ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----------------------

NGÔ SỸ TIỆP

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG QUÁ TRÌNHCÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số: 60.31.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Phan Thanh Phố Hà Nội - 2007

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Mục lục

Lời cam đoan

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Tr 2 4 5 6 7

Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ trong luận văn

Lời mở đầu

11

Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên 1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở nước ta

1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta và các

địa phương trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp một số tỉnh

trung du và đồng bằng ở Việt Nam

Chương 2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp thời gian qua ở tỉnh thái nguyên

1 1 2 7 3 1 4 0

2.1. Khái quát những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên

Thuận lợi và khó khăn

2.2. Hiện trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp thời gian qua ở Thái Nguyên

2.3. Đánh giá chung thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp thời gian qua ở tỉnh Thái Nguyên

40 51 60

Chương 3

Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh thái nguyên trong thời gian tới

3.1. Phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp

tỉnh Thái Nguyên

3.2. Các giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên

PHỤ LỤC

70 70 87 99 101 106

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc

lập của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan

Thanh Phố.

Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn

gốc và được trích dẫn rõ ràng.

Đề tài không trùng lặp với bất cứ công trình khoa

học nào đã công bố

Tác giả luận văn

Ngô Sỹ Tiệp

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

TRONG LUẬN VĂN

XHCN Xã hội chủ nghĩa

CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CDCCKTNCN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp

KTTT Kinh tế thị trường

UBND Uỷ ban nhân dân

QLNN Quản lý nhà nước

NSNN Ngân sách nhà nước

LLLĐ Lực lượng lao động

DN Doanh nghiệp

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

KCN Khu công nghiệp

HTX Hợp tác xã

GTSXCN Giá trị sản xuất công nghiệp

Danh mục bảng, biểu và đồ thị

TÊN BIỂU BẢNG VÀ LƯỢC ĐỒ

Trang

44

44

45

51

60

62

Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP chung của tỉnh và từng ngành giai đoạn 2001- 2005 Bảng 2.2: Cơ cấu GDP của công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 Bảng 2.3: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005 Bảng 2.4: Giá trị và tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2001 - 2006 Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm từ 2001 - 2005 Bảng 2.6: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 - 2005

65

46

47

48

Bảng 2.7: Giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu của nó thời kỳ 2001 - 2005. (Phân theo thành phần kinh tế - theo giá cố định 1994) Lược đồ 1: LLLĐ chia theo giới tính 2001 - 2005 Lược đồ 2: Cơ cấu lao động chia theo khu vực thành thị, nông thôn Lược đồ 3: Cơ cấu LLLĐ chia theo trình độ CMKT 2001- 2005

Lược đồ 4: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế

49

72

72

73

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu GDP/ người, tốc độ tăng trưởng, kinh tế đối ngoại và mức thu ngân sách từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020 Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh thái Nguyên qua 2 thời điểm 2010 và 2020 Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội qua 2 thời điểm 2010 và 2020

Bảng 3.4: Một số sản phẩm chính của nhóm ngành công nghiệp chế biến nông - lâm sản -

81

thực phẩm đến 2010, 2015 và 2020

Bảng 3.5: Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 của Thái Nguyên

88

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, của một tỉnh nói riêng đòi

hỏi phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng

đắn mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế, các

yếu tố, bộ phận, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những nội dung cơ bản của

công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm trong nó có cả sự xây dựng cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thái Nguyên, một tỉnh thuộc trung tâm kinh tế, văn hoá và khoa học - công

nghệ khu vực Đông Bắc của đất nước, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị và

xã hội đối với quốc gia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, đồng bào

các dân tộc trong tỉnh đã phát huy tinh thần yêu nước, vượt qua khó khăn, năng

động sáng tạo, phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Là một tỉnh có nhiều tiềm năng cho sự phát triển ngành công nghiệp, song

trong thời gian qua, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên

còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của một

tỉnh có truyền thống là một trung tâm công nghiệp của đất nước.

Làm thế nào để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp với tốc độ

nhanh và chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Thái

Nguyên trong thời gian tới. Lời giải cho vấn đề đặt ra, cần có sự nghiên cứu, phân

tích kỹ trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn.

Để góp phần tìm ra những giải pháp trên tác giả chọn đề tài: “Chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành

Kinh tế chính trị, mã số 60.31.01.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có nhiều công trình, nhiều đề tài, nhiều

tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như:

- Ngô Đình Giao (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

- Phạm Khiêm ích - Nguyễn Đình Phan, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở

Việt Nam và các nước khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994.

- Trần Văn Nhưng, Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trên

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, năm 2001.

- Gần đây cũng đã có một số luận văn thạc sĩ viết về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, hoặc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn một số

tỉnh như: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Đồng Nai....

Nhìn chung các đề tài đã nghiên cứu và công bố, phản ánh nhiều mặt của

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên một địa bàn, một địa phương

nhất định. Song cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp ở Tỉnh Thái Nguyên, nhất là nghiên cứu nó như một đề

tài độc lập, mang tính hệ thống như đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu và thực

hiện trong luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích của luận văn:

Trên cơ cở vận dụng lý luận và phân tích thực trạng về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Trình bày có hệ thống một số vấn đề lý luận liên quan đến việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh Thái

Nguyên thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn lấy việc phân tích lý luận, thực trạng, phương hướng và giải pháp

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa làm đối tượng nghiên cứu.

* Phạm vi nghiên cứu:

- Lấy địa bàn tỉnh Thái Nguyên làm không gian để nghiên cứu.

- Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ 1996 - 2005 và lấy giai đoạn

2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 để đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm

phương pháp luận chung, đặc biệt là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài

ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích và

tổng hợp, điều tra xã hội học, chuyên gia, thống kê định lượng so sánh, mô hình....

Bằng cách đó tạo thành tổ hợp phương pháp cho phép tiếp cận nhanh và hiệu quả

đối tượng và mục tiêu nghiên cứu mà luận văn đặt ra.

6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn

* Những đóng góp :

- Làm rõ thêm khái niệm, những nhân tố, sự cần thiết, nội dung chuyển dịch

cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng chuyển

dịch cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh

Thái Nguyên trong thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản, có tính khả thi nhằm đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới.

* Ý nghĩa :

Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định

chiến lược phát triển ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ở Thái Nguyên. Nó cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu giảng dạy ở các

Trường đại học và Cao đẳng có liên quan.

7. Tên và kết cấu của luận văn

* Luận văn có tên đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp

ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”

* Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

về nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp trong quá trình CNH, HĐH.

Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá

trình CNH, HĐH thời gian qua ở TỉnhThái Nguyên.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Tỉnh Thái Nguyên thời

gian tới.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ

CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA

1.1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH

 Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu khách quan

của thời đại ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa

hơn về kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Trên thực tế không

phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà việc

thực hiện công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn

ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu ( Như:

Hà Lan, Pháp, Đức, Italia...).

Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành sớm như vậy nhưng phải mãi đến

cuối thế kỷ XIX thuật ngữ “công nghiệp hóa” mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một

lĩnh vực sản xuất bằng phương pháp thủ công sang hoạt động theo tính chất của

công nghiệp cơ khí. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới

được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế, mà nội dung của nó bao hàm

cuộc cách mạng công nghiệp, từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách

mạng công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới

cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong, rồi điện năng và các dạng năng lượng mới

làm động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa... thì quan niệm về công

nghiệp hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác

nhau.

* Ví dụ: Quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ)

cho rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí, có

khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành

trung tâm là chế tạo máy" [11, tr.49].

Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã

đưa ra định nghĩa:

Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận

năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều

ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu

dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm

bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [25, tr.6].

Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ

yếu là hai quan niệm sau:

Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công

nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo

lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy

móc chiếm ưu thế.

Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục,

cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa

dạng.

Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực

tế, công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các mốc giới,

định tính, định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu

hiện về mô hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn

cảnh khác nhau cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách

khái quát nhất: Công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt

đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển

cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có thể là mở đầu cho một cuộc cách

mạng công nghiệp mới.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc

hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ

chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị

trí vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác

định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ

thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục

khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ yếu tập

trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội

IV, V: Công nghiệp hóa chính là “quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực

hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa

để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng” [12, tr.182]. Đường lối đưa ra để

tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định: Ưu tiên phát triển công nghiệp

nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với điều

kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và tồn

tại sự độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế,

chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng then chốt cho nền

kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu,

tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục

khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển

hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang

lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng

tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng

bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một

cách cơ bản:

Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển

mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ

cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, công nghệ

mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của

toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63].

Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công

nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là

quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế

quốc dân, bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ

phát triển ở lĩnh vực công nghiệp.

Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ

đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy,

công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có

nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu

"cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc

tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế

giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên

tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu

và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa.

Hay nói cách khác, để có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về công nghiệp hóa phải đặt

nó trong mối quan hệ với hiện đại hóa. Tất nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa

là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho

nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn

diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ

theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến

những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên

sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và

trình độ văn minh kinh tế xã hội cao [62, tr.63].

Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất

yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về

mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.

Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII

đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

là:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các

hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao

động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với

công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội

cao [33, tr.65].

Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được

phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học -

công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực chất là quá trình

thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước

công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ

sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật

chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII của Đảng ta đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề được

tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã

hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa với mục tiêu:

Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh

tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản

xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu

đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [34, tr.80].

 Khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.

Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong quá trình

xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia

qua các thời kỳ. Xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ cho phép tạo nên sự

cân đối, hài hoà của nền kinh tế, từ đó sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực, tài

nguyên, của cải vật chất, tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý nghĩa quan trọng

trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ đó tạo nên sự tiến bộ xã hội.

Thuật ngữ “cơ cấu” có nguồn gốc ban đầu từ chữ La tinh “Strucke”, nó phản

ánh cách xắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó, các khái niệm này được

sử dụng mở rộng hơn cho các ngành khoa học khác.

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam “cơ cấu kinh tế”: là tổng thể các ngành, lĩnh

vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.

Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác tiếp cận

cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người làm nhiệm vụ

sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó họ tiến

hành sản xuất, toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ cấu của

nó. Như vậy theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản

xuất phù hợp với tính chất, trình độ, quá trình phát triển nhất định của lực lượng

sản xuất vật chất của xã hội đó, từ những quan điểm trên của C.Mác ta nhận thấy

rằng:

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối

ổn định giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế với những điều kiện kinh tế - xã

hội nhất định trong khoảng thời gian nhất định.

C.Mác khẳng định, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải xem xét trên cả hai mặt, số

lượng( quy mô, tỷ trọng, tốc độ) và chất lượng( vị trí, sự tương tác, trình độ công

nghệ...). Đó là biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Do

đó, cơ cấu là: “ một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá

trình sản xuất xã hội” [63; tr103]. Từ nhận định trên ta nhận thấy rằng, cơ cấu kinh

tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa

họ với tự nhiên, kỹ thuật) và các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh

tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành.

Nếu cơ cấu kinh tế bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi

phân tích cơ cấu kinh tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý là một cơ

cấu kinh tế được hình thành và phát triển trong đó, các yếu tố của quan hệ sản xuất

luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên,

không nên hiểu cơ cấu kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất, mà phải hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số

lượng và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành và

phát triển qua các giai đoạn của nền sản xuất xã hội. Do vậy, dưới góc độ ngành,

vùng và thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế (công

nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ); cơ cấu vùng kinh tế theo lãnh thổ; và cơ cấu

thành phần kinh tế.

Trong luận văn này, tác tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp

cũng bao gồm 3 nội dung nói trên của cơ cấu kinh tế, nhưng đi sâu nghiên cứu trực

tiếp trong ngành công nghiệp và các nhóm ngành của ngành công nghiệp ở Thái

nguyên. Theo cách tiếp cận nói trên, tác giả hiểu:

Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế trong nền

kinh tế quốc dân; là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối

ổn định giữa các bộ phận: ngành và nội bộ ngành, vùng và thành phần kinh tế

trong ngành công nghiệp; tương ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội xác định

và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định.

1.1.2. Khái niệm và nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp ở nước ta

 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.

Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng thái

tĩnh hay trạng thái tĩnh hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái

niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động có tác dụng

làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học, kỹ thuật - công

nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội cũng thay

đổi, phát triển đi từ thấp đến cao, từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại và hiệu quả

cao theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng

ta có thể hiểu:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là quá trình thay đổi cấu trúc, tỷ

trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các nhóm ngành, các khu,

cụm điểm công nghiệp và các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp nhằm

đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho

tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn của công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước.

 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.

Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố

đa dạng và phức tạp, đó là những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây:

Một là: Nhân tố về địa lý, tự nhiên (khí hậu, đất đai, tài nguyên…)

Các Mác viết : “ Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu

lấy những đối tượng của tự nhiên, trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”

[27, tr 282]. Do sản xuất là “ sự chiếm hữu tự nhiên ” nên quá trình chiếm hữu đó

cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng của chính những điều kiện tự nhiên. Do đó, ảnh hưởng

của địa lý, tự nhiên tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu, một

nhân tố không thể thiếu được của một nước, mỗi ngành và mỗi địa phương khi chyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hóa.

Vị trí địa lý của một quốc gia góp phần tạo ra sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của một nước, đối với những nước có vị trí địa lý sát biển, đồng thời thuận lợi nằm

trên các tuyến giao thông quan trọng về đường biển, đường hàng không, nhất là nằm

trong một khu vực phát triển năng động về kinh tế sẽ cho phép nước đó phát triển mạnh

nghành công nghiệp khai thác các nguồn lợi tự nhiên trong đại dương, công nghiệp đóng

tàu, công nghiệp đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Như vậy Việt Nam là quốc gia có

tiềm năng lớn về biển cả, lại nằm trong khu vực ASEAN với nền kinh tế phát triển năng

động sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam cơ hội đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, đây là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và cơ cấu nghành công nghiệp trong thời gian tới.

Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản, đất đai, khí hậu) là một

trong các yếu tố nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất, là điều kiện cần thiết cho sản

xuất công nghiệp, một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú dồi dào nếu biết khai

thác và sử dụng có hiệu quả sẽ cho phép phát triển các nghành công nghiệp khai thác

khoáng sản và chế biến để thỏa mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trên thực tế, trong

giai đoạn phát triển ở mỗi nước, người ta thường tập trung khai thác các tài nguyên có trữ

lượng lớn, có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên

thiên nhiên không phải là vô tận, do đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công

nghiệp phải làm sao, để sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên đó.

Hai là: Nhân tố về kinh tế văn hoá xã hội

Lôgic và lịch sử chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá đều

cho rằng: Khi nền sản xuất xã hội còn ở tình trạng lạc hậu ( lực lượng sản xuất thấp kém,

trình độ văn hoá và khoa học kỹ thuật của người lao động chưa cao) thì cơ cấu kinh tế của

xã hội ấy phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện địa lý tự nhiên. Khi đó những nghành

kinh tế dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như nông - lâm - ngư nhiệp, khai

khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế

ngày càng phát triển, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của con người được nâng cao thì

sự phụ thuộc đó ngày càng giảm dần, tỷ trọng của nghành công nghiệp và dịch vụ trong

GDP ngày một lớn trong cơ cấu nghành kinh tế quốc dân.

Dân số, sức lao động, đây được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế nói

chung và nghành công nghiệp nói riêng. Dân số và tốc độ tăng dân số của một nước có

ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chyển dịch cơ cấu kinh tế của một

nước. Nếu có nguồn lực lao động dồi dào thì sẽ có nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất

nhiều hơn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên nếu tốc độ tăng dân số quá

cao sẽ làm tăng trưởng kinh tế chậm lại. Việc cải thiện chất lượng lao động hay nguồn

nhân lực ( Như: kỹ năng kiến thức mà người lao động tích luỹ được trong quá trình lao

động, học hỏi, giáo dục) là cơ sở quan trọng để phát triển các nghành công nghiệp kỹ

thuật cao, sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Quy mô dân số và thu nhập của

dân cư tăng sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn, đó là cơ sở để phát triển các ngành

công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng cho xã hội, làm cho tỷ trọng của ngành

công nghiệp cũng tăng lên. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, có tay nghề tinh xảo,

người Việt Nam lại cần cù thông minh sẽ nhanh chóng tiếp thu tiến bộ khoa học công

nghệ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu lao động cho nghành công nghiệp.

Vốn đầu tư cũng là một yếu tố nguồn lực trong quá trình sản xuất, là nhân tố

quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhà nước sử dụng vốn ngân sách và huy động

vốn toàn xã hội, trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, sẽ tạo ra sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp

nói riêng một cách nhanh chóng. Vốn là chìa khoá cho mọi sự phát triển kinh tế của một

quốc gia, nếu không có vốn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công

nghệ thì sẽ không có tăng trưởng kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn tiến

hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên rất cần một số lượng vốn lớn, nguồn vốn này

được huy động từ trong và ngoài nước. Nguồn vốn huy động trong nước( nội lực) là

nguồn vốn có tính chất quyết định để đầu tư vào sản xuất, đó chính là từ sự tiết kiệm của

dân cư và nền kinh tế của đất nước, tỷ lệ tiết kiệm và khối lượng tiết kiệm càng lớn thì sẽ

có vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chyển dịch cơ

cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài (ngoại lực) là

nguồn vốn quan trọng, bao gồm: vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài FDI, vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ NGO, vốn đầu tư gián

tiếp của nước ngoài. Các nguồn vốn này có tính chất quan trọng góp phần bù đắp những

thiếu hụt của vốn trong nước để đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời qua đó có

thể tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý tiên tiến, tiếp cận thị trường tiêu

thụ, thực hiện chyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy

nhiên, để nền kinh tế phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng thì nhà nước

phải có chiến lược đầu tư hợp lý, phải biết phân bổ và sử dụng vốn đầu tư khoa học và

hiệu quả.

Tiềm lực khoa học kỹ thuật - công nghệ, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng

khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, diễn ra khắp nơi trên thế giới và phát

triển trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nó có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh

tế của mỗi nước, đồng thời ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cũng như của từng địa phương, từng ngành. Đối với cơ cấu

kinh tế nghành công nghiệp, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ sẽ làm phân

công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc và làm phân chia cơ cấu nội bộ nghành

công nghiệp thành nhiều nghành nhỏ hơn, với chuyên môn hoá sâu, đồng thời xuất hiện

nhiều nghành mới với quy mô sản xuất có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao, cơ giới

hoá, tự động hoá đồng bộ, sử dụng nhiều lao động trí tuệ trong các nghành kinh tế như:

điện tử, tin học, viễn thông, sinh học, chế tạo vật liệu mới, trong khi đó những nghành

công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động bị giảm bớt.

Ba là: Nhân tố về môi trường thể chế vĩ mô

Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ chịu ảnh hưởng của

điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội mà còn chịu ảnh hưởng của môi trường thể chế vĩ mô

của nhà nước trong từng thời kỳ. Thực tế lịch sử cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần

có sự ổn định về chính trị - xã hội, ví dụ như :

Tình hình môi trường chính trị: Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga

trước đây bị gián đoạn, bởi 3 năm nội chiến (1918 - 1920). Trong kế hoạch 5 năm lần thứ

nhất (1961 - 1965) công nghiệp hoá tiến hành ở miền Bắc nước ta thực hiện đến năm

1964, Mỹ phong toả vịnh Bắc bộ ném bom và ngư lôi ở Hải Phòng và Quảng Ninh gây

chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, công nghiệp hoá lúc này bị gián đoạn do chiến tranh hay

chuyển sang làm công nghiệp hoá theo quan điểm phục vụ chiến tranh là chủ yếu.

Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch sử xã hội nhưng các tính

chất này lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Khi tác động gián tiếp, nhà nước

bằng cách định hướng chiến lược phát triển kinh tế, khuyến khích mọi lực lượng sản xuất

xã hội nhằm đạt được mục tiêu đề ra, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như nội

bộ cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp, bằng lực lượng kinh tế của mình Nhà Nước có thể

sẽ tập trung vốn để đầu tư vào việc phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, trọng

điểm, có lợi thế cạnh tranh cao, đồng thời Nhà Nước hướng dẫn cho mọi thành phần kinh

tế, các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất theo mục tiêu kinh tế xã hội đề ra. Bên

cạnh đó, Nhà nước điều hành nền kinh tế thông qua các hệ thống luật pháp, các chính

sách kinh tế và các công cụ điều tiết khác như: đối với những ngành sản xuất hoặc những

sản phẩm cần hạn chế phát triển thì nhà nước sẽ đánh thuế cao, ngược lại những ngành

sản xuất hoặc sản phẩm cần phát triển thì Nhà nước sẽ miễn giảm thuế hoặc đánh thuế

thấp để khuyến khích nhà sản xuất, từ đó sẽ đẩy mạnh sản xuất của ngành đó. Đối với

những ngành sản xuất không có lãi hoặc không ai muốn đầu tư sản xuất nhưng sản phẩm

của nó lại rất cần cho xã hội thì Nhà nước tự đầu tư và tự tổ chức sản xuất. Ngoài ra, với

sự ổn định về chính trị của đất nước, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa

dạng hoá các mối quan hệ quốc tế sẽ tạo ra các lợi thế quan trọng trong việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, là điều kiện để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư vào đất

nước đó.

Như vậy môi trường chính trị - xã hội không ổn định, định hướng chiến lược kinh

tế và môi trường thể chế chính sách của Nhà nước luôn có sự thay đổi sẽ khó có thể

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tình hình thể chế kinh tế thị trường, thị trường và nhu cầu tiêu dùng trên thị

trường của xã hội. Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường

định hướng XHCN cho thấy, thị trường có vai trò là khâu trung gian giữa nhà sản xuất và

người tiêu dùng, là nơi mà nhà kinh doanh và người tiêu dùng gặp nhau nhằm xác định ba

vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu? Đây

chính là căn cứ để xác định nhu cầu tiêu dùng của xã hội mà các doanh nghiệp xây

dựng kế hoạch sản xuất hàng hoá để đáp ứng nhu cầu cả xã hội, do đó thị trường là

yếu tố giữ vai trò quan trọng đến sự phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến sự hình

thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp của một nước. Nhân tố thị

trường có tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp qua các

vấn đề sau: Tạo ra quá trình mở rộng và khai thác những tiềm năng cho sự phát triển của

ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, đa

dạng hoá ngành nghề, khuyến khích mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài tạo ra sự

tăng trưởng nhanh cho ngành công nghiệp. Do tác động của sự cạnh tranh và nhu cầu

đòi hỏi ngày càng cao trên thị trường nên tạo ra sự kích thích việc ứng dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong ngành công nghiệp và trong nội bộ của ngành

công nghiệp. Kích thích được lợi ích kinh tế và tạo ra động lực mới cho sự phát triển của

ngành công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đang có những loại thị trường sau: Thị trường

hàng hoá dịch vụ, thị trường khoa học - công nghệ - thông tin, thị trường vốn, thị trường

bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán. Nhà nước quản lý thị

trường bằng các công cụ quản lý gián tiếp, đó là những thể chế, luật pháp, chính sách kinh

tế nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động, thông qua đó thị trường tác động lên các

doanh nghiệp, từ đó các doanh nghiệp có xu hướng chuyển dịch cơ cấu để sản xuất ra các

hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường, như vậy xét đến cùng thì thị trường tác

động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp chính bởi xuất phát từ nhu cầu tiêu

dùng cả xã hội, hoặc Nhà nước trực tiếp tác động lên thị trường bằng chương trình kích

cầu thông qua đầu tư hoặc tiêu dùng ( Ví dụ: Nhà nước đầu tư hệ thống cầu đường là kích

thích ngành sản xuất sắt, thép, xi măng, vật liệu xây dựng phát triển). Khi nhu cầu tiêu

dùng của xã hội tăng lên sẽ làm cho sản xuất công ngiệp phát triển, để đáp ứng sản phẩm

tiêu dùng cho xã hội, tạo ra thu nhập bình quân đầu người tăng, đồng thời kéo theo sự

dịch chuyển lao động từ nông thôn vào thành thị, cơ cấu sản xuất công nghiệp sẽ tăng lên,

tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

của xã hội ngày càng cao và phong phú hơn.

Bốn là: Nhóm nhân tố tác động của tình hình thế giới.

Xu hướng chính trị xã hội của khu vực và thế giới ảnh hưởng tới sự hình thành và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Sự biến động về chính trị xã hội của một

nước hay một số nước trên thế giới sẽ tác động mạnh đến các hoạt động ngoại thương,

thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ của các nước trên thế giới và khu vực. Nên

buộc các nước phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, nhất là cơ cấu ngành công

nghiệp, để đảm bảo cho nền kinh tế nước mình phát triển ổn định. Ví dụ: Cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ nổ ra vào năm 1997 ở Châu Á, bắt đầu từ Thái Lan sau đó lan ra

hầu hết các nền kinh tế trong khu vực đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho các nước

này, hoặc những thay đổi trong hệ thống chính trị ở các nước khu vực ASEAN sẽ là

những nguy cơ tiềm tàng cho quá trình khôi phục và tăng trưởng kinh tế của toàn bộ khu

vực do sự tác động lây lan của nó, từ khủng hoảng chính trị xã hội sẽ chuyển thành khủng

hoảng kinh tế và ngược lại.

Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất, ngày nay toàn cầu

hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan của thế giới hiện đại, nó tác động đến mọi lĩnh

vực trong đời sống kinh tế xã hội của các nước trên thế giới. Nó bắt nguồn từ sự phát triển

vượt bậc của lực lượng sản xuất trên quy mô quốc tế dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, làm cho tính xã hội hoá của hoạt động sản

xuất tăng lên và sự phân công lao động trở nên sâu sắc hơn, các mối quan hệ giữa các

vùng tác động qua lại tuỳ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế giữa các quốc gia và khu vực

ngày càng sâu rộng và mật thiết với nhau. Toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp đầy

mâu thuẫn, nó chứa đựng những mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức

đối với các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển phải chịu nhiều

thách thức gay gắt hơn hết. Cơ hội của toàn cầu hoá chính là tạo ra sự phát triển kinh tế

thông qua việc thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, tự do hoá thương mại,

nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là chuyển

dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá sâu, kết hợp khai thác

nguồn lực trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Xu hướng toàn cầu

hoá kinh tế đã hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế, kết hợp với ứng dụng các công

nghệ mới và sự bành trướng ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia đã làm cho

biên giới các quốc gia trở nên chật chội, nó phải vượt qua khỏi biên giới lãnh thổ để mở

rộng sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn thế giới, thể hiện qua việc di chuyển nguồn

vốn đầu tư, hay là sự phân công lao động quốc tế dựa trên sự chuyên môn hoá sâu diễn ra

trong nội bộ của từng ngành công nghiệp, làm cho quá trình sản xuất ra một sản phẩm

hoàn chỉnh được chia thành nhiều công đoạn, được thực hiện bởi những công ty khác

nhau ở những nước khác nhau trên thế giới, đã hình thành nên việc quốc tế hoá lực lượng

sản xuất ra không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ của một quốc gia mà còn

vươn ra nước ngoài để tìm kiếm thị trường tiêu thụ quốc tế rộng lớn hơn, tạo ra việc sản

xuất và cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, đồng thời để tồn tại và phát triển trong môi

trường tự do hoá thương mại của thế giới, các quốc gia tiếp tục tiếp thu, ứng dụng khoa

học kỹ thuật hiện đại vào trong sản xuất thông qua việc chuyển giao công nghệ, mua phát

minh sáng chế, thu hút chuyên gia giỏi để sản xuất ra sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao,

chiếm lĩnh được thị trường.

Thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, sự bùng nổ thông tin và nền

kinh tế tri thức. Hiện nay, cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão làm

xuất hiện những ngành kỹ thuật mới với công nghệ cao như công nghệ sinh học, vật liệu

mới, điện tử, tin học đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của các nước,

đồng thời chi phối đến mọi lĩnh vực từ sản xuất đến lưu thông, tiêu dùng và mọi mặt của

đời sống xã hội. Cuộc cách mạng thông tin đang diễn ra sôi động trên thế giới ngày nay,

tác động hết sức sâu sắc vào hoạt động kinh tế xã hội của các nước trên thế giới, đã làm

cho nền văn minh công nghiệp truyền thống trước đây chuyển thành nền văn minh thông

tin và trí tuệ trên cơ sở của sự dịch chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri

thức, nền kinh tế tri thức đang trở thành thời cơ và thách thức to lớn đối với những nước

đang phát triển trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình. Công nghệ thông

tin với những mạng siêu xa lộ thông tin Internet đang tạo ra việc sử lý thông tin trong hoạt

động kinh tế một cách tự động hoá, góp phần làm cho các nhà sản xuất kinh doanh nắm

bắt nhanh chóng kịp thời nhu cầu thị trường, giúp họ định hướng sản xuất ra sản phẩm

theo hướng có hàm lượng chất xám cao, ít tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, người lao động

sản xuất được tri thức hoá, lao động phổ thông và chân tay ngày càng giảm bớt. Chính

thành tựu của khoa học công nghệ đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã

hội, phát triển sức sản xuất, làm cho tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh chóng.

Tóm lại, khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, trên thực tế nó chịu

nhiều sự tác động của các nhân tố khác nhau, có những nhân tố mang tính tích cực khi nó

thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngành công nhiệp, nhưng đồng thời lại có những nhân tố

mang tính tiêu cực khi kìm hãm sự phát triển kinh tế ngành công nghiệp. Do vậy, khi

phân tích các nhân tố tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, sẽ giúp

chúng ta có định hướng đúng đắn trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nhằm

phục vụ một cách hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân.

1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH

Thứ nhất, do yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế vàc phát triển mạnh KTTT định hướng XHCN.

Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với nhiệm vụ trung

tâm là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vì vậy việc phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, sẽ tạo ra sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và

do vậy muốn có một nền kinh tế thị trường phát triển thì phải có một cơ sở vật chất

hiện đại và phát triển.

Thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

theo hướng hiện đại. Đến lượt nó, cơ sở vật chất kỹ thuật lại có tác dụng thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế để sớm đưa nước ta ra khỏi nước kém phát triển. Việt Nam hiện

nay vẫn là một nước có nền kinh tế còn nhiều hạn chế, để sớm đưa nước ta có nền

kinh tế phát triển, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, từ đó thúc đẩy

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển nhanh, mạnh theo hướng ngày

một hiện đại so với khu vực và quốc tế. Muốn làm được điều đó, trước hết phải có

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

ngành công nghiệp giữ vai trò then chốt.

Thứ hai, do yêu cầu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh

tế để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên

chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới.

Trên thực tế với sự phát triển của nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới, đã

đòi hỏi các nước phải thực hiện nền kinh tế mở và hội nhập.

Muốn đạt hiệu quả cao khi hội nhập trong điều kiện toàn cầu hoá về kinh tế,

buộc các nước phải luôn tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh về sản phẩm hàng

hoá của mình trong trao đổi.

Muốn làm được điều đó phải phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới công

tác quản lý và điều không thể không làm đó là xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý,

trong đó một vấn đề mang tính then chốt là phải xây dựng cho được một cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp hợp lý, hiện đại và có năng lực cạnh tranh cao, nhằm

phát triển nền kinh tế quốc dân nước ta nhanh, mạnh và có hiệu quả.

1.2. NỘI DUNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC

TA VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG

THÔN.

1.2.1. Khái quát nội dung mang tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.

Từ lôgic và kinh nghiệm lịch sử về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp của các nước vận dụng vào nước ta trong bối cảnh hiện đại, có thể khái quát

đưa ra một số nội dung chuyển dịch mang tính xu hướng sau:

Một là, căn cứ vào sự phân chia theo nhóm ngành trong nội bộ ngành

công nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp có các nội dung

mang tính xu hướng như:

Đối với ngành công nghiệp khai thác, nội dung chuyển dịch cơ cấu theo xu

hướng tỷ trọng công nghiệp khai thác truyền thống giảm dần, còn tỷ trọng công

nghiệp khai thác dựa trên công nghệ hiện đại và lao động trí tuệ ngày một tăng

nhanh trong GDP.

Đối với ngành công nghiệp chế biến, nội dung chuyển dịch cơ cấu theo

xu hướng tỷ trọng công nghiệp sơ chế giảm dần, còn tỷ trọng công nghiệp tinh chế,

tái chế tăng nhanh; tiểu thủ công nghiệp truyền thống và công nghiệp hiện đại phát

triển trong sự kết hợp hài hòa với nhau trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn.

Đối với ngành sản xuất và phân phối điện, nước, nội dung chuyển dịch

cơ cấu theo xu hướng:

Tỷ trọng sản xuất và phân phối điện dựa vào năng lượng truyền thống kỹ

thuật lạc hậu, tỷ lệ hao hụt cao sẽ giảm dần, còn tỷ trọng năng lượng điện được

sản xuất và phân phối dựa vào năng lượng nguyên tử và các dạng năng lượng mới,

sạch và an toàn ngày một gia tăng trong tổng giá trị năng lượng được sử dụng trong

từng thời kỳ.

Tỷ trọng sản xuất và phân phối nước sạch, chuyển dịch theo hướng mở rộng

việc cung cấp nước sạch cả thành thị lẫn nông thôn, vùng sâu vùng xa, với chất

lượng cao theo hướng hiện đại. Đặc biệt chú trọng đến vấn đề môi trường, cùng với

khả năng khai thác bền vững.

Đối với ngành công nghệ thông tin, nội dung chuyển dịch cơ cấu theo

xu hướng, giá trị của ngành chiếm tỷ trọng giá trị gia tăng ngày càng nhiều so với

các nhóm ngành khác trong ngành công nghiệp và được ứng dụng mang tính phổ

biến trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

Hai là, căn cứ vào cơ cấu vùng kinh tế trong ngành công nghiệp, sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp có 2 nội dung mang tính xu hướng

như:

* Quá trình hình thành các khu công nghiệp.

Khu công nghiệp được hiểu là hình thức thực hiện quá trình CNH, HĐH, là

một tổ chức không gian kinh tế - xã hội được xác định bởi những giới hạn nhất

định, trong đó có những điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội;

có cơ chế chính sách và phương thức quản lý riêng, nhằm tạo ra lợi thế thu hút các

doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và thực hiện các dịch vụ công nghiệp.

Tùy theo những tiêu thức khác nhau, KCN được phân loại như sau:

- Dựa và tính chất ngành nghề có thể chia thành 3 loại như: KCN chuyên

ngành, KCN đa ngành và KCN sinh thái.

+ KCN chuyên ngành, được hình thành do có sự phân công chuyên môn hóa

bao gồn các xí nghiệp sản xuất các mặt hàng trong ngành có liên quan như cơ khí,

hóa chất, vật liệu xây dựng.

+ KCN đa ngành, bao gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau có

mối liên hệ với nhau. Loại hình KCN này cho phép khai thác, sử dụng có hiệu quả

kết cấu hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ.

+ KCN sinh thái, loại hình cộng sinh công nghiệp, tạo ra sự hài hòa giữa sản

xuất - cuộc sống và sự thân thiện với môi trường. Trong đó có sự lựa chọn xí

nghiệp của nhiều nhóm ngành công nghiệp có mối liên hệ hỗ trợ tương tác với

nhau, tạo ra sự cân bằng môi trường và phát triển bền vững.

- Tuỳ theo quy mô, có thể chia thành 3 loại: KCN quy mô lớn, KCN quy mô

vừa và KCN quy mô nhỏ.

- Dựa vào trình độ kỹ thuật - công nghệ và nét đặc thù của đối tượng quản lý

có thể chia KCN thành: KCN tập trung, Khu chế xuất, và KCN công nghệ cao.

- Dựa vào phân cấp quản lý, có thể chia thành 2 loại: KCN do Chính Phủ

thành lập và KCN do tỉnh, thành phố thành lập.

* Quá trình hình thành các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình CNH,

HĐH, nhất là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn CNH, HĐH cho thấy muốn thực hiện phân

công lao động tại chỗ, phải thực hiện luận thuyết “ly điền, ly nông bất ly hương”,

đó là: “rời ruộng đất, rời nông nghiệp nhưng không rời làng xóm” phải gắn sự phát

triển tiểu thủ công nghiệp với công nghiệp, phải coi trọng thực hiện CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn. Muốn vậy, song song với quá trình hình thành các loại

hình khu công nghiệp do Trung ương và tỉnh quản lý phải từng bước hình thành các

cụm, điểm công nghiệp do huyện quản lý. Đây là một quá trình phát triển tất yếu ở

nước ta, nhất là ở các tỉnh nông thôn, miền núi và vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc

có điểm xuất phát thấp.

Ba là, căn cứ và cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp, việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp có 2 nội dung mang tính xu hướng

sau:

* Đa dạng hóa sở hữu và thành phần kinh tế, thực hiện đa dạng hóa về vốn

đáp ứng quá trình chuyển dịch có cấu kinh tế ngành công nghiệp.

* Kết hợp nguồn lực, phải tận dụng hiệu quả về nguồn lực của các thành

phần kinh tế trong nước, trong tỉnh với các nguồn lực của các thành phần kinh tế

khác ngoài nước, ngoài tỉnh trong quá trình chuyển dịch có cấu kinh tế ngành công

nghiệp.

1.2.2. Những đặc thù cần tính đến khi vận dụng nội dung mang tính xu

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở các tỉnh trung du miền

núi.

Quá trình CNH, HĐH ở các địa phương (Tỉnh, Thành phố), mỗi địa phương

ngoài những đặc điểm và nhân tố mang nét chung ảnh hưởng đến tiến trình CNH,

HĐH, còn có một số đặc điểm mang tính đặc thù không thể không tính đến, nhất là

đối với các địa phương thuộc các tỉnh trung du, miền núi, những đặc thù này bao

gồm:

Thứ nhất, điều kiện tự nhiên, đất đai, thuộc vùng trung du miền núi có sự

khác nhau với các tỉnh đồng bằng, các tỉnh ven biển và các tỉnh nằm trong vùng

kinh tế trọng điểm, đó là một mặt thuận lợi mà các tỉnh trung du, miền núi không

có. Mặt khác, các tỉnh trung du, miền núi lại có thuận lợi khác (khoáng sản, cây

công nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc..), nếu biết khai thác thế mạnh

này thì quá trình vận dụng những nội dung mang tính xu hướng nói trên, khi bố trí

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.

Thứ hai, các tỉnh trung du, miền núi, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều

hạn chế, mật độ dân số thấp và phân tán, nguồn tài chính hạn hẹp, trình độ kỹ thuật

- công nghệ lạc hậu so với các tỉnh khác đã so sánh. Từ đặc thù này đã và đang đặt

ra khi vận dụng những nội dung mang tính xu hướng nói trên, nhất thiết phải tính

đến: lộ trình, nhịp độ và trình độ kỹ thuật - công nghệ khi chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành công nghiệp đi từ thấp đến cao và với nhịp độ nhanh trong các năm sau

tiếp theo.

Thứ ba, các tỉnh trung du, miền núi so với các tỉnh đồng bằng, ven biển, kết

cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội thường rất lạc hậu cộng với việc thiếu chính sách và

cơ chế cần thiết đã và đang cản trở sức thu hút các nguồn lực từ các đối tác đầu tư

ngoài tỉnh, nhất là các đối tác đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (ODA) của

nước ngoài. Song nó cũng đặt ra 2 vấn đề đòi hỏi phải đi trước một bước đó là: đầu

tư xây dựng kết cấu hạ tầng; vận dụng sáng tạo các chính sách và sớm tạo ra cơ chế

thông thoáng, thích hợp đủ sức thu hút các nguồn lực bên ngoài đầu tư cho quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở các địa phương trung du và

miền núi này.

1.3. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP

MỘT SỐ TỈNH TRUNG DU VÀ ĐỒNG BẰNG Ở VIỆT NAM

1.3.1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở một số

tỉnh trong nước

 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở Tỉnh Hưng Yên

Tỉnh Hưng Yên được tái lập năm 1997, lúc này ngành công nghiệp còn

manh mún và lạc hậu, trên toàn tỉnh chỉ có 13 doanh nghiệp nhà nước, 19 hợp tác

xã tiểu thủ công nghiệp, 9 doanh nghiệp tư nhân, với năng suất chất lượng kém và

hiệu quả kinh tế thấp. Thực hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV và

XV, cùng với những cơ chế chính sách thu hút đầu tư, khuyến khích phát triển công

nghiệp, ngành thủ công truyền thống, các làng nghề, công nhgiệp Hưng Yên đã

từng bước thích ứng với cơ chế mới, đã tạo ra sự phát triển mới trong công nghiệp

nói riêng và trong kinh tế của Tỉnh nói chung. Năm 2005 đã có 18.890 cơ sở hoạt

động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm: 9 doanh nghiệp Nhà

Nước, 18.661 cơ sở ngoài Quốc doanh và có 40 cơ sở vốn đầu tư nước ngoài.

Ngành công nghiệp của tỉnh Hưng Yên đã thu hút khoảng 95.000 lao động, chiếm

hơn 17% tổng số lao động trong các lĩnh vực kinh tế của tỉnh và đã đưa giá trị sản

xuất công nghiệp năm 2005 đạt 7.678 tỷ đồng, so với năm tái lập Tỉnh, giá trị sản

xuất công nghiệp tăng gấp 21,6 lần.

Để đạt được những thành công trên, Hưng Yên đã có những định hướng

- Công nghiệp luôn được chú trọng và phát triển theo hướng chuyển dịch

và giải pháp cho phát triển công nghiêp như sau:

cơ cấu công nghiệp theo ngành, sản phẩm, vùng và thành phần kinh tế, chú trọng

phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực như: điện tử, cơ khí, luyện thép, ôtô,

xe máy, dệt may, chế biến...Tiếp tục rà soát, điều chỉnh bổ xung cơ chế, tăng sự hấp

dẫn với các nhà đầu tư, ưu tiên các dự án lớn có hàm lượng công nghệ và giá trị gia

tăng cao, tích cực huy động các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào lĩnh vực

sản xuất công nghiệp và xúc tiến đầu tư nước ngoài.

- Khẩn trương rà soát và sớm hoàn thiện quy hoạch phát triển công

nghiệp và quy hoạch phát triển làng nghề,bảo đảm sự đồng bộ và gắn kết với quy

hoạch vùng và các quy hoạch sử dụng đất đai, giao thông, thuỷ lợi, quy hoạch phát

triển nông thôn. Các ngành, các cấp cần cụ thể hoá quy hoạch được duyệt bằng kế

hoạch, đầu tư vốn, khoa học công nghệ, thị trường, để thích ứng nhanh với quá

trình hội nhập quốc tế, trong đó cần quan tâm đến các giải pháp khuyến khích các

thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển công nghiệp.

- Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong bối cảnh hội nhập quốc tế,

các doanh nghiệp phải luôn chủ động trong sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó cần

có sự hỗ trợ của Nhà Nước trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố và mở rộng

thị trường; đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường; tìm kiếm thông tin, thị trường..

- Tăng cường đầu tư để đào tạo đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý kinh

tế, các bộ kỹ thuật có trình độ cao và công nhân lành nghề, đáp ứng thời kỳ hội

nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển công

nghiệp, điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành để tạo điều kiện cho các thành phần

kinh tế tham gia đầu tư nhiều hơn vào các ngành công nghiệp phụ trợ, đảm bảo môi

trường đầu tư bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển

công nghiệp.

 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ, có địa giới hành chính

giáp với các tỉnh, phía bắc giáp Bắc Giang, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía

đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây giáp thành phố Hà Nội. Địa hình của tỉnh Bắc

Ninh nhìn chung là bằng phẳng, chỉ có một số vùng gò đồi, núi thấp, nhưng là một

địa phương có nhiều con sông chảy qua, các sông này tạo điều kiện thuận lợi cho

vận tải đường thuỷ và là nguồn cung cấp nước tưới cho các loại cây trồng cùng với

nước sinh hoạt cho nhân dân.

Là một tỉnh có tiềm năng khoáng sản không nhiều, chỉ có đất sét và đất sét

chịu lửa là chủ yếu với trữ lượng thấp. Tuy nhiên Bắc Ninh gần Hà Nội - đô thị lớn,

một trong những tuyến hành lang kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ là: Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh, và là tỉnh nằm trên trục giao thông quan trọng như: Quốc lộ

1A, Quốc lộ 18, Quốc lộ 38. Do đó Bắc Ninh có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển,

hệ thống đường bộ, đường thuỷ, đường sắt ngày càng được mở rộng, cùng với hệ

thống thông tin viễn thông phát triển rộng khắp, ở tất cả các huyện đều có hệ thống

điện thoại tự động, các trung tâm bưu điện đều được trang bị những thiết bị hiện

đại, từ đó góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của tỉnh.

Bắc Ninh là một tỉnh có mật độ dân số cao gần nhất nước, trong khi đó

diện tích đất canh tác thấp. Do vậy nhân dân trong tỉnh chú trọng tới phát triển công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và coi đây là hướng đi đúng trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống sản xuất ra nhiều

sản phẩm nổi tiếng cả trong và ngoài nước như: đồ Đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ,

gốm Phù Lãng, sơn mài Đình Bảng, trạm khắc Phù Khê, Giấy Đống Cao v.v..

Trong những năm qua ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tỉnh

Bắc` Ninh phát triển với nhịp độ cao góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát

triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày một hiệu quả. Một trong những yếu tố đã

tạo nên sự phát triển ngành công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh đó là sự phát triển của

các làng nghề, trong đó có những làng nghề đã có hàng chục những gia đình tỷ phú,

triệu phú ( như các làng nghề: Đồng Kỵ, Phù Khê, Kim Thiền, Đại Bái, Phong

Khê.). Có được những thành công đó là nhờ Bắc Ninh đã có những giải pháp đúng

đắn cho sự phát triển kinh tế làng nghề, đó là:

- Về thị trường sản phẩm của làng nghề, đã tạo được sự ổn định và phát triển

cho thị trường sản phẩm, thông qua biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế

tích cực hoạt động ở thị trường sản phẩm của làng nghề, bên cạnh đó phải nâng

cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các cơ sở luôn có sự hợp tác

trong sản xuất kinh doanh, thành lập các tổ chức, các hiệp hội ngành nghề, hình

thành nên kênh phân phối sản phẩm không chỉ trong toàn tỉnh mà vươn ra toàn

vùng và toàn quốc.

- Về nguyên vật liệu, cùng với việc xây dựng vùng nguyên liệu cho làng

nghề, Bắc Ninh tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các làng nghề đễ dàng tiếp

nhận nguyên, nhiên, vật liệu từ các địa phương trong tỉnh hay từ các tỉnh khác.

- Về đào tạo nhân lực trong làng nghề, luôn khuyến khích việc mở rộng các

hình thức đào tạo dạy nghề, truyền nghề theo hướng đẩy mạnh đào tạo thợ đáp ứng

được các yêu cầu của sản xuất trong làng nghề.

- Về vốn cho sản xuất kinh doanh ở làng nghề, vốn có vai trò rất cần thiết

cho sản xuất kinh tế làng nghề. Để đảm bảo lượng vốn đáp ứng được cho nhu cầu

sản xuất, tỉnh Bắc Ninh đã xây dung môI trường thể chế để các thành phần kinh tế

yên tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tín

dụng từ Nhà Nước, ổn định môi trường kinh tế - xã hội, ổn định giá, đối với các

làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu tỉnh luôn ưu tiên cho vay vốn từ các Quỹ hỗ trợ

phát triển.

- Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm làng nghề, các làng nghề luôn

nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ

công nghệ, kỹ thuật vào sản xuất. Để làm tốt vấn đề trên Bắc Ninh đã có cơ chế

đảm bảo và hỗ trợ vốn cho đổi mới công nghệ trong làng nghề, thúc đẩy sự hợp tác

giữa các làng nghề với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học và các cơ quan

thiết kế mỹ thuật, hỗ trợ các trung tâm tư vấn, chuyển giao công nghệ trong việc

chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cho các làng nghề, khuyến khích các cơ sở sản

xuất trong làng nghề phải nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, nhất là nâng cao

trình độ kỹ thuật.

 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là tỉnh mới được tái lập vào cuối năm 1996 theo Nghị quyết của kỳ

họp thứ 10 Quốc hội khoá IX, đây là một tỉnh nằm ở trung tâm của Bắc Bộ, là cửa

ngõ phía bắc của thủ đô Hà Nội, có địa giới chung với các tỉnh: Phú Thọ, Hà Tây,

Thái Nguyên và Tuyên Quang. Địa hình của tỉnh Vĩnh Phúc chia làm 3 vùng rõ rệt:

đồng bằng, trung du và miền núi, tỉnh có mật độ sông suối hồ đập tương đối cao,

như: sông Hồng, sông Lô, sông Cà lồ, sông Phó Đáy và các hồ: Đại Lải, Xa

Hương, Vân Trục, Đầm Vạc, đập Liễn Sơn.

Về khoáng sản, tỉnh Vĩnh Phúc rất nghèo nàn, có một số loại khoáng sản quý

hiếm nhưng trữ lượng rất nhỏ, đầu tư khai thác không hiệu quả, chỉ có một số loại

có khả năng khai thác như đá vôi, đá xây dung ở Tam Đảo, Lập Thạch, Mê Linh:

cao lanh ở thi xã Vĩnh Yên: nước khoáng ở Mê Linh: cát sỏi ở dải sông Lô, sông

Hồng, mica ở Lập Thạch.

Những năm đổi mới, nhất là từ năm 1997 đến nay, kinh tế của Vĩnh Phúc đã

đạt được những kết quả quan trọng với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Để đạt

được những thành tựu phát triển về kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc rất coi trọng việc mở

rộng hợp tác kinh tế với các tỉnh bạn và việc đầu tư, liên doanh của các đối tác

nước ngoài, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là trong ngành

công nghiệp, đã làm cho cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp của Vĩnh Phúc chuyển

dịch hợp lý, với hiệu quả cao.

Một trong những thành công của ngành công nghiệp của Vĩnh Phúc đó là xây

dựng các khu công nghiệp, việc hình thành các khu công nghiệp là giải pháp quan

trọng để thu hút vốn đầu tư và công nghệ, nhất là nguồn vốn nước ngoài và công

nghệ tiên tiến của các nước phát triển, từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và

thế giới. Các khu công nghiệp hình thành đã tạo điều kiện phát triển công nghiệp

theo quy hoạch, kiểm soát và xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh

thái, nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất và vốn đầu tư, tăng năng lực xuất khẩu và

tạo thêm việc làm cho người lao động.

Những thành quả đã đạt được của các khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc xuất

phát từ nhiều nguyên nhân như: các cơ quan nhà nước đã tong bước thể chế hoá

chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển các khu công nghiệp, băng các văn bản

quy phạm pháp luật, tạo khung pháp lý tương đối rõ ràng cho việc hình thành và

phát triển các khu công nghiệp; Cải thiện môi trường đầu tư, tạo môi trường kinh

doanh thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế; Tỉnh luôn xem

việc phát triển các khu công nghiệp là mũi nhọn để thực hiện tiến trình công nghiệp

hoá, hiện đại hốa đất nước, nên luôn quan tâm chỉ đạo nhất quán, đồng bộ; Thực

hiện các giải pháp phù hợp và kịp thời trong thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh

công tác vận động và xúc tiến đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong

và ngoài hàng rào khu công nghiệp. Trong đó việc thực hiện cải cách hành chính

theo cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ ” là nhân tố quan trọng, góp phần cho sự

thành công của các khu công nghiệp.

Vĩnh Phúc là một tỉnh tích cực thực hiện quản lý nhà nước trong các khu công

nghiệp theo cơ chế “ một cửa, tại chỗ”, để nhằm đạt được mục tiêu: thu hút đầu tư

nước ngoài và vốn trong nước, tạo việc làm cho người lao động, tạo nguồn hàng

xuất khẩu có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, du nhập kỹ thuật và công nghệ

mới, kiến thức quản lý hiện đại, tăng nguồn thu ngoại tệ. Để thực hiện thành công

các mục tiêu trên vấn đề hàng đầu là phải thu hút nhiều nhà đầu tư vào khu công

nghiệp, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp , giảm bớt phiền hà

cho các nhà đầu tư, giải quyết nhanh hồ sơ, bớt quan liêu, giảm sự đi lại phiền hà

và chi phí cho việc thực hiện các thủ tục hành chính.

1.3.2. Những bài học kinh nghiệm chung

Trên sơ sở tổng quan kinh nghiệm của 3 địa phương Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và

Hưng Yên, mỗi địa phương tuy có nét riêng nào đó, song có thể có những bài học

kinh nghiệm chung (cả bài học thành công và chưa thành công) để với tinh thần

“gạn đục, khơi trong” có thể tham khảo vận dụng vào việc thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp một sách sáng tạo và phù hợp ở Tỉnh Thái

Nguyên trong thời gian tới.

Những bài học đó là:

Thứ nhất, do có nhận thức đúng nên đã vận dụng được chính sách và cơ chế

tạo môi trường đầu tư thông thoáng, đã có tác dụng thu hút các nguồn vốn FDI và

ODA của các đối tác ngoài nước và ngoài tỉnh đầu tư để hình thành một số khu

công nghiệp ở địa phương.

Thứ hai, biết lựa chọn vị trí đúng có lợi thế, thông qua việc lập các quy

hoạch và kế hoạch để lập bản đồ hình thành và phát triển các KCN, cụm và điểm

công nghiệp trên địa bàn, làm cơ sở cho việc quảng bá với các đối tác và thu hút

vốn đầu tư, đó là một mặt. Mặt khác, cũng qua quy hoạch và kế hoạch đó mà hình

thành các kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, khu dân cư đô thị làm cơ sở cho việc

hình thành thị trường bất động sản, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước từ

đất đai, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và từng bước nâng cao đời sống cho

người lao động.

Thứ ba, trên cơ sở hình thành và phát triển thị trường bất động sản, tạo

nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước từ đất đai, dùng để đầu tư xây dựng kết cấu

hạ tầng kỹ thuật và xã hội đi trước một bước. Và để hình thành và phát triển thị

trường sức lao động, các địa phương mà luận văn tổng quan kinh nghiệm còn coi

trọng việc tổ chức đồng bộ các dịch vụ như: bảo đảm việc cung cấp điện, nước,

bưu điện, xe buýt đưa đón công nhân, hệ thống nhà trọ phục vụ công nhân, lập Đồn

Công an, Hải quan, tổ chức bữa ăn công nghiệp. Từ đó, tạo môi trường thuận lợi,

hấp dẫn các đối tác trong nước và nước ngoài để thu hút vốn đầu tư cho phát triển

các KCN, Cụm, Điểm công nghiệp sản xuất, kinh doanh và phát triển theo hướng

bền vững trên địa bàn.

Thứ tư, nhiều địa phương đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ khuyến khích các

nhà đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại, đầu tư chiều sâu; thực hiện khẩu hiệu

“Chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”, tôn vinh các chủ doanh nghiệp, cải

cách thủ tục hành chính, các dịch vụ công theo hướng “một cửa” nhanh chóng,

công khai, tận tâm và minh bạch.

Thứ năm, đã có những biện pháp tiếp cận các doanh nghiệp một cách hợp lý

để hình thành các tổ chức chính trị xã hội, vừa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà

nước Việt Nam và quyền lợi của người lao động, vừa giáo dục nâng cao ý thức tổ

chức kỹ luật lao động đại công nghiệp, tự giác nghiên chỉnh thực hiện đúng hợp

đồng lao động đã ký kết giữa doanh nghiệp và người lao động. Việc hình thành các

tố chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp không chỉ phù hợp với nguyện

vọng của người lao động mà còn là chỗ dựa tin cậy đối với giám đốc của nhiều

doanh nghiệp.

Thứ sáu, các địa phương nhất là ở Tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây- nơi có rất nhiều

tiểu, thủ công nghiệp và làng nghề- đã biết coi trọng việc kết hợp giữa hoạt động

của các KCN với hoạt động tiểu, thủ công nghiệp và các làng nghề thông qua việc

hình thành Cụm, Điểm công nghiệp, làm vệ tinh, gia công, dịch vụ công nghiệp.

Bằng cách đó mà duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, trong quá trình

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở các địa phương.

Bên cạnh những kinh nghiệm thành công cũng cần thấy 2 kinh nghiệm

không thành công sau đây, cần tránh khi vận dụng.

Thứ bảy, do chạy theo mục tiêu thu hút vốn đầu tư của đối tác bên ngoài

càng nhiều càng tốt, một vài năm gần đây, một vài địa phương đã đề ra một số chủ

trương cơ chế quá thông thoáng của riêng địa phương mình so với chính sách cơ

chế đã có của Trung ương. Việc làm này có phương hại đến lợi ích của nhân dân

địa phương, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh “ trăm hoa đua nở” trong thu

hút vốn đầu tư giữa các địa phương, nhất là tạo nên sự không thống nhất và hiệu

lực quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương.

Thứ tám, cũng do chạy theo mục tiêu thu hút vốn đầu tư của đối tác bên

ngoài càng nhiều càng tốt, nên quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án đầu

tư chỉ thấy một mặt xây dựng và sản xuất, mà không thấy hết mặt trái của các dự

án, nhất là mặt trái về môi trường sinh thái, do thiết bị công nghệ lạc hậu và do chủ

dự án coi nhẹ việc đầu tư bảo vệ môi trường làm ô nhiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe

công nhân và dân cư xung quanh KCN.

Chương 2 THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP THỜI GIAN QUA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1. KHÁI QUÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TỈNH

THÁI NGUYÊN - THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN

2.1.1. Ví trí, điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội

 Vị trí và điều kiện tự nhiên

 Về vị trí địa lý: Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nằm ở vùng trung du

Bắc bộ, có diện tích tự nhiên 3.541,1 km2, chiếm 1,08% diện tích và 1,34% dân số

cả nước. Tỉnh Thái Nguyên phía bắc giáp Bắc Kạn, phía tây giáp các tỉnh Vĩnh

Phúc và Tuyên Quang, phía đông giáp Lạng Sơn, Bắc Giang, Phía nam giáp Thủ đô

Hà Nội. Nằm ở phía bắc của thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên là một trong những cửa

ngõ thuận lợi của thủ đô. Tỉnh có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các mối liên

kết về kinh tế – xã hội với các địa phương lân cận trong và ngoài vùng (Hà Nội,

Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh). Thái Nguyên có vị trí và điều kiện

giao thông thuận lợi để giao lưu kinh tế và văn hoá với các địa phương khác. Dự

báo trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 Thái Nguyên sẽ có tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao, trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của các địa phương khác

trong vùng, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của kinh tế vùng Đông Bắc bộ. Với vị

trí như vậy, Tỉnh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng

Trung du miền bắc bộ, trở thành cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng Trung

du miền núi Bắc bộ với vùng đồng bằng Bắc bộ, sự giao lưu này được thực hiện

thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông hình dẻ quạt mà

thành phố Thái Nguyên là đầu mối. Về đường bộ, đường quốc lộ 3 từ Hà Nội lên

Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc toàn bộ tỉnh Thái Nguyên, trở thành cửa ngõ phía nam

nối tỉnh với thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh khác trong cả

nước, đồng thời còn là cửa ngõ phía bắc lên các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng và thông

sang biên giới Trung Quốc. Các đường quốc lộ 37 và 1B cùng với hệ thống tỉnh lộ

là nhữnh mạch giao thông quan trọng nối Thái Nguyên với các tỉnh xung quanh.

Tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều, Lưu Xá - Kép - Đông Triều nối với khu

công nghiệp Sông Công, khu ganh thép Thái Nguyên và thành phố Thái Nguyên,

đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho Thái Nguyên trở thành trung tâm kinh tế

quan trọng của vùng miền Bắc bộ, nhất là sau khi tuyến đường cao tốc Thái

Nguyên - Hà Nội được hoàn thành. Về giao thông đường sông, hai con sông là

sông Cầu và sông Công trở thành tuyến giao thông đường thuỷ giúp tỉnh thông

thương thuận lợi với các tỉnh như: Bắc Ninh, Bắc Giang và Hà Nội.

 Điều kiện tự nhiên .

Khí hậu và thủy văn, khí hậu của tỉnh Thái Nguyên chia làm hai mùa rõ rệt, mùa

mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Theo số

liệu của Tổng cục khí hậu thuỷ văn, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng từ

1.500 đến 2.500 mm, cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhiệt độ trung

bình chênh lệch giữa tháng nóng nhất (28,9 độ C – tháng 6 ) với tháng lạnh nhất

(15,2 độ C - tháng 1) là 13,7 độ C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300

– 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Tổng tích nhiệt

độ vượt 7.500 độ C, thời kỳ lạnh (nhiệt độ trung bình tháng dưới 18 độ C) chỉ trong

3 tháng. Là một tỉnh có lượng mưa khá lớn, trung bình 1.500 – 2500 mm, tổng

lượng nước mưa tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên dự tính lên tới 6,4 tỷ m3/năm. Tuy

nhiên lượng mưa phân bố không đều theo thời gian và không gian, theo không gian

lượng mưa tập trung nhiều ở thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ, trong khi đó

tại huyện Võ Nhai, Phú Lương lượng mưa tập trung ít hơn, còn theo thời gian

lượng mưa tập trung khoảng 87% vào mùa mưa, trong đó lượng mưa vào tháng 8

chiếm gần 30% tổng lượng mưa cả năm, vì vậy thường gây ra những trận lũ lớn,

vào mùa khô, đặc biệt vào tháng 12 lượng mưa trong tháng chỉ bằng 0,5% tổng

lượng mưa cả năm. Về tài nguyên nước, nguồn nước ngọt của tỉnh chủ yếu do hệ

thống sông ngòi cung cấp, có hai sông chính là: sông Cầu và sông Công. Sông

Công có lưu vực 951 km2, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá huyện Định Hoá chạy dọc

theo chân núi Tam Đảo, nằm trong vùng mưa nhiều nhất của tỉnh Thái Nguyên.

Dòng sông được ngăn lại ở Đại Từ tạo thành hồ Núi Cốc có mặt nước rộng khoảng

25 km2, với sức chứa lên tới 210 triệu m3 nước. Hồ này có thể chủ động điều hoà

dòng chảy và cung cấp nước tưới tiêu cho 12 nghìn ha lúa hai vụ màu, đồng thời

cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công. Sông

Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, có lưu vực 6.030 km2, bắt nguồn từ Chợ

Đồn tỉnh Bắc Kạn chảy theo hướng Bắc - Đông Nam, tổng lượng nước khoảng 4,5

tỷ m3, hệ thống thuỷ nông của con sông này có khả năng tưới cho 24 nghìn ha lúa

hai vụ.

Ngoài ra, Thái Nguyên còn nhiều sông nhỏ khác thuộc hệ thống sông Kỳ

Cùng và hệ thống sông Lô. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn trên các

con sông nhánh chảy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có tiềm năng về thuỷ điện kết

hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên còn có trữ lượng

nước ngầm khá lớn, khoảng 3 tỷ m3, nhưng hiện nay việc khai thác sử dụng còn

hạn chế. Nhìn chung, điều kiện khí hậu - thuỷ văn của tỉnh Thái Nguyên tương đối

thuận lợi về các mặt để có thể phát triển một hệ sinh thái đa dạng, bền vững, thuận

lợi cho phát triển các ngành kinh tế. Tuy nhiên, vào mùa mưa với lượng mưa tập

trung lớn thường xảy ra tai biến về sụt lở, trượt đất, gây lũ quét ở một số triền đồi

núi và lũ lụt ở khu vực dọc theo lưu vực sông Cầu và sông Công.

Đất đai, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 354.104,39 ha, trong đó: đất

núi chiếm 43,83%, có độ cao trên 200m, hình thành do sự phong hoá trên các đá

Macma, đá biến chất và đá trầm tích; đất đồi chiếm 24,57% diện tích đất tự nhiên,

chủ yếu hình thành trên đất cát kết, bội kết, phiến sét và một phần phù sa cổ kiến

tạo; đất ruộng chiếm 12,11%, nhưng phần lớn có độ phì thấp; đất chưa sử dụng

chiếm 15,11%, khoảng 53.533,6 ha, là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình

tỉnh Thái Nguyên không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du miền núi khác. Thái

Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc Nam, thấp dần xuống phía nam.

Bao gồm: phía tây nam có núi Tam Đảo với đỉnh cao nhất là 1.590m, các dãy núi

dựng đứng và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam; dãy núi Ngân Sơn bắt đầu

từ Bắc Kạn chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam đến huyện Võ Nhai; dãy núi

Bắc Sơn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Cả ba dãy núi trên đều là những

dãy núi cao che chắn gió mùa Đông Bắc vì vậy Thái Nguyên ít chịu ảnh hưởng lớn

của gió mùa Đông Bắc.

Về tài nguyên khoáng sản: Thái Nguyên nằm trong vùng sinh khoáng Đông

Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương, hiện có 34 loại hình

khoáng sản, phân bố tập trung ở Đại Từ, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Lương, tài

nguyên ở Thái Nguyên bao gồm các nhóm chính sau:

+ Nhóm nguyên liệu cháy, gồm: than mỡ, với trữ lượng tiềm năng khoảng 15

triệu tấn, chất lượng tương đối tốt phục vụ đủ cho nhu cầu luyện kim; than đá với

tổng trữ lượng tìm kiếm và thăm dò khoảng 90 triệu tấn. Thái Nguyên được đánh

giá là tỉnh có trữ lượng than lớn thứ hai cả nước, đủ đáp ứng nhu cầu cho sản xuất

nhiệt điện và các nhu cầu khác không chỉ của bản thân trong tỉnh.

+ Nhóm khoáng sản kim loại, gồm cả kim loại đen như sắt, mangan, titan và

kim loại mầu như chì, kẽm, đồng, niken, nhôm, vonfram, altimoan, thuỷ ngân,

vàng. Khoáng sản kim loại là ưu thế của Thái Nguyên, không chỉ so với trong vùng

mà còn có ý nghĩa đối với cả nước.

+ Nhóm khoáng sản phi kim loại, gồm: pyrite, barit, photphorit, Grapharit,

trong đó đáng chú ý nhất là photphorit với tổng trữ lượng khoảng 60.000 tấn. Thái

Nguyên có nhiều khoáng sản vật liệu xây dựng như đá xây dựng, đất sét, đá vụn,

cát sỏi trong đó, sét xi măng có khoảng 84,6 triệu tấn. Ngoài ra Thái Nguyên còn

có đất sét làm gạch ngói, cát sỏi dùng để xây dựng. Đáng chú ý nhất trong nhóm

khoáng sản phi kim loại của tỉnh là đá carbonnat bao gồm đá vôi xây dựng có trữ

lượng xấp xỉ 100 tỷ m3, đá vôi xi măng ở Núi Voi, La Hang, La Hiên có trữ lượng

222 triệu tấn.

Nhìn chung tỉnh Thái Nguyên rất phong phú về tài nguyên khoáng sản, trong

đó có nhiều loại tài nguyên có ý nghĩa trong phạm vi cả nước như: quặng Sắt, than

(đặc biệt là than mỡ ); khí hậu, sông ngòi, đất đai, thuộc vùng trung du miền núi có

nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác.

 Điều kiện kinh tế và xã hội.

 Điều kiện kinh tế.

Cho đến nay tình hình kinh tế chung của Thái Nguyên thể hiện:

 Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2001 đến nay, chung toàn tỉnh và từng

ngành đều tăng lên, điều đó thể hiện ở bảng 2.1 sau.

Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP chung của tỉnh và từng ngành

giai đoạn 2001 – 2005

Đơn vị tính: %

Năm Tăng

TT Chỉ tiêu trưởng 2001 2002 2003 2004 2005 BQ

Tốc độ tăng trưởng GDP 10,8 11,5 11,7 11,6 12,7 11,7

1 Công nghiệp và xây dựng 14,5 14 12,5 14 13 13,6

9,5 9,3 10,0 11,5 12,6 2 Dịch vụ thương mại 10,6

4,2 4,5 4,5 4,5 4,5 3 Nông lâm nghiệp 4,4

Nguồn: Niên giám thống kê 2006 [31, tr5 ]

 Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch theo hướng tiến bộ ( Xem bảng 2.2)

Bảng 2.2: Cơ cấu GDP của công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp giai đoạn

(2001-2005)

Đơn vị tính: %

TT Chỉ tiêu Năm

2001 2002 2003 2004 2005

Tổng cộng 100 100 100 100 100

Công nghiệp xây dựng 33,17 34,59 36,80 38,50 38,64 1

Dịch vụ thương mại 35,39 34,42 36,06 34,64 34,82 2

Nông lâm nghiệp 31,,4 30.99 27,14 26,87 26,54 3

Nguồn: Niên giám thống kê 2006 [31,tr32 ]

- Hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn trong những năm qua đã có sự

khởi sắc cả chiều rộng lẫn chiều sâu, mạng lưới thương mại trên địa bàn tỉnh phát

triển rộng khắp, một số sản phẩm mũi nhọn của tỉnh đã có thị phần vững chắc trong

nước và vươn ra thị trường ngoài nước. Tình hình trên thể hiện ở bảng 2.3.

Bảng 2.3: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 – 2005

Đơn vị tính: 1.000 USD

XuÊt Chỉ tiêu Tổng số Chia ra

NhËp NhËp khÈu Gí trị %

Siªu XuÊt khÈu Năm

Gi¸ trÞ %

Gi¸ trÞ %

2001 53.578 30.178 57,44 -6.778

100 23.400 42,56

2002 51.597 33.097 64,14 -1

100 18.500 35,86 4.597

2003 91.921 67.600 73,54 -43.279

100 24.321 26,46

135.668 83,43 2004 162.076 -

26.388 16,57 100 109.280

2005 159.624 128.020 80,20 -96.416

100 31.604 19,80

Nguån: Niªn gi¸m thèng kª 2006 [31, tr146 ]

 §iÒu kiÖn vÒ x· héi:

Lao ®éng cña tØnh Th¸i Nguyªn hµng n¨m

®Òu t¨ng, b×nh qu©n hµng n¨m t¨ng kho¶ng 11,4 ngh×n

ng­êi ( tèc ®é t¨ng b×nh qu©n hµng n¨m kho¶ng 2,49% ).

Riªng sè ng­êi trong ®é tuæi lao ®éng cã viÖc lµm cã

quy m« vµ tèc ®é t¨ng cao h¬n sè ng­êi tõ ®ñ 15 tuæi

trë lªn, b×nh qu©n t¨ng 16,6 ngh×n ng­êi/n¨m víi tû lÖ

t¨ng b×nh qu©n 3,04%/n¨m. C¬ cÊu lao ®éng cã viÖc lµm

gi÷a nam vµ n÷ t­¬ng ®­¬ng nhau, b×nh qu©n hµng n¨m, tû

lÖ lao ®éng n÷ vµ nam lµ 50,53% vµ 49,47%.

L­îc ®å d­íi ®©y sÏ ®­a ra tæng quan h¬n vÒ t×nh

h×nh LLL§ vµ c¬ cÊu LLL§ theo giíi tÝnh.

L­îc ®å 1: LLL§ chia theo giíi tÝnh 2001 - 2005

(ngh×n ng­êi)

Lao ®éng cã viÖc lµm khu vùc thµnh thÞ chiÕm kho¶ng

21,36% so víi tæng sè ng­êi cã viÖc lµm toµn tØnh, cßn

trong n«ng th«n chiÕm kho¶ng 78,64%, nh­ vËy xÐt vÒ c¬

cÊu khu vùc lao ®éng th× lao ®éng ë n«ng th«n vÉn chiÕm

tû träng lín, tuy nhiªn trong nh÷ng n¨m gÇn ®©y tèc ®é

t¨ng lao ®éng cã viÖc lµm ë khu vùc thµnh thÞ t¨ng cao

h¬n khu vùc n«ng th«n.

L­îc ®å 2: C¬ cÊu lao ®éng chia theo khu vùc thµnh

thÞ, n«ng th«n (%).

Tû träng LLL§ khu vùc n«ng th«n chiÕm trªn 77% tæng

LLL§, c¬ cÊu LLL§ theo khu vùc thµnh thÞ vµ n«ng th«n

nh÷ng n¨m qua cã sù chuyÓn dÞch liªn tôc theo h­íng

t¨ng tû träng LLL§ khu vùc thµnh thÞ, gi¶m tû träng

LLL§ khu vùc n«ng th«n. N¨m 2001, tû träng LLL§ khu vùc

thµnh thÞ lµ 17,73% t¨ng lªn 22,21% vµ n¨m 2005 (b×nh

qu©n t¨ng 1,12%/ n¨m).

VÒ c¬ cÊu tr×nh ®é lao ®éng, xÐt theo tr×nh ®é v¨n

ho¸: lao ®éng kh«ng biÕt ch÷ vµ ch­a tèt nghiÖp tiÓu

häc chiÕm 4,41%; lao ®éng tèt nghiÖp tiÓu häc chiÕm

25,23%; lao ®éng tèt nghiÖp Trung häc c¬ së chiÕm

46,67%; lao ®éng tèt nghiÖp Trung häc phæ th«ng chiÕm

23,69%.

XÐt theo tr×nh ®é chuyªn m«n: lao ®éng ch­a qua ®µo

t¹o cã 75,84%, lao ®éng ®· qua ®µo t¹o nghÒ hoÆc t­¬ng

®­¬ng cã 11,31%; lao ®éng Trung häc chuyªn nghiÖp trë

lªn cã 12,84%.

L­îc ®å 3: C¬ cÊu LLL§ chia theo tr×nh ®é CMKT

2001- 2005 (%)

Về Lao động có việc làm chia theo nhóm tuổi: năm 2005, lao động có việc

làm thuộc nhóm tuổi trẻ (15 - 24) có 120,7 nghìn người, chiếm 19,83%, nhóm tuổi

từ 35 trở lên có 336,4 nghìn người, chiếm 55,27% so với tổng số người có việc

làm. Năm 2001, các số liệu tương tự là 139,8 nghìn người (25,37%); 268,2 nghìn

người (48,64%). Như vậy, năm 2005 so với năm 2001, tỷ lệ lao động thuộc nhóm

tuổi trẻ có việc làm tăng nhanh (5,54%), ngược lại độ tuổi từ 35 trở lên tỷ lệ giảm

tương ứng 5,54%. Tuy vậy, tỷ trọng lao động trẻ có việc làm thấp hơn nhiều so với

lao động từ 35 tuổi trở lên (1/4 và trên 1/2). Một nguyên nhân dễ thấy là nhiều

người trong số lao động trẻ, nhất là nhóm tuổi 15 - 24 chưa tham gia làm việc mà

đang trong thời gian đi học. Rõ ràng, sức ép về việc làm của lao động trẻ - lực

lượng mới và chuẩn bị bước vào thị trường lao động với Thái Nguyên còn khá lớn

Khu vực III: Lao động từ đủ 15 tuổi trở lên tăng 34,6 nghìn người (bình quân tăng

8,6 nghìn người/năm), tỷ trọng tăng từ 14,55% lên 18,87% (bình quân tăng

1,08%/năm); Những người trong độ tuổi lao động tỷ trọng tăng từ 14,74% lên

18,72% (tăng bình quân 0,99%/năm).

Lược đồ 4: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế.

Nhận xét:

Cơ cấu việc làm có sự chênh lệch lớn giữa 3 khu vực và lao động khu vực I

chiếm tỷ trọng lớn. Qua các năm từ 2001 - 2005, tỷ lệ việc làm khu vực I chiếm

bình quân 69,98%; tiếp đến là khu vực III. 17,56% và khu vực II: 12,46%. So với

cơ cấu chung của cả nước, cơ cấu lao động của Thái Nguyên lạc hậu hơn.

Về chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh theo xu hướng: giảm nhanh tỷ trọng

lao động ở khu vực I, tăng ở khu vực II và III; trong đó, khu vực II tăng nhanh hơn

khu vực III.

Từ phân tích trên cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua, phản ánh xu hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá của tỉnh.

2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn

Từ tổng quan vị tri, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thái Nguyên,

dưới góc nhìn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, có thể rút ra một

số thuận lợi và khó khăn sau đây:

 Về thuận lợi.

- Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch và là trung tâm đào

tạo và nghiên cứu khoa học - công nghệ của vùng. Do vị trí địa lý và những yếu tố

lịch sử khách quan, trước đây Thái Nguyên đã trở thành thủ phủ của Khu tự trị Việt

Bắc, từ đó Thái Nguyên trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng và trở

thành trung tâm giáo dục đào tạo, trung tâm khoa học lớn của khu vực. Đây là một

thuận lợi nếu biết khai thác để phát triển.

- Giàu tài nguyên khoáng sản cho phép hình thành những ngành công nghiệp

có xu hướng phát triển thích hợp; là nơi có các cơ sở công nghiệp quan trọng, đó

chính là nhà máy gang thép được xây dựng đầu tiên của đất nước và cũng là nơi có

nhiều cơ sở công nghiệp trung ương đóng trên địa bàn tỉnh. Thái Nguyên cũng là

địa phương cung cấp nhiều nguồn khoáng sản quan trọng phục vụ ngành luyện kim

và vật liệu xây dựng của vùng trung du miền núi Bắc Bộ, vùng đồng Bằng sông

Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các thành phố lớn, các khu công nghiệp

lớn trong nước, nhất là ở Miền Bắc. trong tương lai Thái Nguyên đóng vai trò là

một trong những trung tâm vật liệu xây dựng của cả nước. Trong chiến lược phát

triển quốc gia, tỉnh Thái Nguyên được xác định là một trung tâm kinh tế của vùng,

là địa phương đi đầu trong phát triển vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ, nhất là về

công nghiệp.

- Có hệ thống giao thông đường bộ ,đường sắt, đường sông hình dẻ quạt mà

thành phố Thái Nguyên là đầu mối. Về đường bộ, đường quốc lộ 3 từ Ha Nội lên

Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc toàn bộ tỉnh Thái Nguyên, trở thành cửa ngõ phía nam

nối tỉnh với thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh khác trong cả

nước, đồng thời còn là cửa ngõ phía bắc lên các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng và thông

sang biên giới Trung Quốc. Thuận lợi này, tạo triển vọng để Thái Nguyên có thể

phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó, có cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp nhanh, mạnh trong thời gian tới.

 Về khó khăn.

- Trình độ phát triển kinh tế còn thấp thể hiện ở nguồn vốn của các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhỏ bé, số dự án và vốn FDI còn rất khiêm

tốn nên chưa có “cú huých” đủ để phát triển nền kinh tế cả về chiều rộng và chiều

sâu.

- Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp phát triển chưa tương xứng với thế mạnh

về khoáng sản vốn có của tỉnh, các khu công nghiệp chưa nhiều, chưa đa dạng, quy

mô còn nhỏ bé và trình độ còn thấp; các cụm, điểm công nghiệp chậm hình thành

và phát triển.

- Tiềm lực khoa học công nghệ của tỉnh - với tính cách là động lực của

CNH, HĐH - còn thấp so với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp theo hướng hiện đại.

- Trình độ học vấn của dân cư, nhất là dân cư vùng dân tộc còn thấp, tỷ trọng

lao động dựa vào sức cơ bắp còn lớn ( lao động chưa qua đào tạo có 75,84%) so

với tỷ trọng lao động dựa trên lao động trí tuệ trong tổng lao động xã hội. Đây thực

sự là khó khăn lớn cản trở nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

công nghiệp Thái Nguyên hiện nay.

2.2. HIỆN TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP THƠÌ GIAN QUA Ở

THÁI NGUYÊN

2.2.1. Tình hình cơ cấu ngành và nhóm ngành công nghiệp

Thứ nhất: Về giá trị và tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp trên địa

bàn giai đoạn 2001 - 2006 (tính theo giá cố định 1994)

Bảng 2.4: Giá trị và tốc độ tăng trưởng thời kỳ (2001-2006)

Đơn vị tính: tỷ đồng và %

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006

Chỉ tiêu

Giá trị SX CN 3.042 3.898 4.498 5.213 6.664 3.555

Tốc độ tăng trưởng 28,41 9,65 15,34 15,95 17.10 16,86

Nguồn: Niên giám thống kê 2001-2005 và báo cáo 2006

Thứ hai: Tình hình các nhóm ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên

Qua khảo sát và điều tra thực tế cho thấy thời gian qua các nhóm ngành

công nghiệp có sự biến đổi và đạt kết quả như sau:

 Ngành khai thác khoáng sản, gang thép:

Trong nhóm ngành này, hạt nhân chính là Công ty gang thép Thái Nguyên.

Đây là khu liên hợp luyện kim khép kín, từ khai thác mỏ quặng sắt, than mỡ đến

luyện cốc, thiêu kết, luyện gang lò cao, luyện thép, chuyển sang cán thép và các

đơn vị phục vụ phụ trợ. Hiện nay, Công ty gang thép có 23 đơn vị thành viên đóng

trên địa bàn 9 Tỉnh từ Đà Nẵng trở ra, với gần 9000 lao động. Trong đó có 6 đơn vị

mỏ nguyên liệu, 5 nhà máy sản xuất chính, 7 nhà máy, xí nghiệp sản xuất phụ trợ

và phục vụ, 5 chi nhánh tiêu thụ và có vốn góp tại 3 công ty cổ phần và 1 công ty

liên doanh với nước ngoài, đây là công ty duy nhất trong cả nước hiện nay sản xuất

thép từ quặng.

Trong những năm gần đây, thị trường thép có những biến động phức tạp, sản

xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, nhưng được sự chỉ đạo, hỗ trợ của các cấp, các

ngành, cùng với sự năng động, nhạy bén của đội ngũ lãnh đạo, nên công ty đã phát

huy được tiềm năng, khai thác được lợi thế để đẩy mạnh sản xuất, huy động tối đa

năng lực công suất thiết bị, đảm bảo việc làm, ổn định thu nhập cho cán bộ công

nhân viên, vừa đảm bảo sản xuất kinh doanh tăng trưởng và có hiệu quả, đồng thời

tham gia bình ổn thị trường thép theo chỉ đạo của Bộ công nghiệp và Tổng công ty

thép Việt Nam, đặc biệt là được sự quan tâm của Đảng và chính phủ hai nước Việt

Nam - Trung Quốc, năm 2002, dự án đầu tư cải tạo và mở rộng sản xuất Công ty

gang thép Thái Nguyên được triển khai, cho đến nay đang phát huy được hiệu quả

đầu tư.

Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty gang thép Thái Nguyên qua

các năm đều có mức tăng trưởng ổn định, cụ thể: giá trị sản xuất công nghiệp trung

bình mỗi năm đạt khoảng 1600tỷ đồng, sản lượng thép đạt trên 400.000 tấn mỗi

năm, hàng năm nộp ngân sách nhà nước gần 100 tỷ đồng, thu nhập bình quân mỗi

cán bộ công nhân viên đạt khoảng trên 2 triệu đồng. Để đạt được những kết quả

trên, Công ty đã triển khai nhiều biện pháp tích cực như: nâng tối đa công suất các

thiết bị hiện có, thực hiện chủ trương tiết kiệm, giảm chi phí trong sản xuất, quản lý

và phân phối sản phẩm, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản

xuất nhằm nâng cao hiệu quả của máy móc, thiết bị và giảm giá thành sản phẩm.

Bên cạnh đó là đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý

hoá sản xuất. Từ phong trào này nhiều sáng kiến đã được áp dụng thành công vào

sản xuất, giải quyết những khó khăn phát sinh trong dây truyền sản xuất, từ đó làm

lợi hàng tỷ đồng cho Công ty. Cuối cùng là tổ chức tốt mạng lưới tiêu thụ sản

phẩm, như quản lý chặt chẽ giá bán sản phẩm trong toàn hệ thống phân phối của

công ty, kiên quyết chấn chỉnh xử lý những sai phạm, kết hợp đẩy mạnh công tác

thị trường, xây dựng cơ chế, điều chỉnh giá bán phù hợp, thực hiện nghiêm sự chỉ

đạo của Chính phủ, Bộ công nghiệp và Tổng công ty thép Việt Nam về kiểm soát

và kiềm chế giá bán, góp phần tích cực vào bình ổn giá thép xây dựng trên thị

trường. Công ty khuyến khích bộ phận bán hàng đưa thép trực tiếp vào công trình,

đến các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hà

Giang. Những hoạt động trên của Công ty gang thép Thái Nguyên đã làm cho sản

phẩm thép của mình ngày càng có uy tín trên thị trường và là địa chỉ tin cậy của

mọi khách hàng khi có nhu cầu xây dựng các công trình lớn nhỏ.

 Nhóm ngành gồm: chế tạo máy, cơ khí tiêu dùng, lắp ráp phụ tùng sửa chữa

và cung cấp phụ tùng thay thế, tập trung chủ yếu ở các khu công nghiệp Sông Công

và các nhà máy quốc phòng trong tỉnh. Các sản phẩm chủ yếu là các loại máy công

nghiệp, động cơ Diezen, các loại phụ tùng, hộp số, công cụ, dụng cụ cơ khí, dụng

cụ y tế, băng chuyền...

 Ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp.

Các sản phẩm chủ yếu của nhóm ngành là chè, trái cây, bia hơi, thực phẩm

đông lạnh, nước khoáng. Trong nhóm ngành này, cây chè có giá trị kinh tế cao

nhất, sản phẩm chè Thái Nguyên đã trở thành thương hiệu nổi tiếng được nhiều thị

trường tin dùng. Ngành cơ khí chế tạo máy móc phục vụ thích ứng với nông nghiệp

và lâm nghiệp vùng trung du, miền núi Đông bắc.

 Ngành vật liệu xây dựng và ngành xây dựng.

Nhóm ngành này bao gồm: khai thác cát sỏi, các nhà máy sản xuất xi

măng, đá xẻ, gạch xây dựng.., tập trung ở thành phố Thái Nguyên và các Huyện

Phú Lương, Phổ yên, Đồng Hỷ, Võ Nhai. Ngành khai thác cát sỏi xây dựng tập

trung ỏ khu vực Sông Cầu và Sông Công, có 9 doanh nghiệp và 4 nhà máy xi măng

lò đứng với công suất nhỏ, theo công nghệ cổ điển gây ô nhiễm môi trường, sản

phẩm dùng để kiên cố hoá kênh mương và dùng cho các công trình xây dựng thông

thường, có 2 nhà máy sản xuất gạch Tuynel với công suất khoảng 40 triệu viên mỗi

năm.

 Nhóm ngành công nghiệp điện, nước.

Việc sản xuất và phân phố điện năng cho đến nay đã có Tập đoàn Than và

Khoáng sản Việt Nam đã đầu tư xây dựng Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, tổng

công suất thiết kế 2x 55 MW, bắt đầu vận hành tổ máy số I tháng 2/2006, bổ sung

nguồn điện cho tỉnh. Năm 2005, Giá trị sản xuất công nghiệp ngành điện chiếm

9,5% tổng số Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn, sản lượng điện thương

phẩm tăng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 22,3%.

Việc sản xuất và phân phối nước sạch, hiện tại có 04 nhà máy khai thác và

cung cấp nước sạch đã qua xử lý là: công ty Cổ phần nước Thái Nguyên (3 nhà máy) có công suất 55.000m3/ngày đêm, bảo đảm cung cấp nước sạch cho sinh hoạt

và sản xuất công nghiệp khu vực thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công; Nhà máy nước Chùa Hang, công suất 2.000m3/ngày đêm, cung cấp nước cho Trung tâm

huyện Đồng Hỷ và một số trạm cung cấp nước ngầm cho các điểm dân cư.

2.2.2. Quá trình hình thành cơ cấu kinh tế vùng công nghiệp - cơ cấu khu công

nghiệp tập trung và cụm, điểm công nghiệp

Thứ nhất: Về khu công nghiệp.

Thái Nguyên cho đến nay đã hình thành và phát triển 2 khu công nghiệp lớn như:

 Khu Công nghiệp Gang thêp Thái Nguyên.

Trên cơ sở kế thừa khu công nghiệp gang thép đã có trước đây, sau 20 năm

đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, khu công nghiệp này đã có bước biến đổi không

nhỏ. Với việc xác định mục tiêu sản xuất và cung cấp sản phẩm luyện kim từ mỏ

quặng cho cả nước và vị trí công nghiệp luyện kim giữ vai trò chủ đạo. Cho đến

nay khu công nghiệp này đã hoàn thành việc cải tạo giai đoạn 1 và đang chuyển

sang giai đoạn 2- giai đoạn mở rộng và nâng cấp theo hướng đa dạng hóa về sản

phẩm, đa dạng hóa về hình thức sở hữu, theo hướng hiện đại và hạn chế ô nhiểm

môi trường.

Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty gang thép Thái Nguyên qua các năm

đều có mức tăng trưởng ổn định, cụ thể: giá trị sản xuất công nghiệp trung bình mỗi

năm đạt khoảng 1600tỷ đồng, sản lượng thép đạt trên 400.000 tấn mỗi năm, hàng

năm nộp ngân sách nhà nước gần 100 tỷ đồng, thu nhập bình quân mỗi cán bộ công

nhân viên đạt khoảng trên 2 triệu đồng. Để đạt được những kết quả trên, Công ty đã

triển khai nhiều biện pháp tích cực như: nâng tối đa công suất các thiết bị hiện có,

thực hiện chủ trương tiết kiệm, giảm chi phí trong sản xuất, quản lý và phân phối

sản phẩm, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm

nâng cao hiệu quả của máy móc, thiết bị và giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó

là đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất.

Từ phong trào này nhiều sáng kiến đã được áp dụng thành công vào sản xuất, giải

quyết những khó khăn phát sinh trong dây truyền sản xuất, từ đó làm lợi hàng tỷ

đồng cho Công ty. Cuối cùng là tổ chức tốt mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, như quản

lý chặt chẽ giá bán sản phẩm trong toàn hệ thống phân phối của công ty, kiên quyết

chấn chỉnh xử lý những sai phạm, kết hợp đẩy mạnh công tác thị trường, xây dựng

cơ chế, điều chỉnh giá bán phù hợp, thực hiện nghiêm sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ

công nghiệp và Tổng công ty thép Việt Nam về kiểm soát và kiềm chế giá bán, góp

phần tích cực vào bình ổn giá thép xây dựng trên thị trường. Công ty khuyến khích

bộ phận bán hàng đưa thép trực tiếp vào công trình, đến các tỉnh miền núi, vùng

sâu, vùng xa như: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang. Những hoạt động trên

của Công ty gang thép Thái Nguyên đã làm cho sản phẩm thép của mình ngày càng

có uy tín trên thị trường và là địa chỉ tin cậy của mọi khách hàng khi có nhu cầu

xây dựng.

 Khu công nghiệp Sông Công.

Khu Công nghiệp này đang trong quá trình tiếp tục hình thành và phát triển,

với mục tiêu chuyên môn hóa cao về sản xuất cơ khí, phát triển công nghiệp nhẹ và

phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao.

- Khu công nghiệp Sông Công và các nhà máy quốc phòng, tập trung chủ

yếu sản xuất các sản phẩm cơ khí như: các loại máy nông nghiệp, động cơ Diesel từ

6-8HP, các loại phụ tùng cho xe máy, phụ tùng ô tô, phụ tùng máy khai thác và chế

biến khoáng sản, hộp số, công cụ, dụng cụ y tế, băng truyền. Thời gian gần đây, do

yêu cầu của thị trường, một số nhà máy như Công ty Diesel Sông Công, Công ty

Phụ tùng máy số I, Công ty Cổ phần cơ khí Phổ Yên, Công ty Cổ phần Meinfa, Xí

nghiệp cơ khí đúc Sông Công đã đầu tư đổi mới công nghệ ở một số công đoạn sản

xuất và dây chuyền sản xuất tiên tiến hiện đại, được các công ty lớn của nước ngoài

chấp nhận đặt hàng. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 của ngành cơ khí chiếm

8,48% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Tăng trưởng bình quân giai

đoạn 2001-2005: 7,4%.

- Cũng trong khu công nghiệp này, nhóm ngành công nghiệp chế biến nông,

lâm sản, thực phẩm và đồ uống được chế tạo ở đây như: Chế biến chè, với số lượng

nhà máy chế biến chè hiện nay là 29 DN, với tổng công suất chế biến chè công

nghiệp 40.000 tấn chè tươi/năm (có 24 DN đang hoạt động), chế biến công nghiệp

hàng năm đạt trên 40% sản lượng chè búp tươi của tỉnh (năm 2005 = 93.746 tấn),

trong đó xuất khẩu 60% sản lượng chè chế biến công nghiệp (năm 2005 đạt

87,2%). Một số cơ sở đã đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại chế biến chè tiêu

thụ trong nước và xuất khẩu. Sản lượng chè còn lại được chế biến từ 54.700 cơ sở

chế biến quy mô hộ gia đình, tự tiêu thụ, chất lượng không cao.

- Chế biến sữa, hiện có một nhà máy chế biến sữa tươi của Công ty sữa Vĩnh

Phúc với sản lượng 40 triệu lít sữa/năm, công nghệ hiện đại. Sản xuất bia hơi, hiện

có 14 cơ sở sản xuất bia hơi trong đó chỉ có Công ty cổ phần chế biến thực phẩm

Thái Nguyên và nhà máy bia Thái Nguyên đầu tư dây chuyền công nghệ tương đối

hiện đại. Sản lượng bia hơi hàng năm đạt khoảng 5 triệu lít, chiếm 60 – 70% thị

phần tiêu thụ bia hơi trên địa bàn tỉnh. Sản xuất gỗ ván dăm, công suất 16.500m3/năm, hàng năm sản xuất đạt 40 - 50% công suất thiết kế, sản xuất ván

dăm dán phủ bề mặt và dây chuyền sản xuất đồ mộc nội thất. Có 05 nhà máy giấy,

công suất 30.000 tấn/năm, công nghệ trung bình.

Nhóm ngành chế biến năm 2005 chiếm 6,22% tổng Giá trị sản xuất công

nghiệp trên địa bàn, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2005: 15,6%.

- Trong khu công nghiệp này còn có nhóm ngành công nghiệp dệt may, da

giầy. Điều này thể hiện: Công ty cổ phần may xuất khẩu Thái Nguyên đã từng bước

đầu tư dây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại và vươn lên xuất khẩu trực tiếp sản

phẩm ra nước ngoài với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, năm 2005 đạt sản

lượng 1.978.000 sản phẩm, giá trị xuất khẩu đạt 11,5 triệu USD, tăng 25% so với

năm 2004. Năm 2002, nhà máy Giầy Thái Nguyên, công suất 2 triệu đôi /năm đã đi

vào hoạt động sản xuất.

 Ngoài ra một số khu công nghiệp khác loại vừa cũng đang từng bước hình

thành như:

* Nhóm ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.

Vật liệu xây dựng của Thái Nguyên rất đa dạng về chủng loại. Sản phẩm chính

là: Xi măng, gạch ngói nung, gạch Ceramic, tấm lợp Fibroximăng, tấm lợp kim

loại, đá ốp lát, đá xây dựng, đá granit, cát, sỏi. Về cơ bản, các sản phẩm vật liệu

xây dựng đáp ứng được nhu cầu xây dựng của địa phương và tiêu thụ trong nước.

Sản lượng một số sản phẩm chính năm 2005 là: Xi măng 492.100 tấn; gạch nung 133,6 triệu viên; gạch Ceremic 1.619.000m2.

Xi măng được coi là sản phẩm chủ lực của ngành vật liệu xây dựng. Tổng

công suất thiết kế của năm 2005 là 750.000 tấn. Trong 5 doanh nghiệp thì có 1

doanh nghiệp đầu tư mới dây chuyền công nghệ lò quay, 2 cơ sở sản xuất công

nghiệp lò đứng cơ khí hóa của Trung Quốc, 2 cơ sở sản xuất công nghệ bán cơ giới,

dây chuyền không đồng bộ, năng suất, chất lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường.

Sản xuất gạch nung: Có 2 doanh nghiệp dùng công nghệ nung lò tuynen, công suất

thiết kế 70 triệu viên/năm, còn phổ biến là gạch nung lò đứng thủ công, chiếm

khoảng 70% sản lượng gạch toàn tỉnh.

Giá trị sản xuất công nghiệp của nhóm ngành công nghiệp sản xuất vật liệu

xây dựng năm 2005 chiếm 17,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn

tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2005: 35%.

* Nhóm ngành khai thác mỏ, một số mỏ lớn do các doanh nghiệp Trung ương

khai thác, bóc đất đá và khai thác bằng cơ giới đạt trên 90%. Tuyển tinh công nghệ

ở mức độ trung bình, chấp hành nghiêm túc luật Khoáng sản. Việc đầu tư mở rộng,

nâng cao năng lực khai thác chậm. Một số mỏ tỉnh cho khai thác quy mô nhỏ và tận

thu tập trung vào đá xây dựng, ti tan, quặng sắt sử dụng lao động thủ công là chính

tuyển thô, xuất khẩu quặng thô, hiệu quả thấp, ảnh hưởng lớn đến môi trường.

Giá trị sản xuất công nghiệp của nhóm ngành khai thác năm 2005 chiếm

5,18% tổng Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tăng trưởng bình quân

giai đoạn 2001- 2005: 23,3%. Sản lượng khai thác than năm 2005 dạt 753.700 tấn,

thiếc thỏi xuất khẩu: 552 tấn, quặng sắt: 200.000 tấn, quặng ti tan: 30.000 tấn,

quặng kẽm: 100.000 tấn.

Thứ hai: Đã từng bước hình thành một số cụm, điểm công nghiệp.

Các cụm, điểm công nghiệp hình thành bắt nguồn từ yêu cầu của CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn, yêu cầu của việc khai thác mọi tiềm năng đa dạng về điều

kiện tự nhiên, yêu cầu của phát triển tiêu thủ công nghiệp và làng nghề, yêu cầu của

sự phân công lao động tại chỗ trong sự gắn kết với nông lâm nghiệp và yêu cầu của

sự phân cấp quản lý giữa tỉnh và huyện. Thích hợp với quản lý các cụm, điểm công

nghiêp với quy mô nhỏ là chính quyền địa phương huyện.

Cho đến nay trên địa bàn tỉnh đã và đang từng bước hình thành một số cụm.

điển công nghiệp như:

 Huyện Phú Lương đã và đang hình thành 3 cụm, điểm công nghiệp: Sơn

Cầm; Phấn Mễ; Đông Đạt - Du.

 Huyện Phổ Yên đã và đang hình thành các cụm, điểm công nghiệp: Tân

Hương, Đồng Tiến, Bắc Sơn, Tân Trung -Thống Thượng.

 Huyện Võ Nhai đã và đang hình thành 2 cụm, điểm công nghiệp: Đình

Cả; Trúc Mai.

 Huyện Định Hóa đã và đang hình thành các cụm, điểm công nghiệp: Trung

Hội; Kim Sơn; Tân Thịnh; Bảo Cường.

 Huyện Phú Bình đã và đang hình thành 3 cụm, điểm công nghiệp: Nga

Sơn; út Sơn; Điềm Thụy.

2.2.3. Quá trình hình thành cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành công

Thái Nguyên, một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi, sự hình thành và phát

nghiệp

triển các thành phần kinh tế trong cơ cấu ngành công nghiệp đang ở trình độ phát

triển kinh tế còn rất thấp Điều đó biểu hiện ở các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất

kinh doanh của tỉnh được phân loại dựa trên quan hệ sở hữu (tính đến 31/12/2005)

như sau:

 Doanh nghiệp Trung ương thuộc thành phần kinh tế Nhà nước:

 Về số doanh nghiệp có: 17 doanh nghiệp, trong đó: +

- Ngành công nghiệp: 12 doanh nghiệp.

- Ngành giao thông vận tải: 02 doanh nghiệp.

- Ngành thương mại, dịch vụ: 03 doanh nghiệp.

 Về vốn: Trong đó: - Vốn chủ sở hữu: 1.160,7 tỷ đồng.

- Vốn vay: 2.469,7 tỷ đồng.

 Doanh nghiệp địa phương.

 Về số doanh nghiệp: Toàn tỉnh có: 1.061 doanh nghiệp. Trong đó:

Công ty cổ phần: 170 doanh nghiệp; Công ty TNHH (1&2 thành viên): 313 doanh

nghiệp; Doanh nghiệp tư nhân: 560 doanh nghiệp. Hợp tác xã mới thành lập và

thành lập lại: 297 THX. Trong đó: 35 HTX sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp;

144 HTX dịch vụ điện. Hộ kinh doanh cá thể (được cấp đăng ký kinh doanh):

37.640 hộ.

 Về vốn:Tổng vốn đăng ký 2.745,8 tỷ đồng (vốn cố định: 903,5 tỷ đồng,

vốn lưu động: 1.842,3 tỷ đồng). Trong đó:

- Doanh nghiệp (Công ty cổ phần, TNHH, Tư nhân) tổng số vốn đăng ký:

1.632 tỷ đồng.

- Hợp tác xã: Tổng số vốn đăng ký: 48,9 tỷ đồng

- Hộ kinh doanh cá thể: Tổng số vốn đăng ký: 1.064,9 tỷ đồng

 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

 Số sự án: Toàn tỉnh có 19 dự án đăng ký đầu tư nước ngoài, trong đó 11

doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, có sản phẩm thương mại.

 Số vốn của các dự án: Tổng số vốn đăng ký đầu tư: 206,311 triệu USD.

Nếu tính riêng ngành công nghiệp thì giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu

giữa công nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương và công nghiêp có vốn đầu

tư nước ngoài chủ yếu là vốn FDI, thể hiện ở bảng 2.5:

Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm từ 2001 - 2005

Đơn vị tính: Tỷ đồng và %

2001

2002

2003

2004

2005

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Tỷ trọng %

Tỉ trọng %

Tỉ trọng %

Tỉ trọng %

100 68,96

. 2.097,8

100 69,79

2.480

100 74,65

2.910

100 74,93

3.369

Tỉ ltrọng % 100 73,72

3.843

16,52

502.6

18,31

651

17,55

684

19,35

870

19,60

1022

14,52

441.6

11,93

424

7,80

304

5,72

259

6,68

3.48

Năm Chỉ tiêu GTSXCN Trong đó Công nghiệp TW (Bao gồm CNQP) Công nghiệp ĐP Công nghiệp FDI

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006 - Cục thống kê Thái Nguyên

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

CÔNG NGHIỆP THỜI GIAN QUA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN

2.3.1. Những thành tựu

Thứ nhất: Nhìn chung việc chuyển dịch cơ cấu công ghiệp và nhóm ngành

công nghiệp thời gian qua có sự phù hợp với xu hướng CNH, HĐH. Thể hiện:

- Đi từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.

- Đi từ công nghệ lạc hậu từng bước được cải thiện theo hướng công nghệ

mới.

- Đi từ chưa đồng bộ từng bước đồng bộ phát triển trong sự gắn bó sản

xuất với lưu thông, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội.

Điều đó thể hiện qua ví dụ: Khu công nghiệp gang thép Lưu Xá - Thái nguyên

từ mở rộng và cải tạo giai đoạn 1 chuyển sang mở rộng và cải thiện công nghệ giai

đoạn 2. Cho đến nay, các doanh nghiệp Nhà nước từng bước được củng cố và mở

rộng như: Công ty Gang thép Thái Nguyên, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một

thành viên Kim loại màu Thái Nguyên. Các cơ sở cán kéo thép như Hợp tác xã

công nghiệp Toàn Diện, liên doanh Natsteel Vina, thép Disoco, Tú Ninh, Hiệp

Linh, Hải Yến, Nam Phong, Thăng Long. đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 18 cơ sở

sản xuất thép với tổng công suất thiết kế 800.000 tấn thép cán/năm. Năm 2005 đạt

70% công suất thiết kế. GTSXCN của ngành luyện kim năm 2005 chiếm 43,2%

tổng GTSXCN trên địa bàn. Tăng trưởng giai đoạn 2001- 2005: 12,5% hành hình

một ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh là ngành thép. Tương tự như vậy ở Khu

công nghiệp Sông Công (Sông Công 1 và Sông Công 2) và một số cụm điểm công

nghiệp xuất hiện trong mấy năm gần đây có sự chuyển dịch mới đáng ghi nhận.

Thứ hai: Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trong ngành công nghiệp đã

và đang có bước khởi động tích cực nhất là từ năm 2005 lại đây.

- Cho đến nay trên địa bàn tỉnh đã hình thành 2 khu công nghiệp lớn, tập trung

đó là: Khu công nghiệp gang thép Lưu Xá - Thái Nguyên và Khu công nghiệp

Sông Công - Phổ Yên.

- Đã hình thành bước đầu hàng chục Cụm, Điểm công nghiệp ở các Huyện:

Phổ Yên, Võ Nhai, Phú Lương, Bắc Sơn, Định Hóa, Phú Bình.

Thứ ba: Về cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp bước đầu

được chuyển dịch theo hướng tiến bộ, đi từ đơn nhất đến đa dạng.

Nếu trước đây ngành công nghiệp trên địa bàn Thái Nguyên chỉ đơn nhất có

công nghiệp nhà nước trung ương và công nghiệp nhà nước địa phương là chủ yếu

thì đến nay đã có thêm các doanh nghiệp công nghiệp thuộc kinh tế tập thể, công

nghiệp tư nhân và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức FDI.

Thứ tư: Sự tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp có bước tiến bộ.

Chỉ tiêu tăng trưởng Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt khá cao,

năm 2005 gấp 2,2 lần năm 2000, nhịp độ tăng trưởng bình quân 5 năm là 17,1%,

giá trị tăng thêm của công nghiệp - xây dựng là 12,7%, góp phần quan trọng vào

tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh 9,05%. Vượt mục tiêu của Nghị quyết XVI Đảng

bộ tỉnh Thái Nguyên và cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước.

Nâng tỷ trọng của công nghiệp - xây dựng trong GDP của tỉnh 30,4% (năm 2000)

lên 38,64% (năm 2005). Điều đó thể hiện ở Bảng 2.6.

Bảng 2.6: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 - 2005

Đơn vị tính: %

Năm Bình quân 2001 2002 2003 2004 2005 2001 - 2005 Chỉ tiêu

GTSXCN 28.41 16.86 9.65 15.34 15.95 17.10

Công nghiệp TW 35.17 18.22 17.34 15.77 14.07 18.88

Công nghiệp ĐP 18.54 29.53 5.07 27.19 17.47 19.39

Công nghiệp FDI 12.37 - 4.09 - 28.3 -15.46 35.41 - 2.40

Nguồn: Niên giám thông kê 2006 của Cục thống kê Thái Nguyên

Qua số liệu bảng trên cho thấy công nghiệp Trung ương chiếm tỷ trọng lớn

trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng trưởng khá. Công nghiệp địa phương

có tốc độ tăng trưởng khá cao song chiếm tỷ trọng nhỏ. Công nghiệp FDI tăng

trưởng âm song có sự hồi phục phát triển từ 2005.

Thứ năm: Những kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

trong thời gian qua.

Ngành công nghiệp đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thoát ra khỏi tình

trạng trì trệ, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm của tỉnh. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công

nghiệp xây dựng, khẳng định xu thế tất yếu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh. Cơ bản đáp ứng cho tỉnh và cung cấp trong nước những sản phẩm, hàng hóa,

dịch vụ thiết yếu. Đã xác định rõ sản phẩm thế mạnh của tỉnh như: Thép cán, than,

xi măng, vật liệu xây dựng, chè, giấy đế, thuốc nổ công nghiệp, sữa. Môi trường

đầu tư và môi trường kinh doanh đã được cải thiện một bước. Số lượng các doanh

nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng ngày càng tăng. Số lao động làm việc

trong lĩnh vực công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp đến năm 2005 là 53,400 người.

Thu nhập của người lao động ổn định, đời sống được cải thiện đáng kể. Đóng góp

tích cực vào việc tăng thu ngân sách.

2.3.2. Những hạn chế.

Bên cạnh những thành tựu còn khiêm tốn bước đầu như đã phân tích, quá

trình Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên thời gian qua

còn không ít những hạn chế:

Một là: Việc chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tuy phù hợp với xu

hướng, nhưng với nhịp độ còn rất chậm, lạc hậu, phát triển không đều và chưa

vững chắc.

Qua số liệu ở bảng 2.5 cho thấy phát triển công nghiệp tuy đạt tốc độ tương đối

cao, nhưng chưa thật sự ổn định, vững chắc, chưa tương xứng với yêu cầu, tiềm

năng, thế mạnh của tỉnh. Một số nhóm ngành công nghiệp phát triển chậm như: Về

điện, Trạm 220KV Thái Nguyên - 125 MVA là nguồn cấp điện chính cho tỉnh và

các tỉnh lân cận như Bắc Kạn, Cao Bằng, hiện tại quá tải. Lưới điện truyền tải chưa

đảm bảo cung cấp điện liên tục với độ tin cậy cần thiết. Đến hết năm 2005 mới có

95.36% hộ dân nông thôn có điện. Ngành vật liệu xây dựng , ngành mỏ, ngành hóa

chất, phát triển và khai thác còn xa so với tiềm năng. Trình độ công nghệ và chất

lượng sản phẩm còn thấp và chậm đổi mới. Điều dễ nhận thấy là công nghiệp Thái

Nguyên đã đầu tư từ thập kỷ 60, một vài nơi đầu tư mới cũng đã 15 – 20 năm. Nhìn

chung công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng vật tư, thiết bị chủ yếu là của

Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu (cũ). Các dây chuyền bố trí khép kín

bằng các thiết bị vạn năng nên khả năng chuyên môn hóa thấp. Tuy nhiên một vài

năm gần đây việc đầu tư công nghệ như việc đưa chương trình số vào các dây

chuyền sản xuất (hệ thống CNC, NC, CAD/CAM) có tiến bộ song còn chậm, tốc

độ đổi mới công nghệ chỉ ở mức trên 3% năm, thiếu các thiết bị phân tích, kiểm tra

hiện đại nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp.

Hai là: Việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp và cụm, điểm

công nghiệp diễn ra còn chậm, tự phát, gây lãng phí đất đai.

Điều đó thể hiện:

Các khu công nghiệp, nhất là Khu công nghiệp Sông Công chưa có nhiều

doanh nghiệp để nhanh chóng lấp đầy diện tích đã quy hoạch - lãng phí đất đai, cần

lưu ý khi triển khai sang giai đoạn 2.

Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, cơ sở ngành nghề gắn với tài

nguyên và thế mạnh ở nông thôn còn nhiều yếu kém, dẫn đến sự hình thành các

cụm, điểm công nghiệp ở các huyện, thị xã, chậm hình thành và phát triển trong

hiện thực.

Việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung, cụm, điểm công nghiệp ở các

huyện còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Chất lượng một số dự

án đầu tư vào khu công nghiệp chưa cao. Việc sử dụng đất của các doanh nghiệp

còn lãng phí, có doanh nghiệp sử dụng chưa đúng mục đích.

Ba là: Các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp chuyển dịch chậm

và còn ở trình độ thấp kém.

Công nghiệp địa phương tuy phát triển mạnh và có tốc độ tăng trưởng khá cao

song do điểm xuất phát thấp vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ (gần 20%) trong tổng giá trị sản

xuất công nghiệp của tỉnh. Khu vực này có ít dự án đầu tư lớn, công nghiệp tiên

tiến hiện đại. Trình độ, năng lực quản lý của một số doanh nghiệp còn hạn chế.

Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh còn ở mức thấp. Giá trị sản xuất công

nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn rất nhỏ bé mới 19 dự

án, với số vốn quá khiêm tốn (206,311 triệu USD) chiếm gần 7% tổng giá trị sản

xuất công nghiệp trên địa bàn. Một con số cho thấy việc thu hút FDI vào Thái

Nguyên Thấp thua xa so với nhiều tỉnh khác trong cả nước.

Điều nhận xét trên thể hiện ở giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu của nó

giữa các thành phần kinh tế tính theo giá cố định năm 1994 qua bảng số liệu 2.7

Bảng 2.7: Giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu của nó thời kỳ

2001-2005. (Phân theo thành phần kinh tế - theo giá cố định 1994)

Đơn vị tính: Triệu đồng

Chỉ tiêu

Khu vực kinh tế trong nước

Khu vực

Tổng số

có vốn

Chia ra

Năm

ĐTNN

Tổng số

Nhà nước Tập thể Tư nhân Cá thể Hỗn hợp

2001

2.275.150

1.857.437

1.698.957

10.384

22.055

51.250

74.791

417.914

Tỷ trọng

100%

67,5%

91,46%

0,12%

1,18%

2,75%

4,02%

32,5%

2002

2.648.391

2.254.819

2.006.221

12.711

32.458

54.355

149.074

40.702

Tỷ trọng

100%

84,7%

88,9%

0,56%

1,4%

2,4%

6,6%

15,2%

2003

2.861.699

2.571.969

2.278.183

7.893

29.346

60.253

196.294

289.730

Tỷ trọng

100%

89,8%

88,5%

0,3%

1,14%

2,3%

7,6%

10,2%

2004

3.168.305

2.973.550

2.551.967

9.057

38.451

65.987

272.093

230.755

Tỷ trọng

100%

93,8%

85,8%

0,3%

0,1%

0,2%

0,91%

6,2%

2005

3.598.350

3.294.026

2.776.684

16.432

77.731

69.913

353.266

304.324

Tỷ trọng

100%

91,4%

84,2%

0,04%

84,2%

0,21%

1,07%

8,6%

Nguån: Niªn gi¸m thèng kª 2006

vµ b¸o c¸o 2006

2.3.3. Nguyªn nh©n cña h¹n chÕ vµ bµi häc kinh nghiÖm

 Nguyªn nh©n cña h¹n chÕ:

Thø nhÊt, c¸c v¨n b¶n hiÖn hµnh cña Nhµ n­íc ch­a

theo kÞp víi søc Ðp c¬ chÕ thÞ tr­êng, vÊn ®Ò c¹nh

tranh vµ héi nhËp kinh tÕ khu vùc vµ thÕ giíi cïng víi

viÖc t¨ng gi¸ vËt t­ ®· t¸c ®éng m¹nh mÏ ®Õn ho¹t ®éng

s¶n xuÊt - kinh doanh cña c¸c doanh nghiÖp.

Thø hai, chÝnh s¸ch vÒ båi th­êng gi¶i phãng mÆt b»ng

cña Nhµ n­íc tr­íc LuËt ®Êt ®ai cßn mét sè ®iÒu bÊt

cËp, thiÕu ®ång bé, c¸ch hiÓu vµ c¸ch lµm cßn cã nh÷ng

®iÓm kh«ng thèng nhÊt gi÷a c¸c ®Þa ph­¬ng, c«ng t¸c båi

th­êng gi¶i phãng mÆt b»ng vµ di d©n t¸i ®Þnh c­ cña

mét sè dù ¸n ®Çu t­ cßn chËm, ¶nh h­ëng ®Õn tiÕn ®é thi

c«ng x©y dùng c«ng tr×nh, dÔ dÉn ®Õ khiÕu kiÖn phøc

t¹p, kÐo dµi.

Thứ ba, thiếu vốn đầu tư, trình độ năng lực quản lý của nhiều doanh nghiệp

còn hạn chế. Các doanh nghiệp địa phương phần lớn đều có quy mô nhỏ, công

nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh yếu, chiếm tỷ trọng thấp, phát triển chậm chưa sẵn

sàng cho việc hội nhập sâu rộng vào khu vực thế giới. Nợ xây dựng cơ bản các

công trình xây dựng từ nguồn vốn NSNN làm cho hoạt động của các doanh nghiệp

gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, vai trò quản lý về công nghiệp ở cấp huyện chưa được đề cao. Công

tác cán bộ và cơ cấu tổ chức trong hệ thống QLNN về công nghiệp từ tỉnh đến cấp

huyện còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực chuyên môn, kiêm nhiệm nhiều. Cho

đến nay chưa có quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản. Việc quản lý tài nguyên

khoáng sản còn bất cập. Việc khai thác trái phép vẫn diễn ra gây lãng phí tài

nguyên khoáng sản làm ô nhiễm môi trường.

Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các văn bản pháp luật liên

quan đến công nghiệp, doanh nghiệp, cũng như các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu

tư, cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính của Trung ương và của

tỉnh đến các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân làm công nghiệp chưa kịp

thời, thường xuyên, cản trở việc thu hút vốn FDI và vốn ngoài tỉnh vào Thái

Nguyên.

Thứ sáu, công tác nghiên cứu, phát triển, ứng dụng (R&D) với tính cách là

động lực của CNH, HĐH, nhưng trong nhận thức của các ngành, các cấp, các

doanh nghiệp chưa thực sự coi khoa học công nghệ là một lực lượng sản xuất trục

tiếp và việc đầu tư cho khoa học công nghệ và công tác nghiên cứu phát triển là đầu

tư cho tương lai. Còn thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết quả nghiên cứu

vào sản xuất và đời sống. Chưa hình thành được Trung tâm tư vấn để hỗ trợ, giúp

đỡ các doanh nghiệp trong quá trình lựa chọn thiết bị công nghệ trong quá trình đầu

tư mới, hoặc đầu tư cải tạo, đầu tư chiều sâu. Chậm hình thành và phát triển thị

trường khoa học và công nghệ.

Thứ bảy, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn một số yếu kém. Việc đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng khu, cụm công nghiệp còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu

của các nhà đầu tư. Chất lượng một số dự án đầu tư vào khu công nghiệp chưa cao.

Việc sử dụng đất của các doanh nghiệp còn lãng phí, sai mục đích diễn ra kéo dài .

 Bài học kinh nghiệm.

Từ thực tế phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005 và 2006, có thể rút ra bài học kinh

nghiệm để nhân rộng và tiếp tục quản lý - điều hành trong thời gian tới như sau:

Một là, cần định hướng rõ cho các ngành sản xuất công nghiệp phát triển trong

một giai đoạn dài, trên cơ sở các chiến lược, quy hoạch được xây dựng một cách

khoa học, từ đó tạo ra sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động của các

cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức, cá nhân về phát triển công nghiệp

và coi phát triển công nghiệp là một trong các giải pháp đột phá nếu muốn tỉnh

mau giầu có.

Hai là, không thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp nhanh và đi

vào chiều sâu nếu không đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã

hội đồng bộ và đầu tư cho giáo dục đào tạo đi trước một bước. Nếu như giai đoạn

2001 - 2005 là giai đoạn chuẩn bị các điều kiện về mọi mặt, hoàn thiện một số cơ

chế, chính sách, thực hiện một số dự án đầu tư hạ tầng kinh tế kỹ thuật cơ bản như:

Điện, nước, vật liệu xây dựng, thép (giai đoạn này được coi là phát triển theo chiều

rộng), thì giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn đầu tư chiều sâu hoàn thành các dự án

đầu tư lớn để tạo ra năng lực vượt trội mang tính bứt phá, đầu tư hoàn thành một số

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản như giao thông, điện, nước, khu công

nghiệp; Giai đoạn này phải xét đến chất lượng đầu tư để tăng nhanh giá trị gia tăng

của công nghiệp; gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức.

Ba là, đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về

công nghiệp từ tỉnh đến huyện; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tinh thông về

nghiệp vụ, mẫn cán tận tâm với công việc, quyền hạn gắn với trách nhiệm, đồng

hành cùng doanh nghiệp, phục vụ tốt doanh nghiệp.

Bốn là, cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh một

cách công khai, rõ ràng, minh bạch, loại bỏ các “rào cản” cản trở hoặc làm chậm

quá trình phát triển của doanh nghiệp. Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra doanh nghiệp

kinh doanh đúng pháp luật, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh

tế, khai thác tốt mọi nguồn lực cho phát triển, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài,

tăng trưởng mối hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh

tế, liên kết theo vùng, lãnh thổ để khai thác tối đa lợi thế của nhau để cùng phát

triển. Đặc biệt có chế tài thúc đẩy công nghiệp địa phương (khối doanh nghiệp dân

doanh) phát triển nhanh hơn so với hiện nay.

2.3.4. Những vấn đề bức xúc đặt ra cần giải quyết.

Từ phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái

Nguyên thời gian qua có thể rút ra những vấn đề bức xúc được diễn đạt dưới dạng

mâu thuẫn, bất tương xứng đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới, đó là :

Thứ nhất: Sự bất tương xứng giữa tốc độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp còn chậm và thấp kém hiện nay so với tiềm năng và vị

trí của một tỉnh thuộc Trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa học - công nghệ khu vực

Đông Bắc của cả nước.

Thứ hai: Sự mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng và tốc độ chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp với sự hạn hẹp về vốn các loại trong và

ngoài tỉnh hiện nay ở Thái Nguyên.

Thứ ba: Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng và tốc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp với tiềm lực khoa học công nghệ và trình độ dân

trí thấp, đặc biệt chất lượng lao động thấp và tư duy năng động sáng tạo chưa cao

của đội ngũ cán bộ quản lý trên cả 2 tầm kinh tế vĩ mô và vi mô của tỉnh hiện nay.

Thứ tư: Sự bất cập giữa yêu cầu nâng cao chất lượng và tốc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp đối với một tỉnh thuộc Trung tâm kinh tế, văn

hóa và khoa học - công nghệ khu vực Đông Bắc của cả nước với cơ chế, chính

sách, chế tài và sự quan tâm chỉ đạo hỗ trợ chưa tương ứng của Nhà nước trung

ương và Chính quyền địa phương Thái Nguyên.

Những vấn đề bức xúc nói rên có mối quan hệ với nhau, đòi hỏi sớm

được giải quyết một cách đồng bộ. Nhiệm vụ này sẽ được giải quyết ở chương tiếp

theo trong luận văn này.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH

CÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1.1. Những căn cứ xác định phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp tỉnh Thái Nguyên

Việc xác định phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

công nghiệp, ngoài việc vận dụng cơ sở lý luận ở chương1, những hạn chế, nguyên

nhân, bài học kinh nghiệm và những vấn đề bức xúc đặt ra cần giải quyết ở chương

2, theo chúng tôi cần quan tâm đến các nội dung sau đây:

 Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên

Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội Thái Nguyên trong thế chủ động hội

nhập và cạnh tranh quốc tế, trong quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, đặc biệt

là các địa phương trong vùng Trung du Miền núi Bắc bộ và Vùng kinh tế trọng

điểm Bắc bộ. Đảm bảo thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa Thái Nguyên với

mức trung bình cả nước, Nâng cao vị thế của Thái Nguyên, phấn đấu đưa Thái

Nguyên trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Trung du miền núi Bắc bộ.

Thứ hai, phát trển kinh tế nhiều thành phần, giải phóng và phát uy mọi nguồn

lực nhằm tạo động lực phát triển với tốc độ nhanh, hiệu quả và bền vững. Từng

bước chuyển dịch và hiện đại hóa cơ cấu kinh tế theo hướng: thúc đẩy nhanh phát

triển khu vực dịch vụ, đặc biệt là du lịch và thương mại, giáo dục, y tế, tài chính;

phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế tại các khu, cụm công nghiệp như: công

nghiệp khai khoáng, luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực thực

phẩm, lâm sản.. ; xây dựng một nền nông - lâm nghiệp đa dạng gắn kết với bảo vệ

tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái.

Thứ ba, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân

cư tập trung kiểu đô thị theo hướng hiện đại, gắn với vành đai nông thôn; nông thôn

được phát triển theo hướng văn minh, bảo tồn được các giá trị văn hóa của các

làng, bản.

Thứ tư, phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với phát triển xã hội, gắn tăng

trưởng kinh tế với tiến bộ kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi

trường. Nâng cao đời sống vật chất, đời sống văn hóa của nhân dân; xóa đói giảm

nghèo và các tệ nạn xã hội; giảm dần sự chênh lệch giữa vùng nông thôn, vùng núi

cao với vùng đô thị. Kết hợp đồng bộ giữa phát triển sản xuất với phát triển kết cấu

hạ tầng trên các vùng, kể cả nông thôn và miền núi.

Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố và tăng cường

an ninh - quốc phòng; củng cố và tăng cường thể chế chính trị XHCN.

 Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2007 - 2010 và tầm nhìn

đến năm 2020.

 Mục tiêu chung :

Xây dựng Thái Nguyên thành tỉnh có tiềm lực và vị thế cao trong cả nước;

trung tâm công nghiệp, du lịch thương mại, giáo dục y tế văn hóa của vùng Trung

du Miền núi Bắc bộ; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và đồng bộ; có

nền văn hóa lành mạnh, hiện đại đậm đà băn sắc dân tộc; có quốc phòng - an ninh

vững mạnh; có đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân không ngừng được nâng

cao.

 Mục tiêu kinh tế :

Một số chỉ tiêu GDP/ người, tố độ tăng trưởng, kinh tế đối ngoại và mức thu

ngân sách từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020, được thể hiện ở bảng 3.1 sau:

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu GDP/ người, tốc độ tăng trưởng, kinh tế đối ngoại

và mức thu ngân sách từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020

Giai đoạn 2006 - 2010 2011 - 2020

Chỉ tiêu

1- GDP/Người (USD) 770 - 800 3.900 - 4000

2- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) 10 - 11 11 - 12

3- Kinh tế đối ngoại ( TriệuU SD) 100 1.000

4- Thu NSNN (kể cả điều tiết của TW) (tỷ 3.500 22.000

đồng)

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH đến năm 2020- [60, tr22 ].

- Về mục tiêu cơ cấu kinh tế, qua 2 thời điểm 2010 và 2020.

Trong thời gian tới cần phấn đấu tăng nhanh nhịp độ và chất lượng Chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo các mục tiêu cụ thể ở bảng 3.2 sau đây:

Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh thái Nguyên qua 2 thời điểm 2010 và 2020

Thời điểm 2010 2020

Chỉ tiêu

1- Ngành công nghiệp-xây dựng(Tỷ trọng %) 44 - 45 47 - 48

2- Ngành Dịch vụ ( Tỷ trọng %) 38 - 39 44 - 45

3- Ngành nông - lâm - ngư nghiệp (Tỷ trọng %) 17 - 18 8 - 9

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH đến năm 2020- [60, tr52].

 Mục tiêu xã hội :

So với với các địa phương khác tương đồng, cho thấy về mục tiêu xã hội ở

một tỉnh trung du miền núi, nhiều dân tộc như Thái Nguyên, như đã phân tích về

thực trạng ở chương 2 là quá chậm trễ cần tập trung thực hiện nhanh mục tiêu

xã hội trong thời gian tới vì nó gắn với động lực phát triển.

Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội qua 2 thời điểm 2010 và 2020.

Thời điểm 2010 2020

Chỉ tiêu

1- Tốc độ tăng dân số bình quân (%). 1,0 1,0

2- Hàng năm giải quyết việc làm (người). 20.000 ----

3- Đảm bảo LĐ trong độ tuổi có việc làm(%). 95 ---

0 0 4- Hộ đói (%).

< 3 0 5- Hộ nghèo (%).

6- Tỷ lệ lao động được đào tạo(%). > 40 --

7- Chỉ số chung phát triển con người (HDI)% 0,7 > 0,8

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH đến năm 2020- [60, tr57].

3.1.2. Những định hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp tỉnh Thái Nguyên đến năm 2011 và tầm nhìn 2020

 Định hướng chung.

Một là, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng tăng nhanh

tỷ trọng công nghiệp trên cơ sở xây dựng ngành công nghiệp đa dạng, nhiều thành

phần, phối hợp giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương cùng phát

triển. Chủ động kêu gọi đầu tư để tạo sức bật lớn cho phát triển sản xuất công

nghiệp nói riêng và các ngành trong nền kinh tế quốc dân của tỉnh nói chung.

Hai là, phát triển công nghiệp theo quy hoạch, coi trọng chất lượng tăng

trưởng, phát triển công nghiệp phải gắn với tiến bộ kinh tế và xã hội bảo vệ môi

trường. Phát triển mạnh công nghiệp tại các Khu công nghiệp lớn tập trung của

tỉnh, đồng thời với việc phát triển các, cụm, điểm công nghiệp ở các huyện, thị xã;

tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp nhằm khai thác lợi thế của các địa phương.

Ba là, ưu tiên phát triển các ngành, các sản phẩm truyền thống có thị trường

và thế mạnh của tỉnh như luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế

biến khoáng sản, chế tạo máy và gia công kim loại, chế biến nông, lâm sản, dệt

may, hóa chất, coi trọng phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Quan

tâm đầu tư cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm gắn với vùng

nguyên liệu. Phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, phân bón sinh học

và sản xuất thuốc thú y theo chương trình đầu tư trọng điểm quốc gia.

Bốn là, gắn phát triển công nghiệp với phát triển dịch vụ công nghiệp và tiểu thủ

công nghiệp theo thế mạnh của từng địa phương. Đối với công nghiệp địa phương,

tiếp tục đổi mới và phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi

thế, trên cơ sở chú trọng phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển tiểu thủ công

nghiệp và các làng nghề.

 Định hướng cụ thể :

Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu các nhóm ngành công nghiệp theo định hướng

sau :

 Định hướng phát triển ngành luyện kim

- Duy trì tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2006 - 2010 là 16 - 17%/năm, giai

đoạn 2011 - 2020 là 15%/năm. Đảm bảo tỷ trọng công nghiệp luyện kim chiếm

50% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh vào năm 2010.

- Khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có (quặng sắt, quặng thiếc,

quặng chì kẽm, quặng vàng, quặng titan, quặng vonfram) cho sản xuất gang, thép,

thiếc, chì, kẽm, vàng, bột ôxyt kẽm, fero các loại, TiO2 sạch 99,98%, thép thỏi,

thép cán, WO3. Trong đó, ưu tiên tập trung khai thác các loại khoáng sản có giá trị

kinh tế cao, trữ lượng lớn, chất lượng cao, phù hợp với sản xuất quy mô lớn.

- Thực hiện chế biến sâu, chế biến tinh khoáng sản sau khai thác, không xuất

quặng thô, sản phẩm thô, ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến để nâng cao chất

lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra các sản phẩm luyện kim cao cấp mang thương

hiệu Việt Nam trên thị trường Quốc tế và trong nước.

- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực xã hội, thu

hút nhân tài và lao động chất lượng cao vào phát triển ngành luyện kim.

- Thực hiện trước một bước công tác khảo sát, thăm dò tài nguyên khoáng sản,

đặc biệt là các khoáng sản có trữ lượng lớn; thực hiện nghiêm túc quy hoạch

khoáng sản và quy hoạch ngành luyện kim; quản lý tốt nguồn tài nguyên khoáng

sản chưa khai thác.

Hướng phát triển một số sản phẩm luyện kim quan trọng:

- Sản xuất thép với chất lượng cao, nhằm phục vụ cho công nghiệp cơ khí. Dự

kiến sản lượng thép năm 2010 là 1 triệu tấn, năm 2015 là 1,2 - 1,5 triệu tấn và năm

2020 trên 2 triệu tấn. Mở rộng nhà máy cán thép công suất 300 ngàn tấn (của Italy)

lên 750 ngàn tấn trong giai đoạn 2006 - 2010.

- Sản xuất thiếc, tiếp tục khai thác thiếc sa khoáng ở Phục Linh. Đầu tư mới

cho khai thác thiếc gốc Núi Pháo. Kết hợp khai thác thiếc với tận thu vàng, bạc,

tinh quặng vonfram. Dự kiến sản lượng thiếc (99,75%) năm 2010 là 800 tấn, năm

2015 là 1000 tấn, năm 2020 là 1500 tấn, sản lượng tinh quặng vonfram tương ứng

là 120 tấn, 200 tấn và 250 tấn.

- Sản xuất kẽm, huy động hiệu quả công suất của các xưởng kẽm điện phân

hiện có, tổng công suất 1 ngàn tấn bột kẽm/ năm; xây dựng thêm các nhà máy kẽm

điện phân công suất 10 ngàn tấn kẽm và 10 ngàn tấn axít kẽm và 10 ngàn tấn axit

sunfuríc; kết hợp mở rộng để sản xuất chì kim loại và các kim loại khác. Dự kiến

sản lượng kẽm điện phân năm 2010 là 5 ngàn tấn, năm 2015 là 10 ngàn tấn và năm

2020 là 15 ngàn tấn.

- Các kim loại khác, đầu tư sản xuất titan kim loại dùng trong công nghiệp

hàng không, tên lửa vũ trụ, que hàn, tráng phủ bề mặt kim loại; đẩy mạnh sản xuất

các loại fero (như fero silic; fero mangan, fero crôm, ferom titan…) cho sản xuất

thép hợp kim, phát triển hợp lý các sản phẩm bột ô xyt kẽm ZnO loại 80%, 90%,

60%, thiếc loại 1 hàm lượng 99, 75, 99, 9% Sn.

 Định phát triển và chuyển dịch nhóm ngành công nghiệp cơ khí

- Phát triển công nghiệp cơ khí gắn với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; với

phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là với công nghiệp luyện kim; với

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Thực hiện chuyên

môn hoá và hợp tác hoá sản xuất cơ khí trên địa bàn giữa các thành phần kinh tế,

giữa các cơ sở sản xuất.

- Phát triển cơ khí đáp ứng cơ bản các nhu cầu của tỉnh về các thiết bị, máy

móc phục vụ nông nghiệp và nông thôn (dụng cụ, nông cụ cầm tay và các dịch vụ

sửa chữa, bảo hành máy và thiết bị); đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước theo

phân công của ngành cơ khí vùng và cả nước (đặc biệt là sản phẩm động cơ dêzel

đến 400 sức ngựa và các loại phụ tùng); từng bước sản xuất một số sản phẩm phục

vụ công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, luyện kim thay thế cho sản phẩm

nhập khẩu; mở rộng thêm các sản phẩm xuất khẩu, tiến tới xuất khẩu một số loại

phụ tùng.

- Tạo ưu đãi đặc biệt cho phát triển cơ khí, hướng đầu tư là: đi thẳng vào công

nghệ tiên tiến, hiện đại, thực hiện đầu tư có trọng điểm, tập trung, không phát triển

dàn trải; tập trung lớn cho máy động lực, máy nông nghiệp, phụ tùng ô tô, xe máy,

thiết bị chế biến bảo quản sau thu hoạch, công cụ, dụng cụ. Khuyến khích, tạo

thuận lợi để mọi thành phần kinh tế tham gia chương trình phát triển cơ khí, đặc

biệt là cơ khí phục vụ nông nghiệp, nông thôn.

- Hướng chuyên môn hoá, phân công sản xuất như sau: Sản xuất và lắp ráp

động cơ diezen, động cơ thuỷ đến 400HP, sản xuất thiết bị điện dụng, thiết bị đồng

bộ cho ngành dệt, sản xuất xe tải nhẹ và xe nông dụng (Sông Công); sản xuất và lắp

ráp máy kéo, máy nông nghiệp, sản xuất phụt tùng các loại, trước mắt là phụ tùng

xe máy, ô tô, sau đó là trục động cơ diezen, hộp số máy kéo, ô tô, sản xuất, công

cụ, dụng cụ (Sông Công, Phổ Yên); sản xuất, sửa chữa máy và thiết bị khai thác,

chế biến khoáng sản, thiết bị cán - kéo thép (thành phố Thái Nguyên); sản xuất thiết

bị chế biến nông, lâm sản cỡ nhỏ và vừa và thiết bị bảo quản sau thu hoạch (các

huyện). Đối với một số huyện Đồng Hỷ, Phú bình, Phú Lương, Phổ Yên ưu tiên sản

xuất sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp và xây dựng dân dụng, quy mô vừa và

nhỏ. Huyện Định Hoá phát triển 1-2 cụm công nghiệp và hệ thống dịch vụ cơ khí

sữa chữa ở các cụm dân cư tập trung. Huyện Võ Nhai đảm bảo 100% xã có cơ sở

kim khí như gò hàn, sản xuất nông cụ, sửa chữa, đặc biệt tại thị trấn Đình Cả, xã La

Hiên, Tràng Xá, Bình Long, Dân Tiến, Cúc Đường.

 Định hướng phát triển ngành khai thác và chế biến khoáng sản

- Đảm bảo tốc độ tăng trưởng của ngành giai đoạn 2006 - 2010 là 14,2%/năm;

giai đoạn 2011 - 2020 là 14,5%/năm. Tương ứng với các giai đoạn trên thì giá

trị sản xuất công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản đạt 352 tỷ đồng năm

2010 và 683 tỷ đồng năm 2015 và 1325 tỷ năm 2020 (giá cố định 1994).

- Tập trung khai thác chế biến các khoáng sản có giá trị kinh tế cao, trữ

lượng lớn (như vonfram, quặng tinh chế). Đảm bảo đủ nguyên liệu cho các cơ sở

luyện kim và cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng của tỉnh.

- Đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để tăng sản lượng, giảm giá thành, bảo

vệ môi trường không bị ô nhiễm.

- Đa dạng hoá quy mô khai thác và chế biến khoáng, sản trên cơ sở không lãng

phí tài nguyên dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước.

- Chú trọng công tác thăm dò tìm kiếm mỏ mới, trữ lượng mới. Cần đi trước

một bước để không bị hẫng hụt nguyên liệu cho sản xuất và ít phụ thuộc vào

nguyên liệu nhập ngoại.

- Cần có chính sách mở để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào khai

thác, tìm kiếm thăm dò khoáng sản.

- Tích cực thu hút đầu tư chế biến khoáng sản tạo sản phẩm chất lượng cao

như than cốc có giá trị cao, phục vụ luyện kim. Trong đó:

Than, khai thác chủ yếu tại các mỏ than Bắc và Nam Làng cẩm, than Núi

Hồng, Khánh Hoà… sản lượng hiện tại trên 617 ngàn tấn, dự kiến năm 2010 đạt

1,0 triệu tấn, năm 2015 đạt 1,5 triệu tấn và năm 2020 đạt 2,0 triệu tấn.

Quặng sắt, khai thác phục vụ trước mắt cho 2 lò cao hiện nay và lo cao 500m3

sau này. Dự kiến năm 2010 đạt 30 vạn tấn quặng tinh, năm 2015 đạt 50 vạn tấn

quặng tinh và năm 2020 đạt 80 vạn tấn quặng tinh.

Quặng kẽm chì, được khai thác ở Cúc Đường, Phú Đô - Tèn, Cúc Đường,

Khôi Kỳ. Hiện nay mới khai thác được khoảng 20 - 25 ngàn tấn quặng nguyên khai

hàm lượng, có hàm lượng chì kẽm có trong quặng là 8 - 10%. Dự kiến năm 2005 là

20 ngàn tấn, năm 2010 là 40 ngàn tấn, năm 2015 là 80 ngàn tấn, năm 2020 là 130

ngàn tấn.

Quặng thiếc, vonfram, quặng thiếc có nhiều ở Núi Pháo, Phục Linh, La Hiên.

Năm 2010 lượng quặng thiếc nguyên khai 1% Sn sẽ phải khai thác là 104 ngàn tấn

đủ để luyện 800 tấn thiếc xuất khẩu; năm 2015 là 130 ngàn tấn để luyện 1000 tấn

thiếc; năm 2020 lượng quặng khai thác là 180 ngàn tấn quặng để luyện 1400 tấn

thiếc. Khai thác quặng vonfram do công ty liên doanh Núi Pháo (hai đối tác Việt

Nam và Tiberon Minerals Ltd) khai thác với công suất 3,5 triệu tấn quặng đa

kim/năm.

Khai thác đá các loại, đá được khai thác ở Núi Voi, đá xi măng La Hiên, Con Hổ, Đồng Cũ, Quang Sơn, Núi Hột. Sản lượng hiện nay đạt gần 1 triệu m3. Dự kiến đến năm 2007 đạt 1,0 triệu m3, 2010 đạt 1,2 triệu m3 và 2015 đạt 1,5 triệu m3, năm 2020 đạt 2 triệu m3.

Các khoáng sản khác, khai thác sét ở Cúc Đường, Khe Mo dùng cho xi măng

và sản xuất gạch, ngói nung. Khai khác cát, sỏi chủ yếu do địa phương và ngoài quốc doanh có mức dự kiến năm 2010 là 800 ngàn m3, năm 2015 triệu m3 và năm 2020 khoảng 2 triệu m3.

 Định hướng phát triển công nghiệp hoá chất

- Tập trung đầu tư chiều sâu, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm,

mở rộng thị trường trong và ngoài nước, khai thác tối đa công suất của các cơ sở

hiện có; triển khai đầu tư nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, thu hút

các dự án đầu tư vào lĩnh vực hoá được, đặc biệt là sản xuất các loại thuốc chữa

bệnh cả tây dược và đông dược.

- Liên kết, hiệp tác và tái cơ cấu các cơ sở hiện có theo chiều dọc nhằm tăng

thêm nguồn lực: tài chính, nhân lực, kinh nghiệm, góp phần nâng cao năng lực sản

xuất, cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu nội tại và sức cạnh

tranh của sản phẩm trên thị trường.

- Đầu tư mới sản xuất phân bón, các chế phẩm sinh học phục vụ nông,

lâm nghiệp.

- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp bao bì nhựa.

- Tiếp tục phát triển vật liệu nổ công nghiệp, phải tuân thủ theo quyết định

số: 64/2002/QĐ - TTg ngày 23/5/2005 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy

hoạch phát triển ngành vật liệu nổ công nghiệp Việt Nam đến năm 2010.

 Định hướng phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng

- Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh trong những năm tới, khoảng 17 -

18% giai đoạn 2006 - 2010 và 16 - 17%/ năm giai đoạn 2011 - 2020 tương ứng với

mức tăng trưởng trên, sẽ có giá trị sản xuất là 1056 tỷ đồng năm 2010 và 2300 tỷ

đồng năm 2015 và khoảng 4000 tỷ đồng năm 2020.

- Sử dụng công nghệ tiên tiến cho sản xuất các sản phẩm có lợi thế, như sản

xuất xi măng theo công nghệ tiên tiến lò quay; sản xuất gạch nung theo công nghệ

lò tuynel; sản xuất tấm lợp fibroximang không dùng amiăng, tấm lợp kim loại…

Công nghệ và thiết bị dùng trong sản xuất vật liệu xây dựng phải tiên tiến, tránh

các thiết bị đã qua sử dụng và cần có chính sách hợp lý để thu hút vốn đầu tư trong

và ngoài nước vào các sản phẩm có vốn đầu tư lớn.

- Đầu tư phát triển các sản phẩm mới như: đã ốp lát cao cấp, cấu kiện bê tông

đúc sẵn, vật liệu chịu lửa… tiếp tục khuyến khích đầu tư mới vào một số công trình

có giá trị sản xuất công nghiệp cao vào các ngành như sản xuất xi măng, tấm lợp,

đá ốp lát, sứ cao cấp, gạch ngói nung, gỗ xây dựng. Coi trọng phát triển một số sản

phẩm chủ yếu sau:

Xi măng, phát triển ngành xi măng phù hợp quy hoạch phát triển xi măng Việt

Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính Phủ

phê duyệt tại Quyết định số 164/2002/QĐ - TTg ngày 18/11/2002. Sử dụng có hiệu

quả 4 nhà máy xi măng hiện có và nhà máy xi măng 1,5 triệu tấn sắp khánh thành

tại xã Quang Sơn huyện Đồng Hỷ (vốn đầu tư là 2.825 tỷ đồng). Nâng sản lượng xi

măng từ 453,7 ngàn tấn/ năm 2004 lên trên 1,8 triệu tấn/ năm 2010 và 2,6 - 2,7

triệu tấn/ năm 2020.

Đá ốp lát, tăng nhanh sản xuất đá ốp lát, từ hơn 10 triệu m2 hiện nay lên 25

triệu m2 năm 2010 và 50 - 60 triệu m2 năm 2020.

Đá vôi cho xi măng, sét cho xi măng, khai thác đồng bộ với quy mô sản xuất xi

măng, với tốc độ phát triển của xi măng như trên, dự kiến sản lượng đá vôi và sét xi

măng năm 2010 là 0,95 - 1 triệu tấn và năm 2020 là 2 - 3 triệu tấn.

Cao lanh, khai thác cao lanh cho sản xuất sứ cao cấp với sản lượng khoảng 20

- 25 ngàn tấn năm 2010 và 50 - 60 ngàn tấn năm 2020.

Bê tông đúc sẵn, phát triển với quy mô phù hợp với nhu cầu xây dựng của

tỉnh. Khai thác có hiệu quả xí nghiệp bê tông đúc sẵn khánh thành năm 2005, vốn đầu tư 100 tỷ đồng, sản lượng bê tông đúc sẵn đạt khoảng 40 nghìn m3 năm 2010 và 80 - 100m3 năm 2020.

Gạch tuynel, xây dựng thêm xí nghiệp gạch tuynel thay thế dần cho gạch

nung thủ công, ổn định sản lượng khoảng 195 triệu viên năm 2010 và 215 triệu

viên năm 2020.

 Định hướng phát triển ngành dệt may, da giầy.

- Đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh khoảng trên 15%/năm trong giai đoạn

2006 - 2010 và gần 16%/năm giai đoạn 2011 - 2020. Tương ứng với mức tăng

trưởng trên sẽ có giá trị sản xuất đạt 213 tỷ đồng năm 2010 và khoảng 440 tỷ đồng

năm 2015 và khoảng trên 600 tỷ đồng năm 2020.

- Hướng phát triển của công nghiệp dệt may là: (i) Nâng cao năng lực sản

xuất của các cơ sở may công nghiệp hiện có; cải tiến, đầu tư mới trang thiết bị tiên

tiến để sản xuất các sản phẩm có chất lượng, nhằm giảm dần và hướng tới thay thế

việc thực hiện các hợp đồng gia công bằng xuất khẩu trực tiếp; (ii) Chú trọng đầu

tư mới các nhà máy sợi, dệt, nhuộm hoàn tất; (iii) tập trung sản xuất các sản phẩm

dệt may hiện có thị trường ổn định; chú trọng phát triển thị trường vùng (các tỉnh

lân cận) và thị trường tại chỗ: (iv) đầu tư và đào tạo nâng cao tay nghề công nhân;

xây dựng một số trung tâm nhỏ chuyên đào tạo và phát triển thiết kế mẫu mốt thời

trang.

- Công nghiệp da giầy là: phát triển sản xuất các loại giầy cho xuất khẩu và

các loại giầy vải, giầy dép da, giả da cho nhu cầu nội địa; đánh giá lại hiệu quả hoạt

động của các cơ sở hiện có, qua đó hướng đầu tư cho phát triển các cơ sở sản xuất

hiệu quả và giải thể các cơ sở hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng nguy hại đến

môi trường sống của dân cư.

 Định hướng phát triển của nhóm ngành công nghiệp chế biến

- Đảm bảo tốc độ tăng trưởng GTSX nhanh, khoảng trên 16,5%/năm trong

giai đoạn 2006 - 2010 và khoảng 22%/năm giai đoạn 2011 - 2020. Tương ứng với

mức tăng trưởng trên sẽ có giá trị sản xuất đạt 696 tỷ đồng năm 2010 và khoảng

1880 tỷ đồng năm 2015 và khoảng trên 5000 tỷ đồng năm 2020.

- Phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao, quy mô lớn (phát

triển các vùng chè, cây ăn trái theo hướng chuyên canh, năng suất cao, có khối

lượng hàng hoá lớn; phát triển chăn nuôi, cải thiện chất lượng thịt và trọng lượng

xuất chuồng; khai thác hiệu quả, bền vững rừng nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến gỗ, ván dăm và giấy).

- Đầu tư thay thế dần các thiết bị, công nghệ trong các cơ sở đã có, không

ngừng đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hạ giá thành

sản phẩm.

- Xây dựng các cơ sở chế biến tập trung mới cân đối với quy mô nguyên liệu

tại các khu công nghiệp.

- Giảm dần các sản phẩm chế biến, phát triển chế biến sâu, chế biến các sản

phẩm tiêu dùng cuối cùng nhằm tăng giá trị của sản phẩm. Tận dụng các phụ phẩm,

phế liệu làm thêm sảm phẩm mới tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Tăng nhanh các sản phẩm chủ lực như bia, giấy, rau quả chế biến, chè chế

biến, thịt hộp, nhằm khai thác và pháy huy nguồn tài nguyên mà Thái Nguyên có

thế mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh các hàng hóa này trên thị trường trong

nước và xuất khẩu trong thời gian tới. Dự kiến quy mô một số sản phẩm chính của

công nghiệp chế biến nông - lâm sản - thực phẩm như sau. (Xem bảng 3.5 )

Bảng 3.4: Một số sản phẩm chính của nhóm ngành công nghiệp chế biến

nông - lâm sản - thực phẩm đến 2010, 2015 và 2020

Sản phẩm

Đơn vị

tính

2010

2015

2020

Bia các loại 7.000 40.000 70.000

Nước khoáng 103 lít 103 lít 4.000 8.0000 15.000

Rau quả chế biến 7.500 17.000 25.000

Sữa Tấn 103 lít 30.000 80.000 120.000

Giấy các loại Tấn 13.000 20.000 30.000

Thịt lợn và lợn sữa 1.800 4.000 7.000

Thịt gà chế biến Tấn 103 con 4.000 10.000 16.000

Thịt hộp Tấn 1.500 5.000 10.000

Thức ăn gia súc Tấn' 40.000 200.000 500.000

Chề chế biến Tấn 10.000 15.000 20.000

Dăm bột giấy 15.000 60.000 1000.000

Ván dăm các loại Tấn M3 16.500 20.000 25.000

Đỗ gỗ nội thất

Gỗ xẻ các loại Sản phẩm 200.000 200.000 250.000 103 m3 20 22 15

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tinh Thái Nguyên

đến năm 2020. [60, tr 68]

Thứ hai: Định hướng xây dựng và phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp

 Hướng phát triển các KCN tập trung của Thái Nguyên.

- Dành một quỹ đất hợp lý cho phát triển KCN, đảm bảo tổng quỹ đất cho

phát triển công nghiệp khoảng 5.320 ha (hiện có 1320ha, giai đoạn 2006 - 2010

tăng thêm khoảng 1500ha, giai đoạn sau 2010 tăng thêm 2500 ha). Cần quy hoạch

các vùng đệm (vẫn dùng cho canh tác nông nghiệp nhưng khi có nhu cầu sẵn sàng

thu hồi để mở rộng cỡ quốc gia để thu hút, lôi kéo các Công ty và tập đoàn công

nghiệp xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng nhằm tạo ra

và nâng cao vị thế cho tỉnh.

- Đối với các KCN đã hình thành như KCN luyện kim Lưu Xá - Thái

Nguyên và KCN Sông Công - Phổ Yên (bao gồm 2 KCN thành phần là KCN

Sông Công I và KCN Sông Công II): Tiếp tục mở rộng diện tích; đầu tư hoàn

chỉnh kết cấu hạ tầng trong hàng rào, đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật ngoài

hàng rào; tăng tỷ lệ lấp đầy; nâng cao hiệu quả KCN; kiện toàn lại quy chế

quản lý các KCN.

- Khu công nghiệp luyện kim Lưu Xá - Thái Nguyên: ổn định diện tích

khoảng 520 ha; tăng dần tỷ lệ lấp đầy, đảm bảo hoàn thành lấp đầy vào cuối năm

2007, sử dụng hiệu quả hạ tầng kỹ thuật đã có (cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải,

mạng thông tin liên lạc…). Hướng ưu tiên đầu vào KCN này là các ngành luyện

kim đen như sản xuất thép, quặng sắt, luyện gang, Fero, Kok, gạch smốt.. các

ngành luyện kim màu như tinh quặng thiếc, chì, kẽm, bột xít kẽm… và một số

ngành sản xuất liên quan đến công nghiệp luyện kim.

- Khu công nghiệp Sông Công: Là kết quả của đầu tư phát triển trong thời kỳ

kế hoạch hoá tập trung, được xây dựng và phát triển với ý đồ chuyên môn hoá cao

về sản xuất cơ khí song lại khá cô lập xét về cả vị trí và các yếu tố kinh tế kỹ thuật

đảm bảo cho phát triển. Đây là lý do cơ bản dẫn đến sự kém phát triển của khu

công nghiệp này, mặc dù có các cơ sở công nghiệp cơ khí ở đây có trình độ kỹ

thuật công nghiệp tương đối khá. Trong những năm tới, cần phải giải quyết những

vấn đề cơ bản sau: (i) Đầu tư đồng bộ hạn tầng trong hàng rào, nâng cấp hệ thống

giao thông, thông tin liên lạc nối KCN với bên ngoài; (ii) phát triển nhanh thị xã

Sông Công nhằm đảm bảo hạ tầng xã hội, tăng khả năng thu hút lao động kỹ thuật

cho khu công nghiệp; (iii) phát triển các ngành nghề khác và các hoạt động dịch vụ

ở khu vực xung quanh tạo tiền đề kinh tế xã hội cho khu công nghiệp phát triển;

(iv) đảm bảo tỷ lệ lấp đầy vào năm 2008.

Khu công nghiệp Sông Công có tổng diện tích quy hoạch là 320ha, trong đó:

+ KCN Sông Công I (giai đoạn I): diện tích 70ha

+ KCN Sông Công II (giai đoạn II): diện tích 100 ha, hướng phát triển chính

trong khu công nghiệp là các ngành diezel, y cụ, phụ tùng, chế biến nông sản thực

phẩm, vật liệu xây dựng, may mặc điện tử…

- Giai đoạn đến 2010, tiếp tục hoàn thiện các KCN đã có; tập trung đầu tư

xây dựng đồng bộ các KCN La Hiên và KCN Lương Sơn. Trong giai đoạn này, do

quy mô các ngành nông thôn chưa lớn nên hạn chế hình thành các điểm công

nghiệp tập trung.

+ KCN La Hiên: Diện tích 200 ha, sát quốc lộ 1B, tại vùng đất giáp ranh 2

huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai. Các ngành ưu tiên đầu tư vào KCN này là: Công

nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng với nòng cốt là nhà máy xi măng Thái Nguyên

công suất 1,5 triệu tấn/năm và nhà máy xi măng La Hiên công suất 500.000

tấn/năm (giai đoạn 1 là: 250.000 tấn/năm); công nghiệp cơ khí; các ngành công

nghiệp phụ trợ; công nghiệp chế biến nông lâm sản, đồ uống, sản xuất vỏ bao xi

măng; chế biến khoáng sản… Đây cũng là KCN tiếp nhận các cơ sở sản xuất

chuyển ra khỏi đô thị và khu dân cư tập trung.

+ KCN Lương Sơn: Diện tích 150 ha (có thể mở rộng lên 300 ha), ở phía

nam thành phố Thái Nguyên, đối diện khu công nghiệp Sông Công, kề ga Lương

Sơn, sát QL3 và đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên. Các ngành nghề và dự án

đầu tư vào khu công nghiệp này gồm: Luyện kim đen; luyện kim màu; sản xuất

thép tấm; lá, thép hình cỡ lớn, sản xuất thép hợp kim, đúc rèn dập, kết cấu thép, cấu

kiện betong cỡ lớn, sản xuất thiết bị đồng bộ, sản xuất phụ tùng và lắp ráp ô tô,

máy nông nghiệp.

- Giai đoạn 2011 - 2020, tiếp tục nâng cấp chất lượng các KCN đã có; tập

trung xây dựng đồng bộ các KCN Nam Phổ Yên, KCN Bãi Bông, KCN Tây thành

phố Thái Nguyên. Trong giai đoạn này, hình thành một số KCN nhỏ tại các huyện,

thị trấn thu hút các ngành nghề nông thôn, tiểu thủ công nghiệp.

+ KCN Nam Phổ Yên: Diện tích 200 ha, trên trục QL3 và cao tốc Hà Nội -

Thái Nguyên. Hướng phát triển chính là phục vụ cho thị trường Thủ đô Hà Nội với

các ngành và dự án đầu tư là: Chế biến thực phẩm đồ uống (nòng cốt là nhà máy sữa

Vĩnh Phúc); giết mổ gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn nhanh; chế biến rau, củ; hoá

dược; dụng cụ y tế; dụng cụ thú y; mộc gia dụng; dệt may, da giầy, thủ công mỹ nghệ;

gốm sư, thuỷ tinh; chiết nạp gas; cấu kiện betong.

+ KCN Bãi Bông: Diện tích 200 ha. Gần đường sắt, QL3 và đường cao tốc

Hà Nội - Thái Nguyên. Tại đây đã có sẵn công ty cổ phần cơ khí Phổ Yên và nhà

máy giấy Trường Xuân; Công ty hoá chất và vật liệu nổ công nghiệp Z131. Các

ngành và dự án đầu tư vào khu công nghiệp này là: Sản xuất thiết bị, phụ tùng cơ

khí, sản xuất công cụ, dụng cụ, lắp ráp máy kéo, máy nông nghiệp, sản xuất giấy,

sản xuất bao bìl dệt may; da giầy, nhựa tấp lợp kim loại; chế biến thực phẩm sạch;

sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp không ô

nhiễm, xốp nhẹ chống cháy.

+ KCN Tây thành phố Thái Nguyên: là KCN sạch và công nghệ cao. Diện

tích 200 ha, nằm trên trục đường Quang Trung nối dài. Các ngành nghề và dự án

đầu tư vào đây là: Chế tạo thiết bị điện, điện tử, điện lạnh, sản xuất dược phẩm;

công viên phần mềm; in, thiết bị tự động hoá rôbốt; dệt may; da giầy; sản xuất chè

sạch cao cấp; dụng cụ quang học; thiết bị phân tích, kiểm tra đo lường; chế tác đá

quý; mỹ nghệ cao cấp.

 Hình thành khoảng 20 cụm, điểm công nghiệp.

Song song với các KCN tập trung với quy mô lớn, sẽ hình thành và phát triển

các cụm điển công nghiệp với quy mô nhỏ dưới 50 ha, kề với các thị trấn, thị tứ ở

các huyện để thu hút các dự án công nghiệp phục vụ nông nghiệp; thủ công nghiệp

có hàm lượng lao động cao và tạo điều kiện cho các ngành nghề truyền thống phát

triển phù hợp với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Thái Nguyên. Cụ thể:

- Thành phố Thái Nguyên, hình thành 2 cụm công nghiệp nhỏ với tổng

diện tích 34,5 ha, thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, dệt may, kết cấu thép,

luyện kim, sản xuất thép tấm lá và thép hợp kim.

- Thị xã Sông Công, hình thành cụm công nghiệp nhỏ Khuynh Thạch, diện tích 20 ha, thu hút các cơ sở luyện kim, đúc, cán thép, rèn dập.

- Huyện Đồng Hỷ: Hình thành 1 cụm công nghiệp nhỏ Cao Ngạn với diện

tich 25 ha, thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, luyện kim, điện lạnh sinh hoạt, chế biến - nông lâm sản, sản xuất VLXD.

- Huyện Võ Nhai: Hình thành 2 cụm CN nhỏ Đình Cả (diện tích 02 ha,

thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, chế biến nông lâm sản) và KCN nhỏ Trúc Mai (diện tích 15,5 ha, thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, sản xuất VLXD, kết cấu thép).

- Huyện Phú Lương, hình thành 3 cụm CN nhỏ là: Sơn Càm (diện tích 20

ha, thu hút các cơ sở thực phẩm, đồ uống, đúc, luyện kim, thiết bị nước, hoá dược); Phấn Mễ (diệnt ích 12 ha, thu hút cơ khí sửa chữa thiết bị máy mỏ, thiết bị chế biến khoáng sản, rèn dập); Động Đạt - Du (diện tích 26,9ha, thu hút các cơ sở khai thác, chế biến khoáng sản, thiết bị tuyển khoáng, chế tác đá mỹ nghệ).

- Huyện Định Hoá, hình thành 4 cụm công nghiệp nhỏ Trung Hội (diện

tích 5 ha, thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, chế tác đá mỹ nghệ, chế biến nông - lâm sản, kết cấu thép); Kim Sơn (diện tích 7ha, thu hút các cơ sở sản xuất VLXD, khai thác khoáng sản, mộc gia dụng); Tân Thịnh (diện tích 5 ha, thu hút các cơ sở sản xuất giấy, bột giấy, đũa, VLXD); Bảo Cường (diện tích 2ha, thu hút các cơ sở chế biến nông lâm sản).

- Huyện Phú Bình, hìnht hành 3 cụm công nghiệp nhỏ là Kha Sơn (diện tích 9 ha, thu hút các cơ sở chế biến thực phẩm, đồ uống); úc Sơn (diện tích 11ha, thu hút các cơ sở thực phẩm, dệt may da giầy, chế tác đồ trang sức); Điềm Thuỵ (diện tích 6 ha, thu hút sản xuất VLXD, kết cấu thép, kết cấu bê tông, thiết bị điện, điện tử).

- Huyện Phổ Yên, Hình thành 5 cụm công nghiệp nhỏ là: Tân Hương (diện tích 12 ha, thu hút các cơ sở sản xuất VLXD, thiết bị điện, điện tử); Đồng Tiến (diện tích 46,7 ha, thu hút các cơ sở hoá dược, sản xuất dụng cụ, công cụ, kết cấu thép); Bắc Sơn (diện tích 6,6ha, thu hút các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ, chế biến nông lâm - sản); Tân Trung - Thống Thượng (diện tích 48 ha, thu hút các cơ sở điện lạnh sinh hoạt); Vân Thượng (diện tích 47 ha, thu hút các cơ sở kết cấu thép, bê tông đúc sẵn).

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI NGUYÊN. 3.2.1. Nhóm giải pháp về huy động và sử dụng vốn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Vốn, một trong các tiền đề quan trọng của CNH, HĐH nói chung và CDCCKTNCN nói riêng. Tốc độ CDCCKTNCN nhanh hay chậm, chất lượng cao hay thấp trên mức độ lớn phụ thuộc vào quy mô và việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho CDCCKTNCN qua từng thời kỳ. Theo quy hoạch và kế hoạch, nhu cầu vốn đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 2006-2010 là: 19.093 tỷ đồng và sẽ lớn hơn nhiều ở những năm tiếp theo. (Xem bảng 3.5).

Bảng 3.5: Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp thời kỳ 2006-2010 của Thái Nguyên.

Đơn vị tính:triệu đồng

Hạng mục Nhu cầu vốn TT

Sản xuất công nghiệp 15.000 A

Công nghiệp luyện kim 5.618 1

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng 4.140 2

Công nghiệp KT&CB khoáng sản 2.502 3

Công nghiệp cơ khí 1.320 4

CN Chế biến NLS, thực phẩm 1.005 5

Công nghiệp dệt, may, da giầy 105 6

Công nghiệp hoá chất 310 7

Hạ tầng cơ sở các KCN (dự kiến) 1.000 B

Điện, nước, ga và sản xuất khác trong đó 3.093 C vốn đầu tư ngành điện 1.267

Tổng vốn đầu tư (A+B+C) 19.093

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tê-xã hội của Thái Nguyên đến

năm 2020

Để đảm bảo vốn đầu tư cho CDCCKTNCN ở Thái Nguyên, trong thời gian

tới Thái Nguyên cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Tỉnh cần chủ động vận dụng một cách sáng tạo chính sách nền kinh

tế nhiều thành phần theo hướng kích thích các doanh nghiệp và dân cư trong tỉnh

vì lợi nhà và ích nước hăng hái đầu tư vốn và kinh nghiệm vào sản xuất kinh doanh

trong các ngành kinh tế nói chung nhát là ngành công nghiệp, bằng cách:

- Thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu; khuyến khích phát triển kinh

tế tư nhân trong tỉnh theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh”.

- Cần áp dụng nhiều hình thức huy động vốn trong dân và các tổ chức kinh

tế như: Quỹ tiết kiệm, phát hành tín phiếu, cổ phiếu, trái phiếu, đối với các doanh

nghiệp có đủ điều kiện.

- Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước Trung ương làm ăn có

hiệu quả, các doanh nghiệp kém hiệu quả mạnh dạn bán, nhượng, cho thuê, hoặc

giải thể để thu hồi vốn đầu tư vào mục đích khác có lợi hơn.

- Chủ động áp dụng hình thức tạo vốn đầu tư, bằng cách thuê mướn tài chính

thông qua các công ty tài chính.

Thứ hai: Thực hiện đề án “Cải thiện môi trường đầu tư”, vận dụng các chính

sách đã có vào điều kiện của một tỉnh đang khó khăn về vốn và kết cấu hạ tầng, đưa

ra chiến lược xúc tiến đầu tư, đưa ra một số quy định mới, thông thoáng, ưu đãi để

thu hút nguồn vốn từ các địa phương ngoài tỉnh và các chủ đầu tư nước ngoài đầu

tư cho sản xuất kinh doanh, nhất là đầu tư phát triển các nhóm ngành công nghiệp

mà Thái Nguyên có lợi thế. Cụ thể:

- Nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề cải thiện môi trường đầu tư;

Bổ sung, sửa đổi hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư linh hoạt, nhưng không vi phạm

nguyên tắc chung thống nhất của trung ương;

- Xây dựng quy chế quản lý đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh theo

quy định của Luật xây dựng. Tăng cường năng lực cán bộ thực hiện và quản lý dự

án đầu tư xây dựng công trình tại các cấp, các ngành, các doanh nghiệp. Nâng cao

năng lực thẩm định, kiểm tra, giám sát chất lượng công trình;

- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; đẩy mạnh hoạt động khuyến công

và tư vấn phát triển công nghiệp, tư vấn và xúc tiến đầu tư. Hàng năm bố trí một

phần ngân sách địa phương để bảo đảm đủ nguồn kinh phí khuyến công địa phương

theo quy định của Chính phủ và của tỉnh.

- Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh mối quan hệ hợp

tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế, liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế, liên kết theo vùng, lãnh thổ để đa dạng hóa nguồn vốn đáp ứng

cho phát triển và CDCCKTNCN.

Thứ ba: Tỉnh cần tạo điều kiện thuận lới cho các doanh nghiệp trong tỉnh và

ngoài tỉnh, ngoài nước tiếp xúc các nguồn vốn tín dụng trong nước và tín dụng

quốc tế. Cụ thể:

- Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư và quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp

nhỏ và vừa của tỉnh (khi có đủ điều kiện); nâng mức tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển

trong cơ cấu chi ngân sách Nhà nước lên trên 40%. Trong đó dành phần lớn chi cho

phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng công nghiệp.

- Tạo vốn thông qua tín dụng thương mại nhằm tạo sức hút đầu tư cho các

thành phần kinh tế. Ngân hàng cần cải tiến thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp trong việc vay vốn như: Nới rộng điều kiện thế chấp (có thể chế chấp

bằng tài sản và đất đai doanh nghiệp với tỷ lệ hợp lý), góp vốn cổ phần đầu tư vào

doanh nghiệp, áp dụng mức lãi suất ưu đãi cho những khoản vay dài hạn để đầu tư

phát triển công nghiệp.

Thư tư: Tạo vốn đã khó, việc phân phối và sử dụng vốn một các hợp lý và

có hiệu quả càng khó khăn hơn nhiều. Vì vậy trong thời gian tới cần:

- Tránh đầu tư dàn trải, lãng phí và hiệu quả thấp.

- Sử dụng có hiệu quả quỹ vốn từ đất để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng

trong các khu, cụm công nghiệp. Tránh tình trạng thất thoát lãng phí, tham ô và

tham nhũng vốn của ngân sách nhà nước dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào.

- Vốn khuyến công mặc dù là một giải pháp quan trọng để phát triển công

nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, song cần được bố trí đủ mức

cần thiết, đảm bảo cho việc đầu tư nhanh chóng và phát huy hiệu quả, tránh các

hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra.

- Đối với dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu vay vốn

của các tổ chức tín dụng thì được quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

hoặc được bảo lãnh tín dụng đầu tư theo quy định tại Nghị định số 106/2004/NĐ-

CP ngày 01/04/2004 của Chính phủ.

3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ, nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp và bảo vệ môi trường.

Đảng ta đã xác định một trong những động lực phát triển của CNH, HĐH nói

chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp nói riêng, là sự tiến bộ

khoa học công nghệ đó là một mặt. Mặt khác, Đảng ta cũng khẳng định rằng sự

nghiệp CNH, HĐH và CDCCKTNCN mà sự biến đổi và phát triển của nó nhanh

hay chậm với chất lượng cao hay thấp gắn với nhân tố con người - gắn với chất

lượng nguồn nhân lực - gắn với giáo dục và đào tạo. Chính vì vậy mà Đảng ta coi

sự kết hợp giữa tiến bộ khoa học công nghệ với giáo dục - đào tạo là “Quốc sách

hàng đầu”, nhất là khi CNH, HĐH nước ta phát triển gắn liền với kinh tế tri thức.

Nhóm giải pháp này đặc biệt rất quan trọng đối vói Thái Nguyên, một tỉnh về tiềm

lực khoa học - công nghệ, trình độ dân trí và chất lượng nguồn lao động của tỉnh

còn rất thấp đã và đang là khó khăn lớn cản trở tốc độ và chất lượng của việc

CDCCKTNCN ở Thái Nguyên hiện nay.

Trong thời gian tới cần tập trung sực làm tốt một số vấn đề như:

Một là, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư

cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh

doanh. “ Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ

thuộc nhiều loại hình sở hữu sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [64;trg82]

Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh. Đẩy

mạnh hoạt động của trung tâm thông tin tư vấn và chuyển giao công nghệ Thái

Nguyên thông qua cơ chế thị trường và theo Luật sở hữu trí tuệ, Luật chuyển giao

công nghệ. Tiếp tục thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng hệ

thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 9001 – 2000.

Hai là, thực hiện đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Thái Nguyên

giai đoạnn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo. Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng

và sản xuất các loại vật liệu mới. Ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao như

công nghệ phần mềm công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự

động hóa, công nghệ viễn thông. Xây dựng Thái Nguyên trở thành một trung tâm

phát triển về công nghệ thông tin của vùng miền núi phía Bắc. Ứng dụng rộng rãi

và có hiệu quả công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh.

Trong đó, ưu tiên hoàn chỉnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà

nước từ cấp tỉnh đến cấp xã/phường. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để nâng

cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nâng cao năng lực cạnh tranh. Có chích sách

thuế hợp lý để hỗ trợ cho các doanh nghiệp dịch vụ khoa học công nghệ và cho các

doanh nghiệp mạnh dạng ứng dụng công nghệ mới trong một số năm đầu.

Ba là, có chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các trí thức, chuyên gia giỏi,

thợ lành nghề đến làm việc tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,

khuyến khích kiều bào Việt Nam chuyển giao và phát triển công nghệ về tỉnh. Tăng

cường mối liên kết với các nhà khoa học trên địa bàn, trong các trường đại học

tham gia giải quyết các vấn đề về khoa học công nghệ của địa phương. Tổ chức đấu

thầu các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ trên địa bàn và chuyển giao thanh

tựu nghiên cứu theo Luật chuyển giao công nghệ thông qua thị trường khoa học và

công nghệ, hạn chế dần bao cấp nhà nước (trừ nghiên cứu đề tài về đường lối chính

trị, xã hội, an ninh, quốc phòng).

Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nói chung,

nhất là nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp. Cụ thể:

- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động,

trong ngành công nghiệp trên các lĩnh vực hoạt động điện lực và sử dụng điện; khai

thác khoáng sản và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; kỹ thuật an toàn trong sản xuất

công nghiệp. Đồng thời thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động,

đảm bảo tiền lương thực sự là đòn bẩy kích thích người lao động làm việc có năng

suất cao.

- Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ quản lý doanh nghiệp nhằm

tạo đội ngũ giám đốc có tài, đức, có năng lực nắm bắt thị trường trong nước và thế

giới, nắm được xu hướng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đủ trình độ

quản lý điều hành doanh nghiệp ngang tầm khu vực, đứng vững và chiến thắng

trong môi trường canh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước và thế giới. Thực

hiện đúng đắn nghĩa vụ và quyền lợi, có chế độ thưởng và tôn vinh giám đốc có

tài, đức làm lợi cho doanh nghiệp và xã hội; đồng thời cần có chế tài để xử lý

nghiêm minh đối với giám đốc thiếu trách nhiệm làm thất thoát, lãng phí và tham ô

tài sản của doanh nghiệp và của Nhà nước, trong tất cả các thành phần kinh tế.

- Nhanh chóng hình thành thị trường sức lao động, coi trọng tuyển chọn và

sử dụng nguồn lao động đã qua đào tạo, nguồn lao động có trình độ cao. Thành lập

các trung tâm dạy nghề ở các huyện còn thiếu. Khuyến khích các doanh nghiệp tự

đào tạo lao động hoặc thông qua các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thị xã đào tạo

theo cơ chế xã hội hóa đào tạo trong đó được ngân sách hỗ trợ một lần theo chính

sách hiện hành của tỉnh.

Năm là, thực hiện Luật bảo vệ môi trường và Nghị định số của Chính phủ

hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường; Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày

24/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài nguyên

- Môi trường, về việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng. Đẩy mạnh công tác tuyền truyền, giáo dục các ngành, các cấp và toàn xã hội

nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực quản

lý môi trường và xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Tích cực khắc phục,

phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường sinh thái, mà Thái Nguyên hiện nay là

nơi đang chịu ảnh hưởng nặng nề.

3.2.3. Nhóm giải pháp phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp.

Để thực hiên tốt định hướng phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp theo

đjnh hướng như đã trình bày ở tiết 3.1, trong thòi gian tới cần tập trung thực hiện

một số vấn đề sau:

- Tạo môi trường đầu tư thuận lợi và có chính sách khuyến khích ưu đãi đầu

tư vào các khu, cụm, điểm công nghiệp theo Luật đầu tư, Nghị định của chính phủ

và các Quy định của UBND tỉnh.

- Hỗ trợ lãi suất tiền vay cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công

nghiệp của tỉnh. Khuyến khích các doanh nghiệp làm chủ đầu tư, xây dựng kết cấu

hạ tầng các cụm công nghiệp trong tỉnh.

- Huy động vốn ứng trước của nhà đầu tư, sử dụng nguồn thu ngân sách từ

đất để đầu tư kết cấu hạ tầng khu, cụm, điểm công nghiệp mà trước tiên là đầu tư

cho điện, nước và giao thông, xử lý môi trường.

- Lập kế hoạch đầu tư và tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật

và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn

hỗ trợ của Chính phủ để xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp theo quyết định

số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ.

- Đối với nhà đầu tư, đầu tư vào các cụm công nghiệp trong tỉnh theo quy

hoạch tùy điều kiện của từng khu, cụm điểm công nghiệp được xem xét hỗ trợ một

phần kinh phí giải phóng mặt bằng và xây dựng đường trục chính trong cụm công

nghiệp.

- Hàng năm dành ưu tiên số vượt thu của ngân sách cho xây dựng cơ bản để

chi hỗ trợ phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp.

- Thực hiện nghị quyết số 09/2006/NĐ-HĐND ngày 07/01/2006 của Hội

đồng nhân dân Thái Nguyên về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010

và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010).

- Các chính sách ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật đất đai, Luật đầu tư và

các Nghị định của Chính phủ, các Quyết định mới của UBND tỉnh. Cụ thể:

+ Thời hạn sử dụng đất của một dự án đầu tư không quá 50 năm, đối với dự

án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều

kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm.

Nhà đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư được miễn giảm tiền

thuế đất, tiền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai và Luật thuế.

+ Đối với trường hợp nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật về

đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thu hồi đất, bồi thường,

giải phóng mặt bằng trước khi giao đất hoặc cho nhà đầu tư thuê đất.

+ Đẩy mạnh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư cho các dự

án đầu tư. Giải quyết kịp thời và dứt điểm các khiếu nại, tố cáo các khó khăn,

vướng mắc của nhà đầu tư.

3.2.4 . Nhóm giải pháp nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của

Nhà nước địa phương – Thái Nguyên.

Sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và CDCCKTNCN nói riêng mà sự thành

công của nó ngoài các nhóm giải pháp như: vốn, khoa học - công nghệ, xây dựng

và phát triển nguồn nhân lực được thực hiện qua giáo dục đào tạo đã được phân

tích, một vấn đề không kém phần quan trọng, nếu không muốn nói là có ý nghĩa

quyết định đó là vấn đề là nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà

nước.

Muốn nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, trong

thời gian tới, Thái Nguyên cần tập trung sức thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Gấp rút đổi mới và hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch hóa và

chương trình hóa sự phát triển và CDCCKTNCN trên địa bàn tỉnh. Nâng cao chất

lượng xây dựng quy hoạch, đưa quy hoạch thực sự trở thành một trong những công

cụ quản lý ngành công nghiệp theo hướng tăng tính khoa học (lý luận và thực tiễn);

tính hiện đại, tính hiệu quả và tính khả thi, nhằm đảm bảo cho các khu công nghiệp

lớn tập trung đi nhanh vào giai đoạn 2 - giai đoạn mở rộng và phát triển theo chiều

sâu. Và đưa 20 cụm công nghiệp nhỏ ở các huyện, thị sớm hình thành và từng bước

đi vào hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.

Thứ hai: Tiếp tục rà soát lại các chính sách và chế tài mà tỉnh đẫ có, phát

hiện những chỗ không phù hợp đã và đang kìm hãm sự CDCNKTNCN thời gian

qua, mạnh dạn điều chỉnh, bổ sung, thay đổi kịp thời và phù hợp nhằm tạo môi

trường thuận lợi cho đầu tư phát triển. Trong đó, tập trung vào việc điều chỉnh các

chính sách: Chính sách đất đai, chính sách đầu tư, chính sách khoa học - công nghệ,

chính sách giáo dục đào tạo.

Thứ ba: Tập trung mọi cố gắng vào việc nâng cao năng lực quản lý của hệ

thống tổ chức quản lý nhà nước về công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hoàn thiện cơ cấu

tổ chức và biên chế của hệ thống quản lý nhà nước về công nghiệp từ tỉnh đến

huyện, thành phố, thị xã. Xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức tinh thông

nghiệp vụ, mẫn cán, tận tâm, trách nhiệm với công việc, đồng hành cùng doanh

nghiệp, phục vụ tốt doanh nghiệp. Xử lý nghiêm cán bộ công chức không có năng

lực, trì trệ, đùn đẩy công việc, gây phiền hà khó khăn, sách nhiễu doanh nghiệp.

Thứ tư: Đẩy mạnh thực hiện đề án cải cách hành chính tỉnh Thái Nguyên giai

đoạn 2006 - 2010, theo các nội dung như:

- Thực hiện cơ chế “Một cửa” trong các ngành, các cấp; tăng cường phân cấp

cho ngành, cho địa phương, đề cao vai trò trách nhiệm cá nhân.

- Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh theo nguyên tắc rõ

ràng, minh bạch, thông thoáng để kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu

tư phát triển công nghiệp, nhất là các chủ đầu tư ngoài tỉnh trong nước và các chủ

đầu tư nước ngoài.

- Giải quyết kịp thời theo thẩm quyền các khó khăn, vướng mắc của doanh

nghiệp, của nhà đầu tư.

Thứ năm: Thực hiện tốt chính sách thị trường bằng cách:

- Mở rộng các thị trường đã có, quan tâm phát triển một số thị trường mới

như thị trương tài chính, khoa học công nghệ, lao động, bất động sản hình thành và

phát triển các siêu thị, các trung tâm thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng

cao của nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm xúc tiến công thương mại, du

lịch và đầu tư Thái Nguyên. Tổ chức hội chợ trong tỉnh, trong và ngoài nước nhằm

trưng bày giới thiệu sản phẩm địa phương, cung cấp thông tin và quảng bá. Các

doanh nghiệp tham dự hội chợ triển lãm trong nước để mở rộng thị trường sẽ được

tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí thuê gian hàng triển lãm.

- Tổ chức mạng lưới thông tin và công tác dự báo thị trường, xây dựng và

nâng cao chất lượng trang Website, tổ chức tốt các kênh thông tin điện tử, xây dựng

kho dữ liệu, khai thác thông tin trên mạng, hướng dẫn các thành phần kinh tế nắm

bắt thị trường để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, nói chung và công nghiệp

nói riêng tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Thông qua kênh nhà nước hỗ trợ các doanh

nghiệp nước ngoài tìm hiểu thị trường trong nước và các doanh nghiệp trong nước

tìm kiếm thị trường nước ngoài. Hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn

miền núi, vùng cao, vùng sâu. Mở rộng nhanh các mối liên kết giữa tiêu thụ và sản

xuất, mở rộng quan hệ với các tỉnh miền núi, đồng bằng và thủ đô Hà Nội. Sử dụng

có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu thực hiện tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp

công nghiệp xuất khẩu và xét thưởng thành tích xuất khẩu hàng năm theo quy định

của Chính phủ.

- Xây dựng các chính sách phù hợp cơ chế thị trường để kích thích sản xuất

phát triển gắn với thị trường. Mở rộng quyền tự chủ trong kinh doanh của doanh

nghiệp, đồng thời từng bước loại bỏ kinh doanh độc quyền, thực hiện xã hội hóa

các hoạt động thương mại du lịch.

- Hình thành hệ thống quản lý chất lượng hàng hóa trong toàn tỉnh, nhất là đối

với mặt hàng công nghiệp chế biến có nguồn nguyên liệu từ nông - lâm sản. Xây

dựng mạng lưới đại lý, các nhà phân phối tiêu thụ sản phẩm công nghiệp rộng

khắp, đa dạng loại hình và quy mô, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia.

Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu hàng

hóa mà Thái Nguyên có lợi thế và năng lực cạnh tranh, phù hợp với Luật sở hữu trí

tuệ đã ban hành.

3.2.5. Nhóm giải pháp mang tính kiến nghị

* Đối với Đảng và Nhà nước

Xuất phát tự vị trí và vai trò của Thái Nguyên, một trung tâm kinh tế, văn hoá,

du lịch và là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học- công nghệ của vùng. Do vị

trí địa lý và những yếu tố lịch sử khách quan, trước đây Thái Nguyên đã trở thành

thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc. Từ đó Thái Nguyên trở thành một trung tâm kinh

tế, văn hoá của vùng và trở thành trung tâm giáo dục đào tạo, trung tâm khoa học

lớn của vùng trung du miền núi Bắc bộ. Thái Nguyên còn là một trong những nôi

cách mạng của cả nước, có nhiều dân tộc ít người sinh sống, có nhiều tài nguyên

khoáng sản tầm quốc gia nhưng chưa được khai thác nhiều, trình độ kinh tế, học

vấn còn thấp. Để phát huy vai trò và tiềm năng vốn có của Thái Nguyên trong thời

gian tới, nhất là thời kỳ đầu, chúng tôi xin kiến nghị:

Thứ nhất: Đề nghị Bộ chính trị tiếp tục chỉ đạo và kiểm tra nhiều hơn nữa, cụ

thể hơn nữa việc thực hiện trong thực tế Nghị quyết số 37/NQ-TW của Bộ Chính

trị (ngày 6/7/2004) đã xác định: “Phát triển Thái Nguyên thành một trong những

trung tâm kinh tế của vùng”, một Nghị quyết chuyên đề, mang tính đặc biệt và đặc

thù đối với Thái nguyên, một tỉnh giữ vai trò trung tâm của vùng, nhưng hiện đang

còn nhiều khó khăn bất cập trên nhiều mặt hiện nay.

Thứ hai: Đề nghị Nhà nước mà trực tiếp là Chính phủ tạo môi trường thuận

lợi về chính sách và cơ chế mang tính hiệu quả và hiệu lực hơn để địa phương thực

hiện tốt trong hiện thực Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị. Đề nghị Chính phủ ưu tiên

hỗ trợ các nguồn vốn ODA, nguồn vốn điều tiết từ NSNN Trung Ương và nguồn

vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm xây dựng mới và nâng cấp theo

hướng hiện đại hóa và đồng bộ hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ có hiệu

quả việc thu hút vốn đầu tư của các đối tác trong tỉnh, ngoài tỉnh và vốn FDI của

đối tác có tầm cở nước ngoài, đầu tư vào Thái Nguyên trong thời gian tới, nhất là

đầu tư để nhanh chóng lấp đầy diện tích của 2 khu công nghiệp lớn tập trung giai

đoạn 2- giai đoạn mở rộng và hiện đại.

Thứ ba: Đề nghị các bộ, ngành trung ương, nhất là Bộ Kề hoạch và Đầu tư,

Bộ Tài Chính và trục tiếp là Bộ Công nghiệp trước đây nay là Bộ Công Thương tạo

các điều kiện thuận lợi để có thể thu hút đối tác và triển khai nhanh giai đoạn 2 Khu

công nghiệp Lưu Xá -Thái Nguyên và Khu công nghiệp Sông Công I và II nhanh

chóng và thuận lợi.

* Đối với Tỉnh Thái Nguyên

Một là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong tỉnh quán triệt sâu sắc mục tiêu,

định hướng cơ bản và các giải pháp lớn để chỉ đạo và triển khai trong quá trình

thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp nói riêng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Hai là, Sở công nghiệp là cơ quan trực tiếp quản lý và tác động đến quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá. Do đó Sở công nghiệp cần xây dựng được chương trình hành động cụ

thể nhằm phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên có cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu

quả trong quá trình CNH, HĐH.

Ba là, các Sở ban ngành có liên quan phối hợp chặt chẽ và thống nhất với Sở

công nghiệp trong việc thực hiện quá trình phát triển công nghiệp Thái Nguyên trở

thành một ngành kinh tế năng động, hiệu quả và tương xứng với tiềm năng của

tỉnh.

Bốn là, đối với các UBND các Huyện, Thành, Thị, phải căn cứ váo chương

trình phát triển công nghiệp của tỉnh, để xây dựng đề án phát triển công nghiệp của

địa phương. Hàng năm dành ngân sách của địa phương để hỗ trợ, khuyến khích và

thúc đẩy kinh tế ngành công nghiệp phát triển theo hướng hợp lý, chú ý đào tạo

nguồn nhân lực có trình độ để theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ.

Năm là, Đối với các doanh nghiệp, phải luôn thực hiện đầu tư theo đúng quy

hoạch phát triển công nghiệp của tỉnh đã đề ra, các doanh nghiệp có dự án lớn cố

gắng hoàn thành đúng tiến độ đưa vào sản xuất. Phấn đấu hoà thành và hoàn thành

vượt mức kế hoạch chỉ tiêu kế hoạch hàng năm với tốc độ tăng trưởng GTSXCN từ

20 – 25% trở lên.

KẾT LUẬN

1- Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế trong

nền kinh tế quốc dân; là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương

đối ổn định giữa các bộ phận: ngành và nội bộ ngành, vùng và thành phần kinh tế

trong ngành công nghiệp; tương ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội xác định,

diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Và CDCCKTNCN là quá trình thay đổi

cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các nhóm

ngành, các khu, cụm điểm công nghiệp và các thành phần kinh tế trong ngành công

nghiệp, nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và

lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn CNH, HĐH

đất nước.

2- Chuyển dịch CCKT nói chung và CDCCKTNCN nói riêng, một tất yếu khách

quan, một nội dung cơ bản không thể thiếu được của CNH,HĐH nền kinh tế quốc

dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng của

các nhân tố như: Điều kiên tự nhiên, kinh tế, xã hội; môi trường và thể chế trong

nước, môi trương cạnh tranh và HNKTQT. Các nhân tố này có ảnh hương đến việc

xác định cơ cấu, xu hướng, trình độ và nhịp độ CDCCKTNCN, nhất là các địa

phương thuộc trung du và Miền núi,. Do đó trong quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành công nghiệp, đòi hỏi phải luôn có sự năng động và nhạy bén trong

quản lý cũng như trong sản xuất kinh doanh. thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp sao cho đạt được sự hợp lý, hiện đại và hiệu quả, trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

3- Trong thực tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Thái Nguyên bước đầu đã có những

thành quả nhất định, tỷ trọng ngành kinh tế công nghiệp luôn có xu hướng tăng

trong GDP. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, diễn ra còn chậm, chưa khai thác và

huy động nhiều các tiềm năng vốn có của tỉnh , tong nước và nước ngoài .

4- Để thực hiện tốt mục tiêu và phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ nay đến hết năm

2010 và có tầm nhìn chiến lược đến năm 2010, Thái Nguyên cần thực hiện tốt và

đồng bộ các giải pháp như: Phát triển lực lượng sản xuất thông qua ứng dụng các

thành tựu của khoa học kỹ thuật công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,

xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất bằng

cách thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vai trò

và tính hiệu quả của kinh tế Nhà nước, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư

ngoài tỉnh cũng như nguồn vốn đầu tư ở nước ngoài. Tiếp tục đổi mới và hoàn

thiện các cơ chế chính sách vĩ mô của Nhà nước từ Trung Ương đến địa phương,

nhằm tạo điều kiện thuận lợi từ đó thúc đẩy nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh

Thái Nguyên.

5- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá là quá trình gian khổ, lâu dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cho nên khi tiến hành không được nóng vội, nhất

là đối với tỉnh Thái Nguyên, có điểm xuất phát không cao. Song chúng ta tin rằng

với sự chỉ đạo thống nhất từ Trung Ương đến địa phương bằng đường lối chính

sách của Đảng, các công cụ quản lý của Nhà nước, được sự quan tâm của Chính

phủ, các Bộ, các ngành cùng với sự nỗ lợc hết mình của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh

Thái Nguyên sẽ nắm bắn bắt được cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn , khai

thác có hiệu quả những thế mạnh sẵn có trong và ngoài tỉnh, chắc chắn sẽ xây dựng

Thái Nguyên trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển và hội nhập, trong đó có sự

đóng góp xứng đáng của ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu

Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên lần thứ XII,Tỉnh Thái Nguyên.

7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khoa Kinh tế phát

triển (2002), Giáo trình Kinh tế học phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

8. Nguyễn Đình Kháng, Vũ Văn Phúc (1999), Những nhận thức

Kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

9. Trần Văn Nhưng (2001), Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 10. Ngô Đình Giao (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

11. Phạm Khiêm ích - Nguyễn Đình Phan, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ở Việt Nam và các nước khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994.

12. Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Bùi Tất Thắng (1997), Các nhân ố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoa, hiện đại hoá ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 14. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (1997), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 1997 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 1998, Tỉnh Thái Nguyên. 15. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (1998), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 1998 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 1999, Tỉnh Thái Nguyên. 16. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (1999), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 1999 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2000, Tỉnh Thái Nguyên. 17. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2000), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2000 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2001, Tỉnh Thái Nguyên. 18. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2001), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2001 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2002, Tỉnh Thái Nguyên. 19. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2002), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2002 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2003, Tỉnh Thái Nguyên.

20. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2003 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2004, Tỉnh Thái Nguyên. 21. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2004 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2005, Tỉnh Thái Nguyên. 22. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2005 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2006, Tỉnh Thái Nguyên. 23. Sở công nghiệp tỉnh Thái Nguyên (2006), Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2006 và phương hướng mục tiêu kế hoạch năm 2007, Tỉnh Thái Nguyên. 24. Đỗ Trọng Bá (1996), "Giai cấp công nhân - một số vấn đề lý luận và

thực tiễn", Thông tin lý luận, (7), tr.36-38.

25. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Bài học về công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, Trung tâm thông tin, Hà Nội.

26. Bộ Khoa học công nghệ và môi trường – Viện nghiên cứu chiến lược

và chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Lê Đức Bình (1963), Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 1998-2002.

29. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2004.

30. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2005.

31. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2006.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành

Trung ơng Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3,

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5,

Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên lần thứ XV, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên.

40. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ

môn khoa học Mác - Lênin, tư tởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ

nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Nguyễn Cảnh Hưng (2001), "Thành tựu 15 năm phát triển kinh tế", Tạp

chí Cộng sản, (1), tr.14.

42. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

43. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

44. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

45. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

46. Cao Văn Lợng (chủ biên) (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự

phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Liên đoàn tỉnh Thái Nguyên (2004), Tình hình lao động và việc làm

của tỉnh Thái Nguyên.

48. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

51. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

52. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. "Tìm hiểu khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (1994), Tạp chí

Cộng sản , (8), tr.63.

55. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ

công tác 2003.

56. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ

công tác 2004.

57. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1,

Nxb Tổng hợp Thái Nguyên.

58. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh

Thái Nguyên, tập 2.

59. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020. NXB Thái

Nguyên.

60. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2006), Đề án quy hoạch tổng thể Ngành

Lao động Thương binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 2006 – 2015 định

hướng đến 2020. NXB Thái Nguyên.

61. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Thực trạng Lao động - việc làm

tỉnh Thái Nguyên 2001 – 2005, NXB Thái Nguyên.

62. “Tìm hiểu khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (1994), Tạp chí cộng sản,

(8), tr 63.

63. C.Mác (1960), Tư bản, quyển I, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

PHỤ LỤC Phụ lục 1 BIỂU TỔNG HỢP MỘT SỐP DỰ ÁN ĐẦU TƯ LỚN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

Năng lực thiết kế

TT

Tên dự án

Địa điểm xây dựng

Thời gian KC - HT

TMĐT hoặc TDT được duyệt

236 tr. USD

TP TN

2005 - 2007

1

550.000 tấn phôi thép / năm

1,4 triệu tấn/ năm

2.825 tỷ đồng

Đồng Hỷ

2003 - 2007

2

Đại Từ

2005 - 2007 3,5 triệu tấn quặng/ năm 147 tr.USD

3

3.000 động cơ/ năm

610 tỷ đồng

Sông Công

2006 - 2008

4

Võ Nhai

2005 - 2006

5

Tinh quặng chì kẽm 5000 - 7000 t/ năm

2 tr.sp/ năm

3 tr. USD

Sông Công

2006 - 2008

6

Dự án cải tạo và mở rộng Công ty Gang Nhà máy xi măng Thái Nguyên Dự án khai khoáng Núi Pháo (FDI) Nâng công suất sản xuất động cỏ Diesel của Công ty Diesel Sông Công Khai thác và chế biến quặng chì kẽm Cúc Đường, Võ Nhai của Công ty kim loại màu Dây chuyền sản xuất phụ tùng ôtô, xe máy của Công ty TNHHNN MTV phụ tùng máy số I

30.000 tấn/ năm

200 tỷ đồng 45 tỷ đồng

7 Dự án điện nông thôn REII 8 Nhà máy sản xuất hợp kim

TP TN Đồng Hỷ

2005 - 2010 2005 - 2007

1 tr.sp/ năm

3 tr. USD

9

Sông Công

2005 - 2007

2 tr.sp/ năm

2 tr. USD

10

Phổ Yên

2005 - 2007

Chế tạo thiết bị dân dụng của HTX công nghiệp và vận tải Chiến Công Dây chuyền sản xuất vòng bi của Công ty CP cơ khí Phổ

7 tr.USD

11

TP TN

2005 - 2007

Supelân: 30.000t/ năm NPK:60.000 t/ năm

1.000 máy/ năm

5 tr.USD

12

Phổ Yên

2005 - 2007

2 tỷ đồng

13

Định Hoá

2005 - 2006

1.000 tấn đũa/ năm 6.250 tấn bao bì/ năm

1 triệu tấn/ năm

60 tỷ đồng

14

2006 - 2010

Mỏ than Núi Hồng, Khánh Hoà

500.000 tấn/ năm

30 tỷ đồng

15

2006 - 2010

than Làng cẩm, than Phấn Mễ

1.200.000 tấn/ năm

16

Đồng Hỷ

2006 - 2010

Yên Sản xuất phân lân và NPK của Công ty TNHH NN MTV kim loại màu Dây truyền sản xuất lắp ráp máy kéo của Công ty CP cơ khí Phổ Yên NHà máy giấy đũa của Công ty Cp giấy xuất khẩu Thái Nguyên Nâng công suất khai thác than của Công ty than nội địa Nâng công suất khai thác than của Công ty gang thép Thái Nguyên Khai thác quặng sắt mỏ Trại Cau, mỏ Linh Nham, Tiến Bộ của Công ty gang thép TN

Phụ lục 2 BIỂU TỔNG HỢP NGUỒN VỐN CỦA CÁC DNNN TRUNG ƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2001 - 2005

2001

2002

2003

2004

2005

Tên doanh nghiệp

T T

Vốn vay

Vốn vay

Vốn vay

Vốn vay

Vốn vay

1 Cty Gang thép TN

Vốn chủ sở hữu 174.768

263.456

Vốn chủ sở hữu 337.973

412.270

Vốn chủ sở hữu 364.418 1.062.307

Vốn chủ sở hữu 357.072 1.368.75

Vốn chủ sở hữu 356.131

1.557.745

6

2 Điện lực Thái Nguyên

82.977

111.313

126.114

186.199

210.765

3 Công ty Chè TN

1.164

3.750

1.164

2.200

1.157

520

1.157

1.631

1.157

806

4 Cty TNHH NN MTV

10.879

13.751

10.825

18.995

11.455

23.300

11.932

25.120

20.939

14.457

phụ tùng máy số I

5 Cty TNHH NN MTV

273.521

48.272

297.349

43.773

329.086

47.730

358.568

60.379

386.562

72.776

Diesel Sông Công

6 Cty CP Cơ điện luyện

14.439

10.530

14.579

14.110

22.291

17.513

23.132

22.390

23.482

54.964

kim Thái Nguyên

7 Công ty Giấy HVT

5.085

57.889

5.085

81.362

5.085

83.565

5.085

75.508

6.088

72.519

8 Nhà máy Vật liệu xây

dựng Vinaconex 3

9 NM cơ khí Mỏ Bắc Thái

1.758

1.719

1.533

577

1.249

956

1.194

1.217

10 XN than Núi Hồng

40.255

6.747

35.554

9.809

31.548

13.683

28.574

17.628

27.852

30.596

11 Cty TNHH NN MTV

43.015

23.957

41.837

21.702

43.078

47.352

48.477

113.739

66.500

139.051

Kim

loại màu Thái

Nguyên

12 NM Xi măng La Hiên

13.352

27.661

11.978

18.846

10.269

15.401

8.612

22.018

26.468

159.601

13 Chi nhánh nhà máy giầy

675

15.133

(452)

25.171

(688)

27.593

(838)

31.570

(5.252)

31.948

TN

14 Công ty Vật liệu xây dựng

14.977

37.680

15.727

48.188

15.751

61.699

18.262

117.240

18.820

141.493

TN

15 Công ty CP Cơ khí Phổ

5.827

9.791

5.307

16.724

4.207

23.190

4.841

27.000

5.146

29.774

Yên

16 XN than Khánh Hoà

8.078

7.123

6.659

9.858

5.163

40.936

3.924

55.943

2.994

62.213

615

1.038

803

1.411

3.578

2.721

17 Xí nghiệp khai thác đá và

XD La Hiên

18 Công ty ván dăm TN

94.500

19 Công

ty TNHH NN

4.017

4.366

4.845

3.820

9.462

4.608

8.903

3.288

8.292

3.302

MTV chè Sông Cầu

94.500 94.500

Cộng

694.787

530.106

901.462

726.828

980.544 1.565.467 1.065.952 2.038.89

1.160.716

2.469.683

7

113