ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TUYẾT NHUNG
CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội – 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TUYẾT NHUNG
CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC
Hà Nội – 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những luận điểm đƣợc trình bày trong Luận văn này là kết
quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trƣớc những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Tuyết Nhung
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Văn Đức, ngƣời
thày đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tri ân tới các thày cô giáo trong khoa Văn học,
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn sự động viên, quan tâm giúp đỡ của những ngƣời thân
trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn ở bên tôi trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn Chủ nghĩa xê dịch
trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945 không
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận đƣợc sự góp ý chân
thành của thày cô và các bạn. Tôi hi vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận
văn sẽ trở thành nguồn tƣ liệu có giá trị đối với việc dạy học tác phẩm văn
chƣơng của nhà văn Nguyễn Tuân.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Tuyết Nhung
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7
1. Lí do lựa chọn đề tài .................................................................................. 7
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 9
3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu .............................................. 13
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 14
5. Những đóng góp của Luận văn ............................................................... 14
6. Cấu trúc của Luận văn ............................................................................. 15
CHƢƠNG 1. CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN TUÂN .................................................................................. 16
1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa ............................................. 16
1.2. Hành trình sáng tác và những tác phẩm chính về đề tài xê dịch .......... 21
1.2.1. Hành trình sáng tác của một cuộc đời phong phú ........................ 21
1.2.2. Những tác phẩm chính về đề tài xê dịch .................................... 24
1.3. Đề tài chủ nghĩa xê dịch trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945 .................. 25
1.3.1. Giới thuyết ..................................................................................... 25
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và đề tài xê dịch ............... 25
1.3.3. Quan niệm về xê dịch .................................................................... 31
CHƢƠNG 2. NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG ĐỀ TÀI XÊ DỊCH
CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .............. 35
2.1. Cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên ....................................................... 35
2.1.1. Cảnh sắc đất nước quê hương ...................................................... 35
2.1.2. Cảnh sắc những miền đất lạ ......................................................... 43
2.2. Cảm hứng về con ngƣời ....................................................................... 48
2.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người ................ 48
2.2.2. Các kiểu người giang hồ xê dịch................................................... 49
5
CHƢƠNG 3. CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH NHÌN TỪ NHỮNG PHƢƠNG
THỨC NGHỆ THUẬT .................................................................................. 82
3.1. Xây dựng thành công những biểu tƣợng độc đáo về xê dịch .............. 82
3.1.1. Biểu tượng thiên nhiên .................................................................. 83
3.1.2. Biểu tượng hành động, ngôn ngữ .................................................. 89
3.1.3. Biểu tượng sự vật, đồ vật .............................................................. 90
3.2. Sử dụng thể loại tùy bút ....................................................................... 95
3.2.1. Nguyễn Tuân gắn bó với thể loại tùy bút ...................................... 95
3.2.2. Tùy bút thể hiện thành công đề tài xê dịch ................................... 97
3.2.3. Tùy bút xê dịch chứa đựng thông tin phong phú, đậm yếu tố tự sự
và giàu chất thơ ..................................................................................... 101
3.3. Lối hành văn tài hoa, uyên bác .......................................................... 106
3.4. Vẻ đẹp ngôn ngữ, nghệ thuật từ pháp ................................................ 113
KẾT LUẬN ................................................................................................... 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 123
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một tác gia lớn của văn học hiện đại
Việt Nam, “là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn
xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi), đồng thời cũng là một trong
những hiện tƣợng phức tạp của văn học. Ông là một cây bút có sức hút kì lạ,
có cách viết độc đáo lôi cuốn. Đọc Nguyễn Tuân độc giả cảm nhận đƣợc
những nét đặc biệt, mới mẻ, không bị hoà lẫn vào những cái lờ nhờ, không
màu sắc. Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật
nghiêm túc, ông đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho văn học
hiện đại Việt Nam.
Nguyễn Tuân còn là một định nghĩa về ngƣời nghệ sĩ tài hoa. Ông viết
văn với phong cách lạ, “ngông”, uyên bác, là bậc thầy trong việc sáng tạo và
sử dụng tiếng Việt. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên,
gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác
của ông tồn tại vừa nhƣ những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích
tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. Có thể nói trong suốt cuộc đời, bằng ngòi
bút điêu luyện, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Ông là nhà văn
duy mĩ, có quan niệm nghiêm túc về văn chƣơng nghệ thuật: là nhà văn thì
phải để lại một dấu ấn độc đáo, không giống ai trong cuộc đời. Sinh thời,
Nguyễn Tuân từng ao ƣớc không ai giống đƣợc mình, khi chết là đem theo
nguyên cảo, nguyên bản không để lại một bản sao nào ở đời. Ông đến với
cuộc đời, đến với làng văn để đóng một dấu ấn lạ, đem đến một luồng gió mới
rồi đột ngột biến mất. Không giống tiền nhân, chẳng có hậu duệ, ông là ngƣời
cực đoan, hết mình, đã đẩy sự độc đáo lên thành chủ nghĩa độc đáo.
Giống nhƣ một số nhà văn, nhà thơ lớn cùng thời nhƣ Tô Hoài, Xuân
Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... Nguyễn Tuân có hai chặng đƣờng sáng tác,
7
trƣớc và sau Cách mạng. Chặng đƣờng nào cũng thành công, đều có những
thành tựu nổi bật, những cống hiến nghệ thuật lớn lao cho nền văn học hiện
đại của dân tộc. Trƣớc Cách mạng, Nguyễn Tuân say mê đi tìm hạnh phúc
trong chủ nghĩa xê dịch, trong quá khứ Nho giáo đẹp đẽ, đôi khi lại là tìm
quên trong truỵ lạc. Sau Cách mạng, nhà văn lại hăm hở hoà mình vào cuộc
sống muôn màu muôn sắc của nhân dân. Ngƣời đọc luôn bắt gặp một Nguyễn
Tuân đầy cá tính với những trang văn độc đáo, tinh thần lao động nghệ thuật
công phu, nghiêm túc trên hành trình đi khám phá tìm hiểu cái đẹp. Văn
Nguyễn Tuân còn là một lối văn kén độc giả, chỉ người ưa suy xét đọc
Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để
người nông nổi thưởng thức (Vũ Ngọc Phan).
Là một nhà văn tài hoa, ngƣời đọc mến Nguyễn Tuân về tài nhƣng còn
trọng về nhân cách. Mặc dù những sáng tác của ông coi trọng tính thẩm mĩ
cao nhƣng Nguyễn Tuân không phải là ngƣời theo chủ nghĩa hình thức. Các
tác phẩm của ông bộc lộ quan niệm Tài phải đi với Tâm. Đó là Thiên lƣơng
trong sạch, là lòng yêu thiên nhiên yêu nƣớc thiết tha, là nhân cách cứng cỏi
trƣớc uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Xê dịch là một đề tài quen thuộc, chiếm một mảng quan trọng của sáng
tác Nguyễn Tuân. Đề tài này phù hợp với tâm hồn lãng mạn, tự do, phóng
túng, ghét sự gò bó của nhà văn. Đọc những sáng tác này ngƣời đọc vô cùng
thích thú, nhƣ đƣợc nhập cuộc trong những cuộc du hí hấp dẫn qua những
miền đất lạ, khám phá cảm giác mới mẻ, lạ lẫm trƣớc phong cảnh, phong tục,
con ngƣời; thấy rõ hơn những tâm tƣ sâu kín của tác giả và thêm yêu mến
thiên nhiên, con ngƣời của đất nƣớc quê hƣơng.
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân
nhƣng chúng tôi nhận thấy chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề
Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng
tháng Tám 1945. Là một giáo viên phổ thông, chƣơng trình dạy ở Nhà trƣờng
8
có hai tác phẩm tiêu biểu cho hai chặng đƣờng sáng tác của nhà văn, đó là
truyện ngắn Chữ người tử tù (trích trong Vang bóng một thời) và tùy bút
Người lái đò Sông Đà (trích tùy bút Sông Đà). Nhƣng để hiểu thấu đáo cái
hay cái đẹp của từng trang viết, từng đặc trƣng thể loại văn Nguyễn Tuân đến
học sinh phổ thông không phải là dễ dàng. Bản thân tôi luôn hứng thú, yêu
mến những trang viết tài hoa và phong cách độc đáo của ông. Đi sâu tìm hiểu
về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân thêm
phong phú, vững vàng; hiểu hơn về một nhà văn mà tôi luôn yêu mến, kính
trọng cũng nhƣ mang lại có cái nhìn rộng mở hơn khi dạy các tác phẩm của
ông trong nhà trƣờng.
2. Lịch sử vấn đề
Hơn một nửa thế kỷ qua, từ khi Nguyễn Tuân xuất bản tác phẩm đầu
tay Một chuyến đi cho đến hôm nay, văn chƣơng và con ngƣời của ông luôn
trở thành đề tài gây sự chú ý cho ngƣời đọc nói chung và cho các nhà nghiên
cứu nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con
ngƣời và các sáng tác của ông trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung
Là một nhà văn lớn tài hoa, độc đáo, là một hiện tƣợng văn học phức
tạp, nên sáng tác của Nguyễn Tuân thu hút sự chú ý, quan tâm mạnh mẽ của
các nhà nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh, Giáo sƣ Phan Cự Đệ,
Giáo sƣ Trƣơng Chính, Giáo sƣ Phong Lê, nhà văn Vũ Ngọc Phan, nhà
nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn, Ngọc Trai, Nguyễn Thị Thanh Minh, Hoài Anh,
Nguyễn Thành, Lê Quang Trang, PGS.TS Hà Văn Đức, PGS.TS Tôn Thảo
Miên, ...
Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung. Ở
nhóm này, tập trung các bài viết của các nhà phê bình nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ
Nguyễn Đăng Mạnh với Con đường Nguyễn Tuân đi đến với bút ký chống
Mỹ. Nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn với bài Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn
9
Tuân - huyền thoại một thời. Nguyễn Trung Thành với Nguyễn Tuân, người
săn tìm cái đẹp. Nguyễn Thị Thanh Minh với Nguyễn Tuân và cái đẹp...
Những bài viết về phong cách Nguyễn Tuân qua một số tác phẩm cụ
thể. Ở nhóm này, có một số bài viết cụ thể sau: Đọc lại Vang bóng một thời
của nhà văn Thạch Lam, Tác phẩm Chùa Đàn của Giáo sƣ Hoàng Nhƣ Mai,
Cái thật và cái tài hoa trong Chữ người tử tù của Nguyễn Ngọc Hóa, Đọc
Sông Đà của Nguyễn Tuân của Trƣơng Chính, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của
Hoài Anh...
Những bài viết ghi lại những hồi ức kỷ niệm về Nguyễn Tuân. Ở nhóm
này có thể kể đến những bài viết của vợ nhà văn, của bạn bè viết về ngƣời
chồng, ngƣời chú, ngƣời bạn và ngƣời thầy của mình. Đây là những bài viết
bộc lộ những cảm xúc rất thật, rất chân thành về nhân cách và tài năng của
Nguyễn Tuân. Hồi ức của họ là một trong những tƣ liệu quý giá nhất về nhà
văn.
Những bài nghiên cứu về tùy bút Nguyễn Tuân: bài viết của Giáo sƣ
Phong Lê Nguyễn Tuân trong tùy bút; Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể
tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới thiệu cuốn Tuyển tập
Nguyễn Tuân, tập một, NXB Văn học 1981). Đó làm rõ mối quan hệ giữa thể
văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng nhƣ sở
trƣờng của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá
tính và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút nhƣ là một tất
yếu”. Trong văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất”.
PGS.TS Hà Văn Đức có bài Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng
Tám (Một số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam
sau Cách mạng Tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996) đã đƣa ra
nhiều đánh giá và nhận định sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn
Tuân xét về mặt thể loại...
10
2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài chủ nghĩa xê
dịch của Nguyễn Tuân
Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết giới thiệu về Tuyển tập
Nguyễn Tuân (1981) đã khẳng định: trƣớc Cách mạng Nguyễn Tuân không
thuộc số những cây bút hoàn toàn thoát li xã hội, mất hẳn gốc rễ với cuộc
đời. Con người ấy có thói quen đi để viết, để thỏa mãn khao khát tự do, khao
khát sự thoải mái, khao khát được ngắm trời ngắm biển, được thưởng thức
cho đầy đủ, thỏa thuê vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình ... Một cái tôi xê
dịch và hưởng lạc coi cuộc đời chỉ như một trường du hí. Đi không mục đích và
qua những bức tranh ngoại cảnh đã bộc lộ chất thơ của một tâm hồn xê dịch.
PGS.TS Hà Văn Đức cũng cho rằng: không gian có một sức cuốn hút
mãnh liệt đối với Nguyễn Tuân. Ông khao khát được tự do, được thỏa sức
ngắm trời, ngắm biển. Tâm hồn của nhà văn lãng mạn Nguyễn Tuân hướng
tới sự xê dịch cũng là để thỏa mãn những đòi hỏi của giác quan và thưởng
thức những khoái cảm thẩm mĩ mà những miền đất mới, xa lạ đem lại ... Cái
đẹp mà Nguyễn Tuân tìm kiếm trước hết là vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh vật trên
con đường xê dịch. Những cảnh sắc thiên nhiên của nhiều miền quê khác
nhau được Nguyễn Tuân miêu tả thật đẹp, thật nên thơ, nên họa (Nguyễn
Tuân và cái đẹp, Tạp chí khoa học, 5/1994).
Nhà văn Vũ Ngọc Phan lại đánh giá về ham muốn xê dịch của Nguyễn
Tuân: du lịch trở nên một bệnh, vai chính trong truyện là một chàng thiếu nên
lúc nào cũng muốn đi, lúc nào cũng muốn mình cần phải đi. Không đi thì
buồn bã, mệt mỏi, rầu rĩ, khổ não, đau đớn. Chiếc vali, tẩu thuốc lá, sân ga,
con tàu là những vật chính để đưa người lãng tử lê gót bốn phương trời.
Nhưng đây là đi, không có định kiến; không có mục đích gì cả, đi cho chán
chân, rồi lại trở về nhà ít lâu rồi lại lấy sức mà đi nữa. Con bệnh cố nhiên
không phải là một người ốm yếu mà là người sung sức quá, lại không có một
công việc gì lớn lao dùng cái sức của chàng nên chàng phải tiêu đi trong sự
11
xê dịch, tiêu đi để cho não cân được căng thẳng, tiêu đi để mua lấy sự phát
triển giác quan. (Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989).
Nhận định của Giáo sƣ Trƣơng Chính đã chỉ ra nguyên nhân lối sống
và đề tài xê dịch trong sáng tác Nguyễn Tuân: Ông là một nhà văn lãng mạn
đại diện cho phong trào lãng mạn của ta khi đã suy vong. Cái lối sống ấy chỉ
có thể đưa ông đến một cái tự tử, tự tử dần trong cuộc sống: tức là sự trác
táng và sự xê dịch. Xê dịch không mục đích, xê dịch mà để xê dịch. Trác táng
là thoát li trong thời gian và xê dịch là thoát li trong không gian. Thế rồi,
rượu, thuốc phiện, ả đào, và đi, đi để thay đổi hoàn cảnh, để có dịp trụy lạc
thêm. Những khi không có dịp trụy lạc và xê dịch thì hiu quạnh, thẫn thờ như
người không hồn, buồn da diết, buồn có thể tự tiêu diệt mình được. Ông kéo
dài cuộc sống bê tha đó, tưởng không có ngày nào chấm dứt. Đó không phải
là hình ảnh riêng của Nguyễn Tuân mà còn là hình ảnh của một số thanh niên
trí thức tiểu tư sản thành thị sống bế tắc trong chế độ cũ (Vài nét về con
người và tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tuyển tập Trƣơng Chính, tập 2, NXB
Văn học, Hà Nội ,1997).
Giáo sƣ Phan Cự Đệ cũng có nhiều bài nghiên cứu với cái nhìn mới mẻ
và xác đáng. Bài viết trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, tập 2, Phan
Cự Đệ đã có cái nhìn tổng quát về quá trình “lột xác” đầy đau khổ và sự thay
đổi quan điểm thẩm mỹ của nhà văn. Ông cũng có những đánh giá mới mẻ
nghiêng về khía cạnh nghệ thuật: Trước Cách mạng, các nhân vật trong tùy
bút lãng mạn của Nguyễn Tuân chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của tính
cách nhà văn mà thôi. Tác giả đã hóa thân ra thành Nguyễn, Vi, Bạch,
Hoàng, Thông Phu để tìm cách nói lên những cạnh khía khác nhau của cái
Tôi kênh kiệu, lập dị, của cái Tôi nổi loạn đập phá, của cái Tôi giang hồ lãng
tử [16;110]...
Nhìn chung, những bài nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã cung cấp cho
chúng tôi nhiều thông tin về nhà văn này. Các bài viết đều đã tiếp cận và đánh
12
giá về nhân cách cũng nhƣ những đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân đối với
nền văn học Việt Nam, một cái tôi vận động trƣởng thành qua hai giai đoạn
trƣớc và sau 1945, gắn với những bƣớc ngoặt to lớn của lịch sử dân tộc.
Đặc biệt, các bài viết về đề tài xê dịch đều khẳng định: Nguyễn Tuân là
ngƣời ham đi, luôn thích xê dịch, đam mê cuộc sống phiêu lãng giang hồ;
một cái Tôi cá nhân độc đáo, ngông ngạo; gắn bó thủy chung với thể tùy
bút, có sở trƣờng về tùy bút và chỉ ở thể văn này ông mới bộc lộ rõ nhất cái
tôi khinh bạc, lãng tử, tài hoa của chính mình. Những bài viết đó đã mang
đến cho chúng tôi những hiểu biết ban đầu khi nghiên cứu đề tài này.
Tiếp thu truyền thống nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi
xin góp một chút công sức của mình vào kho tƣ liệu nghiên cứu về tác gia
Nguyễn Tuân với đề tài Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân
trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đề tài của chúng tôi chủ yếu phác họa
hình tượng cái tôi giang hồ lãng tử Nguyễn Tuân qua việc tìm hiểu và phân
tích một số tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài xê dịch cũng nhƣ tập trung
khảo sát thế giới nghệ thuật của nhà văn thông qua các tác phẩm ấy.
3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng:
Luận văn chúng tôi quan tâm tới là những biểu hiện của bức tranh thiên
nhiên, cảnh vật, phong tục, con ngƣời; cái Tôi tác giả đƣợc miêu tả trong
những sáng tác ở đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, chúng ta thấy cả trƣớc và sau Cách
mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đều thể hiện niềm đam mê xê dịch. Tuy
nhiên, ở mỗi chặng đƣờng sáng tác, mục đích và cảm hứng xê dịch của ông
khác nhau. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát đề
tài xê dịch trong các tác phẩm trƣớc 1945 đƣợc in trong Nguyễn Tuân toàn
tập, Tập I và Tập II do Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh sƣu tầm và biên soạn.
13
Chúng tôi tiến hành khảo sát du kí Một chuyến đi (1938), tiểu thuyết Thiếu
quê hương (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943) để làm nổi bật những
đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong đề tài xê dịch.
3.3. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu:
Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu, lí giải trên cơ sở khoa học những
đặc điểm thiên nhiên, cảnh vật, con ngƣời đƣợc miêu tả trong những sáng tác
xê dịch; những đặc sắc nghệ thuật và đánh giá về thế giới quan, hình tƣợng
cái Tôi Nguyễn Tuân trƣớc 1945. Từ đó, chúng tôi muốn một lần nữa tái
khẳng định tài năng và phong cách độc đáo của ông.
Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc, có hệ thống đề tài xê dịch của Nguyễn
Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám. Từ đó, thấy đƣợc vị trí của đề tài xê dịch
trong sự nghiệp sáng tác của ông, đặc biệt thấy đƣợc hình tƣợng cái tôi lãng
tử cũng nhƣ tài năng của một ngƣời nghệ sĩ suốt đời cống hiến cho nghệ
thuật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những công trình đi trƣớc kết
hợp với những tìm hiểu, nghiên cứu riêng trong phạm vi một đề tài nghiên
cứu, luận văn của chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau: Phƣơng
pháp lịch sử; phƣơng pháp hệ thống; phƣơng pháp loại hình; phƣơng pháp
phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp tiếp cận
thi pháp học.
5. Những đóng góp của Luận văn
5.1. Luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu
đi trƣớc, vừa tìm tòi lựa chọn khám phá để từ đó làm hiện rõ những đặc điểm
của chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng.
5.2. Kết quả của Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hƣớng tiếp cận, đọc hiểu
những tác phẩm của Nguyễn Tuân ở đề tài xê dịch nói riêng và các tác phẩm
14
văn xuôi cùng đề tài xê dịch của một số nhà văn khác nói chung trên phƣơng
diện lí thuyết loại hình và đặc trƣng thi pháp. Giải quyết những vấn đề đặt ra,
luận văn không chỉ đem lại cho độc giả không chỉ yêu mến nhà văn Nguyễn
Tuân mà còn có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tác giả. Đồng thời luận văn
có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh khi nghiên cứu về tác
phẩm, tác giả Nguyễn Tuân.
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn chúng tôi gồm có 3 chƣơng
với các nội dung sau:
Chƣơng 1: Chủ đề xê dịch trong hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân
Chƣơng 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân
trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945
Chƣơng 3: Chủ nghĩa xê dịch nhìn từ những phƣơng thức nghệ thuật
Và cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.
15
CHƢƠNG 1
CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa
Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910, quê ở làng Nhân Mục, Thƣợng
Đình, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông là nhà
văn chính gốc Hà Nội, mặc dù ông có một thời gian khá dài sống lang thang
xê dịch nhiều nơi, sau này mới gắn bó với Hà Nội. Nguyễn Tuân trƣởng thành
trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Cả một thế hệ, trong đó có cụ
Tú Lan, thân sinh của nhà văn, vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng
dƣng trở nên lỗi thời trƣớc xã hội giao thời lộn xộn, sinh ra tƣ tƣởng chán nản
bất đắc chí. Ngay từ nhỏ, ông đã đƣợc lớn lên trong nền văn hóa cổ truyền của
dân tộc với những phong tục, nề nếp từ một thời xƣa đang tàn dần và biến đổi
vì sự xâm nhập của văn minh phƣơng Tây. Bối cảnh xã hội, không khí gia
đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tƣ tƣởng cũng nhƣ
phong cách nghệ thuật của ông. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc,
Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc,
tuyệt vọng.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (1929) thì bị đuổi vì tham
gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu ngƣời Việt. Học
bạ ghi trong 5 năm không công sở nào đƣợc nhận vào làm việc. Lúc này cha
mẹ, vợ và các em đều ở thị xã Thanh Hóa, nơi cụ thân sinh làm việc. Sau đó ít
lâu ông lại bị tù vì "xê dịch" qua biên giới Đông Dƣơng sang đất Thái Lan
không có giấy phép. Theo hồi kí Cát bụi chân ai của Tô Hoài kể lại trong
chuyến tàu hoả từ Nôm Pênh ra đến Poipet có hai ngƣời trẻ tuổi, mặt non
choẹt, vƣợt biên giới sang Xiêm, đó là Nguyễn Tuân và Lƣơng Đức Thiệp. Cả
hai từng tham gia bãi khóa phản đối rồi bị đuổi học. Không biết ai đã nghĩ ra
cuộc đi mạo hiểm này, có thể bởi những uất ức khi bị đuổi học, cuộc sống tù
16
túng, cùng quẫn hay cách nghĩ bồng bột tƣởng bƣớc chân đến những nơi xa
xôi là lên hƣơng đổi đời. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai,
khuyên vàng của vợ. Đến Thái Lan, hai ngƣời bị cảnh sát bắt vì vƣợt biên trái
phép; bị giam chung với những tội phạm ngƣời Xiêm rồi bị giải về Nôm
Pênh. Đến Nôm Pênh, bị tống ngay xuống Sài Gòn, giam ở bóp cảnh sát.
Hôm sau giải ra Hải Phòng, Hà Nội, rồi về giam tại Thanh Hóa khoảng một
năm. Ở tù ra, ông định vào Nam Kỳ nhƣng đi đến Vinh thì bị bắt trở lại. Kể từ
đây, ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con
đƣờng ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "bất đắc chí", nhƣ một ngƣời hư hỏng hoàn toàn.
Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp gỡ, tiếp
xúc với những ngƣời hoạt động chính trị. Gia đình dựng nhà cho ông tại quê,
tức làng Mọc, Ngã Tƣ Sở, Hà Nội. Ngôi nhà hai tầng, Nguyễn Tuân gọi là
“Am Sông Tô”. Theo Tô Hoài trong Cát bụi chân ai, ông còn có một chỗ ở
khác là một gian gác xép tại phố Hàng Đẫy (tức phố Nguyễn Thái Học ngày
nay): Khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho
ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương tự ngoài đời,
người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán chê rồi rời
bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà... Nguyễn Tuân có một gian gác
nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế,
không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển
sách dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không
ló ra đường, không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá
trái, khước từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất
thần lại biền biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu
mình ở cái buồng con [29]. Từ 1942 -1945, Nguyễn Tuân ngày càng bế tắc,
suy sụp và đã có ý định tự sát. Cách mạng tháng Tám đã thay đổi cuộc đời và
trang viết nhà văn. Ông nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến; hân
hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" đứng vào hàng ngũ nhà văn
17
Cách mạng. Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc đi kháng chiến, liên tục đi và
viết. Từ 1948 - 1957, ông giữ chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông
đi nói chuyện nhiều nơi và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học
mới. Nguyễn Tuân mất ngày 28/7/1987 tại Hà Nội để lại một sự nghiệp văn
học phong phú với những trang viết độc đáo tài hoa. Năm 1996, ông đƣợc
Nhà nƣớc truy tặng Giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Nguyễn Tuân là một nhà văn hóa lớn, một trí thức giàu lòng yêu nƣớc
và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nƣớc của ông có những nét riêng: yêu phong
cảnh đẹp của quê hƣơng đất nƣớc, tha thiết với tiếng Việt và gắn bó với
những giá trị văn hóa cổ truyền, những nhạc điệu đài các của lối hát ca trù,
những thú chơi tao nhã cổ truyền, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
Nguyễn Tuân là nhà văn có cá tính rất độc đáo và ý thức cá nhân phát
triển cao. Ông là ngƣời tự do, phóng túng; ông quan niệm “đời là một trƣờng
du hí”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Viết là một hình thức chơi văn độc
đáo nhƣng ông đã đẩy việc chơi đến đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật.
Viết văn trƣớc hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ham du lịch,
Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý thuyết - “chủ nghĩa xê
dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao thích phiêu
lƣu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đƣờng, những miền đất
mới, đƣợc gặp gỡ muôn mặt ngƣời trên con đƣờng giang hồ mê mải. Với ông,
xê dịch là một nguồn sống bồng bột để giải thoát những bế tắc chán chƣờng
trong cuộc đời. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những
cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt,
khuôn phép, yên ổn, cầu toàn; ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt
mĩ của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân còn là ngƣời rất mực rất mực tài hoa uyên bác, am tƣờng
Hán học, Tây học. Rất mực đề cao và gìn giữ nhân cách nghệ sĩ nên ông trân
trọng những thú chơi tao nhã của những trí thức Nho gia tài hoa sinh bất
18
phùng thời, căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa. Ông am hiểu
nhiều ngành văn hóa, nhiều môn nghệ thuật khác nhau nhƣ hội họa, điêu
khắc, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, địa lí... để tăng cƣờng khả năng diễn tả của
nghệ thuật ngôn từ. Sự tài hoa uyên bác khiến cho các trang tùy bút Nguyễn
Tuân lấp lánh chất trí tuệ; mang đến cho ngƣời đọc những khoái cảm thẩm
mỹ và vốn tri thức văn hóa, khoa học ở nhiều các lĩnh vực khác nhau.
Nguyễn Tuân là nghệ sĩ chân chính có tinh thần lao động nghệ thuật
nghiêm túc, quý trọng nghề nghiệp và ý thức cá nhân phát triển cao. Ông
quan niệm nghề văn đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn (truyện Nhà
Nguyễn,1945); ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp
(truyện Hai tấm vé số, 1944) và nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm
túc, thậm chí khổ hạnh (Tùy bút Những đứa con hoang, 1943). Đối với ông
văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng, nghệ thuật trƣớc hết phải là nghệ
thuật và làm nghệ thuật phải có phong cách độc đáo. Ông đƣợc đánh giá là
định nghĩa hoàn hảo nhất về ngƣời nghệ sĩ. Nhƣng về bản chất ông không
theo chủ nghĩa hình thức thuần túy, đánh đu biến hóa với tu từ chữ nghĩa mà
Tài phải đi với Tâm. Đó chính là Thiên lƣơng trong sạch; là lòng yêu đất
nƣớc, tha thiết với những giá trị cổ truyền; là nhân cách cứng cỏi, đức tính
thẳng thắn trung thực. Bạn đọc khâm phục ông về tài nhƣng còn trọng ông về
nhân cách. Khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi
lỏng mà ngƣợc lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ông thực sự là một nhà
văn suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật (Nguyễn Ðình Thi), là ngƣời "sinh ra để
thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".
Trƣớc Cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông dồn sức chủ yếu vào
việc phục hiện các giá trị văn hóa tinh thần. Trên trang viết Nguyễn Tuân,
những "vẻ đẹp xƣa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù
điều kiện không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài, ngƣời đọc
vẫn cảm nhận đƣợc một tấm lòng chân thành đối với dân, với nƣớc. Ông đã
19
ghé vai vào chống chọi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị
thiêng liêng vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví
trang sách nhƣ tấm lá chắn hữu hiệu thì Nguyễn Tuân, giai đoạn trƣớc 1945,
chính là ngƣời chiến sĩ chiến đấu với cái Xấu cái Ác, để bảo vệ thành trì Chân
- Thiện - Mĩ.
Là nhà văn yêu cái Đẹp, nhƣng trƣớc Cách mạng tháng Tám, quan
niệm về cái Ðẹp của ông đậm màu sắc chủ quan; là cái Đẹp thuần túy, duy
mỹ, nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông chủ trƣơng một cái Đẹp không có nội dung
xã hội, giai cấp, thời đại; tách rời cái có ích và quan niệm đạo đức, một cái
đẹp chỉ nhằm thỏa mãn những khoái cảm thẩm mĩ cá nhân. Sau Cách mạng,
quan niệm của ông đã có sự hài hòa cân đối. Cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực
tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân nhƣ có thể cầm lên tay mà nâng niu
ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà đƣợc nâng
lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.
Trƣớc Cách mạng tháng Tám, trung tâm thế giới nghệ thuật Nguyễn
Tuân là những cái tôi xê dịch: những con ngƣời buồn chán sống vô vị; mang
tâm trạng dằn vặt. Không gian thiên nhiên chỉ là những cái mơ hồ vụn vặt gắn
với nỗi ám ảnh thời gian và gợi sự bức bối, ngột ngạt. Ngƣợc lại sau Cách
mạng, thực tế phong phú tƣơi rói, sống động trang văn của ông: vùng đất Tây
Bắc, vùng giới tuyến Vĩnh Linh. Cảnh vật mang tầm vóc lớn lao kỳ vĩ và là
bè bạn với con ngƣời, tham gia vào công cuộc cải tạo của con ngƣời. Không
còn bắt gặp những cá nhân luôn đấu tranh nội tâm mà đại diện cho những
phẩm chất đẹp, tƣ thế khoẻ, tinh thần hứng khởi của ngƣời công dân một
nƣớc độc lập. Ông có dịp đi nhiều, mở lòng đón nhận thanh sắc của cuộc sống
mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trƣớc kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự
yêu nƣớc thƣơng dân một cách kín đáo, thì giờ đây con ngƣời tài hoa uyên
20
bác ấy nhƣ đƣợc tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trƣờng, cất cao lời ngợi
ca đất nƣớc con ngƣời Việt Nam trong thời đại mới.
1.2. Hành trình sáng tác và những tác phẩm chính về đề tài xê dịch
1.2.1. Hành trình sáng tác của một cuộc đời phong phú
Nguyễn Tuân không thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông
đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng
trƣớc khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút. Chủ nghĩa xê dịch, đề tài quá khứ,
truỵ lạc là ba mảng đề tài trung tâm của ông trƣớc 1945. Bộ ba đề tài này nhƣ
ba nhánh của một dòng sông cùng quy tụ lại một điểm để tạo nên một Nguyễn
Tuân vô cùng mới mẻ, độc đáo và đem lại sức sống mới cho dòng văn học
lãng mạn 1930 -1945 đang thoái trào, có nguy cơ đi vào ngõ cụt.
Do chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông trƣớc năm
1937 (Giang hồ hành, Vườn xuân lan tạ chủ) đƣợc viết theo bút pháp cổ điển
và chƣa gây đƣợc tiếng vang. Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các
báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, với những tràng cƣời châm
biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu,
Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lƣu hiện thực phê
phán lúc đó đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn nhƣ Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan... cho nên không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc
tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Hơn nữa, ông sớm nhận ra rằng thể loại
trào phúng vẫn chƣa phù hợp với sở trƣờng của mình.
Nguyễn Tuân chỉ thực sự đƣợc công nhận nhƣ một phong cách văn
chƣơng độc đáo kể từ tùy bút Một chuyến đi (1938), tập hợp những trang viết
từ chuyến xê dịch sang Hƣơng Cảng tham gia bộ phim Cánh đồng ma - một
trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Theo Nguyễn Ðăng Mạnh, nét đặc
sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu riêng hết sức phóng túng, linh
hoạt: Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh
21
thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh
choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa [1;111]. Nhân vật
chính là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc sau quá nhiều đắng cay tủi cực hầu
nhƣ hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở xúc cảm của mình trên bƣớc đƣờng xê dịch.
Với tập truyện Vang bóng một thời (1939), Nguyễn Tuân đã vƣơn đến
đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ toàn thiện toàn
mỹ (Vũ Ngọc Phan) ấy góp phần đƣa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển
thêm trên con đƣờng hiện đại hóa. Vang bóng một thời vẽ lại những cái "đẹp
xƣa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú
thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà
trong sƣơng sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Thời gian
đƣợc đo bằng mùa, bằng tiết. Nhƣng những vẻ đẹp truyền thống ấy đang có
nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ,
gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. Vang bóng một thời
vì thế có thể đƣợc xem nhƣ một bảo tàng lƣu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền
của dân tộc.
Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân
dần đi vào ngõ cụt. Nếu nhƣ ở Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt
cua (1941), Tùy bút I (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi"
vẫn còn đầy tự trọng và giữ đƣợc ý thức về bản thân thì từ 1942, đời sống tinh
thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc.
Những trang viết thƣa dần. Bên cạnh những đề tài cũ viết về vẻ đẹp xƣa, đề
tài xê dịch, đời sống trụy lạc nhƣ Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943),
Nguyễn (1945), xuất hiện thêm các đề tài mới hƣớng về thế giới của yêu tinh,
ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm Xác ngọc lam, Ðới roi, Rượu bệnh, Loạn
âm cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.
Những năm đầu sau Cách mạng, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại
tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác"
22
để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn
Tuân còn có Chùa Ðàn - về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa,
ích kỷ tàn nhẫn; nhƣng từ sau 1945, nhƣ đƣợc uống liều thuốc tiên, tự cải tạo
vƣơn lên thành con ngƣời mới, chan hòa với xung quanh. Mới đọc qua, dễ có
ấn tƣợng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhƣng nếu
xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác thì Chùa Ðàn là một cố gắng
đáng trân trọng.
Tiếp theo, hai tập tùy bút Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950)
ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu
gọi của Ðảng, ông hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đƣờng
chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà
rƣng rƣng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu sôi nổi tin
yêu, tràn ngập tình cảm chân thành đối với quê hƣơng đất nƣớc. Nguyễn Tuân
tiếp tục bôn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những
giá trị ấy giờ đây không phải mất công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình
nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực sinh sôi cuồn cuộn trƣớc mắt.
Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy: Phở, Cây Hà Nội,
Con rùa thủ đô, Tìm hiểu Sê Khốp,...
Từ năm 1958 – 1969, ông đi thực tế liên tục đi về hai vùng nóng bỏng
nhất của đất nƣớc: Tây Bắc và Vĩnh Linh. Ngoài ra ông còn đi Cẩm Phả, Trà
Cổ, Móng Cái, Cô Tô,... Những chuyến đi không chỉ thỏa mãn khát khao “xê
dịch”, mà còn cung cấp chất liệu thực tế nóng hổi để nhà văn khám phá ra vẻ
đẹp, chất vàng của thiên nhiên con ngƣời Việt Nam đang âm thầm lao động
chiến đấu. Ông phát hiện ra chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những nhân
vật phi thƣờng, những nhà nho một thời quá khứ mà cả ở những ngƣời dân
bình thƣờng nhất: ông lái đò, chị dân quân, anh bộ đội, anh bán phở, chị hàng
cốm... Tùy bút Sông Ðà là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong sáng tác
23
của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng
tử của Nguyễn Tuân nhƣ mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào.
Từ sau Sông Ðà, Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở
thể tùy bút, đƣợc tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu: Hà Nội ta đánh
Mỹ giỏi (1972), Ký (1976). Ông viết về tình cảm Bắc – Nam, tiếp tục khai
thác vẻ đẹp đất nƣớc con ngƣời Việt Nam trong thời đại mới: ngƣời Việt Nam
vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tƣ thế ung dung, sang trọng và tài hoa; tƣ thế
của một dân tộc giành đƣợc chính nghĩa trong chiến đấu và có bề dày truyền
thống văn hóa lâu đời.
Đất nƣớc thống nhất, Nguyễn Tuân đã đi dọc hành trình đất nƣớc. Ông
đến Cà Mau, Hà Tiên, tham quan Côn Đảo, đóng phim Chị Dậu. Ông xuất
bản Tuyển tập Nguyễn Tuân (1982), Chuyện nghề (1986), Hương vị và cảnh
sắc đất nước (1988), đi nói chuyện văn học ở nhiều nơi và luôn thể hiện văn
phong tự do, ngông, phóng túng, tài hoa uyên bác và ý thức sâu sắc về cái tôi
cá nhân.
1.2.2. Những tác phẩm chính về đề tài xê dịch
Trƣớc Cách mạng tháng Tám, xê dịch là một đề tài lớn trong sáng tác
của Nguyễn Tuân. Ông đã viết một loạt những tác phẩm thể hiện niềm đam
mê cuộc sống giang hồ lãng du của mình nhƣ Một chuyến đi (1938), Thiếu
quê hương (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943). Sau Cách mạng,
Nguyễn Tuân hòa vào cuộc sống và kháng chiến với những công tác bận rộn
của một nghệ sĩ giàu tinh thần dân tộc nhƣng dòng máu đam mê những
chuyến đi, những mảnh đất lạ vẫn tuôn chảy trong những tác phẩm nhƣ
Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình
I,II (1955), Bút kí đi thăm Trung Hoa (1955), Tùy bút Sông Đà (1960), Cảnh
sắc và hương vị đất nước (1988)... Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là nhà
văn Việt Nam đam mê và viết nhiều nhất về những chuyến đi.
24
1.3. Đề tài chủ nghĩa xê dịch trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945
1.3.1. Giới thuyết
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng năm
2008, “xê dịch” là chuyển vị trí đi một quãng ngắn; là thay đổi, biến đổi trong
một khoảng nhất định [23;1414]. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay
mƣợn của phƣơng Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đề cao lối sống cá nhân
tự do phóng túng đi rộng biết nhiều để thỏa mãn sở thích cá nhân và trải
nghiệm cảm giác thực tế. Chủ nghĩa xê dịch theo đó đƣợc hiểu nhƣ là sự
chuyển đổi vị trí về địa lý, chuyển đổi cảm giác về hình ảnh. Nhiều nhà văn
trên thế giới thích viết về du lịch.
Cảm hứng “không gian” có thể xem nhƣ là một chủ đề quan trọng của
các nhà văn viết du ký. Ngƣời viết xê dịch thƣờng thích đi đó đây để thay đổi
nhãn quan tâm hồn. Rõ ràng chỉ khi đi qua những vùng đất, liên tục xê dịch,
họ mới thể hiện đƣợc những giá trị của bản thân. Đi nhiều, vừa thể hiện đƣợc
cá tính, thỏa mãn “thị dục” và nỗi khát khao mơ ƣớc, đồng thời làm giàu có,
phong phú thêm vốn sống tri thức, hiểu biết của mình về con ngƣời và những
mảnh đất đã qua. Nhƣ một nhu cầu chia sẻ, những trang viết du kí luôn thôi
thúc tâm hồn những ngƣời muốn khám phá thế giới.
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và đề tài xê dịch
Chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân chịu ảnh hƣởng lớn từ của văn học
phƣơng Tây. Tác giả mà ông chịu ảnh hƣởng nhiều nhất là nhà văn A. Gide,
Pôn Môrăng, nhà triết học Friedrich Nietzsche... André Gide (1869 – 1951) là
một trong những nhà văn xuất chúng nƣớc Pháp thế kỷ XX từng đoạt giải
Nobel Văn học năm 1947, ông là ngƣời rất ham mê du lịch khắp nơi trên thế
giới. Friedrich Nietzsche (1844 –1900) là một nhà triết học nổi tiếng ngƣời
Đức. Nietzsche thƣờng xuyên đi du lịch để đi tìm nơi có khí hậu dễ chịu để
phù hợp với sức khỏe của mình. Ông từng sống trong nhiều thành phố khác
25
nhau: mùa hè ở Sils Maria, gần St. Moritz ở Thụy Sĩ, mùa đông ở các thành
phố của Ý nhƣ là Genova, Rapallo và Turino, và ở thành phố Nice ở Pháp.
Nietzsche đã đƣợc xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hƣởng lớn trong
triết học hiện đại.
Văn học du ký là một thể loại không xa lạ và luôn hấp dẫn với nhiều
bạn đọc có năng lực tƣởng tƣợng, ý thích phiêu lƣu, muốn ra đi khám phá
những bí ẩn về địa lý. Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel
Defoe (1660-1731), cuốn sách On The Road (Trên đường) của nhà văn Mỹ
Jack Kerouac, Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux, nhà văn du
ký nổi tiếng ngƣời Mỹ, nhà văn Bairơn với hình ảnh anh chàng Saiđơ Hêrôn,
các nhân vật của Satôbriăng du lịch sang châu Mĩ, Tây du kí – Ngô Thừa
Ân..., đã trở thành cuốn sách thúc giục ngƣời ta lên đƣờng sau khi đọc xong.
Ở Trung Quốc, có nhiều tài tử thích du ngoạn, điển hình là những cuộc du
viễn của thi nhân thời Đƣờng nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ. Lý Bạch (701- 762) là
một trong những nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đƣờng, đã viết hơn cả
ngàn bài thơ bất hủ. Ông xuất thân trong một gia đình thƣơng nhân giàu có.
Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn
thủy, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ
rồi xuôi Trƣờng Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng bạn
lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rƣợu ca hát). Ông từng đƣợc tiến cử
với Đƣờng Minh Hoàng, nhƣng nhà vua chỉ dùng ông nhƣ một "văn nhân ngự
dụng" nên ông bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dƣơng, gặp Đỗ Phủ
kết làm bạn "vong niên", cùng vui chơi, thƣởng trăng ngắm hoa, săn bắn. Rồi
ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phƣơng Nam. Tƣơng truyền năm
61 tuổi, ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, uống say, thấy trăng lung
linh đáy nƣớc, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Ngƣời đời phong danh hiệu cho
ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu
trung tiên (ông tiên trong làng rƣợu)... Tóm lại, những cuốn sách du kí và lối
26
sống xê dịch của các danh nhân trên thế giới đã ảnh hƣởng rất nhiều đến các
nhà văn Việt Nam.
Văn học Việt Nam cũng có nhiều tác giả thích cuộc sống lãng du nhƣ
Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản
Đà... Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng - cũng là một ngƣời nổi tiếng ham lãng du. Bà là
một “kì nữ”, thông minh, cá tính, bản lĩnh, giao du rộng rãi, từng đi du lãm
nhiều danh lam thắng cảnh của đất nƣớc. Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá: Ở cái
thời mà giang sơn của ngƣời đàn bà Việt Nam chỉ quẩn quanh nơi buồng the,
bếp núc thì Xuân Hƣơng lại muốn là con ngƣời của trời đất bốn phƣơng,
gót lãng du lui tới đề thơ ở biết bao thắng cảnh nổi tiếng (Kẽm Trống, Hang
Cắc Cớ, Đèo Ba Dội, Đá ông chồng bà chồng, Chùa Quán Sứ, Động Hương
Tích...).
Nhà thơ Cao Bá Quát cũng là con ngƣời say mê với những cảnh đẹp
của non sông đất nƣớc. Các danh lam thắng cảnh ông đề thơ ngâm vịnh nhƣ:
núi Ba Vì, hồ Tây, núi Dục Thúy, sông Hƣơng, núi Tản Viên, miền đất đầy
nắng gió cát trắng Quảng Bình... ông đều đã từng qua. Dải sông Hƣơng mềm
mại đến thế mà khi hiện lên trong thơ ông mang một hào khí hùng tráng:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên (Con sông dài nhƣ thanh kiếm dựng
giữa trời xanh). Nhà thơ Tản Đà - con ngƣời của “hai thế kỉ” cũng là một
ngƣời nổi tiếng ham xê dịch, đƣợc mệnh danh quê hương thời có, cửa nhà
thời không Tản Đà thƣờng đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nƣớc -
Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào Trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi
thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về
Hải Phòng. Ông vừa làm báo vừa đi chơi, vang danh khắp chốn với câu thơ
bất hủ:
“Tài cao phận thấp chí khí uất.
Giang hồ mê chơi quên quê hương.”
27
Tản Đà từng đi chơi vào đúng ba mƣơi Tết, mê mải quên lối về: Chơi
xuân kể lại hành trình/ Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi. Đặc biệt lối sống
phóng túng của Tản Đà đã ảnh hƣởng rất lớn tới sự hình thành tính cách và sở
thích xê dịch ở Nguyễn Tuân.
Giang hồ xê dịch còn là bệnh của chủ nghĩa lãng mạn mà Nguyễn Tuân
là một đại diện. Những chuyến đi với thú “giang hồ vặt” của các nhà thơ Mới,
nhƣ khách chinh phu Thế Lữ, li khách Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chƣơng, Lƣu Trọng Lƣ... Bên cạnh đó, các bạn văn cùng thời nhƣ Nam Cao,
Tô Hoài cũng rất thích cuộc sống nay đây mai đó. Trong hồi kí Những gương
mặt - Chân dung văn học (1988), Tô Hoài kể về chuyện ham đi của Nam Cao:
“Nam Cao lấy vợ được chưa đầy một năm thì anh đi Sài Gòn. Cũng chẳng có
mục đích gì mà đi... Anh cũng đến báo Kịch Bóng, xin được cái thẻ làm phóng
viên, chưa viết được bài nào, cũng đi Nha Trang bằng tiền túi của mình dành
dụm được”. Ngay cả Tô Hoài cũng là ngƣời đích thực của giang hồ. Ông đi
khắp đất nƣớc, đi ra thế giới, quan sát tỉ mỉ, lắng nghe, ghi nhận và viêt. Có lẽ
vì vậy Tô Hoài đƣợc đánh giá là nhà văn phong tục, có hiểu biết sâu sắc về
tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Tô Hoài từng kể chuyện mình và
Nam Cao đi chơi vặt: một đêm chúng tôi cố tình đi chơi bơ vơ một chuyến
hóng cái viết. Nghe còi tàu hoả trong đêm, tưởng như đã gợi hứng rồi. Nửa
đêm, từ Hà Nội xuống Nam Định. Không phải về quê, nhà Nam Cao chỉ cách
thành phố khoảng chục cây số. Chúng tôi đương giang hồ vặt mà. Chuyến đi
này Nam Cao gặp gỡ với một cô gái điếm và có tƣ liệu để viết lên truyện dài
“Một đời ngƣời” rất xuất sắc.
Nhƣng khác với cái đi nhiều, đi để lấy tƣ liệu thực tế nóng hổi phục vụ
sáng tác, Nguyễn Tuân giang hồ là để “đi chơi”, đi chẳng vì mục đích gì cả, đi
chỉ là đi, đi không xác định địa điểm trƣớc. Tóm lại, nhiều nhà văn, nhà thơ
Việt Nam viết xê dịch, dƣờng nhƣ đây là “một cuộc chạy tiếp sức” và Nguyễn
28
Tuân là ngƣời đi xa nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất; sáng tác của ông
mang tính chất điển hình, sâu đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghĩa xê dịch.
Sở thích xê dịch bắt nguồn từ chính cá tính con ngƣời Nguyễn Tuân.
Ông là một cái tôi độc đáo, lập dị, có tính cách lối sống phóng túng và yêu
thích tự do. Ông bƣớc vào nghề văn nhƣ để chơi ngông với thiên hạ; là phản
ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống
nhƣng bế tắc. Ông nhiều phen rong chơi bên cạnh nhà thơ nổi tiếng với những
bài thơ giang hồ Lƣu Trọng Lƣ. Theo Vƣơng Trí Nhàn: Trước Cách mạng,
ông từng là khách quen của các chuyến tàu xuyên Việt, cứ hứng lên là người
lữ hành ấy xách vali đi, và thích đi đâu là dừng lại ở đó: Thanh Hoá, Huế,
Hội An... Sau Cách mạng, những chuyến lên rừng xuống biển của Nguyễn
Tuân càng dày hơn. Một lần nào đó, sau khi đặt chân lên một ngọn núi trong
dãy Hoàng Liên Sơn ... Một lần khác, ông đi tới Lũng Cú tột bắc. Một lần
khác nữa, đi một chuyến dọc Cẩm Phả, Cô Tô, Vân Hải. (Tạp chí Sông
Hƣơng số 31, tháng 6/1988). Cuộc đời Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng có nét
phảng phất giống nhƣ những thi sĩ giang hồ xƣa với “một bầu rƣợu, một túi
thơ” ngao du khắp mọi nơi “Trông vời trời bể mênh mang”; giống nhƣ thú
tiêu dao của các tao nhân mặc khách xƣa Giương buồm giong gió chơi vơi/
Lướt bể chơi trăng mải miết (Trƣơng Hán Siêu).
Chủ nghĩa xê dịch Nguyễn Tuân thẩm thấu ảnh hƣởng phƣơng Tây và
còn có màu sắc cổ điển chịu ảnh hƣởng từ những nhà nho tài tử nhƣ Nguyễn
Công Trứ, Chu Mạnh Trinh. Trong khi không quên những nền nếp đã miêu tả
trong Vang bóng một thời, nhà văn đã tạo nên một loại “lãng tử hiện đại”.
Vƣơng Trí Nhàn trong bài “Lời giới thiệu viết cho Quê hƣơng, truyện dài của
Nguyễn Tuân”, cho rằng: Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người
lửng lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường. Họ như không đi mà
chỉ bay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hoá ra
không ràng buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Gia đình nhà
29
cửa, không thiết tha. Cho đến cả tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều
họ quan tâm đuổi bắt... Niềm say mê mà nhân vật và ông cả đời theo đuổi là say
mê tìm hiểu chính mình và khắc hoạ chân dung tinh thần khác người của mình.
Ham mê xê dịch còn đƣợc “di truyền” từ gia đình. Nhà ông mấy đời
liền, đặt tên đều lấy theo bộ thủy, ông đặt tên con gái là Hƣơng Cảng sau
chuyến đi Hồng Kông chữ Cảng cũng thuộc bộ thủy. Phải chăng có sự ảnh
hƣởng ghê gớm và thần bí của chữ tên đối với cuộc đời từng ngƣời? Bởi Thủy
là nước. Nước vốn ít tụ mà lại hay đi. Cái sứ mệnh của chất nước là mãi mãi
phải trôi xuôi...vì có một cái tên đặt theo bộ thủy, mà ông nội tôi đã là người
hành nhân đi theo một phái bộ qua sứ Tàu... Thừa tự cái tính ấy, thầy tôi đã
có một dĩ vãng “lang bạt kì hồ” mà ngày nay, mỗi lúc nhắc tới, mẹ tôi chỉ biết
có kêu giời”[1;233]. Ông không hề giấu giếm khi chia sẻ với nhà phê bình
Ngọc Trai: “Phải nói rằng nhà tôi có cái gen giang hồ. Không hiểu cụ tổ tôi
thế nào, chứ từ ông nội tôi đến bố tôi và tôi thì cái gen ấy nhƣ ngày càng
mạnh hơn”.
Một nguyên nhân nữa chính là quan niệm độc đáo của Nguyễn Tuân về
cuộc sống giang hồ: Xê dịch mang lại cho ông nhiều trải nghiệm giang hồ
không những là một nghệ thuật mà còn là một khoa học thực nghiệm nữa.
Người giang hồ lại lấy luôn cái đời giang hồ ra làm trường học và tự mình
đem luôn cái thân mình ra mà thực nghiệm và tìm bài học ở những cái quán
bỏ vắng bên đường, ở một vũng bùn nước giữa nghìn dặm cát, ở một cái lều
cát thiếu củi lửa trên đỉnh non băng, ở một ngụm nước ngọt phải dành dụm
hàng tuần lễ trên một cái mặt bể lạc phương hướng [2; 944]. Ngƣời Việt Nam
có câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, có lẽ điều đó thật
thích hợp với Nguyễn Tuân. Là trí thức có học vấn cao, giống nhƣ các nhân
vật của mình, nhƣng ông lại không mơ ƣớc một cuộc sống công danh, đề huề
vợ con; mà chỉ thích những trải nghiệm, tìm niềm vui trong cuộc đời gió bụi
nhọc nhằn, thiếu thốn. Ham đi đến mức không nhìn thấy những khó khăn của
30
cuộc đời mƣa gió, thiếu thốn đang chờ đón mà chỉ thấy những quyến rũ của
con đƣờng xa và cuộc sống bên ngoài thật mê hoặc, ngọt ngào nhƣ men rƣợu
say trong mưa gió có cả một bài thơ muôn vận dành riêng cho những người
sống ở ngoài trời. Trong tiếng mưa, có một tiếng gọi thần diệu. Không đi thì uổng
lắm [2;771]. Đó cũng là một quan niệm sống rất nghệ sĩ của Nguyễn Tuân.
1.3.3. Quan niệm về xê dịch
Tự nhận mình là môn đệ của trƣờng phái “chủ nghĩa xê dịch”, xê dịch
không chỉ đơn thuần chỉ là sở thích mà đƣợc Nguyễn Tuân nâng lên thành hệ
thống những quan điểm tƣ tƣởng, làm thành cơ sở lí thuyết chi phối hoạt động
của nhà văn. Chủ nghĩa xê dịch Nguyễn Tuân vừa mang sắc thái phƣơng
Đông vừa chịu ảnh hƣởng tinh thần hiện đại phƣơng Tây. Song ở ông chất tài
tử giang hồ vẫn có nét riêng: tỉnh táo và luôn có ý thức về mọi hành động.
Dƣờng nhƣ ông cố ý làm cho các hành động của mình trở lên kỳ cục để gây
ấn tƣợng và đam mê đến mức ngông. Ngông trong xê dịch là biểu hiện của
một sự chống trả với mọi thứ nền nếp phép tắc, "đạo lý" thông thƣờng; làm
ngƣợc lại quan niệm nam nhi phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” với
thái độ ngạo đời. Nhu cầu chơi ngông đã đẩy mọi cái thông thƣờng tới cực
đoan, thậm chí tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết. Vì thế ở văn
Nguyễn Tuân, dƣờng nhƣ cái gì cũng đƣợc quan tâm, viết nhiều, nâng lên
thành ra những "chủ nghĩa" chứ không dừng lại ở mức giới thiệu. Đó là: chủ
nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hƣởng lạc,
chủ nghĩa cảm giác, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực và bao trùm lên tất cả
là chủ nghĩa độc đáo. Nguyễn Tuân lo nhất là mất đi cá tính và giống ngƣời
khác. Ông ao ƣớc khi chết đi đƣợc đem luôn theo mình "nguyên cảo" chứ
không để lại một bản sao nào khác ở đời.
Đam mê xê dịch ở Nguyễn Tuân đã xác lập một khuynh hƣớng, hình
thành một chủ nghĩa tƣ tƣởng, tuyên ngôn bất thành văn nhƣng đầy quả
31
quyết: đi và viết luôn đồng hành, đồng điệu trong đời sống và văn chƣơng.
Ông chủ trƣơng đi không cần mục đích, để thay đổi chỗ ở, để tìm cảm giác
mới lạ, thoát li mọi trách nhiệm với gia đình quê hƣơng. Xê dịch còn để thay
đổi thực đơn cho các giác quan, thỏa mãn “thị dục” và biểu hiện thái độ bất
mãn với hiện thực xã hội “ối a ba phèng” trƣớc 1945. Nguyễn Tuân đã tìm
đến lí thuyết "chủ nghĩa xê dịch" trong tâm trạng bất mãn và bất lực trƣớc
thời cuộc xã hội mất chủ quyền. Ông chăm đi, đi nhiều, đã đặt chân lên mọi
miền Tổ quốc. Đây là kiểu xê dịch không biết mệt mỏi, không biết bao giờ về.
Đi là để trải nghiệm tất cả các hƣơng vị, cung bậc của cuộc sống; đi để thấy rõ
hơn những con ngƣời ở mọi miền đất. Mỗi khi có cơ hội đƣợc đi, ông chỉ
muốn khởi hành cho thật nhanh, để trải nghiệm sự hoan hỉ với cái thƣơng nhớ
những ngƣời vừa chia tay, cái hồi hộp của phút sắp đƣợc đến nơi sẽ tới. Hạnh
phúc đích thực có lẽ chỉ tìm thấy ở những nhà ga. Niềm vui trong cuộc đời
đƣợc tạo nên bởi một chuỗi những hành trình: mùa nắng vào Tây Kỳ, trốn
nắng ở vùng cao nguyên Lâm Viên, nhân tiên chơi Đà Lạt hoặc đi Vân Nam
Phủ, ở Côn Minh tha hồ mà ăn đào, lê, mận, lựu,... vào chùa Hương nửa
tháng, trước ngày hội, xem rừng mơ non và uống nước gỗ mai già với đám
tăng lữ tại Chùa Trong [1;693]. Dám sống tự tại, phóng khoáng thần tiên nhƣ
thế chỉ có thể là Nguyễn Tuân.
Thể hiện lòng yêu nƣớc, tinh thần dân tộc qua những “trang hoa”,“tờ
hoa”, Nguyễn Tuân có những khám phá thú vị về phong cảnh bằng ngòi bút
tài hoa và tấm lòng gắn bó với quê hƣơng đất nƣớc. Đi không chỉ là nhu cầu
nội tại, lấy tùy hứng làm nội lực cho văn chƣơng mà cực đoan hơn, ông còn
coi đó là triết lí, mục đích sống, niềm vui trong cuộc đời. Đi để viết, đi và
viết, đi để đƣợc sống đúng nghĩa, dù có đủ điều kiện hay không đủ điều kiện.
Nguyễn Tuân thích ngay ở sự đi, đƣợc đi chứ không phải mục đích của
sự đi và không xác định địa điểm sẽ đến. Lối đi lang thang, lãng du, giang hồ
nhƣ các kiếm khách cổ trang. Ông thích đi, mê mải đi, chán ghét sự dừng lại,
32
muốn đi không phải ngừng lại, không phải là sở thích du lịch thƣởng ngoạn ở
một điểm định trƣớc thông thƣờng. Khi đến một địa điểm nào đó, phải dừng
lại, nhân vật của ông thƣờng có cảm giác chán nản, ngẩn ngơ nhƣ nhớ tiếc
một cái gì quý giá đã tan mất. Đó là chất thi vị rất đặc biệt ngụ trong cái sự
đƣợc đi mà không bao giờ phải dừng.
Trong hoàn cảnh đất nƣớc mất chủ quyền, lí thuyết "chủ nghĩa xê dịch"
với Nguyễn Tuân nhƣ một cứu cánh, một sự giải thoát, một hƣớng đi giúp
ông thoát khỏi những mâu thuẫn bế tắc trong tâm hồn sau những giấc mơ một
thời vang bóng dang dở. Ông từng sa lầy hơn khi thoát li vào trụy lạc nhƣng
cũng không khỏa lấp hết nỗi trống vắng, trống trải trong tâm hồn. Viết về
"chủ nghĩa xê dịch" còn là biểu hiện sống động của tình yêu đất nƣớc thầm
kín. Tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ – những ngƣời sống giữa quê hƣơng mà
vẫn thấy mình thiếu quê hƣơng:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang - Huy Cận)
Tóm lại, ở chƣơng này chúng tôi tiến hành tìm hiểu hành trình sáng tác
của Nguyễn Tuân, đặc điểm con ngƣời, những sự kiện quan trọng trong cuộc
đời nhà văn ảnh hƣởng đến sáng tác, đặc biệt là những yếu tố tác động ảnh
hƣởng đến lối sống và đề tài xê dịch. Cái tôi nhà văn lãng mạn, ngông nghênh
kiêu bạc không thể hài hòa với những gì là khuôn mẫu, gò bó, chật chội của
xã hội cũ. Là một trí thức Tây học chịu ảnh hƣởng văn hóa phƣơng Tây, trong
hoàn cảnh đất nƣớc mất chủ quyền, lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" nhƣ một sự
giải thoát, một hƣớng thoát li giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi những mâu thuẫn
bế tắc trong tâm hồn sau những giấc mơ một thời vang bóng dang dở. Ông
từng sa lầy hơn khi thoát li vào trụy lạc nhƣng cũng không khỏa lấp hết nỗi
trống trải trong tâm hồn. Nhƣ vậy, viết về "xê dịch" chính là biểu hiện sống
33
động của tình yêu đất nƣớc thầm kín, là dịp nhà văn bày tỏ tấm lòng gắn bó
tha thiết đối với cảnh sắc và phong vị của đất nƣớc bằng một ngòi bút đầy trìu
mến, yêu thƣơng và tài hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ sống giữa quê
hƣơng mà vẫn thấy mình thiếu quê hƣơng, bởi nhà, chàng làm gì có nhà. Đến
quê hương chàng cũng còn đang đi tìm nữa là. Không chỉ thế Nguyễn Tuân
đã thực sự sống xê dịch trƣớc khi viết về xê dịch, những quan niệm về xê dịch
của nhà văn cũng không giống thái độ mục đích du lịch thông thƣờng mà thực
sự đã trở thành một hệ thống tƣ tƣởng, lý thuyết chủ nghĩa độc đáo. Sở thích
lãng du thậm chí dám vƣợt biên giới để kiếm tìm và trải nghiệm những cảm
giác khác lạ của nhà văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang lụi tàn trong tâm
hồn không ít thanh niên tâm huyết với đất nƣớc mà bất lực trƣớc thời cuộc
đƣơng thời.
34
CHƢƠNG 2
NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG ĐỀ TÀI XÊ DỊCH CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1. Cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên
2.1.1. Cảnh sắc đất nước quê hương
Nguyễn Tuân học theo chủ nghĩa xê dịch chẳng qua là luôn thèm khát
những cảm giác mới lạ về những miền đất và những con ngƣời mới. Là ngƣời
giàu trải nghiệm, ông đã thực hành xê dịch thực sự trƣớc khi viết xê dịch.
Trên đƣờng giang hồ, ông đã ghi lại những bức tranh chân thực sinh động về
cảnh sắc quê hƣơng đất nƣớc nhƣ một nhà ga, một bến phà, một con đƣờng,
một dòng sông, một thị trấn, một thành phố... Những bức tranh khi thì chỉ
chấm phá vài nét, khi thì đƣợc vẽ hết sức tỉ mỉ mà chúng ta có thể nhận thấy
nhà văn đã đặt tất cả tâm hồn mình vào đấy. Có những cảnh hết sức quen
thuộc vậy mà dƣới ngòi bút Nguyễn Tuân rất giàu chất họa chất thơ, sống
động vô cùng. Ông đã lang thang ngao du sơn thủy khắp chốn Nam Bắc: đi
chơi Chợ Giời vùng Hòa Bình, ngâm vịnh những lúc nhàn tản ở Chợ Cột,
Đông Triều, vào trong Quảng Nam chơi chùa Non Nước, đề đá núi Ngũ
Hành..., tứ tỉnh đường ngoài và ngũ tỉnh đường trong đều có in vết chân cả
[2;423].
Là nhà văn của những tính cách độc đáo, những cảm giác mãnh liệt,
ngòi bút Nguyễn Tuân bị kích thích mạnh mẽ trƣớc những cảnh vật gợi những
rung động cảm giác mãnh liệt. Là nhà văn duy mĩ, thiên nhiên trong trang văn
của Nguyễn không phải là cảnh vật bất kì tùy tiện bắt gặp trên đƣờng mà phải
độc đáo, ấn tƣợng, tác động mạnh đến xúc cảm của nhà văn. Đó là những bức
tranh độc đáo, tinh khôi, thanh khiết khiết của Chùa Thầy – núi Sài Sơn (Về
quê); cảnh sắc xứ Mƣờng sơn lâm, huyện đƣờng rừng Cẩm Thủy, Thanh Hóa
với “mƣa dầm, gió heo, sƣơng đêm” ảm đạm, lạnh lẽo. Cảnh sƣơng sớm nơi
35
huyện miền núi rất nên thơ và lãng mạn đã hiện lên dƣới ngòi bút miêu tả tài
hoa: Những giọt sương sớm đậu trên búi cỏ trông lóng lánh như thủy ngân
hòe trên tấm mạng nhện mà chỉ tơ giăng bằng nước hạt móc sa...Chỉ có mùi
cỏ, mùi đất và hoa đất của loài giun dế. Xa xa một vài điểm chàm. Người
nông phu xứ Mường. Cảnh lành và khí trời cũng lành [1;722]. Phong cảnh
bình yên nhƣ thế này đã làm khỏa lấp nỗi trống vắng, trống trải vì “thiếu quê
hƣơng”, làm dịu đi những cơn khát đƣợc lên đƣờng, đồng thời cũng cho thấy
tình cảm gắn bó với những miền quê nghèo xa xôi của nhà văn.
Ấn tƣợng mạnh mẽ tới ngƣời đọc phải kể đến bức tranh độc đáo về
vùng mỏ Vành Danh, Uông Bí, Điền Công đầy nắng gắt, hoang sơ khắc
nghiệt: một vùng cảnh thổ hoang vu và khắc khổ. Người đen, cảnh đen và cây
cỏ cũng đều đen cả. Thật là tổ quốc của than [1;803]. Vùng đất mỏ đen nhƣ
những “cảnh tang tóc kéo dài quanh năm bất phân mộ dạ”. Cái khắc nghiệt
nắng gắt nhƣ đổ lửa của thiên nhiên vùng mỏ khiến cho mọi sự sống của thực
vật nơi đây chỉ còn thoi thóp “một vùng cỏ vàng ệch, cứng nhƣ que mà không
có một con bò con ngựa nào muốn ngốn lúc đói... cỏ gianh ở đây không bao
giờ đƣợc xanh lấy tí ngọn. Lửa trời đã đốt xém trụi hết cỏ gianh”. Một không
gian chỉ than là than: nền đất than đen dẫm kêu sào sạo nhƣ là cát bể, cái
thung lũng đen xì những khói, muội bụi than, mùi thán khí trong những con
đƣờng hầm tối om khiến cho ngƣời ta nghẹt thở. Những cơn gió ở đây cũng
thật đặc biệt, chúng quẩn giữa thung lũng Vàng Danh, thổi ào ào trong đêm
từng cơn, làm não lòng ngƣời cũng làm cho ngƣời ta phải suy nghĩ về cái bức
bối, nghẹt thở của cuộc đời. Cảnh vật dẫu có khắc nghiệt nhƣng khác thƣờng,
độc đáo càng gợi hứng thú ở Nguyễn. Cái xứ Vàng Danh nghiệt ngã này
khiến cho anh bạn đồng hành Sƣơng khó chịu, liên tƣởng tới những vùng sa
mạc hoang sơ xứ Texas ở Mĩ và những vung khai thác dầu hỏa Hoa Kì. Ở
đây, chắc không ai ngâm vịnh được; nhƣng Bạch vẫn nhận thấy chất thơ rung
động của nó bởi cái ấn tƣợng quá mạnh mẽ nó gợi lên cho con ngƣời một lần
36
đến đây là nhớ mãi: Ở đây người ta sẽ làm thơ mà vận là đá, là sắt, là khoáng
chất và âm điệu sẽ dự vào tiếng gió lạnh tối lùa vào trong lò mỏ, tiếng một
mũi cuốc nhọn hoắt mổ vào lòng đá đen già [1;806]. Đằng sau cái cảm nhận
đầy chất thơ đó cho ta thấy cái nhìn đầy trìu mến, cảm thông, thƣơng cảm của
của nhà văn với những con ngƣời lao động, phu mỏ nơi đây đang phải làm
việc trong một hoàn cảnh thật độc hại.
Tùy bút Một lần đi thăm nhau (Tùy bút II) cũng là những khám phá
mới mẻ về cảnh vật đất nƣớc. Những quang cảnh thiên nhiên đặc trƣng của
các vùng miền dọc hành trình Bắc Nam đã hiện ra: Mảnh đất Quảng Bình,
một vùng rộng hoang vu nghèo khó chỉ có cát và cây cằn không một ngọn tre
quen thuộc. Ánh mặt trời đã làm cho những đám bụi đỏ của con đường thiên
lí hiện ra. Cát trắng đã thành cát vàng. Từng cồn cát vàng. Màu cồn cát đè
lên màu quan lục của từng vũng bể Đông [1;612]. Rồi qua Quảng Trị, Huế.
Đặc trƣng mƣa dầm của Huế đƣợc Nguyễn gợi tả với nhiều sắc độ: mưa đay
nghiến chì chiết đến lòng người; mưa mang mang vô tuyệt kì; Mưa mãi. Mưa
hoài. Mưa rào đổ xuống mái nhà mau nghe như tiếng máy khâu [16;617], cho
nên Huế đƣợc mệnh danh là “nàng sùi sụt”. Huế không có Tết Trung thu vì
“vào cữ này kim phong vũ biểu ở đây lúc nào cũng chỉ lả lay ở khoảng mƣa
và ấm thôi”. Tạm biệt Huế, dời ga Lăng Cô lên đƣờng cũng trong ngày mƣa
“Mây đèo Hải Vân kéo dài ra vời xám mịt mù”. Con tàu đƣa khách giang hồ
qua những ruộng mía vùng Quảng Ngãi trổ hoa lá lay trên cánh đồng gió đẹp
như những ngọn cờ bông lau đất Hoa Lư. Bãi biển Sa Huỳnh thơ mộng với
cát, trời, nƣớc, mây quyến rũ đến mức suýt xui tác giả bỏ con tàu dừng lại.
Hai ngọn tháp Hời của ngƣời Chămpa cổ xƣa ở ga Vân Sơn, Bình Định.
Nguyễn qua Nha Trang rồi ga Sài Gòn với nắng Nam Kì chào đón.Thành phố
hoa lệ đẹp nhất phƣơng Nam với chợ Bến Thành, vƣờn hoa Bùng Binh, Thƣ
Viện thành phố..., nhƣng cũng không lƣu giữ đƣợc lâu bƣớc chân của ngƣời
lãng tử. Nguyễn đã xuống tận xứ miền Tây gạo trắng nƣớc trong Cần Thơ,
37
Hậu Giang, Lâm Viên của xứ Tây Kì... Có thể nói, tùy bút này giống nhƣ
những trang nhật kí cuộc đời của nhà văn, đã mang đến cho bạn đọc những
bức tranh cảnh vật thiên nhiên đất nƣớc thật gần gũi, nên thơ nên họa.
Tùy bút Cửa Đại, Nguyễn đã tái hiện một thƣớc phim màu đặc biệt về
vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của thiên nhiên và con ngƣời miền Trung. Nhiều
ngƣời Việt Nam chƣa từng đến Cửa Đại, nhƣng khi đọc tác phẩm này không
chỉ đƣợc bồi đắp thêm kiến thức địa lí, văn hóa, phong tục, con ngƣời mà
càng thấy gắn bó, mến yêu, tự hào trƣớc vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc mảnh đất
miền Trung. Dƣới ngòi bút ghi chép, quan sát tỉ mỉ của Nguyễn, nét đẹp đầy
bản sắc văn hóa nơi đây đã hiện ra. Cửa Đại - thuộc tỉnh Quảng Nam, có tên
chữ là “Đại Chiếm hải khẩu”. Quảng Nam có hai thủ phủ tỉnh lị. Một là phố
Tây mệnh danh là “Faifo”(Hội An), nơi có tòa công sứ Pháp, đồn lính tập, sở
Giây Thép, ty Mật Thám của ngƣời Pháp. Bên cạnh đó có tỉnh lị đặt ngoài
thành cũ Bến Điện, có dinh quan Thủ hiến ngƣời Việt, cách phố Tây “hơn
mƣời cây số đƣờng đất đỏ nắng chang chang”. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ
của nƣớc Việt Nam thuộc địa trƣớc Cách mạng, bên cạnh dinh Thủ hiến của
quan ngƣời Việt là dinh quan Công sứ ngƣời Pháp. Thành cũ Bến Điện có vẻ
đẹp thật cổ điển lãng mạn và nên thơ; nổi tiếng với “kĩ nghệ làm hàng tơ, có
tiếng về nghề dệt lụa nhiễu”; có những bến nƣớc trong veo, tuyệt đẹp khiến
cho ngƣời khách giang hồ mê mẩn mà liên tƣởng tới cảnh ngƣời đẹp Tây Thi
giặt lụa nơi bến nƣớc Trung Hoa. Cảnh tiếng chày đập áo “tiếng nện vải lụa
trên hòn đá bến nƣớc lúc hoàng hôn”, giống với âm thanh trong bài thơ “Thu
hứng” của Đỗ Phủ “Thành Bạch dồn châm buổi ác tà”. Cuộc sống êm đềm,
thơ mộng, quyến rũ, lấp lánh trên sông nƣớc ở Hội An luôn vẫy gọi ngƣời
khách nghệ sĩ giang hồ khám phá: Tôi ngắm bóng trăng thanh rọi xuống mặt
sông Hội An. Trên mặt sông, thực là cái rừng cột thuyền buồm, mành ghe chi
chít dây bèo buồm, dây thừng. Bấy nhiêu nét đen sắc đều nhấp nhô lay động
theo mực nước thủy triều đang dâng lên rất mạnh. Ánh trăng bị dầm tan
38
trong lòng con sông mà nước ngọt đang bị bể ngoài pha rót vào bao nhiêu
thứ muối chát mặn [2;541]. Cẩm Phô - “một cái làng rất giàu có” ở Hội An,
chuyên bán “những con hến luộc nhỏ xíu dùng làm đồ ăn điểm tâm với bánh
tráng”; núi Trà Kiệu “in dài giữa con đƣờng đi Cửa Đại một cái bóng xe
ngựa; cù lao Chàm “tổ quốc của yến sào”; phía bắc là Ngũ Hành Sơn, đèo Hải
Vân. Cửa Đại thực sự không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình
khoáng đạt, quyến rũ lòng ngƣời mà còn có vị trí chiến lƣợc chính trị quân sự
hiểm yếu, đặc biệt quan trọng, án ngữ Bắc Nam và là một trong “thập nhị hải
khẩu ghi ở sử cũ” (mƣời hai cửa biển lớn) của Việt Nam. Cảnh biển và con
ngƣời nơi đây mang vẻ đẹp mộc mạc, hoang sơ, tinh khôi nhƣ chƣa từng bị
cuộc sống vật chất, xô bồ, dục vọng ảnh hƣởng của văn minh phƣơng Tây làm
cho biến chất: cảnh ở đây hiền lành thế, ở đây chỉ có cát vàng, cây xanh, sóng
trắng đầu. Cảnh tự nhiên như chưa bị hoen ố bởi những tấm biển quảng cáo.
Tạo vật được kính trọng đến cả trong những tiếng động. Ngoài cái bản đàn
của sóng khơi và gió ngàn thông, tịnh không có tiếng âm nhạc hỗn xược của
nhà khiêu vũ hay của khách sạn [2;548]. Cảnh đêm ở Cửa Đại cũng thật thơ
mộng: Đêm, chúng tôi ngắm sao trên vòm trời như những kẻ đi biển tìm
phương hướng; Trăng đêm khuyết hẳn một góc và kềnh càng mãi, bắt tôi nằm
chờ đợi rất lâu nơi cửa sổ khoang thuyền. Dưới bóng lờ mờ, những chiếc
thuyền con rao bán chè đậu ván và mì cu ly lượn lên lượn xuống như vào một
ngày hội hoa thuyền [2;550].
Cửa Đại còn tái hiện bức tranh về cảnh sinh hoạt cần lao vất vả của
nhân dân ta ngày trƣớc. Đó là cảnh những ngƣời dân nghèo buôn bán chen
chúc trên bến Hội An. Những con đƣờng đá vắng vẻ với những phƣơng tiện
vận tải thô sơ của một thời trung cổ nay vẫn tồn tại: “cái xe ngựa lọc cọc, lạch
cạch chạy rất chậm trên con đƣờng vắng...Nó giống nhƣ cái xe thổ mộ của
Nam kì”. Cái xe chốc chốc lại phải dừng lại để sửa lại vành xe cũ nát, rồi lại
từ từ lăn vòng bánh trệu trạo trên đoạn đƣờng lởm chởm. Những chiếc xe tay
39
có lục lạc đồng lêu loong coong nhƣ tiếng nhạc ngựa. Bãi biển ở đây cũng
thật đặc biệt, khác hẳn bãi biển đánh đĩ để chỉ Đồ Sơn hay Sầm Sơn... Cửa
Đại là một đất thừa lương rất lương thiện. Ngƣời dân Cửa Đại cũng là những
con ngƣời lao động thật thà, hiền lành chất phác, đơn giản, dễ mến, hồn nhiên
nhƣ sóng biển gió trời nơi đây: Con nhà chài ở đây chưa biết đánh lừa người
ta mỗi khi bán mớ tôm, mớ cá. Những thiếu phụ góa bụa quấn dải khăn
ngang để tang một người thuyền chài chết vì mẻ cá nục ngoài bể sâu mấy con
sào nước, những người sương phụ đó có cái vẻ đẹp của Thánh Maria đó chưa
biết đến việc mãi dâm, một thứ hàng mà người thành thị đi nghỉ mát để khoe
của đã đem du nhập vào mọi chỗ hải tần đổi mới. Ở đây, người ta đi tắm là đi
tắm. Hít gió ở đây là cứu cánh chứ không phải là một phương tiện trá hình
của đám trưởng giả [2;517]. Những con ngƣời tự do hồn nhiên nhƣ bãi bể,
hồn hậu, hiền lành và rất mến khách nhƣ ông cụ Điều “một ông già vẫn giữ
đƣợc cái búi tóc trắng, là ngƣời rất vui tính”; Nhân – con trai ông cụ; anh Bảy
đánh xe ngựa; những ngƣời em trai, em gái, em dâu, em rể của tác giả “lành
lắm”. Họ sống không phiền ai và cũng không muốn ai phiền quấy mình, chƣa
biết khủng hoảng, băn khoăn bao giờ cả”, nhƣ “những củ hoài sơn” rất lành
trong vị thuốc bắc; tự tại thanh thản nhƣ gió trời nơi đây.
Phong vị văn hóa ẩm thực của Cửa Đại cũng đƣợc nhà văn khám phá
một cách tinh tế: hến luộc nhỏ xíu của làng Cẩm Phô để ăn điểm tâm với bánh
tráng; cá trảnh – thứ cá chỉ có ở sông Phố, thơm nhƣ cá sông Hƣơng; trái
loòng boong – “một thứ thời chân rất quý của xứ Quảng”, còn gọi là Nam
Trân vì đã có công giúp cho vua Gia Long và ba quân no lòng đi đánh giặc.
Có thể nói, dƣới bƣớc chân xê dịch phóng lãng và con mắt tài hoa của ngƣời
nghệ sĩ giang hồ, cảnh sắc thiên nhiên, con ngƣời miền Trung hiện lên thật ấm
áp, gần gũi, cảnh mến ngƣời, ngƣời quyến luyến với cảnh. Cảnh vật và con
ngƣời đã phần nào khỏa lấp nỗi trống vắng thiếu quê hƣơng của một con
ngƣời giàu tinh thần dân tộc.
40
Cảnh sông nƣớc giang hồ cũng hiện lên sống động, ấm nồng khơi gợi
lên sự bao sự tò mò khám phá. Trong tùy bút Chiếc vali mới ghi chép hành
trình của Nguyễn trên chiếc tàu Hồng Cơ từ Thanh Hóa ra Uông Bí lấy than,
một cơ hội xê dịch trên sông nƣớc dài ngày hiếm có của Nguyễn hàng mấy
tuần, con thuyền sẽ rập rờn trên sóng ngòi, sóng kệnh, sóng sông cái, sóng
biển rộng..., tha hồ thăm các bến, các giang khẩu, các phụ đầu [2;600]. Một
loạt các địa danh của chuỗi hành trình trên biển đã hiện ra: kênh Toán – một
đƣờng thủy gay go nhất, một sông đào kiểu chữ chi vào một buổi tối nhƣ trát
hắc ín, “toàn bè là bè. Hết gốc bồ đề lại đến nứa”; đồn Lạch Trƣờng; cửa bể
Thần Phù, hang Từ Thức, Vƣờn Đào, Bến Chúa – những địa danh đầy cám
dỗ, mời gọi. Sau ba tiếng thuận gió, tàu lách vào đất Phát Diệm, Ninh Bình,
quê hƣơng của sự gieo mầm đạo vào xứ này – với bao nhiêu nóc nhà thờ đạo.
Và hai bên ven lạch, bên phải bên trái, quá trong những làng mạc xa kia đều
là nhà thờ cả [2;607]. Cửa biển Đồn Cống (Ninh Bình) thực là một thƣơng
cảng sầm uất, trạm nghỉ chân của những con tàu ra Bắc vào Nam san sát
những cột buồm và giây lèo. Thuyền Thanh, mành Nghệ, thuyền Nam thôi thì
đủ. Ở đây có thể gọi là cái rừng cột buồm được [2;607]. Trang tùy bút mang
đậm chất du kí của Nguyễn Tuân đã làm đắm say những tấm lòng ƣa phiêu
lƣu. Phong cảnh thiên nhiên cảnh biển của Tổ quốc hiện lên thật gợi cảm hấp
dẫn, qua đôi mắt quan sát tài hoa làm siêu lòng bất kì ai khi nhà văn tả những
cánh buồm trên mặt bể: hôm nay tôi mới nhận thấy hết cái ý vui sướng ngụ
trong mấy chữ “thuận buồm xuôi gió”. Tất cả bấy nhiêu thuyền đều dong
buồm hết. Buồm lá trướng của thuyền Nam đúng là những bức trướng vải
đám ma. Buồm chỉ thiên của đoàn thuyền Thanh đẹp nhất. Và mạnh bạo nhất
thì vẫn là những cánh buồm dơi vẽ lại cái dáng điệu của những chiếc thuyền
Tàu Ô đi trên biển [2;608].
Tùy bút Chiếc va li mới không chỉ tái hiện những bức tranh thiên nhiên
biển trời mây nƣớc, mà còn thể hiện cái nhìn trìu mến, ấm áp đầy trân trọng
41
cảm thông của nhà văn trƣớc bức tranh đời sống con ngƣời. Những ngƣời lao
động Sơn Nam Hạ ở ven các bờ biển phía Bắc Thanh Hóa có tính cách hiền
lành, chân phƣơng. Đó là các cô gái buôn ở xứ đạo Phát Diệm đảm đang, tháo
vát, chịu thƣơng chịu khó, vất vả trên sông nƣớc bập bềnh có khuôn mặt và
cặp mắt xinh đẹp đều rập theo cái vẻ đẹp nhu mì của thánh Maria.... những
cô gái Kim Sơn chèo những chiếc thuyền thúng đi chào hàng. Họ quỳ gối
xuống sạp thuyền, hai tay chèo đều, thuyền nan lướt qua, len vào kẽ các
thuyền gỗ... Cái đám phụ nữ bán hàng tạp hóa trên mặt nước này có đùa họ,
không bao giờ họ biết giận [2;608]. Đặc biệt, cảnh những ngƣời dân chài cửa
biển Lạch Trƣờng lặn bắt những con hầu vô cùng khó nhọc cổ lòng thòng cái
dây có thánh giá đang rỏ nhiều giọt nước. Họ ngậm ngang mồm một con dao,
lặn xuống nước một lúc lâu, tìm những tảng hầu cắn vào sườn đá cạy ra rồi
ngoi lên mặt nước, vuốt mặt nhổ và thở phì phì; họ vuốt mặt, vuốt mắt và nhìn
lại chân trời đẹp với sự khó nhọc đăm chiêu [2;605]. Những cặp mắt toét và
những cái miệng mếu máo đầy nƣớc mặn ấy của những ngƣời đi cạy hầu
khiến cho lòng nhà văn trĩu nặng suy tƣ về sự khó nhọc vất vả, nguy hiểm của
những ngƣời dân chài nghèo. Họ phải đánh đổi, đánh cuộc mạng sống hàng
ngày vì miếng cơm manh áo, có ngƣời lặn xuống có khi không nổi tăm lên
nữa, lấy luôn cái đáy bể có lót bọt đá ấy làm một cái mồ.
Nhƣ vậy, những bức tranh thiên nhiên cảnh vật đất nƣớc và bức tranh tả
thực cuộc sống lao động ấy cho thấy Nguyễn Tuân không phải là một khách
giang hồ chỉ biết kiếm tìm niềm vui xê dịch thỏa mãn đam mê bản thân. Ông
không phải là một con ngƣời vô tâm, vô cảm hoàn toàn dửng dƣng với ngoại
cảnh và thời cuộc. Ông không hoàn toàn thoát li xã hội, mất hẳn gốc rễ với
cuộc đời, mà luôn trìu mến đau đáu, giàu lòng trắc ẩn, giàu tấm lòng đôn hậu
với con ngƣời, đất nƣớc quê hƣơng. Qua đó giúp chúng ta hiểu thêm một cái
tôi Nguyễn Tuân tha thiết yêu thiên nhiên và quê hƣơng đất nƣớc nhƣng lại rất
42
cô đơn, bất lực trƣớc thực tại và càng yêu mến, trân trọng ngƣời nghệ sĩ tài tử
với tấm lòng thiết tha với cái đẹp.
2.1.2. Cảnh sắc những miền đất lạ
Nguyễn Tuân mê xê dịch nhƣng trong hoàn cảnh đƣơng thời, ông
không có nhiều cơ hội đƣợc xuất ngoại ra ngoài biên giới. Chuyến đi Thái
Lan thời học sinh rồi bị bắt lại quản thúc coi nhƣ thất bại, nhƣng ông không
ngừng tìm kiếm những cơ hội đƣợc đi ra khỏi biên giới để trải nghiệm cuộc
sống nơi đất khách quê ngƣời. Chuyến đi Hồng Kông có thực đƣợc ông ghi
chép lại trong du kí Một chuyến đi, còn những chuyến lênh đênh trên biển
khắp thế giới châu Âu, châu Mĩ của nhân vật Bạch trong Thiếu quê hương là
ông đi trong ƣớc mơ, trong trí tƣởng tƣợng vô cùng phong phú của mình.
Trƣớc đó chắc cũng đã khá nhiều ngƣời Việt Nam có dịp đặt chân tới Hồng
Kông nhƣ Phan Bội Châu cùng nhiều nhà ái quốc khác ghé Hồng Kông vào
đầu thế kỷ XX trong lúc bôn ba hải ngoại tìm đƣờng cứu nƣớc. Tới mà "thăm
thú" không biết đã có những ai, chỉ biết đến năm 1938 thì có Nguyễn Tuân.
Chính thức, Nguyễn Tuân qua Hồng Kông để đóng phim. Nhƣng đó chỉ là cớ
để nhà văn thỏa mãn cái sở thích xê dịch nổi tiếng của mình. Với Nguyễn, ĐI
đã là ĐẾN rồi! Nếu chỗ đến lại đáng thăm nữa, thì càng hay.
Đi xa, dễ thấy nhiều cái lạ. Chỉ kể những cái mà mắt ai cũng thấy đƣợc,
bằng những lời mà ai cũng viết đƣợc, đã đủ lôi cuốn nhiều ngƣời đọc. Huống
chi Nguyễn Tuân nhìn vừa bằng mắt y nhƣ mọi ngƣời vừa bằng một tâm hồn
nhạy cảm khác thƣờng và kể những cái đã thấy thành một thứ văn xuôi đẹp
đẽ. Viết về "Một chuyến đi" xa, có khi Nguyễn không kể chuyện lạ nào hết,
mà say sƣa vẽ tâm trạng Nguyễn. Vẫn là mình, nhƣng có khi ở nơi xa mình
mới dễ thấy một nét chân tƣớng của mình! Du kí Một chuyến đi đƣợc coi nhƣ
một dạng tự truyện, ông đã kể lại kỹ lƣỡng nhiều chuyện liên quan đến cái lần
nhà tài tử nghiệp dƣ cùng với một số bè bạn trong chuyến đi Hồng Kông năm
43
ấy. Những trang đặc sắc để lại ấn tƣợng mạnh với ngƣời đọc là những trang
ghi lại đƣợc một cách sắc sảo, tài hoa và chân thực một số nét riêng của phong
cảnh cũng nhƣ phong tục trong sinh hoạt của con ngƣời trên đất Hƣơng Cảng.
Rời cảng Đồ Sơn – Hải Phòng, con tàu say rƣợu Kinh Châu đƣa
Nguyễn ra khơi trong tâm trạng hào hứng, phấn khích cực độ. Anh chàng lãng
tử trẻ tuổi dƣờng nhƣ không ngủ chỉ để tận dụng thời gian trải nghiệm hành
trình. Qua thành phố Bắc Hải, tên tiếng Anh là Pakhoi, nổi tiếng là nơi đánh
nhiều cá mực ngon. Những mái nhà lầu lợp toàn thứ ngói đá đen màu trắng
mốc khiến Nguyễn liên tƣởng đến “những con cá mực phơi đƣợc già nắng
đang phô màu nắng ngon lành của thứ hải vị đắt tiền”. Mỗi hải trình qua đi
với anh đều thật thú vị. Mảnh đất Hồng Kông hoa lệ đã hiện lên trong con mắt
quan sát tỉ mỉ cảnh vật của ngƣời nghệ sĩ. Một thành phố sôi động, đông đúc
với các phƣơng tiên giao thông hiện đại. Đêm Hồng Kông rực rỡ thực sự là
một kinh đô ánh sáng: Ánh sáng của Hồng Kông là ánh một kinh thành tự
cháy bùng lên theo điện học làm mờ mắt và nóng mặt những lữ khách chưa
quen [1;248]. Đây còn là thiên đƣờng của sự ăn chơi giải trí đắt đỏ: đờn, hát,
rƣợu chè. Mua danh, đốt cháy hết cơ nghiệp ở phố ăn chơi Sạch Sùng Chủi
của khách thƣợng lƣu chỉ trong một đêm, bởi “một thồi rƣợu hạng cuối cũng
phải trả một trăm đồng bạc Anh, một đôi chục bạc để ăn một trái lê trái đào”
đƣợc ngƣời đẹp nơi đây cắt gọt nghệ thuật. Những cao lâu, tửu điếm san sát
“dội lại những tiếng đồng vọng trận cƣời”. Các khu ăn chơi ở Hồng Kông nhƣ
Kim Lăng tửu điếm, khách sạn Quảng Châu sang trọng, lộng lẫy, hiện đại
nhƣng đắt đỏ vì mỗi dịch vụ ở đây dù là đi tiểu, châm thuốc, chải bụi trên
áo...cũng phải trả tiền “boa” rất hậu. Hồng Kông thực sự còn là nơi ăn chơi
giải trí số một khi về đêm bến nước sáng như ban ngày, đèn thắp quá sao sa,
soi mình xuống mặt nước cửa sông Châu Giang, nơi khách lãng tử yêu sống
đêm, đổi ngày làm đêm không sợ thiếu chỗ tụ họp hành lạc [1;258] ở những
kè đá bến Hƣơng Cảng, tiệm hút hồng phiến, vũ quán, tửu điếm, nhà chứa, trà
44
đình... Những vũ nữ Hồng Kông trong những tiệm nhảy vô cùng xinh đẹp
“tiếng trong nhƣ thủy tinh, ấm áp nhƣ hạnh phúc” với những cái tên Tàu gợi
cảm: Trần Lệ Liễu, Thu Muội Muội, Hoài Thanh Thanh, Cúc Tiểu Muội...
Không khí ăn chơi không kém Pari chút nào. Hƣơng Cảng thực là đẹp lộng
lẫy một cách dữ dội, xa xỉ một cách tàn nhẫn với khách phong lƣu, nhƣng ẩn
chứa đằng sau sự phồn hoa ấy là những mảng tối buồn của bức tranh. Đó
chính là cuộc sống của những ngƣời dân nghèo với rất đông những đứa trẻ
lang thang đánh giầy kiếm tiền trên phố chẳng khác gì ở Việt Nam chúng cứ
lăn xả vào giữa hai chân ôm lấy ống chân, rồi không đợi nói năng, lấy sì –
đạt trát lia lịa trên mặt giầy, rồi chải nhanh như chớp [1;265].
Đơn độc ngay trên quê hƣơng mình, trốn tránh mọi ngƣời, chỉ lấy sự
lang thang chỗ này chỗ nọ làm vui, những tƣởng ở Nguyễn Tuân đã chết hẳn
con ngƣời bình thƣờng. Nhƣng không, đến khi có dịp xa quê thực sự, thì
Nguyễn Tuân lại có một cái Tết thật buồn, đến mức ngƣời ta phải tự hỏi
không biết đâu mới là bản chất thực của con ngƣời phiền toái, phức tạp, mâu
thuẫn đó. Cảnh ông ăn Tết ở xứ ngƣời xảy ra vào đầu năm Dần (1939). Hiện
lên trƣớc mắt chúng ta là một bức tranh hai màu đối lập. Một bên là cảnh dân
địa phƣơng náo nức vui thú. Những tràng pháo dài hàng vạn quả đua nhau nổ
dữ dội: Pháo nổ vang cả một góc trời Tàu. Xác pháo bay xuống như trận mưa
khô...Xác pháo họ đốt rơi xuống mặt hè dầy có đến mười lăm phân tây. Xác
pháo ngập mắt cá chân khách bộ hành là thường [1;329]. Những gốc đào tƣơi
tua tủa hoa nhạt và nụ thắm. Đêm Hƣơng Cảng đỏ rực với phiên chợ Tết “nhƣ
cảnh bài trí trong một truyện thần tiên hoặc trong Liêu Trai”. Một bên là tâm
trạng buồn thiu của ngƣời lữ khách cô độc, tiền không có, bạn cũng không, đi
giữa đƣờng vui phải giơ tay nắm chắc lấy lòng can đảm của chính mình để
khỏi chán chƣờng thêm: Tôi đi qua phố Hương Cảng như một thằng người
máy, như một tên lính mệt mỏi từ mặt trận về; mắt mờ, hồn mê và chân vẫn
bước. Vốn là điều làm nên sự kiêu hãnh của ngƣời lãng tử, sự khác ngƣời với
45
Nguyễn Tuân trong những ngày Tết năm ấy chỉ còn là một cái gì nặng nề, cô
đơn, lòng lạnh giá không sao chịu nổi. Trong lúc tỉnh táo, tác giả cảm thấy rất
rõ là mình đang đánh mất mình: Tôi chiều nay hằn học với số phận, dám cáu
kỉnh với cả cuộc đời phiêu lưu mà xưa nay tôi vẫn ca ngợi. Chiều nay, tôi
cũng muốn vứt đi một cái gì...Giữa cái tưng bừng của một thị trấn lớn, tôi
lang thang, cô độc như một kẻ bị đi đày [1;330]. Nghe tiếng pháo nổ, ngắm
sắc thắm hoa đào mà nỗi nhớ quê nhà trào dâng khôn xiết: chiều hôm nay, tôi
tưởng như đang đứng ở phố Hàng Bồ, Hà Nội; cảm động, ngồi thừ ra, đâm
nhớ quê hương và phần mộ ông bà, hương vòng, hương nén, trầm, bạch đàn
nghi ngút cháy thi với bạch lạp [1;352]. Cảnh tƣợng cái Tết trong quá khứ đó
với Nguyễn lúc này hiện lên thật ấm áp, đáng yêu. Nét đẹp văn hóa truyền
thống ngàn xƣa bỗng chốc hiện về rõ rệt trong niềm bâng khuâng tiếc nuối.
Chƣa bao giờ con ngƣời Nguyễn lại hiện ra yếu đuối, phức tạp đến thế: vừa
hào hứng thích thú, vừa trống trải cô đơn! Song cũng cho thấy đây là lúc
Nguyễn đáng yêu hơn bao giờ hết: sau cái lần vỏ ngạo ngƣợc, ngông nghênh,
hoang tàng kia, hoá ra cũng rất mềm yếu, tình cảm, yêu và gắn bó với quê
hƣơng. Nghĩa là rất gần với mọi ngƣời, ta hiểu thêm một cái tôi Nguyễn Tuân
lúc tha hƣơng tha thiết yêu quê hƣơng đất nƣớc; cô đơn bất lực trƣớc thực tại
và càng yêu mến, trân trọng ngƣời nghệ sĩ có tấm lòng thiết tha với cái đẹp.
Chứng tỏ những ký ức, con ngƣời gắn bó truyền thống, con ngƣời bổn phận
trách nhiệm luôn tồn tại trong tiềm thức chứ không hẳn chỉ là con ngƣời lƣu
đãng, chỉ biết đến đi và đi, đƣợc đi mãi là niềm vui.
Trong Thiếu quê hương, bằng trí tƣởng tƣợng phong phú tài hoa, nhà
văn đã gợi lên những bức tranh phong cảnh rộng lớn, thơ mộng, xuyên quốc
gia của anh chàng Bạch từng là bồi tàu biển nƣớc ngoài, nhƣ: đồn điền cao su
Sít Nun ở Cao Miên có những trận gió lốc mỗi cơn hai tiếng đồng hồ cứ xoáy
tít trên diện tích độ trăm mẫu trông nhƣ rồng đất lấy nƣớc ở trên cạn và xoáy
đến đâu thì thì nhổ cả rễ cỏ và lá khô đến đấy; tiếng gió rừng thổi vào tỉnh
46
Lạc Hòn- một vùng địa đầu Xiêm La, cạnh sông Cửu Long, đối ngạn với tỉnh
Lào Thà Khẹt. Những địa danh xa hoa nổi tiếng thế giới mà đời ngƣời bồi tàu
giang hồ đã đặt bƣớc chân: các thƣơng khẩu nổi tiếng sầm uất, tháp Eiffel,
cầu Alexandre III, sông Seine của Pari. Các hải cảng nổi tiếng: cảng Macxay,
cảng Le Havre - điểm giao thông hàng hải quan trọng của nƣớc Pháp. Các
thành phố, thủ đô hoa lệ nhƣ Pari, Chicago, Nữu Ƣớc (New York), San
Francisco (Cựu Kim Sơn); rồi Thƣợng Hải, Hƣơng Cảng, Hoành Tân,
Hambourg, Rotterdam... đều lần lƣợt hiện lên. Các eo biển tên tuổi trên hải
đồ, kênh Panama, kênh Tô Di Sĩ ở biển Hồng Hải. Mây trời Ý Đại Lợi; các
giang khẩu xứ Nam Mĩ; những bộ lạc Mọi (da đen) đốt lửa, nhảy múa, bắn
tên lửa lên nền trời chiêu dƣơng tỏ lời mừng các thủy thủ. Những thiếu phụ
Hồi giáo Thổ Nhĩ Kì đeo mạng che mặt đầy bí hiểm ở bờ biển Hắc Hải;
những cô Geisha in hình vào núi Phú Sĩ xứ sở Phù Tang (Geisha: Nghệ giả,
con ngƣời của nghệ thuật, là nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả
năng trò chuyện, một nghệ thuật giải trí truyền thống của Nhật Bản). Các đại
dƣơng lớn nhƣ Thái Bình Dƣơng, biển Hắc Hải, Hồng Hải, Địa Trung Hải,
Ấn Độ Dƣơng...
Tóm lại, có những địa danh gắn với hành trình đi thực của Nguyễn
Tuân, nhƣng cũng có những địa danh đƣợc tác giả viết bằng khát vọng đƣợc
đi, của trí tƣởng tƣợng phong phú, bay bổng và sự tài hoa uyên bác nhƣng
hiện lên rất sống động và chân thực. Những không gian xa xôi, bát ngát, hoa
lệ đó không chỉ cho thấy ƣớc muốn mãnh liệt đƣợc xê dịch đi xa vƣợt giới
hạn biên giới của mà còn biểu hiện thế giới tinh thần bế tắc, tù túng, ngột ngạt
của Nguyễn Tuân và lớp trí thức đƣơng thời. Họ đành tìm đƣờng thoát li tƣ
tƣởng vào những chuyến đi trong tâm tƣởng. Đó là những bức tranh cảnh vật
thiên nhiên phong phú đƣợc tái hiện bằng ngôn từ giàu hình tƣợng và tài hoa.
Bên cạnh những cảnh vật giàu sang, hoa lệ, rực rỡ ánh sáng khiến cho ngƣời
khách tài tử choáng ngợp say mê lạ lẫm, những bức tranh mộc mạc mà thanh
47
tú diễm lệ của quê hƣơng, nhà văn cũng gợi lên những mảng màu tối xám của
cuộc sống lao động lam lũ khốn khó của ngƣời dân đồng thời thể hiện cái
nhìn trìu mến, cảm thông xót xa đôn hậu của mình. Thế mới biết, dẫu có đam
mê dong duổi và tâm hồn lãng đãng phiêu du nhƣng con ngƣời Nguyễn Tuân
cũng thật giàu trắc ẩn và nhạy cảm trƣớc đời sống con ngƣời. Ham đi, ham
khám phá nhƣng trong lòng vẫn đầy tha thiết gắn bó với cảnh sắc đất nƣớc
quê hƣơng.
2.2. Cảm hứng về con ngƣời
2.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa và có cá tính độc đáo. Cái Tôi cá
nhân luôn tỏ ra là “ngƣời lỗi lạc một cách đặc biệt, không giống ai và không
cho ai bắt chƣớc đƣợc mình; một cái Tôi lập dị, ngang bƣớng, đi lù lù giữa
cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung quanh, khiêu khích với xung quanh”
(Phan Cự Đệ). Sinh thời Nguyễn Tuân quan niệm và chia con ngƣời làm hai
loại: những ngƣời tài hoa, nghệ sĩ – chiếm số lƣợng ít, nhóm nhỏ và đám
chúng nhân tầm thƣờng và tẻ nhạt – chiếm số lƣợng nhiều, đám đông. Nhà
văn rất có ý thức đề cao con ngƣời tài hoa nghệ sĩ, thậm chí quan niệm này
còn đƣợc ông đẩy đến mức cực đoan: đã làm ngƣời thì làm con ngƣời thiên
thần hoặc xấu xa tệ hại còn hơn làm con ngƣời tầm thƣờng, những ngƣời
trong mắt không có ánh hoàng hôn và ánh lửa. Nguyễn Tuân thích những kiểu
ngƣời nhƣ Thúy Kiều và vô cùng dị ứng, không thể chịu nổi với kiểu ngƣời
nhàn nhạt Thúy Vân. Hoặc làm một chiến sĩ xã hội, hoặc sa đọa nhƣ một kẻ
trác táng; hoặc trắng hẳn hoặc đen hẳn; không nên làm cái đám chúng nhân
mờ mờ, xam xám ở giữa. Thà cứ vụt lóe lên rồi tắt còn hơn kéo dài một cuộc
đời vô vị, tẻ nhạt; giống nhƣ:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Xuân Diệu)
48
Thế giới nhân vật xê dịch của ông luôn là những con ngƣời đặc biệt: rất
lạ, lập dị, mang phẩm chất nghệ sĩ, tài hoa tài tử; phóng túng, tự do, tự tại;
ham đi, muốn đi, thích phiêu du qua không cần mục đích, phƣơng hƣớng. Đi
để tận hƣởng vẻ đẹp của thiên nhiên, các vùng đất lạ và dƣờng nhƣ để thoát li
cái thực tại đau buồn đang hiện hữu trƣớc mắt. Họ còn là những ngƣời không
màng vật chất, địa vị, thậm chí không màng cả tình yêu; không bị những tình
cảm cá nhân, gia đình thông thƣờng chi phối; tìm niềm vui, hạnh phúc và ý
nghĩa cuộc sống trong những chuyến đi. Là con ngƣời phóng lãng, nhƣng họ
cũng không hề vô tâm mà rất nặng tình. Mặc dù mang những cái tên khác
nhau, nhƣng họ đều là sự phân thân của chính Nguyễn Tuân.
2.2.2. Các kiểu người giang hồ xê dịch
2.2.2.1. Chân dung những con người tài tử, xem xê dịch như một thú vui,
một triết lí sống
Một quy luật trong văn học là bạn đọc tò mò và yêu thích tác phẩm của
một nhà văn có lẽ còn vì những bí hiểm độc đáo, khác ngƣời trong lối sống
của nhà văn đó. Nhà văn Ơnit Hemingway (1899 -1961) của nƣớc Mĩ là một
ví dụ. Sinh thời, ông là ngƣời đƣợc gần nhƣ cả xã hội quan tâm. Những cá
tính kỳ lạ nhƣ: khả năng cô độc, kiên trì ngồi xem đấu bò tót, đi săn, đi câu
giữa đại dƣơng…, đƣợc ngƣời ta săn tìm, truyền tụng, đồn thổi bàn tán sôi
nổi. Có ngƣời cho rằng hình nhƣ ông cố ý trình ra trƣớc xã hội một con ngƣời
lập dị để gây sự chú ý của thiên hạ. Bởi những giai thoại độc đáo kia giúp cho
ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi hơn. Văn học trung đại Việt
Nam có Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hƣơng... cũng là những nhà thơ có lối
sống phóng khoáng vƣợt ra ngoài khuôn khổ. Thời hiện đại cũng đã có một
nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway, chính là Nguyễn
Tuân. Trong khoảng gần nửa thế kỉ cầm bút, ông đã tạo nên quanh mình cả
núi giai thoại, chất xúc tác rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh,
49
bí hiểm mà ngƣời đọc tò mò cố tìm biết. Trƣớc Cách mạng, ngay từ khi chƣa
viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng trong giới làm văn làm
báo nhƣ một ngƣời chơi ngông, tiêu tiền nhƣ rác, luôn xê dịch, hết sức khinh
bạc, có những cách ứng xử vƣợt lên mọi quy cách thông thƣờng. Từ khi
chƣa đầy 30 tuổi, ngƣời tài tử ấy đã mấy phen ngồi uống rƣợu ngang hàng và
kết giao thân thiết với thần ngông Tản Đà; mấy lần vƣợt biên giới chẳng vì
mục đích gì cả. Không có gì lạ khi thấy trong văn xuôi, những khía cạnh đó
của con ngƣời chàng Nguyễn vẫn đƣợc giữ nguyên, thậm chí đƣợc tô đậm
lên. Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết, thậm chí chẳng
thèm che xấu thói tật xấu. Ông có đặt cho nhân vật tên họ khác đi thì ngƣời
đọc cũng nhận ngay ra bóng dáng tự truyện. Đọc văn Nguyễn Tuân, bạn đọc
luôn thắc mắc không biết Bạch, Nguyễn, Hoàng, Ng, Ngh, những kẻ xƣng
“tôi” trong các tùy bút và nhà văn có mối quan hệ nhƣ thế nào. Thế là sự tiếp
xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Điều đó làm cho ngƣời ta cứ phải nấn
ná giữa các trang sách để tìm hiểu thêm về con ngƣời Nguyễn. Khi đã đọc kỹ
lƣỡng, sẽ bắt gặp một con ngƣời ngông ngạo, lập dị nhƣng rất tha thiết với
đời; một ngƣời nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp; gắn bó với vẻ
đẹp nghệ thuật truyền thống bằng một óc thẩm mỹ độc đáo. Đây chính là lý
do mà ngƣời ta yêu thích ông lâu dài. Nhƣng nếu không có cái tầng thứ nhất
với những trò chơi trội độc đáo thì không chắc ngay từ đầu tác phẩm của ông
đƣợc chú ý và cuốn hút nhƣ thế. Huyền thoại đã làm cho bạn đọc chú ý nhiều
hơn đến sáng tác của Nguyễn Tuân.
Trƣớc Cách mạng, Nguyễn Tuân bƣớc vào văn đàn và gắn liền với trào
lƣu văn học lãng mạn. Thời điểm không khí ngột ngạt và tù túng của chế độ
thuộc địa bao trùm toàn bộ xã hội Việt Nam. Văn học lãng mạn bộc lúc này lộ
những biểu hiện cực đoan, tiêu cực; những yếu tố tích cực, tiến bộ đang dần
mờ nhạt và lùi xa. Cái tôi lãng mạn rơi dần vào bế tắc, chán chƣờng. Các văn
nghệ sĩ luôn cảm thấy bất hòa sâu sắc với xã hội bức bối, ngột ngạt; nên trong
50
ý thức, mỗi nhà văn luôn muốn tìm sự giải thoát. Nguyễn Tuân cũng đã đặt
mình trƣớc bao câu hỏi lớn: đi đâu? về đâu? sống ra sao? làm gì? làm nhƣ thế
nào? Tìm lấy một cớ chắc chắn để thoát li, có người chọn các môn thể thao,
hoặc thuốc phiện, hoặc ái tình. Có người chọn rượu, có người chọn cái quên
trong sự phụng sự âm nhạc, hội họa, văn chương. Ta sẽ dựa vào cái cớ nào
sống cho đỡ nhạt?[1;719]. Và cuối cùng ông đã hành động giống Thế Lữ,
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên chọn cho mình một lối
sống. Nhƣng chỉ khác đó không phải là cõi tiên Bồng Lai, lâu đài tình yêu, lời
thơ miên man thiên cổ sầu về cái đẹp xƣa và cũng không phải là bóng ma Hời
sờ soạng đêm khuya, mà là thoát li vào không gian. Lấy cái kì vĩ, rộng lớn
của vũ trụ để khỏa lấp nỗi trống vắng trong lòng, tự nguyện làm ngƣời lữ
khách của mãi mãi.
Con ngƣời lãng tử, giang hồ ấy vẫn mang trong mình vẻ đẹp tài hoa tài
tử nhƣ những con ngƣời của một thời vang bóng. Nhƣng Nguyễn không thể
suốt đời đơn độc trở về với vang và bóng, sống với những nhân vật đã già, đã
mất hết ham muốn. Bây giờ nhân vật của ông là những ngƣời trẻ tuổi, có trí
tuệ học vấn, tràn đầy sinh lực, có khát vọng tự do giải phóng cái tôi cá nhân,
đam mê xê dịch và muốn tận hƣởng cho no say mọi hƣơng sắc cuộc sống trần
thế. Nguyễn là con ngƣời của những đam mê và những đắm đuối không định
trƣớc; chạy theo quan niệm “sự đổi chỗ trong không gian là thoát li khỏi hoàn
cảnh tủn mủn của đời đứng yên mãi một chỗ”. Vốn thông minh và nhạy cảm,
con ngƣời ấy thèm khát tắm mình vào cái không khí hiện tại, nắm bắt cho hết
mọi hình sắc, lắng đọng mọi thanh âm, muốn buông thả, muốn vùng vẫy
trong hiện tại, để rồi nói ngay về cái hiện tại ấy, trình ra trƣớc mọi ngƣời
những xúc động mà mình thu nhận đƣợc và lấy sự độc đáo của cái tiếng nói
riêng ấy làm lý do tồn tại của ngòi bút. Sự sùng bái hiện tại khiến cho một
thời gian dài sau Vang bóng một thời, gần nhƣ Nguyễn không bao giờ trở lại
với cái quá vãng vàng son ấy nữa. Thay cho lịch sử quá khứ là cái đời sống
51
đang trôi chảy. Không còn những ông già ngồi uống trà, nhấm nháp hƣơng
cuội, thả thơ và bảo ban con cháu làm đèn trung thu. Giờ đây, trên trang sách
là hình ảnh những chàng trai trí thức sôi sục ham muốn, bƣơn bả đi và viết,
coi trọng hƣởng thụ hiện tại; lẽ sống hƣớng về hƣơng thơm, mật ngọt của
cuộc đời hôm nay. Các tập sách xê dịch nổi tiếng của Nguyễn Tuân đều xoay
quanh những biến thể khác nhau của cùng một công việc là định hƣớng vào
hiện tại và ghi lại những bƣớc đƣờng trôi nổi của con ngƣời vừa tìm cách
cƣỡng lại hoàn cảnh, vừa luôn thích thú vì sự thích ứng kỳ lạ của mình với
mọi đổi thay của hoàn cảnh.
Chất khinh bạc và lối sống lãng tử đã trở thành nét phong cách, tín
hiệu thẩm mĩ đặc biệt của các nhân vật. Chính chất khinh bạc, lãng tử đã trở
thành sợi tơ óng ánh thắt buộc, kết nối những nhân vật ham xê dịch trong mối
“đồng bệnh tƣơng liên”. Đó là thái độ, sự trải lòng mình ra trƣớc cuộc đời
chật hẹp, tù túng trƣớc 1945. Những tƣởng chất khinh bạc sẽ làm mất đi ý
thức trách nhiệm, sẽ khiến ông triền miên trong những đêm dài khói thuốc
phiện; lùi về quá khứ, chạy vào trụy lạc, và vào cái tôi lập dị và ngang bƣớng.
Nhƣng tất cả những miền trú ẩn ấy đều không đủ rộng để chở che tâm hồn
vốn nhiều đau đáu trăn trở. Cuối cùng, không thể trốn chạy mãi đƣợc, nhà văn
đành phải đối diện với bản thân ở hiện tại; chất vấn chính mình, tìm niềm vui,
cảm hứng cuộc đời ở những chuyến đi thoát li vào không gian bao la. Nhà văn
lao vào giang hồ xê dịch để phát triển giác quan, để hƣởng cho hết những sinh
thú bất thình lình và những cảm xúc không chờ đợi. Ông cho rằng sống ở đời
là phải đƣợc phơi mình ra trong gió bụi, đƣợc ngủ lúc đứng, đƣợc nằm mà
thức cả đêm cho thấm thía cái hƣơng vị đƣờng trƣờng.
Sự ham đi, ham quan sát đƣợc đẩy đến tận cùng, đƣợc nâng lên cực
đoan thành bệnh “xê dịch”. Mất tin tƣởng vào cuộc đời, chẳng thể tìm lại quá
khứ vàng son, Nguyễn rút cuộc chỉ tin vào cảm giác hiện tại là có thật. Du kí
Một chuyến đi có thể xem là một chuyến xê dịch xa đầu tiên trong văn
52
Nguyễn Tuân. Ông đã tận dụng mọi cơ hội để đƣợc đi xa, ông vƣợt biển đến
tận Hồng Kông chỉ để đóng một vai rất phụ, xuất hiện trên màn ảnh không
đầy năm giây! Nhƣng đó là một cơ hội chính đáng hiếm có để ông đƣợc vƣợt
biên giới một cách đàng hoàng. Các nhân vật xê dịch dƣờng nhƣ phảng phất
bóng dáng một số nhân vật sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan của Andre
Gide. Nhƣ tên gọi của các thiên tuỳ bút đã chỉ rõ, họ chỉ có mỗi căn bệnh duy
nhất là thèm đi, trở thành mãn tính, khó chữa, “bệnh xê dịch” (Bạch, Ng). Họ
luôn luôn thèm đi, ham đi, muốn đi, chúng ta là hạng người đem cả một kiếp
sống để phụng sự du lịch [2;420]. Những lãng tử giang hồ chỉ thích sống một
cuộc đời vô định “không có bờ bến, không có ngày tháng”. Những “bệnh
nhân không gian” đó hoàn toàn khác với xung quanh, có suy nghĩ và hành
động nhƣ ngƣợc với tất cả thiên hạ; tính cách phóng túng, “đều là những hòn
bi lăn ngƣợc dốc trong khi thiên hạ đang từ trên thuận chiều thoải xuống”
(Phan Cự Đệ). Sau những ngày ngồi một chỗ, để cho trí tƣởng tƣợng bay
bổng và thấy hết thi vị của việc đi, Nguyễn lại dồn mọi hăm hở và tìm thấy đủ
vui buồn trong những chuyến xuôi ngƣợc: Khi là chuyến dềnh dàng trên một
con thuyền lênh đênh từ Thanh Hoá ra tới vùng biển Quảng Ninh (Chiếc va li
mới); khi theo đƣờng sắt rong ruổi một cách tuỳ tiện, qua các tỉnh miền
Trung, sẵn sàng nghỉ lại vùng nào đó vài ngày mới đi tiếp... Cứ thế kéo dài
cuộc chơi cho tới khi đặt chân tới cái ga cuối cùng trên tuyến đƣờng sắt Bắc
Nam là ga Sài Gòn (Một chuyến đi thăm nhau), rồi xuống miền Tây Lâm
Viên gạo trắng nƣớc trong. Cho tới Thiếu quê hương thì nhà văn còn để nhân
vật của mình lang thang sang tận châu Âu, châu Mỹ.
Đối với Nguyễn Tuân, cuộc sống là bể rộng mênh mông và ngƣời nghệ
sĩ là con thuyền lênh đênh không có bến đậu. Đi và đi, đã trở thành một mệnh
lệnh trái tim để thực thi trong suốt cuộc đời các nhân vật. Họ muốn đƣợc đi,
sống chết với chuyện đi. Đi, tức là tất cả. Đi, tức là hạnh phúc; chỉ muốn sống
để đi cho đến chết. Chỉ có chết thì mới nghỉ. Ăn ngon, quần áo đẹp, cảnh yên
53
nhàn phú quý, một ngƣời vợ hiền, một đứa trẻ đĩnh ngộ, một ngƣời bạn trai
trung thành, một thiếu nữ tri âm liên tài bấy nhiêu các giá trị về tinh thần, về
luân lí, đem cộng lại vẫn cứ không bằng được những giây lát lãng du, những
cảm giác chuyển di linh tinh [1;929].
Ham mê xê dịch còn đƣợc nâng lên thành triết lí sống. Ngay mở đầu
tiểu thuyết Thiếu quê hương, Nguyễn đã lấy câu nói nổi tiếng của Paul
Morand làm châm ngôn sống của mình: Ta muốn sau khi ta chết đi có người
thuộc da ta làm chiếc vali [1;669]. Một nguyên tắc kiên định, bất di dịch
trong đời sống của anh chàng tài tử là triết lí sống gắn với không gian: Đời
chàng không thể có người giai nhân dính vào, chàng canh giữ lòng chàng,
tịnh không để một cuộc ngoại xâm đàn bà nào lẻn vào mà phá rối, hơn nữa
cần phải giữ tự do của mình cho được toàn vẹn và quý tự do hơn tất cả những
sắc đẹp đàn bà trên đời, và lòng chàng là gỗ đá. Gỗ đá ấy chỉ còn rung động
trở lại trước những đợt sóng gió của bể lớn thôi [1;948,949].Tiểu thuyết dài
370 trang ấy chủ yếu xoay quanh nhân vật Bạch với căn bệnh xê dịch, luôn
thích đi, thèm đi. Bạch đi không cần mục đích, đi để thoát li mọi trách nhiệm,
lấy việc đi làm cái thú ở đời. Không đƣợc đi, Bạch thấy mình lâm vào bi kịch
đau khổ vô cùng,...thấy mình bây giờ đã hết là mình rồi và những ngày sống
chỉ còn là rất dài và rất nhạt thôi [1;735]. Hạnh phúc êm ấm của cuộc sống
gia đình trở nên bé mọn, chẳng hề có ý nghĩa; chỉ có nhà ga, bến tàu, con
đường thiên lí, mặt nước rộng là mời gọi được cho Bạch ý nghĩa của cuộc
sống đích đáng [15;847]; một ngƣời bạn ra đi, thậm chí cả mùi thán khí khói
than đá đầu tàu hỏa thoảng qua cũng đã gợi lên nỗi nhớ, nỗi khát khao đƣợc
hòa mình vào không gian cao rộng. Trong cái thú xê dịch, Bạch còn khám phá
ra bao điều thú vị, đó là một loại khoa học đặc biệt, làm giàu cho sự hiểu biết
của mình: Giang hồ không những là một nghệ thuật mà còn là một khoa học
thực nghiệm nữa. Từng trải nghiệm cuộc sống lênh đênh xuyên đại dƣơng và
qua những khoái cảm sự đi của Bạch, nhà văn muốn truyền đến cho ta hứng
54
thú về những chuyến đi xa phảng phất hơi gió mặn của đại dƣơng và những
chân trời xa.
Đi nhiều nhƣng là kiểu đi không mục đích, không xác định rõ đích đến,
nhân vật xê dịch còn là ngƣời rất đặc biệt, lại có bệnh đãng trí và vô tình với
ngoại cảnh, ít khi chịu nhớ tên tỉnh tên xứ tên người ở các vùng đã đi qua.
Đối với tôi thì đi chỉ là đi. Được đặt mình trong xê dịch là tôi thấy khoái rồi,
tôi cần gì phải chọn hành trình và nhớ đến các tên về địa dư. Tôi đi để có
được một nơi mà rời bỏ chứ không phải là cốt đến cho được một chỗ nhất
định nào đã dự tính trước [1;1006,1007]. Mục đích xê dịch của họ vừa đơn
giản vừa rất trừu tƣợng, không giống cách du lịch thông thƣờng; không có ý
thức tìm hiểu về “dân số, về mậu dịch tiền tệ, cái tiện lợi về ăn ở, thời tiết,
cách đi, sự ăn ở mỗi nơi”. Đã từng đi đi lại lại mãi giữa hai biển Hồng Hải và
Địa Trung Hải, nhƣng Bạch không hề biết đến giá tiền tàu, mù tịt về tiền nong
đổi chác ở các vùng ấy, và nếu có phải trở lại những khách sạn cũ rải rác ở
duyên hải hai bể ấy anh vẫn cảm thấy nhƣ mới đặt chân đến lần đầu! Đi chỉ là
đi, đi là để “đổi món” cho giác quan, để đƣợc thay đổi chỗ ở, để đƣợc dời bỏ nơi
đang ở, chứ không có ý định chủ động tìm hiểu về văn hóa phong tục. Tóm lại,
đó là những con ngƣời lãng tử xem xê dịch nhƣ một thú vui trong đời.
Chán lối sống cố định tầm thƣờng, lại là cái tôi cá nhân tài hoa, cá tính
bậc nhất, Nguyễn Tuân còn đẩy ham mê xê dịch lên đến đỉnh cao của sự độc
đáo, ngông ngạo, khác ngƣời khi ông luôn khởi hành vào ban đêm, thức dậy
giữa cái xán lạn của bình minh [1;699]. Hoặc thích trải nghiệm cảm giác xê
dịch trong những hoàn cảnh thời tiết nghiệt ngã “những đêm mƣa to gió lớn,
vào những giờ khuya khoắt”, Bạch lại đấm cửa nhà bạn mình để rủ đi chơi
phiếm! Trong chuyến xê dịch lên xứ Mƣờng để hƣởng “sơn lâm chƣớng khí”,
trƣớc cảnh tiêu điều ảm đạm của bến phà sông Mã một buổi mƣa đêm, anh
bạn Hồ sợ rét lạnh và mƣa gió, ngại ngần trƣớc năm mƣơi cây số đƣờng rừng
với những đèo dốc nhiều đoạn phải xuống xe đi bộ. Thời tiết vô cùng khắc
55
nghiệt “mƣa dầm, gió heo, sƣơng tỏa” nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng với
Bạch lại là một niềm vui lớn vì đƣợc đi. Lúc Hồ yên lòng và sung sƣớng khi
đƣợc nghỉ ngơi trong căn nhà ấm cúng của nha huyện Cẩm Thủy sau chặng
đƣờng xa mệt mỏi và màn đêm đã buông; thì Bạch lại bực mình vì hành trình
phải dừng lại. Anh chỉ muốn hành trình không bao giờ ngừng, mãi mãi đƣợc
trên con đƣờng. Bạch muốn chạy một mạch đến xứ Mƣờng, không phải dừng
ở Cẩm Thủy, vì từ Hà Nội vào đây mới chạy chƣa đƣợc ba trăm cây số! Anh
muốn tìm khoái cảm với một cuộc đi dài, say sƣa với một con đƣờng núi có
mƣa, có đêm, có gió, có bao nhiêu thi vị của viễn trình. Cách suy nghĩ về sự
đi của Bạch thật chẳng giống ai, bởi Bạch là hạng hành khách có thể ngồi
trong một chuyến xe hỏa vét chỉ chạy độ 20 cây số một giờ, nhưng xe phải
chạy luôn một mạch từ nơi này đến nơi nọ, cứ chậm chạp lăn bánh trên
đường sắt, cứ uể oải mà tiến lắc lư, bao giờ đến đâu cũng được, nhưng miễn
là con tàu vét ấy đừng phải đỗ luôn luôn trong những ga xép[1;702]. Đƣợc đi
chàng thấy vui, phải dừng nghỉ chàng thấy nhớ nhung và thèm thuồng. Những
phút phải ngừng bên ga xép ấy dài tựa năm và nặng nhƣ một kiếp con ngƣời.
Ngƣời lãng tử ấy luôn tận dụng từng phút từng giây xê dịch trên đƣờng để tận
hƣởng cảm giác lãng du đƣợc đi. Ở Cẩm Thủy, Bạch thức cả đêm trắng.
Không phải vì lạ nhà, vì lo lắng cho gia đình hay tính toán cho chặng đƣờng
ngày mai, mà anh muốn thấm thía cảm giác trải qua một đêm dài nơi xứ lạ,
đƣợc thở sơn lâm chướng khí; thích tận hƣởng một đêm dài với những mẩu
thuốc lá vứt đầy nền nhà, cái đĩa gạt tàn cũng đầy tú hụ một đống tro xám có
ngọn [1;721].
Trong du kí Một chuyến đi, trên hành trình lênh đênh trên biển dƣờng
nhƣ Nguyễn không hề chợp mắt, không muốn chợp mắt để đƣợc tận hƣởng
niềm hân hoan vô tận của việc xuất hành: tôi thấy tôi sống nhiều. Sống trong
lúc thức tỉnh, thấy tâm hồn ngây ngất như bị bị con tàu hấp dẫn và bập bềnh
trên con đường bọt bể trắng điên cuồng. Tâm hồn lâng lâng, không phải vì
56
say sóng mà vì tâm trạng háo hức, say cảnh con tàu bồng bềnh giữa đại
dƣơng. Khi tàu cập bến Hƣơng Cảng, mọi ngƣời sung sƣớng hò reo, thì tác
giả lại buồn bã nuối tiếc: Đã đến rồi kia à! Chỉ mình Nguyễn ngơ ngẩn buồn
vì chuyện tàu cập bến: Riêng tôi ngẩn ngơ như nhớ tiếc một cái gì quý giá đã
tan biến mất. Cái gì quý giá đó tức là thi vị ngụ trong sự được đi mà không
bao giờ phải ngừng [1;247]. Sau đó có lúc tâm trạng hoài hƣơng lạnh lẽo,
nặng nề khi phải ăn Tết truyền thống ở Hƣơng Cảng, nhƣng đến ngày đoàn
làm phim phải lên tàu về nƣớc, chàng lãng tử lại thấy lòng mình thật rã rời,
buồn nản, đau khổ: Bước chân lên tàu ruột đau như cắt [1;370]. Không phải
vì chia tay với miền đất hoa lệ mà vì chuyến đi sắp chấm dứt, Nguyễn sắp
phải trở về với cuộc sống tù túng ngƣng đọng. Tâm trạng phức tạp, mâu thuẫn
của Nguyễn chính là biểu hiện phức tạp của cuộc đấu tranh nội tâm giữa khát
vọng và hiện thực, giữa con ngƣời đam mê và thực tiễn cuộc sống.
Mê xê dịch, nhƣng nhân vật lãng tử lại ngại kỉ niệm, thói quen và vật
cũ: sợ nhất thói quen, là những cái gì đã trở nên cũ. Một người cố nhân. Một
cái vết xe. Một cái bến trùng phùng. Ngại lắm [1;719]. Bởi họ thèm một cuộc
sống mới tinh, một hành trình chƣa bao giờ đến, một miền đất chƣa hề lƣu giữ
bƣớc chân chính họ. Họ không muốn quay lại miền đất đã đi qua trong quá
khứ. Mà nếu có đi đến miền đất ấy một lần nữa, họ sẽ chọn một cung đƣờng
khác để lại có đƣợc trải nghiệm mới mẻ trên hành trình. Cách đi nhởn nha
dông dài, bất tận để tận hƣởng vẻ đẹp của thiên nhiên, các vùng đất lạ và để
thoát li thực tại ngƣng đọng. Đi để mong thay đổi thực đơn cho giác quan.
Sau một ngày rong chơi ở nha huyện Cẩm Thủy, anh bạn Hồ không còn hứng
thú đi tiếp vào Hồi Xuân, mỏi mệt muốn về Hà Nội. Trái lại, Bạch lại mong
những chuyến đi không rõ ngày về, đƣợc tiếp tục đi mãi những tháng ngày
rong ruổi. Với Bạch, thế nào là lãng du? Đi chơi xa, phải rộng rãi thời khắc,
rộng rãi tấm lòng. Và không phải tính đến ngày về mới thỏa... Lên miền rừng
để tìm những cảnh không chờ đợi mà anh muốn định trước một cái thời khắc
57
biểu thì anh bất cận sự vật quá [1;725]. Những ngƣời nhƣ Bạch trở nên khó
hiểu và lập dị trong con mắt những ngƣời khác. Nguyễn Tuân đã mƣợn lời
của anh chàng Hồ để tự bạch về tính cách những lãng tử giang hồ: người đâu
mà kềnh càng quá. Bắt chước thế nào được anh ấy. Cứ được như anh ấy thì
suốt đời là chỉ có du lịch, du lịch ngắn, du lịch dài. Chỗ nào cũng mò tới.
Lắm lúc ăn mặc thật sang, lắm lúc như con mẹ ngộ. Đang vui bỗng buồn. Có
lúc nằm mà thức cả đêm tuy rằng mắt có nhắm. Có lúc mở mắt mà ngủ đứng.
Ăn uống thì không ra bữa. Đến cái ngủ thì càng là không chịu nổi. Lắm buổi
chỉ ngủ mười lăm phút. Có giấc ngủ li bì một đêm không đủ lại lấn sang cả
ngày hôm sau, trời đã vàng mặt, đánh thức dậy thì gắt và ngủ vật vã thêm một
nửa đêm nữa [1;725]. Những nhân vật xê dịch trở nên khó hiểu, khó đoán,
khó nắm bắt trong con mắt những ngƣời xung quanh “dở dở ƣơng ƣơng, nhƣ
ngƣời loạn óc, nói không ai hiểu, mà có làm gì cũng không ai hiểu”. Chính
Dung – vợ Bạch, cũng không hiểu chồng mình đột ngột biến mất, không rõ
tin tức vài ngày hoặc hàng tháng trời; vì sao Bạch đột nhiên “chết lặng” nhƣ
ngƣời bị trúng gió, không ăn, không nói đƣợc bao ngày chỉ vì cô cọ rửa sạch
sẽ và xé bỏ những “giấy dán nhằng nhịt” trên chiếc vali cũ bụi bặm. Anh cũng
là đứa con ngỗ ngƣợc không chịu ở yên tại gia, vui thú đoàn viên, không chịu
tu chí làm ăn. Đi đã trở thành triết lí sống, ý nghĩa sống của họ. Không đƣợc
đi là một bi kịch đau khổ.
Nhƣ vậy, nhân vật Bạch là một ví dụ điển hình cho quan điểm “hạnh
phúc là bƣớc đi”. Với Bạch, không đƣợc đi, không đƣợc thay đổi không gian
thì cuộc sống đó chỉ thật tẻ nhạt, vô vị, chìm đắm trong băng giá lãnh lẽo.
Bạch đã từng muốn rời xa ngƣời vợ rất đỗi thục hiền, chỉ vì muốn tìm lại cái
bản ngã của mình. Nhân vật này đã trở thành hình bóng của Nguyễn Tuân, là
hình bóng để nhà văn thể hiện cái bản ngã khác ngƣời của mình. Cái tôi cá
nhân đam mê không gian và hƣởng lạc, coi cuộc đời nhƣ một trƣờng du hí,
58
Bạch đã mắc một chứng tâm bệnh mãn tính, bệnh nan y khó chữa mà chỉ có
gió trời và vũ trụ cao rộng mới có thể làm cho nguôi ngoai.
Sau bao nhiêu chuyện xê dịch của Bạch - tức chuyện đột ngột bỏ nhà
lang thang; ngày nào cũng ra ga để rình rập quan sát cảnh mọi ngƣời lên
đƣờng; rồi trốn vợ, trốn con thuê một chỗ ở riêng để bày biện ra một khung
cảnh viễn du với những đồ đạc là kỉ vật của cuộc đời giang hồ trong quá khứ -
tức là tự mình hâm nóng niềm hứng thú xê dịch của mình. Bấy nhiêu “chiêu
trò” mà nhân vật Bạch phô ra trƣớc bạn đọc chỉ là những cách khác nhau để
nhà văn nói cho hết, nói đến cùng, nói một cách cặn kẽ về sự thiết yếu của
nhu cầu muốn đƣợc đi của mình. Toàn bộ cuốn truyện dài này là một minh
hoạ đẹp đẽ cho sự đồng điệu tâm hồn và những tác động, ảnh hƣởng của Gide
đến Nguyễn Tuân: “Sự khẳng định cái mình có, trƣớc hết là một sự tìm kiếm,
là quyền tuyệt đối đƣợc lang thang, là một cuộc săn lùng Tự Do”.
Bạch đã chọn công việc bồi tàu bể để đƣợc ngƣợc xuôi khắp các đại
dƣơng. Dấu chân lãng tử đã theo những con tàu nƣớc ngoài đặt chân tới mọi
xó xỉnh trên thế giới, những hải cảng nhộn nhịp, những thƣơng cảng sầm uất,
những thành phố, khách sạn lộng lẫy, xa hoa khắp Á, Âu. Bạch là ngƣời có
tài, đi nhiều hiểu biết rộng, nhƣng anh không thiết công danh, địa vị, tiền bạc.
Anh sẵn sàng từ bỏ công việc thƣ kí nhàn hạ và thu nhập cũng không đến nỗi
nào ở một cửa hiệu Tây chỉ để đƣợc sống phóng túng và tiện cho những
chuyến đi bất thình lình, không dự báo trƣớc. Anh sợ sự ràng buộc của công
việc và sợ sự cố định, dậm chân một chỗ. Ngay chính ông quan huyện Cẩm
Thủy, ngƣời bạn tâm giao của Bạch, luôn than tiếc cho Bạch: Người thông
minh như thế, tài hoa như thế, răng lại không chịu làm một việc chi?Chỉ thấy
ông ta du lịch hoài. Cái lối đi chơi không có kì hạn và không biết chán mỏi ấy
đã để nhiều thiệt thòi riêng cho đời ông ta và luôn cả cho cuộc sống chung
của chung quanh nữa [1;729]. Đam mê dông dài với những chuyến ra khơi
bất tận theo con tàu Nhật đi khắp bốn phƣơng trời, tuổi trẻ của Bạch gắn liền
59
với những hải cảng lớn. Nhà của anh là những khách sạn bên bờ duyên hải và
ngƣời bạn đồng hành tri kỉ của anh là chiếc vali, chiếc tẩu thuốc, cây gậy ba
toong, gói thuốc lá; lồng ngực của anh chứa đầy gió biển... Một cuộc sống tự
do, tự tại phóng túng biết bao. Anh làm bạn với những cơn gió biển, những
cánh buồm, những chân trời xa. Khi gió đã nổi lên, những neo tàu đã nhổ
cũng là lúc ngƣời lữ khách lên đƣờng đến những bến bờ xa lạ. Đó chính là
cuộc sống lí tƣởng, đáng mơ ƣớc nhất, là hạnh phúc niềm vui của anh.
Nhƣng rồi tất cả cuộc sống đầy đam mê ấy đã hoàn toàn thay đổi. Vì
bổn phận trách nhiệm của một con trƣởng dòng tộc, vì cha già, anh đồng ý lấy
vợ để có ngƣời ở nhà đỡ đần công việc gia đình. Dung, vợ Bạch, một cô gái
truyền thống xinh xắn, dễ thƣơng, rất đỗi dịu dàng, nhẫn nhục cùng đứa con
trai kháu khỉnh cũng không giữ đƣợc bƣớc chân lãng du của Bạch ở lại. Gia
đình, vợ con chỉ giữ đƣợc thể xác chứ không níu giữ đƣợc trái tim và khát
vọng lên đƣờng của Bạch. Bệnh ham du lịch của anh không hề thuyên giảm,
không thể chữa khỏi đƣợc bằng cái hoàn cảnh tƣơi vui của gia đình đoàn tụ.
Anh vẫn âm thầm đau khổ, tâm trạng “rề rề nhƣ một ngƣời ốm”. Bạch ân hận
vì đã lấy vợ, đẻ con, tự ràng buộc mình với cuộc sống gia đình để phải vƣớng
chân, làm bận mình không thể xê dịch đƣợc nữa, Bạch đâm buồn bã và bực
dọc khi sực nhớ thấy mình cũng là một người đàn ông có vợ [1;748]. Anh
sống những tháng ngày nhạt nhẽo, vô nghĩa, nặng nề; tâm hồn chỉ bay bổng
theo những chuyến đi của bạn bè. Lòng anh ngổn ngang nhƣ một bãi chiến
trƣờng, luôn có sự đấu tranh giằng xé, bất phân thắng bại giữa đam mê và
trách nhiệm. Bạch ở nhà mình mà nhƣ một ngƣời khách lạ, đang sống giữa
quê hƣơng mà vẫn thấy thiếu quê hƣơng. Tâm trạng bực dọc muốn đạp phá
tung hê tất cả nhƣng chƣa dám đập phá một cái gì thật sự, đành chịu thân
phận muôn năm phải đứng yên để mãi mãi du lịch trong tƣởng tƣợng trong
đau khổ. Anh nhƣ con chim trời đã lấy làm hối hận vì đã thăm lại tổ cũ trong
một buổi bạc gió mỏi cánh. Anh cho cuộc hôn nhân rất đẹp của mình là
60
“nghiệt chƣớng và nghiệp chƣớng”. Không đủ vô cảm tàn nhẫn vứt bỏ tất cả
để dứt tình ra đi, Bạch “tiếc đời, thƣơng xuân”, ghen tị với bạn bè, đâm ra
căm ghét Dung. Anh nghĩ ra và tƣởng tƣợng thêm nhiều thói xấu của Dung để
có cớ ghét vợ, để có đƣợc lí do li dị Dung hoặc làm cho Dung chán mình mà
bỏ, để anh đƣợc tự do trở về với cuộc sống luôn đƣợc đổi chỗ xê dịch trƣớc
kia. Anh kết án Dung “tội do thám rất bỉ ổi”, hành động “ngu ngốc” khi lau
chùi chiếc vali mốc meo. Nhƣ vậy, với Bạch, một gia đình yên ấm, vợ đẹp
con ngoan, vật chất đầy đủ, công thành danh toại,.. không phải là điều anh
mong muốn trong cuộc đời. Hạnh phúc niềm vui mãi không bao giờ chán và
không bao giờ mai một, bị mòn đi trong anh là cuộc đời của một lữ khách hẹn
sống với trôi nổi, là đƣợc lên đƣờng, đƣợc đi, đi đâu cũng đƣợc. Đó mới là
đời sống đích đáng. Tất cả những cái khác là không kể.
Bạch đau khổ, chán chƣờng tột độ khi bạn liên tục báo tin khởi hành
còn anh thì dậm chân tại chỗ lòng chàng chỉ là một bãi tha ma đang muốn nẻ
sụt thêm một lỗ huyệt mới nữa để chôn xuống đấy một chút kỉ niệm gì của
chàng [1;880]. Mỗi lần nhận đƣợc điện báo lên đƣờng của bạn bè, bệnh xê
dịch của anh lại “tái phát”, thế là hạnh phúc gia đình lại đổ nhào. Khi không
đƣợc lên đƣờng, ghen tị với bạn bè, Bạch đành chạy trốn nỗi cô đơn vào thế
giới riêng ở căn gác nhỏ phố Hàng Gai để đƣợc tự do đắm chìm trong những
giấc mơ xê dịch trong tƣởng tƣợng. Căn phòng ấy đƣợc trang hoàng nhƣ một
gian phòng trên con tàu bể, bày biện những vật dụng kỉ niệm của một đời
giang hồ lênh đênh của ngƣời bồi tàu. Bạch còn mắc một cái võng gai để
đƣợc sống với cảm giác bồng bềnh của ngƣời thủy thủ trên biển lớn. Căn
phòng ấy ngƣời thân không đƣợc bƣớc vào, chỉ có những bạn tri âm tri kỉ
đƣợc đến. Đó là một thế giới riêng xoa dịu những nỗi đau trong lòng. Anh
trốn vào đó khi cô đơn, khi những ngƣời bạn đƣợc đi, còn mình mãi dẫm chân
tại chỗ. Trốn vào đó để chẳng làm gì cả, nằm dài trên ghế bố hoặc đu đƣa trên
võng, nhắm mắt để tƣởng tƣợng hoặc nhìn trân trân vào tấm bìa lịch có con
61
tàu đang tung bọt trắng xóa trên đại dƣơng. Bạch đang thôi miên tâm tƣởng
và thị dục của mình, đắm chìm vào giấc mơ xê dịch đến “quên cả thời gian và
mất cả ý thức về không gian”, để di dƣỡng cái tinh thần trôi dạt, bập bềnh.
Anh gọi đó là “những ngày lánh nạn”... Nhƣng nỗi buồn đau đó chỉ đƣợc xoa
dịu trong chốc lát, Bạch lại phải quay lại với cuộc sống hiện tại và tiếp tục cái
vòng luẩn quẩn đau khổ vì không đƣợc lên đƣờng. Khi ƣớc mơ không đƣợc
thực hiện thì đó chính là bi kịch. Bạch đã sống giằng xé giữa đam mê và trách
nhiệm trong những ngày tháng bi kịch vô vị, chán chƣờng. Đã hơn một lần
anh quyết tâm dứt áo ra đi, nghĩ mọi cách để có thể li dị Dung. Bạch muốn
ghét vợ, tìm cớ nói xấu vợ... Ngày lại ngày, Bạch cố gom góp những tật xấu
của Dung thu thập lại thành một một tập hồ sơ; để anh không phải yêu
thương người nào hơn là chỉ yêu thương có một mình chàng thôi thì Bạch tha
hồ mặc sức mà sống với hoài bão của mình nghĩa là chàng có quyền đi mà
không bao giờ phải nghĩ đến ngày về hoặc đi mà không bao giờ phải đắn đo
từ biệt ai cả [1;869]. Không đoạn tuyệt hẳn đƣợc với gia đình, không thể li dị
đƣợc vì Bạch lại rất thƣơng vợ con. Anh đành chọn cách ứng xử thứ hai: đối
xử tốt những ngày còn ở nhà, không tùy tiện bỏ đi, cũng không đƣa tiễn bạn
lên đƣờng nữa. Bạch đã cố gắng tìm mọi cách để đƣợc đi San Francisco, rồi ở lại
luôn đó không chừng, nếu nhƣ chuyến đi của làng Xuân Phả không bị hủy bỏ.
Con ngƣời xê dịch dẫu lập dị nhƣng rất thẳng thắn, trung thực, không
bị che mờ nhân cách bởi vật chất. Mặc dù những ngày ở lại với gia đình, xa
con tàu bể, trải qua một thời kì khủng hoảng cả về tinh thần lẫn tài chính, phải
bán dần những kỉ vật cũ nhƣ cái đài bán dẫn, cái vali quý, cái phong vũ y –
rain coat, nhƣng Bạch lại sẵn sàng từ chối công việc biên tập giới thiệu về du
lịch mà ông chủ nhà in Đức Trần nhờ cậy. Một công việc trong tầm tay anh,
hứa hẹn sẽ mang lại cho anh một khoản tiền rất lớn. Lí do mà Bạch đƣa ra từ
chối cũng rất ...vớ vẩn, điên khùng, khó hiểu, anh trở thành kẻ dở dở ương
ương, như người loạn óc, nói không ai hiểu, mà có làm gì thì cũng không ai
62
hiểu ương gàn [1;1009] trong mắt ngƣời làm ăn thực tế nhƣ ông Đức Trần.
Bạch cần tiền nhƣng lại từ chối cơ hội kiếm tiền vì hai lẽ. Thứ nhất, xƣa nay
anh xê dịch chứ không phải đi du lịch! Anh đi chỉ để là đi, để thỏa mãn khát
khao giải tỏa không gian chứ không có ý thức tìm hiểu về phong tục, địa lí,
giá cả, văn hóa, con ngƣời, những tiện lợi về ăn ở khách sạn... nhƣ khách du
lịch thông thƣờng: Đối với tôi đi chỉ là đi. Được đặt mình trong xê dịch là tôi
thấy khoái rồi, tôi cần gì phải chọn hành trình và nhớ đến các tên về địa dư.
Tôi đi để có được một nơi mà rời bỏ chứ không phải cốt đến cho được một
chỗ nhất định nào đã dự tính trước [1;1006]. Mặc dù với anh từ Hồng Hải
đến Địa Trung Hải “hai cái bể này tôi đi đi lại lại mãi rồi”, nhƣng anh cũng
không biết giá tiền tàu vì anh là ngƣời chuyên đi lậu vé và trả tiền lộ phí ăn ở
lúc giang hồ nhƣ thế bằng rất nhiều ứng biến tùy cơ hoặc bằng quần áo hòm
xiểng của mình! Thứ hai, con ngƣời Bạch nhƣ một cánh chim trời tự do,
không muốn sống cố định ở đâu, là người phóng lãng, trong người gần như
mất hết cả những khả năng về sự làm ăn trong những bầu không khí chật
chội,..., chỉ mong chờ một dịp để bước khỏi xứ này [1;1004]. Anh không dám
nhận vì sợ công việc đang dang dở, bất thình lình anh lại có cơ hội lên đƣờng
thì không ai có thể giữ anh ở lại đƣợc. Lúc đó sẽ lỡ việc tất cả. Bức thƣ Bạch
gửi cho ông Đức Trần một lần nữa thể hiện nhân cách thẳng thắn, trung thực
đồng thời cũng cho thấy nét ngông ngạo khác đời của những nhân vật giang
hồ. Họ rất đam mê tự do, không chấp nhận bất cứ sự ràng buộc nào, dù đó là
ngƣời thân, gia đình hay tiền tài vật chất. Họ cũng không phải là những kẻ vô
dụng, vô công rồi nghề, lang bạt kì hồ vất vƣởng, mà là những trí thức lãng tử
tài hoa, dám cháy hết mình cho những đam mê! Những con ngƣời bề ngoài
tƣởng chừng phóng lãng nhƣng không hề vô cảm mà rất nặng tình với quê
hƣơng, gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã tập trung miêu
tả rất tỉ mỉ những dằn vặt, đau khổ của Bạch khi anh nhận thức đƣợc niềm
đam mê của mình đã gây lên những khổ sở cho ngƣời thân. Tâm trạng không
63
nỡ tàn nhẫn vứt bỏ vợ con để lên đƣờng, những chuyến đột ngột bỏ nhà ra đi
của anh rồi lại quay trở lại. Kết thúc tác phẩm, cũng không phải ngẫu nhiên
mà nhà văn để cho Bạch không thể thực hiện giấc mơ giang hồ sang châu Mĩ,
chính là thể hiện bức thông điệp: những nhân vật giang hồ xê dịch của
Nguyễn Tuân mặc dù sống trong tình cảnh “thiếu quê hƣơng” nhƣng họ lại rất
nặng tình với quê hƣơng đất nƣớc!
Đi, không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê không gian trời bể, mà còn là
một cơ hội để tích lũy kinh nghiệm sống, tích lũy những nguyên mẫu để hình
thành nên những nhân vật văn chƣơng nổi tiếng trong sáng tác Nguyễn Tuân.
Nhà văn Tô Hoài đã viết trong hồi kí “Cát bụi chân ai”: Nhiều lần Nguyễn
Tuân, Nguyên Hồng và tôi thường lên Sơn. Chúng tôi ngồi bên hào thành,
dưới cây sữa. Mặc Nguyên Hồng với bà cai ách bán hàng - khuôn khổ người
đẹp kiểu của ông ấy. Tôi hỏi Nguyễn Tuân: Chữ người tử tù, Đỉnh non Tản và
tất cả vang bóng của ông đều phảng phất Sơn Tây, thế ông đã đi ả đào ở
Đông Tác chỗ gần chốt Nghệ kia chưa? Nguyễn Tuân tủm tỉm và lặng yên.
Việc mô tả tinh tế, tài hoa các thú chơi hƣởng lạc của tầng lớp nhà nho tài tử
cũng nhƣ các phong tục tốt đẹp của dân tộc trong tập Vang bóng một thời phải
chăng cũng chịu ảnh hƣởng và là sản phẩm của những chuyến đi xê dịch miệt
mài? Những câu chuyện hƣởng lạc trong khói hồng phiến ở những sáng tác đề
tài trụy lạc nhƣ Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua...
phải chăng cũng đƣợc lấy tƣ liệu từ những tháng ngày ăn chơi xê dịch trong
nƣớc, ngoài nƣớc của cụ Nguyễn? Có ngƣời kể rằng để mô tả ống khói tàu
hỏa, Nguyễn Tuân đã ăn nằm tại ga Thanh Hóa mất gần cả tháng để quan sát
cho bằng đƣợc các thời điểm khác nhau của ống khói hoạt động: lúc bắt nổ
máy, lúc khởi hành từ từ bò ra khỏi ga, lúc tàu đạt đến tốc độ tối đa cho phép,
khi tàu giảm tốc độ để vào ga; hay nhƣ để nắm bắt thật cụ thể, tỉ mỉ, rõ ràng
thời gian biểu xuất hành và trở lại của những con tàu… Trong tùy bút “Chiếc
vali mới”, nhân vật “tôi” có một mong muốn duy nhất đi để viết. Viết để lấy
64
cái mà đi. Anh quan niệm: chỉ có giang hồ mới cho con ngƣời ta túi khôn:
Không giang hồ, không bôn ba sao nói được những câu khôn như cái khôn
của người sắp từ trần như thế? Sách vở nào mà chép dạy được những lời ấy,
chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có đường đời vô thường vô định mới dạy cho
người ta biết được những câu đẹp đẽ [2;588]. Trải nghiệm cuộc sống gió bụi,
lang thang với những chuyến đi xa đã giúp Nguyễn Tuân tích lũy, bồi đắp vốn
sống, vốn hiểu biết thêm rộng mở, uyên bác về con ngƣời, phong tục tập
quán, văn hóa của những vùng đất đã đi qua. Kiến thức phong phú và sự am
hiểu về các đại dƣơng, các hải trình, thủy trình, các cung đƣờng biển, về
ngành đƣờng sắt... của ông cũng đã mang lại những tri thức quý giá cho ngƣời
đọc.
Một vấn đề lớn của con ngƣời hiện đại chính là sự phân thân, tức là sự
biểu hiện nhập thân của cái tôi tác giả qua các nhân vật. Nhà văn Nguyễn
Đình Thi viết: “Cả trong những tiểu thuyết và truyện, các nhân vật của ông
nhiều khi chỉ là biến thân độc tấu của ông”. Các tập sách Nguyễn Tuân viết
sau Vang bóng một thời có nhiều nhân vật khác nhau, khi mang tên Hoàng,
khi đƣợc gọi là Nguyễn, là Bạch..., song các nhân vật ở đây đều là những hoá
thân, là sự phân thân của cùng một con ngƣời, là những biến điệu từ cùng một
tính cách nghệ sĩ. Đó là lối độc tấu khi xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân,
lòng kiêu căng đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu. Lời tự thú ấy, không chỉ
liên quan đến thể tuỳ bút mà trƣớc hết liên quan đến các nhân vật đi về trên
các trang sách của ông. L. Pirandello, nhà văn Italia hiện đại, từng cho rằng:
mỗi ngƣời chúng ta thƣờng uổng công tƣởng tƣợng mình là một cái gì nguyên
vẹn, nhất trí, một thực thể duy nhất trên đời; có biết đâu là trong mỗi chúng ta
có thể có hàng trăm hàng nghìn dáng vẻ khác nhau, nó cứ bộc lộ ngoài ý
muốn của ta, ta không sao kiểm soát nổi. Những nhận xét này rất đúng với
nhiều nhân vật giang hồ của Nguyễn Tuân. Họ chính là Nguyễn. Con ngƣời,
suy nghĩ của Nguyễn chính là tâm trạng phức tạp, bộn bề của các nhân vật.
65
Tóm lại, với một ngƣời có nội tâm phong phú và tài hoa nhƣ Nguyễn
Tuân không bao giờ chấp nhận cuộc sống yên vị, yên ấm, an cƣ lạc nghiệp.
Và nguyên nhân do đâu mà lại xuất hiện lớp ngƣời đam mê xê dịch đến nhƣ
vậy trong những trang viết Nguyễn Tuân? Có lẽ sống dƣới chế độ thuộc địa
mất chủ quyền tẻ nhạt tù túng, Nguyễn Tuân là ngƣời có tinh thần dân tộc
nhƣng chƣa đủ dũng khí để dấn bƣớc vào con đƣờng cách mạng. Ông lại là
ngƣời say mê, chịu ảnh hƣởng từ Đoxtoiepxki – nhà văn thiên tài nƣớc Nga
thế kỉ XIX nổi tiếng với những nhân vật nổi loạn. Chán ghét cái hiện thực,
những nhân vật của Nguyễn tìm lối thoát ở cuộc sống giang hồ phóng đãng.
Từ cái tôi cá tính, ông đã đề cao, tôn vinh, thi vị hóa lối sống lập dị, khinh bạc
của những kẻ giang hồ lạc phách, nổi loạn. Cuộc sống và không gian bao la
xung quanh có quá nhiều điều bí hiểm, mới lạ và hấp dẫn mà ông chƣa từng
biết, chƣa khám phá hết. Cho nên phải đi. Đi để biết đó biết đây, để mở rộng
tầm nhìn, tầm mắt; để có nhãn quan rộng rãi, uyên bác về cuộc đời. Đi còn để
kiếm tìm niềm vui, để khỏi phải sống những ngày tháng tầm thƣờng, nhạt
nhẽo, bình lặng, vô vị. Đi để đƣợc dấn mình vào cuộc sống đƣờng trƣờng bụi
bặm, để trải nghiệm hết những cảm giác phiêu lƣu của cuộc sống giang hồ gió
bụi. Đi chính là kiếm tìm hạnh phúc, niềm vui và hƣởng thụ những khoái cảm
cuộc đời, là lí tƣởng sống mà ông quyết tâm theo đuổi. Nhƣng lao về phía
nào, xê dịch đi đâu họ cũng cảm thấy bế tắc, chán nản, hụt hẫng, không lấp
2.2.2.2. Những con người nghệ sĩ đam mê tự do, không chấp nhận sự ràng buộc
đầy cảm giác thiếu quê hƣơng.
Nhƣ trên đã nói, Nguyễn Tuân sống trong bối cảnh xã hội trƣớc cách
mạng tháng Tám. Đây là giai đoạn giao thời, có nhiều mâu thuẫn, nhiều lớp
lang chằng chịt. Con ngƣời sống trong giai đoạn này phải gánh chịu sự ngột
ngạt, bức bối của một xã hội nô lệ. Nhà văn sống ngay giữa quê hƣơng mình
mà lại thấy nó khác xa với hình ảnh Việt Nam trong tiềm thức. Nguyễn Tuân
cũng nhƣ nhiều nhà văn cùng thời chƣa có cơ hội giác ngộ cách mạng, đồng
66
thời họ cũng không chịu uốn gối khom lƣng chịu đựng số kiếp nô lệ. Vì vậy
thoát ly khỏi cuộc sống hiện thực là một cách lựa chọn dƣờng nhƣ đƣợc coi là
ƣu việt nhất. Tuy nhiên cũng có cách thoát ly mang màu sắc tích cực nhƣng
vẫn tồn tại những cách thoát ly mang màu sắc tiêu cực. Nguyễn Tuân cố gắng
thoát khỏi sự bế tắc, điên loạn trong văn học lãng mạn thời kỳ suy tàn. Ông
tìm đến chủ nghĩa xê dịch để thả tâm hồn mình vào cõi tự do, phóng túng nơi
phƣơng trời xa xôi. Ông muốn đi khắp mọi nơi để kiếm tìm sự mới mẻ, để
cho lòng mình có đƣợc “men say của chén rƣợu mỗi tối tân hôn”. Để cho các
giác quan đƣợc thay đổi thực đơn, cho bản thân mình đƣợc tận hƣởng cái cảm
xúc bất ngờ trong dòng đời đầy gió bụi. Nguyễn Tuân đã biến “đi” trở thành
một lý tƣởng sống, một cách sống mới; biến “xê dịch” trở thành một đề tài
mới cho văn học lãng mạn đang bƣớc vào giai đoạn suy tàn và đang dần bộc
lộ nhiều yếu tố tiêu cực; biến nhân vật xê dịch thành những chân dung nghệ sĩ
đầy đam mê, không chấp nhận bất cứ sự trói buộc nào. Chủ nghĩa xê dịch đã
phần nào giúp nhà văn nói riêng, giúp văn học đƣơng thời thoát ra khỏi cái
khung chật hẹp gò bó, thoát ra khỏi cái tủn mủn chỉ có “cơm áo gạo tiền”.
Tuy nhiên, xê dịch của Nguyễn Tuân có màu sắc độc đáo, Nguyễn đề cao chủ
nghĩa TỰ DO, xê dịch gắn với hai chữ TỰ DO.
Chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân đã trình bày một ý tƣởng quan
trọng: quan niệm về sự tự do của con ngƣời. Ông quan niệm tự do không
giống một ai. Tự do là thoát li mọi sự ràng buộc bổn phận trách nhiệm với gia
đình và cuộc đời; đến mức dám đi ngƣợc mọi thành kiến thông thƣờng, mọi
thói quen thông thƣờng, miễn sao nó tạo ra niềm khoái lạc và trúng với ý
thích cá nhân. Tự do còn là đƣợc sống, dám sống với những ƣớc mơ, khao
khát của bản thân. Tự do là không vƣớng bận tình cảm, dù là tình yêu nam nữ,
dù có là ngƣời đẹp mĩ nhân cũng không giữ đƣợc bƣớc chân giang hồ. Tự do
hoàn toàn, tự do trong tâm hồn, trong lối sống, trong đam mê và không chấp
nhận bất cứ sự ràng buộc nào. Tự do nhƣ thế mà gây ra khó chịu với ngƣời
67
chung quanh thì cũng ông cũng không ngại, không quan tâm, miễn là vẫn
đƣợc sống theo ý thích của mình. Quan niệm về tự do ấy có chút ngông ngạo
của một con ngƣời luôn tự tin vào bản chất con ngƣời mình: vẫn lƣơng thiện,
không hại ai; vẫn không làm ảnh hƣởng đến lợi ích của ai; vẫn sống trong
phạm vi luật pháp và đạo đức. Xê dịch, nhƣng không xa vào các tệ nạn xã hội.
Giang hồ mê mải nhƣng không phải là lối sống lang bạt trôi dạt bất cần, xô
bồ, bất chấp đạo đức và luật pháp. Chủ nghĩa cá nhân và cá tính phát triển khá
cao ở cái tôi nghệ sĩ đam mê tự do, đƣợc thể hiện trong cách chọn quan hệ
bạn bè (chỉ có hứng thú kết giao bằng hữu với những ngƣời cùng đam mê, sở
thích), trong cách tiêu tiền và ăn mặc theo cách riêng không giống thói
thƣờng. Dƣờng nhƣ ngƣời đời càng khó chịu thì cái tôi ấy lại càng phô ra,
càng thể hiện rõ, không cần phải giấu giếm.
Không phải ngẫu nhiên trong Thiếu quê hương, chỉ qua vài trang đầu
truyện nhà văn đã để lại ấn tƣợng sâu đậm về một mẫu nhân vật giang hồ
nghệ sĩ, cuộc sống nay đây mai đó, không phải cố định ở đâu cả, coi bốn bể là
nhà, là quê hƣơng. Đó là hai chị em Jack và Caroline. Ngƣời em là lính lê
dƣơng (lính lê dƣơng là đơn vị đặc biệt của quân đội Pháp vì các binh sĩ là
những ngƣời nƣớc ngoài tình nguyện chiến đấu cho nƣớc Pháp [37]), cuộc
đời lính chiến đem tha lê cái thân bách chiến qua khắp nơi quan tái, với cái
mùi hương phiêu lãng ướp ủ những bộ nhung phục của một thứ lính rất hào
hùng, rất hiệp sĩ và rất quái đản [1;686]. Ngƣời chị là một đào nƣơng, một mĩ
nhân Tây Phƣơng hàng năm đi hát ở khắp các hí viện lớn ở Âu – Mĩ, Hƣơng
Cảng, Cựu Kim Sơn... Nhân vật của Nguyễn Tuân luôn đƣợc nhà văn tiếp cận
trên phƣơng diện tài hoa nghệ sĩ, không có dấu ấn của quan điểm chính trị,
đạo đức về ngƣời lính của quân đội viễn chinh Pháp hiện diện trên đất nƣớc
Việt Nam. Dƣới con mắt của ông, hai chị em thật đáng ngƣỡng mộ bởi họ có
tâm hồn tài hoa nghệ sĩ, theo đuổi lối sống tự do, tự tại, giang hồ. Họ có đời
sống rất tự lập và rất cá nhân. Chị làm ngƣời con hát đi khắp thế giới, mang
68
tiếng hát tô điểm cuộc đời, vừa đi vừa ca hát không biết gì là già, không biết
gì là ngày mai. Em làm lính chinh chiến mọi phƣơng trời, mọi chiến trƣờng
trên khắp thế giới. Chị em nhà họ đi nhiều lắm, góc bể chân trời. Thỉnh
thoảng chị lại hát cho em nghe, thỉnh thoảng em lại nghe tiếng hát chị qua làn
sóng ra đi ô. Giữa họ là khoảng cách hàng ngàn vạn dặm đất liền và ngàn vạn
dặm biển cách. Ngƣời chị là ca nữ có tâm hồn nghệ sĩ phiêu lãng đã đành, đến
ngƣời lính lê dƣơng trong con mắt nhà văn cũng là một con ngƣời có tâm hồn
nghệ sĩ thật đáng quý: hồi tôi chưa vào lính lê dương, tôi cũng hay bỏ nhà chỉ
cốt đi theo chị tôi trong đoàn ca vũ, bởi họ trọng cuộc sống TỰ DO. Họ đã
đƣợc chủ động lựa chọn cuộc đời rất cá nhân, riêng tƣ mà không hề bị chi
phối bởi ngƣời này ngƣời khác, không bị quan điểm tƣ tƣởng này khác làm
cho vƣớng bận. Họ không bị bổn phận trách nhiệm ràng buộc trói chân. Họ là
những cánh chim trời đã đƣợc đắm mình thỏa mãn trong những không gian
vũ trụ cao rộng. Cuộc sống nghệ sĩ giang hồ của chị em Jack và Caroline
chính là ƣớc mơ lí tƣởng lớn, là mong muốn khát khao hƣớng đến của chính
nhà văn. Họ là nhân vật nghệ sĩ giang hồ xê dịch lí tƣởng của Nguyễn Tuân.
Nhân vật giang hồ là những cái tôi cá tính độc đáo đến vị kỉ, hết sức lập
dị, khó hiểu, khó đoán, khó nắm bắt trong con mắt những ngƣời xung quanh.
Khi bắt buộc Nguyễn Tuân làm nhà (Nhà Nguyễn), cụ Tú Lan đã đi tới một
nhận định khá cơ bản về ngƣời con trai luôn sống một cách vô thƣờng ngoài
gia đình. Ông cụ cho rằng “biết rằng mình vốn sinh ra nó nhƣng thời đại mới
chính là ngƣời định cho nó tất cả những tính nết kia”. Thời đại ở đây, chính là
lối sống, cách sống mới, sản phẩm của một nền văn hoá phƣơng Tây đang ồ ạt
ảnh hƣởng khá lớn đến những trí thức Tây học hồi ấy. Khi đã buộc đƣợc
Nguyễn Tuân trở về làm nhà, tức cụ Tú Lan đã thắng thế đƣợc thời đại, buộc
thời đại phải khuất phục trƣớc những truyền thống. Ngƣợc lại, trong cái việc
Nguyễn mặc kệ cái nhà mới làm, vẫn tiếp tục sống dông dài, lại biểu hiện một
thông điệp ngƣợc lại: cuối cùng thì nền nếp lại ở vào thế thất bại, không đủ
69
sức đóng cƣơng vào con ngựa bất kham đã đi hoang ấy nữa. Và gộp cả Thiếu
quê hương, Chiếc va li mới, Một lần đi thăm nhau lại, đã có thể rút ra một
nhận định nhất quán về nhân vật xê dịch: tâm hồn luôn luôn là bãi chiến
trƣờng ngổn ngang, luôn diễn ra sự đấu tranh nội tâm giằng xé dữ dội. Ở đó,
hai khuynh hƣớng văn hoá trái ngƣợc phƣơng Đông và phƣơng Tây luôn giao
chiến với nhau. Cuộc giao chiến ấy mãi mãi kịch liệt, và phần thắng lợi bao
giờ cũng thuộc về cái nền văn hoá truyền thống đã hình thành nên trong lịch
sử lâu dài của đất nƣớc đã ngấm sâu, hoá thành phần vô thức trong mỗi con
ngƣời. Con ngƣời tự do, rất mực cá nhân chủ nghĩa ấy đã nhiều lần phải thống
thiết đau khổ mà kêu lên rằng “cái thân của mình đã không hẳn là của mình”,
đã bị cái nguồn gốc văn hoá sâu xa mà chàng hấp thụ từ nhỏ níu kéo, giằng
giữ lại. Cái khao khát bay nhảy tự do mà chàng học đƣợc ở phía trời Tây luôn
nằm ngoài tầm tay, luôn thất bại trong cuộc chiến giữa sở thích và trách
nhiệm bổn phận. Có điều lý do của sự giằng xé và bất lực không phải nằm ở
con ngƣời chàng, mà ở mối quan hệ phức tạp giữa kẻ trí thức với hoàn cảnh,
trong sự đa đoan rắc rối, phức tạp của chính hoàn cảnh. Nhƣng có lúc, hai nền
văn hoá Đông và Tây đã gặp nhau, văn hóa phƣơng Tây đã chịu nhƣờng
bƣớc, thỏa hiệp và tƣởng đã có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Song suy cho cùng
giữa hai nền văn hoá xa lạ, vẫn chƣa bao giờ có sự đồng nhất hoàn toàn,
những cá nhân đi tiên phong trong việc du nhập cái mới lạ của phƣơng Tây
vào với cái xã hội đậm chất phƣơng Đông này sẽ chỉ trở thành vật hy sinh cho
những thể nghiệm phiêu lƣu của họ. Cho nên, ban đầu khi mới đăng báo, cuốn
tiểu thuyết dày dặn nhất của Nguyễn Tuân là Thiếu quê hương. Quê hƣơng
đây không phải chỉ là bạn bè, gia đình, nhà cửa; quê hƣơng là cả hoàn cảnh
thời đại rộng rãi, cho phép cả những cá tính độc đáo nhất có dịp nảy nở, phát
triển. Nếu thiếu đi một hoàn cảnh cởi mở nhƣ thế tức không có một môi
trƣờng hoạt động khác đi, thì mọi sự đổi mới và du nhập ảnh hƣởng qua
những tính cách lẻ tẻ rút cục trong chừng mực nào đó đều dẫn tới bi kịch. Và
70
cái bi kịch đầu tiên ở một ngƣời quyết liệt nhƣ Nguyễn Tuân chính là là một
sự dang dở. Nguyễn không bao giờ đi đến cùng đƣợc trên con đƣờng đã lựa
chọn, luôn nửa đƣờng đứt gánh. Nguyễn Tuân thực là tài hoa khi diễn tả sự
dùng dằng lui tới giữa đi hay ở của các nhân vật thành những trang viết rất
đẹp, rất thực nữa. Ngƣời đọc Thiếu quê hương thƣờng không bao giờ quên
những đoạn tả một đêm gió ở vùng mỏ Vàng Danh, hoặc những buổi chia tay
ở sân ga, bến tàu hoặc khung cảnh một huyện miền núi Thanh Hoá. Cảnh vật
hiện ra sinh động lạ lùng, thấm đẫm tình ngƣời. Hoá ra, những thành kiến về
Nguyễn xƣa nay là sai lầm. Trong con mắt ông không chỉ có màu khinh bạc,
ngông ngạo, bất cần, vô trách nhiệm mà thực ra là một cái nhìn đằm thắm
quyến luyến với ngƣời, tha thiết với cảnh; là những ý nghĩ chân thành muốn
cho chung quanh ngày một đẹp tốt hơn. Con ngƣời nhà văn nổi tiếng thƣờng
phong phú hơn so với những huyền thoại về họ mà ngƣời đời vẫn truyền tụng.
Nhân vật xê dịch không màng vật chất, công danh, địa vị, thậm chí
không màng cả tình yêu, không bị những tình cảm cá nhân, gia đình thông
thƣờng chi phối. Họ tìm niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong
những chuyến đi. Bằng một loạt những tác phẩm, Nguyễn Tuân đã tự khắc
họa chân dung con ngƣời đam mê tự do đến mức không chấp nhận sự ràng
buộc. Tùy bút Một lá thư không gửi (Tùy bút I), nhà văn đã mƣợn hình thức
viết tâm thƣ để làm nổi bật chân dung một ngƣời mắc “bệnh xê dịch” khá
nặng, anh chàng Ngh. Đó là một ngƣời bộ hành, không quê hương, không biết
biên thùy của xứ sở, không có chương trình ngày mai và không mấy khi sống
luôn lấy độ ba bốn tháng liền trong một hoàn cảnh. Đến một nơi, gửi lại đấy
chút ít bản sắc của mình, để rồi lại đi. Đi cho thực nhanh với mọi kỉ niệm
mang theo của nơi vừa rời bỏ [2;415]. Nhân vật Ngh chính là ngƣời phát
ngôn cho triết lí xê dịch và lí giải đam mê nghệ sĩ lớn ấy của Nguyễn Tuân:
không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở. Giống ớt quý cay đến
chảy nước mắt, trồng mãi trong một khoảng vườn, có ngày chỉ sinh ra những
71
quả nhạt nhẽo... Đấng tài hoa sinh ra không phải chỉ để yêu một người đẹp
hay một cái đẹp. Cõi trời đất có vô vàn tác phẩm. Vả chăng miếng cao lương,
ăm lắm đâm ra nhàm. Phải thay thực đơn đi. Thay thực đơn cho dạ dày, thay
thực đơn cho giác quan. Trong cuộc sống, tôi muốn đừng bao giờ ngày hôm
nay của tôi lại giống hệt ngày hôm qua...Sinh thú của người là hưởng cho
nhiều cái bất thình lình và mọi cái không chờ đợi. Tôi muốn mỗi ngày trong
cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say sưa của rượu tối tân hôn [2;416].
Tùy bút Phong vị tỉnh xép, Nguyễn Tuân đã viết lên tự truyện của chính
mình. Cái anh chàng Nguyễn ham rong chơi hiện lên trong con mắt bạn bè là
ngƣời: Người gì mà như con chim... Điều đáng phiền hơn nữa: Nguyễn lại là
một con chim không chịu yên vui với cái tổ ấm của mình. Sau mỗi một chuyến
đi chơi, chàng chỉ đảo qua nhà mình ở Thanh Hóa có một ngày: Nhiều bạn cũ,
bắt gặp Nguyễn ở ga xuống, hôm sau lại tìm chàng chơi thì Nguyễn lại đi mất
rồi. Hỏi đi đâu thì người nhà Nguyễn đều trả lời một cách buồn nản rằng
cũng không hiểu [1;450]. Tâm hồn lãng tử của họ hình nhƣ không quen với sự
ấm cúng và cách chiều đãi của thân quyến. Họ không hứng thú và không ngon
miệng trƣớc những bữa ăn gia đình đã đƣợc nấu cầu kì bằng cả tình cảm yêu
thƣơng, chiều chuộng níu giữ. Những cốc cà phê, những món ăn ngon cầu kì
đó thiếu đi hƣơng vị của bụi đƣờng trƣờng giang hồ, cái gia vị của lữ thứ, mùi
thơm của cuộc sống tự do luôn đƣợc xê dịch liên tục trong cái đời lang thang
hải hồ. Họ - những “kiếp ngựa tù chân lại nhớ đƣờng”, chỉ thèm hƣơng vị của
miếng bánh quy lƣơng khô trên con tàu bể, cảm nhận đƣợc sự ngon miệng
những món ăn dân dã, chém to kho mặn dọc đƣờng. Sau mỗi chuyến đi, con
ngƣời lãng du bốn phƣơng trời ấy mỗi lần về thăm nhà chƣa ngơi nghỉ đƣợc
mấy ngày đã có vài lá thƣ hay vài tờ báo gửi theo. Cả nhà anh sợ đến tái xanh
“cái mẩu giấy màu xanh da trời này”; bởi mỗi lần cái mẩu giấy “tai ác” ấy
đƣợc chuyển tới là Nguyễn lại lồng lên như ngựa vía và đòi đi ngay lập tức.
Quần áo vừa mới giặt chưa khô, Nguyễn cũng cứ nằng nặc đòi đi, quơ cả lại,
72
tấn vào cái vali da cũ mà chàng lấy làm quý hơn cả những người sống sờ sờ
ra đấy. Nhiều khi Nguyễn không kịp thưởng thức cả đến đĩa tiết canh vịt do
tay người em gái đánh rất đông [1; 453]. Tiếng gọi của cuộc sống giang hồ có
sức mạnh và sức hút kì lạ, đã dễ dàng tách anh ra khỏi cuộc sống gia đình yên
ấm, khỏi vòng tay những ngƣời thân yêu. Bỏ mặc lại tất cả, Nguyễn đi theo
tiếng gọi của đam mê, của ngƣời bạn phƣơng xa. Anh vui sƣớng vì cái tin
điện, tiếp tục miệt mài dong duổi lang thang chán chê; cho đến khi manh áo
đứt hết cả hàng khuy, tuột hết đường chỉ gấu, thân thể tàn tạ, mệt nhọc vì
giang hồ họ mới chịu bước chân về nhà. Nhƣng cũng chẳng đƣợc bao lâu khi
cái tao khang chi thê của họ đã khíu, đã mạng, đã vá xong những tấm áo rách
của họ, thì họ lại đùng đùng đòi lên đường. Ai mà ngăn được [1;451].
Trong tùy bút Lại đi nữa (Tùy bút I), nhân vật Nguyễn Văn Gi cũng là
một chân dung nghệ sĩ. Mê xê dịch nên anh đã chọn cách sống không để bị
ràng buộc vào ai, vào bất cứ điều gì: không vợ, không nhà. Gi rất vui với cuộc
đời cô độc của mình và chưa bao giờ thấy mệt mỏi với đời tự do. Gi chưa
ghép một người khác vào hẳn cuộc sống của mình là vì Gi không muốn tự
buộc vào chân những hòn chì nặng. Gi sống một mình để những lúc có dịp
cất chân, không phải bận bịu vì những bổn phận nhận lấy sớm quá. Gi lướt
qua cuộc đời như một cái bóng [2;477]. Hình ảnh một anh chàng “ngậm một
tẩu thuốc lá tựa khung cửa sổ một toa tàu tốc hành”, đúng là chân dung một
“bệnh nhân xê dịch”, một nghệ sĩ giang hồ tự do, gắn với những chuyến đi,
không chấp nhận sự ràng buộc!
Không chỉ đam mê tự do, Gi còn có một tâm hồn đặc biệt, lập dị, khác
đời khác ngƣời. Vì muốn đƣợc đi nhiều, muốn luôn đƣợc thay đổi chỗ, anh đã
ép xác, hành xác mình một cách khổ hạnh tự đè nén lòng mình, không cho nó
rung động trước mọi vẻ đẹp của Tự Nhiên. Đi đến một xứ nào mà gặp cây, cỏ,
nước, mây, trời êm dịu, tươi sáng là anh lại đùng đùng ra đi ngay như một kẻ
biết trốn chạy người nhân tình cũ có sứ thôi miên ghê gớm. Anh sợ phải
73
quyến luyến với một chỗ, nấn ná ở lại rồi khi mà đã quen với khí hậu và vẻ
đẹp ở đấy thì không bao giờ anh lên đường một cách nhẹ nhõm được [2;477].
Không chỉ để tâm hồn tự do của mình cảnh giác trƣớc cảnh đẹp quyến rũ của
thiên nhiên, anh còn luôn cảnh giác trƣớc những ngƣời đàn bà đẹp. Có lẽ câu
“Anh hùng không qua nổi ải mĩ nhân” không thể vận vào con ngƣời Gi, bởi
anh luôn để lí trí, trái tim của mình tăng “sức đề kháng”, “miễn nhiễm” trƣớc
ngƣời đẹp. Bởi, với anh người đẹp còn nguy hiểm gấp mấy lần cảnh đẹp. Khi
mà người đàn bà đẹp đã tìm cách lẻn vào lòng kẻ giang hồ, thì trên bến nước,
lại thêm một cái neo vứt xuống bể để...không bao giờ kéo lên nữa [2;478].
Đây là chân dung một con ngƣời hoàn toàn sống theo tôn giáo của chủ nghĩa
Tự Do, theo sở thích cá nhân, đề cao cá tính, bản ngã lên trên tất thảy. Anh
dám sống hết mình với những đam mê mà không cần để ý đến xung quanh
ngƣời ta sống theo một lối mòn cuộc đời nhƣ thế nào và nghĩ gì về mình: anh
không thèm thở những cái không khí của những gia đình nền nếp. Bộ phổi lớn
của anh đang đòi hỏi cả một bầu dưỡng khí của thế giới kia [2;479]. Anh sợ
gia đình, sợ những bổn phận trách nhiệm phải gánh vác, sợ phải trả những
món nợ tình cảm, nghĩ đến cái chết đuối tình cảm trong đĩa đèn tâm tình mà
thêm rùng mình. Anh không chấp nhận bất cứ ràng buộc nào vào cuộc đời, để
mãi mãi là con chim trời tự do bay nhảy, thích bay là bay, thích dừng là dừng.
Không chỉ sợ ràng buộc tình cảm, nhân vật xê dịch còn sợ dính dáng
vào công danh, vật chất. Con ngƣời ham dông dài này không phải là một kẻ
lông bông, bất tài mà ngƣợc lại: Gi là một thiếu niên có tài. Nếu anh chịu đổi
quan niệm về cuộc đời thì anh có thể tạo lấy một địa vị xã hội rất đáng kể.
Nhưng anh không muốn làm người đứng đắn [2;479]. Anh cũng không kí hợp
đồng cộng sự, làm việc với một ngƣời nào, bởi sợ sự ràng buộc. Để luôn đƣợc
chủ động trong những chuyến đi, để kiếm kế sinh nhai, con ngƣời đặc biệt ấy
sẵn sàng nhận lấy mọi thứ nghề tự do rất nhiều bạc bẽo, cũng như anh vui
lòng từ chối những hợp tác có nhiều lợi nhưng lại buộc anh phải ở nhất định
74
một chỗ... nếu muốn đi thì đừng có óc kinh doanh. Có một cơ nghiệp tức là đủ
điều kiện để đứng im [2;480]. Ngƣời trí thức tài hoa ấy đã chấp nhận đánh đổi
công danh, sự nghiệp, tiền tài và một cuộc sống yên ấm ổn định chỉ để đƣợc
đi, đƣợc tự do theo đúng nghĩa cả thể xác lẫn tâm hồn! Suy nghĩ này có vẻ lập
dị, cực đoan nhƣng ngẫm kĩ chúng ta càng cảm phục con ngƣời lãng tử nghệ
sĩ rất tự trọng, trung thực, thẳng thắn và có tinh thần trách nhiệm này. Anh
không giả dối và cũng không tầm thƣờng khi chạy theo và làm nô lệ cho vật
chất. Đây là mẫu nhân vật trí thức mà Nguyễn Tuân cả đời xây dựng và
kính phục “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất”. Những chia sẻ về sự “đi” của anh cũng thật chân thành, sâu sắc và
nhân văn càng được đi, ta càng biết yêu mọi người chung quanh... Ta sẽ
không rẻ rúng cái giá trị của thằng người và ta cũng không kì vọng ở người
nhiều quá... Sự kiến thiết xã hội ngày mai sẽ đẹp vững và bền lắm nếu ở thế
giới này người ta ai cũng được đi về như trẩy chợ [2; 481,482].
Nhân vật xƣng “tôi” trong tùy bút Chiếc vali mới cũng là một điển hình
cho lối sống nghệ sĩ tự do, không chấp nhận sự ràng buộc. Cuộc đời anh luôn
thèm những khoảng trống rộng rãi. Sở thích của anh là “đi mua vali”, vì con
ngƣời “thích đổi chỗ suốt cả năm” nhƣ anh thì “mấy cái vali mà chẳng vừa”.
Anh đang có dự định xê dịch vào Tây Kỳ và nếu “cảnh Lâm Viên xứ Tây Kỳ
ấy vẫn là hay thì ở luôn mãi”. Anh đã ngán ở mãi đất Bắc, ngán mãi nhìn thấy
những gƣơng mặt quen thuộc của bạn bè tri kỉ và muốn đổi gió cuộc đời. Tác
phẩm nhƣ một tự truyện khi ông kể việc đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa
thì nhận đƣợc tin dữ báo tin con trai nhỏ mất đã ba ngày. Đó cũng là thời
điểm diễn ra lễ kỉ niệm ngày mất một nhà thi sĩ mà ông rất đỗi kính trọng
(Tản Đà). Nguyễn cũng không che dấu suy nghĩ mà nhiều ngƣời cho là tàn
nhẫn: Sự tỏ dấu tiếc thương lỡ đã muộn rồi, thôi thì cho nó chậm luôn một
thể. Mai tôi hãy về, và đêm nay tôi hãy đi dự lễ kỉ niệm một nhà thi sĩ đã. Đối
với ngày tử này tính theo âm lịch, lòng tôi có lẽ còn nặng hơn việc chết kia
75
[2;592]. Cái lối ham đi, xem nhẹ việc qua đời của đứa con nhỏ hơn ngày giỗ
của một bậc tiên sinh tri kỉ, có lẽ chỉ Nguyễn mới dám công khai bày tỏ
không cần giấu giếm những suy nghĩ lòng mình nhƣ thế và chẳng bận tâm đến
đánh giá của thiên hạ. Đó chính là cái ngông của Nguyễn mà không ai bắt
chƣớc nổi! Nhƣng về nhà đƣợc mấy hôm, đi thăm viếng mộ của con, “cái
buồn của tang đã lắng xuống”, Nguyễn đã có ý định lên đƣờng ngay. Ngƣời
nhà nhìn chiếc vali mới của anh mà kinh hãi, vợ anh tủi thân cằn nhằn vừa
chân ướt chân ráo về tới nhà, đã lại đòi đi. Chẳng mấy khi về tới nhà; động
về là đã đùng đùng đòi đi ngay chẳng còn thiết đến ai cả. Kìa, lại cái vali mới
nữa chứ! [2;595]. Vì đây sự xuất hiện của chiếc vali mới chính là những “dấu
hiệu” quen thuộc của một chuyến đi xa. Anh cũng chẳng rõ mình sẽ đi đâu,
nhƣng chắc chắn phải đi, đi để đƣợc rời bỏ nơi đang ở. Thế là sau lời mời của
một ngƣời bạn chu du một chuyến trên biển từ Thanh Hóa ra Uông Bí,
Nguyễn “mừng rơn, mừng cho tôi, mừng cho chiếc vali của tôi” sẽ đƣợc khởi
hành một chuyến đi giang hồ xứng đáng. Thế là Nguyễn đi. Mặc kệ mọi việc
tang gia còn đang dang dở ở nhà. Mặc kệ gia đình chuyện cúng tuần đủ bẩy
bẩy bốn chín ngày theo phong tục truyền thống. Mặc kệ cả chuyện an ủi
ngƣời vợ tội nghiệp vừa mới mất con. Mặc kệ ngƣời cha già đã chán cảnh giữ
chân đứa con bất trị. Nguyễn lại tiếp tục hành trình dông dài chƣa rõ ngày về.
Tâm trạng Nguyễn chỉ để tâm cho những tháng ngày xê dịch trƣớc mắt! Nhƣ
vậy, thú vui đƣợc xê dịch, lên đƣờng, đƣợc tự do bay nhảy của anh đã thoát li
hẳn mọi ràng buộc về bổn phận trách nhiệm.
Nguyễn Tuân đã đẩy niềm đam mê lên tới đỉnh cao và có phần cực
đoan thái quá khi ông mê xê dịch đến mức xem nhẹ tình thân. Điều đó tạo nên
cảm giác khó chịu, không đồng tình ở không ít độc giả. Nhƣng ngƣời đọc
cũng khâm phục một cái Tôi cá nhân ngông ngạo, nhƣng rất trung thực, thẳng
thắn, dám dãi bày, phơi tỏ tất cả cõi lòng mình, cả điểm sáng lẫn mảng tối mà
không cần giả dối che đậy, ngụy biện hay giấu diếm. Trong cuộc sống, ít ai
76
dám nói ra cái tật, cái xấu của mình mà thƣờng tìm cách che đậy bản chất
bằng bộ mặt đạo mạo. Ở Nguyễn Tuân thì lại khác, ông đã dựng lên bức chân
dung chính mình là một con ngƣời ham chơi, hoang tàn, thiếu trách nhiệm, ƣa
đàn đúm, đàn hát, bàn đèn thuốc phiện, thậm chí từng nếm trải cả cuộc sống
với kĩ nữ giang hồ không dƣới một lần. Ông từng tâm sự “tôi chơi bời cũng là
một cách tự phá phách để lẩn trốn mình, chứ có thích thú gì đâu. Sau mỗi
cuộc chơi bời phá phách gì, mình lại tự chán mình, tự xỉ vả mình, nhƣng sau
đó lại lao vào con đƣờng cũ”. Có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới dám đi đến tận
cùng lòng mình, trải nghiệm cả cuộc sống dƣới đáy xã hội, mới dám giãi bày
gan ruột tất cả con ngƣời mình đến thế. Nguyễn Tuân kiêu bạc nhƣng không
sống giả dối. Trung thực, thẳng thắn và dũng cảm nhƣ thế chả hiếm có và
đáng trọng lắm sao?
Tuy nhiên, chúng tôi thấy ở con ngƣời ham đi, muốn cuộc đời là những
chuyến đi không bao giờ phải dừng lại, chỉ mong đƣợc mau dời bỏ nơi mình
đang sống; thế mà có lúc tâm trạng cũng thật mâu thuẫn, xung đột. Khi mọi
thứ cho chuyến đi đã đƣợc chuẩn bị sẵn sàng, chiếc vali không còn thiếu một
thứ gì, thuyền sắp nhổ neo đƣợc rồi, thế mà trong lòng ngƣời nghệ sĩ giang hồ
tƣởng nhƣ rất vô tâm, tàn nhẫn ấy lại thấy dội lên những làn sóng cảm xúc
trào dâng miên man: Vẫn còn ở Hà Nội mà lòng tôi đã thấy xa lìa hẳn chỗ
này rồi. Và chưa chi mà tôi đã thấy nhớ Hà Nội, nhớ phố Hà Nội, nhớ người
Hà Nội – nhớ đến cả một thằng bé đánh bóng giầy da. Kì diệu thay! Những
cái phút sắp được khởi hành. Tôi phải cái tật là chỉ quý yêu được trong tiếc
thương, tôi phải cái bệnh là chỉ biết quý yêu trong khuất vắng [2;591]. Nhƣ
thế chúng ta nhận thấy sự phức tạp, mâu thuẫn trong tâm hồn con ngƣời lãng
đãng, giang hồ ấy: thích đi, ham đi, nhƣng không phải là kẻ vô tâm, vô tình,
ích kỉ mà cũng rất hữu tình, giàu tình cảm, cũng quyến luyến bịn rin, rƣng
rƣng trong giây phút lên đƣờng, cũng có tình cảm rất gắn bó với nơi mình
đang muốn dời bỏ.
77
Đứng ở góc độ tâm lý học thì toàn bộ văn chƣơng Nguyễn Tuân trƣớc
cách mạng chỉ xoay quanh mối bận tâm lớn nhất là về chính mình. Tƣ tƣởng
khinh bạc, chán đời, sớm thấm thía trong các tác phẩm đầu tay của ông và
ngày càng đƣợc ông đẩy mãi lên. Tuy Nguyễn Tuân không đƣa ra đƣợc nhiều
bộ mặt con ngƣời khác nhau nhƣ Vũ Trọng Phụng, Khái Hƣng, Nguyên
Hồng, Nam Cao..., song các nhân vật xê dịch mang nhiều tính cách tự truyện,
dù đƣợc gọi bằng những tên khác nhƣng vẫn là một tính cách trộn không lẫn.
Nhắm mắt lại nhiều ngƣời vẫn hình dung ngay đƣợc cốt cách con ngƣời tài tử
kiêu bạc Nguyễn Tuân thƣờng xuyên đi lại trên trang sách. Phải mạnh dạn nói
rằng, nhân vật của Nguyễn không xa lạ với ngƣời bình thƣờng. Trong mỗi
chúng ta không ít thì nhiều đều có những nét, những khía cạnh đó. Nhiều ý
tƣởng cảm giác của chàng là những điều đôi lúc chúng ta cũng cảm thấy,
chẳng qua ta lẩn tránh không dám công nhận, càng không muốn trình ra trƣớc
mọi ngƣời. Ngƣợc lại, ông đã tự tạc rất sống động bức chân dung tự họa: từng
trải, ham hƣởng lạc theo kiểu nhà nho tài tử, lăn lộn nhiều với đời sống trụy
lạc; một ngƣời phóng túng nhƣng rất trung thực thẳn thắn; đối với cuộc sống
quê hƣơng nhƣ kẻ ăn tạm ở nhờ, không chịu gánh lấy một trách nhiệm nào.
Nhiều ngƣời tƣởng tƣợng rằng con ngƣời ham đi, ham xê dịch đó phải
là ngƣời có chí lớn cao cả, làm nên những chuyện kinh thiên động địa xoay
chuyển cả bánh xe lịch sử; hoặc lang bạt kì hồ nhƣ thế sẽ gây ra những
chuyện rắc rối, khiến cho những ngƣời thân phải nhiều phen cuống cuồng, lo
lắng. Nhƣng không, quan niệm sống của Nguyễn Tuân không phức tạp, lớn
lao theo kiểu ấy. Nhân vật của ông chỉ mắc có mỗi căn bệnh đam mê không
gian, một thứ đam mê kỳ thú siêu việt; đến mức những ai thƣờng phải quanh
quẩn trong bốn bức tƣờng gia đình cũng phải tò mò, thèm muốn, ao ƣớc đƣợc
một lần thực hành lên đƣờng. Đọc văn Nguyễn Tuân không chỉ có niềm vui,
sự sƣớng tai bởi đƣợc nghe một ngƣời lợi khẩu kể chuyện, mà có thể ngƣời
đọc sẽ thấy buồn, thấy ngứa ngáy, cảm thấy đời mình tầm thƣờng, nhạt nhẽo,
78
vô vị chả ra làm sao. Trêu tức mọi ngƣời, qua các nhân vật lãng tử, nhà văn
cho thấy xê dịch cũng là một niềm vui lành mạnh, bởi chẳng qua cái việc xê
dịch ấy nó tô đậm thêm quan niệm: dù hay dù dở, mỗi con ngƣời là một cá
tính độc đáo, không giống ai, không ai thay thế nổi. Và ông cũng không muốn
ai giống mình.
Nhân vật là hoá thân của Nguyễn Tuân nên chúng ta thƣờng tự hỏi: thế
thì trong Nguyễn Tuân con ngƣời phóng túng cực đoan với con ngƣời biết
điều nhạy cảm, nghe đƣợc từng vui buồn thoáng qua trong một cái nhìn, một
giọng nói, luôn biết tự điều chỉnh cho hợp với chung quanh, đâu là con ngƣời
chân thực? Và, Nguyễn Tuân là cả hai con ngƣời ấy cộng lại, là cả sự thái
quá, lẫn sự do dự. Cái sợi dây làm nên mối quan hệ của Nguyễn Tuân với
hoàn cảnh quanh ông thật dài, thật quanh co, nhƣng bao giờ cũng có. Nhƣ
vậy, xét đến cùng, chúng ta thấy, chủ nghĩa xê dịch, thú giang hồ lãng tử của
Nguyễn Tuân biểu hiện đời sống tâm lí tinh thần khá phức tạp của ông nói
riêng, của một bộ phận trí thức đƣơng thời nói chung. Phải chăng, đất nƣớc bị
nô dịch thì mỗi ngƣời dân sống ở chính trên quê hƣơng mình mà lòng vẫn
cảm thấy trống trải, bơ vơ, lạc lõng, thiếu quê hƣơng!
Tóm lại, với biệt tài khai thác và thể hiện thành công diễn biến tâm lí
nhân vật, Nguyễn Tuân đã xây dựng, miêu tả tỉ mỉ kiểu nhân vật xê dịch điển
hình tiêu biểu; đam mê đã đƣợc đẩy lên tuyệt đối; hoàn toàn sống theo chủ
nghĩa tự do, không muốn bất cứ một sự vƣớng bận nào. Nhân vật trong thế
giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân luôn là nhƣ thế, cực đoan, dũng cảm dám
sống hết mình. Họ không dễ thỏa hiệp, hi sinh những sở thích để làm đẹp lòng
ngƣời khác và chiều theo xã hội. Họ dám sống cho mình, không chấp nhận
cuộc sống nhạt nhẽo chìm đắm vào cái tầm thƣờng khuôn khổ chung quanh.
Họ không phải là con ngƣời của bổn phận, trách nhiệm, của gia đình dòng
tộc, của công việc công danh... tất cả trở lên vô nghĩa với họ. Họ thất thƣờng,
lạ lùng; vừa từng trải, vừa khờ khạo; khá sâu sắc song cũng khá nông nổi;
79
cứng cỏi có nhiều phen đến sắt đá, song cũng là con ngƣời thật mềm yếu và
dễ bị thƣơng. Trong mọi hoạt động, cƣ xử, dƣờng nhƣ có hai con ngƣời song
song tồn tại: Một mặt, ham sống và thèm khát sống một cách thực cá nhân,
không muốn quanh mình luẩn quẩn có ai vƣớng bận. Mặt khác, lại rất nhạy
cảm, day dứt với hạnh phúc gia đình và luôn bị dằn vặt giữa bổn phận và
trách nhiệm. Những lúc say sƣa, đam mê, cố nhiên họ chỉ tha thiết với những
vui buồn bản thân. Lúc tỉnh táo, họ biết rất rõ rằng những ngƣời thân chung
quanh đều đáng yêu, tội nghiệp và nên cƣ xử cho biết điều, đừng vì mình mà
để cho họ phiền muộn. Thậm chí, quan niệm xê dịch của họ cũng đã đầy mâu
thuẫn với những suy nghĩ tiền hậu bất nhất. Đúng là có lúc “đi chỉ để mà đi”,
đi để quên nơi vừa đi mà nhớ tới những nơi chƣa tới; đi để quên đi tất cả hiện
thực tối tăm trƣớc mắt. Song chẳng qua đấy là những lúc hứng lên nói cho
sƣớng miệng, rồi sau đó ngay giữa sân ga họ lại rền rẫm lên rằng thật ra nếu
đi không mục đích thì buồn lắm, ngƣời lãng tử thật sự chỉ đẹp trong những
chuyến đi có mục đích trong lành; xa nhà, những lúc thấy trời mƣa gió thì
thấy nhớ một ngọn đèn tỏ ngọn, một mâm cơm gọn ghẽ, một tiếng trẻ con
khóc bú. Lúc lên đƣờng, trong lòng cũng không hoàn toàn là niềm hân hoan,
vui sƣớng mà là một bãi chiến trƣờng ngổn ngang miệng thì ca điệp khúc
Giang hồ hành và lòng thì vẫn mang nặng một thảm kịch về bổn phận. Nhiều
lúc xuất hiện cả nỗi buồn chán, thất vọng, bởi đích đến cũng chẳng để làm gì,
khiến Nguyễn Tuân rơi vào bế tắc, tuyệt vọng, phải than thở kêu la: Ta đi để
mà đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ối ta ơi là ta ơi; và bao nhiêu sốt sắng,
bồng bột của phút đi, đã nhường chỗ cho thờ ơ của phút đến. Đi, để mà đến.
Đến...nhưng sau đó, còn gì nữa? Hay chỉ còn lòng khao khát bị bỏ rơi vì ý
nghĩa của giới hạn [2;417]. Có lúc ông lại hoàn toàn phủ định triết lí xê dịch
mà cho rằng “Không bao giờ ngƣời ta có thể nâng sự xê dịch lên thành một lí
tƣởng đƣợc”. Đã có thời ông ao ƣớc đƣợc đi đến mức mang hành lí ra ngồi ở
nhà ga cả ngày để mong đƣợc tận hƣởng cái cảm giác đƣợc xê dịch. Nhƣng
80
cũng có lúc ông phải thốt lên với chính bản thân mình rằng liệu xê dịch có thể
thoát khỏi nỗi cô đơn, buồn chán không? Hay càng đi lại càng cảm nhận rõ
hơn nỗi cô đơn mà thôi? Nhƣ vậy, qua những trang viết chúng ta thấy một cái
tôi Nguyễn Tuân luôn muốn vƣợt ra cái vòng kiêm tỏa của xã hội, vƣợt ra
khỏi sự ràng buộc chật chội, tù túng của cuộc đời để tìm đến vùng đất của
riêng mình. Những trang văn xê dịch không chỉ mang đến cho ngƣời đọc
thƣởng ngoạn, hiểu biết sâu sắc hơn về bức tranh cảnh sắc con ngƣời Việt
Nam và một phần thế giới trƣớc năm 1945, mà còn làm nổi bật con ngƣời
Nguyễn Tuân thẳng thắn trung thực, rất đỗi uyên bác tài hoa, có con mắt quan
sát cuộc sống sắc sảo và am hiểu kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Chân dung một
cái tôi cô đơn có phần hoang mang, bế tắc trong thực tế cuộc sống, muốn
dùng không gian rộng lớn, mênh mông trên hành trình lãng du để lãng quên
và khỏa lấp cái trống vắng trong tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn. Lao động nghệ
thuật nghiêm túc và sự tài hoa uyên bác đã tạo nên sự hấp dẫn của những
trang văn xê dịch của Nguyễn Tuân.
81
CHƢƠNG 3
CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH NHÌN TỪ NHỮNG PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT
3.1. Xây dựng thành công những biểu tƣợng độc đáo về xê dịch
Biểu tƣợng là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn. Cho đến nay, vẫn
còn nhiều ý kiến bất đồng về vấn đề này. Việc đi tìm một định nghĩa thống
nhất hay một cách hiểu chung về biểu tƣợng cũng hoàn toàn không đơn giản.
Từ điển tiếng Việt đã đƣa ra ba nét nghĩa của biểu tƣợng, trong đó có
hai nét nghĩa liên quan đến biểu tƣợng trong văn học là: Hình ảnh sáng tạo
nghệ thuật có một ý nghĩa tượng trưng trừu tượng; Hình thức nhận thức cao
hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc tấu khi tác
động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt [2;88].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, biểu tƣợng đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
theo nghĩa rộng: biểu tƣợng thể hiện “đặc trƣng phản ánh cuộc sống bằng
hình tƣợng văn học nghệ thuật”, “bằng hình tƣợng, nghệ thuật sáng tạo ra
một thế giới hoàn toàn mang tính biểu tƣợng”; theo nghĩa hẹp: biểu tƣợng là
“một phƣơng thức chuyển mã của lời nói” hoặc là một loại hình tƣợng nghệ
thuật đặc biệt “có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát đƣợc bản chất của
một hiện tƣợng nào đó vừa thể hiện một quan niệm, một tƣ tƣởng hay một
triết lý sâu xa về con ngƣời và cuộc đời ”.
Nhƣ vậy theo nghĩa rộng biểu tƣợng là hình tƣợng đƣợc hiểu ở bình
diện ký hiệu gần gũi với tính ƣớc lệ trong văn học. Theo nghĩa hẹp biểu tƣợng
gần giống với ẩn dụ. Văn học là một hình thái ý thức xã hội đồng thời cũng là
một loại hình nghệ thuật đặc biệt sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dung hình
tƣợng biểu tƣợng, biểu tƣợng trong văn học không phải là sự sao chép chụp
ảnh hiện thực mà là một sự phản ánh đầy năng động sáng tạo, đầy tính chủ
quan của ngƣời nghệ sĩ. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ tìm hiểu, khám
phá những biểu tƣợng xê dịch trong sáng tác Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng.
82
Trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân bên cạnh hình tƣợng nhân
vật xê dịch là những biểu tƣợng thiên nhiên đồ vật, hành động, ngôn ngữ. Đó
là những mô tip nghệ thuật có ý nghĩa thẩm mĩ cao, đƣợc lặp lại nhƣng luôn
mang ý nghĩa mới. Qua đó, chúng ta có thể thấy đƣợc quan niệm suy nghĩ tâm
trạng về cuộc sống và nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
3.1.1. Biểu tượng thiên nhiên
Biểu tƣợng gió mƣa. Gió mƣa là những hiện tƣợng tự nhiên quan trọng
của sự sống. Trong những tác phẩm xê dịch, gió mƣa là hình tƣợng đƣợc nói
khá nhiều. Thiên nhiên đƣợc nhân cách hóa mang tâm trạng nhƣ con ngƣời.
Những cơn gió, các loại gió xuất hiện với tần số cao, phản ánh rất rõ tâm
trạng và suy nghĩ của Nguyễn Tuân về cuộc đời. Hình tƣợng gió đƣợc thể
hiện nhiều nhất trong Thiếu quê hương và Tùy bút Gió đã lên. Đấy là “những
cơn gió man rợ, hoang vắng, dữ dội đều gắn liền với cái tôi bế tắc, nổi loạn,
bất đắc chí của Nguyễn Tuân” (Phan Cự Đệ). Đó là những cơn gió heo may
cuối thu Hà Nội, nổi lên rất nhiều, chạy rì rào trên hè phố lạnh (Gió đã lên);
hoặc những cơn gió trên sông Mã chạy vù vù trong mƣa. Những cơn gió nổi
lên ngoài biển lớn cùng con tàu lênh đênh phiêu bạt bốn phƣơng trời. Rồi gió
Vàng Danh, gió Ai Lao, Cao Miên... Các loại gió cứ thế mà nổi lên, lùa mãi,
chạy hoài trong tùy bút Nguyễn Tuân. Đối với những ngƣời lấy sự đi làm mục
đích cuộc đời thì những cơn gió có một sức hấp dẫn kì lạ, khó có thể cƣỡng
lại đƣợc thấy gió đã khởi, ngƣời ta liền lên đƣờng.
Đối với Nguyễn Tuân, gió mƣa gắn với những ám ảnh, nhận thức của
cái tôi cá nhân về thân phận, về lẽ tồn tại và định mệnh.Trong con ngƣời tài
hoa bất đắc chí ấy trƣớc 1945, gió mƣa không chỉ mang cái sầu của thiên
nhiên mà còn mang cái não nề của tâm trạng con ngƣời. Gió mƣa - xƣa nay
vốn thƣờng gợi thiên nhiên thất thƣờng khắc nghiệt, phải chăng còn là biểu
tƣợng cho cuộc đời phong trần thích sự sống phong phú dãi dầu mƣa nắng,
không thể ngồi yên một chỗ, không chịu đƣợc sự an nhàn của các nhân vật xê
83
dịch. Gió mƣa cũng nói lên tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do; tính cách lập dị
khác ngƣời của lãng tử luôn thích chọn những lúc “đêm khuya, mƣa to gió
lớn” mà gõ cửa nhà bạn rủ đi chơi. Trong Thiếu quê hương, cảnh xứ Mƣờng
trong những ngày thu mƣa gió, lạnh giá, ẩm ƣớt và niềm khoan khoái của
Bạch khi trần mình trong đêm khuya lạnh nơi đất khách quê ngƣời. Hít thở
cái không gian tinh khiết giá lạnh của núi rừng càng làm cho tinh thần anh
khoan khoái, thỏa mãn. Gió mƣa còn gắn với tâm trạng buồn tủi của những kẻ
xê dịch sắp phải trở về chốn cũ: đêm nay không những gió mà còn mưa nữa...
Mưa trên mặt biển, mưa cả trong lòng người... Lắng mưa rơi như khóc, nhậm
nó với giọt thời gian cứ đều đều rút vợi mực nước đồng hồ, tôi đinh ninh tôi
đang là một triết nhân muốn tắt lửa lòng [1;376]. Mƣa chính là biểu tƣợng
của nỗi cô đơn buốt lạnh chán nản của ngƣời lãng tử phải kết thúc hành trình,
phải tạm biệt với những ngày lãng du mê mải nơi bến nƣớc Hồng Kông sôi
động phải trở về với những ngày tháng ngƣng đọng, tầm thƣờng, bế tắc.
Gió mƣa thƣờng đi với nhau, nhƣng có lúc gió chỉ xuất hiện một mình
và đƣợc nhà văn miêu tả tỉ mi, đầy ám ảnh, chứa chất tâm trạng cô đơn, buồn
nản của kẻ giang hồ: Đêm nay, tôi ngủ trên mặt sông. Gió sông rộng có cả
sức tò mò của một trận gió vàng. Mỗi đợt gió lọt vào khoang thuyền là một sự
tọc mạch đến chuyện riêng của lòng. Tôi trằn trọc, thèm muốn một tấm chăn
đơn [2;542]. Song song với cái Tôi ngày càng bế tắc, cái vẻ phóng túng của
những cơn gió lúc đầu dần mất đi, thay vào đó là những cơn gió u uẩn, luẩn
quẩn man rợ, hoang vắng, dữ dội thể hiện sự quẩn quanh, u uất, không lối
thoát của những con ngƣời “thiếu quê hƣơng”. Cái thứ gió tiền oan nghiệp
chƣớng ấy gây ấn tƣợng rất mạnh trong lòng ngƣời. Những cơn gió từ trên
cao rơi xuống thung lũng, không có chỗ thoát, cứ chạy quanh trong vực thẳm,
rền rĩ khóc than hút bụi than lên và tung vãi rộng những mảnh bụi sắc. Hay
cái gió trong mỏ làm não lòng người. Gió gì mà như khóc. Một người có tâm
bệnh, một người đàn bà góa trẻ, gặp luồng gió Vàng Danh này sẽ phải suy
84
tưởng nhiều trong thâm tâm...Gió tốc những tấm tôn mái nhà...Gió mỗi lúc
một thổi mạnh thì những con chó đều thất thanh và rống lên như bị bóp cổ
[2;814]. Phép nhân hóa độc đáo đã làm nổi bật thứ gió còn kinh buồn gấp
mấy mƣa, thứ gió thổi chết lòng ngƣời, rú mạnh, vỗ vào cửa hàng khàn khàn
mỗi cơn hai tiếng đồng hồ, cứ xoáy tít trên diện tích độ trăm mẫu, trông như
rồng đất lấy nước trên cạn và xoáy đến đâu thì nhổ cả rễ cỏ và lá khô đến
đấy. Có cả những thứ gió thật quái dị, kinh hoàng ào ào như cây ngàn thiêng
gặp tuần rung lộc...Những trận gió như được đánh xổng từ âm phần địa ngục
nào vụt bay lên để ai điếu một loài sinh vật bị lấp vùi trong hoàn cảnh tối tăm
[1;826]. Bút pháp và ngôn ngữ miêu tả của nhà văn thật sinh động, đã biểu
hiện hết đƣợc cái dữ dội, ghê rợn của những cơn gió vùng mỏ quay tròn trong
thung lũng. Những thứ gió vùng than bị níu quẩn trong vùng thung lũng đầy
núi non bao quanh chật hẹp, tối thấp. Nó muốn tìm con đƣờng vùng thoát bay
lên nhƣng không đƣợc nên nổi loạn, dữ dằn, muốn phá phách. Nó thúc giục
con ngƣời thoát khỏi những gì quẩn quanh, tù túng; kêu gọi khách lãng du
chống gậy lên đƣờng, từ bỏ cuộc sống chật hẹp để đến với những chân trời xa
rộng. Nhƣ vậy, nó là những cơn gió lòng, đánh thức dậy bản ngã, tâm sự của
những ngƣời đang phải sống trong cảnh nhẫn nhục, tẻ nhạt và vô vị: hễ bể
động, gió thổi như tát vào mặt tường gạch cây đèn bể là hắn lại mang cá khô
ra nướng nhắm rượu, vừa nhắm vừa khóc. Hắn bảo rằng thứ gió đó bắt hắn
phải khóc! Có những thứ gió thổi làm chết lòng người đấy [1;816]. Ngay cả
những lúc bế tắc nhất, trống rỗng nhất của cõi lòng, Nguyễn xem gió nhƣ
ngƣời bạn tri âm, chia sẻ, khỏa lấp nỗi buồn Gió biển giục tôi nghĩ đến một
việc gì nên làm ngay đi kẻo lại muộn mất [2;837]. Gió Vàng Danh kết hợp với
các thứ gió giang hồ tạo thành một hệ thống các hình tƣợng về gió trƣớc Cách
mạng của Nguyễn. Hình tƣợng những cơn gió biểu hiện một trạng thái mất
cân bằng, bế tắc, quẩn quanh; ít nhiều cho thấy cái tôi bất đắc chí, u uất,
85
không lối thoát và một thái độ từ chối, phá phách, nổi loạn của Nguyễn Tuân
đối với xã hội cũ.
Biểu tƣợng sông biển
Với khách lãng tử thì sông nước, con thuyền, con tàu, cánh buồm chính
là ngƣời bạn đồng hành đƣa con ngƣời đến nơi họ cần đến, muốn đến và tận
hƣởng cuộc sống du lãng. Trên trang sách xê dịch, sông biển con thuyền con
tàu xuất hiện rất nhiều gắn liền với những chuyến đi xa và biểu tƣợng cho ƣớc
mơ đƣợc lên đƣờng của ngƣời giang hồ. Đó là con tàu Kinh Châu “say rƣợu”
ở cảng Hải Phòng, với “khói đen đặc, lắc nhiều, tuôn mùi than đá nồng nặc
làm ngƣời ta có thể mửa đến mật xanh mật vàng” nhƣng lại khiến cho tâm
hồn ngƣời lãng tử thêm hƣng phấn, say sƣa. Tàu Doumer trên hành trình từ
Hƣơng Cảng trở về Hải Phòng “lắc mạnh theo chiều dọc. Sóng uốn khúc nhƣ
đội đƣợc tàu và dựng đứng đƣợc cả khối sắt nặng sáu ngàn tấn”, khiến ngƣời
ta say sóng. Nhƣng thật thú vị, hấp dẫn, không có gì đáng phàn nàn với
Nguyễn, bởi nó là biểu tƣợng của sự lên đƣờng và đƣợc ra đi. Những con tàu
biển gắn với ƣớc mơ đƣợc đi xa, đƣợc vƣợt biên giới. Tàu Compiègne đƣa
ngƣời bạn Sƣơng lên đƣờng; những con tàu nƣớc ngoài mà Bạch và các bạn
giang hồ của anh làm việc trên đó, nhƣ tàu Nhật Kiku Maru, tàu Nam Tƣ Nạp
Phu, tàu André Lebon, tàu Athes, tàu Aramis, tàu Hồng Cƣ, Hồng Lập... Khi
không đƣợc gắn bó với con tàu trong những chuyến đi thực, Bạch thả hồn
tƣởng tƣợng, phiêu du với hình ảnh con tàu trên mặt đại dƣơng xanh thẳm ở
tấm bìa lịch trong căn gác nhỏ phố Hàng Gai, cái tàu bể ba ống khói điểm
đốm trắng trên cái toàn khối xanh biếc, bể cũng xanh và trời cũng xanh. Quá
nửa đời ngƣời Bạch đã bị cái màu xanh này chi phối tâm và óc. Cái lòng thèm
khát trôi nổi gửi gắm hết vào cái nhìn chăm chú không chớp mắt, nhƣ xuất hết
cả tinh thần ra mà chú mục, nhìn nhƣ thôi miên khiến cái tàu bể đang chết
trên tấm bìa lịch bỗng dưng sống như một con tù thực, con tầu đang chạy trên
cái bìa lịch, đang chạy trên bức tường vôi, cũng cầy xuống sóng bể xanh, có
86
khói trắng [1;899]. Trong cơn mê khao khát đƣợc đi, căn phòng của Bạch
bỗng thành một cái ca bin tàu bể, tràn ngập mùi tanh của gió biển, mùi mặn
chát của muối, có cả tiếng chuông gọi thủy thủ và mọi ngƣời đi ăn cơm, gió
thổi trên khối nƣớc thiên vạn cổ trôi chảy không bao giờ mỏi mệt.
Trong tùy bút Cửa Đại, sông nƣớc lại gợi nỗi niềm hoài cổ, hoài niệm
về một cuộc sống êm đềm, quyến rũ trên sông nƣớc luôn vẫy gọi khám phá
trên mặt sông, thực là cái rừng cột thuyền buồm, mành ghe chi chít dây bèo
buồm, dây thừng. Bấy nhiêu nét đen sắc đều nhấp nhô lay động theo mực
nước thủy triều đang dâng lên rất mạnh [2;541]. Cảnh vật nhƣ thế sao mà
lòng không đam mê, mến yêu, thôi thúc bƣớc chân muốn mãi mãi được là một
lá buồm căng như thế, mỗi lúc có gió sớm nổi dọn đường cho một mặt trời
mới nhô lên sau ngấn nước bể Đông”[2;542]. Việc ngƣời lãng tử muốn sƣu
tầm những dãy bình nƣớc các dòng sông Tiền Đƣờng, Hằng Hà, Cửu Long,
Seine và mọi con sông lớn của hai Tân Cựu luc địa chính là biểu tƣợng cho
tâm hồn phóng khoáng, muốn đƣợc tan chảy vào thiên nhiên vĩnh hằng và
ham đi, mê đi cho thực nhiều của ngƣời nghệ sĩ.
Biểu tƣợng con đƣờng, sân ga, bến tàu
Trên bƣớc đƣờng xê dịch, cùng với tần số xuất hiện nhiều của những
cơn gió giang hồ, chúng ta thấy Nguyễn Tuân hay nói đến những con đƣờng
vô định gắn với những kẻ lữ hành không biết mệt mỏi. Những con đƣờng gắn
bó với những ngƣời mắc bệnh giang hồ nhƣ máu thịt. Không thể kể hết những
con đƣờng mà Nguyễn đã đi qua, có những con đƣờng vô định, phiếm định và
cả những cung đƣờng cụ thể. Đó là những con đƣờng cụ thể, quẩn quanh nhƣ:
Hà Nội – Thanh Hóa, Hà Nội – Hải Phòng, hay xa hơn nữa là Hà Nội –
Quảng Nam, Hà Nội – Sài Gòn - Lục tỉnh Nam Bộ. Hoặc những con đƣờng
trong tƣởng tƣợng sang tận Pháp, Hoa Kì, Tân Thế Giới, Ý Đại Lợi của ngƣời
lữ khách. Những con đƣờng bộ, đƣờng biển, đƣờng sông, đƣờng sắt, nhân vật
của Nguyễn Tuân cứ thế mặc sức dấn bƣớc. Khi đi đã trở thành lí tƣởng, triết
87
lí sống nên nhà văn nguyện nhƣ một trái bóng lăn mãi trên con đƣờng vô
định. Bất kể thứ đƣờng gì, xê dịch bằng cách nào cũng là niềm hạnh phúc lớn
lao, bất tận cho một tâm hồn cô đơn, quẩn quanh. Họ chỉ thèm muốn đƣợc đổi
chỗ, đƣợc rong ruổi trên con đƣờng hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng
chẳng có điểm kết thúc, một con đƣờng mà chính anh cũng chƣa xác định rõ.
Nhà văn đã mƣợn hình ảnh những con đƣờng để nói lên quan điểm của mình:
chƣa thụ phép giang hồ, chƣa đƣợc gió mƣa của khởi hành tẩm cho ít bụi bặm
thì không thể nói đƣợc những câu khôn, chƣa thể trƣởng thành. Phải chăng,
khát vọng xê dịch qua hình tƣợng những con đƣờng cũng là một cách nhà văn
muốn thoát li thực tại xã hội ngột ngạt, đen tối, mất chủ quyền đƣơng thời và
thể hiện niềm khao khát mong một con đƣờng đời mới, phóng khoáng, thênh
thang, tự do.
Sân ga, bến tàu cũng là những địa danh gắn với những hành trình đi về
không mệt mỏi của ngƣời nghệ sĩ giang hồ. Không phải là hình tƣợng sân ga,
bến nƣớc trong ca dao dân ca biểu tƣợng cho những cuộc chia li bịn rịn, lƣu
luyến; mà là địa điểm khởi đầu một chuyến đi, biểu tƣợng cho những chuyến
lên đƣờng đi xa. Đó là cảng Hải Phòng, bến nƣớc Hƣơng Cảng, thƣơng cảng
Marseille sầm uất lộng lẫy, bến cảng Cựu Kim Sơn tƣơi đẹp của nƣớc Mĩ, bến
cảng Điền Công – cái bến lao động, cảng than nghèo nàn lạc hậu của mỏ
Vàng Danh. Khi ƣớc mơ xê dịch bị dập tắt bởi bổn phận, nhân vật chỉ còn
một cách duy nhất để giảm bớt những khao khát giang hồ bằng cách ngày
ngày lê mình ra một cái bến nƣớc, nhìn nƣớc trôi xuôi, nhìn bèo dạt xuôi,
nhìn những cánh buồm xuôi ngƣợc và những làn khói than đá nhòe trên sông.
Các buổi chiều hôm, đến hàng nửa tháng, vào lúc tịch dƣơng, anh ra bến ga
xe lửa, mất cái vé vào cửa năm xu, nhƣng không phải đƣa tiễn hay chờ đón ai
đó, mà chỉ để chứng kiến một con tàu tốc hành đến hoặc để nhìn thiên hạ lên
đƣờng, tựa lưng vào cái cột sắt nhìn trời, nhìn khói, nhìn tất cả mặt người tay
xách nách mang, thẫn thờ nhìn tàu đi để dưỡng cái bệnh đổi chỗ [1;851]. Anh
88
ngắm say sƣa cảnh nhộn nhạo, vội vã, ầm ĩ và lầm tƣởng mình cũng đƣợc lên
đƣờng. Anh thuộc lòng thời gian xuất hành của từng chuyến tàu. Anh trở
thành một con ngƣời bí mật, kì dị, khó hiểu cho những khối óc tò mò nơi đây
suy đoán. Đúng là một bệnh nhân đau khổ của xê dịch! Bến sông, bến cảng,
nhà ga đã trở thành biểu tƣợng cho khát vọng lên đƣờng, đƣợc ra đi của ngƣời
lữ thứ.
3.1.2. Biểu tượng hành động, ngôn ngữ
Trong các tác phẩm xê dịch, Nguyễn Tuân hay lặp lại một số hành
động, ngôn ngữ. Đó là những hành động nhƣ chuẩn bị tƣ trang lau chùi, phơi
phóng hong khô vali hoặc mua vali quần áo, gậy ba toong, tẩu thuốc. Thậm
chí cả những hành động “rất tình cảm” đột xuất bất ngờ với vợ con nhƣ rủ họ
đi chụp hình, đi ăn tiệm khiến cho ngƣời vợ tội nghiệp ấy rƣng rƣng nƣớc
mắt, không phải vì hạnh phúc mà là đau khổ khi nhận ra dấu hiệu ông chồng
lãng tử lại sắp bỏ nhà đi. Lúc đó, họ có tâm trạng “vui lắm” khác hẳn với con
ngƣời ủ dột, rầu rĩ, buồn bã thƣờng ngày. Những hành động đó thật kinh
hoàng, khủng khiếp với những ngƣời thân. Nó báo hiệu cánh chim giang hồ
sắp cất cánh bay đi không hẹn ngày về sau những ngày nghỉ ngơi lại sức tại tổ
ấm, đã thấy cuồng chân, tê chân. Nó kéo họ khỏi vòng tay ngƣời thân, trƣớc
tiếng thở dài bất lực của cha già, trƣớc ánh mắt sợ hãi tuyệt vọng của ngƣời
vợ trẻ, tiếng khóc ré của đứa con thơ. Những hành động ấy đã chứng tỏ trong
cuộc đấu tranh nội tâm, niềm đam mê không gian và tiếng gọi cuộc sống tự
do đã thắng thế tình yêu gia đình. Con ngƣời lãng tử đã chiến thắng con ngƣời
bổn phận trách nhiệm. Những ngƣời thân đã quá quen với những hành động
sửa soạn, sắm sửa đồ đạc ấy để làm gì rồi, buồn bã tuyệt vọng vì không thể
nào giữ đƣợc cánh chim trời luôn khát khao bầu trời bao la và những chân trời
rộng ấy.
Những câu nói “Gió đã lên”, “nhổ neo” cũng mang đầy hàm nghĩa. Đó
là những lời thông báo đã lên đƣờng. Đây vốn là ngôn ngữ chuyên ngành
89
hàng hải. Gió đã nổi lên để ngƣời thủy thủ căng buồm vƣơn khơi; nhổ neo
báo hiệu con tàu sắp dời bến cảng, bắt đầu một hành trình mới trên mặt biển
tới các miền đất xa lạ. Những câu nói đó càng xoáy sâu vào tâm can đang
chán chƣờng, buồn nản vì phải ở lâu một chỗ. Chúng không chỉ đơn thuần là
những lời thông báo tin tức tình hình của bạn hữu, mà còn là lời mời mọc, kêu
gọi lên đƣờng đầy quyến rũ: Hãy từ bỏ tất cả những ràng buộc để đƣợc sống
với đam mê; cuộc đời thật hữu hạn, tuổi trẻ quá ngắn ngủi, sao không tận
dụng thời gian xƣơng cốt còn cứng cáp để lên đƣờng, để đƣợc sống thực sự là
mình và thỏa nỗi đam mê. Hãy sống một cuộc đời cháy hết những đam mê
trong gió bụi cho khỏi hoài phí một cuộc đời. Có thể nói, những hành động và
ngôn ngữ đặc thù đó đã làm nên nét hấp dẫn riêng và có thể trở thành điển
tích điển cố của trang văn xê dịch.
3.1.3. Biểu tượng sự vật, đồ vật
Với Nguyễn Tuân, cuộc sống là bể rộng và ngƣời nghệ sĩ là con thuyền
lênh đênh không có bến đậu. Ông đã từng quan niệm hạnh phúc có lẽ chỉ tìm
thấy ở những nhà ga và từng có niềm mong ƣớc giống Paul Morand: Ta chỉ
muốn sau khi chết đi có người thuộc da ta làm chiếc vali. Có lẽ chỉ có chiếc
vali mới có khả năng chở cả tâm hồn và ƣớc muốn của Nguyễn Tuân đi khắp
nhân gian. Cái tay nải, chiếc vali, tẩu thuốc lá, cây gậy ba toong, những vật kỉ
niệm nhƣ cái đồng hồ, quả địa cầu, cái “phong vũ y”, mấy hòn đá, cái máy đĩa
hát... đã trở thành những biểu tƣợng xê dịch thật sống động, độc đáo .
Cuộc đời ngƣời lãng tử giang hồ không thể thiếu chiếc vali để đựng
hành lí, vật dụng cá nhân. Đó là chiếc vali đặc biệt, có thật, theo Nguyễn sang
Hồng Kông đƣợc miêu tả rất kì công, tỉ mỉ: chiếc vali da cũ sờn, góc tuột hết
gần hết đường chỉ khâu, là người bạn gắn bó với cuộc sống giang hồ lạc
phách gần mười năm từ nơi này đến nơi nọ, bất cứ nơi đâu, là người bạn
trung thành chia xẻ cùng tôi mọi nỗi nhục nhã và phong lưu nơi lữ thứ
[1;349]. Trong Thiếu quê hương lại là chiếc vali của ngƣời bồi tàu biển từng
90
có quãng đời thú vị sống lênh đênh trên các đại dƣơng, bƣớc chân đặt tới
khắp năm châu. Cái vali là niềm hạnh phúc, tự hào của ngƣời lãng tử thì cũng
là vật vô cùng đáng ghét trong con mắt những ngƣời thân.
Chiếc vali đẹp, giá trị thì phải nhuốm màu bụi bặm của cuộc đời phong
trần, phải phơi mình trên đƣờng trƣờng nắng gió. Nó chỉ có giá trị thực sự khi
đã cũ, càng cũ càng tốt, càng chứng tỏ chủ nhân là ngƣời đi rất nhiều, từng
trải cuộc đời gió bụi: có những vật chỉ cũ đi thì mới có giá. Xách một cái vali
mới rất sạch lên tàu, tức là đã oan uổng góp một cái ngây thơ đáng tức cười
vào cảnh xô bồ phiền phức,... đem lại rất nhiều xấu hổ cho những đấng bôn
ba biết quý chút phẩm giá của giang hồ. Cái vali mới sẽ bị chê mùi da hăng
lắm, cần những trận gió đường trường thổi vào cho nhiều mới hả hết cái mùi
tanh nồng mới dùng được; bị chê màu da sáng quá, tươi quá, sạch quá, thiếu
mất cái đẹp của phong trần [2;587]. Quan niệm về cái Đẹp ở đây thật kì lạ!
Không phải là cái đẹp thẩm mĩ bắt mắt, cuốn hút bởi cái bề ngoài đẹp đẽ, sang
trọng, sạch sẽ, thơm tho; mà đẹp và giá trị bởi quá khứ lẫy lừng theo bƣớc
chân giang hồ lênh đênh. Thân nó đƣợc dán vô số những con tem thƣơng hiệu
của các khách sạn danh tiếng, các quốc gia chủ nhân của nó từng qua. Càng
nhiều những con tem, trên tem càng nhiều các thứ tiếng ngoại quốc thì chiếc
vali càng đáng giá, chủ nhân của nó càng đƣợc vị nể, kính trọng. Mỗi con tem
trên vali là một kỉ niệm vô giá, không gì có thể sánh bằng. Chiếc vali
Hartmann quý giá gặp nƣớc mặn lâu ngày cũng không bị han rỉ và cái lần da
hóa học phủ ngoài cũng không trƣơng không bở mủn ra; đóng kĩ lại rồi, có
vứt xuống hàng tháng nƣớc bên ngoài cũng không thấm đƣợc vào ruột trong.
Chiếc vali “hàng hiệu” giang hồ đã đem lại cho Bạch sự ngƣỡng mộ tôn kính
của tụi bồi tàu, đầu sai khách sạn những khi không còn đồng xu trong túi. Anh
có thể ăn ở tràn lan cả tháng ở khách sạn sang trọng Bắc Mĩ mà không ai dám
hỏi tiền buồng, tiền cơm rƣợu. Chỉ cần những cái nhãn giấy in xanh đỏ dán
chi chít là bạn bè giang hồ kiêng nể rồi, bởi nó là cả một kho địa dƣ chính trị
91
thế giới với tên các thủ đô, hải cảng lớn chỉ những ngƣời lang bạt kì hồ mới
cắp đƣợc về thôi. Chiếc vali Hartmann quý giá đó còn đƣợc nhà văn nhắc lại
một lần nữa trong tùy bút Một lá thư không gửi và là vật bất li thân của kẻ
giang hồ gắn cuộc đời với gió bụi. Nó trị giá không nhỏ: 450$, cao gần bằng
đầu người, mỗi khi dựng đứng nó lên là có một cái tủ áo. Ở trong đựng đủ
quần, áo, giầy mũ, cả mùa nóng và mùa lạnh. Thực là một vật đáng làm bạn
với kẻ giang hồ biết tự trọng [2;430]. Nó không chỉ là chứng cứ sót lại những
kỉ niệm của một thời phong trần tự do, tự tại mà còn là tài sản tinh thần to lớn
không vật chất gì sánh bằng, bởi tiền bạc không mua đƣợc thời gian và hành
trang kỉ niệm, bởi ở đời có những kỉ niệm vụn vặt mà ngƣời ta không thể sƣu
tầm lần thứ hai.
Bởi thế mà khi ngƣời thân vô tình lau chùi sạch sẽ chiếc vali cũ ngƣời
lãng tử sững sờ, điếng cả ngƣời, nhƣ điên nhƣ dại, đứng buồn thiu hàng nửa
giờ trƣớc cái vali giữa sân nắng chang chang rồi lịm dần ngƣời đi. Suốt mấy
ngày anh không ăn, không nói, không ngủ đƣợc vì đau khổ, tiếc nuối. Hành
động vô tình “ngu ngốc” đó có khác chăng đánh rơi xuống thềm hoa một cái
chén ngọc liệu, đạp tan một cái bình pha lê gọt [1;914]. Thế là hết, hỏng hết
giá trị của cái hòm giang hồ. Đã không đƣợc lên đƣờng lại còn mất đi những
cái nhãn giấy, cái vali đắt tiền kia trở thành đồ vứt đi, không còn giá trị gì
nữa. Nó đã trở thành chiếc vali tầm thƣờng, không có quá khứ, không còn dấu
tích kỉ niệm, không còn bằng chứng một cuộc đời phong trần trong sƣơng gió.
Bây giờ nó cũng giống nhƣ cuộc sống rời rạc, chán chƣờng, cuộc đời “vứt
đi”, vô nghĩa, “đời thừa”, mòn đi, cũ đi, rỉ ra của ngƣời lãng tử khi phải dừng
chân bên những bổn phận trách nhiệm với gia đình.
Chiếc tẩu thuốc cũng là một vật tùy thân không thể thiếu của ngƣời
lãng tử. Bạch có một bộ sƣu tập vô cùng phong phú quý giá những chiếc tẩu
thuốc những vật kỉ niệm cũ. Có rất nhiều loại: to, nhỏ, dài, ngắn, lục lăng, bát
giác, tròn vuông, bầu dục; bằng gỗ, bằng đất, bằng bọt bể; cái điếu Istamboul
92
1930 có hình vẽ đầu mĩ nhân Thổ Nhĩ Kì trùm khăn kín dung nhan. Cái quý
giá của tẩu thuốc không phải vì mới, chƣa sử dụng mà càng cũ càng quý, khổ
nhất cho một người hút điếu là bị thất lạc điếu cũ và bất đắc dĩ phải mua điếu
mới mà đền vào[1;779]. Là ngƣời cá tính, cách sử dụng điếu của Nguyễn
cũng thật cầu kì lắm công phu, phải tôi điếu bằng mỡ chó mỡ gà cho hết mùi
đất đi đã, rồi mới lăn thuốc phiện lên trên, phải luyện cho thuộc cái lòng điếu
gỗ bằng rƣợu mía mạnh, rƣợu nho nặng hoặc dầu ô lƣu. Những chiếc tẩu
thuốc không chỉ là vật tùy thân mà đã trở thành ngƣời bạn tri kỉ đầy thâm tình
của ngƣời giang hồ. Nó còn làm thức gợi kỉ niệm của ngƣời lữ thứ khi giấc
mộng giang hồ giang dở: lắm lúc phải nằm meo ở nhà, buồn đem cái điếu cũ
ra hút, tự dưng thấy thương, thấy nhớ một cách xa xôi. Nhớ một căn phòng
trọ. Nhớ một mốc đá ở bến. Nhớ một cơn gió. Nhớ một trận mưa giữa trời.
Mỗi một giọt nước bọt chảy vào ruột điếu... là cả một tiếng nấc của người lữ
khách mạt lộ bị nằm bệt trệ lại một nơi [1;780].
Những con tem thƣ, đặc biệt cái “mẩu giấy dây thép xanh xanh” (điện
báo) – những vật tƣởng chừng vớ vẩn, nhỏ bé, vặt vãnh thế mà cũng trở thành
những biểu tƣợng độc đáo cho đam mê mãnh liệt của những kẻ giang hồ. Tờ
giấy dây thép màu xanh da trời do ngƣời phu trạm đƣa đến, đến báo những
chuyến đi của bạn bè ở khắp nơi. Nhƣng nó cũng là kẻ thù của hạnh phúc gia
đình. Không phải là vì sự xuất hiện của một ngƣời thứ ba trẻ trung, xinh đẹp,
khiêu gợi, quyến rũ làm đắm say trái tim mà chỉ là một bức điện tín xuất hiện
bất thình lình trong hạnh phúc mong manh. Bao giờ cũng thế, nó cứ xuất hiện
khi ngƣời lãng tử đang dần lấy lại đƣợc sự cân bằng trong tâm hồn, chấp nhận
xếp ƣớc mơ để vui vẻ trở lại bên gia đình và thành thực muốn ở yên một chỗ
để tính liệu một công việc gì chắc chắn. Ngƣời thân của họ thở phào, vui vẻ,
hạnh phúc vì tƣởng bệnh du lịch đã khỏi hẳn. Nhƣng “ngày vui ngắn chẳng
tày gang”, phải chăng vì cái gì đẹp vốn không thực, ít bền vững, không đậu
đƣợc lâu, và “tai họa” lại ập xuống xáo trộn gia đình chỉ vì một tờ giấy dây
93
thép nhỏ bé mỏng manh! Một hòn đá ném đánh độp đúng vào giữa một cái tổ
chim đang ríu rít. Con chim đực lại bay đi mất. Đi mà không báo đi đâu, bao
giờ về, mặc cho ngƣời ở nhà chờ đợi vô vọng. Cái vòng cuộc sống luẩn quẩn
lặp đi lặp lại mãi của ngƣời lãng tử: yên ấm – tờ giấy xuất hiện - bỏ đi – trở về
- yên ấm- bỏ đi – trở về..., đến mấy chục lần nhƣ thế. Thật là tờ giấy có sức
thôi miên, lôi kéo con ngƣời đến ma mị. Nó làm cho ngƣời ta nhƣ mất đi lí trí,
quên đi tất thảy cuộc sống êm đềm hiện tại, quên đi bổn phận trách nhiệm và
những cố gắng níu giữ bấy lâu nay của ngƣời thân. Nó khơi dậy, thổi bùng
niềm đam mê đang lụi tắt. Đồng thời nó cũng là nỗi kinh hoàng khiếp sợ với
ngƣời thân đến bé con cũng biết khóc òa lên khi ngƣời phắc tơ già ấy tiến vào
nhà. Nó mang đến niềm vui hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống cho ngƣời lãng tử
bao nhiêu thì cũng mang lại bất hạnh, chán chƣờng với ngƣời thân bấy nhiêu.
Tờ điện báo là biểu tƣợng hạnh phúc của ngƣời nghệ sĩ giang hồ thì cũng là
niềm đau, bi kịch cho ngƣời thân của họ.
Những hòn cuội, những tảng đá tai mèo cũng là những kỉ niệm cũ quý
giá ngƣời lãng tử nhặt ở dọc đƣờng trong mỗi chuyến đi xa, nay đã đƣợc đặt
trang trọng trên mặt tủ sách nơi gác trọ phố Hàng Gai. Mỗi hòn là một kỉ
niệm của quãng đời giang hồ sƣơng gió: Cái hòn óng ánh như kim sa ấy nhặt
được ở đảo Sicile khi theo tàu đánh cá ở Địa Trung Hải. Còn hòn trắng là
bạch thạch ở ven biển cổ Hi Lạp [1;786]. Mỗi hòn đá đánh dấu bƣớc chân
giang hồ đã lƣu dấu trên những miền đất xa lạ, là những kỉ vật vô giá mà con
ngƣời ta khó có lại đƣợc lần thứ hai.
Nhƣ vậy, dƣới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, những hình ảnh biểu
tƣợng trong các tác phẩm xê dịch hiện lên thật sống động, đƣợc lặp lại nhiều
lần có chủ đích. Những vật nhỏ bé, tƣởng nhƣ vứt đi nhƣng có giá trị biểu
trƣng sâu sắc. Chúng không chỉ gắn bó, hoàn thiện thêm chân dung của ngƣời
lãng tử mà còn nói lên khát vọng đam mê chân chính của một ngƣời dám sống
mãnh liệt với con ngƣời thực của chính mình.
94
3.2. Sử dụng thể loại tùy bút
Từ điển mở Wiktionary đã định nghĩa về tùy bút: Tuỳ là tuỳ ý, bút là
cây viết. Tuỳ bút là viết tuỳ thích theo ý thích của mình, không có chủ đề gì
cả, thường là miêu tả cảm xúc của tác giả về vấn đề gì đó. Tùy bút thuộc thể
kí ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp
với việc phản ánh thực tế khách quan. Trong Từ điển văn học – NXB Thế
giới 2004, tác giả Nguyễn Xuân Nam định nghĩa: Thể loại văn xuôi phát sinh
từ thể loại kí, gần với bút kí, nhưng cách viết tự do, tùy hứng hơn nhiều. Nhà
văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng, có thể nói từ việc này sang việc khác,
từ liên tưởng này sang liên tưởng kia...để bộc lộ những cảm xúc, những tâm
tình, phát biểu những suy nghĩ, nhận xét về con người và cuộc đời [19;1888].
Nhƣ vậy, về đặc trƣng thể loại, tùy bút là một dạng có tính chất trung
gian, vừa có tính chất kí (ghi chép), vừa có chất thơ (trữ tình), vừa mang màu
sắc triết học trong tƣ duy. Đây là một thể văn tƣơng đối tự do, tùy hứng,
phóng túng, thể hiện đƣợc bản ngã nhà văn gần nhƣ thơ trữ tình. Nguyên tắc
kết cấu của tùy bút là vừa tán, vừa tụ. Bề mặt thì tản mạn, lắp ghép, chắp vá,
“đầu Ngô mình Sở”. Bề sâu thì nhất quán về ý nghĩa, tƣ tƣởng, chủ đề, tạo
nên trục nội dung xuyên suốt tác phẩm. Tuỳ bút đƣợc sáng tác theo tâm trạng
của nhà văn, giúp nhà văn bộc lộ cảm xúc cá nhân. Ngƣời viết tùy bút tài hoa
thƣờng có trƣờng liên tƣởng phong phú, vừa biến hóa, vừa thống nhất. Thể
văn xuôi rất mềm mại này nhà văn không cần nhân vật, cốt truyện, chỉ đứng
ra mà kể, mà tả trƣớc bạn đọc. Nhƣng tùy bút cũng là một thể rất khó, nếu
ngƣời viết không đủ bản lĩnh tác phẩm rất dễ rơi vào nhàm chán, lủng củng.
Sự việc đƣợc lọc qua cảm hứng chủ quan của nhà văn nhƣng vẫn phải chân thực.
3.2.1. Nguyễn Tuân gắn bó với thể loại tùy bút
Nhà phê bình Vƣơng Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân: Tên tuổi còn
mãi với thể tùy bút (Tạp chí văn học, số 6/1997), cũng đã khẳng định phong
cách độc đáo, đặc trƣng của tùy bút Nguyễn Tuân: Trước sau Nguyễn Tuân
95
sống chết với tùy bút. Một người đọc bình thường cũng dễ dàng cảm thấy
rằng những tùy bút của ông có một khí hậu riêng, ở đó có một giọng điệu bao
trùm, khiến nhiều bài viết, bịt tên tác giả đi, người ta vẫn biết chắc trừ phi
ông Nguyễn ra, không ai viết nổi. Tác giả còn nhấn mạnh, tùy bút là thể văn
có mầm mống từ xƣa nhƣng công đầu vẫn thuộc về Nguyễn Tuân. Ông là
ngƣời khai sơn phá thạch cho thể tài này và rất gắn bó với tùy bút, ông hóa
thân vào tùy bút, viết gì cũng ra tùy bút, tùy bút là một phần trong cuộc đời
của nhà văn.
Tìm đến với tùy bút cũng là con đƣờng tất yếu của cá tính và phong
cách Nguyễn Tuân. Dƣờng nhƣ ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự
tự do phóng khoáng và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Có
rất nhiều nhà văn viết tùy bút nhƣ Xuân Diệu, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Vũ
Bằng... nhƣng không phải ai cũng gắn bó cả đời và rất thành công nhƣ
Nguyễn Tuân. Nhắc tới thể loại tùy bút là ngƣời ta nghĩ đến Nguyễn Tuân,
nói đến Nguyễn Tuân là ngƣời ta nhắc đến tùy bút. Tuỳ bút khiến văn chƣơng
Nguyễn Tuân thăng hoa và ông khiến cho tuỳ bút trở nên đặc sắc. Viết một
bài tùy bút hay không quá khó nhƣng để viết nhƣ một sở trƣờng, thủy chung
gắn bó suốt đời và đam mê chỉ có Nguyễn Tuân. Trong tay ông, tùy bút đã đạt
đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống đồng thời cũng bộc
lộ một cái tôi tài hoa, uyên bác. Tùy bút Nguyễn Tuân có tính chất hƣớng nội,
thể hiện cái tôi khinh bạc, kiêu kì. Cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai
bắt chƣớc đƣợc của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến
thần tình của giọng điệu văn chƣơng. Có nhiều chi tiết tƣởng rất bình thƣờng
nhƣng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm
hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những triết lý có chiều sâu, nhà văn
đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tƣởng mới lạ. Qua các
thiên tùy bút, con ngƣời nhà văn có dịp hiện ra rõ rệt và để lại ấn tƣợng đậm
đà trong tâm trí bạn đọc. Nếu nhƣ chỉ đọc Vang bóng một thời ngƣời ta dễ
96
tƣởng tƣợng Nguyễn Tuân là một tín đồ hết sức trung thành với chủ nghĩa
truyền thống. Song đến các tùy bút, thì ngƣợc lại, ta bắt gặp ở nhà văn một
khuôn mặt thật hiện đại và phải nói là ông đã đi tới cùng của những biểu hiện
đáng gọi là hiện đại đƣơng thời. Vì vậy, tiếp xúc với tùy bút - nơi hội tụ tất cả
cá tính, tài năng của cái tôi Nguyễn Tuân, ngƣời đọc đƣợc đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, từ sự thú vị này đến thú vị khác. Có thể nói, sự gặp
gỡ của Nguyễn Tuân và thể loại tùy bút là một sự “đồng thanh tƣơng ứng,
đồng khí tƣơng cầu”, nhƣ một mối kỳ duyên và đằm thắm đi suốt hành trình
sáng tác.
3.2.2. Tùy bút thể hiện thành công đề tài xê dịch
Để diễn tả những xúc cảm miên man, mãnh liệt trên con đƣờng xê dịch
thì không thể loại nào phù hợp hơn với Nguyễn Tuân hơn tùy bút. Ở đề tài
này, dù nhà văn sử dụng nhiều thể loại từ truyện ngắn, truyện vừa cho đến
tiểu thuyết thì hơi hƣớng tuỳ bút vẫn còn in dấu rất đậm. Tiểu thuyết, truyện
ngắn của Nguyễn Tuân hầu nhƣ không có cốt truyện, kết cấu lỏng lẻo, chỉ
toàn là những chuyện tản mạn ngƣời nghệ sĩ ghi lại những gì ấn tƣợng đối với
mình, nhân vật là sự phân thân của tác giả với những cảm xúc triền miên,
mang đậm yếu tố chủ quan. Thiếu quê hương, mang hình thức của tiểu thuyết,
có các chƣơng (33 chƣơng), có nhân vật, có đối thoại. Nhƣng đặc trƣng cơ
bản nhất của tiểu thuyết là phải có cốt truyện chặt chẽ, có xung đột biến cố, kể
về số phận nhân vật, thì Thiếu quê hương lại không có. Tác phẩm kể về anh
chàng có máu giang hồ với những khao khát đƣợc lăn thân trên những đƣờng
trƣờng nhƣ hòn đá lăn không bao giờ ngừng nghỉ, với niềm vui đƣợc đi xa và
nỗi buồn chán đau khổ vì phải dừng lại. Những mẩu chuyện trong tác phẩm
tản mạn, chỉ liên quan đến Bạch. Các nhân vật khác nhƣ Hồ, Sƣơng, Phái,
Tần, Hòa, Dung không có nhiều vai trò trong tác phẩm. Truyện chỉ đi sâu
khắc họa những dòng cảm xúc miên man của Bạch mà thôi. Bằng tầm văn
hóa sâu rộng có sự kết tinh văn hóa đông tây kim cổ, với quan niệm lấy văn
97
chƣơng làm lẽ sống, Nguyễn Tuân chơi một lối tùy bút độc tấu, khơi dậy
trong lòng ngƣời hứng thú tìm tòi, khám phá những nét đẹp cuộc sống giang
hồ. Nhà phê bình Phan Ngọc cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn đầu tiên tạo
ra kĩ thuật viết văn trong văn học.
PGS.TS Hà Văn Đức trong bài Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng Tháng Tám (in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng Tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996) đã đƣa ra nhiều
đánh giá sâu sắc về những đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại:
Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, ta nhận thấy cái “tôi” bản ngã được thể hiện một
cách rõ nét. Các nhân vật trong tùy bút của ông dù “tên gọi khác nhau”
nhưng thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả. Tùy bút
Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc trước hết bởi những trang viết chân thực với
lượng thông tin phong phú, đa dạng, chính xác. Đặc sắc của tùy bút Nguyễn
Tuân chính là giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao, chất trữ tình đậm đà
đƣợc kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo với những liên tƣởng phong phú, táo bạo,
bất ngờ. Lối hành văn, dẫn truyện hết sức tự nhiên, giàu hình tƣợng và đầy
chất thơ. Nhà văn sử dụng mặt mạnh của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau:
âm nhạc, hội họa, điện ảnh... để làm tăng thêm khả năng biểu hiện của văn
chƣơng.
Hình tƣợng cái tôi giang hồ đƣợc thể hiện một cách trọn vẹn nhất trong
tùy bút khi nhà văn thể hiện chân dung chính mình một cách toàn diện.
Nguyễn đã lấy chính bản thân làm tƣ liệu, làm nhân vật chính. Rất dễ nhận ra
là ông chỉ viết về chính những gì ông đã trải qua. Khác với các nhà văn khác,
sống và viết luôn khác biệt, viết luôn là sự hƣ cấu tƣởng tƣợng, còn Nguyễn
Tuân đã mang chính cuộc sống của mình đang thể nghiệm vào luôn các trang
viết; sống, trải nghiệm rồi mới viết. Đọc những bài trong Tuỳ bút I, Tuỳ bút II,
Một chuyến đi, Thiếu quê hương… ta thấy ngay đó là tự truyện của Nguyễn
Tuân. Ngƣời ta không những biết ông gia cảnh thế này, dòng dõi thế kia, vợ
98
con ra sao, suy nghĩ thế nào, mà còn đƣợc biết thói quen hút thuốc rất nhiều
và gu đọc sách (văn chƣơng và du lịch) của ông ; sở thích lang thang đi bộ
trên các đƣờng phố Hà Nội (Một lữ khách giữa thành phố chúng ta – Tùy bút
I) và lối sống thình lình bỏ đi chơi xa dông dài. Thậm chí còn đƣợc biết ông
làm thêm một cái nhà, có một gian phòng thế giới riêng trên phố, hoặc đam
mê xê dịch đến đau khổ, thành tâm bệnh. Một con ngƣời “ngông ngạo”,
không muốn gánh trên vai mình bổn phận trách nhiệm, sống vƣợt lên trên thói
thƣờng đạo lí truyền thống gia đình. Không thích “tu thân, tề gia”, cũng
không thích “trị quốc, bình thiên hạ” mà chỉ muốn sống đƣợc là chính mình,
dám sống chết với đam mê. Ông cũng dám phơi bày, thổ lộ cả tật xấu giang
hồ lãng tử của mình nhƣ có lúc chìm đắm vào cuộc sống trụy lạc bên bàn đèn
hồng phiến và thanh lâu. Nguyễn đã phơi bày tất cả con ngƣời thực - chân
dung ngƣời nghệ sĩ giang hồ tồn tại cả hai mặt tốt và xấu, tích cực và cực
đoan... Phải nói đây là cả một hƣớng đi táo bạo, độc đáo. Lối viết đi vào xây
dựng hình ảnh bản thân đã bị lên án ở phƣơng Tây từ trƣớc thế kỷ XIX.
Blaise Pascal (1623 – 1662), nhà toán học, vật lý, triết gia Cơ Đốc ngƣời Pháp
từng nói: “Cái tôi thật đáng ghét”. Liên hệ với thói quen giao tiếp khiêm tốn
của ngƣời phƣơng Đông, cái cách nói về bản thân không biết mệt ấy lại càng
khó coi, chƣớng mắt. Nguyễn Tuân lại tình nguyện đi vào vùng cấm ấy. M.E.
Montaigne (1533–1592) là một trong những nhà văn có ảnh hƣởng nhất của
thời kỳ Phục Hƣng Pháp, chắc không thể ngờ là câu ông viết trong Tiểu luận
“Tôi chính là chất liệu cho sách của tôi” lại đƣợc một nhà văn Việt thực hiện
một cách trọn vẹn. Sự độc đáo trong văn chƣơng ấy, Nguyễn Tuân phải dựa
trên một căn bản văn hoá vững chắc. Muốn học cách khai thác bản thân nhƣ
nhà văn không phải dễ, không phải ai cũng có thể làm đƣợc mà trƣớc tiên
phải có vốn sống từng trải thâm hậu và bản lĩnh, bản năng làm ngƣời nhạy
bén. Tuỳ bút của Nguyễn Tuân bộc lộ tận cùng, đầy đủ bản ngã con ngƣời
nhà văn, qua đó bóng dáng một thời đại một thế hệ vẫn hiện lên sống động.
99
Là ngƣời cá tính mạnh mẽ, tâm hồn nghệ sĩ khoáng đạt, Nguyễn Tuân
đã sử dụng thành công tùy bút – du kí phóng túng, lấy cái tôi của mình làm
nhân vật trung tâm, ghi lại cảm xúc tâm trạng cuộc sống lãng du, trôi nổi của
chính mình. Lối viết tùy bút cũng rất độc đáo: hƣớng nội và độc tấu “Lòng
kiêu căng của ta xui ta chỉ nên chơi có một lối độc tấu” (Nhà Nguyễn). Các
tác phẩm đều là các bức chân dung tự họa lớn nhỏ. Nhân vật chính đều phảng
phất bóng dáng, tâm tƣ, là sự khúc xạ của chính cái Tôi tác giả. Họ là những
con ngƣời tài hoa tài tử, nghệ sĩ giang hồ, yêu cuộc sống tự do, không hòa
đồng đƣợc với cuộc sống yên vị, tầm thƣờng, nhạt nhòa. Nếu cái đẹp tùy bút
Thạch Lam mang sắc thái thuần hậu, thì đến Nguyễn Tuân nó đi gần tới sự
bất cần đời, ngạo nghễ, phá cách. Nội dung tác phẩm chủ yếu là những cảm
nghĩ linh tinh, những mẩu chuyện không có ý nghĩa gì đáng kể, cũng chỉ xoay
quanh những vấn đề liên quan đến xê dịch nhƣ: niềm phấn khởi khi đƣợc lên
đƣờng, cái đau khổ trống trải khi bị bó chân ở nhà, niềm ganh tị khi thấy bạn
bè đi xa, tản mạn về những đồ vật gắn bó với ngƣời lãng tử và luận về cảnh
vật con ngƣời trên đƣờng lãng du...
Giọng điệu du kí cũng rất phong phú, đa dạng. Khi thì trang nghiêm, cổ
kính: phải, chúng ta là hạng người thèm sống, thèm đi, chúng ta là hạng
người đem cả một kiếp sống để phụng sự xê dịch [2; 420]. Lúc là giọng điệu
bông đùa dí dỏm khi nhân ra sự “bó tay”, “vô phƣơng cứu chữa” bệnh xê
dịch: Chứng này thuộc về tim và óc... Những vị thuốc rút ở những cái gì gọi
là thiêng liêng thuần túy của người đàn bà. Thí dụ, gạn được những giọt nước
mắt của người vị hôn thê rõ trẻ đẹp trên chiếc gối đầm, đem thả sương mùa
thu rồi cho uống. Hoặc là giọt nước mắt đặc, mặn, đầy mùi trách móc của
một bà cụ già đang tựa mình bên cửa củi khô, nhìn mặt trời trụt xuống cánh
đồng chiêm. Hoặc là giọt nước mắt loãng và ngây thơ của con trẻ ở trường
về, bi bô khi thấy trên thành mâm cơm gia đình có một đôi đũa thừa và một
chiếc bát đẹp bỏ không. Ấy cứ uống mấy vị đó, thì khỏi bệnh du lịch [2;421].
100
Khi thì lại thánh thót trầm bổng; khi thì xô bồ bừa bãi, khinh bạc nhƣng cũng
rất đỗi tài hoa trong miêu tả. Đó chính là nét đặc biệt của thể loại du kí của
Nguyễn Tuân, có sức lôi cuốn mạnh mẽ những tâm hồn ƣa phiêu lƣu mạo
hiểm.
3.2.3. Tùy bút xê dịch chứa đựng thông tin phong phú, đậm yếu tố tự sự
và giàu chất thơ
Tùy bút Nguyễn Tuân mang đậm tính chất kí, nghĩa là ghi chép sự thật
và khai thác sâu sắc tài tình hiện thực khách quan. Trong những sáng tác
chúng tôi thấy bức tranh đời sống lịch sử đƣơng thời không đƣợc rộng lớn,
nhƣng nhà văn đã đi sâu miêu tả khá sống động cuộc sống của lớp trí thức
thành thị. Họ đã sống nhƣ thế nào, tâm tƣ suy nghĩ ra sao, sự bế tắc tinh thần
tìm hƣớng thoát li và khát khao mong mỏi của họ. Những trang tả cảnh tài
tình sống động, cụ thể, đã mang nhiều tri thức cho bạn đọc: cảnh Hà Nội tập
phòng không hồi 1939 - 1945 (Những ngọn đèn xanh); cảnh đi thuyền trên
sông rồi men theo biển, ngƣợc từ Thanh Hoá ra các tỉnh đồng bằng sông
Hồng (Chiếc va ly mới); cảnh xê dịch trên tàu hỏa từ ga Hà Nội, qua các địa
danh nhƣ Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Nha Trang... vào đến tận ga Sài Gòn,
rồi lại xuôi xuống miền Tây (Một lần đi thăm nhau). Bức tranh khai thác mỏ
còn rất thô sơ, thủ công, vất vả, độc hại ở Vàng Danh, Uông Bí. Thiên nhiên
khắc nghiệt héo úa, một màu đen tang tóc của than bao trùm cảnh vật con
ngƣời. Sự hiểu biết tƣờng tận, tỉ mỉ về đƣờng sắt nƣớc ta lúc đó cũng khiến
cho ngƣời đọc khâm phục sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân: Đông
Dương thiết lộ rộng có một thước. Con đường xe lửa bên Tây và quốc tế mở
rộng những hai thước. Bởi nên tốc lực một giờ của nó có khi linh trăm cây số.
Của mình chỉ chạy đến sáu mươi là cùng... Một cây số thiết lộ không kể nhân
công, đá và đất đổ nền và tiền đất ruộng qua các làng có địa bạ, chỉ có sắt
thôi, phải mất hai vạn chín nghìn đồng...Từ Hà Nội vào Sài Gòn mất độ hơn
năm mươi triệu đồng bạc sắt [1;829]. Kiến thức về âm nhạc cũng thật đáng nể
101
khi chỉ nghe trên đài phát thanh mà ngƣời lãng tử đã phát hiện và nhận ra rất
rõ âm thanh của từng loại nhạc cụ: khúc hòa nhạc Trung Quôc hơi na ná cái
bài Nhì Voòng. Rồi đến một đoạn tấu nhị đi kèm với tiếng sênh [1;680]; điệu
hòa nhạc thấp hẳn xuống...và một bản đàn mới lạ du dương chen lẫn vào.
Bạch lắng kĩ, thấy rõ là đàn xứ Hạ Uy Di hòa kèm với những tiếng vi vút của
một thứ nhạc khí rú lên như gió ngàn dương liễu nơi bãi biển. Đúng là âm
nhạc Phi Luật Tân [1;681]. Hiểu biết phong phú của Nguyễn Tuân về ngành
hàng hải, về hành trình của các con tàu quốc tế trên các đại dƣơng Hồng Hải,
Hắc Hải, Địa Trung Hải, kênh Tô Di Sĩ: tàu Kiku Maru chạy đường Mạc xây
– Cận Đông, đi lối châu Mĩ, qua Đại Tây Dương, qua vận hà Panama, vào
Thái Bình Dương, ghé Cựu Kim Sơn sang Nhật [1;744]; tàu Empress of rời
bến Hương Cảng lúc chín giờ đêm; tàu Sphinx mỗi năm đi đường Cực Đông,
lại hai lần, đi và về, ghé bến Hương Cảng ăn than, ăn khách, ăn hàng
[1;680]... Với sự am hiểu này nhà văn đã lí giải cho chúng ta tại sao những
con tàu biển lại hay khởi hành vào lúc đêm khuya, khó khăn cho việc đƣa
tiễn: Tại sao tàu Compiègne khởi hành vào khoảng hai giờ rưỡi sáng đấy à?
Thưa ông, bởi vì mãi đến cái giờ ấy con nước thủy triều mới dâng lên, người
ta dễ nhổ neo, chỉ tháo nới nhẹ dây xích sắt gò tàu vào mốc bến là tàu dịch đít
được ngay. Thủy thủ dễ làm việc. Con tàu nhổ bến nhẹ nhõm hơn và hãng tàu
đỡ tổn phí dầu, than, mỡ [1;842]; Ngày kia mới gặp kì con nước, thuyền nhổ
neo mới nhẹ mũi nhẹ lái [2;600]. Những kiến thức về địa lí, về giờ quốc tế
của Nguyễn Tuân thật đáng nể đã mang đến cho bạn đọc nhiều hiểu biết bổ
ích: Hương Cảng và Hà Nội chênh nhau mất chín độ kinh tuyến, lùi về phía
đông, nghĩa là hai nơi chênh nhau đúng một giờ. Óc quan sát thấu đáo, cộng
với thói quen cái gì cũng muốn biết tƣờng tận, cộng với thói quen thích thống
kê, thích đếm, thích nói đến số lƣợng khiến cho văn phẩm xê dịch Nguyễn
Tuân đôi khi còn mang tính tƣ liệu khảo cứu, cung cấp khá nhiều thông tin
102
cần thiết. Đây vốn là một đặc tính còn hạn chế trong các tác phẩm văn học
ngày nay.
Tùy bút Nguyễn Tuân còn mang đậm yếu tố tự sự, có cốt truyện, nhân
vật. Trong một chừng mực nào đấy, nhà văn còn miêu tả tâm lí, khắc họa tính
cách nhân vật, tạo nên những cảnh, những cốt truyện đơn giản. Ở đây ta thấy
có sự giao hòa thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố thể loại trong phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân. Giọng điệu thƣờng là giọng kể lịch lãm, bút pháp
trữ tình đậm đà; đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhƣng vẫn đảm bảo độ mãnh
liệt của cảm xúc và tầm cao tƣ tƣởng bằng rất nhiều từng trải. Ông dùng nhiều
tƣởng tƣợng để dựng cảnh, dựng truyện; có cả miêu tả tâm lí, suy nghĩ, hành
động và phần nào cho thấy tính cách các nhân vật. Tâm trạng phức tạp của
các nhân vật xê dịch đã để lại ấn tƣợng khó quên trong lòng ngƣời đọc, điều
này rất hiếm gặp trong các sáng tác tuỳ bút của những nhà văn khác. Du kí
Một chuyến đi đã thể hiện một đặc điểm nổi bật đó là chất truyện trong cách
viết tùy bút Nguyễn Tuân. Ngay mở đầu tác phẩm, mấy trang đề từ đã kể về
gen giang hồ của dòng họ từ đời ông nội, cha Nguyễn Tuân truyền lại. Mỗi
mẩu chuyện trong tập du kí có thể coi là một truyện ngắn tự truyện về chuyến
đi xuất ngoại của nhà văn. Chuyện về những sự kiện đã xảy ra, về những tài
tử trong đoàn làm phim, về cuộc sống sinh hoạt của đám tài tử cũng nhƣ cuộc
sống ăn chơi xa hoa, vƣơng giả, tiêu tiền nhƣ rác ở Hồng Kông (Một con tàu
say rượu; Hoa, ánh sáng, nước; Một buổi chiều lưu đãng; Ba ván cờ tướng ở
Lê Viên Sơn, Một ngày một đêm cuối năm...). Đặc biệt câu chuyện về các cô
gái giang hồ đƣợc ghi chép rất sống động trong phần Ấn tín của người con gái
tỉnh Việt, về ngƣời kĩ nữ Cúc Tiểu Muội với những giai thoại nổi tiếng. Đó là
một cô gái “đẹp, trẻ và ác”, có cuộc sống phức tạp với những tính cách riêng
độc đáo, vừa nâng niu chi chút cho cái đẹp, lại vừa tàn nhẫn. Nàng yêu từng
bông cúc, chăm chút cho vƣờn hoa thêm lộng lẫy nhƣng cũng sẵn sàng bắt
ngƣời hầu gái nhịn ăn quỳ cả ngày để nâng bông cúc mình vô tình đánh gãy.
103
Nàng chế riêng nƣớc hoa; yêu con mèo đen của mình nhƣng cũng sẵn sàng
tiêm thuốc “bí khoa” làm cho nó không lớn đƣợc, chỉ to bằng con chuột cống
thôi, đi đâu cô bỏ nó vào trong cái ví đầm. Chuyện về nàng Cúc Tiểu Muội
còn có phần huyền thoại, bí hiểm trong câu chuyện của ngƣời đạo diễn Hồng
Kông Hàn Vị Lâm, cô gái có nét cười gằn của người phụ nữ đau khổ; và dáng
đi đài các, một vẻ mặt băn khoăn... hợp với tính cách của người anh thư trong
phim của tôi lắm [1;368]. Nhƣ vậy, Một chuyến đi là một tùy bút du kí nhƣng
tác phẩm lại có cốt truyện, có lớp lang, có các nhân vật với những tính cách
riêng khó trộn lẫn.
Tùy bút Làm lại cuộc đời kể về sự nỗ lực thay đổi tính cách để làm lại
cuộc đời của “ba đứa con hoang thời đại” là Lƣu, Nguyễn, Hoàng - những nhà
văn trẻ, những thiếu niên trí thức cùng mắc chung bệnh ham đi. Họ đã từng
thề từ bỏ cuộc sống lông bông, lộn xộn và thiết tha làm ngƣời đứng đắn; đều
cảm thấy cái khổ của cuộc đời không có tổ chức nên mới nguyện cùng nhau
làm lại cuộc đời. Nhƣng lời hứa đó không giữ đƣợc bao lâu, sóng ngầm vẫn
nổi dậy trong lòng ba đứa trẻ, họ lại đi. Họ là những con ngựa tù chân trong
tàu cỏ khô, vẫn nhớ màu xanh non chỗ rìa đường dài thăm thẳm. Bây giờ nó
muốn bất chấp cả cương lẫn vế, nhất định đòi bong trên đường cũ [1;438].
Cái cách đi cũng đột ngột bất ngờ, rất nghệ sĩ: đi lúc trời nổi giông gió, sấm
chớp, mƣa rào; lúc “trời gió bão, đèn đƣờng tắt, đƣờng ngập”. Tùy bút này đã
ghi lại những khoảnh khắc, những mảnh đời của ba chàng thanh niên lập dị
với lối sống tự do; muốn làm lại cuộc đời cho đứng đắn nhƣng vô vọng bởi
“giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Những câu chuyện đi, cách đi kì quặc và
những khủng hoảng tâm hồn của ba chàng “nhầm sinh thế kỉ” hiện lên thật
sinh động.
Tùy bút Chảy, Những ngày nhạt nhẽo, Về quê, Phong vị tỉnh xép,...là tự
truyện về những ngày tháng buồn bã của nhân vật “tôi”, muốn giải thoát khỏi
những tháng ngày bi kịch bằng sự ra đi. Mỗi tùy bút là một câu chuyện, một
104
nét buồn riêng, đau khổ riêng, tâm trạng riêng, không cái nào giống cái nào.
Những dòng nội tâm miên man đó dƣới ngòi bút sáng tạo tài hoa của Nguyễn
Tuân thực sự là những mẩu tự chuyện hấp dẫn ngƣời đọc, giúp chúng ta hiểu
hơn về thế giới tinh thần và đời sống nội tâm của nhà văn trƣớc Cách mạng.
Tùy bút Cửa Đại không chỉ là những trang viết nên thơ, trữ tình mà nhà
văn còn thêm vào đó một vài câu chuyện gia đình, về một vài chân dung ông
gặp trên hành trình, khiến cảnh sơn thủy hữu tình kia không chỉ là đối tƣợng
trung tâm miêu tả mà trở thành một phần của cuộc sống trong chuyến lãng du.
Các tùy bút Được ốm, Những ngày ở Thanh Hóa, Chiếc vali mới... có nhiều
sắc thái riêng tƣ với những mẩu chuyện vụn vặt về cuộc sống gia đình ở
Thanh Hóa, chuyện mất đứa con trai nhỏ...cũng giúp chúng ta thấy rõ hơn nội
tâm phức tạp và ham mê mãnh liệt cuộc sống lang bạt của nhà văn. Nhƣ vậy,
có thể thấy yếu tố truyện đã xâm nhập khá rõ nét trong các tùy bút xê dịch.
Nhờ yếu tố này những trang tùy bút trở nên hấp dẫn hơn, tránh gây ra sự tản
mạn, nhàm chán, đơn điệu bởi những cảm xúc chủ quan và yếu tố truyện cũng
tạo nên một gƣơng mặt tùy bút riêng độc đáo kiểu Nguyễn Tuân.
Tùy bút du kí của ông còn mang đậm yếu tố trữ tình và giàu chất thơ
đƣợc toát lên từ những bức tranh phong cảnh thiên nhiên dọc hành trình, nhƣ:
nắng đào xứ Pháp lả lơi trên những ruộng lúa mì và trên những khoảnh đất
trồng nho đỏ[1;936]. Những bức tranh thiên nhiên phong phú của đất nƣớc
hiện lên sống động nhƣ: cảnh vùng mỏ, vùng biển, cảnh xứ Mƣờng; cảnh xê
dịch đƣờng trƣờng trong mƣa gió dữ dội lạnh lẽo; cảnh vật thiên nhiên dọc
đƣờng thiên lí Bắc Nam; cảnh gió, cát, nắng dữ dội ở miền đất khắc nghiệt
Quảng Bình, Quảng Trị; cảnh mƣa triền miên khiến Huế nhƣ một cô gái đa
sầu đa cảm “nàng sùi sụt”; cảnh “thập nhị hải khẩu” Cửa Đại; cảnh đi tàu
thuyền trên biển... Chất trữ tình còn toát lên từ cái mộc mạc, lam lũ, vất vả,
khốn khó của những con ngƣời lao động ở những miền quê mà ông bắt gặp
(Cửa Đại, Chiếc vali mới...); và từ những suy tƣ, cảm nghĩ, tự vấn phức tạp
105
nhƣng trung thực, thẳng thắn của nhà văn đƣợc giãi bày trực tiếp. Chất trữ
tình còn ở giọng điệu kể chuyện, có nhiều trang tùy bút giọng văn rất chậm
rãi, nhẹ nhàng, lắng sâu, khơi gợi lên những rung động sâu xa của ngƣời đọc
về đất nƣớc, quê hƣơng (Cửa Đại). Tình cảm của ông đƣợc bộc lộ chân thành,
có khi lặng lẽ thấm thía và nhiều khi trào dâng dạt dào trƣớc những bức tranh
con ngƣời và cuộc sống. PGS.TS Hà Văn Đức cho rằng: tình cảm trong tùy
bút Nguyễn Tuân trước Cách mạng thường buồn, phản ánh tâm trạng bức
bối, chán chường của tác giả trước cuộc đời tẻ nhạt [2;140]. Cái tài kể
chuyện của ông cũng rất vui, hóm hỉnh, tự nhiên nhƣ ngƣời nói chuyện. Ông
trò chuyện với bạn đọc một cách thoải mái, thân tình, có khi điềm đạm nhƣng
rất thẳng thắn; những tri thức tƣởng nhƣ vụn vặt, linh tinh nhƣng bổ ích và
thú vị.
Tuy nhiên, sự độc tôn của thể loại tuỳ bút vừa là cái lợi khẳng định sở
trƣờng và sự thành công của nhà văn nhƣng đồng thời cũng khiến cho tính
cách nhân vật trong các sáng tác của ông đơn giản, đơn điệu, ít vận động,
thiếu sự biến hóa đa dạng. Họ là nhân vật tƣ tƣởng, có phát triển chăng nữa
cũng chỉ là những biến dạng của nhân vật trung tâm chàng Nguyễn. Họ là nơi
nhà văn gửi gắm những suy nghĩ, tâm trạng của chính mình và qua đó phơi
bày những lạc thú vốn đã đƣợc nâng lên nhƣ một biểu tƣợng của thẩm mỹ,
của cái đẹp.
3.3. Lối hành văn tài hoa, uyên bác
Xƣa nay Nguyễn Tuân vốn nổi tiếng là “cái định nghĩa về ngƣời nghệ
sĩ tài hoa”. Với ông, văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng, nghệ thuật
trƣớc hết phải là nghệ thuật. Tác phẩm phải đƣợc viết bằng tinh thần lao động
nghệ thuật nghiêm túc, phải đƣợc trau chuốt, gọt rũa ngôn ngữ câu văn một
cách tỉ mẩn. Cách diễn đạt phải độc đáo, khác lạ, tài hoa, phải để lại ấn tƣợng
sâu đậm. Ý kiến của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan thật chính xác khi cho
rằng chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn
106
Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Văn của Nguyễn
không thể đọc theo kiểu lật từng trang để lƣớt đi cốt nắm lấy cái cốt truyện;
cũng không dành cho ngƣời hời hợt, nóng vội, tìm sách để thƣ giãn, xoa dịu
căng thẳng rồi quên ngay. Đây là thứ văn cho ngƣời đọc chậm, đọc khám phá
thƣởng thức, đọc lúc nhàn rỗi, rồi ngẫm nghĩ, đọc phải tập trung và có văn
hóa đọc. Trong những tác phẩm xê dịch ông không chú trọng xây dựng những
tình tiết, biến cố căng thẳng dữ dội, tình huống có tính chất bƣớc ngoặt mà
thƣờng tập trung diễn tả bức tranh thiên nhiên cảnh vật, diễn biến nội tâm của
nhân vật.
Nguyễn Tuân nổi tiếng về cách hành văn độc đáo. Ông là nhà văn lãng
mạn nhƣng không phải lãng mạn kiểu Tự lực văn đoàn, vì ông ở giai đoạn
cuối bế tắc nên có xu hƣớng thoát li vào cuộc sống giang hồ. Nhà văn có
những cách diễn đạt so sánh ví von rất độc đáo nhƣng chính xác và để lại ấn
tƣợng thật tài hoa khi dùng những hình ảnh thật dễ liên tƣởng. Để làm nổi bật
nỗi đau khổ của nhân vật xê dịch khi cái vali quý bị bóc hết những vết tích
giang hồ tem giấy xanh đỏ, ông viết: Anh tiếc những nhãn in này không khác
một nhà khảo cổ học tiếc một đồng tiền rỉ thất lạc sau khi tìm được trong ngôi
mộ cổ [2; 481]. Còn đây là tâm trạng buồn nản, chán chƣờng khi “gió đã lên”,
gió đã thổi mạnh mời gọi lên đƣờng mà chàng Nguyễn vẫn phải dậm chân tại
chỗ: Đã mấy tuần nay, tôi lười như một chàng tân lang say rượu đêm tân hôn,
tôi thẫn thờ như một gái góa nhìn cái bóng nắng chiều [2;460] và lòng chàng
chỉ là một bãi tha ma đang muốn nẻ sụt thêm một lỗ huyệt mới nữa để chôn
xuống đấy một chút kỉ niệm [1;880]. Quan niệm về thú vui xê dịch độc đáo,
khác ngƣời, muốn đƣợc đi mãi không bao giờ muốn dừng lại, luôn đƣợc khởi
hành đƣợc nhà văn minh họa cụ thể, ví von với những vận động viên đua xe
đƣờng trƣờng thật sống động: Trong cuộc thi đường trường cua rơ kia buồn
rầu một khi hắn đến được đích. Hắn sẽ không còn được hưởng sung sướng
của phú lấy gối và gò mình trên yên xe, rút vòng bánh. Hắn chỉ thấy thú vị khi
107
đích chỉ như một bóng ma đẹp dử hắn trên chiều dài đường đất. Đích càng lùi
sâu, hắn càng sống nhiều, sống gấp đôi, gấp ba, gấp trăm người khác để
gắng gỏi, để thèm muốn. Rồi có một phút kia, hắn tóm được trúng đích. Đấy,
chính trong lúc ấy là hắn lấy làm chán cho đời hắn lắm [2;417].
Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ khi sự vật
đƣợc miêu tả trong trƣờng liên tƣởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ.
Trong Một chuyến đi, chúng ta bắt gặp lối so sánh rất hình ảnh, vừa sống
động vừa ấn tƣợng: dãy đèn điện như một xâu đom đóm nằm im kia là Đồ
Sơn; Ánh sáng của Hồng Kông là ánh một kinh thành tự cháy bùng lên theo
điện học làm mờ mắt và nóng mặt những lữ khách chưa quen với sức sáng gắt
gỏng, lọc lõi và dữ dội này [1;248]. Nhà văn cũng cụ thể hóa những điều trừu
tƣợng khi miêu tả sự quyến rũ của các kĩ nữ giang hồ ở Hồng Kông: Tiếng
đâu mà trong như thủy tinh, ấm áp như hạnh phúc [1;261]. Lối mô tả cảnh vật
bằng những liên tƣởng chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, có khi từ cảm giác
chuyển sang tâm trạng. Cảnh vật thật sống động khi ông miêu tả sự khắc
nghiệt của thiên nhiên mƣa gió dữ dội trên con tàu biển: Gió khơi, nặng và
đặc như một khối lớn của tàn phá, có thể san bằng, đè bẹp mọi thành tù đồng
đá. Mưa lạnh bay theo một chiều nghiêng như cưa được lần da mặt [1;378];
Sóng uốn khúc như đội được tàu và dựng đứng được cả khối sắt nặng sáu
nghìn tấn[1;386]. Để nói cái tâm trạng phức tạp mệt mỏi chán chƣờng khi
không đƣợc xê dịch nữa, phải trở về quê nhà, Nguyễn cũng sử dụng hình ảnh
so sánh thật giàu liên tƣởng: Cả một buổi sáng nay, lòng tôi là một bàn thờ
khói đã lạnh, hương đã tàn. Mùi thơm du lịch đã hả hết rồi”[1;380]; Trong
khi đau khổ vì cảm thấy mình là một con chim đại bàng bị cắt cụt cánh, chỉ
còn có được đi một cách lạch bạch trên mặt đất chật, Bạch ra ga nhìn trò xê
dịch của xe lửa cho vợi lòng thèm, chàng có biết đâu mình đã là cả một đầu
đề cho sự tọc mạch của xung quanh [1;759]. Nguyễn Tuân miêu tả khúc giao
mùa của thiên nhiên từ hạ sang thu trong Cửa Đại thật độc đáo và ấn tƣợng:
108
Mùa hè đã tự diệt mình bằng ngọn lửa gay gắt [2;540]. Cảnh đêm trăng sáng
trên mặt sông Hội An với “rừng cột buồm” hiện lên thật lãng mạn thơ mộng
êm đềm tinh tế qua ngôn ngữ giàu hình ảnh và giọng điệu trữ tình êm dịu
mƣợt mà: Ánh trăng bị dầm tan trong lòng con sông mà nước ngọt đang bị bể
ngoài pha rót vào bao nhiêu là muối chát mặn [1;541]. Để nói cái đam mê đi
đã thành triết lí, nhà văn đã viết câu văn tài hoa thật mƣợt mà lắng đọng với
những hình ảnh ví von chính xác, gợi cảm: Nếu có luân hồi, được tái sinh, họ
cũng chỉ muốn có đi, làm một đời giang hồ nữa; nếu phải sinh làm kiếp chim,
thì chàng muốn kiếp chim ấy sống không cần làm tổ. Tổ của nó phải là cả một
cái bầu trời. Nếu phải làm con cá thì con cá ấy sẽ không phải ở riêng cái
hang của mình. Cũng như con chim bằng kia lấy mây và tất cả các đỉnh núi
làm nơi đi về không nhất định, con cá kình lấy đại dương làm địa bàn cho cái
kiếp bơi lội không cùng, chỗ nào là thế giới của nước thì cũng phải tìm đến
cho được [1;929].
Phong cảnh thiên nhiên, con ngƣời và phong tục đƣợc nhà văn miêu tả
cầu kì ấn tƣợng từng chi tiết và đặc biệt tài hoa không ai có thể bắt chƣớc.
Ông sử dụng triệt để phép tu từ so sánh, phƣơng thức biểu đạt miêu tả và biểu
cảm để gợi lên cụ thể tỉ mỉ chi tiết cảnh vật và con ngƣời. Vùng mỏ Vàng
Danh thung lũng tang tóc một màu đen, vì bụi than bao trùm cả một không
gian thiên nhiên đầy nắng gió khắc nghiệt đƣợc nhà văn ví với người đàn bà
da bánh mật có rất nhiều sữa, nhưng tính rất khắc khổ, hay nói to, hay đánh
con, hay dằn vặt chồng, hay xị mặt xuống khi có khách phương xa tới chơi và
tuy giàu có súc tích đấy... nhưng rất chì chiết và bủn xỉn co quắp [1;807].
Cách so sánh với hình ảnh lạ mắt này thật giàu liên tƣởng và chính xác, đã cụ
thể hóa một miền đất có tài nguyên giàu có, phong phú nhƣng thiên nhiên
nắng gió khá khắc nghiệt và cuộc sống nhọc nhằn lam lũ, môi trƣờng ô nhiễm
của những con ngƣời lao động nơi đây. Lối hành văn so sánh rất giàu hình
ảnh gợi liên tƣởng phong phú tinh tế và rất có duyên; là thứ văn chƣơng nghệ
109
thuật đích thực đƣợc lao động nghiêm túc và sáng tạo bởi một nghệ sĩ tài hoa.
Bên cạnh đó, sự am hiểu kĩ lƣỡng, kiến thức uyên bác rộng rãi trên nhiều lĩnh
vực của đời sống đƣợc phô diễn trên trang văn không chỉ gợi nên những ấn
tƣợng thú vị mà còn cung cấp, bồi đắp những tri thức hiểu biết rất đáng quý
cho ngƣời đọc. Đọc văn Nguyễn Tuân, nhà tu từ học kiếm đƣợc nhiều dẫn
chứng thú vị về những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tƣợng trƣng...
Đặc sắc nữa của ngôn ngữ tùy bút Nguyễn Tuân chính là việc xuất hiện
nhiều câu văn dài, trùng điệp, phức điệu, phức cú, với nhiều kiểu kiến trúc đa
dạng. Ông là một nghệ sĩ ngôn từ biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của
câu văn xuôi. Nguyễn Tuân thƣờng nói, ngƣời làm nghề viết phải biết tạo ra
những câu văn có khớp xƣơng, biết co duỗi nhịp nhàng, giàu nhạc điệu.
Những kiểu câu văn nhƣ thế thƣờng chứa đựng cách liên tƣởng nhiều tầng,
nhiều lớp. Đây là một ví dụ khi Nguyễn diễn tả cảm xúc rung động mãnh liệt
của ngƣời nghệ sĩ, tâm hồn đắm say lâng lâng khi đi qua những bến nƣớc
trong veo, thơ mộng êm đềm ở Cửa Đại, chẳng khác gì những bức tranh thủy
mặc Đƣờng thi gợi bóng dáng của những mĩ nhân giặt lụa bên cầu: Kém có
một tiếng dồn châm của những nàng Tây Thi vô danh chưa hiện ra để xáo
động cuộc đời êm ả, kém có cái tiếng nện vải lụa trên hòn đá bến nước lúc
hoàng hôn mà khi xe lướt qua mình cái thành gạch tỉnh Quảng Nam, cái thích
ở lòng lữ thứ của tôi đã giảm mất đến nửa phần khi tôi nhớ lại câu thơ của
bài thơ dựng cho Tì Bà Hành [2,540]. Hoặc những câu văn rất dài, ngắt nhịp
nhịp nhàng nhƣ: Cái gì mà lại cứ ra ga để chiếm một chỗ đứng, nhìn trời,
nhìn khói, nhìn vào tất cả bấy nhiêu cái mặt người thảng thốt đang tay xách
nách mang, với sự bình tĩnh ốm yếu của một người chỉ biết có lãng phí ngày
giờ của mình?[1;757]; và Ở người một gã lữ thứ, tôi cho không cái bất thình
lình nào thú bằng cái việc đi tới một xứ lạ vào lúc đêm hôm để sáng mai được
hoàn toàn bỡ ngỡ trước những cái phô phang đầu tiên của một trạng thái
sống mới lạ, sau một giấc ngủ đích đáng của đường trường [2;543]. Những
110
câu văn cầu kì kiểu này có màu sắc rất giống những câu văn dài, ngắt nhịp
trùng điệp trong sử thi Hi Lạp Ôđixê: Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện ra
trước mắt những người đi biển bị Pô-dê-i-đông đánh tan thuyền trong sóng
cả gió to, họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào
được đến bờ; mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất
liện mong đợi; Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng biết
bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của nàng
cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời [24;52].
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít những hình ảnh so sánh khá trừu
tƣợng, nặng nề khó hiểu với không ít bạn đọc: Sóng gió và tiếng máy nên một
bản đàn mà trong đó nhiều nhất là những tiếng nắn vào một cung hồ [1;237];
và những cách diễn đạt cầu kì nhƣ vậy thƣờng đòi hỏi bạn đọc phải hết sức
tập trung, chăm chú vào việc đọc mới hiểu hết nét nghĩa của câu văn: Đè lên
màu tang bầu không khí thu muộn, chất bóng cốc pha lê nổi bật hẳn lên như
nét cười của một người công binh lúc tắt nghĩ (Tùy bút Lại đi nữa). Những
câu văn dài, trùng điệp độc đáo khác lạ nhƣng nhiều lúc làm cho ngƣời đọc
thấy phức tạp, khó hiểu và phải hết sức tập trung mới nắm đƣợc nội dung.
Tuy vậy, chính những kiểu câu văn nhƣ thế giúp nhà văn diễn tả đƣợc những
quan hệ phức tạp của hiện thực đời sống và thể hiện tâm trạng của mình trƣớc
cuộc sống muôn màu, muôn vẻ. Câu văn của Nguyễn Tuân đẹp là do cấu trúc
tầng lớp nhƣng bao giờ cũng trong sáng, ở đó ông chú ý đến giọng điệu, cách
sắp xếp trật tự của các từ để làm nổi bật các mối quan hệ trong sự vật và trong
cảm giác của chính ông. Phan Ngọc khẳng định câu văn Nguyễn Tuân vừa rất
quy tắc, vừa phá quy tắc “từng chữ một thì rạch ròi, sắc sảo nhƣ khắc vào đá,
nhƣng lại quần tụ trong một kiến trúc bập bềnh, chơi vơi”. Văn Nguyễn Tuân
thuộc loại kỳ tài, tạo nên một “thƣơng hiệu” câu văn đặc biệt: khi nói đến văn
xuôi, hẳn phải nói đến câu văn Nguyễn Tuân (cũng nhƣ khi nói đến thơ thì
111
nói đến câu thơ Nguyễn Du, nói đến câu đối phải nói đến câu đối Nguyễn
Khuyến).
Lối kể chuyện của nhà văn tài hoa, biến hóa với nhiều giọng điệu khác
nhau: lúc thì điềm đạm, nhẹ nhàng, đằm thắm; có lúc vui vẻ, hài hƣớc, giễu
cợt, tự trào; có khi lại là tiếc nuối thậm chí cũng có lúc là mỉa mai sâu cay.
Tất cả đƣợc hoà trộn nhuần nhuyễn, mới mẻ thú vị hấp dẫn. Ngôn ngữ kể
chuyện cũng rất điêu luyện, đƣợc mài giũa kĩ lƣỡng nhất là ngôn ngữ đặc tả
cảnh vật thiên nhiên và biểu hiện đời sống nội tâm phức tạp của nhân vật. Kết
cấu tác phẩm cũng rất linh hoạt. Các tùy bút thƣờng đƣợc kết cấu theo trình tự
tuyến tính không gian, thời gian; song ở tiểu thuyết Thiếu quê hương lại có
kết cấu tâm lí hiện đại. Nhà văn xáo trộn không gian thời gian, từ chuyện nọ
móc xích sang chuyện kia. Tác phẩm chủ yếu khắc họa dòng tâm trạng miên
man của Bạch. Chuyện gặp gỡ tình cờ với Hòa trên chuyến tàu Hải Phòng về
Hà Nội, nhà văn tiếp nối kể lại những kỉ niệm giữa hai ngƣời ở Pari, rồi thất
lạc tin tức nhau và từ cái vali giang hồ quý giá mà họ đƣợc hội ngộ trùng
phùng. Từ sự kiện đi xem phim Mĩ đã xới lên đống tro lòng đã nguội từ lâu
trong Bạch, gợi anh nhớ đến sự thất bại của chuyến đi đấu xảo San
Francisco... Các sự kiện, tình tiết cứ thế có quan hệ nối tiếp với nhau, tạo nên
sự gắn kết logic cho tác phẩm. Kết cấu tâm lí hiện đại làm cho nhà văn rất dễ
chuyển tiếp, thay đổi sự kiện tình tiết một cách uyển chuyển hợp lí, cảm xúc
đi về phóng túng tùy hứng.
Tuy nhiên, là một nhà văn “chủ quan”, lãng mạn, có phần cực đoan,
văn Nguyễn Tuân có cái giọng khinh bạc kiêu kì nhiều ngƣời không chịu nổi.
Ngôn ngữ diễn đạt nhiều chỗ quá cầu kì, rƣờm rà, khi đọc phải hết sức tập
trung mới nắm bắt đƣợc diễn biến sự việc nên có phần khó khăn với không ít
bạn đọc. Điều đó cũng làm cho văn Nguyễn Tuân khá kén chọn độc giả và
cũng cần có nhiều thời gian đọc mới nắm bắt hết giá trị tác phẩm của ông.
112
3.4. Vẻ đẹp ngôn ngữ, nghệ thuật từ pháp
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Khi sáng tác văn học nhà văn sử dụng
ngôn ngữ nhƣ một chất liệu quan trọng, là “yếu tố thứ nhất” (Măcxim Gorki).
Ngôn ngữ văn học thể hiện đặc điểm tƣ duy nghệ thuật, phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện ở nghệ thuật sử dụng từ
ngữ, câu văn, giọng điệu. Mỗi nhà văn lại có nét riêng trong sử dụng ngôn
ngữ.
Đọc tác phẩm Nguyễn Tuân, hầu nhƣ ai cũng công nhận ông là một
nghệ sĩ bậc thầy của ngôn ngữ Việt Nam. Ông thực sự làm chủ đƣợc cái vốn
liếng đồ sộ của tiếng mẹ đẻ, hiểu biết nó thấu đáo và sử dụng thành thạo đến
mức điêu luyện, tài hoa. Các nhà nghiên cứu đã ca ngợi, khẳng định nghệ
thuật sáng tạo ngôn từ của Nguyễn Tuân là bậc thày của nghệ thuật tu từ,
“mỗi dòng mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút nhƣ đóng một dấu triện riêng” (Anh
Đức); “nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đƣa cái đẹp thăng hoa” (Hoài Anh). Tiếng Việt
thực sự là một kho báu và qua bàn tay tài tình của ông đã thực sự trở thành
những hạt ngọc lấp lánh, biến hóa sinh động. Nguyễn Tuân có kho từ vựng
giàu có, phong phú mà bằng tình yêu tiếng Việt ông đã cần mẫn tích lũy và
vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo trong những trang văn. Ông quan niệm
viết văn là dốc cạn kho tàng chữ nghĩa để chạy đua cùng tạo hóa, để khoe
chữ. Không phải chỉ tích lũy những từ sẵn có, ông luôn có ý thức sáng tạo từ
mới, từ lạ, độc đáo và cách dùng mới tạo lên những ấn tƣợng mạnh mẽ, gợi
nhiều liên tƣởng. Vốn từ vựng đối với ngƣời viết văn nhƣ nƣớc đối với cá. Từ
càng giàu có, ngƣời viết càng thả sức tung hoành. Đọc Nguyễn Tuân, thấy
ông nhƣ con cá vùng vẫy giữa đại dƣơng mênh mông. Trong du kí Một
chuyến đi, cách nhà văn đặt tên cho các phần cũng rất lạ: Một con tàu say
rượu, diễn tả cảm giác bồng bềnh, nghiêng ngả, lắc lƣ trên con tàu vƣợt đại
dƣơng. Hoa, ánh sáng và nước, gợi lên cái lộng lẫy sáng rực xa hoa hiện đại
của Hƣơng Cảng. Rúm cỏ tương tư là cái tên thật lạ và mĩ miều đƣợc đặt tên
113
cho sợi thuốc lá. Trong những ngày túng thiếu ở Hồng Kông nhớ thuốc thèm
thuốc, sợi thuốc đã trở thành “tƣơng tƣ thảo”...
Nguyễn đã sáng tạo từ ngữ, hình ảnh mới lạ, ấn tƣợng, giàu sức biểu
cảm nhờ liên tƣởng chính xác, tài hoa. Ông bao giờ cũng cân nhắc kĩ lƣỡng
điều cần viết; sợ cách viết sáo rỗng, không thể hiện hết cái đẹp, cái hay. Mỗi
một từ ngữ đều đƣợc cân nhắc, lựa chọn nên thƣờng có độ chính xác cao khó
lòng thay thế. Từ ngữ không chỉ mang sắc thái tính chất của sự vật hiện
tƣợng mà còn mang thêm sức mạnh biểu cảm của cá nhân nhà văn. Những
cách dùng từ rất lạ, rất sáng tạo, hiếm thấy trong đời sống và có lẽ chỉ có ở
văn Nguyễn Tuân. Ví nhƣ, cái mƣa dầm rất đặc trƣng của Huế, thứ mƣa đay
nghiến chì chiết lòng ngƣời, đƣợc nhà văn đặt một cái tên rất ấn tƣợng là
nàng sùi sụt [2;614]. Hoặc một loại mƣa khác của Nguyễn mà ngành khí
tƣợng thủy văn nên lƣu ý bổ sung thuật ngữ: Những giọt mưa phăn lọt vào
họng tẩu kêu sèo sèo[1;697] (mưa phăn phải chăng là mưa phùn, mƣa nhỏ,
mƣa lây phây?); “phấn mưa đọng lâu vào tay vịn bằng sắt rỉ đã làm đổ xuống
những dòng nƣớc lạnh màu củ nâu rất dài và mảnh”[1;761]. Đặc biệt là các bổ
ngữ rất lạ: “anh ấy tuông ra đi” [1;1010], (tuông -phải chăng là nhất quyết ra
đi, lên đƣờng một cách mạnh mẽ quyết tâm?); “ngồi tễu trong một tiệm
nhảy”[1;259], “đứng tễu ở bến ga” [1;757] (“tễu” phải chăng là “trơ trọi, lặng
lẽ”?). Các tính từ cũng giàu giá trị biểu cảm: “Bạch nhìn sóng khơi, lòng chao
chát nỗi vô tận của lòng trên cái cùng tận của bể”; “lòng chàng rĩ rầu mênh
mông và lại thƣơng cảm một cách quá văn hoa nữa”; “hoàn toàn bỡ ngỡ trƣớc
những cái phô phang đầu tiên của một trạng thái sống mới”[2;543] (phô
phang là phô ra để khoe). Một số khái niệm hình ảnh liên tƣởng mới lạ đƣợc
nảy sinh nhƣ: cảnh chia tay trên sân ga đƣợc gọi là tấn tuồng xê dịch [1;745],
ngày lâm kỳ [1;747]. Trách nhiệm bổn phận níu giữ bƣớc chân ngƣời lãng tử
đƣợc ví von là những quả chì nặng, những hòn chì mắc cổ chân [1;751], là
mấy cục đá [1;986]. Khi phải ở nhà quá lâu không đƣợc đi, Nguyễn lại ví nỗi
114
đau khổ đó nhƣ cái neo rỉ, bị vùi dưới đáy lớp bùn đọng dưới lòng bến; những
cái neo rỉ bị đời sống giang hồ cắt đứt dây, bỏ quên lại và đánh tụt xuống một
cái mồ của bãi bùn lầy vữa [1;752]...
Nguyễn Tuân hay sử dụng các hình ảnh mƣa gió để diễn tả những cung
bậc tâm tƣ phức tạp, ngổn ngang trong lòng ngƣời lãng tử. Khi phải ở đâu lâu
quá thì lòng họ chán nản, buồn phiền, ảm đạm nhƣ những cơn mƣa phùn rả
rích đêm ngày: lòng Bạch tơi bời như sau một cơn mưa lã chã [1;926]; thấy
trong lòng mưa luôn... chỉ rặt một lối mưa phùn... Những cơn mưa phùn dai
dẳng ấy cứ gặm nhấm lòng mình như lũ mối xông một tòa nhà lụn bại. Mỗi
ngày một tí, mưa phùn rỉa bòn và lấy dần hết tươi sáng trong lòng mình còn
tệ hơn cá rô mồi cần câu cặm [1;983]. Ham đi nên giọt mƣa trên tàu bể cũng
trở nên rất lãng mạn, lung linh, quyến rũ đến say ngƣời: “giọt thu thất tịch
thánh thót vỗ tàu tiêu”. Môn đồ của chủ nghĩa xê dịch là “bệnh nhân không
gian”;“ngƣời lãng tử cô đơn”, “ngƣời du đãng thích đứng đƣờng”[1;758];
“ngƣời của bốn bể”[1;986]; “đời phiêu lƣu” với “chất lang thang nặng
lòng”[1;793]; “đời lữ khách hẹn sống với trôi nổi”[1;841]; “đời bềnh
bồng...lăn mình trên cái vỏ lục địa”[1;841]; là ngƣời muốn “trƣớc bạ tên tuổi
vào với sống núi hai tân cựu lục địa”[1;844]; là “ngƣời khách quen của đêm
mƣa gió”[1;843]; là ngƣời của “đầu sông ngọn nguồn”[1;855]; là kiểu ngƣời
“đi mãi mãi trên mặt địa cầu”, “sống để mà đi”[1;984]; “ngƣời của ngũ đại
châu; không phải là thứ ngƣời sống để làm chồng và làm cha”[1;987]; là “tội
nhân của chung thân phát vãng”; “đứa con của phiêu lãng, ngƣời du tứ vạn
thiên cổ”[1;860]...
Chân dung của họ đƣợc cụ thể hóa bằng những hình ảnh chỉ sự lênh
đênh phiêu bạt: bộ mặt màu muối bể [1;235]; những hòn đá lăn không bao giờ
dính rêu [1;845]... Tình yêu với ngƣời nghệ sĩ tự do là cái tai nạn tình cảm
đàn bà [1;940]. Cuộc đời ngƣời lãng tử gắn liền với thứ rƣợu giang hồ đặc
biệt cất nổi nửa hồ rượu giang hồ, lăng nhân soi gương nhiều khi thấy bạc cả
115
mái đầu. Lít rượu ngon ấy người giang hồ trả giá đắt hơn một viên linh đan
của Tiên ông trong núi hay giá hòn ngọc của hồ ly tinh [1;239]... Đó là kho từ
vựng mang dấu ấn riêng Nguyễn Tuân vừa ngông oái ăm và khinh bạc, có lẽ
chỉ có ông mới sử dụng ngôn từ tiếng Việt đắc địa đến nhƣ thế. Cách sáng tạo
nhiều kiểu diễn đạt khác nhau, nhiều từ mới không chỉ thể hiện sự tài hoa mà
còn chứa đựng cả những tâm sự cô đơn, muốn trốn tránh thực tại .
Ngôn ngữ cũng là một đặc điểm nổi bật để khẳng định sự am tƣờng và
nặng lòng với văn hóa dân tộc của cụ Nguyễn. Nhà nghiên cứu Hà Văn Đức
cho rằng Nguyễn Tuân kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ cổ xƣa với ngôn ngữ
hiện đại, sử dụng mặt mạnh của ngôn ngữ nhiều ngành nghệ thuật để làm giàu
có thêm cho ngôn ngữ văn học. Ông rất chú ý dùng từ Hán - Việt, từ cổ vừa
gợi lên không khí thời đại vừa thể hiện sự uyên bác - một dấu hiệu nổi bật của
phong cách Nguyễn Tuân, nhƣ: hý viện (nhà hát), tửu quán, thương cảng, hải
cảng, nơi lữ thứ, hà khẩu (cửa sông), duyên hải, giai nhân, mĩ nhân, lệnh tỉ,
huynh trưởng, nghĩa phụ, thầy lệ mục, viên cẩm tàu, lão thập trưởng, cựu lệ.
Nhân vật xê dịch đƣợc gọi là: hướng đạo sinh, lãng nhân, du khách, kẻ phong
lưu giang hồ, người lữ hành, tên giang hồ, người phóng lãng, quân lãng du,
kẻ du sĩ, lãng tử, lưu đãng, trượng phu, khách phong lưu, lữ khách, người bộ
hành, du tử, gã lữ thứ, du nhân, người sương phụ... Nhiều từ Hán Việt trong
trƣờng nghĩa xê dịch nhƣ: khởi hành, hải lý, hải trình, cuộc viễn du, độc đạo,
giang khẩu, vận hà (eo biển), băng thất (quán nƣớc), thừa lương (nghỉ mát),
lữ điếm, chốn sơn lâm, đường hỏa xa, mộng phiêu lưu, trùng phùng... Ngƣời
ta nói văn Nguyễn Tuân vừa hiện đại vừa cổ kính là vì thế. Hệ thống từ Hán
Việt khiến cho vẻ đẹp của nhân vật xê dịch thêm phần cổ điển; phảng phất
bóng dáng hào hoa của những lãng tử hành tẩu giang hồ, những tao nhân mặc
khách xƣa nhƣ Lý Bạch Đỗ Phủ, những kiếm khách tài tử Kinh Kha, ngƣời li
khách kiểu “nhất khứ bất phục hoàn” trong những tác phẩm văn học cổ trang.
116
Trong quá trình suy ngẫm gạn lọc từ ngữ, Nguyễn Tuân còn tạo lập
đƣợc một hệ thống từ mới một cách độc đáo. Nhà văn đã tìm cách tách đôi
các từ ra ghép một phần của từ này với một phần của từ kia để tạo ra một từ
khác nhằm đạt đến mức độ tổng hợp chính xác cao hơn và những từ đó đƣợc
dùng đắt đến nhƣờng nào. Nghiên cứu từ vựng Nguyễn Tuân, chúng tôi bắt
gặp nhà văn đã sáng tạo ra một số từ rất lạ và mới, nhƣ: lưu đãng (phong lƣu và
phóng đãng); phong quang (phong phú và quang đãng); thừa nhàn (thừa thãi
và nhàn hạ); tha lê (tha hƣơng và lê bƣớc); đùa nhả (đùa cợt và chớt nhả), hào
hoạt (hào hoa và hoạt bát) ... Với những từ dùng nhƣ thế, nhà văn đã tạo đƣợc
cho lời văn thêm hàm súc, bởi một từ nhƣng đã gợi trọn nghĩa của cả hai từ.
Không cần sử dụng nhiều nhƣng những từ dùng theo kiểu nhƣ vậy lại tạo ra
nét đặc biệt riêng, chỉ có kĩ thuật viết điêu luyện mới độc đáo đƣợc nhƣ vậy.
Rõ ràng, đây là một sự sáng tạo rất đáng đƣợc ghi nhận góp phần làm phong
phú cho kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt. Thêm nữa, rất nhiều từ ngữ tƣởng nhƣ
đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhƣng khi vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu
hiện và lạ mắt vô cùng. Cách Nguyễn Tuân dùng từ "lõa lồ" thật mới mẻ và
sáng tạo: Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có
thêm một hành khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở
chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ
gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được [2;549]. Theo Từ điển Tiếng Việt, “lõa lồ”
là trạng thái hoàn toàn không có cái gì che thân, với hàm ý xem thƣờng. Từ
“lõa lồ” ở đây đã đƣợc mang một nét nghĩa mới, không phải là sự phô trƣơng
thô tục trần trụi thân thể mà là cái vô duyên, tục tằn, hợm hĩnh của lời nói,
tính cách tâm hồn con ngƣời.
Nhƣ vậy, vốn từ vựng giàu có độc đáo ấy Nguyễn Tuân dùng để chơi
ngông với đời, hoặc đƣa ra những cách nói năng oái ăm kỳ cục cốt để trêu
ghẹo thiên hạ, hoặc đổ tràn ra mặt giấy để phô tài, khoe chữ nên nhiều chỗ
khó hiểu. Ông từng tự nhận xét về mình: Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng
117
củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông
trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không
bướng bỉnh sao được. Từ sau 1945, không còn cực đoan nữa, ông dùng ngôn
từ nhƣ công cụ đắc lực để ngợi ca tổ quốc, nhân dân và chiến đấu. Có thể nói,
khó có nhà văn nào có đƣợc vốn từ phong phú và sử dụng độc đáo, biến hóa,
sinh động đƣợc nhƣ Nguyễn Tuân. Ông đƣợc mệnh danh là bậc thầy về cách tổ
chức sắp xếp ngôn ngữ và là ngƣời luôn có ý thức lạ hoá ngôn ngữ của mình.
Tóm lại, những thành công trên phƣơng diện nghệ thuật nhƣ xây dựng
đƣợc hệ thống biểu tƣợng độc đáo, sử dụng thể loại tùy bút, lối hành văn tài
hoa uyên bác và vốn ngôn ngữ đẹp giàu có không chỉ góp phần thể hiện ấn
tƣợng, sống động đề tài xê dịch mà còn làm nên một phong cách nghệ thuật
độc đáo và tái dựng bức chân dung con ngƣời nhà văn. Các phƣơng diện nghệ
thuật tài hoa trên đã gợi lên một Nguyễn Tuân thích chơi ngông với những
nghịch lý nghịch thuyết, là ông vua tùy bút, nhà nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ mới
lạ đã làm cho cái đẹp trong xê dịch thăng hoa. Với những thành công nghệ
thuật trên, ông đã đẩy du lịch, vốn là một cái thú của con ngƣời xƣa nay, lên
đến mức thành "chủ nghĩa xê dịch" vì nó phù hợp với tâm lý bực bội của cả
một thế hệ thanh niên trí thức thời thuộc Pháp đầy sức sống và khát vọng tự
khẳng định mình mà lại bị vây hãm vào một môi trƣờng thị dân. Con ngƣời
cá nhân tài năng ấy coi sống chỉ là để thực hiện cá tính của mình; đi đâu, ở
đâu cũng chỉ là để tìm mình. Nhƣng phải tìm mình trong nhân loại, phải chen
vai thích cánh giữa chỗ đông ngƣời. Ông là con ngƣời của thành thị, phố xá,
của nhà ga, bến tàu, của cao lâu, tửu quán, hý viện; thích những cái mới lạ,
bất ngờ và mãnh liệt. Là một nguồn sống bồng bột, Nguyễn Tuân không thích
cái gì yên ổn, mực thƣớc, khuôn phép; "công chức" và công thức trong đời
sống cũng nhƣ trong văn chƣơng mà thích đƣợc trải nghiệm trong trƣờng đời
dữ dội dẫu có thiếu thốn, nhọc nhằn, kiệt quệ. Ông dị ứng với cuộc sống
chung chung, nhạt nhạt, bằng phẳng, hời hợt, quanh quẩn, đơn điệu trong ao
118
đời bằng phẳng. Nhƣ vậy, những phƣơng diện nghệ thuật thành công ở trên đã
thể hiện một tài năng văn chƣơng hiếm có và khắc họa thành công chân dung
một nhà văn tài hoa, nghệ sĩ, độc đáo số một của văn học Việt Nam trƣớc
Cách mạng.
119
KẾT LUẬN
Với đề tài “hoài cổ” và “xê dịch”, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ấn
tƣợng nổi trội, khác biệt trong làng văn ngay từ khi xuất hiện. Những trang
văn rất mực tài hoa độc đáo đã đƣa ông xứng đáng tầm cỡ nhà văn lớn. Vẻ
đẹp trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu của con ngƣời có chiều sâu,
chiều rộng và tầm cao văn hóa cũng nhƣ lòng yêu nƣớc, gắn bó với con
ngƣời. Trong bối cảnh xã hội cũ, với khát khao xê dịch, ông đi tìm vẻ đẹp
thuần túy của thiên nhiên, xã hội với mục đích thỏa mãn cảm giác và giác
quan, hƣớng về cội nguồn và trân trọng những nét đẹp cảnh vật thiên nhiên
quê hƣơng đất nƣớc.
Đề tài xê dịch thể hiện nét tính cách phóng khoáng tự do, ghét sự bó
buộc tù túng cũng nhƣ tâm trạng phức tạp của một ngƣời đang sống trên quên
hƣơng nhƣng lòng lại tràn ngập cảm giác cô đơn, trống vắng vì thiếu quê
hương; muốn dùng cảm giác không gian để lấp đầy nỗi tẻ ngắt. Xê dịch để
trốn tránh thực tại, ẩn mình vào cái Tôi, nhƣng tâm hồn nghệ sĩ của một trí
thức yêu nƣớc lại kéo ông trở về với vẻ đẹp của hiện tại. Độc giả cũng dễ
dàng nhận thấy những biểu hiện của một nhân cách, một tâm hồn trung thực
chƣa hẳn đã khép kín với những vang động của đời. Đề tài xê dịch đã góp
phần làm nên nét phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
Cái tài tình là trong những việc có vẻ xô bồ, lộn lộn của sự ghi chép tùy hứng,
ngƣời đọc vẫn nhận ra cái chất “ngông” khinh bạc, hoài nghi nhƣng vẫn tha
thiết, gắn bó với cuộc đời; óc liên tƣởng cực kì phóng túng; vốn ngôn từ
phong phú, giàu có, độc đáo lạ mắt nhƣ một vƣờn hoa đầy sắc màu của
Nguyễn Tuân.
Giống nhƣ đề tài Vang bóng một thời bắt nguồn từ tâm lý chán ghét
cuộc sống nô lệ, những trang văn hời hợt của chốn ao tù nƣớc đọng và tìm về
quá khứ để ngợi ca những vẻ đẹp cầu kỳ, đề tài xê dịch Nguyễn Tuân thể hiện
khao khát thoát li vào không gian. Đó là những ứng xử có nét đẹp tích cực;
120
song xét cho cùng, về bản chất nó vẫn là tấm bình phong để nhà văn trốn chạy
thực tại. Nhà văn đã không đủ nghị lực để đối mặt với những phong ba,
những sóng gió của xã hội lúc đó, buộc phải thu mình vào trong cái vỏ ốc
không gian xê dịch để lánh đời.
Nhà phê bình Ngọc Trai rất có lý khi cho rằng: Có một Nguyễn Tuân
cương trực, ngang bướng, gai góc, khinh bạc, kênh kiệu bên cạnh một
Nguyễn Tuân nhân hậu đầy ưu ái với con người, cuộc đời... Có một Nguyễn
Tuân ồn ào, phá phách bên cạnh một Nguyễn Tuân cô đơn luôn nặng trĩu
lòng ưu thời mẫn thế. Đóng góp có giá trị tích cực nhất ở đề tài xê dịch chính
là biểu hiện tình yêu con ngƣời quê hƣơng đất nƣớc, là thái độ bất hợp tác với
chế độ xã hội đƣơng thời của lớp thanh niên trí thức, là việc gìn giữ bảo tồn,
sáng tạo và làm giàu thêm sự trong sáng của Tiếng Việt. Đề tài xê dịch còn
làm phong phú thêm cho màu sắc của dòng văn học lãng mạn, thể hiện đƣợc
khát vọng khẳng định cái tôi cá nhân, là thông điệp chuyên chở tình yêu quê
hƣơng đất nƣớc trong một tâm hồn phức tạp. Bởi ai cũng vậy, dù có đi đến
chân trời góc bể nào vẫn là con Lạc cháu Hồng, vẫn mang trong mình hình
ảnh đất Việt thân yêu.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp quan trọng, đề tài xê dịch vẫn tồn
tại những hạn chế khó tránh khỏi. Nguyễn Tuân thƣờng nói quá đi, cƣờng
điệu, cái gì cũng đƣợc đẩy đến tận cùng. Cho nên, ngƣời đọc có cảm giác
đằng sau những trang văn xê dịch là một ngƣời cực đoan có phần vị kỉ, nhiều
khi tàn nhẫn, thiếu trách nhiệm với gia đình quê hƣơng đất nƣớc, mất niềm tin
vào cuộc sống ngoài cảm giác trực tiếp ở hiện tại. Văn Nguyễn Tuân đôi lúc
có cái giọng khinh bạc, ngôn ngữ quá cầu kì khó hiểu, câu văn dài nhƣ một
đoạn văn, phải tập trung đọc hiểu đến hụt hơi khiến nhiều ngƣời không chịu
nổi. Ông quá yêu, quá thần tƣợng hoá sự xê dịch, đã nâng nó lên thành lý
tƣởng mục tiêu sống, nhƣng chính ông đôi lúc cũng mâu thuẫn với chính
mình, nghi ngờ lí tƣởng xê dịch đó không biết sẽ đƣa ông đến đâu. Cuối cùng
121
vẫn là sự bế tắc. Chủ nghĩa xê dịch cũng chỉ là một con đƣờng, một lối thoát
để nhà văn thoát ly trốn tránh thực tại phũ phàng đang giết dần, giết mòn tâm
hồn ngƣời nghệ sĩ. Vậy, tìm hiểu đề tài Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng tôi không chỉ muốn
khám phá thế giới nội tâm, tài năng nghệ thuật, nét phong cách độc đáo hấp
dẫn, những hạn chế trong tƣ tƣởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà còn bày
tỏ tình cảm yêu mến đặc biệt dành cho nhà văn độc đáo tài hoa bậc nhất này.
122
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tác phẩm văn học
1. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập I, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.
2. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập II, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.
3. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập III, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.
4. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.
5. Nguyễn Tuân, Toàn tập, tập V, NXB Văn học, Hà Nội - 2000.
6. Nguyễn Tuân, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển
I, NXB Văn học – 2006.
7. Nguyễn Tuân, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển
II, NXB Văn học – 2006.
8. Nguyễn Tuân, Cảnh sắc và hương vị đất nước, NXB Tác phẩm mới, Hà
Nội 1998.
B. Sách nghiên cứu, lí luận phê bình
9. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cƣờng, Từ điển văn học Việt Nam, NXB
Giáo dục, 1995
10. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1999.
11. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hƣợu - Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung -
Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, 1999.
12. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những vẫn đề lịch sử và lí
luận, NXB Giáo dục,1992.
13. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 2001.
14. Hà Văn Đức, Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng Tám (Một
số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam sau
Cách mạng Tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.
15. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2007.
16. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Tuân - về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo dục, 1998.
123
17. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân – một phong cách độc đáo và tài hoa,
in trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong cách”, NXB
Trẻ, 2005.
18. Nguyễn Đăng Mạnh, Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân, Hà Nội 1981.
19. Nguyễn Xuân Nam, Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2004.
20. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân và thể tùy bút, Tạp chí văn học số 6, 1997.
21. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân như một con người thời đại, Lời giới thiệu
viết cho Quê hƣơng, truyện dài của Nguyễn Tuân, NXB Hải Phòng, 1996.
22. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Văn học, 1998.
23. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2008.
24. Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 10, Tập 1, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2011.
25. Nhiều tác giả, 50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.
C/ Webside
26. Hàm Đan, Nguyễn Tuân, nhà văn Hà Nội tài hoa
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/ha-noi-thu-do-cua-chung-
ta/nguyen-tuan-nha-van-ha-noi-tai-hoa/293146.html
27. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2010/07/nguyen-tuan.html
http://vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/nguyn-tun_11.html
28. Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Tuân : Một định nghĩa về người cầm bút,
29. Tô Hoài, Hồi kí Cát bụi chân ai,
http://music.vietfun.com/trview.php?ID=1582&cat=15
30. Tô Hoài, Hồi kí Những gương mặt - Chân dung văn học (1988)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn4n0n4n31n
343tq83a3q3m3237nvn
124
31. Tô Hoài, Hồi kí Chiều chiều (1999)
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1n2nqn31n34
3tq83a3q3m3237nvn
32. Thụy Khuê, Thi pháp Nguyễn Tuân,
http://thuykhue.free.fr/stt/n/nguyentuan.html
33. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nguyễn Tuân,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Tu%C3%A2n
34. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nhà văn Pháp A. Gide
http://vi.wikipedia.org/wiki/Andr%C3%A9_Gide
35. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Nhà triết học Đức Friedrich Nietzsche
http://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich_Nietzsche
36. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Lý Bạch
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_B%E1%BA%A1ch
37. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Tản Đà
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A3n_%C4%90%C3%A0
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_d%C6%B0%C6%A1ng_Ph%C3%A1p
38. Từ điển Bách khoa toàn thƣ mở, Lính lê dương,
39. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân, một phong cách độc đáo và tài hoa,
http://nico-paris.com/tin-tuc-232/nguyen-tuan---mot-phong-cach-doc-dao-
va-tai-hoa.vhtm
40. Đỗ Ngọc Yên, Nhà văn Nguyễn Tuân: Ông vua tùy bút thích “xê dịch” và
“ghét” phê bình,
http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/51/ong-vua-tuy-but-thich-xe-dich-va-
ghet-phe-binh-/119541.html
41. Hoàng Yến, Nguyễn Tuân - Bậc thầy sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt
http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Nguyen-Tuan--Bac-thay-su-dung-
ngon-ngu-tieng-Viet/20107/2092.vnplus
125