ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________________________

ĐÀO THỊ MAI HUYÊN

BA VÒNG THÀNH CỔ LOA

QUA TƯ LIỆU KHAI QUẬT KHẢO CỔ HỌC

TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________________________________

ĐÀO THỊ MAI HUYÊN

BA VÒNG THÀNH CỔ LOA

QUA TƯ LIỆU KHAI QUẬT KHẢO CỔ HỌC

TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: Khảo cổ học

Mã số: 60 22 03 17

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Hoàng Hiệp

Hà Nội - 2020

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập và

nghiên cứu không ngừng của bản thân, sự động viên giúp đỡ của quý thầy cô

giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS Trịnh Hoàng Hiệp, người đã

hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi về mọi mặt trong quá trình làm luận văn.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong bộ môn Khảo cổ

học, khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, đồng

nghiệp Ban Quản lý Khu di tích Cổ Loa - Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng

Long - Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và làm việc.

Tuy đã cố gắng nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, vì

vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các nhà

nghiên cứu, các thầy cô và những người quan tâm tới đề tài luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Đào Thị Mai Huyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình tổng hợp và nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan,

khoa học và được trích nguồn rõ ràng. Nếu không đúng sự thật, tôi xin hoàn

toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Đào Thị Mai Huyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TƯ LIỆU VỀ DI TÍCH CỔ LOA ................. 6

1.1. Vị trí địa lý, địa hình và môi trường cảnh quan ................................ 6

1.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................... 6

1.1.2. Địa hình và môi trường cảnh quan................................................ 8

1.2. Tổng quan nguồn tư liệu nghiên cứu về Cổ Loa và ba vòng

Thành Cổ Loa............................................................................................. 10

1.2.1. Thư tịch cổ Việt Nam.................................................................. 10

1.2.2. Thư tịch cổ Trung Quốc .............................................................. 12

1.2.3. Tư liệu dân gian .......................................................................... 13

1.2.4. Tư liệu khảo cổ học ..................................................................... 16

CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỚI VỀ KHẢO CỔ HỌC

BA VÒNG THÀNH CỔ LOA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014 .............. 24

2.1. Một số khái niệm ................................................................................. 24

2.2. Cấu tạo địa tầng và các giai đoạn đắp thành, đặc trưng di tích .... 25

2.2.1. Thành Trung (2007 - 2008)......................................................... 25

2.2.2. Thành Ngoại (2012) .................................................................... 29

2.2.3. Ụ Hỏa Hồi và Thành Nội (2014) ................................................ 33

2.3. Di vật .................................................................................................... 38

2.3.1. Đồ đá ........................................................................................... 38

2.3.2. Đồ gốm văn hóa Đông Sơn ......................................................... 40

2.3.3. Ngói Cổ Loa ................................................................................ 40

2.3.4. Gốm tráng men............................................................................ 44

2.3.5. Đồ sành ....................................................................................... 49

2.4. Kỹ thuật sản xuất ................................................................................ 54

CHƯƠNG 3. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, QUÂN SỰ CỦA

THÀNH CỔ LOA ......................................................................................... 61

3.1. Tính chất Thành Cổ Loa .................................................................... 61

3.2. Niên đại và kỹ thuật đắp Thành Cổ Loa .......................................... 69

3.2.1. Niên đại ....................................................................................... 69

3.2.2. Kỹ thuật đắp Thành Cổ Loa ........................................................ 72

3.3. So sánh Thành Cổ Loa với các công trình phòng ngự ở Việt Nam.. ... 74

3.3.1. Thành Cổ Loa với di tích đất đắp tròn Bình Phước .................... 74

3.3.2. Thành Cổ Loa với thành Luy Lâu (Bắc Ninh) ............................ 79

3.4. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa ........................... 82

KẾT LUẬN .................................................................................................... 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Bản ảnh BA

: Bản vẽ BV

: Bản dập BD

: Ban Quản lý BQL

ĐHKHXH&NV : Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

ĐHQG : Đại học Quốc gia

: Giáo sư GS

: Khu di tích KDT

: Phó giáo sư PGS

: Sơ đồ SĐ

: Trước Công nguyên TCN

: Tiến sĩ TS

: Thạc sĩ THS

: Trang Tr

UBND : Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC QUYẾT ĐỊNH BẢO TỒN

VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH, BẢNG THỐNG KÊ,

SƠ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN DẬP, BẢN ẢNH

CÁC QUYẾT ĐỊNH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

I. Các văn bản pháp quy của Trung ương

II. Các văn bản của UBND Thành phố Hà Nội

III. Các văn bản của Quốc tế

BẢNG THỐNG KÊ

Bảng 1.1. Phân chia các lớp đắp Thành Cổ Loa (Khai quật Thành Ngoại

năm 1970)

Bảng 2.1. Thống kê các mảnh ngói Cổ Loa tại các vòng thành trong các đợt

khai quật từ 2007 - 2014.

Bảng 2.2. Các giai đoạn đắp thành và kích thước ở địa điểm Thành Trung,

năm 2007 – 2008

Bảng 2.3. Các giai đoạn đắp Thành Trung năm 2007 - 2008

Bảng 2.4. Thống kê gốm Đông Sơn phát hiện được ở hố khai quật H1 Thành

Trung 2007 - 2008

Bảng 2.5. Đồ gốm men ở hào Thành Trung (Hố H2) năm 2007 - 2008

Bảng 2.6. Hiện vật đá ở hố H1 Thành Trung năm 2007 - 2008

Bảng 2.7. Hiện vật đá ở hào Thành Trung (Hố H2) năm 2007 - 2008

Bảng 2.8. Thống kê ngói âm ở hố khai quật H1 và H2 địa điểm Thành Trung

năm 2007 – 2008.

Bảng 2.9. Bảng thống kê phân loại miệng sành mịn tại Thành Trung năm

2007 - 2008

Bảng 2.10. Ngói Cổ Loa ở địa điểm Thành Ngoại năm 2012

Bảng 2.11. Đồ gốm tráng men ở địa điểm Thành Ngoại năm 2012

Bảng 2.12. Đồ sành địa điểm Thành Ngoại năm 2012

Bảng 2.13. Các loại hình hoa văn ngói địa điểm Ụ hỏa hồi năm 2014

Bảng 2.14. Các loại hình hoa văn ngói địa điểm Thành Nội năm 2014

Bảng 2.15. Tổng loại hình hoa văn ngói địa điểm Ụ hoả hồi và Thành Nội

năm 2014

Bảng 3.1. Niên đại C14 của mẫu than trong ngói Cổ Loa tại Thành Trung

Bảng 3.2. Bảng 02. Vị trí các mẫu than và niên đại C14 tại Thành Trung

Bảng 3.3. Bảng 04. Niên đại C14 các mẫu than phát hiện cùng với gốm Đông

Sơn tại Thành Trung

Bảng 3.4. Niên đại AMS mẫu than khu vực lẫn gốm Đông Sơn trong ụ phòng

vệ và hào lần đắp thứ nhất (giai đoạn 1) địa điểm Thành Trung năm 2007 -

2008

Bảng 3.5. Niên đại AMS mẫu than lẫn ngói Cổ Loa từ lần đắp thành thứ 2 đến

thứ 4 (giai đoạn 2) địa điểm Thành Trung năm 2007 - 2008

Bảng 3.6. Hiện trạng di tích Thành - Hào Cổ Loa

SƠ ĐỒ

Sơ đồ 01. Thành Cổ Loa

Sơ đồ 02. Toàn cảnh Khu di tích Thành Cổ Loa và vùng phụ cận

Sơ đồ 03. Khu di tích Cổ Loa năm 1904

Sơ đồ 04. Khảo cổ học khu vực Thành Cổ Loa

Sơ đồ 05. Các di tích khảo cổ học tiền – sơ sử ở Cổ Loa và vùng phụ cận

Sơ đồ 06. Vị trí các hố khai quật ba vòng Thành Cổ Loa

Sơ đồ 07. Vị trí hố khai quật Thành Trung năm 2007 – 2008

Sơ đồ 08. Vị trí hố khai quật H1, H2 và H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội năm 2014

Sơ đồ 09. Vị trí hố khai quật H4 địa điểm Thành Nội sau đền Thượng năm

2014

Sơ đồ 10. Bình đồ thành Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh)

Sơ đồ 11. Phối cảnh tổng thể quy hoạch di tích Thành Cổ Loa

Sơ đồ 12. Mặt bằng quy hoạch khu vực lõi và khu vực trung tâm

Sơ đồ 13. Các điểm khảo sát bằng phương pháp địa vật lý năm 2016 – 2017.

BẢN VẼ

Từ Bản vẽ 01 – 11: Tại địa điểm Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản vẽ 01. Mặt cắt ngang Thành Trung

Bản vẽ 02. Mặt bằng lớp 5, 6, 7 Thành Trung

Bản vẽ 03. Mặt cắt lớp đất vách Đông Thành Trung (H1) năm 2007 - 2008

Bản vẽ 04. Mặt cắt lớp đất vách Tây Thành Trung (H1) năm 2007 – 2008

Bản vẽ 05. Mặt bằng chi tiết F4

Bản vẽ 06. Di tích bếp lò

Bản vẽ 07. Mặt bằng lớp 11

Bản vẽ 08. Mặt bằng lớp 14

Bản vẽ 09. Mặt bằng chi tiết khu vực gốm dày đặc Thành Trung năm 2007 -

2008

Bản vẽ 10. Mặt bằng lớp 40 (gốm Đông Sơn)

Bản vẽ 11. Mặt bằng lớp đáy - lớp 41

Từ Bản vẽ 12 – 22: Tại địa điểm Thành Ngoại năm 2012

Bản vẽ 12. Mặt bằng lớp 2

Bản vẽ 13. Mặt bằng lớp 4 (1)

Bản vẽ 14. Mặt bằng lớp 4 (2)

Bản vẽ 15. Mặt bằng lớp 12

Bản vẽ 16. Mặt bằng lớp 15 - 16

Bản vẽ 17. Mặt bằng lớp 17

Bản vẽ 18. Mặt bằng lớp 18

Bản vẽ 19. Mặt bằng lớp 19 - 20

Bản vẽ 20. Mặt bằng lớp 25 - 27

Bản vẽ 21. Mặt cắt lớp đất vách Đông Thành Ngoại (H1) năm 2012

Bản vẽ 22. Mặt cắt lớp đất vách Tây Thành Ngoại (H1) năm 2012

Từ Bản vẽ 23 - 40: Tại địa điểm Thành Nội và Ụ hoả hồi năm 2014

Bản vẽ 23. Mặt bằng lớp 1 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L1)

Bản vẽ 24. Mặt bằng lớp 2 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L2)

Bản vẽ 25. Mặt bằng lớp 4 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L4)

Bản vẽ 26. Mặt bằng lớp 5 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L5)

Bản vẽ 27. Mặt bằng lớp 6 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L6)

Bản vẽ 28. Mặt bằng lớp 11 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L11)

Bản vẽ 29. Mặt bằng lớp 19 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L19)

Bản vẽ 30. Mặt bằng lớp 23 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L23)

Bản vẽ 31. Mặt bằng lớp 26 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L26)

Bản vẽ 32. Mặt bằng lớp 27 - 28 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L27-28)

Bản vẽ 33. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H1 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H1) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 34. Mặt cắt địa tầng vách Đông hố H1 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H1) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 35. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H2 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H2) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 36. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H2 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H2) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 37. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H3) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 38. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông

Bắc Thành Nội (14.TNO.H3) Tỷ lệ: 1/20

Bản vẽ 39. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H4 địa điểm Thành Nội (14.TNO.H4) Tỷ

lệ: 1/20

Bản vẽ 40. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H4 địa điểm Thành Nội (14.TNO.H4) Tỷ

lệ: 1/20

Bản vẽ 41. Đế bát thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

Bản vẽ 42. Đế bát sứ và sành thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

Bản vẽ 43. Miệng vò sành thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

Bản vẽ 44. Đáy nậm rượu, thân vò sành thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

BẢN DẬP

Bản dập 1 - 4. Hoa văn trên ngói âm dương Thành Ngoại năm 2012

Bản dập 5. Hoa văn trên ngói âm dương loại 1 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi

phía Đông Bắc năm 2014

Bản dập 6 - 9. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa

hồi phía Đông Bắc năm 2014

Bản dập 10. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2, loại 3 - địa điểm Thành Nội và

Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc năm 2014

BẢN ẢNH

Bản ảnh 01. Một đoạn thành hào Cổ Loa (góc Tây Nam đền Thượng)

Bản ảnh 02. Toàn cảnh hố khai quật Thành Trung và hào năm 2007 - 2008

Bản ảnh 03. Di tích luỹ phòng thủ (vọng gác) Thành Trung năm 2007 - 2008.

Bản ảnh 04 Mặt cắt vách Tây - Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 05. Lớp đá lẫn ngói Cổ Loa ở chân thành phía Nam (đắp thêm lần

thứ nhất) Thành Ngoại năm 2012

Bản ảnh 06. Mặt cắt vách Đông Thành Ngoại năm 2012

Bản ảnh 07. Mặt cắt và mặt bằng hố khai quật Ụ hỏa hồi Thành Nội 2014

Bản ảnh 08 Toàn cảnh hố khai quật thành Nội và Ụ hỏa hồi năm 2014

Bản ảnh 09. Khu lò đúc mũi tên đồng đền Thượng

Bản ảnh 10. Khai quật ụ hỏa hồi Thành Nội năm 2014

Bản ảnh 11. Vách Tây Thành Ngoại năm 2012

Bản ảnh 12. Cụm đá và ngói Cổ Loa phía Nam hố khai quật Thành Ngoại

năm 2012

Bản ảnh 13. Thành lũy giai đoạn Đông Sơn (muộn) nằm dưới Thành Trung

hiện nay và các lớp đắp Thành Trung khai quật năm 2007 - 2008

Bản ảnh 14. Hiện tượng dư chấn/động đất? trên bề mặt nền đất của Thành Ngoại

năm 2012

Bản ảnh 15. Lớp đắp thành 2 đắp mở rộng sang hai bên và đắp trùm lên lớp 3

Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 16. Hào Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 17. Địa tầng hào Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 18. Di tích luỹ phòng thủ (vọng gác) Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 19. Di tích bếp lửa trong nền vọng gác Thành Trung năm 2007 -

2008

Bản ảnh 20, 21. Cụm gốm Đông Sơn cạnh nền vọng gác Thành Trung năm

2007 - 2008

Bản ảnh 22. Di tích F1 Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 23. Di tích F2 Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 24. Bếp lò hình bầu dục (thời Lê) tại Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 25. Bếp lò hình vuông (thời Lê) tại Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 26. Bếp lò hình bầu dục thời Lê thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 27. Gốm Đông Sơn ở hố khai quật H1 Thành Trung năm 2007 -

2008

Bản ảnh 28. Các giai đoạn đắp Thành Ngoại năm 2012

Bản ảnh 29. Các lớp đắp Thành Nội năm 2014

Bản ảnh 30, 31. Chi tiết Thành Nội, Ụ hoả hồi phía Đông Bắc và ngói Cổ

Loa, đá (F3) trên mặt Thành Nội năm 2014

Bản ảnh 32. F1 (Thành Nội) năm 2014

Bản ảnh 33. F2 (Thành Nội) năm 2014

Bản ảnh 34. F3 (Thành Nội) năm 2014

Bản ảnh 35. Mang khuôn đúc mũi tên đồng Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 36. Khuôn đúc mũi lao cánh én (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 37. Đầu ngói ống Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 38. Lẫy nỏ và mũi tên đồng Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 39. Lưỡi cày đồng Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 40. Lưỡi cày đồng Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 41. Trống đồng Cổ Loa (thế kỷ III - II TCN)

Bản ảnh 42. Đá xuất hiện cùng ngói gốm Cổ Loa tại Thành Trung năm 2007 -

2008

Bản ảnh 43. Mũi tên đá (phác vật?)

Bản ảnh 44. Miệng sành L1K1 – thế kỷ XIX - XX

Bản ảnh 45. Miệng sành L1K2 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 46. Miệng sành L1K3 - thế kỷ XVIII - XIX

Bản ảnh 47. Miệng sành L1K4 – thế kỷ XIII - XIV

Bản ảnh 48. Miệng sành L1K5 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 49, 50. Miệng sành L1K6 – thế kỷ XIX - XX

Bản ảnh 51. Miệng sành L1K8 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 52. Miệng sành L1K9 – thế kỷ XIX - XX

Bản ảnh 53. Miệng sành L2K1 – thế kỷ XVII - XVIII

Bản ảnh 54. Miệng sành L2K2 – thế kỷ XVII - XVIII

Bản ảnh 55, 56. Miệng sành L3K1 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 57. Miệng sành L3K2 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 58. Miệng sành L3K3 – thế kỷ XV - XVI

Bản ảnh 59. Miệng sành L3K4 – thế kỷ XVII - XVIII

Bản ảnh 60. Miệng sành L3K5- thế kỷ XVII - XVIII

Bản ảnh 61. Ngói âm loại 1 tại Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 62. Ngói âm loại 2 tại Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 63. Ngói âm loại 4 tại Thành Trung năm 2007 - 2008

Bản ảnh 64, 65. Ngói dương tại Thành Trung năm 2007 - 2008

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành Cổ Loa là thành tố quan trọng gắn liền với di tích Quốc gia đặc

biệt - di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ học Cổ Loa (xã Cổ Loa,

huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Nghiên cứu lịch sử Cổ Loa không thể

không nghiên cứu Thành Cổ Loa và ngược lại, nghiên cứu Thành Cổ Loa

không thể không dựa vào kết quả nghiên cứu lịch sử khu di tích Cổ Loa.

Phạm vi của khu di tích Cổ Loa được hiểu gồm những nơi có lũy hào Cổ Loa.

Trên thực tế, bao gồm chủ yếu diện tích xã Cổ Loa và phía Đông Bắc tới xã

Dục Tú, Việt Hùng, phía Tây, Tây Bắc đến xã Uy Nỗ và phía Nam đến xã

Đông Hội.

Thành Cổ Loa đã được nhiều bộ sử cổ Trung Quốc và Việt Nam ghi

chép. Về cơ bản, các tài liệu trên đều cho rằng vào thế kỷ III - II TCN, sau

cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi vào năm 208 TCN An Dương Vương

đã thay thế Hùng Vương và chuyển từ Việt Trì về Cổ Loa lập nước Âu Lạc,

sau đó định đô, đắp thành kiên cố phòng vệ và xây dựng đất nước. Nước Âu

Lạc tồn tại trong vòng 30 năm, từ 208 TCN đến năm Cao Hậu mất (179

TCN), Triệu Đà nhân cơ hội phát quân đánh chiếm Âu Lạc. Từ đó, Âu Lạc bị

nhà Triệu thống trị. Tuy nhiên, trong các bộ cổ sử đó nhiều sự kiện không

thống nhất về địa điểm, nội dung, thời gian mở đầu và kết thúc, nên rất khó

tra cứu, đối sánh để tìm ra cái chung thống nhất.

Thành Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc gắn liền với truyền

thuyết An Dương Vương, Thần Kim Quy, Mỵ Châu - Trọng Thủy... Thành

được các nhà khoa học đánh giá là thành cổ nhất với cấu trúc thành ốc bao

gồm ba vòng thành có làng mạc, thôn xóm, dân cư sinh sống bên trong. Bên

cạnh đó, Cổ Loa còn là một trong bốn địa điểm được Nhà nước xếp hạng A1,

là nhóm di tích có tầm quan trọng hàng đầu của lịch sử, văn hóa Việt Nam.

1

Năm 938, sau khi đánh tan quân xâm lược Nam Hán và lên ngôi vua,

Ngô Quyền một lần nữa chọn Cổ Loa làm Kinh đô để biểu lộ ý chí kế thừa

truyền thống độc lập, tự cường của nước Âu Lạc trước kia.

Thành Cổ Loa được An Dương Vương xây dựng với quy mô lớn, là

minh chứng về trình độ kỹ thuật quân sự cao của nền văn hóa Việt cổ, với

sự phát triển của nông nghiệp lúa nước và sự hình thành các vùng dân cư

sống tập trung ở đồng bằng. Đó cũng là nơi hội tụ nhiều ngành nghề thủ

công, bên cạnh thành đã có thị. Việc xây Thành Cổ Loa không những gắn

với xu thế phát triển của đất nước mà còn gắn với yêu cầu giữ nước, một

yêu cầu luôn liên quan chặt chẽ với việc dựng nước, đó là sự kết hợp của

quân thành với thị thành và kinh thành. Nằm sâu trong lòng đất Cổ Loa, là

khối lượng khổng lồ các hiện vật, bằng chứng của một quá trình phát triển

liên tục của dân tộc ta thủa sơ khai, qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng và đồ

sắt mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn - nền văn minh sông Hồng thời tiền

sử của dân tộc Việt Nam.

Với những giá trị về văn hóa, lịch sử tiêu biểu đó, năm 1962, Thành Cổ

Loa đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Ngày

27/9/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1419/QĐ-TTg xếp hạng

Khu di tích Thành Cổ Loa là di tích Quốc gia đặc biệt.

Nghiên cứu kỹ thuật và các giai đoạn đắp ba vòng Thành Cổ Loa sẽ

cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về chủ nhân, niên đại của tòa thành, làm

phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, việc

nghiên cứu kỹ thuật đắp Thành Cổ Loa cũng như các giai đoạn đắp thành còn

cung cấp tư liệu để phục vụ cho việc phục dựng, bảo tồn, tôn tạo và phát huy

giá trị thành Cổ Loa, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước theo

Quyết định số 1004/QĐ-TTg ngày 03/7/2015 về việc Phê duyệt tổng thể bảo

tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích thành Cổ Loa (tỷ lệ 1/2000).

2

Với những giá trị trên của Thành Cổ Loa, đồng thời cùng với sự giúp

đỡ của TS. Trịnh Hoàng Hiệp, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Ba vòng Thành Cổ

Loa qua tư liệu khai quật khảo cổ học từ năm 2007 đến năm 2014” làm

luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Khảo cổ học của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Thành Cổ Loa ngày nay nằm ở phía Bắc sông Hoàng Giang thuộc địa

phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Các đợt khai quật đã làm

rõ cấu trúc Thành Cổ Loa gồm có ba vòng thành đất khép kín với quy mô khá

rộng. Khảo cổ học đã cho thấy rõ cả ba vòng thành đều được đào đắp quy mô

lớn vào thời An Dương Vương và được đắp, gia cố thêm một số lần sau đó.

Trong và ngoài thành đã phát hiện được nhiều dấu tích liên quan đến thành như

các di chỉ cư trú, di tích đúc mũi tên đồng, nơi chôn giấu trống đồng, mũi tên

đồng, nhiều di tích liên quan đến triều đình An Dương Vương, nước Âu Lạc.

Luận văn tập trung vào việc tập hợp tư liệu đã điều tra, khai quật khảo cổ

học ở ba vòng thành: Thành và hào thành Trung, Thành Ngoại, Ụ hỏa hồi và

Thành Nội từ năm 2007 đến năm 2014. Những nội dung chính sẽ được luận

văn đi sâu giải quyết đó là:

- Kỹ thuật đắp thành: Kỹ thuật đắp thành Ngoại, thành Trung, thành

Nội, Ụ hỏa hồi. Xác định các lớp đất đắp thành thời An Dương Vương - cách

đắp thành: Đào hào lấy đất đắp thành - kỹ thuật gia cố lũy thành: Đầm nện,

gia cố vật liệu như cuội, sỏi, đá, ngói vỡ.

- Về niên đại: Xác định niên đại các lớp đắp thành, gia cố thành ở các

thời kỳ khác nhau trong lịch sử.

Từ những nội dung trên luận văn sẽ tạo thêm một nguồn tư liệu phong

phú, chân xác cho việc nghiên cứu sâu hơn diện mạo và đặc trưng của di tích

Thành Cổ Loa. Góp phần huy giá trị lịch sử - văn hóa di tích Thành Cổ Loa

trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Kỹ thuật, giai đoạn đắp cùng các di tích, di vật

khảo cổ học ở di tích Thành Cổ Loa được phát hiện từ năm 2007 đến năm 2014.

- Phạm vi: Về không gian, tập trung tìm hiểu di tích Thành Cổ Loa

thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Về thời gian khoảng thế kỷ III -

II trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ XVIII - XIX.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khảo cổ học: Thống kê,

phân loại hình học, mô tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật điển hình, phân tích

so sánh di tích, di vật khảo cổ học, phương pháp phân tích địa tầng...

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành như: Sử

học, dân tộc học, địa lý học, cổ sinh học, phương pháp định niên đại C14,

AMS, nhiệt huỳnh quang, quang phổ…

4.2. Nguồn tư liệu

Nguồn tư liệu được sử dụng trong luận văn được tập hợp từ nhiều

nguồn khác nhau. Quan trọng nhất là báo cáo khai quật ba vòng Thành Cổ

Loa trong giới hạn thời gian của đề tài. Bên cạnh đó, luận văn kết hợp sử

dụng những tư liệu khác như văn bia, thư tịch cổ và kết quả của các nhà

nghiên cứu đi trước công bố trên các sách và tạp chí chuyên ngành.

Một nguồn tài liệu tham khảo quan trọng khác đó là tài liệu nước ngoài

nghiên cứu về lịch sử, khảo cổ học khu vực Cổ Loa.

5. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu, phân tích kỹ thuật đắp, giai đoạn đắp các vòng Thành Cổ

Loa qua kết quả khai quật từ năm 2007 đến năm 2014 cho thấy được đặc trưng,

tính chất, niên đại và diện mạo của Thành Cổ Loa, cung cấp thêm những tư liệu

mới để khẳng định Thành Cổ Loa là minh chứng cho công sức lao động to lớn

4

và tài năng sáng tạo của người Việt cổ thời An Dương Vương - Thành Cổ Loa

là một công trình phòng vệ quân sự đã phát huy tác dụng tốt trong đấu tranh

chống ngoại xâm - Thành Cổ Loa là kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa của Âu Lạc, minh chứng bước phát triển mới của nhà nước Âu Lạc, quyền

lực xã hội và phân hóa xã hội trong tiến trình lịch sử Việt Nam…

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu khẳng

định Thành Cổ Loa là một di tích lịch sử quan trọng, độc đáo chứng minh cho

tính xác thực của việc thành lập nhà nước Âu Lạc đứng đầu là An Dương

Vương. Tòa thành vừa là một công trình quân sự kiên cố, vừa là một kinh đô

được xây dựng công phu, với quy mô đồ sộ phản ánh tài năng lao động sáng

tạo của người Việt cổ. Trong suốt thời gian trị vì của An Dương Vương,

Thành Cổ Loa đã phát huy tốt vai trò trung tâm của cả nước và đã phòng vệ

thành công trước các đợt tấn công của quân xâm lược phương Bắc.

Từ những kết quả nghiên cứu đó, luận văn có một vài kiến nghị về bảo

tồn, phát huy giá trị lịch sử - văn hóa phục vụ cho nghiên cứu và phát triển du

lịch trong tương lai.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được bố cục thành 3 chương:

Chương 1. Tổng quan tư liệu về di tích Cổ Loa (20 trang).

Chương 2. Kết quả nghiên cứu mới về khảo cổ học ba vòng Thành Cổ

Loa từ năm 2007 đến năm 2014 (40 trang).

Chương 3. Giá trị lịch sử, văn hóa, quân sự của Thành Cổ Loa (22 trang).

Ngoài ra, trong luận văn còn các mục: Tài liệu tham khảo (118 tài liệu

tham khảo bằng tiếng Việt, 2 tài liệu Tiếng Anh) và Phụ lục (95 trang phụ lục

bao gồm: Quyết định bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa, Bảng

thống kê, Sơ đồ, Bản vẽ, Bản dập, Bản ảnh). Phần đầu của luận văn có Lời cam

đoan, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt và Danh mục phụ lục.

5

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TƯ LIỆU VỀ DI TÍCH CỔ LOA

1.1. Vị trí địa lý, địa hình và môi trường cảnh quan

1.1.1. Vị trí địa lý

Thành Cổ Loa nằm trong quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt Cổ Loa

(xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội), một phần thuộc các xã Việt

Hùng, Dục Tú, Uy Nỗ; tọa độ 21006'47" vĩ Bắc, 1050 52'24" kinh Đông, cách

trung tâm Thủ đô Hà Nội 17km về phía Đông Bắc, được giới hạn:

- Phía Đông giáp 2 xã Dục Tú và Việt Hùng;

- Phía Tây giáp 2 xã Vĩnh Ngọc và Xuân Canh;

- Phía Nam giáp 2 xã Đông Hội và Mai Lâm;

- Phía Bắc giáp xã Uy Nỗ.

Cổ Loa nằm trong vùng đất cổ thuộc cái nôi của nền văn minh Việt cổ

có quá trình hình thành từ rất sớm, vào cuối thời đại đá cũ, cách ngày nay

khoảng từ trên 20.000 năm đến 11.000 năm đã có dấu tích con người sinh

sống, các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại gò Thư Cưu thuộc xóm Cưu một

số viên đá cuội có dấu vết ghè đẽo gia công thuộc văn hóa Sơn Vi, từ khoảng

một vạn năm đến khoảng 4.000 năm cách ngày nay Cổ Loa hoàn toàn vắng

bóng người, đến hậu kỳ đá mới và giai đoạn kim khí tương đương với các giai

đoạn văn hoá Phùng nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, Cổ Loa khi ấy

là bãi bồi của sông Hồng với những gò đất cao là đầm lầy, cây cối chằng chịt,

chim thú nhiều. Dấu tích về những người đầu tiên khai phá khu vực Cổ Loa

vào nửa đầu thiên niên kỷ II TCN là di chỉ Đồng Vông, Xuân Kiều, Tiên Hội,

Bãi Mèn, Đình Tràng, Dục Tú, Đường Mây. Trải qua nhiều lần thay đổi tên

gọi và địa bàn hành chính, xã Cổ Loa hiện nay đã tồn tại như một làng xóm

định cư bên dòng sông Hoàng Giang từ mấy ngàn năm trước, Cổ Loa xưa

6

mang tên “làng Chạ” “Kẻ Chủ”, “Chạ Chủ” hay “Khả Lũ”. Thời Hùng Vương

“Chạ Chủ” thuộc bộ Việt Thường - một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thời

An Dương Vương là kinh đô, trung tâm kinh tế, chính trị của nhà nước Âu

Lạc (208 TCN). Đến thời kỳ An Dương Vương (năm 208 TCN đến năm 179

TCN, tương đương với thời kỳ văn hoá Đông Sơn) Cổ Loa là vùng đất cao

của đồng bằng châu thổ sông Hồng, được bao bọc bởi Hoàng Giang là dòng

chảy thông với sông Hồng và sông Cầu. Nằm ở vùng đồng bằng trù phú và

đông đúc dân cư, giao thông thuỷ bộ đều thuận lợi, lại có địa hình phù hợp

cho việc xây thành, đắp lũy, phòng nguy cơ xâm lược của Triệu Đà.

Năm 938, sau khi đánh tan quân xâm lược Nam Hán và lên ngôi vua,

Ngô Quyền một lần nữa chọn Cổ Loa làm kinh đô để biểu lộ ý chí kế thừa

truyền thống độc lập, tự cường của nước Âu Lạc trước kia. Triều đại nhà Ngô

duy trì được 29 năm (938 - 967).

Đến thời Lý rồi thời Lê, Cổ Loa có tên là trại Phong Khê, trại Kim Lũ,

sau lại đổi là trại Cổ Loa.

Đến đầu thế kỷ XIX, các làng xã Cổ Loa thuộc về 2 tổng: Tổng Cổ

Loa, tổng Xuân Canh, gồm có Cổ Loa, Cầu Cả, Mạch Tràng, Sằn Giã, Đài Bi,

Thư Cưu, Văn Thượng, Vạn Lộc.

Cổ Loa hiện nay là một trong 24 xã, thị trấn thuộc huyện Đông Anh,

thành phố Hà Nội. Là địa danh một xã, nhưng Cổ Loa cũng là một địa danh

lịch sử nổi tiếng: Khu di tích Cổ Loa. Làng Cổ Loa ngày nay là hợp nhất của

15 thôn (xóm), làng cổ, có tên gọi như sau: Thư Cưu,Cầu Cả, Sằn Giã, Mạch

Tràng, Thượng – Cưu – Bãi (Ngõ Thượng), thôn Chùa (Hậu Miếu), Nhồi trên

(Viên Lôi Thượng), Nhồi dưới (Viên Lôi Hạ), thôn Chợ (Ngõ Thị), thôn

Vang (Đa Bang), thôn Gà (Quán Kê), thôn Hương (Hương Giai), thôn Dõng

trên (Dõng Thượng), thôn Dõng dưới (Dõng Hạ), thôn Mít (Cự Nê), Lan Trì.

7

1.1.2. Địa hình và môi trường cảnh quan

Cổ Loa nằm phần “Thượng đỉnh”, trên trục chính của tam giác châu

sông Hồng (cách đỉnh Việt Trì khoảng 35km theo đường chim bay, cách biển

65km). Đây là vùng chuyển tiếp từ trung du xuống đồng bằng, là khu vực đầu

tiên được bồi đắp khi sông Hồng tiếp nhận các phụ lưu lớn của nó là sông Lô,

sông Đà. Theo các nhà địa lý, tam giác châu sông Hồng chia làm ba vùng:

Vùng cao, vùng giữa và vùng thấp. Cổ Loa nằm trong vùng đất cao phía Tây

Bắc của tam giác này. Cốt đất của Cổ Loa là 13m (trong khi của nội thành Hà

Nội là 9m). Tại tất cả các làng trong xã đều có những “gờ” hay doi đất cao từ

13 – 15m (ở Tó) chạy dài, bên cạnh những dải đất thấp, chiều cao là 5m (ở

Lộc Hà), nước thường tụ lại giữa các giải đất cao - thấp này, nên tạo thành các

đầm hồ tương đối rộng. Những vùng trũng hình móng ngựa là kết quả của

những lần đổi dòng của Hoàng Giang.

Mặc dù nằm giữa vùng đất cao của tam giác châu sông Hồng, nhưng Cổ

Loa rất thuận lợi về đường thủy tự nhiên. Xã nằm giữa sông Cà Lồ (về phía Bắc)

và sông Đuống. Phía Đông và phía Bắc của xã được ngăn chặn bởi một vùng đầm

lầy vực sâu tự nhiên, xa xưa là những dải rừng hoang). Phía Nam có sông Thiếp

hay còn gọi là sông Hoàng Giang bao bọc, thuở xa xưa là một nhánh lớn của sông

Hồng, chảy qua năm huyện của vùng trung du và châu thổ (Yên Lãng, Yên

Phong,Đông Ngàn, Tiên Du và Vũ Giang) nên còn gọi là Ngũ Huyện Khê đổ

nước vào sông Cầu ở vùng Quả Cảm - Thổ Hà (giáp ranh giữa huyện Yên Phong

của tỉnh Bắc Ninh và huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Như vậy, sông Ngũ Huyện

Khê nối Cổ Loa với vùng trung du và đồng bằng lân cận. [9, tr.21-22].

Tại Cổ Loa có hệ thống các “thủy môn” chính là các đường nước tự

nhiên hay còn gọi là “địa hình âm” bao gồm: Hệ thống Vực Dê - Đầm Chủ -

Đầm Cả - Vực Tó - Đầm Vân Trì; hệ thống trong thành và đương hào thiên

nhiên là dòng Hoàng Giang.

8

- Vực Tó ngày nay là đầm nước rộng khoảng 10ha; thuộc địa phận thôn

Tó, xã Uy Nỗ. Vực Dê là nơi nhận 2 nguồn nước từ Vực Tó vào Đầm Vân Trì

rồi đổ vào dòng sông Thiếp chảy vòng tới khu vực Mạch Tràng - đền Thượng là

các “mộc” rắn đã phân thành nhiều nhánh, chảy vòng vo đến phía Đông Cổ Loa,

còn 2 nhánh, một nhánh đổ vào Gò Vua (phía Bắc Thành Cổ Loa) để thông với

Thành Ngoại, nhánh thứ hai nối với Ao Tó ngoài chảy men theo dãy gò Dục

Nội, qua thôn Gia Lộc, đổ vào trũng Quậy, sau đó hợp nhất chảy về phía sông

Cầu [83; tr.20].

- Hệ thống trong thành bao gồm mạng lưới nước từ cửa Cống Song vào

Thành Trung như dọc Thuỳ (dọc sau xóm Thượng nối với xóm Bãi), dọc

Trôi, dọc Hậu, dọc Giữa (nối Ao Ván, chia đôi xóm Nhồi Trên và Nhồi

Dưới), dọc Ngã Ba, dọc Vườn Thuyền, Ao Mắm.

- Đường hào thiên nhiên là dòng Hoàng Giang (còn có tên là Ngũ Huyện

Khê), được bắt nguồn từ sông Hồng. Hoàng Giang ngày nay chỉ còn là con lạch

nhỏ và đã tồn tại từ lâu như một con sông tự nhiên, có vai trò quan trọng đối

với vùng Cổ Loa.

Trong quá trình thành tạo châu thổ sông Hồng, trong đó có vùng Cổ Loa,

tác động của con người không kém phần tích cực so với tự nhiên. Tuy biển đã

rút, nhưng bề mặt châu thổ còn mấp mô, nhiều đầm lầy hoang vu, nước mặn

ngấm sâu vào đất, mưa theo mùa, đồng bằng có độ dốc lớn, nạn ngập lụt

thường xảy ra. Trải qua thời gian, biển rút xa, thủy triều không ảnh hưởng tới

nguồn nước ngọt, mưa lũ rửa trôi độ mặn trong đất, cây cối dần phát triển thành

rừng. Những tên gọi dân gian ở vùng Cổ Loa phản ánh phần nào lịch sử cảnh

quan ở đây như: Thư Cưu, Mai Lâm, Gia Lâm, gò Dơi, Du Lâm…[83; tr.22].

Những người Việt cổ đầu tiên xuống khai phá vùng Hoàng Giang. Để

canh tác, họ phải khơi sông, khơi ngòi, đào ao, lấp trũng, đắp đê sông, đê biển,

bờ vùng, bờ thửa nên đã chặn đứng quá trình hình thành tự nhiên của vùng

9

đồng bằng châu thổ và để lại nhiều vùng trũng mà nhân dân Cổ Loa gọi là

“dộc”, khu đất thấp nhất ở ba làng Quậy (phía Đông Bắc Cổ Loa) [83; tr.22].

Quá trình chiếm lĩnh đồng bằng của cư dân Việt cổ trên vùng đất Cổ

Loa còn để lại đến hôm nay là hệ thống các di chỉ khảo cổ học từ Phùng

Nguyên đến Đông Sơn ở khu vực này. Những cư dân đầu tiên đến khai phá

vùng đất Cổ Loa đã định cư trên các bãi cao ven Hoàng Giang ở Đồng Vông,

Bãi Mèn, Tiên Hội, Xuân Kiều. Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, địa bàn cư

trú mở rộng cả ở nội và ngoại Thành Cổ Loa. Trong Thành Nội Cổ Loa phát

hiện địa điểm Mả Tre với chiếc trống đồng Cổ Loa loại I, Heger, bên trong

chứa hàng trăm hiện vật đồng Đông Sơn. Địa điểm xóm Nhồi, xóm Hương,

đền Thượng với việc xuất lộ lớp văn hóa Cổ Loa (lớp văn hóa Đông Sơn

muộn). Trong lớp văn hóa này, ngoài phát hiện ra gốm Cổ Loa còn phát hiện

ra dấu tích lò đúc mũi tên đồng ba cạnh, các mang khuôn. Đây là di tích đầu

tiên gắn trực tiếp đến việc An Dương Vương lập nước Âu Lạc, định đô và đắp

thành ở Cổ Loa. Ở ngoại thành phát hiện được các di tích Đường Mây, Cầu

Vực, Đình Tràng là các làng cổ Đông Sơn. Các cư dân này đã cùng với các cư

dân trong thành nội giúp An Dương Vương đào hào, đắp thành (SĐ 04, 05).

1.2. Tổng quan nguồn tư liệu nghiên cứu về Cổ Loa và ba vòng

Thành Cổ Loa

1.2.1. Thư tịch cổ Việt Nam

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có một phần riêng – Kỷ nhà Thục trong

quyển I, ngoại kỷ để chép chuyện An dương Vương và nước Âu Lạc: “[An

Dương Vương] họ Thục, tên húy là Phán người Ba Thục, ở ngôi 50 năm,

đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa)”

“Giáp Thìn, năm thứ nhất (257 TCN), (Chu Noãn Vương năm thứ 58).

Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn

như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành, lại có tên là thành Tư Long

10

(người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn vì thành rất cao). Thành này cứ đắp

xong lại sụp, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông

rồi khởi công đắp lại”

Ngoài ra Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép lại truyền thuyết Mỵ Châu

– Trọng Thủy, truyền thuyết Rùa Vàng giết Kê Tinh, chuyện Ngô Quyền sau

khi thắng giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã xưng vương và chọn Cổ Loa

làm kinh đô.

Những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư đã cung cấp những thông tin

đầu tiên về Thành Cổ Loa như cấu trúc, niên đại, chủ nhân, các tên gọi khác

nhau của Thành Cổ Loa, quá trình đắp thành phải trải qua nhiều lần mới xong.

Bộ quốc sử thứ hai là Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép

về Cổ Loa tương tự như Đại Việt sử ký toàn thư. Tuy nhiên, trong bộ quốc sử

này, các sử gia đã tỏ ra nghi ngờ về nguồn gốc Ba Thục của An Dương

Vương, để lại những lời phê về Thục Vương của các sử thần triều Nguyễn,

khảo cứu thêm các địa danh có liên quan đến thời kỳ lịch sử này như núi Tiên

Du, núi Vũ Ninh, sông Bình Giang, đền Thục Vương ở Mộ Dạ (Nghệ An)...

Ngoài hai bộ quốc sử còn có các công trình của các cá nhân, ghi chép về

thời kỳ An Dương Vương – nước Âu Lạc như Việt sử lược và Đại Việt sử ký

tiền biên cũng ghi chép tương tự như Đại Việt Sử ký toàn thư. Trong cuốn Việt

sử tiêu án, sử gia Ngô Thì Sĩ đã cho biết thêm một tên gọi khác của Loa thành:

“Theo cựu sử, vương đắp thành ở đất Phong Khê rộng nghìn trượng, quanh co

hình như ruột con ốc, gọi là Loa thành, lại có tên là Trung Quy thành”.

Qua các tác phẩm biên niên sử ta có thể thấy được rằng, Thành Cổ Loa

cấu trúc như hình con ốc, rộng hơn nghìn trượng, vừa đóng vai trò là quân

thành, vừa là kinh thành và vừa là thị thành. Đồng thời chủ nhân của nó là An

Dương Vương, vị vua sáng lập ra nước Âu Lạc trên đất Phong Khê hoặc Việt

11

Thường. Tòa thành này có nhiều tên khác nhau là Loa thành, Côn Lôn thành,

Tư Long thành, Trung Quy thành.

Ngoài biên niên sử, một nguồn tài liệu thư tịch cổ khác là các bộ địa chí

cũng cung cấp thêm nhiều thông tin khác nhau về Cổ Loa từ vị trí địa lý, sự

thay đổi địa danh và dấu vết tòa thành đất tồn tại suốt nhiều thế kỷ sau thời

An Dương Vương. Địa chí xuất hiện sớm nhất ở nước ta là tác phẩm An nam

chí lược của Lê Tắc và bộ Dư dịa chí của Nguyễn Trãi. Song, Dư Địa chí của

Nguyễn Trãi mới được coi là bộ quốc chí đầu tiên của nước ta. An Nam chí

lược được biên soạn bởi một nhà sử học đã đầu hàng giặc nên không tránh

khỏi những hạn chế về mặt quan điểm dẫn đến sự sai lệch về tính chất và

nhận định ở nhiều vấn đề lịch sử. Tuy vậy, đây vẫn là một nguồn tư liệu quý

giá, giúp ta tìm hiểu lịch sử Thành Cổ Loa trong thời kỳ Bắc thuộc, các địa

danh liên quan đến Cổ Loa như: Giếng cổ Giao Châu, Việt Vương thành,... Lê

Tắc nhắc đến Việt Vương thành và còn giải thích rõ tục gọi thành này là

thành Khả Lũ, có một ao cổ và Lý Phật Tử khi làm loạn đã từng dùng thành

này làm căn cứ. Theo ghi chép của Lê Tắc thì dấu vết của An Dương Vương

đời sau vẫn thấy ở huyện Bình Địa, dấu tích cung điện và thành trì của An

Dương Vương hãy còn.

Các bộ địa chí ra đời muộn hơn sau này cũng ghi chép về Cổ Loa và

cung cấp các thông tin về sự biến đổi địa danh, đơn vị hành chính...

1.2.2. Thư tịch cổ Trung Quốc

Năm 179 TCN, nước Âu Lạc của vua An Dương Vương rơi vào tay của

Triệu Đà. Đất nước trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đặt dước ách cai

trị liên tiếp nhiều triều đại Trung Quốc từ Hán, Tấn, Tề Lương, Tùy, Đường.

Chính vì vậy, các thư tịch cổ Trung Quốc được biên soạn trong thời gian này

hoặc có ghi chép về thời kỳ lịch sử này không thể không đề cập đến đất Giao

Châu (Giao Chỉ) có một số thông tin quan trọng liên quan đến Thành Cổ Loa.

12

Các thư tịch cổ như Bùi thị Quảng Châu ký, Giao Châu ngoại vực ký,

Thủy kinh chú của Trung Quốc hầu hết khẳng định Giao Chỉ là nước Âu Lạc

của An Dương Vương và cho biết còn dấu tích của tòa thành đất do An

Dương Vương đắp khi xưa.

Những ghi chép về Thành Cổ Loa trong thư tịch cổ Trung Quốc luôn

được chép gắn liền với cuộc tấn công Âu Lạc của Triệu Đà, chuyện Mỵ Châu -

Trọng Thủy, chuyện nỏ thần. Giao châu ngoại vực ký, Thủy Kinh chú là những

thư tịch có niên đại sớm nhất (thế kỷ IV và VI) ghi chép rất chi tiết về những sự

việc này. Thông tin trong hai bộ sách này cho biết: Triệu Đà, vua nước Nam

Việt đem quân đánh Âu Lạc, An Dương Vương có thần là Cao Thông xuống

giúp, chế nỏ thần bắn mỗi phát giết 300 người, Triệu Đà không thắng nổi bèn

sai con là Trọng Thủy sang làm bề tôi An Dương Vương, Mỵ Châu – con gái

An Dương Vương “phải lòng” Thủy, lấy nỏ thần cho Thủy xem, Thủy nhân đó

bẻ gẫy nỏ. Sau Triệu Đà tấn công, nỏ gãy, An Dương Vương thua chạy ra biển.

Các thông tin lịch sử về Thành Cổ Loa và nước Âu Lạc trong thư tịch

cổ Trung Quốc rất ít ỏi song lại là những thông tin có tính xác thực cao bởi

nhiều thư tịch được viết chỉ sau thời kỳ tồn tại của nước Âu Lạc vài trăm năm.

Như vậy có thể nói, thư tịch cổ là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên

cứu về Thành Cổ Loa. Tuy nguồn thư tịch cổ mang nhiều màu sắc truyền

thuyết, thần thoại, cần phải giải mã được sự thật lịch sử ấn dấu sau những câu

chuyện. Song không thể phủ nhận vai trò của nguồn tư liệu này.

1.2.3. Tư liệu dân gian

1.2.3.1. Truyền thuyết và phong tục

Gắn với lịch sử khu di tích Cổ Loa là một kho tàng các câu chuyện dân

gian, truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay. Đó là chuyện Thần Kim Quy

giúp An Dương Vương diệt bạch Kê Tinh – con gà trắng trên núi Thất Diệu.

Sau đó Rùa Vàng tuốt móng rùa tặng vua làm nẫy nỏ diệt quân địch.

13

Các truyền thuyết còn lý giải tên gọi nhiều địa danh ở Cổ Loa như

chuyện các nàng tiên gánh đất giúp vua xây thành, nơi các nàng tiên tụ họp là

làng Tiên Hội (xã Đông Hội, Đông Anh – một xã nằm sát xã Cổ Loa). Những

hòn đất các nàng đánh đổ khi vội vàng về trời vì nghe tiếng gáy của Bạch Kê

Tinh do tưởng trời sáng đã hình thành nên gò Đống Chuông... Và truyền

thuyết cũng nói rằng Thành Cổ Loa có hình xoáy trôn ốc, mà miệng ốc là ở

Loa Khẩu và phần kết thúc của nó chính là Giếng Ngọc. Loa Khẩu là một

giếng sâu nằm ở sát chân Thành Ngoại, sát con sông Hoàng Giang, trên con

đường dẫn vào chợ Sa.

Bên cạnh đó, còn có truyền thuyết về mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy,

chuyện về những người dân gốc ở Cổ Loa (làng Quậy – Liên Hà ngày nay)

nhường đất giúp vua xây thành, chuyện các công thần giúp vua An Dương

Vương (như Cao Nỗ, Nồi Hầu...) hay khu đất đình Ngự Triều Di Quy bây giờ

chính là được dựng trên nền điện thiết triều cũ của nhà vua. Nhiều phong tục,

kiêng kỵ có quan hệ chặt chẽ với truyền thuyết do vậy càng củng cố thêm

mức độ đáng tin cậy của truyền thuyết như tục kiêng tên húy: Ở Cổ Loa,

kiêng không gọi là Phán mà gọi là Phướn, tục đãi dâu không đãi rể, tục cúng

bún trong ngày ăn sêu Bà Chúa Mỵ Châu, tục dâng bỏng Chủ lên vua (bỏng

Chủ chính là lương khô cho quân lính luyện tập quân đội dưới thời vua An

Dương Vương).

1.2.3.2. Hệ thống các địa danh

Tại Cổ Loa có rất nhiều hệ thống địa danh liên quan đến Thành Cổ

Loa và thời kỳ An Dương Vương. Trong cuốn Khảo sát địa danh Cổ Loa và

vùng phụ cận (dẫn theo Trần Thị Minh An (2005), Thành Cổ Loa từ An

Dương Vương đến Ngô Quyền, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch Sử

trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn) thì ở Cổ Loa có khoảng

90/397 địa danh.

14

Hệ thống địa danh liên quan đến sự tích An Dương Vương xây thành

gồm có: Núi Thất Diệu, Quán Ngộ Không, Bến Đò Lo, Cầu Lợn Hạch, Tiên

Hội, Ngã Ba Xà, Đống Chuông, Loa Khẩu,…

Hệ thống địa danh liên quan đến cấu trúc, hoạt động của thành Cổ Loa:

Ao Mắm – Vườn Thuyền, Đầm Cả, Dọc Giữa, Cửa Đông, Cửa Nam, đền

Thượng, đình Ngự Triều Di Quy, Gò Ngự Xạ Đài, gò Đống Giáo, gò Đống

Bắn, gò Cột Cờ…

Một số địa danh liên quan đến truyền thuyết Nỏ thần như: Ngự Xạ Đài,

Kính Nỗ, Uy Nỗ, Hạ Nỗ, Đầm Rơi…

Như vậy, hệ thống địa danh cổ sẽ gợi mở những hướng để người

nghiên cứu có thể tìm hiểu nhiều vấn đề về Thành Cổ Loa như cấu trúc, chức

năng của thành… Đa phần các địa danh này đều gắn chặt với thời kì lịch sử

An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc song vẫn có một số địa danh cho thấy

lịch sử của cổ Loa sau An Dương Vương như tên cầu Chuôm Đỏ (cầu

Thường Đỏ), Xuân Kiều… có liên quan đến thời kỳ Hai Bà Trưng hay địa

danh Dục Tú liên quan đến việc Ngô Quyền về đây đóng đô [1; tr.20].

1.2.3.3. Thần tích, thần sắc

Thần tích ở Cổ Loa và vùng phụ cận sẽ góp phần tiết lộ nhiều nét về

các nhân vật có liên quan đến Thành Cổ Loa. Hiện nay các nhà nghiên cứu đã

sưu tầm được một số bản thần tích về An Dương Vương ở khu vực này: bản

Thục An Dương Vương tiên triều ngọc phả được Nguyên Bính soạn, được

chép lại trong cuốn Lịch sử thành Cổ Loa của Sằn Dã Thôn năm Thành Thái

thứ 17, bản Thục An Dương Vương sự tích trên bia đá đền Thượng soạn năm

Thành Thái thứ 14, bản Thần tích xã Cổ Loa… Nhìn chung, thông tin từ các

bản thần tích này tương đương đối tương đồng, trong đó đều chép chuyện Sơn

Thánh khuyên Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán, chuyện Rùa Vàng

giúp An Dương Vương xây thành, chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy kèm theo

15

sắc phong của một số đời vua gia phong tước hiệu cho An Dương Vương.

Các bản thần tích này hầu hết đều giống nhau và giống truyền thuyết được lưu

truyền tại địa phương do đều sao chép theo bản được Nguyễn Bính, Nguyễn

Hiền soạn trên cơ sở văn hóa truyền thuyết tại địa phương. Nguồn tư liệu dân

gian tuy có mặt hạn chế là vì trí tưởng tượng của nhân dân thêm bớt, hư cấu

thêm nhưng đây vẫn là nguồn tư liệu cơ bản trong nghiên cứu thành Cổ Loa.

Giáo sư Trần Quốc Vượng đã nói: “Một khi truyền thuyết phong phú gắn

chặt với từng địa danh, từng di tích lịch sử, từng phong tục tập quán thành

một khối thống nhất gợi lại một thời kỳ lịch sử xem ra như vừa đầy đủ, vừa

chặt chẽ, vừa hợp lý thì khó có ai tỏ nổi một nỗi hoài nghi” [103; tr.363].

1.2.4. Tư liệu khảo cổ học

Các nguồn thư tịch cổ, tư liệu dân gian, văn bia, địa bạ, hương ước đều

chỉ là những nguồn tư liệu gián tiếp trong nghiên cứu Thành Cổ Loa, đòi hỏi

phải có sự so sánh nghiêm túc và thái độ cẩn trọng của những nhà nghiên cứu

khi sử dụng nguồn tư liệu này. Do vậy những thông tin mà nó cung cấp bị hạn

chế về tính xác thực và chỉ giúp cho những hình dung trừu tượng về Thành

Cổ Loa. Tư liệu khảo cổ học là nguồn tư liệu quan trọng nhất, là nguồn tư liệu

trực tiếp và là căn cứ xác thực trong những giả thiết khoa học khi nghiên cứu

Thành Cổ Loa. Dựa vào những phát hiện khảo cổ học quan trọng và nổi tiếng

ở Cổ Loa có thể chia tình hình phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học Cổ Loa

thành ba giai đoạn:

- Giai đoạn trước năm 1959.

- Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1982.

- Giai đoạn từ 1982 đến nay.

1.2.4.1. Giai đoạn trước năm 1959

Hai học giả Pháp là Dumoutier G. và Des-pierres R. là hai người đầu tiên

có những hoạt động điều tra nghiên cứu về khảo cổ ở Cổ Loa. Dumoutier G. và

16

Des-pierres R. Đã nghiên cứu địa hình ở Cổ Loa, mô tả các vòng thành, tham dự

các lễ hội, mô tả lại lễ hội nơi đây. Bên cạnh đó, hai ông đã dựa vào ghi chép của

sử cũ, văn bia nói về An Dương Vương và bản đồ địa chính Cổ Loa để lý giải

cuộc đấu tranh, sau đó là sự thắng lợi của An Dương Vương – Thục Phán.

Như vậy cho đến trước năm 1959, những ghi chép của sử cũ (chủ yếu

bằng chữ Hán) đã đề cập đến vị trí của Cổ Loa ở Phong Khê, nay là Cổ Loa,

Đông Anh, Hà Nội; Thành Cổ Loa là “thành của vua Việt” được xây dựng

theo hình xoáy trôn ốc. Từ cuối những năm 50, với những phát hiện vang dội

của khảo cổ học, những cuộc điều tra, khai quật, nghiên cứu toàn diện về Cổ

Loa đã chứng minh những tư liệu trên đây là đáng tin cậy [83; tr.11].

1.2.4.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1982

Giai đoạn nghiên cứu về khảo cổ học Cổ Loa giai đoạn này được đặt

trong bối cảnh chung của công cuộc nghiên cứu sâu rộng về thời đại dựng

nước và giữ nước của dân tộc - thời đại các vua Hùng.

Năm 1959, với việc phát hiện ngẫu nhiên kho mũi tên đồng lớn ở Cầu

Vực đã mở đầu công cuộc nghiên cứu khảo cổ học sâu rộng, quy mô ở Cổ

Loa và khu vực phụ cận. Một loạt các di tích được thám sát, khai quật. Trong

đó có những di tích được khai quật nhiều lần như di tích Bãi Mèn, Đường

Mây… Ngoài ra còn nhiều phát hiện lẻ tẻ ở khu vực xóm Nhồi, xóm Hương,

xóm Thượng. Mũi tên đồng phát hiện ở Cầu Vực có mặt cắt hình tam giác,

chuôi tròn, dài để lắp vào thân đã trở thành một trong những loại hình di vật

đặc trưng riêng ở Cổ Loa: “Mũi tên đồng Cổ Loa”.

Nghiên cứu Thành Cổ Loa về khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học,

văn hóa dân gian ở giai đoạn này phải kể đến các cuộc điều tra sưu tầm của Đội

Khảo cổ thuộc Bộ Văn hóa, tổ Cổ sử - trường Đại học Tổng hợp Hà Nội vào

các năm 1959, 1964, 1966 và 1967 tại khu vực Mả Cơ, Cầu Cả, Đống Chuông

– Đống Dáo,… Đầu năm 1970, Viện Khảo cổ học đã khai quật Thành Ngoại

17

Cổ Loa tại phía Nam Gò Cụ (xóm Mít). Trong cuộc khai quật này, mặt cắt

Thành Ngoại được chia thành bốn lớp, ba lớp trên là đất đắp thành, lớp dưới

(lớp A) là đất gốc của đồi gò dạng cong khum. Dựa vào cấu tạo các lớp đất,

hiện vật khảo cổ và thành phần bào tử phấn hoa chứa trong các lớp đất, các nhà

khảo cổ và địa chất đã thành lập được sơ đồ phân chia các lớp đất đắp Thành

Cổ Loa (Bảng 1.1). Thành phần bào tử phấn hoa cho thấy vùng mở hố khai

quật trước đây là một vùng đồi, cây thân mộc chiếm chủ yếu [101; tr. 34].

Qua nghiên cứu về tòa thành và các di tích ở vùng Cổ Loa, các nhà khoa

học đã nhận diện được phần nào tính chất, cấu trúc, chức năng của tòa thành cổ

này và khẳng định một sự thật lịch sử: Cổ Loa là kinh đô dưới thời nhà nước

Âu Lạc, Thành Cổ Loa được An Dương Vương xây dựng ở Phong Khê (nay là

Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội), nơi mà trước đó đã có cư dân sinh sống đông đúc.

Tư liệu đã công bố ở thời kỳ này gồm: 4 tập Hùng Vương dựng nước do

Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành vào các năm 1970, 1972, 1973 và 1974.

Liên quan trực tiếp đến lịch sử, khảo cổ học Cổ Loa là các công trình công bố

của cố GS. Trần Quốc Vượng: Cổ Loa những kết quả nghiên cứu vừa qua và

những triển vọng tới (1969), Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử (1970)…và những

bài nghiên cứu về nhà nước sơ khai Âu Lạc, xã hội Âu Lạc, đời sống vật chất –

tinh thần của cư dân Âu Lạc, nguồn gốc An Dương Vương, An Dương Vương

với việc xây thành Cổ Loa, vị trí của Cổ Loa với vai trò là Quốc đô, những phát

hiện mới về khảo cổ học có liên quan đến Cổ Loa ở các xã, các vùng xung

quanh như Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Gia Lâm, Hà Tây cũ (nay là Hà Nội),

Phú Thọ… được đăng tải trên Tạp chí Khảo cổ học, Nghiên cứu lịch sử, Dân

tộc học, Văn học, Những phát hiện mới về khảo cổ học…

Vào các năm 1972 – 1973, khi đào huyệt mộ tại Đầm Cả (Đường Cấm

Xứ), phía Đông Thành Cổ Loa, nhân dân địa phương tình cờ làm bật lên một

số viên cuội có vết ghè đẽo, gia công của con người. Vào tháng 3/1983, trong

18

chương trình điều tra khảo cổ học khu vực Cổ Loa và khai quật di chỉ Đường

Mây lần thứ tư, khoa Lịch sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã phát hiện

hơn chục viên cuội được gia công tại khu vực Đầm Cả, Đường Bụt, Đường

Rìu. Theo GS. Trần Quốc Vượng và PGS.TS Hoàng Văn Khoán, đó là những

viên cuội được ghè đẽo ở rìa cạnh, trên hai mặt của viên cuội còn giữ lại vỏ

cuội tự nhiên. Phần lớn những hiện vật này là công cụ chặt, nạo hay cắt với kỹ

thuật ghè thô sơ, loại hình chưa ổn định.

Trên cơ sở những thành tựu lớn ở giai đoạn này mà Bản đồ Khảo cổ

học khu vực Cổ Loa đã được xây dựng (1966) và tiếp tục được điền thêm do

những phát hiện mới ở giai đoạn này [83; tr.12].

1.2.4.3. Giai đoạn từ 1982 đến nay

Năm 1982 với việc phát hiện ra trống đồng Cổ Loa I với bộ di vật đồ sộ

ở địa điểm Mả Tre đã mở đầu giai đoạn này của khảo cổ học khi nghiên cứu

về Cổ Loa.. PGS. TS Chử Văn Tần đã nói về phát hiện này trong cuốn Phát

hiện Cổ Loa năm 1982 như sau: “Phát hiện này được xem như là một trong

những phát hiện khảo cổ học vang dội nhất đến nay về thời đại kim khí ở Cổ

Loa nói riêng và Việt Nam nói chung” [73; tr. 55-75]. Trống đồng Cổ Loa

được các nhà nghiên cứu xếp vào nhóm với 4 trống được coi là sớm nhất, đẹp

nhất của trống đồng loại I Heger đã phát hiện ở nước ta cho đến nay. Trong

lòng trống phát hiện khoảng 200 hiện vật đồng các loại bao gồm: nhạc khí,

giáo, dao găm, rìu, cuốc, xẻng, lưỡi cày, dao gặt, đục, tiền đồng… Phát hiện

này có ý nghĩa lớn đối với việc nghiên cứu nền văn minh sông Hồng.

Sau phát hiện trống đồng Cổ Loa ở Mả Tre, các di tích ở khu vực Cổ

Loa và vùng phụ cận được khai quật, nghiên cứu. Di chỉ Đình Tràng (Dục Tú)

trong giai đoạn này đã được khai quật qua các năm: 1969, 1970,1971, 1985,

1997, 1999, 2002, 2010. Di chỉ này được xem là tiêu biểu trong thời đại kim

19

khí ở Việt Nam, với bốn tầng văn hóa rõ rệt từ Phùng Nguyên – Đồng Đậu –

Gò Mun – Đông Sơn.

Năm 1997, các nhà khảo cổ học đào thám sát tại 4 di chỉ: Đồng Vông,

Tiên Hội, Bãi Mèn và Đình Tràng. Cư dân cổ Đình Tràng, Bãi Mèn, Đồng

Vông, Tiên Hội, Xuân Kiều chính là những người đầu tiên đến khai phá và làm

chủ nơi này, họ cùng sinh sống dưới một thời, có quan hệ trao đổi mật thiết với

nhau. Đồng Vông (nằm ở phía Nam và gần vòng Thành Ngoại Cổ Loa) là một

di chỉ cư trú của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước có hoạt động chế tác và

sửa chữa đồ đá thuộc văn hoá Phùng Nguyên. Liền sau Đồng Vông là nhóm cư

dân cổ Xuân Kiều và Tiên Hội. Di chỉ Xuân Kiều bị vòng Thành Ngoại Cổ Loa

đắp đè lên trên, là di tích chuyển tiếp từ giai đoạn Phùng Nguyên lên giai đoạn

Đồng Đậu; di chỉ Tiên Hội cùng tính chất, niên đại với Xuân Kiều, có sự tương

đồng với Đình Tràng trong giai đoạn văn hoá Đồng Đậu [42; tr.41].

Năm 2002 – 2003, khai quật Bãi Mèn - một di chỉ nằm liền kề Đồng

Vông và Cầu Vực đã chỉ ra rằng đây là nơi chế tác và sửa chữa công cụ đồ

trang sức bằng đá. Bãi Mèn thuộc nhóm di tích khảo cổ học thuộc thời đại đồng

thau, giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên muộn, đầu Đồng Đậu sớm, niên đại

cách ngày nay khoảng 3500 - 3000 năm [42; tr.42].

Cuối năm 2004 đến đầu năm 2005, trước khi trùng tu, tôn tạo các kiến

trúc thờ tự tại di tích đền Thượng (đền An Dương Vương), Ban Quản lý di tích

và Danh thắng Hà Nội đã phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật

thăm dò tại đền Thượng – góc Tây Nam Thành Nội. Sáu hố khai quật đều được

mở ở khu đất phía Đông đền, với tổng diện tích 134m2. Lần đầu tiên phát hiện

những di tích và di vật là vật liệu xây dựng, trang trí kiến trúc, đồ dùng hàng

ngày của cư dân thời Trần và phát hiện lớp văn hóa giai đọan văn hóa Đông

Sơn muộn ở đền Thượng, trong lớp văn hóa này có một phát hiện quan trọng

khi tìm thấy di tích đúc mũi tên đồng ba cạnh, được các nhà nghiên cứu gọi là

20

mũi tên đồng Cổ Loa. Tại hố cắt Thành Nội năm 2005 ở đền Thượng, mặt cắt

được chia thành 6 lớp. Hai lớp dưới cùng (lớp 5 và lớp 6) là đất gốc, 4 lớp còn

lại là đất đắp thành. Trong đó lớp trên cùng (lớp 1) được đắp vào giai đoạn

muộn, tương đương với thời gian trùng tu đền Thượng vào thế kỷ XVIII - XIX.

Tiếp theo, trong năm 2006 và 2007, Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa -

Thành cổ Hà Nội phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật đền Thượng lần thứ

ba, đã phát hiện một hệ thống lò đúc mũi tên đồng Cổ Loa với quy mô lớn và

nhiều di tích thuộc các giai đoạn Trần, Lê - Nguyễn [101; tr. 56, 57].

Di chỉ lò đúc đồng đền Thượng là phát hiện nổi tiếng và quan trọng thứ

ba của khảo cổ học tại Cổ Loa sau phát hiện kho mũi tên đồng ở Cầu Vực và

trống đồng ở Mả Tre.

Chặng đường nghiên cứu về Cổ Loa là một chặng đường dài, đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩm về khảo cổ học, lịch sử, văn hóa… về

Cổ Loa được công bố: Cuốn Hà Nội thời đại đồng và sắt sớm của Trịnh Cao

Tưởng và Trịnh Sinh, Phát hiện Cổ Loa 1982 xuất bản năm 1983, Cổ Loa

truyền thống và cách mạng do Đảng ủy xã Cổ Loa xuất bản năm 1988 hay Cổ

Loa – Trung tâm hội tụ văn minh sông Hồng (xuất bản năm 2002) của

PGS.TS Hoàng Văn Khoán viết; các luận văn tốt nghiệp của sinh viên chuyên

ngành Khảo cổ học – Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp nay là Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, luận án tiến sĩ của PGS. TS Lại Văn Tới có

tên Các di tích đồng thau và sắt sớm khu vực Cổ Loa trong bối cảnh thời đại

kim khí đồng bằng Bắc Bộ (năm 2000) là những công trình nghiên cứu sâu về

Cổ Loa. Từ năm 2007 đến nay, PGS.TS. Nam C. Kim (Đại học Wisconsin –

Madison, Hoa Kỳ) đã phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long -

Hà Nội và Viện Khảo cổ học tiến hành nghiên cứu Thành Cổ Loa. Kết quả

này đã giúp xuất bản nên cuốn sách “The Origins of Ancient Vietnam” năm

2015 và cuốn “Kết quả nghiên cứu Thành Cổ Loa” năm 2018.

21

Bên cạnh các di chỉ khảo cổ học thì di tích Thành Cổ Loa là yếu tố quan

trọng nhất trong quần thể khu di tích Cổ Loa hiện nay. Từ hơn nửa thế kỷ nay,

trong quá trình nghiên cứu về Thành Cổ Loa đã có nhiều ý kiến khác nhau về

niên đại của toà thành cổ này:

Ý kiến thứ nhất của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, sau đó là Ngô

Tất Tố, Phạm Văn Kỉnh cho rằng, Thành Ngoại và Thành Trung do An

Dương Vương xây dựng, vòng Thành Nội được xây dựng sau thời An

Dương Vương Vào những năm 50, GS. Đào Duy Anh cho rằng tên Loa

Thành mới chỉ được người Trung Quốc đặt ra từ thời Tống. Toà thành hiện

nay có thể là Kiển Thành do Mã Viện xây dựng cùng với thành cũ của An

Dương Vương [2; tr. 140].

Ý kiến thứ hai của GS. Đỗ Văn Ninh khi so sánh và đoán định niên đại

cho những đầu ngói ống, ngói bản…tìm thấy trong những lớp tường thành

trong cùng, đã không công nhận những dấu tích vật chất này thuộc về thời đại

An Dương Vương mà là của thời Đông Hán. Đồng thời cho rằng hai vòng

thành ngoài trông có vẻ sớm hơn thời An Dương Vương [52; tr. 390 – 394],

[104; tr. 381 – 382].

Ý kiến thứ ba của GS. Trần Quốc Vượng, sau đó là Nguyễn Duy

Chiếm, Trương Hoàng Châu được khá nhiều người ủng hộ, cho rằng cả ba

vòng thành đều do An Dương Vương xây dựng theo cách thức đắp nối các gò

đất tự nhiên. Sau đó các vòng thành luôn được tái sử dụng, sửa chữa đắp

thêm. Riêng vòng Thành Nội được sửa chữa theo quy cách đương thời -

vuông vức, cân đối, có nhiều vọng gác rất giống kiểu dáng những thành

Trung quốc xuất hiện từ thời Hán về sau [6, tr. 386], [7; tr. 388], [104, tr.381].

22

Tiểu kết Chương 1

Cổ Loa là khu di tích quan trọng trong lịch sử và văn hóa dân tộc.

Thành Cổ Loa, kinh đô nước Âu Lạc dưới triều đại An Dương Vương là địa

bàn duy nhất trên nước ta hiện còn lưu giữ được khá đầy đủ dấu tích của một

tòa thành là sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước

chống ngoại xâm. Đây còn là địa bàn cư trú của người Việt cổ (các thời kỳ đồ

đá, đồ đồng, đồ sắt) đã phát lộ và còn tiềm ẩn nhiều dấu tích quan trọng của

các giai đoạn văn minh tiền Hán và giai đoạn giao thoa Hán Việt. Thành Cổ

Loa có vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử và văn hiến của dân tộc.

Từ việc tập hợp các nguồn tư liệu về Thành Cổ Loa, chúng tôi có một vài

nhận xét sau: Hệ thống tư liệu nghiên cứu về Cổ Loa rất đa dạng với nhiều loại

hình khác nhau từ thư tịch cổ, tư liệu dân gian, văn bia, địa bạ, hương ước… Sự

phong phú của các nguồn tư liệu sẽ cung cấp thông tin về Thành Cổ Loa cũng

rất đa dạng, nhiều chiều. Do vậy sẽ cung cấp cho nhà nghiên cứu có được cái

nhìn nhiều mặt hơn, đầy đủ hơn về Thành Cổ Loa trong tiến trình lịch sử dân

tộc. Tuy nhiên, các nguồn sử liệu này lại gây khó khăn trong quá trình tổng hợp

thông tin bởi các yếu tố mang tính truyền thuyết, huyền thoại, truyền miệng nên

ít mang tính xác thực. Nguồn tư liệu có tính giá trị cao nhất trong nghiên cứu

Thành Cổ Loa là tư liệu khảo cổ học bởi vì đây là nguồn tư liệu gốc, trực tiếp.

Các hiện vật khảo cổ còn gắn chặt với đời sống của cư dân Cổ Loa thời cổ và

quá trình đắp thành lũy. Nhiều di tích khảo cổ học còn là một bộ phận hữu cơ

không thể tách rời trong cấu trúc tòa thành này. Vì vậy, trên tất cả, nguồn tư liệu

khảo cổ học là nguồn thông tin quan trọng nhất khi nghiên cứu đề tài này. Trước

đây, việc định niên đại cho các di tích khảo cổ học vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến

khác nhau và các vấn đề khác của Thành Cổ Loa như vấn đề chủ nhân, niên đại,

kỹ thuật đắp thành. Tuy nhiên, những nghiên cứu và khai quật khảo cổ học từ

năm 2007 đến năm 2014 đã dần làm sáng tỏ các vấn đề còn nhiều tranh luận đó.

23

CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỚI VỀ KHẢO CỔ HỌC BA VÒNG THÀNH CỔ LOA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014

Cho đến nay, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đều chỉ ra rằng

Thành Cổ Loa là một công trình quân sự nhằm để chống lại các thế lực bành

trướng từ phương Bắc xuống. Sử cũ đã chép và một số nhà khoa học cũng

cho rằng hai vòng thành ngoài (Thành Trung, Thành Ngoại) do An Dương

Vương đắp, vòng thành trong (Thành Nội) do Mã Viện và sau đó là Ngô

Quyền đắp. Có nhiều tài liệu thành văn, đặc biệt là tư liệu khảo cổ học về

việc phát hiện ngôi mộ gạch thời Đông Hán chôn trong Thành Ngoại tại xóm

Vang đã loại bỏ ý kiến cho rằng Thành Nội Cổ Loa do Mã Viện đắp. Sử cũ

chỉ ghi Ngô Quyền đóng đô ở Cổ Loa chứ không nói đến việc ông đắp

Thành Cổ Loa. Mặt khác, Ngô Quyền chỉ ở ngôi được 6 năm (939 – 944),

trong điều kiện tình hình đất nước phức tạp, chắc không đủ thời gian, nhân

lực, vật lực để đắp những vòng thành kiên cố, quy mô lớn như Thành Cổ

Loa. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao hai vòng thành ngoài lại có hình dáng và

đường cong tự nhiên khép kín, mà vòng Thành Nội lại có hình dạng vuông

vức với các hỏa hồi cân xứng ở các tường thành giống thành Hán. Kết quả

những lần khai quật từ năm 2007 đến năm 2014 dưới đây sẽ góp phần làm

sáng tỏ điều này (SĐ 06).

2.1. Một số khái niệm

- Thành là một loại hình kiến trúc phòng vệ của một cộng đồng người

này để chống lại sự xâm nhập của cộng đồng người khác. Thành thường có

một hoặc nhiều vòng tường cao, dày bao quanh một khu đất rộng, mở một

hoặc nhiều cửa ra vào. Bên cạnh tường cao thường có hào sâu và những đoạn

luỹ hoặc những pháo đài để làm tăng thêm sự kiên cố cho toà thành. Đôi khi

người ta cũng gọi những đoạn tường luỹ to và dài là thành.

24

Phần lớn các thành có nhiều chức năng: là trung tâm kinh tế và văn

hoá, trung tâm chính trị, trung tâm quân sự của một quốc gia hay một đơn vị

hành chính địa phương. Các toà thành giữ chức năng là thủ đô của một nước

được gọi là “kinh thành” hay “đô thành”, “kinh đô”. Còn các toà thành chỉ giữ

vai trò là lỵ sở của một đơn vị hành chính địa phương thì gọi theo sự phân cấp

của địa phương đó như “châu thành”, “quận thành”, “tỉnh thành”, “huyện

thành” [36; tr. 245].

- Hoả hồi là các ụ đất phòng vệ được đắp cao hơn mặt thành và nhô ra

phía ngoài khoảng 10 - 50m. Tại Thành Nội Cổ Loa có 12 - 18 ụ hoả hồi. Đó

là các trạm gác tốt, giúp mở rộng quan sát của người lính gác [57; tr. 178].

- Đất gốc là đất do thành tạo tự nhiên mà có, có thể hiểu chính là sinh

thổ hay lớp đất cái.

2.2. Cấu tạo địa tầng và các giai đoạn đắp thành, đặc trưng di tích

2.2.1. Thành Trung (2007 - 2008)

Thành Trung được khai quật vào năm 2007 và năm 2008 do Viện Khảo

cổ học phối hợp với Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội, đại học

Wisconsin – Madison, Mỹ. Hai hố khai quật được mở gần cửa Bắc Thành

Trung, thuộc địa phận xóm Thượng và xóm Bãi, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh

- Hà Nội. Hố H1 cắt Thành Trung, cách cửa Bắc 36m, hố H2 cắt hào Thành

Trung, cách cửa Bắc 20,4m về phía Đông. Hai hố khai quật có tọa độ 210

07’415’’ vĩ độ Bắc; 105052’291’’ độ kinh Đông. Mặt thành, nơi mở hố khai

quật H1 cao hơn mực nước biển 38,4m. Mặt hào, nơi mở hố khai quật H2 cao

hơn mực nước biển 34,6m (SĐ 07).

Hố H1 có diện tích 12,5m2 (chiều dài Bắc – Nam 26,5m x chiều rộng

Đông – Tây 5m), đào sâu từ 4,00 - 4,80m.

Hố H2 có diện tích 150m2 (chiều dài Bắc – Nam 30m; chiều rộng Đông

– Tây 5m, đào sâu 4,8m.

25

2.2.1.1. Cấu tạo địa tầng, các giai đoạn đắp thành

- Các giai đoạn đắp thành Trung ở xóm Thượng:

Mặt cắt Thành Trung sâu từ 4 - 4,3m. Theo màu sắc các lớp đất được

chia thành 5 lớp. Theo kỹ thuật đắp hay số lần đắp được chia thành 5 lớp đất

đắp tính từ dưới lên trên (từ sớm đến muộn), tương đương với bốn lần đắp cơ

bản. Thứ tự các lớp đất đắp thành như sau (Bảng 2.2, 2.3; BV 03, 04; BA 13):

- Lần đắp đầu tiên: Lớp 4 (tương đương với lớp đất 5 ở dưới cùng):

Lớp đất đào rãnh từ nền đất gốc (sinh thổ), tạo hào, nền và tường vọng gác; 2

bên đắp lũy phía trước (phía Bắc), nền, tường (ụ) vọng gác ở phía sau (phía

Nam). Lũy, tường và nền vọng gác đều có kỹ thuật đắp giống nhau: Đắp bằng

đất gốc màu xám đen trước sau đó có lẽ được đắp phủ thêm lớp đất màu nâu

đỏ vào hai bên và bên trên, dày khoảng 5 - 18cm. Ở chân lũy và nền vọng

gác, có thể được gia cố thêm. Khi đắp lớp này có lẽ đất được đầm, nện kỹ nên

không còn dấu vết của viên đất. Bên trong, bên cạnh nền vọng gác xuất lộ đồ

gốm văn hóa Đông Sơn kiểu Làng Cả, đồ sắt và di tích bếp lửa.

- Lần đắp thứ hai: Lớp 3 (tương đương với lớp đất 4 và 3): Khi đắp lớp

3, đất được đổ trùm lên trên di tích lũy, nền và tường vọng gác ở dưới đã có từ

trước. Đất được đổ một cách tự nhiên nên tạo thành dạng đống cao hình chóp

nón. Trên mặt cắt hố khai quật, lớp 3 gồm các lớp đất màu nâu, trắng xám có

dạng cong khum, nhiều viên đất còn nguyên hình dáng ban đầu: hình chữ nhật,

hình vuông, hình thang… Lớp 3 không có hiện vật khảo cổ học.

- Lần đắp thứ ba: Lớp 2 (tương đương với lớp đất 2): Trước khi đắp lớp

2, thành được mở rộng bề mặt bằng cách đắp phụ ở 2 bên lớp đất pha cát thô

màu vàng lẫn nhiều sạn sỏi nhỏ. Mặt thành phía Nam được đắp nhiều và rộng

hơn mặt phía Bắc. Đất đắp thành lớp 2 có màu nâu sẫm, màu nâu vàng phủ

trùm lên toàn bộ lớp 3, phần đắp mở rộng ở 2 bên. Mỗi lần đắp, đất được san

phẳng, đầm, nện kỹ nên trên vách hố, lớp 2 gồm: Nếp đất khá phẳng, nằm

26

ngang, đất chặt, mịn, không còn hình thù ban đầu của viên đất như ở lớp 3.

Đất trên cùng của lớp 2 màu nâu vàng ở 2 bên thành, đặt biệt ở phía Nam,

xuất lộ lớp ngói Cổ Loa khá dày. Ở mặt thành phía Nam, thấp hơn lớp ngói

xuất lộ nhiều đá (cuội, sỏi lớn, đá tự nhiên…).

- Lần đắp thứ tư: Lớp 1 (tương đương với lớp đất 1): Lớp trên cùng, đất

màu nâu ngả vàng và nâu xám. Dấu vết để lại trên vách hố cho thấy kỹ thuật

đắp lớp này giống lớp 2. Hiện vật trong lớp này có đồ sành, đồ gốm tráng

men thế kỷ XVIII - XIX, một số mảnh ngói Cổ loa và hiện vật hiện đại.

Những người khai quật cho rằng, cả năm lớp đất đắp thành, trong đó

lớp 5 lấy đất gốc đắp thành quy mô nhỏ, gồm: Hào – Thành – Hào - Nền +

Tường chắn và là lớp thành sớm nhất, còn các lớp khác đắp trùm lên lớp 5

được lấy đất từ việc đào hào và nhiều nơi khác để đắp.

- Các lớp trầm tích hào thành Trung ở xóm Bãi:

Địa tầng hào thành Trung sâu 4,8m, lớp 1 đến lớp 17 có chứa hiện vật khảo

cổ. Lớp 18, đất cát màu nâu loang lổ, không chứa hiện vật khảo cổ. Theo quan

điểm của những người khai quật, đấy là sinh thổ và là đáy hào thời An Dương

Vương. Tuy nhiên, theo các nhà địa chất, lớp đất sâu nhất có thể là đáy hào tự

nhiên phải nằm sâu thêm 2m nữa và có chứa chất hữu cơ thối mục màu đen.

Theo các lớp trầm tích, có thể chia địa tầng hào thành 4 lớp chính

(không kể lớp mặt hào đang canh tác). Từ dưới lên trên, các lớp trầm tích lắng

đọng theo thời gian từ sớm đến muộn như sau:

- Lớp 4: Gồm các lớp trầm tích 17, 16, 15. Đất pha nhiều cát màu

nâu vàng, lốn đốm và loang lổ laterit màu nâu tươi, chứa nhiều đá cuội và

ngói Cổ Loa.

- Lớp 3: Gồm các lớp trầm tích 14, 13, 12. Đất nâu hơi ngả vàng, chứa

hiện vật như lớp 4 (BV 09).

27

- Lớp 2: Gồm các lớp trầm tích 10, 9 (4). Đất màu xám đỏ, chứa sành,

gốm tráng men, gạch, ngói thế kỷ XV, XVII, XIX. Trong lớp này và tương

đương với bình diện lớp này ở bờ bắc của hào, xuất lộ 3 lò gốm.

- Lớp 1: Gồm các lớp trầm tích 3, 2. Đất màu xám đỏ, chứa vật liệu

hiện đại.

2.2.2.2. Di tích

- Di tích lũy phòng thủ (vọng gác): Di tích xuất lộ trong lớp đắp thành 4

(gồm lớp đất 4 và 3). Lớp 4 đắp phủ trùm lên toàn bộ di tích này. Từ ngoài

vào trong (bắc - nam) di tích gồm: hào - lũy - hào - vọng gác (vọng gác có

tường đất cao bảo vệ). Lũy, tường bảo vệ, nền vọng gác được đắp bằng đất

đào hào trực tiếp từ đất gốc màu nâu xám. Sau đó lũy, tường và nền được đắp

dày và cao thêm bên ngoài bằng một lớp đất màu nâu đỏ. Ngoài ra mặt cắt

chân lũy còn được gia cố thêm một lớp đất màu nâu sẫm. Vì vậy, lũy hình

thang, chân rộng, đỉnh hẹp. Quy mô toàn bộ di tích xuất lộ trong hố khai quật:

dài 916cm; rộng 487cm. Trong đó lũy đất phía trước cao 127cm, đỉnh rộng

45cm, giữa thân dày 54cm, chân rộng 200cm. Nền vọng gác dài 440cm, rộng

310cm, cao 31 - 49cm. Tường bảo vệ vọng gác cao 447cm, rộng đỉnh 45cm,

dày giữa thân 65cm, chân rộng 110cm. Trong nền của vọng gác xuất lộ cụm

gốm và đồ sắt thuộc văn hóa Đông Sơn (BA 03, 18, 27).

- Di tích bếp: Di tích xuất lộ trong nền lũy phòng thủ là bếp hình gần

bầu dục, cửa bếp thấp hướng Tây Nam, đường dẫn khói chạy dài và cao dần

về phía đông bắc. Bếp được đào trực tiếp vào nền vọng gác, dấu vết đun nấu

để lại trên thành bếp một lớp đất cháy màu nâu đỏ tươi có xu hướng đậm ở

trong và nhạt dần ra ngoài. Đây là tác động của nhiệt độ đun. Bếp có kích

thước không lớn, tính cả tường 2 bên, rộng 33,5cm, đường thoát khói dài

43cm, rộng trung bình 15cm. Trong lòng bếp có than tro và một vài mảnh

gốm Đông Sơn (BA 19).

28

- Cụm gốm văn hóa Đông Sơn bên trong và cạnh nền vọng gác: Những

mảnh gốm tập trung khá dày đặc, gốm màu nâu xám, rất mềm dễ vỡ (BV 10;

BA 20, 21).

Cạnh cụm gốm trong nền vọng gác còn xuất lộ hiện vật sắt, có thể là chiếc

dao đã bị gỉ nặng. Hiện tượng xuất hiện gốm Đông Sơn dưới chân Thành Trung

giống như trường hợp di chỉ Đường Mây dưới Thành Ngoại tại Xóm Vang.

- Di tích tập trung ngói Cổ Loa và đá: Di tích được ký hiệu F1 là dải

ngói Cổ Loa ở mặt phía Nam thành và di tích F2 là dải ngói Cổ Loa ở mặt

phía Bắc thành. Cả hai dải ngói này đều nằm cách mặt thành hiện nay từ 70 -

90cm. Mặt độ mảnh ngói ở mặt phía Nam thành thường dày đặc, phân bố

rộng, dày từ 20 - 30cm, thường lẫn với những viên đá cuội. Mặt thành phía

Bắc dải gốm xuất lộ rải rác, dày từ 15 - 20cm (BA 22, 23).

- Di tích giai đoạn muộn: Đây là các di tích thuộc giai đoạn muộn,

không liên quan đến thành Cổ Loa nên chỉ được giới thiệu để tham khảo.

Trong hố cắt hào (08.H2), ở lớp trầm tích chứa hiện vật thời Lê đã

xuất lộ 2 bếp lò và 1 lò nung gốm. Hai bếp lò một chiếc hình tròn, một chiếc

hình vuông, nhưng giống nhau là đều được đào sâu vào lòng đất. Trong bếp

lò chứa nhiều than tro và mảng tường bếp sụp đổ. Chiếc lò nung gốm có

dáng hình thoi, mặt cắt ngang thân hình bầu dục, thành lò, cửa lò còn khá

nguyên vẹn. Trong lò không phát hiện được hiện vật hay sản phẩm (BV 05,

06; BA 24 - 26).

2.2.2. Thành Ngoại (2012)

Năm 2012, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội phối

hợp với Viện Khảo cổ học và khoa Nhân học, Đại học Wisconsin

Madison, Mỹ khai quật mở 01 hố có diện tích 72m2 (24 x 3m) ở dải đất

cao của Thành Ngoại, trong khu vực gần gò Đống Dân, xã Cổ Loa, huyện

Đông Anh, Hà Nội.

29

2.2.2.1. Cấu tạo địa tầng và các giai đoạn đắp thành

Mặt cắt thành lũy trên bề mặt có một bậc ở cả mặt phía Bắc và phía

Nam. Bậc phía Nam có thể như một lan can với chức năng phục vụ, bảo vệ sự

di chuyển dọc theo gờ phía trong và có thể tấn công khi đối phương đến. Tuy

nhiên, ở những vị trí khác nhau của Thành Ngoại có những chỗ có ba bậc.

Hiện tượng này có thể giải thích vào giai đoạn muộn với mục đích củng cố

thành lũy ở những nơi khác nhau nên đã được gia cố thành ba bậc, hoặc cũng

có thể vì không đủ nhân lực nên việc tạo thành ba bậc không được thực hiện

trên toàn bộ vòng Thành Ngoại.

Căn cứ vào địa tầng cho thấy các lớp đất trong quá trình xây dựng. Từ

sự riêng biệt của các lớp đất có thể bước đầu đưa ra bốn giai đoạn đắp thành

lũy và hai giai đoạn đắp thêm thành (từ sớm đến muộn) như sau:

- Đắp thành lũy:

Giai đoạn 1: Đào xuống lớp đất mặt, bỏ lớp đất này đi và đắp lên đó

lớp đất dày từ 6cm đến 10cm, rộng 10,05m, ở độ sâu so với mặt thành hiện tại

từ 240cm đến 269cm. Nền đất dốc từ phía Nam về phía Bắc với chênh lệch

cao độ 29cm, nền đất cao ở phía Tây dốc về phía Đông với chênh lệch 14cm.

Bề mặt nền khá bằng phẳng, tuy nhiên đôi chỗ lõm xuống, đây có thể là dấu

vết của quá trình đầm nền. Nền được đắp bằng đất laterite màu đỏ sẫm, nâu,

xám đen lẫn hạt sạn sỏi nhỏ, nền đất rất cứng. Nền đất nằm gần như chính

giữa thành giai đoạn sớm (BV 21 – 22; BA 05 - 06).

Sau khi đắp xong nền đất một khoảng thời gian nhất định thì cư dân

mới đắp phủ lên nền đất lớp đất laterite màu đỏ sẫm, đất sét màu trắng xám và

đất thịt màu xám đen rộng 10,40m, cao 47 - 57cm (so với mặt nền đất). Theo

chúng tôi nền đất này được để một khoảng thời gian khá dài thì mặt nền mới

tách biệt với lớp đất đắp bên trên.

30

- Giai đoạn 2: Đắp đất laterite màu đỏ sẫm, nâu, xám đen lẫn đất sét

màu trắng xám về cả hai phía Bắc - Nam, rộng 14,18m, cao 114cm (so với

mặt nền đất). Đầu phía Bắc của giai đoạn 2 cách đầu nền đất giai đoạn 1 về

phía Bắc 140cm, phía Nam giai đoạn 2 cách đầu nền đất 300cm. Chênh lệch

cao độ từ phía Nam về phía Bắc 29cm.

Giai đoạn 1 và giai đoạn 2 không có di vật khảo cổ học như ngói Cổ Loa.

- Giai đoạn 3: Đắp lớp đất laterite màu nâu sẫm lẫn đất sét màu trắng

xám, từ một phần ở đỉnh của giai đoạn đắp thành lần thứ 2 về phía bắc, rộng

13,46m, cao 60cm so với đỉnh của giai đoạn 2. Chênh lệch cao độ từ đỉnh đến

chân thành (phía Bắc) 291cm. Trong giai đoạn này khi đắp có lẫn mảnh ngói

Cổ Loa ở rìa ngoài chân thành về phía Bắc.

- Giai đoạn 4: Đắp lớp đất màu vàng sáng lẫn đất sét màu trắng xám từ

một phần giai đoạn 3 về phía Nam, rộng 11,80m, cao 25cm so với đỉnh của

giai đoạn 3. Chênh lệch cao độ từ đỉnh đến chân về phía Nam 232cm. Gần

phần chân thành giai đoạn này về phía Nam có lẫn một số mảnh ngói Cổ Loa.

+ Đắp thêm thành lũy:

- Lần thứ nhất: Đắp đất laterite màu vàng lẫn đất sét màu trắng xám về

hai phía Bắc, phía Nam thành. Phủ lên giai đoạn 3 về phía Bắc và giai đoạn 4

ở phía Nam. Trong giai đoạn tu sửa này được gia cố nhiều đá và ngói Cổ Loa

ở chân thành về phía Nam. Đỉnh lần gia cố này thấp hơn mặt thành hiện tại

11cm, cao 239cm (so với mặt nền đất). Chênh lệch cao độ từ đỉnh đến chân

thành phía Bắc 300cm.

- Lần thứ hai: Cũng như lần tu sửa lần thứ nhất, lần tu sửa này cũng

được đắp thêm về cả hai phía Bắc và Nam thành là đất màu nâu đỏ, vàng nhạt

pha cát. Diện tích của lần gia cố này như thành hiện tại, rộng 26m, cao 250cm

(so với mặt nền đất). Chênh lệch cao độ từ đỉnh đến chân là 322cm.

31

Thông qua nghiên cứu về địa tầng thành không thấy có lớp trầm tích tự

nhiên/ xói mòn nên giả thiết đưa ra là phần lớn vòng thành được xây dựng

liên tục trong một khoảng thời gian tương đối nhanh, có thể duy nhất một thế

hệ thực hiện.

Theo nhận định của các chuyên gia tham gia khai quật thì các giai đoạn

đắp thành như sau: Từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 4 của một thời kỳ, sau đó đến

giai đoạn đắp thêm thứ nhất. Hoặc cũng có thể giai đoạn đắp thêm lần thứ

nhất cũng thuộc giai đoạn này (giai đoạn Cổ Loa). Giai đoạn đắp thêm lần thứ

hai ở phía Bắc và phía Nam từ lớp mặt đến lớp 19 thuộc giai đoạn thời Lê

Trung Hưng (BV 12 – 19).

Giai đoạn đắp nền bằng đất laterite trên bề mặt đất bùn có tác dụng như

nền móng cho công trình. Sau khi nền đất được hoàn tất, giai đoạn tiếp theo

đã làm to thêm kích thước của tường thành (BV 21 - 22).

Kỹ thuật đắp Thành Ngoại khác với kỹ thuật đắp giai đoạn 2 của Thành

Trung (niên đại AMS 399 – 206 TCN, năm 2007 - 2008) không có kỹ thuật

cắt đất được phát hiện trong quá khứ của xã hội Trung Quốc cổ. Phương pháp

cắt đất thường được dùng để xây dựng tường thành và nền móng cho các tòa

nhà tại Long Sơn (Longshan) (khoảng 3.000 – 1.800 năm TCN) và các di chỉ

thuộc văn hóa Thương (khoảng 1.600 – 1.046 TCN). Như vậy, có thể nhà Hán

đã xây dựng giai đoạn 2. Tuy nhiên, cắt đất ở các di chỉ thuộc nhà Hán Trung

Quốc có xu hướng mỏng và có độ dày thống nhất trong khoảng 12 - 14cm,

trong khi các lớp đất cắt của giai đoạn 2 đã rất dày, thô và thiếu tính đồng

nhất. Các tài liệu của các nền văn minh khác nhau cho thấy sử dụng kỹ thuật

cắt đất đã được ghi trong hồ sơ khảo cổ học và dân tộc học ở thành phố miền

Nam Lưỡng Hà, Inka của Peru và các quốc gia Yoruba ở Châu Phi. Do đó có

thể cho rằng giai đoạn 2 của thành Trung là do ảnh hưởng từ Trung Quốc

hoặc dưới sự chỉ đạo của người Trung Quốc [15; tr.4].

32

2.2.1.2. Di tích

Tại Thành Ngoại năm 2012 đã phát hiện được nền gia cố bằng đất gốc

trước khi đắp thành trong hố khai quật Thành Ngoại năm 2012.

Bên cạnh đó, trong hố khai quật Thành Ngoại năm 2012 tại xóm

Thượng. Theo các chuyên gia khảo cổ học, có một số hiện tượng lạ trong cấu

trúc của đất đắp thành. Đó là hiện tượng đất rạn nứt, không kết dính, tạo bột

mịn màu trắng. Có thể đó là dấu vết của hiện tượng động đất? Vấn đề này

đang tiếp tục được nghiên cứu. Nếu hiện tượng động đất được xác nhận, cũng

đồng thời xác nhận cốt lõi của truyền thuyết thần Kim Quy/Thanh Giang xứ

được Huyền Thiên Trấn Vũ sai xuống giúp An Dương Vương khắc phục hiện

tượng “thành cứ xây xong lại đổ” (BA 14).

Như vậy, giai đoạn đắp thêm lũy thành lần thứ nhất có thể vào một thời

điểm nào đó sau khi đắp xong Thành Ngoại vì hiện vật khảo cổ học phát hiện

được đều nằm trong khung niên đại này, hoặc cũng có thể được đắp cùng thời

gian với giai đoạn Cổ Loa? Theo tư liệu khảo cổ học được phát hiện trong lần

khai quật này có thể bước đầu khẳng định giai đoạn đắp thêm lần thứ 2 Thành

Ngoại ở phía Bắc và phía Nam từ lớp mặt đến lớp 19 thuộc giai đoạn thời Lê

Trung Hưng (BV 12 - 19).

2.2.3. Ụ Hỏa Hồi và Thành Nội (2014)

2.2.3.1. Cấu tạo địa tầng, các giai đoạn đắp thành tại Thành Nội và Ụ

hoả hồi phía Đông Bắc.

Để nghiên cứu về kỹ thuật đắp Thành Nội và Ụ hoả hồi, năm 2014,

đoàn công tác đã mở 03 hố khai quật với tổng diện tích 67m2. Hố H1 diện tích

48m2 (16 x 3m), hố H2 diện tích 9m2 (3 x 3m), hố H3 diện tích 10m2 (4 x

2,5m) tại địa điểm Ụ hỏa hồi, phía Đông Bắc thành Nội, có tọa độ 210115'80''

vĩ độ bắc, 105087'532'' kinh độ đông, thuộc thôn Chợ, xã Cổ Loa, huyện Đông

Anh, Hà Nội.

33

Trong đó vách Nam hố H2 cách vách Bắc hố H1 là 4m; vách Nam hố

H3 cách vách Bắc hố H2 5,60m (SĐ 08).

Căn cứ vào địa tầng cho thấy các lớp đất trong quá trình xây dựng, bao

gồm kết cấu đất, thành phần đất. Từ sự riêng biệt của các lớp đất có thể bước

đầu đưa ra 4 giai đoạn đắp Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc (từ sớm

đến muộn) như sau (BV 23 – 40; BA 08, 10, 29):

- Lần 1 (giai đoạn 1): Đào xuống lớp đất tự nhiên từ 70cm đến 100cm

rồi đắp thành lũy về phía Nam với cao độ chênh lệch theo thế dốc từ phía

Nam về phía Bắc 76cm. Đất đắp thành lũy là đất sét màu nâu có vị trí chủ đạo

lẫn đất sét màu nâu hơi vàng và đất sét màu xám, trên bề mặt thành lũy có rất

nhiều mảnh ngói Cổ Loa và đá nằm về phía Bắc. Bề mặt thành/lũy dài 390cm

(phạm vi các ô từ A, B, C4 đến A, B, C9).

Phía Bắc Thành Nội là Ụ hỏa hồi cao 55 - 58cm, mặt Ụ hỏa hồi khá

bằng phẳng, được đắp từ đất laterite màu đỏ chiếm số lượng lớn, lẫn đất sét

vàng sẫm và đất sét màu xám.

Sau khi đắp xong Thành Nội và Ụ hỏa hồi một khoảng thời gian nhất

định thì cư dân mới đắp phủ lên nền đất tiếp theo (giai đoạn 2). Theo nhận

định của các nhà khai quật, Thành Nội và Ụ hỏa hồi được để một khoảng thời

gian khá dài thì mặt nền mới tách biệt với lớp đất đắp bên trên (BV 33 - 38).

- Lần 2 (giai đoạn 2): Đắp đất lên toàn bộ các di tích của giai đoạn 1,

lần đắp này có độ dày trung bình từ 13cm đến 105cm là đất sét màu nâu hơi

vàng chiếm tỷ lệ lớn, lẫn đất sét hơi xám, xám, nâu, nâu xám tối và đất laterite

màu đỏ. Tuy nhiên, phần đất đắp lên Ụ hỏa hồi (giai đoạn 1) về phía Bắc

được đắp cao hơn bề mặt đất đắp Thành Nội và Ụ hỏa hồi giai đoạn này về

phía Nam trung bình 40cm. Như vậy, việc đắp thêm đất để tạo mặt bằng vào

giai đoạn 2 người thợ đắp Thành Nội và Ụ hỏa hồi vẫn đắp đất theo địa hình

vốn có từ trước.

34

- Lần 3 (giai đoạn 3): Lần đắp này dày 40cm - 130cm, tạo cho bề mặt

Ụ hỏa hồi và Thành Nội khá bằng phẳng. Được đắp từ đất laterite màu đỏ lẫn

sạn sỏi màu đen chiếm tỷ lệ lớn lẫn đất sét màu nâu hơi xám, màu nâu vàng

và màu nâu.

Ngoài ra, trong giai đoạn đắp này ở lớp 21 ô AB6, A7 mỗi ô có 2 cụm

mảnh ngói và từ 1/2 ô A, B, C4 đến ô A, B, C, D12 có 4 cụm mảnh ngói lẫn

than. Các mảnh ngói và than nằm trong lớp đất laterite màu đỏ sẫm chiếm tỷ

lệ lớn, lẫn đất sét màu trắng xám, màu vàng sẫm, xám đen. Phạm vi phân bố

này có diện tích khoảng 800cm.

- Lần 4 (giai đoạn 3): Dày từ 58 - 140cm, được đắp từ đất sét màu nâu

hơi vàng sáng có tỷ lệ lớn lẫn đất laterite màu đỏ, đất sét màu nâu vàng nhạt.

- Lần 5 (giai đoạn 4): Dày từ 20 - 120cm, đất sét màu xám, màu nâu sẫm

Thông qua địa tầng của thành không thấy có lớp trầm tích tự nhiên/xói

mòn, do vậy có thể lũy Thành Nội và Ụ hỏa hồi được xây dựng liên tục trong

một khoảng thời gian tương đối nhanh, có lẽ duy nhất một thế hệ thực hiện.

Ngoại trừ lần 1 (giai đoạn 1), có thể được đắp xong toàn bộ vòng Thành Nội

cũng như Ụ hỏa Hồi thì cư dân lúc đó mới quay lại đắp các giai đoạn tiếp theo.

Do phần phía Nam của Thành Nội đã bị nhà dân xây dựng bên trên nên

không thể biết chắc chắn kích thước của Thành Nội (giai đoạn 1). Nhưng cơ

bản có thể hiểu phần mặt thành/lũy rộng trên 390cm, mặt thành tập trung

nhiều mảnh ngói Cổ Loa, đá, than tro dài 281cm. Ở độ sâu so với mặt Ụ hỏa

hồi hiện tại 350 - 404cm và có độ cao chênh lệch từ đỉnh thành phía Nam về

phía Bắc chân thành là 76cm.

Ụ hỏa hồi (giai đoạn 1) có chiều dài tính từ phần xuất lộ trong hố H1

đến hố H3 khoảng 23m, cao trên 100cm, mặt rộng trên 300cm, bề mặt khá

bằng phẳng. Các giai đoạn đắp thành và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

như sau:

35

- Lần đắp 1 (giai đoạn 1).

- Lần đắp thêm thứ 2 và thứ 3 (giai đoạn 2) .

- Lần đắp thứ 4 (giai đoạn 3).

- Lần đắp thứ 5 (giai đoạn 4).

* Lần đắp 1, lần thứ 2 và lần thứ 3 thuộc giai đoạn Cổ Loa.

* Lần đắp thêm thứ 4, thứ 5 có thể thuộc giai đoạn muộn sau này.

2.2.3.2. Cấu tạo địa tầng, các giai đoạn đắp thành tại Thành Nội phía

Tây Nam (sau đền Thượng).

Để so sánh kỹ thuật đắp thành và niên đại giữa địa điểm Thành Trung

khai quật năm 2007 – 2008, thành Ngoại khai quật năm 2012 và Thành Nội

và Ụ hoả hồi phía Đông Bắc (thôn Chợ), Viện Khảo cổ học trong năm 2014

đã phối hợp với Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội tiếp tục mở

01 hố khai quật, ký hiệu H4 có diện tích 10m2 (5 x 2m) tại địa điểm Thành

Nội sau khu vực Đền Thượng, gần sân bóng đá thôn Lan Trì, có tọa độ

210113'28'' vĩ độ bắc, 105087'111'' kinh độ Đông.

Vách Bắc hố khai quật cách góc Ụ hỏa hồi phía Tây Bắc 101m, vách

Nam hố khai quật cách góc thành và Ụ hỏa hồi phía Tây Nam 25m.

Các giai đoạn đắp thành qua nghiên cứu có thể thấy như sau (BV 39, 40):

- Lần 1 (giai đoạn 1): Dày 75 - 102cm, đất laterite màu nâu sẫm, sạn

sỏi màu đỏ chiếm tỷ lệ lớn, lẫn đất màu nâu.

- Lần 2 (giai đoạn 2): Dày 42 - 50cm, đất màu nâu sẫm, màu nâu

- Lần 3 (giai đoạn 2): Dày 55 - 70cm, đất màu nâu sẫm lẫn sạn sỏi màu

đỏ. Nằm dưới bề mặt lần đắp này 20 - 25cm về phía Tây có khu vực rộng 47 -

65cm, dài 200cm, dày 25 - 40cm tập trung nhiều mảnh ngói Cổ Loa, đá và

than dày từ 30cm đến 40cm. Bề mặt di tích thấp hơn mặt Thành Nội hiện tại

về phía Tây 73 - 85cm và cách mặt sinh thổ 160 - 175cm.

Tuy nhiên, di tích này phát triển về 2 phía Bắc và phía Nam, rộng về

phía Tây hố khai quật. Như vậy, bên ngoài Thành Nội cũng có hiện tượng kè

36

mảnh ngói Cổ Loa, đá như Thành Ngoại, Thành Trung và Thành Nội phía

Đông Bắc.

- Lần 4 (giai đoạn 3): Dày 50 - 83cm, đất laterite màu đỏ hơi vàng, sạn

sỏi màu đỏ chiếm tỷ lệ lớn lẫn đất màu nâu sẫm.

Qua địa tầng và các giai đoạn đắp thành tại địa điểm Thành Nội khu

vực sân bóng Lan Trì có thể thấy lần đắp 1 (giai đoạn 1) và lần đắp thêm thứ

2 và thứ 3 (giai đoạn 2) thuộc giai đoạn Cổ Loa. Lần đắp thứ 4 có thể thuộc

giai đoạn muộn sau này. Kết quả này có tính thống nhất với kết quả khai quật

tại Thành Nội và Ụ hoả hồi phía Đông Bắc (khu vực xóm Chợ) khi chỉ ra rằng

3 thời kỳ đầu thuộc về giai đoạn Cổ Loa và thời kỳ thứ 4 trở đi thuộc về giai

đoan muộn. Tuy nhiên vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu thêm.

2.2.3.1.3. Di tích

- Di tích có ký hiệu F3, xuất hiện trong lần đắp 1 (giai đoạn 1): Di tích tập

trung nhiều mảnh ngói Cổ Loa, đá, than dài 281cm, tiếp tục phát triển về hai

phía Đông, phía Tây hố khai quật. Tức là tương đương với phạm vi chân Thành

Nội. Mặt, chân Thành Nội giai đoạn 1 ở độ sâu so với mặt Ụ hỏa hồi hiện tại từ -

350cm đến - 404cm (lớp đào 24 - lớp 28) (BV 31, 32; BA 30, 31, 34).

- Di tích có ký hiệu F2, xuất hiện trong lần đắp thứ 2 (giai đoạn 2): Di

tích tập trung nhiều mảnh ngói, than tro dày 4cm - 10cm, rộng 120cm -

170cm và phát triển về 2 phía Đông, phía Tây hố khai quật (phân bố trong 1/2

ô A12, A13, 1/3 ô A14; B13, 1/2 ô B14; C13, 1/2 ô C14). Đất trong khu vực

này là đất sét màu xám chiếm tỷ lệ lớn, lẫn đất sét màu trắng xám, màu vàng

sẫm và màu đỏ sẫm. Di tích nằm ở độ sâu -206cm so với bề mặt Ụ hỏa hồi

hiện tại về phía Tây. Đáy di tích nằm cao hơn so với bề mặt Ụ hỏa hồi giai

đoạn 1 là 52cm (lớp 20 đến lớp 22) (BV 30; BA 33).

- Di tích có ký hiệu F1 (lớp 15 đến lớp 21), xuất hiện trong lần đắp 3

(giai đoạn 3): Di tích tập trung nhiều mảnh ngói Cổ Loa, than tro (phạm vi ô

37

A1, B1 - A4, B4; C4), dài 350 - 390cm, rộng 162 - 300cm. Di tích nằm trong

lớp đất sét màu xám hơi sáng loang lổ lẫn đất laterite màu đỏ sẫm và đất sét

màu xám sẫm. Di tích tiếp tục phát triển sang 2 phía Đông, phía Tây hố khai

quật (BV 29; BA 32).

- Di tích giai đoạn muộn trên Thành Nội phía Đông Bắc (TK XVIII –

XIX): Xuất lộ trong phạm vi hố H1, dưới lớp đắp mặt Thành Nội hiện nay

khoảng 10cm (BV 23 - 25):

Thành lò phía Đông cao 70 - 75cm, dày 12 - 15cm, dài 178cm. Thành lò

phía Tây cao 54cm, dày 10cm, dài 180cm. Thành lò phía Nam cao 10 - 12cm,

dày 15 - 16cm, dài 110cm. Thành lò phía Bắc cao 66 - 67cm, dày 13 - 15cm,

dài 120cm. Chiều dài trong lò phía Bắc - Nam 159cm; chiều rộng trong lò phía

Đông - Tây 96 - 100cm. Cửa lò hướng Đông Nam. Sản phẩm của lò nung hoàn

toàn là những mảnh ngói phẳng. Tuy nhiên, cửa lò đã bị móng nhà có kích

thước rộng 90cm, sâu 60cm, dài trên 300cm, cắt qua và móng công trình kiến

trúc tiếp tục phát triển về 2 phía Đông Nam và Tây Bắc hố khai quật. Theo các

cụ ở thôn Hương và thôn Chợ cho biết thì đây có thể là móng của trường học

hay bệnh viện/trạm xá được xây dựng trong thời kỳ kháng chiến chống thực

dân Pháp (khoảng năm 1953 - 1954).

2.3. Di vật

2.3.1. Đồ đá

Đồ đá trong các vòng thành thường xuất lộ cùng với những mảnh ngói

Cổ Loa hoặc ở bình độ thấp hơn gốm một chút. Đá phiến sét chiếm số lượng

lớn nhất. Ngoài ra còn có đá cuội, đá vôi được cư dân đập nhỏ ra rồi gia cố ở

chân thành về phía Nam.

- Hố H1 (Thành Trung): Đá phân bố chủ yếu từ lớp 9 trở xuống, cách

mặt hố khai quật từ 90 - 100cm. Tổng số có 1.223 hiện vật đá, trong đó 917

hiện vật trong các lớp đất đào và 306 hiện vật trong các di tích F1, F2.

38

* Chất liệu đá:

Như đã trình bày ở trên, đá phiến sét chiếm số lượng áp đảo. Đây là

loại đá mềm, chịu được nhiệt độ cao, nên thường được cư dân đương thời

dùng làm khuôn đúc hiện vật kim loại. Tại di tích Đền Thượng, các cuộc khai

quật từ năm 2004 đến năm 2007, đã phát hiện hàng trăm mang khuôn đúc mũi

tên đồng Cổ Loa và hàng nghìn cục đá phác vật, nguyên liệu, phế liệu, phế

thải trong quá trình làm khuôn đúc mũi tên đồng. Sự có mặt với số lượng lớn

loại đá dùng làm khuôn đúc tại Thành Trung và phác vật mang khuôn đúc là

tư liệu quý khẳng định chắc chắn việc đúc mũi tên đồng của cư dân nước Âu

Lạc dưới thời vua An Dương Vương tại Kinh đô Cổ Loa.

* Loại hình:

- Công cụ đá: Tại Thành Trung ở cả hai hố phát hiện được 37 hiện vật

(Hố H1: 33 hiện vật, chiếm 3,5% hiện vật đá hố H1; 89,2 % tổng số hiện vật

đá cả 2 hố; Hố H2: 4 hiện vật, chiếm 1,12% hiện vật đá hố H2, chiếm 10,8%

hiện vật đá ở cả hai hố) (Bảng 2.6, 2.7). Bao gồm các loại hình:

+ Hòn ghè: Thành Trung 14 hiện vật (hố H1: 13 hòn ghè, hố H2: 1

hòn ghè)

+ Chày: 5 hiện vật

+ Hòn kê: 3 hiện vật

+ Bàn mài: 14 hiện vật (hố H1: 11 bàn mài, hố H2: 3 bàn mài)

+ Phác vật khuôn đúc mũi tên đồng: 1 hiện vật.

- Đồ đá khác: Thành Trung: 1.234 hiện vật. (Trong đó: Hố H1: 884 hiện

vật, chiếm 96,5% hiện vật đá hố H1; 71,63% tổng số hiện vật đá ở cả hai hố; hố

H2: 350 hiện vật, chiếm 98,8% hiện vật đá hố H2; chiếm 28,37% hiện vật đá ở cả

hai hố). (Bao gồm: 294 hiện vật trong lớp trầm tích, 60 hiện vật trong các di tích)

Thành Nội: 6 viên đá cuội (Ụ hoả hồi: 1, Thành Nội: 5) xuất lộ cùng

bình độ hoặc thấp hơn những mảnh ngói Cổ Loa ở hai địa điểm khai quật.

39

2.3.2. Đồ gốm văn hóa Đông Sơn:

Tại thành Trung: Phát hiện được ở cả 2 hố khai quật (H1 và H2). Khu

vực nhiều nhất ở trong và bên cạnh nền ụ phòng vệ (H1). Tổng số đồ gốm thu

được 57 mảnh. Phần lớn gốm văn hóa Đông Sơn trong di tích lũy phòng vệ

(H1), nhưng những mảnh gốm đó được giữ lại bảo tồn tại chỗ. Gốm ở đây vỡ

vụn, không có hiện vật nguyên. Gốm màu nâu xám hoặc xám đen thường

được trang trí văn thừng; gốm màu xám hay nâu vàng không trang trí hoa văn.

Về loại hình, trong 57 mảnh gốm Đông Sơn thu được có 2 mảnh miệng, đều

là miệng loe, không trang trí hoa văn, đường kính miệng 24cm. Trong 55

mảnh thân, 17 mảnh được trang trí văn thừng (loại mịn và vừa). Các mảnh

thân có độ dày trung bình 1cm, mảnh dày nhất 1,5cm (Bảng 2.4).

2.3.3. Ngói Cổ Loa

Bảng 2.1. Thống kê mảnh ngói Cổ Loa

tại các vòng thành từ năm 2007 đến năm 2014

STT Nội dung ĐVT Số lượng Tỷ lệ

Thành Trung (2007 - 2008) Mảnh 5.595 77,34% 1

Thành Ngoại (2012) Mảnh 345 4,78% 2

Thành Nội và Ụ hoả hồi (2014) Mảnh 1.294 17,88 % 3

Mảnh 7.234 100% Tổng

Tại Thành Ngoại, những mảnh ngói Cổ Loa chỉ xuất hiện ở giai đoạn

đắp thành lũy giai đoạn 3, 4 và giai đoạn đắp thêm lần thứ nhất ở chân thành

phía Bắc, phía Nam. Tuy nhiên, ngói, đá tập trung nhiều nhất ở chân thành

về phía Nam. Tại Thành Trung, ngói xuất lộ ở sườn trong (sườn phía Nam

thành), độ sâu từ 70 - 90cm so với mặt thành hiện đại. Mặt phía Bắc thành

cũng có, nhưng không nhiều. Còn tại Thành Nội những mảnh ngói Cổ Loa

chỉ xuất hiện ở giai đoạn đắp lũy Thành Nội, Ụ hỏa hồi giai đoạn 1, 2, 3

40

(giai đoạn Cổ Loa) và tập trung nhiều nhất ở chân Thành Nội (giai đoạn 1)

về phía Bắc.

Theo PGS.TS Nam C. Kim - Đại họcWisconsin - Madison, Mỹ sự hiện

diện của ngói Cổ Loa là một phần văn hóa vật chất của tầng lớp quý tộc ở Cổ

Loa, tuy nhiên điều này còn cần phải nghiên cứu thêm. Có khả năng ngói Cổ

Loa xuất hiện ở tường thành là do có một kiến trúc có mái che dọc trên mặt

thành để bảo vệ những người lính khỏi mưa và các cuộc tấn công bằng vật

phóng, đặc biệt là những mũi tên phóng lửa và đó đã là các hiện vật đại diện cho

tàn dư của kiến trúc như vậy [30; tr.84]. Tuy nhiên trong cuộc khai quật lần này

không phát hiện được các hố chôn cột. Do vậy có khả năng khác, và khả năng

này mang tính thuyết phục hơn đó là ngói được đặt ở tường thành một cách có

chủ ý để bảo vệ lõi tường thành khỏi mưa và xói mòn. Bên cạnh đó, từ cuộc khai

quật, các chuyên gia đã chỉ ra rằng, ngói xuất hiện trên một lớp địa tầng khắp

toàn bộ lối đi của cả Thành Trung và Thành Ngoại và trong toàn bộ chu vi của

các vòng thành. Số lượng khổng lồ của ngói Cổ Loa cho thấy có thể chúng được

sản xuất tại địa phương. Ngoài ra, những mảnh ngói Cổ Loa này chỉ phát hiện

được ở Cổ Loa chứ không phát hiện được ở những khu vực ngoài Cổ Loa.

* Chất liệu:

Ngói Cổ Loa được làm từ đất sét pha cát, sỏi và chất phụ gia khác.

Dựa theo độ thô, mịn và nhiệt độ nung, có thể chia ngói Cổ Loa thành 3 loại:

- Loại 1: Ngói mịn, cứng như sành, xương tím, áo xám xanh.

- Loại 2: Ngói thô, độ cứng vừa phải, màu xám sẫm.

- Loại 3: Ngói thô, mềm, màu vàng đất hoặc màu gạch non.

* Loại hình:

Kết quả khai quật tại các đợt cắt Thành Cổ Loa từ 2007 – 2014 phát

hiện được các mảnh ngói là ngói cong (ngói âm, ngói dương).

- Thành Trung:

41

Ngói âm: 5.424 mảnh (hố H1: 5.133 mảnh, hố H2: 291 mảnh), 4.533

mảnh trang trí hoa văn, 891 mảnh không trang trí hoa văn và không xác định.

Ngói dương: 171 mảnh (hố H2: 166 mảnh, hố H1: 5 mảnh).

- Loại hình ngói âm: Căn cứ vào chất liệu và độ nung, có thể chia thành

7 loại sau (Bảng 2.8):

+ Loại 1: 138 mảnh (hố H1: 88 mảnh, hố HII: 50 mảnh), chiếm 2,54%

tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung. Là loại ngói

có áo tím, xương đỏ hay áo xanh tím, xương đỏ tía, độ nung rất cao và có độ

cứng như sành, khi gõ có âm thanh rõ và trong.

+ Loại 2: 666 mảnh (hố H1: 635 mảnh, H2: 31 mảnh); chiếm 12,27%

tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung. Là loại ngói

màu vàng cả trong và ngoài, độ nung thấp hơn ngói loại 1.

+ Loại 3: 2.938 mảnh (hố H1: 2.843 mảnh, H2: 95 mảnh), chiếm

54,16% tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung. Là

loại ngói có màu xám, vàng cả trong lẫn ngoài và độ nung thấp hơn loại 2.

+ Loại 4: 296 mảnh (hố H1: 276 mảnh, H2: 20 mảnh), chiếm 5,45%

tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung. Là loại ngói

có áo xám vàng, bên trong xám đen, độ nung tương đương với ngói loại 3.

+ Loại 5: 854 mảnh (hố H1: 777 mảnh, H2: 77 mảnh), chiếm 15,7%

tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung.

+ Loại 6: 478 mảnh (hố H1: 460 mảnh, H2: 18 mảnh), chiếm 8,81%

tổng số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung.

+ Loại 7: 54 mảnh (hố H1: 54 mảnh, H2: 0 mảnh), chiếm 0,99% tổng

số ngói âm thu được trong hai hố khai quật tại Thành Trung.

- Cổ ngói: 9 mảnh, trong đó 7 mảnh trang trí văn thừng 2 mặt và 2

mảnh không rõ hoa văn, không có dấu vải trên các mảnh cổ ngói và thân ngói

dương ở Cổ Loa.

42

- Thân ngói: 166 mảnh. Cũng như tiêu chí phân loại ngói âm, các mảnh

ngói dương gồm 7 loại (Không phát hiện được loại 1).

+ Loại 2: 35 mảnh, chiếm 21,60% những mảnh có hoa văn.

+ Loại 3: 89 mảnh, chiếm 54,93% những mảnh có hoa văn.

+ Loại 4: 3 mảnh, chiếm 1,82% những mảnh có hoa văn.

+ Loại 5: 8 mảnh, chiếm 4,93% những mảnh có hoa văn.

+ Loại 6: 7 mảnh, chiếm 4,32% những mảnh có hoa văn.

+ Loại 7: 22 mảnh, chiếm 13,58% những mảnh có hoa văn.

* Hoa văn trang trí:

Hoa văn trang trí gồm các loại: Văn thừng trang trí 2 mặt ngói; văn

thừng trang trí ở 1 mặt ngói. Các viên ngói trang trí văn thừng trên lưng và ô

trám loại to ở mặt bụng viên ngói.

Tại Thành Nội, trong đợt khai quật năm 2014, các nhà khảo cổ đã phân

loại ngói Cổ Loa thông qua hoa văn trang trí gồm các loại như sau (Bảng

2.13, 2.14, 2.15):

- Hoa văn trang trí trên ngói âm dương: 1.195 mảnh, được chia làm 4

loại sau:

+ Loại 1: 394 mảnh (Ụ hoả hồi: 295 mảnh, Thành Nội: 99 mảnh),

chiếm 30,44% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi

và Thành Nội. Đây là loại hình trang trí văn thừng một mặt ngói.

+ Loại 2: 517 mảnh (Ụ hoả hồi: 306 mảnh, Thành Nội: 211 mảnh),

chiếm 39,95% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi

và Thành Nội. Đây là loại hình trang trí văn thừng hai mặt.

+ Loại 3: 81 mảnh (Ụ hoả hồi: 76 mảnh, Thành Nội: 5 mảnh), chiếm

6,25% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi và

Thành Nội. Là loại hình trang trí văn thừng trên lưng và văn in ô trám ở mặt

bụng viên ngói.

43

+ Loại 4: 203 mảnh (Ụ hoả hồi: 202 mảnh, Thành Nội: 1 mảnh), chiếm

15,68% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi và

Thành Nội. Là loại hình không trang trí hoa văn.

- Hoa văn trang trí trên ngói bò nóc: 99 mảnh; được chia làm 4 loại sau:

+ Loại 1: 17 mảnh (Ụ hoả hồi: 9 mảnh, Thành Nội: 8 mảnh), chiếm

1,31% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi và

Thành Nội. Loại hình trang trí văn thừng một mặt ngói.

+ Loại 2: Có 34 mảnh (Ụ hoả hồi: 20 mảnh, Thành Nội: 14 mảnh),

chiếm 2,62% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi

và Thành Nội. Loại hình trang trí văn thừng hai mặt.

+ Loại 3: 40 mảnh (Ụ hoả hồi: 37 mảnh, Thành Nội: 3 mảnh), chiếm

3,09% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi và

Thành Nội. Loại hình trang trí văn thừng trên lưng và văn in ô trám ở mặt

bụng viên ngói.

+ Loại 4: 8 mảnh (Ụ hoả hồi: 3 mảnh, Thành Nội: 5 mảnh), chiếm

0,66% tổng số mảnh gốm phát hiện được ở cả hai địa điểm Ụ hoả hồi và

Thành Nội. Loại hình không trang trí hoa văn.

2.3.4. Gốm tráng men

Tại Thành Ngoại phát hiện được 70 mảnh gốm tráng men Việt Nam (2

mảnh gốm thời Trần, 61 mảnh thời Lê Trung Hưng, 4 mảnh; thời Nguyễn và

3 mảnh thời Thanh (Trung Quốc). Các di vật ở đây đều trong tình trạng vỡ

nhỏ, rất ít mảnh đủ dáng, đây là mảnh vỡ của những đồ dựng trong sinh hoạt

hàng ngày như: bát 51 mảnh, đĩa 2 mảnh, chậu 9 mảnh và bình 7 mảnh. Diễn

biến xuất hiện của các di vật này từ lớp mặt đến lớp 19, chủ yếu là đi vật thời

Lê Trung Hưng chiếm 87,1 % tổng số mảnh tìm thấy (Bảng 2.11).

* Gốm tráng men thời Trần thế kỷ XIII - XIV: 02 mảnh (1 mảnh miệng

ở lớp 17 và 1 mảnh đáy ở lớp 19 trong lớp sét vàng lẫn nhiều cát. Đây là lớp

đất được đắp vào giai đoạn sau.

44

Mảnh đế bát men trắng, chân đế thấp mảnh, có mặt cắt hình thang, mép

cắt bằng. Men trắng ngà phủ đến vành ngoài chân đế, đáy để mộc. Do nhiệt

độ nung chưa cao nên men bị thẩm thấu hiện tượng bong tróc lớp men bên

ngoài rất rõ. Tuy mảnh vỡ nhỏ nhưng vẫn quan sát được xếp nung bằng kỹ

thuật con kê có nhiều mấu kê nhỏ.

* Gốm tráng men thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII - XVIII:

61 mảnh, chiếm 87,14 % tổng số mảnh gốm men trong hố khai quật

Thành Ngoại, gồm 43 mảnh bát, 2 mảnh đĩa, 9 mảnh chậu và 7 mảnh bình.

Hầu hết đều bị vỡ, hiện vật xuất hiện từ lớp mặt đến lớp 18, trong đó tập

chung nhiều nhất ở lớp 15 đến lớp 18.

- Bát: 42 mảnh, thuộc 2 dòng men khác nhau, men trắng và vẽ chỉ lam.

Căn cứ vào dáng và kỹ thuật tạo chân đế có 2 loại cơ bản:

- Bát loại 1: 33 mảnh. Đây là loại bát có chân thấp (3,5cm), thân vát,

miệng rộng, mép miệng vê tròn, men trắng ngà, hoặc hơi ngả xanh. Chân đế

rất thấp, mép cắt bằng, diện tiếp xúc rộng. Đây là loại bát rất phổ biến vào thế

kỷ XVII – XVIII của lò gốm Hợp Lễ, tỉnh Hải Dương sản xuất. Trên thân

thường in bụng hoa cúc nhiều tia cánh, trong có ve lòng, đường kính rộng

bằng đường kính chân đế. Tuy nhiên trong hố khai quật chỉ có 1 mảnh vẽ 2

đường chỉ lam ở vành miệng, còn lại là men trắng.

- Bát loại 2: 9 mảnh, gồm 4 mảnh miệng, 3 mảnh thân và 2 mảnh đáy,

xuất lộ tại lớp 15. Đây là loại bát có thân cao, lòng sâu, miệng đứng, chân đế

thấp, mép cắt bằng rìa trong và ngoài có vết cạo men. Bát được phủ men trắng

toàn bộ cả phần chôn bát. Lớp men dày, nhẵn bóng, do nung ở nhiệt độ cao,

lớp men chảy tạo thành lớp thủy tinh hóa trên bề mặt, giống như dạng kính

vỡ. Mặc dù có nhiều điểm không khác biệt so với bát loại I. Tuy nhiên, đây

cũng là loại bát rất phổ biến vào thế kỷ XVII - XVIII, do lò gốm Hợp Lễ, tỉnh

Hải Dương sản xuất.

45

Trong tổng số 9 mảnh có 2 mảnh miệng, được tráng men trắng ngà,

xương gốm màu đỏ, có lớp men lót. Đây có thể là những mảnh có nguồn gốc

lò từ Bát Tràng, khi các lò gốm này dựng đất phù sa châu thổ làm xương gốm.

- Đĩa: 2 mảnh, ở lớp mặt và lớp 15. Cả 2 mảnh đều thuộc dòng men

trắng. Đây là loại đĩa có thân vát, miệng vê tròn, đáy lõm, chân đế thấp sát vời

thân. Men trắng ngà phủ đến 1/2 thân bên ngoài, đế để mộc.

Bên trong có vết ve lòng, rãnh nông nhỏ. Đây là kỹ thuật xếp nung phổ

biến trong giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII.

- Chậu: 9 mảnh, gồm 3 mảnh miệng, 4 mảnh thân và 2 mảnh đáy xuất

hiện ở lớp 15 - lớp 18. Là loại chậu men xanh Phù Lãng.

Chậu miệng rộng thân cong vát, đáy bằng. Miệng tròn dẹt, thành ngoài

tạo gờ tròn dẹt, thành trong đứng, mép miệng dày có vết cạo men.

Xương không dày, có màu xám nhạt, được làm từ đất sét trộn các hạt

trắng. Men màu xanh nhạt phủ đến phần thân sát đế. Kỹ thuật xếp nung không

đặc biệt các sản phẩm được chồng xếp trực tiếp lên nhau sau khi đó cạo bỏ

phần men tại vị trí chồng xếp.

- Bình: 8 mảnh, gồm 2 mảnh miệng, 5 mảnh thân và 1 mảnh đáy. Trong

đó 3 mảnh phát hiện ở lớp mặt, 2 mảnh ở lớp 10 và 3 mảnh ở lớp 18. Đây là

những mảnh bình men xanh Phù Lãng.

Bình có cổ không cao, vai cong, thân vát, đáy bằng. Miệng tạo gờ tròn dẹt

ở thành ngoài, thành trong đứng không gờ, mép miệng dày có vết cạo men.

Xương gốm không dày, màu xám nhạt, được làm từ đất sét trộn các hạt

trắng. Men màu xanh nhạt phủ đến phần thân sát đế. Kỹ thuật xếp nung không

đặc biệt các sản phẩm được chồng xếp trực tiếp lên nhau sau khi đó cạo bỏ

phần men tại vị trí chồng xếp.

* Gốm tráng men thời Nguyễn thế kỷ XIX - XX: 4 mảnh, gồm 2 mảnh

miệng, 2 mảnh thân ở lớp 15 và lớp 16. Đây là mảnh bát vẽ lam xanh sắc

đậm, do vỡ nhỏ nên không biết được cụ thể họa tiết hoa văn. Tuy nhiên, dựa

46

vào men, phong cánh tạo gốm có thể suy đoán đây là những mảnh bát có

nguồn gốc từ lò gốm Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

* Đồ gốm tráng men Trung Quốc: 3 mảnh (1 mảnh miệng, 2 mảnh

thân) ở lớp 16, lớp 17 và lớp 18. Đây là những mảnh bát vẽ lam xanh, do vỡ

nhỏ nên không biết được cụ thể họa tiết trang trí, xương gốm không dày có

màu trắng. Men màu trắng sữa, phủ đều. Tuy nhiên, dựa vào men, phong cánh

tạo gốm đặc biệt là dải hoa văn ở miệng bát có thể suy đoán đây là những

mảnh bát có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Tóm lại, đồ gốm tráng men ở địa điểm Thành Ngoại, Cổ Loa có niên

đại từ thời Trần đến thời Nguyễn, xuất hiện từ lớp mặt đến lớp 19. Ngoại trừ

lớp mặt, các di vật phân bố chủ yếu ở 2 đầu phía Bắc và phía Nam trong lớp

đất màu nâu đỏ hoặc vàng nhạt pha cát. Số lượng di vật thời Lê Trung Hưng

chiếm 87,14%, có mặt liên tục từ lớp mặt đến lớp 18 đã phần nào phản ánh

niên đại các lớp đất được đắp trong giai đoạn muộn ở đây.

Trong khi đó đồ gốm thời Nguyễn xuất hiện 2 mảnh ở lớp 16, tại vị trí

13N, Đây là vị trí rìa ngoài của chân thành phía Bắc có hiện tượng xáo trộn

cao. Vì vậy trong quá trình tồn tại lâu dài của Thành Ngoại nói riêng và

Thành Cổ Loa nói chung việc xuất hiện những mảnh gốm có niên đại muộn là

điều rất dễ xảy ra.

Tại Thành Trung: Trong hố cắt thành (H1), đồ gốm men và đồ sành chỉ

có ở 8 - 9 lớp trên cùng, tức cách mặt hố khai quật từ 80 - 90cm, nằm trên lớp

ngói Cổ Loa và thuộc các lớp đất đắp thành sau thời vua An Dương Vương.

Trong hố cắt hào H2, chúng xuất lộ trong các lớp văn hóa thời Lê - Nguyễn,

tức là các lớp trầm tích phía trên (Bảng 2.5).

Gốm men Việt Nam phát hiện trong hố H1 có 42 mảnh (2 mảnh thế kỷ

XIII - XIV; 3 mảnh thế kỷ XV - XVI; 31 mảnh thế kỷ XVII – XVIII; 6 mảnh

thế kỷ XIX - XX) và 2 mảnh men trắng vẽ lam Trung Quốc.

47

Gốm men Việt Nam phát hiện trong hố H2 nhiều hơn và có loại hình,

dòng men đa dạng hơn. Trong tổng số 453 hiện vật gốm men, có 3 hiện vật

còn nhận được dáng đều thuộc thế kỷ XVII – XVIII, gồm 1 vung men xám

xanh (lớp 1), 1 chén bị tróc men (lớp 3) và 1 mảnh gốm ghè tròn không nhận

được màu men (lớp 4). Số còn lại (450 mảnh) được phân loại như sau:

Theo dòng men, niên đại và loại hình, gồm:

+ 103 mảnh men trắng, trong đó: 2 mảnh thế kỷ XV - XVI (1 miệng, 1

đế); 99 mảnh thế kỷ XVII – XVIII (27 miệng, 52 thân, 20 đế); 2 mảnh thế kỷ

XIX - XX (1 miệng, 1 đế).

+ 19 mảnh men trắng vẽ lam, trong đó: 8 mảnh thế kỷ XV - XVI (1

miệng, 7 thân); 5 mảnh thế kỷ XVII – XVIII (2 miệng, 3 thân); 6 mảnh thế kỷ

XIX - XX (1 miệng, 5 thân).

+ 124 mảnh men trắng thuộc thế kỷ XVII – XVIII (25 miệng, 59 thân,

40 đế).

+ 7 mảnh thân men trắng ngà thuộc thế kỷ XIII - XIV.

+ 9 mảnh men trắng xanh, trong đó 6 mảnh thân thế kỷ XVII – XVIII

và 3 mảnh thế kỷ XIX - XX (1 miệng, 1 thân, 1 đế).

+ 8 mảnh men ngọc đều thuộc thế kỷ XIII - XIV (1 miệng, 6 thân, 1 đế).

+ 3 mảnh thân men xanh lá cây, trong đó 1 mảnh thế kỷ XV - XVI và 2

mảnh thế kỷ XIX - XX.

+ 7 mảnh men nâu, trong đó có 2 mảnh thân thế kỷ XV - XVI; 5 mảnh

thế kỷ XVII – XVIII (2 thân, 3 đế).

+ 2 mảnh thân trang trí hoa văn men nâu thế kỷ XVII – XVIII.

+ 146 mảnh hai màu men (men xang và trắng đục), trong đó 3 mảnh thân

thế kỷ XIII - XIV; 143 mảnh thế kỷ XVII – XVIII (10 miệng, 53 thân, 80 đế).

+ 19 mảnh bị tróc, không nhận được màu men, trong đó 5 mảnh thế kỷ

XIII - XIV (1 miệng, 2 thân, 2 đế); 13 mảnh thế kỷ XVII – XVIII (1 miệng,

10 thân, 2 đế) và 1 mảnh đế thế kỷ XIX - XX.

48

+ Ngoài ra có thu được 4 mảnh gốm men trắng trung Quốc (3 mảnh thế

kỷ XVII – XVIII) và 1 mảnh thế kỷ XIX - XX.

2.3.5. Đồ sành

Phát hiện được tổng số 801 mảnh (Thành Ngoại: 95 mảnh, Thành

Trung: 706 mảnh, Thành Nội: 0 mảnh). Đồ sành tập chung chủ yếu ở lớp mặt

đến lớp 4 và từ lớp 14 đến lớp 19. Chỉ có loại hình bình xuất hiện đầy đủ từ

lớp mặt đến lớp 19 (Bảng 2.9, 2.12).

- Đồ sành thế kỷ XIII - XIV: 116 mảnh (Thành Trung: 112 mảnh,

Thành Ngoại: 4 mảnh, Thành Nội: 0 mảnh).

- Đồ sành thế kỷ XV – XVI: 426 mảnh (Thành Trung: 426 mảnh,

Thành Ngoại: 0 mảnh, Thành Nội: 0 mảnh).

- Đồ sảnh thế kỷ XVII – XVIII: 168 mảnh (Thành Trung: 77 mảnh,

Thành Ngoại: 91 mảnh, Thành Nội: 0 mảnh).

- Đồ sành thế kỷ XIX – XX: 90 mảnh (Thành Trung: 90 mảnh, Thành

Ngoại: 0 mảnh, Thành Nội: 0 mảnh).

- Về loại hình: Căn cứ vào các mảnh miệng và đế hoặc đáy, có thể nhận

biết được các loại hình của đồ sành gồm có chậu, chĩnh, choé, bát chiết yêu,

nồi, lọ, thạp và chum. Nắp đậy gồm vung có gờ tròn ở ngoài miệng vát vào

trong và vung có núm tròn ở đỉnh.

+ Mảnh miệng:

Theo phân loại thì có 03 loại hình miệng bao gồm miệng loe, miệng

đứng và miệng khum. Mỗi loại miệng có những biến thể khác nhau và chúng

tôi chia thành các kiểu miệng khác nhau. Miệng loe (L1), miệng đứng (L2),

miệng khum (L3) (Bảng 2.9).

* Miệng loại 1:

- L1.K1: 14 mảnh, chiếm tỷ lệ 26,41% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Miệng loe xiên, thành miệng trong ngoài không có gờ. Miệng

49

loại 1 kiểu 1 chủ yếu là miệng nồi sành thế kỷ XIX - XX. Loại nồi này ở thân

có 2 - 3 đường gờ nổi hoặc một số đường chỉ chìm. Tiêu biểu là các mảnh có

ký hiệu 07.TT.H1S.L15: 1; 07.TT.H1S.L33: 2; 07.TT.H1S.F1.L15: 3 (BA 44).

- L1.K2: 05 mảnh, chiếm tỷ lệ 9,43% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Miệng loe có gờ ngoài, giữa miệng và thân thường có khe nhỏ,

kiểu miệng này thường là miệng lọ, lon hoặc chậu sành thế kỷ XV. Tiêu biểu

là các mảnh mang ký hiệu 08.TT.H2.L6: 4; 07.TT.H2.L4: 5; 07.TT.H2.L4: 6;

07.TT.H2.L3: 7 (BA 45).

- L1.K3:03 mảnh, chiếm tỷ lệ 5,66% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Miệng loe có gờ ngoài, giữa miệng và thân bên ngoài không có

khe. Kiểu miệng này thường là miệng nồi, vò thế kỷ XVIII - XIX. Các mảnh

mang ký hiệu 07.TT.H1S.F1.L15: 8; 07.TT.H2.L3: 9; 07.TT.H2.L3: 10;

07.TT.H2.L3: 11 (BA 46).

- L1.K4: 02 mảnh, chiếm tỷ lệ 3,77% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Miệng loe ngoài có gờ, trong gờ cong ưỡn. Kiểu miệng này là

kiểu miệng sành thô thế kỷ XIII - XIV. Các mảnh mang ký hiệu 07.TT.H2.F2:

12; 07.TT.H2.L4: 13 (BA 47).

- L1.K5: 02 mảnh, chiếm tỷ lệ 3,77% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Ngoài gờ cong bẹt, vành miệng trong vát gờ sắc. Kiểu miệng

này là kiểu miệng lọ có cổ cao, thân hình trụ, phổ biến ở thế kỷ XV – XVI.

Các mảnh mang ký hiệu 07.TT.H2.L4: 14; 07.TT.H2.L4: 15 (BA 48).

- L1.K6: 02 mảnh, chiếm tỷ lệ 3,77% tổng miệng sành mịn tại địa điểm

Thành Trung. Vành miệng ngoài vát, vành miệng trong có gờ nhẹ, cổ ngắn.

Kiểu này là kiểu miệng nồi sành thế kỷ XIX – XX có ký hiệu 07.TT.H2.L3:

16; 07.TT.H2.L3: 17 (BA 49, 50).

- L1.K7: 01 mảnh, ký hiệu 07.TT.H2.L4: 18; chiếm tỷ lệ 1,88% tổng

miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Vành miệng có gờ bẹt, giữa

50

thân và miệng có đường lõm lòng máng nhẹ, vành miệng trong vát cong.

Kiểu miệng này chủ yếu là miệng lon sành hoặc vại kích thước lớn thế kỷ

XVI - XVII.

- L1.K8: 01 mảnh, ký hiệu 07.TT.H2.L4: 19; chiếm tỷ lệ 1,88% tổng

miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Vành miệng loe xiên không có gờ,

thành bên ngoài vát xiên, thành trong cong, giữa thành ngoài và thân có

đường lõm lòng máng nhẹ. Đây là kiểu miệng âu thân vát cong, đáy thót, có

niên đại thế kỷ XV - XVI (BA 51).

- L1.K9: 01 mảnh, ký hiệu 07.TT.H2.L3: 20; chiếm tỷ lệ 1,88% tổng

miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Vành miệng dày, thành miệng

trong ngoài cong ưỡn, giữa miệng và thân ngoài có đường lõm tạo gờ, phần

thân giáp miệng bên trong có đường lõm. Đây là kiểu miệng vò sành thế kỷ

XIX – XX (BA 52).

* Miệng loại 2: Là loại miệng đứng, dày, chia làm hai kiểu:

- L2.K1: 02 mảnh mang ký hiệu 07.TT.H2.LM: 9; 07.TT.H2.LM: 10;

chiếm tỷ lệ 3,77% tổng miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Miệng

đứng, thành miệng ngoài có gờ. Đây là kiểu miệng vại và chum, vành

miệng rất dày, niên đại thế kỷ XVII - XVIII (BA 53).

- L2.K2: 01 mảnh, ký hiệu 07.TT.H2.LM:21, chiếm tỷ lệ 1,88% tổng

miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Miệng bẹt, thành miệng dày, giữa

thân và miệng có đường lõm và đường chỉ chìm, thành miệng trong chỗ giáp

với thân có gờ được tạo bởi một đường lõm nhẹ. Đây là kiểu miệng vại thế kỷ

XVII - XVIII (BA 54).

* Miệng loại 3: Miệng cong khum.

- L3.K1: 06 mảnh mang ký hiệu 07.TT.H2.L3: 22, 23, 24; 07.TT.H2.L4:

25, 26, 27, chiếm tỷ lệ 11,4% tổng miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung.

51

Đây là loại có vành miệng ngoài vát nhẹ, có gờ nhỏ, vành miệng trong không

có gờ; thuộc loại miệng lọ, chĩnh thuộc thế kỷ XV - XVI (BA 55, 56).

- L3.K2: 03 mảnh ký hiệu 07.TT.H1S.F1.L15: 28; 07.TT.H2.L3: 29;

07.TT.H2.L4: 30; chiếm tỷ lệ 5,66% tổng miệng sành mịn tại địa điểm Thành

Trung. Đây là loại có vành miệng ngoài có gờ nhẹ, thành miệng rộng, bằng,

thuộc kiểu miệng chĩnh, lọ có cổ cao, có niên đại thế kỷ XV – XVI (BA 57).

- L3.K3: 01 mảnh, ký hiệu 07.TT.H2.L4: 31, chiếm tỷ lệ 1,88% tổng

miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung. Đây là loại miệng cong, thành

miệng rất thấp, giữa thành miệng ngoài và thân có khe nhỏ, thành miệng trong

thẳng đứng, niên đại thế kỷ XV - XVI (BA 58).

- L3.K4: 03 mảnh mang ký hiệu 07.TT.H2.L2: 32; 07.TT.H2.L3: 33;

07.TT.H2.L4: 34; chiếm tỷ lệ 5,66% tổng miệng sành mịn tại địa điểm Thành

Trung. Miệng cong khum, thành miệng dày cong vát, tạo gờ bên ngoài. Đây

là kiểu miệng vò kích thước lớn, thế kỷ XVII - XVIII (BA 59).

- L3.K5: 01 mảnh ký hiệu 07.TT.H2.L5: 35, niên đại thế kỷ XVII –

XVIII, chiếm tỷ lệ 1,88% tổng miệng sành mịn tại địa điểm Thành Trung.

Miệng cạp rổ tròn, vành miệng trong ngoài có gờ tròn, giữa thân và thành

miệng bên trong có đường lõm tạo gờ.

* Miệng không xác định: 06 mảnh, chiếm tỷ lệ 11,4% tổng miệng sành

mịn tại địa điểm Thành Trung; niên đại thuộc thế kỷ XVII - XVIII và XIX -

XX. Chúng vỡ nhỏ nên không thể xác định chính xác loại hình.

+ Mảnh thân:

Tại Thành Ngoại phát hiện được 4 mảnh thân của loại hình vò có gắn

quai ở vai thuộc thế kỷ XIII – XIV, 91 mảnh thuộc thế kỷ XVII - XVIII (40

mảnh bình, 31 mảnh nồi, 16 mảnh nậm rượu và 4 mảnh nắp). Cụ thể như sau:

Vò: 04 mảnh (L14: 1 mảnh, L17: 1 mảnh, L19: 2 mảnh). Trong số 4

mảnh đáng chú ý nhất là mảnh ở lớp 17, tại vị trí 9S - 13S, là mảnh vỡ có gắn

52

quai. Đây là loại vò vai cong, trên vai gắn quai, quai to và dẹt, được gắn vào

thân khi còn ướt. Loại vò này có chất liệu đồng nhất, là đất sét pha cát, trong

đó tỉ lệ cát cao làm cho xương gốm lẫn nhiều hạt cát nhỏ li ti. Đây có thể là

những mảnh vỡ của loại hình vò.

Bình: 40 mảnh, xuất hiện đầy đủ từ lớp mặt đến lớp 19. Qua những

mảnh miệng và vai có thể suy đoán đây là loại bình cổ cao, thân vát, đáy

bằng, thành miệng ngoài tạo gờ tròn thành miệng trong đứng hay hơi khum.

Bình được làm từ đất sét khi nung ở nhiệt độ cao xương gốm có màu

đỏ tía, đanh chắc, phía ngoài được phủ bởi một lớp áo tự nhiên màu nâu đỏ

hoặc nâu đen tương đối mịn, bên trong màu đỏ hoặc nâu.

Trang trí văn sóng nước kết hợp văn in nan chiếu trải dọc quanh thân

và các đường chỉ khắc chìm ở vai.

- Nậm rượu: 16 mảnh (2 mảnh miệng, 10 mảnh thân và 4 mảnh đáy).

Tập chung chủ yếu ở lớp 16 đến lớp 18, ở 2 đầu phía Bắc và phía Nam.

Đây là loại nậm rượu có chân đế, thân cong thu nhỏ lại ở cổ, miệng loe.

Được làm từ đất sét mịn, sau khi tạo dáng trên bàn xoay, sản phẩm được phơi

khô sau đó được chỉnh sửa lại khiến cho lớp da bên ngoài rất mịn.

- Nồi đất: 31 mảnh (5 mảnh miệng, 26 mảnh thân). Đây là loại nồi có

miệng rộng vát loe, cổ cao, thân cong tròn, đáy tròn, vai tạo 3 đường chỉ nổi.

Được làm từ đất sét pha cát và các hạt trắng cao lanh, xương tương đối mỏng màu

đỏ thẫm. Dáng tạo trên bàn xoay bằng phương pháp dải cuộn, con cuộn tròn, đáy

có dấu vết cắt gọt. Trang trí 2 - 3 đường gờ đắp nổi ở vai. Có 4 kiểu sau:

+ Kiểu 1: 03 mảnh miệng (LM: 1 mảnh, L16: 2 mảnh). Miệng rộng,

thân cong tròn, đáy tròn. Miệng vát loe, thành ngoài vát, tạo gờ tròn dẹt, thành

trong vát xiên không gờ, vai tạo nổi 3 đường chỉ.

+ Kiểu 2: Cổ ngắn, bẻ loe ngang, thành miệng ngoài tạo gờ tròn dẹt

mỏng, mép miệng vê tròn.

53

+ Kiểu 3: Cổ ngắn, miệng loe cong, thành ngoài vát, mép miệng nhọn,

vát tạo gờ bên trong như hình mũi tên. Trang trí gờ nổi ở vai.

- Nắp: 04 mảnh miệng (L15: 1 mảnh, L17: 1 mảnh, L18: 2 mảnh). Nắp

có dáng hình chóp nón, thành vát, miệng bẻ ngang. Núm cầm đặc, được gắn

bằng cách miết các đầu ngón tay. Xương gốm không dày, có màu đỏ hoặc

xám, tương đối chắc. Chất liệu được làm từ đất sét mịn. Thân núm được làm

trên bàn xoay, phần núm làm riêng sau đó được gắn vào thân. Tuy nhiên trong

lần khai quật này chưa thấy mảnh núm của nắp, chỉ có 4 mảnh miệng.

+ Về hoa văn trang trí trên đồ sành có các loại sau: Văn chải, sóng

nước, văn in nan chiếu và văn khắc vạch những đường chỉ chìm.

2.4. Kỹ thuật sản xuất

- Kỹ thuật sản xuất đồ đá: Trong các đợt cắt thành tại ba vòng Thành

Cổ Loa có thể thấy các hiện vật đá phát hiện được là đá tảng, một số viên đá

là phác vật khuôn hay phôi đúc mũi tên bị loại bỏ, khuôn vỡ, thường xuất hiện

cùng bình độ hay thấp hơn so với ngói Cổ Loa, có chức năng ghè, gia cố cho

chân thành thêm vững chắc.

Hầu hết các vật liệu đều được lấy tại chỗ từ các trầm tích sét bột bị

phong hóa của hệ tầng Vĩnh Phúc hoặc được lấy từ các vùng núi xung quanh

như vùng đồi núi Sóc Sơn hay trên các đồi núi sót gần Cổ Loa [57; tr. 38]. Đó

là vật liệu có khả năng kết dính tốt, sức chịu nén cao, tạo nên sự ổn định của

tường thành.

- Kỹ thuật sản xuất đồ gốm:

Kỹ thuật tạo hình bằng tay: Ngói cong Cổ Loa được làm bằng tay với

kỹ thuật dải cuộn kết hợp bàn đập, hòn kê, kế thừa kỹ thuật chế tạo gốm giai

đoạn tiền Đông Sơn. Giai đoạn sau chế tạo bằng khuôn, có lót vải chống dính.

Quan sát các đầu ngói ống ở Cổ Loa tìm thấy ở khu vực đền Thượng,

trong Thành Nội khai quật năm 2004 - 2007, chúng ta thấy, chúng đều có

54

phần mặt và phần diềm ngói làm riêng, sau đó gắn với phần ngói dương

bằng kỹ thuật gắn, miết, đập chỉnh dáng. Kỹ thuật này giống với kỹ thuật

chế tạo đầu ngói từ thời Tây Hán trở về trước của Trung Quốc. Ngói âm,

dương và thân ngói ống có thể ban đầu được làm thành những ống tròn với

các kích thước khác nhau, sau đó cắt đôi làm thân ngói dương hay cắt 2 hoặc

3 phần đối với ngói âm [87; tr. 208, 213]. Phương pháp cắt ngói có thể giống

với phương pháp Thiết Đang – phương pháp chế tạo đầu ngói bằng cách làm

phần đáy sau đó dùng chỉ hoặc một số công cụ khác để cắt, tách phần đáy ra

khỏi ống.

Kỹ thuật tạo hình bằng bàn xoay:

Căn cứ vào tài liệu khảo cổ học và tài liệu dân tộc học thì có 4 loại bàn

xoay chủ yếu được những người thợ làm gốm đã và đang sử dụng nhiều nơi

trên thế giới. Bàn kê quay không có trục, bàn kê quay có trục, bàn xoay tay,

bàn xoay chân [34, tr. 44, 45].

Các dấu tích trên đồ gốm như những đường chỉ chìm ở mép miệng có

khoảng cách rất đều nhau, những vết xước thủ công trên đồ gốm cổ giống với

những vết xước trên đồ gốm hiện nay có thể nhận biết rằng người xưa đã biết

dung bàn xoay để làm gốm. “Bàn xoay thời đó có thể được làm bằng gỗ hoặc

một số nguyên liệu không bền lâu giống như ngày nay. Có lẽ thế mà bàn xoay

vắng mặt trong các cuộc khai quật khảo cổ học” [34; tr. 45].

Để tạo đồ gốm bằng bàn xoay, người thợ xếp khối đất sét đã luyện ở

bên trái, bên cạnh chậu nước, sau đó người thợ làm việc lấy tay nắm một khối

đất tròn và đặt nó lên mặt bàn xoay, rồi dùng tay hoặc chân làm cho bàn xoay

quay, dùng một hoặc cả hai tay để tạo dáng; cuối cùng, khi tạo vuốt xong

chiếc đồ đựng được cắt ra khỏi bàn xoay bằng một sợi dây nhỏ. Đặc biệt, khi

tạo gốm, tay trái và chân trái thường được sử dụng nhiều hơn. Tay trái thường

xuyên cho vào lòng chiếc đồ đựng đang thành hình, còn tay phải nhẵn phía

55

ngoài và giúp thêm cho việc tạo hình. Chân trái thỉnh thoảng tác động thêm

vào bàn xoay để làm cho nó quay tròn đầu đặn.

Cấu tạo của bàn xoay bao gồm một tấm ván tròn có đường kính khoảng

60cm, phía dưới chính giữa tấm ván được gắn với một ống tre, ống tre được

gắn với một cái cọc chôn ở chính giữa hố tròn, có kích thước lớn hơn tấm ván

một chút. Khi người thợ gốm sử dụng bàn xoay và dùng tay vuốt đất đều đặn

ở giữa bàn xoay theo ý muốn của họ.

Những loại đồ gốm đơn giản với kích thước nhỏ, người thợ gốm chỉ

cần tạo hình một lần trên bàn xoay. Đối với những loại hiện vật có kích thước

lớn như bình hay nồi... người thợ buộc phải tạo hình từng phần sau đó mới

gắn chắp chúng lại với nhau. Vì vậy, khi đồ gốm bị vỡ thường bị vỡ ở những

phần gắn chắp này. Vết tích gắn chắp được thể hiện rõ nhất ở phần chân đế,

quai, khi đồ gốm bị vỡ phần đế đã bị tách khỏi hiện vật.

PGS. TS Hán Văn Khẩn có nói tới các bước tạo hình đồ gốm như sau

[34; tr. 45, 46]: Những đồ gốm có chân đế, miệng dày tạo hình bằng cách:

Tạo đáy, thân, cổ, miệng (liền một khối); Tạo đế; Chắp gắn hai phần trên lại

với nhau (sau khi đã để khô chút ít); Gắn dán thêm một dải dất quanh vành

miệng để miệng gốm có đủ độ dày cần có.

Những đồ gốm, ở giữa hay gần miệng có đai nổi (hay gờ nổi) có thể

được tạo ra cùng lúc với tạo dáng hoặc có thể gắn thêm vào sau khi đồ đựng

đã dựng hình xong.

Những đồ gốm nhỏ nhưng có chân đế cao cũng phải tạo hình thành hai

phần riêng: Tạo đáy, thân, miệng; Tạo chân đế.

Sau khi sấy khô cho bay bớt hơi nước, phôi gốm tương đối khô nhưng vẫn

còn đủ độ ẩm thì gắn hai phần lại với nhau. Việc gắn này phải làm bằng tay.

Trong hai kỹ thuật: Kỹ thuật làm bằng tay và kỹ thuật làm bằng bàn xoay

thì kỹ thuật tạo hình bằng bàn xoay là cơ bản nhất. Nó là nền tảng cho mọi khả

56

năng sáng tạo của người thợ gốm. Nhờ có bàn xoay mà con người có thể chế tạo

ra hàng loạt đồ gốm từ nhỏ đến lớn với nhiều hình dạng khác nhau từ đơn giản

đến phức tạp, đủ thỏa mãn nhu cầu sử dụng của con người.

Kỹ thuật tạo hoa văn: Kỹ thuật tạo hoa văn có chức năng chủ yếu là

làm tăng giá trị nghệ thuật của đồ gốm. Ngói Cổ Loa sử dụng kỹ thuật đập đối

với văn thừng, kỹ thuật in đối với văn ô trám và hoa văn trên mặt đầu ngói

ống, kỹ thuật khắc vạch, đắp thêm, ấn lõm, trổ lỗ, miết dáng...

Tiểu kết Chương 2

Qua kết quả khai quật Thành Cổ Loa từ năm 2007 đến năm 2014 có thể

thấy rằng Thành Cổ Loa là một công trình lao động quân sự với quy mô lớn

của nhân dân Âu Lạc. Khi đắp thành, điều kiện địa hình của vùng đất này (các

cồn gò, đầm nước, sông…) được tận dụng triệt để (dùng sông làm hào, lấy gò

cao, dải đất cao làm lũy…), kỹ thuật kè đá để chân thành được vững chãi trên

một vùng đầm lầy được áp dụng.

Phân tích các lớp đất đắp Thành Trung tại xóm Thượng, những người

khai quật thống nhất cho rằng có ba giai đoạn đắp thành thuộc ba thời kỳ khác

nhau. Lần đắp đầu tiên có thể thuộc về chủ nhân của những mảnh gốm Đông

Sơn phát hiện trong nền và cạnh nền vọng gác. Điều này hoàn toàn hợp lý với

các nghiên cứu trước đó khi các nhà nghiên cứu trước đã phát hiện được

nhiều di tích văn hóa Đông Sơn phân bố tại các vòng Thành Cổ Loa thuộc sơ

kỳ thời đại đồ Sắt. Đây là thời kỳ văn hóa Đông Sơn phát triển đến đỉnh cao,

những hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa này như trống đồng Cổ Loa (thuộc

loại I Heger), thạp đồng. Các di tích như Cầu Vực, Đường Mây, Mả Tre, xóm

Nhồi, xóm Hương, đền Thượng, xóm Thượng đều là trung tâm kinh tế, dân cư

đông đúc, xã hội phát triển. Sự cạnh tranh giữa các làng, các trung tâm đó sẽ

dẫn đến việc ra đời người đứng đầu (thủ lĩnh hay chiefdom) để điều hành,

57

quản lý các hoạt động chung của cộng đồng. Nếu mỗi làng Đông Sơn cổ đều

tổ chức đắp lũy hào phòng vệ như ở xóm Thượng thì khu vực Cổ Loa đã hình

thành một hệ thống các làng phòng thủ với cấu trúc hào – lũy – hào – vọng

gác (chòi canh). So sánh công việc giữa thành sớm và thành được đắp sau đó

thì khối lượng đắp thành sớm ít hơn rất nhiều. Tất cả những điều trên cho

phép suy đoán là thành/hào sớm được xây dựng ở thời kỳ tiền nhà nước, có

thể là do một thủ lĩnh đứng đầu. Khi An Dương Vương đến Cổ Loa định đô,

ông đã tiếp thu và liên kết nhiều làng phòng thủ với nhau thành tòa thành to

lớn và vĩ đại như chúng ta thấy ngày nay.

Từ nguồn sử liệu thành văn kết hợp với dữ liệu hiện vật khảo cổ học

thu được từ lần khai quật lũy, hào Thành Trung năm 2007 - 2008, khai quật

Thành Ngoại năm 2012, khai quật Thành Nội và Ụ hỏa hồi năm 2014 bước

đầu góp phần làm sáng tỏ về lũy, hào của cư dân giai đoạn Đông Sơn (muộn)

ở Cổ Loa, giai đoạn đắp thành thời An Dương Vương và các lần đắp thêm ở

hai vòng Thành Trung, Thành Ngoại vào giai đoạn lịch sử mà cụ thể một

trong những lần đó thuộc thời Lê: Lịch sử đã ghi chép lại rằng, Cổ Loa vào

khoảng thế kỷ XVI là một làng thuộc huyện Đông Ngàn, đã từng là căn cứ

của lực lượng phò Lê diệt Mạc. Vì vai trò đó của Cổ Loa mà đầu thế kỷ XVI,

các vua Lê Trung Hưng đã rất coi trọng vùng đất này, đền thờ vua An Dương

Vương được coi là đền thờ chính của cả nước, nhân dân Cổ Loa được coi là

hộ nhi tạo lệ, được miễn các loại sưu sai thuế dịch, chủ yếu phục vụ việc thờ

cúng An Dương Vương. Năm 2017, kết quả đợt thám sát địa điểm Ao Gáo là

khu vực có địa hình nổi cao và năm sát lũy Thành Trung về phía Đông đã

phát hiện được nghĩa địa của cư dân thế kỷ XVII – XVIII, giúp chúng ta có

thêm nhận thức về tập tục văn hóa của cư dân giai đoạn này trong tiến trình

lịch sử Cổ Loa [18; tr.2].

58

Trong các lần cắt ba vòng Thành Cổ Loa, đã phát hiệu được 04 di tích

quan trọng:

Thứ nhất là phát hiện lớp văn hóa Đông Sơn nằm dưới thành do An

Dương Vương đắp trong hố khai quật Thành Trung năm 2007 - 2008. Trong

lớp văn hóa Đông Sơn ở đây, cùng với đồ gốm, hiện vật sắt, đã phát hiện

được di tích phòng thủ có quy mô nhỏ hơn và khác phương vị với Thành Cổ

Loa của An Dương Vương. Di tích có cấu trúc (từ ngoài vào trong) là: Hào -

tường thành - hào - vọng gác + tường chắn. Trong nền của vọng gác còn phát

hiện được di tích bếp lửa, hiện vật sắt và gốm Đông Sơn.

Phát hiện thứ hai là nền gia cố bằng đất gốc trước khi đắp thành trong

hố khai quật Thành Ngoại năm 2012.

Phát hiện thứ ba trong hố khai quật Thành Ngoại năm 2012 tại xóm

Thượng có một số hiện tượng lạ trong cấu trúc của đất đắp thành có thể là dấu

vết của hiện tượng động đất. Vấn đề này đang tiếp tục được nghiên cứu. Nếu

hiện tượng động đất được xác nhận, cũng đồng thời xác nhận cốt lõi của truyền

thuyết thần Kim Quy/Thanh Giang xứ được Huyền Thiên Trấn Vũ sai xuống

giúp An Dương Vương khắc phục hiện tượng “thành cứ xây xong lại đổ”.

Phát hiện thứ tư trong hố cắt Thành Nội và Ụ hỏa hồi tại thôn Chợ đã

phát hiện được di tích gốc của Thành Nội và Ụ hỏa hồi trong cùng bình diện

xuất lộ, nằm dưới mặt Thành Nội hiện nay khoảng trên 2m. Đây là phát hiện

quan trọng khẳng định An Dương Vương đã đắp cả ba vòng thành và hệ

thống Ụ hỏa hồi trong hệ thống Thành Nội cũng được An Dương Vương đắp

cùng với Thành Nội.

Về hiện vật: Tại chân thành phát hiện được khối lượng lớn đá tảng, một

số phác vật khuôn có chức năng gia cố chân thành. Ngói Cổ Loa được kế thừa

kỹ thuật làm gốm của cư dân tiền Đông Sơn.Toàn bộ ngói của văn hóa Cổ Loa

59

thu được từ các vòng thành cho thấy một lượng lớn sức người và nguyên liệu

dành cho việc sản xuất.

Đồ sành, gốm men xuất hiện từ lớp mặt đến lớp 19, tập chung chủ yếu

ở lớp mặt đến lớp 4, lớp 14 đến lớp 19. Đây là các hiện vật giai đoạn muộn

sau này là minh chứng Thành Cổ Loa được các triều đại sau như triều Lê đã

tu sửa, bồi đắp các tường thành.

Như vậy, với những nguồn tư liệu hiện nay cho thấy một chính thể kiểu

nhà nước bản địa và địa phương đã xuất hiện trong giai đoạn Đông Sơn trước

khi nhà Hán đến đô hộ. Toàn bộ quy mô và kích cỡ của Thành Cổ Loa và

những công trình phòng thủ lớn của nó đã chỉ ra rằng ở đây đã có sự tập trung

chính trị cao, một lực lượng quân sự hùng mạnh để có thể quy hoạch xây

dựng và huy động một nguồn nhân lực lớn đắp thành. Có thể thấy rằng, trước

khi Thành Cổ Loa được xây dựng, chưa có một di tích có quy mô và diện tích

lớn như vậy được xây dựng ở lưu vực châu thổ sông Hồng.

60

CHƯƠNG 3 GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, QUÂN SỰ CỦA THÀNH CỔ LOA

3.1. Tính chất Thành Cổ Loa

Với những di tích hiện còn, Thành Cổ Loa là một công trình lao động

đồ sộ, nhất là đặt trong điều kiện dân số nước ta thời đó chỉ khoảng một triệu

người. Chỉ riêng ba vòng thành khép kín, chu vi đã trên 16km. Đó chưa kể

những ụ đất, những đoạn lũy bên trong và bên ngoài thành cùng với ba vòng

hào của ba vòng thành. Khối lượng đất đào, đắp rất lớn, đòi hỏi phải huy động

một lực lượng nhân công đông, làm việc vất vả hàng năm mới xong. Thành

Cổ Loa thể hiện một cố gắng lớn lao, một kỳ công lao động của người Việt cổ

trong buổi đầu dựng nước. Cấu trúc và kỹ thuật xây dựng Thành Cổ Loa còn

biểu thị tài năng sáng tạo của nhân dân Âu Lạc, những tiến bộ và thành tựu

mới của nền văn minh Đông Sơn. Tính chất của tòa thành đó là Cổ Loa vừa là

kinh thành, vừa là quân thành và cũng là thị thành.

- Tính chất kinh thành: Cổ Loa là nơi vua An Dương Vương định đô.

Cổ sử như Đại Việt Sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục

ghi chép lại sự kiện này như sau: Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm

lược, năm 208 TCN, An Dương Vương đã thay thế Hùng Vương và chuyển

thế lực từ Việt Trì về Cổ Loa, lập nước Âu Lạc, sau đó định đô và đắp thành

kiên cố để phòng vệ và xây dựng đất nước. Thành Cổ Loa có 9 vòng, chu vi 9

dặm, dân cư đông đúc.

Quy mô, cấu trúc của Thành Cổ Loa đã được GS. Trần Quốc Vượng so

sánh với các thành lũy khác được xây dựng trong thời kỳ Bắc thuộc ở Việt

Nam, đặc biệt là so sánh thành Cổ Loa với thành Luy Lâu – quận trị quận

Giao Chỉ đầu Công nguyên. Ông nhận xét: “Quy mô và cấu trúc của thành Cổ

61

Loa là quy mô, cấu trúc của một kinh đô, có Thành Nội (như Cấm thành, Tử

thành), Thành Trung (Hoàng thành), Thành Ngoại (là thành quách). Phải là

trị sở của một ông vua, một triều đình mới có yêu cầu phòng vệ cao như vậy

và mới được quyền đắp nhiều vòng thành như vậy” [103, tr.125]. Cấu trúc của

Thành Cổ Loa ta gặp lại trong những tòa thành sau được xây dựng làm kinh

đô như thành Thăng Long, kinh thành Huế.

Truyền thuyết ghi chép về sự có mặt của An Dương Vương cùng những

tướng lĩnh của ông như “tứ trụ triều đình” – những trung thần giúp vua An

Dương Vương đánh giặc giữ nước, về các địa điểm như: đền Thượng – tương

truyền là cung thất, đình Ngự Triều Di Quy – được xây dựng trên nền điện

thiết triều của nhà vua, các địa danh: Ngự Xạ Đài, Vườn Thuyền, Ao Mắm,

Đầm Cả... là những nơi nhà vua và quân lính luyện tập bắn nỏ, nơi tập kết

thuyền bè, thủy quân, trung chuyển hàng hóa. Truyền thuyết về Bát xã Loa

thành – tám làng thờ vua như: Làng Mạch Tràng, xưa làng có tên gọi là Mạch

Trường, nằm cạnh Thành Cổ Loa. Khi An Dương Vương về đây xây thành,

ông đã đem giống lúa Mạch về đây dạy dân trồng cấy và đặt kho lương thực

của nước Âu Lạc tại làng. Về sau vua Ngô Quyền cho mở trường học quốc

gia tại nơi này nên làng có tên ghép là Mạch Trường về sau dân gian đọc

chệch là Mạch Tràng và được gọi cho đến ngày nay. Hay làng Cầu Cả tương

truyền khi xưa nơi đây là một trong tám trấn bảo vệ thành Cổ Loa từ phía

ngoài do tướng quân Lý Tâm Viễn trấn giữ. Theo dân gian giải thích, sở dĩ có

tên là Cầu Cả vì thôn nằm ngay cạnh sông Hoàng Giang xưa nơi đây có cầu

bắc qua sông (Cầu Tháng Năm – Ngũ Nguyệt Kiều). Làng Thư Cưu là kho

sách của nhà vua; Làng Văn Thượng là Tây cung, nơi Cao Vũ Thần hay Cao

Vũ Hiền (em tướng quân Cao Lỗ) đóng giữ; làng Ngoại Sát được vua An

Dương Vương trao quyền giám sát, kiểm soát, không ai được phép tự tiện vào

thành và là nơi trừng trị những người phạm tội; làng Sằn Giã là nơi tướng

62

quân Cao Phổ Lân trấn giữ; làng Đài Bi là đài quan sát phía Bắc kinh thành

Cổ Loa, là vọng gác số 6 của vua Thục An Dương Vương, nơi đây còn là nơi

luyện võ của tướng sĩ.

Tất cả những truyền thuyết đó đã góp phần khẳng định tính chất kinh

đô của tòa thành này. Theo tên địa danh cổ ta có thể hình dung được những bộ

phận quan trọng làm sáng tỏ diện mạo một kinh thành, cho dù đó là tưởng

tượng của dân gian dựa trên một mẫu hình triều đại phong kiến muộn mà gán

ghép vào mảnh đất Cổ Loa.

- Tính chất quân thành: Với hệ thống ba vòng lũy và hào nước,

Thành Cổ Loa vừa là căn cứ bộ binh, vừa là căn cứ thủy binh mà Đầm Cả là

một cảng, thuyền lớn. Hệ thống hào nước phân bố khắp các vòng thành và

liên thông với hệ thống sông ngòi bên ngoài Cổ Loa (vốn là ngoại hào của

Thành Cổ Loa) không chỉ phục vụ cho thủy quân mà còn rất thuận tiện cho

giao thông đường thủy. “Mặt khác, với hệ thống lũy tiền tiêu đắp trên bờ

sông, ở góc độ nào đó, thành cổ Loa không chỉ là hệ thống tưới tiêu cho cả

diện tích rộng lớn đồng ruộng ở nội, ngoại thành mà còn có chức năng là đê

sông ngăn lũ lụt” [86; tr.45].

Khu vực Cổ Loa xưa vốn là một bãi bồi của sông Hồng mà một nhánh

quan trọng là Hoàng Giang chảy qua phía Nam Thành Cổ Loa. Thành xây sát

bờ Bắc Hoàng Giang là để sử dụng dòng sông này như một đầu mối giao

thông đường thủy và như một đoạn hào tự nhiên lợi hại. Đầm Cả, một cánh

đầm rộng mênh mông nối với Hoàng Giang qua một nhánh sông cũng được

lợi dụng như một bến cảng, một “quân cảng” có thể chứa vài trăm chiến

thuyền, đặt ở phía Đông, giữa Thành Ngoại và Thành Trung.

Nhiều dải đất, gò cao tự nhiên được đắp thêm và nối liền với nhau khi

xây dựng các vòng thành để giảm bớt công sức lao động của con người.

Chính vì thế, Thành Trung và Thành Ngoại uốn lượn tự do không có một hình

63

dáng rõ rệt và cân xứng. Đối với người thiết kế Thành Cổ Loa, yêu cầu hàng

đầu không phải là vẻ đẹp của sự cân xứng mà trước hết là sự kiên cố, lợi hại

của tòa thành và tiết kiệm được lao động của con người, là sự kết hợp giữa

việc tận dụng điều kiện tự nhiên với những công trình nhân tạo [57, tr.177].

Việc kè đá ở chân thành và rải gốm ở thân thành là nhằm chống sụt lở,

xói mòn. Nhờ những sáng tạo kỹ thuật đó mà Thành Cổ Loa đã được xây

dựng thành công và một tòa thành đồ sộ bằng đất vẫn tồn tại suốt hơn 2.000

năm giữa một địa hình gần sông nước và đầm lấy.

Một nét độc đáo của Thành Cổ Loa là toàn bộ cấu trúc của nó tạo thành

một kiến trúc quân sự kiên cố được phòng vệ chắc chắn, kết hợp chặt chẽ giữa

quân bộ và quân thủy. Bên cạnh đó các nhà khoa học cũng chỉ ra vai trò phòng

thủ của Thành Cổ Loa thông qua việc xây tường thành rằng: “Các đoạn thành ở

phía Bắc – Tây Bắc có độ cao tuyệt đối 17 – 18m, được đắp trên nền địa hình

cao 11 – 12m, còn ở phía Nam, khi bề mặt địa hình tự nhiên cao 7 – 9m thì độ

cao của thành cũng chỉ đạt 11 – 12m. Có nghĩa là độ cao tương đối của các mặt

thành khá đồng nhất, còn độ cao tuyệt đối lại thay đổi đáng kể, giảm từ 17 - 18m

ở phía Bắc xuống 11 - 12m ở phía Nam” [57; tr.37]. Điều này phản ánh khả

năng phòng thủ của Thành Cổ Loa trước quân xâm lược phương Bắc khi tập

trung xây thành cao và rộng về phía Bắc, thấp và hẹp ở phía Nam.

Hệ thống đường thuỷ của Cổ Loa có sự kết hợp giữa hào nước thông

với sông Hoàng Giang và hệ thống Đầm Cả, Vườn Thuyền – Ao Mắm, sông

Hoàng Giang cùng với Đầm Cả, các nhánh sông và ba vòng hào kết hợp với

nhau thành một hệ thống đường thủy. Thời bình đó là một mạng lưới giao

thông chuyên chở thuận lợi, có thể đi vào tận Thành Nội. Khi có chiến tranh,

quân thủy xuất phát từ Đầm Cả có thể nhanh chóng triển khai khắp ba vòng

thành để cùng phối hợp chiến đấu với quân bộ. Khi tiến công, từ Thành Cổ

64

Loa, quân thủy có thể theo sông Hoàng Giang xuống sông Cầu hay ngược lên

sông Hồng mà tiến xuống vùng đồng bằng và biển cả [57; tr.178].

Thành Cổ Loa là một căn cứ quân sự phối hợp bộ binh và thủy binh.

Người Âu Việt ở miền núi vốn quen trèo núi, giỏi cung nỏ (hình ảnh chiến binh

trên thuyền tang trống Cổ Loa I, truyền thuyết nỏ thần của An Dương Vương).

Người Lạc Việt ở đồng bằng lại quen sông nước, thạo dùng thuyền. Kinh thành

nước Âu Lạc của người Lạc Việt và Âu Việt đã thâu nhập và phát huy được hai

truyền thống ưu việt đó của người Việt cổ. Bên cạnh đó, phát hiện kho vũ khí ở

Cầu Vực năm 1959 đã phản ánh rằng, lực lượng quân đội của An Dương

Vương rất đông nên mới cần đến số lượng vũ khí đồ sộ như vậy.

Cấu trúc quân sự của Thành Cổ Loa đạt đến một trình độ kiến trúc quân

sự cao và phức tạp. Thành Cổ Loa là một chỉ tiêu phản ánh tập trung sự phát

triển nhiều mặt của Âu Lạc thời vua An Dương Vương. Nó không chỉ chứng

tỏ tài năng sáng tạo, những tiến bộ về kỹ thuật xây dựng, về kỹ thuật và nghệ

thuật quân sự của người Việt cổ mà còn biểu thị một bước phát triển mới của

Nhà nước Âu Lạc, của quyền lực và sự phân hóa xã hội.

Tính chất đê - thị thành: Người Cổ Loa từ thời đại Tiền Đông Sơn và

Đông Sơn là cư dân lấy nông nghiệp trồng lúa nước làm phương thức sống

chủ yếu. Cổ Loa dưới thời An Dương Vương là một vùng chuyển giao giữa

trung du và miền núi, tồn tại rất nhiều hệ thống đầm, hồ thông với sông

Hoàng Giang và sông Hồng. Do vậy muốn sinh sống tại đây đã đặt ra yêu cầu

trước hết là phải tiến hành chống lũ lụt. Những vòng thành sừng sững của

Thành Cổ Loa cùng với hệ thống đầm, hào và sông Hoàng Giang phục vụ

tưới tiêu trong nông nghiệp, phục vụ ngăn lũ, chống úng trong khu vực Thành

Cổ Loa. Trong các sách cổ có ghi chép về một con đê cổ ở vùng này, như Hậu

Hán thư có ghi rằng: “Huyện Phong Khê, ở Giao Chỉ có đê đập” (dẫn lại theo

[1; tr.61]), trong Thiên Quận quốc chí cũng ghi chép: “Phía Tây Bắc huyện

65

Long Biên, quận Giao Chỉ có đê giữ sông”. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện

được dấu tích của một đoạn đê cổ có trước thời Bắc thuộc ở Cổ Loa. Trong

công trình khảo cứu về Cây lúa Việt Nam cũng khẳng định “đê cổ Ngũ Huyện

Khê là một sáng tạo của người Việt cổ có từ trước công nguyên người Cổ Loa

xưa có đóng góp vào sự sáng tạo đó” (Dẫn lại theo [1, tr.61]). Như vậy có thể

thấy tại Cổ Loa từ trước công nguyên đã có sự xuất hiện đê điều, trong khi đó

Thành Cổ Loa lại đắp men theo dòng chảy của sông Hoàng Giang, có thể thấy

rằng Thành Cổ Loa tồn tại như một con đê lớn, hào của nó là hệ thống kênh

mương cung cấp/thoát nước cho cả một vùng. Cổ Loa là sự hội tụ giữa lũy và

hào, giữa đê và mương, nó là một đô thị nông nghiệp.

Nông nghiệp phát triển, trên mảnh đất Cổ Loa đã có sự quần tụ đông

đúc của dân cư, chủ yếu sống bằng nghề nông và đánh cá ven dòng sông

Hoàng, các đầm hồ. Trong Nam Việt chí cũng cho biết Thành Cổ Loa của An

Dương Vương đã có “sĩ thứ đông đúc”. Là một kinh đô, trung tâm chính trị

của nhà nước, chắc chắn Cổ Loa sẽ thu hút đông đảo dân cư từ các vùng khác

trong cả nước đến, chưa kể một đội quân thường trực lớn của nhà vua, tất cả

đặt ra nhu cầu phải cung cấp một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm và

các loại vật dụng lao động, công cụ lao động, nguyên liệu đồng để chế tạo vũ

khí.... Nhất là trong quá trình xây dựng Thành Cổ Loa, thường xuyên có một

số lượng lớn lao động đắp thành. Trong công trình nghiên cứu về Thành Cổ

Loa của PGS.TS Nam C.Kim, ông đã tính toán được về số lượng nguyên liệu

thực sự được xây dựng thành, số lượng nhân công khi xây Thành Cổ Loa.

Theo ông, khối lượng đất đắp Thành Trung vào khoảng 510.900m3, Thành

Ngoại là 368.000m3, Thành Nội là 178.200m3 và tổng khối lượng đất được di

chuyển để xây dựng các vòng thành có thể xấp xỉ 1.057.100m3. Tất cả những

tính toán này là dựa trên những tường thành còn nguyên vẹn và còn quan sát

được, không tính đến khả năng các tường thành hay các lớp bên trong có thể

66

được xây dựng riêng biệt vào các thời điểm khác nhau và do các thể chế khác

nhau xây dựng. Con số ước tính không thể tính được nhiều thế kỷ phân hủy

và bỏ hoang của Thành Cổ Loa. Sử dựng khối lượng lớn đất đắp như vậy thì

theo tính toán thì cần khoảng từ 1.000 – 10.000 người có thể hoàn thành việc

xây dựng tường thành trong khoảng từ 3 đến 50 năm [30; tr.100].

Ở Cổ Loa và vùng phụ cận một lượng lớn những lưỡi cày đồng được

gọi là loại hình Cổ Loa, lưỡi xẻng, lưỡi cuốc… cho thấy một tập hợp những

nông cụ làm đất hoàn chỉnh của nghề nông trồng lúa nước mà chủ nhân của

nó là cư dân Âu Lạc, điều đó chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nông

nghiệp nơi đây. Năm 1982, tại địa điểm Mả Tre thuộc Thành Nội phát hiện

được một chiếc trống đồng, bên trong chứa một bộ sưu tập hiện vật khổng lồ

khoảng hơn 200 hiện vật các loại, trong đó có những hiện vật vừa đúc xong,

chưa được tu sửa cùng tồn tại bên cạnh những hiện vật bị đúc hỏng, những

hiện vật hỏng nát được thu thập về để làm nguyên liệu đúc. Tiếp theo vào

năm 2005, tại khu vực đền Thượng Cổ Loa phát hiện được dấu tích của hệ

thống lò đúc mũi tên đồng ba cạnh và hàng loạt những mang khuôn tại lớp

văn hóa Cổ Loa. Như vậy, phát hiện Mả Tre 1982, phát hiện tại đền Thượng

năm 2005 cùng với phát hiện kho mũi tên đồng ba cạnh tại Cầu Vực năm

1959 đã khẳng định Cổ Loa khi đó là một trung tâm đúc đồng lớn. Hệ thống

luyện kim – đúc đồng không những quy mô lớn mà còn chuyên hóa trong việc

sản xuất các chế phẩm. Sản xuất thủ công nghiệp không chỉ dừng lại ở nghề

phụ gia đình mà đã phát triển tách khỏi nông nghiệp, nói lên xã hội đã diễn ra

sự phân công lao động lớn. Các ngành thủ công quan trọng như chế tác đá,

gốm, dệt vải, luyện kim được phát triển sớm, nhanh và chuyên môn hóa.

Ngoài đúc đồng (luyện kim màu), những hiện vật sắt bao gồm “10 hiện vật là

công cụ sản xuất, 2 hiện vật là vũ khí, còn lại là 58 mảnh, cục gỉ sắt và 5 cục

quặng” [42, tr. 279] tìm thấy ở Cổ Loa đã cho biết Thành Cổ Loa khi đó đã

67

phát triển cả nghề luyện kim đen – đúc – rèn sắt. Rõ ràng, những hiện vật

đồng và sắt đa dạng về chủng loại, từ vũ khí đến công cụ sản xuất, phong phú

về số lượng, độc đáo về loại hình đã chứng tỏ sự phát triển của nghề luyện

kim trong đô thị Cổ Loa, một mặt cho thấy tác động lớn của nghề này trong

việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng ngày,

đặc biệt là nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội luôn có biến động.

Từ Cổ Loa, con đường vận chuyển, buôn bán, trao đổi cũng được phát

hiện, đó là con đường vận chuyển bằng đường thủy, tập trung từ Vườn

Thuyền - Ao Mắm - Đầm Cả và chợ Sa là nơi trao đổi buôn bán của nhân dân

Cổ Loa. Trong bộ sưu tập Mả Tre, bên cạnh những hiện vật mang đặc trưng

của văn hóa Đông Sơn “loại hình sông Hồng” còn có một số hiện vật là sản

phẩm của các loại hình khác như: rìu xéo cao mũi chúc, giáo có lỗ ở cánh...

thuộc về văn hóa Đông sơn “loại hình sông Mã”; loại hình giáo họng đuôi cá,

mặt cắt họng hình bát giác, chậu đồng miệng loe ngang, tiền Bán lạng... là sản

phẩm của văn hóa Điền miền Vân Nam và Lưỡng Quảng. Điều này chững tỏ

Thành Cổ Loa đã có quan hệ trao đổi, buôn bán với những khu vực này. Hơn

nữa, “những loại hiện vật của loại hình sông Mã tồn tại trong hoàn cảnh rất

đặc biệt, với thực trạng đều là những đồ đồng nát vụn để làm nguyên liệu đúc

lưỡi cày. Phải chăng thời đó, bên cạnh những thương nhân mang sản phẩm

thành phẩm đi buôn bán giữa các khu vực sông Hồng, sông Mã còn có cả

những người chuyên mua bán đồng nát tới những vùng giáp ranh tạo nên

những hoạt động hết sức sôi nổi ở những trung tâm như Cổ Loa” [23; tr.187].

Đó là bằng chững cho sự giao thương phồn thịnh, rộng rãi từ Cổ Loa và với

Cổ Loa. “Những con đường vận tải buôn bán và trao đổi với đầu mối Cổ Loa

cũng đã phát hiện, tập trung vào đường thủy, tập trung về/và từ Đầm Cả -

Vườn Thuyền, Ao Mắm... quân cảng kiêm luôn giang cảng Cổ Loa. Những

tuyến đường bộ quan trọng giao hội ở Cổ Loa xưa, chạy dọc thung lũng sông

68

Thương (quốc lộ 1), thung lũng sông Cầu (quốc lộ 3) và thung lũng sông

Hồng (quốc lộ 2). Một tuyến địa phương nối Cổ Loa với Mê Linh cũng đã tìm

thấy dấu vết xương voi – con vật làm công việc chuyên chở cổ truyền của

người xưa trên những tuyến đường bộ này cũng được phát hiện ở Cổ Loa”

[97, tr. 77]. Như vậy, Cổ Loa dưới thời An Dương Vương đã phát triển thành

một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa hàng đầu của đất nước.

3.2. Niên đại và kỹ thuật đắp Thành Cổ Loa

3.2.1. Niên đại

Xác định niên đại khảo cổ học có hai cách: Xác định niên đại tương đối

và niên đại tuyệt đối. Xác định niên đại tương đối dựa trên cơ sở xem xét vị trí

xuất lộ của di tích, di vật trong tầng văn hóa, phân tích loại hình, chức năng và

xem xét chúng trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại để xác định những di

tích, di vật đó thuộc giai đoạn văn hóa nào và có mối quan hệ thế nào với các di

tích, di vật đồng đại cũng như lịch đại. Xác định niên đại tuyệt đối dựa vào các

phương pháp phân tích của khoa học tự nhiên, như: C14, AMS...

- Niên đại tương đối:

Trong các địa điểm khảo cổ học ở Cổ Loa, chúng ta đã phát hiện được

nhiều di vật có niên đại chuẩn, giúp cho việc định niên đại của Thành Cổ Loa.

Khảo cổ học phát hiện, khai quật và nghiên cứu 2 di tích bị vòng Thành

Ngoại Cổ Loa đắp đè lên:

+ Di tích Xuân Kiều (Lương Quán, Việt Hùng) có niên đại thuộc giai

đoạn văn hóa Đồng Đậu, cách ngày nay khoảng 3.500 năm.

+ Di tích Đường Mây (xóm Vang) có niên đại thuộc giai đoạn văn hóa

Đông Sơn, khoảng 2.800 - 2.700 cách ngày nay.

Năm 1982, tại khu vực Mả Tre – bên trong Thành Nội có phát hiện

được một trống đồng Đông Sơn, bên trong có hơn 200 hiện vật đồng các loại;

đặc biệt là có đồng tiền Bán Lạng cùng với phát hiện đồng tiền Bán Lạng tại

di tích Bãi Mèn trong lớp văn hóa Cổ Loa có niên đại 220BC.

69

Năm 2003, khai quật Bãi Mèn và năm 2005 khai quật đền thờ vua An

Dương Vương, các nhà khảo cổ đã phát hiện được những đầu ngói ống Cổ

Loa (BA 16), một số các hiện vật như vò gốm, đồ gốm có 3 chân… trang trí

những băng hoa khắc vạch kết hợp với chấm dải và văn sóng nước đẹp và tinh

mỹ có niên đại Tây Hán.

Kết quả khai quật Thành Trung năm 2007 phát lộ thành lũy, vọng gác

của giai đoạn Đông Sơn muộn nằm dưới chân thành càng củng cố thêm cho

sự nối tiếp lịch sử giai đoạn này. Một trong những phát hiện quan trọng của

công trình nghiên cứu, khai quật Thành Cổ Loa từ năm 2007 – 2014 đã chỉ ra

rằng: Thành Cổ Loa do An Dương Vương đắp nhưng có kế thừa tòa thành

nhỏ trước đó, tòa thành của những làng phòng thủ với chế độ thủ lĩnh. An

Dương Vương đắp cả ba vòng thành với cùng kỹ thuật là đắp nối các gò đất

tự nhiên và đắp nhiều đợt khác nhau. Tuy nhiên quy mô và cấu trúc của toàn

bộ tòa thành cũng như các di tích hiện còn đều cơ bản đã được xây dựng từ

thời An Dương Vương và là kinh thành của nước Âu Lạc có niên đại trước

Bắc thuộc. Sau thời An Dương Vương, thành Cổ Loa tiếp tục được nhiều

chính quyền của những thời kỳ lịch sử khác nhau sử dụng và có tu bổ, sữa

chữa hay đắp thêm. Những lát cắt tại Thành Nội, Thành Trung và Thành

Ngoại có thể thấy có những dấu tích văn hóa vật chất của giai đoạn trước như

ngói Cổ Loa hay gốm men giai đoạn muộn sau này được gia cố vào thân

thành. Phát hiện những ngôi mộ Đông Hán chôn trong Thành Ngoại Cổ Loa

tại Xóm Vang cho thấy, Thành Cổ Loa phải có trước khi người Đông Hán đến

và chôn người chết vào thành. Những di tích khảo cổ ấy chứng tỏ trong thời

Bắc thuộc, chính quyền đô hộ phương Bắc có sử dụng Thành Cổ Loa.

Với nguồn tư liệu khảo cổ học và cổ sử hiện nay, Thành Cổ Loa là tòa

thành đất sớm và quy mô nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á, do An Dương

Vương đắp vào thế kỷ III - II TCN.

70

- Niên đại tuyệt đối:

Có rất nhiều di tích nằm trong phạm vi phân bố 3 vòng Thành Cổ Loa đã

được phân tích niên đại tuyệt đối bằng phương pháp C14 hoặc AMS. Kết quả

phân tích niên đại tuyệt đối của các vòng thành bằng mẫu than, gốm Đông Sơn

và ngói Cổ Loa trong hố khai quật ở cả ba vòng Thành Cổ Loa cho kết quả rất

phù hợp với cách xác định niên đại tương đối của các nhà khảo cổ học như sau:

Bảng 3.1. Niên đại C14 của mẫu than trong ngói Cổ Loa tại Thành Trung

[87; tr. 230]

Số mẫu Niên đại C14 Niên đại đã hiệu chỉnh (2-sigma) Niên đại đã hiệu chỉnh (1-sigma)

Niên đại theo công lịch chưa hiệu chỉnh 07TTH1CS63 2116 ± 43 BC 166 ± 43BC 198 - 59 BC 353 - 4 BC

07TTH1CS50 2093 ± 43 BP 143 ± 43 BC 168 - 54 BC 345 BC - AD 2

07TTH1CS41 2184 ± 43 BP 159 ± 43 BC 357 - 184 BC 382 – 154 BC

Bảng 3.2. Vị trí các mẫu than và niên đại C14 tại Thành Trung [87; tr. 230]

Vị trí mẫu Hiệu chỉnh Vị trí Niên đại Số mẫu Lớp Hướng Ô 1-sigma 2-sigma

41 17 Bắc 2184±43 BP 357-184 382-154

C5 Cùng với ngói Cổ Loa (159±43BC) BC BC

2093±43 BP 168-54 354 50 21 Bắc

E2 Cùng với ngói Cổ Loa (143±43BC) BC BC-AD 2

63 15 Nam B16 Trong vị 2116±43BP 198-59 353 - 4

(166±43BC) BC BC

trí gốm số 1 với ngói Cổ Loa

71

Bảng 3.3. Niên đại C14 các mẫu than phát hiện cùng với gốm Đông Sơn

tại Thành Trung [117; tr. 37].

Số mẫu Niên đại C14 Niên đại hiệu chỉnh 1-sigma Niên đại hiệu chỉnh 2- sigma Niên đại theo công lịch chưa hiệu chỉnh

07TTH1CS39 2186 - 44BP 236 – 44BC 358 – 191 BC 384 - 114BC

07TTH1CS138 2150 - 43BP 200 – 43BC 351 – 111 BC 359 - 54BC

07TTH1CS135 2154 - 43BP 204 - 43BC 353-113BC 360 - 56BC

BP: Cách ngày nay; BC: Trước Công Nguyên; AD: Sau Công nguyên

Như vậy, căn cứ vào sự xuất lộ của ngói Cổ Loa, có thể xác định được

lớp đắp thành do An Dương Vương đắp và các lớp đắp thành trước và sau giai

đoạn này.

3.2.2. Kỹ thuật đắp Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa ta thấy hiện nay ít nhất đã trải qua 3 lần đắp: Lần đắp

đầu tiên hình thành lớp thành sớm với cấu trúc: Hào – lũy – hào – vọng gác.

Đây là thành có trước thành An Dương Vương đắp. Lần đắp thứ hai là do An

Dương Vương thực hiện qua hai thời kỳ:

Thời kỳ đầu đã đắp trùm lên toàn bộ lớp thành sớm với kỹ thuật đổ đất

tự nhiên. “Giai đoạn đắp tường lần 1 được bắt đầu với việc tạo nền móng cho

tường thành, trong đó địa hình được san phẳng làm nền xây dựng tường

thành. Đất hào được đào thành từng khối và sau đó được đắp lên tạo nền

móng. Khối đất thịt, cát và đất sét sau đó được đắp thành các lớp nối để tạo

cấu trúc giống đồi, gò” [29; tr.52]. Đắp kiểu đổ đất tự nhiên có thể thấy ở mọi

thành lũy sớm trên thế giới. Bởi vậy điều đó không phải sản phẩm của người

Trung Quốc.

Thời kỳ thứ hai có nhu cầu mở rộng mặt thành đã đắp ra hai phía nhưng

phía Nam (bên trong mặt thành) được đắp nhiều hơn. Sau khi đắp rộng ra hai

72

bên mới bắt đầu đắp dày. Độ dày của Thành Cổ Loa lớn hơn nhiều so với

những phát hiện ở thành của nhà Hán. Lớp trên cùng của lần đắp này được rải

một lớp ngói Cổ Loa. “Sau khi đắp đất thành đồi gò được hoàn tất, giai đoạn

2 là gia tăng kích cỡ của tường thành bằng các lớp đất đắp và nện chặt. Đất

màu đỏ bị phong hóa đã tìm được thấy trong các lớp đất này. Việc xây dựng

này làm phẳng bề mặt cao nhất của tường thành và tăng tính toàn vẹn của

bức tường” [29, tr.52]. Cùng với ngói và thấp hơn về phía Nam là đá (chủ yếu

là đá cuội và sỏi kích thước lớn). Thành đắp giai đoạn này có khối lượng công

việc gấp nhiều lần so với khối lượng đắp thành sớm. Điều này phù hợp với

nhận định thành là sản phẩm của một tổ chức xã hội kiểu nhà nước – nhà

nước Âu Lạc do An Dương Vương đứng đầu.

Với kỹ thuật và trình độ kỹ thuật bấy giờ, cung tên được sử dụng phổ

biến nên có thể nhận định rằng ngói lợp trên mái các chòi canh (vọng gác)

cho lính canh gác, vừa chống mưa nắng, quan trọng hơn là bảo vệ sự tấn công

khỏi các mũi tên và bó lửa. Có ý kiến khác cho rằng, căn cứ vào số lượng lớn

gạch ngói xuất lộ ở bình diện khá thống nhất, lại trong điều kiện nhiệt đới

mưa theo mùa như ở nước ta thì có thể lượng lớn ngói được lợp ở hai bên

thành, vừa chống xói mòn, vừa giúp sự vận động từ dưới lên hay từ trên

xuống dễ dàng hơn.

Thời kỳ thứ ba: Đất đắp được san, nện rất kỹ, gồm nhiều lớp hơn các

lớp dưới. Mỗi lớp dày trên dưới 10cm. Kỹ thuật này nếu không phải do người

Hán đắp thì cũng ảnh hưởng bởi kỹ thuật Hán.

Cuộc khai quật ở Bãi Mèn (2003 – 2004), ở đền Thượng (2005 – 2006

– 2007) đã phát hiện được những gò đồi tự nhiên (đỉnh gò đồi gốc) và nhiều

di tích, di vật liên quan đến kỹ thuật đắp Thành Nội của An Dương Vương.

Kết quả khai quật luỹ hào – hào Thành Trung tại xóm Thượng và xóm Bãi

năm 2007 - 2008, các nhà khảo cổ học đã nhận diện được ba lớp thành khác

73

nhau, trong mỗi lớp có chứa những hiện vật khảo cổ khác nhau. Từ dưới lên,

lớp thành dưới cùng có quy mô nhỏ, trong đất chứa hiện vật văn hoá Đông

Sơn như gốm màu nâu sẫm kiểu gốm Làng Cả (Phú Thọ), đồ sắt, di tích bếp

đun với nhiều than tro. Lớp thành giữa độ dày khá lớn, đắp trùm lên toàn bộ

lớp thành dưới và trải rộng ra hai bên, trong đó lớp đất trên cùng có gốm Cổ

Loa và nhiều đá cục các loại. Lớp thành trên cùng mỏng, có chứa di tích hiện

đại và hiện vật thời Lê, Nguyễn.

Nhìn chung, vật liệu được sử dụng để đắp thành luỹ được khai thác từ

hào nằm bên ngoài thành. Thông qua địa tầng cho thấy thành có cột địa tầng

đảo ngược. Phần lớn bức tường thành đất có lẽ đã được xây dựng liên tục

trong một khoảng thời gian tương đối nhanh và các kỹ thuật chủ yếu được sử

dụng cho xây dựng. Nhìn chung sự kết hợp của các đồ tạo tác, tương phản kỹ

thuật xây dựng và niên đại cácbon phóng xạ cho thấy đa số các lũy được xây

dựng bởi một xã hội địa phương, bản địa.

Như vậy, những kết quả khai quật Thành Nội tại đền Thượng, Thành

Trung tại Xóm Thượng, Thành Ngoại tại Xóm Mít và Xóm Thượng đã khẳng

định An Dương Vương đắp cả ba vòng thành với cùng kỹ thuật là đắp nối các

gò đất tự nhiên và đắp nhiều đợt khác nhau. Cả ba vòng thành ban đầu đều có

hình dạng là những đường cong tự nhiên khép kín. Các triều đại sau đó khi

cai trị, đóng đô ở Cổ Loa đã tu sửa, đắp thêm ở vòng Thành Nội cho phù hợp.

Hình dáng của vòng Thành Nội hiện nay có thể là ảnh hưởng của nhà Hán khi

nhà Triệu cai trị nước ta đương thời.

3.3. So sánh Thành Cổ Loa với các công trình phòng ngự ở Việt Nam

3.3.1. Thành Cổ Loa với di tích đất đắp tròn Bình Phước

Một di tích có tính chất tương đồng với thành Cổ Loa đó là những di

tích đất đắp tròn tại tỉnh Bình Phước. Đây là loại hình di chỉ khảo cổ học được

nghiên cứu phát hiện bởi nhà khảo cổ học người Pháp là Louis Malleret. Năm

74

1959, ông công bố những nghiên cứu bước đầu về loại hình di tích này với

một bản đồ phân bố của 18 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam và Campuchia,

trong số đó có 12 địa điểm thuộc lãnh thổ Việt Nam. Đặc điểm của các loại

hình di chỉ này là thường phân bố ở trên đồi cao, bằng phẳng, hai bên sườn

đồi thường có nguồn nước (suối hoặc bưng trũng thấp). Đa số các di chỉ đã

phát hiện đều được phân bố ở vùng đất đỏ, chỉ có di chỉ Long Tân là phân bố

ở vùng đất sỏi cơm.

Về cấu trúc, các di chỉ thành đất đắp hình tròn có những đặc điểm chung.

+ Các di tích đều có dáng hình trong và lấy một tâm làm chuẩn.

+ Tất cả các di tích đều được đắp bằng đất đỏ bazan, bằng cách lấy đất

tại chỗ. Trong đó, vòng ngoài đã lấy đất từ dưới hào đắp lên.

+ Tất cả các di tích đều có hào.

+ Lối ra vào ở di tích đất đắp tròn Bình Phước không theo một hướng

nhất định nào. Di tích có một lối hay hai lối ra vào đều có một lối hướng đến

nơi có nguồn nước gần nhất.

Đặc trưng này cho thấy người xưa có tính toán trong việc chọn địa

điểm để tạo lập công trình đất hình tròn. Ở đấy phải đảm bảo hai yếu tố cơ

bản nhất đó là nguồn nước và nguồn thực phẩm dồi dào, dễ kiếm, đồng thời

nơi đó có địa hình tốt nhất cho an ninh của cả cộng đồng. Qua khai quật có

thể thấy, tuy các di tích đều gần các con suối, thế nhưng người xưa dường như

sử dụng nước từ đầu nguồn khe suối trong lòng đồi mà họ hay gọi là “lỗ mọi”.

Nguồn nước ở đây theo họ ít bị nhiễm bệnh hơn là ở sông và suối.

Di tích đất đắp tròn ở Bình Phước có ba loại hình chính là loại có một

vòng thành, loại có hai vòng thành và loại ba vòng thành (tại ấp Tân Phú xã

Thuận Phú). Loại có một vòng thành có số lượng ít, quy mô nhỏ, hiện nay

trên địa bàn tỉnh chỉ mới phát hiện được 5 di chỉ. Về cơ bản, loại di chỉ có một

vòng thành có cấu trúc đơn giản, vòng thành được đắp cao hơn so với mặt đất

75

hiện hữu, tạo không gian bằng phẳng rộng khoảng 10m chạy vòng quanh mặt

thành, lối ra vào được cấu trúc đơn giản. Loại có hai vòng thành hiện nay

được phát hiện chiếm đa số trong các di chỉ. Cấu trúc cơ bản gồm một vòng

thành ngoài đắp cao hơn mặt đất bình thường, tiếp đó là hào sâu ngăn cách

giữa vòng thành ngoài và vòng thành trong, tiếp đến là vòng thành trong

(thường rộng từ 10m đến 20m) và cuối cùng là vùng đất bằng phẳng ở giữa

(hiện nay chức năng của vùng đất này đang tiếp tục được nghiên cứu). Với

cấu trúc như vậy, độ sâu của các hào thành phụ thuộc vào quy mô của thành.

Hiện nay, di chỉ có hào và vòng thành ngoài có độ sâu lớn nhất là thành Lộc

Tấn 2 (thành có diện tích lớn nhất được phát hiện cho đến nay), tính từ đỉnh

thành ngoài đến mặt hào hiện tại nơi cao nhất là 11m. Do cấu trúc phức tạp

(thành cao và hào sâu) nên lối ra vào cũng được đắp và “thiết kế” rất đa dạng.

Mỗi lối ra vào ở phần tường thành ngoài thường được đắp thấp hơn tường

thành (có lẽ để người dân dễ ra vào), có cụm đất phía giữa ngăn đôi tạo thành

hai đường đi khá rõ. Tại đây, hai bên lối ra vào thường có hai ụ đất cao hơn

các đoạn vòng thành khác. Một điều rất đặc biệt là ở các lối ra vào, cấu trúc

của các ụ đất phân chia lối ra vào được đắp khá đa dạng, có nơi là một ụ tròn

nhô cao, có nơi là một dải đất thấp dài thoai thoải, có nơi chỉ là một vệt đất

nhô hơi cao mang tính ngăn chia tượng trưng. Điều đó thể hiện sự đa dạng

trong tư duy kiến tạo của người tiền sử ở các khu vực nơi họ cư trú.

Về quy mô: Các di chỉ thành tròn ở Bình Phước hiện nay khá đa dạng,

có di chỉ diện tích nhỏ, chỉ khoảng từ 1ha đến 3ha như di chỉ Bù Nho, di chỉ

Phước Tín, di chỉ Lộc Điền 2. Nhưng có di chỉ có quy mô diện tích rất lớn

như di chỉ Lộc Tấn 2 có diện tích hơn 11ha, di chỉ Long Bình 1 có diện tích

khoảng 9 ha, di chỉ An Khương có diện tích khoảng 8ha, di chỉ Thuận Phú 2

đường kính gần 400m... Sự phân bố của các di chỉ này là tương đối đều và

xem xét trên bình diện khu vực dường như có sự liên kết nào đó. Trong một

76

khu vực, các di chỉ phân bố theo từng cụm với khoảng cách không xa, cách

nhau từ vài trăm mét đến khoảng 3km. Trường hợp đặc biệt hơn là di chỉ

Long Bình 2 và 3 liên kết với nhau tạo thành di chỉ thành đôi, hai di chỉ cùng

chung vòng thành ngoài và hào, chỉ khác nhau vòng thành trong, hai vòng

thành trong cách nhau bởi một đoạn hào. Cấu trúc đặc biệt này đã tạo thành di

chỉ có hình dạng số 8. Sự đa dạng về cách phân bố, vị trí phân bố cho thấy

giữa các di chỉ trong cùng khu vực có một liên hệ nhất định.

Có thể khẳng định sự phân bố, quy mô, cấu trúc của các di chỉ thành

đất đắp hình tròn ở Bình Phước rất đa dạng. Điều đó giúp cho cho chúng ta có

thể nhận diện được sự đa dạng phong phú trong việc tổ chức cư trú của cư dân

tiền sử ở Bình Phước.

Khác với Bình Phước, Thành Cổ Loa lại có quy mô lớn hơn rất nhiều.

Diện tích thành lên tới 46ha, tổng chu vi ba vòng thành khoảng 16.000m.

Tầng văn hóa dầy trong các di chỉ Tiền Đông Sơn ở Cổ Loa và sự phát triển

xuyên văn hóa trong các di chỉ Bãi Mèn gồm ba lớp phát triển không liên tục

từ Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Đông Sơn, Đình Tràng với 4 lớp văn hóa

phát triển liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn đã chứng tỏ sự tụ cư lâu

dài ở đây. Với khối lượng di vật phát hiện được tại các di chỉ khu vực Cổ Loa

cho thấy tại Cổ Loa cách đây hơn 2.000 năm đã xuất hiện các xóm làng trù

mật. “Họ tụ cư đông đúc trên những dải đất cao và những cồn nổi ven sông

Hoàng suốt từ Đông Hội qua Mạch Tràng, Bãi Mèn, Đồng Vông, Trại xóm

Vang cho mãi về phía Kẻ Rỗ (Lỗ Giao, Lỗ Khê ngày nay). Họ là những người

làm ruộng và đánh cá. Họ sử dụng đồ đá và đồ đồng” [105; tr.123]. “Trên bờ

Hoàng Giang mọc lên những mái nhà cong vút hình thuyền... họ còn dùng rìu

và vời bằng đá, bằng đồng đẽo gỗ làm thuyền, chặt luồng, kết mảng, bện gai

làm lưới, đẽo đá làm chì để đánh cá trên dòng Hoàng Giang và các đầm hồ

lân cận... Họ trồng lúa, trồng màu trên các bãi ven sông” [105; tr. 24-25].

77

Tất cả các di tích đất đắp tròn ở Bình Phước đều có đặc điểm tương

đồng với di tích Thành Cổ Loa.

Di tích Thành Cổ loa có ba vòng thành khép kín, có hệ thống hào nước

xung quanh và có cửa ra vào. Bên cạnh đó, di tích thành Cổ Loa còn lợi dụng

hệ thống sông Hoàng Giang – con sông tự nhiên ở vùng này để dẫn nước từ

hệ thống sông phục vụ hào - hệ thống thủy binh của nhà vua. Ngày nay,

Hoàng Giang chỉ là một đoạn sông đã bị bồi lấp và đã được cải tạo thành một

kênh thủy nông. Nhưng theo các tài liệu địa lý học lịch sử, Hoàng Giang nối

với sông Ngũ Huyện Khê, cùng các đầm hồ được dùng làm con hào tự nhiên

lợi hại che chắn phía Đông Nam Thành Ngoại. Ở những chỗ không có mặt

nước, nơi đất được đào lên để đắp thành lại tạo ra con hào phía bên ngoài. Tất

cả ba lớp hào của Thành Cổ Loa nối liền với nhau và nối với sông Hoàng

Giang. Nước từ Hoàng Giang bảo đảm cho hệ thống hào ở đây quanh năm có

nước. Hào – sông kết hợp với nhau tạo thành một mạng lưới giao thông

đường thủy rất tiện lợi. Khi tiến công, từ Thành Cổ Loa, thủy quân có thể

theo sông Hoàng xuống sông Cầu hay ngược sông Hồng, tiến xuống vùng

đồng bằng và ra biển cả.

Di tích Thành Cổ Loa được xác định là kinh đô của một nhà nước cổ đại

- một tòa thành quân sự mang tính phòng thủ - một thị thành có “sĩ thứ đông

đúc”. Các di tích đất đắp tròn ở Bình Phước tuy có niên đại sớm hơn nhưng

mới chỉ được xác định là căn cứ phòng vệ của người tiền sử, số lượng di tích

nhiều và phân bố thành từng cụm. Với Thành Cổ Loa, các nhà khoa học đã

phát hiện được hệ thống lò đúc và mang khuôn đúc mũi tên đồng ba cạnh ở đền

Thượng, trong khu vực Thành Nội, vũ khí là hàng vạn mũi tên ở Cầu Vực cung

nhiều phát hiện lẻ tẻ khác xung quanh vùng Cổ Loa. Nhưng với các di tích ở

Bình Phước lại hầu như không tìm thấy một tiêu bản nào mang chức năng là vũ

khí, chỉ có rìu bôn, cuốc, đục, bàn mài và một số loại hình khác, đâu đó có một

78

vài mũi nhọn. Những chiếc rìu, khi cần, cũng có thể mang ra chiến đấu, nhưng

chức năng chủ đạo của nó là dùng trong lao động sản xuất.

Chủ nhân và niên đại: Thành Cổ Loa do An Dương Vương xây vào thế

kỷ III - II TCN có kế thừa thành trước đó của cư dân Tiền Đông Sơn ở Cổ

Loa. Tại Bình Phước, niên đại C14 của một số di chỉ là từ 3.800 đến 2.900

năm cách ngày nay (± 50 năm).

3.3.2. Thành Cổ Loa với thành Luy Lâu (Bắc Ninh)

Dâu – Luy Lâu thuộc Kinh Bắc, Bắc Ninh cách Thành Cổ Loa khoảng

20km về phía Tây Bắc. Đây đã từng là một thành thị sầm uất và quan trọng

bậc nhất trong lịch sử cổ đại Việt Nam, là trung tâm hành chính, kinh tế, văn

hoá và quân sự của nước ta trong một thời gian dài Bắc thuộc. Theo GS Trần

Quốc Vượng, nhà Hán sau khi chia đất lập huyện đã dùng chữ Hán để phiên

âm tên một số địa danh của người Việt cổ, cái tên Luy Lâu (hay Liên Lâu) là

do phiên âm từ Dâu mà ra [04, tr. 11]

Về tính chất, Thành Cổ Loa là trung tâm kinh tế chính trị, văn hoá,

quân sự, đóng vai trò vừa là kinh đô, vừa là quân thành và cũng là thị thành

của nhà nước Âu Lạc dưới thời vua An Dương Vương. Còn thành Luy Lâu

vừa là trung tâm chính trị, vừa là một đô thị sầm uất của cả vùng dưới thời cai

trị của Thái thú Sĩ Nhiếp khi nhà Hán đặt trị sở tại đây. Các tài liệu khảo cổ

học đã phát hiện và khẳng định trước khi nhà Hán chiếm đóng và trở thành

châu trị, Dâu đã là nơi tập trung dân cư, trung tâm kinh tế, văn hoá, phản ánh

xu thế tiến xuống đồng bằng và vươn ra biển của người Việt. Trong thành

Luy Lâu cũng đã phát hiện được khuôn đúc trống đồng cùng mảnh nồi nấu

kim loại, chứng tỏ nghề luyện kim ở đây rất phát triển. Bên cạnh đó, tại di chỉ

Đại Trạch phía Bắc thành Luy Lâu đã phát hiện được bộ sưu tập thuộc văn

hoá Đông Sơn như: Trống đồng minh khí, tấm che ngực, mũi lao, giáo, khuôn

đúc trống Heger I. Tương tự, tại Cổ Loa, trong di chỉ Đình Tràng, Đồng

79

Vông, Bãi Mèn với việc phát hiện ra được những cục, xỉ đồng nằm rải rác

trong tầng văn hoá, hay phát hiện kho mũi tên đồng tại Cầu Vực, trống Cổ

Loa (loại I Heger) tại di chỉ Mả Tre, hàng trăm lưỡi cày đồng hình tim (lưỡi

cày Cổ Loa) ở di chỉ Mả Tre, xóm Nhồi, xóm Hương, xóm Thượng, Đình

Tràng (lớp trên) và khu lò đúc mũi tên đồng tại đền Thượng trong Thành Nội

đã khẳng định được nghề luyện kim phát triển rực rỡ tại Cổ Loa dưới thời An

Dương Vương.

Luy Lâu và Cổ Loa đều phát hiện được những đầu ngói ống trang trí

hoa văn nổi, cách trang trí hoa văn trên ngói Luy Lâu là bên ngoài có văn chải

dọc, trong có dấu in vải, đầu ngói trang trí hình hoa thị nổi 6 cánh còn trên

ngói Cổ Loa chủ yếu là văn thừng thô phía ngoài, đầu ngói trang trí hoa văn

cánh sen. Độ nung ngói ở Luy Lâu cao hơn ngói cổ Loa [45, tr.6]. Đa số các

di vật ở Luy Lâu mang dấu ấn văn hóa Trung Quốc thời Hán - Đường, tuy

vậy ở đây cũng tìm được các hiện vật như chì lưới, dọi xe chỉ bằng đất nung,

những đầu ngói trang trí hình vẽ mặt hề với vẻ mặt vui nhộn, ngộ nghĩnh có

chấm tròn ở trán… là những hiện vật mang yếu tố truyền thống văn hóa Việt

Nam, quan hệ văn hóa Việt – Chăm, Việt - Ấn.

Về quy mô và cấu trúc: Kết cấu thành Luy Lâu khác với kết cấu thành

Cổ Loa. Từ cuối những năm 1969 đầu năm 1970, Viện Khảo cổ học đã tiến

hành khai quật đầu tiên tại Luy Lâu. Khi cắt góc Tây Nam của Thành Luy

Lâu nhằm tìm hiểu cấu trúc cũng như niên đại của toà thành này, những người

khai quật cho rằng thành được đắp bằng đất và được đắp gia cố, tái sử dụng

nhiều lần. Các đoàn nghiên cứu đã xác định được cấu trúc và kỹ thuật xây

dựng toà thành cổ này đó là gồm hai vòng lũy khép kín. Thành Ngoại có dáng

gần hình chữ nhật, chiều dài chạy theo hướng Tây – Đông, mặt phía Tây giáp

với dòng sông Dâu, thành có chu vi 1.848m, mặt thành rộng từ 5 – 10m, có

chỗ lên tới 20, 30m (bờ phía Tây), chân thành rộng từ 20 – 40m, chiều cao

80

trung bình từ 2 – 5m. Tại 4 góc của thành đều có dấu vết của 4 đồn quan trấn.

[69; tr. 38]. Thành Nội có hình vuông, chu vi 454m, mặt thành rộng khoảng

5m, cao trung bình 1,5m. Thành nằm ở giữa, gọn trong vòng thành ngoài, hơi

lệch về phía Bắc, góc Tây Bắc và Đông Nam khuyết vào hình thước thợ.

Khác với thành Luy Lâu, Thành Cổ Loa có ba vòng khép kín tuy nhiên các

vòng thành thu hẹp về phía Nam, rộng về mặt Bắc thể hiện rõ đây là toà thành

phòng thủ của người Việt trước quân xâm lược phương Bắc. Mặc dù Thành

Nội Cổ Loa được có hình vuông cân xứng và có kỹ thuật đắp giống với thành

của nhà Hán như thành Luy Lâu thế nhưng dựa vào các di vật phát hiện được

trong lớp văn hoá Cổ Loa của Thành Nội như ngói gốm Cổ Loa, mang khuôn

đúc mũi tên đồng Cổ Loa, hệ thống lò đúc mũi tên Cổ Loa trong khu vực

Thành Nội đã cho thấy đây rõ ràng là toà thành của người Việt đắp trước tiên,

sau này bị ảnh hưởng bởi kỹ thuật đắp thành của người Hán mà tu sửa nên

Thành Nội có hình dáng như chúng ta thấy ngày nay.

Thành Cổ Loa và thành Luy Lâu đều lợi dụng con sông tự nhiên của

vùng để làm hào nước bên ngoài thành: Mặt Bắc Thành Cổ Loa có sông

Hoàng Giang, mặt phía Tây thành Luy Lâu có sông Dâu. Do có thành hào kết

hợp như vậy, cả Thành Cổ Loa và Thành Luy Lâu đều có thể đi được bằng

đường thủy và đường bộ.

Thành Nội Luy Lâu có đường nét gấp khúc ở các góc và các cạnh rất

thẳng (SĐ 10). Tuy nhiên, những vòng ngoài của thành, yếu tố Trung Quốc

chỉ thể hiện ở phần kết cấu hình tứ giác, còn từng đoạn, từng góc vẫn bộc lộ

tính không quy chuẩn theo thành Hán do đặc điểm địa hình chi phối, những

người đắp thành phải nương theo địa hình tự nhiên để tránh những tốn kém

không cần thiết. Quan sát bình đồ thành Luy Lâu (SĐ 10) có thể thấy góc

thành Tây Bắc rất đồ sộ và nhô hẳn ra ngoài sông Dâu. Như vậy có thể thấy,

dù Luy Lâu là sản phẩm mang phong cách Hán rõ rệt bởi cấu trúc hình học

81

của các vòng thành. Tuy nhiên được xây dựng trong điều kiện địa hình Việt

Nam, được đào đắp bởi phần lớn sức lao động của người Việt nên tòa thành

mang nhiều nét của Việt Nam.

Qua đợt khai quật năm 1969 – 1970 và gần đây nhất là năm 2017, 2018

có thể thấy kết cấu các lớp đắp thành Luy Lâu gồm các lớp từ sớm đến muộn

như sau: Đông Hán muộn - Lục Triều, Tùy Đường – Lý, Trần, Lê [64; tr.

293], [76; tr.10]. Tại đợt cắt Thành Nội Cổ Loa năm 2007, đã phát hiện ra kết

cấu ba lớp văn hóa từ dưới lên trên: Cổ Loa – Trần – Lê - Nguyễn với số

lượng lớn di vật giai đoạn Cổ Loa [87; tr.140].

Về kỹ thuật đắp thành: Các thành ở Trung Quốc đều sử dụng kỹ thuật

“trình tường” tức là nén đất bằng ván do điều kiện đất khô rời. Ở Việt Nam,

các vùng đồng bằng phù sa hình thành bởi các dòng sông, các loại đất sét đều

dẻo, độ kết dính cao nên kỹ thuật đắp thành hết sức đơn giản. Do vậy khi đắp

thành Luy Lâu, người xưa chỉ cần đào và đắp trực tiếp để tạo nên các vòng

thành [76, tr. 25]. Trong cuộc khai quật năm 1986 phát hiện được ở Thành

Luy Lâu, ở lũy thành Bắc có một lớp đất đắp thứ ba. Theo suy đoán của các

nhà khai quật có thể lớp đất thứ ba là vòng lũy được đào đắp từ thời Hán và

liên tục được bồi đắp đến thế kỷ X.

Về chủ nhân và niên đại: Thành Cổ Loa có niên đại khoảng thế kỷ III –

II TCN và đến thế kỷ X được tái sử dụng dưới thời Ngô Quyền và là thành

của người Việt. Thành Luy Lâu có niên đại kéo dài từ Đông Hán muộn (Thế

kỷ III), do người Hán xây dựng làm trị sở.

3.4. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa là di tích liên quan đến ba xã trong khu vực huyện Đông

Anh, đó là các xã: Cổ Loa, Việt Hùng và Dục Tú. Người dân sống xen kẽ

dưới chân thành và trên mặt thành. Chính những xóm làng truyền thống mang

đặc điểm của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với cuộc sống của người

82

nông dân gắn bó qua nhiều thế hệ đã góp phần làm phong phú hơn những giá

trị của Khu di tích. Tuy nhiên cũng chính điều này lại góp phần làm ảnh

hưởng đến kết cấu và giá trị Thành Cổ Loa. Trong gần 20 năm trở lại đây,

mật độ dân số khu vực tăng nhanh, cộng với việc không có đất dãn dân đã dẫn

đến việc xây dựng nhà ở và lấn chiếm di tích thành hào tăng nhanh. Về phía

cộng đồng, người dân không mặn mà với di tích, thậm chí coi di tích là rào

cản cho các hoạt động xây dựng, cải tạo nhà cửa ở địa phương.

Hệ thống thành hào là những dấu vết vật chất còn lại của Kinh đô cổ

xưa, được coi là một trong những thành phần quan trọng nhất của khu di tích.

Tuy nhiên, đây cũng là thành phần bị xâm hại nhiều nhất. Hình ảnh một tòa

thành đất với ba vòng thành hào hiện không còn nguyên vẹn, thay vào đó là

các đoạn thành còn sót lại đang trong nguy cơ tiếp tục bị phá hủy. Hiện nay,

diện tích mặt thành và chiều dài các đoạn thành đã bị thu hẹp rất nhiều so với

trước kia do quá trình sinh sống của người dân tác động lên, nhiều đoạn bị sụt

lún do mưa xói mòn. Hệ thống hào nước hiện đã bị thay đổi công năng, lấp để

phục vụ canh tác, xây dựng nhà ở hoặc trở thành ao đầm phục vụ sản xuất,

chứa nước thải sinh hoạt (Bảng 3.6).

Đứng trước những biến đổi do môi trường tự nhiên, thời gian và con

người gây ra tác động đến cấu trúc vốn có của Thành Cổ Loa, các cơ quan

quản lý cần phải có những biện pháp, kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các

bên để có thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa.

Thứ nhất, cần lập Quy hoạch tổng thể khảo cổ học khu di tích Thành

Cổ Loa. Đây sẽ làm cơ sở để triển khai các hoạt động nghiên cứu, phát huy

giá trị di tích. Trong lập quy hoạch tổng thể các di tích khảo cổ học cần tổ

chức đánh giá lại những kết quả khai quật trước đó, rà soát các khu vực cần

thực hiện khai quật trong giai đoạn tiếp theo

83

Thứ hai, Thực hiện điều tra bằng phương pháp Radar nhằm xác định

tiềm năng khảo cổ học dưới lòng đất, chụp ảnh trên không, khảo sát mặt

bằng, trắc địa và kỹ thuật thăm dò địa vật lý khác.Trong hai năm 2016 –

2017, Ban quản lý khu di tích Cổ Loa - Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long

- Hà Nội đã hợp tác với Viện Khảo cổ, Khoa Nhân học - Trung tâm Nghiên

cứu Đông Nam Á - Đại học Wisconsin - Madison - Hoa Kỳ đã tiến hành điều

tra tổng thể, khảo sát thăm dò bằng phương pháp địa vật lý, quét laser từ trên

không ở khu vực Thành Cổ Loa (SĐ 13).

Trong tất cả 17 điểm thăm dò bằng phương pháp địa vật lý có 25/28

lưới được xác định là các địa điểm khảo cổ học tiềm năng. Ba lưới khảo sát

còn lại chứa các từ tính thể hiện rằng đó là các nét đặc trưng mang tính "hiện

đại", gần với ngày nay. Ít nhất 220 mục tiêu riêng lẻ đã được ghi nhận. 8 mục

tiêu trong số đó được xếp vào nhóm “ưu tiên cao” (tức là các mục tiêu khảo

cổ lịch sử), 43 mục tiêu được xếp vào nhóm “ưu tiên trung bình đến cao”, và

16 mục tiêu được phân loại là “ưu tiên vừa phải”. Tại các vị trí 1, 5, 6, 7, 8, 9

(Lưới 9-A), 10, 12, 15 và 17 có thể là các địa điểm để khai quật khảo cổ học

trong tương lai. Trong số này, các vị trí 8, 12, 15, 17, và 10, có khả năng cao

là các địa điểm liên quan đến các nghề nghiệp hoặc nơi cư trú sớm ở Cổ Loa.

Lưới 9-A, trong khu vực Mả Tre, chứa ít nhất 3 mục tiêu, một trong số đó

được phân loại là “ưu tiên từ trung bình đến cao” và nằm gần các mũi khoan

thăm dò phát hiện ngói Cổ Loa [120, tr.2].

Năm 2017, dựa trên kết quả phân tích dữ liệu quét từ năm 2016, đoàn

đã đặt 13 mũi khoan thăm dò (đường kính rộng 8 cm, độ sâu 1 m - 1,6m) tại

các địa điểm: Khu trường cấp II Cổ Loa cũ (vị trí số 3), vườn cây nằm phía

bên phải đền Thượng – khu Văn Chỉ (vị trí số 4), Mả Tre (vị trí số 9, lưới 9-

A), Ao Gáo (vị trí số 12), khu ruộng xóm Gà sát thành Trung - cách cửa miếu

Tây Nam khoảng 500m về phía Bắc (vị trí số 8). Tại các vị trí số 3 và 4 không

84

phát hiện được hiện vật. Mặt khác, tại các vị trí số 8, 9, 12 phát hiện được

than củi cháy và một số mảnh ngói Cổ Loa. Đồng thời, đoàn điều tra đã mở

02 hố thám sát nhỏ ở địa điểm Ao Gáo (khu ruộng canh tác hoa màu của bà

con nông dân thôn Chùa). Đây là khu vực có địa hình nổi cao và nằm sát lũy

thành Trung về phía đông. Kết quả đợt thám sát địa điểm Ao Gáo năm 2017

đã phát hiện được nghĩa địa của cư dân thế kỷ XVII - XVIII. Việc khai quật

địa điểm Ao Gáo giúp chúng ta có nhận thức về tập tục văn hóa của cư dân

giai đoạn này trong tiến trình lịch sử Cổ Loa [18, tr.2].

Như vậy có thể thấy, đây là lần đầu tiên áp dụng phương pháp khảo sát

địa vật lý kết hợp với sử dụng quét laser từ trên không trong nghiên cứu khảo

cổ học ở Bắc Việt Nam. Kết quả thám sát khai quật hoàn toàn phù hợp với kết

quả của phương pháp nghiên cứu. Việc phát triển các phương pháp thăm dò

địa vật lý cho phép các nhà khảo cổ xem xét, nghiên cứu các đặc trưng của

đất trước khi tiến hành khai quật thực trên một diện tích rộng và tốn kém.

Phương pháp địa vật lý khảo cổ học chính là “việc áp dụng các phương pháp

địa vật lý trên mặt đất để tìm và mô tả các đặc điểm khảo cổ bị chôn vùi”. Bên

cạnh đó, phương pháp này cũng cung cấp cả thông tin định tính và định lượng

về các hiện vật trên mặt đất và dưới bề mặt, các quy trình, các mối liên hệ

hình học của các hiện vật đó.

Việc phát triển phương pháp này đánh dấu một hướng đi triển vọng

trong việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu mới mang lại hiệu quả cao

trong việc xác định dấu tích, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trong tương lai.

Thứ ba, cần xây dựng quy hoạch chi tiết Khu di tích tỷ lệ 1/500 làm cơ sở

cho việc triển khai các hoạt động đầu tư bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị di

tích. Việc xây dựng quy hoạch chi tiết khu di tích tỷ lệ 1/500 sẽ hiện thực hóa

gần hơn nữa quy hoạch chi tiết 1/2000 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt

năm 2015. Khu di tích thành Cổ Loa sẽ dần chuyển đổi từ vùng dân cư nông

85

thôn nội thành Hà Nội sang mô hình “Công viên Lịch sử - Sinh thái - Nhân văn”,

trong đó ngành kinh tế chủ đạo là phát triển dịch vụ và du lịch dựa trên bảo tồn

và khảo cổ học. Các dự án bảo tồn tôn tạo và phát huy khu vực Lõi thành Cổ

Loa sẽ được đi vào thực hiện như: Bảo tồn và phục dựng một đoạn Thành hào

Cổ Loa nhằm phục vụ công tác nghiên cứu và quảng bá giá trị, xây dựng đền thờ

Ngô Quyền, tu bổ tôn tạo đền thờ An Dương Vương, đình Ngự Triều di quy, am

thờ Bà chúa Mỵ Châu, di chỉ lò đúc đồng đền Thượng...

Thứ tư, cần bảo tồn và phát triển các không gian Lịch sử, Sinh thái và

Nhân văn phục vụ bảo tồn di tích và phát triển du lịch kết hợp với việc tuyên

truyền tới đông đảo người dân giá trị của di tích: Việc khai thông hệ thống mặt

nước với sông Thiếp, sông Hoàng Giang phục vụ tưới tiêu nông nghiệp và du

lịch, phục dựng toàn bộ hệ thống Hào Thành, Đầm Cả, Vườn Thuyền Ao Mắm

làm tuyến đường thủy tham quan Khu di tích sẽ tạo cơ hội cho người dân làm

du lịch, phát triển kinh tế (SĐ 11, 12). Thành Cổ Loa là một di tích gắn với

dân. Cộng đồng dân cư sinh sống tại Cổ Loa suốt bao đời nay là lực lượng

chính chăm nom gìn giữ khối di sản vật thể và phi vật thể của Thành Cổ Loa

xưa. Việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích đòi hỏi sự tham gia đóng

góp của cộng đồng dân cư. Điều này không chỉ nhằm khai thác tiềm lực tại

chỗ, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng đối với di tích, mà còn

nhằm giải quyết các mâu thuẫn về bảo tồn và phát triển, tạo ra thu nhập công

bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như các bên liên quan.

Tiểu kết Chương 3

Trên mảnh đất Cổ Loa đã sớm có những cư dân tiền Đông Sơn – chủ

nhân của những xóm làng sinh sống từ trước. Đến khi An Dương Vương về

đây định đô, Cổ Loa được nâng cao vai trò và tầm vóc lịch sử của mình với tư

cách là Quốc đô – trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước.

86

Văn hóa vật chất của những cư dân tiền Đông Sơn để lại đã là căn cứ

để An Dương Vương huy động nguồn của cải vật chất, nhân lực khổng lồ vào

việc xây thành. Điều kiện tự nhiên ở Cổ Loa có vai trò quyết định tới việc

định hình quy mô, cấu trúc cũng như cách thức xây thành. Địa hình chuyển

tiếp từ vùng trung du xuống đồng bằng với nhiều gò đôi mấp mô, xếp theo

hình cánh cung, hệ thống đầm, hồ, lạch nước phong phú và liên thông với

nhau là cơ sở để An Dương Vương xây dựng Thành Cổ Loa. Thành được đắp

dựa theo thế đất tự nhiên kết hợp với kỹ thuật kè đá ở chân thành, rải mảnh

ngói bên ngoài và trong thân lũy khiến tòa thành này vững chãi tồn tại suốt

hơn 2000 năm lịch sử. Thành Cổ Loa được An Dương Vương xây dựng ngay

sau khi thành lập nước Âu Lạc và cũng là ngay sau khi về định đô ở Cổ Loa

nên trang sử đầu tiên của nó gắn liền với lịch sử dân tộc thời kỳ này. Người

Âu Lạc ở Cổ Loa chọn cho mình hướng thích nghi tối ưu với môi trường. Họ

chọn khu đất cao, khống chế và khai thác vùng trũng, đắp nối những đoạn đồi

gò tự nhiên để tạo nên thành ốc như ngày nay. Họ điều tiết nước theo hướng

nghiêng cơ bản của địa hình (Bắc – Nam, Tây – Đông). Họ tận dụng các ngã

ba sông, hệ thống sông để giải quyết giao lưu bức thiết. Và đồng thời chính

họ với nền tảng kỹ thuật đã tư “thu xếp” cho mình vào trong trật tự của sinh

thái. Họ cũng có những biến đổi để duy trì hệ thống xã hội của mình (xây

dựng kiến trúc) nhưng họ thích nghi bằng sự mở - sự giao lưu với môi trường.

Sau khi cắt ba vòng thành, các nhà khoa học đã có một số nhận định

tương đối rõ ràng về kỹ thuật đắp thành. Cả ba vòng thành (không phải chỉ hai

vòng Thành Trung và Thành Ngoại như vẫn hiểu trước đây) đều được đắp nối

các gò đất tự nhiên lại. Tuy nhiên, kỹ thuật đắp Thành Nội và Ụ hỏa hồi (phía

Đông Bắc) hoàn toàn trái ngược với kỹ thuật đắp Thành Trung và Thành

Ngoại cũng như vọng gác giai đoạn Đông Sơn. Sự khác biệt thể hiện ở kỹ

thuật tạo độ cao cho thành, nếu Thành Trung, Thành Ngoại được đắp theo

87

kiểu vòng cung, người xưa đắp lõi (tâm thành) trước, sau đó đắp thoải đều từ

hai bên cao dần ở đỉnh theo từng lớp đất riêng biệt, chân thành phía trong

được gia cố thêm các mảnh cuội và ngói Cổ Loa. Mặt thành bên trong (mặt

nam của thành) được đắp dày hơn mặt bên ngoài. Sau khi đắp mở rộng chân

thành rồi mới bắt đầu đắp dày, mỗi lớp được đầm nện chắc chắn. Kỹ thuật

đắp này làm gia tăng kích thước của chân thành tạo thế vững chắc khi phía

ngoài là hào nước rộng. Ngược lại Thành Nội và Ụ hỏa hồi lại có kỹ thuật đắp

tạo mặt phẳng - một kỹ thuật đắp thành khá phổ biến của người Trung Quốc

cổ đại - có thể có sự can thiệp của người Hán hoặc không loại trừ khả năng

kỹ thuật đắp thành chịu sự ảnh hưởng của kỹ thuật đắp thành của người Trung

Quốc. Điều này lý giải vì sao trước đây có giả thiết cho rằng Thành Nội nhiều

khả năng có sự can thiệp của người Hán, trong khi Thành Ngoại và Thành

Trung đắp dựa trên hình thế tự nhiên

Thành Cổ Loa và các thành tròn Bình Phước đặt trong sự so sánh đều là

căn cứ phòng thủ của người xưa. Tuy nhiên so về tính chất, quy mô thì Thành

Cổ Loa chiếm vị thế hơn cả khi nơi đây vừa đóng vai trò là Quốc đô, vừa là là

quân thành, quân cảng và vừa là thành thị.

Thành Luy Lâu – Bắc Ninh là toà thành của nhà Hán xây dựng khi đặt

chế độ cai trị tại đây. Thành Nội Cổ Loa có hình dáng và kỹ thuật đắp gần

giống với Thành Luy Lâu do người đời sau tu sửa, bồi đắp thêm và chịu ảnh

hưởng bởi kỹ thuật đắp của nhà Hán.

Những giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học của Thành Cổ Loa gắn với

lịch sử khu di tích Cổ Loa nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung cần được bảo

tồn, gìn giữ cho các thế hệ mai sau. Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị khu

di tích Thành Cổ Loa là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu mà Đảng và Nhà nước

ta đề ra, cần có sự tham gia quyết liệt của các cơ quan quản lý nhà nước.

88

KẾT LUẬN

Sau khi thành lập nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn Cổ Loa

(huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay) làm kinh đô và xây dựng ở

đây một tòa thành bằng đất vô cùng đồ sộ. Đến năm 938, sau đại thắng quân

Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng Vương, tiếp tục chọn Cổ

Loa làm kinh đô để tiếp nối Quốc thống của tổ tiên.

1. Các tư liệu khảo cổ học gần đây đã khẳng định Thành Cổ Loa là tòa

thành đất sớm nhất, quy mô to lớn nhất, kiến trúc thuộc vào loại độc đáo nhất ở

Việt Nam và Đông Nam Á, do vua An Dương Vương đắp vào thế kỷ III - II

TCN. Trước khi An Dương Vương về định đô, Cổ Loa đã là một vùng đất sớm

có cư dân sinh sống trù mật, liên tục từ đầu thời đại đồng thau. Với quyết định

lựa chọn Cổ Loa làm kinh đô, An Dương Vương đã đưa Cổ Loa lên một vị thế

mới đó là với tư cách Quốc đô của một nhà nước thực sự. Thành Cổ Loa được

xây dựng trong một quá trình lâu dài và nhiều năm. Về cấu trúc, thành có ba

vòng thành lũy với một hệ thống hào phức tạp, thông nhau và thông với sông

Hoàng Giang. Ở phía Nam và phía Đông, sông Hoàng Giang được lợi dụng

làm thành ngoại hào tự nhiên che chắn cho toàn bộ tòa thành. Lũy thành phía

Bắc cao hơn lũy thành phía Nam. Hai vòng Thành Trung và Thành Ngoại uốn

lượn tự do, rộng về mặt Bắc, hẹp về mặt Nam. Thành Nội cơ bản có dạng một

hình chữ nhật với nhiều ụ đất nhô ra phía ngoài gọi là các hỏa hồi. Ngoài các

vòng thành lũy, trong cấu trúc tổng thể của Thành Cổ Loa còn có các bộ phận:

Gò, ụ, lũy... có tác dụng làm tăng khả năng phòng thủ của tòa thành. Đây vừa

là căn cứ bộ binh, vừa là căn cứ thủy binh với một đội quân thường trực đông

đảo, sử dụng cung tên, giáo, dao găm thành thục. Chính sự định đô, xuất hiện

thành lũy đã khiến cho Cổ Loa thành một nơi tụ cư đông đúc với các ngành

nghề thủ công như đúc đồng, đánh cá, dệt vải... Do vậy Thành Cổ Loa có đủ ba

chức năng đó là Kinh thành – Quân thành và đê - Thị thành.

89

2. Thành Cổ Loa do An Dương Vương đắp có kế thừa tòa thành trước

đó – tòa thành của làng của cư dân Đông Sơn tương ứng với chế độ xã hội

dạng Chiefdom. Thành Cổ Loa do An Dương Vương đắp với một chế độ xã

hội có quy mô to lớn gấp nhiều lần, khối lượng công việc và sự huy động

nhân công xây dựng đó chắc chắn tương ứng với một chế độ xã hội cao cấp

dạng nhà nước sơ khai, có người đứng đầu quản lý các hoạt động chung như

nhà nước Âu Lạc.

3. Nghiên cứu kỹ thuật đắp thành, quy mô và hình dáng của thành cho

thấy rằng đó là truyền thống đắp thành của người Việt, rất khác với kỹ thuật

đắp của nhà Hán. An Dương Vương đã triệt để lợi dụng điều kiện tự nhiên có

sẵn ở đây để đắp thành, đào hào. Sông được dùng làm hào thiên nhiên cho

thành Ngoại, cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào của tòa thành. Nhiều

gò, đống, doi đất cao được đắp nối lại và đắp cao thêm làm thành một bộ phận

hữu cơ của tòa thành Cổ Loa; thể hiện tài năng và sự sáng tạo độc đáo của

người Việt trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm, là căn cứ vững

chắc của bộ binh, thủy binh để bảo vệ vua và triều đình Âu Lạc.

Khác với Thăng Long bên hữu ngạn sông Hồng được sử dụng liên tục

trong lịch sử. Cổ loa là hình ảnh về sự tái sử dụng vai trò đô thị trung tâm một

cách đứt đoạn. Mười thế kỷ chống đồng hóa và bị đồng hóa của phương Bắc,

Cổ Loa vẫn còn đó với ưu hế: Nhất cận thị/Nhì cận giang/Tam cận lộ/Tứ cận

điền để Ngô Quyền (938) xưng Vương và tiếp nối cho Cổ Loa vai trò đô thị.

4. Nghiên cứu vai trò, vị trí, quy mô và tính chất của Thành Cổ Loa để

so sánh với các thành luỹ phòng thủ của người Việt cổ trên mảnh đất Việt

Nam cho thấy tài năng sáng tạo của người Việt cổ, truyền thống đánh giặc,

giữ nước còn tồn tại mãi về sau.

Trong một ngàn năm Bắc thuộc, Thành Cổ Loa đã giữ một vai trò lịch

sử quan trọng, điều này càng khẳng định giá trị vượt thời gian của toà thành

90

do An Dương Vương xây dựng trong thời kỳ tồn tại của nước Âu Lạc khi

xưa. Hiện nay Thành Cổ Loa chỉ còn là những dấu tích nhưng vai trò trọng

đại của nó trong lịch sử là điều không thể phủ nhận. Thành Cổ Loa chính là

toà thành có quy mô lớn nhất, cấu trúc đặc biệt nhất trong lịch sử thành luỹ

của người Việt Nam.

5. Việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa chính là mối

quan tâm lớn của các cơ quan quản lý cũng như các nhà khoa học. Việc quy

hoạch Thành Cổ Loa (Tỷ lệ 1/2000) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

năm 2015. Tiếp đó đến năm 2018, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành

Quyết định số 4014/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch quản lý, bảo tồn,

phát huy giá trị Khu di tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, giai

đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Khu di tích Thành Cổ Loa là khu

vực đa dạng, đặc sắc với ba hệ giá trị: Lịch sử - Nhân văn - Sinh thái, đã hòa

quyện vào nhau thành một phức hợp thể cộng sinh độc đáo trong môi trường

cảnh quan và kiến trúc nông thôn thuần phác. Việc gìn giữ, bảo tồn di tích

Thành Cổ Loa là trách nhiệm của mỗi người dân, các cơ quan quản lý đối với

di sản của cha ông để lại.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Minh An (2005), Thành Cổ Loa từ An Dương Vương đến Ngô

Quyền, Khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam

cổ - trung đại, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQG, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1969), Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương, Tạp chí

Khảo cổ học, số 3-4, tr. 138 – 143.

3. Đào Duy Anh (1957), Vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc, Đại

học Sư phạm, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Anh (2001), Báo cáo khai quật di chỉ Thành Nội Luy Lâu năm

2000, Khoá luận tốt nghiệp khoa Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQG, Hà Nội

5. Nguyễn Đức Bạch (1982), Báo cáo sơ bộ về phát hiện nhóm hiện vật ở

Gò Mả Tre Cổ Loa 1982, in trong: Phát hiện Cổ Loa 1982, tr.10-20.

6. Trương Hoàng Châu (1973), Phát biểu thêm về niên đại Cổ Loa, in

trong: Hùng Vương dựng nước, tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.

383 - 386.

7. Nguyễn Duy Chiếm (1973), Tìm dấu vết của An Dương Vương trên đất

Cổ Loa, in trong: Hùng Vương dựng nước, tập III, Nxb Khoa học xã hội,

tr. 387 - 388.

8. Hoàng Xuân Chinh và Bùi Văn Tiến (1979), Văn hóa Đông Sơn và các

trung tâm văn hóa trong thời đại Kim khí ở Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ

học, số 3, tr.40 – 48.

9. Ban chấp hành Đảng bộ xã Cổ Loa (chủ biên) (2005), Lịch sử Đảng bộ

xã Cổ Loa (1945 - 2005), Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Lâm Thị Mỹ Dung (2004), Thời đại đồ đồng, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

92

11. Nguyễn Trung Đỗ (2000), Di tích đất đắp tròn Bình Phước, Luận án

Tiến sĩ Khảo cổ học.

12. Vũ Văn Hà (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) (1988), Thám sát khảo

cổ khu vực Bãi Miếu (Cổ Loa), in trong: Những phát hiện mới về Khảo

cổ học 1988, Hà Nội, tr.108-109.

13. Nguyễn Huy Hạnh, Đỗ Đức Tuệ (2014), Quy mô mặt bằng, cấu trúc

thành Cổ Loa qua 4 đợt khai quật, in trong: Thông báo khoa học – Trung

tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội, số 1 (3), tr. 18 - 27.

14. Nguyễn Văn Hảo (1974), Nghề gốm thời Hùng Vương, in trong: Hùng

Vương thời dựng nước, tập III, Hà Nội, tr. 193 - 199.

15. Trịnh Hoàng Hiệp (2012), Báo cáo khoa học kết quả khai quật khảo cổ

học địa điểm Thành Ngoại, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội năm

2012, Thư viện Viện Khảo cổ học.

16. Trịnh Hoàng Hiệp (2014), Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ học

địa điểm Ụ hỏa hồi và Thành Nội, khu di tích Cổ Loa, xã Cổ Loa, huyện

Đông Anh, Hà Nội (tháng 9-11/2014), Thư viện Viện Khảo cổ học.

17. Trịnh Hoàng Hiệp, Nam C. Kim (2017), Kết quả nghiên cứu thành Cổ

Loa (giai đoạn 2007 – 2014), Tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr. 4 - 12.

18. Trịnh Hoàng Hiệp (2018), Kết quả đào thám sát Khu di tích Cổ Loa (Hà

Nội) năm 2017 (Tài liệu thông báo khảo cổ học lần thứ 53).

19. Diệp Đình Hoa (1973), Một số vấn đề lý luận và phương pháp trong việc

nghiên cứu những hiện vật khảo cổ thuộc thời kỳ Hùng Vương - An

Dương Vương, in trong: Hùng Vương thời dựng nước, tập III, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, tr. 53 - 70.

20. Diệp Đình Hoa (1977), Một vài suy nghĩ về đồ gốm Đông Sơn,Tạp chí

Khảo cổ học, số 3, tr.57 – 71.

93

21. Phạm Như Hồ và Đỗ Đình Truật (1973), Vài ý kiến quanh truyền thuyết

“Cẩu Chủa Cheng Vùa, in trong: Hùng Vương thời dựng nước, tập III,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 395 - 401.

22. Ngô Sĩ Hồng (1985), Góp bàn về chức năng của “chạc” gốm, Tạp chí

Khảo cổ học, số 1, tr. 21 – 28.

23. Phạm Minh Huyền (1996), Văn hóa Đông Sơn tính thống nhất và đa

dạng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Phạm Lý Hương (1994), Về kỹ thuật nung gốm tiền sử và sơ sử Việt

Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 32- 36.

25. Phạm Lý Hương và Hà Văn Tấn (1974), Nghề gốm, một ngành thủ công

thời Hùng Vương, in trong: Hùng Vương thời dựng nước, tập IV, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 188 - 202.

26. Phạm Lý Hương (1985), “Nghiên cứu bàn xoay gốm cổ qua đồ gốm

cổ”, Tạp chí Khảo cổ học, số 1, tr. 12 -20.

27. Huyện ủy - HĐND-UBND huyện Đông Anh (chủ biên) (2010), Đông

Anh với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

28. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb Giáo dục, Hà

Nội, tr. 87.

29. Nam C. Kim, Lại Văn Tới và Trịnh Hoàng Hiệp (2010), Thành lũy, chiến

tranh và chính trị tập trung: Qua kết quả khai quật lũy - hào Thành Trung

(Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội), Tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr. 46 - 62.

30. Nam C.Kim (2018), Kết quả nghiên cứu thành Cổ Loa, Nxb. Thế giới,

Hà Nội.

31. Trần Trọng Kim (1954), Việt Nam Sử lược, Nxb Tân Việt, Hà Nội.

32. Hán Văn Khẩn (1982), Về sự xuất hiện và phát triển của bàn xoay gốm

cổ, Tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr. 43 - 49.

94

33. Hán Văn Khẩn (1983), Xung quanh vấn đề ý nghĩa hoa văn gốm cổ, Tạp

chí Khảo cổ học, số 2, tr.29 - 36.

34. Hán Văn Khẩn (1994), Vài nhận xét bước đầu về kỹ thuật chế tạo gốm

thời đại kim khí vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, Tạp chí

Khảo cổ học, số 2, tr. 37 - 47.

35. Hán Văn Khẩn, Lại Văn Tới, Điều tra các di tích khảo cổ học ở Cổ Loa

và huyện Đông Anh, Phòng tư liệu Viện Khảo cổ, kí hiệu hồ sơ 458.

36. Hán Văn Khẩn (cb) (2008), Cơ sở Khảo cổ học, Nxb. Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

37. Hoàng Văn Khoán (1971), Luyện kim và chế tác kim loại thời Hùng

Vương, Tạp chí Khảo cổ học, số 9,10, tr. 75 – 80.

38. Hoàng Văn Khoán, Hà Văn Tấn (1973), Vài nhận xét về hợp kí đồng

thau Việt Nam thời cổ, in trong: Thông báo khoa học – Sử học, T. VI,

Đại học Tổng hợp Hà Nội, tr.215 – 222.

39. Hoàng Văn Khoán (1976), Thực nghiệm sản xuất sắt thời cổ, in trong:

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1976, tr.405 -409.

40. Hoàng Văn Khoán, Trần Quốc Vượng (1983), Lại nói về lưỡi cày đồng

Cổ Loa và nông nghiệp Cổ Loa thời cổ, in trong: Những phát hiện mới

về khảo cổ học năm 1983, tr.99-101.

41. Hoàng Văn Khoán (1999), Bí ẩn của lòng đất, Trung tâm Unesco Thông

tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

42. Hoàng Văn Khoán (cb) (2002), Cổ Loa trung tâm hội tụ văn minh sông

Hồng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

43. Nguyễn Quang Lục (1953), Hà Nội, Những kinh thành có trước Hà Nội:

Thành Cổ Loa, thành Liên Lâu, thành Long Biên (Quyển nhất), Nxb.

Gió Việt, Sài Gòn.

95

44. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triểu Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư tập I,

Bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Trần Đình Luyện (1970), Khai quật di chỉ Luy Lâu, Báo cáo đánh máy,

Phòng tư liệu – Thư viện, Viện Khảo cổ học.

46. Nguyễn Xuân Mạnh (1983), Khai quật di chỉ Đường Mây (Hà Nội) lần

thứ 4, in trong: Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1983, Hà Nội,

tr.103-105.

47. Nguyễn Xuân Mạnh (1983), Phát hiện thêm một số đồ đồng chứa trong

trống đồng Cổ Loa (Hà Nội), Hà Nội, tr.105-106.

48. Vũ Hữu Minh (1989), Cổ Loa, trung tâm của nhà nước Âu Lạc, Khóa

luận tốt nghiệp đại học khóa 1984 - 1989 chuyên ngành khảo cổ học,

Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

49. Đinh Văn Nhật (1977), Đất Việt Thường, thành Cổ Loa, in trong: Những

phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, Hà Nội, tr.178-179.

50. Đinh Văn Nhật (1977), Về quê hương của An Dương Vương, in trong:

Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, Hà Nội, tr.179-180.

51. Đỗ Văn Ninh (1969), Xúc tiến việc Nghiên cứu thời kỳ lịch sử An

Dương Vương và nước Âu Lạc: Chồi Âu Lạc mọc từ gốc Văn Lang, Tạp

chí Khảo cổ học, số 3-4, tr.89-99.

52. Đỗ Văn Ninh (1973), Về một vài khía cạnh của văn hóa vật chất thời kỳ

An Dương Vương, in trong: Hùng Vương dựng nước, tập III, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, tr. 389 - 394.

53. Đỗ Văn Ninh (1987), Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Đỗ Văn Ninh (1987), Đô thị Cổ Loa, Đô thị cổ Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

55. Vũ Kiêm Ninh (1986), Chim lạc “bay” trên trống đồng Cổ Loa, in trong:

Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1986, Hà Nội, tr.108.

96

56. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám

cương mục, Bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (2007), Địa chí Cổ Loa, Nxb Hà Nội.

58. Nguyễn Quang Ngọc (Tổng chủ biên) (2016), Địa chí Đông Anh, Nxb.

Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

59. Nguyễn Quang Ngọc (cb) (1999), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXb

Giáo dục, Hà Nội.

60. Hà Văn Phùng (1994), Tìm hiểu nghề xe sợi và dệt vải trong thời đại

kim khí ở Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 48 - 58.

61. Hà Văn Phùng (1982), Nghề xe sợi và dệt vải thời dựng nước đầu tiên,

Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 14 - 24.

62. Trịnh Sinh (1977), Kiểu dáng đồ đựng bằng gốm từ Phùng Nguyên đến

Đông Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 50 - 67.

63. Trịnh Sinh (1995), Bàn thêm về lưỡi cày Cổ Loa, in trong: Những phát

hiện mới về Khảo cổ học năm1995, Hà Nội, tr.166-168

64. Đặng Hồng Sơn, Lâm Mỹ Dung, Bùi Văn Sơn (2018), Kết quả khai quật

thành Luy Lâu (Bắc Ninh) năm 2017, in trong: Những phát hiện mới về

khảo cổ học năm 2018, tr. 292 – 295.

65. Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Quang Hà (2014), “Di tích Cổ Loa trong dòng

chảy lịch sử và tư liệu về vua Ngô Quyền”, in trong :Thông báo khoa học -

Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, sô 1 (3), tr. 5 - 10.

66. Nguyễn Văn Sơn (2017), “Cổ Loa, An Dương Vương huyền thoại và sự

thật lịch sử”, in trong: Thông tin di sản, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng

Long - Hà Nội, Hà Nội, tr. 66 - 72.

67. Hà Văn Tấn (cb.) (1974), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

68. Hà Văn Tấn (cb.) (2009), Khảo cổ học Việt Nam tập 2, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

97

69. Hà Văn Tấn (2002), Khảo cổ học Việt Nam tập III, Khảo cổ học Lịch sử

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Hà Văn Tấn, Hán Văn Khẩn, Hà Văn Phùng (1970), Thực nghiệm tạo

hoa văn trên gốm cổ, Tạp chí Khảo cổ học, số 7 - 8, tr.123 - 126.

71. Hà Văn Tấn (1997), Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

72. Chử Văn Tần (2003), Văn hóa Đông Sơn và văn minh Việt cổ, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Chử Văn Tần (1982), Chung quanh những lưỡi cày đồng Cổ Loa vừa

phát hiện, in trong: Phát hiện Cổ Loa 1982, Hà Nội, tr.55-75.

74. Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Mạnh Tú (Trường Đại học Tổng hợp Hà

Nội) (1988), Khai quật lò gốm đồng thụt (Cổ Loa – Hà Nội), in trong:

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1988, Hà Nội, tr.107-108.

75. Bùi Thiết (1993), Cổ Loa - thành lũy quân sự hay đô thị cổ,in trong:

Những phát hiện mới về khảo cổ học 1993, tr. 161 - 162.

76. Tống Trung Tín, Lê Đình Phụng (1986), Báo cáo nghiên cứu khu di tích

Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh), Hà Nội.

77. Lại Văn Tới (1997), Cổ Loa – từ các nhà khoa học Pháp đến các nhà

khoa học Việt Nam, Văn hóa nghệ thuật, số 11.

78. Lại Văn Tới (1997), Sưu tập hiện vật Đông Sơn sưu tầm ở Cổ Loa,

Đông Anh, Hà Nội, Những phát hiện mới về khảo cổ học 1997.

79. Lại Văn Tới (1997), Cổ Loa – Âu Lạc, Tạp chí Khảo cổ học,số 3,

tr.29-43.

80. Lại Văn Tới (1998), Đào thám sát di chỉ Đồng Vông, tháng 6 – 1997,

in trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997, Hà Nội,

tr.144 – 147.

98

81. Lại Văn Tới (1988), Thám sát di chỉ Tiên Hội, tháng 6 – 1997, in trong:

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997, Hà Nội, tr.147 – 149.

82. Lại Văn Tới (1999), Những cư dân đầu tiên ở Cổ Loa, Tạp chí Khảo cổ

học, số 3, tr.39-54.

83. Lại Văn Tới (2000), Các di tích khảo cổ học thời đại đồng thau và sắt

sớm ở khu vực Cổ Loa trong bối cảnh thời đại kim khí ở đồng bằng Bắc

Bộ, Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Trung

tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.

84. Lại Văn Tới, Trịnh Hoàng Hiệp (2008), Báo cáo khoa học kết quả khai

quật khảo cổ học lũy hào Thành Trung, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà

Nội năm 2007 - 2008, Thư viện Viện Khảo cổ học.

85. Lại Văn Tới (2008), Khảo cổ học Cổ Loa: Tư liệu và thảo luận, Tạp chí

Khảo cổ học, số 4, tr.73-82.

86. Lại Văn Tới (2010), Kinh đô Cổ Loa trong lịch sử, Tạp chí Khảo cổ học,

số 3, tr.33-45.

87. Lại Văn Tới (2014), Đền Thượng Cổ Loa và những bí ẩn trong lòng đất,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Lại Văn Tới (2014), Kinh đô Cổ Loa - Trong lịch sử hình thành văn

minh Đại Việt, Thông báo khoa học, Trung tâm nghiên cứu kinh thành.

89. Lại Văn Tới (2013), Đi tìm nguồn gốc ông tổ nghề rèn, in trong: Thông

báo khoa học – Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội, số 2

(2), tr. 13 - 21.

90. Huỳnh Lam Trà (1995), Lễ hội Cổ Loa, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

91. Nguyễn Trãi (Hà Văn Tấn hiệu đính) (1960), Dư địa chí, Nxb. Sử học,

Hà Nội.

99

92. Vũ Anh Tuấn (1998), Cần phải tìm hiểu mẫu kể An Dương Vương trong

mối quan hệ văn hóa Tày - Việt, trong văn hóa và lịch sử người Thái ở

Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.185 - 186.

93. Trịnh Cao Tưởng – Trịnh Sinh (1982), Hà Nội thời đại đồng và sắt sớm,

Nxb. Hà Nội, Hà Nội.

94. Chu Trinh (2015), Thiên tình sử Mỵ Châu Trọng Thủy, Nxb. Thanh Hóa.

95. Chu Trinh (2015), Sự tích An Dương Vương xây thành ốc, Nxb. Thanh Hóa.

96. Nguyễn Doãn Tuân (11/1995), Truyền thuyết và hiện thực về việc xây

thành Cổ Loa, Văn hóa nghệ thuật.

97. Nguyễn Doãn Tuân (1996), Lịch sử Khu di tích Cổ Loa, Luận án tiến sĩ

Sử học, Viện Sử học, Hà Nội.

98. Nguyễn Doãn Tuân (2003), Khu di tích Cổ Loa, lịch sử - văn vật,Nxb.

Hà Nội, Hà Nội.

99. Nguyễn Đức Tùng (1970), Phân tích bào tử phấn hoa thành Cổ Loa, Tạp

chí Khảo cổ học, số 7, 8.

100. Đỗ Đình Truật (1/1970), Báo cáo cắt thành Cổ Loa ở xóm Mít, bản đánh

máy, phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.

101. Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội (2012), Hồ sơ đề nghị

công nhận di tích Quốc gia đặc biệt Khu di tích Cổ Loa - Đông Anh - Hà

Nội, Hà Nội.

102. Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội (2018), Kế hoạch Quản

lý, Bảo tồn, phát huy giá trị khu di tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành

phố Hà Nội, giai đoạn 2018 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

103. Trần Quốc Vượng (1969), Cổ Loa những kết quả nghiên cứu vừa qua và

những triển vọng tới, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tr.100-127

104. Trần Quốc Vượng, Đỗ Văn Ninh (1973), Về An Dương Vương, in

trong: Hùng Vương dựng nước, tập III, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr. 362 - 382.

100

105. Trần Quốc Vượng (1970), Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử, Sở Văn hóa

Thông tin Hà Nội, Hà Nội.

106. Trần Quốc Vượng (1971), Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật ở Cổ Loa

năm 1969, in trong: Thông báo khoa học Sử học, Đại học Tổng hợp Hà

Nội, tập 5.

107. Trần Quốc Vượng, Đỗ Văn Ninh (1971), Thời An Dương Vương trong

quan hệ với thời Hùng Vương, Tạp chí Khảo cổ học, số 9 - 10.

108. Trần Quốc Vượng (1971), Vua Chủ, Tạp chí Khảo cổ học, số 12.

109. Trần Quốc Vượng (1974), Đôi bờ Ngũ Huyện Khê, Tạp chí Khảo cổ

học, số 10.

110. Trần Quốc Vượng (1974), Cổ Loa, truyền thuyết và lịch sử, Hùng

Vương dựng nước, tập IV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

111. Trần Quốc Vượng (1982), Suy nghĩ thêm về thành Cổ Loa, nước Âu

Lạc, An Dương Vương, in trong: Phát hiện Cổ Loa năm 1982, Sở Văn

hóa Thông tin Hà Nội, tr.136 - 144.

112. Trần Quốc Vượng (1983), Cổ Loa nhận thức mới, in trong: Những phát

hiện mới về khảo cổ học 1983, tr.101 - 102.

113. Trần Quốc Vượng, Hoàng Văn Khoán (1983), Cổ Loa – mùa điền dã

1983, in trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học 1983, tr. 96 - 98.

114. Trần Quốc Vượng (cb) (1988), Cổ Loa truyền thống và cách mạng,

Hà Nội.

115. Trần Quốc Vượng, Hoàng Văn Khoán, Tống Trung Tín, Lê Đình Phụng,

Lê Thị Liên, Thành Luy Lâu (Hà Bắc) – Kết quả nghiên cứu năm 1986,

in trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1986, tr. 259 – 262.

116. Trần Quốc Vượng (phiên dịch và chú thích) (1960), Việt sử lược, Nxb.

Văn - Sử - Địa, Hà Nội, tr. 14 - 15.

101

117. Văn phòng Ban chỉ đạo kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long, Trung tâm

nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (2003), Nghiên cứu điều tra

khảo sát sưu tầm và xây dựng hệ thống tư liệu lịch sử và văn hóa dân

gian khu vực Cổ Loa, Hà Nội.

118. Viện Kiến trúc, quy hoạch đô thị và nông thôn (2011), Đồ án: Quy

hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích thành Cổ

Loa – tỷ lệ 1/2000, Quyển 9. Tập hợp, phân tích mẫu vật liệu, xác định

niên đại các di tích trong khu di tích thành Cổ Loa và các khu vực lân

cận, Hà Nội.

119. Nam C. Kim (2015), The Origins of Ancient Vietnam, The Oxford

University, USA.

120. Russell S.Quick (2017), Geophysical investigations and KOCOA

analysis of the bronze age fortification and citadel at Co Loa, Dong

Anh, Hanoi, Vietnam.

102

PHỤ LỤC

BẢNG THỐNG KÊ

Bảng 1.1. Phân chia các lớp đắp Thành Cổ Loa

(Khai quật thành Ngoại năm 1970) [84]

Những dạng

Lớp

Dày

Mô tả đất đá chủ yếu

bào tử phấn hoa

Sét vàm xám trắng rải rác xen với

Hymehophyllaceae gen. sp.

laterit, đắp không theo quy luật, rải

Microlepia sp.

4,60cm

-

D

rác lẫn mảnh gốm, đầu ngói ống,

4,80cm

Pinus sp.

mảnh ngói ống, ngói bản và chì lưới

Myrtus sp.

bằng đất nung.

Amaranthaceae gen. sp.

Sét xám trắng, mịn, đôi chỗ xám

Ericaceae gen. sp.

0,20cm

-

vàng, chứa nhiều mảnh gốm cổ,

C

0,40cm

gạch trang trí văn ô trám lồng, văn

Carya sp.

thừng in thành đường gãy khúc.

Myrica sp.

Cycas sp.

Myrica sp.

0,10cm

-

Sét vàng xen sạn sắt của laterit sét

B

Melia sp.

0,80cm

và laterit xen nhau lẫn lộn.

Lotyus sp.

Quercus sp.

A

Laterit cổ

Quercus sp.

Bảng 2.2. Các giai đoạn đắp thành và kích thước ở địa điểm Thành Trung

năm 2007-2008 [84]

Lần đắp

Xây dựng

Chiều cao

Chiều rộng

Niên đại

(Sớm đến muộn)

1

Thành đất sét và được tạo thành ụ đất

1m+

1,8m

TK IV BC

2

Đống đất

2m

17m

TK III BC

3

Lớp đất dày được đầm nện

2,5m

24m

TK III BC

4

Đống đất

3m

24-25m

TK I AD

5

Lớp đất mỏng được đầm nện

4m

26m

TK XV - XVI AD

BP: Cách ngày nay; BC: Trước Công Nguyên; AD: Sau Công nguyên

Bảng 2.3. Các giai đoạn đắp Thành Trung năm 2007 – 2008 [30]

Việc xây dựng

Giai đoạn Period

Phân kỳ Phase

Construction

Chiều cao tối đa Max Height

Chiều rộng Width

Niên đại Date

1.0m+

1.8m

1

Tường và nền đất sét Clay wall and platform

Khoảng 500BC – 300BC c.500 – 300BC

1. (Sớm) Early

17.0m

2.0m

2

Đất đổ Dumped earth

Khoảng 300 – 100 BC c.300 – 100 BC

2 (Giữa) Middle

24.0m

2.5m

3

Đất đầm dày Thick stamped earth

Khoảng 300 – 100 BC c.300 – 100 BC

2 (Giữa) Middle

3.0m

24.0m – 25.0m

4

Đất đổ Dumped earth

Khoảng 300 – 100 BC c.300 – 100 BC

2 (Giữa) Middle

26.0m

4.0m

5

Đất đầm mỏng Thin stamped earth

Hậu -100BC/Lịch sử Post – 100BC/Historic

3 (Cuối) Late

26.0m

4.0m

5

Đất đầm mỏng Thin stamped earth

Thời Trung cổ? Medieval period?

3 (Cuối) Late

BC: Trước Công Nguyên

Bảng 2.4. Thống kê gốm Đông Sơn phát hiện được ở hố khai quật H1 Thành Trung 2007 – 2008 [84]

Hố khai quật H1

Hoa văn

Cộng

L3

L5

L7

L8

L18

L20

Rãnh

Không xác định

L6

F1

F5

2

15

Không hoa văn

35

1

3

3

5

2

2

2

3

9

4

Văn thừng

16

1

5

24

3

3

5

2

3

4

5

Cộng

57

2

Bảng 2.5. Đồ gốm men ở hào thành Trung (Hố khai quật H2) [84]

Thế kỷ

Thế kỷ

Thế kỷ XVII - XVIII

Thế kỷ

XIII - XIV

XV - XVI

Còn dáng

Mảnh vỡ

XIX - XX

Lớp

Màu men

Miệng Thân Đáy Miệng Thân Đáy Vung Chén Đáo Miệng Thân Đáy Miệng Thân Đáy

Xám xanh

1

2

Nâu

1

3

1

Trắng

2

4

3

Trắng xanh vẽ lam

1

1

Trắng

9

1

1

1

Trắng vẽ lam

1

2

1

2

Trắng xanh

1

Hai màu men

3

2

11

Tróc men

6

Men ngọc

2

Trắng vẽ lam

1

1

21

48

34

Trắng nhờ

1

1

1

Trắng xanh

Nâu

3

1

Hai màu men

5

42

35

Tróc men

1

1

7

2

Gốm nam Trung Quốc

1

1

Men ngọc

1

Trắng

Trắng xanh vẽ lam

1

Hoa nâu

2

4

Hai màu men

2

7

28

Tróc Men

1

3

Gốm nam Trung Quốc

2

Trắng xanh vẽ lam

1

1

Xanh lục

1

Nâu

2

Hai màu men

5

2

Tróc men

2

1

6

Trắng xanh vẽ lam

1

7 Men ngọc

1

1

1

Trắng

1

8

Trắng vẽ lam

3

Trắng vẽ lam

9

1

Trắng

6

10

Trắng ngà

Hai màu men

2

1

11

Tróc men

1

13 Men ngọc

2

18 Men ngà

1

F1

1

1

2 màu men; Xanh và trắng

Trắng vẽ lam

1

F2

Trắng nhờ

4

11

6

Hai màu men

1

3

Rãnh Trắng

1

Tổng

5

2

18

3

2

7

3

1

1

1

67

187

145

9

2

(%)

23 (5,07%)

12 (2,64%)

3 (0,66%)

268 (59,16%)

16 (3,53%)

453 (100%)

Bảng 2.6. Hiện vật đá ở hố H1 ThànhTrung năm 2007 – 2008 [84]

Công cụ

Đồ đá khác

Lớp

Chày Hòn kê

Cuội Quart

Cát kết

Phiến sét

Đá vôi

Hòn ghè

Bàn mài

Phác vật

Qua- rzite

Bán Quart

Gran- ite

Đá thối

2

1

1

1

2

1

3

4

5

6

7

8

9

1

5

1

3

4

13

1

4

2 9 38

1 8

37 60 36 71 154

10 11 12 13 14 15

2

3

1

9

1

27

3

1

1

1

2

7 4 5

1 2

1 1 1

1

1

60 25 45 34

1

3

16 17 18 19

20

1

1

1

12

21

22

23

24

12

25

2

2

5

26

1

1

2

1

15

2

3

27

28

1

1

4

29

14

30

1

3

23

31

32

33

1

5

1

1

1

1

1

1

1

10 1 2 25

3

51

34 35 36 37 38

39 Cộng

1 89

1 7

5

3 62

13

5

3

11

1

14

47

652

5

3

(%)

33 (3,50)

884 (96,50)

917 (100,00)

Bảng 2.7. Hiện vật đá ở hào thành Trung (hố khai quật H2) năm 2007 – 2008 [84]

Công cụ

Đồ đá khác

Lớp

Cuội Sỏi Quartzite Granite

Bàn mài

Hòn ghè

Phiến sét

Đá xốp

Đá vôi

11

LM

4

5

2

3

L1

L2

3

9

8

L3

5

6

9

15

L4

1

2

6

L5

1

3

1

28

L6

1

1

68

L7

1

3

6

L8

10

L9

L10

L11

L12

L13

L14

L15

L16

L17

1

3

2

4

L18

11

2

8

L19

2

1

21

L20

1

2

2

9

F1

1

1

F2

5

Rãnh

1

11

41

3

26

239

1

15

22

19

28

1

4 (1,12%)

350 (98,88%)

Tổng (%)

354 (100%)

Bảng 2.8. Thống kê ngói âm ở hố khai quật H1 và H2 Thành Trung 2007 – 2008 [84]

Loại hoa văn

Cộng (%)

Văn thừng hai mặt

Không hoa văn

Không xác định

Văn thừng một mặt

Văn thừng kết hợp văn trán to

Văn thừng kết hợp văn đan

Văn thừng kết hợp hoa văn trám trung bình

Văn thừng kết hợp hoa văn trán có chấm giữa

Loại hình

Hố khai quật HI

88

Loại 1

50

19

14

-

-

-

1

4

(1,71%)

Loại 2

263

87

26

3

-

-

-

256

635 (12,37%)

Loại 3

1,599

808

88

11

3

-

6

328

2.843 (65,40%)

Loại 4

245

23

3

-

-

-

5

-

276 (6,37%)

Loại 5

365

142

49

11

-

-

-

210

777 (15,13%)

Loại 6

271

78

-

-

-

-

29

82

460 (8,70%)

Loại 7

45

5

1

-

-

1

-

2

54 (1,05%)

3

1

41

882

Cộng HI

181 3,52%

25 0,48%

2.838 55,28%

1.162 22,63%

5.133 100%

0,05%

0,01%

0,80%

17,18%

Hố khai quật HII

Loại 1

33

17

-

-

-

-

-

-

50 (17,18%)

Loại 2

13

16

-

-

-

-

2

-

31 (10,65%)

Loại 3

38

39

3

-

1

-

6

8

95 (32,46%)

Loại 4

6

8

-

-

-

-

6

-

20 (6,87%)

Loại 5

33

24

3

-

-

-

17

-

77 (26,46%)

Loại 6

9

9

-

-

-

-

-

-

18 (6,18%)

Loại 7

-

-

-

-

-

-

-

-

0 (0,00%)

6

1

-

-

Cộng HII

31 10,68%

8 2,75% 291 (100%)

132 45,36%

113 38,83%

2,06%

0,340%

4

1

Tổng HI+HII

187 3,44%

25 0,46%

72 1,32%

890 16,40%

2.970 54,75%

1.275 23,50%

5.424 100%

0,07%

0,01%

Bảng 2.9. Bảng thống kê phân loại miệng sành mịn tại Thành Trung năm 2007 – 2008 [84]

Tổng %

Loại 1

Loại 3

Loai 2

Không xác định

Loại hình

K1

K2

K3

K4

K5

K6

K7

K8

K9

K2

K1

K2

K3

K4

K5

Hố, lớp

K1

TK XIX

TK XVII- XVIII

1

S.L14

1

1,88%

1

S.L15

1,88%

1

Hố 1

3

S.F1.L15

1

1

5,66%

1

1

S.L33

1,88%

1

1

LM

1,88%

1

2

L2

1

1

3,77% 19

Hố 2

L3

2

1

1

1

35,91%

2

1

3

3

1

4

2

22

L4

2

2

1

2

1

1

3

1

1

1

41,50%

5

1

L5

1

1,88% 1

L6

1

1,88% 1

F2

1

1,88%

Tổng

2

14

5

3

2

2

2

1

1

1

1

6

2

1

3

1

4

2

53

Tỷ lệ (%)

7,54

100

26,41

9,43

5,66

3,77

3,77

3,77

1,88

1,88

1,88

1,88

11,40

3,77

1,88

5,66

1,88

3,77

3,77

Bảng 2.10. Ngói Cổ Loa ở địa điểm Thành Ngoại Cổ Loa năm 2012 [15]

Loại hình

Ngói âm dương

Ngói bò nóc

Lớp

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 1

Loại 2

Tổng số

Số lượng

Dày (cm)

Số lượng

Dày (cm)

Số lượng

Dày (cm)

Số lượng

Dày (cm)

Số lượng

Dày (cm)

Lm

2

0,8

2

L2 (South profile)

5

0,8

1

1

L5

6

4

1-1,1

L10 (3S-4S)

4

23

0,8-1,1

1

0,4

L12 (3S)

24

12

0,8-1,3

L13 (3S)

12

3

0,7-1,1

L14 (4S-5S)

3

L14-15 (6S-7S)

0,8-0,9

1

1,8

27

0,7-1,1

7

35

16

0,5-0,7

6

0,9

L15 (6S-7S)

22

11

0,5-0,9

L17 (6S-7S)

11

L18 (5S-8S)

0,8-1,3

1

1,2

105

0,5-1,1

110

4

58

0,8-1,2

L19 (5S-6S)

58

3

1,1

L21 (7S)

3

31

0,6-1,2

L22 (8S-12S)

31

13

0,7-1,3

L24 (13S)

13

8

0,7-0,9

L25 (13S)

8

1

0,6

3

L26 (11S)

2

1,1-1,3

22

1

320

1

1

Tổng

345

343

2

Bảng 2.11. Đồ gốm tráng men ở địa điểm Thành Ngoại Cổ Loa năm 2012 [15]

Việt Nam

Trung Quốc

Tổng

Lê Trung Hưng

Thời Trần

Thời Thanh

Thời Nguyễn

Lớp

Bát

Bát loại I

Bát loại II

Đĩa

Chậu

Bình

Bát

Bát

M T Đ Đ.D M

T Đ M T Đ Đ.D M T Đ M T Đ M T Đ M T Đ M T Đ

1

1

1

3

6

Lm

L1

1

1

L2

L3

L4

L5

1

2

1

4

L6

L7

L8

L9

1

1

1

3

L10

L11

L12

L13

L14

2

2

1

1

1

1

2

10

L15

6

4

1

1

2

1

15

L16

1

2

2

1

15

L17

1

4

3

1

6

3

1

2

1

1

1

15

L18

1

L19

1

70

1

15

11

6

4

3

2

1

1

3

4

2

2

5

1

2

2

1

2

1

1

Tổng

61

4

3

2

87,14

5,71

4,28

100%

2,87

Tỷ lệ (%)

Bảng 2.12. Đồ sành địa điểm Thành Ngoại Cổ Loa năm 2012 [15]

Thời Trần

Lê Trung Hưng

Nồi

Lớp

Vò/bình

Bình

Lon

Nậm rượu

Nắp

Tổng

Kiểu 1

Kiểu 2

Kiểu 3

M T Đ M

T

Đ M T Đ M

T

Đ M T Đ M T Đ M

T Đ M T N

2

Lm

1

1

1

5

L1

0

2

L2

1

3

8

L3

8

2

L4

2

L5

0

L6

0

L7

1

1

L8

1

1

L9

0

L10

0

L11

0

2

L12

2

L13

0

1

1

1

L14

3

1

7

L15

1

1

2

1

13

1

6

L16

2

6

1

3

1

20

1

1

L17

5

3

1

11

6

L18

10

1

4

2

23

2

L19

1

3

4

0

3

37

0

0

0

0

3

23

0

1

1

0

1

2

0

2

10

4

4

0

0

Tổng

95

4

0

40

16

4

31

Bảng 2.13. Các loại hình ngói địa điểm Ụ hỏa hồi năm 2014 [16]

Ngói âm dương

Ngói bò nóc

Tổng số

Hố

%

Loại 1

Loại 2

Loại 3 Loại 4 Loại 1 Loại 2 Loại 3 Loại 4

10

10

HI.L16

1

1

1

3

HI.L17

8

1

1

10

HI.L19

4

5

6

1

16

HI.L21

20

12

1

1

34

HI.L22

25

32

20

1

78

HI.L23

21

17

4

3

45

HI.L24

17

21

12

50

HI.L25

26

18

9

53

HI.L27

7

8

3

18

HI.L28

5

1

1

1

8

HI.L29

24

22

33

20

3

16

12

130

HIF1

19

19

28

2

68

HIF2

85

50

3

4

25

1

128

129

425

HIF3

76

9

20

37

3

306

Tổng số

295

202

948

%

31.12

32.28

8.02

21.31

0.95

2.11

3.90

0.32

100%

Bảng 2.14. Các loại hình ngói địa điểm Thành Nội năm 2014 [16]

Ngói âm dương

Ngói bò nóc

Tổng số

Hố

%

Loại 1

Loại 2

Loại 3 Loại 4 Loại 1 Loại 2 Loại 3 Loại 4

12

6

18

H4.L5

87

205

5

1

8

14

3

5

328

H4.F1

Tổng số

99

211

5

1

8

14

3

5

346

%

28.61

60.98

1.45

0.29

2.31

4.05

0.87

1.45

100%

Bảng 2.15. Tổng loại hình hoa văn ngói địa điểm Ụ hoả hồi và Thành Nội năm 2014

Ngói âm dương

Ngói bò nóc

Hố

Tổng số

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 4

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 4

Tỷ lệ %

Ụ hoả hồi

295

306

76

202

9

20

37

3

948

73.26

Thành Nội

99

211

5

1

8

14

3

5

346

26.74

Tổng số

394

517

81

203

17

34

40

8

1294

100%

%

30.44

39.95

6.25

15.68

1.31

2.62

3.09

0.66

100%

Bảng 3.4. Niên đại AMS mẫu than khu vực lẫn gốm Đông Sơn trong ụ phòng vệ và hào

lần đắp thứ nhất (giai đoạn 1) địa điểm Thành Trung 2007-2008 [84]

MẪU

TUỔI CARBON

NIÊN ĐẠI ĐÃ HIỆU CHỈNH (1-SIGMA)

NIÊN ĐẠI ĐÃ HIỆU CHỈNH (2-SIGMA)

Mẫu từ nền ụ phòng vệ

07TTH1CS138

2150±43BP

351-111BC

359-54BC

07TTH1CS139

2186±44BP

358-191BC

384-114BC

Mẫu từ hào

07TTH1CS116

2365±52BP

520-387BC

751-260BC

07TTH1CS117

2446±83BP

749-410BC

779-398BC

07TTH1CS118

2392±51BP

704-397BC

752-387BC

07TTH1CS120

2327±52BP

506-236BC

727-207BC

07TTH1CS122

2205±31BP

338-204BC

377-197BC

07TTH1CS135

2154±43BP

353-113BC

360-56BC

07TTH1CS136

2251±22BP

385-234BC

391-209BC

07TTH1CS137

2192±33BP

356-199BC

370-174BC

07TTH1CS140

2282±30BP

397-259BC

402-221BC

BP: Cách ngày nay; BC: Trước Công Nguyên; AD: Sau Công nguyên

Bảng 3.5. Niên đại AMS mẫu than lẫn ngói Cổ Loa từ lần đắp thành thứ 2 đến thứ 4

(giai đoạn 2) địa điểm Thành Trung 2007-2008 [84]

MẪU

LẦN ĐẮP

NIÊN ĐẠI C14

NIÊN ĐẠI ĐÃ HIỆU CHỈNH (1-SIGMA) 392-233BC

NIÊN ĐẠI ĐÃ HIỆU CHỈNH (2-SIGMA) 399-206BC

2

2264±39BP

07TTH1CS110

3

2253±39BP

389-215BC

396-204BC

07TTH1CS88

3

2234±41BP

380-210BC

389-203BC

07TTH1CS111

3

2184±34BP

356-192BC

375-165BC

07TTH1CS88

3

2187±33BP

356-196BC

370-170BC

07TTH1CS76

4

2184±43BP

357-184BC

382-154BC

07TTH1CS41

4

2170±33BP

353-173BC

363-113BC

07TTH1CS69

4

2139±33BP

344-111BC

353-54BC

07TTH1CS70

4

2136±44BP

347-93BC

357-46BC

07TTH1CS9

4

2116±43BP

198-59BC

353-4BC

07TTH1CS63

4

2093±43BP

168-54BC

345BC-AD 2

07TTH1CS50

BP: Cách ngày nay; BC: Trước Công Nguyên; AD: Sau Công nguyên

Bảng 3.6. Hiện trạng di tích Thành – Hào Cổ Loa

Chiều dài dấu vết chân thành (m)

7.780

15.820

6.310

1.730

1

Di tích thành

2

5.554

1.554

4.732

11.840

Chiều dài (m)

11,11

3,11

9,46

23,68

Diện tích (ha)

3

Di tích hào

2.561

800

3.014

6.375

Chiều dài dấu vết (m)

40,6

46,2

38.7

40.3

Tỷ lệ diện tích còn lại (%)

8,96

2,8

10,55

22,31

Diện tích (ha)

20,07

5,91

20,01

45,99

Tổng diện tích thành hào (ha)

4

TT Loại hình Thành Nội Thành Ngoại Tổng cộng Thành Trung

Nguồn: Đồ án Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Cổ Loa (Tỷ lệ: 1/2000)

CÁC QUYẾT ĐỊNH

VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

I. Các văn bản pháp quy của Trung ương

- Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

- Luật Du lịch năm 2005.

- Luật Xây dựng năm 2014.

- Luật Đất đai năm 2013.

- Luật Quy hoạch đô thị năm 2015.

- Luật bảo vệ môi trường năm 2016.

- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật di sản văn hóa.

- Nghị định 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ Quy định

thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ,

phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

- Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21/9/2017 của Chính phủ quy

định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam.

- Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT ngày 06/02/2003 của Bộ trưởng

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc ban hành Quy chế bảo quản, tu bổ

và phục hồi di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh.

- Quyết định số 313-VH/VP ngày 28/4/1962 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa

xếp hạng khu vực Thành Cổ Loa là di tích cấp quốc gia.

- Quyết định số 774/QĐ/BT ngày 21/6/1993 của Bộ truởng Bộ Văn hóa

Thông tin xếp hạng di tích chùa Cổ Loa (xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành

phố Hà Nội) là di tích cấp quốc gia.

- Quyết định số 2890/VH/QĐ ngày 27/9/1997 của Bộ truởng Bộ Văn

hóa Thông tin xếp hạng di tích Chùa Mạch Tràng (xã Cổ Loa, huyện Đông

Anh, thành phố Hà Nội) là di tích cấp quốc gia.

- Quyết định số 3951-QĐ/BVHTT ngày 20/12/1997 của Bộ truởng Bộ

Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích Đình Mạch Tràng (xã Cổ Loa, huyện

Đông Anh, thành phố Hà Nội) là di tích cấp quốc gia.

- Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng Chính

phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm

2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

- Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27/9/2012 của Thủ tướng Chính

phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ

thuật và khảo cổ Cổ Loa (huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội).

- Quyết định số 1004/QĐ-TTg ngày 3/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu

di tích Thành Cổ Loa (tỷ lệ 1/2000).

II. Các văn bản của UBND Thành phố Hà Nội

- Quyết định của UBND thành phố Hà Nội công nhận di tích một số di

tích cấp Thành phố.

- Quyết định số 5668/QĐ-UBND ngày 6/12/2011 của UBND thành phố

Hà Nội quy định chức năng nhiệm vụ tổ chức bộ máy của Trung tâm Bảo tồn

di sản Thăng Long Hà Nội.

- Quyết định số 4597/QĐ-UBND/2012 ngày 16/10/2012 của UBND

thành phố Hà Nội về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển du lịch Thành phố

Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định7228/QĐ-UBND ngày 30/12/2014 của UBND thành phố

Hà Nội về việc thành lập Ban quản lý khu di tích Cổ Loa.

- Nghị quyết số 18/NQ-HĐND ngày 6/1/2016 của HĐND thành phố Hà

Nội về việc thông qua dự án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu vực

thành Cổ Loa thuộc Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị

khu di tích Thành Cổ Loa thuộc danh mục các công trình trọng điểm của

Thành phố giai đoạn 2016-2020.

- Quyết định số 6579/QĐ-UBND ngày 30/11/2016 của UBND thành

phố Hà Nội về phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu di dân Tái định

cư giải phóng mặt bằng khi triển khai dự án thành phần đầu tư bảo tồn, tôn

tạo Khu di tích Cổ Loa.

- Văn bản số 52-BC/BCS ngày 24/2/2017 của Ban cán sự Đảng UBND

thành phố Hà Nội báo cáo Thường trực Thành ủy Hà Nội về việc nghiên cứu

đề xuất xây dựng đền thờ Ngô Quyền tại Khu di tích Cổ Loa huyện Đông Anh.

- Thông báo số 576-TB-TU ngày 9/3/2017 của Thường trực Thành ủy

Hà Nội thông báo Thường trực Thành ủy đồng ý chủ trương xây dựng Đền

thờ Ngô Quyền tại Khu di tích Thành Cổ Loa, huyện Đông Anh theo đề xuất

của Ban Cán sự Đảng UBND Hà Nội. Ban Cán sự Đảng UBND TP Hà Nội đề

xuất giao Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội chủ trì, phối hợp

đơn vị liên quan lập quy hoạch chi tiết 1/500, cụ thể hóa Quyết định số

1004/QĐ-TTg ngày 3/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch

tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích thành Cổ Loa (tỷ lệ

1/2.000). Trên cơ sở quy hoạch chi tiết 1/500 sẽ đề xuất vị trí cụ thể xây dựng

công trình Đền thờ Ngô Quyền đúng quy định, đảm bảo tính thống nhất, phù

hợp quy hoạch.

- Quyết định số 4014/QĐ-UBND ngày 6/8/2018 của UBND Thành phố

Hà Nội về việc Phê duyệt Kế hoạch quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị Khu di

tích Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, giai đoạn 2018-2020, tầm

nhìn đến năm 2030.

- Thông báo số 328/TB-VP ngày 15/10/2019 của Văn phòng UBND

Thành phố về Kết luận của Phó Chủ tịch UBND Thành phố Ngô Văn Quý tại

cuộc họp nghe báo cáo lựa chọn vị trí, triển khai xây dựng đền thờ Ngô Quyền và

một số nhiệm vụ trọng tâm tại Khu di tích Cổ Loa.

III. Các văn bản của Quốc tế

- Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới

năm 1972.

- Hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản Thế giới được sửa đổi, bổ sung

năm 2011.

- Hiến chương Venice về bảo tồn và trùng tu di tích, di chỉ năm 1964.

- Hiến chương về bảo vệ thành phố và khu vực đô thị lịch sử (Hiến

chương Washington, 1987).

- Văn kiện Nara về tính xác thực năm 1994.

- Hiến chương về bảo vệ và quản lý di sản khảo cổ học năm 1990.

- Văn kiện Nara về tính xác thực (1994).

- Nguyên tắc bảo tồn các kiến trúc lịch sử bằng gỗ (Mexico, 1999).

PHỤ LỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 01. Thành Cổ Loa

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Sơ đồ 02. Toàn cảnh Khu di tích thành Cổ Loa và vùng phụ cận

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Sơ đồ 03: Khu di tích Cổ Loa năm 1904

A. Thành được cho là cung điện

1. Cổng làng

B. Thành làng (Thành Nội)

2. Đình

C. Thành Trung

3. Chùa

D. Thành Ngoại

4. Am Mỵ Châu

E. Khu tập trận

5. Đền thờ An Dương Vương

I. Cổng Nam

6. Văn miếu

II. Cổng Tây

7. Giếng Trọng Thủy

III.Cổng Đông

8. Gò nơi Vua dự diễn tập quân sự

///. Khu dân cư

9. Chợ

Ký họa Thành Cổ Loa

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Chú thích: Sông ngòi, đường xá, cầu cống, ranh giới hành chính hiện nay được biểu

hiện trên bản đồ với những ký hiệu thông thường.

1. Xóm nhà; 2. Gò; 3. Thành; 4. Sông, đầm, hồ; 5. Đền, chùa; 6. Mộ cổ; 7. Di chỉ; 8. Hiện vật phát

hiện lẻ tẻ; 9. Cửa Bắc; 10. Xóm Thượng; 11. Xóm Cưu; 12. Cửa Tây Bắc; 13. Xóm Nhồi Trên; 14.

Khu Vườn Thuyền Ao Mắm; 15. Cống Song; 16. Cửa Tây Nam; 17. Xóm Dõng; 18. Xóm Hương; 19.

Gò Ngự Xạ Đài; 20. Thành Trại xóm Vang; 21. Đường Mây; 22. Cửa Đông; 23. Xóm Gà; 24. Xóm

Lan Trì; 25. Xóm Chùa; 26. Am Mỵ Châu; 27. Nhà Ngự Triều Di Quy; 28. Xóm Chợ; 29. Xóm Vang;

30-31. Gò Pháo đài; 32. Đền thờ Cao Lỗ; 33. Đền An Dương Vương; 34. Cửa Nam; 35. Gò Bãi Miễu;

36. Bãi Mả Tre; 37. Cửa Trấn Nam Môn; 38. Loa Khẩu; 39. Bãi Mèn; 40. Đồng Vông; 41. Gò Cột Cờ.

Sơ đồ 04. Khảo cổ học khu vực Thành Cổ Loa

[Nguồn. Trần Quốc Vượng, 1969, tr.108]

Sơ đồ 05. Các di tích khảo cổ học tiền – sơ sử ở Cổ Loa và vùng phụ cận

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Thành Ngoại 2012

Thành Trung 2007 - 2008

Thành Nội và Ụ hỏa hồi 2014

Sơ đồ 06. Vị trí các hố khai quật ba vòng Thành Cổ Loa

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Sơ đồ 07. Vị trí hố khai quật Thành Trung năm 2007 – 2008

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Sơ đồ 08. Vị trí hố khai quật H1, H2 và H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội năm 2014 Tỷ lệ: 1/100 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Sơ đồ 09. Vị trí hố khai quật H4 địa điểm Thành Nội sau đền Thượng năm 2014 Tỷ lệ: 1/100 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Sơ đồ 10. Bình đồ thành Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) [69]

Sơ đồ 11. Phối cảnh tổng thể Quy hoạch di tích Thành Cổ Loa [Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội]

Sơ đồ 12. Mặt bằng quy hoạch khu vực lõi và khu vực trung tâm

[Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội]

PHỤ LỤC BẢN VẼ

Từ bản vẽ 01 – 11: Tại địa điểm Thành Trung năm 2007 – 2008:

Bản vẽ 01. Mặt cắt ngang Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 02. Mặt bằng lớp 5, 6, 7 Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 03. Vách Đông hố khai quật Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 04. Mặt cắt lớp đất vách Tây Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Chú thích:

2: Hue 10 YR 5/8 Yellowish brown: Đất nâu vàng 3a: Hue 5 YR 5/8 Yellowish red: Đất đỏ vàng 3b: Hue 5 YR 5/8 Yellowish red: Đất đỏ vàng 3c: Hue 2.5 YR 5/8 Red: Đất sét đỏ

1a: Hue 7.5 YR 5/8 Strongbrown: Đất nâu tươi 1b: Hue 5 YR 5/8 Yellowish red: Đất đỏ vàng 1c: Hue 5 YR 5/8 Yellowish red: Đất đỏ vàng 1d: Hue 7.5 YR Reddish Yellow: Đất vàng đỏ

Bản vẽ 07. Mặt bằng lớp 11 Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 08. Mặt bằng lớp 14 Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 09. Mặt bằng chi tiết khu vực gốm dày đặc Thành Trung năm 2007 – 2008

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 10. Mặt bằng lớp 40 (gốm Đông Sơn) Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Bản vẽ 11. Mặt bằng lớp đáy - lớp 41 Thành Trung

[Người vẽ: Nguyễn Đăng Cường]

Từ bản vẽ 12 - 22: Tại địa điểm Thành Ngoại năm 2012:

Bản vẽ 12. Mặt bằng lớp 2 Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 13. Mặt bằng lớp 4 (1) Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 14. Mặt bằng lớp 4 (2) Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 15. Mặt bằng lớp 12 Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 16. Mặt bằng lớp 15 - 16 Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 17. Mặt bằng lớp 17 Thành Ngoại

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 18. Mặt bằng lớp 18 Thành Ngoại [Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 19. Mặt bằng lớp 19 - 20 Thành Ngoại [Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 20. Mặt bằng lớp 25 – 27

[Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 21. Địa tầng vách Đông địa điểm Thành Ngoại Cổ Loa Thành Ngoại [Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Bản vẽ 22. Địa tầng vách Tây địa điểm Thành Ngoại Cổ Loa Thành Ngoại [Vẽ chì: Nguyễn Đăng Cường, Corel: Trương Hữu Nghĩa]

Từ bản vẽ số 23 - 40: Tại địa điểm Thành Nội và Ụ hoả hồi năm 2014:

Bản vẽ 23. Mặt bằng lớp 1 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L1)

[Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 24. Mặt bằng lớp 2 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L2)

[Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 25. Mặt bằng lớp 4 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L4) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 26. Mặt bằng lớp 5 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L5) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 27. Mặt bằng lớp 6 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L6) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 28. Mặt bằng lớp 11 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L11) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 29. Mặt bằng lớp 19 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội

(14.TNO.H1.L19)

[Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 30. Mặt bằng lớp 23 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L23) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 31. Mặt bằng lớp 26 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L26) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 32. Mặt bằng lớp 27 - 28 hố H1 - Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1.L27-28) [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 33. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H1 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1) Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 34. Mặt cắt địa tầng vách Đông hố H1 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H1) Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 35. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H2 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc

Thành Nội (14.TNO.H2) Tỷ lệ: 1/20

[Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 36. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H2 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H2) Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 37. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H3) Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 38. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H3 địa điểm Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc Thành Nội (14.TNO.H3) Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 39. Mặt cắt địa tầng vách Bắc hố H4 địa điểm Thành Nội (14.TNO.H4)

Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 40. Mặt cắt địa tầng vách Tây hố H4 địa điểm Thành Nội (14.TNO.H4)

Tỷ lệ: 1/20 [Vẽ chì: Bùi Văn Hùng; Đồ họa: Bùi Xuân Tuân]

Bản vẽ 41. Đế bát thời Lê Trung Hưng (Việt Nam) thế kỷ XVII – XVIII

[Người vẽ: Đào Xuân Ngọc]

Bản vẽ 42. Đế bát sứ và sành thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

[Người vẽ: Đào Xuân Ngọc]

Bản vẽ 43. Miệng vò sành thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII – XVIII

[Người vẽ: Đào Xuân Ngọc]

Bản vẽ 44. Đáy nậm rượu, thân vò sành thời Lê Trung Hưng TK XVII – XVIII

[Người vẽ: Đào Xuân Ngọc]

PHỤ LỤC BẢN DẬP

Bản dập 1. Hoa văn trên ngói âm dương Thành Ngoại [Thực hiện: Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Hồng Tính và Đào Xuân Ngọc]

Bản dập 2. Hoa văn trên ngói âm dương Thành Ngoại

[Thực hiện: Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Hồng Tính và Đào Xuân Ngọc]

Bản dập 3. Hoa văn trên ngói âm dương Thành Ngoại [Thực hiện: Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Hồng Tính và Đào Xuân Ngọc]

Bản dập 4. Hoa văn trên ngói âm dương Thành Ngoại [Thực hiện: Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Hồng Tính và Đào Xuân Ngọc]

PHỤ LỤC BẢN ẢNH

Bản ảnh 01. Một đoạn thành hào Cổ Loa (góc Tây Nam đền Thượng)

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa – Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội]

Bản ảnh 02. Toàn cảnh hố khai quật thành Trung và hào năm 2007 – 2008

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 03. Di tích luỹ phòng thủ (vọng gác) Thành Trung năm 2007 - 2008

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 04 Mặt cắt vách Tây - Thành Trung năm 2007 - 2008

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 05. Lớp đá lẫn ngói Cổ Loa ở chân thành phía Nam (đắp thêm lần thứ nhất) Thành Ngoại năm 2012 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 06. Mặt cắt vách Đông Thành Ngoại 2012

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 07. Mặt cắt và mặt bằng hố khai quật Ụ hỏa hồi Thành Nội 2014

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 08. Toàn cảnh hố khai quật Thành Nội và Ụ hỏa hồi năm 2014

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 09. Khu lò đúc mũi tên đồng đền Thượng

[Nguồn: Lại Văn Tới]

Bản ảnh 10. Khai quật Ụ hỏa hồi Thành Nội năm 2014

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 11. Vách Tây thành Ngoại năm 2012

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 12. Cụm đá và ngói Cổ Loa phía Nam hố khai quật thành Ngoại 2012

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Lần 5 (giai đoạn 3)

Lần 4 (giai đoạn 2)

Lần 3 (giai đoạn 2)

Lần 2 (giai đoạn 2)

Lần 1 (giai đoạn 1)

Góc của ụ phòng vệ

Cấu trúc có tính phòng thủ

Bản ảnh 13. Thành lũy giai đoạn Đông Sơn (muộn) nằm dưới Thành Trung hiện nay

và các lớp đắp Thành Trung khai quật năm 2007 - 2008

[Nguồn: Nam C.Kim]

Bản ảnh 14. Hiện tượng dư chấn/động đất? trên bề mặt nền đất của Thành Ngoại năm 2012 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 15. Lớp đắp thành 2 đắp mở rộng sang hai bên và đắp trùm lên lớp 3 (Thành Trung) năm 2007 – 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 17. Địa tầng hào Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 16. Hào Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 19. Di tích bếp lửa trong nền vọng gác Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 18. Di tích luỹ phòng thủ (vọng gác) Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 20, 21. Cụm gốm Đông Sơn cạnh nền vọng gác Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 22. Di tích F1 Thành Trung [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 23. Di tích F2 Thành Trung [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 24. Bếp lò hình bầu dục (thời Lê) tại Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 25. Bếp lò hình vuông (thời Lê) tại Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 26. Bếp lò hình bầu dục thời Lê Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 27. Gốm Đông Sơn ở hố khai quật H1 Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Lần 4 (giai đoạn 3)

Lần 3 (giai đoạn 2)

Lần 2 (giai đoạn 2)

Lần 1 (giai đoạn 1)

Bản ảnh 28. Các giai đoạn đắp Thành Ngoại năm 2012 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 29. Các lớp đắp Thành Nội năm 2014 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Ngói Cổ Loa và đá trên mặt Thành Nội

Ụ hỏa hồi

Bản ảnh 30, 31. Chi tiết Thành Nội, Ụ hoả hồi phía Đông Bắc và ngói Cổ Loa, đá (F3) trên mặt Thành Nội năm 2014 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 32. F1 (Thành Nội) năm 2014 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 33. F2 (Thành Nội) năm 2014 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 34. F3 (Thành Nội) năm 2014 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 35. Mang khuôn đúc mũi tên

Bản ảnh 36. Khuôn đúc mũi lao cánh én

đồng Cổ Loa (TK III - II TCN)

(TK III-II TCN)

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 37. Đầu ngói ống Cổ Loa

Bản ảnh 38. Lẫy nỏ và mũi tên đồng Cổ

(TK III- II TCN)

Loa (TK III-II TCN)

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Bản ảnh 39. Lưỡi cày đồng Cổ Loa

Bản ảnh 40. Lưỡi cày đồng Cổ Loa

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

[Nguồn: BQL KDT Cổ Loa]

Bản ảnh 41. Trống đồng Cổ Loa [Nguồn: Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Quốc Bình; xử lý vi tính: Trịnh Ngọc Huân]

Bản ảnh 42. Đá xuất hiện cùng ngói gốm

Bản ảnh 43. Mũi tên đá (phác vật?)

Cổ Loa (Thành Trung) năm 2007 - 2008

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 44. Miệng sành L1K1 - thế kỷ XIX - XX

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 45. Miệng sành L1K2 - thế kỷ XV - XVI [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 46. Miệng sành L1K3 - thế kỷ XVIII - XIX

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 47. Miệng sành L1K4 thế kỷ XIII – XIV [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 48. Miệng sành L1K5 thế kỷ XV - XVI [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 49, 50. Miệng sành L1K6 - thế kỷ XIX – XX

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 51. Miệng sành L1K8 thế kỷ XV - XVI [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 52. Miệng sành L1K9 thế kỷ XIX - XX [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 54. Miệng sành L2K2 thế kỷ XVII - XVIII [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 53. Miệng sành L2K1 thế kỷ XVII - XVIII [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 55, 56. Miệng sành L3K1 thế kỷ XV - XVI

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 57. Miệng sành L3K2 thế kỷ XV - XVI

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 58. Miệng sành L3K3 thế kỷ XV – XVI [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 59. Miệng sành L3K4 thế kỷ XVII - XVIII [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 60. Miệng sành L3K5 thế kỷ XVII – XVIII [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 61. Ngói âm loại 1 tại Thành Trung [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 62. Ngói âm loại 2 tại Thành

Bản ảnh 63. Ngói âm loại 4 tại Thành

Trung năm 2007 - 2008

Trung năm 2007 - 2008

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

[Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

Bản ảnh 64, 65. Ngói dương tại Thành Trung năm 2007 - 2008 [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H1.L17

14.NO.H1.F2

14.NO.H1.L20.F2

14.NO.H1.L20.F2

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H4.L26.F3

14.NO.H4.L28

14.NO.H1.L16 14.NO.H1.L20.F2 14.NO.H1.L21.F1 14.NO.H1.F3 14.NO.H1.L23 14.NO.H1.L29

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1 Bản dập 5. Hoa văn trên ngói âm dương loại 1 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H4.L1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H1.L16

14.NO.H4.L23

14.NO.H1.L27

14.NO.H4.F3

14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H1.L22 14.NO.H1.L16

14.NO.H1.F3 Bản dập 6. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H4.L5

14.NO.H1.F2

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1 Bản dập 7. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H4.F1

14.NO.H1.F2

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1

14.NO.H4.F1 Bản dập 8. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H4.F1

14.NO.H1.F1

14.NO.H4.F1

14.NO.H1.F3

14.NO.H4.L7.F1

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.L22

14.NO.H1.L22

14.NO.H1.L29

14.NO.H4.F1 14.NO.H4.F1 14.NO.H1.F3 14.NO.H1.F3 14.NO.H1.L19 14.NO.H1.L24

14.NO.H1.L24 Bản dập 9. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]

14.NO.H1.L26

14.NO.H1.L27

14.NO.H1.L29

14.NO.H1.L24

14.NO.H1.L28

14.NO.H1.L22

14.NO.H1.F3

14.NO.H1.F3

14.NO.H4.L7.F1

14.NO.H1.L26.F3

14.NO.H1.L27

Hoa văn trên ngói âm dương loại 2

14.NO.H1.L21 Hoa văn trên ngói âm dương loại 3

14.NO.H1.L27 14.NO.H1.L24 14.NO.H1.L26.F3 14.NO.H1.F3 14.NO.H1.L22 14.NO.H1.L26

Bản dập 10. Hoa văn trên ngói âm dương loại 2, loại 3 - địa điểm Thành Nội và Ụ hỏa hồi phía Đông Bắc [Nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp]