáo cho đam mê mãnh liệt của những kẻ giang hồ. Tờ

giấy dây thép màu xanh da trời do ngƣời phu trạm đƣa đến, đến báo những

chuyến đi của bạn bè ở khắp nơi. Nhƣng nó cũng là kẻ thù của hạnh phúc gia

đình. Không phải là vì sự xuất hiện của một ngƣời thứ ba trẻ trung, xinh đẹp,

khiêu gợi, quyến rũ làm đắm say trái tim mà chỉ là một bức điện tín xuất hiện

bất thình lình trong hạnh phúc mong manh. Bao giờ cũng thế, nó cứ xuất hiện

khi ngƣời lãng tử đang dần lấy lại đƣợc sự cân bằng trong tâm hồn, chấp nhận

xếp ƣớc mơ để vui vẻ trở lại bên gia đình và thành thực muốn ở yên một chỗ

để tính liệu một công việc gì chắc chắn. Ngƣời thân của họ thở phào, vui vẻ,

hạnh phúc vì tƣởng bệnh du lịch đã khỏi hẳn. Nhƣng “ngày vui ngắn chẳng

tày gang”, phải chăng vì cái gì đẹp vốn không thực, ít bền vững, không đậu

đƣợc lâu, và “tai họa” lại ập xuống xáo trộn gia đình chỉ vì một tờ giấy dây

93

thép nhỏ bé mỏng manh! Một hòn đá ném đánh độp đúng vào giữa một cái tổ

chim đang ríu rít. Con chim đực lại bay đi mất. Đi mà không báo đi đâu, bao

giờ về, mặc cho ngƣời ở nhà chờ đợi vô vọng. Cái vòng cuộc sống luẩn quẩn

lặp đi lặp lại mãi của ngƣời lãng tử: yên ấm – tờ giấy xuất hiện - bỏ đi – trở về

- yên ấm- bỏ đi – trở về..., đến mấy chục lần nhƣ thế. Thật là tờ giấy có sức

thôi miên, lôi kéo con ngƣời đến ma mị. Nó làm cho ngƣời ta nhƣ mất đi lí trí,

quên đi tất thảy cuộc sống êm đềm hiện tại, quên đi bổn phận trách nhiệm và

những cố gắng níu giữ bấy lâu nay của ngƣời thân. Nó khơi dậy, thổi bùng

niềm đam mê đang lụi tắt. Đồng thời nó cũng là nỗi kinh hoàng khiếp sợ với

ngƣời thân đến bé con cũng biết khóc òa lên khi ngƣời phắc tơ già ấy tiến vào

nhà. Nó mang đến niềm vui hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống cho ngƣời lãng tử

bao nhiêu thì cũng mang lại bất hạnh, chán chƣờng với ngƣời thân bấy nhiêu.

Tờ điện báo là biểu tƣợng hạnh phúc của ngƣời nghệ sĩ giang hồ thì cũng là

niềm đau, bi kịch cho ngƣời thân của họ.

Những hòn cuội, những tảng đá tai mèo cũng là những kỉ niệm cũ quý

giá ngƣời lãng tử nhặt ở dọc đƣờng trong mỗi chuyến đi xa, nay đã đƣợc đặt

trang trọng trên mặt tủ sách nơi gác trọ phố Hàng Gai. Mỗi hòn là một kỉ

niệm của quãng đời giang hồ sƣơng gió: Cái hòn óng ánh như kim sa ấy nhặt

được ở đảo Sicile khi theo tàu đánh cá ở Địa Trung Hải. Còn hòn trắng là

bạch thạch ở ven biển cổ Hi Lạp [1;786]. Mỗi hòn đá đánh dấu bƣớc chân

giang hồ đã lƣu dấu trên những miền đất xa lạ, là những kỉ vật vô giá mà con

ngƣời ta khó có lại đƣợc lần thứ hai.

Nhƣ vậy, dƣới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, những hình ảnh biểu

tƣợng trong các tác phẩm xê dịch hiện lên thật sống động, đƣợc lặp lại nhiều

lần có chủ đích. Những vật nhỏ bé, tƣởng nhƣ vứt đi nhƣng có giá trị biểu

trƣng sâu sắc. Chúng không chỉ gắn bó, hoàn thiện thêm chân dung của ngƣời

lãng tử mà còn nói lên khát vọng đam mê chân chính của một ngƣời dám sống

mãnh liệt với con ngƣời thực của chính mình.

94

3.2. Sử dụng thể loại tùy bút

Từ điển mở Wiktionary đã định nghĩa về tùy bút: Tuỳ là tuỳ ý, bút là

cây viết. Tuỳ bút là viết tuỳ thích theo ý thích của mình, không có chủ đề gì

cả, thường là miêu tả cảm xúc của tác giả về vấn đề gì đó. Tùy bút thuộc thể

kí ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp

với việc phản ánh thực tế khách quan. Trong Từ điển văn học – NXB Thế

giới 2004, tác giả Nguyễn Xuân Nam định nghĩa: Thể loại văn xuôi phát sinh

từ thể loại kí, gần với bút kí, nhưng cách viết tự do, tùy hứng hơn nhiều. Nhà

văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng, có thể nói từ việc này sang việc khác,

từ liên tưởng này sang liên tưởng kia...để bộc lộ những cảm xúc, những tâm

tình, phát biểu những suy nghĩ, nhận xét về con người và cuộc đời [19;1888].

Nhƣ vậy, về đặc trƣng thể loại, tùy bút là một dạng có tính chất trung

gian, vừa có tính chất kí (ghi chép), vừa có chất thơ (trữ tình), vừa mang màu

sắc triết học trong tƣ duy. Đây là một thể văn tƣơng đối tự do, tùy hứng,

phóng túng, thể hiện đƣợc bản ngã nhà văn gần nhƣ thơ trữ tình. Nguyên tắc

kết cấu của tùy bút là vừa tán, vừa tụ. Bề mặt thì tản mạn, lắp ghép, chắp vá,

“đầu Ngô mình Sở”. Bề sâu thì nhất quán về ý nghĩa, tƣ tƣởng, chủ đề, tạo

nên trục nội dung xuyên suốt tác phẩm. Tuỳ bút đƣợc sáng tác theo tâm trạng

của nhà văn, giúp nhà văn bộc lộ cảm xúc cá nhân. Ngƣời viết tùy bút tài hoa

thƣờng có trƣờng liên tƣởng phong phú, vừa biến hóa, vừa thống nhất. Thể

văn xuôi rất mềm mại này nhà văn không cần nhân vật, cốt truyện, chỉ đứng

ra mà kể, mà tả trƣớc bạn đọc. Nhƣng tùy bút cũng là một thể rất khó, nếu

ngƣời viết không đủ bản lĩnh tác phẩm rất dễ rơi vào nhàm chán, lủng củng.

Sự việc đƣợc lọc qua cảm hứng chủ quan của nhà văn nhƣng vẫn phải chân thực.

3.2.1. Nguyễn Tuân gắn bó với thể loại tùy bút

Nhà phê bình Vƣơng Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân: Tên tuổi còn

mãi với thể tùy bút (Tạp chí văn học, số 6/1997), cũng đã khẳng định phong

cách độc đáo, đặc trƣng của tùy bút Nguyễn Tuân: Trước sau Nguyễn Tuân

95

sống chết với tùy bút. Một người đọc bình thường cũng dễ dàng cảm thấy

rằng những tùy bút của ông có một khí hậu riêng, ở đó có một giọng điệu bao

trùm, khiến nhiều bài viết, bịt tên tác giả đi, người ta vẫn biết chắc trừ phi

ông Nguyễn ra, không ai viết nổi. Tác giả còn nhấn mạnh, tùy bút là thể văn

có mầm mống từ xƣa nhƣng công đầu vẫn thuộc về Nguyễn Tuân. Ông là

ngƣời khai sơn phá thạch cho thể tài này và rất gắn bó với tùy bút, ông hóa

thân vào tùy bút, viết gì cũng ra tùy bút, tùy bút là một phần trong cuộc đời

của nhà văn.

Tìm đến với tùy bút cũng là con đƣờng tất yếu của cá tính và phong

cách Nguyễn Tuân. Dƣờng nhƣ ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự

tự do phóng khoáng và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Có

rất nhiều nhà văn viết tùy bút nhƣ Xuân Diệu, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Vũ

Bằng... nhƣng không phải ai cũng gắn bó cả đời và rất thành công nhƣ

Nguyễn Tuân. Nhắc tới thể loại tùy bút là ngƣời ta nghĩ đến Nguyễn Tuân,

nói đến Nguyễn Tuân là ngƣời ta nhắc đến tùy bút. Tuỳ bút khiến văn chƣơng

Nguyễn Tuân thăng hoa và ông khiến cho tuỳ bút trở nên đặc sắc. Viết một

bài tùy bút hay không quá khó nhƣng để viết nhƣ một sở trƣờng, thủy chung

gắn bó suốt đời và đam mê chỉ có Nguyễn Tuân. Trong tay ông, tùy bút đã đạt

đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống đồng thời cũng bộc

lộ một cái tôi tài hoa, uyên bác. Tùy bút Nguyễn Tuân có tính chất hƣớng nội,

thể hiện cái tôi khinh bạc, kiêu kì. Cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai

bắt chƣớc đƣợc của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến

thần tình của giọng điệu văn chƣơng. Có nhiều chi tiết tƣởng rất bình thƣờng

nhƣng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm

hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những triết lý có chiều sâu, nhà văn

đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tƣởng mới lạ. Qua các

thiên tùy bút, con ngƣời nhà văn có dịp hiện ra rõ rệt và để lại ấn tƣợng đậm

đà trong tâm trí bạn đọc. Nếu nhƣ chỉ đọc Vang bóng một thời ngƣời ta dễ

96

tƣởng tƣợng Nguyễn Tuân là một tín đồ hết sức trung thành với chủ nghĩa

truyền thống. Song đến các tùy bút, thì ngƣợc lại, ta bắt gặp ở nhà văn một

khuôn mặt thật hiện đại và phải nói là ông đã đi tới cùng của những biểu hiện

đáng gọi là hiện đại đƣơng thời. Vì vậy, tiếp xúc với tùy bút - nơi hội tụ tất cả

cá tính, tài năng của cái tôi Nguyễn Tuân, ngƣời đọc đƣợc đi từ ngạc nhiên

này đến ngạc nhiên khác, từ sự thú vị này đến thú vị khác. Có thể nói, sự gặp

gỡ của Nguyễn Tuân và thể loại tùy bút là một sự “đồng thanh tƣơng ứng,

đồng khí tƣơng cầu”, nhƣ một mối kỳ duyên và đằm thắm đi suốt hành trình

sáng tác.

3.2.2. Tùy bút thể hiện thành công đề tài xê dịch

Để diễn tả những xúc cảm miên man, mãnh liệt trên con đƣờng xê dịch

thì không thể loại nào phù hợp hơn với Nguyễn Tuân hơn tùy bút. Ở đề tài

này, dù nhà văn sử dụng nhiều thể loại từ truyện ngắn, truyện vừa cho đến

tiểu thuyết thì hơi hƣớng tuỳ bút vẫn còn in dấu rất đậm. Tiểu thuyết, truyện

ngắn của Nguyễn Tuân hầu nhƣ không có cốt truyện, kết cấu lỏng lẻo, chỉ

toàn là những chuyện tản mạn ngƣời nghệ sĩ ghi lại những gì ấn tƣợng đối với

mình, nhân vật là sự phân thân của tác giả với những cảm xúc triền miên,

mang đậm yếu tố chủ quan. Thiếu quê hương, mang hình thức của tiểu thuyết,

có các chƣơng (33 chƣơng), có nhân vật, có đối thoại. Nhƣng đặc trƣng cơ

bản nhất của tiểu thuyết là phải có cốt truyện chặt chẽ, có xung đột biến cố, kể

về số phận nhân vật, thì Thiếu quê hương lại không có. Tác phẩm kể về anh

chàng có máu giang hồ với những khao khát đƣợc lăn thân trên những đƣờng

trƣờng nhƣ hòn đá lăn không bao giờ ngừng nghỉ, với niềm vui đƣợc đi xa và

nỗi buồn chán đau khổ vì phải dừng lại. Những mẩu chuyện trong tác phẩm

tản mạn, chỉ liên quan đến Bạch. Các nhân vật khác nhƣ Hồ, Sƣơng, Phái,

Tần, Hòa, Dung không có nhiều vai trò trong tác phẩm. Truyện chỉ đi sâu

khắc họa những dòng cảm xúc miên man của Bạch mà thôi. Bằng tầm văn

hóa sâu rộng có sự kết tinh văn hóa đông tây kim cổ, với quan niệm lấy văn

97

chƣơng làm lẽ sống, Nguyễn Tuân chơi một lối tùy bút độc tấu, khơi dậy

trong lòng ngƣời hứng thú tìm tòi, khám phá những nét đẹp cuộc sống giang

hồ. Nhà phê bình Phan Ngọc cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn đầu tiên tạo

ra kĩ thuật viết văn trong văn học.

PGS.TS Hà Văn Đức trong bài Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách

mạng Tháng Tám (in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách

mạng Tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996) đã đƣa ra nhiều

đánh giá sâu sắc về những đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại:

Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, ta nhận thấy cái “tôi” bản ngã được thể hiện một

cách rõ nét. Các nhân vật trong tùy bút của ông dù “tên gọi khác nhau”

nhưng thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả. Tùy bút

Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc trước hết bởi những trang viết chân thực với

lượng thông tin phong phú, đa dạng, chính xác. Đặc sắc của tùy bút Nguyễn

Tuân chính là giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao, chất trữ tình đậm đà

đƣợc kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo với những liên tƣởng phong phú, táo bạo,

bất ngờ. Lối hành văn, dẫn truyện hết sức tự nhiên, giàu hình tƣợng và đầy

chất thơ. Nhà văn sử dụng mặt mạnh của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau:

âm nhạc, hội họa, điện ảnh... để làm tăng thêm khả năng biểu hiện của văn

chƣơng.

Hình tƣợng cái tôi giang hồ đƣợc thể hiện một cách trọn vẹn nhất trong

tùy bút khi nhà văn thể hiện chân dung chính mình một cách toàn diện.

Nguyễn đã lấy chính bản thân làm tƣ liệu, làm nhân vật chính. Rất dễ nhận ra

là ông chỉ viết về chính những gì ông đã trải qua. Khác với các nhà văn khác,

sống và viết luôn khác biệt, viết luôn là sự hƣ cấu tƣởng tƣợng, còn Nguyễn

Tuân đã mang chính cuộc sống của mình đang thể nghiệm vào luôn các trang

viết; sống, trải nghiệm rồi mới viết. Đọc những bài trong Tuỳ bút I, Tuỳ bút II,

Một chuyến đi, Thiếu quê hương… ta thấy ngay đó là tự truyện của Nguyễn

Tuân. Ngƣời ta không những biết ông gia cảnh thế này, dòng dõi thế kia, vợ

98

con ra sao, suy nghĩ thế nào, mà còn đƣợc biết thói quen hút thuốc rất nhiều

và gu đọc sách (văn chƣơng và du lịch) của ông ; sở thích lang thang đi bộ

trên các đƣờng phố Hà Nội (Một lữ khách giữa thành phố chúng ta – Tùy bút

I) và lối sống thình lình bỏ đi chơi xa dông dài. Thậm chí còn đƣợc biết ông

làm thêm một cái nhà, có một gian phòng thế giới riêng trên phố, hoặc đam

mê xê dịch đến đau khổ, thành tâm bệnh. Một con ngƣời “ngông ngạo”,

không muốn gánh trên vai mình bổn phận trách nhiệm, sống vƣợt lên trên thói

thƣờng đạo lí truyền thống gia đình. Không thích “tu thân, tề gia”, cũng

không thích “trị quốc, bình thiên hạ” mà chỉ muốn sống đƣợc là chính mình,

dám sống chết với đam mê. Ông cũng dám phơi bày, thổ lộ cả tật xấu giang

hồ lãng tử của mình nhƣ có lúc chìm đắm vào cuộc sống trụy lạc bên bàn đèn

hồng phiến và thanh lâu. Nguyễn đã phơi bày tất cả con ngƣời thực - chân

dung ngƣời nghệ sĩ giang hồ tồn tại cả hai mặt tốt và xấu, tích cực và cực

đoan... Phải nói đây là cả một hƣớng đi táo bạo, độc đáo. Lối viết đi vào xây

dựng hình ảnh bản thân đã bị lên án ở phƣơng Tây từ trƣớc thế kỷ XIX.

Blaise Pascal (1623 – 1662), nhà toán học, vật lý, triết gia Cơ Đốc ngƣời Pháp

từng nói: “Cái tôi thật đáng ghét”. Liên hệ với thói quen giao tiếp khiêm tốn

của ngƣời phƣơng Đông, cái cách nói về bản thân không biết mệt ấy lại càng

khó coi, chƣớng mắt. Nguyễn Tuân lại tình nguyện đi vào vùng cấm ấy. M.E.

Montaigne (1533–1592) là một trong những nhà văn có ảnh hƣởng nhất của

thời kỳ Phục Hƣng Pháp, chắc không thể ngờ là câu ông viết trong Tiểu luận

“Tôi chính là chất liệu cho sách của tôi” lại đƣợc một nhà văn Việt thực hiện

một cách trọn vẹn. Sự độc đáo trong văn chƣơng ấy, Nguyễn Tuân phải dựa

trên một căn bản văn hoá vững chắc. Muốn học cách khai thác bản thân nhƣ

nhà văn không phải dễ, không phải ai cũng có thể làm đƣợc mà trƣớc tiên

phải có vốn sống từng trải thâm hậu và bản lĩnh, bản năng làm ngƣời nhạy

bén. Tuỳ bút của Nguyễn Tuân bộc lộ tận cùng, đầy đủ bản ngã con ngƣời

nhà văn, qua đó bóng dáng một thời đại một thế hệ vẫn hiện lên sống động.

99

Là ngƣời cá tính mạnh mẽ, tâm hồn nghệ sĩ khoáng đạt, Nguyễn Tuân

đã sử dụng thành công tùy bút – du kí phóng túng, lấy cái tôi của mình làm

nhân vật trung tâm, ghi lại cảm xúc tâm trạng cuộc sống lãng du, trôi nổi của

chính mình. Lối viết tùy bút cũng rất độc đáo: hƣớng nội và độc tấu “Lòng

kiêu căng của ta xui ta chỉ nên chơi có một lối độc tấu” (Nhà Nguyễn). Các

tác phẩm đều là các bức chân dung tự họa lớn nhỏ. Nhân vật chính đều phảng

phất bóng dáng, tâm tƣ, là sự khúc xạ của chính cái Tôi tác giả. Họ là những

con ngƣời tài hoa tài tử, nghệ sĩ giang hồ, yêu cuộc sống tự do, không hòa

đồng đƣợc với cuộc sống yên vị, tầm thƣờng, nhạt nhòa. Nếu cái đẹp tùy bút

Thạch Lam mang sắc thái thuần hậu, thì đến Nguyễn Tuân nó đi gần tới sự

bất cần đời, ngạo nghễ, phá cách. Nội dung tác phẩm chủ yếu là những cảm

nghĩ linh tinh, những mẩu chuyện không có ý nghĩa gì đáng kể, cũng chỉ xoay

quanh những vấn đề liên quan đến xê dịch nhƣ: niềm phấn khởi khi đƣợc lên

đƣờng, cái đau khổ trống trải khi bị bó chân ở nhà, niềm ganh tị khi thấy bạn

bè đi xa, tản mạn về những đồ vật gắn bó với ngƣời lãng tử và luận về cảnh

vật con ngƣời trên đƣờng lãng du...

Giọng điệu du kí cũng rất phong phú, đa dạng. Khi thì trang nghiêm, cổ

kính: phải, chúng ta là hạng người thèm sống, thèm đi, chúng ta là hạng

người đem cả một kiếp sống để phụng sự xê dịch [2; 420]. Lúc là giọng điệu

bông đùa dí dỏm khi nhân ra sự “bó tay”, “vô phƣơng cứu chữa” bệnh xê

dịch: Chứng này thuộc về tim và óc... Những vị thuốc rút ở những cái gì gọi

là thiêng liêng thuần túy của người đàn bà. Thí dụ, gạn được những giọt nước

mắt của người vị hôn thê rõ trẻ đẹp trên chiếc gối đầm, đem thả sương mùa

thu rồi cho uống. Hoặc là giọt nước mắt đặc, mặn, đầy mùi trách móc của

một bà cụ già đang tựa mình bên cửa củi khô, nhìn mặt trời trụt xuống cánh

đồng chiêm. Hoặc là giọt nước mắt loãng và ngây thơ của con trẻ ở trường

về, bi bô khi thấy trên thành mâm cơm gia đình có một đôi đũa thừa và một

chiếc bát đẹp bỏ không. Ấy cứ uống mấy vị đó, thì khỏi bệnh du lịch [2;421].

100

Khi thì lại thánh thót trầm bổng; khi thì xô bồ bừa bãi, khinh bạc nhƣng cũng

rất đỗi tài hoa trong miêu tả. Đó chính là nét đặc biệt của thể loại du kí của

Nguyễn Tuân, có sức lôi cuốn mạnh mẽ những tâm hồn ƣa phiêu lƣu mạo

hiểm.

3.2.3. Tùy bút xê dịch chứa đựng thông tin phong phú, đậm yếu tố tự sự

và giàu chất thơ

Tùy bút Nguyễn Tuân mang đậm tính chất kí, nghĩa là ghi chép sự thật

và khai thác sâu sắc tài tình hiện thực khách quan. Trong những sáng tác

chúng tôi thấy bức tranh đời sống lịch sử đƣơng thời không đƣợc rộng lớn,

nhƣng nhà văn đã đi sâu miêu tả khá sống động cuộc sống của lớp trí thức

thành thị. Họ đã sống nhƣ thế nào, tâm tƣ suy nghĩ ra sao, sự bế tắc tinh thần

tìm hƣớng thoát li và khát khao mong mỏi của họ. Những trang tả cảnh tài

tình sống động, cụ thể, đã mang nhiều tri thức cho bạn đọc: cảnh Hà Nội tập

phòng không hồi 1939 - 1945 (Những ngọn đèn xanh); cảnh đi thuyền trên

sông rồi men theo biển, ngƣợc từ Thanh Hoá ra các tỉnh đồng bằng sông

Hồng (Chiếc va ly mới); cảnh xê dịch trên tàu hỏa từ ga Hà Nội, qua các địa

danh nhƣ Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Nha Trang... vào đến tận ga Sài Gòn,

rồi lại xuôi xuống miền Tây (Một lần đi thăm nhau). Bức tranh khai thác mỏ

còn rất thô sơ, thủ công, vất vả, độc hại ở Vàng Danh, Uông Bí. Thiên nhiên

khắc nghiệt héo úa, một màu đen tang tóc của than bao trùm cảnh vật con

ngƣời. Sự hiểu biết tƣờng tận, tỉ mỉ về đƣờng sắt nƣớc ta lúc đó cũng khiến

cho ngƣời đọc khâm phục sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân: Đông

Dương thiết lộ rộng có một thước. Con đường xe lửa bên Tây và quốc tế mở

rộng những hai thước. Bởi nên tốc lực một giờ của nó có khi linh trăm cây số.

Của mình chỉ chạy đến sáu mươi là cùng... Một cây số thiết lộ không kể nhân

công, đá và đất đổ nền và tiền đất ruộng qua các làng có địa bạ, chỉ có sắt

thôi, phải mất hai vạn chín nghìn đồng...Từ Hà Nội vào Sài Gòn mất độ hơn

năm mươi triệu đồng bạc sắt [1;829]. Kiến thức về âm nhạc cũng thật đáng nể

101

khi chỉ nghe trên đài phát thanh mà ngƣời lãng tử đã phát hiện và nhận ra rất

rõ âm thanh của từng loại nhạc cụ: khúc hòa nhạc Trung Quôc hơi na ná cái

bài Nhì Voòng. Rồi đến một đoạn tấu nhị đi kèm với tiếng sênh [1;680]; điệu

hòa nhạc thấp hẳn xuống...và một bản đàn mới lạ du dương chen lẫn vào.

Bạch lắng kĩ, thấy rõ là đàn xứ Hạ Uy Di hòa kèm với những tiếng vi vút của

một thứ nhạc khí rú lên như gió ngàn dương liễu nơi bãi biển. Đúng là âm

nhạc Phi Luật Tân [1;681]. Hiểu biết phong phú của Nguyễn Tuân về ngành

hàng hải, về hành trình của các con tàu quốc tế trên các đại dƣơng Hồng Hải,

Hắc Hải, Địa Trung Hải, kênh Tô Di Sĩ: tàu Kiku Maru chạy đường Mạc xây

– Cận Đông, đi lối châu Mĩ, qua Đại Tây Dương, qua vận hà Panama, vào

Thái Bình Dương, ghé Cựu Kim Sơn sang Nhật [1;744]; tàu Empress of rời

bến Hương Cảng lúc chín giờ đêm; tàu Sphinx mỗi năm đi đường Cực Đông,

lại hai lần, đi và về, ghé bến Hương Cảng ăn than, ăn khách, ăn hàng

[1;680]... Với sự am hiểu này nhà văn đã lí giải cho chúng ta tại sao những

con tàu biển lại hay khởi hành vào lúc đêm khuya, khó khăn cho việc đƣa

tiễn: Tại sao tàu Compiègne khởi hành vào khoảng hai giờ rưỡi sáng đấy à?

Thưa ông, bởi vì mãi đến cái giờ ấy con nước thủy triều mới dâng lên, người

ta dễ nhổ neo, chỉ tháo nới nhẹ dây xích sắt gò tàu vào mốc bến là tàu dịch đít

được ngay. Thủy thủ dễ làm việc. Con tàu nhổ bến nhẹ nhõm hơn và hãng tàu

đỡ tổn phí dầu, than, mỡ [1;842]; Ngày kia mới gặp kì con nước, thuyền nhổ

neo mới nhẹ mũi nhẹ lái [2;600]. Những kiến thức về địa lí, về giờ quốc tế

của Nguyễn Tuân thật đáng nể đã mang đến cho bạn đọc nhiều hiểu biết bổ

ích: Hương Cảng và Hà Nội chênh nhau mất chín độ kinh tuyến, lùi về phía

đông, nghĩa là hai nơi chênh nhau đúng một giờ. Óc quan sát thấu đáo, cộng

với thói quen cái gì cũng muốn biết tƣờng tận, cộng với thói quen thích thống

kê, thích đếm, thích nói đến số lƣợng khiến cho văn phẩm xê dịch Nguyễn

Tuân đôi khi còn mang tính tƣ liệu khảo cứu, cung cấp khá nhiều thông tin

102

cần thiết. Đây vốn là một đặc tính còn hạn chế trong các tác phẩm văn học

ngày nay.

Tùy bút Nguyễn Tuân còn mang đậm yếu tố tự sự, có cốt truyện, nhân

vật. Trong một chừng mực nào đấy, nhà văn còn miêu tả tâm lí, khắc họa tính

cách nhân vật, tạo nên những cảnh, những cốt truyện đơn giản. Ở đây ta thấy

có sự giao hòa thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố thể loại trong phong cách

nghệ thuật Nguyễn Tuân. Giọng điệu thƣờng là giọng kể lịch lãm, bút pháp

trữ tình đậm đà; đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhƣng vẫn đảm bảo độ mãnh

liệt của cảm xúc và tầm cao tƣ tƣởng bằng rất nhiều từng trải. Ông dùng nhiều

tƣởng tƣợng để dựng cảnh, dựng truyện; có cả miêu tả tâm lí, suy nghĩ, hành

động và phần nào cho thấy tính cách các nhân vật. Tâm trạng phức tạp của

các nhân vật xê dịch đã để lại ấn tƣợng khó quên trong lòng ngƣời đọc, điều

này rất hiếm gặp trong các sáng tác tuỳ bút của những nhà văn khác. Du kí

Một chuyến đi đã thể hiện một đặc điểm nổi bật đó là chất truyện trong cách

viết tùy bút Nguyễn Tuân. Ngay mở đầu tác phẩm, mấy trang đề từ đã kể về

gen giang hồ của dòng họ từ đời ông nội, cha Nguyễn Tuân truyền lại. Mỗi

mẩu chuyện trong tập du kí có thể coi là một truyện ngắn tự truyện về chuyến

đi xuất ngoại của nhà văn. Chuyện về những sự kiện đã xảy ra, về những tài

tử trong đoàn làm phim, về cuộc sống sinh hoạt của đám tài tử cũng nhƣ cuộc

sống ăn chơi xa hoa, vƣơng giả, tiêu tiền nhƣ rác ở Hồng Kông (Một con tàu

say rượu; Hoa, ánh sáng, nước; Một buổi chiều lưu đãng; Ba ván cờ tướng ở

Lê Viên Sơn, Một ngày một đêm cuối năm...). Đặc biệt câu chuyện về các cô

gái giang hồ đƣợc ghi chép rất sống động trong phần Ấn tín của người con gái

tỉnh Việt, về ngƣời kĩ nữ Cúc Tiểu Muội với những giai thoại nổi tiếng. Đó là

một cô gái “đẹp, trẻ và ác”, có cuộc sống phức tạp với những tính cách riêng

độc đáo, vừa nâng niu chi chút cho cái đẹp, lại vừa tàn nhẫn. Nàng yêu từng

bông cúc, chăm chút cho vƣờn hoa thêm lộng lẫy nhƣng cũng sẵn sàng bắt

ngƣời hầu gái nhịn ăn quỳ cả ngày để nâng bông cúc mình vô tình đánh gãy.

103

Nàng chế riêng nƣớc hoa; yêu con mèo đen của mình nhƣng cũng sẵn sàng

tiêm thuốc “bí khoa” làm cho nó không lớn đƣợc, chỉ to bằng con chuột cống

thôi, đi đâu cô bỏ nó vào trong cái ví đầm. Chuyện về nàng Cúc Tiểu Muội

còn có phần huyền thoại, bí hiểm trong câu chuyện của ngƣời đạo diễn Hồng

Kông Hàn Vị Lâm, cô gái có nét cười gằn của người phụ nữ đau khổ; và dáng

đi đài các, một vẻ mặt băn khoăn... hợp với tính cách của người anh thư trong

phim của tôi lắm [1;368]. Nhƣ vậy, Một chuyến đi là một tùy bút du kí nhƣng

tác phẩm lại có cốt truyện, có lớp lang, có các nhân vật với những tính cách

riêng khó trộn lẫn.

Tùy bút Làm lại cuộc đời kể về sự nỗ lực thay đổi tính cách để làm lại

cuộc đời của “ba đứa con hoang thời đại” là Lƣu, Nguyễn, Hoàng - những nhà

văn trẻ, những thiếu niên trí thức cùng mắc chung bệnh ham đi. Họ đã từng

thề từ bỏ cuộc sống lông bông, lộn xộn và thiết tha làm ngƣời đứng đắn; đều

cảm thấy cái khổ của cuộc đời không có tổ chức nên mới nguyện cùng nhau

làm lại cuộc đời. Nhƣng lời hứa đó không giữ đƣợc bao lâu, sóng ngầm vẫn

nổi dậy trong lòng ba đứa trẻ, họ lại đi. Họ là những con ngựa tù chân trong

tàu cỏ khô, vẫn nhớ màu xanh non chỗ rìa đường dài thăm thẳm. Bây giờ nó

muốn bất chấp cả cương lẫn vế, nhất định đòi bong trên đường cũ [1;438].

Cái cách đi cũng đột ngột bất ngờ, rất nghệ sĩ: đi lúc trời nổi giông gió, sấm

chớp, mƣa rào; lúc “trời gió bão, đèn đƣờng tắt, đƣờng ngập”. Tùy bút này đã

ghi lại những khoảnh khắc, những mảnh đời của ba chàng thanh niên lập dị

với lối sống tự do; muốn làm lại cuộc đời cho đứng đắn nhƣng vô vọng bởi

“giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Những câu chuyện đi, cách đi kì quặc và

những khủng hoảng tâm hồn của ba chàng “nhầm sinh thế kỉ” hiện lên thật

sinh động.

Tùy bút Chảy, Những ngày nhạt nhẽo, Về quê, Phong vị tỉnh xép,...là tự

truyện về những ngày tháng buồn bã của nhân vật “tôi”, muốn giải thoát khỏi

những tháng ngày bi kịch bằng sự ra đi. Mỗi tùy bút là một câu chuyện, một

104

nét buồn riêng, đau khổ riêng, tâm trạng riêng, không cái nào giống cái nào.

Những dòng nội tâm miên man đó dƣới ngòi bút sáng tạo tài hoa của Nguyễn

Tuân thực sự là những mẩu tự chuyện hấp dẫn ngƣời đọc, giúp chúng ta hiểu

hơn về thế giới tinh thần và đời sống nội tâm của nhà văn trƣớc Cách mạng.

Tùy bút Cửa Đại không chỉ là những trang viết nên thơ, trữ tình mà nhà

văn còn thêm vào đó một vài câu chuyện gia đình, về một vài chân dung ông

gặp trên hành trình, khiến cảnh sơn thủy hữu tình kia không chỉ là đối tƣợng

trung tâm miêu tả mà trở thành một phần của cuộc sống trong chuyến lãng du.

Các tùy bút Được ốm, Những ngày ở Thanh Hóa, Chiếc vali mới... có nhiều

sắc thái riêng tƣ với những mẩu chuyện vụn vặt về cuộc sống gia đình ở

Thanh Hóa, chuyện mất đứa con trai nhỏ...cũng giúp chúng ta thấy rõ hơn nội

tâm phức tạp và ham mê mãnh liệt cuộc sống lang bạt của nhà văn. Nhƣ vậy,

có thể thấy yếu tố truyện đã xâm nhập khá rõ nét trong các tùy bút xê dịch.

Nhờ yếu tố này những trang tùy bút trở nên hấp dẫn hơn, tránh gây ra sự tản

mạn, nhàm chán, đơn điệu bởi những cảm xúc chủ quan và yếu tố truyện cũng

tạo nên một gƣơng mặt tùy bút riêng độc đáo kiểu Nguyễn Tuân.

Tùy bút du kí của ông còn mang đậm yếu tố trữ tình và giàu chất thơ

đƣợc toát lên từ những bức tranh phong cảnh thiên nhiên dọc hành trình, nhƣ:

nắng đào xứ Pháp lả lơi trên những ruộng lúa mì và trên những khoảnh đất

trồng nho đỏ[1;936]. Những bức tranh thiên nhiên phong phú của đất nƣớc

hiện lên sống động nhƣ: cảnh vùng mỏ, vùng biển, cảnh xứ Mƣờng; cảnh xê

dịch đƣờng trƣờng trong mƣa gió dữ dội lạnh lẽo; cảnh vật thiên nhiên dọc

đƣờng thiên lí Bắc Nam; cảnh gió, cát, nắng dữ dội ở miền đất khắc nghiệt

Quảng Bình, Quảng Trị; cảnh mƣa triền miên khiến Huế nhƣ một cô gái đa

sầu đa cảm “nàng sùi sụt”; cảnh “thập nhị hải khẩu” Cửa Đại; cảnh đi tàu

thuyền trên biển... Chất trữ tình còn toát lên từ cái mộc mạc, lam lũ, vất vả,

khốn khó của những con ngƣời lao động ở những miền quê mà ông bắt gặp

(Cửa Đại, Chiếc vali mới...); và từ những suy tƣ, cảm nghĩ, tự vấn phức tạp

105

nhƣng trung thực, thẳng thắn của nhà văn đƣợc giãi bày trực tiếp. Chất trữ

tình còn ở giọng điệu kể chuyện, có nhiều trang tùy bút giọng văn rất chậm

rãi, nhẹ nhàng, lắng sâu, khơi gợi lên những rung động sâu xa của ngƣời đọc

về đất nƣớc, quê hƣơng (Cửa Đại). Tình cảm của ông đƣợc bộc lộ chân thành,

có khi lặng lẽ thấm thía và nhiều khi trào dâng dạt dào trƣớc những bức tranh

con ngƣời và cuộc sống. PGS.TS Hà Văn Đức cho rằng: tình cảm trong tùy

bút Nguyễn Tuân trước Cách mạng thường buồn, phản ánh tâm trạng bức

bối, chán chường của tác giả trước cuộc đời tẻ nhạt [2;140]. Cái tài kể

chuyện của ông cũng rất vui, hóm hỉnh, tự nhiên nhƣ ngƣời nói chuyện. Ông

trò chuyện với bạn đọc một cách thoải mái, thân tình, có khi điềm đạm nhƣng

rất thẳng thắn; những tri thức tƣởng nhƣ vụn vặt, linh tinh nhƣng bổ ích và

thú vị.

Tuy nhiên, sự độc tôn của thể loại tuỳ bút vừa là cái lợi khẳng định sở

trƣờng và sự thành công của nhà văn nhƣng đồng thời cũng khiến cho tính

cách nhân vật trong các sáng tác của ông đơn giản, đơn điệu, ít vận động,

thiếu sự biến hóa đa dạng. Họ là nhân vật tƣ tƣởng, có phát triển chăng nữa

cũng chỉ là những biến dạng của nhân vật trung tâm chàng Nguyễn. Họ là nơi

nhà văn gửi gắm những suy nghĩ, tâm trạng của chính mình và qua đó phơi

bày những lạc thú vốn đã đƣợc nâng lên nhƣ một biểu tƣợng của thẩm mỹ,

của cái đẹp.

3.3. Lối hành văn tài hoa, uyên bác

Xƣa nay Nguyễn Tuân vốn nổi tiếng là “cái định nghĩa về ngƣời nghệ

sĩ tài hoa”. Với ông, văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng, nghệ thuật

trƣớc hết phải là nghệ thuật. Tác phẩm phải đƣợc viết bằng tinh thần lao động

nghệ thuật nghiêm túc, phải đƣợc trau chuốt, gọt rũa ngôn ngữ câu văn một

cách tỉ mẩn. Cách diễn đạt phải độc đáo, khác lạ, tài hoa, phải để lại ấn tƣợng

sâu đậm. Ý kiến của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan thật chính xác khi cho

rằng chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn

106

Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Văn của Nguyễn

không thể đọc theo kiểu lật từng trang để lƣớt đi cốt nắm lấy cái cốt truyện;

cũng không dành cho ngƣời hời hợt, nóng vội, tìm sách để thƣ giãn, xoa dịu

căng thẳng rồi quên ngay. Đây là thứ văn cho ngƣời đọc chậm, đọc khám phá

thƣởng thức, đọc lúc nhàn rỗi, rồi ngẫm nghĩ, đọc phải tập trung và có văn

hóa đọc. Trong những tác phẩm xê dịch ông không chú trọng xây dựng những

tình tiết, biến cố căng thẳng dữ dội, tình huống có tính chất bƣớc ngoặt mà

thƣờng tập trung diễn tả bức tranh thiên nhiên cảnh vật, diễn biến nội tâm của

nhân vật.

Nguyễn Tuân nổi tiếng về cách hành văn độc đáo. Ông là nhà văn lãng

mạn nhƣng không phải lãng mạn kiểu Tự lực văn đoàn, vì ông ở giai đoạn

cuối bế tắc nên có xu hƣớng thoát li vào cuộc sống giang hồ. Nhà văn có

những cách diễn đạt so sánh ví von rất độc đáo nhƣng chính xác và để lại ấn

tƣợng thật tài hoa khi dùng những hình ảnh thật dễ liên tƣởng. Để làm nổi bật

nỗi đau khổ của nhân vật xê dịch khi cái vali quý bị bóc hết những vết tích

giang hồ tem giấy xanh đỏ, ông viết: Anh tiếc những nhãn in này không khác

một nhà khảo cổ học tiếc một đồng tiền rỉ thất lạc sau khi tìm được trong ngôi

mộ cổ [2; 481]. Còn đây là tâm trạng buồn nản, chán chƣờng khi “gió đã lên”,

gió đã thổi mạnh mời gọi lên đƣờng mà chàng Nguyễn vẫn phải dậm chân tại

chỗ: Đã mấy tuần nay, tôi lười như một chàng tân lang say rượu đêm tân hôn,

tôi thẫn thờ như một gái góa nhìn cái bóng nắng chiều [2;460] và lòng chàng

chỉ là một bãi tha ma đang muốn nẻ sụt thêm một lỗ huyệt mới nữa để chôn

xuống đấy một chút kỉ niệm [1;880]. Quan niệm về thú vui xê dịch độc đáo,

khác ngƣời, muốn đƣợc đi mãi không bao giờ muốn dừng lại, luôn đƣợc khởi

hành đƣợc nhà văn minh họa cụ thể, ví von với những vận động viên đua xe

đƣờng trƣờng thật sống động: Trong cuộc thi đường trường cua rơ kia buồn

rầu một khi hắn đến được đích. Hắn sẽ không còn được hưởng sung sướng

của phú lấy gối và gò mình trên yên xe, rút vòng bánh. Hắn chỉ thấy thú vị khi

107

đích chỉ như một bóng ma đẹp dử hắn trên chiều dài đường đất. Đích càng lùi

sâu, hắn càng sống nhiều, sống gấp đôi, gấp ba, gấp trăm người khác để

gắng gỏi, để thèm muốn. Rồi có một phút kia, hắn tóm được trúng đích. Đấy,

chính trong lúc ấy là hắn lấy làm chán cho đời hắn lắm [2;417].

Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ khi sự vật

đƣợc miêu tả trong trƣờng liên tƣởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ.

Trong Một chuyến đi, chúng ta bắt gặp lối so sánh rất hình ảnh, vừa sống

động vừa ấn tƣợng: dãy đèn điện như một xâu đom đóm nằm im kia là Đồ

Sơn; Ánh sáng của Hồng Kông là ánh một kinh thành tự cháy bùng lên theo

điện học làm mờ mắt và nóng mặt những lữ khách chưa quen với sức sáng gắt

gỏng, lọc lõi và dữ dội này [1;248]. Nhà văn cũng cụ thể hóa những điều trừu

tƣợng khi miêu tả sự quyến rũ của các kĩ nữ giang hồ ở Hồng Kông: Tiếng

đâu mà trong như thủy tinh, ấm áp như hạnh phúc [1;261]. Lối mô tả cảnh vật

bằng những liên tƣởng chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, có khi từ cảm giác

chuyển sang tâm trạng. Cảnh vật thật sống động khi ông miêu tả sự khắc

nghiệt của thiên nhiên mƣa gió dữ dội trên con tàu biển: Gió khơi, nặng và

đặc như một khối lớn của tàn phá, có thể san bằng, đè bẹp mọi thành tù đồng

đá. Mưa lạnh bay theo một chiều nghiêng như cưa được lần da mặt [1;378];

Sóng uốn khúc như đội được tàu và dựng đứng được cả khối sắt nặng sáu

nghìn tấn[1;386]. Để nói cái tâm trạng phức tạp mệt mỏi chán chƣờng khi

không đƣợc xê dịch nữa, phải trở về quê nhà, Nguyễn cũng sử dụng hình ảnh

so sánh thật giàu liên tƣởng: Cả một buổi sáng nay, lòng tôi là một bàn thờ

khói đã lạnh, hương đã tàn. Mùi thơm du lịch đã hả hết rồi”[1;380]; Trong

khi đau khổ vì cảm thấy mình là một con chim đại bàng bị cắt cụt cánh, chỉ

còn có được đi một cách lạch bạch trên mặt đất chật, Bạch ra ga nhìn trò xê

dịch của xe lửa cho vợi lòng thèm, chàng có biết đâu mình đã là cả một đầu

đề cho sự tọc mạch của xung quanh [1;759]. Nguyễn Tuân miêu tả khúc giao

mùa của thiên nhiên từ hạ sang thu trong Cửa Đại thật độc đáo và ấn tƣợng:

108

Mùa hè đã tự diệt mình bằng ngọn lửa gay gắt [2;540]. Cảnh đêm trăng sáng

trên mặt sông Hội An với “rừng cột buồm” hiện lên thật lãng mạn thơ mộng

êm đềm tinh tế qua ngôn ngữ giàu hình ảnh và giọng điệu trữ tình êm dịu

mƣợt mà: Ánh trăng bị dầm tan trong lòng con sông mà nước ngọt đang bị bể

ngoài pha rót vào bao nhiêu là muối chát mặn [1;541]. Để nói cái đam mê đi

đã thành triết lí, nhà văn đã viết câu văn tài hoa thật mƣợt mà lắng đọng với

những hình ảnh ví von chính xác, gợi cảm: Nếu có luân hồi, được tái sinh, họ

cũng chỉ muốn có đi, làm một đời giang hồ nữa; nếu phải sinh làm kiếp chim,

thì chàng muốn kiếp chim ấy sống không cần làm tổ. Tổ của nó phải là cả một

cái bầu trời. Nếu phải làm con cá thì con cá ấy sẽ không phải ở riêng cái

hang của mình. Cũng như con chim bằng kia lấy mây và tất cả các đỉnh núi

làm nơi đi về không nhất định, con cá kình lấy đại dương làm địa bàn cho cái

kiếp bơi lội không cùng, chỗ nào là thế giới của nước thì cũng phải tìm đến

cho được [1;929].

Phong cảnh thiên nhiên, con ngƣời và phong tục đƣợc nhà văn miêu tả

cầu kì ấn tƣợng từng chi tiết và đặc biệt tài hoa không ai có thể bắt chƣớc.

Ông sử dụng triệt để phép tu từ so sánh, phƣơng thức biểu đạt miêu tả và biểu

cảm để gợi lên cụ thể tỉ mỉ chi tiết cảnh vật và con ngƣời. Vùng mỏ Vàng

Danh thung lũng tang tóc một màu đen, vì bụi than bao trùm cả một không

gian thiên nhiên đầy nắng gió khắc nghiệt đƣợc nhà văn ví với người đàn bà

da bánh mật có rất nhiều sữa, nhưng tính rất khắc khổ, hay nói to, hay đánh

con, hay dằn vặt chồng, hay xị mặt xuống khi có khách phương xa tới chơi và

tuy giàu có súc tích đấy... nhưng rất chì chiết và bủn xỉn co quắp [1;807].

Cách so sánh với hình ảnh lạ mắt này thật giàu liên tƣởng và chính xác, đã cụ

thể hóa một miền đất có tài nguyên giàu có, phong phú nhƣng thiên nhiên

nắng gió khá khắc nghiệt và cuộc sống nhọc nhằn lam lũ, môi trƣờng ô nhiễm

của những con ngƣời lao động nơi đây. Lối hành văn so sánh rất giàu hình

ảnh gợi liên tƣởng phong phú tinh tế và rất có duyên; là thứ văn chƣơng nghệ

109

thuật đích thực đƣợc lao động nghiêm túc và sáng tạo bởi một nghệ sĩ tài hoa.

Bên cạnh đó, sự am hiểu kĩ lƣỡng, kiến thức uyên bác rộng rãi trên nhiều lĩnh

vực của đời sống đƣợc phô diễn trên trang văn không chỉ gợi nên những ấn

tƣợng thú vị mà còn cung cấp, bồi đắp những tri thức hiểu biết rất đáng quý

cho ngƣời đọc. Đọc văn Nguyễn Tuân, nhà tu từ học kiếm đƣợc nhiều dẫn

chứng thú vị về những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tƣợng trƣng...

Đặc sắc nữa của ngôn ngữ tùy bút Nguyễn Tuân chính là việc xuất hiện

nhiều câu văn dài, trùng điệp, phức điệu, phức cú, với nhiều kiểu kiến trúc đa

dạng. Ông là một nghệ sĩ ngôn từ biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của

câu văn xuôi. Nguyễn Tuân thƣờng nói, ngƣời làm nghề viết phải biết tạo ra

những câu văn có khớp xƣơng, biết co duỗi nhịp nhàng, giàu nhạc điệu.

Những kiểu câu văn nhƣ thế thƣờng chứa đựng cách liên tƣởng nhiều tầng,

nhiều lớp. Đây là một ví dụ khi Nguyễn diễn tả cảm xúc rung động mãnh liệt

của ngƣời nghệ sĩ, tâm hồn đắm say lâng lâng khi đi qua những bến nƣớc

trong veo, thơ mộng êm đềm ở Cửa Đại, chẳng khác gì những bức tranh thủy

mặc Đƣờng thi gợi bóng dáng của những mĩ nhân giặt lụa bên cầu: Kém có

một tiếng dồn châm của những nàng Tây Thi vô danh chưa hiện ra để xáo

động cuộc đời êm ả, kém có cái tiếng nện vải lụa trên hòn đá bến nước lúc

hoàng hôn mà khi xe lướt qua mình cái thành gạch tỉnh Quảng Nam, cái thích

ở lòng lữ thứ của tôi đã giảm mất đến nửa phần khi tôi nhớ lại câu thơ của

bài thơ dựng cho Tì Bà Hành [2,540]. Hoặc những câu văn rất dài, ngắt nhịp

nhịp nhàng nhƣ: Cái gì mà lại cứ ra ga để chiếm một chỗ đứng, nhìn trời,

nhìn khói, nhìn vào tất cả bấy nhiêu cái mặt người thảng thốt đang tay xách

nách mang, với sự bình tĩnh ốm yếu của một người chỉ biết có lãng phí ngày

giờ của mình?[1;757]; và Ở người một gã lữ thứ, tôi cho không cái bất thình

lình nào thú bằng cái việc đi tới một xứ lạ vào lúc đêm hôm để sáng mai được

hoàn toàn bỡ ngỡ trước những cái phô phang đầu tiên của một trạng thái

sống mới lạ, sau một giấc ngủ đích đáng của đường trường [2;543]. Những

110

câu văn cầu kì kiểu này có màu sắc rất giống những câu văn dài, ngắt nhịp

trùng điệp trong sử thi Hi Lạp Ôđixê: Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện ra

trước mắt những người đi biển bị Pô-dê-i-đông đánh tan thuyền trong sóng

cả gió to, họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào

được đến bờ; mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất

liện mong đợi; Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng biết

bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của nàng

cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời [24;52].

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít những hình ảnh so sánh khá trừu

tƣợng, nặng nề khó hiểu với không ít bạn đọc: Sóng gió và tiếng máy nên một

bản đàn mà trong đó nhiều nhất là những tiếng nắn vào một cung hồ [1;237];

và những cách diễn đạt cầu kì nhƣ vậy thƣờng đòi hỏi bạn đọc phải hết sức

tập trung, chăm chú vào việc đọc mới hiểu hết nét nghĩa của câu văn: Đè lên

màu tang bầu không khí thu muộn, chất bóng cốc pha lê nổi bật hẳn lên như

nét cười của một người công binh lúc tắt nghĩ (Tùy bút Lại đi nữa). Những

câu văn dài, trùng điệp độc đáo khác lạ nhƣng nhiều lúc làm cho ngƣời đọc

thấy phức tạp, khó hiểu và phải hết sức tập trung mới nắm đƣợc nội dung.

Tuy vậy, chính những kiểu câu văn nhƣ thế giúp nhà văn diễn tả đƣợc những

quan hệ phức tạp của hiện thực đời sống và thể hiện tâm trạng của mình trƣớc

cuộc sống muôn màu, muôn vẻ. Câu văn của Nguyễn Tuân đẹp là do cấu trúc

tầng lớp nhƣng bao giờ cũng trong sáng, ở đó ông chú ý đến giọng điệu, cách

sắp xếp trật tự của các từ để làm nổi bật các mối quan hệ trong sự vật và trong

cảm giác của chính ông. Phan Ngọc khẳng định câu văn Nguyễn Tuân vừa rất

quy tắc, vừa phá quy tắc “từng chữ một thì rạch ròi, sắc sảo nhƣ khắc vào đá,

nhƣng lại quần tụ trong một kiến trúc bập bềnh, chơi vơi”. Văn Nguyễn Tuân

thuộc loại kỳ tài, tạo nên một “thƣơng hiệu” câu văn đặc biệt: khi nói đến văn

xuôi, hẳn phải nói đến câu văn Nguyễn Tuân (cũng nhƣ khi nói đến thơ thì

111

nói đến câu thơ Nguyễn Du, nói đến câu đối phải nói đến câu đối Nguyễn

Khuyến).

Lối kể chuyện của nhà văn tài hoa, biến hóa với nhiều giọng điệu khác

nhau: lúc thì điềm đạm, nhẹ nhàng, đằm thắm; có lúc vui vẻ, hài hƣớc, giễu

cợt, tự trào; có khi lại là tiếc nuối thậm chí cũng có lúc là mỉa mai sâu cay.

Tất cả đƣợc hoà trộn nhuần nhuyễn, mới mẻ thú vị hấp dẫn. Ngôn ngữ kể

chuyện cũng rất điêu luyện, đƣợc mài giũa kĩ lƣỡng nhất là ngôn ngữ đặc tả

cảnh vật thiên nhiên và biểu hiện đời sống nội tâm phức tạp của nhân vật. Kết

cấu tác phẩm cũng rất linh hoạt. Các tùy bút thƣờng đƣợc kết cấu theo trình tự

tuyến tính không gian, thời gian; song ở tiểu thuyết Thiếu quê hương lại có

kết cấu tâm lí hiện đại. Nhà văn xáo trộn không gian thời gian, từ chuyện nọ

móc xích sang chuyện kia. Tác phẩm chủ yếu khắc họa dòng tâm trạng miên

man của Bạch. Chuyện gặp gỡ tình cờ với Hòa trên chuyến tàu Hải Phòng về

Hà Nội, nhà văn tiếp nối kể lại những kỉ niệm giữa hai ngƣời ở Pari, rồi thất

lạc tin tức nhau và từ cái vali giang hồ quý giá mà họ đƣợc hội ngộ trùng

phùng. Từ sự kiện đi xem phim Mĩ đã xới lên đống tro lòng đã nguội từ lâu

trong Bạch, gợi anh nhớ đến sự thất bại của chuyến đi đấu xảo San

Francisco... Các sự kiện, tình tiết cứ thế có quan hệ nối tiếp với nhau, tạo nên

sự gắn kết logic cho tác phẩm. Kết cấu tâm lí hiện đại làm cho nhà văn rất dễ

chuyển tiếp, thay đổi sự kiện tình tiết một cách uyển chuyển hợp lí, cảm xúc

đi về phóng túng tùy hứng.

Tuy nhiên, là một nhà văn “chủ quan”, lãng mạn, có phần cực đoan,

văn Nguyễn Tuân có cái giọng khinh bạc kiêu kì nhiều ngƣời không chịu nổi.

Ngôn ngữ diễn đạt nhiều chỗ quá cầu kì, rƣờm rà, khi đọc phải hết sức tập

trung mới nắm bắt đƣợc diễn biến sự việc nên có phần khó khăn với không ít

bạn đọc. Điều đó cũng làm cho văn Nguyễn Tuân khá kén chọn độc giả và

cũng cần có nhiều thời gian đọc mới nắm bắt hết giá trị tác phẩm của ông.

112

3.4. Vẻ đẹp ngôn ngữ, nghệ thuật từ pháp

Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Khi sáng tác văn học nhà văn sử dụng

ngôn ngữ nhƣ một chất liệu quan trọng, là “yếu tố thứ nhất” (Măcxim Gorki).

Ngôn ngữ văn học thể hiện đặc điểm tƣ duy nghệ thuật, phong cách nghệ

thuật của nhà văn. Ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện ở nghệ thuật sử dụng từ

ngữ, câu văn, giọng điệu. Mỗi nhà văn lại có nét riêng trong sử dụng ngôn

ngữ.

Đọc tác phẩm Nguyễn Tuân, hầu nhƣ ai cũng công nhận ông là một

nghệ sĩ bậc thầy của ngôn ngữ Việt Nam. Ông thực sự làm chủ đƣợc cái vốn

liếng đồ sộ của tiếng mẹ đẻ, hiểu biết nó thấu đáo và sử dụng thành thạo đến

mức điêu luyện, tài hoa. Các nhà nghiên cứu đã ca ngợi, khẳng định nghệ

thuật sáng tạo ngôn từ của Nguyễn Tuân là bậc thày của nghệ thuật tu từ,

“mỗi dòng mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút nhƣ đóng một dấu triện riêng” (Anh

Đức); “nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đƣa cái đẹp thăng hoa” (Hoài Anh). Tiếng Việt

thực sự là một kho báu và qua bàn tay tài tình của ông đã thực sự trở thành

những hạt ngọc lấp lánh, biến hóa sinh động. Nguyễn Tuân có kho từ vựng

giàu có, phong phú mà bằng tình yêu tiếng Việt ông đã cần mẫn tích lũy và

vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo trong những trang văn. Ông quan niệm

viết văn là dốc cạn kho tàng chữ nghĩa để chạy đua cùng tạo hóa, để khoe

chữ. Không phải chỉ tích lũy những từ sẵn có, ông luôn có ý thức sáng tạo từ

mới, từ lạ, độc đáo và cách dùng mới tạo lên những ấn tƣợng mạnh mẽ, gợi

nhiều liên tƣởng. Vốn từ vựng đối với ngƣời viết văn nhƣ nƣớc đối với cá. Từ

càng giàu có, ngƣời viết càng thả sức tung hoành. Đọc Nguyễn Tuân, thấy

ông nhƣ con cá vùng vẫy giữa đại dƣơng mênh mông. Trong du kí Một

chuyến đi, cách nhà văn đặt tên cho các phần cũng rất lạ: Một con tàu say

rượu, diễn tả cảm giác bồng bềnh, nghiêng ngả, lắc lƣ trên con tàu vƣợt đại

dƣơng. Hoa, ánh sáng và nước, gợi lên cái lộng lẫy sáng rực xa hoa hiện đại

của Hƣơng Cảng. Rúm cỏ tương tư là cái tên thật lạ và mĩ miều đƣợc đặt tên

113

cho sợi thuốc lá. Trong những ngày túng thiếu ở Hồng Kông nhớ thuốc thèm

thuốc, sợi thuốc đã trở thành “tƣơng tƣ thảo”...

Nguyễn đã sáng tạo từ ngữ, hình ảnh mới lạ, ấn tƣợng, giàu sức biểu

cảm nhờ liên tƣởng chính xác, tài hoa. Ông bao giờ cũng cân nhắc kĩ lƣỡng

điều cần viết; sợ cách viết sáo rỗng, không thể hiện hết cái đẹp, cái hay. Mỗi

một từ ngữ đều đƣợc cân nhắc, lựa chọn nên thƣờng có độ chính xác cao khó

lòng thay thế. Từ ngữ không chỉ mang sắc thái tính chất của sự vật hiện

tƣợng mà còn mang thêm sức mạnh biểu cảm của cá nhân nhà văn. Những

cách dùng từ rất lạ, rất sáng tạo, hiếm thấy trong đời sống và có lẽ chỉ có ở

văn Nguyễn Tuân. Ví nhƣ, cái mƣa dầm rất đặc trƣng của Huế, thứ mƣa đay

nghiến chì chiết lòng ngƣời, đƣợc nhà văn đặt một cái tên rất ấn tƣợng là

nàng sùi sụt [2;614]. Hoặc một loại mƣa khác của Nguyễn mà ngành khí

tƣợng thủy văn nên lƣu ý bổ sung thuật ngữ: Những giọt mưa phăn lọt vào

họng tẩu kêu sèo sèo[1;697] (mưa phăn phải chăng là mưa phùn, mƣa nhỏ,

mƣa lây phây?); “phấn mưa đọng lâu vào tay vịn bằng sắt rỉ đã làm đổ xuống

những dòng nƣớc lạnh màu củ nâu rất dài và mảnh”[1;761]. Đặc biệt là các bổ

ngữ rất lạ: “anh ấy tuông ra đi” [1;1010], (tuông -phải chăng là nhất quyết ra

đi, lên đƣờng một cách mạnh mẽ quyết tâm?); “ngồi tễu trong một tiệm

nhảy”[1;259], “đứng tễu ở bến ga” [1;757] (“tễu” phải chăng là “trơ trọi, lặng

lẽ”?). Các tính từ cũng giàu giá trị biểu cảm: “Bạch nhìn sóng khơi, lòng chao

chát nỗi vô tận của lòng trên cái cùng tận của bể”; “lòng chàng rĩ rầu mênh

mông và lại thƣơng cảm một cách quá văn hoa nữa”; “hoàn toàn bỡ ngỡ trƣớc

những cái phô phang đầu tiên của một trạng thái sống mới”[2;543] (phô

phang là phô ra để khoe). Một số khái niệm hình ảnh liên tƣởng mới lạ đƣợc

nảy sinh nhƣ: cảnh chia tay trên sân ga đƣợc gọi là tấn tuồng xê dịch [1;745],

ngày lâm kỳ [1;747]. Trách nhiệm bổn phận níu giữ bƣớc chân ngƣời lãng tử

đƣợc ví von là những quả chì nặng, những hòn chì mắc cổ chân [1;751], là

mấy cục đá [1;986]. Khi phải ở nhà quá lâu không đƣợc đi, Nguyễn lại ví nỗi

114

đau khổ đó nhƣ cái neo rỉ, bị vùi dưới đáy lớp bùn đọng dưới lòng bến; những

cái neo rỉ bị đời sống giang hồ cắt đứt dây, bỏ quên lại và đánh tụt xuống một

cái mồ của bãi bùn lầy vữa [1;752]...

Nguyễn Tuân hay sử dụng các hình ảnh mƣa gió để diễn tả những cung

bậc tâm tƣ phức tạp, ngổn ngang trong lòng ngƣời lãng tử. Khi phải ở đâu lâu

quá thì lòng họ chán nản, buồn phiền, ảm đạm nhƣ những cơn mƣa phùn rả

rích đêm ngày: lòng Bạch tơi bời như sau một cơn mưa lã chã [1;926]; thấy

trong lòng mưa luôn... chỉ rặt một lối mưa phùn... Những cơn mưa phùn dai

dẳng ấy cứ gặm nhấm lòng mình như lũ mối xông một tòa nhà lụn bại. Mỗi

ngày một tí, mưa phùn rỉa bòn và lấy dần hết tươi sáng trong lòng mình còn

tệ hơn cá rô mồi cần câu cặm [1;983]. Ham đi nên giọt mƣa trên tàu bể cũng

trở nên rất lãng mạn, lung linh, quyến rũ đến say ngƣời: “giọt thu thất tịch

thánh thót vỗ tàu tiêu”. Môn đồ của chủ nghĩa xê dịch là “bệnh nhân không

gian”;“ngƣời lãng tử cô đơn”, “ngƣời du đãng thích đứng đƣờng”[1;758];

“ngƣời của bốn bể”[1;986]; “đời phiêu lƣu” với “chất lang thang nặng

lòng”[1;793]; “đời lữ khách hẹn sống với trôi nổi”[1;841]; “đời bềnh

bồng...lăn mình trên cái vỏ lục địa”[1;841]; là ngƣời muốn “trƣớc bạ tên tuổi

vào với sống núi hai tân cựu lục địa”[1;844]; là “ngƣời khách quen của đêm

mƣa gió”[1;843]; là ngƣời của “đầu sông ngọn nguồn”[1;855]; là kiểu ngƣời

“đi mãi mãi trên mặt địa cầu”, “sống để mà đi”[1;984]; “ngƣời của ngũ đại

châu; không phải là thứ ngƣời sống để làm chồng và làm cha”[1;987]; là “tội

nhân của chung thân phát vãng”; “đứa con của phiêu lãng, ngƣời du tứ vạn

thiên cổ”[1;860]...

Chân dung của họ đƣợc cụ thể hóa bằng những hình ảnh chỉ sự lênh

đênh phiêu bạt: bộ mặt màu muối bể [1;235]; những hòn đá lăn không bao giờ

dính rêu [1;845]... Tình yêu với ngƣời nghệ sĩ tự do là cái tai nạn tình cảm

đàn bà [1;940]. Cuộc đời ngƣời lãng tử gắn liền với thứ rƣợu giang hồ đặc

biệt cất nổi nửa hồ rượu giang hồ, lăng nhân soi gương nhiều khi thấy bạc cả

115

mái đầu. Lít rượu ngon ấy người giang hồ trả giá đắt hơn một viên linh đan

của Tiên ông trong núi hay giá hòn ngọc của hồ ly tinh [1;239]... Đó là kho từ

vựng mang dấu ấn riêng Nguyễn Tuân vừa ngông oái ăm và khinh bạc, có lẽ

chỉ có ông mới sử dụng ngôn từ tiếng Việt đắc địa đến nhƣ thế. Cách sáng tạo

nhiều kiểu diễn đạt khác nhau, nhiều từ mới không chỉ thể hiện sự tài hoa mà

còn chứa đựng cả những tâm sự cô đơn, muốn trốn tránh thực tại .

Ngôn ngữ cũng là một đặc điểm nổi bật để khẳng định sự am tƣờng và

nặng lòng với văn hóa dân tộc của cụ Nguyễn. Nhà nghiên cứu Hà Văn Đức

cho rằng Nguyễn Tuân kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ cổ xƣa với ngôn ngữ

hiện đại, sử dụng mặt mạnh của ngôn ngữ nhiều ngành nghệ thuật để làm giàu

có thêm cho ngôn ngữ văn học. Ông rất chú ý dùng từ Hán - Việt, từ cổ vừa

gợi lên không khí thời đại vừa thể hiện sự uyên bác - một dấu hiệu nổi bật của

phong cách Nguyễn Tuân, nhƣ: hý viện (nhà hát), tửu quán, thương cảng, hải

cảng, nơi lữ thứ, hà khẩu (cửa sông), duyên hải, giai nhân, mĩ nhân, lệnh tỉ,

huynh trưởng, nghĩa phụ, thầy lệ mục, viên cẩm tàu, lão thập trưởng, cựu lệ.

Nhân vật xê dịch đƣợc gọi là: hướng đạo sinh, lãng nhân, du khách, kẻ phong

lưu giang hồ, người lữ hành, tên giang hồ, người phóng lãng, quân lãng du,

kẻ du sĩ, lãng tử, lưu đãng, trượng phu, khách phong lưu, lữ khách, người bộ

hành, du tử, gã lữ thứ, du nhân, người sương phụ... Nhiều từ Hán Việt trong

trƣờng nghĩa xê dịch nhƣ: khởi hành, hải lý, hải trình, cuộc viễn du, độc đạo,

giang khẩu, vận hà (eo biển), băng thất (quán nƣớc), thừa lương (nghỉ mát),

lữ điếm, chốn sơn lâm, đường hỏa xa, mộng phiêu lưu, trùng phùng... Ngƣời

ta nói văn Nguyễn Tuân vừa hiện đại vừa cổ kính là vì thế. Hệ thống từ Hán

Việt khiến cho vẻ đẹp của nhân vật xê dịch thêm phần cổ điển; phảng phất

bóng dáng hào hoa của những lãng tử hành tẩu giang hồ, những tao nhân mặc

khách xƣa nhƣ Lý Bạch Đỗ Phủ, những kiếm khách tài tử Kinh Kha, ngƣời li

khách kiểu “nhất khứ bất phục hoàn” trong những tác phẩm văn học cổ trang.

116

Trong quá trình suy ngẫm gạn lọc từ ngữ, Nguyễn Tuân còn tạo lập

đƣợc một hệ thống từ mới một cách độc đáo. Nhà văn đã tìm cách tách đôi

các từ ra ghép một phần của từ này với một phần của từ kia để tạo ra một từ

khác nhằm đạt đến mức độ tổng hợp chính xác cao hơn và những từ đó đƣợc

dùng đắt đến nhƣờng nào. Nghiên cứu từ vựng Nguyễn Tuân, chúng tôi bắt

gặp nhà văn đã sáng tạo ra một số từ rất lạ và mới, nhƣ: lưu đãng (phong lƣu và

phóng đãng); phong quang (phong phú và quang đãng); thừa nhàn (thừa thãi

và nhàn hạ); tha lê (tha hƣơng và lê bƣớc); đùa nhả (đùa cợt và chớt nhả), hào

hoạt (hào hoa và hoạt bát) ... Với những từ dùng nhƣ thế, nhà văn đã tạo đƣợc

cho lời văn thêm hàm súc, bởi một từ nhƣng đã gợi trọn nghĩa của cả hai từ.

Không cần sử dụng nhiều nhƣng những từ dùng theo kiểu nhƣ vậy lại tạo ra

nét đặc biệt riêng, chỉ có kĩ thuật viết điêu luyện mới độc đáo đƣợc nhƣ vậy.

Rõ ràng, đây là một sự sáng tạo rất đáng đƣợc ghi nhận góp phần làm phong

phú cho kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt. Thêm nữa, rất nhiều từ ngữ tƣởng nhƣ

đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhƣng khi vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu

hiện và lạ mắt vô cùng. Cách Nguyễn Tuân dùng từ "lõa lồ" thật mới mẻ và

sáng tạo: Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có

thêm một hành khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở

chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ

gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được [2;549]. Theo Từ điển Tiếng Việt, “lõa lồ”

là trạng thái hoàn toàn không có cái gì che thân, với hàm ý xem thƣờng. Từ

“lõa lồ” ở đây đã đƣợc mang một nét nghĩa mới, không phải là sự phô trƣơng

thô tục trần trụi thân thể mà là cái vô duyên, tục tằn, hợm hĩnh của lời nói,

tính cách tâm hồn con ngƣời.

Nhƣ vậy, vốn từ vựng giàu có độc đáo ấy Nguyễn Tuân dùng để chơi

ngông với đời, hoặc đƣa ra những cách nói năng oái ăm kỳ cục cốt để trêu

ghẹo thiên hạ, hoặc đổ tràn ra mặt giấy để phô tài, khoe chữ nên nhiều chỗ

khó hiểu. Ông từng tự nhận xét về mình: Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng

117

củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông

trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không

bướng bỉnh sao được. Từ sau 1945, không còn cực đoan nữa, ông dùng ngôn

từ nhƣ công cụ đắc lực để ngợi ca tổ quốc, nhân dân và chiến đấu. Có thể nói,

khó có nhà văn nào có đƣợc vốn từ phong phú và sử dụng độc đáo, biến hóa,

sinh động đƣợc nhƣ Nguyễn Tuân. Ông đƣợc mệnh danh là bậc thầy về cách tổ

chức sắp xếp ngôn ngữ và là ngƣời luôn có ý thức lạ hoá ngôn ngữ của mình.

Tóm lại, những thành công trên phƣơng diện nghệ thuật nhƣ xây dựng

đƣợc hệ thống biểu tƣợng độc đáo, sử dụng thể loại tùy bút, lối hành văn tài

hoa uyên bác và vốn ngôn ngữ đẹp giàu có không chỉ góp phần thể hiện ấn

tƣợng, sống động đề tài xê dịch mà còn làm nên một phong cách nghệ thuật

độc đáo và tái dựng bức chân dung con ngƣời nhà văn. Các phƣơng diện nghệ

thuật tài hoa trên đã gợi lên một Nguyễn Tuân thích chơi ngông với những

nghịch lý nghịch thuyết, là ông vua tùy bút, nhà nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ mới

lạ đã làm cho cái đẹp trong xê dịch thăng hoa. Với những thành công nghệ

thuật trên, ông đã đẩy du lịch, vốn là một cái thú của con ngƣời xƣa nay, lên

đến mức thành "chủ nghĩa xê dịch" vì nó phù hợp với tâm lý bực bội của cả

một thế hệ thanh niên trí thức thời thuộc Pháp đầy sức sống và khát vọng tự

khẳng định mình mà lại bị vây hãm vào một môi trƣờng thị dân. Con ngƣời

cá nhân tài năng ấy coi sống chỉ là để thực hiện cá tính của mình; đi đâu, ở

đâu cũng chỉ là để tìm mình. Nhƣng phải tìm mình trong nhân loại, phải chen

vai thích cánh giữa chỗ đông ngƣời. Ông là con ngƣời của thành thị, phố xá,

của nhà ga, bến tàu, của cao lâu, tửu quán, hý viện; thích những cái mới lạ,

bất ngờ và mãnh liệt. Là một nguồn sống bồng bột, Nguyễn Tuân không thích

cái gì yên ổn, mực thƣớc, khuôn phép; "công chức" và công thức trong đời

sống cũng nhƣ trong văn chƣơng mà thích đƣợc trải nghiệm trong trƣờng đời

dữ dội dẫu có thiếu thốn, nhọc nhằn, kiệt quệ. Ông dị ứng với cuộc sống

chung chung, nhạt nhạt, bằng phẳng, hời hợt, quanh quẩn, đơn điệu trong ao

118

đời bằng phẳng. Nhƣ vậy, những phƣơng diện nghệ thuật thành công ở trên đã

thể hiện một tài năng văn chƣơng hiếm có và khắc họa thành công chân dung

một nhà văn tài hoa, nghệ sĩ, độc đáo số một của văn học Việt Nam trƣớc

Cách mạng.

119

KẾT LUẬN

Với đề tài “hoài cổ” và “xê dịch”, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ấn

tƣợng nổi trội, khác biệt trong làng văn ngay từ khi xuất hiện. Những trang

văn rất mực tài hoa độc đáo đã đƣa ông xứng đáng tầm cỡ nhà văn lớn. Vẻ

đẹp trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu của con ngƣời có chiều sâu,

chiều rộng và tầm cao văn hóa cũng nhƣ lòng yêu nƣớc, gắn bó với con

ngƣời. Trong bối cảnh xã hội cũ, với khát khao xê dịch, ông đi tìm vẻ đẹp

thuần túy của thiên nhiên, xã hội với mục đích thỏa mãn cảm giác và giác

quan, hƣớng về cội nguồn và trân trọng những nét đẹp cảnh vật thiên nhiên

quê hƣơng đất nƣớc.

Đề tài xê dịch thể hiện nét tính cách phóng khoáng tự do, ghét sự bó

buộc tù túng cũng nhƣ tâm trạng phức tạp của một ngƣời đang sống trên quên

hƣơng nhƣng lòng lại tràn ngập cảm giác cô đơn, trống vắng vì thiếu quê

hương; muốn dùng cảm giác không gian để lấp đầy nỗi tẻ ngắt. Xê dịch để

trốn tránh thực tại, ẩn mình vào cái Tôi, nhƣng tâm hồn nghệ sĩ của một trí

thức yêu nƣớc lại kéo ông trở về với vẻ đẹp của hiện tại. Độc giả cũng dễ

dàng nhận thấy những biểu hiện của một nhân cách, một tâm hồn trung thực

chƣa hẳn đã khép kín với những vang động của đời. Đề tài xê dịch đã góp

phần làm nên nét phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.

Cái tài tình là trong những việc có vẻ xô bồ, lộn lộn của sự ghi chép tùy hứng,

ngƣời đọc vẫn nhận ra cái chất “ngông” khinh bạc, hoài nghi nhƣng vẫn tha

thiết, gắn bó với cuộc đời; óc liên tƣởng cực kì phóng túng; vốn ngôn từ

phong phú, giàu có, độc đáo lạ mắt nhƣ một vƣờn hoa đầy sắc màu của

Nguyễn Tuân.

Giống nhƣ đề tài Vang bóng một thời bắt nguồn từ tâm lý chán ghét

cuộc sống nô lệ, những trang văn hời hợt của chốn ao tù nƣớc đọng và tìm về

quá khứ để ngợi ca những vẻ đẹp cầu kỳ, đề tài xê dịch Nguyễn Tuân thể hiện

khao khát thoát li vào không gian. Đó là những ứng xử có nét đẹp tích cực;

120

song xét cho cùng, về bản chất nó vẫn là tấm bình phong để nhà văn trốn chạy

thực tại. Nhà văn đã không đủ nghị lực để đối mặt với những phong ba,

những sóng gió của xã hội lúc đó, buộc phải thu mình vào trong cái vỏ ốc

không gian xê dịch để lánh đời.

Nhà phê bình Ngọc Trai rất có lý khi cho rằng: Có một Nguyễn Tuân

cương trực, ngang bướng, gai góc, khinh bạc, kênh kiệu bên cạnh một

Nguyễn Tuân nhân hậu đầy ưu ái với con người, cuộc đời... Có một Nguyễn

Tuân ồn ào, phá phách bên cạnh một Nguyễn Tuân cô đơn luôn nặng trĩu

lòng ưu thời mẫn thế. Đóng góp có giá trị tích cực nhất ở đề tài xê dịch chính

là biểu hiện tình yêu con ngƣời quê hƣơng đất nƣớc, là thái độ bất hợp tác với

chế độ xã hội đƣơng thời của lớp thanh niên trí thức, là việc gìn giữ bảo tồn,

sáng tạo và làm giàu thêm sự trong sáng của Tiếng Việt. Đề tài xê dịch còn

làm phong phú thêm cho màu sắc của dòng văn học lãng mạn, thể hiện đƣợc

khát vọng khẳng định cái tôi cá nhân, là thông điệp chuyên chở tình yêu quê

hƣơng đất nƣớc trong một tâm hồn phức tạp. Bởi ai cũng vậy, dù có đi đến

chân trời góc bể nào vẫn là con Lạc cháu Hồng, vẫn mang trong mình hình

ảnh đất Việt thân yêu.

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp quan trọng, đề tài xê dịch vẫn tồn

tại những hạn chế khó tránh khỏi. Nguyễn Tuân thƣờng nói quá đi, cƣờng

điệu, cái gì cũng đƣợc đẩy đến tận cùng. Cho nên, ngƣời đọc có cảm giác

đằng sau những trang văn xê dịch là một ngƣời cực đoan có phần vị kỉ, nhiều

khi tàn nhẫn, thiếu trách nhiệm với gia đình quê hƣơng đất nƣớc, mất niềm tin

vào cuộc sống ngoài cảm giác trực tiếp ở hiện tại. Văn Nguyễn Tuân đôi lúc

có cái giọng khinh bạc, ngôn ngữ quá cầu kì khó hiểu, câu văn dài nhƣ một

đoạn văn, phải tập trung đọc hiểu đến hụt hơi khiến nhiều ngƣời không chịu

nổi. Ông quá yêu, quá thần tƣợng hoá sự xê dịch, đã nâng nó lên thành lý

tƣởng mục tiêu sống, nhƣng chính ông đôi lúc cũng mâu thuẫn với chính

mình, nghi ngờ lí tƣởng xê dịch đó không biết sẽ đƣa ông đến đâu. Cuối cùng

121

vẫn là sự bế tắc. Chủ nghĩa xê dịch cũng chỉ là một con đƣờng, một lối thoát

để nhà văn thoát ly trốn tránh thực tại phũ phàng đang giết dần, giết mòn tâm

hồn ngƣời nghệ sĩ. Vậy, tìm hiểu đề tài Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng tôi không chỉ muốn

khám phá thế giới nội tâm, tài năng nghệ thuật, nét phong cách độc đáo hấp

dẫn, những hạn chế trong tƣ tƣởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà còn bày

tỏ tình cảm yêu mến đặc biệt dành cho nhà văn độc đáo tài hoa bậc nhất này.

122

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tác phẩm văn học

1. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập I, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.

2. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập II, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.

3. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập III, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.

4. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.

5. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập V, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.

6. Nguyễn Tuân, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển

I, NXB Văn học – 2006.

7. Nguyễn Tuân, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển

II, NXB Văn học – 2006.

8. Nguyễn Tuân, Cảnh sắc và hương vị đất nước, NXB Tác phẩm mới, Hà

Nội 1998.

B. Sách nghiên cứu, lí luận phê bình

9. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cƣờng, Từ điển văn học Việt Nam, NXB

Giáo dục, 1995

10. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1999.

11. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hƣợu - Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung -

Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, 1999.

12. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những vẫn đề lịch sử và lí

luận, NXB Giáo dục,1992.

13. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 2001.

14. Hà Văn Đức, Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng Tám (Một

số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam sau

Cách mạng Tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.

15. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2007.

16. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Tuân - về tác gia và

tác phẩm, NXB Giáo dục, 1998.

123

17. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân – một phong cách độc đáo và tài hoa,

in trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong cách”, NXB

Trẻ, 2005.

18. Nguyễn Đăng Mạnh, Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân, Hà Nội 1981.

19. Nguyễn Xuân Nam, Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2004.

20. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân và thể tùy bút, Tạp chí văn học số 6, 1997.

21. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân như một con người thời đại, Lời giới thiệu

viết cho Quê hƣơng, truyện dài của Nguyễn Tuân, NXB Hải Phòng, 1996.

22. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Văn học, 1998.

23. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2008.

24. Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 10, Tập 1, NXB Giáo dục Việt

Nam, 2011.

25. Nhiều tác giả, 50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.

C/ Webside

26. Hàm Đan, Nguyễn Tuân, nhà văn Hà Nội tài hoa

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/ha-noi-thu-do-cua-chung-

ta/nguyen-tuan-nha-van-ha-noi-tai-hoa/293146.html

27. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2010/07/nguyen-tuan.html

http://vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/nguyn-tun_11.html

28. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân : Một định nghĩa về người cầm bút,

29. Tô Hoài, Hồi kí Cát bụi chân ai,

http://music.vietfun.com/trview.php?ID=1582&cat=15

30. Tô Hoài, Hồi kí Những gương mặt - Chân dung văn học (1988)

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn4n0n4n31n

343tq83a3q3m3237nvn

124

31. Tô Hoài, Hồi kí Chiều chiều (1999)

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1n2nqn31n34

3tq83a3q3m3237nvn

32. Thụy Khuê, Thi pháp Nguyễn Tuân,

http://thuykhue.free.fr/stt/n/nguyentuan.html

33. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nguyễn Tuân,

http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Tu%C3%A2n

34. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nhà văn Pháp A. Gide

http://vi.wikipedia.org/wiki/Andr%C3%A9_Gide

35. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nhà triết học Đức Friedrich Nietzsche

http://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich_Nietzsche

36. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Lý Bạch

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_B%E1%BA%A1ch

37. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Tản Đà

http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A3n_%C4%90%C3%A0

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_d%C6%B0%C6%A1ng_Ph%C3%A1p

38. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Lính lê dương,

39. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân, một phong cách độc đáo và tài hoa,

http://nico-paris.com/tin-tuc-232/nguyen-tuan---mot-phong-cach-doc-dao-

va-tai-hoa.vhtm

40. Đỗ Ngọc Yên, Nhà văn Nguyễn Tuân: Ông vua tùy bút thích “xê dịch” và

“ghét” phê bình,

http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/51/ong-vua-tuy-but-thich-xe-dich-va-

ghet-phe-binh-/119541.html

41. Hoàng Yến, Nguyễn Tuân - Bậc thầy sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt

http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Nguyen-Tuan--Bac-thay-su-dung-

ngon-ngu-tieng-Viet/20107/2092.vnplus

125