BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Hoàng Đình Đức

CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Hoàng Đình Đức

CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Chuyên ngành Mã số

: Lí luận văn học : 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Dương Hữu Biên

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những

nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ

công trình nghiên cứu nào.

Tác giả luận văn:

HOÀNG ĐÌNH ĐỨC

1

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh, tôi đã nhận được sự giúp đỡ

nhiệt tình của quý thầy cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt

thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện.

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy Dương Hữu Biên, người đã tận tình

hướng dẫn và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời tri ân

nhất đối với những điều mà thầy đã dành cho tôi.

Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những người đã động viên,

hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận

văn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị và các bạn trong lớp đã giúp đỡ tôi

rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013

Học viên thực hiện

Hoàng Đình Đức

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ................................................. 5

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 9

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................... 12

7. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 13

CHƯƠNG 1: CON NGƯỜI THÂN PHẬN TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ............................................................................................................................. 14

1.1. Một số khái niệm của đề tài ...................................................................................... 14

1.1.1. Về vấn đề Con người thân phận và Thân phận con người .................................... 14

1.1.2. Về khái niệm tình yêu nam nữ .............................................................................. 19

1.1.3. Về khái niệm ca từ ................................................................................................ 22

1.2. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận ..................................... 23

1.3. Cội nguồn của quan niệm về con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn 31

1.4. Thế giới con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn .................................. 36

1.4.1. Hình tượng người mẹ ............................................................................................ 36

1.4.2. Hình tượng người yêu - người vợ mất chồng ........................................................ 40

1.4.3. Hình tượng người già và trẻ em trong chiến tranh ................................................ 45

1.4.4. Hình tượng con người tập thể, quê hương, đồng bào, đồng loại........................... 49

1.4.5. Con người cá nhân - cái tôi cô đơn bơ vơ, lạc lõng với cảm thức tha hương ....... 51

CHƯƠNG 2: TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ...... 55

2.1. Quan niệm và cội nguồn quan niệm tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn ........ 55

2.1.1. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu nam nữ ............................................ 55

2.1.2. Cội nguồn quan niệm về tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn ........................... 60

2.2. Chủ thể và đối tượng của tình yêu nam nữ ............................................................. 62

2.2.1. Chủ thể trong tình yêu - hình tượng nhân vật tôi .................................................. 62

2.2.2. Đối tượng trong tình yêu - hình tượng em ............................................................ 64

3

2.3. Những dạng thức, cung bậc biểu hiện và cảm xúc trong tình yêu Nam nữ ......... 67

2.3.1. Tình yêu mang đến những cảm xúc say sưa, ngất ngây và niềm hạnh phúc ........ 67

2.3.2. Sự cô đơn trong tình yêu ....................................................................................... 70

2.3.3. Nỗi ám ảnh, nhớ nhung và gắn bó với một bóng hình người nữ .......................... 74

2.3.4. Nỗi day dứt, ăn năn, nuối tiếc của hình tượng tôi ................................................. 77

2.3.5. Nỗi ám ảnh về những cuộc chia ly, tan vỡ và phụ rẫy trong tình yêu .................. 79

2.3.6. Sự đồng cảm, vị tha, bao dung, độ lượng trong tình yêu ...................................... 83

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU NAM - NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ........................... 87

3.1. Nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn ...................................................................................................................................... 87

3.1.1. Về việc khai thác và sử dụng hệ thống từ ngữ ...................................................... 87

3.1.2. Về việc khai thác và sử dụng các phương thức diễn đạt ....................................... 93

3.2. Hiệu quả của nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu ................ 105

3.3. Những đóng góp của Trịnh Công Sơn trên phương diện ngôn từ đối với sự phát triển của tiếng Việt .......................................................................................................... 107

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 115

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

4

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu thời gian

< > ( năm): khoảng năm, ví dụ: < > 1975: khoảng năm 1975

<= (năm): (năm) hoặc trước (năm), ví dụ: <=1960: 1960 hoặc trước 1960

>= (năm): (năm) hoặc sau (năm), ví dụ: >= 1972: 1972 hoặc sau 1972

<: trước năm, ví dụ < 1972: trước năm 1972

Các chữ viết tắt

(MI): Michiko Yoshii

(BÝ): Bửu Ý

Kí hiệu khác

(?): chưa rõ, cần thêm thông tin.

5

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Nền văn nghệ Tiền chiến nước ta đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên mọi thể loại.

Riêng về âm nhạc, một số ca khúc không chỉ là những bài hát đơn thuần, mà còn mang cả

tính thơ nữa. Ta có thể gặp những sáng tác kiểu này ở các tác giả Từ Linh - Đoàn Chuẩn,

Văn Cao, Đặng Thế Phong. Vào những năm 1960, ở miền Nam xuất hiện một nhạc sĩ mà

theo một số nhà nghiên cứu, ông không chỉ là nhạc sĩ mà còn là thi sĩ, đó là Trịnh Công

Sơn. Có lẽ Văn Cao là người đầu tiên gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn

là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái

nào chính, cái nào là phụ.” [16; tr.68]. Nguyễn Trọng Tạo trong một bài báo đã viết:

Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ chứ chưa mấy ai gọi anh là nhà

thơ, dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là “người thơ ca”

hay “người hát thơ”, nghĩa là, anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc. Nhưng với tư

cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định

rằng, anh chính là một nhà thơ đích thực [18; tr.418].

Trên góc độ chuyên môn, nhà nghiên cứu âm nhạc Dương Viết Á cho rằng, chỉ xét

riêng về phần ca từ trong âm nhạc, nhiều nhạc sĩ cần được gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên

được tuyển chọn vào các tập thơ của thế kỉ XX như: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh

Công Sơn. Nhìn ra ngoài biên giới, tên tuổi Trịnh Công Sơn đã vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp

của đất nước và đến với thế giới, nhất là các nước Nhật Bản, Pháp, Mỹ và được ghi trong bộ

bách khoa Les Million của nước Pháp với những dòng như sau: “Nhiều thi nhân Việt Nam

ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca của tổ tiên ngày trước để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công

Sơn nổi bật giữa những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê.

Trịnh Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt được” [16;

tr.149 ].

Từ những nhận định trên, có thể nói các bài hát của Trịnh Công Sơn, chỉ xét riêng về

ca từ, ta có thể thấy chúng là những bài thơ đích thực, thậm chí có thể phân loại thành các

thể thơ khác nhau.

Trịnh Công Sơn đã viết khoảng 600 tác phẩm, về chủ đề thân phận con người Việt

Nam trong cuộc chiến chống ngoại xâm, khát vọng hòa hợp dân tộc, tình yêu quê hương,

tình yêu đôi lứa... Hầu hết trong số đó là những tác phẩm có giá trị. Kể từ khi ông qua đời

6

cho đến nay, rải rác đây đó đã có một số công trình bắt đầu đi nghiên cứu về phần ca từ

trong âm nhạc của ông. Có những người viết luận văn, luận án, có những người viết thành

sách dài hàng mấy trăm trang, đó là chưa kể một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí.

Song phải thừa nhận một thực tế, gia tài âm nhạc Trịnh Công Sơn là di sản tinh thần vô giá

và đồ sộ, mà các công trình nghiên cứu hiện nay mới chỉ đang bước đầu bóc tách những lớp

trầm tích đầu tiên.

Do vậy, có thể nói, ca từ Trịnh Công Sơn vẫn còn là một khu rừng đầy bí ẩn, cần được

tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở những góc độ, phương diện khác nhau. Chúng tôi thấy rằng vấn

đề con người thân phận - hiểu theo phạm vi hẹp và sâu, đó là số phận của con người Việt

Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh (khác với thân phận con người, phạm vi

rộng và chung chung mà một vài công trình khác đã đề cập) và tình yêu nam nữ là đề tài

chưa thật sự được khai thác, phân tích theo chiều sâu, để làm rõ tư tưởng, tầm vóc, tài năng

và hơn hết là nhân cách của Trịnh Công Sơn. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận thấy rằng, người

hâm mộ, người yêu nhạc, thơ của Trịnh Công Sơn, thậm chí cả những ca sĩ chuyên nghiệp

cũng như một số tác giả nghiên cứu trước đã có một số quan niệm, cũng như dùng một số

khái niệm, từ ngữ mà theo chúng tôi là chưa thật thỏa đáng, nên cần phải xem xét lại thật

thận trọng trên tinh thần khoa học. Hơn nữa, tác giả luận văn này cũng có mối đồng cảm với

thơ - nhạc Trịnh Công Sơn.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề Con người thân phận

và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích tìm hiểu những biểu hiện của con người thân phận, bức tranh số

phận con người trong cuộc chiến, cũng như những quan niệm và biểu hiện, dạng thức phức

tạp của tình yêu nam nữ trong các ca khúc Trịnh Công Sơn, từ đó thấy được tinh thần nhân

đạo, nhân văn chủ nghĩa và tình yêu con người với niềm bi thiết sâu sắc của người nhạc sĩ

này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí thuyết chung trong quan niệm nghệ thuật về con người với một số

khái niệm căn bản như con người thân phận, tình yêu, ca từ… và những vấn đề có liên quan

7

để từ đó làm điểm tựa để đi vào nghiên cứu mảng con người thân phận và tình yêu nam nữ

trong một số các ca khúc cụ thể.

- Đi vào một số chủ đề cụ thể trong mảng con người thân phận và tình yêu, phân tích

một số tác phẩm cả nội dung lẫn nghệ thuật, để làm rõ nét độc đáo, khác biệt trong quan

niệm nghệ thuật về con người của tác giả.

- Một vấn đề cũng rất quan trọng, đó là chúng tôi đưa ra một vài gợi ý mới về cách

dùng một số từ ngữ, khái niệm, cũng như làm rõ một vấn đề mà xưa nay có nhiều tác giả đã

ngộ nhận: liệu Trịnh Công Sơn có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hiện Sinh chủ nghĩa hay đó

chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Đồng thời đi tìm nguyên nhân để lí giải cho hiện tượng

trên.

Từ sự phân tích trên, đi đến kết luận về tài năng, phong cách nghệ thuật cũng như

nhân cách, tâm hồn, lối sống và tầm tư tưởng của Trịnh Công Sơn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là phần ca từ (phần chữ, đã tách rời khỏi

khuông nhạc) của Trịnh Công Sơn. Từ khi sáng tác xong, ca từ ca khúc Trịnh Công Sơn

được công bố và in trong nhiều tuyển tập ca khúc như: Ca khúc Trịnh Công Sơn [22], Ca

khúc da vàng [23], Kinh Việt Nam [24], Ta phải thấy mặt trời [25], Một cõi đi về [27], Khói

trời mênh mông [28], Em còn nhớ hay em đã quên [29], Những bài ca không năm tháng

[30]…

Trong luận văn này, đối tượng khảo sát của chúng tôi là 60 văn bản ca từ (không có

phần nhạc) được công bố trong tập sách Trịnh Công Sơn – Vết chân dã tràng của tác giả

Ban Mai [13]. Văn bản những ca khúc này đã được công bố với sự cho phép của bà Trịnh

Vĩnh Trinh - em gái nhạc sĩ, người thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh -

chủ tịch hội văn hóa Trịnh Công Sơn ở Pháp - người đã có công sưu tầm và chỉnh lí thư mục

ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói, đây là nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu ca từ

Trịnh Công Sơn (danh mục ca khúc sẽ được chúng tôi trình bày cuối luận văn này).

Ngoài những văn bản ca từ kể trên, đề tài còn sử dụng một loại “siêu văn bản” khác,

đó là hoàn cảnh lịch sử - xã hội, không khí thời đại, không khí cuộc chiến tranh kéo dài 20

năm chia cắt đất nước, trong đó các ca khúc Trịnh Công Sơn đã thoát thai và hoàn cảnh cá

nhân, những trang nhật kí, những dòng tâm sự của nhạc sĩ trên truyền hình… Đây có thể

8

xem như những sự gợi mở nho nhỏ giúp chúng tôi đi sâu hơn vào thế giới ca khúc, cũng là

thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn là cả một gia tài văn hóa đồ sộ và mênh

mông, do đó, các ca khúc của ông có thể nghiên cứu, xem xét trên nhiều phương diện khác

nhau: phương diện lí luận về âm nhạc, phương diện triết học, tính triết lí, quan niệm nghệ

thuật về con người, về đời sống, về cái đẹp, cõi nhân sinh… Tuy nhiên, luận văn này chỉ

dừng lại ở việc đi sâu tìm hiểu về mặt con người thân phận và tình yêu nam - nữ trong ca từ

của ông.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4.1. Vấn đề thân phận con người được đề cập trong chủ nghĩa Hiện Sinh phương Tây.

Chủ nghĩa Hiện Sinh ra đời gắn với nhiều tên tuổi, song có thể phân ra làm hai phái, đó là

phái Hữu thần và Vô thần. Con người với tính cách là một hữu thể, với những suy tư trăn

trở về thân phận được đề cập đến trong tư tưởng của các triết gia Kierkegaard, St. Augustine

và Heidegger. Trong đó Martin Heidegger (1889-1976), triết gia vĩ đại người Đức, đã tập

trung tìm hiểu ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại người. Bản thể

luận của Heidegger là học thuyết về cấu trúc của tồn tại con người. Khác với triết học truyền

thống Âu châu chỉ đặt ra vấn đề hữu thể nói chung, Heidegger cho rằng tồn tại con người

mới là xuất phát điểm, là hiện thực đầu tiên có tính thứ nhất. Quan niệm này của Heidegger

là một đóng góp mới vào tư tưởng triết học của thế giới.

4.2. Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời, đã có một số sách viết về cuộc đời và sự nghiệp

của ông. Đầu tiên phải kể đến là cuốn sách có tựa đề Trịnh Công Sơn - một người thơ ca,

một cõi đi về do các tác giả Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến sưu

tầm và biên soạn [32]. Sau đó cuốn sách này được bổ sung và tái bản với tên gọi khác là

Một cõi Trịnh Công Sơn (Huế, nhà xuất bản Thuận Hóa, trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông

Tây, 2002). Tiếp sau đó nhiều cuốn sách lần lượt được phát hành, đáng chú ý là có nhiều

cuốn tập hợp bài viết của nhiều tác giả: Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy [15], Trịnh Công

Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ [16], Trịnh Công Sơn - rơi lệ ru người [14], Trịnh

Công Sơn - cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng [17]… Về những cuốn sách của

các tác giả là cá nhân, có thể kể đến các tác phẩm như: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên

tài của Bửu Ý [38], Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân [37], đặc

9

biệt là cuốn sách do Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn rất thân của cố nhạc sĩ viết với

tựa đề Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé [34]. Ngoài ra còn phải kể đến cuốn

sách mang tính chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc với tựa đề Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và

những ám ảnh nghệ thuật [20].

Nhìn chung, những sách này chủ yếu tập hợp bài viết của bạn bè, đồng nghiệp, của

một số nhà báo và một vài nhà nghiên cứu văn học. Những bài viết hầu hết có dung lượng

nhỏ, chủ yếu kể về những kỉ niệm, bày tỏ cảm xúc, ấn tượng đối với nhạc sĩ và những hình

ảnh trong các bài hát của ông. Một số tác giả đã đi vào cảm nhận cái hay cái đẹp của ca từ,

thể hiện sự đồng cảm về thân phận con người trong chiến tranh qua một vài ca khúc phản

chiến, cảm nhận về nỗi đau trong tình yêu nhân thế, và những phát hiện về tính triết lý… Có

rất ít những bài viết mang tính chất nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ (ca từ), lại càng

hiếm những bài viết về con người thân phận và tình yêu một cách có hệ thống, chặt chẽ.

Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn có tựa đề

Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật do nhà văn Bùi Vĩnh Phúc viết.

Tập chuyên luận có dung lượng 327 trang, gồm 6 chương, trong đó tác giả đã dành hẳn một

chương (chương 1) để viết về những ám ảnh nghệ thuật, đó là những ám ảnh về chiến tranh,

về sự cô đơn, sự phụ rẫy trong tình yêu, về sự gắn bó với một người nữ, về thân phận con

người, về cái vô thường của đời sống. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề thân phận con

người và tình yêu, nhưng còn khái quát, chung chung. Ông chỉ dừng lại ở việc phân tích một

vài ca khúc, lẩy ra một vài ví dụ minh họa cho luận điểm của mình, chứ chưa đi sâu vào tìm

hiểu về con người thân phận với tư cách là con người dân tộc cụ thể, con người Việt Nam

với những đau thương, mất mát trong cuộc chiến tranh. Ông cũng chưa đi sâu vào tìm hiểu

mảng ca khúc về tình yêu nam nữ với những nội dung phong phú vốn có của nó. Song có

thể nói, đây là tập chuyên luận khá hay và có giá trị về học thuật.

Ngoài những cuốn sách kể trên, phải kể đến cuốn luận văn thạc sĩ chuyên nghành lý

luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, đại học sư phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ

thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống hóa

những biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn, sắp xếp chúng theo hệ thống, từ hệ thống

những biểu tượng trực quan đến những hệ thống biểu tượng phi trực quan và chuyển hóa

giữa chúng. Từ đó soi chiếu, giải mã các biểu tượng trong hệ thống, góp phần làm sáng rõ

thế giới nghệ thuật và thế giới tinh thần của người nghệ sĩ. Luận văn này sau đó đã được

xuất bản thành sách với tựa đề Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn [9],

10

sau đó cuốn sách này được bổ sung thêm một số nội dung và tái bản với tựa đề Trịnh Công

Sơn - hạt bụi trong cõi thiên thu [10].

Kế đến là luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị

Thanh Thúy, đại học Quy Nhơn với đề tài cũng gần gũi với đề tài của chúng tôi, đó là Thân

phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Tập luận văn này sau đó cũng đã

được bổ sung và xuất bản thành cuốn sách Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng, lấy tên tác

giả là Ban Mai. Cuốn sách này khi xuất bản đã gặp phải sự cố và bị đình bản. Chúng tôi

cũng đã đọc qua để xem xét một cách cẩn trọng, tránh mắc những sai lầm, thiếu sót, khi

triển khai luận văn của mình.

Luận văn của tác giả Thanh Thúy nghiên cứu về diện là chủ yếu mà ít đi vào phân tích

về điểm. Mặt khác, những nội dung mà luận văn này triển khai cũng khác với nội dung luận

văn mà chúng tôi nghiên cứu. Ở phần một, tác giả đi vào những nội dung chính như tình

hình nghiên cứu Trịnh Công Sơn trong và ngoài nước; quá trình hoạt động tranh đấu và

sáng tác theo thời gian; tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn trước và sau 1975; Trịnh Công

Sơn và chiến tranh Việt Nam; tình yêu và nỗi cô đơn, ám ảnh về cái chết; lí thuyết ca

từ…Tóm lại, luận văn này khai thác vấn đề rất khái quát, song có ưu điểm là nguồn tư liệu

phong phú và dồi dào.

Cuối cùng, về công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài, phải kể đến luận án tiến sĩ

của tác giả Michiko Yoshii (người Nhật) với đề tài Ca từ trong nhạc phản chiến của Trịnh

Công Sơn tại trường đại học Paris VII, Pháp (7/1991). Tác giả đã bảo vệ thành công bằng

tiếng Pháp và đề tài được đánh giá rất cao.

Tóm lại, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trước cũng đã đề cập đến vấn đề

thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn, nhưng họ chỉ đi khái quát, sơ

lược, chung chung, hoặc đi quá rộng, phân tích có diện, mà chưa có điểm. Chưa đi sâu phân

tích một cách sâu sắc, có hệ thống vấn đề con người thân phận với tư cách là con người dân

tộc cụ thể, với những đau thương, mất mát trong chiến tranh và tình yêu đôi lứa với muôn

vàn trạng thái, cảm xúc phức tạp của nó.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích - miêu tả được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong trường hợp

cần tái hiện những kiểu con người thân phận cụ thể như người mẹ, người vợ trong chiến

tranh, người già và em bé,…trong tương quan với không gian hủy diệt của chiến tranh. Qua

11

đó thấy được bản chất bạo tàn, phi nghĩa của chiến tranh xâm lược gây ra cho con người. Từ

đó ta mới thấy được cái bi kịch thân phận như một định mệnh mà con người là nạn nhân

không lối thoát.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu dùng trong nhiều trường hợp. Thứ nhất, dùng để

tìm ra những tương đồng và dị biệt trong tư tưởng Trịnh Công Sơn về thân phận so với các

trào lưu tư tưởng, triết học khác như Hiện Sinh, Phật giáo. Từ đó thấy được ảnh hưởng của

Phật giáo lên thế giới quan của ông. Thứ hai, so sánh, đặt hình tượng nữ của Trịnh bên cạnh

người nữ của Nguyễn Du để thấy được chất kì ảo trong thủ pháp xây dựng hình tượng của

Trịnh Công Sơn và chất hiện thực ở hình tượng nữ của Nguyễn Du. So sánh Trịnh với

Kawabata để thấy được nét tương đồng giữa hai thiên tài này trong quan niệm thẫm mỹ, đó

là cái đẹp thường phảng phất nỗi buồn và mong manh.

- Phương pháp thống kê - định lượng được dùng để: (1) Khảo sát, thống kê tần số

xuất hiện của đại từ tôi và anh trong hệ thống ca khúc Trịnh Công Sơn. Qua sự khảo sát

định lượng ấy, thấy được định mệnh dở dang, cô đơn truyền kiếp ngầm dự báo trong cách

xưng hô đặc biệt ấy của ông với người tình. (2) Thống kê những tính từ âm tính, những từ

ngữ lạ, để từ đó có thể đưa ra những nhận xét khách quan về kiểu tư duy, quan niệm về hình

tượng nghệ thuật, khuynh hướng thẫm mỹ cũng như đặc trưng của hình tượng trong các tác

phẩm của Trịnh Công Sơn. Hơn nữa, còn thấy được khả năng sáng tạo ngôn từ phong phú,

độc đáo của ông.

- Phương pháp liên ngành bao gồm sự tìm hiểu về tiểu sử, các quá trình hoạt động

nghệ thuật và “dấn thân” của Trịnh Công Sơn. Tìm hiểu những bài viết, các cuộc phỏng vấn

trên truyền hình của tác giả… nhằm đưa ra những kết luận về sự hình thành tư tưởng, quan

niệm thẫm mĩ, cũng như ý nghĩa ẩn dụ của những từ ngữ khó hiểu trong các tác phẩm của

ông.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Về mặt lí luận

Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề thân phận con người và tình yêu trong ca từ

Trịnh Công sơn, nhưng hầu hết các công trình hoặc đi quá khái quát, sơ lược, theo chiều

rộng, hoặc còn rời rạc, chưa phân tích một cách có tính hệ thống, có chiều sâu. Do đó, đề tài

này sẽ không đi rộng như của các tác giả khác, mà sẽ đi theo một phạm vi hẹp và có chiều

sâu, cũng như sẽ đưa ra một vài gợi ý có tính chất gợi mở về cách dùng một số từ ngữ, khái

12

niệm… trong ca từ của Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là một đóng góp mới vào

việc tìm hiểu về giá trị văn bản nghệ thuật dưới góc nhìn văn học, quan niệm nghệ thuật về

con người và tình yêu.

- Về mặt thực tiễn

Nói đến nhạc Trịnh là nói đến một dòng nhạc riêng biệt, độc đáo và có tính nghệ thuật,

tính hàn lâm rất cao. Đôi khi ta chỉ biết hay mà không thể lí giải, cắt nghĩa theo tư duy thông

thường. Do đó, về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho những người

quan tâm đến thế giới âm nhạc Trịnh Công Sơn có cái nhìn đa chiều, sâu sắc và có hệ thống

hơn về giá trị các tác phẩm nhạc - thơ của Trịnh, mà trong đó, ngoài đóng góp về các thủ

pháp nghệ thuật mới, lạ, độc đáo, còn phải kể đến nội dung tư tưởng, thế giới quan, nhân

sinh quan của tác giả. Đồng thời nó gợi mở cho những người yêu thơ - nhạc của Trịnh

những cách hiểu sâu hơn về tình yêu, thân phận, cũng như quan niệm thẫm mĩ của tác giả.

Để từ đó ta biết rung cảm, biết thưởng thức cái hay, cái đẹp của nhạc Trịnh. Đó cũng là khả

năng gợi tả vô cùng phong phú, sự giàu có của tiếng Việt.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3

chương như sau:

Chương 1: Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn

Chương 2: Tình yêu nam nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn

Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu nam nữ trong ca

từ Trịnh Công Sơn.

13

CHƯƠNG 1: CON NGƯỜI THÂN PHẬN TRONG CA TỪ TRỊNH

CÔNG SƠN

Mở đầu

Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn được quan niệm như là một kiểu con

người thiên về xu hướng âm bản, với những nỗi khổ đau, bất hạnh… Song, căn cứ theo từng

giai đoạn sáng tác, chúng tôi phân ra làm hai biểu hiện cơ bản của dạng người này: (1) con

người thân phận trong giai đoạn chiến tranh với những đau thương mất mát, và (2) con

người thân phận trong cuộc sống đời thường gắn với những quan niệm có tính chất triết lí,

suy niệm về cõi nhân sinh, về kiếp người. Vì vậy, có thể nói, con người thân phận trong ca

từ Trịnh Công Sơn có tính hệ thống chặt chẽ. Ngay cả mảng ca khúc tình yêu, thì trong tình

yêu cũng có thân phận nữa. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một số khái niệm của đề tài cùng

những quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận, được trích dẫn từ trong các

tập hồi kí, các tập giới thiệu ca khúc của ông.

1.1. Một số khái niệm của đề tài

1.1.1. Về vấn đề Con người thân phận và Thân phận con người

Vấn đề thân phận con người là điều gì đó vừa cụ thể nhưng lại cũng vừa bao la, vượt

quá tầm hiểu biết của con người. Thân phận con người là những gì ta trải nghiệm mỗi ngày.

Xoay quanh thân phận con người và ý nghĩa đời người, luôn tồn tại những câu hỏi làm con

người không ngừng băn khoăn đi tìm kiếm sự giải đáp.

Trong hành trình làm người, có lúc ta phải dừng lại và tự vấn: Ta là ai? Ta từ đâu đến

và sẽ đi về đâu? Sứ mệnh của ta giữa đời này là gì?... Những câu hỏi ấy đã xuất hiện từ buổi

bình minh của loài người. Bởi chúng là những câu hỏi có tính chất truy vấn bản thể, truy tìm

đến tận cùng bản thể con người.

Thân phận con người được phản ánh trong triết học Phật giáo. Vấn đề thân phận được

phản ánh trong giáo lí Tứ Diệu Đế, biểu hiện tập trung ở Khổ Đế. Phật quan niệm đời sống

con người, thân phận con người về căn bản là khổ đau. Có người cho rằng, Phật chủ trương

như vậy là bi quan, yếm thế. Thực ra, Phật nhìn nhận cuộc sống, thân phận con người một

cách khách quan. Không ru người ta vào giấc mơ ở cõi Niết Bàn hay miền Cực Lạc, cũng

không làm cho người ta bi quan trong cuộc sống. Phật chỉ dạy cho con người thức tỉnh, nhận

thức rõ cuộc đời, thân phận theo đúng chân tướng của nó. Từ đó chỉ dẫn họ đi tìm con 14

đường giải thoát.

Quan niệm về thân phận con người trong triết học Phật giáo thiên về xu hướng âm

tính: khổ đau, bất hạnh. Đó là những gì Phật đã nghiệm chứng. Người đời sống phần lớn chỉ

lo tham lam hưởng thụ. Họ cho rằng cuộc đời là một bữa tiệc bất tận mà không ý thức được

cái lạc thú ấy chỉ là khoảnh khắc, chóng tàn chóng mất. Một ngày nào đó cái vô thường ập

đến thì con người sẽ rơi vào bể khổ trầm luân.

Từ ý thức về thân phận con người như vậy, Phật đã đi tìm nguyên nhân khiến con

người khổ đau, bất hạnh. Ngài cho rằng có vô vàn nguyên nhân, nhưng có ba nguyên nhân

chính, đó là Tham - Sân – Si (Tham: lòng tham; Sân: nóng vội, vội vàng, hấp tấp; Si: quá si

mê, đắm đuối một điều gì đó). Ba thứ này Phật gọi là tam độc, đó là nguồn gốc, căn nguyên

của mọi khổ đau. Mà nguyên nhân dẫn đến tam độc chính là ái dục và vô minh, được mô tả

trong công thức sau:

Nghiệp

Ái dục + vô minh = sự khổ đau

Ái dục = tình ái + dục vọng, ham muốn;

Vô minh: không sáng suốt, lí trí;

Nghiệp: việc làm, hành động cụ thể.

Vì vậy, Phật đã đề ra triết lí diệt dục: diệt cái đắm mê ngũ dục phong bế đầu óc con

người để giải thoát họ khỏi khổ đau. Bởi con người càng thoát khỏi ham muốn bao nhiêu thì

càng bớt khổ đau bấy nhiêu và gần suối nguồn hạnh phúc hơn.

Vấn đề thân phận con người cũng được đề cập trong chủ nghĩa Hiện Sinh. Thực sự,

chỉ đến chủ nghĩa Hiện Sinh thì thân phận con người mới trở thành tâm điểm và được đưa

ra bàn luận một cách rốt ráo, cả trong triết học lẫn văn chương. Những câu hỏi lớn về bản

ngã, ý nghĩa đời sống đã được nêu ra từ lâu. Song phải đến thế kỉ XX - thế kỉ của hai cuộc

đại chiến mà hậu quả là sự hủy diệt sinh mạng và sự sụp đổ niềm tin của con người trước

một thế giới đầy tội ác do chủ nghĩa Phát xít gây ra - thì những câu hỏi ấy mới được các

nhà Hiện Sinh nêu lên một cách cấp bách. Thân phận con người giờ đây đã trở thành vấn đề

lớn của nhân loại.

Cụm từ thân phận con người xuất hiện trong các tác phẩm triết học và văn học Hiện

Sinh. Đầu tiên, nó xuất hiện với tư cách nhan đề bộ tiểu thuyết của nhà văn Pháp André

Malraux (1901-1976), nguyên văn tiếng Pháp là La condition humaine (condition: vị trí,

thân phận, thân thế; humaine: con người, loài người). Tác phẩm đoạt giải thưởng GonCourt

15

(1933). Vấn đề thân phận con người cũng được tái hiện trong tác phẩm của các triết gia

khác như Augustine, Kieekegard, Heiderger. Họ có điểm giống nhau, đó là nỗi khắc khoải

khi nêu lên những câu hỏi có tính chất suy tư về hữu thể, mặc dù họ rất khác biệt nhau về

thời đại và hoàn cảnh sống.

Về văn chương Hiện Sinh, thân phận con người được phản ánh trong hàng loạt nhân

vật với những biểu hiện khác nhau. Người viết tác phẩm đậm chất Hiện Sinh, bi đát về phận

người nhất có lẽ là Frank Kafka. Tác phẩm của ông, nhất là hai truyện Vụ án và Lâu đài, đã

mở ra trước mắt người đọc một thế giới hoàn toàn phi lí, thế giới mà con người là nạn nhân

của hoàn cảnh xã hội. Cuộc sống không có sự đãm bão. Con người không được luật pháp

bảo vệ. Họ có thể bị buộc tội bất cứ lúc nào, không có quyền được khiếu nại, không được

đem ra xét xử. Người ta không thể hiểu được thế giới ấy như thế nào, chỉ biết rằng sinh

mệnh của mình đang trong tình trạng bị kết án và treo lơ lửng. JoJefk K và K là những nhân

vật tượng trưng cho thân phận bi đát, bị giam hãm trong thế giới đầy nghịch lí: cô đơn, bất

lực trước thực tại và thường trực nỗi lo âu, bất an về số phận của chính mình.

Thân phận con người trong sáng tác của A. Camus thì lại khác. Ở Camus, cảm giác về

sự phi lí là khởi nguồn cho lối sống hiện sinh: sự nổi loạn. MeurSailt trong Người xa lạ đã

bộc lộ những tình cảm khác thường với thế giới xung quanh, coi tình mẫu tử, tình yêu, hành

vi giết người, cái chết bản thân, chẳng gì đáng quan trọng cả. Nhân vật của Camus đã nổi

loạn, khước từ những chuẩn mực xã hội, muốn sống thực với chính mình, vì vậy đã trở

thành kẻ xa lạ, lạc loài với xã hội và bị lên án.

Và còn vô số những nhân vật, những kiểu con người thân phận trong các tác phẩm

khác: Caligula, Dịch hạch, Buồn nôn… Tóm lại, con người trong chủ nghĩa Hiện Sinh là

những kiểu con người bi kịch, bị đọa đày bởi hoàn cảnh, kiểu con người bất lực và vô vọng

trước đời sống.

Trên đây là vấn đề thân phận con người trong triết học và tôn giáo. Bây giờ chúng ta

sẽ cùng tìm hiểu quan niệm về thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Trong cuộc

sống hàng ngày, chúng ta cũng hay nhắc và nói đến “thân phận con người”. Nó được dùng

với nghĩa tương đương như số phận, số mệnh. Để hiểu rõ nội dung của cụm từ này, chúng ta

cần khu biệt, tìm ra nội hàm của chúng.

Trước hết, cụm từ “thân phận con người” hàm chứa một nội dung rộng lớn, mang ý

nghĩa phổ quát: đó là cuộc sống con người với những niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc lẫn cả

những nỗi khổ đau, bất hạnh, sầu não.

16

Thứ nữa, cụm từ “thân phận con người” không chỉ dùng để mô tả trạng huống đời

sống tinh thần, tình cảm con người mà còn được dùng để phản ánh trạng thái đời sống vật

chất nữa: thân phận con người bao gồm giàu - nghèo; quyền quý, cao sang hay bần tiện,

bình dân. Vì vậy trong cuộc sống, ta vẫn thường nghe những câu nói cửa miệng đại loại

như: thân phận con người mà - giàu ăn khó chịu hay số phận con người mà - trời cho ai nấy

hưởng…

Tóm lại, nghĩa của cụm từ “thân phận con người” rất khái quát, bao gồm cả đời sống

tinh thần lẫn đời sống vật chất; cả những đặc trưng âm tính và dương tính – mang ý nghĩa

rộng, như chúng tôi đã phân tích ở trên.

Vấn đề thân phận con người trong ca khúc Trịnh Công Sơn, xưa nay cũng đã có một

số công trình, tạp chí đề cập và gọi bằng những cụm từ như thân phận con người hay thân

phận mà chúng ta đã nghe rất quen thuộc. Chẳng hạn, Phạm Duy đăng trên tạp chí Văn (5,

6/2001, Mỹ) bài viết tựa đề Nhạc Trịnh Công Sơn - Tình yêu và Thân phận. Tạp chí Văn

học (10, 11/2001, Mỹ) đăng bài viết tựa đề Trịnh Công Sơn - Tình yêu - Quê hương - Thân

phận. Nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu cũng đăng trên Việt Báo (4/2007)

bài viết nhan đề Thân phận, quê hương và tình yêu trong ca khúc Trịnh Công Sơn. Và nhiều

công trình khác…

Về mảng luận văn, luận án, tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy, đại học Quy Nhơn cũng

đã làm luận văn thạc sĩ với đề tài Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công

Sơn.

Như vậy, các tác giả trước đã dùng cụm từ thân phận con người, hay thân phận. Ta dễ

dàng xác định được, xét về mặt từ loại, chữ thân phận tồn tại khách quan như một danh từ,

và nó mang một ý nghĩa khái quát, chung chung.

Vậy lí do nào, và tại sao chúng tôi chọn và đặt tên cho một trong hai nội dung trọng

tâm của luận văn (bên cạnh nội dung tình yêu nam – nữ) là con người thân phận chứ không

phải là thân phận con người như các tác giả trước đã làm?

Những công trình trước đây vẫn quen dùng cụm từ “thân phận con người”, khác với

luận văn của chúng tôi là “con người thân phận”. Sở dĩ chúng tôi đặt như vậy là vì những lí

do sau:

Thứ nhất, có sự khác nhau về nội hàm giữa hai cụm từ này. Trong cụm từ “thân phận

con người”, chữ thân phận tồn tại với tính cách là một danh từ, mang ý nghĩa khái quát, rất

rộng, bao gồm cả những đặc trưng âm bản, lẫn dương tính về số phận con người. Trong khi

17

đó, cụm từ “con người thân phận” mà chúng tôi dùng thì chữ thân phận tồn tại với tính cách

là một tính từ. Nó gợi ra thế giới con người với những đặc trưng âm bản, âm tính: những

con người buồn, cô đơn, đớn đau, bất hạnh. Như thế, cụm từ “con người thân phận” mang ý

nghĩa hẹp hơn mà lại sâu hơn so với nghĩa của cụm từ “thân phận con người”. Mà thế giới

con người trong ca từ Trịnh Công Sơn đa số là những con người thiên về nỗi bất hạnh, buồn

đau, cô đơn hơn là hạnh phúc. Do đó, chúng tôi cho rằng, dùng cụm từ “con người thân

phận” thì sẽ sát nghĩa và hợp lí hơn cách gọi truyền thống trước đây. Chúng tôi nghĩ, cách

dùng này sẽ chỉ ra được cái đặc trưng khu biệt về thế giới con người được phản ánh trong ca

từ Trịnh Công Sơn, đó là thế giới của những con người buồn.

Mặt khác, nội hàm hai cụm từ này còn có một sự khác biệt căn bản nữa. Nghĩa của

thân phận con người muốn ám chỉ đời sống cá nhân con người theo một quá trình thời gian,

trong sự tương tác với môi trường, hoàn cảnh sống. Nghĩa là, khi sinh ra, con người chưa có

thân phận, mà ai cũng như nhau cả. Nhưng theo thời gian, theo tuổi tác, theo hoàn cảnh

sống (hoàn cảnh gian đình, xã hội và cả hoàn cảnh tự nhiên), qua quá trình thích nghi, mà

làm cho con người có một số phận riêng. Như vậy, nói đến thân phận con người là muốn

nhấn mạnh đến sự tác động, ảnh hưởng qua-lại, hai chiều giữa hoàn cảnh và tính cách để tạo

nên vòng đời, số phận và nét riêng ở mỗi con người. Còn con người thân phận thì khác, nó

muốn ám chỉ cái số phận bi kịch, bất hạnh mà ngay khi con người mới sinh ra đã có. Khi

mới sinh ra, con người đã bị hoàn cảnh áp đặt ngay lên mình một bi kịch như mà một định

mệnh rồi, chứ không cần sống, tương tác với ngoại cảnh mới có được. Ở đây là sự tác động

một chiều, và con người hoàn toàn thụ động. Thậm chí cái bi kịch, định mệnh buồn thảm đã

mang từ trong kiếp bào thai con người rồi. Như đứa bé trong ca từ Trịnh Công Sơn sinh ra

trong chiến tranh là đã lãnh nhận thân phận nô lệ tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp

người rồi vậy. Theo quan điểm của chúng tôi, đây mới là sự khác nhau căn bản nhất trong

nội hàm, ý nghĩa của hai cụm từ này.

Thứ hai, cụm từ “con người thân phận” chỉ ra và nhấn mạnh, thế giới con người trong

ca từ Trịnh Công Sơn hiện lên như là những bi kịch của thời đại. Con người là nạn nhân, là

những bi kịch số phận do hoàn cảnh gây ra. Hoàn cảnh ấy, không có gì khác, chính là cuộc

chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ cùng các thế lực phản động gây ra ở miền Nam. Con

người bị tước đoạt đi những quyền căn bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh

phúc cá nhân mà đáng lẽ ra phải có được. Họ đã trở thành những khuôn mặt biến dạng, đau

thương của lịch sử dân tộc.

18

Thứ ba, xét hệ thống tác phẩm của Trịnh Công Sơn, từ những ca khúc đầu tiên đến

những ca khúc sau này, chúng tôi thấy rằng, con người xuất hiện trong các ca khúc hầu hết

là những con người buồn. Và hơn hết, những con người ấy được nhìn ngắm, được soi rọi,

được nghiền ngẫm qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Nói cách khác, con người

được nhìn nhận gắn với quan niệm cá nhân, với những chiêm nghiệm riêng tư, những trăn

trở riêng của người nghệ sĩ Trịnh Công Sơn. Kiểu con người này rất hiếm gặp ở những sáng

tác của những nhà thơ, nhạc sĩ khác.

Do đó, chúng tôi chọn đặt tên “con người thân phận”, chứ không phải là “thân phận

con người” một cách chung chung, truyền thống để khu biệt và chỉ ra nét đặc trưng trong

quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người. Qua đó thấy được sự khác nhau trong cái nhìn

về con người của ông so với con người trong những ca khúc, sáng tác của những nghệ sĩ

khác.

1.1.2. Về khái niệm tình yêu nam nữ

Tình yêu, như tên gọi của nó, đã trở thành một chủ đề quá quen thuộc, xưa cũ với con

người. Từ xưa đến nay, con người sống, tồn tại cùng với sự có mặt của tình yêu. Có thể nói,

nếu không có tình yêu thì sự sống của con người đáng buồn và kém ý nghĩa biết chừng nào.

Cuộc sống không thể thiếu tình yêu. Người ta đã bàn tán, ca tụng rất nhiều về tình yêu trong

đời sống hàng ngày. Sách báo viết về nó cũng đã tốn bao nhiêu giấy mực. Tình yêu từ cuộc

sống đời thường đã bước vào thi ca và được lãng mạn hóa qua lăng kính khúc xạ của nhiều

nghệ sĩ qua các thời đại.

Vậy tình yêu là gì? Đó là câu hỏi muôn đời. Thật khó để đưa ra một định nghĩa đầy đủ.

Vì vậy, để đi đến khái niệm tình yêu theo cách hiểu của chúng tôi, trước hết, chúng tôi sẽ đi

lược khảo một số quan niệm tình yêu của các nhà tư tưởng, dưới những góc nhìn khác nhau

như tôn giáo, tâm lí học, giáo dục học, để cuối cùng, chúng tôi rút ra được cái nhìn đa diện,

toàn diện về tình yêu nam nữ.

Đầu tiên, chúng ta cùng đi tìm hiểu về tình yêu trong quan niệm Phật giáo. Sở dĩ chọn

Phật giáo để khảo sát là vì chúng tôi thấy quan niệm tình yêu trong Phật giáo có những điểm

rất tiến bộ, phù hợp với truyền thống dân tộc và cũng có nét gần gũi với quan niệm về tình

yêu của Trịnh Công Sơn.

Phật giáo gọi tình yêu là ái dục: ái tình và dục vọng, ham muốn.

Theo quan niệm nhà Phật, tình yêu, lòng thương yêu giữa người nam và nữ là nhu cầu

19

tất yếu của con người. Trong tình yêu có hai yếu tố: tâm và thân. Tâm: tâm hồn, tâm tưởng,

tình cảm. Thân: thể xác, thân xác. Tâm–thân có mối quan hệ khăng khít: “tâm thân như

nhất”, nghĩa là tâm hồn và thể xác là một khối thống nhất.

Về tâm, tình yêu phải có sự hòa hợp trong tâm tưởng, tâm hồn, tính cách. Phải có sự

xẻ chia về tình cảm, tinh thần giữa hai người.

Về thân, tình yêu có gốc rễ về sinh lí, đó là nhu yếu tiếp nối, duy trì nòi giống bằng

cách chung đụng thân xác. Hành vi giao hợp là nhằm mục đích đó, chứ không đơn thuần là

để hưởng cảm giác khoái lạc.

Tình yêu đích thực phải có sự cung kính, tôn trọng lẫn nhau, “tương kính như tân”:

kính trọng mình và kính trọng người yêu mình (kính trọng cả thân và tâm). Muốn được

người yêu kính trọng thì bản thân mình phải tự kính trọng mình và kính trọng người ấy.

Kính trọng ở đây được hiểu là tôn trọng cả tâm hồn, lẫn thể xác người yêu (chỉ được quan

hệ thân xác khi đã kết hôn, đã là vợ chồng). Đây là một luận điểm mà chúng tôi thấy rất tiến

bộ, thể hiện tư tưởng bình đẳng nam - nữ trong tình yêu. Nó còn giữ nguyên ý nghĩa cho

đến ngày nay.

Trong tình yêu, con người cần phải hiểu, nghĩa là phải có sự đồng điệu về tâm hồn.

Hiểu niềm vui lẫn nỗi khổ của người mình yêu, để từ đó làm cho người ta vơi bớt nỗi khổ

đau và hạnh phúc hơn. Hiểu là rất quan trọng, và ta chỉ nhận lời yêu khi người đó có khả

năng hiểu mình, nếu không hiểu mà yêu liều thì sẽ bất hạnh.

Trong tình yêu, cần phải có tình thương chân thật, gọi là 4 yếu tố Từ - Bi - Hỉ - Xả, hay

còn gọi là tứ vô lượng tâm. Từ là khả năng đem lại hạnh phúc cho người khác. Ta phải xem

người kia có khả năng đem lại hạnh phúc cho ta hay không. Hạnh phúc ở đây không chỉ là

quan hệ thể xác mà còn là cảm giác hạnh phúc, bình an trong tâm hồn, mãn nguyện, vui vẻ,

được che chở khi sống bên nhau. Bi là khả năng làm cho người mình yêu bớt khổ, hết khổ.

Người yêu mình có những nỗi lo lắng, muộn phiền thì mình phải giúp họ vơi bớt đi nỗi khổ

đau. Hỉ là niềm vui. Hai người yêu nhau, bên nhau phải cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc. Xả là

sự hi sinh. Tình yêu không có sự ích kỉ, mà phải biết hi sinh vì người yêu. Phải xem nỗi khổ

đau của người kia và mình là một và phải cùng nhau giải quyết, không có thái độ ỉ lại.

Tóm lại, tình yêu theo quan niệm Phật giáo bao gồm những yếu tố hòa hợp thể xác và

cả yếu tố hòa hợp tâm hồn, tình cảm. Trong đó, phần tình cảm được chú trọng, nhấn mạnh

hơn. Như vậy, tình yêu đích thực đem lại sự thăng hoa, hạnh phúc lớn lao cho con người và

có ý nghĩa quan trọng trong đời sống. Trên đây là những luận điểm căn bản nhất về tình yêu

20

đôi lứa, theo quan niệm Phật giáo. Theo chúng tôi, chúng chứa đựng nhiều điểm tiến bộ,

vẫn còn nguyên ý nghĩa cho đến ngày nay.

Dưới góc nhìn tâm lí học, khái niệm tình yêu mang nghĩa hẹp là tình yêu nam nữ, có

bản chất là tình người và có mối quan hệ khăng khít với tình yêu nói chung. Nó là động lực

thúc đẩy và hoàn thiện các dạng tình yêu khác (tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước).

Trong cuốn Luận về tình yêu, Nguyễn Hoàng Đức viết:

Tình yêu (tình yêu lứa đôi hay tình yêu nam - nữ) là cánh cửa để mở mọi cánh

cửa. Muốn yêu nhân loại, trước hết con người phải biết yêu nhân tình của mình, muốn

sống chân lí phải biết yêu chân lí, muốn hiểu biết thì hãy mở đầu yêu nhận thức, muốn

làm thi nhân thì hãy yêu cảm xúc của mình [4; tr.123].

Tâm lí học đại cương và tâm lí học phát triển nhấn mạnh rằng tình yêu là một đặc

trưng tâm lí ở tuổi thanh niên. Trong tâm lí học đại cương, Phạm Minh Hạc cho rằng tình

yêu là vấn đề muôn thuở của loài người, là sự phát triển hợp quy luật của tâm lí con người.

Còn Vũ Dũng cho rằng tình yêu là tình cảm mãnh liệt đắm say và tương đối bền vững được

tạo nên do những nhu cầu ẩn dấu sắc thái sinh lí của chủ thể. Tóm lại, tâm lí học quan niệm

tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt giữa hai người khác giới, thể hiện sự hòa hợp, cuốn

hút, say mê cả về thể xác lẫn tâm hồn.

Tình yêu nam - nữ còn được xem xét dưới góc nhìn giáo dục học. Nó là “mối quan hệ

liên nhân cách, là một loại tình cảm đạo đức. Tình cảm ấy là tình cảm tự nhiên, xuất hiện

đồng thời với sự xuất hiện của con người trên quả đất” [11; tr.2].

Nhà giáo dục Nga V. Xukhômdiuxki cho rằng tình yêu là biểu hiện nền văn hóa cao

cấp của nhân loại. Chỉ cần xem một người yêu đương ra sao, ta có thể kết luận đó là người

thế nào. Dưới cái nhìn của ông, tình yêu nam nữ là tình cảm thiêng liêng, mang bản chất

người. Và cách yêu cũng là dấu hiệu để phân biệt mức độ văn minh của con người. Theo

chúng tôi, đây là một quan niệm rất tiến bộ và sâu sắc.

Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, Hoàng Phê đã định nghĩa tình yêu là: “Tình cảm yêu

đương giữa nam và nữ”[21; tr.1052].

Qua những quan niệm về tình yêu trên đây, cuối cùng, chúng tôi rút ra được quan niệm

về tình yêu theo quan điểm riêng của chúng tôi như sau:

Tình yêu nam nữ là trạng thái tình cảm của một người nam với một người nữ ở

mức độ cao hơn sự thích thú thông thường, biểu hiện ở nguyện vọng, ý muốn được gắn

kết, hòa hợp với đối tượng ấy cả về mặt thể xác, thể chất lẫn tình cảm, tâm hồn. Tình

21

yêu là loại tình cảm chứa đựng những cảm xúc có tính chất phức hợp: cảm xúc về tâm

hồn tạo ra tình bạn; cảm xúc về tri thức tạo ra lòng kính trọng và ngưỡng mộ; cảm

xúc về thể xác tạo ta lòng ham muốn bản năng.

Trên đây là quan niệm riêng của chúng tôi về tình yêu. Với khái niệm này, chúng tôi

vận dụng để đi tìm hiểu về tình yêu nam nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn.

1.1.3. Về khái niệm ca từ

Một bài hát, một tác phẩm âm nhạc (trừ nhạc không lời, nhạc giao hưởng, thính

phòng) bao gồm 2 yếu tố cấu thành: phần nhạc và phần lời. Phần nhạc bao gồm giai điệu,

tiết tấu… Phần lời chính là ca từ. Nói cách khác, trong âm nhạc, ca từ chính là phần lời của

bài hát.

Ca từ trong tác phẩm âm nhạc giữ một vai trò rất quan trọng. Nó bổ sung tính cụ thể,

sinh động cho hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Nói cách khác, nó làm nhiệm vụ, chức

năng như là người hướng dẫn, mở đường, phiên dịch hay “thuyết minh”, dẫn giải cho người

thưởng thức tác phẩm (khán - thính giả) bằng thứ ngôn ngữ phổ biến, phổ thông mà cộng

đồng đã quen sử dụng trong cuộc sống, giao tiếp hàng ngày.

Lại cần chú ý, không phải tác phẩm âm nhạc nào cũng có ca từ. Những nhạc phẩm

không lời, giao hưởng chỉ có duy nhất phần nhạc, tức là giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu… còn

phần lời thì không tồn tại. Và người nghe chỉ thưởng thức sự mượt mà, du dương của phần

nhạc mà thôi. Ngược lại, một tác phẩm có đầy đủ cả phần nhạc và lời, song người nghe

chưa chắc đã hiểu được một cách trọn vẹn. Chẳng hạn, một người Việt Nam mù ngoại ngữ

mà nghe một bài hát bằng tiếng Anh, tiếng Pháp thì chắc chắn không tiếp thu được một cách

trọn vẹn ý nghĩa của bài hát. Sở dĩ như vậy là vì ca từ bài hát ấy không phải là tiếng Việt –

ngôn ngữ của chủ thể cảm nhận.

Ca từ có tác dụng môi giới, mở cửa cho hình tượng âm nhạc đi vào lòng người thưởng

ngoạn. Sở dĩ như vậy là vì, ngôn ngữ (bằng lời) là phương tiện giao tiếp phổ biến và quan

trọng nhất của con người. Trong một tác phẩm âm nhạc, phần nhạc (âm thanh) và phần lời

(ca từ) có mối quan hệ biện chứng, khăng khít với nhau, tương sinh với nhau, tựa như phần

“xác” và “hồn” của tác phẩm vậy.

Song trên thực tế, cũng có nhiều tác phẩm, khi ta tiến hành bóc tách phần ca từ ra khỏi

khuông nhạc thì nó vẫn có thể tồn tại được như những bài thơ. Bởi ca từ thấm đẫm chất thơ,

mang tính thơ: đẹp, lấp lánh, có tính hình tượng, có vần, nhịp và sử dụng các thủ pháp nghệ

22

thuật của thơ. Nó rất dễ dàng đi vào lòng người đọc, người nghe bởi tính chất mượt mà, trữ

tình và những tình ý, những ý nghĩa, thông điệp nhân văn sâu sắc mà người nhạc sĩ gửi gắm

vào trong tác phẩm của mình.

Ca từ không chỉ có tính biểu hiện và chất trữ tình mà trong một số tác phẩm nó còn

chứa đựng những yếu tố triết lí, triết luận về đời sống nhân sinh. Và người thưởng thức có

thể xem chúng như những câu châm ngôn, hay những đoạn thơ, bài thơ hay. Trong nền âm

nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ có những tác phẩm như vậy. Tác phẩm của

ông là sự kết hợp giữa chất lãng mạn, trữ tình với chất triết lí, suy tư về lẽ sống, đồng thời

lại mang âm hưởng bi kịch. Đó là nét riêng, độc đáo trong ca từ âm nhạc của Trịnh Công

Sơn mà không thể lầm lẫn với ai được.

Với những vai trò và chức năng quan trọng đã nêu trên đây, ta có thể khẳng định rằng

ca từ là một phần không thể thiếu được trong âm nhạc. Vậy ca từ trong âm nhạc là gì? Ở

đây, để tiện làm việc, chúng tôi chấp nhận quan niệm của nhà nghiên cứu âm nhạc Việt

Nam - Dương Viết Á:

Trong loại hình nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính,

còn phải dùng đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm

nhạc (lời ca trong ca khúc, hợp xướng, kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch, tên gọi,

tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chương nhạc…). Tất cả phần ngôn

ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: ca từ [1; tr.13].

Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu con người thân phận và

tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu chỉ phần lời trong ca

khúc của ông.

1.2. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận

Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn là nạn nhân của cuộc chiến tranh

xâm lược do đế quốc Mỹ và tay sai gây ra ở miền Nam. Cuộc chiến leo thang ác liệt, số

phận quần chúng bị thử thách. Họ bị đàn áp, mất quyền tự do, thậm chí bị hủy diệt sinh

mạng. Chứng kiến những điều đau đớn lòng ấy, Trịnh Công Sơn đã viết nên các ca khúc

thức tỉnh, đồng thời đưa ra quan niệm của ông về con người. Chúng ta có thể tìm thấy

những quan niệm ấy trong lời tựa của các tập Kinh Việt Nam, Ca khúc da vàng, Ta phải

thấy mặt trời… và trong hồi kí của ông.

Từ 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, thân phận con người đã trở thành một

23

vấn nạn. Trịnh Công Sơn đã vạch cho mọi người thấy được cái thân phận làm người bi đát,

mong manh “như thân cỏ hèn”, bất lực trước thực tại tàn khốc. Trong phần giới thiệu tập Ca

khúc da vàng (1967), ông đã bày tỏ quan niệm về thân phận mong manh của con người

bằng những lời lẽ đau đớn và thống thiết:

Tất cả đã bể, đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư,

thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên

cùng khắp. Ơi những bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã

hóa thân làm vết thương. Cái chết đã hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình

đổi dạng từ những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ, anh em,

bằng hữu yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho

người điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết

Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi, hãy duỗi tay thật dài

về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều

phu đi nhặt từng cánh tay, bàn chân, từng đốt xương, sọ người, vung vãi khắp nơi về

làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm.

Ám khí dày đặc, làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao

của tổ tiên ta ngày xưa đó [35; tr.52].

Lời thức tỉnh trên, có hai vấn đề chính mà ông đề cập đến: sự hủy diệt của chiến tranh

và ý thức về cội nguồn dân tộc. Dưới cái nhìn riêng của ông, chiến tranh không phải là sự

oai hùng, mà là sự hủy diệt tận cùng những sinh mệnh. Do đó thân phận con người hết sức

mong manh, điêu linh và bất lực. Cái chết của con người đã “hóa thân làm biểu tượng vô

nghĩa”, đó là những cái chết hết sức phi lí. Từ ý thức về thân phận mong manh ấy, Trịnh

Công Sơn đã gợi nhắc, làm ta nhớ lại cội nguồn dân tộc xưa kia, con người đoàn kết một dải

từ miền Triết Giang hùng vĩ đổ về. Ông muốn gieo mầm băn khoăn, trăn trở vào lòng người.

Để con người dừng lại suy nghĩ mà bừng tỉnh. Và chính sự bừng tỉnh kịp thời ấy là nguyên

khởi cho sự đoàn kết, để không còn “ám khí dày đặc” chia cắt anh em. Từ đó, mọi người

cùng nhau siết chặt cánh tay, tâm can như nhất, giải phóng dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ.

Sau Mậu Thân, những đô thị miền Nam bị tàn phá tan hoang. Với thực trạng máu

xương như thế, với lương tri và sự nhạy cảm của người nghệ sĩ trước những cái chết của

đồng bào mình, Trịnh Công Sơn không thể không xúc động. Được sự gợi ý của một người

bạn - kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống, ông đã tiếp tục viết tập nhạc mới Kinh Việt Nam với

lời tựa thể hiện rõ quan niệm về con người của ông:

24

Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay. Một lần lầm lỡ đã lên đường và

phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một

nhiệm kì vô định. Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định

hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng, tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn

phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm

lực sáng tạo [18; tr.20].

Quan niệm về con người của Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt Nam có sự khác biệt với

Ca khúc da vàng: ông đã nhìn nhận con người Việt Nam không chỉ là nạn nhân chiến tranh,

mà còn trở thành đối tượng lừa gạt của các thế lực đế quốc và tay sai. Con người đã bị lừa

gạt dưới những khẩu hiệu, những lời rao giảng, những luận điệu phỉnh phờ. Họ - một bộ

phận những người đồng bào miền Nam, sống trong xã hội đương thời đã bị biến thành “một

mũi tên vô tri”, hay “những mũi tên định hướng” để chống lại nhân dân mình. Chừng nào

họ chưa nhận chân được âm mưu của chúng thì nước mắt và máu vẫn còn “làm thành những

con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo”. Chỉ rõ hiện thực ấy, Trịnh Công Sơn muốn đánh

lên hồi chuông cảnh tỉnh, muốn âm vang của tiếng chuông lương tri vang vọng được vào

hồn người. Để con người tự ý thức, thay đổi suy nghĩ và hành động, xóa bỏ thù hằn, để triệu

trái tim như một, triệu bước chân như một, cùng đi lên dựng cờ giải phóng: “Xin hãy dừng

tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông. Xin hãy dừng

tay để mọi căn nhà Việt Nam có thể mở rộng cửa chờ đón một sớm mai hòa bình. Còn rất

nhiều con đường mở ra cho tương lai của chúng ta. Những con đường đưa ta về dựng lại

một Tổ quốc đích thực” [18; tr.21].

Ca khúc Trịnh Công Sơn như một sự nhận thức về bản ngã. Nó như những lời tự tra

vấn, thẩm vấn lương tâm. Nó gieo nỗi nghi hoặc vào lòng người, đánh động ý thức con

người ở góc tận cùng, sâu nhất, khiến họ bừng tỉnh, nhận ra thân phận mình, cũng là thân

phận của dân tộc. Và khi con người có cái nhìn đúng về vị trí, vị thế, thân phận mình thì sẽ

tìm phương cách nỗ lực hóa giải nó để quê hương bớt đi những đau thương, những vùng

xương máu thịt da, như Đỗ Trung Quân đã nhận xét về cái “tinh thần” trong âm nhạc của

Trịnh Công Sơn: “Phản chiến không chỉ có ý nghĩa là chống chiến tranh, nó còn đánh thức

thân phận đang ngủ quên trong tủi nhục. Người nô lệ da vàng khi đã hiểu mình là nô lệ,

nghĩa là đã ý thức được tự do, nghĩa là ý thức tự do đã khởi phát. Giải phóng tư tưởng hèn

thấp trước đã, mới có thể ngẩng cao đầu làm người Việt Nam. Ý nghĩa tích cực của Ca khúc

da vàng là thế” [7; tr.159]. “Ngẩng cao đầu làm người Việt Nam” chính là ước mong của

25

người nghệ sĩ đối với đồng bào sau khi “thức tỉnh” qua những lời ca kia.

Nghi kị, thù hằn, ngộ nhận là thứ thuốc độc giết chết tình cảm con người mà Trịnh

Công Sơn e ngại nhất. Trong khi mong muốn con người dân tộc cần phải xóa bỏ những thứ

ấy, phải biết hòa hợp để tranh đấu, thì ông cũng nhấn mạnh, sự tranh đấu có mục đích cao

cả là để dành quyền sống, quyền làm người theo nghĩa đích thực với chiều kích nhân văn

của nó, chứ không tranh đấu vì những danh xưng, tiếng tăm: “Chúng ta đã đấu tranh. Đang

đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu dài. Nhưng đấu tranh để dành lại quyền sống, để làm

người, chứ không để trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi người từ khước tước hiệu

đó” [18; tr.35].

Phương diện thứ hai của con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn là con người

trong cuộc sống đời thường với những ám ảnh về lẽ được mất, cái vô thường, hữu hạn của

kiếp người; ám ảnh về cái cô đơn mang tính bản thể; đặc biệt là nỗi ám ảnh dai dẳng và

khôn nguôi về cái chết đeo bám tâm hồn người nghệ sĩ từ thời niên thiếu cho đến những

năm cuối đời.

Trước hết là ám ảnh về cái vô thường của kiếp người. Vô thường là khái niệm trong

triết học Phật giáo dùng để chỉ sự thay đổi, biến dịch vô cùng vô tận của vạn vật trong vũ

trụ. Trịnh Công Sơn từ nhỏ đã sớm hấp thụ giáo lí nhà Phật. Nên quan niệm về lẽ vô

thường, được mất của đời sống đã như một mầm cây ươm chồi, thành hình và trở thành căn

tạng, bản thể ông ngay từ khi còn rất trẻ. Với nhãn quan vô thường, Trịnh coi cuộc sống trần

gian là tạm bợ, là “cõi tạm”. Trần gian chỉ là cõi tạm, chông chênh, không có gì là vĩnh

hằng, bất biến. Ngay cả hình hài con người cũng chỉ là “hạt bụi”. Tất cả cũng chỉ tồn tại

trong cõi trăm năm, chốc lát. Cuối cùng cũng sẽ bị thời gian khắc nghiệt bào mòn, làm tiêu

ma, tiêu biến vào hư vô.

Trong một bài viết, ông đã mượn hình tượng “bờ” và “bến” để giãi bày tâm sự, qua đó

chuyển tải ý niệm thiên hải biến vi tang điền của đời người, kiếp người:

Tôi phiêu lạc bao nhiêu năm rồi trên một dòng đời không bờ bến. Có khi tưởng

bờ là bến. Có khi tưởng bờ là bờ. Cái tạm và cái thường hằng lắm khi là một. Thế mà

cứ lại là khác nhau. Cái bờ mỏng mảnh khoảnh khắc ra đi. Cái bến nhiều khi bền bền

ở lại. Bờ mở ra những bến. Có dâu bể cho bờ. Nên định mệnh thường trói buộc thân

phận bến. Tôi là bờ em ra đi. Em là bến tôi ghé lại. Con đò ghé qua bờ này bờ nọ

nhưng sẽ đậu lại ở một bến kia [18; tr.125-126].

Rồi ông lại băn khoăn tự hỏi và tự trả lời:

26

Mùa xuân là bờ hay là bến? Than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai trong đời này

cũng có lần ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân nhập nhằng những

dặm trường lận đận. Thoắt nhiên chỉ còn lại là bờ. Cái bến đi qua, rồi cái bờ ở lại.

Cái bến hiu hắt của một thuở tưởng rằng thời hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao

giờ là bờ. Thế rồi tuổi đời người người – đến đến-đi đi cứ mộng vờ, hoang tưởng hão

huyền một thứ bờ bờ-bến bến, không biết nơi nao để neo lại một thân thế phiêu bồng

[18; tr.126].

Rồi Trịnh lại tưởng tượng, hình dung ra mình đang đứng trước em, để đối thoại cùng

em: “Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái thân phận thuyền

quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lung mờ mờ ảo ảo, em vẫn

chính là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi mệt sẽ tìm về nương tựa” [18;

tr.126]. Quả thực, dưới góc nhìn của Trịnh, “mùa xuân” - tuổi trẻ đời người, chỉ là “bờ”,

một cái bờ tạm bợ mà thôi. Đời người chỉ là chốc lát, là vùng tuổi thương đau, là giấc mơ

ngắn. Nó chập chờn như cơn mộng mị chiều hôm, như đốm lửa lóe lên đôi chút trong vườn

khuya tịch lặng rồi tắt ngấm. Tất cả đều bị tiêu ma bởi thời gian yêu nghiệt. Tất cả là vô

thường. Em và tôi. Cuối cùng cũng sẽ bị hư vô ập đến. Làm cho tan biến, tan chảy tất cả:

“Trong một giấc ngủ bồng bềnh không giờ giấc của mùa xuân, tôi thảng thốt bỗng thấy bờ

bến rã tan thành những cánh bèo mông lung vô định. Em không bến và tôi không bờ. Em

trôi đi và tôi cũng trôi đi. Em và tôi cùng là bến. Em và tôi cùng là bờ. Chúng ta tan biến

vào nhau thành một khối bến bờ không còn chia lìa nữa. Trong em không còn trí nhớ về

bến. Trong tôi cũng mất hết những kí ức về bờ” [18; tr.126].

Ám ảnh về sự hữu hạn của kiếp người là ám ảnh lớn, xuyên suốt các ca khúc Trịnh

Công Sơn. Ông cho rằng con người trong cõi đời hãn hữu này cần phải biết quý trọng, nâng

niu những giá trị sống dù là hiếm hoi, ít ỏi. Sống sao cho đáng sống, như ông nói, phải biết

sống hết mình trong mỗi sát-na của thực tại. Hơn nữa phải có cách hành xử tích cực: phải có

tấm lòng bao dung. Phải loại bỏ những chất độc tham-sân- si; những hiềm khích; những giả

trá, kịch tuồng, ân oán của đời: “Khi một người biết tự tha thứ cho mình thì đồng thời cũng

phải biết tha thứ cho kẻ khác. Đừng bao giờ để lại những âm oán trong lòng. Ân oán là

những tảng đá nặng nề, ngăn chặn, giết chết lòng yêu thương. Sống mà không còn khả năng

yêu thương được nữa thì cũng xem như đã chết rồi. Tôi yêu và tôi tồn tại. Yêu và tha thứ.

Tha thứ và yêu” [18; tr.217]. “Tôi yêu và tôi tồn tại”, Trịnh đã mượn lời Descartes để đưa ra

lí thuyết về sự cứu rỗi: chỉ có lòng yêu thương mới cứu độ được con người khỏi bất hạnh

27

của trần gian. Mỗi người phải biết hướng về cái đẹp, như vậy tình yêu mới cứu chuộc được

thân phận, và thân phận cát bụi ngắn ngủi mới có được ý nghĩa tốt đẹp của “cát bụi tuyệt

vời”. Giải pháp hóa giải thân phận là ở chỗ đó.

Tiếp đến là ám ảnh cô đơn. Cảm thức cô đơn, lạc loài cũng là một biểu hiện âm bản

của thân phận. Trịnh Công Sơn cũng khá giống những nghệ sĩ khác của Việt Nam và thế

giới, ông cũng mang nỗi cô đơn - một khối cô đơn khổng lồ. Xưa nay, có mấy nghệ sĩ mà

vui tươi hớn hở, phơi phới trước đời sống được đâu. Một Dostoievki cô đơn trong những

chuyến lưu đày. Một Nietszche cô đơn với những phẫn nộ, gào thét. Một Nguyễn Du thao

thức, trầm tư với Đoạn trường tân thanh. Một Hàn Mặc Tử tuyệt vọng, đớn đau cùng với

Thơ điên… Cô đơn là thứ định mệnh khó có thể nói là may mắn hay nghiệt ngã mà tạo hóa

đã ban cho những thiên tài như vậy để họ có thể hoàn thành sứ mệnh nghệ thuật thiêng liêng

của mình. Trịnh Công Sơn cũng bị nỗi cô đơn vây khốn, bủa vây thường trực. Chú ý kĩ ta sẽ

nhận ra cô đơn như mà một mạch nước ngầm, có lúc âm ỉ, có lúc miên man chảy xuyên suốt

trong các tác phẩm của ông từ khi còn là chàng lãng tử với những Diễm xưa, Hạ trắng, cho

đến sau này với Xin trả nợ người, Tôi ơi đừng tuyệt vọng. Cô đơn là một biểu hiện của thân

phận. Trịnh cô đơn, một mình. Một mình đối diện với chính mình: “một mình tôi đi, đời như

vô tận/một mình tôi về, với tôi”.

Nỗi cô đơn của Trịnh có cội nguồn bản thể, là bản chất con người ông chứ không hề là

thứ cô đơn vay mượn hời hợt. Ông thường xuyên gặp gỡ bạn bè, giao lưu công chúng.

Nhưng đừng thấy vậy mà vội nghĩ là ông hạnh phúc và không cô đơn. Những giây phút ấy

hạnh phúc thật, song chỉ thoáng qua phút chốc mà thôi. Sau đó ông lại trở về với nỗi cô đơn

cố hữu của mình. Lại trầm tư trong khoảng sân nhỏ hắt hiu chiều tà, với những vạt nắng

vàng đưa chiều hấp hối. Hay cô đơn trong mỗi đêm khuya tịch lặng, “người về soi bóng

mình, giữa tường trắng lặng câm”. Xét ở một góc độ nào đó thì cô đơn đã trở thành cái

“không khí”, “khí hậu” riêng giúp Trịnh sáng tạo. Từ không gian đó, những sinh mệnh nghệ

thuật đã thoát thai.

Nỗi cô đơn khi vượt qua ngưỡng chịu đựng của tâm hồn, sẽ đạt đến cùng độ của nó,

trở thành cái tuyệt vọng. Nhưng tuyệt vọng trong Trịnh Công Sơn cũng rất đặc biệt. Nó

không phải là thứ tuyệt vọng băng hoại hay hủy diệt hiện hữu. Mà đó là thứ tuyệt vọng thức

tỉnh: cái tuyệt vọng được đẩy đi thật xa, để từ biên giới ấy, con người ngoái nhìn lại và nhận

ra những giá trị chân –giả của đời. Ông viết:

Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ

28

buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi

không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng

của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa. Tôi không muốn

khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa là kẻ

chiến thắng vừa là kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa

đến những đấu trường [16; tr.9].

“Tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa” hay trong cơn tuyệt vọng cùng cực, đứng

chênh vênh trên miệng vực, trong cái khoảnh khắc ấy, bất chợt, hồn ta vượt thoát ra khỏi tư

duy cố hữu phiến diện xưa nay, những thói đời vặt vãnh, những tầm thường phù phiếm.

Tâm hồn thức tỉnh và nhận chân, rồi được cơn mưa Thiện, mưa Mỹ gội làn nước khiết, mĩ

hóa, thiện hóa, thanh lọc hồn ta, và ta trở về với bản nguyên con người, trở nên tuyệt mĩ,

đẹp như một đóa hoa thơm?

Nỗi cô đơn, tuyệt vọng ấy có nguyên cớ của nó: “Không ai muốn mình là kẻ tuyệt

vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều khi sớm mai tôi thức dậy, không

thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người” [16; tr.9]. Rõ ràng, Trịnh tuyệt vọng

không phải vì chán cõi thế, mà ngược lại, vì quá yêu con người và đời sống này. Trong khi

đó, ông lại phải chứng kiến cảnh “hoa quả” ít “khai sinh trong trái tim người” - tình yêu

giữa người với người sao mà hiếm hoi đến thế! Tuyệt vọng vì quá yêu đời, mà đời không

bao dung. Tuyệt vọng vì quá yêu người mà lòng người kém mở phơi. Nói được điều đó, ông

là người có cái tâm của Phật, có tấm lòng của Bồ Tát. Nghe được điều đó, ta giật mình, tự

nhìn lại mình, chỉnh đốn cái tâm, sao cho “hoa quả” được “khai sinh” trong trái tim mình và

tỏa hương thơm đến trái tim mọi người. Như thế, cái tuyệt vọng đã nở thành một “bông

hoa”.

Tiếp theo, cái chết là biểu hiện cao nhất của con người thân phận. Cái chết là phạm trù

được xem như là kinh điển của Hiện Sinh thuyết mà ta thường gặp trong triết học của

Heiderger, Jasper, Malraux. Với Trịnh Công Sơn, cái chết là nỗi ám ảnh thường trực và là

ám ảnh lớn nhất đời ông: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau

này vẫn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và sự chết trở thành một vấn đề lớn trong đời

sống tinh thần của tôi ” [32; tr.207]. Hình ảnh về cái chết ta bắt gặp với một tần suất dày đặc

trong ca từ của ông. Người chết trong chiến tranh, xác ngập ruộng đồng, núi rừng. Hình ảnh

những nấm mồ trong không gian hoang vu của những nghĩa trang, nghĩa địa buồn. Thậm chí

là cả cái chết của chính mình, kiểu như “một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời”, hay “một

29

hôm buồn lên núi nằm xuống”. Dưới mắt nhìn của ông thì “sống chết mong manh/như thân

cỏ hèn/mọc đầy núi non”. Do đó, ống muốn con người lúc còn sống, khi còn được nhìn thấy

loài người và hưởng khí trời, phải biết quý trọng từng giây phút sống. Phải nỗ lực tham dự

vào đời sống. Sống thật ý nghĩa, thật “tử tế”. Không sống hoài, sống phí: “Cuối cùng, không

có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn đầy sự có mặt và chết cho tràn

ngập cõi hư không. Phải đi đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến tất cả những giấc

mộng đời không thực” [18; tr.188].

Nếu tinh tế, để ý kĩ, ta sẽ thấy một sự thay đổi rất độc đáo trong quan niệm về cái chết

của Trịnh Công Sơn ở giai đoạn tuổi trẻ và giai đoạn về sau. Giai đoạn tuổi trẻ, gắn với

chiến tranh nên ông miêu tả cái chết của con người trần trụi, khốc liệt, mang màu sắc bi

thương. Còn ở giai đoạn về sau, khi đã từng trải qua những bể dâu của đời, thì trong ông, cái

chết trở nên nhẹ nhàng và thanh thản lắm. Nó chỉ như một sự tiếp nối, như người ta bước

một bước chân qua một vùng đất khác và lại tiếp tục một đời sống khác chứ không phải chết

là sự hủy diệt đáng sợ như ở giai đoạn đầu. Quan niệm này gần gũi với thuyết “luân hồi”

trong Phật giáo mà Trịnh đã tiếp thu và thấm nhuần từ thời niên thiếu. Trong một phỏng vấn

về ý nghĩa của cái chết, ông nói: “Chết là một sự trở về thì quá tốt trong lễ đón đầy hoa đầy

quả. Khi đứa con hoang đi lạc trở về, làng xóm người ta cũng vui mừng. Có lẽ cũng có cha

mẹ làng mạc ở quê hương xa xưa đón chào. Như trong Quê nhà và Lưu đày của A. Camus,

sống là một sự lưu đày và chết là trở về” [32; tr.210]. Thật là lạ kì! Với Trịnh, sống chỉ là

“đứa con hoang đi lạc”, chết là trở về quê cũ, nguyên quán. Lạ kì hơn nữa, Trịnh lại có

những ý nghĩ, cái nhìn thật kì dị về cõi “quê nhà” của mình: “Những lúc mình buồn không

hiểu vì sao mình buồn, có lẽ là nhớ quê nhà và quê nhà gần gũi nhất của mình là bào thai

mẹ. Nằm trong bào thai đến hơn 9 tháng mới ra đời thì đôi lúc buồn nhớ là nhớ đến chỗ nằm

trong bào thai đấy!” [32; tr.210].

Nói nhiều đến cái chết, không phải là bi quan. Mà ông nhắc đến cái chết là để ta nghĩ

đến sự sống: chỉ khi cảm thấy mình luôn đối diện với cái chết, thì ta mới cảm nhận được giá

trị của từng giây phút sống. Cái chết là vấn đề xưa cũ trong triết học, tôn giáo Đông Tây

kim cổ. Trịnh Công Sơn nói lại một vấn đề xưa cũ, nhưng ý nghĩa thì lại mới mẻ. Từ sự

trầm tư suy niệm về lẽ sống chết, ông đã làm bật lên giá trị cao quý vô ngần của sự sống: đó

là tình yêu, lòng yêu cuộc sống, yêu con người, là tinh thần bác ái và độ lượng vô biên trước

đời sống hữu hạn. Trịnh nói đến cái chết mà ta không hoang mang sợ hãi, cũng chẳng đoạn

đời. Ngược lại, tâm hồn ta lại mở phơi trong màu nắng mới, màu ngói mới với bao thiết tha,

30

ân cần.

1.3. Cội nguồn của quan niệm về con người thân phận trong ca từ Trịnh Công

Sơn

Như trên đã thấy, quan niệm về con người thân phận trong ca khúc Trịnh Công Sơn

mang tính hệ thống, chặt chẽ, xuyên suốt từ khi nhạc sĩ còn trẻ, cho đến những năm tháng

sau này. Chính quan niệm ấy đã tạo nên chất Bi, làm nên một tên tuổi riêng biệt, độc đáo

duy nhất mà sức sống tác phẩm đã chiến thắng được sự bào mòn của thời gian. Vậy nguyên

nhân nào đã khai sinh ra một quan niệm độc đáo chi phối đến nội dung tác phẩm của người

nghệ sĩ kì tài ấy? Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có ba

nguyên nhân căn bản sau đây.

Thứ nhất, do ảnh hưởng của vùng văn hóa Huế. Huế - vùng đất một thời đã từng là

kinh đô dưới thời Tây Sơn - mảnh đất “Thần Kinh”, mang trong mình một bề dày lịch sử

truyền thống cùng với những nét văn hóa đặc trưng, độc đáo riêng có của nó mà không nơi

nào có được. Đó là thiên nhiên, sông núi, cảnh vật cổ kính, cộng với cái thời tiết cũng rất

lãng đãng, lãng mạn, song lắm lúc cũng gợi lên không khí u tịch, một thứ không khí âm

tính. Đặc biệt là quần thể kiến trúc của cố đô bên mạn bờ bắc sông Hương với hệ thống đền

đài, lăng tẩm, chùa chiền… Đây được xem là mảnh đất thiêng. Do vậy, nó đã được các vua

chúa chọn làm nơi an nghỉ ngàn năm. Những lăng miếu, đền đài cổ kính thấp thoáng ẩn hiện

giữa những rừng thông u tịch. Khung cảnh ấy gợi lên một cảm giác hoang liêu vắng lặng,

rợn ngợp và đầy âm khí, ma mị. Thậm chí, Huế còn có những con đường vòng quanh những

nghĩa địa hoang vu mà người ta gọi là đường Âm Hồn. Người đi qua, bị ám ảnh, rợn mình

với những ngọn đèn leo lét trong am, miếu. Tất cả những cảnh vật ấy chắc chắn ít nhiều đã

ảnh hưởng đến một tâm hồn nhạy cảm như Trịnh Công Sơn, để lại dấu ấn trong tư tưởng và

sáng tác của ông: “Có thể là đúng ở chỗ địa lí theo tôi rất quan trọng. Tâm hồn của mình ít

nhiều nhờ một vùng đất đặc biệt nào đó nuôi dưỡng, nó phả vào tâm hồn một điều rất lạ và

độc đáo… tất cả những bài hát của tôi đều viết về Huế” [32; tr.206]. Như vậy, cảnh vật âm

u, tịch liêu của Huế đã gợi lên trong tâm thức Trịnh những ám ảnh về cái chết, cõi an nghỉ,

và kiếp sống bên kia.

Ảnh hưởng của văn hóa Huế còn biểu hiện ở khía cạnh tôn giáo. Huế là mảnh đất Phật

giáo cắm rễ và phát triển rất sớm. Ngay từ trong gia đình, mẹ Trịnh Công Sơn - bà Lê Thị

Quỳnh - là một Phật tử giàu lòng nhân ái. Khi còn nhỏ, cậu bé Sơn đã hấp thụ lối giáo dục

31

của người mẹ. Đặc biệt, một sự kiện rất quan trọng không thể không nhắc tới: cái chết đột

ngột của người cha, ông Trịnh Xuân Thanh vào 6.1955, đã ảnh hưởng lớn đến tâm lí cậu bé

Sơn. Mất đi trụ cột trong nhà, cả gia đình Trịnh Công Sơn lao đao và mất phương hướng.

Trịnh rất đau buồn. Để tĩnh tâm, lấy lại thăng bằng, cậu bé thường đi chùa tụng kinh niệm

Phật. Nhà sư Thích Nhất Hạnh đã dẫn lời của thượng tọa Phước Toàn và Hải Ấn cho biết: từ

khoảng 1955 đến 1958 (trước khi vào Sài Gòn học) cậu bé Sơn đi chùa rất nhiều. Có những

ngày Sơn ở lại và ngủ qua đêm trong chùa, lật từng trang sách kinh cho sư thầy đọc, nghe

thầy giảng giải Phật pháp để niềm đau lắng xuống. Chính Trịnh Công Sơn đã quy Y tại chùa

Phổ Quang, với pháp danh Nguyên Thọ. Âm nhạc Phật giáo, tiếng kinh kệ đã đi vào trong

máu huyết của Trịnh Công Sơn từ đó. Quan trọng hơn, nó còn ảnh hưởng đến quan niệm

sáng tác, tư tưởng chủ đạo trong ca khúc của ông. Đó là quan niệm cuộc sống là vô thường,

con người là sinh thể hữu hạn, chóng tàn, chóng mất… Quan niệm ấy, tự thân nó, chính là

biểu hiện của con người thân phận.

Như vậy Huế và Phật giáo ảnh hưởng đến tư tưởng Trịnh Công Sơn là điều rõ ràng.

Chính Trịnh Công đã khẳng định: “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời

thơ ấu của tôi. Tất cả những gì thuộc về cuộc sống đều có ảnh hưởng trên đời sống tinh thần

và tình cảm của tôi” [16; tr.273].

Thứ hai, do hoàn cảnh chiến tranh. Trịnh Công Sơn tham gia hoạt động âm nhạc vào

lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam đang bước vào giao đoạn ác liệt. Năm 1964,

sau khi tốt nghiệp trường sư phạm Quy Nhơn, ông được điều lên Bảo Lộc, làm chức

“trưởng giáo” ở một ngôi trường vùng cao. Việc dạy học tại Blao quả là một công việc

không xứng đáng và không phù hợp với ông. Thật sự ông cũng không thiết tha với công

việc và cuộc sống trong không gian buồn tẻ nơi đây. Tại đây, Trịnh đã âm thầm sáng tác.

Rồi mỗi cuối tuần, ông lại bắt xe về Sài Gòn để hát, phổ biến tác phẩm của mình. Quá trình

đi về giữa Sài Gòn - Bảo Lộc - Đơn Dương - Đà Lạt - Huế, ông đã tận mắt chứng kiến

những cái chết của đồng bào mình. Những cái chết thảm khốc và kinh hoàng do chiến tranh

phi nghĩa gây nên: từ người mẹ, người chị, người vợ, người yêu cho đến những người già,

em bé… Đó là một một hiện thực quá tàn khốc, vượt quá ngưỡng chịu đựng của con người.

Ngược lại, Trịnh Công Sơn là người Huế, vốn mang trong mình cái khí chất, tính cách

tài hoa, lãng mạn, yêu đời yêu người thiết tha. Trịnh có một tâm hồn tinh tế, rất nhạy cảm

trước đời sống, nhất là trước những thay đổi lớn của xã hội. Một con người yêu đời, ham

sống và lãng mạn đến như thế, nay bị lọt thỏm vào một vùng xương máu tan hoang, đầy rẫy

32

những chết chóc, tang thương, thử hỏi làm sao tâm hồn ông có thể chịu đựng nổi mà không

bị tổn thương? Nói rõ là: một tâm hồn, cái tôi quá yêu đời, quá nhạy cảm đã “va đập” với

hiện thực chiến tranh quá tàn khốc. Đó là lí do tại sao Trịnh Công Sơn, trong sâu thẳm tư

tưởng của mình, mầm mống, ý thức về thân phận, về cái chết, cái hữu hạn, cái mong manh

của kiếp người đã như mầm cây bén rễ và lớn dần trong ông. Cũng vì thế mà trên những nẻo

đường đây đó, ông đã ghi lại bằng ca từ những cái chết rất sinh động, chân thật trong tác

phẩm của mình: Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người

già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng, Tình ca người mất trí…

Thứ ba, quan niệm về con người thân phận, ám ảnh về cái chết trong ca khúc Trịnh

Công Sơn còn có một lí do khác nữa, đó là hoàn cảnh sống riêng của tác giả - cụ thể là biến

cố trong gia đình: cái chết của người cha, ông Trịnh Xuân Thanh. Trong hồi kí, Trịnh Công

Sơn cho biết, ngay từ nhỏ ông đã bị ám ảnh nặng nề bởi cái chết của người cha. Ông Trịnh

Xuân Thanh vốn là một nhà buôn, song lại có thiện cảm và tham gia giúp đỡ cách mạng. Bị

địch phát hiện, ông bị bắt giam nhiều lần tại nhà lao Thừa Phủ - Huế và phải chịu những

cơn đòn roi tra tấn của kẻ thù. Lúc này, cậu bé Sơn đã khăn gói vào thăm và ở lại trong tù

cùng cha (cho cha con đỡ nhớ). Cậu bé đã tận mắt chứng kiến cảnh cha mình bị tra tấn.

Điều đó ít nhiều đã ám ảnh tâm trí ông về cái ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết.

Đến 6.1955, ông Trịnh Xuân Thanh qua đời trong một vụ tai nạn giao thông khó hiểu. Cái

chết quá đột ngột của người cha đã để lại những di chứng về tinh thần, những ám ảnh dai

dẳng trong tâm hồn cậu bé Sơn mới 15, 16 tuổi. Trong hồi kí, ông viết:

Thời thơ ấu, tôi luôn bị ám ảnh về cái chết. Trong giấc ngủ hằng đêm, tôi thường

thấy cái chết của ba tôi. Nỗi ám ảnh ấy chắc hẳn không bắt nguồn từ lớp dày tro bụi

của vô thức làm nên từ những cái chết của tổ tiên mà có lẽ từ những năm tù tra tấn

chết đi sống lại của ba tôi trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp..…Rõ

ràng là cái chết ấy được báo động qua một tâm hồn quá nhạy cảm của tuổi thơ. Ba tôi

mất đi khi tôi vừa mười lăm tuổi. Rất nhiều bài hát đầu đời của tôi đã phảng phất cái

không khí vắng lặng của sự mất mát. Càng về sau, lúc tiến dần về tuổi trưởng thành,

giữa bức xúc của cuộc sống, giữa những năm tháng buồn vui, nỗi ám ảnh ấy đã trở

thành lúc nào không hay ngọn nguồn của một nỗi lo âu thường trực về sự vắng bóng

con người [18; tr.133-134].

Người cha qua đời, chỗ dựa tinh thần và vật chất cũng mất đi. Mẹ ông phải cáng đáng

mọi việc, có lúc cả gia đình tưởng như chới với. Chính cái bi kịch gia đình đã khiến cậu bé

33

Sơn mất đi chỗ dựa tinh thần. Một tâm hồn quá nhạy cảm, non nớt đã sớm bị tổn thương,

chấn động. Từ đó, ám ảnh về cái chết, về sự mong manh của kiếp người đã theo riết Trịnh

Công Sơn cho đến lúc trưởng thành và cả sau này.

Như vậy, chúng tôi có thể kết luận: hoàn cảnh cá nhân, bi kịch gia đình Trịnh Công

Sơn thời thơ ấu là căn nguyên, khởi nguồn cho những ám ảnh có tính Hiện Sinh này. Qua

đây, chúng tôi cũng muốn đính chính lại một điều xưa nay đã ngộ nhận: liệu Trịnh Công

Sơn có bị “ảnh hưởng” bởi chủ nghĩa Hiện Sinh như một số nhà nghiên cứu, các công trình

trước đây đã đề cập?

Trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả trước đây, đa số đều dễ dãi mà cho

rằng Trịnh Công Sơn bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Hiện Sinh. Có lẽ họ cho rằng ông đã đọc

triết và văn học của các tác giả như Sartre, Camus… Để làm rõ vấn đề này, ta cần nhắc lại

những quan niệm chính của Hiện Sinh thuyết. Chủ nghĩa Hiện Sinh mang trong mình một

số chủ đề như cô đơn, tha hóa, phi lí, ám ảnh về thân phận, ám ảnh về cái chết… Những chủ

đề này ta bắt gặp trong ca từ và tư tưởng Trịnh Công Sơn, đặc biệt là sự ám ảnh về cái chết

và sự cô đơn.

Trong Hiện Sinh, cái chết đã trở thành một phạm trù được coi là kinh điển của học

thuyết này. Nhiều triết gia, văn gia đã đề cập đến cái chết của con người như Malraux,

Heiderger, Jasper. Ví dụ, Heiderger quan niệm con người như một “hữu thể” đang chết, là

hữu thể cho cái chết. Mặt khác, ông lại coi con người như một “dự phóng” và cái chết là dự

phóng cuối cùng kết thúc mọi dự phóng. Trịnh Công Sơn cũng thích đọc Hiện Sinh. Song ta

cần nhớ một mốc thời gian: từ năm 15 tuổi, khi ba mất, ông đã bị cái chết ám ảnh nặng nề.

Mà mới 15 tuổi thì cậu bé Sơn làm sao có thể tiếp cận được với Hiện Sinh thuyết - một thứ

triết lí vô cùng phức tạp và nhiều khuynh hướng? Có lẽ ông chỉ tiếp cận được Hiện Sinh khi

vào học ban triết ở Sài Gòn, tức là từ cuối 1958, lúc ông được 20 tuổi, như nhà nghiên cứu

Nguyễn Đắc Xuân viết: “Cuối 1958 anh rời Huế vào Sài Gòn học trọ trong nhà một người

bạn của thân sinh anh để đi học ban triết trường Jeas Jacques Rousseau” [37; tr.22].

Như vậy, chúng ta không thể quy chụp hay gán cho Trịnh Công Sơn cụm từ “ảnh

hưởng” hay “học tập” Hiện Sinh được. Làm như thế là không có căn cứ, cơ sở xác đáng.

Theo chúng tôi, cội nguồn đầu tiên của tiềm thức thân phận mong manh, cái chết, sự cô đơn,

nỗi lo âu trong Trịnh Công Sơn chính là biến cố trong gia đình: cái chết của người cha đã

dẫn đến những ám ảnh và sự mất phương hướng. Bi kịch ấy đã khiến cho một tâm hồn nhạy

cảm như cậu bé Sơn bị tổn thương, sang chấn nặng nề, như Nguyễn Đắc Xuân viết: “Đây là

34

cái biến cố lớn nhất đầu đời Trịnh Công Sơn và có ảnh hưởng sâu sắc trong sáng tác của anh

sau này” [37; tr.22].

Vậy phải lí giải như thế nào về mối quan hệ giữa tư tưởng Trịnh Công Sơn với chủ

nghĩa Hiện Sinh? Theo chúng tôi, giữa Trịnh và Hiện Sinh có một sự “gặp gỡ”, tương đồng

một cách ngẫu nhiên. Sở dĩ có sự giống nhau ấy là vì có sự tương đồng về bối cảnh lịch sử.

Hiện Sinh phát triển mạnh mẽ trong Đại chiến lần thứ hai. Nó là tiếng gào thét, phẫn nộ của

các triết gia, những trí thức về số phận bi đát, cùng thảm của con người bị chiến tranh chiết

tỏa và hủy diệt. Thông qua triết học và văn học, các nhà Hiện Sinh cất lên tiếng nói lương tri

nhằm thức tỉnh và đánh động lương tâm con người. Trịnh Công Sơn cũng sống trong thời

đại chiến tranh đế quốc nô dịch, âm mưu hủy diệt cả một dân tộc đã có bốn nghìn năm lịch

sử. Đó là điều vô cùng phi lí và phi nhân tính. Hiện thực ấy đã làm thương tổn một trái tim

nhân ái, yêu quê hương, yêu dân tộc như ông. Do đó, những tác phẩm âm nhạc đã thoát thai

như những tiếng kêu thống thiết, hòng thức tỉnh lương tri con người dân tộc. Giúp họ nhận

ra những âm mưu thâm độc của đế quốc, ý thức được sứ mệnh, vị thế của mình mà đứng về

phía lẽ phải, chọn cho mình một hành động dấn thân tích cực: thực hiện hòa hợp dân tộc,

cùng nhau ngăn chặn chiến tranh, thống nhất đất nước.

Mặt khác, tư tưởng Hiện Sinh có hai nội dung chính. Một là sự phản kháng, sự nổi

loạn, “tự do” của con người với lối sống ồn ào, gấp gáp. Hai là sự lo âu, trăn trở, của con

người với những “dự phóng”, kiếm tìm ý nghĩa, mục đích cao cả cho cuộc “dấn thân”. Như

thế, Hiện Sinh cũng có nhược điểm và ưu điểm. Trịnh Công Sơn không phải chịu ảnh hưởng

hay học tập, mà nói đúng ra, ông đã tiếp thu Hiện Sinh chân chính và phê phán cái Hiện

Sinh ồn ào thái quá. Ông nói:

Hiện Sinh chân chính đâu phải xấu. Mình cho rằng, bậc thượng thừa của Hiện

Sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát-na của cuộc

sống… khi con người mà thức tỉnh trong từng sát-na một thì chủ nghĩa Hiện Sinh

không là gì cả. Người này sống bình tĩnh trong từng sát-na chứ không phải sống theo

đời thường, theo kiểu Hiện Sinh sống vội sống vàng [32; tr.211].

Thêm một điểm khác giữa Trịnh và các triết gia Hiện Sinh: Trịnh và các nhà Hiện

Sinh cùng mang ý thức phản kháng, nhưng có sự khác nhau ở cách thức của sự phản kháng

ấy. Trịnh phản kháng một cách trầm tĩnh theo điệu lối của một con người uyên nguyên,

minh triết chứ không “ngang tàng” như Sartre hay Nietzsche…

Tóm lại, Trịnh Công Sơn đã tìm thấy mối tương đồng, cảm thông tư tưởng trong chủ

35

nghĩa Hiện Sinh, tất nhiên chỉ ở một khía cạnh nào đó. Ông đã tiếp thu những mặt tích cực

và phát triển nó lên, làm thăng hoa nó trong ca khúc của mình. Còn cội nguồn của quan

niệm về con người thân phận như cái chết, nỗi cô đơn, ám ảnh hư vô, vô thường… xuất phát

từ căn cơ, bản thể, bản chất, nó là cái “tạng” riêng của Trịnh Công Sơn mà những nguyên

nhân thì như chúng tôi đã phân tích trên đây, trong đó trực tiếp và đầu tiên là cái bi kịch gia

đình làm thương tổn một tâm hồn mong manh và nhạy cảm của ông thời niên thiếu.

1.4. Thế giới con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn

Nghệ thuật tái hiện hiện thực bằng những hình tượng, trong đó con người là hình

tượng trung tâm. Ca khúc Trịnh Công Sơn cũng không ngoại lệ. Con người vừa là trung tâm

để ngắm nhìn, soi rọi, nhìn nhận mọi thứ xung quanh, đồng thời cũng là nạn nhân của hoàn

cảnh chiến tranh. Tác phẩm của ông ra đời trong chiến tranh, với hệ thống nhân vật là cả

một thế giới đa dạng, đủ mọi hạng người, kiểu người khác nhau. Bằng bút pháp hiện thực,

ông đã vẽ lên một thế giới gồm những con người rất sinh động, sống động, cụ thể, trần trụi

như nó vốn có, mà không hề tô hồng, bôi đen hay lãng mạn hóa nó. Qua bức tranh hiện thực

trần trụi ấy, ý nghĩa phê phán, tố cáo chiến tranh bật lên, làm lay động đến lương tri con

người.

Do hạn chế dung lượng luận văn nên sau đây chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu về các

kiểu loại nhân vật trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn, bao gồm những hình tượng cụ thể:

người mẹ trong chiến tranh, người yêu - người vợ mất chồng, người già và trẻ em. Khái quát

hơn nữa là hình tượng con người tập thể, biểu trưng của quê hương, đồng bào, đồng loại và

hình tượng con người cá nhân, hiện thân tác giả.

1.4.1. Hình tượng người mẹ

Hình tượng người mẹ trong các ca khúc Trịnh Công Sơn không giống như người mẹ

được tái hiện trong các ca khúc cách mạng. Nếu trong ca khúc cách mạng, người mẹ được

miêu tả như là những người phụ nữ thủy chung, chịu đựng, chờ chồng con đi kháng chiến

với niềm hi vọng tương lai đất nước độc lập, gia đình đoàn tụ. Thì ngược lại, người mẹ

trong ca từ Trịnh Công Sơn được khắc họa là những con người buồn tủi, xót xa về thân

phận quê hương, bởi chiến tranh đã mang đi những đứa con yêu - mầm sống và là niềm hi

vọng, mục đích của đời mẹ.

Người mẹ hiện lên trong các ca khúc dưới nhiều hoàn cảnh, góc độ khác nhau, cũng có

thể với những dáng vẻ khác nhau, song đều có một điểm chung: tâm trạng trĩu buồn, mang

36

nặng những tâm sự của thời đại đau thương, chinh chiến liên miên.

Ca dao mẹ khắc họa hai hình ảnh mang tính đối lập. Đầu tiên là hình ảnh mẹ trầm

buồn khi đong đưa cánh võng ru con từ tuổi con còn trong nôi:

Mẹ ngồi ru con

Đong đưa võng buồn, đong đưa võng buồn

Mẹ ngồi ru con, mây qua đầu ghềnh

Lạy trời mưa tuôn, lạy trời mưa tuôn

Cho đất sợi mềm, hạt mầm vun lên

Mẹ ngồi ru con, nước mắt nhọc nhằn, xót xa đời mình.

(Ca dao mẹ)

Dáng mẹ trầm tư. Thẳm sâu trong thâm tâm, mẹ mong cho “đất sợi mềm, hạt mầm vun

lên”, mong trời đất an lành, cây cối tốt tươi, đời sống sinh sôi, để con mình được lớn lên

trong điều kiện, môi trường bình an ấy. Nhưng trong dáng trầm tư của người mẹ ấy, ta bắt

gặp một thoáng lo âu bất chợt. Mẹ nhận ra dường như mình đã không đúng lắm, khi sinh

con vào cái thời buổi chiến tranh loạn lạc này:

Mẹ nhìn quê hương, nghe con mình buồn

Giọt lệ ăn ăn, giọt lệ ăn năn

Đưa con về trần, tủi nhục chung thân

Một dòng sông sâu, cuốn mãi về trời, bấp bênh phận người.

Mắt mẹ đã nhỏ những “giọt lệ ăn năn”. Dường như mẹ cảm thấy có điều gì đó ân hận

vì sự sinh nở của mình. Mẹ ngờ ngợ như mình đã sai lầm, bởi vì “đưa con về trần”, sinh ra

con, yêu thương con mà mình lại bất lực, không có khả năng bảo vệ được đứa con yêu, để

con vướng phải “tủi nhục chung thân”. Lòng mẹ thấp thoáng lo âu, bởi “nhìn quê hương”,

mẹ thấy con còn nhỏ, mà thế giới xung quanh đầy rẫy những bom đạn, binh đao của quân

xâm lược: “tuổi còn bơ vơ, thế giới hận thù /chiến tranh ngục tù”. Hóa ra chiến tranh, ngục

tù, thù hận của con người trong thế giới này là thứ làm cho mẹ hoang mang lo sợ. Nó là thứ

“tủi nhục chung thân” đày đọa con mình. Quả thật là “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng

kiếp người”. Ca từ đã vẽ lên một tâm trạng bất an, phấp phỏng, lo âu của người mẹ trước

thực tại.

Cuộc chiến nổ ra, leo thang lên đến đỉnh điểm. Hỏa châu đã đốt lửa quê hương. Con

của mẹ nay không còn trong nôi với lời ru ầu ơ, không còn chập chững bước đi từng bước,

in nét cười lên mắt mẹ nữa. Đàn con nay đã lớn. Mẹ những tưởng sẽ được an nhàn vui bên

37

con cháu. Nhưng chiến tranh ập đến, cướp đi của mẹ cái hạnh phúc đơn sơ ấy. Rồi cái ngày

mẹ lo âu, dự cảm ấy, nay đã ứng nghiệm. Mẹ như chết lặng, sững sờ khi hay được hung tin:

con tử nạn. Người ta đưa xác con về:

Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người

Tôi đã thấy, tôi đã thấy, bên khu vườn

Một người mẹ ôm xác đứa con

Mẹ vỗ tay reo mừng xác con, chị vỗ tay hoan hô hòa bình.

(Hát trên những xác người)

Một cảnh tượng chết chóc trong chiến tranh hiện lên chân thực, sao mà trần trụi đến

thế. Tác giả đã chụp được một bức ảnh bằng ca từ. Không cần thêm thắt. Không cần cắt xén.

Cũng không cần nói thêm điều gì nữa. Tự cảnh tượng ấy đã nói lên tất cả: bên khu vườn,

một người mẹ già đang ôm xác đứa con chết bom đạn.

Có một hình ảnh lạ: “mẹ vỗ tay reo mừng xác con”. Tại sao mẹ lại reo mừng? Câu hỏi

ấy, hình ảnh ấy cứ ám ảnh, theo riết người đọc mãi. Thì ra, cái “reo mừng” ấy không phải là

sự reo mừng theo thể lối đoàn viên thông thường. Mà đó là biểu hiện của sự đau đớn. Đau

đớn đến tột cùng, tột độ. Đến mức vượt quá ngưỡng chịu đựng thần kinh của con người mà

hóa ra tâm thần, điên loạn. Cái vỗ tay ấy là biểu hiện của trạng thái bấn loạn thần kinh,

không còn ý thức được nữa. Mẹ vỗ tay mà không biết mình vỗ tay. Mẹ reo mừng mà lòng

mẹ đã hóa đá. Mắt hoen mờ vì đã khóc quá nhiều, nên giờ đây mẹ than khóc mà không

thành tiếng. Chỉ còn là những tiếng ú ớ, với dáng vẻ vật vờ sao mà nghe quặn thắt. Cảnh

tượng đau xót ấy, nguyên mẫu là bức tranh kinh hoàng trong chiến dịch Mậu Thân, khi giặc

Mỹ ném bom rải thảm lên quê hương đau nặng xứ Huế, khiến hàng nghìn người chết. Song,

trên đất nước Việt Nam này, đã có rất nhiều những cảnh tượng thương tâm như thế nữa. Rồi

cuối cùng, mẹ - người phụ nữ cam chịu, hi sinh muôn đời ấy, đành nín lặng mà đón nhận tất

cả những mất mát, hoang vu về phận mình.

Đến giai đoạn cuối cuộc chiến, hiệp định được kí kết, mở ra một cơ hội hòa bình, một

tương lai cho đất nước nhỏ bé đã quá nhiều đau thương này. Tiếng súng đã ngớt dần, đã

lắng xuống trên những chiến trường. Ánh hỏa châu cũng thôi đốt lửa những ngôi làng. Đại

bác cũng không còn “đêm đêm dội về thành phố” nữa. Một mặt trời đã khai sinh, tỏa những

tia sáng đầu tiên lên mảnh đất quê hương sau hai mươi năm chìm trong khói lửa. Rồi chiến

tranh chấm dứt. Nhân dân ca khúc khải hoàn mừng ngày chiến thắng. Cả rừng người cùng

với cờ hoa chào đón những người con, người chồng trở về. Trong cái ngày hòa bình ấy, mẹ

38

bước ra cửa, ra phố xá ngập người ngoài kia để vui chung với niềm vui mọi nhà. Và quan

trọng hơn, mẹ đang mong ngóng chồng con trở về. Thế nhưng đợi hoài đợi mãi cũng không

thấy người thân của mẹ đâu. Trong khi ngoài phố xá hay bên xóm giềng, tiếng cười nói,

đoàn tụ đã xôn xao. Một thoáng âu lo hiện trên nét mặt mẹ:

Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui

Mẹ hãy ra xem đường phố ngập người

Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ buồn như kinh

Lời kinh đêm ru căn nhà lạnh, ru me một mình

Ru mẹ một mình ôm bóng đêm.

(Sao mắt mẹ chưa vui)

Đợi hoài, đợi mãi. Mắt đã nhòa lệ, mẹ khóc không thành tiếng. Mẹ khóc mà tiếng lặn

vào trong. Mẹ đã nhận ra: chiến tranh đã mang đi của mẹ tất cả. Những người con trai.

Những người con gái. Người chồng nữa. Một không khí u ám, nặng nề, chùng chùng trùm

lên ngôi nhà nhỏ. Bóng tối vây quanh. Phủ kín gian phòng. Phủ kín hõm mắt mẹ, phủ kín cả

quãng đời còn lại của mẹ nữa. Không tiếng cười, tiếng nói. Chỉ còn “lời kinh đêm ru căn

nhà lạnh/ru mẹ một mình ôm bóng đêm”. Mẹ “ôm bóng đêm” nghĩa là ôm lấy hư không và

phiền muộn. Mẹ cô đơn với quãng đời còn lại, trong khi ngoài kia phố xá ngập người. Tác

giả đã đối lập con người cá nhân với không gian tập thể để thấy được, mẹ là hiện thân của

sự chịu đựng. Lãnh nhận hết những đớn đau, muộn phiền, thiệt thòi về phận mình mà không

kêu than. Người mẹ như thế, ta có thể gặp bất cứ nơi đâu ở thời hậu chiến trên đất nước này.

Hình tượng người mẹ đôi khi được tác giả khái quát, nâng lên, không còn là người mẹ

cụ thể bằng da bằng thịt nữa, mà trở thành biểu tượng, tượng trưng cho đất nước, cho cả một

dân tộc bốn ngàn năm sử lịch bấy giờ đang chìm trong thân phận khói lửa điêu linh. Người

mẹ thân phận ấy là tổ quốc, nòi giống Tiên Rồng:

Đứa con của mẹ da vàng

Ru con, ru đạn nhuộm hồng vết thương

Hai mươi năm đàn con đi lính, đi rồi không về,

Trên môi vang vọng một lời đau thương

Hai mươi năm đàn con khôn lớn

Ra ngoài chiến trường, đứa con da vàng Lạc Hồng.

(Ngủ đi con)

39

Chữ da vàng được sử dụng thật khéo. Nó có tính khái quát, mang ý nghĩa phản tỉnh,

đánh động tâm hồn rất sâu sắc. Tác giả gọi “đứa con da vàng” là muốn chỉ rõ cho con người

thấy: họ là người cùng thuộc một chủng tộc, màu da, cùng chung Tổ quốc, chung nguồn gốc

Tiên Rồng, “đứa con da vàng Lạc Hồng”. Vậy hà cớ gì họ không yêu thương, đoàn kết cùng

nhau chống ngoại bang, bảo vệ đất Mẹ. Mà có người lại nghe theo lời xiểm nịnh của đế

quốc, làm nô lệ cho chúng, cầm vũ khí chống lại đồng bào mình. Khiến cho “đạn nhuộm

hồng vết thương”, cho Mẹ hiền đau đớn, than khúc bi ai “trên môi vang vọng một lời đau

thương”?

Người mẹ trong ca khúc là hình tượng của đất nước Việt Nam quặn đau, chìm trong

khói lửa. Với ca khúc này, Trịnh Công Sơn đã gửi đến một thông điệp phản tỉnh, muốn anh

em nhận mặt nhau, xóa bỏ thù hằn để cùng nhau gánh vác sứ mệnh cao cả: đánh đuổi đế

quốc, thống nhất đất nước. Sinh thời, kể cả trong giai đoạn chiến cuộc cũng như trong đời

sống thời bình sau này, điều mà Trịnh sợ nhất là thái độ cừu hận, thù hằn giữa con người với

con người. Chính điều đó làm con người ta xa nhau, như ông đã từng nói: “Đừng mơ mộng

trên xương máu. Chưa bao giờ tôi nghe được một tiếng hát nói về sự sinh nở tốt đẹp của hận

thù” [18; tr.41].

Tóm lại, hình tượng người mẹ trong ca khúc Trịnh Công Sơn được tái hiện dưới nhiều

khía cạnh khác nhau. Khi là người mẹ ru con, khi là người mẹ ôm xác con mà hóa điên. Có

lúc lại ôm bóng đêm vò võ, cô đơn trong thời hậu chiến. Lúc là người mẹ cụ thể, có lúc ẩn

dụ cho quê hương, dân tộc. Song tất cả đều có một điểm chung, đó là mất mát, đau thương.

Cái mất mát đau thương ấy là không thể bù đắp lại được. Như thế, người mẹ đã trở thành

một thân phận - thân phận chịu đựng nỗi đau, mất mát mà nguyên nhân là cuộc chiến tranh

phi nghĩa do đế quốc Mỹ gây ra.

1.4.2. Hình tượng người yêu - người vợ mất chồng

Hình tượng người phụ nữ như người yêu, người chị, người vợ mất người thân trong

chiến tranh được Trịnh Công Sơn tái hiện không nhiều so với hình tượng người nữ trong

mảng ca khúc về tình yêu. Hơn nữa, hình tượng người phụ nữ được miêu tả lẻ tẻ, không tập

trung vào một tác phẩm mà hiện lên bên cạnh các hình tượng khác như người mẹ, người già,

trẻ em, người dân chết trận… Theo khảo sát của chúng tôi, chỉ có hai ca khúc khắc họa tập

trung và rõ nét nhất hình tượng loại này, đó là Người con gái Việt Nam da vàng (1965) và

Em đi trong chiều (1969).

40

Người con gái Việt Nam da vàng tái hiện hình tượng nữ - em, người con gái Việt Nam

truyền thống, có tình yêu trong sáng vô ngần với quê hương. Nhưng thật trớ trêu và bi thảm,

em lại trở thành nạn nhân của đạn bom và lìa cõi sống khi giấc mơ quê hương thanh bình

còn dang dở. Đầu tiên là giấc mơ quê hương:

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương nước mắt lưng dòng

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương nên yêu người yếu kém

Người con gái ngồi mơ thanh bình

Yêu quê hương như đã yêu mình.

(Người con gái Việt Nam da vàng)

Hình ảnh so sánh thật dung dị, thật thanh khiết và thiêng liêng: em “yêu quê hương

như yêu đồng lúa chín”. Em sinh ra trên mảnh đất quê hương, em lớn lên cùng hồn lúa,

cùng dòng sông trôi những lời phù sa lặng lẽ. Mỗi buổi sáng, em bước ra đồng, hương lúa

trổ đòng đòng quyện vào sương mai chớm lạnh gửi đi trong lời gió. Cơn gió thoảng lời tự

tình, đem hương lúa đến khắp muôn nơi. Hương lúa phả vào đồng. Hương lúa phả vào làng,

quấn lấy hồn người những mùi quen thuộc. Thời gian thấm thoắt, rồi đồng lúa uốn câu,

cong cong dáng điệu đưa mùa về. Những cánh đồng lúa chín trĩu nặng thơm bông, những vụ

mùa sắc vàng rơi rơi phản chiếu một hồn quê thao thiết. Em lớn lên từ đó. Em thay hình đổi

dáng thành người thiếu nữ, người con gái Việt Nam qua những mùa lúa xanh, những mùa

lúa chín. Tình yêu quê hương trong em thành hình từ đó. Nhưng thình lình, như một cơn đại

họa của quê hương: chiến tranh bước tới với bom đạn chập chùng, cướp đi của em giấc mơ

thanh bình, lấy đi của em cả cái tình yêu, tuổi trẻ với ước mơ được đi trên đường làng, hát

một làn điệu ca dao dung dị của cha ông:

Em chưa biết quê hương thanh bình

Em chưa thấy xưa kia Việt Nam

Em chưa hát ca dao một lần

Em chỉ có con tim căm hờn.

“Em chưa thấy xưa kia Việt Nam”, bởi nước Việt trong quá khứ là một đất nước thanh

bình với những con người mang khuôn mặt hồn hậu, yêu hòa bình và tự do. Em chưa thấy

41

nước Việt xưa có một bản sắc văn hóa đa dạng, với những làn điệu ca dao, những điệu hò

sông nước man mác, những khúc hát yêu đương mênh mang vời vợi. Xưa kia nước Việt ẩn

mình dưới lũy tre xanh, thanh bình là thế. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Còn hiện thực: “em

chỉ có con tim căm hờn”, bởi mây đen chiến tranh đã phủ bóng lên trời quê hương. Nghiệt

ngã và đau đớn hơn:

Người con gái một hôm qua làng

Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng

Người con gái chợt ôm tim mình

Trên da thơm, vết máu loang dần.

Chiến tranh cướp đi của em không những giấc mơ thanh bình, mà còn cả sinh mệnh

em nữa, “trên da thơm vết máu loang dần”. Chữ loang thật ấn tượng: nó gợi liên tưởng về

cái lan tỏa khủng khiếp của chiến tranh, sự chất chồng của xương, sự loang lổ của máu…

Thật oan khiên, nghẹn ngào và đau xót đến nhường nào. Em trong lúc hấp hối đã “chợt ôm

tim mình”, biết con tim mình còn bao nhiêu ước mơ, dự định hoa trái đầu mùa của đời

nhưng đành bất lực mà bỏ lại, xa lìa kiếp sống: “Người con gái Việt Nam da vàng/mang

giấc mơ quê hương lìa kiếp sống”. Cái chợt ôm tim mình ấy, không bởi sự đớn đau thân xác,

mà bởi sự nuối tiếc giấc mơ còn dang dở. Thế là từ nay em muôn đời nằm xuống, “đất

hoang vu đã khép lại hẹn hò”. Đồng lúa, ngọn núi, dòng sông hát lên những lời ai điếu

hoang vu cuối cùng đưa tiễn em, một con người mà thân xác sắp cập bờ hư vô, nhưng tình

yêu quê hương, lòng yêu đời và khát sống thì mãi ở lại cùng thời gian:

Ôi cái chết đau thương vô tình

Ôi đất nước u mê ngàn năm

Em đã đến quê hương một mình

Riêng tôi vẫn âu lo đi tìm.

Chữ u mê trong đất nước u mê ngàn năm thật đầy sức mạnh tố cáo. Không phải tác giả

nói đất nước u mê, mà ông có ý chỉ rõ: một số người trên đất nước này sao vẫn còn u mê,

mê lầm, nhận gươm giáo của đế quốc mà đi chém giết, sát hại đồng bào, khiến quê hương

đổ máu, khiến đất Mẹ buồn tủi. Viết những ca từ máu lệ như thế, không gì khác hơn, Trịnh

Công Sơn muốn đánh động lương tâm, thức tỉnh bản ngã những con người trong cuộc chiến

đang mê lầm, chống lại đồng bào mình.

Cái chết của em là một thân phận. Một thân phận điêu linh, một kết cục bi kịch. Cái

42

chết của em đã đánh động lòng tôi - tác giả, một con người nhạy cảm với những nỗi đau,

mất mát. Từ đó trong tôi, thấp thoáng bóng dáng những nỗi “âu lo”, trăn trở, đi tìm khuôn

mặt quê hương, đi tìm lại bóng dáng nước Việt xưa trong quá khứ, một dân tộc nhân bản,

một giống nòi hiển linh đã có bốn ngàn năm sử lịch.

Hình tượng Người con gái Việt Nam da vàng còn được hiểu ở một cấp độ cao hơn:

hình tượng ấy tượng trưng cho một nước Việt đau thương, chìm trong khói lửa chiến tranh

cùng với nỗi lo âu, trăn trở cho thân phận quê hương của tác giả.

Ca khúc thứ hai tái hiện trọn vẹn hình tượng người nữ mất người yêu, người thân trong

chiến tranh là Em đi trong chiều.

Không gian, thời gian, cảnh vật trong tác phẩm hiện lên thật ám ảnh và cũng thật đặc

biệt. Một buổi chiều, “em đi qua cầu” trong khung cảnh rờn rợn của màu khăn tang trắng

xóa khung chiều:

Em đi qua cầu, có gió bay theo

Thổi bùng khăn tang, trắng giữa khung chiều.

(Em đi trong chiều)

Em - người nữ là nhân vật trung tâm trong cảnh chiều, có lẽ đang tiễn đưa người yêu

hay người chồng qua đời bởi chiến tranh. Trong chiến tranh, cảnh như thế cũng bình thường

thôi. Nhưng đặc biệt ám ảnh người đọc ở đây là cái thổi bùng khăn tang/trắng giữa khung

chiều. Những cơn gió chiều thổi nhẹ vào vùng khăn tang, làm bùng lên cả một màu trắng

choán ngợp không gian. Một màu trắng. Màu trắng tang tóc. Màu trắng bi thương. Trắng

đến rợn người. Con người xấu số kia đã nằm xuống với đất muôn đời, nhưng nỗi đau thì còn

vương trong hồn người ở lại: “Em đi qua cầu,có lá xôn xao/một dòng sông sâu, chở hồn

thương đau”.

Nhịp cầu, cây lá xôn xao đồng cảm với nỗi mất mát của em. Dòng sông sâu kia có

“chở hồn thương đau”? Hay nỗi đau của em đủ để chất chứa, lấp đầy, đong đầy cả một dòng

sông sâu? Một thân phận tiễn đưa một thân phận. Dòng sông là chứng nhân. Cây cầu là

chứng tích. Cây lá cất lên lời ai điếu, xót thương người xấu số, và cũng thương cho kẻ ở lại

khổ đau với những tháng ngày dằng dặc phía trước:

Em đi qua cầu, chở chiều trên vai

Ngậm buồn trên môi, trái tim đã hoài

Một ngươi nằm xuống, một người nơi đây.

“Một người nằm xuống/một người nơi đây”. Người nằm xuống thì đã im bặt, yên nghỉ

43

với đất muôn đời trong nghĩa địa hoang vu, làm bạn với rong rêu, với loài chim muông hót

lời sầu não. Người nằm xuống thì đã vĩnh viễn về cội nguồn, về với cõi hư không từ độ.

Nhưng còn “một người nơi đây”? Em lặng im bước đi. Không cất lên điệu sụt sùi hay than

van, than khóc nào. Bởi lẽ, tim em “đã hoài”, đã thành lệ đá tịch lặng. Nỗi đau đã chất ngất.

Nước mắt cũng đã cạn dòng. Em vẫn bước đi: “Em đi trong chiều, một đời khôn nguôi/một

đời riêng ai, mong ai”.

Em bước đi trong chiều vàng vọt. Tiếng súng vẫn còn vang theo. Em bước đi mà lòng

mông lung, nặng trĩu về một tương lai mờ mịt, xa vắng.

Hình tượng người nữ trong Em đi trong chiều biểu hiện một thân phận chiụ đựng mất

mát mà nỗi đau đã hóa đá. Hình ảnh cơn gió “thổi bùng khăn tang, trắng giữa khung chiều”

làm chúng ta đau nhói mà nhớ lại cảnh bi thương của đồng bào trong tết Mậu Thân (1968):

những cái chết tập thể, những ngôi mồ, đám tang tập thể với những vùng khăn tang trắng

xóa cả trời chiều. Một cận cảnh chân thực hết sức, thật ám ảnh mà cũng thật hiếm có trong

lịch sử bi thương của dân tộc.

Nếu ở Em đi trong chiều là nỗi bất hạnh của người phụ nữ mất người yêu, thì trong

Sao mắt mẹ chưa vui, hình tượng người vợ có chồng đi chiến đấu được khắc họa với nỗi cô

đơn, ngậm ngùi trong ngày hòa bình mà chồng đã không về:

Đêm nay hòa bình sao mắt chị chưa vui

Chị hãy ra xem đường phố ngợp người

Đêm nay hòa bình sao chị còn bâng khuâng

Chị ru con sao ru lạnh lùng

Ru cha bỏ mình, ru đời chỉ còn mẹ với con.

(Sao mắt mẹ chưa vui)

Trong không khí náo nức vỡ òa cảm xúc của người dân trên phố phường vừa giải

phóng, ta bắt gặp những khuôn mặt người vợ đợi chồng về với vẻ “bâng khuâng”, mong

ngóng. Nhưng ngày lại ngày, tin tức vẫn bặt tăm. Chị hiểu ra: chồng mình đã không về. Nỗi

buồn tủi, ngậm ngùi chen lẫn trong lời ru, “chị ru con sao ru lạnh lùng”. Từ nay, trong căn

nhà lạnh lẽo này, chỉ còn “mẹ với con”.

Người phụ nữ mòn mỏi chờ chồng, đó là một hiện thực đau buốt của đất nước ta sau

chiến tranh. Tiếng súng đã ngừng nổ, chiến trường đã thành những cánh đồng xanh tươi.

Song vết thương thời hậu chiến vẫn còn đó, vẫn dai dẳng, kết thành nỗi cô đơn dằng dặc của

những phụ nữ góa bụa.

44

Hình tượng người yêu, người vợ, người phụ nữ trong chiến tranh hiện lên lúc đậm, lúc

nhạt. Khuôn mặt, bóng dáng họ bảng lảng trong ca khúc Trịnh Công Sơn. Họ là hiện thân

của những số phận mất mát, cô đơn. Vẽ nên những khuôn mặt đau thương ấy, Trịnh Công

Sơn thể hiện sự đồng cảm với những thân phận, đồng thời ông muốn phát đi thông điệp lên

án, tố cáo, phản đối cuộc chiến tranh phi nhân đã gây nên thảm cảnh này cho con người trên

quê hương ông.

1.4.3. Hình tượng người già và trẻ em trong chiến tranh

Trong chiến tranh, dưới sự hủy diệt của đạn bom, có những đối tượng vô tội nhất bởi

họ không có khả năng phản kháng, hay trốn chạy khỏi những hiểm nguy ập xuống trên đầu,

đó là người già và trẻ em. Trong ca từ Trịnh Công Sơn, hình tượng người già và trẻ em được

nhắc đến khá nhiều, như là những thân phận chịu đựng, thậm chí bị hủy diệt sinh mạng.

Trong đó, có ba tác phẩm tập trung phản ánh rõ nét hơn cả: Người già (và) em bé, Đại bác

ru đêm, và Một buổi sáng mùa xuân.

Người già em bé đưa người đọc người nghe đến với những thân phận mà có lẽ trong kí

ức về chiến tranh, chúng ta đã bắt gặp họ ở đâu đó:

Ghế đá công viên dời ra đường phố

Người già co ro, chiều thiu thiu ngủ

Người già co ro, buồn nghe tiếng nổ

Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi.

(Người già em bé)

Cảnh đường phố thật xộc xệch, lộn xộn: những ghế đá trong công viên được đưa dàn

bày ra đường phố để ngăn cản quân giặc vào đô thị. Người già với tâm trạng mệt mỏi, bơ

phờ vì thức trắng đêm để lo di tản đang “co ro” thiu thiu ngủ. Những tiếng nổ từ xa dội về,

dội cả vào giấc mơ chập chờn, đứt đoạn. Đó chỉ là hình ảnh đáng buồn, còn hình ảnh đáng

thương nhất là: “em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi”. Em bé được tái hiện trong trạng thái “lõa

lồ”, không một manh áo, đang khóc tức tưởi bước đi trên đường phố hoang tàn. Tại sao em

lại “lõa lồ khóc tuổi thơ đi”? Có thể do chiến tranh đốt cháy nhà cửa, đốt cháy ngay cả manh

áo em đang mặc, thành ra em “lõa lồ”. Cũng có thể bom đạn đã cướp đi cha mẹ, người thân.

Em sớm mồ côi, nghèo khổ, phải lang thang, một manh áo che thân cũng không có nên “lõa

lồ”. Tuổi thơ em lớn lên bằng tiếng khóc. Đó là thứ tuổi thơ dữ dội. Em đã bị chiến tranh

tước đoạt, cướp đi cái tuổi thơ trong sáng, vô tư mà đáng lẽ em có được.

45

“Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi”, một hình ảnh gợi nhớ. Bức tranh thơ của Trịnh gợi ta

nhớ đến hình ảnh em Kim Phúc trong trạng thái “lõa lồ” chạy loạn, kêu khóc thảm thiết vì

trúng bom napal. Bức ảnh đã đi vào lịch sử dân tộc và thế giới, là minh chứng cho sự tàn

khốc của chiến tranh, làm kinh hoàng và đánh động đến lương tri nhân loại. Nó cho thấy sự

tàn bạo, phi nhân của chiến tranh xâm lược đối với sinh mệnh con người. Bức tranh ấy là

một thân phận, một bi kịch của tinh thần nhân văn và lương tri thời đại. Nó có giá trị tố cáo,

lên án mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Ghế đá công viên, người già co ro, em bé lõa lồ là những cảnh thực, rất chân thật, thật

đến mức trần trụi. Trịnh Công Sơn bằng bút pháp hiện thực - tả chân, đã kịp ghi lại những

cảnh, những người mà ông đã chứng kiến trong cuộc chiến tranh. Không tô hồng. Không

bôi đen. Hiện thực hiện lên xù xì, thô ráp như nó vốn có.

Khác Người già em bé, Một buổi sáng mùa xuân lại chỉ tập trung tái hiện một hình

tượng duy nhất: em bé trong chiến tranh. Một buổi sáng mùa xuân là ca khúc thiên về lối tả

chân hơn là kì ảo. Không cần gọt rũa ngôn ngữ cầu kì. Ca từ rất thực, như giọng kể lể về

một sự kiện xác thực mà ông chứng kiến:

Một buổi sáng mùa xuân, một đứa bé ra đồng

Đạp trái mìn nổ chậm, xác không còn đôi chân

“Xác không còn đôi chân”. Kể về cái chết thương tâm của một con người mà sao lời

kể trần trụi, bình thản, dửng dưng đến lạ lùng. Rồi như một nhà quay phim, ông đưa gần

ống kính, chụp cận cảnh, để cái chết ấy thực hơn, sống động hơn:

Một buổi sáng mùa xuân, ngực đứa bé tan tành

Ngàn hoa đồng cỏ nội, cúi xuống nhìn con tim.

Hóa ra, câu chuyện là, một buổi sáng mùa xuân đẹp trời, ánh nắng chói chang phả

xuống đồng, một em bé hồn nhiên, chân sáo tung tăng ra đồng. Bỗng em “đạp trái mìn nổ

chậm” và hậu quả thực thảm khốc: ngực tan tành, máu đầm đìa cỏ đất.

Cái hay trong lối miêu tả và biểu cảm là câu “ngàn hoa đồng cỏ nội/cúi xuống nhìn

con tim”. Tại sao hoa cỏ đồng nội lại cúi xuống nhìn con tim? Thủ pháp nhân hóa được vận

dụng, phát huy hiệu quả tối đa: hoa cỏ đồng nội đã cúi nhìn, biểu lộ một nỗi thương xót,

thương tiếc cho thân phận em bé bất hạnh. Hoa cỏ đã cúi nhìn, khua lá, gục cành bên xác

nạn nhân. Lặng im trong im lặng. Để trầm tư, thấu suốt một nỗi đau xanh ngời. Để ru hồn

người đã mất. Loài hoa cỏ vô tri kia còn biết đau xót, cúi nhìn hiện hữu, cúi nhìn phận

người, bày tỏ sự thương xót một cách trân trọng. Còn con người - những người thả mìn, gây

46

ra cái chết tức tưởi kia thì lương tâm họ để đâu? Tòa án nào sẽ phán xử họ? Cái chất “phản

chiến”, tố cáo tội ác chiến tranh trong ca từ Trịnh Công Sơn bật lên từ cái lối miêu tả ấy.

Em bé đã chết, cái chết của em trớ trêu như một nghịch cảnh: “Một buổi sáng mùa

xuân, một đứa bé yên nằm/bàn tay cầm cỏ dại, có hoa vàng mong manh”. Ta chú ý đến thời

gian, một buổi sáng mùa xuân. Đáng lẽ mùa xuân là mùa hạnh phúc. Đáng lẽ mùa xuân

cùng hoa cỏ, mặt trời nở rạng trong ánh mắt em màu hồn nhiên và hi vọng. Nhưng trớ trêu

thay, buổi sáng ấy lại là một buổi sáng định mệnh. Mùa xuân ấy lại là mùa xuân hấp hối.

Mùa xuân không nở hoa trên tuổi xanh. Mà mùa xuân đạn bom đã nhuộm máu và phủ bóng

hư vô lên phận người. Trong lúc lìa trần, em vẫn “bàn tay cầm cỏ dại/có hoa vàng mong

manh”. Em vẫn hồn nhiên mơ ước một mùa xuân đích thực. Em đâu ngờ phận mình cũng

như đóa hoa vàng “mong manh” trên tay đang nắm chặt kia! Tiếp theo, vẫn là cái chết của

em:

Một buổi sáng mùa xuân, một đứa bé im lìm

Bờ môi dường thầm hỏi, có thiên đường hay không.

Nhưng hơi lạ. Lạ ở câu “bờ môi dường thầm hỏi”. Em bé hỏi? Không. Bởi em đang

hồn nhiên vui chơi kia mà. Em đâu ngờ cái chết đến với mình quá thình lình như thế đâu.

Em cứ nghĩ trần gian, nơi em sống là thiên đường kia. Vậy thì cần gì phải đi tìm chốn thiên

đường nào nữa. Em không hỏi, mà chính chúng ta, những người có lương tri mới bàng

hoàng, tự hỏi lại mình: có thiên đường hay không? Và nếu có thiên đường ở chốn xa xôi nào

đó thì hẳn trần gian này chính là địa ngục. Nó vốn dĩ không phải địa ngục, nhưng chính

“đường kiếm mưu đồ” của những kẻ gây chiến tranh phi nhân chống lại con người, chống

lại dân tộc này đã biến mặt đất mùa xuân thành địa ngục. Một thứ địa ngục trần gian. Khiến

bài học về tình yêu thương em vừa mới học được từ thầy cô cũng trở nên vô nghĩa, trống

rỗng:

Em thơ ơi, chiều nay trường học lại

Trong sân chơi, bạn và thầy im lời

Bài học về yêu thương trên trang giấy mới

Sao hôm nay nét mực đã phai.

Toàn bộ ca từ là một bài thơ lệ huyết. Một bi kịch về thân phận trẻ em - những thân

phận mong manh, yếu ớt, bất khả đối kháng, chống chọi với những âm mưu, toan tính

cuồng điên quỷ loạn của những kẻ thực dân, đế quốc xâm lược .

Đại bác ru đêm đưa người đọc đến với những âm thanh, tiếng đạn bom, thứ âm thanh

47

thường ngày, quá đỗi quen thuộc với con người trong thời chiến. Tiếng đại bác như một sự

định kì, lặp đi lặp lại đều đặn vào mỗi đêm khuya:

Đại bác đêm đêm dội về thành phố

Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình

Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng!

Từng đêm chong sáng, là mắt quê hương.

(Đại bác ru đêm)

Cùng một tiếng đại bác, nhưng lại được các chủ thể cảm nhận khác nhau. Người phu

quét đường có lẽ đã quá quen thuộc với thứ âm thanh gầm rít tử thần ấy rồi, nên chỉ dừng

chổi đứng nghe, thản nhiên. Không một cảm giác giật mình hay hoảng hốt. Còn người già

và em thơ, khả năng thích nghi, chịu đựng kém hơn. Nên âm thanh ấy đã kinh động, “đánh

thức mẹ dậy”, và khiến “con thơ giật mình”.

Sự ám ảnh của chiến tranh lên đời sống trẻ em được biểu hiện qua câu:

Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng

Đại bác như kinh không mang lời nguyện

Trẻ thơ quên sống, từng đêm nghe ngóng.

Một so sánh lạ và độc đáo: “đại bác như kinh không mang lời nguyện”. Kinh có lời

nguyện thì mới nhiệm màu, đem đến bình an cho người cầu. Còn tiếng đại bác xé toang màn

đêm kia chỉ là thứ kinh “không mang lời nguyện”. Đó là thứ kinh-âm thanh kinh hãi và chết

chóc, khiến “tương lai rụng vàng”, khiến “trẻ thơ quên sống”. Cụm chữ trẻ thơ quên sống

diễn đạt thật chân xác trạng thái tâm lí em thơ: sống mà lúc nào tâm trạng cũng nơm nớp lo

âu, phấp phỏng, lúc nào thần kinh cũng căng thẳng quá mức vì kinh sợ, hãi hùng thì cái

sống ấy chưa được coi là sống mà chỉ là sự quên sống - một sự tồn tại, chịu đựng không hơn

không kém.

Như vậy, hình tượng người già và trẻ em được tái hiện như là những thân phận chịu

đựng sự tàn khốc của chiến tranh, trong đó trẻ em, đối tượng yếu ớt và cần được che chở

nhất không chỉ phải chịu đựng, ám ảnh, mà còn là nạn nhân bị hủy diệt. Với lớp ca từ tả

chân, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức tranh sinh động, ấn tượng về người già và trẻ em -

những đối tượng vô tội trong chiến tranh xâm lược.

48

1.4.4. Hình tượng con người tập thể, quê hương, đồng bào, đồng loại

Trong gia tài ca khúc Trịnh Công Sơn, bên cạnh những tác phẩm viết riêng cho một

kiểu con người cụ thể (rất ít), thì đa số còn lại là những ca khúc phản ánh số phận của một

tập thể, cộng đồng những con người. Có lẽ xuất phát từ góc nhìn dân tộc và đứng trên tinh

thần nhân bản, nên ông xem mọi con người đều là những con người dân tộc. Sự mất mát

nào cũng là nỗi đau của dân tộc. Trịnh đã nói rõ:

Tôi đã mất trong chiến tranh này

Bao nhiêu bao nhiêu người tình

Người tình của tôi lớn lên trên khắp ba miền

Một ngày đạn bom giết em

Người tình Việt Nam lớn lên chưa gặp một lần.

(Tôi đã mất)

Nếu Trịnh Công Sơn chỉ nói đại loại như người tình của ông là người của một miền

nào đó, thì sẽ có người cho rằng ông thiên về một bên. Song với tấm lòng của một con

người Việt Nam nhân bản, một con người dành tình yêu cho cả dân tộc, nên ông xem

“người tình của tôi lớn lên trên khắp ba miền”. Đó có thể là một người già, một em thơ, một

người nông phu, một người chị, người mẹ, hay anh lính mới về từ rừng xa, cho dù ông

“chưa gặp một lần”. Trịnh đã gọi họ bằng cái tên khái quát và trìu mến: Người tình Việt

Nam. Đó chính là con người của dân tộc, con người quê hương, đồng bào ruột thịt trên đất

nước đầy đạn bom này. Cái tình của ông đối với con người dân tộc là quá lớn, quá mênh

mông, làm sao chỉ giới hạn ở miền nào khi mà ở cả ba miền Bắc-Trung -Nam, nhân dân

đang phải hứng chịu bom đạn của kẻ thù dội xuống.

Trịnh Công Sơn là người phát hiện ra sự tương đồng giữa Hiện Sinh và Phật giáo, đó

là sự thức tỉnh. Và ông thực sự là một nghệ sĩ thức tỉnh. Chính ông đã từng nói, con người

“phải thức tỉnh trong mỗi sát-na của thực tại” và cũng muốn truyền ý thức ấy đến với con

người dân tộc. Hình tượng con người tập thể, đồng bào, xét ở một hoàn cảnh, phạm vi, thời

điểm cụ thể nào đó thì họ là những con người chưa thức tỉnh và còn u mê, an phận. Trịnh

chỉ rõ, gọi đích danh họ là nô lệ da vàng:

Người nô lệ da vàng ngủ quên

Ngủ quên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ

Ngủ quên, quên đã bao năm

Ngủ quên không thấy quê hương.

49

(Đi tìm quê hương)

Chữ nô lệ nghe rất nặng nề, rất thân phận. Ông gọi họ là nô lệ da vàng, ý muốn chỉ rõ

cho họ thấy cái tâm thế “ngủ quên”, an phận, chịu đựng, cam chịu sống cảnh “đèn thắp thì

mờ”, ngục tù, tăm tối. Thậm chí gò lưng, cúi đầu trước đế quốc, bán rẻ lương tâm, mưu cầu

lợi danh, hãm hại đồng bào. Trịnh Công Sơn qua ca từ, muốn đánh động ý thức những con

người ấy, hầu mong họ thức tỉnh, giác ngộ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, từ bỏ lối sống

nô lệ ươn hèn mà vươn vai đứng thẳng làm người tự do, đứng về lẽ phải, tranh đấu cho quê

hương:

Đi nói với anh em

Đòi cho quê hương thanh bình

Đi xây dựng lại Tiên Rồng

Đi cho thấy quê hương

đi cho thấy quê hương.

Tương tự như thế, trong Phúc Âm buồn, Trịnh muốn đi tìm một thứ kinh - kinh Phúc

Âm, để mong chữa lành căn bệnh an phận, yếu hèn cho những con người bạc nhược trên

quê hương đau nặng của mình:

Người nằm co như loài thú khi mùa đông về

Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình

Từng tiếng người, nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm

Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù

Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần

Một góc trời, người vẫn ngồi, một đời nhỏ nhen.

(Phúc Âm buồn)

Một loạt những động, tính từ nhấn mạnh đến tâm thế, tư thế của con người: nằm co,

nằm yên không kêu than, một đời nhỏ nhen… Đó là cái tâm thế an phận, chịu đựng, phó

thác số mệnh của dân tộc mình cho kẻ khác, coi như mình đã chết trên căn phần dành riêng

cho mình từ trước. Về vấn đề thức tỉnh con người dân tộc, Trịnh Công Sơn cũng có phần

nào đó giống với Lỗ Tấn. Con người quốc dân Trung Hoa trước cách mạng Tân Hợi cũng

mắc tâm bệnh. Cả xã hội u mê, an phận, sống đời sống cam chịu, im lìm trong ngôi nhà chật

hẹp, chỉ có người điên thức tỉnh. Hay trong Thuốc, gia đình lão Hoa Thuyên bạc nhược, mê

tín đến mức đi mua máu của những chiến sĩ cách mạng như Hạ Du để chữa bệnh lao cho

con. Lỗ Tấn đã vạch rõ căn bệnh của quốc dân, hòng tìm phương thuốc chữa trị. Trịnh Công

50

Sơn sống trong thời đại chống Mỹ, chứng kiến một bộ phận đồng bào yên phận, nhu nhược,

thậm chí sai lầm, lầm lạc về lí tưởng. Do đó ông muốn thổi vào ca từ những thông điệp phản

tỉnh, hòng thức tỉnh con người dân tộc yếu hèn.

Và như thế, Trịnh Công Sơn dù không tuyên bố đứng về phía cách mạng, và ông cũng

không viết tác phẩm nào có ca từ, giai điệu hùng hồn, oai hùng như các nhạc sĩ cách mạng,

nhưng tư tưởng, ý thức phản tỉnh con người dân tộc trong ca từ của ông là rất tiến bộ, rất

cách mạng. Rõ ràng, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ yêu nước, yêu quê hương, yêu con

người dân tộc. Đó là một nghệ sĩ dân tộc chân chính.

1.4.5. Con người cá nhân - cái tôi cô đơn bơ vơ, lạc lõng với cảm thức tha hương

Trịnh Công Sơn là nghệ sĩ, chứng kiến chiến tranh tàn phá quê hương, đồng thời suy

cho cùng, ông cũng chính là nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược ấy. Một người trẻ

tuổi, đang hăm hở với bao ý đồ hiệp sĩ, bỗng dưng bị ném vào một vùng thịt da xương máu

tan hoang. Thậm chí ông còn bị bắt lính, phải trốn tránh như một kẻ tị nạn trên chính quê

hương mình. Người nghệ sĩ ấy đã viết về thân phận con người, song đến lượt mình, ông

cũng chính là một thân phận trong chiến tranh. Còn bất hạnh hơn người khác, ông tự nhận

nỗi đau về mình. Tâm ông mang nỗi đau dân tộc, đau vì chia cắt đất nước, cũng như những

nỗi đau buồn trong đời sống cá nhân. Về điểm này, Trịnh Công Sơn cũng gần với Nguyễn

Du, một tâm hồn quá lớn cắm rễ trên một hiện thực tàn khốc của thời đại.

Sống trên mảnh đất quê hương, nhưng ông chưa thấy được “hoa quả khai sinh trong

trái tim người”. Nhìn ra chung quanh, đâu đâu cũng bom đạn, hận thù, con người chia lìa

nhau. Lại có kẻ vì những mưu đồ, tư lợi mà đem thân làm nô lệ cho người da trắng. Điều đó

khiến trái tim nhạy cảm như ông bị tổn thương. Cũng từ đó ông rơi vào sự cô đơn triền

miên. Và Trịnh thực sự là một con người cô đơn, lạc lõng, mang cảm giác tha hương ngay

khi đang sống trên chính quê hương mình.

Trong Đi tìm quê hương và Hành hương trên đồi cao, ta bắt gặp một con người mang

nỗi sầu, cô đơn chất ngất đi lang thang như một kẻ mộng du. Đó là hình tượng cái tôi cô đơn

của tác giả. Ngay tên ca khúc cũng đã gợi suy nghĩ: Đi tìm quê hương. Tại sao sống trên quê

hương mình mà lại phải đi tìm? Là vì quê hương đã bị giày xéo bởi gót giày của quân xâm

lược. Trên gia tài của Mẹ - mảnh đất quê hương người Việt Nam da vàng, chỉ thấy “một bọn

lai căng, một lũ bội tình”. Một dân tộc có nền văn hóa bốn ngàn năm, nay đang bị tàn phá

bởi “đường kiếm mưu đồ” của những kẻ cướp nước và bán nước. Vì thế ông đã tự gánh nỗi

51

đau của cả thời đại và miên man hoài niệm về những giá trị trong quá khứ.

Bơ vơ, mất phương hướng trước thế giới thực tại, “như là chim xa đàn/dấu nỗi buồn

trong cánh”, Trịnh đã tìm về với cội nguồn dân tộc để ru dỗ lòng mình. Ông đã hóa thân làm

một người Việt Nam mang cảm thức hoài niệm nguồn cội:

Một ngày mùa đông, một người Việt Nam

Ra bên dòng sông, nhớ về cội nguồn

Nhớ về đoạn đường, từ đó ra đi

Nhớ về biển rộng, thuyền ghe lướt sóng

Nhớ về nghìn trùng, nòi giống của chim.

(Ngụ ngôn mùa đông)

Hoài niệm, ôm ấp những giá trị thiêng liêng, hiển linh trong quá khứ, có lẽ đó là biện

pháp để Trịnh níu giữ cái tâm của mình ở lại với dân tộc. Để tâm hồn không bị băng hoại,

tàn phá bởi hố sâu tuyệt vọng và sa mạc hư vô. Con người Việt Nam ấy phủ nhận hiện thực

và đưa ánh mắt, cái nhìn hướng về quá khứ, “nhớ về cội nguồn/nhớ về đoạn đường từ đó ra

đi”. Ở nơi nguồn cội xa xưa ấy, con người Việt Nam mới sống đúng với bản chất của mình.

Đó là những con người hiền hòa, lam lũ, giản dị và chất phác. Đời sống không có hận thù,

nô lệ, áp bức mà chỉ có cảnh lao động nhộn nhịp đông vui với những vùng biển rộng,

“thuyền ghe lướt sóng”, hay những vùng “đồng bằng, loài chim muông hót”. Trịnh đã nhắc

đến mảnh đất đồng bằng - là nơi phát khởi nền văn hóa dân tộc. Ông nhớ về miền biển,

thuyền ghe lướt sóng - là nơi Lạc Long Quân đưa con xuống biển khai thiên mở cõi. Ông

“nhớ rừng mịt mùng/nòi giống của tiên”, nơi mẹ Âu Cơ đem đàn con lên non khai khẩn đất

hoang. Tất cả những vùng đồng bằng - rừng núi - miền biển ấy đều là sơn hà nối liền một

dải từ xưa đến nay. Sự thống nhất ấy là cả niềm vinh dự lẫn xương máu bao đời gây dựng

và gìn giữ. Thế mà hôm nay, trước mắt ông, bao thảm cảnh đã xảy ra, khiến đất Mẹ đau

lòng, “chắc mẹ hiền lành/rồi cũng tủi thân”.

Mầm cô đơn trong Trịnh Công Sơn đã có cội nguồn từ nhỏ. Nay đối mặt với hiện thực

chiến tranh “thịt xương phơi trên đôi miền”, hạt mầm cô đơn ấy đã trở nên cùng cực, quá

sức chịu đựng của một thân xác mong manh. Nhiều khi ông cũng cảm thấy mệt mỏi, bất lực

trước thực tại, đau đớn và đã phải thốt lên:

Còn có ai, không còn người

Ôi nhân loại, mặt trời và em thôi

Này đôi môi xin thương người

52

Ôi nhân loại, mặt trời trong tôi.

(Xin mặt trời ngủ yên)

“Ôi nhân loại/mặt trời trong tôi/này đôi môi xin thương người”. Đó là những lời khẩn

thiết, cầu khẩn cấp bách cho một dân tộc đang trên vực thẳm của chiến tranh đổ nát. Trịnh

Công Sơn đã nhắc đến hình ảnh “mặt trời trong tôi”. Mặt trời là biểu tượng của chân lí, cái

đúng và lẽ phải. Ông tự vấn và thắc mắc: lẽ nào các đấng thần linh tối cao đã ngủ quên cùng

với mớ kinh kệ, với chân lí của họ rồi hay sao mà để lại dưới mặt đất quê hương này những

cảnh loạn lạc binh đao? Câu hỏi ấy vượt thoát ra khỏi phạm vi ý nghĩ của ông, đến với mọi

người, những con người dân tộc Việt Nam, mở rộng ra là cả con người nhân loại. Khi nào

và ở đâu còn chiến tranh làm tiêu vong đi tình yêu và tính nhân bản trong cõi người thì

những câu hỏi của Trịnh Công Sơn vẫn còn có tác dụng truy vấn, thẩm vấn lương tâm con

người một cách quyết liệt. Và mang một ý nghĩa khai minh, thức tỉnh nhân loại.

Suy cho cùng, nỗi cô đơn của Trịnh Công Sơn không chỉ của cá nhân tác giả, mà còn

là tâm trạng của cả tầng lớp trí thức đô thị miền Nam thời bấy giờ. Sống trong chế độ Sài

Gòn, con người bị tước mất quyền tự do, bị đàn áp, tù đày. Trí thức nhạy cảm hơn ai hết, họ

cảm nhận được không khí ngột ngạt ấy và cũng muốn vùng lên đấu tranh, nhưng phần đông

họ không có được tư tưởng cách mạng hay một lí tưởng tiến bộ dẫn đường. Kết cục, họ rơi

vào cô đơn, lạc loài như những kẻ sinh nhầm thế kỉ. Ngô Kha, một trí thức “dấn thân” tranh

đấu thời ấy, trong giai đoạn đầu cũng đã có lúc mất phương hướng. Anh đã nói lên được

tâm trạng cô đơn của mình và của cả thế hệ qua những vần thơ u uất:

Hồn Do Thái bơ vơ

Trước mắt hàng kẽm gai tua tủa

Thế kỉ hai mươi xa lạ.

(Khúc ca tình yêu)

Ca từ Trịnh Công Sơn toàn những đớn đau, mất mát. Có người bám riết lấy đó rồi

gán cho ông là bi quan, yếm thế. Song để ý kĩ, xuyên suốt dòng thơ nhạc máu lệ ấy là một

mạch ngầm dòng chảy của tình yêu thiết tha và niềm tin - dù ít ỏi, nhưng nó có sức mạnh

lớn lao, giúp ông trụ vững lại được với dân tộc, chờ đợi một bình minh thực sự khai sinh

trên quê hương. Những sáng tác lạc quan của ông là không nhiều, nhưng không phải là

không có. Ngay từ 1968, đang là thời kì vực thẳm xương máu nhưng ông cũng đã hé lộ

niềm tin vào tương lai hòa hợp của dân tộc:

Dù hôm nay tôi chưa nhìn Hà Nội

53

Dù hôm nay em chưa thấy Sài Gòn

Nhưng sao lòng tôi vẫn chưa mất niềm tin

Vì quê hương sẽ có ngày hòa bình.

(Chưa mất niềm tin)

“Máu xương hai miền rung lòng thế giới”. Quả đúng là như vậy. Rồi ngày mơ ước ấy

cũng đã đến. Ngày 30-4-1975 đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một trang vẻ vang và chói lọi

nhất của ý chí độc lập, thống nhất và hòa hợp dân tộc. Trịnh Công Sơn đã mong mỏi và chờ

đợi giây phút này từ rất lâu. Và chính ông là người đầu tiên lên đài phát thanh Sài Gòn hát

Nối vòng tay lớn thể hiện mơ ước hòa hợp dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân ta

và cũng là sự mơ ước, chờ đợi, mong mỏi của một nghệ sĩ yêu nước, yêu dân tộc như ông.

Tiểu kết

Thế giới con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn là một thế giới đa dạng, đủ

mọi loại người, kiểu người như người mẹ, người yêu, người vợ mất chồng, người già, em

bé, người phu quét đường, người điên… Họ xuất thân có thể khác nhau, song có điểm

chung là đều bị chiến tranh hoặc là hủy diệt sinh mạng, hoặc là làm mất mát người thân,

phải chịu mồ côi, cô đơn, góa bụa. Đặc biệt, hình tượng con người tập thể được tái hiện

trong phần lớn ca khúc đã cho thấy dưới cái nhìn chủ quan của tác giả, những con người tập

thể, cộng đồng đều là người Việt, cùng dòng máu Lạc Hồng. Điều đó minh chứng, Trịnh

Công Sơn là người nghệ sĩ yêu nước, yêu dân tộc bằng thứ tình yêu nhân bản và cao cả

nhất.

54

CHƯƠNG 2: TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG

SƠN

Mở đầu

Người ta thường chia ca khúc Trịnh Công Sơn làm 3 loại: tình yêu - quê hương - thân

phận. Sự phân biệt ấy chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì trong ca khúc tình yêu cũng có thân

phận và ngược lại. Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn rất rộng, gồm nhiều loại: tình yêu

quê hương đất nước, tình yêu con người, đồng loại, tình yêu nam - nữ, tình yêu thiên nhiên.

Song người ta biết đến và yêu thích hơn cả là mảng ca khúc về tình yêu nam nữ. Trong gia

tài ca khúc, Trịnh đã dành một vị trí xứng đáng cho mảng tình ca: “Hình như đường sinh

mệnh trên bàn tay tài hoa ấy có một nhánh rẽ vào tình sử, và qua ba mươi năm cho đến nay,

Trịnh Công Sơn đã trở thành người tình lãng du của nhiều thế hệ” [32; tr.28]. Theo chúng

tôi, định mệnh đã chọn Trịnh Công Sơn làm sứ giả của tình yêu. Nhìn lại lịch sử sáng tác

của ông, ta thấy rõ điều này. Năm mới 19 tuổi, khi đang là cậu học trò vô danh, ông đã viết

tình khúc nổi tiếng Ướt my. Nghe Ướt my, người ta cứ nghĩ tác giả của nó chắc phải chững

chạc và trải đời lắm. Bởi ca từ chất chứa những nỗi buồn đau, thê lương sầu thảm của kiếp

người. Quả thật, không thể ngờ được những tư tưởng thâm trầm ấy lại được viết bởi cậu

thanh niên chưa từng trải đời, trải tình là gì. Ướt my, sau bao năm vẫn bền bền trong lòng

công chúng và là một trong những tình khúc bi thương, đẹp và hay nhất của ông. Rõ ràng,

nó là dấu hiệu báo trước một thiên tài. Trịnh Công Sơn không chỉ viết nhiều về tình yêu

nam nữ mà còn có cách diễn đạt, biểu hiện tình yêu thật lạ, thật mới, thật đẹp mà cũng thật

buồn, đầy tài hoa và độc đáo. Vì thế, người ta biết và nhớ đến ông chủ yếu vẫn là các ca

khúc tình yêu. Tuy tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn có nhiều loại, nhưng với khuôn khổ

của luận văn nhỏ này, chúng tôi chỉ tập trung đi tìm hiểu mảng ca từ ca khúc tình yêu nam

nữ, cũng là mảng ca từ đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của người nhạc sĩ này.

2.1. Quan niệm và cội nguồn quan niệm tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn

2.1.1. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu nam nữ

Trịnh Công Sơn từng tâm niệm: “Sống là sống với người khác và muốn có cảm thông,

chúng ta phải luôn luôn tự diễn đạt mình” [16; tr.248]. Chính vì muốn người đời hiểu và

cảm thông mà trong các tập hồi kí, bài viết, phỏng vấn, ông đã trình bày suy nghĩ về nhiều

vấn đề của đời sống. Đáng chú ý hơn cả, ông đã “diễn đạt” quan niệm về tình yêu nam nữ,

một đề tài bất tận của thi ca nhạc họa.

Theo chúng tôi, cái hay và độc đáo ở Trịnh trong quan niệm và viết về tình yêu biểu

55

hiện ở hai điểm. Thứ nhất, ông nhìn tình yêu ở một góc độ, điểm nhìn khác so với các nghệ

sĩ. Thứ hai, từ góc nhìn khác ấy, ông đã tìm ra cách diễn đạt tình yêu bằng một lối nói mới

lạ, độc đáo, có sức ám gợi mạnh mẽ. Qua đó, hầu như ai cũng thấy mình trong thơ nhạc của

ông, thấy mình được an ủi, đồng cảm và có thêm niềm tin vào đời sống. Vấn đề quan niệm

về tình yêu nam nữ, tìm hiểu các bài viết của Trịnh Công Sơn, chúng tôi rút ra được một vài

luận điểm căn bản như sau.

Thứ nhất, Trịnh Công Sơn luôn có cái nhìn, quan niệm về tình yêu nam nữ mang tính

nhị nguyên, không giống quan niệm của người khác. Thông thường khi nói đến tình yêu, các

nghệ sĩ thường ngợi ca, lãng mạn hóa nó. Có người gặp trắc trở trong tình yêu, thì lại có

những quan niệm cực đoan, phiến diện về nó. Trịnh Công Sơn thì khác: ông luôn nhìn ngắm

tình yêu con người dưới góc nhìn có tính nhị nguyên. Tình yêu bao hàm hai thái cực, cả

hạnh phúc lẫn nỗi khổ đau: “Tình yêu thường mang đến khổ đau nhưng đồng thời tình yêu

cũng mang đến hạnh phúc. Có một lá cờ bay trên hạnh phúc và có một đóa quỳnh héo úa,

ngủ trong khổ đau” [16; tr.25]. Trong đoạn văn trên, ông nhắc đến nỗi khổ đau và niềm

hạnh phúc như là hai trạng thái đối nghịch cùng tồn tại song song trong tình yêu. Tính nhị

nguyên còn biểu hiện ở chỗ: “Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc

nhấn chìm kẻ háo hức” [32; tr.166]. Con người nếu biết yêu một cách cao thượng, tình yêu

sẽ biến thành sức mạnh “nâng bổng” ta lên, làm ta trưởng thành hơn. Song nếu ta vì quá

cuồng si mà sinh nông nổi, suy nghĩ và hành động nông cạn thì tình yêu sẽ “nhấn chìm” ta

trong dục vọng, thậm chí là thất bại: “Có cuộc tình mang đến cái chết, nhưng cũng có những

cuộc tình mang đến sự hồi sinh” [18; tr.96]. Viết như thế, ta có cảm tưởng Trịnh Công Sơn

như một người thầy dạy về tình yêu. Cái chất sư phạm của ông có lẽ là ở lối nói mang tính

giáo dục một cách ý nhị, nhẹ nhàng ấy.

Thứ hai, tình yêu là một dạng tình cảm có xu hướng biến đổi, vô thường. Trong cái vô

thường ấy thì nó thiên về cái bất hạnh, mong manh, dễ tàn, dễ mất: “Càng yêu ta càng thấy:

có tình yêu thì khó mà mất tình yêu thì quá dễ. Hôm qua mới yêu nhau đấy, hôm nay đã mất

nhau rồi. Mất sạch như người đi buôn mất hết vốn liếng” [18; tr.149]. Có tình thì khó, mà

mất tình thì quá dễ. Sự tan vỡ trong tình yêu đôi khi bắt nguồn từ những lí do không đâu,

những nguyên do nhỏ nhặt, ngộ nhận, hiểu lầm. Nhưng nó lại có sức bào mòn tình cảm dần

dần và khoảng trống ngăn cách tâm hồn ngày càng lớn. Đến một độ nào đó thì nó trở thành

cơn địa chấn có sức tàn phá ghê gớm, hủy phá đi tình cảm bấy lâu nay vun đắp: “Tôi cũng

đã biết tình yêu thường mở ra những cơn địa chấn kinh hoàng và đã đôi lần quay về xác xơ

56

làm con quạ già kể hoài một chuyện tình đã chết như loài quạ vẫn thường về kêu ngậm ngùi

trên nóc nhà một người hấp hối” [18; tr.18].

Khi tình tan vỡ, ta thường nghĩ rằng nó đã chết và có thể quên hẳn được để vui duyên

mới. Thế nhưng Trịnh lại quan niệm khác. Lấy cuộc tình này để lấp chỗ trống, xóa đi cuộc

tình kia chẳng qua cũng chỉ là tự lừa dối mình mà thôi. Bởi nó đã tạo thành vết tích cháy

xém, in dấu trong hồn ta, không dễ gì phai được: “Tưởng rằng có thể quên dễ dàng một

cuộc tình nhưng hóa ra chẳng bao giờ quên được. Mượn cuộc tình này để xóa cuộc tình kia

chỉ là một sự vá víu cho tâm hồn. Những mảnh đời vá ấy chỉ đủ để làm phẳng lặng một bên

ngoài mà thôi” [18; tr.149]. Rõ ràng, kí ức tình yêu thì mãi đọng lại trong lòng, dù ta muốn

hay không. Trịnh nói, tình do tâm mà sinh ra. Có khi tình mất mà tâm còn động vọng là vì

thế.

Thứ ba, Trịnh Công Sơn quan niệm, tình yêu là một dạng tình cảm có khởi nguồn tự

nhiên, có tính tự nhiên và tự do. Nó là tình cảm tự nhiên của con người, hai người tự nguyện

gắn kết hai tâm hồn. Nó được sinh ra từ tâm. Không ai có thể hối thúc, cưỡng ép, áp đặt để

tạo ra nó hay khống chế hủy diệt nó được: “Tình yêu tự đến và tự đi. Không cần ai dìu dắt.

Nó hoàn toàn tự do. Muốn giam cầm nó thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi, có khi nó ở

lại” [16; tr 25]. Bởi có tính tự do, cho nên khi nó ra đi, con người cũng không thể nào cứu

vãn được một cuộc tình hấp hối. Ông viết: “Ta không thể níu kéo một cái gì đã mất. Tình

yêu khi muốn ra đi thì không có một tiếng kèn nào đủ màu nhiệm để lôi về lại được. Tình

yêu là tình yêu. Trong nó đã có sẵn mầm sống lẫn sự hủy diệt” [16; tr.25].

Tình yêu được ví như pha lê, trong suốt, lung linh nhưng dễ vỡ. Khi tan vỡ, người ta

thường dùng mọi biện pháp để níu giữ nó lại. Nhưng thật hiếm có trường hợp nào níu giữ lại

được, mà không hằn những vết thương lòng. Ta càng cố níu giữ quyết liệt, nó càng vùng lên

để ra đi dứt khoát và mạnh mẽ hơn, tựa như ngọn đèn lúc hết dầu, “phực” lên ánh sáng cuối

cùng rồi mới chịu tắt hẳn. Trịnh Công Sơn đã lắng nghe âm vọng tình yêu cõi người và rút

ra kinh nghiệm bi thiết ấy gửi lại cho đời. Do đó khi đọc Trịnh, ta phải thức tỉnh từ những

điều ông nói. Cố gắng đối xử với tình yêu một cách nhẹ nhàng, tế nhị, để nuôi dưỡng nó

ngày càng tốt hơn lên.

Thứ tư là sự giả trá, lừa dối của con người trong tình yêu. Bên cạnh tình yêu chân

thật, cao cả đầy thiêng liêng và đáng ngưỡng mộ, thì con người cũng dễ tạo ra sự giả trá,

kịch tuồng trong tình yêu. Làm nó mất đi ý nghĩa tốt đẹp của tình yêu nguyên thủy ban sơ.

Sự giả trá ấy khi bị phát hiện và bóc trần, nó sẽ khiến người trong cuộc đau đớn, hoang

57

mang điêu đứng, mất đi niềm tin vào đời sống. Ông viết:

Con người không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn năm nay con người đã

sống và đã yêu. Yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế mà đã có không biết bao nhiêu

là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời. Sự giả trá đó lúc biết được thì làm khổ

lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Người giả, người thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ

ngàng không biết thế nào nói được. Người thật thì nằm bệnh, người giả thì nói cười

huyên thuyên [32; tr.166].

Vì con người đến với nhau bằng sự giả trá nên tình yêu đã hóa thành màn kịch mà

người dựng lên đồng thời là kẻ sắm vai, còn người kia là nạn nhân. Trịnh cho rằng thứ tình

ngụy trang ấy là rất tầm thường. Nó chỉ là “những vết tích chết” trong lòng người hoang

mang tan rã: “Từ đó tình yêu chỉ còn là những vết tích chết được con người manh nha ngụy

trang để lừa dối nhau. Môi đã khô từ ngày hạn hán. Nước miếng được ve tròn như những

hạt kim cương đục ngầu. Trái tim là quả ổi đen trên cành cằn cỗi trụi lá. Lời yêu thương như

lên men từ cõi chết ù lì” [18; tr.18].

Thứ năm, Trịnh quan niệm trong tình yêu còn có sự phản bội, phụ rẫy: “Có người bỏ

cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Có người bỏ cuộc tình mà đi như người đãng trí. Dù

sao cũng đã lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác. Phụ đời và phụ người hình như

cũng vậy mà thôi” [18; tr.149]. Kẻ phụ tình ra đi, nhưng bỗng một ngày nào đó lại quay về,

“Vì một chọn lựa tưởng rằng đã đúng, cuối cùng sai. Và trở lại với một người mình đã phụ

bạc để muốn hàn gắn lại một vết thương” [18; tr.187]. Kẻ thì ra đi, người thì ở lại với nỗi

đau. Thời gian đã xoa dịu và vết thương lòng đã lên da non. Nhưng khi người cũ quay về thì

“vết thương tỉnh thức”, khiến con người đau đớn hơn, rơi vào tiến thoái lưỡng nan: “Một vết

thương đã lành lặn lâu rồi, bất chợt vỡ òa như một sự tỉnh thức. Tỉnh thức trên vết thương.

Trên một nỗi đau tưởng rằng đã thuộc về quá khứ. Nhưng không. Không có gì thuộc về quá

khứ cả. Thời gian trôi đi và vết thương vẫn còn đó. Nó nằm chờ được thức dậy một lúc nào

đó để sống lại như chính bản thân nó là một vết thương” [18; tr.187].

Phụ tình. Ra đi, quay về. Sự trở về ấy cũng chẳng làm cho hai tâm hồn hạnh phúc

được. Như thế, sự phụ rẫy làm nên bất hạnh của người, bất hạnh của đời: “Nó là một nỗi

đớn đau như khi trời đất trở dạ làm thành một cơn dông bão” [18; tr.188]. Viết nên sự thật

đau đớn ấy, Trịnh Công Sơn không phải tỏ thái độ bi quan về tình yêu. Trái lại, ông muốn

cất lên tiếng chuông mai, chuông chiều thức tỉnh con người. Mong muốn con người phải

biết yêu bằng thái độ chân thành và sự tử tế.

58

Thứ sáu, Trịnh đã có một so sánh độc đáo, khác suy nghĩ thông thường của người đời.

Ông cho rằng tình bạn thật hơn tình yêu. Đó là một quan niệm mới, đáng để chúng ta phải

suy nghĩ. Ông viết: “May thay trong cuộc đời này có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn

thường có một khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có nhưng không

nhiều” [18; tr.188]. Sự so sánh này không phải trường hợp nào cũng đúng, nhưng không

phải là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi trong tình bạn, con người kết thân với nhau ít khi

phân biệt sang hèn, cũng ít có sự toan tính. Ngược lại, trong tình yêu, con người thường

toan tính. Những thiệt hơn, những lựa chọn, vật chất, danh vọng, đắn đo cân sắc, cân tài. Do

đó, tình yêu dễ mang dáng dấp của đổi chác, mất đi tính tự nhiên và màu nguyên sơ vốn có

của nó.

Cuối cùng, tình yêu có những mặt trái, song không thể phủ nhận được là nó vẫn rất cần

thiết và làm nên ý nghĩa của đời sống: “Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù

sao chăng nữa, tôi vẫn muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: cuộc sống không thể

thiếu tình yêu” [32; tr.167]. Ông còn đi đến một quan niệm như là biện pháp: tình yêu cứu

vãn hư không. Nếu không có tình yêu, đời sống sẽ mất đi ý nghĩa, vô vị, chẳng khác gì cõi

hư không. Trịnh nói: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu

hạn, tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào đó nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu có thể

cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời. Cuộc sống toàn những thân phận: buồn nhiều

hơn vui, đắng cay nhiều hơn ngọt bùi, giọt lệ nhiều hơn tiếng cười vô tư, mong manh nhiều

hơn sự trường cửu, vực sâu nhiều hơn đỉnh cao. Do đó, để cuộc sống bớt đi bất hạnh, con

người phải biết yêu thương nhau, cảm thông, chia xẻ và thấu hiểu, kể cả trong đời sống và

tình yêu đôi lứa. Nếu ta làm được điều đó, tình yêu sẽ được nhân lên, và nó sẽ “cứu chuộc”

được thân phận. Tình yêu cứu chuộc thân phận được xem như là “tuyên ngôn” về tình yêu

mà ông muốn gửi lại cho đời. Đó là thứ triết lí mang đậm Phật tính, chứa đựng những tư

tưởng nhân văn sâu sắc, bi thiết mà con người và nhân loại sẽ phải suy ngẫm.

Tóm lại, quan niệm về tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn vừa có những điểm tương

đồng với mọi người, song cũng có những điểm rất mới mẻ. Có được điều đó là nhờ ở sự trải

nghiệm cộng với sự tinh tế của người nghệ sĩ - một nhà sư phạm mẫu mực về tình yêu, khi

ông đã đứng trên hai mặt sấp ngửa của nó. Tiếp cận với những quan niệm lạ và mới (sự giả

trá, tình yêu thật hơn tình bạn), nó không làm cho ta có cái nhìn bi quan về tình yêu. Mà

chúng ta phải lấy đó làm gương để tự soi mình, lấy đó làm lời răn, sự cảnh tỉnh cho mình.

Trịnh Công Sơn không phải là nhà giáo dục, nhưng quam niệm về tình yêu đôi lứa của ông

59

chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, có tác dụng giáo dục cho mọi thế hệ. Đó là những

góp quý giá vào kho tàng tư tưởng, tinh thần nhân văn của thời đại, và còn mãi cho hậu thế.

2.1.2. Cội nguồn quan niệm về tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn

Trịnh Công Sơn đã được gọi bằng những danh xưng khác nhau: Người Việt Nam viết

tình ca hay nhất thế kỉ (Thanh Tùng), ông hoàng của tình ca (Nguyễn Trọng Tạo), thiền sư

du ca (Đỗ Minh Tuấn)... Những danh xưng ấy được họ phát ngôn dưới những góc nhìn khác

nhau về tài năng và đạo đức của người ca thơ họ Trịnh. Người đọc và cả những nhà nghiên

cứu đều xem ông như là một người lập thuyết, đưa ra những tuyên ngôn về tình yêu. Còn

ông, ông chỉ thừa nhận mối lương duyên với những khúc bi ca tình yêu của thế kỉ như sau:

“Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt

nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống hình thành. Tôi e cũng đã

từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình những giọt nước mắt kia” [18; tr.69-70].

Vậy, đâu là cội nguồn của những quan niệm về tình yêu của Trịnh Công Sơn? Theo

chúng tôi, để hình thành những quan niệm ấy, có một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, ông đã đúc rút ra được từ chính sự từng trải, chiêm nghiệm của bản thân

qua những cuộc tình. Chúng ta đều biết, Trịnh Công Sơn là người nghệ sĩ đa tài, đa cảm.

Hơn nữa, ông cũng là người yêu rất nhiều, được yêu cũng nhiều, và bị phụ tình cũng không

ít. Theo tư liệu, có hai lần ông định lập gia đình nhưng không thành. Nguyên nhân thế nào,

người đời có vô vàn lí giải. Theo chúng tôi, đó chỉ có thể là định mệnh truyền kiếp của

những thiên tài. Cô đơn và dang dở là thứ ân sủng mà Thượng đế ban tặng cho những phiến

tài tình, tài tử một đời rong chơi như ông. Bởi lẽ một trái nhân ái quá bao la, quá vô biên với

con người như thế thì làm sao có thể đóng khung, nhốt nó vào một mái ấm gia đình như

những người bình thường khác được? Do đó, Trịnh Công Sơn từ khi là hạt bụi sinh ra, cho

đến khi về nằm bên mẹ, ông vẫn là chàng lãng tử cô độc trên hành trình tìm kiếm bản thể.

Có những người tình rõ mặt rõ dáng và có những người tình không tên đi qua cuộc đời

nghệ sĩ. Những đóa xuân xanh một thuở như Bích Diễm, Dao Ánh, Bích Khê, Thanh Thúy

là nguồn cảm hứng để Trịnh cho ra đời những tình ca - thi phẩm bất hủ. Nhưng cũng có

những người tình chỉ thoáng qua đời ông, thậm chí là người mà Trịnh chỉ gặp trong phút

chốc nào đó, bản thân họ cũng không biết được mình có mặt trong những tình ca của ca

nhân họ Trịnh kia. Bao người đến, ông luôn mở rộng tấm lòng đón nhận tất cả. Trân trọng,

nâng niu tất cả, dù là những gì nhỏ nhặt nhất. Bao người đã bỏ ông mà đi, ông không hề

60

trách móc, thắc mắc nguyên do hay nghi ngờ về sự đến, đi của họ. Người tình ra đi, Trịnh

chỉ biết tiếc nuối hay ngậm ngùi cùng với vườn khuya, với tường trắng lặng câm, với rong

rêu hao mòn, hay thu mình góc tối. Hành trình hơn 60 năm của một hạt bụi tuyệt vời, một

hạt cát ngu ngơ dưới chân thế kỉ XX, Trịnh Công Sơn đã có được những trải nghiệm, cả hoa

hồng lẫn gai góc. Qua đó, ông đã khai mở được tình yêu con người với những ngọt ngào

hạnh phúc cũng như những đắng cay bất hạnh. Từ đó, ông chưng cất chúng thành những

triết lí, phả vào nó những “lời ca đau trên cao” lẫn “bình minh lên sớm”.

Thứ hai, sự từng trải không thôi thì chưa đủ, cần phải có một tâm hồn tinh tế, nhạy bén

nữa. Bởi trong gầm trời này, có biết bao nghệ sĩ cũng yêu nhiều, từng trải nhiều nhưng họ

đâu có được thứ triết lí tình yêu thấu triệt và độc đáo như ông. Sở dĩ làm được điều đó còn

là vì một lẽ nữa: ông có một trực giác linh diệu và một tâm hồn vô cùng tinh tế, nhạy bén,

để từ đó phát hiện ra những ý nghĩa mới, những ẩn dấu, những đổi thay, trong những cuộc

tình gần, những cuộc tình xa của mình. Đôi khi là cả cuộc tình của người khác mà ông có

dịp chứng kiến. Trái tim đa sầu đa cảm ấy dễ rung động trước một vẻ đẹp, một dung hình,

một cử chỉ, một thái độ, cách ứng xử đẹp. Cũng như dễ đau đớn, tan rã trước những cuộc

tình không may, những cuộc tình khói mây hấp hối, những dối lừa. Trịnh đã thu nhận nó, rồi

lùi vào một khoảng lặng cô đơn cần thiết, dường như cố hữu, để suy tư về nó, ngẫm nghĩ về

nó. Rồi bất chợt, bừng lên những ánh thép, những tuyên ngôn tình yêu ra đời.

Thứ ba, tính vô thường trong quan niệm về tình yêu là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt hệ

thống tác phẩm của ông. Nguyên nhân khiến Trịnh có được cái nhìn thấu thị ấy là bởi ông

sớm hấp thụ được giáo lí vô thường của nhà Phật. Từ nguyên lí căn bản này, Trịnh soi rọi

nó vào phận mình, phận người, thân phận tình yêu của cả thời đại và phát hiện ra những

dạng thức, biểu hiện muôn màu muôn vẻ của nó. Vô thường: không chắc chắn, không

trường tồn. Giáo lí vô thường mang đến một xác nhận như một sự phát hiện chân chính, đó

là tất cả những sự vật, hiện tượng, dù thuộc tự nhiên, xã hội hay tâm lí, đều là vô thường.

Trịnh Công Sơn ngay từ nhỏ đã học và thấm nhuần kinh Phật. Lời kinh, tiếng kệ đã thấm

vào tư tưởng tự lúc nào không hay. Thậm chí, nó còn thấm cả vào cách sống, lối ứng xử với

đời, với người của ông nữa. Từ đó khiến cho ca từ của ông đậm đặc triết lí vô thường, biến

đổi, có nằm trong không, buồn nằm trong vui, đỉnh cao cạnh kề vực sâu...

Nguyên nhân cuối cùng, Trịnh Công Sơn cũng là người hay bị phụ tình. Đã có biết bao

mối tình gần, tình xa đi qua cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa ấy. Có những mối tình sâu đậm,

có những mối tình thoáng qua, nhưng tất cả thì “từng người tình bỏ ta đi như những dòng

61

sông nhỏ”. Tất cả những bóng hồng đều như những vạt nắng cuối trời, đến là để ra đi.Và ra

đi là đi mãi. Trịnh có không ít những cuộc tình phụ. Từ những cuộc tình ấy, ông nghiệm ra

được những nẻo tình, những khuôn mặt sấp ngửa, những chân - giả của tình yêu. Từ đó, với

nội cảm và tài năng sai sử ngôn ngữ, ông đã chưng cất thành những triết lí, diễn đạt nó dưới

dạng những ca từ mơ hồ trong tư duy mà lại rất thật trong tâm hồn. Trịnh thừa nhận, bội

tình đôi khi cũng là thứ “men” kích thích, làm bùng nổ sự sáng tạo: “Sự phản bội đôi khi

cũng cần thiết để cho tình yêu đẹp hơn, đậm đà hơn, buồn bã một thứ nhan sắc lạ lùng hơn.

Từ đó câu thơ ra đời. Tiếng hát ra đời” [18; tr.217]. Như thế đủ thấy, câu thơ, tiếng hát ra

đời không chỉ từ những môi hôn nồng nàn mà còn cả từ những lìa chia, phụ rẫy. Thậm chí

Trịnh còn cho rằng, sự phụ bạc đôi khi là cái may chứ chưa hẳn là sự buồn bã: “Cái may ở

đời là bị phụ tình” [18; tr.220]. Ông nói vậy vì tình phụ, kẻ bị phụ tình sẽ ngộ ra được

những điều mới mẻ trong vô biên lòng người. Tình phụ sẽ làm con người ta tỉnh táo hơn,

sáng suốt hơn. Trưởng thành hơn. Và cũng dè dặt hơn. Tất nhiên là cũng sẽ biết nâng niu

quý trọng những cuộc tình sau này hơn.

Tóm lại, cội nguồn quan niệm tình yêu của Trịnh Công Sơn thì có nhiều. Song, chúng

chỉ là ở cái thế “khả năng”, còn từ nguyên nhân ấy mà khái quát lên thành những luận điểm

như là những tuyên ngôn, những triết luận, những ca từ mênh mang về tình yêu thì không

thể thiếu được một cảm quan tình yêu vô cùng

nhạy bén và một tâm hồn sâu sắc, cộng với một tài năng diễn đạt thiên bẩm của nhà sư

phạm vĩ đại về tình yêu - người ca thơ Trịnh Công Sơn.

2.2. Chủ thể và đối tượng của tình yêu nam nữ

2.2.1. Chủ thể trong tình yêu - hình tượng nhân vật tôi

Trong đại đa số những ca khúc về tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn, rất dễ dàng để

người đọc, người nghe nhận ra hình tượng nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được hiểu là

hình tượng con người trực tiếp biểu hiện, thổ lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình trong

lời ca, lời thơ, lời văn của tác phẩm. Trong ca từ Trịnh Công Sơn, hình tượng nhân vật trữ

tình cũng đồng thời là tác giả. Nói cách khác, tác giả đã hóa thân vào nhân vật trữ tình để

bộc lộ cảm xúc, giãi bày tình cảm với người tình của mình. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt

nhưng lại ít ai để ý, đó là hình tượng tác giả - kiêm chủ thể trữ tình ấy, hầu như trong đa số

các ca khúc, chỉ dùng một lối xưng hô duy nhất, đó là ngôi thứ nhất số ít: tôi. Đây là một

điểm lạ và cũng lí thú, có lẽ cũng gây không ít thắc mắc cho những người muốn tìm hiểu về

62

ông. Bởi lẽ, ai cũng biết, trong tình yêu, khát khao lớn nhất là được hòa hợp, hạnh phúc,

viên mãn. Do đó, người ta thường dùng lối xưng hô biểu hiện vẻ thân thiết, gợi sự gần gũi,

tình tứ, ngọt ngào của tình yêu, đó là kiểu xưng hô “anh - em.” Nhưng ca từ Trịnh Công Sơn

lại khác, chỉ có vài ba tác phẩm giai đoạn đầu, nhân vật trữ tình xưng “anh - em”, còn tuyệt

đại đa số những tác phẩm khác, thì lại xưng hô: tôi – em.

Theo khảo sát của chúng tôi, chỉ có vài ba ca khúc thời kì đầu là xuất hiện kiểu xưng

hô anh trong sự đối sánh với em. Đó là những ca khúc Ru em từng ngón xuân nồng với câu

“bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm”, ca khúc Nhìn những mùa thu đi với câu “trong

nắng vàng chiều nay/anh nghe buồn mình trên ấy”, và tình khúc nổi tiếng Hạ trắng với câu

“bước chân em về/nào anh có hay”. Nhưng ngay trong Hạ trắng, đoạn đầu nhận vật xưng

anh - em, đến đoạn sau, cặp anh - em đã chuyển hoán sang tôi - em với câu “tôi đưa em

về/chân em bước nhẹ/trời buồn gió cao”. Còn hầu như trong các ca khúc còn lại, tác giả đã

hóa thân vào nhân vật trữ tình để xưng hô với người tình bằng lối xưng hô tôi - em, hay ta -

em.

Vậy tại sao nhân vật trữ tình trong ca từ Trịnh Công Sơn lại chỉ dùng lối xưng hô tôi,

ta với em mà không phải anh - em hay đại loại là một cách xưng hô nào đó biểu hiện sự gần

gũi, thân thiết hơn? Lục lại các bài viết của ông, không thấy tác giả giải thích gì về điều này.

Theo cảm nhận riêng của chúng tôi, có lẽ tình yêu nam nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn là

thứ tình yêu chưng cất, pha lê, là thứ tình lãng đãng sương khói, một thứ tình yêu không hứa

hẹn bến đỗ hạnh phúc, không có được cái kết viên mãn như những cuộc tình bình thường

khác. Vì thế mà lối xưng hô anh - em tỏ ra thân thiết, gần gũi, hạnh phúc quá, không phù

hợp với cái không khí dở dang, đứt gãy, lìa chia, đổ vỡ của những cuộc tình của nhân vật tôi

- tác giả. Nên ông đã chọn lối xưng hô tôi - em, ta – em. Cách xưng hô ấy, nghe có vẻ như

nó ngầm chứa một thông điệp ẩn dấu, như có một khoảng cách, vực sâu ngăn cách giữa hai

thế giới, hai tâm hồn, khó viên mãn, trùng phùng, đến được với nhau. Dường như từ trong ý

thức sâu thẳm, Trịnh đã nhận ra, đời đã vẽ ông trong những cuộc tình để rồi lại mang những

cuộc tình ấy ra đi. Nói như Xuân Diệu, đó là thứ tình “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”, thứ

tình dang dở, không may. Và để phù hợp với sự diễn tả những cuộc tình không may này,

ông đã chọn lối xưng hô tôi - em. Cao Huy Thuần nhận xét: “Trịnh Công Sơn là người thi sĩ

duy nhất của tình yêu không cho chữ em đi sóng đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh…Trịnh

Công Sơn chỉ tôi với em, em với ta, như thể hai người yêu nhau là hai người ở trọ gần nhau”

[16; tr.368].

63

Hình tượng nhân vật trữ tình xưng tôi trong ca khúc thường mang một dáng dấp, hình

hài quen thuộc, đó là một con người có hình vóc hư hao, xanh xao. Con người ấy dường như

đã gánh trên vai cả “đôi vầng nhật nguyệt”, đã trải qua và chứng kiến những cuộc thiên hải

biến vi tang điền, những thăng trầm của nhân sinh, những rong rêu phù du của kiếp người.

Nên cũng mang một tâm trạng thâm trầm, lặng lẽ và kín đáo. Vừa hiền hòa cởi mở, mà lại

cũng dè dặt. Vừa hồn nhiên, thanh thản mà lại cũng toát lên vẻ u uẩn, thậm chí là những

mâu thuẫn, giằng xé khôn nguôi. Con người ấy thiên về chiêm nghiệm nội tâm, lắng lòng để

nghe ra âm vọng của cả cõi nhân sinh này. Nghe ra nỗi niềm của phận người, thân phận của

tình yêu nhân thế. Nên dường như trở nên tịch lặng và cô đơn hơn. Cô đơn một cách độc

đáo. Kiểu hình tượng nhân vật hao mòn, trầm tư và mang “tâm bệnh” này ta có thể bắt gặp

trong rất nhiều tác phẩm, như Mưa hồng (vòng tay đã xanh xao nhiều/ôi tháng năm/gót chân

mòn trên phiếm du), Phôi pha (ôi phù du/từng tuổi xuân đã già/một ngày kia đến bờ/đời

người như gió qua), Ru ta ngậm ngùi (em về hãy về đi/ta phiêu du một đời/hương trầm có

còn đây/ta thắp nốt chiều nay)…

Một điểm nữa, hình tượng nhân vật xưng tôi, ta với người tình là em, hai hình tượng

ấy (tôi và em, ta và em) hiếm khi xuất hiện trong cùng một không gian, thời gian, hoàn cảnh

trong hiện thực tác phẩm. Tình yêu ít khi đồng hiện, mà chỉ có một người-tôi, đứng trong

hiện tại để nhắc, nhớ về một người khác trong quá khứ-em. Cho nên tình yêu trong ca từ

Trịnh Công Sơn là những cuộc tình đã quá vãng, chìm khuất. Mỗi ca khúc là một chuyện

tình dang dở, li biệt, mở ra những vết thương lòng. Nhân vật trữ tình đóng vai trò như là

người kể chuyện, kể lể cho người đọc, người nghe nghe về chính cuộc tình đã chìm khuất,

tan loãng, không may của mình.

Nhân vật trữ tình với những đặc điểm riêng nêu trên, chúng ta có thể tạm gọi, tạm đặt

cho một cái tên được chăng? Theo thiển ý của chúng tôi, chúng tôi mạo muội, đặt tên là

người tình lãng du hay người tình phiêu lãng trong cõi nhân sinh.

2.2.2. Đối tượng trong tình yêu - hình tượng em

Đối tượng chính của tình yêu được phản ánh trong ca từ Trịnh Công Sơn là hình tượng

nghệ thuật nữ, được tác giả gọi bằng em- đại từ, ngôi thứ hai, số ít. Chú ý kĩ, ta sẽ thấy em

có khi là một người con gái cụ thể. Có khi là nhân vật mang tính chất phiếm chỉ, chung

chung: em là nhân vật được tác giả tưởng tượng ra để có cớ mà đối thoại, tình tự, gửi gắm

những chất chứa trong lòng mình. Chẳng hạn, trong Diễm xưa, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, thì

64

em là một người nữ cụ thể. Còn trong Để gió cuốn đi, thì em là rất phiếm chỉ. Em có thể là

người nữ, cũng có thể là người đọc:

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng

Để làm gì, em biết không?

Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi.

(Để gió cuốn đi)

Xét về khía cạnh truy nguyên nguồn gốc hình tượng nữ trong ca từ, ta có thể phân ra

làm hai kiểu cơ bản. Kiểu thứ nhất, em là một người nữ, đã gắn bó ít nhiều hay đã từng đi

qua cuộc đời người nghệ sĩ. Như thế, em có tên tuổi rõ ràng, xác định. Em là Bích Diễm

trong Diễm xưa, là Bích Khê trong Biển nhớ, là Dao Ánh trong Nắng thủy tinh, là Thanh

Thúy trong Ướt my. Kiểu thứ hai, em là một người nữ mà tác giả gặp tình cờ ở đâu đó, trên

hành trình lữ thứ, chứ không thân thích gì, nhưng họ đã để lại trong ông những ấn tượng đặc

biệt. Người nghệ sĩ, bằng cảm nhận riêng, đã đưa những hình bóng ấy vào tác phẩm của

mình mà có lẽ, chính những người nữ ấy lại không hề hay biết. Ví dụ, em là một cô gái khóc

bên rừng chiều Đà Lạt trong Rừng xưa đã khép, em là một nữ tín đồ Thiên Chúa giáo đi lễ

vào một ngày chủ nhật buồn tại một giáo đường ở Bảo Lộc trong Tuổi đá buồn hay em là

một cô gái lầm lỡ, một nữ tù nhân trong Đời gọi em biết bao lần…

Một đặc điểm nổi bật của hầu hết những hình tượng nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn đã

được nhiều người nhắc đến, đó là nhân vật nữ của ông mang một vẻ đẹp thiên về chất âm

tính, đó là một vẻ đẹp thuần phương Đông. Những người nữ ấy có vóc dáng mình hạc

xương mai, mang những nét mảnh mai, hao gầy. Hiện lên trong ca từ là những thiếu nữ với

mắt xanh xao, với vai gầy guộc nhỏ, với tóc trầm ướp vai thơm, hay những mái tóc bay

ngang trời, và những ngón tay muốt dài. Chẳng hạn, trong Còn tuổi nào cho em là tuổi nào

vừa thoáng buồn áo gầy vai, trong Đóa hoa vô thường là tìm em tôi tìm/mình hạc xương

mai, trong Như cánh vạc bay là vai em gầy guộc nhỏ/như cánh vạc về chốn xa xôi, trong

Tuổi đá buồn là em gầy ngón dài/lời ru miệt mài. Em mang một vẻ mong manh sương khói,

lãng đãng. Một vẻ diễm ảo, vừa hư vừa thực trong cảm nhận của người đọc, người nghe. Do

đó, có người cho rằng người nữ của ông mang một vẻ đẹp lập thể, như tranh trừu tượng.

Nếu như mỗi người nữ là một bức tranh lập thể thì ở mỗi bức tranh ấy, tác giả đã làm nhòe

nó đi, cho một chút “linh lung” (chữ dùng của Xuân Diệu) vào đó. Đồng thời phả vào đó

một nét buồn. Một nét buồn phảng phất. Nét buồn hiện lên đôi mắt, hàng mi hay ở cử chỉ,

dáng điệu. Nét buồn thoáng qua hay đọng lại nơi người nữ càng làm cho bức tranh nhòe và

65

đẹp hơn, có hồn hơn, mang một dáng vẻ riêng.

Để ý thêm chút nữa, ta lại thấy: cái buồn hiện lên trên dung hình của nhân vật nữ là

thứ nỗi buồn không tên. Không thể gọi tên, không thể lí giải, cắt nghĩa rõ được. Chẳng hạn,

hình tượng em trong Tuổi đá buồn:

Trời còn làm mưa, mưa rơi thênh thang

Từng gót chân trần, em quên em quên

Ôi miền giáo đường, ngày chủ nhật buồn

Còn ai còn ai. Đóa hoa hồng

Tàn hôn lên môi, em gầy ngón dài.

(Tuổi đá buồn)

Ta có thể hình dung: một ngày chủ nhật, ngôi giáo đường cổ kính và trầm mặc. Những

tiếng chuông ngân vang, những tháp nhọn trơ vơ, im lìm, vượt lên tán lá. Người thiếu nữ

với dung hình mảnh mai, với gót chân trần, dạo bước, hướng về giáo đường. Hai tay em

cầm “đóa hoa hồng tàn” đưa lên môi hôn, trong trời mưa nhạt nhòa… Trong nụ hôn đóa

hồng tàn ấy, có điều gì đó như là sự xót xa, như là sự nuối tiếc. Em mười tám, em hai mươi

tuổi, thứ tuổi trời mộng mơ chan chứa ấy, lẽ ra em phải hồn nhiên, vô tư mới đúng. Vậy mà

sao em lại buồn bã đến như thế? Và nói như Bùi Vĩnh Phúc, hình ảnh có pha chút xót xa.

Hình ảnh kì lạ ấy đã ám ảnh người nghe biết bao thế hệ, từ khi ca khúc ra đời đến nay,

“Trịnh Công Sơn đã để một nét thiếu tuyệt đẹp trong bức tranh mưa của mình” [20; tr.155].

Rõ ràng, hình ảnh ấy rất đẹp, mà lại cũng rất buồn. Bức tranh ẩn chứa một nỗi buồn khó có

thể lí giải được một cách cụ thể. Do đó, ta có thể tạm gọi nó là nỗi buồn siêu thực.

Hình tượng nhân vật nữ, như đã nói ở trên, mang hai thuộc tính: hao gầy trong hình

thể và buồn trong tâm thể. Chú ý chút nữa, ta lại thấy một điều lí thú: dường như quan niệm

thẩm mỹ, xu hướng thẩm mỹ của Trịnh Công Sơn có phần giống với quan niệm thẩm mỹ

của người Nhật Bản, mà đại diện là Kawabata - “người lữ khách ưu sầu đi tìm cái đẹp”, nhà

nghệ sĩ duy mỹ và cũng là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Nhật Bản. Kawabata sinh

thời đã có tác phẩm nổi tiếng Đẹp và buồn, trong đó, ông tái hiện những nhân vật của mình

ở cái chiều sâu bên trong nội tâm, tầm hồn của họ. Hầu hết những người phụ nữ của ông đều

đẹp, một vẻ đẹp bên trong, mơ hồ, u uẩn, khó nắm bắt. Mỹ học Nhật Bản có một khái niệm

độc đáo, đó là “u huyền”. “U huyền” mang một ý nghĩa chỉ bầu không khí thần bí, thâm sâu,

ưu mỹ, tĩnh lặng, buồn và khó lí giải. Liên hệ với người nữ trong Tuổi đá buồn, Còn tuổi

nào cho em, Tôi ru em ngủ… chúng ta cảm nhận được có một nét đồng điệu, gần gũi, giống

66

nhau nào đấy giữa Trịnh Công Sơn và Kawabata. Trong mỹ học Nhật Bản, nỗi buồn, nỗi u

sầu, cô đơn và sự mong manh, tịch lặng không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp. Bởi vẻ đẹp sẽ

không đầy đủ, nếu thiếu nỗi buồn. Như thế, nỗi buồn như là một “thành phần” cấu tạo nên

cái đẹp. Người nữ của Trịnh Công Sơn cũng vậy, đẹp một vẻ mong manh, hư ảo, như là

sương khói và phảng phất một nỗi “u huyền”. Ưu sầu mà thanh khiết. Tịch lặng mà khó nắm

bắt.

Sinh thời, Trịnh cũng yêu thích những trang văn của Kawabata, song chúng tôi chưa

tìm thấy tư liệu nào nói về sự ảnh hưởng qua lại giữa hai con người này. Vậy, chúng ta có

thể xem đây là sự tương đồng, trùng hợp một cách ngẫu nhiên giữa hai thiên tài duy mỹ.

Cũng vì thế mà những ca khúc như Ru con, Ngủ đi con hay Diễm xưa từ những năm 1970

đã vươn ra khỏi biên giới Việt Nam, đến với xứ sở Phù Tang và đã được công chúng Nhật

Bản đón nhận với một thái độ trân trọng. Có lẽ những ca khúc ấy có giai điệu, hình ảnh,

nhân vật tương đồng với thẩm mỹ của họ.

2.3. Những dạng thức, cung bậc biểu hiện và cảm xúc trong tình yêu Nam nữ

“Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi/tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời”. Chúng

tôi muốn mở đầu phần tìm hiểu về những dạng thức biểu hiện và những xúc cảm của con

người trong tình yêu bằng những ca từ mang nội dung nhị nguyên luận như thế. Bởi theo

quan niệm của Trịnh Công Sơn, tình yêu vô cùng đa dạng và phong phú, bao hàm cả “mật

đắng” lẫn “mật ngọt”. Tình yêu vừa như “biển rộng” lại vừa như “biển hẹp”. Điều đó có

nghĩa là nó mang tính nhị nguyên hay tính hai mặt: nó hàm chứa cả những hạnh phúc, niềm

vui lẫn những bất hạnh, khổ đau. Vừa có cả những cao thượng, hi sinh, tử tế lẫn những ích

kỉ, toan tính và những “điều kiện hóa”. Không những thế, “vô thường” cũng là một biểu

hiện thường thấy của tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Trong phần dưới đây chúng tôi

sẽ đi phân tích những dạng thức biểu hiện tình yêu có tính nhị nguyên và vô thường ấy.

2.3.1. Tình yêu mang đến những cảm xúc say sưa, ngất ngây và niềm hạnh phúc

Tình yêu trong quan niệm của Trịnh Công Sơn chứa đựng hai thái cực, cả niềm hạnh

phúc lẫn nỗi khổ đau. Song nếu ta đọc, nghe hết xuyên suốt các tác phẩm của ông từ đầu

đến cuối thì phải thừa nhận một điều rằng: với ông, tình yêu dường như nghiêng về thứ bất

hạnh, chia ly, tan vỡ nhiều hơn là những nỗi niềm hân hoan, hạnh phúc. Song nói như vậy

không có nghĩa là với ông, tình yêu chỉ toàn mù mịt. Trong hàng trăm ca khúc để lại, ta

cũng thấy thấp thoáng có vài bài mang màu sắc nhịp điệu tươi vui của con người trong

67

những dặm tình bát ngát hương hoa đầu đời.

Trong những dạng biểu hiện có ý nghĩa tích cực của nó, tình yêu đã mang đến cho con

người những cảm xúc say sưa, ngất ngây, trào dâng niềm hạnh phúc tưởng chừng như vô

bờ. Ông nói: “Con người không thể sống mà không yêu” [32; tr.166]. Điều đó có nghĩa là

tình yêu cũng thiết thực, cần thiết như cơm ăn, nước uống hàng ngày. Nó cũng là một dạng

nhu yếu và có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống tình cảm con người. Đối với Trịnh Công

Sơn, tình yêu là sự sống, là nắng hửng trong lòng, nó đem đến cho con người những “cảm

giác sống”:

Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố

Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ

Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa

Làm lời lá bay trên đường đi

Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia

Làm hồng chút môi cho em nhờ.

(Cho đời chút ơn)

Nhìn bóng dáng em thướt tha đi về bên kia phố, bỗng lòng chàng trai dấy lên những

nỗi vui “như đời rất lạ”. Nhưng tại sao tác giả lại viết “tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa”?

Lời ca thơ tưởng chừng như có điều gì đó vô lí. Bởi tôi luôn là tôi. Tôi là tồn tại. Tôi là hiện

hữu. Vậy tại sao “tôi tìm thấy tôi”? Thì ra là, biết bao lâu nay, tôi vẫn sống đấy, tôi vẫn tồn

tại đấy, tôi vẫn hiện hữu đấy. Nhưng do không thấy được “gót xa”, không cảm nhận được

những sắc màu của những sen xanh, sen hồng một đóa là em. Không cảm nhận được vẻ đẹp,

bóng mát lụa là ấy, nên sự sống của tôi đã trôi đi như con tàu chở thời gian băng đi trong vô

nghĩa. Bấy lâu nay tâm hồn tôi đã kết bạn với những hoang vu, cằn cỗi, vô vị và tẻ nhạt.

Một đời sống quá ư đơn điệu như thế thì sự hiện hữu, có mặt trong cõi đời này, cũng coi

như một sự tồn tại không hơn không kém. Ngày kia, em đến bên đời, với những líu lo xa

gần, với những yến oanh thiên thần, đã đánh thức dậy trong tôi cái “bản năng yêu” vốn có bị

khuất lấp, ngủ vùi trong miền hoang vu lâu nay. Kể từ giây phút màu nhiệm ấy, tôi được em

“khai tình”, mở lối và đời sống đã thay đổi. Đổi thay sao mà nhiều quá: “lòng bỗng vui như

đời rất lạ”. Đời sống lạ bởi tâm hồn người đã được mở phơi để đón nhận, cảm nhận mọi thứ

xung quanh. Những gì thân quen, thân thuộc nhất mà hàng ngày vì tính khép kín mà con

người chưa cảm nhận được: những âm thanh, những màu sắc, hay một bông hoa nở trong

vườn khuya dịu đêm trăng, hay những lá me xanh trong một buổi chiều ríu rít tiếng chim.

68

Mọi thứ trong mắt của tôi sao trở nên lạ lẫm và đẹp quá, sao đáng yêu và trong trẻo, tươi tắn

lạ thường. Như thế, tôi đã như dòng sông hoang vu tìm lại được chính mình trong dòng chảy

của nó, tìm được con người mình với một đời sống mới, tích cực hơn, có ý nghĩa hơn.

Gặp em trong tình cờ hay định mệnh run rủi, người nghệ sĩ không cần biết. Chỉ cần

biết rằng tình yêu trong ông đã được ươm mầm, đánh thức cùng với những cảm giác say

sưa, ngất ngây hạnh phúc. Và một niềm tin yêu, niềm vui sống:

Môi thiên đường hót chim khuyên

Ôi tóc trầm ướp vai thơm

Ta nghe đời rất mênh mông

Trong chân người bước chầm chậm.

“Cho đời chút ơn” - đúng như nhan đề ca khúc, em đến bên đời, bước chầm chậm, khẽ

khàng. Em bước đi thong dong, lãng đãng quanh đời. Em lặng lẽ, không nói gì cả. Chỉ như

thế thôi, em cũng đã đem đến cho ta, cho người, cho đời một “chút ơn” rồi. Em là một chút

ơn. Em là nụ đời, là thứ ân huệ mà người làm ơn không cần hi sinh vất vả, còn người chịu

ơn thì lại nhận được rất nhiều: “ta nghe đời rất mênh mông/trong chân người bước chầm

chậm”. Em là “phấn thơm cho rừng chút hương”, là lời hát ca của trần gian, để: “dưới

phường phố kia có người nhớ em/nằm mộng suốt đêm trong thiên đường”. Từ nay, thiên

đường đã mở lối cho tâm hồn yêu đương của chàng thi sĩ. Chàng như vừa đón nhận được

mạch nước khiết từ suối nguồn hạnh phúc. Một cảm giác thật mát dịu, nhẹ nhàng, đang lan

tỏa… Đời sống đã hóa cõi mộng thiên đường, trở nên đáng yêu và đáng sống hơn.

Có khi ta còn thấy được cái tâm thế phơi phới của chàng lãng tử. Với cây đàn lya,

hoàng tử bé đã làm một cuộc thong dong đi tìm kiếm tình yêu, “tìm đêm chưa từng/tìm ngày

tinh khôi” với những kiên trì, nỗ lực miệt mài, không hề chán nản:

Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh

Trăng tàn nguyệt tận, chưa từng tuyệt vọng đâu em.

(Đóa hoa vô thường)

Tạo hóa đã không phụ công chàng. Một ngày kia “thấy em dưới chân cội nguồn”,

chàng đã “mời em về”. Cảnh đón rước tình thật chu đáo và lãng mạn. Có tiếng nhạc hân

hoan, trăng vàng lóng lánh, có quỳnh hoa thơm ngát vườn khuya:

Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan

Trăng vàng khai hội, một đóa hoa quỳnh.

Rồi bất chợt, chàng trai reo lên, như một đứa bé tìm được báu vật:

69

Từ nay tôi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo

Từ nay tôi đã có tình, có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa

Từ em tôi đã đắp bồi, có tôi trong dáng em ngồi trước sân.

“Từ nay tôi đã có tình”, chàng reo lên như một đứa trẻ. Không. Chàng là một đứa trẻ

mới đúng. Trịnh đích thực là một đứa trẻ trong tình yêu. Bởi từ khi có tình, tâm hồn chàng

mới được phục sinh, trở về trạng thái ban sơ: đó là sự hồn nhiên, là tính vô ưu, sự thiết tha,

ân cần, dặt dìu. Chàng nói như một sự xác tín: “có tôi trong dáng em ngồi trước sân”. Trong

dáng lụa em ngồi, tôi như tìm lại được chính mình với những lớp hồn nguyên sơ: tôi là thật

thà, là khờ dại. Tôi là thảnh thơi. Là tự do với sớm nắng mưa chiều. Với hoa trên đồng nội

một sớm kia rất hồng, với cơn mưa trăng gội ánh sáng lên vườn khuya với một đóa quỳnh

đang ngấp nghé…

Như thế, đến với tình yêu, Trịnh Công Sơn mới trở về với bản chất hồn nhiên như là

cội nguồn, như nguyên quán, quê nhà của chàng. Có triết gia đã nói rằng, khi yêu con người

ta như đứa trẻ. Nghĩa là khi yêu tâm hồn người được trẻ hóa trở lại. Đó cũng là quy luật

muôn thuở của cõi tình trong chốn nhân gian. Trịnh Công Sơn đã thay đời, thay người nói

lên được điều đó. Đắm hồn trong tình yêu, Trịnh Công Sơn chính là tín đồ trung thành của

cõi tình, dặm tình trong đời sống này.

2.3.2. Sự cô đơn trong tình yêu

Cô đơn là một khía cạnh biểu hiện của nỗi buồn khổ trong tình yêu. Trịnh Công Sơn

trong đời sống cá nhân và cả trong tác phẩm đều bộc lộ nỗi cô đơn cùng cực của mình. Điều

đáng nói là cảm thức cô đơn, lạc loài trong ca từ của ông là nỗi cô đơn thật, là bản chất như

nhiên của người nghệ sĩ chứ không phải là thứ cô đơn vay mượn, giả tạo. Nỗi cô đơn có hai

nguyên nhân: cô đơn như là bản chất, là bản thể con người, gọi là thứ cô đơn nội sinh; và cô

đơn do ngoại cảnh mang đến.

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, người đọc thường bắt gặp hình tượng nhân vật trữ tình

mang tâm trạng cô đơn như một con người lãng du, độc hành, đi qua những cuộc tình, đi

qua những cuộc đời, “những miền đất lạ”, gánh trên vai cả “đôi vầng nhật nguyệt”, cả “trời

cao đất rộng”. Trong Lặng lẽ nơi này, nhân vật trữ tình xuất hiện với tính cách như là con

người đã từng trải, nếm trải. Nói cách khác là đã có cơ hội đứng trên hai mặt sấp - ngửa,

ngọt - đắng, rộng - hẹp của tình yêu:

Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi

70

Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời

Tình yêu như biển, biển rộng hai vai

Tình yêu như biển, biển hẹp tay người

Biển hẹp tay người, lạc lối.

(Lặng lẽ nơi này)

Bằng thủ pháp đối xứng, tác giả đã dựng hình một cảm nhận đối nghịch của hình

tượng: sau cuộc tình, nhân vật chiêm nghiệm, ngộ ra được những đối lập, những ngọt -

đắng, rộng - hẹp của nó. Tình có rồi lại mất, không thể níu giữ được, “làm sao ru được tình

vơi”. Mất tình, con người cũng “lạc lối”. Cuối cùng tình yêu cũng không níu giữ được người

mình yêu, nhân vật như lọt thỏm vào cõi cô đơn cùng khắp, mất phương hướng, chỉ còn biết

độc hành trong tịch lặng u trầm:

Trời cao đất rộng, một mình tôi đi

Một mình tôi đi, đời như vô tận

Một mình tôi về, một mình tôi về, với tôi.

Không gian trước mắt nhân vật là một cõi mênh mang vô tận. Không phố thị, không

cửa nhà. Không còn người. Không còn ai. Chỉ còn một mình bước hoài. Đi cũng một mình,

“một mình tôi đi”. Về cũng một mình, “một mình tôi về”. Đến câu cuối “một mình tôi về

với tôi” thì chữ với tôi đã làm hiện hình được cái cô đơn, độc chiếc đến tận cùng của con

người. Cảm giác như chới với. Hồn như đã kết bạn với hư không. Nỗi cô đơn này là cô đơn

ngoại sinh, do bên ngoài mang đến: mất tình.

Cũng là nỗi cô đơn từ bên ngoài mang đến, nhưng ở Em đi bỏ lại con đường thì

nguyên nhân bên ngoài đã rõ ràng hơn, như cái tựa đề ca khúc:

Bỏ mặc căn nhà, bỏ mặc tôi

Bỏ mặc nơi đây, bỏ mặc người

Bỏ trăm năm sau, ngàn năm nữa

Bỏ mặc tôi là, tôi là ai.

(Em đi bỏ lại con đường)

Thống kê, ca khúc có 130 âm tiết thì đã có 26 chữ “bỏ” (chiếm 20%) và 2 chữ “em đi”

tương đương “bỏ”. Những chữ “bỏ mặc” đứng đầu câu đã nhấn mạnh, lột tả được nỗi cô

đơn, “hoang vu và nhỏ bé” của hình tượng tôi, đồng thời chỉ rõ nguồn cơn của sự hoang vu

ấy: đó là hệ quả sự phụ rẫy của em đối với tôi. “Em đi bỏ lại con đường”, tôi về với nỗi tiếc

thương bạc lòng. Tôi như tịch lặng trong cõi riêng, cố thu mình nhỏ lại. Dè dặt hơn, khép

71

lòng hơn, nhỏ lại trong thân phận riêng tư.

Con người cô đơn cất bước trên hành trình lữ thứ trần gian ấy cũng có lúc mệt mỏi,

chồn chân, muốn dừng nghỉ hay về lại ngồi yên dưới mái nhà, để mong tìm một chốn trú

ngụ bình yên, một phút giây thanh thản trong tâm hồn. Nhưng khi quay về chốn cũ vườn

xưa rồi, có bình yên đấy, nhưng cảnh vật sao quạnh quẽ quá. Nó quạnh quẽ bởi vườn xưa in

dấu chân người xưa mà nay đã không còn:

Người lên tiếng, hỏi người có không

Người đi vắng, về nơi bế bồng.

(Vườn xưa)

Về chốn cũ, vườn xưa. Đẹp mà buồn. Bình yên mà hoang vu. Chồi hoang vu không

hiện lên trên cành lá, mà mọc trong tim người. Tất cả những kỉ niệm, những êm ấm, hạnh

phúc, thiết thân, gần gũi ngày xưa cùng người giờ đây chỉ còn lại không gian im lìm, vắng

không, tối tăm của góc vườn mưa lặng lẽ kia:

Nhà im đứng, cửa đóng cài then

Vườn mưa xuống, hành lang tối tăm

Về thôi nhé, cổng chào cuối sân

Hờ hững thế, loài hoa trắng hồng.

Nhà vẫn đấy, mà “im đứng cửa đóng cài then”. Vườn xưa xanh đấy, mà nay “mưa

xuống hành lang tối tăm”. Thêm nữa, cuối vườn, loài hoa nở trắng hồng. Đẹp đấy. Mà sao

hờ hững thế… Trước mặt chỉ còn là một không gian lặng lẽ, khép kín và u sầm. Nó khiến

cho nỗi cô đơn của người về chốn cũ trở nên bàng bạc. Con người trong không gian ấy cũng

trầm ngâm, lặng lẽ hơn trong góc hồn mình.

Nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình trong ca từ Trịnh Công Sơn không chỉ có nguyên

nhân từ ngoại cảnh (mất tình, bị phụ tình) mà còn là nỗi cô đơn bên trong: mầm cô đơn mọc

chồi ngay trong bản thể. Nó là bản chất tự nhiên. Trong Đêm thấy ta là thác đổ, người đọc

cảm nhận được một thế giới lơ mơ, vừa thực, vừa ảo. Thế giới ấy hiện lên với bước chân lữ

thứ một đêm đi về gác nhỏ, với đóa tường vi, với cỏ lá mong manh, với cái cựa mình của

đóa hoa mới nở trong vườn khuya... Đặc biệt là âm thanh mơ hồ của thác đổ. Nhân vật trữ

tình như một con người lãng du, có lúc trở về gác trọ, có lúc lại đi về giữa chợ, có lúc lãng

đãng cất bước lữ thứ qua một thành phố đang ngủ trưa bất chợt. Bước chân người rất nhẹ.

Rồi chợt một hôm, con người lãng du ấy gặp lại hồn mình như đốm lửa trong vườn khuya:

Đời ta có khi là đốm lửa, một hôm nhóm trong vườn khuya

72

Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời tôi có ai vừa qua.

(Đêm thấy ta là thác đổ)

Hiện lên trước mắt ta, hình ảnh đốm lửa chập chờn. Vườn khuya, không gian tĩnh lặng.

Hình ảnh trung tâm của bức tranh vườn khuya: đốm lửa. Lửa xưa nay là biểu tượng cho sự

sống, cho niềm khao khát, cho hạnh phúc và khơi dậy cảm giác ấm áp nơi con người. Thế

nhưng hình ảnh đốm lửa chập chờn trong vườn khuya của Trịnh Công Sơn thật kì lạ: nó là

đốm lửa cô đơn. Bởi lẽ, thứ nhất, nó được nhóm lên trong vườn khuya tịch lặng, vắng bóng

con người nên dễ ám gợi cảm giác cô đơn. Thứ hai, hình ảnh ấy là “đốm lửa” chứ không

phải “ánh lửa”. Ánh lửa là sự bùng cháy mạnh mẽ, gợi lên cảm giác ấm áp. Còn “đốm lửa”

thì mong manh, chờn vờn, sáng lên đấy rồi vụt tắt đấy. Đốm lửa ấy còn được so sánh với

đời người, “đời ta có khi là đốm lửa”. Sự so sánh làm bật lên, vỡ ra biết bao nhiêu là ý

nghĩa: đời người, tình yêu cũng tựa như đốm lửa kia. Nó nhỏ bé, chập chờn, mong manh

lắm. Đốm lửa là hình ảnh của vô thường. Đời người, tình yêu cũng vô thường như đốm lửa.

Nhận thức được sự hữu hạn ấy, nhân vật cảm thấy mình bất lực và cô đơn. Bởi tình yêu

dành cho đời, cho người, cho em, cho những mắt môi xưa hồng, cho những đóa tường vi nở

muộn, những đóa lan trong vườn, những sen xanh, sen hồng một thuở… là quá lớn, là vô

biên, vô tận. Vô biên như thác đổ trăm năm. Vô tận như thác đổ nghìn năm. Đổ từ ban sơ,

khởi thủy, cho đến hiện tại, tỉnh ra vẫn còn nghe: “nhiều đêm thấy ta là thác đổ/tỉnh ra có

khi còn nghe”.

Vườn của Trịnh Công Sơn không phải là vườn sớm, vườn trưa mà là “vườn khuya”.

Không gian vườn gắn với thời gian đêm khuya là không gian yên tĩnh. Nó là không gian của

sự hồi tưởng, tiên nghiệm lẽ sống. Con người đối diện với đốm lửa vườn khuya ấy, lại liên

tưởng tới sự mong manh của đời mình. Con người tồn tại trong sự đối nghịch: xác thân là

đốm lửa chập chờn hữu hạn, mà tâm hồn lại là thác đổ tình yêu vô cùng. Thấy được sự hữu

hạn ấy, con người sinh ra cô đơn, nuối tiếc. Nhìn một đóa hoa mới nở góc vườn khuya mà

đã cảm giác như sắp mất một tình yêu, như một người tình vừa đi qua đời mình, “vườn

khuya đóa hoa nào mới nở /đời tôi có ai vừa qua”. Như thế, cái cô đơn ở đây là thứ cô đơn,

buồn bã mang tính bản thể, là bản chất, là cội nguồn, nó cắm rễ sâu trong tiềm thức con

người. Nó là thứ cô đơn tuyệt đối của một tâm hồn nhạy cảm trong tình yêu, cõi hữu hạn

này.

73

2.3.3. Nỗi ám ảnh, nhớ nhung và gắn bó với một bóng hình người nữ

Có triết gia nói rằng, tình yêu không bao giờ cũ, nó luôn luôn mới. Quả thực, khi bước

vào khu vườn địa đàng tình yêu, mỗi người có những cách cảm nhận khác nhau. Thậm chí

khi yêu người này ta có cảm nhận khác khi yêu người kia, không ai giống ai. Song vẫn có

những cảm xúc, tình cảm mang tính phổ quát, phổ biến của con người trong tình yêu. Một

trong những tình cảm ấy, đó là nỗi nhớ nhung. Trong ca từ Trịnh Công Sơn, ta bắt gặp khá

nhiều những nỗi nhớ, những hoài niệm, những ám ảnh trong kí ức của nhân vật trữ tình về

một bóng hình người nữ.

Trịnh luôn có một thái độ sẵn sàng đón nhận tất cả những tình cảm mà những người

nữ, những đóa sen xanh sen hồng dành cho ông với một niềm thiết tha ân cần và đầy trân

trọng. Khi tình đến, Trịnh vui mừng, hân hoan trong lòng. Nỗi vui còn hiện lên ánh mắt, cái

nhìn, trong cử chỉ. Khi người tình ra đi, Trịnh chỉ còn lại những mùa thao thức nhớ nhung,

những quạnh hiu, tiêu điều:

Em đã đi, chìm khuất đã theo

Em đã như ngọn gió quạnh hiu

Không có em, đường cũ tiêu điều

Em đã xa lìa trong nỗi đau.

(Còn ai với ai)

“Em đã đi, chìm khuất đã theo”, bủa vây hồn người ở lại. Ngày xưa, khi em đến, em

và tôi cùng mơ mộng và lãng đãng đi qua những con đường. Những con đường trăng tròn.

Và những con đường trăng khuyết. Nhưng hiện tại, khi em đi, đường cũ bỗng hóa tiêu điều.

Sự tiêu điều không khắc dấu lên hàng cây, tán lá mà ẩn dấu trong đáy mắt, tâm trạng của kẻ

đi qua đường cũ - con đường kỉ niệm. Chỉ còn lại một thứ: nỗi nhớ “muôn trùng quá”. Nỗi

nhớ trùng trùng điệp điệp, lớp lớp sóng xô. Dâng cao như núi, đong đầy như sông như biển

muôn trùng lên khơi:

Em đi biền biệt muôn trùng quá

Từng cơn gió và từng cơn gió

Em đi gió lạnh, bến xa bờ

Từng nỗi nhớ, trùng trùng nỗi nhớ.

Cũng có khi, nhân vật trữ tình nhập hồn vào những cảnh vật là chứng nhân cho cuộc

tình, để nhớ về một dáng liễu yêu kiều ngày xưa. Trong Biển nhớ, tác giả đã hóa thân vào

nhiều cảnh tượng, sự vật khác nhau. Đó là những “bờ cát trắng đêm khuya”. Đó là những

74

“đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ”. Là “sỏi đá”, là “cồn đá rêu phong”, là biển sóng mênh

mông, là đèn phố vàng vọt “nghe mưa tủi hờn”:

Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về

Gọi hồn liễu rũ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya

Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ

Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ.

(Biển nhớ)

Cảnh vật hiện lên đong đầy kỉ niệm. Hồn người đã tạc vào không gian, tạc vào dáng

liễu, tạc vào bờ cát trắng mà ngày xưa hai người chân trần đi dọc bãi biển trong những đêm

trăng mờ tỏ với những thổ lộ, tâm tình riêng tư. Cảnh ở đây là cảnh thực (phố biển, đồi núi

Quy Nhơn), mà cũng là tâm cảnh. Nên cảnh vật và hồn người như có sự tương giao, hòa vào

nhau. Cảnh đong hồn người, kết thành nỗi nhớ. Nên nỗi nhớ cứ chập chờn, bảng lảng, mông

lung. Đồi núi cũng “nghiêng nghiêng” mang tâm trạng đợi chờ với nỗi nhớ xanh ngời liêu

trai. Những “sỏi đá” ngu ngơ lặng yên dưới làn nước kia mà ngày xưa hai người cùng ngồi

ngắm sao khuya dường như cũng có hồn. Bởi thế, chúng lặng yên dưới đấy mà vẫn “nghe”

ra được những nỗi niềm, những tâm sự của chàng trai với người tình, của mối tình liêu trai

với những cảm xúc hồn nhiên, trong veo như làn nước biển. Biển mất dáng người xưa, nên

sỏi đá dường như cũng biết thổn thức, thao thức những mùa nhớ nhung. Sỏi đá đã hóa tâm

hồn để mong ngóng “trông em từng giờ”, để “nghe buồn nhịp chân bơ vơ” lạc bước của ai

kia đang thẫn thờ với trời cao, phố biển:

Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về

Triều sương ướt đẫm cơn mê

Trời cao níu bước sơn khê.

Nỗi nhớ được nhấn mạnh, dựng hình bằng một màu sương khói, hư ảo của một buổi

“triều sương” làm “ướt đẫm cơn mê”, bằng điệu “níu bước sơn khê” của trời cao.

Trong Tình nhớ, thời gian quá vãng được thể hiện rõ. Nhân vật trữ tình từ hiện tại nhớ

về một cuộc tình “ngỡ đã xa xưa”, khuất chìm như “bóng chim cuối đèo”:

Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng

Người ngỡ đã xa xăm, bỗng về quá thênh thang

Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều

Như từng cơn nước rộng, xóa một ngày đìu hiu.

(Tình nhớ)

75

Một cuộc tình tưởng đã xa xôi, chìm vào quên lãng. Kỉ niệm tưởng đã ngủ vùi cùng

với rong rêu thời gian. Lòng người như tỏ ra “cố lạnh lùng”. Nhưng không. Tất cả vẫn còn

đó, vẫn xanh rì kí ức. Hình ảnh kí ức nổi bật mà tác giả nhớ nhất là cái lồng lộng của áo

xưa, người xưa, “ôi áo xưa lồng lộng/đã xô dạt trời chiều”. Một tà áo trong quá khứ, nay

hiện về, chập chờn trong tâm tưởng, lại càng trở nên lồng lộng hơn, có khả năng lấn át tất

cả. Lấn át cả những gì trong hiện tại, xô dạt cả trời chiều kia, khiến cho nhân vật trữ tình có

cảm giác tà áo ấy, con người ấy, bước chân ấy như vẫn còn quanh quất đâu đây:

Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây

Những bước chân mềm mại, đã đi vào đời người

Như từng viên đá cuội, rớt vào lòng biển khơi.

Trịnh là người luôn mang tâm trạng nhung nhớ, ôm ấp dĩ vãng, hoài niệm về những gì

đã qua với một tâm thế nằng nặng pha lẫn chút ngậm ngùi. Ông là người sống bằng những

miền hoài niệm. Có những lúc ngắm một đóa hoa, Trịnh nhớ tới người xưa, bởi “vườn năm

xưa em đã đến”, bởi em là hoa và hoa cũng là em. Có lúc đứng trước khung cảnh rộng mở,

như đồi núi thênh thang hay hồ nước “long lanh ngàn cánh vàng” của mùa xuân, bỗng nỗi

nhớ dựng hình lên khơi. Có lúc, nỗi nhớ lại bảng lảng qua những buổi chiều một mình qua

phố, “âm thầm nhớ nhớ tên em”. Nỗi nhớ nhung hiện hữu trong mọi không gian, thời gian,

cả bằng ý thức lẫn cõi vô thức, “triều sương ướt đẫm cơn mê”. Song có điều đặc biệt là dù

nhớ về ai, thì hầu như tâm trạng nhớ nhung của nhân vật cũng mang một nét âm thầm, trầm

lắng, dịu nhẹ và man mác, đôi khi nằng nặng, pha lẫn một nỗi niềm u uẩn khôn nguôi, chứ

không phải là thứ nỗi nhớ cồn cào, khát khao bỏng cháy như tình yêu trong tác phẩm thi ca,

âm nhạc của những tác giả khác. Trong Ru ta ngậm ngùi, ông viết:

Có đường phố nào vui, cho ta qua một ngày

Có sợi tóc nào bay, trong trí nhớ nhỏ nhoi.

(Ru ta ngậm ngùi)

Tác giả nhớ đến người tình thông qua hình ảnh còn đọng lại trong kí ức: sợi tóc của

nàng. Trong ca từ của Trịnh, hình ảnh tóc mây, mái tóc bồng bềnh, mái tóc bay ngang trời,

tóc xõa ngang vai, tóc gầy bay trong gió, nói chung là một mái tóc, đóa tóc, ta đã gặp nhiều.

Nhưng một sợi tóc thì ít thấy, “có sợi tóc nào bay, trong trí nhớ nhỏ nhoi”. Đây là thủ pháp

hoán dụ: nhớ đến một dáng xưa thông qua hình ảnh của một sợi tóc còn đọng lại trong trí

nhớ. Trí nhớ nhỏ nhoi thì đã khuất lấp cùng với rong rêu thời gian, phù du của hiện hữu,

nhưng tất cả những thứ ấy cũng không thể nào làm Trịnh quên được một dáng hình người

76

nữ đã từng đi qua đời mình. Sợi tóc bay ngang trời vẫn còn đọng lại đó. Cũng tựa như kí ức,

nỗi nhớ về một tà áo lồng lộng xô dạt cả trời chiều. Nỗi nhớ ấy thật dai dẳng, mà cũng thật

mênh mang.

2.3.4. Nỗi day dứt, ăn năn, nuối tiếc của hình tượng tôi

Trong một số ca khúc, người đọc, người nghe thỉnh thoảng cũng bắt gặp hình tượng

nhân vật tôi - chủ thể trữ tình - với những cảm xúc ăn năn, nuối tiếc, dứt day, trăn trở trong

tình yêu cũng như trong đời sống. Thứ cảm xúc này có khi hiển hiện rõ lên câu chữ, ca từ,

cũng có khi bàng bạc qua nhịp điệu, giai điệu ca từ. Cảm xúc nuối tiếc, ăn năn, day dứt cũng

đã ít nhiều xuất hiện ở những thi sĩ thơ Mới, rõ nhất là trong tác phẩm của “ông hoàng thơ

tình” - Xuân Diệu: còn trời còn đất nhưng chẳng còn tôi mãi/nên bâng khuâng tôi tiếc cả

đất trời. Nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra có một nét tương đồng giữa Trịnh Công Sơn và Xuân

Diệu. Cả hai người thơ này đều bị ám ảnh bởi thời gian, mang cảm thức thời gian, nuối tiếc

thời gian đời người và dường như mang một nỗi sợ vô hình: sợ thời gian sẽ lấy đi, mang đi

tuổi trẻ, tình yêu và mọi thứ. Ý thức được thời gian là cỗ máy siêu hình tạo tác và phá hủy

mọi hiện hữu, Trịnh Công Sơn luôn nuối tiếc những gì đẹp đẽ đã qua đi. Song giữa “ông

hoàng thơ tình” và “ông hoàng tình ca” vẫn có sự khác nhau: Xuân Diệu vì sợ thời gian tàn

phai năm tháng, tàn phai tình yêu, tuổi trẻ mà hóa ra khát khao một cách cuống quýt, vồ

vập, muốn ôm, muốn riết, muốn thâu, muốn cắn, có phần bạo liệt và mạnh mẽ, dục giã và

hối thúc. Trịnh Công Sơn thì ngược lại: nuối tiếc tình yêu, tuổi trẻ với một tâm thế trầm tĩnh

và nhẹ nhàng hơn. Xen lẫn chút sắc màu buồn bã và chịu đựng hơn, theo cái điệu lối của

một con người minh triết.

Trong cõi thâm u của hồn mình, thi sĩ thời gian biết được rằng con người chỉ là một

thân phận hữu hạn. Kiếp rong chơi chỉ là trăm năm. Cuối cùng rồi cát bụi, thiên thu cũng sẽ

phủ bóng lên hiện hữu. Mà tình yêu ông dành cho người tình, cho đời là quá lớn. Trái tim

quá lớn, ông ôm hết, nhận hết vào lòng mình những tình cảm, những thiết tha của những

người nữ đến với ông. Nhưng dường như không thỏa. Không thỏa bởi mùa xuân của tình

yêu, đời người vẫn trôi đi quá nhanh, “dòng sông trước kia tôi về/giờ đây đã khô không

ngờ”. Những người nữ đến bên ông một cách lặng lẽ. Và ngồi, không nói. Em không nói

điều gì. Bởi sự hiện diện của em trong cuộc đời tôi đã là một ý nghĩa, đã đem đến cho tôi

một nguồn vui sống với đời. “Tay em kết nụ” hay chính em là một nụ hoa, nụ đời? Chỉ cần

được thấy em líu lo xa gần, là tâm hồn tôi đã được nuôi dưỡng, được “nuôi trọn một đời”

77

rồi. Nhưng ông biết rằng, người tình - em cũng chỉ là cơn gió. Cơn gió sẽ bay đi. Em là một

nụ hoa. Nụ hoa sẽ tàn trong một chiều hôm nắng vãn. Em là gót hài. Gót hài sẽ tan biến, in

dấu trên dòng sông lặng lẽ đôi bờ thiên thu. Như thế, em đến bên đời, chở một mùa xuân

hấp tấp. Mùa xuân vừa đến, nhưng đó là “mùa xanh lá vội”, nên lòng ông bỗng như hồn hoa

cỏ dại, khơi lên một nỗi niềm ăn năn, nuối tiếc khôn cùng với thời gian, đất trời, năm tháng:

Thôi ngủ đi em, mưa ru em ngủ

Tay em kết nụ, nuôi trọn một đời

Nuôi một đời người. Mùa xuân vừa đến

Xin mãi ăn năn mà thôi.

(Ru em từng ngón xuân nồng)

Thi sĩ đã “ăn năn” khi “mùa xuân vừa đến”, bởi ông đã nhìn thấy thấp thoáng “trong

xuân thì có bóng trăm năm”. Mùa xuân quá vội, làm sao kịp yêu hết cõi đời này. Làm sao

chung tình, trọn tình hết với những môi xưa hồng, với những màu áo lụa, những đường xa

áo bay. Con người nhìn thời gian trôi đi, phá hủy mọi thứ mà đành bất lực. Quả là “thân

phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô cùng” vậy.

Đắm trong khí hậu cô đơn, bàng bạc cố hữu của phận mình, Trịnh Công Sơn đã cảm

nhận được tuổi trẻ, đời người trôi đi một cách vô nghĩa. Ý thức được điều đó, con người cô

đơn lại càng cô đơn hơn. Trong hành trình lữ thứ, có đôi khi chàng hoàng tử bé đã mượn

những gác trọ làm “cõi tạm” trú chân. Một ngày kia, tất cả bạn bè, người yêu rời xa, chỉ còn

lại gác trọ đìu hiu. Đối mặt với xa vắng, mênh mông, con người yêu đời ấy bị nỗi cô đơn

vây khốn. Bỗng dưng trong lòng chợt bật dậy những cảm giác nuối tiếc, ăn năn thật lạ, mà

ông gọi là “vùng ăn năn”:

Chiều chủ nhật buồn, nằm trên căn gác đìu hiu

Tôi xin năm ngón tay em thiên thần

Trên vùng ăn năn, qua cơn hờn dỗi

Tôi xin năm ngón tay em đưa vào cô đơn.

(Lời buồn Thánh)

Có lúc ông đã tự trách mình sống sao còn đi bên lề cuộc đời quá, sống sao vẫn còn ơ

hờ, hững hờ trước cuộc đời ngắn ngủi này quá:

Người ngồi xuống xin mưa đầy

Trên hai tay cơn đau dài

Người nằm xuống nghe tiếng ru

78

Cuộc đời đó, có bao lâu mà hững hờ.

(Mưa hồng)

Người nằm xuống nghe tiếng ru. Tiếng ru của tiền kiếp. Tiếng ru ấy là lời nhắc nhở

của thiên thu: cần phải yêu đời sống hơn nữa, yêu người hơn nữa, không thể sống hoài, sống

phí để tuổi trẻ, đời người trôi đi vô nghĩa. Cần phải quý trọng từng giây từng phút và sống

sao cho đáng sống. Phải tận hưởng những giây phút đẹp đẽ của trần gian. Ngắm một đóa

quỳnh nở giữa sương khuya, nghe một tiếng chim hót trong vườn hoa nắng sớm. Hay đơn

giản, chỉ là ngồi một mình ngắm những tà áo dài em mười lăm tuổi, em hai mươi tuổi, với

guốc mộc khẽ khàng gõ từng bước trên hè phố với một ánh mắt chứa chan xuân thì. Đó

cũng là một lối sống không hững hờ mà người ca thơ muốn gửi gắm đến người đọc từ

những tiếc nuối, ăn năn mà chính mình trải nghiệm qua kiếp rong chơi dưới ánh mặt trời

này.

Sự day dứt, nuối tiếc tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn còn biểu hiện qua cách dùng

từ ngữ, động từ “xin”: người ngồi xuống xin mưa đầy. Mùa xuân vừa đến, xin mãi ăn năn

mà thôi. “Xin” không phải là cầu xin, van xin một cách nhu nhược, yếu hèn. Mà “xin” là

một hành động nhận thức tự nguyện, một thái độ biểu hiện tình cảm chân thành, tha thiết,

một thái độ ân cần của con người trước tình yêu.

2.3.5. Nỗi ám ảnh về những cuộc chia ly, tan vỡ và phụ rẫy trong tình yêu

Một nét lớn xuyên suốt ca từ ca khúc Trịnh Công sơn mà hầu như ai cũng dễ nhận ra

là tình yêu trong ca khúc của ông, hầu hết là thứ tình yêu không viên mãn, không đi đến

hạnh phúc. Đó là những cuộc tình dở dang, chia ly, tan vỡ, mở ra những vết thương… Ám

ảnh về những tan vỡ, chia ly không chỉ thể hiện trong nội dung ca từ, mà còn phản ánh rất

rõ trong nhan đề những ca khúc của ông như: Tình xa, Tình sầu, Tình xót xa vừa, Tình nhớ

và nhiều tác phẩm khác.

Sự tan vỡ, chia ly trong tình yêu nếu xét kĩ, ta thấy có hai nguyên nhân. Thứ nhất là do

phụ rẫy, người nữ “bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé/bỏ mặc tôi ngồi giữa đời kia”. Nguyên nhân

thứ hai thì thật khó xác định: những người tình đến một cách lặng lẽ rồi ra đi cũng rất âm

thầm như khi vừa đến, “không hẹn mà đến, không chờ mà đi”. Có lẽ đó là định mệnh. Từ đó

kết tụ trong ông “những vết thương hồn nhiên”. Sự tan vỡ, chia ly xét cho cùng, nó cũng là

một biểu hiện của triết lí vô thường, của tính nhị nguyên theo quan của Trịnh Công Sơn.

Trước hết là những mối tình phụ. Trong đời, ai chẳng được yêu một lần và chẳng từng

79

phụ tình hay bị tình phụ một đôi lần. Tình viên mãn và tình phụ suy cho cùng, là hai mặt

của bức chân dung tình yêu con người. Không phải không có lí khi có người cho rằng, hầu

hết những nhân vật nữ của Trịnh Công Sơn là những khuôn mặt mang tên tình phụ. Trịnh có

lẽ là người được yêu nhiều và cũng là người bị phụ tình nhiều nhất. Từng người tình đến rồi

bỏ Trịnh ra đi, không một lời hò hẹn:

Từng người tình bỏ ta đi

Như những dòng sông nhỏ

Ôi những dòng sông nhỏ

Lời hẹn thề là những cơn mưa.

(Tình xa)

Từng người tình đến rồi đi tựa “như những dòng sông nhỏ”. Những “lời hẹn thề” là

“những cơn mưa” rơi xuống dòng sông, tạ từ phố xá để về biển cả. Không một lời hò hẹn

ngày hội ngộ trùng dương. Chỉ còn lại “thành phố hoang vu/như một lần qua cuộc tình”. Ý

thơ có nét tương đồng với Thề non nước: “Nước non nặng một lời thề/nước đi đi mãi không

về cùng non”. Song có nét khác là kẻ ở lại - suối của Tản Đà thì “khô dòng lệ chờ mong

tháng ngày”. Còn với Trịnh thì không còn chờ mong nữa, mà chỉ còn nỗi hoang vu của một

thành phố không hồn.

Bước vào cõi tình, con người phải chấp nhận một thực tế: hoặc là hạnh phúc viên mãn,

hoặc là dở dang, đau khổ. Bởi như Trịnh đã nói, ông cũng không thể nào hiểu hết được tình

yêu. Bởi nó quá vô cùng.Trịnh linh cảm một ngày nào đó, người tình sẽ bỏ ra đi. Ông thấy

tình yêu vừa là trái cấm, hân hoan, nhưng cũng lắm khi là ảo ảnh, hư không, “môi em hồng

như lá hư không”. Thực vậy, bởi em - người tình, như cánh chim cuối đèo, sẽ vỗ cánh bay đi

vội vàng sau một lần đến bên người:

Cuộc đời cho tôi, cho tôi trái cấm

Trên đôi môi em. Cuộc đời cho em

Cho em có cánh, bay đi vội vàng.

(Giọt lệ thiên thu )

Chính mình chứng nghiệm những chia ly, tan vỡ nhiều như thế, nên trong cõi vô thức

của ông đã thành hình nỗi ám ảnh, thấp thoáng âu lo về cái mong manh chóng tàn chóng

mất của tình yêu. Đang tự tình cùng em trong hiện tại, nhưng ông đã thoáng linh cảm được

cái màu tàn phai sắp sửa, màu biệt ly sắp phủ bóng:

Đã có nghìn trùng trên môi người tình

80

Đã dấu nụ tàn bên trong nụ hồng

Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn

Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn.

(Như một vết thương)

Sự đối lập được khai thác triệt để. Đối lập giữa “môi người tình” trong hiện tại với

“nghìn trùng” xa cách trong mai hậu; đối lập giữa màu nụ hồng với hình nụ tàn; giữa cảm

giác “nồng nàn” với “lạnh lùng”; giữa “đường mòn” với “gập ghềnh”. Những đối cực, biểu

hiện ý niệm dịch chuyển, vô thường của tình yêu. Và nó cũng biểu hiện cái tâm trạng “âu

lo”, thoáng giật mình, ái ngại của ông trong cõi tình.

Có lúc, Trịnh nói rõ nguyên do sự phụ rẫy là bởi giấc mơ “đời cơm áo” của em:

Em theo đời cơm áo, mai ra cùng phố xôn xao

Bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo

Ta ôm tình nặng trĩu, nghe quanh đời mưa bão

Ôi những ngày yêu dấu bọt bèo.

(Yêu dấu tan theo)

Yêu dấu tan theo. Từ đó, kẻ ở lại hồn dâng đầy “mưa bão”. Hồn như vá như khâu,

nằng nặng như lũng sâu, như thân đau muốn nằm. Theo đời cơm áo, em tìm về xôn xao phố

xá với hạnh phúc riêng tư, với xa hoa phù trầm phố thị. Để lại ta chìm vào vực sâu của sầu

muộn, của dở trời lận đận, để cuộc tình chìm mau, chìm khuất như “bóng chim cuối đèo”

trong một buổi chiều tà nhuộm màu hoang hoải:

Một người về đỉnh cao, một người về vực sâu

Để cuộc tình chìm mau, như bóng chim cuối đèo.

(Tình nhớ)

Cá biệt, đoạn cuối của Đêm thấy ta là thác đổ, hình tượng tôi và người nữ xuất hiện

trong khung cảnh dưới gầm trời như một bức tranh siêu thực:

Lòng tôi có đôi lần khép cửa. Rồi bên vết thương tôi quỳ

Vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia.

(Đêm thấy ta là thác đổ)

Lại một hình ảnh chia ly, em đã “bỏ tôi đứng bên đời kia”. Nhưng bức tranh tình phụ

này có điều gì đó thật khó hiểu gieo vào lòng người đọc: người nữ ra đi thì đã đành, nhưng

tại sao lại “mang lời khấn nhỏ”? Em khấn điều gì? Em khấn mong tôi đừng yêu em? Em

khấn, cầu cho tôi ở lại bình an? Em khấn cho em? Em khấn cho tôi? Những câu hỏi không

81

ngừng dăng mắc tâm hồn người đọc. Chú ý, ở đây “lời khấn nhỏ” vừa diễn tả hành động

hình thể lại vừa diễn tả lời nói, ngôn ngữ của nhân vật. Hành động, cử chỉ và lời khấn ấy

thật khó hiểu và mang nét kì lạ. Lại nữa, “rồi bên vết thương tôi quỳ”. Hình ảnh con người

quỳ ngay trên vết thương của lòng mình cũng là một hình ảnh lạ mà ta chỉ thấy trong tranh

trừu tượng. Hai con người, hai tâm trạng, hai tư thế, hai thân phận cùng hiện diện trong một

bức tranh kì bí. Chỉ biết rõ một điều: kẻ ở lại lòng đã “đôi lần khép cửa”. Lòng “khép cửa”

đôi lần bởi nó đã từng mở ra quá nhiều vết thương. Khép cửa bởi tâm hồn đã là một vết

thương - vết thương tỉnh thức, một vết thương không thể lành và đôi lần lại tái phát, “như

khi trời đất trở dạ làm thành một cơn dông bão” [18; tr.188].

Ngoài những khuôn mặt người nữ mang tên tình phụ, ta còn bắt gặp những cuộc tình

sương khói, liêu trai, không hề có sự thề thốt, hò hẹn. Tình chợt đến rồi chợt đi, như mưa

nắng ở trọ trên môi mắt người:

Nắng có còn hờn ghen môi em

Mưa có còn buồn trong mắt trong

Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng.

(Như cánh vạc bay)

Chàng trai linh cảm, lúc đưa em về, đó cũng là buổi tiễn đưa thấp thoáng “nghìn

trùng” xa cách. Bởi em là “nắng”, em là “mưa” và em cũng là gió. Mà định mệnh của nắng

là vụt tắt chiều hôm. Định mệnh của mưa là tạ từ phố xá, cùng dòng sông hội ngộ bên bờ

đại dương. Định mệnh của gió là tạ từ xuân thì để thổi suốt bên bờ thiên thu. Nên chàng

đành ngoái nhìn người tình ra đi mà nuối tiếc: Vai em gầy guộc nhỏ/như cách vạc về chốn

xa xôi. Em là cánh vạc. Cánh vạc mỏng manh. Khẽ bay vào đêm thâu. Đêm thâu chìm

khuất, hun hút và sâu hơn. Cánh vạc bay đi, phả lại một không gian lặng yên bất chợt. Một

cái gì đó, thật vô hình, mà cũng thật hữu hình, đã mất… Bao nhiêu rụng rời đã xếp cánh

trong lòng chàng lãng tử cô độc:

Nơi em về ngày vui không em

Nơi em về trời xanh không em

Ta nghe nghìn giọt lệ

Rớt xuống thành hồ nước long lanh.

Đến đây, nỗi đau đã hiện hình: “nghìn giọt lệ” rớt xuống đời, lắng đọng thành “hồ

nước long lanh”. Hồ nước-giọt lệ, hiện thân của nỗi đau tình vùi. Hồ nước thật trong. Cảm

xúc đọng lại lòng người thật buồn. Nỗi buồn thật đẹp, thật thanh khiết. Nỗi buồn ấy đã

82

thanh lọc cảm xúc, khiến tâm hồn người đọc cũng trong hơn, nhẹ nhàng hơn, như được “tẩy

rửa” vậy. Hiệu ứng Katharsis trong ca từ của Trịnh được phát huy cao độ từ những hình ảnh

đẹp mà buồn như thế.

Ở giai đoạn về sau, sự chia ly, tan vỡ được thay thế bởi sự hợp nhất. Nhưng không

phải là hội ngộ trong hạnh phúc viên mãn, mà em và tôi cùng hợp nhất để tan vào nhau, tan

vào hư không, vô thường. Không còn lìa chia, không còn thân phận, không còn mong manh

bến bờ nữa:

Từ đó em là hoa, một sớm kia rất hồng

Nở hết trong hoàng hôn, đợi gió vô thường lên

Từ đó em là sương, rụng mát trong bình minh

Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường.

(Đóa hoa vô thường)

Cuộc tình nào cũng dở dang, dặm tình nào cũng lận đận. Dở dang như một vết thương.

Một vết thương mở ra trăm nghìn vết thương. Lận đận như một nỗi đời, như một định mệnh

khắc dấu lên thân phận mong manh. Đó là thứ tình yêu sương khói, liêu trai, lặng lẽ, loại

tình yêu “đặc thù”, riêng có của cõi tình Trịnh Công Sơn.

2.3.6. Sự đồng cảm, vị tha, bao dung, độ lượng trong tình yêu

Trong tình yêu, cho đến cuối đời, Trịnh Công Sơn vẫn là chàng lãng tử cô độc. Suốt

đời, ông chỉ có những mối tình lãng đãng không bờ không bến. Dường như người tình nào

cũng đến với tâm thế chực chờ để phụ rẫy ông vậy. Dù tình yêu vỗ cánh bay đi biết bao lần,

có những lúc cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực nhưng ông vẫn không hề bị phá sản hay hủy

diệt tinh thần. Vậy điều gì khiến con chim hót chơi trên đầu ngọn lau vẫn đứng vững và

vượt qua được những sân si đời thường ấy?

Tiếp thu giáo lý nhà Phật từ nhỏ, Trịnh Công Sơn đã hiểu được lời dạy của Thích Ca:

phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng. Ngộ được đạo lý ấy, Trịnh đã đi tìm cho mình

một biện pháp, phương cách để hóa giải mọi nỗi đau, bất hạnh, sân si, những giới hạn của

cõi người. Đó chính là cái tâm. Giữ lấy cái tâm, dùng cái tâm để sống với đồng loại. Trịnh

đã làm được điều mà ba trăm năm trước, Nguyễn Du đã nói: chữ tâm kia mới bằng ba chữ

tài. Từ nguồn cội đến với thế giới này, Trịnh như người gieo hạt giống tâm hồn trên mảnh

đất Địa cầu hoang vu, mịt mùng:

Người đi tìm kiếm giữa mịt mùng

Người đi tìm mãi suốt con đường, tấm lòng kia.

83

(Chuyện đóa quỳnh hương)

Lãng du phiêu bồng nghệ sĩ miệt mài đi tìm kiếm cho nhân gian mịt mùng một tấm

lòng, bởi “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Dù chỉ để gió cuốn đi thì cũng cần

phải có. Nhưng một tấm lòng sẽ hữu ích với đời lắm, chứ không hề chỉ “để gió cuốn đi”

đâu. Cái tâm của thiên tài đau khổ ấy đã hiện hình thành đức: sự đồng cảm, tha thứ, bao

dung và độ lượng trong tình yêu (cũng như trong đời sống).

Đầu tiên là sự đồng cảm trong trong tình yêu. Trịnh có những mối đồng cảm kì lạ.

Nhìn người nữ khóc bên rừng chiều, ông bỗng liên tưởng tới “tiền kiếp”:

Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn cỏ khô

Ta thấy em đang ngồi khóc, khi rừng chiều đổ mưa.

(Rừng xưa đã khép)

Đứng từ không - thời gian hiện tại, Trịnh có liên tưởng độc đáo: em chính là “cọng

buồn cỏ khô” mà ta đã “thấy” trong “tiền kiếp”. Câu thơ ẩn chứa một triết lí cao siêu. Con

người vô thường trong luân hồi, kết thúc kiếp này lại mở ra kiếp khác. Trong tiền kiếp, ta và

em là một, cùng là cọng buồn cỏ khô, cùng chung nguồn cội nên có nỗi buồn đau u uẩn

giống nhau. Ta thấu hiểu được nỗi lòng của em (chữ “thấy” không phải là nhìn thấy, mà là

đồng điệu, thấu suốt tâm tư). Bằng lối liên tưởng cùng chung thân phận tiền kiếp, Trịnh đã

gửi một thông điệp chia xẻ, đồng cảm, mong làm vơi đi nỗi sầu muộn của người nữ bên

rừng chiều mưa kia:

Rừng xưa đã khép, em hãy quay về

Rừng xưa đã khép, em hãy ra đi.

“Rừng xưa” là cánh rừng u buồn, chất chứa muộn phiền. Nay nó “đã khép”, nỗi đau đã

khép cửa. Em hãy “quay về” đi. Hãy từ bỏ cõi u buồn ấy, đi tìm nguồn vui và ánh sáng cho

tuổi đời đôi mươi của mình. Trong câu “em hãy quay về” và “em hãy ra đi” thì cụm chữ

“quay về” và “ra đi” không có nghĩa đối lập, mà đều là một: “ra đi” là đi khỏi cánh rừng

buồn đau này; “quay về” là quay về với bến bình yên, hạnh phúc hay nơi nào đó mà chàng

Trịnh đang chờ đợi. Như thế “quay về” và “ra đi” là sự tiếp nối, chứ không phải đối lập.

Qua hình tượng người tình em, chàng hoàng tử bé đã mượn cây đàn lya dạo lên một nốt

trầm, nốt lặng, chuyển tới một thông điệp cảm thông sâu sắc, xuất phát từ trái tim đa cảm đa

sầu của người nghệ sĩ.

Sự đồng cảm với người tình không chỉ là thấu hiểu, đồng điệu mà đôi khi còn biểu

hiện ở một lời nói mang ý nghĩa an ủi, xoa dịu nỗi đau trong quá khứ lầm lỗi:

84

Em về đâu hỡi em, hãy lau khô dòng nước mắt

Đời gọi em biết bao lần.

(Đời gọi em biết bao lần)

“Hãy lau khô dòng nước mắt”, bởi đời đã “gọi em biết bao lần”, để “trả em ngày tháng

êm đềm”, “nắng trong tim”, và “thoáng hương thơm”. Cuộc đời này dù nhỏ bé, nhưng em

hãy giữ vững niềm tin. Khép lại quá khứ lầm lỗi và mở rộng lòng mình, thứ tha cho mình,

lắng nghe và đón nhận những niềm vui, âm thanh mới:

Em về đâu hỡi em, có nghe tình yêu lên tiếng

Hãy chôn vào quên lãng, nỗi đau hay niềm cay đắng.

Em “có nghe tình yêu lên tiếng”? Trịnh hỏi người nữ như để khẳng định, tình yêu vẫn

còn “lên tiếng” trong trái tim em, và cả ngoài đời sống nhộn nhịp kia nữa. Em hãy tha thứ,

cởi trói cho tinh thần và: “hãy yêu khi đời mang đến/một cành hoa, giữa tâm hồn”. Hãy yêu

khi tâm hồn còn là một “cành hoa”, còn đẹp đẽ và cuộc đời còn rộng mở. Hãy rung động

như cành hoa kia và hãy xao xuyến như hương thơm quyến luyến màu sắc. Đừng để xuân

tàn, nguyệt xế trong lạnh băng và hư vô.

Tiếp đến là tấm lòng bao dung, độ lượng, vị tha. Trong Ru em, nhân vật tôi vẫn “ru

em”, yêu em ngay khi đã bị em phụ tình, rẫy bỏ, ngay khi đã “chia xa”:

Ru em ngủ những đêm khuya. Ru em ngủ tháng âm u

Ru em cùng những u mê. Ru em, ru em dù đã chia xa.

(Ru em)

Trong cụm từ “ru em” thì “ru” không phải âm thanh ầu ơ, mà “ru” đồng nghĩa với vỗ

về, hướng vọng theo, nhớ thương. Như vậy “ru em” nghĩa là yêu em. Yêu em, dù em phụ

rẫy, “yêu em, yêu thêm tình phụ/yêu em, lòng chợt từ bi bất ngờ”. Lời ca thật sâu sắc: dù bị

bội phản nhưng Trịnh vẫn “yêu thêm” cả “tình phụ”, yêu ngay cả nỗi phụ rẫy của em. Tha

thứ, bao dung cho những “thèm khát xa hoa”, “những đam mê”, nông nổi một thời của em.

Như thế tình yêu đã bền bền vượt lên sự ích kỉ, vượt lên thói thường nhân gian. Làm được

điều đó, ta cảm thấy lòng mình tốt hơn lên, độ lượng hơn. Như thế là, yêu em “lòng chợt từ

bi bất ngờ”.

Có mối tình bị phụ rẫy từ thời còn trẻ, “em phụ tôi một thời bé dại”. Nhưng rồi đi khắp

thế gian, sau bao thăng trầm, cạm bẫy và dung tục thói đời, em nhận ra rằng trong cõi đời

này chẳng có ai yêu mình bằng một tình yêu thật thà, vô kỉ như Trịnh: “Đêm thì lạnh và gió

mà sự yêu thương Ánh thì đã không còn đủ ngôn từ để gọi. Nỗi nhớ mong nằm trên cao

85

thành phố mùa đông” [19; tr.300]. Cho nên người nữ đã quay về lại, tìm đến Trịnh như một

sự hối lỗi, mong được giãi bày, như tìm về nguồn cội, tìm về với cõi lòng mình. Và Trịnh đã

mở rộng lòng, bao dung, đón nhận tình cảm của cố nhân dù chỉ là một sự trả nợ muộn

màng:

Hai mươi năm em trả lại rồi

Trả nợ một đời xa vắng vòng tay

Hai mươi năm vơi cạn lại đầy

Trả nợ một thời môi vắng vòng môi.

(Xin trả nợ người)

Tiểu kết

Trên đây, chúng tôi đã trình bày quan niệm, cùng những biểu hiện của tình yêu nam nữ

trong ca từ Trịnh Công Sơn. Loại tình yêu ấy bao gồm nhiều mặt: cảm xúc say sưa hạnh

phúc; sự cô đơn; nỗi nhớ nhung; ám ảnh về sự chia ly và phụ rẫy; thái độ bao dung, độ

lượng trong tình yêu. Biểu hiện của tình yêu nam nữ thật đa dạng và phức tạp.Tất cả những

nội dung ấy đã kết thành diện mạo riêng biệt của thứ tình yêu đặc thù liêu trai, vô thường,

mong manh, dễ tàn dễ mất và không có kết thúc viên mãn, hạnh phúc. Đó chỉ có thể là cõi

tình của Trịnh Công Sơn.

86

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CON NGƯỜI THÂN

PHẬN VÀ TÌNH YÊU NAM - NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG

SƠN

Mở đầu

Sở dĩ nhiều người cho rằng Trịnh Công Sơn là “người ca thơ”, là “phù thủy của ngôn

ngữ”, là thi sĩ… bởi ca từ ca khúc của ông có tính thơ, như là những bài thơ đích thực. Mà

đặc trưng của thơ (và nghệ thuật nói chung) là phương thức tư duy bằng hình tượng. Chất

liệu để xây dựng hình tượng thơ chính là ngôn ngữ, đúng như Martin Heiderger đã từng nói:

ngôn ngữ là căn nhà của hiện hữu, là chỗ an cư của tính thể. Có nghĩa là thi sĩ, bằng tài năng

sử dụng ngôn ngữ của mình, sẽ sáng tạo ra một “hiện hữu”, một thế giới, hay những hình

tượng nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Trịnh Công Sơn, bằng cách sử dụng ngôn ngữ

theo một lối riêng, đã vẽ nên một thế giới độc đáo, không hề lẫn với bất cứ một nhạc sĩ, thi

sĩ nào. Đó là một hiện hữu, một thế giới đan xen giữa hiện thực và mộng ảo, giữa cõi thực

và cõi siêu thực, hay như Bùi Vĩnh Phúc nói, đó là thế giới “lai”. Chính cái thế giới vừa gần

gũi vừa lạ lẫm ấy đã làm nên tên tuổi của người ca thơ Trịnh Công Sơn. Khảo sát ca từ ca

khúc Trịnh Công Sơn, chúng tôi thấy có rất nhiều vấn đề về nghệ thuật ca từ, mà chắc rằng

đó sẽ là mảnh đất vô cùng rộng lớn cho các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu dưới

những góc độ khác nhau. Về nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu trong ca

từ Trịnh Công Sơn, chúng tôi giới hạn chỉ đi vào hai vấn đề căn bản nhất: (1) việc khai thác,

sử dụng hệ thống từ ngữ; và (2) việc khai thác sử dụng các phương thức diễn đạt, bao gồm

các thủ pháp tu từ và cách sử dụng câu. Từ đó, soi chiếu, làm sáng tỏ, làm hiện lên cái thế

giới nghệ thuật cũng như chiều sâu tư tưởng, tinh thần nhân văn ẩn chứa đằng sau lớp vỏ

ngôn ngữ ấy. Qua đó rút ra những nhận xét cần thiết về hiệu quả của nghệ thuật biểu hiện và

đóng góp ngôn từ của Trịnh Công Sơn.

3.1. Nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu trong ca từ Trịnh

Công Sơn

3.1.1. Về việc khai thác và sử dụng hệ thống từ ngữ

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhận thấy có những điểm độc đáo trong việc

khai thác và sử dụng hệ thống từ ngữ, bao gồm cả việc sử dụng những tính từ, danh từ và

động từ. Trong đó, ông thường sử dụng hệ thống tính từ là nhiều hơn cả: có những tính từ

87

rất mới lạ, lại có những tính từ quen thuộc nhưng được ông sắp xếp với những từ khác để

tạo nên hiệu quả biểu đạt bất ngờ. Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ hai khía

cạnh trên cấp độ từ ngữ, đó là cách sử dụng tính từ và việc lạ hóa từ ngữ trong ca từ của

Trịnh Công Sơn.

3.1.1.1. Việc khái thác và sử dụng tính từ

Ca từ Trịnh Công Sơn luôn mang một sức mạnh ám ảnh người đọc, người nghe đến kì

lạ. Nó khiến cho chúng ta nghe một lần là bị ám ảnh và nhớ mãi. Sở dĩ nó làm được điều đó

là vì nhiều lẽ. Tuy nhiên, chúng tôi thấy ông có xu hướng nghiêng về sử dụng tính từ nhiều

hơn là danh từ và động từ. Đáng nói hơn, những tính từ ông sử dụng đa số là những tính từ

thiên về chất âm tính và thậm chí có nhiều tính từ rất lạ, chưa thấy xuất hiện trong thi ca bao

giờ.

Tính từ là từ miêu tả những tính chất, thuộc tính như hình dáng, màu sắc, âm thanh…

của sự vật. Nó thường đứng sau danh từ để bổ sung phẩm tính, tính chất cho danh từ ấy. Ví

dụ: hoa vàng rực; tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Trịnh Công Sơn rất có ý thức sử dụng hệ thống tính từ trong ca khúc của mình. Điều

đáng nói ở đây là sự kết hợp tính từ của ông rất độc đáo và lạ so với những kiểu kết hợp tính

từ thường gặp trong ngôn ngữ Việt. Chúng ta hãy so sánh cách kết hợp tính từ trong tiếng

Việt và trong ca từ của ông.

Tính từ trong tiếng Việt thường được kết hợp theo những cách sau:

Kiểu thứ nhất: ghép một tính từ với một danh từ (tính từ + danh từ). Ví dụ: to gan,

cứng đầu, vàng chanh… Những tính từ này tự nó có nghĩa, gọi là tính từ tự thân. Ở dạng

này, Trịnh Công Sơn cũng nghép tính từ với danh từ, nhưng là một trật tự ngược lại với

truyền thống (danh từ + tính từ). Chúng tôi có thể liệt kê ra đây một loạt tính từ thuộc loại

này: đời bồng bềnh, gót chân mềm mại, nắng mềm, hồn xanh buốt, mắt xanh xao, lời ca

đau, vết thương sâu, nụ cười mong manh, hồn yếu đuối, bờ môi thơm, chiều bạc mệnh, vòng

tay xanh xao, tay mềm, nụ hồng, môi nồng nàn, lá hư không, lòng lạnh băng, nắng quạnh

hiu… Trong đó chúng tôi thấy có những từ như mong manh (cỏ lá mong manh), xanh xao

(bàn tay xanh xao) thường lặp lại ở nhiều ca khúc khác nhau với một tần số cao hơn những

từ khác. Nó như diễn tả cái quan niệm, ý niệm về tính mong manh, phù du, vô thường của

thân phận, tình yêu và vạn vật theo thế giới quan của tác giả.

Trong hệ thống tính từ của Trịnh Công Sơn, chúng tôi thấy có nhiều từ rất trừu tượng,

nghĩa thật khó xác định, chẳng hạn như lá hư không, phố hồng, phố hư không, chiều bạc

88

mệnh… Thế nào là phố hồng? Phố được trang hoàng, ánh sáng đèn màu hồng? Chưa hẳn.

Màu hồng ở đây không phải là màu thực, đỏ hồng của không gian, cảnh vật, mà có lẽ nó là

màu tượng trưng, là biểu tượng thì đúng hơn. Tương tự, phố hư không cũng vậy. (hư không

vừa là danh từ, vừa được dùng như tính từ, ở đây chúng tôi xem như tính từ). Tính từ hư

không thật mơ hồ, không rõ nghĩa, do đó, phố hư không không có nghĩa là phố không

người, mà nó như muốn nhấn mạnh đến cái ám ảnh mất - còn, biến thiên của đời sống. Với

những tính từ “nhòe” này, bức tranh đã không còn thật nữa, nó lung linh một vầng ảo diệu.

Điều đáng nói là trong hệ thống tính từ mà Trịnh Công Sơn sử dụng, ta ít thấy tính từ

thiên về biểu hiện chất dương tính như mạnh mẽ, vui tươi, hạnh phúc. Mà ngược lại toàn là

những tính từ thiên về âm tính, biểu hiện một thế giới buồn đau, hư hao, xa vắng, cô đơn.

Những tính từ này có tác dụng rất lớn trong việc tạo dựng nên thế giới của những con người

có tính thân phận, chịu đựng, mất mát.

Kiểu thứ hai là những tính từ không tự thân, tức những tính từ vốn không phải tính từ

mà nó thuộc các nhóm từ loại khác (danh từ, động từ), nhưng được sử dụng như tính từ.

Tính từ loại này chỉ xác định được trên cơ sở quan hệ của chúng với các từ khác, trong cụm

từ hay trong câu. Bình thường, khi chúng không đi với các từ khác thì không được coi là

tính từ. Như vậy đây là loại tính từ lâm thời.

Tính từ loại này thường do danh từ chuyển loại. Ví dụ, lụa là phút ấy chưa quên; tay

măng (trôi trên vùng tóc dài); tuổi trời hư vô; tình (đã) nghìn thu; đóa hoa vô thường; mây

phù du; tay rong rêu (muộn màng); tay xanh ngà ngọc…

Trong những ví dụ trên thì những từ lụa là, măng, hư vô, nghìn thu, vô thường, phù du,

rong rêu, ngà ngọc khi tách khỏi cấu trúc văn bản, nó tồn tại độc lập với tính cách là những

danh từ. Nhưng trong văn bản này, nó lại là tính từ, do nó có quan hệ về nghĩa với những từ

khác xung quanh. Khi đứng trong văn cảnh, những tính từ này mang ý nghĩa hơi khác so với

ý nghĩa vốn có của chúng, thường thì đó là ý nghĩa khái quát hơn. Chúng tôi phân tích vài ví

dụ để làm rõ điều này.

Ví dụ 1: Trong câu Lụa là phút ấy chưa quên, thì chữ lụa là nguyên gốc là một danh từ

chỉ chất liệu để làm vải (lụa Hà Đông). Lụa là tên một loại vải mịn, mỏng, dệt bằng tơ.

Nhưng trong đoạn văn bản ca khúc Quỳnh hương:

Em mang cho ta một đóa quỳnh

Quỳnh thơm hay môi em thơm

Em mang cho ta một chút tình

89

Lụa là phút ấy chưa quên.

(Quỳnh hương)

thì chữ lụa là lại là một tính từ, gợi lên những thuộc tính: mềm mại, mát dịu, dịu nhẹ,

nhẹ nhàng… Đặt chữ này vào đoạn ca từ, ý nghĩa hiện lên rõ nét và cụ thể: vẻ đẹp và tình

yêu của em đã gây ra cho nhân vật một cảm giác thật hạnh phúc, làm trào dâng lên trong

lòng một cảm giác thật nhẹ nhàng, êm ái, dịu nhẹ như được đắm mình trong sương mai mát

lành, tinh khiết. Dù em mang đến cho Trịnh một “chút tình” thôi, nhưng Trịnh vẫn nâng niu,

chắt chiu, trân trọng. Như thế đủ biết, ông chân thành như thế nào. Chữ lụa là đã làm sáng

rõ được tấm chân tình ấy.

Ví dụ 2: Trong câu Tay rong rêu muộn màng thì rong rêu nghĩa gốc là một danh từ,

chỉ loài thực vật bậc thấp: rong và rêu. Nhưng đi vào ca từ ca khúc:

Khi về trong mùa đông

Tay rong rêu muộn màng

Thôi chờ những rạng đông.

thì rong rêu lại tồn tại với tính cách như một tính từ, hàm nghĩa chỉ tính chất quá vãng,

muộn màng. Tuổi trẻ đã qua đi trong hư vô, chiến tranh phi nghĩa, tình yêu đã mất, nay chỉ

còn lại cái tuổi già buồn bã, ngậm ngùi, nuối tiếc mà Trịnh Công Sơn đã có lần gọi là cái

tuổi già đáng ghét.

Tóm lại, tính từ được Trịnh Công Sơn khai thác và sử dụng rất đa dạng và linh hoạt,

với nhiều kiểu kết hợp khác nhau, nhằm mục đích diễn tả được cái tình ý của người nghệ sĩ

trong việc biểu hiện quan niệm về con người thân phận và tình yêu. Trong đó hệ thống

những tính từ âm tính là nét đặc trưng riêng có của Trịnh Công Sơn, làm nên nét độc đáo và

phong cách riêng của người nghệ sĩ ngôn từ này. Sự đa dạng trong các cách tạo ra tính từ đã

làm cho ngôn ngữ Việt có thêm những nét nghĩa, những sắc thái tu từ, biểu cảm mới. Làm

được điều đó, Trịnh Công Sơn đã góp phần làm giàu và đẹp thêm cho tiếng Việt, khoác cho

tiếng Việt thêm những bộ áo với những sắc màu mới, lung linh hơn, rực rỡ hơn.

3.1.1.2. Làm mới (lạ hóa) nghĩa cho từ ngữ

Nhiều người cho rằng ca từ Trịnh Công Sơn mang màu sắc diễm ảo, bảng lảng sương

khói và đạt đến mức độ tượng trưng, siêu thực. Điều đó cũng một phần đúng. Để xây dựng

nên thế giới nghệ thuật liêu trai ấy, Trịnh Công Sơn đã làm một cuộc cách mạng trong ngôn

ngữ, đó là việc ông vận dụng thủ pháp lạ hóa: lạ hóa nghĩa cho từ. Nếu thật sự để ý những

ca từ của ông, ta dễ nhận ra: hệ thống từ ngữ mà ông sử dụng không phải quá nhiều, quá đa

90

dạng mà ngược lại, dường như ông có ý thức sử dụng lặp đi lặp lại một số từ ở nhiều ca

khúc (chẳng hạn các từ như xanh xao, hư hao, hư vô, hư không). Song với từng ấy từ ngữ,

ca từ của ông vẫn kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật mang màu sắc lung linh với những

vầng ảo diệu và vô cùng hấp dẫn. Có được điều đó bởi ông đã có ý thức làm lạ hóa hay làm

mới nghĩa cho từ ngữ bằng nhiều cách, trong đó có ba cách đáng chú ý sau:

- Tạo ra từ mới cùng với nghĩa mới;

- Cách nói bỏ lửng;

- Những cách nói lạ.

Vấn đề thứ nhất là tạo ra từ mới cùng với nghĩa mới. Trong ca từ Trịnh Công Sơn,

người đọc dễ dàng “nhặt” ra những từ ngữ lạ, hiếm thấy, thậm chí chưa thấy bao giờ. Chúng

tôi có thể nhặt ra hàng loạt từ ngữ lạ. Từ ngữ lạ được thể hiện ở hai cấp độ: lạ trong nhan đề

ca khúc và lạ ở phần lời của ca khúc. Về nhan đề ca khúc, có thể kể ra những cái tên lạ như:

Mưa hồng, Hạ trắng, Nắng thủy tinh, Tuổi đá buồn, Diễm xưa, Lời buồn thánh, Đóa hoa vô

thường, Cỏ xót xa đưa, Hoa vàng mấy độ, Giọt lệ thiên thu… Về ca từ trong ca khúc, có thể

liệt kê những từ ngữ lạ như: tịch lặng, nắng khuya, phiến ngà, phiếm du, tay hư vô, lá hư

không, vùng tuổi xanh, vùng ăn năn, vết lăn trầm, con tinh yêu thương, bờ mộng mị, áo lụa

thinh không, níu tay nghìn trùng, đá ngây ngô, hài nhung gấm, phiến mây hồng…

Chúng tôi sẽ lẩy ra vài từ để làm rõ ý nghĩa của chúng:

Ví dụ 1: mưa hồng. Mưa là hiện tượng tự nhiên. Xét về màu sắc, ta chỉ thấy mưa màu

trắng. Xét về mức độ thì có mưa nặng hạt, mưa nhẹ hạt, mưa bụi, mưa dầm… Trong thi ca

xưa nay dường như chưa thấy xuất hiện cơn mưa nào được định danh là mưa hồng cả. Rõ

ràng đây là một từ mới, do Trịnh Công Sơn sáng tạo ra. Có thể có nhiều cách hiểu, tùy theo

cảm nhận của người nghe. Cách thứ nhất, có thể hiểu cơn mưa ấy màu hồng (dĩ nhiên chỉ là

tưởng tượng, chứ thực tế làm gì có mưa màu hồng). Cách hiểu thứ hai, cơn mưa buổi chiều

trên thành phố Huế xuyên qua vùng phượng nở, hạt mưa bay lất phất, cùng cánh phượng lả

lướt theo gió, tạo nên một không gian toàn màu hồng, đẹp, lãng mạn một cách rất Huế. Vậy,

mưa hồng là mưa trên cánh phượng. Cách hiểu thứ ba, thiếu nữ văn khoa Huế e ấp, làm

duyên dưới mưa “em đi về cầu mưa ướt áo”, tâm hồn đầy lãng mạn, tinh khôi, nhìn ngắm

cơn mưa tới với một niềm cầu mong mưa thật nhẹ, thật nhẹ, chỉ đủ làm vương ướt nhẹ áo

em thôi, để em còn được tung tăng làm duyên dưới mưa nữa. Vậy, màu hồng là màu tâm

hồn lãng mạn, là cách nhìn đời sống, nhìn thế giới của hình tượng nữ. Màu hồng do đó là

màu hư ảo chứ không phải màu thực.

91

Ví dụ 2: nắng thủy tinh. Xưa nay trong thi ca và đời sống, về màu sắc chỉ có nắng

hồng, nắng vàng; về mức độ thì có nắng nắng nhẹ, nắng gắt; về thời gian thì có nắng sớm,

nắng trưa, nắng chiều, chứ chưa nghe nói nắng thủy tinh bao giờ. Trịnh Công Sơn đã có một

kết hợp lạ: nắng thủy tinh (động từ + danh từ). Từ đó, tạo ra sự mơ hồ, lung linh trong cách

hiểu. Trong một bài viết, tác giả đã nói về nắng thủy tinh như sau: ở Huế mùa hạ thường có

những cơn mưa bất chợt. Có khi vào buổi sáng, thường là vào buổi chiều, một thứ chiều

chưa chiều lắm. Mưa chưa kịp tạnh hẳn, nắng đã đột ngột bừng lên, sáng bằng một thứ ánh

sáng trong vắt như pha lê, như những mảng thủy tinh long lanh trong vườn qua những kẻ

lá, qua những khoảng cách hẹp giữa những hàng cây. Không ai đã đặt tên cho cái màu

nắng ấy. Cả tôi cũng vậy. Chính bản thân nắng ấy tự có tên là nắng thủy tinh. Cái tên cúng

cơm của một thứ tinh thể vô nhiễm ở một phút giây màu nhiệm khi được lọt lòng từ thiên

nhiên. Nắng chiều lên cao để nắng tắt. Và trong phút chốc lạ thường kia những đốm nắng

thủy tinh lung linh chập chờn trên đầu những vòm lá long não xanh mướt để hai hàng cây

long não dài suốt một con đường biến thành những ngọn nến thiên nhiên được thắp lên cho

một ngày sắp hết. Như vậy đủ thấy, tác giả đã có cái nhìn và cảm nhận rất tinh tế, nhạy bén

về những cảnh sắc thiên nhiên xung quanh. Từ đó với chất tài hoa tài tử vốn có, ông đã đặt

tên, gọi tên cho thứ nắng long lanh, trong vắt ấy là nắng thủy tinh. Đó là một cách để tạo ra

từ mới cùng với nghĩa mới. Nhưng trong ca khúc cùng tên, nghĩa của cụm chữ nắng thủy

tinh còn long lanh hơn thế, bởi nó còn được ánh xạ vào nhân vật nữ. Người nữ tuổi mười

lăm mười tám (Dao Ánh - nhân vật trong ca khúc) với ánh mắt, ánh nhìn đầy mộng mơ, hồn

nhiên dạo chơi trong công viên, nhìn ánh nắng với một tâm hồn đầy trong sáng, nên Trịnh

Công Sơn muốn dùng cái màu “thủy tinh”, long lanh, trong vắt như pha lê của nắng để

“đo”, phản chiếu tâm hồn trong veo, hồn nhiên của nàng thiếu nữ. Nên “màu nắng hay là

màu mắt em” là vì thế! Như vậy, màu nắng thủy tinh còn là màu của tâm hồn thiếu nữ:

trong sáng, hồn nhiên, lãng mạn và đẹp. Trịnh Công Sơn dùng chữ thủy tinh (nguyên gốc là

một danh từ) với ý nghĩa như một tính từ. Từ đó, khơi dậy sự đồng sáng tạo trong trí người

thưởng ngoạn, chứ ông không đóng khung, đoạn tuyệt với tư duy người đọc.

Vấn đề thứ hai là những câu nói bỏ lửng giữa chừng. Loại này Trịnh Công Sơn sử

dụng không nhiều, cũng không thể vội kết luận hay hay dở, nhưng rõ ràng, đây là một cách

nói lạ, gây được sự chú ý. Chẳng hạn, những câu như: “Từ khi em là nguyệt/cho tôi bóng

mát thật là” (Nguyệt ca). Hay: “Người tình kia mất con đường về/và trời kia mất em từ độ”

(Níu tay nghìn trùng). Hoặc: “Có riêng em cuộc đời vẫn nhớ/nét quê hương nghìn năm vẫn

92

là” (Chiều trên quê hương tôi).

Trong những câu trên thì những từ “bóng mát thật là”, “mất em từ độ”, “nghìn năm

vẫn là” là những cách nói bỏ lửng, ngập ngừng, nói không trọn ý. Chẳng hạn, nghe câu Nét

quê hương nghìn năm vẫn là thì người đọc sẽ thắc mắc: vẫn là như thế nào? Vẫn là gì?

Trịnh dừng lại, để trí tưởng tượng người đọc bay bổng: vẫn là rất đẹp, vẫn là bình yên. Hiểu

sâu hơn, nét quê hương nghìn năm vẫn là… nghìn năm. Dù cho bao nhiêu thời gian tạo tác,

bào mòn, em vẫn giữ được tình yêu quê hương, yêu đồng lúa chín, yêu màu sim tím thủy

chung, yêu màu áo tím dáng xưa, yêu guốc mộc, áo dài. Em vẫn là người con gái Việt Nam

với những phẩm chất ngàn đời. Như thế là em vẫn giữ được “nét” quê hương, truyền thống

dân tộc, tâm hồn, lối sống, cốt cách dân tộc. Hiểu như thế, chắc sẽ đúng hơn.

Vấn đề thứ ba, những cách nói lạ. Trong một số ca khúc, ta còn gặp những cách nói lạ,

xưa nay chưa hề thấy. Điều đó tạo nên nét riêng biệt, làm nên phong cách ngôn ngữ Trịnh

Công Sơn. Chẳng hạn từ “vừa” trong “tình xót xa vừa”, “môi em hồng vừa”, “giấc ngủ

vừa”. Hay từ “với” trong câu “một ngày đã có em xa nơi này/một ngày với vắng tôi”. Hay

từ “mấy độ” trong “hoa vàng mấy độ”.

Phân tích một trường hợp: từ vừa. Vừa là một từ chỉ mức độ, mang nét nghĩa “không

thừa, không thiếu”, nghĩa tương đương với “đủ”. Cách hiểu thứ hai, nó là một quan hệ từ,

một từ nối (như vừa đi vừa múa). Cách hiểu thứ ba, nó là một từ chỉ sự diễn tiến về mặt thời

gian (vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ). Nhưng ở đây, tác giả đã ghép nó với những từ mà

chưa ai làm: môi em hồng vừa, giấc ngủ vừa. Thế nào là giấc ngủ vừa? người ta chỉ nói

“vừa ngủ xong” (vừa chỉ sự diễn tiến về mặt thời gian, quá khứ gần). Chứ “giấc ngủ vừa”

thì rõ ràng đó là sự kết hợp lạ, và cũng thật nhập nhằng, khó hiểu. Hay - dở chúng tôi không

dám khẳng định bừa, vì cần đợi những nhà nghiên cứu ngôn ngữ chuyên sâu đánh giá.

Nhưng có thể khẳng định được ngay đó là một sự sáng tạo độc đáo riêng biệt, không thể

trộn lẫn, tạo nên một độ vênh, một ấn tượng trong cảm nhận người thưởng ngoạn.

3.1.2. Về việc khai thác và sử dụng các phương thức diễn đạt

3.1.2.1. Về việc khai thác và sử dụng các biện pháp tu từ

Ca từ Trịnh Công Sơn khai thác và sử dụng dày đặc hệ thống các biện pháp tu từ. Phổ

biến nhất là ba biện pháp sau đây:

(1) So sánh tu từ

Theo Đinh Trọng Lạc, “so sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người

93

ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn

toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới

mẻ về đối tượng” [12; tr.154].

Ở dạng đầy đủ nhất, cấu trúc so sánh gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:

A - t - tss - B

Trong đó:

- A: cái được so sánh

- t: phẩm chất, thuộc tính hay cơ sở so sánh

- tss: từ so sánh (như, như là, giống như, là…)

- B: cái được dùng làm chuẩn để so sánh

Tuy nhiên, trên thực tế, người ta có thể đảo trật tự so sánh hay bớt đi một số yếu tố

trong mô hình này. Hệ quả là có 5 biến thể của so sánh lần lượt như sau: đảo trật tự so sánh;

bớt cơ sở so sánh; bớt từ so sánh; thêm “bao nhiêu… bấy nhiêu”; và dùng hệ từ “là” làm cơ

sở so sánh.

Trong so sánh, hai đối tượng thường khác nhau về bản chất, nhưng có một khía cạnh

nào đó đem lại một sự liên tưởng bất ngờ, tạo hiệu quả thẩm mỹ. Giá trị của so sánh là ở sự

liên tưởng, phát hiện và gợi cảm xúc thẩm mỹ. Nó là phương tiện quan trọng để xây dựng

hình tượng nghệ thuật bằng các tín hiệu ngôn ngữ.

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, so sánh tu từ được sử dụng với số lượng rất nhiều, bao

gồm cả những kiểu so sánh có cấu trúc đầy đủ, hoàn chỉnh, lẫn những biến thể, những dạng

đặc biệt, rút gọn của nó. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một vài dạng so sánh mà Trịnh Công

Sơn thường dùng trong hệ thống ca từ của ông.

- Kiểu thứ nhất, dạng có cấu trúc đầy đủ 4 yếu tố:

Đời sao im vắng

Như đồng lúa gặt xong

Như rừng núi bỏ hoang.

(Ru ta ngậm ngùi)

Trịnh Công Sơn đã có những tìm tòi, liên tưởng và phát hiện độc đáo từ những trải

nghiệm của đời sống, cùng với một linh khiếu nghệ thuật thiên bẩm, mới có thể có được

một hình ảnh có một không hai: cuộc đời im vắng, quạnh quẽ “như đồng lúa gặt xong, như

rừng núi bỏ hoang”. Đọc đến đây, trước mắt ta như mở ra cảnh đồng lúa nứt nẻ, trơ những

gốc rạ trong một buổi chiều hoang liêu, loang lổ, im bặt tiếng người. Hình ảnh so sánh thật

94

sinh động, cụ thể. Nó như đóng ghim vào tâm trí người đọc và gợi liên tưởng về sự cô đơn

của kiếp người.

Hay câu “tình xa như trời/tình gần như khói mây” (Tình sầu). Sự so sánh nghe có vẻ

đầy mâu thuẫn: “tình xa như trời” thì có thể chấp nhận được, nhưng tại sao tình lại “gần như

khói mây”? Nghe có vẻ câu chữ rất vu vơ, không hợp lí. Nhưng thật ra là, “khói mây” thì xa

ngái, không dễ gì chạm tới được, vươn tới được. Vậy tình “gần như khói mây” có nghĩa là

rất xa, khó nắm bắt. Như thế ý cả câu là tình yêu rất mong manh, khó nắm bắt, nó vời vợi

như trời, như mây. Đó là cái triết lí mong manh tình yêu mà có lẽ Trịnh muốn gợi ra cho

người đọc chăng?

- Thứ hai là kiểu so sánh rút gọn phẩm chất, tiêu chí so sánh: A như B. Chẳng hạn:

“Bờ vai như giấy mới/sợ nghiêng hết tình tôi” (Thương một người).

Phẩm chất so sánh, người đọc có thể hiểu là bờ vai “gầy guộc, mỏng manh” như giấy

mới, có lẽ cũng đúng. Nhưng tác giả không viết rõ ra, là có dụng ý phát huy khả năng liên

tưởng của người thưởng ngoạn. Nếu nói gầy guộc hay mỏng manh thì sự so sánh chỉ có

được một nét tương đồng, và cũng chỉ nói được cái ngoại hình mà thôi. Nhưng lược đi, giấu

đi thì người đọc có thể liên tưởng: vai em gầy guộc (bởi giấy mỏng), thơm tho (bởi giấy

cũng thơm, giấy mới mà). Và ẩn sau sự mỏng manh, thơm tho của vai gầy ấy là một tâm

hồn trong sáng yếu đuối, cần được chở che, “sợ nghiêng hết tình tôi” là vậy. Như thế lược đi

phẩm chất so sánh, hóa ra lại nói được nhiều hơn là viết rõ. Đó là cái ý tại ngôn ngoại của

thi ca vậy.

Tương tự cấu trúc trên là những câu so sánh:

- Mình như đá, đá lăn vết lăn buồn

- Đại bác như kinh không mang lời nguyện

- Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa

- Tình yêu như vết cháy trên da thịt người

-Tình yêu như trái chín, trên cây rụng rời…

thì những hình ảnh núi rừng cúi đầu, vết cháy, trái chín trên cây rụng rời… đều là

những hình ảnh so sánh lạ và độc đáo, tạo nên dấu ấn phong cách Trịnh Công Sơn.

- Kiểu cấu trúc tiếp theo mà Trịnh Công Sơn cũng hay sử dụng: A là B.

Trong trường hợp này, từ là (quan hệ từ) có giá trị tương đương với từ như, như là,

nhưng sắc thái ý nghĩa thì khác nhau: dùng từ như thì sắc thái so sánh chỉ mang tính giả

định, ví von, chỉ sự tương đồng về một khía cạnh nào đó. Còn hệ từ là mang sắc thái khẳng

95

định, đồng nhất hoàn toàn. Chẳng hạn, trong Đóa hoa vô thường, ông dùng một đoạn thơ

năm chữ có nhiểu câu so sánh theo cấu trúc này:

Từ đó hoa là em

Một sớm kia rất hồng

Từ đó ta là đêm

Nở đóa hoa vô thường.

(Đóa hoa vô thường)

Em được đồng nhất với hoa, với sương, từ đó tạo nên một cơ chế liên tưởng đa chiều:

em là nét đẹp, là nụ hoa, là nụ đời, nhưng hoa lại “nở hết trong hoàng hôn”. Em là sương,

nhưng giọt sương cũng chực chờ để “rụng mát trong bình minh”. Như thế, em là khoảnh

khắc, là chốc lát, là vô thường. Em vô thường, ta cũng vô thường, “ta là đêm, nở đóa hoa vô

thường”. Ta và em cùng tan vào nhau. Trong ta không còn kí ức về bến. Trong em cũng

không còn kí ức về bờ. Ta và em cùng tan chảy vào vô thường, mãi mãi không còn lìa chia

nữa. Qua sự so sánh này, Trịnh Công Sơn đã nêu bật lên được cái ý niệm vô thường trong

tình yêu và triết lí giải phóng bản ngã. Đồng thời ngầm đưa ra một quan niệm về cái đẹp:

phải chăng đóa hoa vô thường ẩn dụ cho cái đẹp bao giờ cũng mong manh, dễ tàn dễ mất?

Cấu trúc so sánh kiểu A là B mang tính chất ẩn dụ rất cao và đem lại hiệu quả nghệ

thuật sâu sắc. Việc hiểu nó còn phụ thuộc vào kinh nghiệm thẩm mỹ và khả năng cảm thụ

của người đọc.

Ngoài ra, Trịnh Công Sơn còn có sự sáng tạo trong việc tạo ra những biến thể của so

sánh. Có những hình ảnh so sánh mà yếu tố phẩm chất so sánh (t) và cả từ so sánh (tss) đều

bị lược bỏ. Cấu trúc được rút gọn: A – B. Chẳng hạn:

Em đến bên đời

Hoa vàng một đóa.

(Hoa vàng mấy độ)

Trong những trường hợp này, sự so sánh có tính ẩn dụ, tiệm cận với ẩn dụ. Do đó, có

thể xem chúng như những hiện tượng trùng phức về thủ pháp, vừa là so sánh, vừa là ẩn dụ.

Ngoài ra còn nhiều biến thể so sánh khác mà do phạm vi nhỏ hẹp của luận văn, chúng tôi

không tiện liệt kê, phân tích ra đây.

(2) Ẩn dụ

Theo định nghĩa của phong cách học, “ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi

96

biểu thị đối tượng này dùng để biểu thi đối tượng kia dựa trên mối quan hệ liên tưởng về nét

tương đồng giữa hai đối tượng” [ 31; tr.279].

Thực chất, ẩn dụ là một kiểu so sánh (so sánh ngầm). Nó khác với so sánh ở chỗ, trong

so sánh người ta thường đưa ra hai sự vật, hiện tượng và kết nối chúng bằng từ so sánh

(như, như là) còn trong ẩn dụ thì hai đối tượng thường vốn khác xa nhau về bản chất hoặc

trong phạm trù suy niệm nhưng lại được đem đặt cạnh nhau. Thông qua sự liên tưởng, kết

nối của người sáng tạo (hay người thưởng ngoạn), bất ngờ lóe lên trong ý thức một nét

giống nhau nào đó giữa chúng. Cái hay của ẩn dụ là người thưởng ngoạn với sự nhanh nhạy

của khả năng liên tưởng, họ tự động kết nối hai sự vật lại với nhau (trước đó người viết chỉ

đưa ra cái biểu trưng) từ đó làm bật lên ý nghĩa ẩn ý chứa trong đó. Sự thú vị là ở chỗ ấy.

Ẩn dụ trong thơ ca gồm nhiều loại:ẩn dụ định danh, ẩn dụ nhận thức, ẩn dụ cảm giác,

ẩn dụ hình tượng, trong đó ẩn dụ hình tượng (ẩn dụ lâm thời) được sử dụng phổ biến hơn cả.

Trịnh Công Sơn thường sử dụng ẩn dụ hình tượng trong ca từ ca khúc của mình để xây

dựng hình tượng nghệ thuật, tạo ra hiệu ứng “nhòe mờ”. Sự vật muốn nói ông dấu đi, chỉ

trưng ra cái so sánh. Từ đó khơi gợi liên tưởng ở người đọc. Chẳng hạn, những hình ảnh

như: đốm lửa (trong Ru đời đi nhé, Ru tình…), đóa hoa (tường vi, hoa quỳnh, sen xanh, sen

hồng), ngựa hồng (trong Chỉ có ta trong một đời, Xin mặt trời ngủ yên), lá cỏ (trong Đêm

thấy ta là thác đổ), đá (trong Du mục, Nguyệt ca), hay những hình ảnh có tính chất trùng

phức như bàn tay, mái tóc đều vừa là ẩn dụ, vừa là hoán dụ.

Chúng tôi sẽ đi vào phân tích một vài ẩn dụ để làm rõ ý nghĩa của chúng.

Ví dụ 1: Hình ảnh đốm lửa xuất hiện khá nhiều trong ca từ Trịnh Công Sơn. Cụ thể:

đời ta có khi là đốm lửa/một hôm nhóm trong vườn khuya; ngoài phố mùa đông/đôi môi em

là đốm lửa hồng; môi em là đốm lửa/cuộc đời đâu biết thế. Song điều đáng nói, lửa của

Trịnh Công Sơn hầu hết là “đốm lửa” chứ không phải “ánh lửa”. Đốm lửa là cái vụt lên,

manh nha, thoáng chốc rồi tắt. Do đó nói đôi môi em là đốm lửa hồng thì không phải tác giả

có ý miêu tả màu sắc đôi môi người thiếu nữ đỏ hồng như lửa mà đó chỉ là hình ảnh ngầm

chứa một ẩn dụ: đôi môi tượng trưng cho người nữ, cho vẻ đẹp, cái đẹp. Còn đốm lửa tượng

trưng cho ý niệm vô thường, cái mong manh vụt sáng vụt tắt. Như thế ý cả câu có thể hiểu

là: cái đẹp là cái mong manh dễ tàn dễ mất- một quan niệm thường thấy trong nhiều ca khúc

của ông. Xâu chuỗi câu này với câu cuối tác phẩm thì quả đúng như vậy, “cho ta ôm lấy vai

thon/cho ta ôm lấy mong manh”. Như thế ẩn dụ ngầm chứa quan niệm về cái đẹp, quan

niệm thẫm mĩ của Trịnh Công Sơn.

97

Ví dụ 2: Hình ảnh giọt mưa và nụ quỳnh:

Giọt mưa lặng lẽ trên nụ quỳnh

Quỳnh hương một đóa thoáng hương thầm

Vườn đêm xao xuyến

Một đôi lần đến như người tình

Để cho trời đất báo tin lành, vẫn bình yên.

(Chuyện đóa quỳnh hương)

Nhan đề tác phẩm là chuyện đóa quỳnh hương. Thoạt nghe có vẻ như tác giả kể

chuyện về đóa quỳnh hương, song thật ra chưa hẳn vậy. Hình ảnh giọt mưa và nụ quỳnh ở

đây không chỉ chỉ những hiện tượng tự nhiên (mưa) và loài sinh giới - hoa quỳnh, mà đó

còn là ẩn dụ cho tình yêu đôi lứa. Giọt mưa lặng lẽ trên nụ quỳnh. Ta tự hỏi: giọt mưa lặng

lẽ đến bên nụ quỳnh, gội mát, đem đến sức sống, sinh khởi cho nụ quỳnh hay chính nụ

quỳnh đã nở, xòe rộng mỏng cánh trong vườn khuya để hứng đỡ lấy giọt mưa và làm cho nó

trở nên long lanh, tinh khiết, hạnh phúc trên nụ trên lá? Có lẽ là cả hai. Đó là hình ảnh ẩn dụ

cho tình yêu tự nhiên, tự nguyện: hai người yêu nhau, tự nguyện đến bên nhau, gắn kết, gắn

bó với nhau bởi nhân duyên sinh khởi, “một đôi lần đến như người tình”. Sự hòa hợp giữa

giọt mưa và nụ quỳnh là tự nguyện, xuất phát từ sự chân thành. Bởi chân thành và vô hại,

cho nên nó dự báo một niềm hạnh phúc, “để cho trời đất báo tin lành, vẫn bình yên”. Như

thế, duyên khiến con người hòa hợp, tựa như đêm khuya và cơn mưa là cái duyên đem đến

sự hòa hợp giữa giọt mưa và nụ quỳnh trong vườn mưa khuya kia. Vậy, đây có thể là ẩn dụ

về một tình yêu, có thể thoáng chốc hay lâu bền, nhưng đẹp. Kể chuyện về nụ quỳnh cũng là

kể về một chuyện tình của tác giả, hay của mỗi cá nhân chúng ta (nếu chúng ta đồng cảm

được và thấy mình trong đó).

Hình ảnh con ngựa hồng xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn khá nhiều. Con “ngựa

hồng mỏi vó chết trên đồi quê hương” không phải là con ngựa thật, đi nhiều mà mỏi vó. Đó

chỉ là hình ảnh ẩn dụ cho con người thời chinh chiến, phải chịu đựng chiến tranh phi lí, sống

không có lí tưởng nên sinh ra chán chường, chán nản. Ngựa hồng mỏi vó là vì thế. Còn hình

ảnh con ngựa trong câu “Đời vẽ tôi tên mục đồng/rồi vẽ thêm con ngựa hồng/từ đó lên

đường phiêu linh” thì lại là một ẩn dụ khác: biểu tượng cho nhịp bước phiêu du phiêu bồng

trên hành trình trần gian lữ thứ của người nghệ sĩ “trịnh trọng phiêu bồng” (chữ dùng của

Bùi Giáng) vv…

Song, có một điều là Trịnh Công Sơn, khi tạo ra hình ảnh ẩn dụ, cũng cố gắng lạ hóa

98

nó đi, để tạo ra một độ vênh, tạo nên phong cách nghệ thuật của riêng ông. Hình ảnh ngựa

hồng, đàn bò thong dong bước vào thơ ca với dáng điệu lạ lùng. Những lá cỏ, những cọng

buồn cỏ khô vu vơ mà rất ám ảnh, những đóa sen xanh sen hồng, quỳnh hương cứ lấp lửng,

hư hư thực thực. Tất cả chúng mang một nét nhòe. Đó là nét nhòe cố ý, nét kì ảo rất nghệ

thuật, lung linh, ảo diệu vô cùng.

(3) Hoán dụ

Theo Cù Đình Tú, “hoán dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi của đối tượng

này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên mối quan hệ liên tưởng logic khách quan giữa

hai đối tượng” [31; tr.296-297].

Quan hệ logic khách quan bao gồm: quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể; giữa

toàn thể và bộ phận; giữa chủ thể và vật sở thuộc; giữa hành động, tính chất và kết quả của

hành động, tính chất; giữa hành động và chủ thể; giữa số lượng và chất lượng; giữa vật chứa

đựng và vật được chứa đựng; giữa cái cụ thể và cái trừu tượng; giữa tên riêng, tên nhân vật

và tính cách con người.

Cần chú ý, có sự khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ: ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương

đồng, do đó sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi thường khác nhau

về phạm trù. Do đó, ẩn dụ mang nhiều sắc thái chủ quan hơn. Quan hệ giữa hai sự vật trong

ẩn dụ không phải là mối quan hệ có thấy được một cách trực tiếp, nên nhiều khi cùng một

hình ảnh, nhưng sự liên tưởng ở mỗi người lại khác nhau. Ngược lại, hoán dụ dựa vào sự

liên tưởng tương cận, mối quan hệ giữa sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi

tên gọi là có thật, là mối quan hệ khách quan, hiển nhiên, tất yếu, có thể thấy được một cách

trực tiếp và ai cũng thấy như nhau mà không cần phải có những thao tác tìm hiểu đặc biệt

như so sánh, đối chiếu. Do đó, hoán dụ mang tính khách quan nhiều hơn.

Ca từ Trịnh Công Sơn là những lời thơ, những hình ảnh lấp lánh, long lanh sắc màu

tượng trưng. Để tạo nên sắc độ long lanh của những hình ảnh ấy, Trịnh Công Sơn đã có ý

thức sử dụng hoán dụ trong ca từ ca khúc của mình. Nhưng ông thường có xu hướng tạo ra

loại hoán dụ tu từ nhiều hơn là hoán dụ từ vựng.

Đầu tiên là tiểu loại hoán dụ được tạo nên từ mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.

Trịnh Công Sơn hay dùng những bộ phận của cơ thể để chỉ chính đối tượng, con người ấy.

Ta bắt gặp nhiều nhất là những hình ảnh sau:

- Hình ảnh bàn tay . Ví dụ: bàn tay chăn gió mưa sang (Biển nhớ), bàn tay xanh xao

đón ưu phiền (Nắng thủy tinh), bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm (Ru mãi ngàn năm),

99

trên hai tay cơn đau dài (Mưa hồng)… Trong đó, hình ảnh bàn tay trong Mưa hồng, Nắng

thủy tinh được dùng để chỉ con người – cụ thể là người lãng du phiêu bồng với hình dung

xanh xao, có phần tiều tụy với những “bước chân mòn trên phiếm du”, với những cảm xúc

nuối tiếc tình yêu, nuối tiếc tuổi trẻ khi ngắm nhìn một vẻ đẹp nữ dưới mưa, “em đi về cầu

mưa ướt áo” hay “em qua công viên bước chân âm thầm”.

Hình ảnh bàn tay trong Biển nhớ, “bàn tay chăn gió mưa sang” là một hình ảnh rất lạ.

Đó là một sự kết hợp lạ, vô cùng độc đáo, chưa từng thấy (bàn tay + chăn gió mưa sang).

Bàn tay ám chỉ con người, động từ chăn biểu hiện một thái độ mời gọi, chờ đợi, trân trọng,

nâng niu, mong ngóng, đón chờ người yêu, tình yêu. Như thế, ý cả câu là, nhân vật trữ tình

đang trong tâm trạng đợi chờ, mong ngóng gió mưa sang, đó là những gió mưa của quá khứ,

của tình cũ, của những kỉ niệm khi biển còn em. Từ đó, câu thơ dựng dậy cái ý nghĩa hoài

niệm, mong ngóng, nhớ nhung của tác giả với người yêu. Cần chú ý, một vài văn bản đã in

sai chữ chăn thành chắn, thành ra “bàn tay chắn gió mưa sang”. Điều đó làm mất đi tính

sáng tạo độc đáo của tác giả và làm đảo lộn ý nghĩa của hình tượng (chắn mang ý nghĩa từ

chối, khỏa tát). Điều này đã được Bùi Vĩnh Phúc lưu ý trong chuyên luận của ông và đã

được chúng tôi kiểm tra lại trong văn bản chép tay tập nhạc Em còn nhớ hay em đã quên -

nhà xuất bản Trẻ -1991, thì đúng là tác giả đã viết chăn chứ không phải chắn như một số

sách in nhầm.

- Hình ảnh bàn chân, bước chân. Ta bắt gặp rất nhiều những hình ảnh bàn chân, bước

chân như: bàn chân âm thầm nói (Thương một người); bước chân em xin về mau (Diễm

xưa); những bước chân mềm mại/đã đi vào đời người (Tình nhớ); một đêm bước chân về

gác nhỏ (Đêm thấy ta là thác đổ); gót chân mòn trên phiếm du (Mưa hồng); suối đón từng

bàn chân em qua (Như cánh vạc bay); nhớ chân giang hồ (Phôi pha). Trong đó, hình ảnh

bước chân ở Mưa hồng, Đêm thấy ta là thác đổ, Phôi pha là bước chân giang hồ của người

nghệ sĩ trong hành trình lữ thứ phận người với những phong trần, rã rời, mệt mỏi và cô đơn,

với “bụi đường cay lòng mắt”. Còn hình ảnh bước chân trong Diễm xưa, Thương một người,

Tình nhớ là những hoán dụ chỉ người con gái (như Bích Diễm, Thanh Thúy - nhân vật

nguyên mẫu của ca khúc). Cái hay ở đây là Trịnh Công Sơn đã kết hợp những hình ảnh ấy

với những từ ngữ, hình ảnh khác để tạo hiệu quả nghệ thuật gián tiếp, độc đáo, tạo ra cái ý ở

ngoài lời cho ca từ ca khúc.

Phân tích một ví dụ, câu “Trên bước chân em âm thầm lá đổ” (Diễm xưa) ,biểu hiện

tâm trạng của người ở lại. Chàng trai đợi người yêu hàng ngày đi qua những hàng cây, tán lá

100

với những nỗi vui, hồi hộp khó tả. Rồi chợt một chiều, em đã ra đi, dấu chân xưa đã vuột

mất khỏi khung trời này, không còn “áo lụa em qua phủ mặt đường” nữa, để lại trong lòng

chàng lãng tử si tình nỗi nhớ nhung. Chàng đứng chờ mà thẫn thờ như chôn chân, nhìn bước

chân em đi mà tân hồn “lá đổ”, rụng rời, “trên bước chân em âm thầm lá đổ”. Lá đổ không

phải là lá cây trên hàng long não, mà là “lá tâm hồn”, lá đổ, lá rụng trong hồn người. Lá đổ

hay tâm hồn chàng đang rụng rời phiêu lạc theo nẻo bước chân em. Câu thơ tả bước chân

thiếu nữ, lá đổ đường chiều mà vẽ lên được tâm trạng mong ngóng, đợi chờ, “chợt hồn xanh

buốt cho mình xót xa” của kẻ si tình. Cái hay, đẹp của sự kết hợp là ở chỗ đó.

Ngoài ra, hoán dụ còn được tác giả tạo ra bằng cách vẽ lên hình ảnh những mái tóc.

Những mái tóc xõa bay ngang trời, những mái tóc u huyền, bồng bềnh, huyền ảo đượm màu

sương khói: tóc em từng sợi nhỏ/rớt xuống đời làm sóng lênh đênh; ru mãi ngàn năm/giòng

tóc em buồn; tóc trầm ướp vai thơm; có sợi tóc nào bay/trong trí nhớ nhỏ nhoi; tóc

người/dòng sông xưa ấy đã phai/đã lênh đênh biển khơi… Dĩ nhiên, mái tóc là hình ảnh

hoán dụ chỉ người con gái, người thiếu nữ. Hình ảnh mái tóc trong ca từ Trịnh Công Sơn

đẹp mà thấm đượm từng nét buồn. Lẩy ra một trường hợp:

Tóc em từng sợi nhỏ

Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh.

(Như cánh vạc bay)

Theo logic tự nhiên thì tóc em phải rớt xuống thềm chứ (hay đại loại là rớt xuống một

vật chất nào đó), sao tác giả lại viết “rớt xuống đời”, mà tóc lại làm cho sóng lênh đênh?

Một sự kết hợp giữa cái cụ thể (tóc) và cái trừu tượng (rớt xuống đời) đem đến một sự cảm

nhận, một kênh liên tưởng mới mẻ: tóc là hình ảnh hoán dụ chỉ em, em đến cuộc đời này,

với vẻ đẹp bảng lãng, sương pha tuyết điểm đã làm cho biết bao người phải trầm trồ, làm

cho sóng lòng những kẻ si tình phải bao lần “lênh đênh”. Như thế, chỉ vẽ nên một mái tóc

mà Trịnh Công Sơn đã gửi được vào đó những lời ngợi ca, nâng niu, trân trọng những người

phụ nữ, những đóa thơm tho, những nụ đời, những nét đẹp, vẻ đẹp diễm ảo, tạc vào cõi

thiên thu.

Một tiểu loại của hoán dụ mà Trịnh Công Sơn cũng hay dùng là dùng vật sở thuộc để

chỉ chủ thể. Thường thấy nhất là hình ảnh tà áo. Chẳng hạn, “Gọi nắng, trên vai em

gầy/đường xa áo bay” hay “áo xưa dù nhàu/cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” (Hạ trắng).

Hoặc “ôi áo xưa lồng lộng/đã xô dạt trời chiều” (Tình nhớ). Những trường hợp này, hình

ảnh áo xưa là hoán dụ, chỉ bóng dáng người nữ trong quá khứ, hiện về trong kí ức của nhân

101

vật trữ tình. Thời gian trôi đi, biết bao nước đã chảy dưới chân cầu. Nhưng bóng dáng người

xưa trong kí ức vẫn không thể nào nhạt phai. Dùng vật sở thuộc (áo) để chỉ người là thủ

pháp hoán dụ khá quen thuộc trong thi ca xưa nay. Ngoài ra Trịnh Công Sơn còn có những

hoán dụ như bờ môi, đôi mắt, ánh mắt…chỉ người nữ với vẻ đẹp diễm ảo, mong manh

thường thấy.

3.1.2.2. Cách sắp xếp từ ngữ để tạo câu

Ngôn ngữ sinh ra thế giới, làm dựng hình những hình tượng. Điều đó có nghĩa là thế

giới dù là hiện thực hay tâm tưởng, mộng ảo, đều được tái hiện bằng ngôn ngữ, bằng những

từ ngữ gợi hình ảnh, gợi cảm xúc, thẩm mỹ. Mỗi nghệ sĩ, trong quá trình sáng tạo, bao giờ

cũng cố gắng, nỗ lực đi tìm kiếm một lối nói mới, một cách diễn đạt mới mẻ, để biểu hiện

thế giới nghệ thuật của riêng mình, qua đó gửi gắm tư tưởng, kí thác tâm sự. Có người đã

cho rằng tiếng Việt trong quá trình vận động và phát triển của nó, cùng với sự đóng góp,

sáng tạo của những nghệ sĩ khác, đến Trịnh Công Sơn thì nó đã không còn như trước nữa.

Đây là một luận điểm lớn, mà chắc phải cần đến những nhà nghiên cứu chuyên môn, những

nhà ngôn ngữ học, kí hiệu học… đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu và giải mã. Với phạm vi nhỏ

hẹp của luận văn này, chúng tôi chỉ muốn đưa ra một vấn đề nhỏ: nghệ thuật diễn đạt trong

ca từ Trịnh Công Sơn mang một nét mới, đó là cách sử dụng câu có cấu trúc phi ngữ pháp,

cách kết hợp từ ngữ trên trục tuyến tính để tạo câu có tính phi logic. Khảo sát ca từ Trịnh

Công Sơn, chúng tôi thấy rõ một điều, ông đã sáng tạo ngôn ngữ bằng cách rất lạ và độc

đáo: người nghệ sĩ ngôn từ này đã dùng những chữ, những từ ngữ rất quen thuộc, bình

thường trong hiện thực mà chúng không ăn nhập với nhau và không thường đi với nhau, rồi

sắp xếp, liên kết chúng lại với nhau, đặt cạnh nhau trên trục tuyến tính theo một trật tự rất

bất ngờ, có vẻ như rất ngẫu nhiên, tựa như những mảnh ghép rời rạc đặt cạnh nhau trong

những bức tranh. Qua cách sắp xếp tài hoa ấy, Trịnh Công Sơn đã tạo nên những câu, những

hình ảnh thơ có đặc tính phi ngữ pháp, rũ bỏ, không đi theo một lối mòn, một cấu trúc ngữ

pháp thông thường như trong thi ca tiếng Việt nữa. Từ đó, bằng ngôn ngữ, Trịnh đã dựng

lên những hình ảnh phảng phất nỗi buồn, lẫn với nét nhòe mờ và đẹp một cách lạ lùng, đôi

khi làm người đọc sững sờ, rung rưng vì xúc động. Chính những hình tượng phi logic ấy đã

làm cho thế giới nghệ thuật của ông không còn đứng trên bờ hiện thực nữa, mà nó đã được

đẩy đi xa hơn một bước, tiến tới biên giới của cõi siêu thực, mộng ảo. Song cũng không thể

gọi đó là mộng ảo hoàn toàn, mà đúng ra, một cách khách quan trong nhìn nhận, Trịnh đã

dựng hình một thế giới vừa có nét hiện thực, vừa pha lẫn những nét kì ảo. Thế giới ấy đẹp,

102

lung linh một cách kì ảo mà ta có cảm tưởng như đã từng gặp đâu đó trong những giấc mơ

đứt đoạn, trong cõi vô thức hay trong những bức tranh của các nhà danh họa siêu thực.

Cũng cần nói thêm, Trịnh Công Sơn là thi sĩ, nhạc sĩ, đồng thời cũng là một họa sĩ. Có lẽ vì

vậy mà trong thơ, nhạc của ông có chất họa trong đó. Những đường nét, những màu sắc đã

bị làm nhòe đi, như gợi, như ám ảnh, chứ không tả chân, mà vẫn toát lên cái hồn của riêng

nó. Cũng vì thế, Bùi Vĩnh Phúc đã có nhận xét thật sâu sắc khi bàn về thế giới nghệ thuật

của Trịnh Công Sơn: “Đó là một thế giới có thật hay là một thế giới chỉ có trong tưởng

tượng? Có lẽ là cả hai. Có lẽ thế giới này đã xâm thực, chiếm lĩnh và hòa tan làm một cùng

thế giới kia. Chính vì thế mà thế giới của Trịnh Công Sơn trở nên nhạt nhòa, lung linh hư

ảo. Và để lập lại: nó là một thế giới “lai”: lai giữa hiện thực và mộng tưởng, lai giữa hiện tại

chớp mắt và thiên thu mịt mù” [20; tr.145].

Vậy quy luật của sáng tạo ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn là gì? Theo chúng tôi,

Trịnh Công Sơn không có ý thức đi theo quy luật ngôn ngữ truyền thống, kiến tạo những

hình ảnh có tính “hợp lí”, thuận chiều trong tư duy người thưởng ngoạn. Mà cái quy luật

ngôn ngữ ông lựa chọn cho những sinh mệnh nghệ thuật của mình, đó là quy luật của cái

đẹp - cái đẹp kì ảo, trong suốt và phảng phất nỗi buồn, u hoài của thời đại. Mọi sự kiếm tìm

logic, mọi sự lí giải theo tư duy thuận chiều, truyền thống, đối với từ ngữ, cú pháp của Trịnh

Công Sơn đều trở nên bất lực. Do đó, nếu cần phải đặt tên cho cái “logic” ngôn ngữ, logic

của sự diễn đạt trong ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta chỉ có thể nói ngắn gọn: đó là logic

của cái đẹp. Ông chỉ tuân theo logic của cái đẹp, thế là đủ. Còn về phần người thưởng

ngoạn, tùy vào trình độ văn học, kinh nghiệm thẩm mỹ, sự tinh tế, nhạy bén của tâm hồn mà

có thể có những cách lí giải, lí lẽ riêng cho cái đẹp u huyền ấy.

Chúng tôi sẽ liệt kê ra đây một loạt những câu được viết theo kiểu kết hợp những hình

ảnh phi logic, trong đó Trịnh Công Sơn thường hay đặt những từ ngữ cụ thể, nghĩa xác định

bên cạnh những từ ngữ trừu tượng như là một sự “nhầm lẫn”, một sự nhầm lẫn cố ý, đầy

tính nghệ thuật, tạo nên những câu thơ lạ.

- Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao (Diễm xưa)

- Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (Diễm xưa)

- Có một dòng sông đã qua đời (Ca khúc cùng tên)

- Tình có trong em nhiều mùa

Từ đó thiên hạ quá ưu tư (Chỉ có ta trong một đời)

- Có khi nắng khuya chưa lên

103

Mà một loài hoa chợt tím (Chiều một mình qua phố)

- Tay măng trôi trên vùng tóc dài (Còn tuổi nào cho em)

- Ta nghe tịch lặng rơi nhanh

Dưới khe im lìm (Ru đời đi nhé)

- Bầy vạc bay qua kêu mòn tịch lặng (Cũng sẽ chìm trôi)

- Môi nào hãy còn thơm

Cho ta phơi cuộc tình (Ru ta ngậm ngùi)

- Phơi tình cho nắng mau khô (Tình xót xa vừa)

- Từng phiến mây hồng em mang trên vai (Tuổi đá buồn)

Chúng tôi sẽ đưa ra một vài phân tích nhỏ để thấy được những mảnh ghép từ ngữ để

kiến tạo nên những câu lạ ở chỗ nào.

Ví dụ đầu tiên: câu Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Đọc lên, ta thấy những từ ngữ

được (bị) đặt “nhầm” chỗ. Đáng lẽ phải viết “tay em dài mấy thuở mắt xanh xao” thì mới

thuận ngữ pháp tiếng Việt (tay em: chủ ngữ, dài: vị ngữ; mấy thuở: trạng ngữ chỉ thời gian,

mắt: chủ ngữ vế sau, xanh xao: vị ngữ vế sau). Tác giả đảo vị trí thành “dài tay em mấy

thuở mắt xanh xao”, khiến đọc lên có vẻ trúc trắc, khác thường. Cụm “dài tay em mấy” thật

khó xác định được một ý nghĩa rõ ràng. Nhưng nó lại rất đẹp, và thật lãng mạn. Em với

dáng gầy, tay dài, áo lụa, với mắt xanh xao, trong veo mà thăm thẳm, như chứa đựng cả thế

giới tâm hồn đầy bí ẩn, đẹp tinh khôi mà thanh thoát. Em “đẹp như một bức tranh lụa”.

Ví dụ thứ hai: câu Tình có trong em nhiều mùa/từ đó thiên hạ quá ưu tư. Xưa nay thi

ca chưa ai nói mùa tình cả. Chỉ thấy nói đến mùa nắng, mùa mưa, mùa xuân, mùa hạ, mùa

lúa chín, mùa cây trái. Còn Trịnh Công Sơn đã gieo mùa vào cõi tình. Sự kết hợp có vẻ “trật

khớp” trên trục tuyến tính ấy, tuy không đúng với logic tự nhiên, nhưng lại đúng với logic

tâm trạng, cái nhìn riêng của tác giả đối với tình yêu nơi người nữ. Tình yêu, tình cảm của

em cũng hay nắng mưa, thay đổi thất thường như thời tiết, như cơn trở dạ của đất trời làm

thành những mùa nắng mùa mưa, khiến cho thiên hạ, những người bị em phụ rẫy phải “quá

ưu tư”, sầu muộn. Đến đây, ý thơ không còn ngợi ca nữa, mà là một lời trách - lời trách móc

nhẹ nhàng, khéo léo, tinh tế theo đúng điệu Huế, đúng với cái bản tính hiền, “thây kệ” của

một người rộng lượng như Trịnh. Trách mà không làm người khác giận. Không to tiếng, ồn

ào, đó là lối trách mang tính giáo dục, độ lượng, vị tha.

Ví dụ thứ ba: câu Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang/từng phiến mây hồng, em

104

mang trên vai thì ta lại bắt gặp một hình ảnh vô cùng kì lạ, siêu thực đúng nghĩa: vai em chở

từng phiến mây hồng. Vai chỉ có áo hay tóc xõa, chứ làm sao lại có “phiến mây” đậu trên

đó, mà lại là phiến mây hồng. Sự kết hợp phi logic trên trục tuyến tính đã gây ra cho người

đọc một vùng, một trường ám ảnh, gợi sự liên tưởng đa chiều. Ta có thể hiểu, “từng phiến

mây hồng” ở đây là hình ảnh mái tóc, làn tóc rối được kì ảo hóa bằng cách thêm một chút

“hồng” vào đó. Đóa tóc bồng bềnh, mang một màu sắc diễm ảo, hư hư, thực thực tựa hồ như

những đóa mây, phiến mây hồng ngủ quên trên bờ vai da thơm quả ngọt kia. Màu hồng ở

đây là màu hư ảo, tựa như mưa hồng, không thể là màu thực. Một hình ảnh thật đẹp, thật

lãng mạn, thật kì ảo, mà cũng thật hiếm thấy trong thi ca xưa nay. Nó đã tạc vào tâm tưởng

người thưởng ngoạn một ấn tượng lạ lùng và không thể quên. Hình ảnh đậm chất thơ này, rõ

ràng, đã chạm vào cõi siêu thực.

3.2. Hiệu quả của nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu

Những đặc điểm về nghệ thuật biểu hiện mà chúng tôi nêu ra trên đây (đặc điểm về từ

ngữ, những thủ pháp, cú pháp) thật ra chỉ là những vấn đề có tính chất cơ bản, và cũng chỉ

được nêu lên một cách khái quát cùng với vài trích dẫn tiêu biểu. Quả thực ca từ Trịnh Công

Sơn còn chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp về nội dung, tư tưởng lẫn nghệ thuật mà chúng

tôi do hạn chế về dung lượng luận văn và khả năng cảm thụ nên chưa thể trình bày một cách

đầy đủ và sâu sắc được. Song với những đặc điểm căn bản đó, chúng ta cũng đã thấy được,

Trịnh Công Sơn tuy là một nhạc sĩ, nhưng ông đã biết vận dụng những thủ pháp nghệ thuật

của thơ ca vào âm nhạc, tạo nên “cuộc hôn phối kì diệu giữa thi ca và âm nhạc” mà thật

hiếm thấy người nào làm được như ông.

Nói như vậy cũng cần nói lại, thật ra, giai đoạn khởi sinh nền Tân nhạc, ở Việt Nam

cũng có nhiêu nhạc sĩ sáng tác những tác phẩm âm nhạc mang đậm tính thơ, chẳng hạn

Đặng Thế Phong hay Phạm Duy, Văn Cao hay Đoàn Chuẩn… Nhưng cái đáng nói ở đây là

cái tính thơ, nét thơ trong ca từ Trịnh Công Sơn không còn đứng trên bờ ranh lãng mạn nữa,

mà nó đã tiến đến địa hạt huyền ảo, siêu thực. Điều đó có được là nhờ Trịnh Công Sơn đã

thực sự làm một cuộc cách mạng, cách tân ngôn ngữ với những kiếm tìm, suy ngẫm và sáng

tạo đầy tài hoa: sử dụng một cách có hiệu quả những thủ pháp tu từ của thơ ca, sáng tạo ra

những từ ngữ mới lạ, và những kết hợp từ ngữ đầy biến ảo, tạo cấu trúc cú pháp độc đáo và

nhiều vấn đề khác.

Trên cấp độ từ ngữ (tính từ), có người cho rằng Trịnh Công Sơn đã cố ý lặp đi lặp lại

105

rất nhiều tính từ giống nhau ở những ca khúc khác nhau, chẳng hạn: xanh xao, hư hao, hư

vô, mong manh… và chính điều này là biểu hiện của sự loay hoay, bế tắc, cạn kiệt trong

việc đi tìm từ ngữ diễn đạt mới. Song điều này cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc,

tránh những ngộ nhận đáng tiếc. Như chúng tôi đã trình bày trong phần trước, Trịnh Công

Sơn thường dùng những từ ngữ khá quen thuộc trong thi ca và đời sống đưa vào ca khúc của

ông. Nhưng cái đáng nói là những từ ngữ ấy được ông kết hợp với những từ khác, trên một

cấu trúc tuyến tính bất thường, và làm mất đi tính sáo mòn của chúng. Chính sự kết hợp bất

thường ấy đã làm nên nhan sắc và những thanh âm lạ lùng cho ca từ của ông.

Những tính từ âm tính như xanh xao, hư hao, hư vô, hư không… ít nhiều đã được

những nhạc sĩ, thi sĩ trước đây dùng, nhưng với họ, ca từ, từ ngữ mới chỉ dừng lại ở địa hạt

lãng mạn, nếu có tiến sang siêu thực thì cũng rất hiếm. Riêng Trịnh Công Sơn, như nhận xét

của Phạm Duy: “Toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực”

[32; tr.69]. Điều này có nghĩa là sự kết hợp từ ngữ, bao gồm cả danh từ, động từ, tính từ,

trong đó tính từ là chủ yếu cùng với những thủ pháp nghệ thuật (chủ yếu là ẩn dụ) đã tạo

nên những câu thơ, hình ảnh thơ vươn tới địa hạt siêu thực. Song, theo chúng tôi, cũng cần

nhìn nhận lại một cách thận trọng: có phải ca từ Trịnh Công Sơn hoàn toàn là siêu thực, trừu

tượng? Theo quan điểm riêng của chúng tôi, không hoàn toàn như thế. Bức tranh trong thơ,

nhạc Trịnh Công Sơn không hoàn toàn là trừu tượng. Nếu là thơ, nhạc trừu tượng hoàn toàn

thì thật khó để đi vào lòng công chúng và trở nên phổ biến trong đời sống, văn hóa dân tộc

như thế. Những bức họa của Picasso, Salvador Dali… thuộc trường phái siêu thực xưa nay

thật sự quá thách đố và khó hiểu, nên công chúng phổ thông cũng khó lòng mà hiểu và thích

được. Hay như thơ tượng trưng của Baudelaire, Veclaine, Hàn Mặc Tử… cũng tương tự.

Nói như vậy, chúng tôi tuyệt nhiên không có ý xem nhẹ chủ nghĩa Tượng trưng mà chỉ có ý

rằng, nghệ thuật Tượng trưng không hề dễ hiểu. Thơ, nhạc Trịnh Công Sơn thì khác, dù mơ

hồ, nhưng nó vẫn “thấm vào hồn người như suối tưới” và được đa số công chúng trong

nước, cũng như một bộ phận hải ngoại, thậm chí cả những người nước ngoài đón nhận và

đánh giá cao. Chúng tôi cho rằng hình tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn là một bức tranh

được cấu thành bởi hai yếu tố: một phần là yếu tố hiện thực và phần kia là yếu tố huyền ảo,

siêu thực. Nói như Bùi Vĩnh Phúc, đó là thế giới “hiện thực huyền ảo” hay “hiện thực kì ảo”

thì đúng hơn. Cái hiện thực - yếu tố có khả năng tri giác được đặt bên cạnh yếu tố phi logic,

bất khả giải minh. Từ đó, hệ quả là tạo nên một thế giới kì ảo về con người thân phận và

tình yêu - thế giới của những nét nhòe mờ, nửa hư nửa thực. Hình tượng thơ nhạc trở nên đa

106

nghĩa. Người thưởng ngoạn, tùy trình độ văn học, thẫm mỹ cá nhân và hứng thú riêng mà

liên tưởng, tưởng tượng, dựng nên một thế giới riêng trong tâm hồn mình.

Như vậy, hệ thống từ ngữ có nhiều tính từ lạ (nắng khuya, mưa hồng, vai phố, mưa

mềm…) đã tỏ ra thật sự có hiệu quả trong nghệ thuật diễn đạt. Nó đã đạt được mục đích, ý

nghĩa của nghệ thuật là tạo ra hình tượng đa nghĩa và thiết lập một cơ chế liên tưởng đa

chiều, không áp đặt, bó buộc người đọc, người nghe vào một cái khung, một cách hiểu cụ

thể, rập khuôn nào.

Về việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật, thơ ca xưa nay đã dùng nhiều. Trịnh Công Sơn

cũng sử dụng lại, nhưng vẫn có điểm sáng tạo riêng, không giống những nghệ sĩ khác. Do

đó chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn mang trong nó một hàm ẩn sâu xa, đôi khi “chữ” và

“nghĩa” không đi đôi với nhau, nghĩa không hiện lên trên chữ. Những trường hợp như thế

gọi là “bóng chữ” (chữ dùng của Lê Đạt) hay là “ẩn ngữ”. Vì thế, ca từ của ông gợi ra

những hàm nghĩa nhiều tầng bậc, buộc người thưởng ngoạn phải tưởng tượng, liên tưởng,

chuyển “kênh” liên hệ trong tư duy, từ đó mới ngộ ra được cái hay, mới thấy lấp ló cái đẹp,

cái diệu vợi của nó. Tất nhiên chỉ một phần nào đó, không phải thủ pháp nào, câu chữ nào

cũng hiểu được, nhất là những ẩn dụ cao siêu kì bí. Về điểm này, chúng tôi nhận thấy hiệu

quả của những thủ pháp nghệ thuật ca từ Trịnh Công Sơn có những điểm tương đồng nhất

định với thơ Tượng trưng, nhất là nghệ thuật tương giao cảm giác, tương ứng giác quan của

Baudelaire, có ảnh hưởng đến Xuân Diệu và một số tác giả thơ Mới.

Tóm lại, với tài năng sai sử ngôn ngữ của mình, Trịnh Công Sơn đã đóng góp vào nền

thi ca, nghệ thuật dân tộc thời kì hiện đại một gương mặt mới lạ, riêng biệt, mà chắc chắn

những tác phẩm hiện thực kì ảo của ông sẽ để lại trong cõi thiên thu một giá trị bền vững,

vĩnh hằng bất chấp sự phá hủy của thời gian.

3.3. Những đóng góp của Trịnh Công Sơn trên phương diện ngôn từ đối với sự

phát triển của tiếng Việt

Trịnh Công Sơn đã tạo ra một âm vang lớn, từ khi những ca khúc đầu tiên ra đời cho

đến nay đối với công chúng yêu thơ nhạc trong và ngoài nước. Văn Cao nhận xét thật sâu

sắc và tinh tế: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn nhạc và thơ

quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là phụ” [26; tr.115]. Chúng tôi

muốn làm rõ nghĩa trong chữ của Văn Cao, “người ca thơ”: nghĩa là Trịnh Công Sơn là

người hát bằng lời thơ của chính mình. Điều này theo chúng tôi, thật chính xác. Một số văn

107

bản in nhầm thành “người thơ ca” là chưa đúng, chưa hiểu đúng về mối quan hệ giữa thơ -

nhạc của ông. Xét về giai điệu, những nhà chuyên môn âm nhạc cho rằng giai điệu ca khúc

của ông đơn giản, nhưng tác phẩm vẫn “rót vào lòng người như suối tưới”. Theo chúng tôi,

có điều đó là bởi có sự kết hợp giữa phần nhạc và thơ - ca từ. Thơ và ca tựa như xác và hồn,

tạo nên một chỉnh thể. Thậm chí, có người thưởng thức ca từ của ông bằng cách viết lên

giấy như viết thơ (tách khỏi nhạc), viết thành thư pháp, xem ca từ như một bài thơ hoàn

chỉnh. Hiếm có tác phẩm âm nhạc nào được như vậy.

Tại sao ca khúc Trịnh Công Sơn lại làm được điều đó? Theo chúng tôi, tất cả là nằm ở

ca từ - ngôn ngữ mang tính thơ. Trịnh Công Sơn, bằng tài năng thiên phú, sự từng trải và

cảm xúc tinh tế, nhạy bén của tâm hồn trước ngoại giới, đã đưa vào tiếng Việt những cái

mới: từ ngữ mới; tính từ mới, danh/động từ lạ, cách sắp đặt từ tạo nghĩa mới; những thủ

pháp, đặc biệt những ẩn dụ, biểu tượng. Từ đó làm cho tiếng Việt mở rộng biên độ, vượt

khỏi ranh giới lãng mạn, vươn tới trình độ siêu thực, mang nét kì ảo, rất đẹp và rất thơ. Như

Phạm Duy nhận xét: “so với tình khúc của ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh

Công Sơn rất mới, chất chứa những hình ảnh lạ lùng, quyến rũ” [32; tr.66].

Dưới góc độ từ nguyên học, tiếng Việt đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển để trở nên

giàu đẹp như ngày nay. Qua từng giai đoạn lịch sử, nó lại được bồi đắp thêm những lớp phù

sa ngôn ngữ, từ được phủ lên những lớp ý nghĩa mới. Trong đó, ngoài những từ vựng mang

tính phổ thông, còn phải kể đến sự đóng góp của những nghệ sĩ ngôn từ qua các thời đại. Từ

thế kỉ XV, Nguyễn Trãi đã đóng góp lớn vào kho tàng ngôn ngữ dân tộc qua những tập thơ

xuất sắc của ông, đặc biệt là Quốc âm thi tập. Đến thế kỉ XVIII -XIX với Nguyễn Du - bậc

thầy ngôn ngữ, tiếng Việt lại được làm đẹp thêm, lung linh thêm với kiệt tác truyện Kiều.

Đến đầu thể kỉ XX, Tản Đà, cái gạch nối giữa hai thời kì văn học cổ điển và hiện đại đã có

những đóng góp, cách tân, hiện đại hóa ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Sau đó không lâu, với

trào lưu thơ Mới, một loạt những tên tuổi xuất sắc như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Bích Khê,

Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… đã làm cho khu vườn thi ca Việt Nam hiện đại trở nên đa hương

đa sắc, đặc biệt là làm cho tiếng Việt giàu có hơn. Trong những tên tuổi đó, không thể

không nhắc đến người thơ Hàn Mặc Tử. Thi sĩ đau thương đã đưa vào thơ những yếu tố kì

ảo, những hình ảnh cõi mộng, tưởng chừng như chỉ có trong vô thức. Về điểm này, chúng

tôi thấy Hàn Mặc Tử và Trịnh Công Sơn có những tương đồng nhất định. Có thể nói, với sự

sáng tạo trên phương diện ngôn từ, Hàn Mặc Tử và Trịnh Công Sơn là hai tác giả đã đưa thơ

ca Việt Nam tiến đến tư duy thơ siêu thực, ấn tượng, bắt kịp xu hướng phát triển của nghệ

108

thuật thế giới, nhất là đã tiệm cận được với chủ nghĩa Tượng trưng.

Chủ nghĩa Tượng trưng chủ trương phá bỏ tư duy logic, duy lí trong thơ ca cũ, thay

vào đó là dựng hình những biểu tượng. Nhà thơ vận dụng những biểu tượng và yếu tố nhạc

tính để gợi ra không khí ám ảnh, để đi sâu vào khám phá những cảm xúc tinh vi, những rung

động không cùng trong đáy sâu tâm hồn cái tôi nghệ sĩ. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn cũng có

những điểm tương tự Tượng trưng. Sở dĩ người đọc, người nghe chỉ thấy đẹp mà nhòe mờ,

khó hiểu là bởi, trong đa số các ca khúc, ông đã sắp xếp từ ngữ và vận dụng các thủ pháp

của thi ca để tạo nên những biểu tượng nghệ thuật. Như thế, Trịnh Công Sơn đã thực sự làm

một cuộc cách mạng, đưa thơ (và nhạc) tiến đến Tượng trưng. Hình tượng thơ trở nên lung

linh, kì ảo và gây hiệu ứng ám ảnh đến mê hoặc, mà có người đã gọi là “ma âm”.

Theo quan điểm của chúng tôi, trong lịch sử thi ca dân tộc, nếu như Nguyễn Du là bậc

thầy ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện thực vào thế kỉ XVIII-XIX, thì Trịnh Công Sơn, ở nửa

sau thế kỉ XX, cùng với khả năng đưa yếu tố kì ảo vào ngôn từ thơ ca, dựng nên những rừng

biểu tượng nghệ thuật, những ẩn dụ độc đáo không thể bắt chước, cũng có thể gọi là một

nhà sáng tạo ngôn ngữ lớn của dân tộc trong thời kì hiện đại. Cái khác ở chỗ, thơ Nguyễn

Du là thơ hiện thực, còn ở Trịnh Công Sơn là thơ hiện thực kì ảo. So sánh vẻ đẹp của nàng

Kiều với những hình tượng nữ trong như Tuổi đá buồn, Như cánh vạc bay, Còn tuổi nào

cho em… chúng ta sẽ thấy rõ được điều này. Vẻ đẹp của nàng Kiều là một nhan sắc nghiêng

nước nghiêng thành, cụ thể, hiển hiện. Còn hình tượng nữ của Trịnh Công Sơn mang một vẻ

đẹp mờ ảo, liêu trai. Đặc biệt trong cái vẻ đẹp mờ ảo ấy, tác giả còn phả vào một nỗi buồn,

nỗi u huyền, tịch lặng không thể gọi tên và rất khó lí giải. Đó là vẻ đẹp riêng có của hình

tượng ca từ Trịnh Công Sơn mà không ai có thể bắt chước và không thể lặp lại. Nguyễn Du

và Trịnh Công Sơn, hai nghệ sĩ ngôn từ, nhưng mỗi người lại tạo nên những lớp từ ngữ,

hình tượng mang vẻ đẹp riêng, không ai giống ai.

Tóm lại, cùng với những nhà nghệ sĩ ngôn từ khác, Trịnh Công Sơn, bằng phẩm chất

thiên tài của mình, đã “để lại trong cõi thiên thu” hình dáng, hình hài của những lớp sóng xô

ngôn từ, lớp ca từ tuyệt đẹp, tạo nên một bước chuyển biến về chất trong sự phát triển của

tiếng Việt, đánh dấu một mốc son của thơ ca hiện đại: đưa cái kì ảo, siêu thực vào ngôn ngữ

và hình tượng thơ.

Tiểu kết

Chương cuối, chúng tôi đã tập trung phân tích một vài vấn đề căn bản về nghệ thuật

biểu hiện con người thân phận và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Những nội dung ấy

109

bao gồm: việc sử dụng hệ thống tính từ, việc lạ hóa nghĩa cho từ; và phương thức diễn đạt,

cụ thể là việc sử dung các thủ pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, so sánh để xây dựng hình tượng

nghệ thuật và cách sắp xếp từ ngữ trên trục tuyến tính để tạo cấu trúc cú pháp lạ.Và cuối

cùng, chúng tôi đưa ra vài nhận xét, đánh giá về đóng góp của Trịnh Công Sơn trong việc

cách tân ngôn ngữ Việt và đưa thơ ca Việt Nam tiến đến biên giới của Tượng trưng, siêu

thực.

110

KẾT LUẬN

Luận văn của chúng tôi đã tập trung đi vào khai thác, phân tích những nội dung căn

bản nhất của thế giới con người thân phận và tình yêu nam nữ trong hệ thống ca từ Trịnh

Công Sơn.

Đầu tiên, chúng tôi đã giới thuyết những khái niệm, phạm trù như con người thân

phận, thân phận con người, tình yêu nam nữ, ca từ âm nhạc cũng như lịch sử nghiên cứu vấn

đề, từ đó có cơ sở lí luận và thực tiễn để đi vào từng nội dung cụ thể. Đặc biệt, chúng tôi đã

lí giải sự khác nhau giữa cụm từ thân phận con người và con người thân phận nhằm mục

đích đưa ra một cái nhìn, góc nhìn riêng và sự đánh giá, cảm nhận có chiều sâu. Đồng thời

lấy đó làm cơ sở, làm tên của đề tài để định hướng, bao quát phạm vi nội dung phản ánh

trong các chương, mục sao cho hợp lí.

Để đi vào thế giới con người thân phận, chúng tôi đã chọn hướng tiếp cận khác với

những công trình của những tác giả đi trước. Những tác giả trước đa số chỉ tiếp cận thế giới

nhân vật một cách chung chung, chủ yếu phân tích về diện. Nay, chúng tôi tách biệt thế giới

ấy thành những con người cụ thể và đi sâu phân tích cả về diện lẫn về điểm. Thế giới con

người thân phận là một thế giới đa dạng, bao gồm nhiều kiểu người, loại người trong xã hội:

hình tượng người mẹ mất con, người yêu, người vợ mất chồng, người già và trẻ thơ, người

phu quét đường, người điên… Dưới góc nhìn dân tộc, cái nhìn riêng mang chiều sâu nhân

văn của người nghệ sĩ, những con người ấy có một điểm chung: đó là những thân phận đầy

bi kịch, những số phận bi thương chịu đựng sự tàn khốc của chiến tranh xâm lược. Trịnh

Công Sơn đã vẽ lên những khuôn mặt đau thương của thời đại. Nó bổ sung, hoàn chỉnh, làm

cho bức tranh con người dân tộc trong thế kỉ XX - giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, được

trọn vẹn hơn, sinh động hơn, đa chiều hơn. Cũng qua bức tranh thân phận ấy, Trịnh Công

Sơn đã biểu hiện thái độ phản đối chiến tranh, ngợi ca hòa bình, thức tỉnh con người dân

tộc. Đồng thời kí thác những trăn trở riêng tư về thân phận con người nói chung và tình yêu

quê hương, yêu con người, yêu đồng loại nơi ông.

Về nội dung tình yêu nam nữ, trước tiên chúng tôi tiến hành khảo sát các tư liệu để lấy

cứ liệu trình bày quan niệm, cái nhìn riêng về tình yêu nam nữ của ông. Ngoài những quan

niệm thông thường, ông đã đưa ra một vài quan niệm mang tính cá nhân: đó là tính nhị

nguyên, sự kịch trường, giả trá và phụ rẫy trong tình yêu mà con người rất dễ mắc phải.

Những quan niệm ấy là những góc nhìn riêng của người nghệ sĩ, một góc nhìn độc đáo, thấu

111

triệt và thẳng thắn. Qua góc nhìn có tính chiêm nghiệm ấy, thi sĩ tình yêu đã ngầm đưa ra

những ý niệm tôn vinh tình yêu con người, đồng thời cảnh tỉnh con người trước những sân

si, lầm lạc dễ mắc phải.

Về những biểu hiện của tình yêu nam nữ, chúng tôi đã tập trung khai thác một vài khía

cạnh cơ bản những trạng thái cảm xúc, cung bậc tình cảm đa dạng như: cảm xúc say sưa và

niềm hạnh phúc; nỗi cô đơn trong tình yêu; nỗi nhớ nhung một bóng hình người nữ; nỗi ăn

năn, nuối tiếc của hình tượng “tôi”; nỗi ám ảnh chia li và phụ rẫy; sự đồng cảm, bao dung,

độ lượng trong tình yêu. Chúng tôi muốn nhấn mạnh, tình yêu ở Trịnh Công Sơn là thứ tình

cảm có xu hướng thiên về tâm hồn, trong suốt và không hề vướng mùi tục lụy, nhục cảm

như trong các tác phẩm thơ nhạc khác. Qua những biểu hiện ấy, độc giả sẽ “đọc” được chân

dung tâm hồn, tình yêu của người nghệ sĩ đa sầu đa cảm trước tình người, tình đời này.

Cuối cùng, chúng tôi tập trung vào một số vấn đề nghệ thuật biểu hiện những nội dung

chính này. Chúng được khai thác dưới hai cấp độ: từ ngữ và phương thức diễn đạt. Trên cấp

độ từ ngữ, chúng tôi làm rõ cách sử dụng tính từ và việc lạ hóa từ ngữ. Trên cấp độ phương

thức diễn đạt, chúng tôi làm rõ việc khai thác, sử dụng các biện pháp tu từ và cách sắp xếp

từ ngữ để tạo câu.

Những đóng góp của Trịnh Công Sơn về mặt ngôn từ, tức là ở cách thế sai sử ngôn

ngữ, bao gồm việc sử dụng thực từ, hư từ, thủ pháp, cấu trúc lạ… để kiến tạo nên thế giới

nghệ thuật kì ảo là điều được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định. Điều đó, chúng tôi đồng

tình, khẳng định lại một lần nữa. Dưới cái nhìn riêng của chúng tôi, với những sáng tạo

trong ca từ âm nhạc, Trịnh Công Sơn cùng với một số thi sĩ khác, như Hàn Mặc Tử, Bích

Khê, Xuân Diệu,… là những người có công đầu trong việc đổi mới ngôn ngữ và tư duy thơ,

góp phần đưa thi ca Việt Nam tiến từ địa hạt lãng mạn sang siêu thực, huyền ảo. Như thế,

Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ ngôn từ, một thi sĩ đích thực và có công lao to lớn trong việc

đổi mới, cách tân ngôn ngữ, làm giàu thêm, đẹp thêm cho nhan sắc tiếng Việt.

Ca từ Trịnh Công Sơn vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Chúng chứa đựng

nhiều yếu tố siêu hình, bí ẩn mà chúng tôi, do những hạn chế khách quan và chủ quan, cũng

như dung lượng luận văn, chưa thể tìm hiểu bao quát và thấu triệt được. Nhiều công trình

nghiên cứu khác cũng mới bắt đầu đi tìm hiểu, khám phá, bóc tách những lớp vỉa đầu tiên

của di sản Trịnh. Do đó chúng tôi nghĩ rằng, hệ thống ca từ Trịnh Công Sơn vẫn còn là một

mảnh đất vô cùng rộng lớn để những người đi sau tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu dưới các

góc độ khác nhau.

112

Ca từ Trịnh Công Sơn ngay từ khi mới ra đời đã thu hút, mê hoặc một số lượng lớn

công chúng trong và ngoài nước. Chúng tôi cho rằng, di sản ca từ của ông không những là

mảnh đất cho những nhà nghiên cứu chuyên môn khai thác. Mà còn là lãnh địa hấp dẫn,

khơi gợi sự tìm tòi, nghiên cứu của những người yêu thơ nhạc, những tâm hồn đồng điệu,

đồng cảm với ông, hay còn gọi là những tín đồ trung thành của thi sĩ, ca nhân về tình yêu và

thân phận.

Về mặt nội dung tư tưởng và giá trị thẩm mỹ - nhân văn, Trịnh Công Sơn là người

nghệ sĩ đã tạc vào cõi thiên thu một thế giới nghệ thuật kì ảo, đầy ma mị và ám ảnh, trong

đó có những hình tượng nghệ thuật vô cùng độc đáo, mới và lạ, không hề lầm lẫn với bất cứ

một nghệ sĩ nào. Và cũng không ai có thể bắt chước. Trịnh Công Sơn, qua thế giới nhòe mờ

ảo diệu ấy, đã đóng góp vào lịch sử tư tưởng nhân văn của dân tộc một giá trị vĩnh hằng,

trường tồn cùng thời gian: đó là đóng góp vào sự nhận thức cái đẹp - một cái đẹp kì ảo, vừa

mang vẻ bi thiết, chứa đựng những xót xa nhưng cũng đầy khả năng thanh lọc của tình yêu

và thân phận làm người, con người dân tộc. Và rộng ra là con người nhân loại nói chung.

Qua mảng ca từ ca khúc tình yêu của ông, người đọc, người nghe ngày xưa, ngày nay,

và trong tương lai chắc chắn tìm thấy được trong đó những quan niệm tiến bộ và nhân văn,

sâu sắc và thấu triệt về tình yêu nam nữ. Rộng hơn là tình yêu quê hương, dân tộc, tình yêu

giữa con người với con người, mang ý nghĩa nhân loại phổ quát. Chúng ta lấy đó làm bài

học, hành trang tư tưởng cho tình yêu, đời sống của mình thêm đẹp, thêm lấp lánh. Đến với

Trịnh Công Sơn là đến với cội nguồn của cái thiện, cái đẹp – thứ tận thiện tận mỹ. Người

đọc, người nghe tìm đến với ông để lắng lòng, chiêm nghiệm và học tập ở một nhân cách

lớn: sự khiêm tốn, giản dị; sự bao dung, độ lượng trong đời sống; sự bao la và vị tha vô bờ

trong tình yêu; lối cư xử tử tế giữa con người với con người, và sự tử tế, tinh tế trong tình

yêu đôi lứa – thứ tình cảm thiêng liêng, ý nghĩa nhất. Đến với thơ nhạc cõi Trịnh, đồng

nghĩa với đi kiếm tìm sự đồng điệu, tìm về với bản ngã trong trạng thái sơ nguyên của cõi

người. Như thế, không chỉ là thi sĩ hay nhạc sĩ, Trịnh Công Sơn còn là một nhà sư phạm vĩ

đại về tình yêu và nhân cách, “là người có âm vang vô tận – âm vang của trái tim thiên tài.

Một thiên tài không có tuổi” [16; tr.164].

Cuối cùng, chúng tôi nhận thấy luận văn mới chỉ đi vào hai vấn đề căn bản: con người

thân phận và tình yêu nam nữ, cùng một vài nét về nghệ thuật biểu hiện. Rõ ràng, nó quá

nhỏ bé so với khu rừng nguyên sinh ca từ của tác giả. Còn nhiều vấn đề về ca từ của ông

hấp dẫn người nghiên cứu. Chẳng hạn, những vấn đề sau:

113

- Trên cấp độ nội dung:

+ Sự giao thoa giữa tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Hiện Sinh trong ca từ Trịnh Công

Sơn;

+ Chất Thiền trong ca từ Trịnh Công Sơn;

+ Tâm thức lãng du trong ca từ Trịnh Công Sơn;

+ Vấn đề thân phận con người trong đời thường.

- Trên cấp độ nghệ thuật:

+ Cách sử dụng thực từ trong ca từ Trịnh Công Sơn (danh, động và tính từ );

+ Cách sử dụng hư từ trong ca từ Trịnh Công Sơn;

+ Hiện tượng tỉnh lược ngữ pháp trong ca từ Trịnh Công Sơn;

+ Những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, so sánh (đi sâu vào nghiên cứu từng thủ pháp cụ

thể)…

Và chính những vấn đề ấy cũng có thể là nguồn kích thích, sự vẫy gọi cho những ai

muốn nghiên cứu tiếp về ca từ của Trịnh.

114

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Viết Á (2005), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Nxb Viện Âm nhạc, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Minh Châu (2007), “Thân phận, quê hương và tình yêu trong ca khúc Trịnh

Công Sơn”, Việt Báo, 4/4/2007, Viện Âm nhạc Việt Nam.

3. Phạm Duy (2001), “Nhạc Trịnh Công Sơn - Tình yêu và thân phận”, Tạp chí Văn, tháng

5,6 California, Mỹ

4. Nguyễn Hoàng Đức (1998), Luận về tình yêu, Nxb Thanh niên, Hà nội.

5. Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học Hiện Sinh, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Nguyễn Thái Hòa (2006), Từ điển tu từ - Phong cách thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

7. Nguyễn Hữu Thái Hòa và những người bạn (2007), Vườn xưa - Hành trình âm nhạc

Trịnh Công Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2008), Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn, Luận

văn thạc sĩ, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2011), Trịnh Công Sơn - Hạt bụi trong cõi thiên thu, Nxb Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

11. Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Minh Đức (2000), Nghệ thuật hiểu tâm lí người khác,

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

12. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

13. Ban Mai (2008), Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng, Nxb Lao động & Trung tâm Văn

hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

14. Nhiều tác giả (2006), Trịnh Công Sơn – Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

15. Nhiều tác giả (2001), Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Văn hóa & tạp chí sông

Hương, Huế.

16. Nhiều tác giả (2004), Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nxb Trẻ, Tp.

Hồ Chí Minh.

17. Nhiều tác giả (2005), Trịnh Công Sơn- Cuộc đời, âm nhạc,thơ, hội họa và suy tưởng,

Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

115

18. Nhiều tác giả (2011), Trịnh Công Sơn - Tôi là ai, là ai…, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

19. Trịnh Công Sơn (2011), Trịnh Công Sơn - Thư tình gửi một người, Nxb Trẻ, Tp. Hồ

Chí Minh.

20. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công Sơn - Ngôn ngữ & những ám ảnh nghệ thuật, Nxb

Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

21. Hoàng Phê (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

22. Trịnh Công Sơn (1967), Ca khúc Trịnh Công Sơn (in lần thứ hai), Nxb An Tiêm, Sài

Gòn.

23. Trịnh Công Sơn (1967), Ca khúc da vàng (in lần thứ hai), Nxb An Tiêm, Sài Gòn.

24. Trịnh Công Sơn (1968), Kinh Việt Nam, Nxb Nhân Bản, Sài Gòn.

25. Trịnh Công Sơn (1969), Ta phải thấy mặt trời, Nxb Nhân Bản, Sài Gòn.

26. Trịnh Công Sơn (1991), Em còn nhớ hay em đã quên - Tình khúc Trịnh Công Sơn, Nxb

Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

27. Trịnh Công Sơn (1992) Một cõi đi về, Nxb Văn nghệ Tp. HCM, Tp. Hồ Chí Minh.

28. Trịnh Công Sơn (1992), Khói trời mênh mông, Nxb Văn nghệ Tp. HCM, Tp. Hồ Chí

Minh.

29. Trịnh Công Sơn (1993), Em còn nhớ hay em đã quên, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

30. Trịnh Công Sơn (1998), Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

31. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb ĐH &THCN, Hà

Nội.

32. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001), Trịnh Công Sơn - Một

người thơ ca, một cõi đi về, Nxb Âm nhạc và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây, Hà Nội.

33. Nguyễn Trọng Tạo (2002), “Có một nhà thơ tên Trịnh Công Sơn”, Trịnh Công Sơn –Tôi

là ai,là ai…, Tr.418.(báo văn nghệ)

34. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé, Nxb

Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Thị Thanh Thúy (2006), Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh

Công Sơn, Luận văn thạc sĩ văn học Việt Nam, Đại học Quy Nhơn, Bình Định.

36. Hoàng Tá Thích (2007), Như những dòng sông - Tản mạn về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn,

Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

116

37. Nguyễn Đắc Xuân (2011), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, Nxb Văn học, Hà

Nội.

38. Bửu Ý (2003), Trịnh Công Sơn - Một nhạc sĩ thiên tài, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

39. Michiko Yoshii (1991), Ca từ trong âm nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, Luận án

tiến sĩ, Đại học Paris VII, Pháp.

117

PHỤ LỤC

Danh mục ca khúc được khảo sát trong luận văn

Nguồn (tập/ băng nhạc với năm xuất bản

STT

Tên ca khúc

Năm sáng tác

và số thứ tự trong ấn bản)

1

Biển nhớ

Lời đất đá cũ, (1973)-5

1962

2

Ca dao mẹ

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-5

1965

3

Chiều một mình qua phố

Lời đất đá cũ (1973)-8

1961

4

Chiều trên quê hương tôi

Một cõi đi về, (1989)-22

1980

5

Chỉ có ta trong một đời

Tự tình khúc, (1972)-4

1970

6

Cho đời chút ơn

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-42

<=1993

7

Chuyện đóa quỳnh hương

Một cõi đi về, (1989)-9

1982

8

Chưa mất niềm tin

Phụ khúc da vàng, (1972)-5

1968

9

Có một dòng sông đã qua đời

Một cõi đi về, (1989)-18

1966?

10

Còn ai với ai

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-26

<=1993

11

Còn tuổi nào cho em

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-6

<>1964

12 Diễm xưa

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-2

1960

13 Đại bác ru đêm

Ca khúc da vàng, (1967)-4

<=1967

14 Đêm thấy ta là thác đổ

Tự tình khúc, (1972)-5

1971

15 Để gió cuốn đi

Khói trời mênh mông, (1972)-10

1971

16 Đi tìm quê hương

Ca khúc da vàng, (1967)-7

1967

17 Đóa hoa vô thường

Tự tình khúc, (1972)-8

1972

18 Đời gọi em biết bao lần

Em còn nhớ hay em đã quên, (1991)-38

<=1980

19

Em đi bỏ lại con đường

Những bài ca không năm tháng, (1995)-120

<=1995

20

Em đi trong chiều

Khói trời mênh mông, (1972)-2

1969

21

Em hãy ngủ đi

Cỏ xót xa đưa, (1972)-6

1970

22 Giọt lệ thiên thu

Một cõi đi về, (1989)-12

<>1973-1974

23 Hạ trắng

Lời đất đá cũ, (1973?)-9

1961

24 Hát trên những xác người

Ca khúc da vàng II, (1969)-2

1968

25 Hoa vàng mấy độ

Một cõi đi về, (1989)-8

1984 (MI)

26

Lặng lẽ nơi này

Một cõi đi về, (1989)-21

1987

27

Lời buồn Thánh

Lời đất đá cũ, (1973)-7

1959

28 Một buổi sáng mùa xuân

Hát cho quê hương Việt Nam, (1973?)-17

1969

29 Mưa hồng

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-7

<=1964

30 Nắng thủy tinh

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-3

<=1963

118

31 Ngủ đi con

Ca khúc da vàng, (1967)-3

<=1967

32 Ngụ ngôn mùa đông

Ca khúc da vàng, (1967)-9

<=1967

33 Nguyệt ca

Tự tình khúc, (1972)-1

<=1972

34 Người con gái Việt Nam da vàng Ca khúc da vàng, (1967)-2

1965

35 Người già em bé

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-6

1965

36 Như cánh vạc bay

Như cánh vạc bay, (1972)-5

1964?

37 Như chim ưu phiền

Bên đời hiu quạnh, (1993)-10

<=1993

38 Níu tay nghìn trùng

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-26

<>1973-1974

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-1

1965

39

Phúc Âm buồn

40 Quỳnh hương

Một cõi đi về, (1989)-14

1974-1975

41

Ru đời đi nhé

Một cõi đi về, (1989)-15

<>1973-1974

42

Ru em

Như cánh vạc bay, (1972)-9

1965?

43

Ru em từng ngón xuân nồng

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-5

<=1964?

44

Ru ta ngậm ngùi

Như cánh vạc bay, (1972)-4

1970-1971

45

Ru tình

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-38

<=1993

46

Rừng xưa đã khép

Như cánh vạc bay, (1972)-8

<=1972

47

Sao mắt mẹ chưa vui

Kinh Việt Nam, (1968)-7

<=1968

48

Thương một người

Lời đất đá cũ, (1973)-2

1958

49

Tình nhớ

Như cánh vạc bay, (1972)-1

<=1966?

50

Tình sầu

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-12

1965

51

Tình xa

Như cánh vạc bay, (1972)-2

1966-1967

52

Tình xót xa vừa

Như cánh vạc bay, (1972)-10

1970

53

Tôi đã mất

Hát cho quê hương 5, (1973?)-4

1970

54

Tôi ru em ngủ

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-11

<=1967

55

Tuổi đá buồn

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-11

1961(BÝ)

56 Ướt my

Lời đất đá cũ, (1973)-1

1958

57 Vết lăn trầm

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-9

1963

58 Vườn xưa

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-19

<1993

59 Xin mặt trời ngủ yên

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-2

1964

60 Xin trả nợ người

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-29

1993

119

Danh mục ca khúc được khảo sát trong luận văn

Nguồn (tập/ băng nhạc với năm xuất bản

STT

Tên ca khúc

Năm sáng tác

và số thứ tự trong ấn bản)

1

Biển nhớ

Lời đất đá cũ, (1973)-5

1962

2

Ca dao mẹ

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-5

1965

3

Chiều một mình qua phố

Lời đất đá cũ (1973)-8

1961

4

Chiều trên quê hương tôi

Một cõi đi về, (1989)-22

1980

5

Chỉ có ta trong một đời

Tự tình khúc, (1972)-4

1970

6

Cho đời chút ơn

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-42

<=1993

7

Chuyện đóa quỳnh hương

Một cõi đi về, (1989)-9

1982

8

Chưa mất niềm tin

Phụ khúc da vàng, (1972)-5

1968

9

Có một dòng sông đã qua đời

Một cõi đi về, (1989)-18

1966?

10

Còn ai với ai

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-26

<=1993

11

Còn tuổi nào cho em

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-6

<>1964

12 Diễm xưa

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-2

1960

13 Đại bác ru đêm

Ca khúc da vàng, (1967)-4

<=1967

14 Đêm thấy ta là thác đổ

Tự tình khúc, (1972)-5

1971

15 Để gió cuốn đi

Khói trời mênh mông, (1972)-10

1971

16 Đi tìm quê hương

Ca khúc da vàng, (1967)-7

1967

17 Đóa hoa vô thường

Tự tình khúc, (1972)-8

1972

18 Đời gọi em biết bao lần

Em còn nhớ hay em đã quên, (1991)-38

<=1980

19

Em đi bỏ lại con đường

Những bài ca không năm tháng, (1995)-120

<=1995

20

Em đi trong chiều

Khói trời mênh mông, (1972)-2

1969

21

Em hãy ngủ đi

Cỏ xót xa đưa, (1972)-6

1970

22 Giọt lệ thiên thu

Một cõi đi về, (1989)-12

<>1973-1974

23 Hạ trắng

Lời đất đá cũ, (1973?)-9

1961

24 Hát trên những xác người

Ca khúc da vàng II, (1969)-2

1968

25 Hoa vàng mấy độ

Một cõi đi về, (1989)-8

1984 (MI)

26

Lặng lẽ nơi này

Một cõi đi về, (1989)-21

1987

27

Lời buồn Thánh

Lời đất đá cũ, (1973)-7

1959

28 Một buổi sáng mùa xuân

Hát cho quê hương Việt Nam, (1973?)-17

1969

29 Mưa hồng

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-7

<=1964

30 Nắng thủy tinh

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-3

<=1963

31 Ngủ đi con

Ca khúc da vàng, (1967)-3

<=1967

120

32 Ngụ ngôn mùa đông

Ca khúc da vàng, (1967)-9

<=1967

33 Nguyệt ca

Tự tình khúc, (1972)-1

<=1972

34 Người con gái Việt Nam da vàng Ca khúc da vàng, (1967)-2

1965

35 Người già em bé

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-6

1965

36 Như cánh vạc bay

Như cánh vạc bay, (1972)-5

1964?

37 Như chim ưu phiền

Bên đời hiu quạnh, (1993)-10

<=1993

38 Níu tay nghìn trùng

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-26

<>1973-1974

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-1

1965

39

Phúc Âm buồn

40 Quỳnh hương

Một cõi đi về, (1989)-14

1974-1975

41

Ru đời đi nhé

Một cõi đi về, (1989)-15

<>1973-1974

42

Ru em

Như cánh vạc bay, (1972)-9

1965?

43

Ru em từng ngón xuân nồng

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-5

<=1964?

44

Ru ta ngậm ngùi

Như cánh vạc bay, (1972)-4

1970-1971

45

Ru tình

Thuở ấy mưa hồng, (1993)-38

<=1993

46

Rừng xưa đã khép

Như cánh vạc bay, (1972)-8

<=1972

47

Sao mắt mẹ chưa vui

Kinh Việt Nam, (1968)-7

<=1968

48

Thương một người

Lời đất đá cũ, (1973)-2

1958

49

Tình nhớ

Như cánh vạc bay, (1972)-1

<=1966?

50

Tình sầu

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-12

1965

51

Tình xa

Như cánh vạc bay, (1972)-2

1966-1967

52

Tình xót xa vừa

Như cánh vạc bay, (1972)-10

1970

53

Tôi đã mất

Hát cho quê hương 5, (1973?)-4

1970

54

Tôi ru em ngủ

Tình khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-11

<=1967

55

Tuổi đá buồn

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-11

1961(BÝ)

56 Ướt my

Lời đất đá cũ, (1973)-1

1958

57 Vết lăn trầm

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-9

1963

58 Vườn xưa

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-19

<1993

59 Xin mặt trời ngủ yên

Ca khúc Trịnh Công Sơn, (1967)-2

1964

60 Xin trả nợ người

Trong nỗi đau tình cờ, (1993)-29

1993

121

DANH MỤC CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

ĐƯỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN

1. Biển nhớ

Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về

Gọi hồn liễu rũ lê thê gọi bờ cát trắng đêm khuya

Ngày mai em đi đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ

Sỏi đá trông em từng giờ nghe buồn nhịp chân bơ vơ

Ngày mai em đi biển nhớ em quay về nguồn

Gọi trùng dương gió ngập hồn bàn tay chăn gió mưa sang

Ngày mai em đi thành phố mắt đêm đèn vàng

Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn nghe ngoài biển động buồn hơn Hôm nao em về bàn tay buông lối ngỏ

Đàn lên cung phím chờ sầu lên đây hoang vu Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về Triều sương ướt đẫm cơn mê trời cao níu bước sơn khê Ngày mai em đi cồn đá rêu phong rủ buồn Đèn phố nghe mưa tủi hờn nghe ngoài trời giăng mây luôn Ngày mai em đi biển có bâng khuâng gọi thầm Ngày mưa tháng nắng còn buồn bàn tay nghe ngóng tin sang Ngày mai em đi thành phố mắt đêm đèn vàng Nửa bóng xuân qua ngập ngừng nghe trời gió lộng mà thương.

2. Ca dao mẹ

Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn đong đưa võng buồn Mẹ ngồi ru con mây qua đầu ghềnh lạy trời mưa tuôn Lạy trời mưa tuôn cho đất sợi mềm hạt mầm vun lên Mẹ ngồi ru con nước mắt nhọc nhằn xót xa đời mình Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn, giọt lệ ăn năn Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người Mẹ ngồi ru con tiếng hát lênh đênh

Mẹ ngồi ru con ru mây vào hồn

Mẹ dạy cho con tiếng nói quê hương

122

Mẹ nhìn con đi phút giây bàng hoàng

Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn đong đưa phận mình

Mẹ ngồi ru con nghe đất gọi thầm trọn nợ lưu vong

Mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương

Tuổi còn bơ vơ thế giới hận thù chiến tranh ngục tù.

3. Chiều một mình qua phố Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em

Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím

Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em

Gót chân đôi khi đã mềm gọi buồn cho mình nhớ tên

Chiều qua bao nhiêu lần môi cười cho mình còn nhớ nhau

Chiều qua bao nhiêu lần tay rời cho buồn ghé môi sầu

Ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu

Ngày nào đời thôi có nhau xin người biết đau

Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em Gió ơi gió ơi bay lên để bụi đường cay lòng mắt Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em Áo xưa chưa quen phong trần gọi mùa thu vàng áo thêm

Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em Bước chân nghe quen cũng buồn lạy trời xin còn tuổi xanh Còn một mình trên phố âm thầm nhớ nhớ tên em Ngoài kia không còn nắng mề ngoài kia ai còn nhớ tên.

4. Chiều trên quê hương tôi

Chiều trên quê hương tôi có khi đây một trời mưa bay Có nơi kia đồi thông nắng đầy có trên sông bờ xa sương khói Chiều trên quê hương tôi nắng phơi trên màu ngói non tươi Gió mang tin một mùa sẽ tới sẽ mưa lâu hoặc con nắng dài Chiều trên quê hương tôi có những chốn riêng cho mọi người Những con đường lứa đôi những góc hè phố vui Giọt chiều trên lá như mắt người cười giữa chiều phai Chiều trên quê hương tôi nắng khép cánh chia tay một ngày Vết son vàng cuối mây tiếng chân về đó đây

Chiều đi nhưng nắng vẫn cho đời bếp lửa hồng khơi

123

Chiều trên quê hương tôi gió đến chơi từ bờ biển xa

Núi đôi khi màu sim tím lạ nắng như môi hoàng hôn trên phố

Chiều trên quê hương tôi ước bao nhiêu điều đã trôi qua

Có riêng em cuộc đời sẽ nhớ nét quê hương nghìn năm vẫn là.

5. Chỉ có ta trong một đời Đời vẽ tôi tên mục đồng

Rồi vẽ thêm con ngựa hồng

Từ đó lên đường phiêu linh

Đời vẽ tôi trong một ngày

Rồi vẽ thêm đêm thật dài

Từ đó tôi thề sẽ rong chơi

Chỉ có ta trong một đời

Chỉ có ta trong một thời

Một thời với yêu người mà thôi Chào những cây xanh nụ hồng Chào những con sông thị thành Một ngày sẽ không còn thấy lại Từng ngày đi dần tới Hẹn hò với trời mây Đời vẽ tóc em thật dài Rồi vẽ môi thơm nụ cười Từ đó thiên hạ vui tươi Đời vẽ tim em lạ kì Tình có trong em nhiều mùa Từ đó thiên hạ quá ưu tư Đời vẽ tôi trong cuộc tình Đầy những yêu thương giân hờn Từ đó sớm chiều bâng khuâng Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng Vì lỡ nơi đây nặng tình Từ đó tôi chìm dưới mênh mông Đời đã cho tôi ngậm ngùi

Đời sẽ cho thêm ngọt bùi

Đời sống chan hòa trong tôi

124

Đời đã cho tôi một ngày

Nhìn thấy gian manh loài người

Từ đó tôi hằng biết vui chơi.

6. Cho đời chút ơn

Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố

Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ

Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa

Làm lời lá bay trên đường đi

Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia

Làm hồng chút môi cho em nhờ

Môi thiên đường hót chim khuyên

Ôi tóc trầm ướp vai thơm

Ta nghe đời rất mênh mông

Trong chân người bước chầm chậm Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm Cho đời chút ơn biết tà áo nọ Em là phấn thơm cho rừng chút hương Là lời hát ca cho trần gian Dưới phường phố kia có người nhớ em Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường.

7. Chuyện đóa quỳnh hương

Giọt mưa lặng lẽ trên nụ quỳnh Quỳnh hương một đóa thoáng hương thầm Vườn đêm xao xuyến Một đôi lần đến như người tình Để cho trời đất báo tin lành vẫn bình yên Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần Đã ra đời đùa vui phút giây Sau một lần đến bên người Khép lại tấm lòng ngàn năm nhớ ai Còn nơi nào biết những chuyện tình Tựa như chuyện những đóa hoa quỳnh

Một đời thương nhớ

Người đi tìm kiếm giữa mịt mùng

125

Người đi tìm mãi suốt con đường tấm lòng kia.

8. Chưa mất niềm tin

Dù hôm nay tôi chưa nhìn Hà Nội

Dù hôm nay em chưa thấy Sài Gòn

Nhưng sao lòng tôi vẫn chưa mất niềm tin

Vì quê hương sẽ có ngày hòa bình

Cố nuôi dưỡng bền những tình thương lớn

Dù hôm nay tôi chưa nhìn Hà Nội

Dù hôm nay em chưa thấy Sài Gòn

Nhưng em và tôi cùng nói tiếng Việt Nam

Lòng ta ơi hãy biến tan thù hận

Đón nghe tiếng cười trên đất nước nát tan

Dù trong tôi đã héo hon chờ đợi Dù môi em đã héo hắt nụ cười Nhưng ta bền gan chờ đón những ngày mai Vì quê hương sẽ có ngày gặp lại Máu xương hai miền rung lòng thế giới Dù hôm nay tôi chưa về Hà Nội Dù hôm nay em chưa đến Sài Gòn Nhưng trong lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung Ngày mai đây bước chân qua mọi miền Trái tim dân tộc còn đâu những vết thương.

9. Có một dòng sông đã qua đời

Mười năm xưa đứng bên bờ dậu Đường xanh hoa muối bay rì rào Có người lòng như khắn mới thêu Mười năm sau áo bay đường chiều Bàn chân trong phố xa lạ nhiều Có người lòng như nắng qua đèo Tóc người dòng sống xưa ấy đã phai

Đã lênh đênh biển khơi

Có lần bàn chân qua phố thấy người sóng lao xao bờ tôi

126

Mười năm chân bước trên đường dài

Gặp nhau không nói không nụ cười

Chút tình dường như hiu hắt bay

Mười năm khi phố khi vùng đồi

Nhìn nhau ôi cũng như mọi người

Có một dòng sông đã qua đời.

10. Còn ai với ai

Không có em còn tôi với ai

Không có em lạnh giá đường vui

Không có em ngồi đứng nơi này

Không có em còn ai với ai

Em đã đi chìm khuất đã theo

Em đã như ngọn gió quạnh hiu

Không có em đường cũ tiêu điều Em đã xa lìa trong nỗi đau Em đi biền biệt muôn trùng quá Từng con gió và từng cơn gió Em đi gió lạnh bến xa bờ Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ à ơi i à Không có em đường xa quá xa Em đã thôi cười giữa chiều mưa Em đã đi đời có đâu ngờ Mang trái tim mùa xuân héo khô Không có em buồn vui với ai Không có em lụa gấm nhạt phai Ai đã chia người mãi xa người Ai giết đi tình đang lứa đôi.

11. Còn tuổi nào cho em

Tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nay Tuổi nào ngồi hát mây bay ngang trời Tay măng trôi trên vùng tóc dài Bao nhiêu cơn mơ vừa tuổi này

Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may

127

Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai

Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời

Xin cho tay em còn muốt dài

Xin cho cô đơn vào tuổi này

Tuổi nào lang thang thang thành phố tóc mây cài

Em xin tuổi nào còn tuổi nào cho nhau

Trời xanh trong mắt em sâu

Mây xuống vây quanh giọt sầu

Em xin tuổi nào còn tuổi trời hư vô

Bàn tay che dấu lệ nhòa, ôi buồn!

Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu

Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù

Xin chân em qua từng phiến ngà Xin mây se thêm màu áo lụa Tuổi nào thôi hết từng tháng năm mong chờ.

12. Diễm xưa

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua Trên bước chân em âm thầm lá đổ Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa Chiều nay còn mưa sao em không lại Nhỡ mai trong cơn đau vùi Làm sao có nhau hằn lên nỗi đau Bước chân em xin về mau Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động Làm sao em biết bia đá không đau

Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng

Để người phiêu lãng quên mình lãng du

128

Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng

Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

13. Đại bác ru đêm

Đại bác đêm đêm dội về thành phố

Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

Đại bác qua đây đánh thức mẹ dậy

Đại bác qua đây con thơ buồn tủi

Nửa đêm sáng chói hỏa châu trên núi

Đại bác đêm đêm dội về thành phố

Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

Từng chuyến bay đêm con thơ giật mình

Hầm trú tan hoang ôi da thịt vàng

Từng đêm chong sáng là mắt quê hương

Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn Hàng vạn chuyến xe Claymore lựu đạn Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành Từng vùng thịt xương có mẹ có em Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng Đại bác như kinh không mang lợi nguyện Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng Đại bác nghe quen như câu dạo buồn Trẻ con chưa lớn để thấy quê hương.

14. Đêm thấy ta là thác đổ

Một đêm bước chân về gác nhỏ Chợt nhớ đóa hoa tường vi

Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ

Giờ đây đã quên vườn xưa

129

Một hôm bước qua thành phố lạ

Thành phố đã đi ngủ trưa

Đời ta có khi tựa lá cỏ

Ngồi hát ca rất tự do

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà

Từ những phố kia tôi về

Ngày xuân bước chân người rất nhẹ

Mùa xuân đã qua bao giờ

Nhiều đêm thấy ta là thác đổ

Tỉnh ra có khi còn nghe

Một hôm bước chân về giữa chợ

Chợt thấy vui như như trẻ thơ Đời ta có khi là đốm lửa Một hôm nhóm trong vườn khuya Vườn khuya đóa hoa nào mới nở Đời ta có ai vừa qua Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ Tôi nghĩ quanh đây hồ như Đời ta hết mang điều mới lạ Tôi đã sống rất ơ hờ Lòng tôi có đôi lần khép cửa Rồi bên vết thương tôi quỳ Vì em đã mang lời khấn nhỏ Bỏ tôi đứng bên đời kia.

15. Để gió cuốn đi

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng Để làm gì em biết không Để gió cuốn đi để gió cuốn đi Gió cuốn đi cho mây qua giòng sông Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông

Ôi trái tim đang bay theo thời gian

Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian

130

Những khi chiều tối cần có một tiếng cười

Để ngậm ngùi theo lá bay

Rồi nước cuốn trôi rồi nước cuốn trôi

Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình

Chỉ lặng nhìn không nói năng

Để buốt trái tim để buốt trái tim

Trong trái tim con chim đau nằm yên

Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu

Một sớm mai chim bay đi triền miên

Và tiếng hót tan trong trời gió lên

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người

Còn cuộc đời ta cứ vui

Dù vắng bóng ai Dù vắng bóng ai.

16. Đi tìm quê hương

Người nô lệ da vàng ngủ quên Ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ Ngủ quên quên đã bao năm ngủ quên không thấy quê hương Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do Người nô lệ da vàng bước đi bước đi đi về đầu non Người nô lệ da vàng bước đi bước đi đi về biển xanh Đi khâu vá con sông Việt Nam hai mươi năm liền Thịt xương phơi trên đôi miền Đi cho thấy quê hương Người nô lệ da vàng ngồi yên Ngồi yên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ Ngồi yên quên nước quên non ngồi yên xin áo xin cơm Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc đôi chân Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc hờn căm Người nô lệ da vàng bước đi bước đi đi về ruộng nương Người nô lệ da vàng bước đi bước đi đi về đồi hoang Đi nói với anh em đòi cho quê hương thanh bình

Dựng xây tương lai Tiên Rồng đi cho thấy quê hương

131

Đi cho thấy quê hương đi cho thấy quê hương.

17. Đóa hoa vô thường

Tìm em tôi tìm

Mình hạc xương mai

Tìm trên non ngàn

Một cành hoa khôi

Nụ cười mong manh

Một hồn yếu đuối

Một bờ môi thơm

Một hồn giấy mới

Tìm em tôi tìm

Nhủ lòng tôi ơi

Tìm đêm chưa từng

Tìm ngày tinh khôi Tìm chim trong đàn Ngậm hạt sương bay Tìm lại trên sông Những dấu hài Tìm em xa gần Đất trời rộn ràng Tìm trong sương hồng Trong chiều bạc mệnh Trăng tàn nguyệt tận Chưa từng tuyệt vọng đâu em Tìm trong vô thường Có đôi dòng kinh Sấm bay rền vang Bỗng tôi thấy em Dưới chân cội nguồn Tôi mời em về Đêm gội mưa trăng Em ngồi bốn bề Thơm ngát hương trầm

Trong vườn mưa tạnh

Tiếng nhạc hân hoa

132

Trăng vàng khai hội

Một đóa hoa quỳnh

Từ nay tôi đã có người

Có em đi đứng bên đời líu lo

Từ nay tôi đã có tình

Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa

Từ em tôi đã đắp bồi

Có tôi trong dáng em ngồi trước sân Rụng mát

Mùa đông cho em nỗi buồn

Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông

Tàn đông con nước kéo lên

Chút tình mới chớm đã viên thành

Từ nay anh đã có nàng

Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca Mùa xuân trên những mái nhà Có con chim hót tên là ái ân Sen hồng một nụ Em ngồi một thuở Một thuở yêu nhau Có vui cùng sầu Từ rạng đông cao Đến đêm ngọt ngào Sen hồng một độ Em hồng một thuở xuân xanh Sen buồn một mình Em buồn đền trọn mối tình Một chiều em đứng cuối sông Gió mùa thu rất ân cần Chở lời kinh đến núi non Những lời tình em trối trăn Một thời yêu dấu đã qua

Gót hồng em muốn quay về

Dù trần gian có xót xa

133

Cũng đành về với quê nhà

Từ đó trong vườn khuya

Ôi áo xưa em là

Một chút mây phù du

Đã thoáng qua đời ta

Từ đó trong hồn ta

Ôi tiếng chuông não nề

Ngựa hí vang rừng xa

Vọng suốt đất trời kia

Từ đó ta ngồi mê

Để thấy trên đường xa

Một chuyến xe tựa như

Vừa đến nơi chia lìa

Từ đó ta nằm đau Ôi núi cũng như đèo Một chút vô thường theo Từng phút cao giờ sâu Từ đó em là hoa Một sớm kia rất hồng Nở hết trong hoàng hôn Đợi gió vô thường lên Từ đó em là sương Rụng mát trong bình minh Từ đó ta là đêm Nở đóa hoa vô thường.

18. Đời gọi em biết bao lần Đi về đâu hỡi em Khi trong lòng không chút nắng Giấc mơ đời xa vắng Bước chân không chờ ai đón Một đời em mãi lang thang Lòng lạnh băng giữa đau thương

Em về đâu hỡi em

Hãy lau khô dòng nước mắt

134

Đời gọi em biết bao lần

Đời gọi em về giữa yêu thương

Để trả em ngày tháng êm đềm

Trả lại nắng trong tim

Trả lại thoáng hương thơm

Em về đâu hỡi em

Có nghe tình yêu lên tiếng

Hãy chôn vào quên lãng

Nỗi đau hay niềm cay đắng

Đời nhẹ nâng bước chân em

Về lại trong phố thênh thang

Bao buồn xưa sẽ quên

Hãy yêu khi đời mang đến

Một cành hoa giữa tâm hồn.

19. Em đi bỏ lại con đường

Bỏ mặc căn nhà bỏ mặc tôi Bỏ mặc nơi đây bỏ mặc người Bỏ trăm năm sau ngàn năm nữa Bỏ mặc tôi là tôi là ai Em đi bỏ lại con đường Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em Em đi bỏ lại dặm trường Ngàn dâu có quận muôn trùng nhớ thêm Bỏ mặc đêm dài bỏ mặc tôi Bỏ mặc gian nan bỏ mặc người Bỏ xa xôi yêu và gần gũi Bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui Bỏ mặc mưa về bỏ chiều phai Bỏ mặc hư vô bỏ ngậm ngùi Bỏ đêm chưa qua ngày chưa tới Bỏ mặc tay buồn không bàn tay

Bỏ mặc vui buồn bỏ mặc ai

Bỏ mặc chăn không bỏ mặc người

135

Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé

Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi.

20. Em đi trong chiều

Em đi qua cầu có gió bay theo

Thổi bùng khăn tang trắng giữa khung chiều

Em đi qua cầu có lá xôn xao

Một dòng sông sâu chở hồn thương đau

Em đi qua cầu chở chiều trên vai

Ngậm buồn trên môi trái tim đã hoài

Một người nằm xuống một người nơi đây

Em đi qua cầu một hồn mây bay

Em đi trong chiều một đời khôn nguôi

Một đời riêng ai mong ai

Em đi qua cầu tiếng súng vang theo Làng mạc quê hương có dáng buồn rầu Em đi qua cầu có gió hiu hiu Thổi lòng em xa đến mãi nơi nào.

21. Em hãy ngủ đi

Rừng đã cháy và rừng đã héo Em hãy ngủ đi Rừng đã khô và rừng đã tàn Em hãy ngủ đi Ngủ đi em đôi môi lửa cháy Ngủ đi em mi cong cỏ mượt Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc Ngủ đi em tóc gió thôi bay Đời đã khép và ngày đã tắt Em hãy ngủ đi Đời mãi đêm và ngày mãi buồn Em hãy ngủ đi Đồi đứng ngóng và đồi thắp nắng

Em hãy ngủ đi

Mặt đất im mặt trời cúi nhìn

136

Em hãy ngủ đi

Ngủ đi em đôi vai lụa mát

Ngủ đi em da thơm quả ngọt

Ngủ đi em tay thôi mời mọc

Ngủ đi em trong tiếng ru êm

Người đã đến và người đã vắng

Em hãy ngủ đi

Ngoài phố kia loài người đã về

Em hãy ngủ đi.

22. Giọt lệ thiên thu

Sống có bao năm

Vui vui buồn buồn

Người người ngợm ngợm

Sống chết mong manh Như thân cỏ hèn Mọc đầy núi non Cuộc đời cho tôi Cho tôi tiếng nói Đôi khi vui tươi Cuộc đời cho tôi Cho tôi tiếng nói Đôi khi ngậm ngùi Gió núi bay qua Lao xao bụi bờ Lao xao bờm ngựa Nắng quái yêu ma Lung linh thành trì Lung linh cửa nhà Bước tới hư vô Khoác áo chân như Long lanh giọt lệ

Long lanh giọt lệ

Giọt lệ thiên thu

137

Sống có đôi tay

Đôi tay thật dài

Ôm quanh tình người

Sống có đôi chân

Đôi chân mệt nhoài

Một đời tới lui

Cuộc đời cho tôi

Cho tôi trái cấm

Trên đôi môi em

Cuộc đời cho em

Cho em có cánh

Bay đi vội vàng

Núi đứng quanh năm Đất muôn đời nằm Riêng ta rộn ràng Đứng giữa thiên nhiên Thân ta nằng nặng Thân chim nhẹ nhàng Muốn nói đôi câu Giữa chốn thương đau Cây xanh bạc đầu Chim xanh bạc đầu Vội vàng tôi theo.

23. Hạ trắng

Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay Nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say Lối em đi về trời không có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy Gọi nắng cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay Cho tay em dài gầy thêm nắng mai Bước chân em về nào anh có hay

Gọi em cho nắng chết trên sông dài

138

Thôi xin ơn đời trong cơn mê này

Gọi mùa thu tới tôi đưa em về

Chân em bước nhẹ trời buồn gió cao

Đời xin có nhau dài cho mãi sau

Nắng không gọi sầu

Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau

Gọi nắng cho tóc em cài loài hoa nắng rơi

Nắng đưa em về miền cao gió bay

Áo em bây giờ mờ xa nẻo mây

Gọi tên em mãi suốt cơn mê này.

24. Hát trên những xác người

Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người

Tôi đã thấy tôi đã thấy trên con đường

Người ta bồng bế nhau chạy trốn Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người Tôi đã thấy tôi đã thấy Bên khu vườn một người mẹ ôm xác đứa con Mẹ vỗ tay reo mừng xác con Chị vỗ tay hoan hô hòa bình Người vỗ tay cho thêm nhịp nhàng Người vỗ tay cho đều gian nan Chiều đi qua bãi Dâu hát trên những xác người Tôi đã thấy tôi đã thấy Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh Chị vỗ tay hoan hô hòa bình Người vô tay cho thêm thù hận Người vỗ tay xa dần ăn năn.

25. Hoa vàng mấy độ

Em đến bên đời hoa vàng một đóa Một thoáng hương bay bên trời phố hạ Nào có ai hay ta gặp tình cờ

Nhưng là cơn gió em còn cứ mãi bay đi

139

Em đến bên đời hoa vàng rực rỡ

Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ

Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù

Xin cho bốn mùa đất trời lặng gió

Đường trần em đi hoa vàng mấy độ

Từng giọt sương thu yêu em thật thà

Em đến nơi này bao điều chưa nói

Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội

Một cõi bao la ta về ngậm ngùi

Em cười đâu đó trong lòng phố xá đông vui

Em đến nơi này vui buồn đi nhé

Đời sẽ trôi xuôi qua ghềnh qua suối

Một vết thương thôi. Riêng cho một người.

26. Lặng lẽ nơi này

Tình yêu mật ngọt mật ngọt trên môi Tình yêu mật đắng mật đắng trong đời Tình yêu như biển biển rộng hai vai Tình yêu như biển biển hẹp tay người Biển hẹp tay người lạc lối Em đi về nơi ấy Nơi đâu nơi đâu sông cạn đá mòn Trăng treo đầu con sóng Tan theo tan theo chút tình xa vắng Làm sao ru được tình vơi À ơi nỗi đau này người Tình yêu vô tội để lại cho ai Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này Trời cao đất rộng một mình tôi đi Một mình tôi đi đời như vô tận Một mình tôi về một mình tôi về Với tôi.

27. Lời buồn thánh

Chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu

140

Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều

Trời mưa trời mưa không dứt

Ô hay mình vẫn cô liêu

Chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu

Nghe tiếng hát xanh xao của một buổi chiều

Bạn bè rời xa chăn chiếu bơ vơ còn đến bao giờ

Chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu

Tôi xin năm ngón tay em thiên thần

Trên vùng ăn năn qua cơn hờn dỗi

Tôi xin năm ngón tay em đưa vào cô đơn

Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về

Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về.

28. Một buổi sáng mùa xuân

Một buổi sáng mùa xuân một đứa bé ra đồng Đạp trái mìn nổ chậm xác không còn đôi chân Một buổi sáng mùa xuân ngực đứa bé tan tành Ngàn hoa đồng cỏ nội cúi xuống nhìn con tim Em thơ ơi chiều nay trường học lại Trong sân chơi bạn và thầy im lời Bài học về yêu thương trên giấy mới Sao hôm nay nét mực đã phai Một buổi sáng mùa xuân một đứa bé im lìm Bờ môi dường thầm hỏi có thiên đường hay không? Em thơ ơi chiều nay trường học lại Trong sân chơi bạn và thầy im lời Bài học về yêu thương trên trang giấy mới Sao hôm nay nét mực đã phai Một buổi sáng mùa xuân Một đứa bé yên nằm Bàn tay cầm cỏ dại

Có hoa vàng mong manh

141

Một buổi sáng mùa xuân

Một đứa bé im lìm

Bờ môi dường thầm hỏi

Có thiên đường hay không?

29. Mưa hồng Trời ươm nắng cho mây hồng

Mây qua mau em nghiêng sầu

Còn mưa xuống như hôm nào em đến thăm

Mây âm thầm mang gió lên

Người ngồi đó trông mưa nguồn

Ôi yêu thương nghe đã buồn

Ngoài kia lá như vẫn xanh

Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng

Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu Em đi về cầu mưa ướt áo Đường phượng bay mù không lối vào Hàng cây lá xanh gần với nhau Người ngồi xuống mây ngang đầu Mong em qua bao nhiêu chiều Vòng tay đã xanh xao nhiều Ôi tháng năm gót chân mòn trên phiếm du Người ngồi xuống xin mưa đầy Trên hai tay cơn đau dài Người nằm xuống nghe tiếng ru Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.

30. Nắng thủy tinh

Màu nắng hay là màu mắt em Mùa thu mưa bay cho tay mềm Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm Rồi có hôm nào mây bay lên

Lùa nắng cho buồn vào tóc em

142

Bàn tay xanh xao đón ưu phiền

Ngày xưa sao lá thu không vàng

Và nắng chưa vào trong mắt em

Em qua công viên bước chân âm thầm

Ngoài kia gió mây về ngàn

Cỏ cây chợt lên màu nắng

Em qua công viên mắt em ngây tròn

Lung linh nắng thủy tinh vàng

Chợt hồn buồn dâng mênh mang

Chiều đã đi vào vườn mắt em

Mùa thu qua tay đã bao lần

Ngàn cây thắp nến lên hai hàng

Để nắng đi vào trong mắt em.

31. Ngủ đi con

Hò ho ho hó ho ho hò, con ngủ ngủ đi con Đứa con của mẹ da vàng Ru con ru đạn nhuộm hồng vết thương Hai mươi năm đàn con đi lính đi rồi không về Đứa con da vàng của mẹ ngủ đi con Ru con ru đã hai lần Ôi tấm thân này ngày xưa bé bỏng Mẹ mang đầy bụng mẹ bồng trên tay Hò ho ho hó ho ho hò sao ngủ tuổi hai mươi Hò ho ho hó ho ho hò con ngủ ngủ đi con Đứa con của mẹ ra đời Trên môi vang vọng một lời đau thương Hai mươi năm đàn con khôn lớn ra ngoài chiến trường Đứa con da vàng Lạc Hồng ngủ đi con Ru con nay đã phong trần Ôi vết thương nào đục sâu da nồng Thịt xương này mẹ nhọc nhằn hôm mai Hò ho ho hó ho ho hò sao ngủ tuổi hai mươi

Hò ho ho hó ho ho hò con ngủ tuổi hai mươi

Hò ho ho hó ho ho hò sao ngủ tuổi hai mươi

143

Hò ho ho hó ho ho hò sao ngủ tuổi hai mươi.

32. Ngụ ngôn mùa đông

Một ngày mùa đông một người Việt Nam

Ra bên dòng sông nhớ về cội nguồn

Nhớ về đoạn đường từ đó ra đi

Nhớ về biển rộng thuyền ghe lướt sóng

Nhớ về nghìn trùng nòi giống của chim

Một ngày mùa đông một người Việt Nam

Đi lên đồi non nhớ về cội nguồn

Nhớ về đoạn đường từ đó ra đi

Nhớ về đồng bằng loài chim muông hót

Nhớ rừng mịt mùng nòi giống của tiên

Một ngày mùa đông trên con đường mòn Một chiếc xe tang trái mìn nổ chậm Người chết hai lần thịt da nát tan Một ngày mùa đông một người Việt Nam Thôi ra dòng sông súng nổ thật gần Tiếng đạn đầy hồn từ đó bâng khuâng Nhớ thuở mẹ bồng lời ru trong sáng Nhớ mẹ hiền lành ngồi với đàn con Một ngày mùa đông một người Việt Nam Thôi lên đồi non súng từ thị thành Súng từ ruộng làng nổ xé da con Phố chợ thật buồn cuộn dây gai chắn Chắc mẹ hiền lành rồi cũng tủi thân.

33. Nguyệt ca

Từ khi trăng là nguyệt đèn thắp sáng trong tôi Từ khi trăng là nguyệt em mang tim bối rối Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe từng cánh diều vui Từ khi em là nguyệt trong tôi có những mặt trời

Từ đêm khuya khi nắng sớm hay trong những cơn mưa

Từ bao la em đã đến xua tan những nghi ngờ

144

Từ trăng xưa là nguyệt lòng tôi có đôi khi

Tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế

Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời gõ nhịp ca

Từ khi em là nguyệt cho tôi bóng mát thật là

Từ khi trăng là nguyệt vườn xưa lá xanh tươi

Đàn chim non lần hạt cho câu kinh bước tới

Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời vỗ về tôi

Từ khi em là nguyệt câu kinh đã bước vào đời

Từ bao la em đã đến hay em sẽ ra đi

Vườn năm xưa còn tiếng nói tôi nghe những đêm về

Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ Từ trăng thôi là nguyệt tôi như giọt nắng ngoài kia Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ Từ trăng thôi là nguyệt là trăng với bao la Từ trăng kia vừa mọc trong tôi không trí nhớ Từ trăng thôi là nguyệt hôm nào chợt có lời thưa Rằng em thôi là nguyệt tôi như đứa bé dại khờ Vườn năm xưa em đã đến nay trăng quá vô vi Giọt sương khuya rụng xuống lá như chân ai lần về Từ trăng thôi là nguyệt mỏi mê đá thôi lăn Vườn năm xưa vừa mệt cây đam mê hết nhánh Từ trăng thôi là nguyệt tôi như đường phố nhiều tên Từ em thôi là nguyệt tôi xin đứng đó một mình.

34. Người con gái Việt Nam da vàng

Người con gái Việt Nam da vàng Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín Người con gái việt Nam da vàng Yêu quê hương nước mắt lưng dòng

Người con gái Việt Nam da vàng

145

Yêu quê hương nên yêu người yếu kém

Người con gái ngồi mơ thanh bình

Yêu quê hương như đã yêu mình

Em chưa biết quê hương thanh bình

Em chưa thấy xưa kia Việt Nam

Em chưa hát ca dao một lần

Em chỉ có con tim căm hờn

Người con gái một hôm qua làng

Đi trong đêm đêm vang ầm tiếng súng

Người con gái chợt ôm tim mình

Trên da thơm vết máu loang dần

Người con gái Việt Nam da vàng Mang giấc mơ quê hương lìa kiếp sống Người con gái Việt Nam da vàng Yêu quê hương nay đã không còn Ôi cái chết đau thương vô tình Ôi đất nước u mê ngàn năm Em đã đến quê hương một mình Riêng tôi vẫn âu lo đi tìm.

35. Người già em bé

Ghế đá công viên dời ra đường phố Người già co ro chiều thiu thiu ngủ Người già co ro buồn nghe tiếng nổ Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi Ghế đá công viên dời ra đường phố Người già co ro buồn trong mắt đỏ Người già co ro nhìn qua phố chợ Khi chiến tranh về đốt lửa quê hương Người già co ro em bé lõa lồ

Từng hạt cơm khô trong miếng hững hờ

Ruộng đồi quê hương dấu vết bom qua

146

Từng bàn tay thô lấp kín môi cười

Từng cuộn dây gai xé nát da người

Đạn về đêm đêm đốt cháy tương lai

Ghế đá công viên dời ra đường phố

Từng hàng cây nghiêng chìm trong tiếng nổ

Từng bàn chân quen chạy ra phố chợ

Người già ho hen ngồi im tiếng thở

Từng vùng đêm đen hỏa châu thắp đỏ

Em bé lõa lồ suốt đời lang thang.

36. Như cánh vạc bay

Nắng có hồng bằng đôi môi em

Mưa có buồn bằng đôi mắt em

Tóc em từng sợi nhỏ

Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh Gió sẽ mừng vì tóc em bay Cho mây hờn ngủ quên trên vai Vai em gầy guộc nhỏ Như cánh vạc về chốn xa xôi Nắng có còn hờn ghen môi em Mưa có còn buồn trong mắt trong Từ lúc đưa em về Là biết xa nghìn trùng Suối đón từng bàn chân em qua Lá hát từ bàn tay thơm tho Lá khô vì đợi chờ Cũng như đời người mãi âm u Nơi em về ngày vui không em Nơi em về trời xanh không em Ta nghe nghìn giọt lệ Rớt xuống thành hồ nước long lanh.

37. Như chim ưu phiền

Tôi như con chim nhỏ bay về rất ngẩn ngơ

Trên nhân gian chia lìa lòng đầy bao oán thù

147

Tôi như chim xa lạ đứng nhìn những ngày qua

Trong tim tôi bất ngờ một lời than rất nhỏ

Tôi như con chim buồn bay về lúc chiều hôm

Thôi quên đi thiên đường một đời tôi mãi tìm

Tôi như con chim bệnh thiếu hạnh phúc trần gian

Có những tháng mùa đông ngồi khóc rất âm thầm

Tôi như chim ưu phiền bay về cuối dòng sông

Trên nhân gian chia lìa nằm chờ những đóa hồng

Tôi con chim vô vọng linh hồn rất mỏng manh

Trong tim tôi có lần một mùa ôi rất lạnh

Tôi như con chim chiều mang đầy nắng quạnh hiu

Trên đôi vai u sầu tìm về nơi cuối đèo Tôi con chim thanh bình mơ được sống hồn nhiên Như hoa trên đồng xanh một sớm kia rất hồng.

38. Níu tay nghìn trùng

Một chiều kia có người tình trẻ Đi lang thang quanh ngôi thành cổ Từ bờ môi hát lên nhè nhẹ Từ lời ca rớt thành cơn mưa Một chiều kia có mây mù mù Mây rơi nhanh rơi trên cửa nhà Người tình kia mất con đường về Và trời kia mất em từ độ Mặt trời xa đã bay về gần Rơi trên sông rơi sau bờ thành Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng Nhìn lại em áo lụa thinh không Mặt trời như trái cây tuyệt vọng Rơi trong đêm rơi trong đời nàng

Và từ đó có em thì thầm

Lời quạnh hiu suốt con đường tình

148

Một chiều kia có em buồn buồn

Thân mong manh như lau sậy hiền

Về đồi mây thắp hương nằm mộng

Rồi ngủ quên giữa trời mênh mông

Một chiều kia có em nhẹ nhàng

Đi không nhanh chân không vội vàng

Về nguồn xưa gối tay nằm bệnh

Về cội xưa níu tay nghìn trùng.

39. Phúc Âm buồn

Người nằm co như loài thú khi mùa đông về

Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình

Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm

Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần Một góc trời người vẫn ngồi một đời nhỏ nhen Người còn đứng như tượng đá trong rừng cây già Người còn đứng như trăm năm vết thương chưa mờ Từng đêm về từng đêm về mang đời ngẩn ngơ Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người Còn bao lâu tôi xa anh xa em xa tôi Người nhìn mãi theo từng chuyến xe ngựa qua rồi Người nhìn dấu xe lăn đi dấu lăn trên đời Ngựa xa rồi người vẫn ngồi bụi về với mây Người còn đó gieo hạt lúa trên hạt đất này Người còn đó nhưng bơ vơ mắt chong đêm dài Ngựa xa rồi ngựa xa rồi trên ngày tháng vơi Người còn đó những lời nói rơi về chân đồi Người còn đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài

Nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay.

40. Quỳnh hương

149

Ta mang cho em một đóa quỳnh

Quỳnh thơm hay môi em thơm

Em mang cho ta một chút tình

Miệng cười khúc khích trên lưng

Đêm này đêm buồn bã với những môi hôn

Trong vườn trăng vừa khép những đóa mong manh

Ta mang cho em một chút buồn vì ta như sông lênh đênh

Môi em cho ta một cánh hồng lụa là phút ấy chưa quên

Thôi chào em về giữa phố xá thênh thang

Không gì vui thì hãy gắng nhớ đôi lần.

41. Ru đời đi nhé

Có khi mưa ngoài trời

Là giọt nước mắt em Đã nương theo vào đời Làm từng nỗi ưu phiền Ngoài phố mùa đông Đôi môi em là đốm lửa hồng Ru đời đi nhé Cho ta nương nhờ lúc thở than Chân đi nằng nặng hoang mang Ta nghe tịch lặng rơi nhanh Dưới khe im lìm Ru đời đi nhé Ôi môi ngon này giữa trần gian Ru từng chiếc bóng lênh đênh Vào giấc ngủ ngon Cho tôi tay gối mong manh Cho tôi ôm lấy vai thon.

42. Ru em

Ru em ngủ những đêm khuya Ru em ngủ tháng âm u

Ru em cùng những u mê

Ru em ru em dù đã chia xa

150

Ru em thèm khát xa hoa

Ru em đầy những đam mê

Ru em tình nghĩa vu vơ

Ru em ru em chìm dưới phong ba

Ru em vì những đêm xưa

Ru em phụ rẫy trong ta

Ru em quỳ gối vong nô

Ru em ru em vì dáng kiêu sa

Ru từng ngọt bùi đã qua

Ru người lận đận héo khô

Yêu em yêu thêm tình phụ Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ Ru em mệt lã cơn đau Ru em về giữa chiêm bao Ru em bồng bế con theo Ru em ru em gầy yếu hư hao Cuối đời còn gì nữa đâu Đã tàn mộng mị khát khao Đôi khi con tim hò hẹn Ngậm ngùi vì một ngày mưa bắt đầu.

43. Ru em từng ngón xuân nồng

Ru mãi ngàn năm giòng tóc em buồn Bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm Trên mùa lá xanh ngón tay em gầy Nên mãi ru thêm ngàn năm Ru mãi ngàn năm từng phiến môi mềm Bàn tay em trau chuốt thêm cho ngàn năm Cho vừa nhớ nhung có em dỗi hờn

Nên mãi ru thêm ngàn năm

151

Thôi ngủ đi em mưa ru em ngủ

Tay em kết nụ nuôi trọn một đời

Nuôi một đời người mùa xuân vừa đến

Xin mãi ăn năn mà thôi

Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng

Bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm

Giận hờn sẽ quên dáng em trôi dài

Trôi mãi trôi trên ngàn năm

Ru mãi ngàn năm vừa má em hồng

Bàn tay đưa anh đến quê hương vàng son

Vào trời lãng quên tóc em như trời

Xưa đã qua đi ngàn năm

Còn lời ru mãi vang vọng một trời Mùa xanh lá vội ru em miệt mài Còn lời ru mãi còn lời ru này Ngàn năm ru hoài ngàn đời ru ai.

44. Ru ta ngậm ngùi

Môi nào hãy còn thơm cho ta phơi cuộc tình Tóc nào hãy còn xanh cho ta chút hồn nhiên Tim nào có bình yên ta rêu rao đời mình Xin người hãy gọi tên Khi tình đã vội quên tim lăn trên đường mòn Trên giọt máu cuồng điên con chim đứng lặng câm Khi về trong mùa đông tay rong rêu muộn màng Thôi chờ những rạng đông xin chờ những rạng đông Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong như rừng núi bỏ hoang Người về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi Không còn không còn ai ta trôi trong cuộc đời

Không chờ không chờ ai

152

Em về hãy về đi ta phiêu du một đời

Hương trầm có còn đây ta thắp nốt chiều nay

Xin ngủ trong vòng nôi ta ru ta ngậm ngùi

Xin ngủ dưới vòm cây.

45. Ru tình

Ru em đầu con gió

Em hong tóc bên hồ

Khi sen hồng mới nở

Nụ đời ôi thơm quá

Ru em tình khi nhớ

Ru em tình lúc xa

Ru cho bầy lá nhỏ

Rụng đầy một mùa thu

Ru khi mùa mưa tới Ru em mãi yêu người Ru em hoài bé dại Một hồn thơm cây trái Ru em chờ em nói Trên môi tình thoát thai Ru em ngồi yên đấy Ru tình à à ơi Ru người ngồi mãi cùng tôi Ru người ngồi mãi cùng tôi Ru em hài nhung gấm Ru em gót sen hồng Ru bay tà áo rộng Vừa tình tôi chắp cánh Ru trên đường em đến Xôn xao từng tiếng chim Ru em là cánh nhạn Miệng ngọt hạt từ tâm

Ru em tình như lá

Trăm năm vẫn quay về

153

Môi em là đốm lửa

Cuộc đời đâu biết thế

Xin em còn đâu đó

Cho tôi còn tiếng ru

Ru em ngồi yên nhé

Tôi tìm cuộc tình cho.

46. Rừng xưa đã khép

Ta thấy em trong tiền kiếp

Với cọng buồn cỏ khô

Ta thấy em đang ngồi khóc

Khi rừng chiều đổ mưa

Rừng thu lá úa em vẫn chưa về

Rừng đông cuốn gió em đứng bơ vơ

Ta thấy em trong tiền kiếp Với mặt trời lẻ loi Ta thấy em đang ngồi hát Khi rừng về nhiều mây Rừng thu thay lá mây bay buồn rầu Rừng đông buốt giá mưa bay rạt rào Ta vẫn mong ta chờ mãi Trên từng ngày quạnh hiu Ta vẫn mong em về đây Cho đời bày cuộc vui Mùa xuân đã đến em hãy quay về Rừng xưa đã khép em hãy ra đi Rừng xưa đã khép Rừng xưa đã khép em hãy ra đi.

47. Sao mắt mẹ chưa vui

Đêm hòa bình sao em nhỏ chưa vui Hãy bước ra đây nhìn phố ngợp người Đêm nay hòa bình không nụ cười trên môi Nhìn quanh em không ai còn lại Không ai còn lại ru đỡ tình người cho có đôi

Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui

154

Mẹ hãy ra xem đường phố ngập người

Đêm nay hòa bình mắt mẹ buồn như kinh

Lời kinh đêm ru căn nhà lạnh

Ru me một mình ru mẹ một mình ôm bóng đêm

Đêm nay hòa bình tôi muốn nghe

Lời nói âm u trên đường về của mẹ

Điệu hát hoang vu trên phố sáng của anh

Giọng cười em thơ âm thâm từ thềm vắng

Chị hát nghẹn ngào bên nôi ấm của con

Đêm nay hòa bình tôi muốn đi

Tìm thấy em thơ trong nụ cười của chị

Tìm thấy me xưa trên môi nín của cha

Tìm gặp tên anh trong tình người vợ góa Tìm thấy bạn bè trong nỗi nhớ của ta Đêm nay hòa bình sao anh lại chưa vui Hãy bước ra đây nhìn phố ngợp người Đêm nay hòa bình anh gọi thầm tên ai Gọi tên ai trong căn nhà nhỏ Anh đi trận về nghe lại chuyện kể ngỡ giấc mơ Đêm nay hòa bình sao mắt chị chưa vui Chị hãy ra xem đường phố ngập người Đêm nay hòa bình sao chị còn bâng khuâng Chị ru con sao ru lạnh lùng ru cha bỏ mình Ru đời chỉ còn me với con.

48. Thương một người

Thương ai về ngõ tối sương rơi ướt đôi môi Thương ai buồn kiếp đời lạnh lùng ánh sao rơi Thương ai về ngõ tối bao nhiêu lá rơi rơi Thương ai cười không nói ngập ngừng lá hôn vai Thương nụ cười và mái tóc buông lơi

Mùa thu úa trên môi

Từng đêm qua ngõ tối bàn châm âm thầm nói

155

Lặng nghe gió đêm nay ngại ai buốt đôi vai

Bờ vai như giấy mới sợ nghiêng hết tình tôi

Thương ai về xóm vắng đêm nay thiếu ánh trăng

Đôi vai gầy ướt mềm người lạnh lắm hay không

Thương ai màu áo trắng trong như ánh sao băng

Thương ai cười trong nắng ngại ngùng áng mây tan.

49. Tình nhớ

Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng

Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang

Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều

Như từng con nước rộng xóa một ngày đìu hiu

Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy

Người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây Những bước chân mềm mại đã đi vào đời người Như từng viên đá cuội rớt vào lòng biển khơi Khi cơn đau chưa dài thì tình như chút nắng Khi cơn đau lên đầy thì tình đã mêng mông Một người về đỉnh cao một người về vực sâu Để cuộc tình chìm mau như bóng chim cuối đèo Tình ngỡ chết trong nhau nhưng tình vẫn rộn ràng Người ngỡ đã quên lâu nhưng người vẫn bâng khuâng Những ngón tay ngại ngùng đã ru lại tình gần Như ngoài khơi gió động hết cuộc đời lênh đênh Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về Tình ngỡ sóng xa đưa nhưng còn quá bao la Ôi trái tim phiền muộn đã vui lại một giờ Như bờ xa nước cạn đã chìm vào cơn mưa.

50. Tình sầu

Tình yêu như trái phá con tim mù lòa Một mai thức dậy chợt hồn như ngất ngây

Chợt buồn trong mắt nai

Rồi tình vui trong mắt rồi tình mềm trong tay

156

Tình yêu như vết cháy trên da thịt người

Tình xa như trời tình gần như khói mây

Tình trầm như bóng cây

Tình reo vui như nắng

Tình buồn làm cơn say

Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi

Như chim xa lìa bầy như chim xa lìa trời

Như chim bỏ đường bay

Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời

Một mai thức dậy chuyện trò với lá cây

Rồi buồn như lá bay

Một dòng sông nước cuốn Một cuộc tình không may Tình yêu như thương áo quen hơi ngọt ngào Rời nhau hôm nào hồn mình như vá khâu Buồn mình như lũng sâu Rồi tình trong im tiếng rồi tình ngoài hư hao Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài Tình khâu môi cười hình hài xưa đã thay Mặn nồng xưa cũng phai Tình chia nhau gian dối tình đầy tình đôi nơi Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu Tình thắp cơn sầu tình dìu qua hố sâu Tình vời lên núi cao Rồi trong cơn yêu dấu tình đầy tình xa nhau Cuộc tình lên cao vút như chim mỏi cánh rồi Như chim xa lìa bầy như chim xa lìa trời Như chim bỏ đường bay

Tình yêu cho anh đến bên cơn muộn phiền

Tình đi âm thầm nghìn trùng như vết sương

157

Lạnh lùng như dấu chim

Tình mong manh như nắng tình còn đầy không em

Tình yêu như đốt sáng con tim tật nguyền

Tình lên êm đềm vội vàng nhưng chóng quên

Rộn ràng nhưng biến nhanh

Tình cho nhau môi ấm một lần là trăm năm.

51. Tình xa

Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại

Cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây

Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ

Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa

Khi bước chân ta về đêm khuya nhìn đường phố

Thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình Làm sao em biết đời sống buồn tênh Đôi khi ta lắng nghe ta Nghe sóng âm u dội vào đời buốt giá Hồn ta gió cát phù du bay về Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa Tình réo tình âm thầm sầu réo sầu bên bờ vực sâu Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình vẫn u mê Từ một ngày tình ta như núi rừng cúi đầu Ôi tiếng buồn rơi đều Nhìn lại mình đời đã xanh rêu.

52. Tình xót xa vừa

Xin vỗ tay cho đều khi đêm đổ xuống đời ta Xin vỗ tay cho đều khi tình trôi đã trôi xa Nụ cười đã cuốn ta đi một ngày lại thấy ta về Xin đứng yên trong chiều trên môi thở khói quạnh hiu Xin đứng yên trong chiều phơi tình cho nắng khô mau Về đây thân xác hư hao

Đêm đêm nằm nghe lá than van chút niềm đau ngọt ngào

158

Một ngày trên vai bão tố nguôi ngoai

Nhìn đời quanh đây hết những mê say

Lòng chùng đam mê sớm tối qua đi ơ hờ

Từng ngày chôn chân nhớ phố lang thang

Đời tình nuôi quên những sáng mênh mông

Trả lại hôm nay bốn phía thinh không ngỡ ngàng

Xin vỗ tay cho đều trong tim giọt máu vừa khô

Xin vỗ tay cho đều môi người thôi những âm ba

Một lời tình cuối vu vơ một ngày tình xót xa vừa

Xin đứng yên trong chiều lao xao từng bóng hoàng hôn

Xin đứng yên trong chiều treo tình trên chiếc đinh không

Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong

Ta lăn đời đã quá đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng.

53. Tôi đã mất

Tô mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu người tình Người tình của tôi lớn lên trên khắp ba miền Một ngày đạn bom giết em người tình Việt Nam lớn lên chưa gặp một lần Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu người tình Người tình Việt Nam ôi dịu dàng, người tình Việt Nam quá hùng anh Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu nụ cười Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui Bao năm lửa khói nung khô trái tim yêu người Mộ bia quanh đây chôn theo những cuộc tình tôi Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu mộng rồi Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu hẹn hò Từng ngày miền Nam dấu đạn mù Từng ngày miền Bắc những đời lo Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu người tình Những người còn lại cố vững lòng chờ tương lai Bay trong lời gió nghe ra tiếng oán bên trời Tuổi xuân xanh ơi cho em muôn vạn ngày mai

Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu mộng rồi

Tôi mất trong chiến tranh này bao nhiêu bao nhiêu mộng ngời.

159

54. Tôi ru em ngủ

Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông

Em ra ngoài ruộng đồng hỏi thăm cành lúa mới

Tôi ru em ngủ một sớm mùa thu

Em đi trong sương mù gọi cây lá vào mùa

Con đường thật buồn một ngày cuối đông

Con đường mịt mù một ngày cuối thu

Em vào mùa hạ nắng thắp trên cao

Và mùa xuân nào ngẩn ngơ tình mới

Đi nhẹ vào đời thầm thì gót chân

Em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân

Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao

Để mùa xuân sau mua riêng tình sầu Tôi ru em ngủ một sớm mùa xuân Em hôn một nụ hồng hỏi thăm về giọt nắng Tôi ru em ngủ hạ cũng vừa sang Em hôn lên tay mình để chua xót tình trần.

55. Tuổi đá buồn

Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang Từng ngón tay buồn em mang em mang Đi về giáo đường ngày chủ nhật buồn Còn ai còn ai? Đóa hoa hồng cài lên tóc mây Ôi đường phố dài lời ru miệt mài ngàn năm ngàn năm Ru em nồng nàn ru em nồng nàn Trời còn làm mây mây trôi lang thang Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh Như dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai Đóa hoa hồng vùi quên trong tay Ôi đường phố dài lời ru miệt mài Ngàn năm ngàn năm ru em giận hờn ru em giận hờn

Trời còn làm mưa mưa rơi mưa rơi

Từng phiến băng dài trên hai tay xuôi

160

Tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ

Trời còn làm mưa mưa rơi mưa rơi

Từng phiến mây hồng em mang trên vai

Tuổi buồn như lá gió mãi cuốn đi quay tận cuối trời

Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang

Từng gót chân trần em quên em quên

Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai

Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi

Em gầy ngón dài lời ru miệt mài

Ngàn năm ngàn năm ru em muộn phiền ru em bạc lòng.

56. Ướt mi

Ngoài hiên mưa rơi rơi

Lòng ai như chơi vơi

Người ơi nước mắt hoen mi rồi Đừng khóc trong đêm mưa Đừng than trong câu ca Buồn ơi trong đêm thâu ôm ấp dùm ta nhé Người em thương mưa ngâu hay khóc sầu nhân thế Tình ta đêm về có ấm từng cơn mơ em chưa Mưa lạnh lùng rơi rớt giữa đêm về nghe não nề Mưa kéo dài lê thê những đêm khuya lạnh ướt mi Ai còn nhìn mưa mãi rớt bên song thêm lạnh lùng Ai còn buồn khi lá rớt rơi trong một cuối đông Ngoài hiên mưa rơi rơi buồn dâng lên đôi môi Buồn đau hoen ướt mi ai rồi Buồn đi trong đêm khuya buồn rơi theo đêm mưa Còn mưa trong đêm nay lòng em buồn biết mấy Trời sao chưa thôi mưa để mắt người em ấy Từ đây thôi mờ nước mắt buồn mi em ngây thơ.

57. Vết lăn trầm

Vết lăn vết lăn thầm Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền

Như có lần chim muông hằn dấu chân

Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà

161

Rộng đôi cánh tay chờ mong

Người chợt nhớ mình như đá đá lăn vết lăn buồn

Từ hoang xưa dấu thân anh dã cầm

Ôi vết hằn ghi trên bồn gió hoang

Chờ ta da du một chuyến

Ôi môi hờn xin đừng kể lại tích xưa buồn hơn

Đợi chờ năm làm gió qua truông thiên đàng

Thôi ngủ đi con ngủ đời yên đi con

Che dấu thân đau rã mòn

Ngủ đời yên đi con như vết thương đau ngủ buồn

Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng

Đá lăn vết lăn trầm Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn Ôi mắt thần van xin lời thánh đêm Bài ca dao trên cồn đá trên ngai vàng quê nhà Một thời ngủ yên tuổi xanh Rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình

58. Vườn xưa

Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông Trời chợt nắng vườn đầy lá non Người lên tiếng hỏi người có không Người đi vắng về nơi bế bồng Đừng phai nhé một tấm lòng son Thuyền nào đã chở mất thuyền quyên Với những thuyền buồn lớp lớp ra sông Xin có lời mừng giữa chén rượu nồng Với những cuộc tình bão tố lênh đênh Xin có một lần uống chén muộn phiền Nhà im đứng cửa cài đóng then Vườn mưa xuống hành lang tối tăm

Về thôi nhé cổng chào cuối sân

162

Hờ hững thế loài hoa trắng hồng

Chào chiếc lá nằm giữa vườn hoang

Gửi đâu đó một chút tình riêng.

59. Xin mặt trời ngủ yên

Một ngày ngày đã qua ôi một ngày ngày chóng qua

Một chiều một ngày âm thầm đã đã ra đi không còn gì

Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè

Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương

Còn có ai không còn người ôi nhân loại mặt trời và em thôi

Này đôi môi xin thương người ôi nhân loại mặt trời trong tôi

Một ngày ngày đã qua ôi từng ngày từng xót xa

Một chiều một ngày tay người đã thả mây bay cho đường dài

Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại

Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai Còn có ai trên cuộc đời ôi nhân loại còn người và tôi thôi Rồi lang thang như mây trời ôi nhân loại còn người trong tôi Mặt trời đã ngủ yên xin mặt trời hãy ngủ yên Người hãy nhớ mang theo hành trang Qua khoang trời vắng chân mây địa đàng Người hãy nhớ mang theo hành trang Qua khoang trời vắng chân mây địa đàng Người hãy nhớ hãy nhớ hoài Người hãy nhớ hãy nhớ đời Người hãy nhớ hãy nhớ người Hãy nhớ người hãy nhớ người Hãy nhớ người

60. Xin trả nợ người

Hai mươi năm xin trả nợ người Trả nợ một thời em đã bỏ ai Hai mươi năm xin trả nợ dài Trả nợ một đời em đã phụ tôi Em phụ tôi một thời bé dại Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi

Thơ dại ra đi quên hết tình tôi

163

Hai mươi năm em trả lại rồi

Trả nợ một đời xa vắng vòng tay

Hai mươi năm vơi cạn lại đầy

Trả nợ một thời môi vắng vòng môi

Bao nhiêu năm em nợ ngọt ngào

Trả nợ một đời chưa hết tình sâu

Bao nhiêu năm em nợ bạc đầu

Trả nợ một đời không hết tình đâu

Em phụ tôi một thời bé dại

Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi

Thơi dại ra đi quên hết tình tôi

Bao nhiêu năm bỗng lại nhiệm màu Trả nợ một lần quên hết tình đau Hai mươi năm vẫn là thuở nào Nợ lại lần này trong cõi đời nhau.

164