TR
HỌC NÔM THỜI LÝ - TRẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- HOÀNG THỊ TUYẾT MAI PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN (Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng)
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- HOÀNG THỊ TUYẾT MAI
PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN
HỌC NÔM THỜI LÝ - TRẦN
(Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng)
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60. 22. 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN NGỌC VƢƠNG
Hà Nội – 2011
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại Khoa Văn học - Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin gửi lời tri
ân sâu sắc đến PGS. TS Trần Ngọc Vương, người đã tận tình hướng dẫn
tôi thực hiện luận văn này bằng một tinh thần khoa học nhiệt thành và
nghiêm túc.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các thày cô
Khoa Văn học – trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi về mặt lý luận và phương
pháp nghiên cứu trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận
văn.
Và xin cảm ơn sự động viên chia sẻ của gia đình, bạn bè và các đồng
nghiệp trong suốt thời gian qua!
Với trình độ và kiến văn có giới hạn, luận văn chắc chắn không
tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận được
những nhận xét, góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và những
người quan tâm về vấn đề được thực hiện trong luận văn. Xin trân trọng
cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2011
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Tuyết Mai
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
CHƢƠNG MỘT
LƢỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ NÔM VÀ VĂN
HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN
1.1. Chất nền của văn học thời Lý Trần ................................................................................... 16
1.2. Sự ra đời của chữ Nôm là một tất yếu lịch sử ................................................................... 18
1.3. Văn học chữ Nôm trong mối liên hệ với văn học chữ Hán .............................................. 22
CHƢƠNG HAI
NHỮNG DẤU ẤN TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN (Qua thƣ tịch lịch
sử và sáng tác văn chƣơng)
2.1 Các dữ liệu tiêu biểu về chữ Nôm và văn học Nôm trong chính sử. ................................ 33
2.2. Văn học Nôm đời Trần – nơi hội tụ cao nhất “phương thức ứng xử” với chữ Nôm ..... 58
2.3. Những hạn chế mang tính cách thời đại. ........................................................................... 79
2.4. Tiểu kết ................................................................................................................................. 81
CHƢƠNG 3
NGẢ ĐƢỜNG HOÀN THIỆN CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ TRẦN
3.1. Nôm hóa giáo lí Phật giáo qua hiện tƣợng Tuệ Tĩnh dịch Khóa hư lục .......................... 82
3.2. Nôm hóa giáo lí Nho giáo qua hiện tƣợng Hồ Quý Ly ..................................................... 85
3.3.…Và ngả đƣờng tất yếu phải đi .......................................................................................... 87
3.4. Tiểu kết. ................................................................................................................................ 92
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................................99
PHỤ LỤC....................................................................................................................................108
MỘT SỐ QUI ƢỚC VỀ VIẾT TẮT
VSL: Việt sử lược
ĐVSKTT: Đại Việt sử kí toàn thư
KĐVSTGCM: Khâm định Việt sử thông giám cương mục
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM
THỜI LÝ - TRẦN
(Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giai đoạn Lý – Trần1, giai đoạn khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt
Nam, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự chủ và
thống nhất, giai đoạn rực rỡ trong lịch sử đất nước, đánh dấu những bước
khởi đầu vô cùng quan trọng của một dân tộc mới dành được quyền tự chủ.
Từ đây, người Việt Nam đã xây dựng được khối đại đoàn kết, lòng tự hào dân
tộc, dần dần khẳng định vị trí của nhà nước Đại Việt.
Văn học Lý – Trần là giai đoạn có ý nghĩa nền tảng đối với văn hiến dân tộc.
Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt , rực rỡ và đe ̣p đẽ nhất trong lịch sử Việt Nam . Đây cũng là giai đoạn manh nha, hình thành chữ Nôm và
bắt đầu có thành tựu văn học Nôm - Một thứ văn tự có ý nghĩa quan trọng đối
với văn hiến dân tộc.
Chữ Nôm trở thành một hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh vào
khoảng giữa thế kỷ XIII. Ðiều chắc chắn là từ cuối thế kỷ XIII, chữ Nôm đã
được dùng để ghi lại một số thi văn bằng tiếng Việt như sáng tác của Trần
Nhân Tông, Huyền Quang, Mạc Đĩnh Chi…. Nhưng vì chữ Nôm không được
điển chế hóa nên chưa bao giờ nó được hệ thống hoá một cách chính xác. Do
vậy, ngay cả một bậc túc nho như Phạm Ðình Hổ (1769-1839) cũng đã phải
thú nhận trong bài "Tự thuật" mở đầu Vũ trung tuỳ bút: "Ta đã học vỡ được ít
kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết" [37, 9]. Ngoại trừ các cải cách
ngắn ngủi của Hồ Quý Ly (1336-1407) và Nguyễn Huệ (1753-1792), chữ 1 Khái niệm giai đoạn Lý - Trần được chúng tôi sử dụng bao gồm 5 thế kỷ đầu tiên của nền độc lập tự chủ dưới thời Trung đại, bao gồm trong nó 6 triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 1
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nôm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam chính thức công nhận. Mới
xét đến, tình hình đó dường như là một nghịch lý, nhưng ta có thể cắt nghĩa
nó bằng tầm quan trọng chiến lược của chữ Hán đối với trật tự phong kiến.
Có một đòi hỏi khách quan rằng khi đất nước đã dần ổn định, việc dùng
mãi một thứ ngôn ngữ vốn không ghi âm ngôn ngữ của đời sống là một điều
ngày càng bộc lộ những hạn chế. Thời gian trôi đi, chữ Nôm dần dần có mặt
trong đầy đủ những hoạt động thường ngày của người Việt. Từ những tập
quán sinh hoạt cho tới những kinh nghiệm trong lao động để lại từ xa xưa đều
được ghi chép lại bằng những văn bản chữ Nôm….Chữ Nôm ra đời có ý
nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hoá dân tộc, ý
thức tự cường và khẳng định vai trò địa vị của tiếng Việt.
Lâu nay, trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam tồn tại một nhận thức: các
triều đại quan phương cho rằng Nôm Na là “cha mách qué”, văn học Nôm là
thứ văn học của “bố cu mẹ đĩ”, ít được coi trọng và đánh giá cao. Thông
thường có một tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hoặc ít được sử dụng trong
môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là văn tự chính thức
của quốc gia. Chúng tôi có thể liệt kê một số nhận định của một số nhà
nghiên cứu về chữ Nôm và văn học Nôm như sau:
“Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm đoán của vua chúa phong kiến cho
nên chữ Nôm chưa bào giờ được đưa vào nhà trường. Chưa bao giờ được coi
là công cụ văn hóa của nhà nước và do đó chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa
hưởng một cố gắng điển chế nào” [8, 17].
“Văn học chữ Nôm thường bị giai cấp thống trị coi nhẹ” [10, 17]
“Văn học chữ Nôm được coi là văn học cấp thấp, là “nôm na mách qué”, là
vui chơi giải trí nên gần đời sống thực hơn, đời thường hơn [92, 15]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 2
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
“Thời phong kiến, Văn học chữ Nôm bị coi là văn học cấp thấp, là quê mùa,
dân dã, cũng có thể ngôn chí, tự thuật, nhưng chủ yếu là vui chơi, giải trí”
[57, 85]
“Do thái độ khinh rẻ, cấm đoán của vua chú phong kiến nên chữ Nôm chưa
bao giờ được đưa vào nhà trường, chưa được điển chế hóa nên trong cấu tạo
chữ Nôm mang nhiều dấu ấn của cá nhân tạo chữ….” [45, 128]
“…..cho dù đã sáng tạo nên chữ Nôm, nhưng cho đến đầu thế kỉ XX này chữ
Hán vẫn được coi là quốc tự dùng trong văn bản nhà nước và chữ Nôm chỉ là
“nôm na mánh qué” chưa bao giờ được xem là văn tự quốc gia” [50, 175]
Thái độ trọng Hán khinh Nôm đã từng bị nhà thơ Phạm Đình Toái, tác giả
Đại Nam quốc sử diễn ca chỉ trích: "Uống nước quên nguồn, người xưa chê
trách. Trái thầy mà học, người hiền vốn tránh. Nước ta ở thiên về phương
Nam, tiếng nói khác với Trung Quốc. Những học sĩ nho sinh, tuy tập theo văn
tự Trung Hoa, song hát vịnh nói năng đều chẳng lìa bỏ thanh âm của bản
quốc. Lẽ nào lại có thể chỉ một điều cho chữ Hán là thanh cao mà lại chối bỏ tiếng ta, chê là thô bỉ” 2
Đào Duy Anh cho rằng “Đến như Việt ngữ thì các nhà nho thường khinh là
“nôm na mách qué” nên chỉ khi nào làm văn chơi đùa tiêu khiển thì mới
dùng đến, cho nên Việt văn không thịnh đạt cũng không lạ gì”.[3, 279]
Nguyễn Tài Cẩn cũng có ý kiến: “Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm
đoán của vua chúa phong kiến cho nên chữ Nôm chưa bao giờ được đưa vào
nhà trường, chưa bao giờ được coi là công cụ văn hóa của nhà nước, và do
dó cũng chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa hưởng một cố gắng điển chế nào”
[35, 484]
Khi đề cập đến thái độ ứng xử của các triều đại Lý Trần với chữ Nôm
Nguyễn Danh Phiệt cho rằng: “Dù sao, chúng ta cũng đứng trước một sự thật
2 Trích Quốc âm từ điệu, Phạm Đình Toái
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 3
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
lịch sử: Trong khi chọn lọc đi đến chỗ chấp nhận nội dung giáo dục Nho
giáo, các vua Lý Trần đã loại trừ chữ Nôm, một di sản văn hóa của dân tộc
được hình thành do sự đóng góp của nhiều thế hệ” [35, 459]
Chữ Nôm chưa bao giờ được nhà nước phong kiến điển chế hóa, đó là sự
thực. Có một sự thực nữa là chữ Nôm vẫn tồn tại bên cạnh chữ Hán, bổ
khuyết cho những mảng đời sống mà chữ Hán và văn học chữ Hán không
quan tâm hoặc không cho là quan trọng. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong
hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng thời thúc đẩy quá trình thuần
thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai kì và diễn dịch văn học Việt
Nam. Vậy, các triều đại quan phương trong thời kì đầu độc lập nhận thức như
thế nào về vai trò của chữ Nôm. Họ có coi thường thứ “tục tự” này hay
không? Thái độ ứng xử của các triều đại với văn học Nôm như thế nào? Họ
có “loại trừ” chữ Nôm hay không? Tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hoặc ít
được sử dụng trong môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là
văn tự chính thức của quốc gia có phải là sự thực? Trên thực tế có loại văn
bản chính thống nào của nhà nước chuyên chế khẳng định tính chất “thấp kém”, “nhảm nhí” của chữ Nôm và văn học Nôm3?
Đó là câu hỏi trăn trở đối với chúng tôi và truy tìm căn nguyên trả cho câu
hỏi ấy là một trong những lí do cho sự tồn tại của luận văn này. Với hi vọng
bước đầu khảo sát toàn bộ các cứ liệu lịch sử liên quan và văn chương giai 3 Dường như đã có sự hiểu lầm một cách rộng rãi tinh thần các huấn điều của chúa Trịnh đối với việc in ấn và lưu hành các “thi tập”, “ca khúc” chữ Nôm, những lời lẽ bị suy diễn khái quát hóa thành sự phủ định hay chí ít là coi thường chữ Nôm và văn chương Nôm nói chung. Những huấn điều như: Cũng là truyện cũ nôm na Hết thơ tập ấy lại ca khúc này Tiếng dâm dễ tiếng người say, Chớ cho in bán, hại ngay thói thuần Thực ra các huấn điều này bài xích một số phương diện nội dung của những “thi tập”, “ca khúc” hơn là coi thường, phủ định văn tự chữ Nôm và văn học sáng tác bằng chữ Nôm. Cùng với việc ban hành 47 điều giáo hóa, Trịnh Tạc cho sưu tầm nhiều sách Nôm “có hại cho giáo hóa” đem đốt đi. Vấn đề là Trịnh Tạc chỉ sai đốt những sách Nôm có hại chứ không phải tất cả các sách Nôm nói chung. Thái độ coi thường ở đây là coi thường phương diện dâm tục của một số sách (chứ không phải toàn bộ những sáng tác bằng chữ Nôm). Như thế chúa Trịnh có thực sự coi thường văn tự chữ Nôm không? Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này và khảo sát một cách kĩ lưỡng vào dịp khác.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 4
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
đoạn Lý – Trần (tính đến đời Hồ, còn từ giai đoạn Lê sơ về sau chúng tôi sẽ
khảo sát ở một công trình khác, dài hơi hơn), chúng tôi mong muốn có những
dữ liệu toàn diện và đầy đủ về giai đoạn đầu của lịch sử hình thành, phát triển
chữ Nôm và văn học Nôm nhằm cung cấp một cái nhìn khách quan về một
mảng văn tự và văn học dân tộc. Từ đó có cơ sở cụ thể cho những kết luận
ban đầu về qui luật hình thành, vận động và phát triển của văn hóa, văn học
dân tộc trong những thế kỉ đầu độc lập. Trên cơ sở những khảo sát ban đầu
chúng tôi tiếp tục hình dung công việc cho chặng tiếp theo, dài hơi và quan
trọng hơn sau này.
Thêm nữa, chúng tôi đồng ý với nhận thức rằng: việc nghiên cứu chữ
Nôm với tư cách là hiện tượng khởi đầu của truyền thống văn hiến Việt Nam
tuy đã và đang được chú ý song vẫn là công việc lâu dài, chúng tôi chỉ mong
đóng góp chút sức lực bé nhỏ của mình để tiếp sức cho chặng đường chung
gian nan ấy.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Chữ Nôm và văn học chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử
phát triển của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đi sâu nghiên cứu về chữ Nôm
và văn học chữ Nôm là công việc quan trọng đã và đang đặt ra đối với các
học giả trong nước và cả ngoài nước, xuất phát từ những nhu cầu của thực
tiễn đời sống xã hội nước ta cũng như từ những nhu cầu của nhận thức khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do nhận thức được vị thế của chữ Nôm
đối với văn hiến dân tộc nên việc nghiên cứu chữ Nôm có lịch sử tương đối sớm4. Ngay từ thời phong kiến đã có một số ý kiến xung quanh các cuốn tự
điển, sách giáo khoa, trực tiếp hay gián tiếp bàn về nguồn gốc, cách cấu tạo,
cách viết ….của chữ Nôm. Đến thời thuộc Pháp, tình hình nghiên cứu chữ
4 Cũng cần nhấn mạnh rằng: Lịch sử nghiên cứu chữ Nôm khác với lịch sử nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng…..của chữ Nôm và văn học Nôm. Về mảng này, các nhà nghiên cứu đã quan tâm nhưng chưa có nhiều công trình đi sâu.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 5
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nôm đã được chú ý hơn. Có nhiều học giả và nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về chữ Nôm của Việt Nam, trong đó có không ít tác giả
đã để lại những ấn tượng sâu sắc như: J. L. Taberd, H. Maspéro, Hoàng Xuân
Hãn, Pual Schneider, Văn Hựu, Vương Lực, Yonosuke Takeuchi, Kawamoto
Kuniye, v.v… Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu sưu tầm thư tịch
cổ, năm 1970 Ban Hán Nôm thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam được
thành lập, quy tụ nhiều nhà hoạt động cách mạng lão thành, kiến thức Hán
Nôm uyên bác để nghiên cứu di sản của cha ông một cách hệ thống. Năm
1979, Viện Nghiên cứu Hán Nôm chính thức được thành lập trên cơ sở Ban
Hán Nôm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu chữ Nôm và văn học
Nôm của dân tộc và tổng hợp những kết quả nghiên cứu trước đó thành hệ
thống. Căn cứ vào kết quả tổng hợp của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi
hệ thống lại lịch sử nghiên cứu chữ Nôm như sau:
Về sự ra đời của chữ Nôm có nhiều học giả trong và ngoài nước đã đi
sâu tìm hiểu về sự ra đời của chữ Nôm và có nhiều ý kiến khác nhau. Trịnh
Khắc Mạnh đã tổng kết lại các ý kiến đó như sau: “Lê Dư và Nguyễn Đổng
Chi đã căn cứ vào ý “Sĩ Vương bắt đầu lấy chữ Hán để dịch ra tiếng ta” của
Nguyễn Văn San trong Đại Nam quốc ngữ, để đưa ra nhận định cho rằng chữ
Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II). Nguyễn Văn Tố thì dựa vào chữ “Bố
Cái” mà nhân dân suy tôn Phùng Hưng là “Bố Cái đại vương” để cho rằng
chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII. Học giả Trần Văn Giáp đã căn cứ vào
chữ “Cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, để cho rằng chữ Nôm có từ thời
nhà Đinh. Trần Huy Bá dựa vào chữ “Ông Hà” khắc trên quả chuông Vân
Bản tự chung minh tìm được ở Đồ Sơn có niên đại năm 1076, để cho rằng
chữ Nôm có từ thời nhà Lý. Hai nhà nghiên cứu là GS. Nguyễn Tài Cẩn và
GS. Lê Văn Quán đã căn cứ vào mặt thanh mẫu, vận mẫu để chứng minh chữ
Nôm không thể có từ thời Sĩ Nhiếp mà xuất hiện sau thời Đường Tống” [45].
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 6
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
GS. Đào Duy Anh cho rằng: “do yêu cầu mới của xã hội từ sau cuộc giải
phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh, Lê và đầu Lý, chữ Nôm đã xuất hiện”
[1, 81].
Cũng theo Trịnh Khắc Mạnh, bắt đầu từ thời nhà Lý, chúng ta thấy trong
các văn bia hiện còn lưu giữ được, xuất hiện những chữ Nôm ghi tên đất và
tên người, như: Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (niên đại 1173) có các
chữ:: “Bà Cảm, đầu đình, cửa ngõ, bến sông”; Chúc Thánh Báo Ân tự bi
(niên đại 1185-1214) có các chữ: “Bà Đỗ, đồng Mộc”; Báo Ân thiền tự bi ký
(niên đại 1210) có các chữ” “đồng Hấp, đồng Chài, đồng Nhe”. Những chữ
Nôm khắc trên các văn bia thời Lý là sản phẩm của giai đoạn đầu trong quá
trình hình thành và phát triển của chữ Nôm trong các văn bản và làm tiền đề
tạo nên văn học chữ Nôm ở Việt Nam sau này.
Về nghiên cứu chữ Nôm có: Chữ Nôm với chữ Quốc ngữ (Lê Dư),
Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến (Đào Duy Anh), Lược khảo về
nguồn gốc chữ Nôm (Trần Văn Giáp), Một số vấn đề về chữ Nôm (Nguyễn
Tài Cẩn), Nghiên cứu về chữ Nôm (Lê Văn Quán), Nghiên cứu chữ Nôm Tày
(Hoàng Triều Ân và Cung Văn Lược), Các phương thức biểu âm trong cấu
trúc chữ Nôm Việt (Nguyễn Tá Nhí), Cấu trúc nghĩa trong chữ Nôm Việt (Lã
Minh Hằng), Mối tương quan giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc
chữ Nôm (Trương Đức Quả), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (Hoàng Thị Ngọ), Chữ Nôm và tiếng
Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ lục (Nguyễn Thị Lâm), Truyền kì mạn lục -
Nghiên cứu văn bản và vấn đề dịch Nôm (Hoàng Hồng Cẩm), Nghiên cứu
chữ Nôm (Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam; Hội bảo tồn di sản chữ Nôm
Hoa Kì) v.v...Về phần nghiên cứu chữ Nôm, đặc biệt đóng vai trò quan trọng
là nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hồng. Có thể khẳng định Khái luận văn tự
học chữ Nôm là một chuyên luận nghiên cứu nhiều mặt về chữ Nôm, tác giả
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 7
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
đã xây dựng một hệ thống thuật ngữ cùng hệ thống phương pháp tiếp cận đối
tượng, tạo thành một bộ khung lý thuyết, gợi mở cho sự phát triển của bộ
môn văn tự học ở nước ta. Cuốn sách chứa đựng một khối lượng tư liệu, dẫn
liệu phong phú, được lựa chọn công phu, có giá trị tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả
đã dùng nhiều bảng biểu, nhiều hình ảnh minh họa, giúp cho bạn đọc phổ
thông có thể nhìn thấy tận mắt những tư liệu vốn không dễ tìm. Với Khái
luận văn tự học chữ Nôm tác giả đã nghiên cứu tỉ mỉ sự diễn biến của chữ
Nôm trên cấp độ “đơn vị văn tự” và cả trên cấp độ “hệ thống văn tự”, dựa
trên những cứ liệu khảo sát các văn bản tiêu biểu qua nhiều thời kỳ, tác giả
Nguyễn Quang Hồng đi đến xác định những đặc điểm chính của chữ Nôm
Việt theo cách nhìn lịch đại cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khá toàn diện
và thuyết phục
Về việc phiên âm các văn bản Nôm, có: Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan
Trần, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục súc tranh công, Phạm
Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm tuyền kỳ ngộ, Quốc âm thi tập,
Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Chỉ nam ngọc âm, Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ
giải âm tập chú, Ngọc Kiều Lê, Thơ ca trù, Thiên Nam minh giám, Thiên
Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca, Lục Vân Tiên, thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Nguyễn Khuyến và nhiều tác gia khác v.v...
Về biên soạn những bộ sách công cụ, nhằm góp phần tạo nên những
phương tiện tra cứu khi tiếp cận di sản chữ Nôm, có thể kể như: Bảng tra chữ
Nôm (Viện Ngôn ngữ học), Đại từ điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính), Từ điển
chữ Nôm Tày (Hoàng Triều Ân chủ biên), Từ điển chữ Nôm Việt (Nguyễn
Quang Hồng chủ biên), Từ ngữ văn Nôm (Nguyễn Thạch Giang) v.v..
Về nghiên cứu khai thác và biên dịch những bộ tùng thư theo chuyên
đề, nhằm xã hội hóa ngày càng nhiều các tư liệu Nôm, giúp cho các thế hệ
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 8
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
người Việt Nam hôm nay hiểu được giá trị đích thực của văn hóa truyền
thống trong lịch sử, có thể kể như: Thư mục sách Nôm, Thơ Nôm Hàn luật,
Văn Nôm biền ngẫu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang triển khai xuất bản bộ
Tổng tập văn học chữ Nôm - một sưu tập văn học chữ Nôm đầy đủ lần đầu
tiên được giới thiệu rộng rãi v.v...
Đặc biệt, để bảo tồn và phát huy chữ Nôm, dưới sự chủ trì của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, các chuyên gia nghiên cứu Hán Nôm cùng các chuyên
gia tin học trong và ngoài nước đã xây dựng bảng mã chữ Nôm và đưa chữ
Nôm vào bảng mã chuẩn quốc tế IRG/ISO, tổng số chữ Nôm đã đưa vào kho
chữ chung quốc tế là 9.299 chữ, trong đó số chữ Nôm không trùng hình với
chữ của các nước trong khu vực khoảng 4.200 chữ. Hiện nay, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm đang tiếp tục sưu tầm và vẽ chữ Nôm để đưa vào bảng mã
chuẩn quốc tế (gồm chữ Nôm Kinh và chữ Nôm Tày), kế hoạch sẽ đưa thêm
khoảng hơn 2.000 chữ mới. Khi chữ Nôm được khẳng định trong bảng mã
chuẩn quốc tế, như vậy chủ quyền đã được khẳng định, điều này rất có ý
nghĩa về quốc tế, cũng như phát huy giá trị khoa học của chữ Nôm trong quá
trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt Nam.
Mặc dù vậy các công trình đó đều tập trung vào một số vấn đề của chữ
Nôm: Sự hình thành, nguồn gốc, cách cấu tạo, diễn biến, cách lưu giữ và bảo
tồn… của chữ Nôm qua các thời kì lịch sử nhưng chưa có công trình nào bàn
nghiêm túc về thái độ của các triều đại đối với chữ Nôm và văn học Nôm.
Trước đây, trong bài viết Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại
thư tịch của Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn
có viết: “ Quan niệm phong kiến chính thống chưa bao giờ bài xích chữ Nôm
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 9
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
với tính cách là một thứ văn tự, mặc dù không phải triều đại phong kiến nào cũng có thái độ như nhau về chữ Nôm”5
Và “vậy rõ ràng là thời xưa, không có cái nhìn hạ thấp, khinh miệt chữ
Nôm nói chung. Chúng ta chú ý một điều: mặc cảm tự ti chỉ có ở các tác giả
viết truyện Nôm – một thứ tiểu thuyết bằng thơ – chứ không phải của tất cả
những ai viết thơ văn Nôm.”[93, 18].
Trong một bài viết của mình nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã khẳng
định một cách cụ thể và chi tiết hơn:“Ta vẫn quen có định kiến là các triều
đại vua chúa trước kia coi thường văn học Nôm nên không tạo điều kiện cho
bộ phận đó phát triển. Thực ra thì rất nhiều vị vua chúa chuộng Nôm thành
chính sách và đã thực sự sáng tác bằng chữ Nôm, từ Lê Thánh Tông qua
Trịnh Sâm tới Tự Ðức và thành tựu sáng tác bằng chữ Nôm ở họ không phải
không đáng kể. Cũng không phải trong các tác giả văn học ai “đi với nhân
dân” thì mới ưu ái văn Nôm – Cao Bá Quát là một tác giả lớn, là lãnh tụ của
một cuộc khởi nghĩa nông dân nhưng sáng tác chủ yếu là bằng chữ Hán,
Nguyễn Công Trứ lại để lại “rặt” văn thơ Nôm chỉ có một bài thơ chữ Hán
mà thôi. Cả hai đều có những đóng góp quan trọng không thể chối cãi trong
lịch sử văn học. Việc Cao Bá Quát nói mình không dám dùng quốc ngữ làm
văn chương là điều đáng cắt nghĩa. Thực tế nghiên cứu hơn nửa thế kỷ qua
gây cho chúng tôi một ấn tượng rằng trừ những giai đoạn có quá ít tác phẩm
văn học Nôm thì giới nghiên cứu buộc phải xử lý bộ phận văn học chữ Hán là
chính, còn từ lúc văn học Nôm đã phát triển thì bộ phận văn học chữ Hán dễ
bị lờ đi hay xếp xuống hàng thứ yếu. Chúng tôi không dám chắc, nhưng nếu
ấn tượng ấy đúng, nghĩa là giới nghiên cứu cần phải sớm điều chỉnh, bởi
trong thực tế là nhiều tác giả quan trọng trước tác chủ yếu bằng chữ Hán
cho đến đầu thế kỷ XX, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền và Phan Bội Châu.
5 Tạp chí văn học, số 4, 1981, trang 18
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 10
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Trong sự tiếp nhận đại chúng, nói đến Nguyễn Du trước hết và chủ yếu là nói
tới Truyện Kiều, nhưng đối với một bộ phận nào đó, trong đó có chúng tôi,
khó lòng nói là thơ chữ Hán của ông kém hay với Truyện Kiều bất hủ”. [97]
Và “Thi tập bằng chữ Nôm ở những nhà cầm quyền tối cao là chuyện không
hiếm. Dẫu bị chi phối bởi nhiều lí do khác nhau, chữ Nôm chưa trở thành
ngôn ngữ “mang tính nhà nước”, nhưng lời khẳng định rằng giai cáp thống
trị Việt Nam thời trung đại coi thường chữ Nôm xem ra chỉ là một thiên kiến”
[65, 39]
Những ý kiến trên là cái nhìn nghiêm túc thận trọng trước một vấn đề
quan trọng của văn học và văn hiến dân tộc. Tuy nhiên cả hai tác giả vẫn
chưa đi sâu khảo sát kĩ một cách hệ thống với những cứ liệu cụ thể. Tiếp thu
ý kiến của các nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn và Trần Ngọc Vương, chúng
tôi chọn đề tài : Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý
Trần với hi vọng sẽ khảo sát lại các dữ kiện liên quan đến chữ Nôm và văn
học Nôm trong chính sử và trong các tài liệu văn học. Mô tả diễn trình Nôm
hóa trên phương diện ngôn ngữ và văn học dân tộc. Nhiệm vụ quan trọng
nhất là khảo sát những ý kiến mang tính chất “lập trường quan điểm” từ đó
nêu lên những mục đích, yêu cầu mới nhằm cung cấp cái nhìn tổng thể về vấn
đề thái độ ứng xử với văn học Nôm của các triều đại quan phương thời kì đầu
độc lập. Chúng tôi cũng khoanh vùng dữ kiện liên quan đến luận văn là sáu
triều đại độc lập từ triều Đinh – Lê – Lí – Trần – Hồ với hi vọng khảo kĩ
lưỡng những dữ kiện liên quan để tạo cơ sở cho những kết luận quan trọng
bước đầu, có ý nghĩa như những phần nền tảng của một vấn đề khá nghiêm
túc mà giới nghiên cứu lâu nay chưa quan tâm thỏa đáng. Vả lại, những dữ
kiện ở giai đoạn này dẫu ít nhưng không quá nghèo nàn so với cái nhìn bề
rộng bao hàm cả ngôn ngữ và văn học. Chúng tôi khẳng định luận văn này đề
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 11
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cập đến một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào
trong phạm vi và qui mô tương tự.
Hơn nữa, trên cơ sở khảo lại toàn bộ dữ liệu về chữ Nôm và văn học chữ
Nôm ở giai đoạn mới hình thành và bước đầu có những thành tựu luận văn sẽ
góp phần định hướng một cách tiếp cận mang tính hệ thống và là tiền đề quan
trọng cho những bước tiếp theo. Chúng tôi coi luận văn là một bước của một
quá trình dài hơi trong việc nghiên cứu một vấn đề thú vị của văn học sử
trung đại Việt Nam. Chính vì vậy, chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự chia sẻ
và góp ý của tất cả những người quan tâm đến mảng văn học Nôm của nước
nhà.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là toàn bộ phần dữ liệu xung quanh vấn đề chữ
Nôm, văn học Nôm sáu triều đại độc lập đầu tiên của lịch sử dân tộc bao gồm
các tài liệu chính sử, các tài liệu hành chính quan phương, các tài liệu chữ
Nôm và văn học Nôm.
Nghiên cứu phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm của các
triều đại hành chính quan phương là một công việc đòi hỏi sự phong phú của
phạm vi tư liệu bởi vì các tài liệu chính sử hầu như ghi chép lại các sự kiện
liên quan đến chữ Nôm và văn học Nôm rất vắn tắt. Trong chừng mực có thể,
chúng tôi cố gắng tập dụng mọi nguồn dữ liệu với hi vọng cung cấp một cái
nhìn mang tính tổng thể và khách quan. Mặc dù đối tượng khá rộng và phạm
vi bao quát dàn trải song khi thực hiện chúng tôi sẽ lựa chọn những cứ liệu
tiêu biểu và ưu tiên cho các dữ liệu văn học hơn những dữ liệu lịch sử. Dẫu
biết rằng giai đọan đầu tiên của nền văn học viết này hiện tượng “văn sử
triết” bất phân đòi hỏi phải nhìn nhận vấn đề trong tính tổng thể của nó. Hơn
nữa, khi bắt tay khảo sát lại các dữ liệu trong văn và sử chúng tôi sẽ tham
khảo những khảo sát (nếu có) của các tác giả trước đó kết hợp với những đối
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 12
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
chiếu và tổng hợp của mình để có thể nhìn nhận đối tượng một cách khách
quan và công bằng nhất.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm khảo luận những dữ kiện liên quan đến chữ
Nôm và văn học Nôm một cách có hệ thống, từ đó có cái nhìn khách quan về
thái độ của các chính thể hành chính quan phương với chữ Nôm và văn học
Nôm trong giai đoạn đầu tiên khi nó mới manh nha hình thành và bước đầu
có thành tựu, giai đoạn thời Lý – Trần. Cũng qua luận văn chúng tôi muốn
nhìn nhận lại vấn đề ứng xử với văn học Nôm của các triều đại chính thống
quan phương. Ứng xử ở đây không chỉ là chuyện đánh giá, coi nhẹ hay coi
nặng mà là vấn đề định hướng nhằm tìm cơ sở cho sự tồn tại của những kết
luận thận trọng và nghiêm túc hơn (so với nhận định đang tồn tại mặc nhiêu:
Các triều đại coi thường văn học Nôm). Chúng tôi hi vọng trình bày được
những tiêu chí đặc định để hình thành nên gen (nội gen) bên trong của nó:
quốc gia dân tộc hóa văn học Việt Nam là một nhu cầu mang tính lịch sử và
không phải triều đại quan phương nào cũng có phản ứng đi ngược với tất yếu
lịch sử ấy.
Tính qui luật của sự phát sinh, phát triển trong thời kì cổ trung đại gắn với
tiêu chí quốc gia dân tộc ở các khu vực khác nhau lại khác nhau. Văn học
Nôm ở Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên nguyên cớ của nó.
Nguyên cớ ấy khác với sự ra đời và tồn tại của ngôn ngữ và văn học các nước
Phương Tây khác, hoặc các nước Phương Đông hay Đông Á khác. Nghĩa là,
tìm ra qui luật riêng của văn học Việt Nam trên dòng chảy chung của các
trong khu vực văn minh phương Đông mà Trung Quốc là cái nôi kiến tạo.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 13
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nghiên cứu văn học luôn phải đặt văn học trong mối quan hệ của các
ngành Khoa học xã hội khác: sử học, triết học, chính trị, tôn giáo…Hơn nữa,
nghiên cứu văn học cổ - một phần văn học ra đời khi chưa có sự phân định
rạch ròi giữa các hình thái ý thức xã hội càng phải đặt nó trong tổng thể
nguyên vẹn. Cho nên, bắt đầu bằng việc nghiên cứu văn học từ hướng tiếp
cận liên ngành (tư tưởng triết học, văn hóa, văn học, lịch sử, tôn giáo, dân
tộc, v.v…) là hướng đi của chúng tôi. Chúng tôi mong muốn rằng cũng với
những cứ liệu xác thực của lịch sử, luận văn sẽ thực hiện được nhiệm vụ khó
khăn và thiết thực của mình.
Luận văn sẽ trình bày một cách khái quát nhất diện mạo cũng như những
vấn đề tiêu biểu của sự xuất hiện chữ Nôm và văn học Nôm trong giai đoạn
đầu tiên khi đất nước tự chủ. Chúng tôi cho rằng, đây là thao tác cần có để
giúp có cái nhìn bao quát về một thời kì manh nha và kết tinh mang tính cơ
sở nền tảng cho những chuyển mình của ý thức dân tộc. Trên cơ sở đó, luận
văn làm rõ thêm phương thức ứng xử của các triều đại chính thể với sự manh
nha của ý thức dân tộc biểu hiện ở khía cạnh ngôn ngữ này. Đương nhiên,
luận văn sẽ tập trung nhiều nhất vào những cứ liệu có tính chất văn học. Từ
đó chúng tôi hi vọng rút ra được những kết luận ban đầu liên quan đến vấn đề
mà luận văn đề cập. Vì là một công trình thuộc chuyên ngành lịch sử văn học
dân tộc nên những khảo sát của chúng tôi cũng ưu tiên hơn cho việc làm sáng
tỏ thực trạng của văn học Nôm trong tiến trình lịch sử văn học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp có tính chất tổng hợp
Phương pháp hệ thống hóa: Chúng tôi tiến hành khảo sát lại lịch sử và thống
kê các cứ liệu tiêu biểu liên quan đến vấn đề mà luận văn quan tâm, trong đó
chủ yếu là chữ Nôm và văn học Nôm
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 14
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Phương pháp nghiên cứu lịch đại: Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu trong cái
nhìn lịch sử. Từ lịch sử đưa ra những vấn đề để luận giải, tìm ra nguồn gốc,
căn nguyên của các hiện tượng, vấn đề.
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Trên cơ sở phân tích các dữ kiện
lịch sử, các sự kiện văn hóa văn học, các tác giả và tác phẩm … chúng tôi
tổng hợp các vấn đề từ đó khái quát và đưa ra những kết luận
Phương pháp loại hình học được sử dụng xuyên suốt như một phương pháp
cơ bản, có ý nghĩa như phương pháp quan trọng nhất, định hướng toàn bộ
luận văn
Trong toàn bộ luận văn, các phương pháp này đươc sử dụng đồng thời, kết
hợp thường xuyên để tìm ra các điểm nhìn toàn diện và đảm bảo được tính
chính xác cho các nhận định đưa ra
6. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu
Chương 1: Lược thuật quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm và văn
học Nôm thời Lý – Trần
Chương 2: Những dấu ấn tiêu biểu của văn học Nôm thời Lý – Trần (Qua thư
tịch lịch sử và sáng tác văn chương)
Chương 3 : Ngả đường hoàn thiện chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý – Trần
Phần kết luận
Thư mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 15
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
LƢỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN
1.1. Chất nền của văn học thời Lý – Trần
Như đa số nền văn học khác trên thế giới văn học Việt Nam không có
may mắn ra đời trên chính cái nôi văn hóa vùng mà đóng vai trò như là nền
văn học thứ sinh. Ra đời muộn trên cái nền vững chãi và rực rỡ của văn hóa
văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam vừa kế thừa những gì có sẵn vừa trăn
trở kiếm tìm phương thức tồn tại riêng trong tâm thế mong manh của nền độc
lập mới xác lập và sức nặng nghìn năm văn hóa phương Bắc đè nặng trên vai.
Việc một nền văn học đóng vai trò kiến tạo vùng cung cấp ngôn ngữ văn học
và hệ thống thể loại cho các nền văn học được tích hợp từ lâu đã là một thực
tế được giới nghiên cứu văn học trên toàn thế giới đi sâu tìm hiểu [97]. Văn
học Việt Nam cũng nằm trong qui luật ấy. Dù giành được độc lập vào năm
938 sau hơn 11 thế kỷ bị Trung Quốc đô hộ, nhưng Việt Nam chẳng bao giờ
thoát khỏi sự chi phối của ngôn ngữ cũng như chữ viết của người Hán: chúng
vẫn tiếp tục chiếm vị trí chính thức trong gần một nghìn năm. Chỉ có thể giải
thích bằng sức hấp dẫn chính đáng và tất yếu của nền văn hóa, văn học kiến
tạo vùng quá lớn khiến người Việt không dễ dàng phủ nhận và khó lòng bứt
phá. Vả chăng thừa hưởng những thành tựu văn hóa của nền văn minh Trung
Quốc trong bối cảnh lịch sử ấy là một lựa chọn khôn ngoan và là tất yếu
khách quan, dẫu không muốn thừa nhận cũng khó lòng phủ định. GS Chu Hữu Quang6– nhà văn tự học lão thành của Trung Quốc cho rằng: Văn hóa
6 Gs Chu Hữu Quang là Ủy viên Ban Công tác ngôn ngữ văn tự Quốc gia Trung Quốc. Ông sinh năm1906 tại tỉnh Giang Tô. Ông là nhà văn tự học hiện đại hàng đầu Trung Quốc, với những đóng góp nổi trội ở các lĩnh vực: Hán tự học, cải cách văn tự Hán, văn tự học đại cương, lịch sử văn tự thế giới, quy luật phát triển văn tự thế giới, văn tự học so sánh
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 16
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cũng như nước vậy, không ngừng chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp. Suốt hai
ngàn năm qua văn hóa chữ Hán lan tỏa khắp bốn phương, hình thành nên một
vùng văn hóa chữ Hán rộng lớn ở Đông Á…Có một qui luật tồn tại cho tất cả
những nền văn học bứng trồng: Khi chưa đủ sức tạo ra những sản phẩm đồng
đẳng với những sản phẩm của một nền văn hóa đã trưởng thành thì cách làm
tốt nhất là bắt chước họ để tạo ra những sản phẩm giống họ. Trong quá trình
tạo ra sản phẩm ấy sẽ tự in dấu văn hóa bản thể của khu vực mình cũng như
những gì thuộc về cá nhân sáng tạo của mình lên sản phẩm đó. Cho nên, việc
người Việt mượn chữ Hán và các thể loại văn học Trung Quốc rồi chữ Nôm
và văn học Nôm ra đời nằm trong qui luật ấy.
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, là hình thức biểu hiện của văn học.
Có một sự thật tồn tại ở Việt Nam hàng mấy thế kỉ là có hai loại ngôn ngữ
cùng tồn tại để bổ khuyết cho nhau phục vụ đời sống nhiều mặt của con
người: chữ Hán và chữ Nôm. Khi bàn đến chính trị, lịch sử, luân lí người ta
biểu đạt bằng chữ Hán; khi biểu đạt những cảm xúc hằng ngày, các hiện
tượng đời sống, người ta dùng chữ Nôm. Chính vì vậy mà hai bộ phận văn
học viết bằng hai thứ chữ khác nhau (nhưng liên quan mật thiết và chịu sự
chế ước lẫn nhau) luôn tồn tại song song, không bộ phận nào thôn tính được
bộ phận nào, trái lại, chúng lại xâm nhập và bổ sung cho nhau.
Gắn chặt với hệ thống giáo dục và Tống nho (thay thế đạo Phật như là hệ tư
tưởng chính thức của chế độ quân chủ ở Việt Nam từ thế kỷ XV), chữ Hán đã
cung cấp cho giai cấp thống trị một công cụ vô cùng hiệu quả: nó tạo ra
đường ranh phân biệt thiểu số sĩ phu với quần chúng không biết chữ. Việc
truyền thông bằng ngôn ngữ bị chữ viết điều kiện hoá, truyền thông bằng
miệng và truyền thông bằng chữ viết khác nhau sâu sắc trong một xã hội có
chữ viết, sự khác nhau đó đạt đến mức tối đa khi chữ viết không biểu thị các
âm thanh mà biểu thị các ý niệm như chữ Hán. Ở Việt Nam thời xưa, thêm
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 17
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
vào sự khác biệt giữa truyền thông bằng miệng và truyền thông bằng chữ viết
lại còn có thêm sự khác nhau về ngôn ngữ: giữa tiếng Hán Việt và tiếng Việt.
Do đó khoảng trống ngăn cách giữa giới nho sĩ và quần chúng không biết chữ
Hán trở nên khó vượt qua. Với người Việt, chữ Hán lúc này vừa là sự hoài
vọng của người Việt về một thời điểm “sống” của chữ Hán trong quá khứ,
vừa là sự sống đang hiện hữu của thứ ngôn ngữ chịu sự tác động hiện thời
của đời sống người Việt. Như thế, bản thân sự vay mượn chữ Hán cũng làm
cho ngôn ngữ Hán không chỉ là chữ Hán mà có sự biến đổi trong điều kiện
của Việt Nam, chưa kể sự ra đời và hoàn thiện của chữ Nôm.
Có thể thấy rằng trong năm thế kỉ đã qua (X – XV), ngôn ngữ dùng trong
đời sống và sáng tạo văn chương luôn nằm trong thế phải vận động, phải cựa
quậy, phải nỗ lực và luôn khao khát đến đích của sự ổn định và hoàn thiện.
1.2. Sự ra đời của chữ Nôm là một tất yếu lịch sử
Tự thủa xa xưa, khi kết tập với nhau thành bầy đàn, phương tiện để gắn
kết giữa con người với nhau là tiếng nói. Và khi thứ tiếng nói đã được sử
dụng thật thuần thục thì sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng lời nói của
mình, khi ấy chữ viết mới thật sự ra đời. Trong tất cả các phương tiện mà con
người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn
được tất cả các nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ
giao tiếp vạn năng của con người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con
người xuất hiện cho đến tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung
và hoàn thiện dần theo lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và
xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa đến hiện tại. Ngày nay, hầu như
không còn ngôn ngữ nào là chưa có ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai.
Thật ra, khó có thể nói là chữ viết đã ra đời “nhất thành bất biến“ như chúng
ta thấy ngày nay. Nói cách khác, tất cả các ngôn ngữ đang tồn tại đều đã từng
trải qua những quá trình tiếp xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 18
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen hưng phế, từ hình thức thắt nút dây như
đã được ghi nhận trong Kinh Dịch: “Thượng cổ kết thằng nhi trị, hậu thế
thánh nhân dịch chi dĩ thư khế, bách quan dĩ trị, vạn dân dĩ sát, cái thủ chư
Quải…” nghĩa là: Thời thượng cổ thắt nút dây (để ghi nhớ các sự việc) mà cai
trị; thánh nhân đời sau thay đổi (cách thức) dùng văn tự, khế ước mà cai trị trăm quan, kiểm soát dân chúng, là lấy lượng ở quẻ Quải 7 … đến hình thức
sâu chuỗi vỏ sò có màu sắc khác nhau như người da đỏ Iroquois đều là cách
kí hiệu hóa để ghi lại ý tưởng mà người xưa muốn truyền đạt cho nhau, hoặc
đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ. Những hình thức đó đều là những dạng
sơ khai của ngôn ngữ. Tiến thêm một bước nữa là hình thức chữ viết bằng
hình vẽ mà ta còn có thể thấy trong các văn bản cổ trên đá của người cổ Ai
Cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là những nét kí hiệu vẽ trên đất sét dùng để
đếm gia súc (còn gọi là chữ hình nêm) của người Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3500 năm trước8.
Chữ viết ra đời đã góp phần rất lớn vào việc phát triển ngôn ngữ con người,
tạo ra một bước nhảy vọt quan trọng: ghi lại tiếng nói để lưu giữ hoặc truyền
đạt trong không gian rộng hơn tầm hạn của tiếng nói. Giữa tiếng nói và chữ
viết có mối quan hệ hữu cơ không thể tách bạch, không thể có chữ viết nếu
không tồn tại tiếng nói trước đó. Tương quan giữa tiếng nói và chữ viết như
vậy là tương quan trước - sau. Và chữ viết chỉ có thể xem là những kí hiệu
như bao nhiêu hệ thống kí hiệu khác do con người chế tác để biểu đạt một thứ
nội dung nào đó trong tư duy tiến hóa của con người.
7 Trích Chương II: Đạo của người quân tử 8. Theo Bách khoa lịch sử thế giới: Những bản viết bằng chữ hình nêm (cuneiform) là bản văn sớm nhất ở Syria, bao gồm sử liệu, sách từ nguyên (kể cả bộ đại từ điển Eblaite – Sumer) , tài liệu toán học, chiếu chỉ và các thư tín triều đình cũng như các tác phẩm văn học và thần thoại. Khoảng năm 1400 TCN, những người thảo văn tự ở Ugarit (Rar Shamra) hình thành bảng chữ cái cuneiform. Các tác phẩm văn học xứ Canaa, kể cả các sách về pháp luật, lịch sử, tôn giáo và thần thoại đều được viết theo kiểu chữ cuneiform này. Không chắc chắn là bảng chữ cái được biết là “chữ Phoenicia” hình thành trước hay sau thời Ugaritic, nhưng dường như vào giữa thiên niên kỉ 2. Khoảng năm 750 TCN người HyLạp vay mượn bảng chữ cái này từ dân thành Phoenicia [23, tr.49-50]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 19
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Chữ viết của người Việt ra đời từ bao giờ là một câu hỏi không dễ có được
câu trả lời rõ ràng. Chỉ biết rằng, trên các đồ vật bằng đá và bằng đồng của
thời kì văn minh Đông Sơn có những dấu hiệu cho phép ta đặt giả thuyết về
dạng chữ viết cổ xưa của dân tộc trước khi bị nhà Hán thủ tiêu trong mưu đồ
đồng hoá dân tộc Lạc Việt (Dù vậy, giả thiết này vẫn chưa tìm ra minh chứng
thuyết phục và nó vẫn chỉ tồn tại là một giả thiết mà thôi). Hệ thống chữ viết
của người Việt nay đã qua nhiều phen thay đổi do những đẩy đưa của lịch
sử. Khi bị Hán tộc thống trị hơn nghìn năm, người Việt đã trải qua một cuộc
giao lưu văn hoá lớn, mà một trong số những thành tựu văn hoá mới chính là
bộ chữ viết mới được hình thành: chữ Nôm.
Người Việt chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Hán - nền văn hóa trung tâm mà
từ vùng này đã là cái nôi “nảy sinh ra chữ viết Nhật Bản, chữ viết Choang,
chữ viết Tây hạ, chữ viết Khiết đan, chữ viết Nữ chân và đã ảnh hưởng đến
một giai đoạn nhất định trong chữ viết Triều Tiên, thì việc người Việt dựa
vào các yếu tố văn tự Hán để tạo ra lối chữ Nôm như trên là một điều cũng
rất dễ hiểu, không có gì đáng lấy gì làm lạ” [35, 481]
Biết bao công phu và cố gắng của nhiều thế hệ kế tiếp nhau trong việc
xây dựng một nền ngôn ngữ văn Nôm nói riêng và xây dựng tiếng nói của cả
dân tộc nói chung.Chữ Nôm trước hết là sự thể hiện nhu cầu dân tộc về mặt
ngôn ngữ văn tự. Trên cơ sở dùng chính những nét viết của chữ Hán để ghi
lại tiếng nói của dân tộc, chữ Nôm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tất yếu của
đời sống. Những tấm bia cổ xưa từ đời các vua nhà Lí còn cho thấy những
tên gọi các làng xóm hoặc tên người rất “nôm na”, có lẽ vai trò lịch sử đầu
tiên là ghi lại những địa danh của đất Việt, điều mà chữ Hán không đủ vốn
liếng để diễn đạt. Việc dùng chữ Hán chính thức trong tầng lớp cai trị đất
nước là điều dễ hiểu, nhưng chữ Hán ngoài việc là một loại chữ khó học và
khó phổ biến, không thích hợp với đại đa số dân chúng trong việc dùng để
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 20
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
biểu đạt ý tưởng trong cuộc sống thường ngày nó còn là thứ chữ không đủ
vốn từ để ghi âm những từ thuần Việt. Có lẽ, nhu cầu ghi âm một số từ ngữ
thuần Việt vốn không có trong tiếng Hán đầu tiên là từ người Hán. Họ sang
nước ta cai trị, họ dùng chữ của họ và thêm kí hiệu để ghi một số phát âm của
ta. Lâu dần, ta cũng dùng phương pháp đó để ghi lại tiếng ta. Và người Việt
dùng cách thức đó như một phương thức chính để tạo chữ Nôm, dĩ nhiên
“chuyên nghiệp” hơn người Hán bởi thế mạnh về vốn từ. Và kho chữ Nôm có
được là do sự dày công của người Việt, do nhu cầu nội tại của đời sống
người Việt.
Với dân tộc Việt, chữ Nôm ra đời không phải để phủ định chữ Hán mà để bổ
khuyết vào mảng còn thiếu của ngôn ngữ đời sống. Chữ Nôm là phần bổ
sung cho nhu cầu tối quan trọng của đời sống một dân tộc khi đã có quyền tự
chủ của mình. Vì thế, nó dần dần lớn mạnh như chính sự vững vàng của dân
tộc đó trước kẻ đã từng đô hộ mình hàng ngàn năm lịch sử. Văn học Nôm ra
đời “là khuynh hướng tất yếu của phát triển lịch sử, nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hóa của công chúng.” [45, 142]. Văn Nôm qua các thế kỉ là một điều
đáng tự hào về sức sống mạnh mẽ của dân tộc, một biểu hiện cụ thể và phong
phú về sự diễn tiến nhịp nhàng, vững chắc của Việt Nam ta từ ngàn xưa cho
đến ngày nay, mở ra một triển vọng mới cho sự phát triển của ngôn ngữ và
tiếng nói dân tộc.
Cần phải khẳng định rằng văn học chữ Nôm, trải theo chiều dài lịch sử đã
phát triển ngày càng rộng rãi trong đời sống văn học của xã hội, đáp ứng nhu
cầu tình cảm của tầng lớp nhân dân, phản ánh tư tưởng yêu nước nhân đạo
theo khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa, đánh dấu sự phát triển rực rỡ của
văn học chữ Nôm trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nếu nhìn lịch sử thành những giai đoạn lớn thì có thể khẳng định dứt
khoát rằng chữ Nôm là thành tựu văn hóa của nhà nước phong kiến đang
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 21
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
khẳng định độc lập, thành tựu sáng tạo chữ Nôm thuộc về thời Lý Trần (từ
thế kỉ X – XV). Chữ Nôm là sản phẩm tất yếu của sự tiếp xúc với nền văn
hóa Hán. Nước ta “nằm trong khu vực thuộc địa bàn ảnh hưởng văn hóa
Hán, nhằm phục vụ một ngôn ngữ cũng thuộc loại hinh cơ bản như tiếng Hán
mà biết dựa vào văn tự Hán, tạo ra được một lối chữ như chữ Nôm, đó là một
sự kiện rất phù hợp với điều kiện của lịch sử” [35, 485]. Đây là sự khởi đầu
tạo tiền đề cho sự phát triển của chữ Nôm và văn học Nôm các giai đoạn tiếp
theo.
1.3. Văn học chữ Nôm trong mối liên hệ với văn học chữ Hán
1.3.1. Chữ Nôm phức tạp và khó nhớ hơn chữ Hán
Thứ chữ đầu tiên người Việt mượn để ghi lại tư tưởng, văn chương,
giấy tờ hành chính là chữ Trung Hoa, điều này người Đại Hàn và người Nhật
cũng làm, các nước trong khu vực đồng văn đều vậy. Có điều trong trường
hợp Việt Nam, chữ Hán còn là công cụ để cai trị và bành trướng văn hóa của
Trung Hoa trên nước Việt một cách nặng nề và dai dẳng hàng nghìn năm.
Những triết thuyết mang từ Trung Hoa của Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử,
Trang Tử ... và ngay cả không từ gốc Trung Hoa như Phật học (bao gồm
Thiền học) cũng được chuyên chở bằng chữ Hán qua tới Việt Nam, đó là dấu
ấn nặng nề mà một nền văn hóa đã dùng để áp chế lên một quốc gia tiểu
nhược. Vì Hán tự chuyên chở những tinh hoa của nhiều thế hệ Trung Hoa
trên đủ mọi phương diện từ sử ký, địa lý, đến văn chương, nghệ thuật ... nên
những con người ưu tú của nước Việt đã chuyên chú học hỏi để hiểu biết và
dùng Hán tự như ngôn ngữ hành chính, giáo dục để cai trị đất nước ngay khi
đã dành lại được độc lập sau hàng ngàn năm nô lệ. Điều này vẫn là chân lí
hiển nhiên cả khi chữ Nôm đã hoàn thiện và được sử dụng phổ biến
Chữ Nôm chỉ là thứ chữ mượn từ hình dạng cho đến ngữ liệu của chữ Hán để
tiện dụng cho người Việt. Đặc điểm chung cũng một loại hình đơn lập, đơn
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 22
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
tiết tính, có thanh điệu đã gợi ý cho việc dùng ngay chữ Hán để ghi âm tiếng
Việt. Đầu tiên ý đồ này được thử nghiệm trong việc ghi chép tên tuổi người,
địa danh, ruộng nương... trong các văn bản chữ Hán và đến khi âm Hán Việt
được hình thành thì nó được sử dụng làm hệ thống âm cơ bản, hệ thống âm
gốc để viết chữ Nôm. Khi tiếng Việt vẫn còn các nhóm phụ âm và tiền âm
tiết thì một từ Việt với cả âm tiết chính với một phụ tố (âm tiết mờ) hoặc một
nhóm phụ âm có thể được ghi bằng hai mã chữ như trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh9, nhưng đến lúc các nhóm phụ âm và tiền âm tiết biến
mất trong tiếng Việt thì mỗi âm tiết Việt được ghi bằng một chữ Hán theo
nguyên tắc một đổi một. Cùng với thời gian, hệ thống văn tự Nôm ngày càng
được hoàn thiện hơn để ghi sát được âm Việt ở từng thời kỳ. Chữ Nôm từ
trước đến sau hoàn toàn sử dụng các ký tự Hán để ghi âm Việt mà không cần
đặt ra một loại yếu tố phi Hán nào như hệ thống chữ thảo trong loại Kana
(gồm Kana cứng và Kana mềm) của người Nhật Bản, nó phá vỡ tính thuần
nhất và tính thẩm mỹ của loại hình chữ hình khối. Chữ Nôm trước sau đều
giống chữ Hán ở loại hình khối vuông, các nét hoàn toàn phân bố theo không
gian chứ không theo thời gian.
Cũng do sự giống nhau về đặc điểm loại hình ngôn ngữ đơn lập đơn tiết
tính giữa tiếng Hán và tiếng Việt mà văn Nôm chẳng những có thể sáng tác
theo các thể loại văn học của dân tộc mà còn có thể sáng tác theo các thể loại
văn học của Trung Quốc như các thể loại thơ Đường luật, thơ cổ thể, luật
phú, phú lưu thủy... và đặc biệt là câu đối, điều mà các ngôn ngữ chắp dính
và không có thanh điệu như tiếng Nhật Bản và Triều Tiên không thể nào làm
được. Theo Ðào Duy Anh thì sự biến chuyển của chữ Nôm trên đại cương là:
ban đầu, khi âm Hán-Việt gần với tiếng nói thì người ta dùng phép giả tá, khi
9 Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh được coi là dịch phẩm cổ nhất còn lại cho đến nay.Theo GS.TS Nguyễn Quang Hồng, đây là tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Việt (dưới hình thức chữ Nôm) vào khoảnng thế kỷ XII.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 23
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
âm Hán-Việt xa tiếng nói, người ta dùng phép hình thanh để nhờ sự hướng
dẫn của nghĩa phù, song vì chữ hình thanh đôi khi quá nhiều nét, người ta trở
lại dùng phép giả tá, rồi vì ghi âm lối này không chính xác, người ta lại quay
lại với phép hình thanh. Rõ ràng sự xuất hiện và vận dụng của chữ Nôm là
một hiện tượng độc đáo, duy nhất trong tất cả các nước đồng văn. Trí thức
thời xưa, tức các thày đồ, học sinh, quan lại ta dịch từ Hán sang Nôm và từ
Nôm sang Hán được. Người Trung Quốc muốn học chữ Nôm của ta họ sẽ
học rất nhanh, vì có một số chữ Nôm ta mượn nguyên chữ Hán, không thêm
bớt gì cả. Tất nhiên sau này học sinh học chữ Quốc ngữ (vần La tinh) không
cần phải học chữ Hán hay chữ Nôm, nhưng nếu nói tiếng mẹ đẻ và viết chữ
quốc ngữ mà biết thêm chữ Hán hoặc hiểu nghĩa từ Hán - Việt sẽ có trình độ
cao hơn, văn hoa hơn cũng như nhà văn, nhà thơ nào có vốn chữ Hán, hay
hiểu nghĩa Hán - Việt sẽ sáng tác theo phái cổ điển sẽ chính xác hơn. Điều
khó khăn cho dân là nếu không đi học chữ Hán thì không đọc, không viết
được chữ Nôm. Nói chung chữ chân phương Hán tự, thoạt nhìn vào so với
chữ Nôm cũng kiểu chân phương, khó phân biệt được. Tuy nhiên, chữ Nôm
không thành hình và phát triển thành một hệ thống văn tự tạo âm, biểu ý cho
tiếng Việt một cách nhanh chóng. Sự chậm chạp ở đây không chỉ do khó
khăn ( về về việc tạo chữ mà điều kiện tiên quyết là phải dành lại tự chủ, độc
lập trước đã). Đến khi đó, nhu cầu dùng chữ Nôm mới trở thành cấp thiết cho
đời sống văn hóa và tinh thần chúng ta. Như thế, khi đã được độc lập vững
chắc, ý thức dân tộc đã mạnh mẽ hệ thống chữ Nôm dần dần trở thành văn tự
nghiêm chỉnh, các văn bản chữ Nôm mới dần dần xuất hiện. Nhìn chung chữ
Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phải ghép 2 chữ
Hán lại) nên khó nhớ hơn cả chữ Hán, vốn cũng đã khó nhớ. Cách đọc cũng
có khi không thống nhất hoặc một chữ có thể có nhiều cách đọc, nên "chữ
Nôm phải vừa đọc vừa đoán". Ngoài ra, việc "tam sao thất bản" là khó tránh
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 24
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
khỏi, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản
có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét,...).
Muốn hiểu chữ Nôm, muốn đọc chữ Nôm thì điều kiện cơ bản phải biết chữ
Hán, tuy nhiên đó chỉ là điều kiện cần thiết chứ chưa phải điều kiện đủ. Muốn
hiểu chữ Nôm còn phải nắm vững phương pháp cấu tạo của chữ Nôm, nắm
vững tình hình diễn biến của nó qua các thời kì cùng với những qui luật ngữ
âm học lịch sử về tiếng Việt và tiếng Hán.
Thực ra, chữ Nôm vốn có qui cách nhưng trong thực tế, trừ những người có
học thức cao có thể viết chữ Nôm theo đúng qui cách còn những người ít học
không thuộc qui cách cho nên viết tùy tiện. Sự tùy tiện này không phải do ý
thức của người viết mà nguyên nhân chính do cái khó nội tại của chữ Nôm
trong quá trình hình thành, tồn tại và hoàn thiện của nó.
Do vậy, chữ Nôm có những khó khăn nội tại để quảng bá cho đại đa số
người dân ít học. “Người muốn hướng dẫn người khác đọc chữ Nôm thì phải
tự mình biết đọc trước đã, cho nên việc lột soát các văn bản Nôm phải đi đôi
với việc phiên âm. Công việc phiên âm lại dẫn đến công việc đính chính
những chữ viết sai thấy nhan nhản trong các bản Nôm dù viết, dù in” [1,
135]. Và, vô hình chung, nó đóng vai trò là thứ “ngôn ngữ thứ hai” bổ trợ
cho tầng lớp trí thức đương thời. Nó vẫn xa rời dân chúng và diệu vợi trong
cách sử dụng. Nó vẫn “chảnh”, thậm chí “chảnh” hơn cả Hán tự.
1.3.2. Phạm vi sử dụng của Chữ Nôm là những vùng mà chữ Hán ít
hoặc không đủ khả năng biểu đạt
Thời Lý Trần từ cung điện nhà vua qua dinh thự các quan tới làng mạc
nông thôn chưa có những đường hào ngăn cách quá ngặt nghèo như sau này.
Chưa có một “bệ rồng” xa thẳm và lộng lẫy, chưa có những kỉ cương thép và
những luật lệ thực sự chặt chẽ. Khoảng cách giữa đấng chí tôn và thần dân
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 25
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
chưa cao vời và huyễn hoặc như giai đoạn sau10. Ngôn ngữ mà các triều đại
dùng trong đời sống hàng ngày có lẽ là Việt ngữ, những từ thuần Việt. Có lẽ
chỉ ngoại giao, hành chính, giấy tờ mới sử dụng chữ Hán nhưng cũng là chữ
Hán bị Việt hóa (Hán Việt). Có nghĩa là vua quan và thần dân vẫn dùng cách
nói của dân tộc để diễn đạt mọi thông tin của đời sống. Và vì thế, giữa ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết có một khoảng cách xa vời.
Những ngày đầu tự chủ, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng
nhà nước của một quốc gia độc lập đã được đặt ra một cách khẩn thiết nhưng
cũng chỉ mới làm được những bước đầu tiên. Phải đợi đến thế kỉ XI, với sự
xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một cách qui mô và có phần bề thế hơn với những tổ chức và thể chế11.
Tiếp đó các vua nhà Trần cũng rất quan tâm đến việc củng cố chế độ phong
kiến tập quyền với những thứ bậc và quyền lợi rạch ròi hơn. Nhu cầu xây
dựng một nhà nước trung ương tập quyền là một xu thế tất yếu lịch sử. Nhu
cầu này cũng được phản ảnh vào lĩnh vực tư tưởng và đòi hỏi sự hình thành
những quan điểm, những nhận thức lí luận về chính trị và xã hội để chỉ đạo
thực tiễn. Chỉ có sự hình thành và phát triển đó của tư tưởng chính trị và xã
hội mới giải đáp được những vấn đề thiết thân đến củng cố nhà nước phong
kiến như vấn đề quân quyền, sử dụng bề tôi, xây dựng ý thức hệ của thời
đại….Nguyện vọng và ý chí của giai cấp thống trị là củng cố địa vị và quyền
lợi mới giành được. Ý thức về quyền độc lập lãnh thổ, quyền bình đẳng dân
tộc (của một nước nhỏ) với Trung Quốc là thứ dễ nhận ra và quan tâm trước
10 Giai đoạn đầu tiên manh nha ý thức tự tôn cũng là lúc vua tôi hăm hở nhất dựng xây đất nước.Giai đoạn này vua còn đích thân cày ruộng tịch điền, đích thân xem bơi chải và hội họp quần thần như những người dân áo vải. Khoảng cách giữa bệ rồng và lũy tre còn gần và sự đồng lòng đồng sức còn nhiều, bởi lẽ vua tôi cùng chung những nỗi lo, chung những quyền lợi và chung cả khát vọng nữa. 11 Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra triều Lý, dời đô về Thăng Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1070 Nhà Lý cho lập Văn Miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử, Tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền để tế lễ. Năm 1076 lặp Quốc Tử Giám. Năm 1075 khoa thi đầu tiên minh kinh bác sĩ và thi Nho học Tam trường được tổ chức.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 26
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
hết. Lúc này ý thức về bản ngã văn hóa các bậc thức giả đương thời chưa chú
trọng như là vấn đề cần quan tâm số một. Tuy nhiên, từ ổn định về chính trị
xã hội những nhu cầu khác mang tính dân tộc dần dần xuất hiện và chữ Nôm
là một biểu hiện rõ ràng nhất của nhu cầu thiết yếu của đời sống, và sâu xa
hơn, của ý thức dân tộc.
Những lĩnh vực có tính chất nhà nước: hành chính, quan chế, điển
chương…là mảng mà chữ Hán đắc dụng. Nhưng trong lĩnh vực “văn chơi”
thì chữ Nôm lại có đất để mặc sức trưởng thành. Việc ghi lại những tâm tư
tình cảm, những nhận thức về thế giới khách quan của con người bằng tiếng
mẹ đẻ thường là đầy đủ chuẩn xác hơn bằng tiếng nước ngoài. Với ưu thế của
thứ ngôn ngữ ghi âm tiếng mẹ đẻ, chữ Nôm trở thành công cụ đắc lực của
dòng văn học kết tinh được tinh hoa sáng tạo của tác gia văn học dân tộc thời
trung đại, điều mà văn học chữ Hán dẫu sao cũng là kẻ ngoại lai, bị hạn chế
rất nhiều. “Xã hội cũ, một cách không tự giác, đã đẩy văn học Nôm về đúng
phạm vi văn chương có tính nghệ thuật. Nó rất phong phú về chức năng.
Chẳng hạn: Chức năng giải trí, chức năng trào phúng, điều mà ở văn học
chữ Hán, phải nói là rất yếu” [92, 15]
Như các dân tộc khác, người Việt trước khi có chữ viết, đã có một kho tàng
văn hóa truyền khẩu súc tích, đa dạng. Đó là những câu chuyện kể, những
câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, những lời ru, tiếng hò v..v. ..Hẳn
nhiên là để ghi chép, sưu tầm, hiệu đính kho tàng văn hóa truyền khẩu này
thích hợp nhất vẫn là trực tiếp dùng chữ Nôm như quyển Ly hạng ca dao, ghi
chép 256 bài ca dao, quyển Nam Quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, gồm 27
mục ghi các bài ca dao tục ngữ, câu đố; quyển Nam ca tân truyện ghi lại các
bài hát cổ theo các điệu ca ở Huế v. v.. ..và một số những vở tuồng cổ, chèo
cổ như Văn Duyên diễn hí; Trương Viên diễn ca; Lưu Bình trò, v. v..
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 27
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nguyễn Danh Phiệt có lí khi cho rằng: “Về mặt ngôn ngữ văn tự, không chỉ
trong lĩnh vực văn học, trong sinh hoạt giao tế hàng ngày mà cả trong lĩnh
vực tôn giáo, chữ Hán đã không thỏa mãn được sinh hoạt tinh thần của
quảng đại nhân dân, không phù hợp với dân chúng”[35, 460].
Vì vậy, chữ Nôm xuất hiện và tồn tại như là sự bổ sung cần thiết cho chữ
Hán. Điều này chứng tỏ sự không đầy đủ của thứ ngôn ngữ vay mượn và nhu
cầu có một ngôn ngữ hoàn thiện và thống nhất trong lòng một xã hội đã và
đang độc lập.
1.3.3. Văn học chữ Nôm ra đời nhƣ một nhu cầu tự thân của nền văn
hóa đang khẳng định bản ngã
Con người hiện hữu trên thế giới vốn có bản tính là tò mò, hiếu kì, luôn
luôn quan sát, khám phá môi trường sống xung quanh cũng như chính bản
thân mình. Người Việt xa xưa đã chú ý tới sự khác biệt trong lời nói của mình
với lời nói của những người khác, sự khác biệt trong tiếng nói của làng mình
với tiếng nói của làng khác. Những gì là của mình do bố mẹ truyền dạy;
những gì là của làng mình, là cái chung của cả họ, của những người người
hàng xóm thân thích, tắt lửa tối đèn có nhau,... đương nhiên sẽ được mọi
người trân trọng, giữ gìn, bảo vệ. Khi dân tộc phát triển, người ta hướng tới
những cái chung cho toàn dân tộc, mà ngôn ngữ chính là linh hồn của dân
tộc. Vì thế, nhu cầu thôi thúc cần phải có chữ viết xuất phát từ nhu cầu đời
sống và khẳng định nét riêng của tiếng nói dân tộc. Trước khi chữ Nôm hình
thành, dân tộc đã có một nền văn hoá khả quan, phục vụ đắc lực cho việc
quản lí và điều hành xã hội, đã tạo ra một nền văn chương bác học với thơ,
phú, ca, từ,... Tuy nhiên, ngôn ngữ thành văn này (chữ Hán) là mô phỏng của
nước khác. Nhu cầu đặt ra là phải xây dựng một nền văn hoá dân tộc dựa trên
ngôn ngữ dân tộc. Chữ Nôm ra đời đánh dấu bước nhận thức mới sâu sắc hơn
về tiếng Việt.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 28
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nhờ có chữ Nôm, người ta mới có thể biết thêm về nhiều thói quen lời nói
khác nhau, cả những thói quen lời nói ở rất xa mình. Nhờ có chữ Nôm, người
ta mới có điều kiện quan sát tiếng Việt một cách hệ thống về nhiều mặt, chứ
không chỉ nhận thức rời rạc từng hiện tượng do thế hệ trước truyền lại“..sự
xuất hiện của chữ Nôm là một hiện tượng tự phát ở trong sinh hoạt văn hóa
của dân tộc chứ không phải là do bắt chước người khác mà nên” [1, 45]
Với chữ Nôm, ông cha ta chỉ có thể gửi gắm những quan sát, suy nghĩ của
mình về tiếng Việt qua sự cấu tạo của chữ Nôm, chứ bản thân chữ Nôm chưa
thể trở thành phương tiện để miêu tả các phương diện của tiếng Việt, mặc dù
nó đã góp phần hình thành nên một loạt từ điển đối chiếu Hán–Việt các loại.
Dẫu vậy, những nỗ lực đầu tiên để đánh dấu bước trưởng thành của ngôn ngữ
dân tộc cho phép chúng ta nhìn nhận cách ứng xử của người Việt (trong đó có
bộ máy hành chính quan phương) với chữ Nôm và văn học Nôm một cách
nghiêm túc hơn, tỉnh tảo hơn và khách quan công bằng hơn. Cách ứng xử ấy
nói lên vị thế của một nước nhỏ bên cạnh nước lớn Trung Hoa, nói lên khát
vọng khẳng định bản sắc của mình trong tâm thức bị người Trung Hoa coi
thường thành định kiến hàng ngàn năm lịch sử. Đọc lại lịch sử, mới thấy rằng
người Trung Quốc cổ xưa miệt thị nước man di chúng ta có lẽ đó là nguyên
nhân lớn nhất khiến người Việt khao khát khẳng định bản sắc. Sử cũ còn
chép về những chuyến đi sứ trong lịch sử mà Mạc Đĩnh Chi là một điển hình.
Tương truyền trong thời gian sang sứ nhà Nguyên, người Nguyên tỏ ý chê
tiếng nói của sứ bộ nước Nam ríu rít như chim hót (quýnh thiệt) mới đọc giễu
Mạc Đĩnh Chi một vế đối rằng: Quýnh tập chi đầu đàm Lỗ luận, tri chi vi tri
chi, bất tri vi bất tri, thị tri (có năm chữ tri). Nghĩa là: Chim trích tụ đầu
cành đọc sách Luận Ngữ, biết nói là biết, không biết nói là không biết, ấy là
biết. Câu này dùng toàn chữ trong sách Luận ngữ cái khó là ở nhiều từ chi và
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 29
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
tri được lắp lại và tạo nên âm điệu líu lo như chim chích hót vậy, vừa có ý
nhại lại tiếng nói của người Nam.
Mạc Đĩnh Chi cũng dùng một câu trong sách Mạnh Tử để đáp lại:
Oa minh trì thượng độc Châu thư lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng nhạc
lạc, thục lạc? (có 5 chữ lạc). Nghĩa: Ếch lên trên bờ ao, dọc sách Mạnh Tử,
vui cùng ít người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui?
Câu đối lại rất chỉnh, tỏ rõ sự hiểu biết thông minh kiến thức sách thánh hiền,
cũng lại có ý mỉa mai quan nhà Nguyên như ếch ộp ngồi trong ao không biết
gì. Người Nguyên biết là dại không dám chê bai gì nữa [47, 119]
Trong An Nam chí lược, Thư của Thượng thư Trương Lập Đạo hiệu Hiển
Khanh gửi cho thế tử An Nam có đoạn : “Duy có Nhật Nam là nước nhỏ bé,
bề ngoài thì trang tác phục tùng, mà trong lòng chưa cảm hóa, tuy làm chư
hầu, chịu lễ cống hiến, không hề thiếu mà chưa hết lòng trung thành” [56,
112]
Tống Thái Tông nối ngôi được năm năm, có ý muốn đánh lấy đất Giao Chỉ,
Vương Võ Xứng thư qua Giao Chỉ dụ rằng:“Dân của khanh ngẩng cổ mà
bay, thì ta có xe và ngựa, dân khanh dùng mũi mà uống thì ta có rượu thịt, để
bỏ tục mọi rợ của khanh. Dân khanh cắt tóc, thì ta có áo mũ, dân khanh nói
líu lo như chim, thì ta có thi thư, để dạy dỗ phong tục cho khanh…Khanh là
ngôi sao mờ, không ai biết đến, còn ta là ngôi sao tử vi đế tọa, các sao đều
phải chầu bậc chí tôn; đất khanh có giống yêu ma, người ta thấy quái dị mà
sợ, thì ta đúc cái đỉnh lớn khiến cho chúng không dám làm hại” [56, 136]
Một nền văn hóa đang còn ở thế tìm tòi phát hiện và lựa chọn để khai sinh
ra chính bản thân mình là một nền văn hóa đang hàm chứa sức phát triển
mạnh mẽ. Nền văn hóa ấy biết nhìn rộng ra xung quanh để tự nhận thức và
đánh giá bản thân mình. Sự so sánh trong tâm thế đối trọng xuất hiện như
một nhu cầu tự thân của một dân tộc có liêm sỉ và tự trọng. Vấn đề quốc sỉ là
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 30
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
nhân tố tất yếu đầu tiên thúc đẩy sự ra đời bản ngã. Một dân tộc, một nền văn
hóa chỉ thực sự đòi hỏi khẳng định bản ngã khi và chỉ khi có những thử thách
dữ dội. Những thử thách thời Lý Trần quá đủ để tạo cho dân tộc ý thức về
mình với đầy đủ những suy tư thời đại.
Có quyền lực trong tay nhưng mong manh và bất ổn nên các triều vua ngày đầu dựng nước luôn nỗ lực hết sức trong mặt trận quân sự, ngoại giao12.
Người Việt muốn chứng tỏ với Trung Quốc sự trưởng thành về mọi mặt của
đất nước vốn hàng nghìn năm “man di”, phụ thuộc, chưa bao giờ được coi là
trưởng thành. Để chứng minh mình không thua kém Trung Hoa, có lẽ tại một
vài thời điểm nào đó của lịch sử, không khó khăn gì nếu tìm dẫn chứng bằng
lĩnh vực quân sự, ngoại giao. Dư âm của cuộc chiến thắng quân Nam Hán,
chiến thắng Nguyên Mông vẫn làm hoan hỉ lòng người Nam và là điểm tựa
vững chãi cho lòng tự tôn dân tộc. Bang giao khéo léo của Vạn Hạnh, của
Khuông Việt, của Mạc Đĩnh Chi được người đời đều thêu dệt như những khả
năng bất tận của trí tuệ dân tộc. Nó có ý nghĩa như những nỗ lực khẳng định
dân tộc từ ngàn năm lịch sử. Lịch sử ngàn năm lệ thuộc là ngàn năm đau đớn
vì áp bức mọi bề, cho nên có cơ hội khẳng định, con người Đại Việt vươn lên
bằng sức mạnh và lòng kiên nhẫn mang tâm thức bị áp chế lâu dài. Sức mạnh
ấy dai dẳng và bền bỉ, có cơ hội là khẳng định và không dễ gì dập tắt ….. Dẫu
vậy, với văn hóa và văn học cần có thời gian nhất định cho sự chuẩn bị nội
tại. Chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý Trần như là những nỗ lực ban đầu,
dẫu bé nhỏ nhưng là manh nha mãnh liệt và dai dẳng của người Việt trong
tâm thế đối trọng với Trung Hoa.
Xem: Hoàng Thị Tuyết Mai, Từ góc nhìn bang giao với Trung Quốc thời Ngô – Đinh – Lê nghĩ về khát
vọng kiến tạo, phát triển những giá trị dân tộc của Khuông Việt đại sư , Bài dự hội thảo quốc tế “Quốc sư
Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập”, Hà Nội, tháng 3/2011
12
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 31
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
1.4. Tiểu kết
Nền văn hóa Việt Nam vừa được tạo nên bởi yếu tố nội sinh lại vừa có
yếu tố ngoại nhập trên cơ sở tiếp thu một cách có sáng tạo văn hóa nước
ngoài. Chữ Nôm và sự phát triển các tác phẩm Nôm biểu hiện rõ rệt sự lớn
mạnh về ý thức tinh thần quốc gia dân tộc. Ý thức này không tùy thuộc vào
sự biến đổi của vương triều chính thống mà nó có giá trị như những nỗ lực tự
thân. Lịch sử các triều đại có thể đổi thay, hưng phế nhưng nền văn học chữ
Nôm vẫn lớn mạnh theo thời gian. Sự phát triển của chữ Nôm đã đánh dấu
bước quan trọng trong tinh thần độc lập về văn tự của người Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu chữ Nôm và văn học Nôm không thể tách rời nó như một
hiện tượng biệt lập mà phải luôn đặt chữ Nôm và văn học Nôm trong mối liên
hệ với chữ Hán. Tâm thế đối trọng giữa một đất nước thiên triều và một nước
nghìn năm lệ thuộc, rồi phiên thuộc được soi chiếu để thấy được những nỗ
lực phi thường của một quốc gia tiểu nhược. Lịch sử chữ Nôm và văn học
Nôm thời Lý Trần là lịch sử của những nỗ lực không mệt mỏi của người Việt
nhằm khẳng định những giá trị văn hiến riêng có của mình. Xuất phát từ nhận
thức về nền văn học dân tộc thời kì dựng nước và kiến tạo những giá trị tinh
thần riêng có, chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý Trần đã và đang khẳng định
vị thế của mình một cách mãnh liệt.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 32
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
CHƢƠNG 2
NHỮNG DẤU ẤN TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC NÔM THỜI
LÝ -TRẦN (Qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng)
2.1. Các dữ liệu tiêu biểu về chữ Nôm và văn học Nôm trong chính sử
Khi đọc lại lịch sử thời Lý Trần, chúng tôi đã thống kê các chi tiết có nhắc
đến chữ Nôm và văn học Nôm từ đầu độc lập đến hết đời Hồ trong Việt sử
lược, ĐVSKTT, VSTGCM và thấy rằng: các chi tiết ở cả ba cuốn sử này cơ
bản ít sai lệch. Hơn nữa, Việt sử lược ghi vắn tắt hơn so với 2 cuốn còn lại, và
VSTGCM phần trước thời Nguyễn thì hoàn toàn dựa vào ĐVSKTT cho nên khi thống kê các số liệu chúng tôi lấy ĐVSKTT làm dữ liệu chính13. Căn cứ
vào số liệu thống kê này, chúng tôi nhận thấy rằng cả giai đoạn gần năm thế
kỉ chỉ được các sử gia nhắc đến vẻn vẹn trong 9 lần. Cả 9 lần được nhắc đến
đều ghi rất vắn tắt và chung chung. Chúng tôi có thể cụ thể hóa bằng bảng
thống kê sau:
SỐ
CHI TIẾT
TRANG
LIÊN QUAN
THÁI ĐỘ CỦA CÁC
THÁI ĐỘ CỦA CÁC SỬ GIA
ĐẾN
TRIỀU ĐẠI
CHỮ NÔM
VÀ VH
KÌ
TRUNG
KK
KÌ
TRUNG
KK
NÔM
THỊ
LẬP
THỊ
LẬP
ĐVSKTT
301, 316, 340-341,
410, 411, 412, 421,
9
424, 462-465.
0
02
07
0
07
02
Tỉ lê
%
0%
22,2%
77,8%
0%
77,8%
22,2%
13 Xem Phụ lục 1, trang 108
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 33
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Như vậy, nhìn lại 9 sự kiện lịch sử liên quan đến chữ Nôm và văn chương
Nôm nêu trên chúng ta dễ dàng nhận thấy: Trong tổng số lần ít ỏi được các sử
gia ghi lại, tuyệt nhiên không có sự kiện nào các triều đại chính thống quan
phương coi thường hay có chính sách cụ thể ngăn cản sự phát triển của chữ
Nôm 0/9 sự kiện ( chiếm 0%), ngược lại có tới 7/9 sự kiện được nhắc đến là
thái độ khuyến khích của các chính thể (chiếm 77, 8 %) và 2/9 sự kiện được
nhắc đến với thái độ trung lập, tuyệt nhiên không thấy có chính kiến hay thái
độ của các chính thể (22%)
Trước khi bàn đến thái độ của các sử gia đương thời tác giả luận văn xin
được rẽ ngang một chút. Chúng ta đều biết rằng, mỗi triều đại chuyên chế
phong kiến Trung Quốc, Việt Nam hay bất cứ một nước nào khác đều có một
người được chọn để ghi chép lịch sử gọi là sử gia. Sử gia thường là trí thức
tân tiến của thời đại, người không chỉ hiểu biết thông tuệ mà còn có khả năng
đánh giá sự kiện khách quan, có chính kiến, có quan điểm chuẩn mực của
thời đại. Đánh giá và ghi nhận của sử gia thường là công bằng và không tư lợi
hay yêu ghét cá nhân. Khi đã nói đến lịch sử, điều quan trọng đầu tiên phải
nhắc đến chính là tính trung thực và không thiên kiến. Những người chép sử
xưa nay thường là người cương trực, yêu sự thật tới mức sẵn sàng hi sinh
mạng sống của mình. Sử gia cũng phải là người chịu khó tìm tòi sách vở, thu
thập và chọn lựa thông tin đa chiều để chắt lọc lấy sự kiện mà mình định viết
nhằm lưu lại cho đời sau những gì là khách quan và công bằng nhất của lịch
sử.Cái quí giá nhất mà các sử gia mang lại cho đời sau đó chính là sự lưu
truyền văn hoá - một nền văn hoá có từ lâu đời, được hình thành, bảo vệ và
phát triển trên nền tảng hàng ngàn năm văn hiến. Lịch sử văn hoá của dân tộc
được dựng xây bởi trí tuệ và cả xương máu của lớp lớp các thế hệ cho nên
những gì mà các sử gia đặt bút viết là tài sản quí giá của nhiều thế hệ. Đặc
biệt trong thời đại mà văn – sử - triết bất phân thì sử gia là là tác giả của
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 34
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
“bách khoa toàn thư” của thời đại, vai trò của sử gia lớn hơn vai trò của văn
nhân và triết gia. Sử gia thường đưa vào những trang viết của mình những tri
thức bách khoa của thời đại mà họ đang sống.
Vậy các sử gia giai đoạn này bày tỏ thái độ như thế nào với chữ Nôm và
văn học Nôm? Nhìn lại những con số biết nói ở bảng trên, chúng tôi thu
được: Thái độ kì thị 0 (chiếm 0%), thái độ khuyến khích: 2/9 (chiếm 22,2%) thái độ trung tính: 7/9 (chiếm 77, 8 %)14
Qua khảo sát bảng trên chúng ta có thể kết luận:
+ Các triều đại hành chính quan phương từ Đinh – Lê – Lý – Trần – Hồ tuyệt
nhiên không có thái độ miệt thị chữ Nôm và văn học Nôm
+ Một số ông vua còn tỏ ra coi trọng và có những hành động khuyến khích
cho sự ra đời và tồn tại của chữ Nôm và văn học Nôm, chẳng hạn sự kiện số (1), (2), (3), (9)15…
+ Với một số sự kiện hành xử của các quan chức dưới quyền vua, như trường
hợp của Trần Nguyên Đán chỉ thấy các sử gia chép lại khách quan, không
thấy có chỉ dụ cấm đoán hoặc khen chê của các chính thể quan phương. Việc Nguyên Đán chấp nhận hai chàng rể Ứng Long và Hán Anh16 vốn là hai Nho
sĩ bình dân trong tình huống bất đắc dĩ. Sự kiện này được được ĐVSKTT
chép:
“Ứng Long nhân đùa bỡn lả lơi, làm thơ ca bằng quốc âm để trêu ghẹo
Thái…” [ 18, 411]
“Hán Anh cũng làm thơ quốc âm bắt chước Ứng Long. Khí Thái có mang,
Ứng Long bỏ trốn” [18, 411 ]
14 Xem Phụ lục 1, trang 108 15Xem Phụ lục 1, trang 108 16 Trần Nguyên Đán vốn là bậc đại thần cùng họ với vua, Làm quan tới Tư đồ dưới thời các vua Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông và Trần Phế Đế, tước Chương Túc quốc thượng hầu
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 35
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Việc làm thơ quốc âm trong trường hợp này được nhắc đến như là phương
tiện đắc dụng để hai văn nhân (Nho sĩ) Ứng Long và Hán Anh bày tỏ tình
cảm của mình với người đẹp – vốn là con gái của quí tộc tôn thất trong triều.
Vậy nhưng, sự “vi phạm nghiêm trọng” này cũng chỉ bị “phán xét” dưới góc
độ đẳng cấp xã hội chứ không hề bị triều đình và các sử gia chỉ trích vì dùng
thơ quốc âm. “Thượng hoàng nói: Bọn ấy lấy vợ con nhà phú quí, là kẻ dưới
mà phạm người trên, bỏ không dùng”[18, 411].
Có nghĩa là, trong triều đình cũng không có những định kiến nặng nề với
thơ quốc âm. Hơn nữa, thơ quốc âm được dùng như một thứ “chơi trội” của
Nho sinh nhiều chữ nghĩa. Làm thơ quốc âm có màu sắc như cách mà người tài tử17 (giai đoạn sau) “thị tài” hòng “khoe” những phẩm chất thiên phú nào
đó để “lấy lòng” người đẹp. Trong trường hợp trên hai Nho sinh đã tỏ được
tài năng và chiếm được tình yêu của hai tiểu thư lá ngọc cành vàng đến nỗi bị
kết tội “là kẻ dưới mà phạm người trên”. Thơ chữ Nôm trong trường hợp này
đã chứng tỏ sức mạnh riêng của nó và góp phần gián tiếp tạo ra những thay
đổi nhất định của ứng xử cung đình (mà Trần Nguyên Đán là người thực
hiện). Việc chấp nhận hai Nho sinh làm con rể của Trần Nguyên Đán bị các
bậc túc Nho phán xét khá khắt khe, nhưng đó lại là chuyện khác không nằm
trong giới hạn của luận văn. Tác giả luận văn xin được trở lại vấn đề này vào
dịp khác.
+ Bản thân các sử gia – những trí thức đương thời cũng tuyệt nhiên không có
thái độ coi thường chữ Nôm và văn học Nôm, mà ngược lại trong những
trường hợp cụ thể còn bày tỏ thái độ thú vị với tác dụng của thứ văn tự này, ví dụ sự kiện số (3), số (8)18
17 Xem Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học – Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 18 Xem Phụ lục số 2, trang 114
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 36
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Tuy nhiên, với số lượng thống kê trên chúng tôi mới cung cấp những dữ
liệu bề ngoài và ít nhiều chưa thực sự có tác dụng gây dựng niềm tin xác tín.
Chúng tôi chọn một vài chi tiết lịch sử và văn học cụ thể để kết nối suy tư
nhằm có những nhận định khách quan và thuyết phục hơn về phương thức
ứng xử của các chính thể quan phương thời kì dựng nước này.
2.1.2. Hàn Thuyên đuổi cá sấu bằng văn Nôm: huyền thoại và sự thật
Thời gian trôi đi, chữ Nôm dần dần có mặt trong đầy đủ những hoạt động
thường ngày của người Việt. Từ trong chiều sâu của tập quán sinh hoạt đến
những kinh nghiệm trong đời sống lao động đều được ghi chép lại bằng
những văn bản chữ Nôm. Hơn nữa, với những giá trị được hình thành từ lâu
trong kho tàng văn hoá dân gian, chữ Nôm lại có được một không gian hoạt
động lí tưởng nhất. Những kinh nghiệm làm nông, những làn điệu dân ca,
những câu ca dao của dân tộc đều có sự góp mặt của hệ thống văn bản Nôm.
Từ trong đời sống thường ngày cho tới những sáng tác của những học sĩ, các
văn bản Nôm cứ thế xuất hiện liên tục trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Người
Việt bên cạnh việc tuân theo những chính sách của Nhà nước bằng chữ Hán
thì đã làm quen với những tác phẩm văn học Nôm truyền miệng, những tác
phẩm ấy rất gần với cuộc sống thường ngày của họ. Sự phát triển, hoàn thiện
không ngừng của hệ thống chữ Nôm đã làm cho nền văn học nước nhà có
được một giai đoạn tiến lên hết sức phong phú. Điều đặc biệt là chữ Nôm rất
phù hợp với những tác phẩm thơ của người Việt.
Thế kỷ XIII được coi là mốc quan trọng của nền văn hoá Việt và cũng là mốc
phát triển của riêng chữ Nôm. Đến lúc này, tác phẩm thơ văn bằng chữ Nôm
đã đi vào cuộc sống như một phần không thể thiếu. Sự hoàn thiện tương đối
của chữ Nôm đã cho phép ghi chép những nhu cầu đời sống thường nhật và
sáng tác của các văn sĩ người Việt. Những tác phẩm được sáng tác bằng chữ
Nôm hay chuyển thể từ Hán qua Nôm trên nhiều phương diện khác nhau đã
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 37
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
liên tục ra đời. Lúc bấy giờ, nhiều học giả Trung Quốc có dịp tiếp xúc với
nền văn hoá Việt đã không khỏi ngạc nhiên về sự phát triển đó. Những thành
tựu trên phương diện văn hoá đó không chỉ gây nên sự ngạc nhiên cho các
nước láng giềng mà nó còn thu hút sự chú ý từ những nền văn minh từ xa tới.
Thế kỷ XIII đánh dấu sự khám phá của các nước phương Tây đối với khu vực
Viễn Đông đầy bí ẩn. Một trong những nhà thám hiểm của phương Tây đầu tiên đặt chân lên vùng Đông Á là Marco Polo19. Marco Polo dành phần lớn
khi đến Châu Á là ở Trung Quốc, nhưng ông cũng có dịp xuống phía Nam,
tức là Việt Nam bây giờ. Ở đây Marco đã phát hiện ra một khu vực văn hoá
cổ xưa với những nét văn hoá riêng biệt, với trình độ phát triển khá cao và
cũng rất phong phú. Trong những ghi chép về vùng đất phía Nam này, thái
độ của Marco Polo là khâm phục đối với một giai đoạn lịch sử của mảnh đất
này. Cùng với đó, những cuộc khám phá về sau của những nhà nghiên cứu
phương Tây khác đều có những nhận xét đồng tình với Marco. Với việc sở
hữu một bờ biển dài, Việt Nam luôn là điểm đến đầy hứa hẹn của những hải
trình dài ngày đầy bí ẩn. Trong những ghi chép của các nhà nghiên cứu tới
Việt Nam từ sau thế kỷ XIII, ngoài hệ thống chữ Hán, chữ Nôm luôn được họ
nhắc tới như một thứ chữ riêng của người Việt đã phát triển.
2.1.2.1.Huyền thoại về người đuổi cá sấu bằng văn Nôm
Tương truyền rằng khi ấy ở sông Hồng cá sấu nhiều vô kể, sự xuất hiện
của loài cá hung dữ đã gây biết bao khó khăn cho cuộc sống của cư dân nơi này. Nguyễn Thuyên20 là một học sĩ thời nhà Trần, ông có viết một bài văn
19 Xem http://e-cadao.com/Chunom/khoxacdinhthoidiem.htm 20 Nguyễn Thuyên không rõ năm sinh năm mất. Đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1247, thời Trần Nhân Tông (1279-1293). Thượng thư bộ Hình. Theo sử sách và gia phả họ Nguyễn ở Cao Bằng, thì Nguyễn Thuyên là người đầu tiên dùng chữ Nôm để chép gia phả họ Nguyễn, viết quốc sử và làm thơ phú quốc âm. Tác phẩm Phi sa tập của ông gồm nhiều bài thơ phú chữ Hán và cả chữ Nôm. Nhưng tất cả đều thất truyền. Tương truyền thơ chữ Nôm của Hàn Thuyên mở đầu cho việc kết hợp thơ ca dân gian người Việt với thể thức thơ Đường (có biến đổi về số chữ và niêm luật) để có một thể thơ mà người đời sau gọi là thể thơ “Hàn luật”.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 38
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nôm với tên gọi Văn tế cá sấu và đọc rồi đốt thả trôi trên sông Hồng. Cá sấu
dần không thấy nữa, vì vậy tên tuổi của ông từ đó được gắn liền với câu
chuyện có màu sắc huyền thoại này
Phi sa giản tập là tập thơ của Nguyễn Thuyên được nhiều người khen
ngợi. Theo lời của các học giả có dịp đọc, Phi sa giản tập viết về làng cảnh, thiên nhiên, đa phần là thơ cách luật21. Thơ Nôm theo kiểu Đường luật từ
Nguyễn Thuyên, về sau được nhiều người hưởng ứng làm theo như Nguyễn
Sĩ Cố, Chu Văn An, Hồ Quý Ly... Và vì ông là người đầu tiên dùng luật thơ
Đường làm thơ Nôm nên đời sau gọi thơ Nôm theo Đường luật là Hàn luật
(Hàn: Hàn Thuyên) là để ghi lại công trạng này.
Văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên hiện không có văn bản nhưng bài văn này
về sau được một số người nhắc đến vì ngoài việc sử dụng chữ Nôm khá thành
thạo còn có nội dung tràn đầy tinh thần tự tôn dân tộc. Vua Tự Đức từng làm
thơ ca ngợi:
Quốc ngữ văn chương thùy nhiễm hàn
Bất vong đôn bán bị nham khan
Lư giang di ngạc hà thần tốc
Bác đắc quân vương tứ tính Hàn
Dịch:
Quốc ngữ văn chương mới nhúng tay
Chẳng quên tiếng mẹ khá khen thay
Sông Lư đuổi sấu in Hàn Dũ
Nên được nhà vua đổi họ ngay. [61, 654]
Sự kiện có màu sắc huyền thoại về thi sĩ họ Hàn được nhắc tới như những
ý kiến được đưa ra bởi một tầm hiểu biết hạn hẹp đã bị lấn át bởi tầm hiểu
21 Xem Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thể ( 1993), Từ điển nhân vật lịch sử VN, NXB Văn hóa
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 39
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
biết có phần rộng hơn là niềm tin vào khả năng sáng tạo gần như vô hạn của
trí tưởng tượng loài người. KĐVSTGCM chép lại chuyện này và thêm lời
phê “Việc này (chỉ việc cá sấu) quyết nhiên không có, chẳng qua là do tính
hiếu kì mà phụ hội xằng xiên”[ 36, 511]
Giống như bao nhiêu câu chuyện có màu sắc huyền thoại khác, câu
chuyện đuổi cá sấu bằng văn Nôm vẫn gieo những hoài nghi ám ảnh những
thế hệ khác nhau với những bậc thức giả. Việc biên soạn lại những câu
chuyện có tinh chất huyền thoại tương tự trong ĐVSKTT có rất nhiều. Những
câu chuyện mang màu sắc huyền thoại biểu lộ những hệ ngữ nghĩa và hệ
thống văn hóa nổi bật, nó cho phép những thành viên trong cùng một khu vực
văn hóa có thể hiểu được nhau và có thể xoay sở với những điều chưa biết.
Chính xác hơn thì những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại này là những
văn bản có thể tạo ra sức cuốn hút lạ kì bởi tính hấp dẫn và những ước đoán
về khả năng khác nhau của sự thật lịch sử. Sự kiện Nguyễn Thuyên đẹp như
một biểu tượng, như một giấc mơ và giấc mơ ấy theo con người trong suốt
hành trình tiến hóa của mình.
Ở Việt Nam thế kỉ XIII vì chưa có văn tự riêng một cách chính thức, lại
bị ngoại bang thống trị lâu dài, nên chỉ có văn chương truyền miệng là phong
phú và do đó không có ý thức ghi chép lại các thần thoại. Đến khi nhà nho
bắt đầu ghi chép, xây dựng Quốc Sử họ đã có ý thức lịch sử, biết phân biệt
cái thực và cái không thực, cái tưởng tượng nên có lẽ đã loại bỏ không sưu
tầm ghi chép những chuyện thần thoại hoặc sửa chữa nó thành dã sử, lịch sử
nghĩa là đã lịch sử hóa thần thoại. Vì thế, nước ta còn rất ít thần thoại được
lưu truyền trong dân gian nhưng nhiều chi tiết có màu sắc huyền thoại trong
chính sử được ghi lại. Giai đoạn tiền sử của dân tộc mà chúng ta được biết
nhiều hơn cả không phải là giai đoạn thần thoại mà là giai đoạn truyền thuyết,
truyền kỳ, truyện cổ tích, ngụ ngôn… Ngày nay, người ta không còn tin
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 40
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
những câu chuyện thần thoại thuở xưa nhưng không phải vì thế mà không
còn thái độ huyền thoại cổ xưa. Nếu coi điểm cốt yếu trong thái độ tạo ra
huyền thoại là một niềm tin, có nghĩa như một đầu hàng của lý trí, và niềm
tin được coi như một sự thực hiển nhiên không dựa trên một nền tảng kiểm
chứng nào và tin với một thái độ tôn kính sùng bái, không thắc mắc, thì con
người lịch sử, con người hiện đại vẫn giữ thái độ tin có tính chất huyền thoại
như con người cổ sơ. Trong ĐVSKTT mức độ của những chi tiết mang màu
sắc huyền thoại có rất nhiều. Đối với chúng ta bây giờ, huyền thoại hay thần
thoại là một câu chuyện, một lời nói huyền hoặc, hão huyền và có tác dụng
huyền diệu người khác. Huyền thoại là cái không thật, hoang đường, bịa đặt,
tưởng tượng. Nhưng đối với người sơ khai, huyền thoại là chân lý, sự thật, và
họ tin như vậy.
Hơn nữa, chuyện Hàn Thuyên đuổi ngặc ngư bằng văn Nôm không hẳn là
huyền thoại mà là câu chuyện lịch sử được ghi lại với niềm tin huyền thoại.
Người xưa đã huyền thoại hóa một chi tiết của lịch sử, làm cho nó lung linh,
huyền ảo và có lẽ vì vậy nó được nhớ lâu hơn, nó thu hút nhiều người quan
tâm hơn và vì vậy nó cũng gợi những suy tư nhiều hơn. Nhưng, niềm tin ngây
thơ ấy không theo con người được lâu, trước sau nó vẫn cần phải xem xét lại
để bóc tách những lớp sự thật khác nhau như một nhu cầu tất yếu phải vậy
của con người khi đã đủ sức trưởng thành.
2.1.2.2. …Và sự thật đằng sau câu chuyện có màu sắc huyền thoại
Nguyễn Thuyên là một người có lí lịch rõ ràng. Ông vốn họ Nguyễn,
người Thanh Lâm (nay là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương), đậu Thái học
sinh, làm quan đời vua Trần Thái Tông, không rõ năm sinh và năm mất. Năm
1282, dưới thời trị vì của hoàng đế Trần Nhân Tông. Nguyễn Thuyên làm
quan tới chức Hình Bộ Thượng Thư. Sử gia nước ngoài A.B Pôliacốp cũng
ghi nhận về ông: “Trên cơ sở chữ tượng hình Trung Quốc, hệ thống chữ viết
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 41
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
dân tộc – “chữ Nôm” được phổ biến rộng rãi. Một trong những nhà thơ chữ
Nôm tiêu biểu nhất thời gian này là Nguyễn Thuyên” [7, 204]
Dù là một câu chuyện đầy màu sắc hoang đường, song nhân vật Hàn
Thuyên gắn với chữ Nôm thì liên tục được nhắc đến trong những trường hợp
khác nhau. Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, Kỉ nhà Trần viết: “Bấy giờ
(năm 1282) Có cá sấu đến sông Lô. Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn
Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi mất.Vua cho việc này
giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm
thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ
đấy”. [18, 301]. Và chú thích: Hàn Dũ – Danh sĩ đời Đường ở Trung Quốc,
làm quan ở Triều Châu, ở đấy có nhiều cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn vứt
xuông nước, cá sấu bỏ đi.
Bàn luận về đoạn sử trên Nguyễn Khắc Thuần viết:
“Về sự chuẩn xác của đoạn văn này thì chúng ta có thể ngờ vực, nhưng, việc
Nguyễn Thuyên được Trần Nhân Tông ban cho họ Hàn là điều có thật và thơ
chữ Nôm kể từ đó được gọi là thơ Hàn luật cũng là điều hoàn toàn có thật”.
[64, 451]
Chuyện đuổi cá sấu bằng văn Nôm mang tính huyền thoại nhưng Nguyễn
Thuyên là nhân vật có thật, chữ Nôm lúc này cũng đã hiện diện trong đời
sống. Thông thường, những câu chuyện lịch sử có tính chất huyền thoại được
xây dựng trên cơ sở một sự thật lịch sử nào đó có tác động với đất nước, với
xã hội. Người cùng thời dựa vào những công trạng, hoặc những sự kiện có
thật nhưng điển hình nào đó để lí tưởng hóa, thêu dệt và dựng xây thêm để
thỏa mãn khát vọng hoặc để lí giải một cách “hợp lí” theo sở nguyện của đại
đa số người trong thời đại đó và nhiều thế hệ sau đó. Vả lại, đọc lại ĐVSKTT
chúng ta thấy những sự kiện mang màu sắc huyền thoại có rất nhiều: chuyện
sư đạt đạo khi chết hỏa thiêu thường nhặt được xá lị, chuyện thái sư Lê Văn
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 42
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Thịnh nhờ học được phép biến hóa của gia nô mà hóa hổ định ăn thịt vua ở
hồ Dâm Đàm, chuyện Ỷ Lan phu nhân nhận mệnh trời trong lúc gặp vua có
đám mây che, chuyện sư Huyền Quang niệm chú gọi gió hô mưa để chứng
minh sự trong sạch của mình vốn bị nàng Điểm Bích bôi nhọ …..Đằng sau
những viên xá lị hoang đường là thái độ tôn vinh vai trò của các nhà sư trong
thời kì Phật giáo là quốc giáo. Đằng sau lớp sương huyền ảo của việc thái sư
Lê Văn Thịnh hóa hổ là mưu đồ trừ khử kẻ có tài để bảo vệ vương quyền và
ngôi báu của đấng chí tôn hay là âm mưu đen tối của những kẻ đương chức
trong triều? Đằng sau những đám mây làm lọng che chắn cho Ỷ Lan là sự
nghiệp lớn lao và vai trò có thật của bà với vương triều Lý. Và đằng sau sự
biến gió, đổi mưa mà Huyền Quang là người tạo tác là khí tiết cứng cỏi và sự
chế ngự dục vọng phi thường của một nhà sư theo đúng nghĩa đen…Vậy
đằng sau sự linh diệu của Văn tế cá sấu mà Nguyễn Thuyên viết nhằm đuổi
“ngặc ngư” là gì? Phải chăng là một trong những sự thật lịch sử, rằng: lúc ấy
chữ Nôm đã được sử dụng để làm thơ văn và nó có sức mạnh nhất định đối
với xã hội. Hay là dụng ý chính trị của đấng chí tôn? Trần Ngọc Vương cho
rằng:
“Bằng hàng loạt những hoạt động đối nội, hoàng đế Trần Nhân Tông rất
nhanh chóng chứng tỏ khả năng cố kết nhân tâm, kiên nhẫn “đãi cát tìm
vàng” để tận dụng nhân tài, trước hết phục vụ cho sự nghiệp chống ngoại
xâm mà chỉ tiên liệu sơ sài cũng biết sẽ vô cùng gian nan ấy. Điển hình cho
loại hoạt động này là các sự kiện : sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
chiêu dụ trịnh Giác Mật thổ tù ở đạo Đà Giang (1280), bày tỏ “thần uy”
bằng cách sai Nguyễn Thuyên làm “văn đuổi cá sấu” ở sông Hồng
(1282)…”[66, 412]
Vô hình chung, huyền thoại về Hàn Thuyên mở cho chúng ta cánh cửa (dẫu
chẳng rộng) nhưng đủ để nhìn lại quá khứ và tạo nên những cơ những cơ sở
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 43
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
nhất định trong việc gây dựng niềm tin. Tám thế kỉ đã qua, sự kiện cũ chỉ
được ghi lại vài dòng lạnh lùng trên trang giấy, nhưng kí ức tiềm ẩn của các
bậc thức giả vẫn thao thức, trở trăn cho những gì thuộc về bản ngã văn hóa
dân tộc. Dẫu sao những sự kiện có mầu sắc huyền thoại vẫn là những thông
điệp về sự thật nào đó (sự thật này đôi khi không phải là mục đích chính của
việc lưu truyền sự kiện có màu sắc huyền thoại). Nó vai trò như là cái nền, là
điểm tựa để người ta gây dựng niềm tin. Việc bài văn tế chữ Nôm nằm trên
mảnh giấy được đọc lên và sau đó thả xuống biển khiến cá sấu bỏ đi không
có cơ sở khoa học và gây nghi hoặc cho các thế hệ bạn đọc ĐVSKTT, nhưng
sự tồn tại của chữ Nôm thì có những căn cứ nhất định bởi lẽ Văn tế cá sấu
không phải là dữ kiện duy nhất đời Trần chứng minh sự tồn tại của văn Nôm
và phong trào sáng tác thơ Nôm. Bên cạnh dữ kiện này chúng ta có hệ thống
chữ Nôm bằng hình hài, bằng số lượng chữ và bằng tác phẩm văn học cụ thể.
Hơn nữa, có những câu chuyện đời thường liên quan đến chữ Nôm và diễn
Nôm các văn bản hành chính đương thời khiến chúng ta có thể chiêm nghiệm
sâu hơn về khả năng ngôn ngữ dân tộc ở một thời điểm cách xa trong quá
khứ. Quá khứ xa nhưng không ngủ yên bởi nó là những nền tảng nhiều mặt
kiến tạo nên hiện tại và tương lai sáng sủa của loài người. Chúng ta biết rằng,
truyền thống, nhất là truyền thống văn hóa, không được tạo ra một lần cho tất
cả. Cái hiện tại qua chọn lọc đào thải, sẽ gửi một phần số phận của nó vào
tương lai, làm nên truyền thống cũng phải được hiểu như một quá trình. Quá
trình ấy là nỗ lực lâu dài và bền bỉ của nhiều thế hệ người, nhiều trí tuệ.
Đọc kĩ lại, trong năm dòng sử ngắn ngủi chúng ta thấy có hai lần xuất
hiện bóng dáng của chính thể quan phương. Lần thứ nhất “Vua sai thượng
thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông…”, nghĩa là việc
sáng tác thơ và làm thơ là do ý chí của đấng chí tôn, là chủ ý của chính thể
hành chính. Việc sử dụng chữ Nôm và sáng tác thơ Nôm lúc này hẳn là phổ
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 44
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
biến lắm và có tác dụng lớn lắm đối với vương quyền và thần quyền nên
những sự kiện lớn và gây lo lắng cho nhiều người mới phải viện đến thơ Nôm
(chứ không phải thơ chữ Hán). Hơn nữa, màu sắc huyền bí của sự kiện cùng
với sự linh diệu của thứ văn “độc” này dường như có sự trợ giúp của đấng
siêu nhiên nào đấy. Với mục đích chính trị, bản thân vua Trần Nhân Tông
không chỉ coi trọng và đề cao chữ Nôm mà còn “cấp” cho thứ chữ này những
thuộc tính và quyền năng siêu phàm có màu sắc tâm linh nhằm củng cố
vương quyền.
Khi cá sấu bỏ đi, lần thứ hai vua lại bày tỏ uy thế bằng cách ban cho thi nhân
họ Hàn – Họ của một danh sĩ đời Đường ở Trung Quốc. Vinh danh người
sáng tác bằng chữ Nôm là một cách khuyến khích thứ chữ dân tộc một cách
khéo léo và rõ ràng nhất. Và đó cũng là cách ban thưởng của một nước có
văn hiến, hiểu Thi Thư, biết Lễ Nhạc giống như trong sử chính thống của
thiên triều (Trung Quốc). Vả chăng, sự kiện này có tính “công thức” giống
như trong điển chế, nó rất phù hợp với tư duy hồi cổ của các nước nằm trong
khu vực đồng văn, luôn lấy quá khứ làm qui chuẩn cho mọi hành xử trong
thiên hạ. Màu sắc cổ kính và chất Đông phương của sự kiện này có giá trị văn
hóa khu vực rõ nét. Nó như một minh họa về cách tư duy kiểu phương Đông:
tất thảy các sao đều phải chầu về ngôi sao tử vi đế tọa - bậc chí tôn (Trung
Quốc). Nó cũng là cách khẳng định nước Nam chẳng thua kém gì Trung
Quốc về văn hiến. Như thế, với Trần Nhân Tông chữ Nôm không những
được coi trọng mà nó vừa là sản phẩm sáng tạo riêng có của nước Nam, là
sản phẩm tuyệt vời của trí tuệ dân tộc vừa nằm trong “mạch” chung của ngôn
ngữ Đông phương mà Trung Quốc luôn là cái nôi kiến tạo.
Trong những tình huống đặc biệt chữ Nôm tỏ ra đắc dụng, vậy trong đời
thường các vua Trần ứng xử ra sao với chữ Nôm? Xin hãy cùng tác giả luận
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 45
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
văn trở lại với những chi tiết đời thường của quá khứ vời xa nhưng không
ngủ yên ấy.
2.1.2. Tả phụ Lê Tòng Giáo và Hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên
– trò đùa ác hay là thực tại “đồng sàng dị mộng” chốn tôn nghiêm? Có một sự kiện đặc biệt - sự kiện số (2)22 đời Trần, triều vua Trần Nhân
Tông: Sau khi đại thắng quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông tuyên cáo cho
dân chúng biết, hãy lật lại ĐVSKTT:
( Khoảng năm Mậu Tí, năm thứ 4, 1288)
“Vua bảo ty Hành khiển giao hảo với Viện Hàn lâm. Lệ cũ, phàm có tuyên ra
lời nói của vua thì viện Hàn lâm đưa trước bản thảo tờ chiếu cho ty Hành
khiển để học tập trước, đến khi tuyên đọc thì giảng cả âm nghĩa cho dân
thường dễ hiểu, vì là chức hành khiển chỉ dùng cho hoạn quan thôi. Bấy giờ
Lê Tòng Giáo làm tả phụ, cùng với Hàn lâm phụng chỉ là Đinh Củng Viên
vốn không thích nhau. Ngày tuyên đọc lời nói của vua đã đến rồi mà Củng
Viên cố ý không đưa cho bản thảo.Tòng Giáo đòi nhiều lần cũng không đưa.
Ngày hôm ấy sa giá sắp ra ngoài cung, Củng Viên mới đưa cho bản thảo.
Tòng Giáo tuyên đọc lời chiếu về việc đại xá, không hiểu âm nghĩa là gì nên
đứng im. Vua gọi Củng Viên đứng đằng sau nhắc bảo âm nghĩa Tòng Giáo
có ý thẹn. Củng Viên chỉ bảo tiếng càng to mà tiếng đọc của Tòng Giáo lại bé
đi, trong triều chỉ nghe thấy tiếng của Củng Viên thôi. Khi vua trở về trong
nội, gọi Tòng Giáo bảo rằng: Củng Viên là người văn học, ngươi là hoạn
quan, sao lại bất hòa nhau đến thế? Ngươi làm lưu thủ Thiên Trường, tôm
đất, quýt vàng tặng biếu đi lại với nhau, có hại gì đâu? Từ đấy Tòng Giáo và
Củng Viên giao hảo với nhau lại thân mật lắm.” [18, 316]
Sự kiện trên nói lên điều gì ?
2.1.2.1. Ứng xử bằng “lệ” – sự lỏng lẻo của vương pháp
22 Xem Phụ lục số 1, trang 108
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 46
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Trong ĐVSKTT và KĐVSTGCM có một số sinh hoạt của triều đình
được nhắc đến bắt đầu bằng từ “lệ cũ” “lệ thường” “thành lệ” “chế độ
cũ”…, như việc tiến cống Trung Hoa, việc nhà vua xem bơi chải, cày ruộng
tịch điển, hội thề Đồng Cổ, xử tội đánh bạc….chẳng hạn:
“Bơi thuyền thi ở sông Phú Lương, nhà vua ngự điện Hàm Quang để xem.
Suốt đời nhà Lý, việc xem bơi trải trở thành lệ thường” [36, 289]
“Lệ cũ, việc cống sính chưa lần nào đi đủ ba sứ thần; kì này nhà vua dùng
Trung vệ và đại phu Doãn Tử Tư làm đại sứ…”[36, 413]
“….Viên tể tướng và trăm quan tiến triều xong rồi, đều phải sửa soan đủ đội
ngũ, nghi trượng, người ngựa đi hộ vệ, kéo ra cửa phía Tây kinh thành, đến
đền thờ thần Đồng Cổ, để uống máu ăn thề; Viên trung thư kiểm chính tuyên
đọc thệ thư rằng: Người làm tôi phải hết lòng trung với vua, người làm quan
phải giữ phẩm hạnh trong trắng, nếu ai trái lời thề này, xin thần linh làm hại
người ấy”. Tuyên đọc xong, viên tể tướng đóng cửa đền lại, kiểm điểm trăm
quan, người nào vắng mặt phạt năm quan tiền. Việc này là theo thể lệ cũ của
triều Lý. Từ năm nay trở đi năm nào cũng cử hành lễ này. Ngày hôm ấy con
trai, con gái kéo nhau ra xem kín cả hai bên đường, họ nhận thấy đây là việc
tốt” [36, 447]
“Chế độ cũ nhà Trần, các quan viên đánh bạc phải xử vào tội nặng. Nguyễn
Hưng cố ý phạm pháp, nên nhà vua bắt đánh bằng trượng cho đến chết”[36,
Các lệ vốn là sản phẩm văn hóa của các nước trong khu vực văn hóa
551]
nông nghiệp, lấy chu kì mùa vụ làm kim chỉ nam cho những hành xử văn hóa
của mình. Cách ứng xử theo lệ có tính “công thức” giống như trong điển chế,
nó rất phù hợp với tư duy hồi cổ của các nước nằm trong khu vực đồng văn:
tất thảy các qui chuẩn của đời sống đều lấy quá khứ làm điểm tựa. Màu sắc
cổ kính và chất Đông phương của nó có giá trị văn hóa khu vực rõ nét. Nó
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 47
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
như một minh chứng về sự tồn tại của một nhà nước có đủ tự tin và bản lĩnh
trong hệ thống các nước đồng văn mà Trung Quốc luôn được coi là “bậc chí
tôn” quần tụ các “sao” (nước) chầu về.
Từ “lệ cũ” và “ phàm” cho thấy hành động này có tính chất lặp đi lặp
lại theo chu kì thời gian nhất định và tồn tại nhiều đời, vừa có tính lịch đại
vừa có qui mô phổ quát. Lệ cũ nghĩa là một việc lặp đi lặp lại ở các đời vua,
các triều đại, một việc quen thuộc và có nề nếp được tất cả mọi người biết
đến như những “qui ước” ngầm. Lệ cũng gợi hơi hướng của quan niệm nhà
Phật bao chứa trong nó những tín hiệu đắp đổi, tuần hoàn. Lệ như sự “ước
hẹn” của thiên nhiên và con người trong vòng quay bất tận của trời đất, vũ
trụ. Lệ là cách ứng xử với tạo hóa, với “thiên mệnh” một cách hợp “đạo” mà
con người đã thoát ra khỏi trạng thái “man di” khôn ngoan xuôi thuận. Hơn
thế, một đất nước vốn ngàn năm bị phụ thuộc nay có chính quyền và ứng xử
bằng lệ tức là đã có những kiểm chứng lịch sử và kinh nghiệm để đủ kiêu
hãnh cho sự tồn tại của mình. Cách ứng xử ấy bao hàm trong nó niềm tự hào
về bề dày văn hóa nhất định, những chế ước qui chuẩn nhất định cho tuyệt
đại đa số người dân. Hay nói cách khác, đó là cách của một nước có văn hiến,
hiểu cổ kim sau trước, ít nhiều có truyền thống. Một nước có đủ cơ sở để tự
hào, tự tin về sự hiện hữu của mình bên cạnh ngôi sao tử vi đế tọa: Trung
Quốc.
Tuy nhiên, hành xử theo lệ là thói quen làm việc ở những giai đoạn mà
mà nền pháp luật còn dựa vào tình và chưa chặt chẽ, đôi khi có phần tùy tiện.
Ty hành khiển và Viện Hàn Lâm vốn là hai “cơ quan” đắc lực giúp việc cho
thiên tử. Mối liên hệ giữa hai tổ chức này đời Trần chưa có qui định chặt chẽ,
sợi dây liên kết là lời vua (vua bảo) và thói quen (lệ cũ), nghĩa là pháp luật
vẫn còn lỏng lẻo và sơ khai. Trong loại quan hệ đặc biệt liên quan đến “quốc
thái dân an” của thiên triều này, lời “tư vấn” của vua Trần Nhân Tông tuyệt
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 48
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
nhiên không có hơi hướng quan phương, có chăng đó là sự chân tình của một
bề trên với kẻ dưới, là tư cách của người có kinh nghiệm ứng xử với kẻ còn
“non nớt” hơn mình. Tôm đất (con rươi), quýt vàng - những sản vật địa
phương là chiếc cầu nối cho sự hòa hảo, cũng vậy, hành xử theo lệ là thói
quen lên ngôi nơi quyền lực tối cao của một chính thể hành chính.
Năm 1288 đời Trần Nhân Tông vẫn sử dụng lệ này có nghĩa là nó phải có
trước đó rất lâu. Nhu cầu diễn Nôm các văn bản bằng chữ Hán đời Trần Nhân
Tông (một thời kì thịnh trị của nước Việt có rất nhiều người tài) là vô cùng
cần thiết. Vậy với các triều đại không thịnh trị (kinh tế, văn hóa, giáo dục..)
bằng triều đại Trần Nhân Tông thì có lẽ nhu cầu ấy còn lớn hơn chăng? Và
đoạn sử cho thấy việc diễn Nôm các văn bản hành chính của nhà nước đối
với nhân dân là hiển nhiên và mặc nhiên được nhà vua, các quan và thần dân
thừa nhận.
Thói quen trong sinh hoạt chốn thâm cung nói lên văn hóa và trình độ dân
trí của trí thức thời đại. Thói quen ấy cũng hé lộ những bất cập của mô hình
nhà nước phong kiến tập quyền, hàng ngũ quí tộc tôn thất thật sự có khả năng
không nhiều, hơn nữa lại nắm giữ những trọng trách đặc biệt về mặt quân sự.
Hàng ngũ hoạn quan có thể tin cậy được về lòng trung thành và yên tâm về
mặt duy trì dòng giống tôn thất một cách tuyệt đối nhưng lại là đội ngũ ngu
dốt và ít chữ. Có lẽ, những bất cập này là nguyên nhân thúc đẩy mạnh hơn
nhu cầu mở các khoa thi và tuyển các trí thức nho học cho bộ máy hành chính
của triều đình. Nhưng càng mở rộng thi cử thì chữ Hán lại càng chứng tỏ vai
trò quan trọng của nó, và với những người không phải sĩ tử (không biết chữ )
trong triều thì lại càng cần phải giảng giải nghĩa lí.
Đời Trần trở về trước chức hành khiển – một chức quan chuyên môn
thuộc viện, sảnh, tuy không phải là các chức có quyền lãnh đạo (vốn chỉ dành
cho hoạn) nhưng thường là hoàng thân quốc thích mới được đảm nhiệm. Chỉ
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 49
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
khi có bước chân rụt rè của người học trò Phạm Ứng Mộng23 thì người có văn học mới được giữ quyền bính, bước tiếp theo là Đoàn Nhữ Hài24 ….rõ ràng,
chức quan này ban đầu không phải là dành cho Nho sĩ. Và, cũng có nghĩa là
người giữ chức này cũng ít có hiểu biết và trình độ, nhưng so với mặt bằng
dân trí thì họ là những phần tử hiểu biết hơn. Khoảng cách giữa chữ Hán và
dân chúng, vì thế, ở tầm rất xa và đại đa số nhân dân không hiểu được. “Về
ngôn ngữ, văn tự sử dụng trong giáo dục khoa cử, các vua thời Lý Trần đã sử
dụng chữ Hán thực chất là một ngoại ngữ”[35, 158]. Sự nửa vời về ngôn ngữ
cũng có nghĩa là nhu cầu dùng ngôn ngữ dân tộc là một thực tế đương nhiên
chốn thâm cung.
Điều gì làm cho các loại lệ trên có sức sống lâu bền vậy? Phải chăng do
tính chất nửa vời của nhà nước buổi sơ khai và sự chưa hoàn thiện của vương
pháp? Sự nửa vời trong cách ứng xử phản ánh sự chuyển hóa mạnh trong cơ
tầng, cấu trúc cũng như biểu hiện và hành vi văn hóa ghi dấu thời kỳ mà cùng 23 Vua Trần Thái Tông ban chức cho Phạm Ứng Mộng vào năm 1254. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 20a) có đoạn: “Trước đó, vua nằm mơ thấy mình đi chơi, gặp thần nhân rồi được thần nhân chỉ cho một người rồi bảo « Người ấy có thể làm chức hành khiển được ». Tỉnh dậy, vua chẳng biết người nào. Một hôm tan chầu, vua ngự ra ngoài thành, thấy người con trai ngồi học ở cửa nam thành, hình dáng giống hệt người trong mộng. Vua gọi đến hỏi, người đó ứng đối chẳng khác gì những lời trong mộng. Vua muốn trao cho chức hành khiển nhưng thấy khó, mới cho 400 quan tiền bảo tự hoạn, ban tên Ứng Mộng. Sau này thăng dần đến chức hành khiển” [18, tr 282] 24 Vua uống rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội. Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua hỏi: "Sao ngươi lại ở đây?". Nhữ Hài vội vàng lạy rạp xuống đất tâu: "Thần vì mãi học, đi lỡ ra đây". Vua bèn dẫn Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo: "Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu". Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi ngay, cho Nhữ Hài theo mình. Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì. Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng hoàng hỏi: "Người ở trong sân có còn đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo: "Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?". Vua rập đầu tạ tội. Thượng hoàng hỏi: "Ai soạn biểu cho ngươi". Vua thưa: "Đó là thư sinh Đoàn Nhữ Hài". Thượng hoàng bèn gọi Nhữ Hài vào và bảo: "Bài biểu ngươi soạn, rất hợp lòng trẫm". Rồi xuống chiếu cho Quan gia lại vẫn làm vua; các quan về triều như cũ. Vua từ Thiên Trường trở về [Kinh], phong Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán [18, tr. 328]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 50
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
với dân tộc, nền văn hóa Đại Việt phải vận động và có ý thức đối chọi với
nhiều thách thức gay gắt từ môi trường chính trị và văn hóa khu vực..
2.1.2.2. Thói quen “giảng cả âm nghĩa” chữ Hán – sự diệu vợi của
ngôn ngữ vay mượn
Chính nhu cầu diễn Nôm các văn bản hành chính quan phương của triều
vua Trần Nhân Tông chứng tỏ chữ Hán dù ở chốn cung đình – nơi tập trung
những trí thức hàng đầu của đất nước cũng không được lĩnh hội một cách tự
thân, nó vẫn cần có một trung gian mới có thể đến được với một bộ phận
chức sắc của triều đình. Có khâu trung gian nghĩa là các quan chức địa
phương và dân cũng không nhất thiết phải biết chữ Hán. Chữ Hán là cái gì xa
vời, bí hiểm và “đẳng cấp”. Có nghĩa là, nó tồn tại đấy, nhưng xa lạ và nhiêu
khê, cầu kì và sách vở, nó là một loại hàng rào không dễ dàng lĩnh hội để
hiểu (chứ không phải để luận bàn hay đối thoại). Lê Tòng Giáo đảm nhận
chức tả phụ nhưng phải lệ thuộc vào Đinh Củng Viên vì Đinh Củng Viên mới
là văn thần, mới có chữ nghĩa. Ngay trong nội bộ triều đình mà có sự phân
hóa rất rõ về mức độ tiếp nhận chữ Hán. Hơn nữa người trực tiếp làm công
việc “trung gian” ngôn ngữ cũng không giỏi ngôn ngữ Hán, có nghĩa là ở
triều đình chức này không thể chọn được người giỏi hơn trong đám quan
hoạn? Hay là chí ít là vì lí do gì đó người giỏi hơn phải làm việc khác quan
trọng hơn, cần đến chữ nghĩa hơn? Sử thần Ngô Sĩ Liên phê rằng “Vua bảo
bề tôi giao hảo nhau để cùng giúp nên việc của nhà vua, có thể thấy được sự
trung hậu của nhà Trần. Song đem kẻ hoạn quan không biết chữ làm chức
hành khiển là không phải” [18, 316]
Sự phân tầng trong hàng quan chức cũng đồng nghĩa với sự phân tầng về
vốn liếng chữ Hán. Những người giỏi chữ nghĩa như Đinh Củng Viên được
gọi là người văn học có lẽ không nhiều. Chi tiết ấy đủ giúp chúng ta hình
dung chữ Hán chiếm vai trò như thế nào ở chốn cung đình. Và với dân chúng,
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 51
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
tầng lớp lĩnh hội các chính sách (vốn viết bằng chữ Hán) từ phía triều đình
(mà Lê Tòng Giáo là đầu mối) thì khoảng cách của nó còn xa hơn rất nhiều.
Dù không có thêm nguồn thông tin nào khác trong chính sử nhắc lại chuyện
này, nhưng như thế cũng đủ cung cấp cho các thế hệ đời sau nhận thức rằng:
triều đại của ta xưa dùng chữ Hán cũng “bán chuyên nghiệp”. Chữ Hán vẫn
chỉ coi là ngoại ngữ với triều đình và dân chúng.
Không phải ai cũng biết và giỏi chữ Hán. Người làm việc trực tiếp với dân
còn vậy thì những bộ phận khác: quan lại, cung phi, nô bộc…liệu có biết và
giỏi chữ Hán không? Rõ ràng chữ Hán không phải là ngôn ngữ bạch thoại mà
chỉ là ngôn ngữ văn ngôn - thứ văn ngôn mà người ta dùng cách đó vài thế kỉ.
Có nghĩa là chỉ sau 1 - 2 thế kỉ sau độc lập chữ Hán tồn tại ở nước ta chỉ là
một bán tử ngữ.
Đã là tử ngữ thì nó không có mối liên hệ với ngôn ngữ đang thay đổi
hàng ngày ở Trung Quốc, có nghĩa là nó ngày càng xa với ngôn ngữ Trung
Quốc và cũng không vì thế mà nó gần hơn với dân chúng. Ngôn ngữ đời
sống vốn phong phú và phát triển không ngừng. Chữ Hán tồn tại như một
phần cần thiết song không phổ biến. Dẫu vậy, chế độ thi cử và vai trò quan
trọng của hệ tư tưởng vẫn khẳng định vai trò của chữ Hán và hiện tượng
“đồng sàng dị mộng” về ngôn ngữ vẫn tồn tại mặc nhiên.
2.1.2.3. “Tôm đất, quýt vàng tặng biếu” - giải pháp tạm bợ cho hiện
tượng “đồng sàng dị mộng” về ngôn ngữ
Giải pháp của vua Trần Nhân Tông bộc lộ cách nhìn nhận và quan điểm
dung hòa của triều đình trong việc sử dụng ngôn ngữ: dùng cả hai ngôn ngữ
như một lẽ tất nhiên phải vậy.
Sách K ĐVSTGCM có lời phê của Tự Đức: “Ông vua này có thể gọ là “thiên
tử hòa giải” [36, 538].
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 52
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Cách ca tụng nêu trên là điểm nhìn của lối hành xử phương Đông: trọng tình
hơn trọng lí, yêu chuộng sự bình ổn hơn những đổi thay, bản thân lối hành xử
này bao chứa trong lòng nó những ưu điểm và hạn chế mang tính lịch sử và
tính khu vực. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa cho tình trạng lâu dài cho
hiện tượng song ngữ của văn học trung đại Việt Nam.
Cách diễn giải văn bản hành chính bằng chữ Hán dù sao cũng ít nhiều không
còn như nguyên tác nữa. Hiện tượng song ngữ sẽ kéo theo hiện tượng mạnh
lên của ngôn ngữ dân tộc nhưng ở Việt Nam không mất dần vai trò của ngôn
ngữ vay mượn.
Trong mối quan hệ hai chiều Hán - Việt, Việt - Hán, chủ yếu là văn học Nôm
tiếp thu tiếng Hán, Việt hoá, thuần dưỡng từ Hán để làm phong phú tiếng
Việt. Văn học chữ Hán có ảnh hưởng lớn trong việc hình thành văn học
Việt Nam trung đại. Hiện tượng song ngữ trong đời sống và sáng tác văn
chương là nét riêng, độc đáo của Việt Nam thời trung đại. Đây cũng là một
biểu hiện tất yếu của ý thức yêu chuộng quốc âm, ý thức dân chủ, nhu cầu
dùng tiếng Việt để biểu hiện tình cảm thực của mình, “dù học tập văn từ của
Trung Hoa, mà vẫn nói năng, ca vịnh không rời với tiếng nói của mình” (Phạm Đình Toái)25.
Xã hội Việt Nam thời Lý Trần đã sử dụng khoa cử làm giải pháp kiến thiết và
củng cố xã hội. Khoa cử không phải là một sản phẩm bản địa mà là một tổ
chức dập khuôn theo khuôn mẫu của phong kiến Trung Hoa vì thế sự cần
thiết và sức sống của khoa cử là nguyên nhân cho sự tồn tại lâu dài và chính
thống của chữ Hán. Chữ Nôm cũng không vì thế mà mất vai trò của nó nhưng
25 Phạm Đình Toái (1817 - 1901) quê Nghệ An, đỗ Cử nhân 1842, làm quan đến án sát Sơn Tây, bị thăng giáng nhiều lần. Ngoài “Quỳnh Lưu tiết phụ truyện” bằng chữ Hán, ông chủ yếu dùng thơ lục bát điêu luyện để diễn Nôm một số thiên trong Kinh truyện nho gia, nhiều thơ cổ điển Trung Quốc. Nổi tiếng vì có công nhuận sắc “Đại Nam quốc sử diễn ca”, đã uốn nắn, rút gọn từ 1.887 câu còn 1.027 câu lục bát, làm cho tác phẩm trở thành cô đọng, cổ kính mà lưu loát, hấp dẫn
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 53
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
địa bàn tồn tại của nó tuyệt nhiên không phải lĩnh vực khoa cử. Có một mâu
thuẫn tồn tại trong thời Lý Trần, đó là khát vọng độc lập và nỗ lực không mệt
mỏi để khẳng định nền tự chủ nhưng không dễ dàng thoát khỏi sự bủa vây
của những yếu tố ngoại lai mà ngôn ngữ là biểu hiện rõ ràng nhất. Điều này
cần có thời gian và sự chuẩn bị cần thiết nhưng tự sâu trong lòng thiết chế
của xã hội phương Đông theo Nho giáo (kể cả Trung Quốc) luôn có những
mâu thuẫn nội tại, luôn bao hàm những thiếu hụt ở tầm vĩ mô. Mâu thuẫn ấy
cho phép sự tồn tại cả Nho – Phật – Đạo, cũng vậy nó dung chứa cả chữ Hán
và chữ Nôm.
Hiện tượng song ngữ này kéo dài suốt thời Lý Trần và các các giai đoạn
sau nữa. Hiện tượng “đồng sàng dị mộng” về ngôn ngữ không được giải
quyết triệt để mà vẫn đeo đẳng lịch sử, tạo nên tâm thế nửa vời của của cả
dân tộc. Có lẽ vì thế mà người Việt mãi không đoạn tuyệt được với những
chế ước về văn hóa với Trung Quốc, cách ứng xử dùng dằng giữa tiếp thu và
đoạn tuyệt tạo cho Việt Nam tâm thế sẵn sàng tiếp nhận luồng văn hóa khác,
mới mẻ hơn. Cho nên khi chữ la-tinh đến Việt Nam, nó mới có cơ hội thâm
nhập và thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Tất nhiên sự thay thế ấy cũng không
hẳn là được nhiều hơn hay mất mát lớn hơn, có lẽ nó chỉ góp phần đắc lực tạo
nên những đứt gẫy văn hóa và thúc đẩy xã hội Việt Nam chuyển mình mạnh
mẽ hơn theo cách của một dân tộc “bứng trồng” về văn hóa trong nhiều thế
kỉ.
2.1.3. Hồ Quí Ly với khát vọng điển chế hóa chữ Nôm– sự mẫn tiệp
của một trí tuệ vƣợt trên tầm thời đại.
Hồ Quý Ly được sử sách nhắc đến với nhiều bàn luận khác nhau, khen
chê khác nhau nhưng với chữ Nôm Quý Ly luôn được coi như một người
truyền bá và áp dụng cái mới. Sách ĐVSKTT viết: “Quý Ly làm sách Minh
đạo 14 thiên dâng lên, đại khái cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 54
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
sư; ở Văn miếu thờ Chu Công ở chính giữa ngoảnh về phương Nam, Khổng
Tử ở bên ngoảnh về phương Tây; cho sánh Luận ngữ có bốn chỗ ngờ, như
Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết lương, Công Sơn Phật Hất
gọi mà Khổng Tử muốn đến..cho Hàn Dũ là đạo Nho, cho bọn Chu Mậu
Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử
đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ
chuyên làm nghề lấy cắp văn chương của người xưa. Thượng hoàng ban
chiếu khen ngợi. Quốc Tử trợ giáo là Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói bàn thế là
không phải, bị lưu đi châu gần; thư có nói hành khiển Đào Sư Tích đã có xem
thư ấy, Sư Tích phải giáng làm trung thư thị lang đồng tri Thẩm hình viện
sự.[18, 421]
““Ất Hợi, năm thứ 8 (1395) (Minh Hồng Vũ thứ 28)
………
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Quý Ly vào ở bên hữu sảnh đài, gọi là
Họa Lư. Quý Ly chép thiên Vô Dật dịch ra quốc âm để dạy quan gia. Có ra
lệnh gì thì xưng là Phụ chính cai giáo hoàng đế.” [18, 424]
“Đinh Tị, năm thứ 4 (1437)
……
Mùa hạ, tháng 4, đảo vũ ở cung Cảnh Linh
Vua muốn xem thủ chiếu và thi văn của họ Hồ). Nguyễn Trãi tìm kiếm được
thi văn bằng quốc âm vài chục bài dâng lên.
Và chú thích: Những thi văn của Hồ Quý Ly giao cho Nguyễn Trãi sưu tầm
đến nay cũng mất cả. Sử chép Quý Ly giỏi thơ quốc âm. Hiện chỉ còn tập
Mộng Ông tập của Hồ Nguyên Trừng là con trưởng của Hồ Quý Ly, lưu
truyền ở Trung Quốc.” [18, 565]
A.B Pôliacốp - một sử giả Nga cũng nhận xét:
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 55
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
“Trước Hồ Quí Ly, trong các văn bản chính thức ở Đại Việt – cũng giống
như ở Trung Quốc, đều được viết bằng chữ Trung Quốc cổ (Hán văn). Chữ
viết dân tộc được sáng tạo trên cơ sở chữ Hán – chữ Nôm – chỉ được sử dụng
trong sáng tác văn học. Công lao của Hồ Quí Ly là đã sử dụng hệ thống chữ
viết này (chữ Nôm) để ghi chép những văn kiện có tính quốc gia và trao đổi
hàng ngày. Đây là bước tiến quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ văn
học Việt, tạo điều kiện nâng cao tinh thần tự chủ dân tộc.” [7, 278-279]
Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để
chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh Thư, Thi. Chính ông đã
biên tập thiên " Vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên
Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông. Việc tôn Chu Công là Tiên Thánh,
Không Tử là Tiên sư; chỉ ra kẽ hở của đạo Nho rồi phê phán lối ăn cắp văn
ngày xưa, câu nệ sách vở, lý thuyết suông, không chú thực hành là nét táo
bạo trong tư duy họ Hồ. Trong lúc đạo Nho thịnh hành, Quý Ly bày đặt ra lối
Hoa Việt Nho học, đề cao chữ Nôm là một cách mạng trong tư duy. Theo đề
nghị của Quý Ly, tháng 5 năm Đinh Sửu, 1397, vua Trần Thuận Tông ban
chiếu cải cách giáo dục, mở trường học ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải
Đông và đặt quan giáo thụ phụ trách, cấp ruộng cho các trường để có hoa lợi
làm chi phí cho việc dạy và học ở các địa phương. Cải tổ thi cử, bỏ thi ám tả
cổ văn trong kỳ thi Cử nhân, thêm bài thi viết chữ quốc ngữ (chữ Nôm) và
làm toán. Quý Ly là người giỏi văn chương nhưng tư duy rất cụ thể và thiết
thực. Những câu đối, những lời dạy con, phê phán, khen ngợi các quan dưới
quyền mình v.v... đều là những lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng, gắn rất cụ thể với sự
việc mà ông đã định.Vua Nghệ Tông nhận ra mệnh của nhà Trần, thấy rõ tâm
trí của Quý Ly mà tặng lá cờ có tám chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng
đức”. ĐVSKTT chú một ý là Quý Ly nhận, rồi làm bài thơ Nôm cảm tạ,
nhưng không thấy ghi bài ấy lại.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 56
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Với nhà Hồ thơ Nôm đã được coi trọng và phát triển. Thư từ, chiếu biểu
là thứ văn lưu hành khá phổ biến. Đây là thời khắc mà quốc gia biến động
từng ngày, từng giờ nên có lẽ chữ Nôm với địa vị ưu tiên mới vẫn không đủ
thì giờ để kịp xây cho mình những “tòa tháp” để người đời chiêm ngưỡng (vả
lại, binh hỏa chiến tranh đã tàn phá những gì mà Hồ Quý Ly xác lập, tiếc
thay!). Nhà Hồ chỉ tồn tại ở nước ta được có hơn 7 năm mà đã tích tụ, hình
thành nhiều kinh nghiệm. Có thể nói Hồ Quí Ly là người rất có tài, một nhà
chính trị đa mưu túc trí, một nhà cải cách kiên quyết và táo bạo, một người có
ý thức dân tộc mạnh mẽ thể hiện qua hành động thực tế của ông….
Bao giờ cũng vậy, cải cách là sự phá vỡ cái cũ và xây dựng nên cái mới tốt
đẹp hơn. Song không phải bao giờ con người cũng dễ có được ý thức thống
nhất với nhau về tính chất tốt đẹp ấy. Các cuộc cải cách có thể thành, có thể
bại, nhưng nó đều để lại cho hậu thế những bài học quí giá, đôi khi còn là sự
tiếc nuối về một hướng đi đúng không được ủng hộ.
Lịch sử đã đi những bước dài, người đời nay cũng đã có những nhận định
mới về một vương triều ngắn ngủi nhưng để lại khá nhiều dấu ấn trong lòng dân tộc26. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV
(1395 – 1407) nhằm giải quyết khủng hoảng toàn diện của xã hội cuối Trần,
từ khủng hoảng kinh tế xã hội, khủng hoảng hệ tư tưởng dẫn đến khủng
hoảng thiết chế xã hội và cao nhất là khủng hoảng cung đình. Song, Hồ Quí
Ly không đủ sức bởi khoảng cách giữa thực tế đời sống và tầm cao tư tưởng
họ Hồ quá xa nhau, con đường mà Hồ Quí Ly lựa chọn lại không được ủng
họ của đa số. Quí Ly đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của số đông khi mà
thời gian cần thiết để những cải cách được thử thách quá ngắn ngủi! Thất bại
26 Xem Nguyễn Kim Sơn, Đạo đức công phu hay chính trị thực hành - bàn về tư tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly, http://khoavanhocussh.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=421:pgsts-nguyn- kim-sn&catid=85:trit-hc-m-hc-vn-hoa-hc&Itemid=256
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 57
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
của Hồ Quí Ly trước hết là kết quả của sự "thiếu nhân tâm" , là sự “quá cỡ”
của cái mới trong lòng xã hội còn dung chứa những thứ chưa đủ mới.
Dẫu vậy, những cải cách về tư tưởng và tầm nhìn chiến lược với chữ
Nôm là một dấu ấn của sự tiến bộ, là minh chứng về khát vọng điển chế chữ
Nôm của một chính thể ngắn ngủi trong lịch sử. Khát vọng này từng có và
từng được hiện thực hóa một cách cụ thể nhưng chưa có lộ trình thực thi một
cách thỏa đáng.
2.2. Văn học Nôm đời Trần – nơi hội tụ cao nhất “phương thức ứng
xử” với chữ Nôm
Phương thức ứng xử, như đã trình bày ở phần mở đầu, không chỉ là
chuyện coi nặng hay coi nhẹ chữ Nôm mà là cách người ta sử dụng nó, kí
thác tâm sự và những rung cảm thẩm mĩ vào nó, coi nó là phương tiện truyền
tải tối ưu những biến thái tinh vi của tâm hồn văn nhân – bậc thức giả đương
thời. Phương thức ứng xử vì thế cao hơn thái độ khen chê, cân đo cảm tính.
Nó là vấn đề tâm thức của thời đại, là sự mẫn tiệp cần có của những trái tim
và khối óc lớn. Vả chăng, coi trọng chữ Nôm không gì đáng thuyết phục hơn
là chọn nó để diễn đạt những gì sâu kín nhất, thiêng liêng nhất, trăn trở nhất
của tâm hồn mình. Những chế ước của thời đại, những khuôn khổ cứng nhắc,
nhưng qui ước về niêm luật vẫn được sử dụng nhưng không còn nghĩa lí áp
chế như khi người ta sáng tác bằng chữ Hán, hay ít ra cũng bớt đi sức ảnh
hưởng nếu chọn chữ Nôm. Tự sâu thẳm trong tầm thức của những bậc thức
giả, chữ Nôm được dành chọn cho vị trí biểu đạt tâm tư, đó mới là cách trân
trọng và đánh giá tự nhiên nhất, trân trọng nhất và cũng giản dị nhất.
2.2.1. Lực lƣợng sáng tác văn học Nôm là những trí thức bậc nhất
của thời đại
Trần Nhân Tông – ông vua, thi sĩ, Phật hoàng
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 58
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm hứng thẩm mĩ Phật giáo –
thứ cảm hứng quan trọng bậc nhất của văn học Lý Trần bởi ông vua – thi sĩ –
phật hoàng Trần Nhân Tông. Với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
hành đạo ca, Trần Nhân Tông đã tôn vinh chữ Nôm như phương tiện đắc
dụng để kí thác tư tưởng của mình. Không chỉ là ông vua có võ công văn trị
lẫy lừng, không chỉ là người khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Trần Nhân
Tông còn là một thi nhân lỗi lạc tiếp nối truyền thống của các vua Trần –
những người không chỉ là những Phật tử thuần thành mà còn là những hành
giả đích thực thâm chứng Phật pháp. Hành trạng nhập thế độ sinh của các vua
Trần là hình ảnh sinh động phản ảnh toàn bộ bức tranh xán lạn của Phật giáo
thời kỳ này mà Trần Nhân Tông là điển hình nhất. Những sáng tác của ông
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca là những minh chứng
cho sự đề cao chữ Nôm.
Huyền Quang - Nhà sư điển hình thời Lý Trần
Một trong những nhân vật có vai trò tối quan trọng (sau vua) thời Lý Trần
là các nhà sư. Các vị cao Tăng đạo hạnh của Phật giáo đã tham gia triều
chính, đảm nhận vai trò quân sư, cố vấn cho vận mệnh quốc gia, vì các ngài
nhận thấy sự có mặt kịp thời của mình là cần thiết để hóa giải nỗi đau triền
miên của một dân tộc nhỏ bé vốn đã từng và đang bị ngoại bang xâm lấn.
Các nhà sư đời Lý Trần có vai trò lớn đối với xã hội, ghi dấu ấn của những
vai trò ấy ở chính trị, ngoại giao, kiến trúc, tư tưởng…và dĩ nhiên cả ở văn
hóa văn học nữa. Các thiền sư: Khuông Việt, Vạn Hạnh, Huyền Quang… là
những tác nhân then chốt xây dựng nên nền văn học nước nhà thời bấy giờ
các tác phẩm của các thiền sư đã đóng góp rất lớn vào việc khơi nguồn đạo
đức, xây dựng đời sống tâm linh bền vững trên dòng chảy thế sự thông qua
các chủ đề Phật giáo. Việc một nhà sư, vốn là tiến sĩ, là một quan chức, một
sứ giả của ngoại giao dùng chữ Nôm để sáng tác văn học, thể hiện sự chứng
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 59
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
ngộ của mình về những linh diệu của chân lý đạo Phật là một cánh ứng xử
thiện cảm nhất, tôn vinh nhiều nhất và trân trọng nhất đối với chữ Nôm. Với
Huyền Quang - người có vị trí quan trọng với xã hội, với lịch sử - chữ Nôm
được dụng trong tình huống “gan ruột” để bộc lộ lòng mình, để truyền tải tư
tưởng mang tầm vóc non sông và thời đại. Trong tâm thức dân tộc và giống
nòi chữ Nôm đắc dụng và được tôn vinh như một sự thật cần phải thế.
Khi mà nhà sư Huyền Quang với hành trạng và vị trí của mình với triều đình
và dân chúng, đã khẳng định được nhu cầu sử dụng chữ Nôm như những gì
thường trực nhất thì không có lí gì để triều đại nhà Trần coi thường và miệt
thị nó. Chữ Nôm đã có địa vị nhất định trong đời sống và văn học, chữ Nôm
cũng có nhiều hơn cơ hội để hoàn thiện. Đó là tiền đề cho những bước tiến
tiếp theo: Triển vọng và vững chãi!
Mạc Đĩnh Chi – vị trạng nguyên tài hoa
Mạc Đĩnh Chi, tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh,
nay là thôn Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Mạc
Đĩnh Chi sinh năm 1280, mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con đi vào
rừng sâu hái củi để kiếm sống hàng ngày. Vốn là cậu bé có tư chất thông
minh, lại sống trong cảnh mồ côi nghèo khổ bị người đời khinh rẻ, nên Mạc
Đĩnh Chi sớm nhận ra rằng, chỉ có học tập,học tập thành tài mới là con đường
đưa bản thân thoát khỏi cảnh nghèo khổ và cũng là để thể hiện phẩm chất
thanh cao của con người học hành thành đạt mà đi lên. Khoa thi Giáp Thìn
(1304), thi Hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ hội nguyên; thi Đình, ông đỗ trạng nguyên27. Tác phẩm của Ông hiện có: Ngọc tỉnh liên phú; bảy bài thơ: Vãn
Mạc Đĩnh Chi (1280-1350)(?) tự Tiết Phu, nguyên người châu Giang Nam, huyện Bình Hà, sau dời về làng Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương Ông đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn (1304) năm Hưng Long thứ 12 đời Trần Anh Tông. Khi vào chầu, vua thấy ông tướng mạo bình thường, dáng người nhỏ bé, lấy làm không vui. Ông liền dâng bài Ngọc tỉnh liên phú , lấy ý của bài Cổ Ý của Hàn Dũ đời Đường và bài Ái liên thuyết của Chu Đôn Di đời Tống, tự ví mình như loài hoa sen cao quý. Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, không hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn; vả lại sen
27
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 60
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Cảnh (Cảnh chiều), Hỷ tình (Mừng trời tạnh), Tảo hành (Đi sớm), Quá Bành
Trạch phỏng Đào Tiềm cựu cư (Qua Bành Trạch, thăm nơi ở cũ của Đào
Tiềm), Phiến minh (Bài minh đề quạt), và Giáo tử phú (Phú dạy con, chữ
Nôm).
Giáo tử phú, như truyền bản tới nay cho thấy, mặc dù không thật đặc sắc so
với những tác phẩm bằng chữ Hán của ông và so với những tác phẩm Nôm cùng thời28 nhưng dẫu sao, Mạc Đĩnh Chi – vị trạng nguyên tài năng và vị trí
quan trọng bậc nhất trong số những trí thức đương thời có dùng chữ Nôm để
sáng tác. Bài thơ Nôm này cũng đề cập đến vấn đề rường mối của đạo Nho:
Đạo cha con.
Như thế, chứng tỏ chữ Nôm có được vị trí nhất định trong tâm thức của
thời đại qua nhận thức của đội ngũ trí thức đương thời. chữ Nôm cũng là
phương tiện để truyền tải tư tưởng quan trọng của thời đại: đạo cha con, một
trong Tam cương mà Nho giáo quan tâm. Địa vị của chữ Nôm đã không chỉ
dừng lại ở thứ văn “cha mách qué” nữa.
2.2.2. Phú Nôm – nơi giao hội của cảm hứng thẩm mĩ
2.2.2.1. Thể Phú ( Nôm) và những ưu điểm trong việc bộc lộ cảm xúc
Phú là một trong những thể tài văn học thuần túy xuất hiện đầu tiên trong nền văn học Trung Hoa29 và cực thịnh vào đời Hán. Phú được người Việt
thẩm mỹ
29 Nguyễn Đình Phức cho rằng: Thời cổ, các loại văn thể tùy theo công năng xã hội mà có địa vị cao thấp khác nhau. Cổ nhân khi sáng tác văn chương đặc biệt chú trọng đến việc lựa chọn văn thể. Trong vô vàn văn thể, phú thường được đặt ở vị trí tối cao. Điều này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Thứ
này lại trồng trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao quý biết bao. Ông như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh thì người ông càng cao quý biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành mới biết thưởng thức.Vua đọc bài phú của ông cho là kiệt tác nên mới yêu dùng. 28 Đào Duy Anh cho rằng: “chúng tôi không tin rằng bài này là của Mạc Đĩnh Chi, một là vì lời văn nhiều chỗ lặp đi lặp lại và vụng về quê mùa, ý văn thì nhiều chỗ trùng điệp và lộn xộn, so với phong cách và phẩm chất của bài Ngọc tỉnh liên phú thì thấy xa cách nhau nhiều lắm” [1, 36]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 61
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nam sử dụng từ những thế kỉ đầu xây dựng nền văn học dân tộc, đầu tiên với
chữ Hán, sau đó là chữ Nôm “Phú Nôm là nơi gặp gỡ giữa chuẩn mực lâu
đời (phú) và cái đang hình thành (ngôn ngữ dân tộc). Phú Nôm là nơi chứng
kiến sự gặp gỡ giữa những giá trị xa nhau nhất: thể tài văn chương bác học
với chất liệu văn vần dân gian, khẩu ngữ” [95, 57]
Sự tỏ chí của kẻ sĩ trong phú Nôm cũng có những điểm khác so với phú chữ
Hán. Nhìn nhận đời sống tinh thần của trí thức đương thời như một thực thể
thuần nhất đơn sắc có những mặt không phù hợp bởi lẽ bản thân ý thức hệ
Nho giáo đã chứa đựng những mâu thuẫn nội tại. Xã hội hưng thịnh hay suy
vi là điều kiện khác nhau để những mâu thuẫn ấy biểu lộ với sắc thái và mức
độ khác nhau. Cách biểu hiện những rung cảm thẩm mĩ phú Nôm cũng có sự
khác biệt hơn phú chữ Hán. Chúng ta chỉ cần nhìn qua đề tài thiên nhiên nhận
ra rằng sự khoa trương ước lệ trong miêu tả thiên nhiên là nét chung đặc thù
nhưng càng về sau thì đặc tính ấy càng nhạt dần. Trong Vịnh Hoa Yên Tử phú
(Huyền Quang) ngoài một số địa danh, nhân danh ra thật khó tìm được những
từ phía vua chúa….
ít người chịu sự
lùng
lạnh
nét cá biệt của phong cảnh.
nhất, người sáng tác phú cần có thực tài, và cũng chỉ có phú mới biểu hiện được thực tài của phú gia. Ngụy Thâu chuyện trong Bắc Tề thư chép: “(Thâu) cùng Tế Âm Ôn Tử Thăng và Hà Gian Hình Tử Tài nổi tiếng đương thời, người đời gọi họ là tam tài... Thâu thấy Tử Thăng không làm phú, còn Hình chỉ có vài bài, thật không phải là người có tài về phú, nên thường nói: “Chỉ trong sáng tác phú mới có thể thành đại tài. Trong các thể văn, ngoài phú ra, chỉ có chương, biểu, bi, chí còn tạm tạm; ngoài ra tất cả chỉ là trò trẻ con, hoàn toàn không đáng đề cập”. Quan điểm của Ngụy Thâu được đưa ra trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của người xưa và người đương thời lúc đó, hậu nhân không một ai dị nghị về điều này. Như thế có thể thấy rằng, thời cổ văn nhân phần lớn quan niệm phú là loại văn thích hợp nhất để biểu hiện thực tài, và chỉ người có khả năng viết phú mới được coi là đại tài.Thứ hai, trong sách vở cổ xưa, bất kể tổng hợp hay biệt tập, vị trí của phú đều đặt ở vị trí đầu sách. Quan điểm “phú tiên ư thi” không chỉ thấy ở hầu hết các sách vở Trung Quốc mà cũng đúng với điển tịch Việt Nam. Điều này một lần nữa chứng tỏ vị trí của phú trong lòng người xưa là rất cao.Thứ ba, vào thời cổ người sáng tác phú có thể được phong quan tiến chức. ở đây có thể lấy việc Đỗ Phủ hiến Tam đại lễ phú làm đại biểu. Đỗ phủ nhập kinh cầu sĩ, nhiều lần ứng thí nhưng không đậu, lại thiếu người có quyền thế tiến cử, cùng đường chỉ còn biết chầu trực ở Thái Thanh cung, thái miếu và đàn tế nam giao để tiến phú; may được Huyền Tông thưởng thức, liền phong chức Đài chế Tập hiền Viện, từ đó mới bước chân vào đường hoạn lộ. Ngày xưa văn nhân hiến phú, may mắn được vua khen, đó là một việc hết sức vinh hạnh, nhưng cũng không (Theo http://khoavhnn.co.cc/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1068:t-phu-trung-quc-n-phu- vit-nam&catid=65:han-nom&Itemid=153)
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 62
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
“Xu hướng tách khỏi tiếng nói hàng ngày, được nâng lên khỏi đời sống cụ thể
và khẩu ngữ là đặc điểm phổ quát của ngôn ngữ văn học trung cổ. Theo dõi
tiến trình phú Nôm có thể khẳng định “biên độ giao động” trong ngôn ngữ
văn học của nó lớn hơn chữ Hán” [95, 60]
Phú là thể tài có chức năng tụng ca. Tính chất chung của phú là ca ngợi, tán
tụng và suy tôn cho nên lời văn của nó cầu kì, mĩ lệ, hào hoa và đặc biệt sử
dụng nhiều điển cố. Vua Trần Nhân Tông, sư Huyền Quang, Mạc Đĩnh Chi –
những nhân vật quan trọng bậc nhất đời Trần đã dùng chữ Nôm để diễn đạt
những cung bậc khác nhau của tâm hồn mình và những cảm quan thẩm mĩ
của thời đại mình là một cách vinh danh chữ Nôm cụ thể nhất, thuyết phục
nhất, và cũng đáng tin nhất.
Nếu phú trong văn học thế tục đời Trần được viết bằng chữ Hán thì phú trong
văn học Thiền tông đời Trần được viết bằng chữ Nôm. Đó là các bài Cư trần
lạc đạo phú - Trần Nhân Tông, Vịnh HoaYên tự phú - Huyền Quang, Giáo tử
phú - Mạc Đĩnh Chi.
2.2.2.2. Cư Trần lạc đạo phú
Chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm hứng thẩm mĩ Phật giáo –
thứ cảm hứng quan trọng bậc nhất của văn học Lý Trần bởi ông vua – thi sĩ –
phật hoàng Trần Nhân Tông qua Cư trần lạc đạo phú
Trần Nhân Tông không chỉ là ông vua có võ công văn trị lẫy lừng, không chỉ
là ông tổ của dòng Thiền Trúc Lâm mà còn ghi dấu ấn bản thể mình như một
thi nhân lỗi lạc. Một cống hiến rất quan trọng của Trần Nhân Tông cho Phật
giáo và cho dân tộc là bài phú Cư trần lạc đạo
Toàn bộ nội dung bài phú được khái quát trong bốn chữ nhan đề: Cư trần lạc
đạo. Đây là một quan niệm cởi mở, phá chấp của Phật giáo Thiền học Việt
Nam. Cư trần lạc đạo phú là phú biền ngẫu (tức bài phú), làm theo lối trữ
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 63
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
tình; chia thành mười hội, mỗi hội gieo một vần, hội chẵn gieo vần bằng, hội
lẽ gieo vần trắc và kết thúc bằng một bài kệ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán.
Triết lí sâu xa của lẽ sống con người là yên trong vị trí của mình, triết lí ấy
được kí thác bằng văn Nôm – thứ văn chương ở góc độ nào đó là của riêng
người Việt. Nó cũng là thứ ngôn ngữ khu biệt với chữ Hán bởi những qui ước
rất Việt Nam trên dòng chảy chung của nguyên tắc tạo chữ của người Hán.
Trên cái nền chung về văn hóa và ngôn ngữ của nền văn minh Trung Hoa,
người Việt Nam sau khi có tiếng nói riêng về chính trị đã kịp tạo cho mình
tiếng nói riêng về văn hóa, văn học. Chính việc coi trọng chữ Nôm và dùng
nó diễn đạt khu vực riêng của cảm thức người Việt đã giúp cho người Trung
Quốc hiểu rằng hơn nghìn năm đồng hóa vẫn không thể biến đất nước bé nhỏ
Việt Nam thành một phần lệ thuộc vào mình. Việt Nam vẫn là Việt Nam, bất
luận quá khứ đau thương và vết hằn lịch sử in đậm hàng ngàn năm lịch sử. Ý
thức quyết liệt ấy được minh chứng bằng ngôn ngữ văn chương và bằng cảm
hứng “cư trần” vốn là sản phẩm của thuyết lí Phật giáo từ Ấn Độ qua phương
Bắc đưa vào nhưng màu sắc của nó đã biến đổi theo cương vực và lãnh thổ
của người Nam.
Chữ Nôm gắn với truyền thống Phật giáo nghìn năm qua, thư tịch kinh điển
hướng dẫn sự tu đạo cũng như truyền bá tư tưởng, tín ngưỡng. Chữ Nôm đã
mang vai trò to lớn của nó trong việc gìn giữ và phát huy văn hoá dân tộc,
đặc biệt trong việc phát huy sự hữu ích của tông giáo Phật giáo. Nhà thơ –
nhà tu hành Trần Nhân Tông không dừng lại ở việc dẫn dụ con đường thành
đạo mà hướng thượng bằng hệ thuyết tư tưởng Phật giáo. Tư tưởng Thiền
chính là cuộc sống bình dị của con người tu hành đắc đạo. Truyền thống tu
hành và phát dương Tông giáo của Thiền phái Trúc Lâm nối kết, xiển dương
giáo pháp chứng ngộ trên hệ thống văn Nôm. Nhà thơ từ trong những xô bồ
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 64
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
của đời sống mà vui với đạo, thể hiện tinh thần nhập thế, tự tính giác ngộ lẽ
chân như:
Mình ngồi thành thị.
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính.
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. …
(Câu 1 – 4, hội 1, Cư trần lạc đạo phú) [1, 167]
Nhìn lại chặng đường trước đó, dù thư tịch Phật giáo có một số văn bia: Vân
Bản tự chung minh (chùa Vân Bản), Chúc thánh Báo Ân tự bi (Chùa Báo
Ân)….Nhưng chỉ đến Cư trần lạc đạo phú (và cả Đắc thú lâm tuyền hành
đạo ca) chúng ta mới có những sáng tác bằng văn chương đúng nghĩa và
tương đối qui mô bằng ngôn ngữ dân tộc. Hai tác phẩm này có đề cập đến
những vấn đề cốt lõi của Thiền Tông (Tâm, vô tâm, con đường đạt đạo, việc
tu hành và ý nghĩa của nó..) và có ý nghĩa như đuốc tuệ soi đường cho nhiều
thế hệ người Việt giai đoạn Lý Trần. Con đường đạt đạo mà Cư trần lạc đạo
phú chỉ ra có ý nghĩa quan trọng và chi phối đời sống của hàng triệu người
Việt trong những thế kỉ bản lề của dân tộc. Vị trí của văn học Nôm trong sáng
tác của Trần Nhân Tông có ý nghĩa như là mốc đầu tiên cho sự kết tinh của
ngôn ngữ và tinh thần dân tộc.
Với Cư trần lạc đạo phú, chữ Nôm được lựa chọn để phát biểu những tư
tưởng trìu tượng và khó nắm bắt một cách giản dị và dễ hiểu. Chữ Nôm là
ngôn ngữ sáng tác, tức là nó đã được chuyên nghiệp hóa và đáp ứng được
những đòi hỏi về kĩ xảo nhất định trong đời sống và nhất là trong nghệ thuật.
Cư trần lạc đạo phú, xét trong lịch sử văn học dân tộc, có thể coi là những
tác phẩm khởi đầu cho dòng văn học Nôm. Giá trị của nó ngoài việc biểu đạt
những vấn đề thuộc về tôn giáo nó còn có ý nghĩa như là sự khẳng định tinh
thần tự cường của một dân tộc và tầm nhìn xa trông rộng của một ông vua
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 65
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
đem chính ngôn ngữ dân tộc để truyền tải những vấn đề rất cao siêu. Đến
đây, chữ Nôm đã đủ sức chuyển tải những nội dung tư tưởng khác nhau và
mang vẻ đẹp của riêng nó. Thành tựu này nhất định là sự kế thừa những tinh
hoa của ngôn ngữ và văn học trước đó.
Chính chữ Nôm được Trần Nhân Tông chọn để diễn đạt tư tưởng Cư trần
lạc đạo chứ không phải chữ Hán. Điều này vô cùng quan trọng đối với tác
phẩm. Việc lựa chọn ngôn ngữ sáng tác là một cách bày tỏ quan niệm sáng
tác của tác giả và cấu thành nên đời sống nội tại của chính tác phẩm. Sự
thống nhất về tư tưởng cộng hưởng với sự thống nhất về phương tiện diễn đạt
là cầu nối lí tưởng cho đa số nhân dân ít học tiếp nhận. Phương thức truyền
đạt của Cư trần lạc đạo phú tự bản thân nó có giá trị tôn vinh nét đẹp và sự
đắc dụng của Việt ngữ. Chữ Nôm với Trần Nhân Tông là phương tiện lí
tưởng và hiệu quả, tiện dụng và trong sáng, đẹp đẽ và giản dị, trang trọng và
gần gũi trong việc bày tỏ vẻ đẹp nội tâm và sự sự chứng ngộ chân lí Thiền
Tông. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để chúng ta hiểu rằng, đời Trần chữ Nôm đang
ở vị trí nào của tâm thức thời đại. Tại thời điểm này, việc thanh minh rằng nó
không bị coi thường có lẽ là vô nghĩa và thiếu nhạy cảm, có lẽ là không cần
thiết và lãng phí thời gian?
2.2.2.3. Vịnh Hoa Yên tử phú
Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang có tám đoạn, mỗi đoạn gieo một
vần, bằng trắc đan xen trong mỗi đoạn và kết thúc bằng bài kệ thất ngôn bát
cú Đường luật bằng chữ Nôm. Nội dung của Vịnh Hoa Yên tự phú ca ngợi nét
thanh tú, diễm lệ của thiên nhiên và tinh thần tự tại, nhàn tịch của tác giả nơi
chùa Hoa Yên.
Với Vịnh Hoa Yên Tử phú, phương thức ứng xử với chữ Nôm lúc này không
còn là những con số, những sự kiện, những chi tiết khô cứng trong sử sách vô
hồn nữa mà nó là những trạng huống, là biến thái tinh vi, sâu sắc và huyền
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 66
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
diệu nơi ngõ ngách sâu thẳm của tâm hồn con người. Mà “con người” ở đây
không phải kẻ bình dân ít chữ, không phải kẻ không có công cụ chính thống:
chữ Hán để truyền tải tâm trạng mình. Mà, người viết thừa vốn liếng chữ
Hán, thừa những qui tắc trường ốc của thứ chữ “chi hồ giả dã”, có nghĩa là,
vấn đề lựa chọn chữ Nôm là ưu tiên sâu thẳm của tâm hồn, là trực giác nhạy
bén mách bảo, là nhu cầu tự thân của thời điểm rung cảm thuần nhất và linh
diệu, là mách bảo của tâm tư và điểm đến của những ý tưởng.
Ngay từ những câu mở đầu, con đường đến với Hoa Yên được “trải thảm”
bằng cảm hứng thiền:
Buông niềm trần tục, náu tới Hoa Yên,
Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy;
Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới,
Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.
Đất phúc địa nhìn xem luống kể, kể bao nhiêu dư dư trăm phúc địa
Trời thiền thiên góp thu thửa lạ, lạ hơn ba mươi sáu thiền thiên
Thấy đây, đất tựa vàng liền, cảnh bằng ngọc đúc ...[1,176]
Chiêm nghiệm trầm tư nơi cõi Phật, Huyền Quang đã soi nhìn thế giới tự
nhiên bằng bằng cảm quan phấn chấn, tự tin. “Lòng thiền vằng vặc” là đích
soi chiếu cho những rung cảm thẩm mĩ và điểm tựa cho những trải nghiệm
sâu lắng của bậc chân tu. Chữ nghĩa trong Vịnh Hoa Yên Tử phú dễ hiểu,
dung dị, đời thường giúp người đọc cảm nhận một thiên nhiên tĩnh lặng của
cõi vô tâm. Những từ ngữ Việt cổ: la đá, gióng hòa, mẽ khéo, ngậm ngụt,
chác tấc bóng, hoa cười thỉ…..được sử dụng trong bài phú tạo nét cổ kính và
ghi dấu những giá trị khu biệt ngôn ngữ đương thời rõ nét. Nguyễn Hữu Sơn
cho rằng: “Cùng với các tác phẩm văn Nôm khác như Cư trần lạc đạo phú ,
Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca của Trần Nhân Tông Giáo tử phú - Mạc
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 67
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Đĩnh Chi….Bài VịnhVân Yên Tử phú của Huyền Quang góp phần quan trọng vào việc phát triển chữ Nôm, thơ văn Nôm và thể loại phú Nôm nói riêng”30
Cảm quan Phật giáo của Huyền Quang trong bài phú chính là cách hình
dung về thiên nhiên, một cách nhìn và triết lí về thế giới tự nhiên. Nó biểu thị
những giá trị mang tính thời đại và được diễn đạt bằng ngôn ngữ đang được
thời đại tín dụng: chữ Nôm. Nói cách khác, với Vịnh Hoa Yên Tử phú Huyền
Quang – con người trải qua một chặng đường không ngắn ngủi (từ thịnh –
vãn Trần) đã để lại dấu ấn của mình như là tư cách của một Thiền gia – thi
nhân trong mảng văn học Nôm của dân tộc. Đóng góp của Huyền Quang về
ngôn ngữ văn tự và văn học vì thế không khiêm tốn.
2.2.2.4. Giáo tử phú
Giáo tử phú tương truyền rằng trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi chết bảy ngày
rồi sống lại, làm bài phú này tả những điều mình được thấy ở địa ngục để răn
dạy con cháu. Đào Duy Anh cho rằng “chúng tôi không tin rằng bài này là
của Mạc Đĩnh Chi, một là vì lời văn nhiều chỗ lặp đi lặp lại và vụng về quê
mùa, ý văn thì nhiều chỗ trùng điệp và lộn xộn, so với phong cách và phẩm
chất của bài Ngọc tỉnh liên phú thì thấy xa cách nhau nhiều lắm” [1, 36].
Tuy nhiên, về mặt niên đại các nhà nghiên cứu nhìn chung thống nhất đây là
bài phú đời Trần “Lấy thể cách mà suy thì thì ở nước ta bài này cũng là sớm
hơn thời Lê sơ” [1, 34] và nội dung của nó “để khuyên răn người đời làm việc
thiện” [1, 37], tức là bài phú đề cập đến những vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
Hay nói cách khác, dù có phải của Mạc Đĩnh Chi hay không thì bài phú Nôm
này cũng là nơi mà trí thức đời Trần gửi gắm những vấn đề đạo đức – vốn là
cách “tải đạo”, “ngôn chí” mà trí thức trung đại thường dùng. Hay nói cách
khác, trí thức đương thời đã ứng xử với chữ Nôm theo cách thông lệ của
30 Xem: Nguyễn Hữu Sơn (2005) Vịnh Vân Yên Tử phú – nẻo về thiên nhiên Phật và cõi vô tâm in trong Văn hoc trung đại Việt Nam quan niệm con người và tiến trình phát triển, NXB Khoa học xã hội.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 68
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
những người lấy mục đích vinh thân, phì gia, trị quốc làm kim chỉ nam cho
sự tồn tại của bản thể mình. Có nghĩa là chữ Nôm đã được chọn để truyền tải
mục đích cao cả và có giá trị giáo dục phổ quát cho toàn xã hội. Với Giáo tử
phú chữ Nôm không phải chỉ để ngâm vịnh, giải trí mà nó có mục đích giáo
huấn rất rõ.
Giáo tử phú gồm 204 câu, mỗi câu bốn chữ. Nội dung bàn về nhân quả -
nghiệp báo - luân hồi, khuyến con cháu tránh xa con đường tà ác, hành thiện
tích phúc, niệm Phật bồi đức để khỏi lãnh thọ quả báo khổ đau và thoát ly
sinh tử luân hồi. Tư tưởng bài phú chịu ảnh hưởng nhiều từ Tịnh Độ tông.
Lời thơ mộc mạc, có phần đơn điệu, lý lẽ thì khô khan, không có cái bóng
bẩy văn vẻ của phú. Bài này có giá trị về đạo đức tôn giáo và ngôn ngữ nhiều
hơn là văn học nghệ thuật.
2.2.2.5. Tiểu kết
Cư trần lạc đạo phú, Vịnh hoa Yên tử phú, Giáo tử phú đã kết tụ những
nỗ lực phi thường và đầy gian khổ về mặt tích hợp ngôn ngữ trong quá trình
đấu tranh không mệt mỏi của dân tộc với sức ép của ngôn ngữ và văn hóa
Hán. Ba bài phú trên đều có nội dung khá độc đáo, bởi lẽ so sánh với văn học
Trung Quốc, chưa có bài phú có nội dung bàn về phương thức sống của một
Thiền gia giữa dòng đời náo nhiệt hay lối sống của một hành giả ẩn cư tại sơn
lâm yên tĩnh, cũng vậy, không thấy có bài phú nào có nội dung khuyên dạy
con cháu như ở văn học Thiền tông đời Trần. Dẫu rằng, văn học Thiền tông
đời Trần để lại có ba bài phú nhưng tư tưởng của chúng ảnh hưởng rất lớn
trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, những tư tưởng ấy là kim chỉ nam
định hướng cho mọi người tổ chức nên một nếp sống chan hòa giữa cá nhân
và tập thể, hài hòa giữa đời và đạo trên tinh thần vô ngã - vị tha. Sự phát triển
của phú đời Trần nói chung là nền tảng vững chắc để đạt được những thành
quả rực rỡ về thể loại này trong các giai đoạn sau.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 69
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Phú là thể loại tự sự - trữ tình cho nên hình tượng nhân vật trữ tình trong
các bài phú luôn chiếm vị trí trung tâm. Nhân vật trữ tình trong phú Nôm
luôn xuất hiện với tư thế một trí thức lấy đạo lí làm chuẩn thẩm mĩ, lấy chất
nghị luận làm phương tiện biểu đạt, lấy tài quan sát thiên nhiên và đời sống
làm điểm tựa cho những rung cảm thẩm mĩ. Nhân vật trữ tình trong phú
không hề tự tách mình ra khỏi môi trường sống theo cách mà các trí thức
ngôn chí bằng thơ chọn: độc thiện kì thân, độc hành kì đạo. Họ muốn sống
chan hoà với tất cả, muốn kêu gọi, muốn tìm tiếng nói chung trong cuộc
sống, muốn vươn đến những giá trị sống động và chân thực nhất. Trong Cư
trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca tuy chưa thấy xuất hiện
hình thức điển hình của thành ngữ, tục ngữ nhưng đã xuất hiện một số tổ hợp
từ có thể quen dùng trong dân gian như: đầm ấm qua mùa, đói no đòi bữa,
một sức dùi mài, mày ngang mũi dọc, một tơ một tóc, liễu mềm hoa tốt, dặm
liễu đường hoa, đãi cát thấy vàng, trọng bụt tu thân, núi hoang rừng quạnh,
chiền vắng am thanh, ngựa cao tán cả, gác ngọc lầu vàng, mặt thánh lòng
phàm, đắc ý cong lòng, giấy sồi bô bả, ngậm miệng đắp tai, bữa đói bữa no,
trỏ Bắc làm Nam... Người Việt vốn thích lối nói cân đối nên những tổ hợp từ
như thế rất nhanh chóng nhập vào vốn từ ngữ dân tộc. Triết lí cao thâm của
Thiền tông tuy chủ yếu được diễn đạt qua các khái niệm, điển cố nhưng đã
được mềm hóa một phần qua các quán ngữ, thành ngữ ấy và nhất là qua các
từ láy: lai láng, đầm ấm, lạc lài, vằng vặc, xông xốc, ông ang, nghênh ngang,
khoe khoang, quái quàng, nghênh ngang..... Đến Vịnh Hoa Yên tự phú, sự
kết hợp hai phong cách ngôn ngữ đã có bước tiến đáng kể. Vị Thiền sư - thi sĩ
nhiều lúc như hoà đồng cùng mây bay gió nhẹ trở thành một mảnh hồn tĩnh
lặng tan hoà trong thiên nhiên lớn trăng sáng non xanh….
Cùng với những tác phẩm văn học Nôm đã thất lạc của Trần Nhân Tông,
Trần Anh Tông, Huyền Quang, Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 70
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
An, Trần Ngạc, Hồ Quý Ly… sáu tác phẩm Nôm hiện được ghi chép trong
Thơ văn Lý Trần: Cư trần lạc đạo phú -Trần Nhân Tông, Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca - Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên tự phú - Huyền Quang, Giáo
tử phú - Mạc Đĩnh Chi, Cầu siêu cho Nguyễn Biểu - Sư chùa Yên Quốc, Tức
cảnh - Nguyễn Thị Điểm Bích đã chứng tỏ sự tồn tại của một loại ngôn ngữ
của riêng người Việt. Các tác gia sáng tác văn thơ Nôm cũng như các tác
phẩm văn học Nôm thời Trần tuy chưa nhiều, song dầu sao việc người Việt
dùng chữ mà mình sáng tạo để sáng tác văn học cũng là một sự kiện có ý
nghĩa chính trị và xã hội sâu sắc, đồng thời đặt nền tảng cho sự phát triển văn
học Nôm ở các thế kỉ sau. Nó không chỉ đánh dấu sự trưởng thành tiếng nói
của người Việt trong quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước và gìn giữ văn hóa
dân tộc mà còn đánh dấu sự vươn lên để có thể ngang bằng của nền văn học
chữ Nôm đối sánh với nền văn học chữ Hán. Có thể nói đây là kết quả dài lâu
của quá trình phát triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc Đại Việt ta, đánh
dấu một bước trưởng thành khá quan trọng trong toàn bộ văn học dân tộc
Việt Nam.
2.2.3. Những nỗ lực Nôm hóa hệ thống thể loại
Nôm hóa hệ thống thể loại được biểu hiện bằng phương thức sáng tác:
dụng điển cố bán Việt hóa và điển cố chuyển mã âm thuần Việt để nâng cao
“tính bác học” cho văn học viết bằng chữ Nôm. Với văn học trung đại, điển cố, điển tích31 được xem là chiếc chìa khóa mở ra nội dung các tác phẩm văn
Từ điển của Nguyễn Văn Khôn viết: "Điển: Kinh điển. Thường. Phép tắc. Chủ trương. Coi sóc việc gì. Cầm cố. Họ. Tích: Xưa, trước, lâu, ban đêm. Họ. Cố: Bền, vững bền. Kín đáo. Sẵn, vốn đã. Nhiều lần. Bỉ lậu. Cố nhiên, tất nhiên. Họ. Điển tích: Sự tích chép trong sách vở xưa. Điển cố: Điển cũ tích xưa; sự tích, luật lệ cũ". Như vậy, điển cố là khái niệm rộng hơn và không chỉ bao gồm những sự tích chép trong sách vở. Tuy
31 Cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm điển cố và điển tích. Trong các từ điển hoặc sách giáo khoa, điển tích thường được định nghĩa như là những câu chuyện ghi chép trong sách vở và được trích dẫn hoặc dẫn ý. Cuốn Sổ tay văn học (A Handbook to literature) của C. Huge Holman và William Harmon, định nghĩa điển tích là "lối nói dẫn chiếu vắn tắt đến một hình tượng, sự kiện hay đề tài lịch sử và văn học"("Allusion: A figure of speech that makes brief reference to a historical or literary figure, event, or subject". C. Huge Holman and William Harmon, A Handbook to literature, Macmillan, USA, 1992, p.13).
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 71
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
học, vì vậy muốn thể nhập tác phẩm thì không thể không giải mã điển cố,
điển tích. Điển cố có thể ám chỉ đến sự việc thật được chép từ sử, truyện hoặc
những câu chuyện hoang đường được chép từ truyện cổ tích, ngụ ngôn, có
khi là một vài chữ từ câu văn, câu thơ cổ. Có thể nói ngắn gọn, điển cố là
những từ ngữ chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa
được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn,
hàm súc. Đặc điểm của điển cố là dùng biểu tượng biểu trưng, diễn đạt phong
phú các lĩnh vực của cuộc sống, được nhiều người gọt giũa thành cố định.
Điển cố hàm chứa nội dung và ý nghĩa sâu sắc nhưng được thể hiện hết sức
cô đọng, mang tính khái quát, gợi ra nhiều liên tưởng, mang tính hình tượng,
đa dạng, linh động. Hình thức của nó phụ thuộc vào sự vận dụng đa dạng của
mỗi người. Người biết sử dụng điển cố, kết hợp được các đặc điểm và tính
chất của nó sẽ đem lại giá trị hiệu quả cho câu văn mình, làm nâng cao tính
“bác học” của tác phẩm và trình độ uyên bác của tác giả.
Trong văn học Trung đại Việt Nam nói chung và văn học Thiền tông đời
Trần nói riêng, điển cố được xem là biện pháp tu từ, là chiếc chìa khóa của
tác phẩm để mở ra thế giới bao la muôn màu muôn vẻ mà tác phẩm phản ánh
cũng như thế giới tâm hồn sâu xa, thầm kín nhưng nhạy cảm và tinh tế của
người sáng tác.
nhiên, trên thực tế hai từ này vẫn được dùng lẫn lộn. Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977) định nghĩa điển cố là "Chuyện chép trong sách cũ" và điển tích là "Sự việc trong kinh sách cũ". Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường, viết trong Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX: "Điển cố: Thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa. Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của những người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là trích dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và dùng chữ" (Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường, Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX: Giáo Dục, Hà Nội, 1999, tr. 142-143)
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 72
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Điển cố Phật giáo là từ ngữ về chuyện tích của nhà Phật, từ ngữ về tư
tưởng, hình tượng trong kinh sách Phật giáo được tác giả dùng làm phương tiện để trình bày ý tưởng một cách ngắn gọn và hàm súc32.
Nếu như trong dòng văn học thế tục, các tác gia thường dụng điển cố từ các
nguồn thư tịch cổ Trung Hoa (kinh, sử, tử, tập) hoặc từ thơ ca hoặc từ văn
học cổ hoặc từ văn học dân gian thì trong văn học Thiền tông, điển cố Phật
giáo thường được lấy từ Tam tạng giáo điển (kinh, luật, luận) hoặc từ các
sách thuộc thể loại lục hoặc từ các sách thuộc thể loại truyện ký nhà Phật...
Theo Hiểu Đông, hình thức thể hiện qua ngôn ngữ văn tự của điển cố trong
phú Nôm đời Trần có ba dạng: âm Hán Việt, âm Thuần Việt và âm bán Việt
hóa. Dạng âm Hán Việt thì xuất hiện trong tác phẩm chữ Hán lẫn chữ Nôm,
còn dạng âm thuần Việt và âm bán Việt hóa chỉ có trong tác phẩm Nôm mà
thôi.Có thể khái quát bằng bảng sau:
BẢNG PHÂN LOẠI ĐIỂN CỐ PHẬT GIÁO TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC THIỀN TÔNG
CỦA TRẦN THÁI TÔNG, TRẦN TUNG VÀ TRẦN NHÂN TÔNG THEO HÌNH THỨC THỂ HIỆN QUA NGÔN NGỮ VĂN TỰ33
HÌNH THỨC THỂ HIỆN QUA
NGÔN NGỮ VĂN TỰ ĐIỂN
HÁN VIỆT
THUẦN VIỆT
TỔNG SỐ ĐIỂN CỐ
CỐ PHẬT GIÁO
SỐLƢỢNG ĐIỂN CỐ
206
04
242
TỈ LỆ %
84, 12%
13,22%
100%
32 Theo Hiểu Đông Điển cố Phật giáo Thiền Tông đời Trần, NXB Tôn giáo2009, nguồn: http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=4497&catid=6 [79] 33 Số liệu và bảng biểu trên tác giả luận văn kế thừa những khảo sát của tác giả Hiểu Đông trong cuốn Điển cố Phật giáo Thiền Tông đời Trần, NXB Tôn giáo2009, nguồn: http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=4497&catid=6 [79]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 73
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Điển âm thuần Việt và bán Việt hóa chỉ xuất hiện trong tác phẩm Nôm;
mà hai tác giả Trần Thái Tông và Trần Tung không có tác phẩm Nôm nào
trong số 136 đơn vị tác phẩm được khảo sát nên hai dạng điển này không có
trong sáng tác của họ. Số điển âm thuần Việt và bán Việt hóa liệt kê trên đều
nằm trong hai tác phẩm Nôm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca của Trần Nhân Tông. [79]
Điển âm thuần Việt và bán Việt hóa tuy không nhiều nhưng cả hai dạng này
đều có những nét đặc thù của chúng. Tổng số điển cố trong hai tác phẩm
Nôm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là 54 điển,
trong đó 7 điển thế tục (chiếm 12,96%) và 47 điển Phật giáo (chiếm 87,04%).
Trong 47 điển Phật giáo có 4 điển âm thuần Việt (chiếm 8,51%), 32 điển âm
bán Việt hóa (chiếm 68,09%) và 11 điển âm Hán Việt (chiếm 23,40%).
BẢNG PHÂN LOẠI ĐIỂN CỐ PHẬT GIÁO TRONG HAI TÁC PHẨM NÔM CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
PHÚ VÀ ĐẮC THÚ LÂM TUYỀN THÀNH ĐẠO CA THEO HÌNH THỨC THỂ HIỆN QUA NGÔN
NGỮ VĂN TỰ
34
TÁC PHẨM
ĐIỂN CỐ PHẬT
HÁN VIỆT
THUẦN
BÁN VIỆT
GIÁO
VIỆT
HÓA
CƢ TRẦN LẠC ĐẠO
PHÚ
46
04
31
11
00
ĐẮC THÚ LÂM TUYỀN
01
00
01
THÀNH ĐẠO CA
TỔNG
47
11
04
32
TỈ LỆ
100%
23,40%
8,51%
68,09%
34 Số liệu và bảng biểu trên tác giả luận văn kế thừa những khảo sát của tác giả Hiểu Đông trong cuốn Điển cố Phật giáo Thiền Tông đời Trần, NXB Tôn giáo2009, nguồn: http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=4497&catid=6 [79]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 74
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Như vậy, khi xét riêng biệt hai tác phẩm Nôm, số điển âm Hán Việt chỉ
cao hơn số điển âm thuần Việt trên 1/2 nhưng lại bằng 1/3 số điển âm bán
Việt hóa. Điều này cho thấy tác giả đã hạn chế đến mức tối đa trong việc sử
dụng điển âm Hán Việt, đó là sự nỗ lực to lớn của tác giả trong mục đích
muốn thay thế và tiếp biến điển cố sao cho chúng mang đậm màu sắc dân tộc
hơn; từ đây có thể khẳng định rằng, trong sáng tác văn học ở giai đoạn này
ngôn ngữ dân tộc - chữ Nôm đang có chiều hướng phát triển, các tác giả, nhất
là Trần Nhân Tông đã có ý thức giảm bớt những vay mượn không cần thiết từ
chữ Hán và thay thế dần chữ Hán.
Mục đích của việc dùng điển là làm cho câu thơ, câu văn trở nên hàm súc,
cô đọng, trang nhã và làm cho nội dung của tác phẩm được sâu sắc hơn. Để
được thành công như vậy, điển cố phải được dẫn dụng hài hòa và nhuần
nhuyễn vào trong câu thơ, câu văn. Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca là tác phẩm được viết bằng chữ Nôm mà chữ Nôm trong giai
đoạn này mới hình thành và phát triển; chính vì thế nên việc dùng điển cố âm
thuần Việt là một vấn đề hết sức mới mẻ, nó thể hiện sự cố gắng cao độ của
Trần Nhân Tông trong mục đích thoát ly việc vay mượn những yếu tố Hán
Việt nhằm phát triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc. Đây có thể được xem
là một thành công lớn của thể loại ca và phú Nôm ở giai đoạn ban đầu này.
Xem xét những điển âm thuần Việt nằm trong Cư trần lạc đạo phú. Chúng ta
thấy có các điển: 1.Cây bách, 2.Gieo bó củi, 3.Nẩy bông đèn, 4. Nghe tiếng
trúc.
Điển cố âm thuần Việt được hình thành bằng việc Trần Nhân Tông chọn lấy
ý chính hoặc hình tượng nổi bật nhất trong câu chuyện của điển cố sau đó
chuyển thành mã tiếng Việt. Chẳng hạn như điển Cây bách trong câu:
“Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái- bạch" [1, 173] (Cư trần
lạc đạo phú, hội thứ 9-Trần Nhân Tông). Điển này được Đào Duy Anh chú:
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 75
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Như Tịnh hòa thượng về Tào Động tôn, học đạo với Tuyết Đậu thiền sư, xem
cây bách trồng ở trước cửa mà giác ngộ. Ý là tu hành phải vững tâm như cây
tùng cây bách. Thác ra: Sai lầm hóa ra – Phương thái bạch: Lý Thái Bạch
xưng là trích tiên. Phương thái bạch chỉ đạo tiên. Ý nói người tu hành nếu
không vững thì trước có thể sai lầm mà lạc vào đạo tiên (đạo giáo) [1, 200]
Hiểu Đông cho rằng: lấy ý chính từ công án Triệu Châu bách thọ hay Triệu
Châu bách thọ tử của Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm [79]
Hoặc điển Nghe tiếng trúc trong câu "Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc mặc vẻ
mà sang" [1,173] (Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 9 - Trần Nhân Tông) Đào
Duy Anh chú: Trí Cầu thiền sư ở núi Linh Vân, Phúc Châu (Phúc Kiến), ban
đầu ở núi Qui Sơn, nhân thấy hoa đào nở mà giác ngộ, có bài kệ rằng: Tam
thập niên lai tầm kiếm khách, Kỉ hồi lạc diệp hựu trừu chi. Tự tòng nhất kiến
đào hoa hậu. Trực chí như kim cánh bất nghi (Ba chục năm đi tìm kiếm
khách, Bào lần lá rụng lại chồi tơ. Từ khi thấy được hoa đào nở, Thẳng đến
như nay mới chẳng ngờ).
Nghe tiếng trúc: Hương Nghiêm đại sư xuất gia đã lâu mà chưa hiểu được
câu “trước khi cha mẹ chưa sinh”, một hôm đương làm đất, ném hòn đá vào
cây trúc có tiếng kêu, bỗng giác ngộ.
Hội chín này là nêu lên những then máy khác nhau của tổ sư các phái. [1,
202]
Theo Hiểu Đông: cũng như vậy, lấy ý từ câu chuyện ngộ đạo của Thiền sư
Hương Nghiêm Trí Nhàn (?-898). Chuyện kể rằng, sư (Trí Nhàn) tu học tại
đạo tràng của Quy Sơn Linh Hựu, sư chỉ chú ý đàm luận nghĩa lý kinh điển,
chẳng lo hạ thủ công phu để minh tâm kiến tính. Một ngày nọ, Linh Hựu gạn
hỏi về bản lai diện mục, sư đáp không được. Vì hổ thẹn nên sư giã từ Linh
Hựu, ẩn cư tu hành. Một hôm, khi sư đang phát cỏ chặt cây, nhân nghe tiếng
sỏi văng trúng thân trúc phát ra tiếng kêu mà ngộ đạo, liền làm kệ.[79]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 76
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Đó là cách hình thành điển âm thuần Việt. Nhìn chung điển cố được chuyển
mã âm thuần Việt thường dễ hiểu, người đọc thậm chí không cần biết đến
điển mà vẫn có thể hiểu được ý nghĩa câu phú mà tác giả trình bày. Ngoài ra,
do tài năng của tác giả khéo léo nên điển được dẫn dụng vào câu phú linh
động và hài hòa khiến người đọc dễ dàng lĩnh hội nội dung của nó và vết tích
của điển cũng mờ nhạt đi nhiều, khó nhận ra được nguồn gốc. Trở lại với
điển Nghe tiếng trúc trong câu "Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc mặc vẻ mà
sang", rõ ràng, điển được Việt hóa hoàn toàn nên câu phú này rất Việt và
dường như không còn nhận thấy sự mượn điển ở đây. Nếu ta đặt điển Nghe
tiếng trúc vào trong ngữ cảnh của toàn hội thì sẽ dễ dàng nhận ra được ý
nghĩa của câu phú cho dù ta không rõ về điển này; ở đây tác giả nêu lên
trường hợp ngộ đạo cá biệt của Thiền sư Trí Nhàn, đồng thời ca ngợi đạo
hạnh của sư bởi vì công phu của sư tuy âm thầm không ai biết nhưng lại đạt
đến chỗ cứu cánh giác ngộ.
Điển Gieo bó củi trong câu "Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nát”
[1, 173] (Cư trần lạc đạo phú, hội 9 - Trần Nhân Tông). Theo Đào Duy Anh:
Gieo bó củi: Tuyết Phong đến thăm Ngộ Bổn thiền sư ở Động Sơn, sư nói:
Vào cửa thì phải có lời nói – Tuyết Phong nói: Mỗ Giáp không có miệng. Sư
nói: Không có miệng thì phải hoàn con mắt cho ta. Tuyết Phong không nói
gì. Gieo một bó củi ở trước mặt sư. Sư hỏi: Nặng nhiều ít? Tuyết Phong nói:
Người cả thiên hạ nâng không nổi.
Nảy bông đèn: Có người cho rằng có thể là do điển Long Dàm thiền sư (ở
Quảng Đông) thắp đốt đuốc bộ Thanh long sớ sao của Tuyên Tạc thiền sư tự
Đỉnh Châu (Thiểm Tây) gánh đến (định để đả phá tôn chỉ của Thiền tôn) mà
nói: tất cả huyền diệu như một sợi lông đặt giữa thái hư; then máy suốt đời
như một giọt nước ném vào biển cả. Xin cứ ghi ý kiến ấy vào để tham khảo
[1, 201]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 77
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Hiểu Đông cho rằng: Điển Gieo bó củi xuất xứ từ câu chuyện giữa Thiền sư
Động Sơn Lương Giới (807-869) và Tuyết Phong Nghĩa Tồn. "Tuyết Phong
dọn dẹp củi khô, bèn mang một bó củi đem ném trước mặt sư (Động Sơn
Lương Giới). Sư hỏi: "Nặng bao nhiêu?". Phong đáp: "Người khắp đại địa
nâng không nổi". Sư hỏi: "Sao đem đến đây được?". Phong không đáp được.
Điển này dễ hiểu vì rất thuần Việt và dùng hài hòa trong câu phú, không gây
khó khăn gì cho người đọc. Nội dung câu chuyện, Tuyết Phong muốn trình sở
ngộ của mình nhưng vì chưa đạt đến đích nên khi bị Động Sơn khảo nghiệm,
sư không có câu trả lời thỏa đáng. Khi dùng điển này, tác giả trình bày rằng
muốn sở ngộ đạt đến cứu cánh thì phải bắt đầu từ việc ôm ấp nghi tình trong
lòng lâu ngày, khi nào khối nghi được giải quyết lúc ấy mới đại triệt đại ngộ.
Tuy nhiên cũng có trường hợp điển chuyển mã âm thuần Việt rồi mà vẫn khó
hiểu và không tìm được nguồn gốc. Thí dụ như điển Nẩy bông đèn trong câu
trên, dù biết đây là điển hình thành từ công án nhưng vẫn không thể tìm ra
được nội dung câu chuyện và xuất xứ từ Thiền sư nào.
Nhìn chung, việc đưa điển cố chuyển mã âm thuần Việt vào trong phú đã
đạt được thành công đáng kể. Điển cố chuyển mã âm thuần Việt là cách thức
thoát khỏi hình thức vay mượn âm Hán Việt, mặc dù chiếm tỉ lệ không cao
nhưng đây là một thành tựu về nghệ thuật dụng điển của tác giả. Dù muốn
hay không người đọc cũng cần phải có vốn kiến thức về Thiền học khi tiếp
nhận tác phẩm này.
Việc sử dụng điển cố vào văn chương không chỉ giúp các tác phẩm có được
tính chất quý phái, trang nhã và bác học mà còn làm cho nội dung của chúng
trở nên cô đọng và hàm súc, phù hợp với tinh thần kiệm lời và vô ngôn của
triết học truyền thống cổ điển phương Đông
Trong số tác phẩm mà chuyên luận dùng để khảo sát, chỉ có duy nhất một tác
phẩm thuộc thể tài biền văn, đó là tác phẩm Cư trần lạc đạo phú của Trần
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 78
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Nhân Tông. Nguồn gốc của điển cố trong bài phú thì được khai thác từ thể
loại lục là chủ yếu, đa phần điển được hình thành từ thoại đầu công án của
Thiền sư Trung Hoa. Nhìn chung các điển được sử dụng trong tác phẩm Cư
trần lạc đạo phú đều dễ hiểu, nhất là điển âm thuần Việt và bán Việt hóa.
Nếu căn cứ ở tỉ lệ thì điển âm thuần Việt trong Cư trần lạc đạo phú chiếm số
lượng thấp nhất, kế đến là điển âm Hán Việt, còn điển âm bán Việt hóa thì
chiếm số lượng khá cao. Sự ra đời của điển cố âm thuần Việt và bán Việt hóa
là một thành công đáng kể trong sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm của
nước ta trong giai đoạn này. Rõ ràng, tác giả đã rất cố gắng để thoát ly những
gì vay mượn từ nền văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc.
Điều này khẳng định ý thức độc lập, tự chủ, tự cường ở phương diện tinh
thần mà văn học là một trong các lĩnh vực tiêu biểu nhất. Việc dùng điển cố
âm thuần Việt và âm bán Việt hóa trong tác phẩm mà vẫn chuyển tải được rốt
ráo nội dung mà tác giả cần trình bày đã chứng tỏ rằng chữ Nôm-chữ viết dân
tộc Đại Việt trong giai đoạn này đủ khả năng “sánh vai” ngang bằng với chữ
Hán trong việc trình bày được những tâm tư, những tình cảm, những ước
muốn, những nguyện vọng của mọi người và chuyển tải được những tư
tưởng, những triết lý, những học thuyết huyền diệu, thậm chí không thua kém
gì chữ Hán.
Từ đây cho phép chúng ta kết luận rằng, văn học viết bằng chữ Nôm trong
giai đoạn này đã thực sự trưởng thành và đó là nền tảng ban đầu nhưng vững
chắc để bộ phận văn học này tiếp tục phát triển và đạt được những thành quả
to lớn hơn, viên mãn hơn ở các giai đoạn sau.
2.3. Những hạn chế mang tính cách thời đại
Đặt trong chiều dài lịch sử của dân tộc, xét một cách công bằng, chữ
Nôm lúc này dù hoàn thiện nhưng vẫn chưa phải đã tinh xảo. Theo Đào Duy
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 79
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Anh: “Xem thể cách thì thấy đã xa thể Phú Hán mà gần thể phú Đường35. Đã
thấy đủ 3 yếu tố của thể phú Đường luật là: phép câu gối hạc, niêm luật chặt
chẽ, đối ngẫu chỉnh tề. Nhưng so với tất cả những bài phú Nôm theo Đường
luật từ thời Lê Sơ về sau mà chúng ta còn giữ được thì thấy rằng phép đối
ngẫu của bài này còn lỏng lẻo, nhiều chỗ chỉ đối ý chứ không đối sát từng lời
từng chữ, và âm luật thì có chỗ con chưa êm tai lắm… Đó là một điểm khiến
chúng rôi có cảm giác rằng bài phú này có vẻ xưa hơn thời Lê” [1, 23]
Dựa vào bảng phân loại các điển cố mục 2.2.3. trên điển cố Phật giáo
chuyển mà âm thuần Việt chỉ chiếm 13, 22 % và xét trong hai tác phẩm của
Trần Nhân Tông thì chỉ chiếm 8,51 % và chỉ có ở Cư trần lạc đạo. Như vậy,
dù chữ Nôm đã phát triển và được dùng để sáng tạo văn chương song lượng
từ thuần Việt chiếm tỉ lệ thấp. Các điển cố Phật giáo có âm bán Việt hóa khá
cao (68,09%) song điển cố chuyển mã âm thuần Việt có tỉ lệ thấp hơn
(8,52%) tỉ lệ điển cố Phật giáo có âm Hán Việt (23, 40 %) .Có thể khẳng
định rằng chữ Nôm giai đoạn này mới được sử dụng vào sáng tác văn học và
đang trên đà hoàn thiện.
Vì những tác phẩm Nôm giai đoạn này dùng nhiều từ cổ và nhiều điển cố
nên với đa số độc giả hiện đại đó vẫn là một bí ẩn. Chính vì rào cản về ngôn
ngữ đó mà tiếp nhận các tác phẩm cổ chữ Nôm giai đoạn Lý Trần không chỉ
là khó khăn với độc giả hiện đại mà, ngay cả những tác giả đương thời có lẽ
không phải ai cũng dễ dàng lĩnh hội được. Và như thế Chữ Nôm không phải
là ngôn ngữ viết của đại đa số nhân dân (bố cu mẹ đĩ) như chúng ta vẫn lầm
tưởng, có chăng tư tưởng của đa số nhân dân đến lúc này đã được các trí thức
đương thời quan tâm thích đáng và dùng chữ Nôm để ghi lại. Hiện thực này
tồn tại mặc nhiên thành một nhận thức thiên kiến coi chữ Nôm là của tầng lớp
ít học, đó là một sai lầm lâu dài và nhất thiết phải điều chỉnh.
35 Chỉ bài phú Cư trần lạc đạo phú và bài ca Đắc thú lâm tuyền hành đạo – Trần Nhân Tông
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 80
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
2.4. Tiểu kết
Nghiên cứu văn học nói chung và văn học sử nói riêng luôn phải đặt văn
học trong mối quan hệ với các ngành Khoa học xã hội khác: sử học, triết học,
tôn giáo, chính trị, tôn giáo. Đặc biệt, nghiên cứu văn học cổ - một phần văn
học ra đời khi chưa có sự phân định rạch ròi giữa các hình thái ý thức xã hội
càng phải đặt nó trong tổng thể nguyên vẹn các tri thức liên ngành. Mỗi sự
kiện lịch sử trung đại luôn bao chứa trong nó những tri thức nhiều mặt của
đời sống. Các kiện lịch sử - văn học – chính trị nêu trên: Nguyễn Thuyên
đuổi cá sấu bằng văn Nôm, Tả phụ Lê Tòng Giáo và Hàn lâm phụng chỉ Đinh
Củng Viên và những tác phẩm phú Nôm thời Trần…là những biểu hiện cụ
thể của phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm ở giai đoạn mà
quốc gia dân tộc đang độ mạnh lên. Những ứng xử chính trị, ngôn ngữ, văn
học nêu trên biểu hiện cụ thể và trực diện nhất cho hàng loạt các cách ứng xử
văn hóa thời kì đầu dựng xây đất nước. Như một người trưởng thành thích
nhìn ngắm thời thơ ấu của mình, các thế hệ người hiện đại có thể nhìn hiện
tượng lịch sử, ngôn ngữ, văn học trên từ các góc độ khác nhau. Ở mỗi điểm
nhìn chúng ta lại bắt gặp những điều thú vị và bồi đắp thêm lòng yêu dân tộc,
niềm tự hào về một giai đoạn manh nha và kiến tạo những giá trị truyền
thống một cách hào sảng và mê say nhất.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 81
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
CHƢƠNG 3 : NGẢ ĐƢỜNG HOÀN THIỆN CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC
NÔM THỜI LÝ TRẦN
3.1. Nôm hóa giáo lí Phật giáo qua hiện tƣợng Tuệ Tĩnh dịch Khóa
hư lục
Khóa hư lục36 là một văn kiện ghi lại những lời giảng về đạo không, về
cách thức tu trì đúng chính pháp của Phật giáo đương thời tại Việt Nam để tự
thức tỉnh và thức tỉnh chúng sinh trên con đường tu tập tâm linh nhằm đạt đến
chứng quả niết bàn diệu tâm. Đây cũng là một trong những tác phẩm thành
văn có niên đại sớm nhất của nước ta hiện còn, một tác phẩm có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới lịch sử Phật giáo nước nhà.Tác giả Khóa hư lục đã kết hợp hài
hòa phép đốn ngộ với phép tiệm ngộ, con đường giải thoát tự lực với con
đường giải thoát bằng tha lực, đã quan tâm không chỉ sự giải thoát của bậc
thượng trí mà cả sự giải thoát của hạng hạ trí. Đó cũng là nét đặc sắc của
Thiền tông đời Trần.
Khóa hư lục không triển khai việc đề xuất và diễn giải những khái niệm siêu
hình duy lí mà tổ chức những ấn tượng cảm tính hướng thẳng tới sự nhạy
cảm của những giác quan người nhằm gây ra những rung động, những hiệu
ứng tâm sinh lí, cảm xúc thẩm mĩ khác nhau nhằm thức tỉnh, khai ngộ đối
tượng tiếp nhận. Khóa hư lục trước hết là tự thức tỉnh mình trên đường tu
niệm và thực hành, nhằm thanh lọc sáu quan năng, mong đạt đến chỗ “lục
căn viên thông”, tức là chứng thánh quả; đồng thời khuyên mọi người nên
hướng tâm lên đức Phật từ bi cao cả và hãy học hỏi giáo lý vô thượng của
36 Về niên đại của Khóa hư lục giải nghĩa bằng chữ Nôm của Tuệ Tĩnh chúng tôi tán thành với ý kiến của Trần Trọng Dương trong Luận án tiến sĩ : Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua các bản dịch Khóa hư lục là đời Trần, thế kỉ XIV.[100]. Theo tác giả, Khóa hư luc giải nghĩa mang đầy đủ đặc điểm của một bản chép tay, chép lại bản dịch của thế kỉ XIV (vào thế kỉ XIX), có sự chép nhầm về tự dạng cả phần nguyên văn chữ Hán và phần giải Nôm. Chữ Nôm trong bản này cũng thể hiện tính hỗn tạp..Tuy nhiên, sự hỗn tạp của văn bản chỉ thể hiện trên góc độ văn tự, còn văn bản văn bản vẫn là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu Tiếng Việt cổ ở cấp độ: ngữ âm, từ vựng (từ cổ), ngữ pháp (hư từ)… (Nhân đây xin cảm ơn tác giả vì đã cung cấp cho chúng tôi dữ liệu quan trọng về dịch phẩm này)
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 82
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Ngài, và lấy đó làm chiếc bè đưa ta qua sông Mê, tới bờ Giác. Tác giả Khóa
hư lục đã thống thiết nói cho ta rõ về bốn nỗi khổ: Sinh, Già, Ốm, Chết của
một kiếp người. Mọi tội lỗi mà con người mắc phải (nguyên nhân) là do 6
quan năng tiếp xúc với 6 trần cảnh, rồi khởi vọng tâm ham muốn (tham), sân
hận (Sân), si mê (Si) v.v
Khóa hư lục là một bộ sách quan trọng và xưa nhất mà chúng ta còn giữ
được, Trần Thái Tông không chỉ là một nhà tu hành đắc đạo, lại là một nhà
triết học sâu sắc và một thi sĩ trữ tình dào dạt chủ trương thanh tĩnh một cách
rất sôi nổi xúc động. Tất cả những bài kệ đều là thơ; thơ thất ngôn, ngũ ngôn
hoặc tứ ngôn; tất cả những bài khác đều là văn biền ngẫu chặt chẽ và đầy
hình tượng. Bản “giải nghĩa” sách Khoá hư lục tương truyền là do y sư –
thiền sư Tuệ Tĩnh thực hiện. Dịch phẩm này, cùng với phú Nôm của Phật
hoàng Trần Nhân Tông và bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh37, là ba tư liệu văn hiến sớm nhất mang bản sắc Việt còn lại cho đến nay.
Với bản giải nghĩa sách Khóa hư lục, việc dịch thuật kinh Phật có thể coi là
một điều kiện để hoàn thiện tiếng Việt. Chính trong môi trường dịch thuật
này, các từ Hán Việt cũng như các thuật ngữ tôn giáo (nhất là của Phật giáo,
Nho giáo…) đã được du nhập vào hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Đây cũng
chính là nhân tố quan trọng nhất để ngôn ngữ bản địa tách khỏi tiếng Việt
Mường, để định hình hóa như là một thứ tiếng dân tộc Việt như ngày nay.
Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn
hoá và diễn dịch văn học Việt Nam. Quá trình đó, chữ Nôm có vai trò không
nhỏ với việc truyền bá, bảo lưu văn hoá Phật giáo. Thực tế cho thấy, văn học
Việt Nam thời phong kiến, những tác phẩm còn đến ngày nay nhiều phần là
37 Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh được coi là dịch phẩm cổ nhất còn lại cho đến nay.Theo GS.TS Nguyễn Quang Hồng, đây là tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Việt (dưới hình thức chữ Nôm) vào khoảnng thế kỷ XII.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 83
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
tác phẩm Phật giáo, trong đó các dịch phẩm chữ Nôm chiếm địa vị không
nhỏ, và có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu văn hoá, ngôn ngữ người Việt.
Ở một khía cạnh, có thể nói, chữ Nôm là một sản phẩm của giới tăng lữ nhà
Chùa, cũng như nhiều văn tự khác trên thế giới là sản phẩm của những người
truyền giáo. Sách giải nghĩa Thiền tông Khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời
Trần là xưa nhất. Bản giải nghĩa này bảo tồn một lượng từ ngữ khá lớn trong
tiếng Việt cổ, trong đó đáng chú ý là những từ ngữ cổ. Trần Trọng Dương
cho rằng: Theo tiêu chí tự dạng (chữ Nôm vay mượn và chữ Nôm tự tạo), văn
bản Khóa hư lục giải nghĩa của Tuệ Tĩnh có 1.591 loại chữ vay mượn (/
2.166 chữ, chiếm 73,34 %) xuất hiện với tần số 9.292 (/12.244 lượt, chiếm
76,73% độ dài văn bản), loại chữ tự tạo là 575 chữ (/2.116 chữ, chiếm
26,66%) xuất hiện với tần số 5.404 (/1.585 chữ, chiếm 23,27% độ dài văn bản38. Điều đó chứng tỏ rằng ở thời điểm này, chữ Nôm vay mượn chiếm tỉ lệ
lớn hơn so với chữ Nôm tự tạo (cả và số chữ và số lần xuất hiện). Về số lượng từ cổ39 văn bản Khóa hư lục giải nghĩa của Tuệ Tĩnh có 191 đơn
vị từ Việt cổ (/ 152 từ chiếm 42.15% tổng số đơn vị) xuất hiện 1.244 lần (/
2.745 lần chiếm 49, 43%). Chẳng hạn những từ: Phô (từ chỉ số nhiều), hèn
(khỏi), khôn (khó có thể), mùi (màu), tói (trói), át (ướt), diềm dà (tưới tốt,
rậm rạp), đam (đem)..... Trong khi đó, từ ngữ chữ Hán tham gia vào văn bản
như là thành tố của tiếng Việt chiếm 12,66%. Từ ngữ Nôm đối dịch từ chữ
Hán chiếm 45,19%. Với cách nhìn như vậy chúng ta có thể thức nhận rõ ràng
1. Các từ cổ thuần Việt 2. Các từ ngữ Hán được sử dụng như là một yếu tố của Tiếng Việt trong bản giải nghĩa 3. Các từ ngữ văn Nôm phiên chuyển từ các từ ngữ hay thuật ngữ chữ Hán
hơn về hệ thống từ cổ trong bản giải nghĩa này: Từ cổ có nguồn gốc không 38 Số liệu này chúng tôi kế thừa trong Luận án tiến sĩ của Trần Trọng Dương: Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua các bản dịch Khóa hư lục [100, tr.129] 39 Từ cổ (theo Đào Duy Anh, Chữ Nôm nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến [1, tr. 24- 27]: “ Là những từ xưa, hiện nay không dùng nữa”. Tác giả Trần Trọng Dương cho rằng: Từ cổ là những từ chỉ xuất hiện trong các văn bản Nôm hay quốc ngữ từ đầu thế kỉ XX trở về trước. Từ cổ là những từ người hiện nay không thể hiểu được nếu không dùng các từ điển để tra cứu, hoặc không đối chiếu với nguyên tác Hán Văn…Theo nguồn gốc ngôn ngữ, tư cổ phân làm ba loại:
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 84
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
thuần Việt chiếm tỉ lện nhiều hơn so với từ cổ thuần Việt (62,58% so với 42,15%)40.
Như vậy có nghĩa là Nôm hóa giáo lí Phật giáo qua hiện tượng Tuệ Tĩnh
dịch Khóa hư lục giải nghĩa là bước đi đặc thù của phương pháp dịch thuật
trung đại, được Lại Nguyên Ân coi là “thượng nguồn văn học dịch” ở nước
ta. Đó là cách thức đầu tiên người Việt “Nôm hóa” giáo lí Kinh Phật nhằm
rút ngắn khoảng cách diệu vợi giữa văn bản với người tiếp nhận. Bản dịch
cũng thể hiện những nỗ lực đầu tiên của tác giả trong việc biến những khái
niệm nhà Phật trở nên gần gũi với tuyệt đại người tiếp nhận bằng những từ
Việt cổ và những từ Nôm đối dịch từ chữ Hán. Chặng đường đầu tiên của văn
học dịch này có ý nghĩa nền tảng đối với nền văn học dịch của người Việt.
Đây là mốc chứng tỏ tiếng Việt và chữ Nôm ngày càng chiếm ưu thế trong
đời sống xã hội. Mặc dù tiếng Việt và chữ Nôm không được dùng trong các
văn bản chính thống quan phương nhưng môi trường hành chức của nó không
ngừng được mở rộng trên mọi phương diện đời sống
Tuệ Tĩnh là nhân vật lịch sử, văn hóa đa diện (thiền sư, nho sĩ, y sư, dịch
giả…). Bản dịch Khóa hư lục của ông có ý nghĩa như một tư liệu quí về chữ
Nôm và tiếng Việt lịch sử. Đó là chặng đầu tiên của hành trình “Nôm hóa”
các giáo lí Phật giáo của người Việt, vì vậy đóng góp của ông là rất có ý
nghĩa.
3.2. Nôm hóa giáo lí Nho giáo qua hiện tƣợng Hồ Quí Ly
Theo các dữ kiện lịch sử Hồ Quí Ly dùng chữ Nôm để dịch các kinh,
truyện. Năm Ất Hợi (1395), Hồ Quý Ly đem thiên “Vô dật” trong Kinh Thư
là thiên chép lời Chu Công dạy Thành Vương nhà Chu dịch ra quốc âm, để
40 Trong luận án của mình, Trần Trọng Dương còn chia nhỏ nhóm từ Việt cổ thành các tiểu nhóm : Loại mất cả âm lẫn nghĩa, Loại các từ Việt cổ có âm đọc xa lạ với Tiếng Việt hiện đại, Loại các từ Việt cổ vẫn được sử dụng nhưng chỉ giới hạn trong một lĩnh vực hẹp, Loại các từ Việt cổ ngẫu nhiên đồng âm với một từ Việt hiện nay……….[100, tr.134-140]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 85
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
dạy quan gia (tức vua Thuận Tông). Năm Bính Tí (1396) Hồ Quý Ly làm
sách “Thi nghĩa” (Nghĩa của Kinh Thi) bằng quốc âm để nữ sư dạy hậu phi
và cung nhân học tập. Bài tựa ở đầu cuốn sách này phần nhiều theo ý riêng
của ông, chứ không theo tập truyện của Chu Tử. Cũng như thơ Nôm, những
bản dịch nêu trên đều đã mất.
Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ
Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Hồ Quý
Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi, bắt phải hoàn tục, tổ chức sát
hạch kinh giáo. Quý Ly soạn sách Minh đạo bàn về Nho giáo, nghi ngờ một
số chỗ của sách Luận ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà
Nho Hàn Dũ, Chu Đôn Di. Trần Ngọc Vương trong “Phác thảo Nho giáo ở
Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV-XVII” cho rằng: “Bước đầu nêu yêu cầu thẩm
xét lại kinh điển Nho giáo, tuyển lựa lấy cái gì phù hợp cho Việt Nam - Bốn
điểm ngờ vực đối với Luận ngữ phản ánh một tinh thần tự chủ trong học
thuật - cả việc đưa Chu Công lên trên Khổng Tử, cả việc tổ chức dịch kinh điển Nho giáo ra quốc âm cũng là trên tinh thần đó [70, 16-17]
Qua các dữ liệu chính sử, có thể thấy rằng Hồ Quí Ly đã hình dung một
mô hình xã hội tiếp nhận Nho giáo và biến đổi theo điều kiện của người Việt,
hay nói cách khác đã “Việt hóa” và “Nôm hóa” hệ thống giáo lí của Nho học
Trung Quốc theo điều kiện của Việt Nam và áp dụng nó một cách thực dụng
và thành hệ thống. Đây là cái nhìn tiến bộ của một người có tầm nhìn xa
trông rộng, đặc biệt có suy tư tỉnh tảo và biết chắt lọc những điều phù hợp với
lịch sử và phong tục của nước Nam. Con đường mà Hồ Quí Ly phác họa có ý
nghĩa tiến bộ nhất định nhưng đáng tiếc nó “ngoại cỡ” sơ với sự phát triển
tiệm tiến của thời đại nên đã chết yểu. Nguyễn Quang Hồng cho rằng: “Hồ
Quý Ly cũng vậy, mặc dù cũng có làm thơ Nôm, và đặc biệt đề ra chủ trương
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 86
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
dùng chữ Nôm để dịch thuật sách vở Trung Hoa, song chưa kịp để lại kết quả
gì. Chi tiết lịch sử này có thể được hiểu như là một sự ghi nhận xứng đáng
của nhà nước đương thời đối với sự tồn tại của chữ Nôm trong đời sống văn
hóa dân tộc bấy giờ” [29, 386]
Ý muốn của Hồ Quý Ly là đưa xã hội Việt Nam theo mô hình Nho giáo
đã có sự gạn lọc, dẫu có những điểm tiến bộ nhưng lại dưới hình thức bị
cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích
nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng. Cho nên
ngả rẽ mà họ Hồ muốn đi là chặng đường đau đớn và đứt gãy về mặt văn hóa
của dân tộc. Nho giáo thời Hồ Quý Ly không dễ dàng tìm được chỗ đứng cho
mình. Nó cần những hi sinh để đổi lấy địa vị vững chắc và lâu dài trong
tương lai. Cho dẫu thế, cái còn lại về mặt ý thức hệ là một lối đi mang tính tất
yếu mà lịch sử phải trải qua. Lối đi ấy dẫu lắm chông gai và phải mất nhiều
thời gian nhưng cần thiết. Chỉ tiếc rằng thời gian và binh hỏa đã xóa sạch
những trước tác của họ Hồ. Nay, nhắc lại những tác phẩm ấy chúng ta không
khỏi ngậm ngùi tiếc nuối.
3.3. …Và ngả đƣờng tất yếu phải đi…
Với Việt Nam, Khi mới giành được chủ quyền cũng là thời điểm mà tất
cả ở vạch xuất phát. Khi ấy, ở ngay cạnh mình có một nền văn hóa đã ở trạng
thái hoàn thành và tỏa sáng rực rỡ thì không có lí do gì mà không chịu ảnh
hưởng. Nhất là nghìn năm qua mình vẫn trong tâm thế ảnh hưởng một cách
cưỡng chế. “Bất chấp xung đột với Trung Quốc, nền văn hóa Hán vẫn tiếp
tục len vào Việt Nam, tiếng Hán vẫn là ngôn ngữ của giới sĩ phu, quan lại
trong những năm này” [23, 262]
Mặt khác, việc tận dụng những thành quả đã được lịch sử thừa nhận sẽ
bớt đi những tìm tòi và đau đớn không đáng có của cơn trở dạ thời đại. Cho
nên dễ hiểu vì sao văn hóa Việt Nam có sự kế thừa và nối tiếp rất lớn của văn
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 87
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
hóa Trung Quốc. Văn học Việt Nam cũng nằm trong qui luật vận động chung
có tính phổ biến trên thế giới, bản thân văn học Việt Nam cũng kế thừa
những giá trị đã được xác lập của văn học Trung Quốc như sự tiết kiệm thời
gian và tránh được những mất mát không đáng có. Vả chăng, con đường phát
triển của nền văn học bứng trồng ở các nước trên thế giới là một hiện có tính
qui luật và có qui mô toàn nhân loại không một tộc người nào tránh khỏi.
Biểu hiện cụ thể nhất, sơ khai nhất, trực tiếp nhất của sự trưởng thành văn
hóa nói chung và văn học nói riêng là sự mô phỏng. Mô phỏng với văn hóa
văn học Việt Nam đầu tiên ở phương diện ngôn ngữ. Ngả đường của mọi sự
sáng tạo đều bắt đầu từ mô phỏng, tùy theo mức mức độ trưởng thành và sức
độ của sự mô phỏng khác nhau. Ngoại trừ những yếu tố riêng biệt, cá thể đi
chúng ta có thể tìm được một con đường sáng tạo có tính chất công thức
chung như sau: Mô phỏng => biến đổi => sáng tạo41
Cho nên chặng đầu tiên của vị thế độc lập cả phương diện xã hội lẫn văn
hóa, đối với Việt Nam, vay mượn chữ viết là một cách lựa chọn mang tính tất
yếu. Thời Lý – Trần – Hồ (Thế kỉ XII – XIV) “chữ Nôm mặc dù đã hình
thành với gần như đầy đủ các phương thức tạo chữ nhưng chủ yếu vẫn nằm
trong giai đoạn mô phỏng chữ Hán để ghi tiếng Việt và tỉ trọng chữ mượn
Hán là áp đảo so với chữ Nôm tự tạo” [29, 385-386]. Tác phẩm Nôm tiêu
biểu cho thời kì này còn lại không nhiều. Tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của vua Trần Nhân Tông (1258-1308), tổ thứ
nhất của phái Thiền tông Trúc Lâm là những văn bản đầu tiên hiện còn; tiếp
đến là Vịnh Hoa Yên tự phú của Lý Đạo Tái (1254-1334), đạo hiệu là Huyền
Quang, tổ thứ ba của phái Thiền tông Trúc Lâm và Giáo tử phú của Mạc
41 Xem Hoàng Thị Tuyết Mai (2001) Khóa luận tốt nghiệp Bước đầu tìm hiểu phương thức tập cổ qua trường hợp Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (nguyên tác), bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 88
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Đĩnh Chi (thế kỷ XIV). Bốn tác phẩm này, hiện còn được ghi chép trong sách
Thiền tông bản hạnh.
Ngoài ra sự kiện Nguyễn Thuyên và Hồ Quí Ly được chép trong chính sử
như những người sáng tác thơ Nôm, dùng chữ Nôm tích cực nhất của giai
đoạn lịch sử này. Nhìn chung, tác phẩm văn học chữ Nôm thời Trần truyền
lại đến nay không nhiều nhưng đây là những văn bản có giá trị giúp chúng ta
tìm hiểu về sự hình thành văn Nôm (đặc biệt là văn Nôm biền ngẫu) nói riêng
và văn học chữ Nôm thời Trần nói chung. Các tác gia văn học thời Trần đã
tạo nền móng cho việc sáng tác văn học bằng ngôn ngữ dân tộc. Đây là sự
khởi đầu, tạo tiền đề cho sự phát triển nở rộ những tác phẩm văn học chữ
Nôm các thế kỷ tiếp theo. So với hành trình của chữ Nôm và văn học Nôm
thì sáu thế kỉ ban đầu này chỉ có ý nghĩa đặt cơ sở nền tảng và hứa hẹn những
khả năng mới cho những giai đoạn tiếp theo mà Nguyễn Trãi là mốc son đậm
nét.
Một câu hỏi đặt ra: Vì sao các triều đại thời Lý Trần ( tất nhiên cả các triều
đại sau này nữa, nhưng đó là việc của chặng khác nên tác giả luận văn
không đặt ra ở đây) coi trọng chữ Nôm nhưng không có chính sách cụ thể để
điển chế hóa? Chúng tôi mạnh dạn đề xuất những suy nghĩ của mình với
mong muốn tạo cơ hội để những người quan tâm cùng trở lại vấn đề tưởng
như đã cũ. Chân lí cuối cùng có lẽ là điều trăn trở không phải của một vài
người, một vài luận văn, một vài cuộc hội thảo mà có lẽ là vấn đề dài hơi
hơn, đòi hỏi sự dày công và cái nhìn nghiêm túc lâu dài hơn. Dẫu vậy, chúng
tôi mạnh dạn đề xuất các nguyên nhân mà chúng tôi cho là khách quan sau
đây
Hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử, thế kỉ X – XIV là giai đoạn mà người
Việt phải quan tâm đến vấn đề độc lập dân tộc về mặt lãnh thổ nhiều nhất. Cơ
hội độc lập từ 938 là nỗ lực của cả hơn nghìn năm lịch sử dồn nén. Như một
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 89
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
lẽ hiển nhiên của qui luật vận động lịch sử, phản ứng đầu tiên của các triều
đại thời dựng nước là phải cố kết dân tộc thành một khối thống nhất và tìm
mọi cách để bảo vệ mình khỏi sự nhòm ngó của đế quốc hùng mạnh phương
Bắc. Ở giai đoạn này đã có sự mô phỏng về một thể chế chính trị và một mô
hình xã hội Trung Quốc nhưng là sự mô phỏng đã được đẽo gọt về qui mô và
gạn lọc về cách thức. Thời đại Lý Trần dựa trên nền tảng truyền thống và sự
phát triển xã hội đương thời, kết hợp những yếu tố lịch đại và sự ảnh hưởng
đồng đại, một cấu trúc xã hội – chính trị mang mẫu hình phổ biến của các
nước phương Đông, nhưng lại rất độc đáo với những đặc thù Việt Nam, đã
đang hình thành và củng cố. Vì là giai đoạn hình thành và củng cố nên ưu
tiên số một là các vấn đề thuộc thiết chế xã hội. Nhìn một cách tổng quát, kết
cấu chính trị xã hội thời Lý Trần như một hệ thống cấu trúc đẳng cấp phong
kiến hướng tâm. Nó bao gồm hai hệ thống chính có quan hệ mật thiết với
nhau: khối vua quan và khối bình dân làng xã. Xét về phương diện lịch đại,
cấu trúc xã hội – chính trị thời Lý Trần đang vào thế cân bằng ổn định, chính
vì thế nó cần tập trung để phát huy sức mạnh tiềm tàng của hệ thống. Nó cần
sự ổn định về cơ sở và thiết chế, giữa nền tảng kinh tế và kiến trúc chính trị
xã hội. Nó cần sự ổn định trong cấu trúc nội tại của hệ thống chỉ đạo trung
tâm: vua, quan, triều đình. Nó cần sự ổn định trong cấu trúc nội tại của những
hệ thống thứ cấp: khối cộng đồng làng xã. Nó cần sự ổn định trong mối quan
hệ giữa hai hệ thống trung tâm và thứ cấp, giữa triều đình và vua quan và
bình dân làng xã. Thời Lý Trần tuy đã có sự phân tầng xã hội rõ rệt tạo nên
những đẳng cấp thống trị và bị trị nhưng đẳng cấp này còn đang ở giai đoạn
hình thành và chưa xung đột mạnh về quyền lợi. Nhà nước trung ương thời
Lý Trần phải lo làm tròn nghĩa vụ của mình trong công cuộc phát triển sản
xuất, bảo vệ đất nước, chăm lo đời sống về vật chất cho làng xã để tạo sự cân
bằng và ổn định cần thiết.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 90
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Mặc dù về văn hóa, văn học, văn tự giai đoạn này đã xác lập được những
giá trị của riêng mình trên cơ sở vay mượn và ảnh hưởng của các luồng khác
nhau, song, từ chỗ xuất hiện cái riêng đến chỗ biến cái riêng thành những chế
ước mang tầm quốc gia thì cần một quá trình dài hơi và những trải nghiệm
lịch sử cần thiết. Chữ Nôm và văn học Nôm lúc này dẫu sao trong cái nhìn
lịch đại mới chỉ dừng lại ở thời kì manh nha. Từ chỗ có văn tự đến chỗ sử
dụng văn tự đó như thế nào và vấn đề văn tự chính thống mang tư cách nhà
nước thì không phải chuyện của vài thế kỉ, nó đòi hỏi phải có nhiều thời gian
và phải có cống hiến của nhiều trí tuệ. Nghĩa là, giai đoạn này sự trải nghiệm
lịch sử chưa hội tụ các yếu tố cần và đủ để bàn đến chuyện điển chế hóa chữ
Nôm.
Chữ Nôm, như chúng tôi đã nhắc đến ở chương một, là một thứ văn tự
không dễ học và không dễ quảng bá. Cái khó của thứ văn tự này vừa có
nguyên nhân khách quan: Cấu tạo và nguyên tắc tạo chữ, vừa có nguyên nhân chủ quan: đa số dân ta không biết chữ Hán42. Vì vậy, nó là rào cản với tuyệt
đại dân chúng. Dường như sự tồn tại của chữ Nôm như một thứ “chơi chội”
của tầng lớp trên trong xã hội, như một thứ “phi chính thống” của những
người đã thuộc nằm lòng loại ngôn ngữ văn tự của trường qui. Nó là phương
tiện của thứ “văn chơi”, vừa gần gũi với nhân dân về tư tưởng vừa xa vời với
nhân dân về mặt nhận diện chữ.
Và như thế, thiết nghĩ, việc coi chữ Nôm và văn Nôm là của “bố cu mẹ đĩ” là
một nhận định thiên kiến.
Chữ Nôm không được dùng trong khoa cử và văn tự hành chính quan
trọng. Do đó, chữ Nôm ít được cải tiến, và nếu có cải tiến cũng mang tính tự
42 Đào Duy Anh viết “Muốn hiểu chữ Nôm, muốn học chữ Nôm thì điều kiện cơ bản phải biết chữ Hán, nhưng đó là đieuf kiện cần thiết chứ không phải điều kiện đầy đủ. Còn phải nắm vững phương pháp cấu tạo của chữ Nôm, nắm vững tình hình diễn biến của chữ Nôm qua các đời, cùng với nguồn gốc của nó, và để nắm được những điều kiện trên thì lại cần nắm được một số qui luật ngữ âm học lịch sử về tiếng Việt Nam và tiếng Hán – Việt. Do đó chúng ta cần phải nhằm những mặt ấy mà nghiên cứu chữ Nôm” [1, 9]
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 91
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
phát. Không những thế, mỗi địa phương lại có một lối viết có những khác
biệt nhau. Và mỗi hoàn cảnh cụ thể người ta lại có những “qui ước” mang
tính cục bộ. “Vì quốc âm ta không có chính tự, chỉ mượn chữ Bắc “cá nháy”
bên cạnh, thuận mồm mà đọc, không có bốn vận bình, thượng, khứ, nhập;
cho nên người Bắc không tìm được thanh âm, biên chép dễ sai” [16, 264]. Tham khảo cách phân chia của Nguyễn Quang Hồng43 chúng ta thấy chữ
Nôm được cấu thành từ những bộ phận khá phức tạp. Hiện tượng mượn dùng
chữ Hán và tạo thêm những dấu hiệu khác nhau theo những qui luật nhất định
và cấp cho nó âm đọc Việt để tạo ra hệ thống chữ Nôm là một hiện tượng
sáng tạo không thật ổn định. Có thể nhiều lúc chỉ là sự ứng phó tức thời khi
chưa kịp tìm ra chữ thích hợp, rồi để nguyên hoặc gia giảm tái tạo lại mà
dùng cho được việc đã tạo cho diện mạo chữ Nôm một bộ mặt khá phong phú
và phức tạp. Một hệ thống không chính xác và không đồng nhất tồn tại lâu
dài và không được kiểm soát.Chính vì vậy, qua nhiều thế kỷ, nhiều triều đại
chữ Nôm vẫn chỉ có hình thức tự lưu truyền ứng dụng, như khi viết tên
người, tên làng tên đất trong tiếng Việt. Khi cần thiết, những nhà văn, những
nhà thơ, nhà chính trị tự tạo những chữ viết thích ứng cần thiết. Với tuyệt đại
đa số dân chúng, mở cánh cửa chữ Nôm vẫn là xa lạ. Việc một bậc túc nho
như Phạm Ðình Hổ (1769-1839) phải thú nhận "Ta đã học vỡ được ít kinh sử,
thế mà chữ Nôm ta không biết hết" [37, 9] cho thấy ngay cả các sĩ phu dùng
chữ Nôm cũng còn những khó khăn nhất định. Sự sáng tạo ra chữ Nôm
không phải nhằm để tự giải phóng khỏi sự khống chế của chữ Hán mà nó
phản ánh nhu cầu có văn tự riêng của dân tộc phục vụ tuyệt đại đa số nhân
dân, nhưng bản thân chữ Nôm với cái khó nội tại trong cấu tạo, cách thức tồn
tại và lưu hành của nó chưa đáp ứng được.
3.4. Tiểu kết
43 trong cuốn Khái luận văn tự học chữ Nôm, NXB Giáo dục, 2008, Chương 3, sơ đồ 3.3.4
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 92
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Lịch sử các triều đại thời Lý Trần cũng có những đổi thay về chính trị,
song nhìn chung ngôn ngữ sử dụng trong đời sống và sáng tác văn chương
vẫn nằm trong quĩ đạo phát triển chung và thống nhất. Đó là điều kiện quan
trọng cho sự ra đời và kết tinh của một số thể loại văn học Nôm. Có thể thấy
rằng trong những thế kỉ đầu độc lập ngôn ngữ dùng trong đời sống và sáng
tạo văn chương luôn nằm trong thế phải vận động, phải cựa quậy, phải nỗ lực
và luôn khao khát đến đích của sự ổn định và hoàn thiện. Nói đến tiến trình
vận động và phát triển của chữ Nôm, tức là nói đến cả ba bình diện văn tự,
ngôn ngữ, và văn hóa trong tư thế đan cài với nhau, không thể tách khỏi
nhau. Nó không chỉ phản ánh nhu cầu ghi chép ngôn ngữ tiếng Việt của
người Việt, mà còn phản ánh trình độ phát triển của văn minh và văn hóa của
người Việt, bởi chữ viết là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho một
nền văn minh phát triển cao.
Tuy nhiên, để có một nền văn học Nôm rực rỡ và phong phú thì phải đến
giai đoạn sau: thế kỉ XV, rồi thế kỉ XVIII – XIX. Đó là phần kiến thức nằm
ngoài phạm vị của luận văn này, người viết xin được đề cập trong một dịp
khác.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 93
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
PHẦN KẾT LUẬN
Có thể thấy, thời Lý Trần là thời kỳ mà cùng với dân tộc, nền văn hóa
Đại Việt phải vận động và có ý thức đối chọi với nhiều thách thức gay gắt từ
môi trường chính trị và văn hóa khu vực. Do sự vận động nội tại cũng như
những tác động ngoại sinh, văn hóa Đại Việt thời Lý Trần có sự chuyển hóa
mạnh trong cơ tầng, cấu trúc cũng như biểu hiện và hành vi văn hóa. Sự
chuyển hóa đó được thể hiện rõ nhất ở các thành tố bên trên, tức những lớp
văn hóa thượng tầng mà biểu hiện rõ rệt nhất là ngôn ngữ và văn học
Sự ra đời của chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu của dân tộc trong sự
phát triển văn hoá, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt. Văn chương Phật
giáo, Nho giáo viết bằng chữ Nôm có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển
văn hoá dân tộc. Văn bản vẫn còn, hình tích chưa phai, chữ Nôm mãi mãi là
đứa con tinh thần của người Việt, gắn liền với truyền thống nghìn năm đã qua
và về sau. “Cái diệu trong chế tác tỏ ra ở điển lễ hiến chương, cái hay trong
tâm thuật ngụ vào trong văn chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết
được đạo trời. Thư tịch, văn minh của loài người là ở đó”. [9, 379]
Giống như các nước đồng văn khác, Việt Nam đã tiếp thu và sử dụng chữ
Hán trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng sáng tạo ra một di sản vô cùng độc
đáo, thể hiện bản lĩnh văn hoá dân tộc Việt Nam, ghi lại ngôn ngữ của chính
mình, khác hẳn với bất kỳ quốc gia nào, đó chính là chữ Nôm của người Việt.
Hiện tượng này vừa mang những nét đặc thù của riêng mình nhưng đồng thời
nó cũng nằm trong qui luật chung của thế giới. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vương cho rằng, đây là một hiện tượng mang tính quốc tế “Tới những thời
điểm nhất định, các nền văn hoá, văn học “được tích hợp” đều hiển thị
những nỗ lực tìm kiếm và sáng tạo của mình trên bình diện công cụ và các
yếu tố hình thức nhằm vừa để làm gia tăng phương tiện và công cụ biểu hiện,
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 94
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
phản ánh cảm xúc và tư duy, vừa để vượt thoát khỏi sự ràng buộc mang tính
cầm tù của các phương tiện nghệ thuật mà ở điểm xuất phát, họ đã buộc phải
vay mượn, tiếp thu từ “nền văn hoá, văn học cổ mẫu” (archétype). Kết quả là
sự xuất hiện và hoàn thiện từng bước của các hệ thống văn tự mang tính
“quốc ngữ” (Nhật văn, Hàn văn, chữ Nôm), các thể loại văn học và nghệ
thuật hướng tới trình độ “điển phạm dân tộc”. Giữa trình độ phát triển của
ngôn ngữ văn học thể hiện đặc thù dân tộc với sự xuất hiện và hoàn thiện hoá
các thể loại văn học dân tộc dĩ nhiên có sự hô ứng và tòng thuộc lẫn nhau.”
[97]
Như vậy, ở “thời đại thứ nhất” của lịch sử văn học, nền văn học Việt Nam
vừa mang những “đặc điểm nhận dạng” tương tự với “những đặc điểm nhận
dạng” của các nền văn học khác trong khu vực, cụ thể là văn học Nhật Bản và
văn học Triều Tiên, (cùng tiếp nhận những thành tựu và khuôn mẫu của nền
văn học “gốc” là văn học Trung Quốc, lại cũng cùng kinh qua những chặng
đường và cách thức dân tộc hoá tương tự nhau) vừa cũng đã xác lập nên
“những tiêu chí hệ hình” thuần tuý cho riêng mình (chữ viết – ngôn ngữ văn
học riêng, hệ thống chủ đề - đề tài riêng, hệ thống hình tượng văn học riêng,
một số thể loại văn học riêng ).
Chữ Nôm đã có một quá trình hình thành và sử dụng lâu dài ở Việt Nam, là
phương tiện chuyển tải những giá trị truyền thống, biểu đạt những đặc trưng
văn hoá, phản ánh nhân sinh quan và thế giới quan của lớp lớp người Việt
Nam qua hàng chục thế kỷ “….quá trình trở thành chữ văn học của kiểu chữ
này trải qua nhiều thăng trầm trong suốt nhiều thế kỉ” [23, 263]
Trên cơ sở các kết quả khảo sát các dữ liệu trong chính sử về phương
thức ứng xử của các triều đại hành chính quan phương thời Lý Trần chúng ta
thấy một thực tế được ghi chép lại rằng: Tuyệt nhiêu các triều đại chính thống
không coi thường và miệt thị chữ Nôm mà ngược lại có niềm tự hào và bằng
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 95
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
những cách khác nhau đều cố gắng thể gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình
trong những trước tác khác nhau. Cách ứng xử với chữ Nôm trong công việc
hành chính, trong bày tỏ tâm tư, và đặc biệt trong giao dịch với dân chúng có
những ưu ái nhất định. Các thành tựu về văn học mặc dù chưa phong phú
song lượng tác phẩm phú Nôm và dịch phẩm Khóa hư lục đã cho thấy vai trò
của ngôn ngữ văn Nôm với trí thức đương thời, việc Nôm hóa giáo lí Phật
giáo, Nho giáo là chặng đi cần thiết mà dân tộc phải trải qua.
Từ góc nhìn lịch đại, cũng không có gì ngạc nhiên nếu cho rằng thời Lý
Trần nền văn học vẫn chưa đạt được những thành tựu đáng kể nào về ngôn
ngữ văn học. Văn học chữ Nôm mặc dù đã có thành tựu song phải đến
Nguyên Trãi mới có những nét riêng về bản sắc. Có thể coi giai đoạn trước
Nguyễn Trãi là thời kì vận động và tích hợp, ươm đủ những điều kiện cần
thiết để tạo tiền đề cho chặng tiếp theo.
Có thể thấy rằng trong hơn năm thế kỉ đã qua (X – XV), ngôn ngữ dùng
trong đời sống và sáng tạo văn chương luôn nằm trong thế phải vận động,
phải cựa quậy, phải nỗ lực và luôn khao khát đến đích của sự ổn định và hoàn
thiện. Trịnh Khắc Mạnh nhấn mạnh: “Các triều đại nhà nước phong kiến ở
Việt Nam phát triển lúc thịnh lúc suy; nhưng văn học Việt Nam nói chung và
văn học chữ Nôm nói riêng, lại có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều điểm mới
trong sáng tác văn học nghệ thuật được hình thành về cả giá trị nội dung và
hình thức nghệ thuật. Văn học chữ Nôm phát triển toàn diện về chất lượng nội dung và số lượng tác phẩm”44
Trên những nét tổng thể, sự manh nha, hình thành và phát triển của chữ Nôm
và văn học Nôm nằm ở “dòng riêng giữa nguồn chung”. Nó không đi ngược
với qui luật hình thành, phát sinh, phát triển của văn hóa khu vực. Các nền
văn học Nhật Bản, Triều Tiên hay Việt Nam cho tới cuối thời đại thứ nhất về
44 trong Hội Nghị Quốc tế về chữ Nôm năm 2006
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 96
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cơ bản vẫn vận hành theo quỹ đạo khu vực, tính chất “đồng văn” vẫn cực kỳ
đậm đặc. Nói cách khác, giữa các nền văn học này và nền văn học Trung
Quốc vẫn duy trì rõ nét những “đồng dạng hệ hình”. “Các nền văn học vùng
Ðông Á chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc cũng vận động theo hai quá
trình: một mặt nỗ lực để theo kịp khuôn mẫu Trung Quốc (vừa “vô tốn” vừa
“bất dị”), mặt khác từng bước kiên trì tìm kiếm và cuối cùng đã kiến tạo
được cả ngôn ngữ văn học mới, cả hệ thống thể loại mới”. [97]
Để có một nền văn học Nôm rực rỡ và phong phú thì phải đến giai đoạn sau: thế kỉ XV, XVIII – XIX45. Đó là phần kiến thức nằm ngoài phạm vị của
luận văn này, người viết xin được đề cập trong một dịp khác.
Phác họa của tác giả luận văn về chặng đường nghiên cứu tiếp theo.
Như đã khẳng định ở Phần mở đầu: việc nghiên cứu chữ Nôm với tư
cách là hiện tượng khởi đầu của truyền thống văn hiến Việt Nam tuy đã và
đang được chú ý song vẫn là công việc lâu dài. Thực hiện luận văn này chúng
tôi mong muốn bắt đầu cho một hướng đi khác mà lâu nay giới nghiên cứu
chưa quan tâm thích đáng. Những khảo luận trong phạm vi luận văn chỉ có ý
nghĩa như là thao tác đầu tiên, góp phần định hướng một cách tiếp cận mang
tính hệ thống và là tiền đề quan trọng cho những bước tiếp theo. Chúng tôi dự
kiến sẽ tiếp tục công việc này với những định hướng ban đầu như sau:
+ Khảo lại các dữ kiện trong lịch sử sau Hồ liên quan đến thái độ của các
chính thể đối với chữ Nôm và văn học Nôm, tức từ đời Lê trở về sau đến hết
thế kỉ XVIII bao gồm: toàn bộ phần dữ liệu xung quanh vấn đề chữ Nôm,
văn học Nôm bao gồm các tài liệu chính sử, các tài liệu hành chính quan
phương, các tài liệu chữ Nôm và văn học Nôm.
45 Chúng tôi dự kiến sẽ khảo toàn bộ dữ liệu trong chính sử và sáng tác văn chương thời trung đại để có cái nhìn tổng thể và toàn diện về vấn đề này trong chặng đường tiếp theo.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 97
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+ Trên cơ sở những dữ kiện lịch sử và văn học tiêu biểu tác giả định hướng
phân tích, đối sánh và tìm căn nguyên sâu xa cho quá trình phát triển nội tại
của chữ Nôm và văn học Nôm cũng như lí giải sự hưng thịnh và suy vong
của nó
+ Nhìn nhận lại một nhận định lâu nay tồn tại như một định kiến nhằm nhìn
nhận lại vấn đề ứng xử với văn học Nôm của các triều đại chính thống quan
phương, cung cấp một cái nhìn hệ thống về thái độ của các chính thể hành
chính quan phương với chữ Nôm và văn học Nôm
+ Trên cơ sở những gì làm được mục đích cao nhất của tác giả là tìm ra qui
luật riêng của văn học Việt Nam trên dòng chảy chung của các trong khu vực
văn minh phương Đông mà Trung Quốc là cái nôi kiến tạo
Những phác thảo trên là định hướng của tác giả luận văn về công việc của
chặng đường tiếp theo. Chúng tôi rất mong nhận được sự động viên và chia
sẻ của tất cả những ai quan tâm đến công việc gian nan và thú vị này.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 98
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A/ SÁCH, GIÁO TRÌNH
1.Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb.
KHXH
2. Đào Duy Anh (1994) Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa
3. Đào Duy Anh (2009), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn học
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
5. Hoàng Quyết, Triều Ân sưu tầm, dịch thuật, chú thích, giới thiệu (1994),
Truyện thơ Nôm Tày, NXB Văn hóa dân tộc.
6.Vương Chí Bình (Đào Nam Thắng dịch, Lê Đức Niệm hiệu đính) (2002),
Các đế vương với Phật giáo, NXB Văn hóa thông tin.
7. A.B Pôliacốp (1996), Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỉ X – XIV,
NXB Chính trị quốc gia, Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. ĐH & THCN
9. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập hai, NXB Giáo
dục.
10.Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1998), Văn học Việt
Nam thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB Giáo dục.
11.Phan Đại Doãn ( chủ biên): Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia , Hà Nội -1998.
12. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây – tiếp nhận và giao thoa
trong văn học, NXB Giáo dục
13.Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB Khoa
học xã hội
14. Hồng Đức tuyển chọn và giới thiệu (2009), Truyền thuyết và dã sử Việt
Nam hay nhất, Nxb Văn hóa – thông tin.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 99
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
15.Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1988), Thơ ca Việt Nam hình thức và
thể loại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
16.Lê Quý Đôn (2006) Vân đài loại ngữ ( Trần Văn Giáp biên dịch và khảo
đính), Nxb Văn hóa thông tin.
17.Nhiều tác giả (Việt Hà biên soạn) (2009), Những nghi án nổi tiếng trong
lịch sử Việt Nam, NXB Lao động.
18.Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử kí toàn thư trọn bộ, NXB Văn hóa –
thông tin.
19. Nhiều tác giả (2010), Thăng Long – Hà Nội tuyển tập công trình nghiên
cứu lịch sử, Tập 1, 2. NXB Hà Nội.
20. Nhiều tác giả (1959), Việt sử thông giám cương mục chính biên, tập XIII,
NXB Văn sử địa.
21. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Lộc và nhiều tác giả (2000), Văn
học Việt Nam từ thế kỷ X đến năm 1945 (ba tập), Nxb. Giáo dục.
22. TT Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập Văn học Việt
Nam, tập 1,2,3,4, Nxb Khoa học xã hội.
23. Nhiều tác giả (2004) Bách khoa lịch sử thế giới – Những sự kiện nổi bật
trong lịch sử thế giới (giai đoạn từ tiền sử đến 2000), Nxb Văn hóa Thông tin.
24. TT Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(2004), Ngữ Văn Hán Nôm tập1, 2, Nxb Khoa học xã hội.
25. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Trung tâm văn hóa văn miếu Quốc tử
giám (1997), Việt sử diễn âm, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
26.Nguyễn Thạch Giang (1993), Từ ngữ văn Nôm, Nxb KHXH.
27.Nguyễn Thị Hạnh (2007), Tác phẩm nghị luận văn học trung đại việt
Nam, Nxb Văn học.
28.Dương Quảng Hàm (1997 tái bản theo đúng bản in lần đầu năm 1943),
Việt Nam thi văn hợp tuyển, NXB Hội nhà văn.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 100
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
29. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, NXB Giáo
dục.
30.Nguyễn Quang Hồng (1993), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH,
31.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. KHXH
32.Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Nxb. KHXH
33.Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần, tập 3, Nxb. KHXH
34.Kiều Thu Hoạch (2007) Truyện Nôm Lịch sử phát triển và thi pháp thể
loại, Nxb Giáo dục.
35. UBKHXHVN, Viện sử học (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý
Trần, NXB Khoa học xã hội.
36.Viện sử học (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1,
NXB Giáo dục.
37. Phạm Đình Hổ (1998), Vũ trung tùy bút, NXB trẻ Hội nghiên cứu và
giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh.
38.Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb Văn học.
39.Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
40.Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo
dục.
41.Trần Đình Hượu (1995) Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn Hóa.
42.Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2001), Điển cố văn học, Nxb Văn học.
43.Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quí Ly, NXB Phụ nữ, 2006 (in lần thứ 8)
44. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh.
45.Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, Hội bảo tồn chữ Nôm Hoa Kỳ
(2006), Nghiên cứu chữ Nôm, NXB Khoa học xã hội.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 101
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
46.Phùng Hữu Lan (2006) Lịch sử triết học Trung Quốc ( Lê Anh Minh
dịch), NXB Khoa học Xã hội.
47.Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt triều Trần - Hồ, Nxb Văn
hóa thông tin.
48. Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Lý trong văn hóa Việt Nam, NXB Thanh
niên.
49.Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Trần trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh
niên.
50.Phạm Đức Phương (1998), 25 năm tiếp cận Đông Nam Á học (Tổng
kết 25 năm viện nghiên cứu Đông Nam Á), Nxb Khoa học xã hội
51. Lê Văn Quán (1981), Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH.
52.Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia.
53. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia.
54. Văn Đức Thanh, Nguyễn Văn Tài (2010), Hệ giá trị văn hóa Thăng Long
– Hà Nội trong lịch sử giữ nước của dân tộc, NXB Quân đội nhân dân
55.Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển tập anh, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh
56.Lê Tắc (2002), An Nam chí lược, NXb Thuận Hóa, Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây.
57.Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
NXB ĐHQG Hà Nội.
58. Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số tác gia- tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam, tập 1,2 , NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
59. Bùi Duy Tân (2004), Hợp tuyển văn học Việt Nam thế kỷ X- thế kỷ XIX,
tập I, Văn học thế kỷ X- XV. NXB Giáo dục.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 102
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
60.Bùi Anh Tấn (2009), Đàm đạo về Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông,
NXB Văn hóa Sài Gòn.
61.Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thể ( 1993), Từ điển nhân vật lịch sử
VN, NXB Văn hóa
62. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, NXB Giáo dục.
63.Trung tâm Unesco phổ biến kiến thức văn hóa giáo dục cộng đồng, Lê
Ngô Cát – Phạm Đình Toái (2004), Đại Nam quốc sử diễn ca, NXB Văn hóa
thông tin.
64. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thủy
đến thế kỉ XIX, NXB Giáo dục.
65. Phan Văn Các, Trần Ngọc Vương (đồng chủ trì) (2010), Di sản văn
chương Văn miếu Quốc tử giám, NXB Hà Nội.
66.Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, NXB Tri
thức.
67.Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007). Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế
kỷ XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.
68.Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam- Dòng riêng giữa nguồn
chung, NXB Giao duc.
69.Trần Ngọc Vương (1999): Loại hình học tác giả văn học – Nhà Nho tài tử
và văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
70.Trần Ngọc Vương (1998). “Phác thảo Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn thế
kỷ XV - XVII”, in trong: Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội..
71.Lý Tế Xuyên (1960), Việt điện u linh, NXB Văn hóa.
72.Lê Thu Yến (chủ biên) (2008), Văn học trung đại những công trình
nghiên cứu, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ ba.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 103
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
B/ TẠP CHÍ
73. Phạm Văn Ánh (2007), Trở lại bài từ "Nguyễn Lang qui" của Khuông
Việt đại sư dưới góc nhìn Từ sử, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 3)
74. Phạm Văn Ánh, Có hay không yếu tố nữ trong bài Từ điệu Nguyễn Lang
Quy của Khuông Việt Đại Sư, http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/
75.Phạm Văn Ánh (2008), Khảo biện văn thư ngoại giao của Trần Nhân
Tông, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 12)
76.Nguyễn Tài Cẩn (1971) Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất
hiện chữ Nôm trong Ngôn ngữ học, ( số 1) và GS Lê Văn Quán (1973), Góp
phần tìm hiểu nguồn gốc chữ Nôm trên cơ sở cứ liệu thanh điệu Hán Việt,
Ngôn ngữ học (số 4).
77.Trần Trọng Dương (2008), Tình hình cấu trúc chữ Nôm qua Khóa hư lục
giải nghĩa và Khóa hư lục giải âm, Tạp chí Hán Nôm (số 2)
78. Trần Trọng Dương (2010), Nghiên cứu về Tuệ Tĩnh, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử (số 08)
79. Hiểu Đông, Điển cố văn học Phật giáo trong văn học Thiền Tông đời
Trần, Nxb Tôn giáo, 2009.
http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=4497&catid=6
80. Trần Văn Giáp (1996) Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm trong Nghiên
cứu lịch sử, (số 127)
81. Lã Minh Hằng (1994), Sơ bộ tìm hiểu vai trò của bộ khẩu Hán trong cấu
tạo chữ Nôm, Tạp chí Hán Nôm (số 4).
82. Nguyễn Phạm Hùng (1994),Về cách tiếp cận truyện thời Lý Trần, Tạp chí
văn học (số 10)
83.Nguyễn Khắc Kham (2006), Chữ Nôm và cống hiến với văn học cổ Việt
Nam (Chữ Nôm or the Former Vietnamese Script and Its Past Contributions
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 104
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
to Vietnamese Literature, Nguyễn Tuấn Cường dịch), Tạp chí Hán Nôm, (Số
4)
84. Phạm Luận (1996), Đoán định thế nào về thơ Hàn luật, Tạp chí văn học
(số 6)
85.Trần Nghĩa (1976), Sắp xếp lại trật tự các tác gia Trần – Hồ - Hậu Trần,
Tạp chí văn học (số 2)
86. Lê Văn Quán (1973) Góp phần tìm hiểu nguồn gốc chữ Nôm trên cơ sở
cứ liệu thanh điệu Hán Việtt trong Ngôn ngữ học, (số 4).
87.Nguyễn Kim Sơn, Đạo đức công phu hay chính trị thực hành - bàn về tư
tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly,
http://khoavanhocussh.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article
&id=421:pgsts-nguyn-kim-sn&catid=85:trit-hc-m-hc-vn-hoa-hc&Itemid=256
88.Phạm Xuân Thạch, Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử ,
http://sites.google.com/site/quangthan/test1425322).
89.Bùi Duy Tân (1995) Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học
Nôm ở Việt Nam, Tạp chí văn học (số 2)
90. Bùi Duy Tân (1998) Văn học chữ Nôm: tinh hoa - sáng tạo của văn học
cổ điển Việt Nam thời trung đại trong Tạp chí Văn học, (số 8)
91. Bùi Duy Tân (1976) Vấn đề thể loại trong Văn học Việt Nam thời cổ, Tạp
chí văn học (số 3)
92.Bùi Duy Tân (1995) Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học
Nôm ở việt Nam, Tạp chí văn học (số 2)
93.Trần Nho Thìn (1981) Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại
thư tịch của Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú trong Tạp chí văn học, (số 4)
94. Trần Nho Thìn (2005), Viết lịch sử văn hóa Việt Nam: Lí luận phải đi
trước một bước, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 5)
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 105
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
95.Phạm Tuấn Vũ (200) Góp phân tìm hiểu phú Nôm, Tạp chí văn học (số
11)
96.Trần Ngọc Vương (1996), Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa
trong văn chương Nho giáo, Tạp chí văn học (số 7)
97.Trần Ngọc Vương, Văn học trung đại Việt Nam - vài nét đặc thù.
http://www.bulletin.vnu.edu.vn/btdhqghn/Vietnamese/C1483/2008/12/N2376
7/?1
C/ LUẬN ÁN, LUẬN VĂN
98.Nguyễn Tuấn Anh (2006), Mối quan hệ giữa xúc cảm thẩm mỹ và xúc cảm
tôn giáo trong tác phẩm Khóa hư lục, Bảo vệ tại Trường ĐHKHXH&NV Hà
Nội.
99.Nguyễn Thị Chiến (1993), Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn Hình tượng nhân
vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân, Bảo vệ tại Trường
ĐHKHXH&NV Hà Nội.
100.Trần Trọng Dương (2010), Luận án Tiến sĩ Nghiên cứu chữ Nôm và
Tiếng Việt qua các bản dịch Khóa hư lục Bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã
hội.
101.Dương Thu Hằng (2009), Luận án Tiến sĩ Trương Vĩnh Kí và bước khởi
đầu đời sống văn chương hiện đại, Bảo vệ tại Viện Văn học
102. Đỗ Thu Hiền (2004), Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển
tiếp về mặt loại hình tác giả Văn học Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ, Bảo
vệ tại Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội.
103.Trần Thị Mỹ Hòa (2008) Luận văn Thạc sĩ Trần Nhân Tông và mấy vấn
đề nổi bật của Văn học thời Trần, Bảo vệ tại Trường ĐH KHXH & NV,
ĐHQG Hà Nội.
104.Trần Thị Hương (2008), Luận văn thạc sĩ Cấm kị và đối phó với cấm kị
nhìn từ góc độ văn hóa, Bảo vệ tại Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 106
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
105.Trần Thị Hường (1997), Luận văn thạc sĩ Sử ca Nôm sự hình thành –
tính chất và giá trị thể loại, Bảo vệ tại Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội.
106.Phạm Ánh Sao (2008), Luận văn thạc sĩ Phú kinh đô đời Hán, Bảo vệ tại
Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội.
107.Nguyễn Kim Sơn, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn Những xu hướng của
Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX và sự tác động
của nó tới văn học, Bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
108. Kim Seona (1995), Luận văn thạc sĩ Nhân vật phụ nữ trong thể truyền kì
qua hai tác phẩm Truyền kì mạn lục và Truyền kì tân phả, Bảo vệ tại Trường
ĐHKHXH&NV Hà Nội.
109.Phạm Thị Phương Thái (2007), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và thể thơ
trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, bảo vệ tại Viện Văn học.
110.Nguyễn Văn Thịnh (1996), Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn Văn chương
khoa cử thời Lê sơ, Bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 107
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
PHỤ LỤC BẢNG SỐ 1
ĐVSK TT
THÁI ĐỘ CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI
THÁI ĐỘ CỦA CÁC SỬ GIA
CHI TIẾT LIÊN QUAN ĐẾN CHỮ NÔM VÀ VH NÔM
KK
KK
S T T
KÌ THỊ
TRUNG LẬP
KÌ THỊ
TRUNG LẬP
+
+
1 .
SỐ TRAN G Quyển V, Kỉ nhà Trần Trang 301
2 .
+
+
Bấy (năm giờ 1282) Có cá sấu đến sông Lô. Vua sai thƣ thƣợng Hình bộ là Nguyễn làm văn Thuyên ném xuống sông, con cá sấu tự đi mất.Vua cho việc này giống nhƣ việc của Hàn Dũ, cho là Hàn đổi họ Thuyên. Thuyên làm thơ lại giỏi phú âm. quốc Nƣớc ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đấy. Vua bảo ty Hành khiển giao hảo với Viện Hàn lâm. Lệ cũ, phàm có tuyên ra lời nói của vua thì viện Hàn lâm trƣớc bản đƣa thảo tờ chiếu cho ty Hành khiển để học tập trƣớc, đến khi tuyên đọc thì
Quyển 1. V, Kỉ nhà Trần Tr.316 (Khoả ng năm Mậu Tí, năm thứ 4, 1288)
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 108
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
giảng cả âm nghĩa cho dân thƣờng dễ là chức hiểu, vì hành khiển chỉ dùng cho hoạn quan thôi. Bấy giờ Lê Tòng Giáo làm tả phụ, cùng với lâm phụng Hàn chỉ là Đinh Củng Viên vốn không thích nhau. Ngày tuyên đọc lời nói của vua đã đến rồi mà Củng Viên cố ý cho không đƣa bản thảo.Tòng Giáo đòi nhiều lần cũng không đƣa. Ngày hôm ấy sa giá sắp ra ngoài cung, Củng Viên mới đƣa cho bản thảo. Tòng Giáo tuyên đọc lời chiếu về việc đại xá, không hiểu âm nghĩa là gì nên đứng im. Vua gọi Củng Viên đứng đằng sau nhắc bảo âm nghĩa Tòng Giáo có ý thẹn. Củng Viên chỉ bảo tiếng càng to mà tiếng đọc của Tòng lại bé đi, Giáo chỉ triều trong tiếng thấy nghe của Củng Viên thôi. Khi vua trở về trong nội, gọi Tòng Giáo bảo
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 109
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+
+
3 .
rằng: Củng Viên là ngƣời văn học, ngƣơi hoạn là quan, sao lại bất hòa nhau đến thế? Ngƣơi làm lƣu thủ Thiên Trƣờng, tôm đất, quýt vàng tặng biếu đi lại với nhau, có hại gì đâu? Từ đấy Tòng Giáo và Củng Viên giao hảo với nhau lại thân mật lắm. Mùa thu tháng 9, ngày 15, giờ tuất, có nguyệt thực. Sai Thiên chƣơng học sĩ là Nguyễn Sĩ Cố giảng ngũ kinh. Sĩ Cố giống bọn Đông Phƣơng Sóc ngày xƣa, giỏi khôi hài, hay làm thơ phú quốc ngữ. Nƣớc ta làm thơ phú bằng quốc ngữ bắt đầu từ đấy.
+
+
4
Quyển 2. VI, Kỷ nhà Trần Trang 340- 341: Bính Ngọ năm 14 (1306) (Nguyê n, Đại Đức năm thứ 10) 3. ! Quyển VIII, Kỷ nhà Trần Tr. 410- 411
-Ngạc lại làm bài thơ yết hậu bằng quốc âm để cƣời Đán. Nguyên Nguyên Đán lập mƣu kết hôn nhân tránh để mong khỏi mối lo về sau, đem con là Mộng Dữ kí thác cho Quý Ly
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 110
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
5
+
+
4. Quyển VIII, Kỷ nhà Trần Tr. 410- 411
+
+
6
11
tháng
5. Quyển VIII, Kỷ nhà Trần Tr. 412
+
+
7
- Nguyên Đán có hai con gái, con lớn là Thái, con là Thai, sai thứ nho sinh dạy cho văn học. Nguyễn Ứng Long thì dạy Thái, Nguyến Hán Anh thì dạy Thai. Ứng Long nhân đùa bỡn lả lơi, làm thơ ca bằng quốc âm để trêu ghẹo thông Thái, rồi dâm. Hán Anh cũng làm thơ quốc âm bắt chƣớc Ứng Long. Khí Thái có mang, Ứng Long bỏ trốn. Đinh Mão, năm thứ (1387) (Minh Hồng Vũ 20). Mùa thứ xuân, 2, Thƣợng hoàng từ cung Bảo Hòa về Kinh. Tháng 3, lấy Lê Quí Ly làm đồng bình chƣơng sự, cho một thanh gƣơm, một lá cờ đề chữ “Văn võ toàn tài quân thần đồng đức”. Quý Ly làm thơ quốc âm để tạ Quý Ly làm sách Minh đạo 14 thiên dâng lên, đại khái cho Chu Công là
6. Quyển VIII, Kỷ nhà Trần
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 111
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Tr.421
tiên thánh, Khổng Tử là tiên sƣ; ở Văn miếu thờ Chu Công ở chính giữa ngoảnh về phƣơng Nam, Khổng Tử ở bên ngoảnh về phƣơng Tây; cho sánh Luận ngữ có bốn chỗ ngờ, nhƣ Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nƣớc Trần hết lƣơng, Công Sơn Phật Hất gọi mà Khổng Tử muốn đến..cho Hàn Dũ là đạo Nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dƣơng Thi, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhƣng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên làm nghề lấy cắp văn chƣơng của ngƣời xƣa. Thƣợng hoàng ban chiếu khen ngợi. Quốc Tử là trợ giáo Đoàn Xuân Lôi dâng thƣ nói bàn thế là không phải, bị lƣu đi châu gần; thƣ có nói hành khiển Đào Sƣ Tích đã có xem thƣ ấy, Sƣ Tích phải giáng làm trung thƣ thị
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 112
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+
+
8
7. ! Quyển VIII, Kỷ nhà Trần Tr 424
+
+
9
-
8. Quyển VIII, Kỷ nhà Trần Tr. 562 565 ( phần chú thích) [Sự kiện này sau đời Hồ nhưng vì nhắc đến đời Hồ nên vẫn trích dẫn]
lang tri đồng Thẩm hình viện sự. Ất Hợi, năm thứ 8 (1395) (Minh Hồng Vũ thứ 28) …….. Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Quý Ly vào ở bên hữu sảnh đài, gọi là Họa Lƣ. Quý Ly chép thiên Vô Dật dịch ra quốc âm để dạy quan gia. Có ra lệnh gì thì xƣng là Phụ chính cai giáo hoàng đế. Đinh Tị, năm thứ 4 (1437) …… Mùa hạ, tháng 4, đảo vũ ở cung Cảnh Linh Vua muốn xem thủ chiếu và thi văn của họ Hồ(1). Nguyễn Trãi tìm kiếm đƣợc thi văn bằng quốc âm vài chục bài dâng lên. (1) Những thi văn của Hồ Quý Ly giao cho Nguyễn Trãi súu tầm đến nay cũng mất cả. Sử chép Quý Ly giỏi thơ quốc âm. Hiện chỉ còn tập Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 113
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
0
02
07
0
07
02
là con Trừng của Hồ trƣởng Quý lƣu Ly, truyền ở Trung Quốc. Tổng 09 sự kiện
1 0
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 114
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
PHỤ LỤC BẢNG SỐ 2
CHI TIẾT LIÊN QUAN ĐẾN CHỮ NÔM VÀ VH NÔM
THÁI ĐỘ CỦA CÁC TRIỀUĐẠI LÝ TRẦN VỚI CHỮ NÔM VÀ VH NÔM QUA LĂNG KÍNH MỘT SỐ TÁC GIẢ
KÌ THỊ
TRUNG LẬP
K K
KHÔNG NHẮC ĐẾN
S T T
TRÍCH DẪN NGUỒN
+
1. 1
1.Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn học, 2009
*Tr.274: Khi các nhà văn nƣớc ta mới bắt đầu làm văn bằng Việt ngữ thì họ dùng một thứ chữ riêng gọi là chữ Nôm, theo sử chép thì chữ Nôm là do Hàn Thuyên (đời Trần Nhân Tôn) đặt ra nhƣng lại có ngƣời cho rằng chính Sĩ Nhiếp (187 – 226) là ngƣời đặt ra thƣc chữ Nôm ấy để dịch những sách Kinh truyện ra Việt ngữ mà dạy cho ngƣời Giao Chỉ…. Dầu sao trong suốt thời kì Bắc thuộc ta không thấy có chút dấu tích chữ Nôm nào. Mãi đến đời Trần Nhân Tôn (1279 – 1298) mới có Hàn Thuyên lấy chữ nôm làm bài văn tế cá sấu, và theo Đƣờng luật mà đặt ra phép làm thơ nôm gọi là Hàn luật, rồi từ đó các nhà Nho nƣớc ta thỉnh thoảng mới dùng chƣ nôm để làm văn chƣơng du hí. * Tr.274: Cuối đời Trần Hồ Quí Ly là ngƣời Việt Nam thứ nhất dám dùng chữ nôm để dịch Kinh thƣ ra Việt ngữ để làm sách dạy học, lại dùng chữ Nôm để khảo sắc chiếu nữa, song khi họ Hồ thất thế, cái tƣ tƣởng chấn hƣng Việt ngữ ấy cũng đã tiêu trầm * Trang 279 Đến nhƣ Việt ngữ thì các nhà nho
+
+
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 115
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+
+
+
2. 2.A.B Pôliacốp, Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỉ X – XIV, NXB Chính trị quốc gia, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, 1996
thƣờng khinh là “nôm na mách qué” nên chỉ khi nào làm văn chơi đùa tiêu khiển thì mới dùng đến, cho nên Việt văn không thịnh đạt cũng không lạ gì. Việt văn đƣợc nhà nho để ý là bắt đầu từ đời Hàn Thuyên đời Trần Nhân Tôn, dùng chữ nôm làm văn tế ngạc ngƣ và đặt ra Hàn Luật để làm thơ nôm; đồng thời một nhà Nho khác là Nguyễn Sĩ Cố cũng dùng chữ Nôm để làm phú, rồi các nhân sĩ trong nƣớc bắt chƣớc làm văn nôm càng ngày càng nhiều. Song văn chƣơng Việt ngữ đời Trần hiện chỉ truyền lại có mấy bài thơ về Huyền Trân Công Chúa và bài thơ “bán than” của Trần Khánh Dƣ thôi. * Trang 204: “Trên cơ sở chữ tƣợng hình Trung Quốc, hệ thống chữ viết dân tộc – “chữ Nôm” đƣợc phổ biến rộng rãi. Một trong những nhà thơ chữ Nôm tiêu biểu nhất thời gian này là Nguyễn Thuyên * Trang 278 - 279: “Trƣớc Hồ Quí Ly, trong các văn bản chín thức ở Đại Việt – cũng giống nhƣ ở Trung Quốc, đều đƣợc viết bằng chữ Trung Quốc cổ (Hán văn). Chữ viết dân tộc đƣợc sáng tạo trên cơ sở chữ Hán – chữ Nôm – chỉ đƣợc sử dụng trong sáng tác văn học. Công lao của Hồ Quí Ly là đã sử dụng hệ thống chữ viết này (chữ Nôm) để ghi chép những văn kiện có tính quốc gia và trao đổi hàng ngày. Đây là bƣớc tiến quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ văn học Việt, tạo điều kiện nâng cao tinh thần tự chủ dân tộc.”
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 116
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
3.Nguyễ 3. n Khắc Thuần, Tiến trình văn hóa Việt từ Nam khởi thủy đến thế kỉ XIX, NXB Giáo dục, 2007
* Trang 394 -395: Trong kỉ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất, chữ Nôm (một sáng tạo tuyệt vời của dân tộc) cũng đƣợc khai sinh. Trƣớc thế kỉ XIII, chữ Nôm chỉ mới ở vị trí rát khiêm nhƣờng là bổ sung cho chữ Hán khi ghi chép những tên ngƣời, tên đất và tên các vât dụng riêng của ngƣời Việt. Từ thế kỉ XIII trở đi, chữ Nôm đã nhanh chóng vƣơn lên trở thành chữ viết văn học. Văn học chữ Nôm ra đời kể từ đó. Ngôn từ khi vừa mới hình thành, văn học chữ Nôm đã có đƣợc những cống hiến rất đáng khích lệ, tuy nhiên, nếu càn thiết phải so sánh một cách tổng thể thì rõ ràng những thành tựu lớn nhất và có giá trị nhất của văn học dân tộc trong kỉ nguyên này thuộc về văn học chữ Hán. * Trang 447 – 448 – 449 – 540 - 451: Sau một thời kì hình thành và phát triển, đến thời Trần, chữ Nôm đã vƣợt qua những giới hạn chật hẹp của của loại hình văn tự giữ vai trò bổ sung cho chữ Hán để rồi từng bƣớc trở thành chữ viết văn học.Từ đây, dòng văn học chữ Nôm bắt đầu xuất hiện. Tuy vị trí ban đầu hãy còn rất khiêm nhƣợng, nhƣng, việc khai sinh của dòng văn học chữ Nôm là một sự kiện có tầm vóc rất quan trọng đối với toàn bộ lịch sử văn học dân tộc. Hai trong số những cây bút văn học chữ Nôm đầu tiên đƣợc sử sách trân trọng nhắc tới chính là Nguyễn Sĩ Cố và Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) . Nếu tạm thời giới hạn trong một chừng mực tƣơng đối nào đấy, bƣớc đầu, chúng ta có thể giới thiệu 10 cây bút tiêu biểu:
+
+ +
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 117
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
1.Nguyễn Sĩ Cố (Trần Cố ?-?), đỗ trạng nguyên năm 1266. Ông ngƣời làng Phạm Triền, huyện Thanh Miện, nay là thôn Phạm Lí, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dƣơng, trú quán tại làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (Nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Hiện nay vẫn chƣa rõ vì sao ông lại mang hai họ khác nhau. Sử cũ cho biết tháng 12. 1274, Trần Thánh Tông (1258 – 1278): “Chọn nguời Nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu Đông Cung. Lấy Lê Phụ Trần làm Thiếu sư kiêm Trừ Cung Giáo Thụ, Lấy bọn Nguyễn Thành Huấn, Nguyễn Sĩ Cố làm nội thị học sĩ”. Hoạn lộ của Nguyễn Sĩ Cố đƣợc khởi đầu từ đây. Tháng 6 năm 1305 Nguyễn Sĩ Cố đƣợc phong làm Thiên Chƣơng Học Sĩ và lo việc giảng dạy Ngũ Kinh cho hoàng tộc. Sử cũ chép rằng: “Nguyễn Sĩ Cố thuộc dòng Đông Phương Sóc, giỏi khôi hài hay làm thơ phú bằng chữ quốc ngữ. Nước ta làm nhiều thơ phú bằng quốc ngữ bắt đầu từ đó” Ngƣời cùng thời với Nguyễn Sĩ Cố là Thái Học Sinh Phạm Sƣ Mạnh từng có bài Quá An Phủ Nguyễn Sĩ Cố phần (qua mộ An Phủ Nguyễn Sĩ Cố) viết rất cảm động: Hắt hiu ngàn mẫu trúc nhƣ mây Trƣớc mồ An Phủ xót xa thay. Nơi cũ chốn xƣa cùng nâng chén, Bâng khuâng xuống ngựa nắng hây hây 2. Trần Nhân Tông: Là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần (1226 – 1400). Với lịch sử văn học dân tộc, Hoàng Đế Trần Nhân Tông thực sự là một trong những cây đại bút. Ngoài văn học chữ Hán, Hoàng Đế Trần Nhân
+
+
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 118
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+
Tông còn để lại một số tac phẩm văn học chữ Nôm rất có giá trị nhƣ: Đắc thú lâm tuyền thành đạo, Cƣ trần lạc đạo phú. Lời văn của ông giản dị và mạnh mẽ, rất đậm sắc màu nhà Phật nhƣng cũng đồng thời thể hiện rất rõ phong thái riêng của bậc xuất thân là Hoàng Đế: Xét nhân tâm, rèn tính thức, Há rằng mong quả báo phô khoe; Cầm giới hạnh, địch vô thường, Nào có sá cầu danh bán chác. Ăn rau trái, nghiệp chẳng hiềm thửa đắng cay; Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc. Nước chỉn vui về đạo đức, Nửa gian lều quí nửa thiên cung; Dầu hay mến thửa nhân nghì Ba phiến ngói yêu hơn lầu gác. (Hồi thứ hai, Cƣ trần lạc đạo phú) 3.Lý Đạo Tái đạo hiệu là Huyền Quang Thiền Sƣ, tổ thứ ba của dòng Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử. Theo ghi chép của một số thƣ tịch cổ về khoa cử Việt Nam (xem Trông lại ngàn xƣa – Đinh Khắc Thuần) thì Lý Đạo tái ngƣời làng Vạn Ti, xã Cao Đức, huyện Gia Lƣơng, tỉnh Bắc Giang. Ông đỗ đại khoa năm 1274 nhƣng chỉ làm quan một thời gian rất ngắn rồi xuất gia tu hành theo Phật giáo. Huyền Quang Thiền Sƣ Lý Đạo Tái đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc khá nhiều tác phẩm có giá trị. Trong số đó có khá nhiều tác phẩm văn học Nôm mà nổi bật nhất là Yên tử phú (bài phú về núi Yên Tử). Lời văn của Huyền Quang Thiền Sƣ rất phóng khoáng và mẽ: mạnh Ta nay Ngồi đỉnh Vân Tiêu,
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 119
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
4.Khoa 4. xã học hội Việt Nam, Viện sử học, Tìm hiểu xã
Cưỡi chơi cánh diều. Coi Đông Sơn tự hòn kim lục, Xem Đông Hải tựa miệng con ngao. (Yên Tử phú) 4. Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) hiện chƣa rõ ông sinh và mất năm nào. Thƣ tịch cổ chỉ cho biết rất sơ lƣợc rằng ông quê ở huyên Thanh Lâm (nay là Nam Sách, tỉnh Hải Dƣơng). Năm 1282, dƣới thời trị vì của hoàng đế Trần Nhân Tông. làm quan đƣợc Nguyễn Thuyên phong tới chức Hình Bộ Thƣợng Thƣ. Sử cũ chép: “Bấy giờ có cá sấu đến ở sông Lô. Vua sai thƣợng thƣ Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi mất.Vua cho việc này giống nhƣ việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nƣớc ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đấy.” Về sự chuẩn xác của đoạn văn này thì chúng ta có thể ngờ vực, nhƣng, việc Nguyễn Thuyên đƣợc Trần Nhân Tông ban cho họ Hàn là điều có thật và thơ chữ Nôm kể từ đó đƣợc gọi là thơ Hàn luật cũng là điều hoàn toàn có thật. 5. Nguyễn Trãi 6. Đỗ cận 7. Lƣơng Nhƣ Hộc 8. Lê Thánh Tông 9. Phạm Minh Lƣợng 10. Nguyễn Giản Thanh * Trang 158 – 159: Về ngôn ngữ, văn tự sử dụng trong giáo dục khoa cử, các vua thời Lý Trần đã sử dụng chữ Hán thực chất là một ngoại ngữ. Chúng ta biết rằng vào thời Lý, khi nền giáo dục khoa
+
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 120
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
hội việt Nam thời – Lý Trần, NXB Khoa xã học hội, 1981
+
+ +
cử đƣợc chính thức xác lập thì ở nƣớc ta, bên cạnh chữ Hán, chữ Nôm đã xuất hiện để ghi lại tiếng nói của dân tộc……..Chúng tôi không đề cập đến vấn đề nguồn gốc chữ Nôm mà chỉ muốn lƣu ý rằng vào thời ấy bấy giờ trong sinh hoạt văn hóa dân tộc đã có một thứ văn tự xuất hiện ghi âm tiếng nói của quần chúng. Tuy nhiên, từ chỗ có văn tự đến việc sử dụng văn tự đó trong hệ thống giáo dục thi cử, đòi hỏi phải có thời gian và phài có cống hiến của nhiều trí tuệ. Dù sao, chúng ta cũng đứng trƣớc một sự thật lịch sử: trong khi đi chọn lọc đi đến chỗ chấp nhận nội dung giáo dục Nho giáo, các vua Lý Trần đã loại trừ chữ Nôm một di sản văn hóa của dân tộc đƣợc hình thành do sự đóng góp của nhiều thế hệ. * Trang 460 461: Bởi tính chất vay mƣợn và dập khuôn của phong kiến nƣớc ngoài, nên giáo dục khoa cử thời Lý Trần tuy là nền giáo dục độc lập nhƣng lại không thỏa mãn yêu cầu phát triển văn hóa của dân tộc, và xa lạ với sinh hoạt của dân tộc. Đó là một trong những lí do làm cho chữ Nôm tồn tại, phát triển song song với giáo dục khoa cử và sự xuất hiện những sáng tác văn học bằng chữ Nôm bên cạnh cái gọi là “văn chƣơng bác học” của chính những ngƣời đƣợc đào tạo qua nhà trƣờng của nền giáo dục khoa cử đó” Về mặt ngôn ngữ văn tự, không chỉ trong lĩnh vực văn học, trong sinh hoạt giao tế hàng ngày mà cả trong lĩnh vực tôn giáo, chữ Hán đã không thỏa mãn đƣợc sinh hoạt tinh thần của quảng đại nhân dân, không phù hợp với dân chúng. Trong sáng tác
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 121
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
+
bằng quốc âm thời Trần còn lại đến ngày nay nhƣ bài phú Cư trần lạc đạo, bài ca Đắc thú lâm tuyền thành đạo của Trần Nhân Tông, bài phú Vịnh hoa yên tự của Trúc lâm đệ tam tổ Huyền Quang, bài Phú dạy con của Mạc Đĩnh Chi, chúng ta hãy còn thấy có thêm sách giải nghĩa Khóa hư lục của Tuệ Tĩnh. Hẳn rằng Khóa hư lục của Trần Thái Tông bị hạn chế bởi sáng tác bằng chữ Nho nên Tuệ Tĩnh mới giải nghĩa bộ kinh nhật tụng này bằng quốc âm để đƣợc phổ biến rộng rãi trong tín đồ đạo Phật vốn khá đông đảo dƣới thời Trần. Các tác gia sáng tác bằng chữ Nôm không ít, chúng ta có thể kể ra những ngƣời đƣợc sử sách ghi chép nhƣ: Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, ..và cả Nguyễn Trãi nữa. * Trang 40: Chính ông (Phạm Đình Toái) cũng đã phát biểu nhƣ sau trong bài Tựa quyển Quốc âm từ điệu “Nƣớc ta ở xa về phía Nam, âm ngữ khác Trung Hoa. Kẻ học trò, nhà thức giả, tuy tập văn tự Trung Hoa mà nói năng ngâm ca thì không rời bỏ tiếng nƣớc nhà. Há ta lại cho rằng chỉ chữ Nho là tao nhã mà thôi và chê quốc âm là thô bỉ?”
Những dòng đầu tiên, phần Tự thuật (Trang 9) Phạm Đình Hổ viết:
5.Trung 5. tâm Unesco phổ biến kiến thức văn hóa giáo dục cộng đồng, Lê Ngô – Cát Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca, NXB VHTT 2004 6.Phạm 6. Đình Hổ, Vũ trung
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 122
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
và
+
tùy bút, Nxb trẻ Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh, 1987
+ +
“ Đấng tiên sinh đại phu ta trải qua Hiến sát Nam Định, tuần phủ Sơn Tây, trong tráp vẫn thƣờng có cái mũ với cái khăn, ta thƣờng lúc đùa bỡn cứ hay lấy ra đội, mà thích nhất là cái mũ trại quan, dẫu cấm không cho chơi nghịch cũng không thể đƣợc. Có ngƣời đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc ra đùa nghịch, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ đƣợc ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết, câu ca, bản đàn thoảng qua ngoài rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả” Phần Lối chữ viết, trang 28, 29, 30 viết: “Nƣớc Việt Nam ta, lối chữ viết từ đời Đinh, Lê trở về trƣớc thì không trông thấy đƣợc nữa, còn lối chữ từ đời Lý đời Trần trở về sau, thì bắt chƣớc đời nhà Tống, ở trong sách An Nam kỉ lược đã nói rõ. Nay còn thấy ở tấm bia núi Dũng Thúy và bài minh khắc vào chuông chùa Thiên Phúc núi Phật Tích, cùng là bài bia ở dinh cơ quan Tam Sƣơng là Châu Công ở làng Châu Khê, huyện Đƣờng An; bút pháp rất cổ kính. Còn nhƣ cái biển ba chữ “Đông Hoa môn” thì chính là ngự bút vua nhà Lý, bút pháp hùng tú tự nhiên, khác hẳn ngƣời tầm thƣờng, những nét phẩy, mác, sổ, móc đã phôi thai ra một lối chữ nƣớc Nam ta. Còn hai chữ “Đại Hƣng môn” thì là cữ hoành biển, chế ra từ đời Hồng Đức, nét bút và cả lối chân, lối khải; chữ cổ đến đời ấy đã có một bƣớc biến cải. Khoảng năm Diên Thành (Niên hiệu Mạc Hậu Hợp (1566 – 1577) đời nhà Mạc, con gái Đà Quốc Công là Mạc thị có dựng ra chùa Bối An,
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 123
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
mài đá khắc một bài minh, nét chữ đầu cong chân vẹo, hơi giống chữ viết bây giờ, nhƣng bên tả vênh lên, bên hữu vẹo xuống, có hơi khác, thực là quái lạ! Dễ thƣờng về đời Lê sơ và đời nhà Mạc, lối chữ viết đại lƣợc nhƣ thế cả. Gần đây lối chữ trong Thuận, Quảng cũng gần giống nhƣ vậy; cũng là còn giữ lối chữ cũ nhƣ xƣa. Từ đời Lê trung hƣng trở về sau, những ngƣời đi học theo nghề khoa cử viết theo lối chữ khải đời cổ, lại ngoa ngoắt thêm bớt, làm sai đi đến nửa phần, gọi là lối chữ nho.Còn những giấy tờ ở chốn cửa công thì dùng riêng một lối chữ “Nam” lúc đầu là phòng dân gian làm giả mạo, mới theo hoa văn mà đặt ra một lối chữ việc quan. Ai học theo lối chữ ấy thì năm sáu năm một lần, thi trúng tuyển thì đƣợc bổ sung vào làm chân thƣ tả ở trong các nha môn. Song những cách giả dối là bởi những kẻ nho lại làm ra, càng ngày càng tệ, các quan trên không thể cấm đƣợc. …. Nƣớc ta đã có tiếng là văn hiến không khác gì nƣớc Trung Hoa, thế mà về một việc học viết chữ, lại cho là việc học của kẻ thơ lại, không ai thèm lƣu ý học đến, không biết tại sao? Trang 10: Không hiểu chữ Nôm ra đời từ bao giờ nhƣng cứ theo sử sách thì đến bây giờ mới có ngƣời làm thơ Nôm. Cùng với việc làm thơ này xuất hiện cả một ý thức dân tộc: Muốn có Hàn luật để khỏi phải dùng Đƣờng luật Trang 105: Tác phẩm văn học chữ Nôm đời Trần, đến nay còn lại rất ít và rất
+
7.Nguyễ 7. n Bích Ngọc, Nhà Trần trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 124
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
2009
+
+
-
8. 8.Nguy ễn Thế Long, Bang giao Đại Việt triều Trần Hồ, Nxb Văn hóa thông tin, 2005
(có 5 chữ
thục
lạc?
đáng quí. Bài phú của sƣ Huyền Quang Vịnh Hoa Yên Tử phú là bài phú bát vận, dài 74 câu, nêu bật tình yêu sâu lắng của tác giả với núi rừng Yên Tử, một phúc địa, nơi xuát phái thiền tông Trúc Lâm. Đây là bài thơ chữ Nôm diễn tả tƣ tƣởng tình cảm thật phong phú và tinh tế Trang 119: Tƣơng truyền trong thời gian sang sứ nhà Nguyên, ngƣời Nguyên tỏ ý chê tiếng nói của sứ bộ nƣớc Nam ríu rít nhƣ chim hót (quýnh thiệt) mới đọc giễu Mạc Đĩnh Chi một vế đối rằng: Quýnh tập chi đầu đàm Lỗ luận, tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri (có 5 chữ tri) Nghĩa là: Chim trích tụ đầu cành đọc sách Luận Ngữ, biết nói là biết, không biết nói là không biết, ấy là biết Câu này dùng toàn chữ trong sách Luận ngữ cái khó là ở nhiều từ chi và tri đƣợc lắp lại và tạo nên âm điệu líu lo nhƣ chim chích hót vậy, vừa có ý nhại lại tiếng nói của ngƣời Nam. Mạc Đĩnh Chi cũng dùng một câu trong sách Mạnh Tử để đáp lại: Oa minh trì thượng độc Châu thư lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng nhạc lạc, lạc) Nghĩa: Ếch lên trên bờ ao, dọc sách Mạnh Tử, vui cùng ít người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui? Câu đối lại rất chỉnh, tỏ rõ sự hiểu biết thông minh kiến thức sách thánh hiền, cũng lại có ý mỉa mai quan nhà Nguyên nhƣ ếch ộp ngồi trong ao không biết gì
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 125
Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
Ngƣời Nguyên biết là dại không dám chê bai gì nữa
01
03
08 11
9. TỎNG 11
Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 126