VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MINH HẢI
CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài
liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả
nghiên cứu là quá trình tìm hiểu trung thực của tôi và có độ tin cậy trong
phạm vi hiểu biết của tôi.
Tác giả Luận án
2
Nguyễn Minh Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 6
Chương 1 ...................................................................................................................... 11
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA ....... 11
VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN ........................................................................................... 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản .. 11
1.2. Chủ thể của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản ......................... 16
1.3. Đối tượng của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản ..................... 17 1.4. Phân biệt sự khác nhau giữa chứng minh trong giai đoạn điều tra với chứng minh trong giai đoạn truy tố, xét xử vụ án cướp tài sản .......................... 24
Chương 2 ...................................................................................................................... 28
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG MINH
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ....................................................................... 28
2.1. Quy định về những vấn đề cần phải chứng minh trong điều tra vụ án cướp
tài sản ............................................................................................................................ 28
2.1.1. Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu thành tội cướp tài sản .. 28
2.1.2. Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong những tình tiết có ảnh hưởng
đến trách nhiệm hình sự và hình phạt của tội cướp tài sản ........................................ 33
2.1.3. Nhóm tình tiết khác có giá trị chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản 35
2.2. Quy định về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ chứng minh trong điều
tra vụ án cướp tài sản ................................................................................................. 36
2.2.1. Thu thập chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản ................. 36
2.2.2. Kiểm tra chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản ................. 37
2.2.3. Đánh giá chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản ................ 38
2.3. Thực tiễn chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai ....................................................................................................................... 38
2.3.1. Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .................................... 40
2.3.2. Kết quả, ưu điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai. ....................................................................................................... 41
2.3.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế, sai lầm của chứng minh trong điều tra vụ
án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. .............................................................. 42
3
Chương 3 ...................................................................................................................... 46
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ......................... 46
3.1. Hướng dẫn thi hành và tập huấn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
chứng minh trong điều tra vụ án hình sự ............................................................... 46
3.2. Nâng cao chất lượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai ................................................................................................ 52
3.2.1. Nâng cao nhận thức về những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu
thành tội cướp tài sản ................................................................................................... 52
3.2.2. Nghiên cứu nắm vững quy luật hoạt động, tính chất, quy mô của các loại án
cướp tài sản để phục vụ cho việc xây dựng phương hướng, mô hình chứng minh
điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. ........................................... 55
3.3. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ có thẩm
quyền chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai. ................................................................................................................................ 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 74
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
TAND: Tòa án Nhân dân
TANDTC: Tòa án Nhân dân tối cao
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VAHS: Vụ án hình sự
CSĐT: Cảnh sát điều tra
5
THTT: Tiến hành tố tụng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Đồng nai là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, là
địa bàn trọng điểm về an ninh, quốc phòng, là cửa ngõ đi vào Đông Nam Bộ, có vị
trí chiến lược rất quan trọng, là tỉnh có nền công nghiệp phát triển nhất nhì của Miền
Nam. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển, những lợi ích thiết thực mà kinh tế mang
lại thì tình hình tội phạm cướp tài sản cũng ngày càng phức tạp, mức độ, sự manh
động, nguy hiểm ngày càng cao hơn, thủ đoạn thực hiện của tội phạm ngày càng tinh
vi và xảo quyệt hơn. Trong đó, tội cướp tài sản đang diễn biến theo chiều hướng gia
tăng. Các vụ án cướp tài sản xảy ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an ninh,
kinh tế, xã hội, gây hoang mang, làm ảnh hưởng đến đời sống người dân và tình
hình an sinh xã hội. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, chứng minh luôn
đóng vai trò hết sức quan trọng và đã đạt được nhiều thành tích khả quan, song vẫn
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót cần được nghiên cứu, tổng kết rút kinh
nghiệm, nâng cao hiệu quả của việc chứng minh thực hiện hành vi cướp tài sản trong
giai đoạn điều tra của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Đồng Nai.
Từ những lí do ở trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Chứng minh trong giai
đoạn điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn Tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài của luận văn này, đến nay đã có một số công trình
khoa học đã được công bố như sau:
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu ở đây là làm sáng tỏ cơ sở lý luận về việc áp
dụng quy định của pháp luật cho quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cướp tài sản ít được nghiên cứu. Trong thực tế, vẫn còn nhiều vụ án mà CQĐT
6
giải quyết còn sai sót và chưa triệt để trong quá trình điều tra chứng minh xác
định sự thật, do đó việc nhận thức và áp dụng pháp luật của một số chủ thể khi
tiến hành tố tụng chưa được khách quan và triệt để.
Tới thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc chứng
minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng nai. Do
vậy, việc nghiên cứu đề tài “Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài
sản từ thực tiễn tỉnh Đồng nai” là vấn đề cần thiết nhằm hoàn thiện, góp phần
nâng cao chất lượng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động
chứng minh trong điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp tài sản nói riêng
trên đại bàn tỉnh Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài phân tích về lý luận và thực tiễn chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, từ đó đưa ra một số phương pháp
nhằm hoàn thiện và góp phần nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ nhận thức lý luận về hoạt động chứng minh vụ án cướp
tài sản trong giai đoạn điều tra.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật về chứng minh vụ án cướp tài sản
trong giai đoạn điều tra và thực tiễn hoạt động chứng minh vụ án cướp tài sản trong
giai đoạn điều tra các vụ án cướp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm
- Nhận diện những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với hoạt động
chứng minh vụ án cướp tài sản trong giai đoạn điều tra các vụ án cướp tài sản xảy
2015 đến tháng 6 năm 2020.
ra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai do cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Đồng
7
Nai thụ lý và giải quyết.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đưa ra một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Nghiên cứu quy dịnh của pháp luật hình sự, TTHS đối với việc chứng
minh vụ án cướp tài sản trong điều tra Cơ quan ANĐT – Công an tỉnh Đồng nai
thụ lý.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng và rút ra nhận xét về hoạt động chứng
minh trong giai đoạn điều tra các vụ án cướp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng
nai từ năm 2015 đến năm 2019
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và
TTHS Việt Nam về chứng minh và thực tiễn chứng minh vụ án cướp tài sản
trong giai đoạn điều tra do Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Đồng Nai thụ lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động chứng minh trong giai
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu dựa trên số liệu, thông tin phản ánh thực
trạng pháp luật hình sự quy định về tội cướp tài sản và thực trạng pháp luật tố tụng hình
sự (từ năm 1983 đến nay, đặc biệt là quy định của pháp luật từ 2015 đến nay), nghiên
cứu thực trạng thực hiện các quy định về chứng minh trong giai đoạn điều tra đối với vụ
án cướp tài sản (từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020)
- Phạm vi chủ thể, địa bàn: thời gian: Luận án nghiên cứu hoạt động chứng
minh vụ án cướp tài sản theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam do cơ quan
CSĐT – Công an tỉnh Đồng Nai thụ lý và giải quyết.
đoạn điều tra đối với vụ án cướp tài sản theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp khả năng nhận thức thực tế
8
trong tố tụng hình sự, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm lãnh đạo của Đảng, các
chủ trương, đường lối, về vấn để cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn
kiện của Đảng, các chính sách pháp luật của nhà nước về xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
Trong luận văn này tác giả sử dụng các phương pháp để nghiên cứu như:
Phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
- Phương pháp thống kê, so sánh: được sử dụng trong chương 2 và 3 của luận
văn nhằm tập hợp, đánh giá tình hình thực trạng quy định của pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự liên quan đến thực trạng quy định pháp luật và thực trạng áp dụng các
quy định của pháp luật về chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai.
- Phương pháp xã hội học: được sử dụng trong chương 2 và 3 của luận văn
nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải
pháp.
tổng kết thực tiễn để giải quyết vấn đề nghiên cứu.
Luận văn phân tích dựa trên cơ sở những số liệu tổng kết hàng năm của Cơ
quan điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và nghiên cứu các quyết định tố tụng liên
quan đến hoạt động chứng minh vụ án, tổng hợp các kiến thức khoa học pháp luật
và các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Bên cạnh đó còn tham
khảo thêm ý kiến, kinh nghiệm của các cán bộ, các điều tra viên trực tiếp tham
gia và tiến hành hoạt động chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trong
giai đoạn điều tra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận.
Luận văn là công trình nghiên cứu, có tính hệ thống và tương đối đầy đủ về
việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh
Đồng nai ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học.
Qua bài luận văn này, cho thấy được kết quả nghiên cứu, qua đó sẽ giúp
9
xác định được khái niệm và nội dung của việc chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án cướp tài sản, để từ đó đưa ra những góp ý, kiến nghị về mặt luật pháp;
nhằm xây dựng và hoàn thiện quy định về pháp luật tố tụng hình sự.
- Về mặt thực tiễn:
Chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc chứng minh
trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 do
cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng N ai thụ lý.
Những thông tin mà tác giả nghiên cứu trong luận văn giúp các cơ quan
điều tra xác định, áp dụng đúng đắn thủ tục, trình tự nói riêng, cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung trong việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài
sản.
Bên cạnh đó, tác giả hy vọng l uận văn có thể được khai thác sử dụng trong
công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, các cơ quan bảo vệ
pháp luật, đặc biệt là CQĐT… Những người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng có thể nghiên cứu để khai thác nhằm áp dụng pháp luật vào quá
trình công tác thực tiễn, nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH ĐIỀU TRA VỤ
ÁN CƯỚP TÀI SẢN
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CHỨNG MINH ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP
TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI.
Chương 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
1.1.1. Khái niệm chứng minh trong điều tra vụ án cứp tài sản
Chứng minh là một trong những hoạt động của con người áp dụng vào thực
tiễn và có mặt trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng, hoạt động chứng minh : “ làm làm
những việc khác nhau với mục đích nhất định trọng xã hội” [62, tr.475]; chứng
minh là “ dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó là đúng hay không
đúng” [62, tr.256]. Như vậy, có thể hiểu hoạt động chứng minh là hoạt động nhận
thức, tư duy hay thực tiễn của con người với mục đích nhất định, xác định sự tồn
tại hay không tồn tại hoặc xác định đúng, sai của một sự vật, sự việc, hiện tượng
trên cơ sở những chứng cứ, căn cứ cụ thể.
Việc chứng minh trong hoạt động tố tụng hình sự là một dạng của hoạt
động chứng minh, trong đó việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp
tài sản là 1 quá trình rất phức tạp, đó là việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
nhằm xác định rõ ràng sự thật của vụ án. Để giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài
sản, cơ quan CQĐT và người THTT có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp để
chứng minh sự thật của vụ án. Vụ án xảy ra thường để lại những dấu vết, được
phản ánh lại bởi vật chất và con người. Quá trình chứng minh là quá trình xác
định sự thật khách quan của cơ quan điều tra đối với bị can trong vụ án cướp tài
sản, là một quá trình nhận thức đi từ việc chưa rõ ràng đến khi rõ ràng, tuân theo
quy luật của phép biện chứng duy vật.
Quá trình chứng minh trong vụ án cướp tài sản có thể hiểu là “quá trình tư
duy và thực tiễn của CQĐT và những người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở
những quy định của pháp luật tô tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá 11
các thông tim, tài liệu cân thiết nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án đảm
bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án” [31,tr.183]. Quá trình chứng
minh trong vụ án cướp tài sản là một quá trình nhận thức khách quan, được thực
hiện bằng các hoạt động trong giai đoạn điều tra.
Quá trình chứng minh trongVAHS bắt đâu từ khi thu thập chứng cứ làm
sáng tỏ vụ án trước khi tiến hành giải quyết như khám nghiệm hiện trường có thể
được tiến hành trước khi khởi tố vụ án, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của
các cơ quan có thẩm quyền THTT khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động
truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động này đêu hàm chứa các hành vi tố tụng
khác nhau. Hoạt động điều tra là một giai đoạn tố tụng hình sự do CQĐT tiến
hành, bao gồm các hành vi đặc trưng như: Khởi tố, hỏi cung bị can, Lấy lời khai
người làm chứng, tạm giữ, khám xét, đối chất, nhận dạng và nghĩa vụ liên quan
đến vụ án,…. Để làm rõ đối tượng chứng minh trong điều tra.
Trên cơ sở những quy định của pháp luật Tố tụng Việt Nam và các văn
bản pháp luật khác về xét xử, truy tố, điều tra và thực tiễn xét xử thể hiện: Quá
trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là quá trình mà các
cơ quan THTT, người THTT thực hiện hoạt động nhận thức đúng đắn về vụ án
cướp tài sản. Việc nhận thức về việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
cướp tài sản là việc phản ánh một cách khách quan toàn bộ diễn biến về vụ án,
hiểu cách khác là tái dựng lại được toàn cảnh của bức tranh, hiện trường một cách
chính xác về nơi vụ án cướp tài sản đã xảy ra. Đề đạt được điều này, các chủ thể
THTT phải thực hiện các biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, làm
sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong vụ án cướp tài sản. Vấn đề nghiên cứu các tình
tiết, các sự kiện của vụ án được tiến hành dựa trên cơ sở là Chứng cứ - Chứng cứ
là những gì có thật, được CQĐT, VKS, TA thu thập đúng trình tự dùng làm căn
cứ xác định việc có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
12
tội đó và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
Quá trình chứng mình trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản chủ yếu
thể hiện ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, trong đó các cơ quan THTT áp
dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn điện và đầy đủ. Mục đích
chung của hoạt động chứng minh trong mọi giai đoạn tố tụng là xác định sự thật
khách quan của vụ án, Mỗi giai đoạn có chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn
bản tô tụng khác nhau khiến cho hoạt động chứng minh ở từng giai đoạn tố tụng
có những đặc trưng riêng biệt. Trong đó, điều tra VAHS là một giai đoạn quan
trọng của quá trình giải quyết VAHS. Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong
đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết
vụ án [31, tr.263]. Với tính chất của giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản làm cho
hoạt động chứng minh trong giai đoạn này có những điểm khác biệt so với hoạt
động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác. Vì vậy, việc chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là giai đoạn không thể thiếu trong quá trình
giải quyết vụ án cướp tài sản, là giai đoạn tất yếu không giai đoạn nào thay thế
được. Trước hết, thông qua môi trường xung quanh, tội phạm được phản ánh qua
các dấu vết, hình ảnh của nó lưu lại trên đối tượng vật chất và trong trí nhớ của
người tham gia tố tụng.
Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là quá trình tìm
các bằng chứng trong vụ án cướp tài sản bắt đầu từ khi vụ án được khởi tố và kết
thúc khi cơ quan có thẩm quyển có bản kết luận điều tra về vụ án cướp tài sản, thể
hiện sự đánh giá; kết luận mang tính pháp lý về sự thật khách quan của vụ án. Để
điều tra vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đưa nhiều giả thiết khác nhau và
mỗi giả thiết đều phải được chứng minh để loại trừ hay xác định để đưa đến kết
luận về vụ án, Để chứng minh, CQĐT, VKS phải sử dụng mọi chứng cứ thu thập
được trong vụ án, không loại trừ chứng cứ nào để chứng minh cho các giả thiết
13
điều tra đặt ra.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về hoạt động chứng minh
trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản như sau: Hoạt động chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là hoạt động của những chủ thể THTT ở
giai đoạn điều tra được pháp luật quy định để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đây
đủ, đảm bảo cơ sở cần thiết cho việc ban hành các quyết định sổ tụng phù hợp
góp phần giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài sản theo trình tự, thủ tục của pháp
luật tổ tụng hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Xuất phát từ nhiệm vụ, các giai đoạn tố tụng, địa vị pháp lý, chức năng và
nhiệm vụ của các chủ thể mà việc chứng minh đều có sự khác nhau và những đặc
điểm riêng không hề giống với các giai đoạn khác. Với khái niệm trên, hoạt động
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cướp tài sản.
Các chủ thể chứng minh trong giai đoạn điều tra là người nắm vững pháp
luật, có kiến thức về nghiệp vụ chuyên sâu về công tác pháp luật, sử dụng các
biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát hiện và điều tra được tội phạm. Chủ
thể chứng minh ở giai đoạn điều tra bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, cán
bộ được phân công công tác điều tra của các cơ quan khác như: Hải quan, Kiểm
lâm, các cơ quan khác của của Công an nhân dân,Quân đội được giao nhiệm vụ
tiến hành điều tra một số hoạt động. Người tham gia tố tụng cũng tham gia vào
việc chứng minh do các chủ thể THTT yêu cầu nhưng có thể họ không phải là
chủ thể chứng minh.
Thứ hai: Thời hạn điều tra.
Các CQĐT tiên hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
14
bằng thời hạn điều tra vụ án như: Từ khi khởi tố vụ án cho đến kến kết thúc điều
tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng không quá hai tháng, Đối với tội nghiêm
trọng không quá ba tháng: Đối với rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng
không quá bốn tháng.
Thứ ba: Các phương tiện chứng minh.
Các CQĐT có thể sử dụng trong quá trình chứng minh tội phạm ở giai đoạn
này là các phương tiện kỹ thuật hình sự và các thủ thuật, chiến thuật hình sự cụ
thể. Các phương tiện, chiến thuật này thường được giới hạn bởi khoa học điều tra
hình sự. Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hình sự trơng quá trình chứng
minh tội phạm ở giai đoạn điều tra luôn phải phù hợp với pháp luật tố tụng hình
sự, không được vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân và phải đáp ứng các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của hoạt động điều tra.
Chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để
chứng minh trong tố tụng hình sự. Về bản chất, chứng cứ chính là những thông
tin phản ánh sự kiện phạm tội; những thông tin này được chứa đựng dưới những
hình thức khác nhau khoa học luật tố tụng hình sự gọi là nguồn chứng cứ. Bằng
các phương tiện điều tra do pháp luật quy định, Điều tra viên và những người
theo luật định tiến hành nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo trình tự
của luật tố tụng hình sự có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội
phạm, phù hợp cho quá trình chứng minh của mình, cũng như toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án.
Thứ tư: Mục đích chứng minh.
Quá trình chứng mình trong vụ án được các chủ thể THTT thực biện nhằm
xác định chân lý khách quan của vụ ám. Hoạt động chứng minh trong giai đoạn
đều nhằm xác định có tội phạm và bị can - người thực hiện hành vi phạm tội hay
không để ban hành kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điễu
15
tra.
Thứ năm: Nội dung của hoạt động chứng minh là một phần chứng minh
của vụ án cướp tài sản, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp
tài sản cũng bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
Trong quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản, các
chủ thể chứng minh cần xác định 2 vấn đề: Đối tượng chứng minh và xác định
được giới hạn chứng minh. Tính toàn điện của hoạt động chứng minh phụ thuộc
vào việc xác định đối tượng chứng minh, tính đây đủ của hoạt động chứng minh
lại do việc xác định giới hạn chứng minh quyết định. Vấn đề này ở giai đoạn điều
tra vụ án cướp tài sản cần được xem xét kỹ lưỡng. Bởi lẽ, từ đó mà CQĐT, VKS
tiến hành các hoạt động phù hợp đáp ứng yêu câu của quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, đặc điểm dễ nhận thấy của hoạt động chứng minh trong giải đoạn
điều tra vụ án cướp tài sản chủ yếu tập trung ở việc phát hiện để thu thập, kiểm
tra và đánh giá chứng cứ nhằm đưa ra kết luận chính thức đầu tiên về vụ án thông
qua bản kết luận điều tra.
1.2. Chủ thể của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Một trong những nội dung của nguyên tắc xác định sự thật trong điều tra
của vụ án cướp tài sản là xác định chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong TTHS.
Trong tố tụng hình sự nói chung, trong chứng minh vụ án cướp tài sản nói riêng,
chủ thể có nghĩa vụ chứng minh thuộc về: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
một số nhiệm vụ điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Riêng trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về 2 chủ thể chính: Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao một số nhiệm
vụ điều tra (trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng và ít nghiêm
trọng) và viện kiểm sát.
Để chứng minh, các chủ thể chứng minh này phải không chỉ đưa ra các
chứng cứ, mà còn phải đưa ra lập luận, logic, pháp lý và viện dẫn các cơ sở thực
16
tiễn cho các yêu cầu đó. Người ta gọi đó là nghĩa vụ chứng minh.
Chủ thể của tội cướp tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách
nhiệm hình sự.
+ Dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc công
cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người
khác; hành động tấn công này có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
của người bị tấn công và làm cho họ mất khả năng chống cự lại hoặc công khai để
cho người bị tấn công biết…
Người bị tấn công là người đang quản lý, trông coi tài sản của mình hoặc
của người khác.
Nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án hình sự được cơ quan công tố làm
sáng tỏ trước khi tòa phán quyết, cho rằng bị cáo đó đã thực hiện một hành vi,
tính chất, cũng như hậu quả nguy hiểm mà hành vi đó gây ra tương xứng với
những khung hình phạt nhất định của pháp luật. Nghĩa vụ chứng minh của bên
buộc tội còn được giải thích từ mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
1.3. Đối tượng của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Khái niệm đối tượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản cho
thấy, Bộ luật TTHS chỉ nêu những vấn đề phải chứng minh chứ không nêu khái
niệm đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản. Trong khoa học hình sự,
luật TTHS được các nhà luật học có sự nhận thức thống nhất về bản chất của khái
niệm đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản, nhưng quan điểm về cách
thức thể hiện rõ sự khác nhau, có 3 quan điểm chủ yếu như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài
sản là tất cả những vấn đề chưa biết (chứng cứ) nhưng cần phải biết để làm sáng
tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định
sao cho phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ 2 cho rằng: đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
là tổng hợp tất cả những sự kiện và các tình tiết của vụ án phải đước xác định
17
bằng chứng cứ để vụ án được giải quyết một cách đúng đắn.
Quan điểm thứ 3 cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
là tất cả những gì phải xác định bằng chứng cứ để giải quyết đung đắn.
Như vậy ta rút ra khái niệm đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
như sau:
+ Tổng hợp những sự kiện của vụ án
+ Những tình tiết của vụ án
Phải được cơ quan điều tra thu thập và xác định bằng chứng cứ nhằm giải
quyết khách quan, đúng đắn đối với vụ án cướp tài sản.
Đặc điểm đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản:
Thứ nhất, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự gồm tất cả những vấn
đề của vụ án và liên quan đến vụ án nhưng chưa biết mà cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải biết.
Thứ hai, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, cơ quan tố tụng phải
sâu chuổi, thu thập và làm sáng tỏ những tình tiết, những sự kiện chưa biết đó
được quy định trong bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ ba, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự mà luật TTHS quy định
cần làm sáng tỏ là cơ sở để cơ quan tố tụng tiến hành giải quyêt đúng đắn và đề ra
biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Đối tượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản có đầy đủ các đặc
điểm như trên, ngoài ra đối tượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
còn có các đặc điểm sau:
Đối tượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản gắn liền với việc
Cơ quan điều tra phải chứng minh hành vi của người phạm tội đó là phải làm rõ
phương thức và thủ đoạn của người phạm tội.
Đối tượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản phải xác định giá
18
trị tài sản bị chiếm đoạt là bao nhiêu vì đây là yếu tố chính để cấu thành tội phạm
đối với tội cướp tài sản bởi điều luật quy định rõ các khung hình phạt căn cứ vào
giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Tội cướp tài sản được thể hiện bởi các hành vi sau: dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Khách thể của tội cướp tài sản là quyền sở hữu tài sản của cá nhân, nhà
nước, cơ quan, tổ chức và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của
con người.
Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản bao gồm: Con người, tiền
và vật tùy thân. Một số tài sản đã được quy định là đối tượng tác động của các tội
phạm cụ thể khác như: vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất độc,
chất cháy, chất ma túy…
Chủ thể của tội cướp tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách
nhiệm hình sự.
Về mặt khách quan thì tội cướp tài sản được thể hiện bởi một trong các
hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản. Trong đó:
+ Dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc công
cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người
khác; hành động tấn công này có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
của người bị tấn công và làm cho họ mất khả năng chống cự lại hoặc công khai để
cho người bị tấn công biết…
+ Đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là đe dọa dùng ngay tức thì dùng sức
mạnh vật chất như vũ khí: dao, súng, gậy, dây, hung khí khác…nếu người bị tấn
công không chịu khuất phục để buộc người bị tấn công phải sợ và tin rằng nếu
19
không để cho họ lấy tài sản thì sẽ gây tổn hại đến sức khỏe và tính mạng.
+ Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được là hành vi cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy ra
nhưng không có cách nào chống cự được như: bị trói, nhốt vào nơi không thể
chạy đi cầu cứu, tuy nhiên không bị nguy hại đến tính mạng, sức khỏe nhưng
không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra.
Người bị tấn công là người đang quản lý, trông coi tài sản của mình hoặc
của người khác. Xét mối quan hệ sở hữu, thì tài sản đó có thể là tài sản của người
bị tấn công, của người khác nhưng người bị tấn công thường là người đang trực
tiếp quản lý tài sản hoặc người bị tấn công không phải là người quản lý tài sản
nhưng có thể cản trở việc chiếm đoạt của người phạm tội.
Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức và được coi là
hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng
bạo lực, đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị
tấn công lầm vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội
có chiếm đoạt được tài sản hay không.
Tội cướp được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là
tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu
thành tội cướp tài sản. Nếu thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được, nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản thì không phạm tội cướp tài sản.
Điều 168 BLHS 2015 bổ sung sửa đổi 2017 quy định 5 khung hình phạt
đối với người phạm tội cướp tài sản:
– Quy định phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với người phạm tội không có
20
tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
– Quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Phạm tội có tổ chức: Phạm tội có tổ chức là trường hợp có từ hai người
trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội cướp tài sản và có sự thống nhất với nhau về
ý chí, có sự cấu kết chặt chẽ với nhau trong quá trình phạm tội. Trong đó có một
hoặc một số người thực hành và có thể có người tổ chức, người xúi giục; người
tiếp sức.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai triệu
đồng là trường hợp cướp tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng (50.000.000
triệu) đến dưới hai triệu đồng (200.000.000.triệu). Việc xác định giá trị tài sản đối
với tội cướp tài sản cần chú ý một số điểm sau đây:
Giá trị tài sản bị cướp được xác định tại thời điểm bị cướp theo giá thị
trường của tài sản đó tại địa phương đó.
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi
cướp tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản mà không quan tâm đến giá trị của
tài sản thì lấy giá thị trường của tài sản bị cướp tại địa phương vào thời điểm tài
sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có
hành vi cướp.
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi (là người chưa đủ 16 tuổi: Việc xác
định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện theo quy định của pháp luật), phụ nữ mà biết là có thai (được xác định
bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo
và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn
thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai), người già yếu,… Đây
là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản
của những người bị hại do độ tuổi, mang thai hoặc già yếu, bệnh tật mà không có
21
khả năng tự vệ hoặc tuy có nhưng khả năng tự vệ không cao.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những
tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội.
Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức
độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng
đến dưới 500 triệu đồng; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Thiên tai dịch bệnh, là trường hợp người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh thiên
tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản. Tình tiết này được áp
dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của dịch bệnh, thiên tai hoặc tính
chất và mức độ của những khó khăn khác của xã hội trước tình hình dịch bệnh,
thiên tai.
– Quy định hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân áp dụng
đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của
mỗi người 31% trở lên; Làm chết người; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình
trạng khẩn cấp. Trong đó:
+ Làm chết người là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội cướp,
người phạm tội đã tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản
hoặc để tẩu thoát và đã gây cái chết cho họ. Theo chúng tôi, thì lỗi trong trường
hợp này là lỗi vô ý lởi lẽ, nếu cố ý gây ra cái chết cho người bị hại trong khi thực
22
hiện hành vi cướp tài sản và tội giết người.
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Đây là những tình
tiết mới được quy định ở tội cướp tài sản.
– Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, thì
tại khoản 5 Điều 168 BLHS quy định người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù
từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 BLHS, thì chuẩn bị
phạm tội cướp tài sản là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội
phạm.
– Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 BLHS là người
phạm tội cướp còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt
quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản.
Như vậy, so với quy định tại Điều 133 BLHS năm 2009, thì quy định tại
Điều 168 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau:
– Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả nghiêm trọng” và bổ
sung các tình tiết sau đây làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 2: phạm tội
đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người
không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
– Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” và bổ
sung tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” làm tình tiết định khung hình phạt
tại khoản 3.
– Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”
và bổ sung tình tiết “Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở
lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh
chiến tranh” làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 4. Đồng thời bỏ hình
23
phạt tử hình tại khoản 4 Điều 168 BLHS.
– Quy định mới “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
05 năm”.
1.3.2 Nghĩa vụ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Một trong những nội dung của nguyên tắc xác định sự thật trong điều tra của vụ
án cướp tài sản là xác định chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong TTHS, là nghĩa
vụ được ấn định cho nguyên đơn, công tố và không thể chuyển cho bên kia chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh sẽ thua kiện nếu anh ta không thực hiện được việc
chứng minh của mình.Muốn chứng minh thì phải đưa ra các lập luận, các chứng
cứ, pháp lý và viện dẫn các cơ sở thực tiễn cho vấn đề cần chứng minh
1.4. Phân biệt sự khác nhau giữa chứng minh trong giai đoạn điều tra với
chứng minh trong giai đoạn truy tố, xét xử vụ án cướp tài sản
Chứng minh trong xét xử sơ thẩm với chứng minh trong giai đoạn điều tra,
truy tố vụ án hình sự có sự khác nhau, cụ thể:
Một là, đối với hoạt động thu thập chứng cứ:
- Trong giai đoạn điều tra: đây là hoạt động quan trọng nhất, chủ yếu nhất,
là hoạt động ban đầu, Điều tra viên, Kiểm sát viên tập trung nhiều hơn cho việc
thu thập chứng cứ.
- Giai đoạn truy tố: có tỉnh không chủ động, chỉ mang tính cần thiết do cá
nhân tiến hành.
- Giai đoạn xét xử: Mang tính không chủ động; chỉ mang tính chủ động khi
24
có yêu cầu của cơ quan tố tụng
- Hai là, đối với hoạt động kiểm tra chứng cứ:
Chứng cứ là phương tiện chứng minh duy nhất trong tất cả các vụ án cướp
tài sản. Việc kiểm tra tất cả chứng cứ thu thập được trong vụ án cướp tài sản phải
được kiểm tra một cách khách quan và kỹ lưỡng.
-Trong giai đoạn điều tra:
Trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản khâu kiểm tra chứng cứ là hoạt
động của CQĐT, VKS đối với toàn bộ chứng cứ về vụ án đó được thu thập, nhằm
xác định tính liên quan, tính hợp pháp và tính khách quan của chứng cứ.
-Trong giai đoạn truy tố:
Giai đoạn này cũng xem xét chứng cứ, rà xoát và cũng cố lại chứng cứ để
giải quyết vụ án được chính xác và công tâm.
-Trong giai đoạn xét xử: là hoạt động của Cơ quan điều tra có thẩm quyền
tiến hành xác định khách quan, toàn diện và thận trọng về tính chính xác của
những thông tin thực tế và độ tin cậy của nguồn chứng cứ đã được thu thập trong
quá trình điều tra để xác lập đúng đắn và theo trình tự của vụ án cướp tài sản.
Ba là, đối với hoạt động đánh giá chứng cứ
Đối với hoạt động đánh giá chứng cứ: Đây là hoạt động tìm kiếm giá trị
của chứng cứ trong việc chứng minh trong vụ án cướp tài sản nhằm làm rõ giá trị,
tính đầy đủ của từng loại chứng cứ mà CQĐT đã thu thập được.
-Trong giai đoạn điều tra: Đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án
cướp tài sản là hoạt động của CQĐT có thẩm quyền trên cơ sở của pháp luật, để
xác định giá trị chứng minh của từng loại chứng cứ riêng lẻ và toàn bộ chứng cứ
đã thu thập được. Tuy nhiện, giai đoạn này chỉ mang tính sơ bộ, chưa có hiệu lực
25
pháp luật.
- Giai đoạn truy tố: VKS trong quá trình kiểm soát, điều tra, quyết định
việc truy tố, VKS phái kiểm soát việc tuân theo luật pháp, thực hiện quyền công
tố, bảo đảm việc điều tra được khách quan. Khi ra các quyết định tố tụng, VKS
phải nghiên cứu , kiểm tra đánh giá toàn bộ chứng cứ liên quan có trong hồ sơ vụ
26
án, đảm bảo việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn các chứng cứ liên quan.
Kết luận Chương 1
Chương 1 của luận văn đã nghiên cứu những vấn đề lý luận lý luận về hoạt
động chứng minh vụ án cướp tài sản trong giai đoạn điều tra, bao gồm: Khái
niệm, đặc điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản; Chủ thể của
chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản; Đối tượng của chứng minh trong
điều tra vụ án cướp tài sản. Đồng thời, luận văn cũng đã đi sâu phân tích nhận
thức về chứng minh vụ án cướp tài sản trong giai đoạn điều tra bằng việc phân
biệt sự khác nhau giữa chứng minh trong giai đoạn điều tra với chứng minh trong
giai đoạn truy tố, xét xử vụ án cướp tài sản.
Những kết quả nghiên cứu tại Chương 1 chính là tiền đề để nghiên cứu và
đánh giá thực quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự và thực trạng
hoạt động chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản của lực lượng Cảnh sát
điều tra Công an tỉnh Đồng Nai tại Chương 2 và từ đó đưa ra các kiến nghị và
giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
27
vụ án cướp tài sản tại Chương 3.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG MINH
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Quy định về những vấn đề cần phải chứng minh trong điều tra vụ án
cướp tài sản
Để xác định những vấn đề phải chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài
sản, trước hết cần phải căn cứ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 và quy định tội “Cướp tài sản” tại
Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó cơ quan điều tra có thể căn cứ vào đó để
xác định những vấn đề phải chứng minh khi điều tra vụ án cướp tài sản.
2.1.1. Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu thành tội cướp tài
sản
2.1.1.1. Chứng minh mặt khách quan và khách thể của tội cướp tài sản
Căn cứ Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thì những vấn đề cần chứng
minh, làm rõ với tội cướp tài sản bao gồm:
1. Chứng minh có hành vi phạm tội cướp tài sản không và ai là người thực
hiện hành vi phạm tội
- Để chứng minh một hành vi là hành vi phạm tội cướp tài sản thì cần
chứng minh hành vi đó thỏa mãn đầy đủ 04 yếu tố trong cấu thành tội phạm của
tội cướp tài sản.
- Để chứng minh một hành vi không phạm tội cướp tài sản thì cần chứng
minh hành vi phạm tội đó không thỏa mãn ít nhất một trong 04 yếu tố cấu thành
28
tội phạm của tội cướp tài sản.
2. Chứng minh, làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội và
những tình tiết khác của hành vi phạm tội
- Chứng minh, làm rõ thời gian xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật áp dụng giải quyết vụ án hình sự đang có hiệu
lực tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.
- Chứng minh, làm rõ địa điểm xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật đang có phạm vi hiệu lực đối với lãnh thổ nơi
hành vi phạm tội xảy ra.
- Chứng minh, làm rõ những tình tiết khác của hành vi phạm tội cướp tài
sản là chứng minh làm rõ là để làm căn cứ xác định các tình tiết định khung hình
phạt của tội cướp tài sản.
3. Chứng minh, làm rõ người thực hiện hành vi cướp tài sản có thuộc
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự hay không
- Chứng minh, làm rõ trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự để làm căn
cứ kết luận một người có hành vi cướp tài sản không phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội cướp tài sản.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự để làm căn cứ
kết luận một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu
trách nhiệm hình sự do được miễn.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn hình phạt để làm căn cứ kết luận
một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản, phải chịu trách nhiệm hình sự và
hình phạt nhưng được miễn hình phạt.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự để làm căn cứ kết luận một người đã có
hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự do hết
29
thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản.
4. Chứng minh, làm rõ những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội cướp
giật tài sản để làm căn cứ xem xét quyết định loại hình phạt và mức hình phạt
trong trường hợp áp dụng hình phạt tù.
5. Chứng minh, làm rõ tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm cướp
tài sản gây ra để làm căn cứ xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
bị thiệt hại (người bị hại, bị đơn dân sự trong vụ án dân sự).
6. Chứng minh, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội của hành
vi cướp tài sản để làm căn cứ quyết định loại hình phạt, mức hình phạt và công
tác phòng ngừa tội phạm.
Trong những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu thành tội cướp tài
sản chúng ta cần đặc biệt lưu ý tới nội dung: Chứng minh mặt khách quan và
khách thể của tội cướp tài sản
Căn cứ Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thì những vấn đề cần chứng
minh, làm rõ với tội cướp tài sản bao gồm:
“1. Chứng minh có hành vi phạm tội cướp tài sản không và ai là người thực
hiện hành vi phạm tội
- Để chứng minh một hành vi là hành vi phạm tội cướp tài sản thì cần
chứng minh hành vi đó thỏa mãn đầy đủ 04 yếu tố trong cấu thành tội phạm của
tội cướp tài sản.
- Để chứng minh một hành vi không phạm tội cướp tài sản thì cần chứng
minh hành vi phạm tội đó không thỏa mãn ít nhất một trong 04 yếu tố cấu thành
tội phạm của tội cướp tài sản.
2. Chứng minh, làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội và
30
những tình tiết khác của hành vi phạm tội
- Chứng minh, làm rõ thời gian xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật áp dụng giải quyết vụ án hình sự đang có hiệu
lực tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.
- Chứng minh, làm rõ địa điểm xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật đang có phạm vi hiệu lực đối với lãnh thổ nơi
hành vi phạm tội xảy ra.
- Chứng minh, làm rõ những tình tiết khác của hành vi phạm tội cướp tài
sản là chứng minh làm rõ là để làm căn cứ xác định các tình tiết định khung hình
phạt của tội cướp tài sản.”
Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản thì việc chứng minh hậu
quả thiệt hại về mặt tài sản là yêu tố chính và bắt buộc trong việc cấu thành tội
phạm, đây là căn cứ định tội danh, định khung hình phạt. Quá trình điều tra phải
chứng minh được tài sản bị chiếm đoạt có giá trị bao nhiều, đối với tài sản là tiền
mặt thì việc xác định rất dễ dàng, nhưng đối với các tài sản khác như: phương
tiện, đồ vật, các cổ vật có giá trị thì phải tiến hành mời cơ quan định giá mới xác
định được giá trị và mức độ thiệt hại. Đối với vụ án cướp tài sản, không thể kết
luận người đó phạm tội cướp tài sản nếu cơ quan điều tra không chứng minh được
giá trị thiệt hại của tài sản đó.
Khi xảy ra hành vi cướp tài sản CQĐT phải chứng minh được thời gian
xảy ra hành vi, địa điểm, hoàn cảnh, mọi hành vi cướp tài sản đều xảy ra tại một
thời điểm, một khoảng thời gian và hoàn cảnh nhất định. Do đó, trong quá trinh
điều tra, CQĐT phải xác định chính xác thời gian, địa điểm, hoàn cảnh gắn liền
với hành vi cướp tài sản. Trong đó, địa điểm xảy ra hành vi cướp tài sản có vai trò
quan trọng trong việc xác định thẩm quyền giả quyết vụ án, vì khi vụ án xảy ra
trên địa bàn nào thì thẩm quyền điều tra thuộc về CQĐT của địa bàn đó.
Chứng minh công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn tội phạm đã
31
thực hiện để cướp tài sản.Ngoài việc xác định hành vi phạm tội, thời gian địa
điểm và hoàn cảnh gây án, theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan
điều tra cũng phải chứng minh những tình tiết khác của hành vi phạm tội.
2.1.1.2. Chứng minh chủ thể và mặt chủ quan của tội cướp tài sản
Những yếu tố thuộc mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm.
Chứng minh, làm rõ người thực hiện hành vi cướp tài sản có thuộc trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự hay không
- Chứng minh, làm rõ trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự để làm căn
cứ kết luận một người có hành vi cướp tài sản không phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội cướp tài sản.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự để làm căn cứ
kết luận một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu
trách nhiệm hình sự do được miễn.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn hình phạt để làm căn cứ kết luận
một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản, phải chịu trách nhiệm hình sự và
hình phạt nhưng được miễn hình phạt.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự để làm căn cứ kết luận một người đã có
hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự do hết
thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản.
Để chứng minh người phạm tội cướp tài sản thì CQĐT phải chứng minh
người đó phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi theo quy định và chủ
32
thể của tội cướp tài sản luôn luôn là con người cụ thể.
Trong quá trình thực hiện hành vi cướp tài sản, người thực hiện có lỗi hay
không có lỗi, lỗi thực hiện hành vi này là lỗi cố ý trực tiếp.
Mục đích phạm tội là cái cần đạt được sau khi thực hiện tội phạm, đối với
tội cướp tài sản thì mục đích đó là chiếm đoạt bằng được tải sản của người khác.
Nên khi chúng ta chứng minh, cần lưu ý mục đích của việc cướp này để chiếm
đoạt tài sản chứ không ngoài mục đích khác. Trong quá trình điều tra, CQĐT thu
thập chứng cứ, cần làm rõ mục đích của người phạm tội là lấy tài sản gì, vàng, cổ
vật,… hay vật có giá trị khác và giá trị có thể xác định được là bao nhiêu?
2.1.2. Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong những tình tiết có ảnh
hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt của tội cướp tài sản
Bao gồm:
- Chứng minh, làm rõ những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội cướp
giật tài sản để làm căn cứ xem xét quyết định loại hình phạt và mức hình phạt
trong trường hợp áp dụng hình phạt tù.
- Chứng minh, làm rõ tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm cướp
tài sản gây ra để làm căn cứ xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
bị thiệt hại (người bị hại, bị đơn dân sự trong vụ án dân sự).
- Chứng minh, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội của hành vi cướp
tài sản để làm căn cứ quyết định loại hình phạt, mức hình phạt và công tác phòng
ngừa tội phạm.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết xảy ra có ảnh hưởng đến tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội hoặc khiến cho hành vi phạm tội
trở nên nguy hiểm ít hơn. Đối với tội cướp tài sản, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
33
trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, ví dụ như:
Phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, trả lại hay khắc phục tổn thất tinh thần, tài sản
cho người bị hại….
Tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết khiến cho hành vi phạm tội trở
nên nghuy hiểm hơn; là những tình tiết được quy định tại Điều 52 BLHS 2015,
như: Phạm tội có tổ chức, chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm, dùng thủ đoạn
tinh vi, tàn ác để phạm tội,….
Tại khoản 2, Điều 168 BLHS, Tội cướp tài sản thì không đặt vấn đề phạm
tội có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm; hoặc dùng thủ
đoạn xảo quyệt làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bởi nó được áp dụng
để định khung hình phạt trong khoản 2, Điều 168 này.
Quá trình chứng minh, CQĐT phải làm rõ các vấn đề nêu trên, người phạm
tội có những tình tiết nào giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS, người phạm tội bị truy
tố theo khoản nào mới đảm bảo việc xử lý chính xác, đúng người và đúng tội. Ví
dụ: một người thực hiện hành vi để cướp tài sản phạm tội quy định tại điểm a,
Khoản 2 Điều 168 thì bên cạnh việc chứng minh người đó phạm tội thì CQĐT
còn phải làm rõ những đặc điểm nhân thân như:phạm tội lần đầu, bị lôi kéo, nhân
thân có tốt không, trình độ học vấn, điều kiện hoàn cảnh gia đình ra sao .v.v...
Cần làm rõ tất cả các vấn đề đó để đảm bảo việc truy tố, xét xử người phạm tội.
Theo Khoản 4 Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án hình sự: “Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra”. Tội phạm cướp tài sản gây thiệt hại đối với quan hệ sở hữu, cụ
thể là nạn nhân bị xâm phạm lợi ích vật chất, ở đây là tài sản.
Tại khoản 5 Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định những vấn chính
cần chứng minh trong vụ án cướp tài sản đó là: Nguyên nhân và điều kiện phạm
tội.
-Đây là điểm mới trong quy định về đối tượng chứng minh trong vụ án
34
hình sự, nguyên nhân và điều kiện phạm tội phần lớn không là yếu tố bắt buộc
trong cấu thành tội phạm cụ thể nhưng nó là mấu chốt vấn đề cho việc xác định
đường lối đúng đắn trong việc xử lý vụ án.
Theo khoản 6 Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định những vấn để
phải chứng minh trong vụ án hình sự: “những tình tiết khác liên quan đến việc
loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt".
Người thực hiện hành vi cướp tài sản sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi
có các căn cứ quy định tại điểm b, c, Khoản 2, Điều 29 Bộ luật hình sự 2015. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu, đối với tội danh cướp tài sản. Cơ quan điều tra có căn cứ
để xác định người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi:
+ Khi tiến hành điều tra, người phạm tội bị mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến
không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Người phạm tội được miễn hình phạt khi có các căn cứ được quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2, khoản 3, Điều 54 Bộ luật hình sự mà đáng được khoan
hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình điều tra, chứng minh vụ án cướp tài sản, Cơ quan điều tra
phải áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
làm sáng tỏ những nội dung trên được quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS.
2.1.3. Nhóm tình tiết khác có giá trị chứng minh trong điều tra vụ án cướp
tài sản
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung, giải quyết vụ án cướp
tài sản nói riêng, Cơ quan điều tra còn phải chứng minh những vấn đề khác có
liên quan đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án mà những vấn đề này được quy
35
định trực tiếp hoặc gián tiếp trong các điều luật của Bộ luật TTHS.
Theo quy định tại Điều 416 Bộ luật TTHS năm 2015, Quá trình chứng
minh trong điều tra vụ án hình sự, cụ thể là vụ án cướp tài sản đối với người
phạm tội dưới l8 tuổi. Cơ quan điều tra ngoài những vấn đề phải chứng minh
được quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015, thì cần phải chứng minh
thêm những vấn đề sau:
Tuổi của người dưới 18 tuổi: Xác định đúng tuổi có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định sự thật của vụ án, người thực hiện hành vi cướp tài sản có cấu
thành tội phạm hay không ?. Từ đó có đường lối đúng đắn xử lý hình sự.
Có hay không có người trên 18 tuổi xúi giục.
Nhóm nguyên nhân, điều kiện xuất phát từ người dưới 18 tuổi: Có thể xác
định nhóm này giữ vai trò quyết định đối với việc làm phát sinh tội phạm cướp tài
sản.
2.2. Quy định về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ chứng minh trong
điều tra vụ án cướp tài sản
2.2.1. Thu thập chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
- Thu thập chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản là việc
cơ quan THTT áp dụng các phương tiện, biện pháp và phương pháp theo quy định
của BLTTHS để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản những chứng cứ và nguồn
chứng cứ nhằm giải quyết chính xác đối với vụ án. Việc thu thập chứng là giai đoạn
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án cướp tài sản.
Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định chủ thể có thẩm quyền thu thập
chứng cứ và các biện pháp thu thập chứng cứ như sau:
“1. Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và tòa án có quyền triệu tập những
36
người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan,…..
2. Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân
nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến
vụ án”.
- Để thu thập chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản,
CQĐT có thể áp dụng các biện pháp sau:
Thu thập chứng cứ như: yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
- Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân
nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những
vấn đề có liên quan đến vụ án. (Khoản 1,2,3. Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015)
2.2.2. Kiểm tra chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
- Kiểm tra chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản là nhằm
xác định lại chứng cứ thu thập được thoả mãn các thuộc tính là tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp.
Đặc điểm của việc kiểm tra chứng cứ được xác định bằng nhiệm vụ của
CQĐT. Chứng cứ được nhiều CQĐT tiến hành kiểm tra, xác minh nhiều lần
khác nhau. Để kết thúc điều tra, cơ quan điều tra kiểm tra chứng cứ, sau đó
quyết định có truy tố hay không? Sau đó VKS mới kiểm tra lại chứng cứ đã
được thu thập của các giai đoạn trước đó xem có vi phạm hay không? - Kiểm tra
chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản phải tập trung làm rõ
những vấn đề sau đây:
+ Tính khách quan
37
+ Tính liên quan
+ Tính hợp pháp
2.2.3. Đánh giá chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Đây là hoạt động tìm kiếm giá trị của chứng cứ trong việc chứng minh
trong vụ án cướp tài sản nhằm làm rõ giá trị, tính đầy đủ của từng loại chứng cứ
mà CQĐT đã thu thập được.
- Đánh giá chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản phải dựa
trên những cơ sở sau đây:
+ Tất cả các chứng cứ riêng lẻ đã được kiểm tra và đánh giá.
+ Dựa vào các quy định của pháp luật TTHS đó là:
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để
kết tội [47, tr.58].
+ Dựa vào những quy phạm pháp luật, xã hội có liên quan tới khách thể
được bảo vệ bởi luật hình sự
+ Dựa vào ý thức pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.
+ Dựa vào niềm tin nội tâm của của cơ quan có thẩm quyền, tin vào sự
đúng đắn đến những tình tiết có liên quan đến vụ án.
2.3. Thực tiễn chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai
Theo Wikipedia thì tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, có diện tích tự nhiên là 5.907,2 km². Đồng Nai có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận
Phía tây giáp tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh
Phía nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
38
Phía bắc giáp các tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước.
Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông Thành phố Hồ
Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung Bộ,
Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ, Thành phố Biên Hòa- Đồng
nai cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách Hà Nội 1.684 km theo
đường Quốc lộ 1A. Đây là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước,
với quy mô dân số tương đương với hai thành phố trực thuộc trung ương là Đà
Tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố và
Nẵng và Cần Thơ(Theo Wikipedia).
9 huyện, với 170 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 40 phường, 8 thị trấn và 122 xã.
ba về tổng sản phẩm trên địa bàn, xếp thứ sáu về bình quân đầu người, đứng thứ
19 về tốc độ tăng trưởng. Với 3.097.107 người dân[16], GRDP đạt trên 350.000
Năm 2019, Đồng Nai là tỉnh đông thứ năm về dân số của Việt nam, xếp thứ
tỉ Đồng (tương ứng trên 15 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 112 triệu
đồng (tương ứng với 4.818 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,05%.[17]
Đến 2019, GDP Đồng Nai là 3.720 USD/người tương đương khoảng 60,4
triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo năm 2019 còn 9.200, chiếm khoảng 1,8% trong tổng số
hộ.[21] Về nông nghiệp, Đồng Nai là thủ phủ sản xuất chè, cà phê, ca cao, cam,
bưởi, quýt, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt,... Đồng Nai là tỉnh có đàn lợn lớn
nhất cả nước với gần 1 triệu con, và có đàn trâu bò lớn thứ 2 với 185.000 con.
Đồng Nai là tỉnh đầu tiên của cả nước mà 100% xã, huyện, thành phố đều đạt
chuẩn nông thôn mới. Vì vậy nông nghiệp Đồng Nai phát triển mạnh mẽ, là
nguồn cung hàng hoá cho các khu vực lân cận và xuất khẩu. Đây là tỉnh có sản
lượng nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ và là một trong những tỉnh sản xuất ra
khối lượng nông sản lớn nhất Việt Nam.
Năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,7%, giá trị sản xuất nông
39
lâm thủy sản tăng 2,7%. Thu ngân sách đạt 54.431 tỉ đồng, đạt 100% so với dự
toán được giao, chi ngân sách đạt 22.509 tỉ đồng, đạt 109% so với dự toán. Tổng
mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ đạt 173,6 ngàn tỉ đồng, tăng 11,7% so với cùng kì
và đạt kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 19,7 tỉ USD, tăng 7,1% so với
cùng kì; kim ngạch nhập khẩu đạt 16,5 tỉ USD, tăng 2,1% so với cùng kì. Năm
2019, Đồng Nai xuất siêu khoảng 3,2 tỉ USD. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt
91.335 tỉ đồng. Thu hút đầu tư trong nước đạt 34 nghìn tỉ đồng, đạt 340% kế
hoạch năm, tăng 23,6% so với cùng kì. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 917
dự án với tổng vốn khoảng 325.000 tỉ đồng. Tổng vốn đầu tư nước ngoài dự ước
đạt 1.450 triệu USD, đạt 145% so với kế hoạch, bằng 75,7% so với cùng kì. Lũy
kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.457 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí
khoảng 30 tỉ USD.
Công tác đăng kí doanh nghiệp: Năm 2019 ước đạt 3.850 doanh nghiệp
đăng kí thành lập mới, tăng 9,4% so với cùng kì, tổng vốn đăng kí ước đạt 34.000
tỉ đồng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 38000 doanh nghiệp với tổng vốn
đăng kí trên 264.000 tỉ đồng.
2.3.1. Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Trong những năm qua, mặc dù được các cấp, các ban ngành trong tỉnh
quan tâm khá sát sao, nên đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả nhất
định trong lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Mặc dù vậy, tình hình tội
phạm tại địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng và diễn biến khá phức tạp, táo
bạo gây nhiều bức xúc làm mất an ninh trật tự trên địa bàm, gây hoang mang đến
đời sống của người dân. Thời gian gần đây, cùng với tình hình tội phạm cướp tài
sản cũng diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian từ năm 2015 đến
năm tháng 6 năm 2020, Toà án tỉnh Đồng nai đã xét xử sơ thẩm 309 vụ, 599 bị
40
cáo về tội cướp tài sản. Công tác phòng ngừa tội phạm cướp tài sản được các ban
ngành quan tâm, chỉ đạo sát sao nhờ đó mà hạn chế, loại trừ các nguyên nhân,
điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm, trong đó có tội cướp tài sản.
2.3.2. Kết quả, ưu điểm của chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Khi nghiên cứu các vụ án cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức trên địa
bàn tỉnh Đồng nai trong những năm qua cho thấy số lượng vụ cướp tài sản chiếm
số lượng lớn trong tổng số vụ án mà Tòa án đã xét xử. Trong thời gian từ năm
2015 đến năm tháng 6 năm 2020 tình hình tội phạm hình sự nói chung tội cướp
tài sản dưới hình thức có tổ chức diễn biến hết sức phúc tạp, tuy nhiên tội cướp
tài sản trên đại bàn tỉnh Đồng nai có dấu hiệu giảm.
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê về số vụ án cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức xét xử sơ thẩm
Số vụ án phải giải quyết
Năm
Số bị cáo mới thụ lý
Số bị Số vụ đã cáo đã xét xử xét xử
Số vụ án còn lại
Số bị cáo còn lại
90
214
190
6
10
75
2015
59
95
80
6
10
49
2016
49
76
60
5
7
39
2017
33
68
64
2
4
31
2018
50
90
78
9
12
41
2019
28
56
33
8
23
6 tháng 2020
20
66
309
599
255
505
36
Tổng
Nguồn: Tòa án Nhân dân tối cao.
Qua bảng số liệu thống kê cho thấy từ năm 2015, tội cướp tài sản ở địa bàn
41
tỉnh Đồng nai khá cao (90 vụ) và số bị cáo tham gia cũng khá nhiều (214 bị cáo),
tuy nhiên từ 2016 đến 2018 tội cướp tài sản trong 3 năm này giảm đi một cách
đáng kể từ 90 vụ xuống còn 33 vụ. Đến năm 2019 thì lại tăng lên từ 33 vụ lên 50
vụ và 6 tháng đầu năm 2020 thì cũng khá cao, gần bằng cả năm 2018 (33 vụ).
Thời điểm này, số vụ cướp giật tăng cũng một phần nào do ảnh hưởng của dịch
Covid 19 làm cho tình hình kinh tế khó khăn, các công ty bị ảnh hưởng khá nhiều
nên số lượng lao động thất nghiệp, không có việc làm và lâm vào cảnh khó khăn.
Qua biểu đồ cũng cho thấy được việc quyết định hình phạt đối với tội cướp tài
sản từ thực tiễn tỉnh Đồng nai trong những năm vừa qua cho thấy các Tòa án đã
tuân thủ các quy định của BLHS về quyết định hình phạt nói chung cũng như các
quy định tại điều 168 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Kết quả cho thấy các
hình phạt mà toàn án đã tuyên cho người phạm tội thể hiện được sự công băng,
nghiêm minh, phù hợp với mục đích giáo dục và cải tạo người phạm tội.
2.3.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế, sai lầm của chứng minh trong
điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Trong những năm gần đây, nhận xét về việc quyết định hình phạt của Tòa
án, TANDTC đã đưa ra những nguyên nhân của việc quyết định hình phạt còn
chưa đúng như: Chủ yếu không thực hiện đúng các căn cứ quyết định hình phạt
quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015.
Qua tìm hiểu thực tế, quyết định hình phạt cũng như qua nghiên cứu các
bản án, có những vấn đề sau:
a) Sai sót về việc cân nhắc “các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự”
Thứ nhất, một số Tòa án không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến bỏ sót
một vài tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo.
Mục đích của hình phạt không chỉ để trừng trị người phạm tội mà còn giáo
42
dục để họ trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, có ý thức tuân theo và
chấp hành pháp luật nhằm ngăn ngừa họ tái phạm tội mới. Do đó khi phán quyết
Tòa án phải cân nhắc các yếu tố được quy định trong BLHS, về nhân thân và đặc
biệt là các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để quyết định một hình phạt tương
xứng, chính xác và công tâm với tính chất và hành vi nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy khi quyết định hình
phạt đối với tội cướp tài sản có tổ chức, một số tòa án thường không nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến bỏ sót một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS
(thường là tình tiết giảm nhẹ TNHS ) dẫn đến quyết định hình phạt quá nhẹ hoặc
quá nặng cho bị cáo. Ví dụ: Tại phiên tòa sơ thẩm số 65/2011/HSST ngày
13/4/2011 của TAND quận K, Hội đồng xét xử đã áp dụng điểm a khoản 2 điều
168, xử phạt Đặng văn Tình 08 năm tù về tội cướp tài sản. Tại bản án phúc thẩm
số 236 ngày 15/10/2011, Hội đồng xét xử đã nhận định:
“Theo tài liệu gia đình bị cáo xuất trình tại phiên tòa thì em trai bị cáo là
Đặng văn Tín là liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bố bị cáo là ông Đặng Công Nam là người có công trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, được Nhà nước tặng thưởng huân chương hạng nhì. Đây là những
tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự nhưng chưa
được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm…”
Vì vậy, để khắc phục thiếu sót nói trên của tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm đã giảm
án cho bị cáo còn 07 năm tù.
Thứ hai, một số Tòa án lại vận dụng chưa đúng tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ TNHS đối với bị can trong vụ án cướp tài sản.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ
TNHS được quy định tại điều 51 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 cũng như các
tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điều 52 BLHS 2015 để quyết định
một hình phạt công bằng cho người phạm tội. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy
43
một số tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS không đúng.
b) Sai sót về việc căn cứ vào “tính chất; mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội”.
Trong vụ án phạm tội cướp có tổ chức, vai trò của từng đồng phạm khác
nhau phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của từng người phạm tội
khác nhau.
Kết luận Chương 2
Chương 2 luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu thực trạng (thực trạng quy
định và thực trạng thực hiện) chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản của
Cơ quan CSĐT công an tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến 6 tháng
đầu năm 2020. Chương 2 của luận văn có những nội dung sau:
Thứ nhất: Phân tích thực trạng quy định về những vấn đề cần phải chứng
minh trong điều tra vụ án cướp tài sản, bao gồm:
Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu thành tội cướp tài sản;
44
Những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong những tình tiết có ảnh hưởng đến
trách nhiệm hình sự và hình phạt của tội cướp tài sản; Nhóm tình tiết khác có giá
trị chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
Thứ hai: Phân tích thực trạng quy định về thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản (gồm: thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản).
Thứ ba, Phân tích, đánh gía thực tiễn chứng minh trong điều tra vụ án
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Gồm: Tổng quan về tình hình tội cướp
tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; đánh giá kết quả, ưu điểm của chứng minh
trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 2015-
2020); rút ra hạn chế và nguyên nhân hạn chế, sai lầm của chứng minh trong điều
tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Từ thực tế nghiên cứu cho thấy tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
trong thời gian qua diễn biến phức tạp, hoạt động điều tra và chứng minh trong
giai đoạn điều tra của Cơ quan CSĐT đã đạt được những kết quả nhất định. Song
bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là do những nguyên nhân khách quan và chủ
quan là không thể tránh khỏi của cơ quan có thẩm quyền điều tra. Việc xác định
những ưu và khuyết điểm của hoạt động chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài
sản trên địa bàn tỉnh Đồng nai đã chỉ ra những vấn đề còn thiếu xót mà Cơ quan
có thẩm quyền điều tra cần khắc phục, đồng thời phòng ngừa, phát hiện và đấu
tranh hiệu quả với các loại tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng trên
địa bàn tỉnh.
Kết quả nghiên cứu tại chương này là cơ sở để dự báo tình hình ảnh hưởng
tới hoạt động chứng minh tội cướp tài sản cũng như đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động điều tra loại tội phạm này của Cơ quan CSĐT Công an
45
tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA VỤ
ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Hướng dẫn thi hành và tập huấn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về chứng minh trong điều tra vụ án hình sự
Quá trình nghiên cứu, các nhân tác giả cho rằng đây là giải pháp mang tính
chủ đạo. Việc hướng dẫn thi hành và tập huấn quy định của bộ luật tố tụng hình
sự 2015 về chứng minh trong điều tra VAHS, đặc biệt các hướng dẫn lưu ý cho
trường hợp chứng minh cụ thể trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai là giải pháp dễ áp dụng nhưng có hiệu quả ứng dụng cao. Trong quá
trình xây dựng nội dung để hướng dẫn, cần lưu ý:
BLTTHS năm 2015 đã giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc nêu
trên.
Đây là căn cứ để Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố (như hỏi
cung bị can, xác minh trong quá trình bị can bỏ trốn có vi phạm pháp luật, phạm
tội khác hay không...). Trường hợp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trực tiếp phát
hiện, xác định bị can còn phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra, Viện kiểm
sát có quyền ra quyết định khởi tố vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành
điều tra.
Tuy nhiên, từ thực tiễn và qua nghiên cứu người viết cũng thấy rằng còn có
một số nội dung quy định khác, vẫn chưa thật rõ ràng, dễ dẫn đến những cách
hiểu khác nhau, từ đó, sẽ thiếu thống nhất trong áp dụng.
Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2010/ TTLT- VKSNDTC- BCA-
46
TANDTC ngày 27/8/2010, hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (viết tắt Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT), có
quy định về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, như sau:
“1. Trích theo khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS
là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan và toàn diện của vụ án.
2. Những trường hợp sau đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng hình sự:
a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự
phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát
hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
b) Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại
khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;
c) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của họ;
d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của
người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của
BLTTHS;
đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117
củaBLTTHS;
e) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định
của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;
g) Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm nhân
47
thân bị can, bị cáo.
Theo tác giả, việc nhà làm luật đã sử dụng khoản 1 Điều 4 Thông tư liên
tịch 01/2010/TTLT để giải thích cho cụm từ “vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng” (điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015) là hợp lý, thì cũng cần thiết
chọn lọc ra những tình tiết thuộc khoản 2 của Điều này để liệt kê cho cả những
trường hợp bị coi là xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng, vì nếu như chỉ dừng lại với quy định trên thì chắc chắn rằng
trong thực tiễn áp dụng sẽ gặp nhiều khó khăn do không thống nhất chung về
nhận thức. Trong khi đó, thực tiễn áp dụng Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT thời
gian qua, cho thấy là rất phù hợp, đáp ứng đầy đủ những vướng mắc từ hoạt động
tiến hành tố tụng đặt ra.
-Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội có khung hình
phạt cao nhất đến 20 năm được quy định tại BLHS năm 2015; Bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất;
3.1.2. Lưu ý trong hướng dẫn các thủ tục đăng ký bào chữa, bảo đảm
cho quá trình chứng minh trong điều tra nói chung, điều tra vụ án cướp tài sản
nói chung được đảm bảo khách quan, bình đẳng giữa chứng cứ “buộc tội” và
chứng cứ “gỡ tội”
Quy định về thủ tục đăng ký bào chữa. Theo Điều 78 BLTTHS năm 2015.
“1. Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký
bào chữa.
2. Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy
yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích
48
của người bị buộc tội;
b) Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình Chứng minh nhân dân
hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác
nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn
cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân
dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận;
d) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình văn
bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và
Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.
3. Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 của Bộ luật
này thì người bào chữa xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn
bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn
bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân;
b) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn
cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân
dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận;
c) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ
trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn
bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
4. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2
hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra
giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định
tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo
49
người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên
quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện
thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa
khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này;
b) Người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối
người bào chữa.
6. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá
trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp:
a) Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa;
b) Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào
chữa.
7. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ việc đăng ký bào chữa
và thông báo cho người bào chữa, cơ sở giam giữ khi thuộc một trong các trường
hợp:
a) Khi phát hiện người bào chữa thuộc trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 72 của Bộ luật này;
b) Vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa.
3.1.3. Lưu ý trong trường hợp chứng minh vụ án cướp tài sản mà có
hành vi cố ý gây thương tích có thể dẫn đến khởi tố thêm bị can về tội “cố ý gây
thương tích”
Chẳng hạn: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X nhận được đơn đề
nghị khởi tố vụ án hình sự của anh Nguyễn Văn A đối với Trần Văn D về hành vi
dùng dao chém anh A, tỉ lệ tổn thương cơ thể 5%. Sau quá trình xác minh, Cơ 50
quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện X đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can đối với B về tội “Cố ý gây thương tích”. Trong quá trình điều tra, anh A vắng
mặt tại nơi cư trú (không xác định được đang ở đâu), vì vậy, Cơ quan điều tra
không lấy được lời khai của anh A sau khi khởi tố. Trước khi hết thời hạn điều
tra, Cơ quan điều tra đã thông báo cho gia đình anh A biết và niêm yết tại nơi cư
trú, thông báo trên báo, đài phát thanh 03 số nhưng cũng không có thông tin gì
của anh A. Cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát
đề nghị truy tố đối với D. Viện kiểm sát đã ban hành Cáo trạng truy tố đối với D
và chuyển hồ sơ sang Tòa án. Quyết định đưa vụ án ra xét xử của TAND huyện X
(quyết định này đã được niêm yết tại chỗ ở của anh A và thông báo trên báo, đài
phát thanh). Phiên tòa mở lần thứ nhất anh A vắng mặt nên Hội đồng xét xử hoãn
phiên tòa. Phiên tòa mở lần thứ hai anh A vẫn vắng mặt, vì vậy vụ án đã phát sinh
những quan điểm giải quyết khác nhau.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Do đây là vụ án khởi tố theo yêu cầu của
bị hại nên theo quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì bị hại bắt
buộc phải có mặt tại phiên tòa để trình bày lời buộc tội.
+ Quan điểm thứ hai: Bị hại đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trước
khi Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, đồng thời trong suốt giai đoạn kết thúc điều
tra, truy tố và chuẩn bị xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thông báo cho gia
đình của bị hại biết và niêm yết công khai tại địa chỉ nơi cư trú, thông báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng về các quyết định tố tụng, nhưng bị hại cũng
không có mặt theo các giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng huyện X, điều
này đồng nghĩa với việc A từ bỏ quyền buộc tội và quyền yêu cầu bồi thường dân
sự. Vì vậy trong trường hợp này, sau khi đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất, đến
phiên tòa lần thứ hai nếu bị hại vẫn vắng mặt không có lý do thì Hội đồng xét xử
có thể coi như bị hại đã từ bỏ các quyền về tố tụng của họ, từ đó, có thể quyết
51
định đình chỉ vụ án theo Điều 282 BLTTHS năm 2015.
+ Quan điểm thứ ba: Cũng là quan điểm của người viết, đó là, trước khi
khởi tố vụ án bị hại đã có lời khai về diễn biến vụ án và đã có đơn đề nghị khởi tố
vụ án hình sự đối với B. Đây là những tài liệu chứng cứ được thu thập một cách
khách quan, hợp pháp vì vậy cần phải được ghi nhận. Tại phiên tòa lần hai nếu bị
hại là anh A vẫn vắng mặt thì Hội đồng xét xử có thể công bố Đơn yêu cầu khởi
tố vụ án của anh A và xem đây như là việc bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa đối với bị cáo. Về vấn đề bồi thường dân sự có thể tách ra theo quy định tại
Điều 30 BLTTHS năm 2015, khi nào bị hại có yêu cầu sẽ xem xét giải quyết sau
theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục
xét xử nếu bị hại vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ hai.
3.2. Nâng cao chất lượng chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
3.2.1. Nâng cao nhận thức về những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong
cấu thành tội cướp tài sản
Thời gian qua, quá trình giải quyết vụ án cướp tài sản của Công an tỉnh
Đồng nai thu được nhiều kết quả tốt, kết quả này đã phản ánh sự nhận thức đúng
đắn của đội ngũ Điều tra viên đối với việc chứng minh trong vụ án cướp tài sản.
Bên cạnh những kết quả tốt cũng còn những thiếu sót, do nhận thức của một số
Điều tra viên còn hạn chế, làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra. Vì vậy, thường
xuyên nâng cao trình độ, nghiệp vụ pháp luật cho đội ngũ cán bộ làm công tác
điều tra thông qua các buổi hội thảo, các chuyên đề thảo luận nhằm chia sẽ và
trao đổi kinh nghiệm trong công tác điều tra. Thực tế, tội cướp tài sản với những
thủ đoạn ngày càng tinh vi, nên cần phải nâng cao kiến thức xã hội, trình độ
chuyên sâu cho các Điều tra viên và lãnh đạo cơ quan cũng cần thường xuyên
kiểm tra, giám sát việc thực hiện điều tra, tạo điều kiện tốt nhất có thể cho quá
52
trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản.
Để xác định những vấn đề phải chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài
sản, trước hết cần phải căn cứ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 và quy định tội “Cướp tài sản” tại
Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó cơ quan điều tra có thể căn cứ vào đó để
xác định những vấn đề phải chứng minh khi điều tra vụ án cướp tài sản.
Quá trình chứng minh trong vụ án cướp tài sản là một quá trình nhận thức
khách quan, được thực hiện bằng các hoạt động trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử. Các hoạt động này đều thực hiện dưới hình thức tố tụng hình sự khác nhau, được
quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau như: Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình
sự, Luật tổ chức VKSND, Luật Tổ chức TAND. Thực chất và mục đích của quá
trình chứng minh trong vụ án cướp tài sản của các cơ quan THTT là thu thập, sử dụng
chứng cứ làm phương tiện để xác định rõ có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu có thì
ai thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự của người đó trước
pháp luật. Vì vậy, việc hoàn thiện những vấn đề cần phải chứng minh nằm trong cấu
thành tội cướp tài sản cần lưu ý:
Căn cứ Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thì những vấn đề cần chứng
minh, làm rõ với tội cướp tài sản bao gồm:
Thứ nhất: Chứng minh có hành vi phạm tội cướp tài sản không và ai là
người thực hiện hành vi phạm tội.
- Để chứng minh một hành vi là hành vi phạm tội cướp tài sản thì cần
chứng minh hành vi đó thỏa mãn đầy đủ 04 yếu tố trong cấu thành tội phạm của
tội cướp tài sản.
- Để chứng minh một hành vi không phạm tội cướp tài sản thì cần chứng
minh hành vi phạm tội đó không thỏa mãn ít nhất một trong 04 yếu tố cấu thành
tội phạm của tội cướp tài sản.
Thứ hai: Chứng minh, làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội
53
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội
- Chứng minh, làm rõ thời gian xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật áp dụng giải quyết vụ án hình sự đang có hiệu
lực tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.
- Chứng minh, làm rõ địa điểm xảy ra hành vi phạm tội để làm căn cứ lựa
chọn văn bản quy phạm pháp luật đang có phạm vi hiệu lực đối với lãnh thổ nơi
hành vi phạm tội xảy ra.
- Chứng minh, làm rõ những tình tiết khác của hành vi phạm tội cướp tài
sản là chứng minh làm rõ là để làm căn cứ xác định các tình tiết định khung hình
phạt của tội cướp tài sản.
Thứ ba, Chứng minh, làm rõ người thực hiện hành vi cướp tài sản có thuộc
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự hay không.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự để làm căn
cứ kết luận một người có hành vi cướp tài sản không phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội cướp tài sản.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự để làm căn cứ
kết luận một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu
trách nhiệm hình sự do được miễn.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp miễn hình phạt để làm căn cứ kết luận
một người đã có hành vi phạm tội cướp tài sản, phải chịu trách nhiệm hình sự và
54
hình phạt nhưng được miễn hình phạt.
- Chứng minh, làm rõ trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự để làm căn cứ kết luận một người đã có
hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự do hết
3.2.2. Nghiên cứu nắm vững quy luật hoạt động, tính chất, quy mô của các loại
án cướp tài sản để phục vụ cho việc xây dựng phương hướng, mô hình chứng minh
điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản.
Để hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản nói
chung và chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai nói riêng được thuận lợi và nhanh chóng, các chủ thể tiến hành phải
nghiên cứu, nắm vững quy luật hoạt động, tính chất, quy mô của từng vụ án, ứng
với từng địa bàn tại Đồng Nai.
Thông qua hoạt động chứng minh điều tra vụ án cướp tài sản, Cơ quan
cảnh sát điều tra cần nghiên cứu và rút ra quy luật hoạt động, thủ đoạn trong theo
dõi, lập kế hoạch và tiến hành thực hiện hành vi cướp tài sản của đối tượng. Qua
đó hình thành niên kinh nghiệm và các phương án, mô hình chứng minh vụ án
cướp tài sản.
Ví dụ: Mô hình chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản bằng phương
tiện mô tô
Mô hình chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản tại các ngân hàng,
tiệm vàng bạc hoặc tại các cửa hàng có giá trị lớn.
Mô hình chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản tại một số điểm đen
55
thường diễn ra các vụ cướp.
3.3. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ có
thẩm quyền chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
Việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ cướp tài sản là hoạt động tư
duy logic, lý luận thực tiễn của Điều tra viên thụ lý vụ án. Thời gian qua, quá
trình giải quyết vụ án cướp tài sản của Công an tỉnh Đồng Nai thu được nhiều kết
quả tốt, kết quả này đã phản ánh sự nhận thức đúng đắn của đội ngũ Điều tra viên
đối với việc chứng minh trong vụ án cướp tài sản. Bên cạnh những kết quả tốt
cũng còn những thiếu sót, do nhận thức của một số Điều tra viên còn hạn chế, làm
ảnh hưởng đến quá trình điều tra. Vì vậy, thường xuyên nâng cao trình độ, nghiệp
vụ pháp luật cho đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra thông qua các buổi hội
thảo, các chuyên đề thảo luận nhằm chia sẽ và trao đổi kinh nghiệm trong công
tác điều tra. Thực tế, tội cướp tài sản với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, nên
cần phải nâng cao kiến thức xã hội, trình độ chuyên sâu cho các Điều tra viên và
lãnh đạo cơ quan cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện điều
tra, tạo điều kiện tốt nhất có thể cho quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án cướp tài sản.
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
3.3.1. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Luật sư
Theo tạp chí nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư năm 2020/ Luật sư
Lê Quang Y- Đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam được chính thức ghi nhận tại Pháp
lệnh Luật sư năm 2001, với quy định về điều kiện để trở thành luật sư là phải tốt
nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư. Tuy nhiên, phải đến khi Học viện Tư pháp
được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/2/2004, việc đào
tạo nghề luật sư ở Việt Nam mới được thực hiện một cách chính quy, bài bản.
Học Viện Tư pháp cũng là nơi duy nhất trong cả nước đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực luật sư phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp và nhu cầu về 56
luật sư của xã hội. Bài viết thể hiện quan điểm về một số khía cạnh đào tạo nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay từ góc nhìn của người hành nghề thực tiễn.
Quan điểm có tính định hướng và cũng là mục tiêu của Chiến lược là phát
triển về số lượng đến năm 2020 có từ 18.000 đến 20.000 luật sư; về chất lượng,
nâng cao tính chuyên nghiệp hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư,
đáp ứng được nhu cầu dịch vụ pháp lý ngày càng cao, thực hiện chức năng xã hội
và trách nhiệm của luật sư đối với cộng đồng đã được đề cao, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp ngày càng hiệu
quả. Mặt khác, với định hướng lấy bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề là gốc của
nghề luật sư ở Việt Nam, kết hợp với tính “độc lập tương đối, tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật, tuân theo Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam và bộ quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề luật sư Việt Nam”, đề cao vai trò tự chủ của luật sư và tự quản
của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đòi hỏi càng phải phát huy vai trò lãnh đạo của
tổ chức Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Đồng thời, để thực hiện
mục tiêu bổ sung nguồn lực cho các chức danh tư pháp và chức danh quản lý Nhà
nước từ đội ngũ luật sư giỏi, có bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức phải tiến
hành tốt việc quản lý luật sư và đánh giá chất lượng luật sư. Với mục tiêu đó đã
đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho công tác đào tạo luật sư nhằm để có thể xây dựng và
phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng về
bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp và nhu cầu của xã hội; bảo đảm ngày càng có nhiều luật sư am hiểu pháp
luật và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành
nghề luật sư, có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực và quốc tế.
Thực tiễn triển khai thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư đã mang lại
những kết quả hết sức tích cực và có ý nghĩa đối với sự phát triển đội ngũ luật sư
Việt Nam, cụ thể:
(i)Sự phát triển số lượng luật sư khá ấn tượng: Sau Pháp lệnh luật sư năm
1987 cho đến năm 1989 cả nước chỉ có 186 luật sư, tính đến 30/9/2001 số lượng 57
luật sư cả nước là 2.100 luật sư. Khi thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam
(tháng 5/2009), tổng số Luật sư Việt Nam là 5.300. Sau 10 năm thực hiện chiến
lược, số lượng luật sư của cả nước là: 14.1781. Như vậy, trong 10 năm thực hiện
Chiến lược, số lượng luật sư tăng đều hàng năm, trung bình mỗi năm tăng hơn
700 luật sư, mặc dù vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển
nghề luật sư là đến năm 2020 số lượng luật sư đạt 18.000 đến 20.000 luật sư;
(ii) Sự phân bố nhân lực luật sư không đồng đều: Sự phát triển về số lượng
luật sư nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong số 14.178 luật sư của cả nước thì Đoàn Luật sư
TP. Hà Nội có 4.077 luật sư, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh có 5.751 luật sư,
chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước. Còn lại 61 Đoàn luật sư có số lượng
luật sư là 4.350 luật sư, chiếm 30,7%2;
(iii) Sự phát triển chất lượng đội ngũ luật sư và khả năng đáp ứng nhu cầu
dịch vụ pháp lý của xã hội chưa ngang tầm: Nếu chia bình quân đầu người theo
dân số của Việt Nam (gần 100 triệu dân/14.178 luật sư) tỷ lệ xấp xỉ là 01 luật
sư/7.050 người dân. Tỷ lệ này cho thấy nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của
người dân, đồng thời sự phát triển của nghề luật sư, đội ngũ luật sư còn mất cân
đối giữa các vùng miền trong cả nước nhưng đã nói lên một xu thế phát triển
nghề luật sư đang theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Cụ thể: theo báo
cáo chưa đầy đủ của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam, trong 10 năm qua (từ năm
2009 đến 31/12/2019), đội ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia vào các lĩnh vực
hành nghề như sau: Tham gia vào 146.081 vụ án hình sự trong đó có 74.240 vụ
án hình sự chỉ định và 72.028 vụ án hình sự được khách hàng mời; Tham gia vào
121.744 vụ việc dân sự, 54.170 vụ việc trong lĩnh vực kinh tế kinh doanh thương
mại, 9.149 vụ án hành chính, 2.576 vụ án lao động; Tham gia tư vấn pháp luật:
705.876 vụ việc; Tham gia đại diện ngoài tố tụng: 25.932 vụ việc; Tham gia vào
58
các dịch vụ pháp lý khác: 112.130 vụ việc; Tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí:
181.946 vụ việc3;... Các con số trên chỉ ra số lượng dịch vụ pháp lý của luật sư
nhìn chung năm sau tăng hơn năm trước, nhưng chỉ mới đáp ứng một phần nhỏ
đòi hỏi của xã hội trong các lĩnh vực dịch vụ pháp lý, đặc biệt là tỉ lệ tham gia của
luật sư trong các vụ án hình sự là rất thấp chỉ có 146.000 vụ án hình sự có luật sư
tham gia (trong đó khoảng 50% là án chỉ định);
(iv) Đào tạo phát triển nguồn nhân lực của luật sư và đào tạo nghề luật sư
chưa thực sự tương xứng với nhu cầu xã hội: Thực tế cho thấy, nguồn để đào tạo
đội ngũ luật sư rất đa dạng, tiêu chuẩn trở thành luật sư chỉ là cử nhân luật của bất
kỳ loại hình đào tạo nào (Điều 10, 12 Luật Luật sư) đã mở cánh cửa rộng rãi cho
đầu vào đào tạo luật sư, cùng với sự gia tăng ồ ạt các loại hình đào tạo cử nhân
luật của các trường đại học (từ xa, tại chức, liên thông, ...), cộng thêm sự kiểm
soát, kiểm định chất lượng của các loại hình đào tạo cử nhân luật nói trên chưa
thực sự chuẩn mực, ... đã góp phần ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đội ngũ
59
luật sư.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở thực trạng chứng minh và các đặc điểm có liên quan trong giai
đoạn điều tra vụ án cướp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tác giả đã
phân tích được yêu cầu việc nâng cao chất lượng của việc chứng minh trong giai
đoạn điều tra vụ án cướp tài sản là một vấn đề mang tính cấp thiết và đáp ứng kịp
thời yêu cầu trước tình hình tội phạm diễn ra ngày càng tăng và phức tạp về thủ
đoạn phạm tội.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các giải pháp sau: Nâng cao nhận thức,
trình độ của đội ngũ Điều tra viên trong Cơ quan điều tra về việc chứng minh
trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản; Tăng cường công tác chỉ đạo, xây
dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc chứng minh
vụ án cướp tài sản; nghiên cứu nắm vững những quy luật hoạt động, tính chất và
quy mô của từng vụ án phục vụ cho việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
60
án cướp tài sản.
KẾT LUẬN
Từ nằm 2015 đến tháng 6 năm 2020 trên toàn quốc nói chung cũng như
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng đã xảy ra rất nhiều vụ án cướp tài sản, gây
hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân,…Việc chứng
minh vụ án cướp tài sản trong giai đoạn điều tra cũng như quá trình giải quyết vụ
án do CQĐT Công an tỉnh Đồng Nai thụ lý đã có nhiều kết quả tốt và khả quan.
Quá trình nghiên cứu giải quyết vụ án cướp tài sản và tổng kết từ thực tế đã rút
ra được thực trạng việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản
và đưa ra những phương án tối ưu cho hoạt động này có ý nghĩa rất lớn, quan
trọng đối với công tác bảo đảm, giữ gìn An ninh quốc gia nói chung và trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Đề tài luận văn “Chứng minh trong điều tra vụ án cướp tài sản từ thực
tiễn tỉnh Đồng Nai” là đề tài khá phức tạp. trong thời gian làm luận văn, tác giả
đã rất nghiêm túc thực hiện đúng phương pháp nghiên cứu khoa học và bám sát
vấn đề, mục tiêu, phạm vi và nhiệm vụ của đề tài đã được xác định. Vì thế, đã
giải quyết được cơ bản những nội dung sau:
Thứ nhất, luận văn đã làm rõ được khái niệm, nội dung, các giai đoạn điều
tra của chứng minh trong vụ án cướp tài sản, phân tích khá rõ ràng cơ sở pháp lý
của việc chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản.
Thứ hai, luận văn đã phân tích rõ đặc điểm có liên quan đến HĐCM trong
giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản trong giai đoạn điều tra bao gồm đặc điểm
tội phạm về thực hiện hành vi cướp tài sản, đặc điểm địa bàn tỉnh Đồng Nai, đặc
điểm hoạt động phạm tội, đặc điểm đối tượng phạm tội, đặc điểm chủ thể tiến
hành HĐCM. Với việc phân tích tình hình, đặc điểm, luận văn nghiên cứu của
tác giả làm rõ thực trạng việc thực hiện chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cướp tài sản của CQĐT- Công an tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019
61
thông qua việc đánh giá các kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại.
Thứ ba, luận văn đã phân tích được yêu cầu đối với việc chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. Từ đó, luận văn
đưa ra một số kiến nghị chứng minh trong quá trình điều tra vụ án cướp tài sản
trong giai đoạn điều tra.
Quá trình nghiên cứ luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu và cố gắng
rất nhiều, tuy nhiên vấn đề Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cướp tài
sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai là vấn đề khá khó khăn. Khả năng nghiên cứu độc
lập của tác giả còn hạn chế nhiều, nên không tránh khỏi những thiếu sót, mong
nhận được sự chỉ dẫn nhiều hơn nữa, những ý kiến đóng góp của các nhà khoa
học và các Thầy, Cô và các anh, chị đồng nghiệp đang công tác trong ngành và
ngoài thực tế để hoàn thiện hơn nữa nội dung được nghiên cứu trong luận văn
này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các lãnh đạo của Học Viện Khoa Học Xã
Hội, cán bộ Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Đồng nai, đã tận tình giúp đỡ, cung
cấp số liệu và chia sẽ kinh nghiệm thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả
hoàn thiện luận văn này. Đặc biệt, Tác giả xin chân thành cảm ơn người hướng
dẫn khoa học, Cô PGS.TS Đinh Thị Mai đã tâm huyết hướng dẫn tận tình để tác
62
giả hoàn thành đề tài luận văn này./.
1. GS. TS. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần chung,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Anh Tuấn (2018) Chứng minh trong điều tra vụ án sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
3. Đặng Minh Phụng (2016) Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Sinh Thành (2018) Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tù thực tiễn Tòa án Nhân dân huyện Hoài Đức, Thành phố Hà
Nội, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
5. Vũ Ngọc Hà (2013) Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia – Sự Thật Hà Nội- 2015.
7. GS. TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật Hình sự Việt Nam phần các tội
phạm, Nxb Khoa Học Xã hội, Hà Nội.
8. Quốc hội (1999) Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Quốc hội (2015) Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
10. Quốc hội (2015) Bộ luật Hình sự (Bộ luật 2015, sửa đổi bổ sung
2017), Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
11. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
12. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia Sự
Thật, Hà Nội.
13. Tòa án Nhân Dân Tối cao- Tổng hợp số liệu tội cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đồng nai từ 2015 đến tháng 6 năm 2020.
14. Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC
28/01/2010 (Điều 4).
15. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ
16. Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu. Bộ luật hình sự năm 1999.
17. Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT&
VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
18. Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.
19.Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC về
quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và VKS có thẩm quyền kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
20. Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy
định chi tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao
tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản
sao tài liệu khác liên quan đến bào chữa.
21. Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP
hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thành việc
2
hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
22. Vi.Wikipedia.Org./Wiki/Đongnai.
23. Moj.gov.vn
24.Thuvienphapluat.vn
25. Luattrongtay.vn
26.V.I.Lê- Nin (1978) toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ.
3